Thơ T.T.Kh phổ nhạc
Câu chuyện T.T.Kh bắt đầu vào tháng 7-1937, khi tuần báo
“Tiểu Thuyết Thứ Bảy” đăng một truyện ngắn mang tên “Hoa Ti Gôn” của nhà văn
Thanh Châu.
Hoa Ti Gôn - Thanh Châu
Sáng nào cũng vậy, hết giờ dạy vẽ ở trường Mỹ thuật về qua phố
Tràng Tiền, họa sư Lê cũng không quên mua một bó hoa ti gôn. Đó là thói quen của
họa sư mà không một người bạn hay người học trò thân nào là không biết rõ. Đến
mùa hoa ti gôn nở nhiều nhất, trong nhà họa sư Lê người ta chẳng còn thấy một
thứ hoa nào khác. Mà có người nào tẩn mẩn ngắt một nụ hoa nho nhỏ ấy xem kỹ, họ
sẽ phải cho lời nhận xét của họa sư Lê là đúng: Hoa ti gôn hình quả tim vỡ làm
mấy mảnh, màu hồng dịu như nhuốm máu đào. Rồi người ta phải tự hỏi thầm: “Tại
sao họa sư Lê lại thích chơi cái thứ hoa trông như giấy ấy, để trong phòng quá
một ngày đã rụng rồi? Chắc lại có điều tâm sự chi đây”.
Một buổi trưa - hồi đó Lê Chất hai mươi bốn tuổi, còn là một
họa sĩ nghèo mới ở trường ra - một buổi trưa đạp xe về các vùng lân cận Hà Nội,
Lê Chất rẽ vào làng Mọc với giá vẽ buộc trên xe. Người thiếu niên ấy đi tìm cảnh
vẽ. Mà cảnh đẹp đây là một thiếu nữ chàng mới gặp chiều qua.
Đến gần một ngôi nhà cũ kỹ, trông ra dáng biệt thự của một
ông quan hưu dùng làm chỗ nghỉ ngơi, Chất hãm xe, nghễnh cổ nhìn qua một hàng
rào cây tốt um tùm. Chiều qua, lúc Chất sắp đạp xe rất nhanh qua đó, tình cờ liếc
mắt vào nhà, bỗng thấy một thiếu nữ đứng trên một chiếc ghế cao, đang với tay
lên những dây hoa đỏ trên giàn nứa. Người con gái mặc áo cánh lụa cụt tay, hở cổ,
để lộ một màu da khỏe mạnh, như thứ da thường ra nắng của những cô gái nhỏ. Hai
má ửng hồng, vài sợi tóc trên vầng trán, cảnh “con gái hái hoa” ấy như một bức
tranh linh động, khiến người họa sĩ phải dừng chân ngắm không chán mắt. Khuôn mặt
đều đặn, vẻ đẹp thông minh, nhất là đôi môi có một nét vẻ lạ, đó là thứ nhan sắc
hiếm hoi, ai trông thấy một lần đều in sâu trong trí nhớ. Thiếu nữ vô tình, bận
gỡ hoa trên giàn đã để Lê Chất có thì giờ nhìn ngắm kỹ. Đến khi cô gái bước xuống
đất, sắp vào nhà, đưa mắt nhìn ra đường thấy có người đứng nhìn mình, mới cau
mày tỏ vẻ không bằng lòng.
Nhưng từ hôm đó, hôm nào họa sư cũng đạp xe vào làng Mọc, giá
vẽ buộc trên xe, mà chẳng vẽ bao giờ, vì còn bận quanh quẩn gần biệt thự. Thiếu
nữ động trông thấy bóng anh chàng là lẩn vào nhà.
Lê Chất chỉ được trông thấy nàng vài lần nữa rồi thôi bởi
ngôi nhà hình như sau đó không có người ở nữa, ngày nào cũng chỉ nhìn thấy có một
ông già cuốc cỏ trong vườn.
Rất lâu, Lê Chất mơ màng đến người thiếu nữ. Anh cố nhớ lại
khuôn mặt, thân hình, hai cánh tay đẹp để trần, nhất là đôi môi của thiếu nữ.
Anh đã vẽ nhiều croquis (bản ký họa) cất trong album để ghi giữ lại rồi dần dần
cũng quên đi.
Lê Chất đã nổi tiếng. Thầy học cũ của anh vì mến tài, đã đưa
anh lên một địa vị mà nhiều người ghen tỵ. Tranh của anh được nhiều báo nước
ngoài nói đến và bán với giá cao: Anh đã bỏ lối phong cảnh để vẽ người. Tranh vẽ
người, nhất là tranh vẽ đàn bà đã khiến các bạn Chất tặng cho cái tên: “Người lấy
máu để vẽ các cô gái đẹp”. Họa sĩ đã trở nên giàu có, ăn mặc sang, khó tính. Lê
Chất bây giờ đã đứng tuổi, từ lâu không còn là gã họa sĩ nghèo huýt sáo đạp xe
quanh vùng lân cận Hà Thành đi tìm cảnh đẹp, với giá vẽ buộc trên xe đạp.
Mùa lạnh năm ấy, Lê Chất đi vẽ ở một vùng Vân Nam phủ. Trong
một bữa tiệc chiêu đãi của tòa lãnh sự Pháp, họa sĩ trông thấy một thiếu phụ
ta, đẹp một vẻ khác thường, nhưng có dáng buồn. Chất bỗng ngờ ngợ như hơn một lần
đã gặp người này. Ở đâu? Chất giật mình. Có thể nào? Nhưng quên làm sao được
khuôn mặt ấy, đôi môi ấy? Nhờ một người quen giới thiệu, Chất được rõ: Thiếu phụ
là vợ một viên chức trong tòa lãnh sự.
Trong khi nhảy với thiếu phụ một bản tăng-gô, Lê Chất đột
nhiên hỏi:
- Bà vẫn thích hái hoa ti gôn chứ?
Thiếu phụ nhìn chàng rất ngạc nhiên:
- Ông nói gì... tôi không hiểu.
- Có lẽ bà đã quên Hà thành, làng Mọc, cái biệt thự xinh xinh
có một giàn hoa...
Người đàn bà ấy kêu lên, mắt long lanh:
- Có phải ông là cái anh chàng họa sĩ vẫn nhìn trộm tôi ngày
trước đó không?
Nàng nói tiếp:
- Thảo nào mới nhìn ông tôi cũng tự nghĩ không biết đã gặp ở
đâu rồi. Tám chín năm rồi đấy, thế mà chúng ta còn nhận được nhau...
Mai Hạnh - tên thiếu phụ - rất buồn ở Vân Nam phủ. Nàng không
có bạn. Lấy một người chồng gia thế cân đối với nhà mình, cuộc đời nàng bằng phẳng
nơi đất khách. Bây giờ gặp được người cùng xứ, người đó lại đã dự vào dĩ vãng
tươi đẹp của mình, một họa sĩ nổi danh, nàng không có cảm tình với Lê Chất làm
sao được? Hạnh thường đến chỗ họa sĩ trọ, thăm viếng mỗi ngày, và thuận cho
chàng vẽ một bức chân dung.
Một buổi sáng, hai người đi chơi, trên một ngôi chùa Tàu cheo
leo đỉnh núi, Lê Chất nói:
– Tôi biết thế nào trong đời tôi cũng còn gặp Hạnh, bởi vì
không bao giờ tôi quên cái buổi chiều ở làng Mọc. Nhưng số mệnh khiến chúng ta
gặp nhau lần này có phải là để chúng ta chỉ có thể thành đôi bạn thôi ư? Hạnh
có đoán được lòng tôi lúc này không?
Mai Hạnh, giọng run run tái nhợt, giơ tay bịt miệng Lê Chất.
Nhưng khi Chất đã ôm nàng thì Hạnh không cưỡng lại:
- Em cũng yêu anh ngay từ buổi đầu.
Thế là, hai người như sống trong một cơn mê.
Mai Hạnh cố chống chọi lại với tình yêu mỗi ngày một lớn, còn
Lê Chất thì lo ngại, tính toán như ngồi trên đống lửa. Chàng định cùng Hạnh trốn
đi Nhật, không cần danh dự, chức nghiệp, dư luận của người đời. Nhưng Mai Hạnh
tuy yếu đuối hơn, rụt rè, e ngại sau cùng cũng nhận lời.
Lê Chất trở về Hà Nội, sắp đặt xong mọi việc, lo lót giấy tờ
tiền bạc, đồ dùng đi xa, tất cả đã sẵn sàng, thì phút cuối cùng nhận được thư của
Hạnh: “Chất, anh hãy đi một mình và quên em đi, vì em không có thể theo anh. Đừng
giận em tội nghiệp, em không phải là loại đàn bà có thể vượt được hết những khó
khăn như anh đã tưởng. Đến phút cuối cùng, em bỗng sợ, em sợ gia đình tan tác,
khổ thân thầy mẹ em, chồng em khinh bỉ, tai tiếng ở đời, những lo ngại ở tương
lai... Em thấy rằng: nếu đi với nhau chưa chắc chúng ta đã sung sướng. Anh thấy
chưa? Em là một đứa hèn! Em không yêu anh được như anh tưởng đâu, vì em đã hy
sinh anh cho tất cả những lo ngại trên kia. Vậy mà em yêu anh có thể chết vì
anh được. Trong đời anh còn nhiều chuyện, anh có thể quên em được đấy! Nhưng
còn em thì chẳng bao giờ, chẳng bao giờ! Vì em biết em sẽ không bao giờ tự an ủi
được, bởi em đã làm hỏng đời em, nếu em chẳng theo anh...”
Trong thư, một dây hoa ti gôn nhỏ ép rơi ra: những nụ hoa
chum chúm hình quả tim vỡ, đỏ hồng như nhuộm máu đào.
Lê Chất đặt một cái hôn trên những cánh hoa, và khóc. Nhưng
đó là một kẻ đàn ông có nghị lực. Chàng đi du lịch xứ Phù Tang có một mình.
Bốn năm sau, một hôm họa sư Lê Chất thấy trên bàn giấy mình một
phong thư viền đen báo tang. Ông mở ra xem thì đó là của người chồng Mai Hạnh
báo tin nàng đã chết.
Họa sư đáp xe lửa đi Vân Nam ngay để một buổi chiều đặt trên
mồ Mai Hạnh những dây hoa quen thuộc. Rồi trở về Hà Nội, ông mới sực nhớ ra rằng
đã quên không hỏi xem Mai Hạnh đã chết vì một bệnh gì, một cơn cảm sốt..., hay
vì sầu muộn...
Ngày nay, họa sư Lê Chất đã già, nhưng cứ đến mùa hoa ti gôn
nở, không buổi sáng nào ông quên mua một ôm về thay thế hoa cũ trong phòng vẽ,
vì thứ hoa ấy chóng tàn.
Theo lời kể của Thanh Châu, thì nội dung truyện chính là chuyện
tình của họa sĩ Lê Phổ (1907-2002) nổi tiếng. Ông là một trong mười sinh viên
tốt nghiệp khóa đầu của Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương, và đã qua đời tại
Pháp.
Vào tháng 09-1937, một thiếu phụ trạc 20, dáng bé nhỏ, thùy mị,
nét mặt u buồn, mang đến gửi cho chủ bút một bài thơ, ký tên T .T .Kh, xin đăng
báo. Đó là bài “Hai Sắc Hoa Ti Gôn”, được đăng vào ngày 23-09-1937.
Gần hai tháng sau đó, tòa soạn lại nhận được một bài thơ nữa.
Bài thơ này có tựa đề là “Bài Thơ Thứ Nhất” dù đó là bài thơ thứ hai gửi đến,
được đăng trên số báo ngày 20-11-1937.
“Tiểu Thuyết Thứ Bảy” đã xin tác giả cho địa chỉ nhưng tác giả
từ chối.
Và một năm sau nữa, tòa soạn nhận thêm “Bài Thơ Cuối Cùng”,
được đăng trên số báo ra ngày 30-10-1938.
Từ đó, tuần báo “Tiểu Thuyết Thứ Bảy” không còn nhận thêm bài
thơ nào của con người bí ẩn này nữa. Ngược lại, có một bài thơ cũng ký tên T .T
.Kh gửi đến một tờ báo khác. Đó là bài “Đan Áo Cho Chồng” (đăng trên tờ “Phụ Nữ
Thời Đàm”, 1938)
Năm 1941, Hoài Thanh soạn cuốn “Thi nhân Việt Nam” đã trích dẫn
T .T .Kh. với lời ghi chú: “Sau khi bài thơ kia đăng rồi, xóm nhà văn bỗng
xôn xao, đến mấy người nhất quyết T .T .Kh. chính là người yêu của mình. Và người
ta đã phê bình rất náo nhiệt. Có kẻ không ngần ngại cho những bài thơ ấy là những
áng thơ kiệt tác...”
Nguyễn Vỹ là một trong những nhà thơ tiên phong trong phong
trào Thơ Mới. Năm 1970, khi Nguyễn Vỹ xuất bản cuốn Văn Thi Sĩ Tiền Chiến tại
Sài Gòn, ông đã đưa sự thực về T .T .Kh ra ánh sáng.
(đây là một trong những tư liệu về T .T .Kh mà tui nghĩ có phần
“nhỉn hơn” các tư liệu khác, dù vẫn có không ít sự hồ nghi. Có thể sau này bạn
sẽ đọc được một bài viết về T .T .Kh mà không phải là Trần Thị Khánh...)
Văn Thi Sĩ Tiền Chiến
(Phần 19 - Thâm Tâm và Sự thật về T .T .Kh)
Năm 1936-37, có xuất hiện ở phố Chợ Hôm, ngoại ô Hà Nội, một
nhóm văn sĩ trẻ với bút hiệu Trần Huyền Trân, Thâm Tâm và một vài người khác nữa.
Ít ai để ý đến họ. Có lẽ vì họ là những người còn quá trẻ: Huyền Trân và Thâm
Tâm đều mới 18, 19 tuổi, và mới bắt đầu viết văn, chưa có gì đặc sắc. Lớp văn
sĩ đi trước không chú ý đến họ.
Nhưng họ dễ thương, vui vẻ, hồn nhiên, an phận ở một vị trí
khiêm tốn, chẳng thân với ai, cũng chẳng làm phiền lòng ai. Họ sống một thế giới
riêng của họ, không chung đụng với những nhóm đã nổi tiếng ít nhiều trong làng
Văn, làng Báo lúc bấy giờ.
Họ có một tờ tuần báo nhỏ, lấy tên Bắc Hà ở phố Chợ Hôm, nơi
đây họ làm văn nghệ với nhau, với lối tài tử hơn là chuyên nghiệp. Tờ báo Bắc
Hà bán không chạy lắm tuy có vài mục hài hước vui nhờ mấy bức vẽ của Tuấn Trình
và nhiều cố gắng hứa hẹn trên bình diện văn chương. Hăng hái nhất và đóng vai
chủ động trong tờ báo Bắc Hà là Trần Huyền Trân. Thâm Tâm, biệt hiệu của Tuấn
Trình, vẽ nhiều hơn là viết, thỉnh thoảng đăng một vài bài thơ, vài mẩu chuyện
ngắn. Đôi khi thấy xuất hiện trên mặt báo vài ba bài thơ có tính cách ca dao ái
tình của Nguyễn Bính, học sinh lớp Nhất, trường tiểu học Hà Đông. Nguyễn Bính
sau thi rớt, nghỉ học luôn.
Tuy không chơi thân, tôi quen biết Trần Huyền Trân khá nhiều,
vì anh ta ở trọ một căn nhà trong ngõ Khâm Thiên, phía sau chợ. Tôi ở một gác
trọ gần đường Khâm Thiên, gần Ô Chợ Dừa. Thường đi một con đường nên chúng tôi
thường gặp nhau và quen nhau. Đôi khi Trần Huyền Trân nhờ tôi viết bài cho tuần
báo Bắc Hà “cho vui” vì không có tiền nhuận bút. Để tỏ tình thông cảm văn nghệ,
tôi có viết một truyện ngắn khôi hài và chỉ có một lần. Trong một số báo đặc biệt
Mùa Hè, Tuấn Trình có vẽ một cặp Bạch Nga bơi trên Hồ Hoàn Kiếm và ghi ở dưới:
“Nguyễn Vỹ và Mộng Sơn”.
Tôi quen biết Tuấn Trình là do Trần Huyền Trân giới thiệu.
Nhà anh ở Chợ Hôm, cách chợ độ ba bốn trăm thước. Anh đẹp trai, y phục lúc nào
cũng bảnh bao, người có phong độ hào hoa, lịch thiệp. Tôi thấy ở Sài Gòn có anh
Hoàng Trúc Ly, nhà văn, giống na ná Tuấn Trình về dáng điệu cũng như tính tình,
tư cách. Nhiều khi gặp Hoàng Trúc Ly trên đường Bô-Na, Sài Gòn, tôi quên lửng,
cứ tưởng gặp Tuấn Trình trên phố Chợ Hôm, Hà Nội.
Một buổi chiều gần tối. Tuấn Trình đi lang thang gần chợ Khâm
Thiên. Tôi từ Hà Nội về nhà, tưởng anh ta đến Trần Huyền Trân, nhưng anh bảo:
“Thằng Huyền Trân nó đi đâu, không có nhà”. Tôi rủ anh về gác trọ của tôi ở cuối
phố. Hôm ấy tôi có vài chục bạc trong túi, có thể làm một tiệc bánh giò chả lụa
với Tuấn Trình. Tôi bảo anh ở lại ngủ với tôi cho vui.
Đêm ấy cao hứng, Tuấn Trình ngà ngà say rượu Văn Điển, kể
chuyện tình của anh với cô Khánh cho tôi nghe.
Trần Thị Khánh là một cô học trò lớp Nhất trường Tiểu học
Sinh Từ. Thi hỏng, cô ở nhà giúp mẹ làm việc nội trợ. Nhà cô cũng ở đường Sinh
Từ, ngay cạnh Thanh Giám, nơi đền thờ Khổng Tử. Thanh Giám là một thắng cảnh Hà
Nội, đã liệt vào cổ tích Việt Nam, xây cất từ đời nhà Lý, tu bổ dưới đời nhà
Lê, hình chữ nhật, chung quanh xây tường đá ong, cao độ hai thước. Đền thờ ở
trong cùng, trước đền có Hồ Tròn, hai bên hồ có dựng nhiều tấm bia ghi tên các
Tiến Sĩ đời nhà Lê. Vào Thanh Giám, có cổng Tam Quan lớn, trước cổng có tấm bia
đề hai chữ Hán: “Hạ Mã”, và hai trụ cao. Trong vườn trồng rất nhiều cây cổ thụ
và các cây kiểng. Nơi đây rất yên tĩnh và mát mẻ, cũng là nơi các cặp trai gái
hẹn hò tâm sự. Trước kia có một bầy quạ chiều tối bay về ngủ, cho nên người
Pháp gọi là “Pagode des Corbeaux” (chùa Quạ) ngoài danh từ lịch sử “Temple de
Confucius” (đền Khổng Tử).
Cô nữ sinh Trần Thị Khánh là một thiếu nữ đẹp, nét đẹp mơn mởn
của cô gái dậy thì, thùy mị, nết na, nhưng không có gì đặc biệt. Tuấn Trình có
người cô, nhà ở phố chợ Cửa Nam, gần Sinh Từ. Anh thường đến đây và thường thấy
cô Khánh đi chợ mỗi buổi sáng. Lúc ấy vào khoảng tháng 2 năm 1936, họa sĩ Tuấn
Trình (tên gọi hồi đó) mới 19 tuổi, và cô Khánh 17 tuổi, thi rớt Tiểu Học và đã
nghỉ học từ Mùa Hè năm trước. Tuấn Trình cũng mới bắt đầu vẽ và viết chút ít
trong tờ tuần báo Bắc Hà của Trần Huyền Trân vừa xuất bản.
Sau một vài tháng theo dõi, Tuấn Trình làm quen được với cô
Khánh và gởi báo Bắc Hà tặng cô. Cô gái 17 tuổi, cảm mến người nghệ sĩ tài hoa,
tình yêu chớm nở như cành hoa Antigone trắng cũng vừa chớm nở trong tháng đầu
Hè trước sân nhà cô.
Antigone là loại hoa của người Pháp đem qua hồi đầu thế kỷ,
không thơm nhưng đẹp. Nó thuộc loại hoa dây, lá giống lá nho, cho nên ở miền
Nam, nhiều người gọi là hoa nho. Nó có hai loại, loại hoa trắng và hoa hồng.
Hoa nở vào đầu Mùa Hè, thành những chùm rất dễ thương, nụ hoa giống hình trái
tim nho nhỏ. Ở Hà Nội người ta trồng rất nhiều và bán cũng rất nhiều trong chợ
Đồng Xuân, cũng như ở chợ Hoa, bờ hồ Hoàn Kiếm. Cắm nó vào lọ để phòng khách,
nó buông ra một vẻ đẹp lãng mạn, khả ái lắm. Người Bắc gọi tắt hoa Ti Gôn. Ở phố
Sinh Từ, Antigone mọc rất nhiều, như trước sân nhà ông Nguyễn Văn Vĩnh và Nguyễn
Nhược Pháp. Nhà trọ của Lưu Trọng Lư và Lê Tràng Kiều ở phố Hàm Long có cả một
giàn hoa trắng và hồng. Nhưng mùa đông lá rụng, hoa tàn, thì không cảnh nào
tiêu sơ quạnh quẽ bằng.
Tình yêu của Tuấn Trình và Trần Thị Khánh chớm nở ngay lúc những
chùm Antigone vừa hé nụ, và chết trong những ngày giữa mùa Đông năm đó, trong
lúc giàn hoa Ti Gôn úa tàn, rụng ngập đầy sân.
Thời kỳ mơ mộng ngắn ngủi trong mấy tháng Hè, sang hết mùa
Thu, không đem lại chút thỏa mãn nào cho tâm hồn khao khát của Tuấn Trình.
Chính lúc này Tuấn Trình lấy bút hiệu Thâm Tâm và cho cô Khánh biết: “Hình ảnh
của em, anh ghi sâu vào thâm tâm anh”. Trong bài “Màu Máu Ti Gôn”, cũng có câu:
Quên làm sao được thuở ban đầu,
Một cánh ti gôn DẠ khắc SÂU.
Một vài bài thơ tình thức đêm làm tặng cô Khánh, những bài
thơ đầu tiên đăng trên tuần báo Bắc Hà, đều ký là Thâm Tâm, nhưng các tranh vẽ
trong báo vẫn ký Tuấn Trình. Nhưng cô gái 17 tuổi, dè dặt theo lễ giáo nghiêm
khắc của gia đình, chưa thật bao giờ đáp ứng đúng với tình yêu tha thiết của Tuấn
Trình - Thâm Tâm. Đó là điều đau khổ triền miên của chàng nghệ sĩ 19 tuổi.
Trong lúc những cặp tình nhân trẻ trung dắt nhau đi du ngoạn khắp nơi thơ mộng ở
Hà Nội và ngoại ô: Hồ Tây, chùa Láng, Bạch Mai, Phúc Trang, Đền Voi Phục... thì
Trần Thị Khánh cứ phải từ chối những lời mời của Thâm Tâm. Cô thường nói: “Thầy
mẹ em NGHIÊM lắm, gia đình em NGHIÊM lắm...”. Lần nào cô Khánh cũng lặp lại chữ
NGHIÊM gia giáo ấy để trả lời kỳ vọng khát khao của người yêu.
Chỉ được hai lần Khánh đến nơi hẹn, nhưng không được lâu. Lần
thứ nhất, một đêm trăng, Khánh lén băng qua đường, vào vườn Thanh Giám. Tuấn
Trình đã chờ người yêu nơi đây, dưới bóng cổ thụ. Nhưng cô Khánh run cả người
(theo lời Tuấn Trình kể lại) cậu cũng lính quýnh, tất cả những câu bay bướm cậu
sắp sẵn để nói với nàng, bấy giờ cậu quên mất hết. Một lúc lâu, Tuấn Trình mới
nói được mấy lời tình tứ, nhưng lại trách móc, nghi ngờ, nàng không yêu mình.
Nàng bảo: “Em không yêu anh sao dám ra đây gặp anh? Nhưng vì Thầy Me em nghiêm
lắm, anh ạ”.
Tuấn Trình hỏi chua chát: “Giờ phút này chỉ có thơ và mộng,
chỉ có anh với em, ánh trăng đẹp của hai đứa mình có nghiêm không nhỉ?”. Có lẽ
vì bất bình câu nói mỉa mai của người yêu, Khánh lặng yên một phút rồi đáp:
“Ánh trăng đẹp, nhưng vẫn nghiêm đấy, anh ạ”.
Cuộc gặp đêm ấy, chỉ lâu không đầy một tiếng đồng hồ. Tuấn
Trình đặt một chiếc hôn âu yếm trên bàn tay của Khánh trước lúc nàng vội vã chạy
về nhà.
Lần thứ hai, hai cô cậu cũng gặp nhau trong vườn Thanh (nhiều
người sau này nói Thanh là Thanh Hóa, là hoàn toàn sai sự thật). Vườn Thanh
Giám đêm ấy cũng ngập ánh trăng Thu. Nhưng thái độ của Khánh lạ lùng khó hiểu.
Hình như Khánh muốn nói với Tuấn Trình một điều gì, nhưng ngại ngùng không nói.
Chàng lặng lẽ vuốt mái tóc huyền của Khánh rồi khẽ bảo: “Ước gì anh được yêu em
như thế này mãi mãi...”
Nàng buồn bã hỏi: “Anh định bao giờ đến xin Thầy Me cho chúng
mình ...”. Chàng họa sĩ bối rối trước câu hỏi bất ngờ. Chàng lơ đễnh bảo: “Anh
chưa nghĩ đến việc ấy, vì...”
Câu chuyện bị bỏ dở nơi đây. Khánh không hỏi gì hơn nữa.
Chàng nắm tay nàng đi dạo quanh hồ nước xanh rì lăn tăn gợn sóng. Chàng đứng lại,
khẽ kéo Khánh vào lòng, nhưng nàng khẽ buông ra. Tuấn Trình âu yếm nhìn nàng:
“Em!” Khánh mãi cười: “Anh bảo gì?”.
- Hình ảnh của em, nụ cười của em, sẽ mãi mãi ghi sâu vào
lòng dạ của anh, vào thâm tâm anh.
Trần Thị Khánh bẽn lẽn cười như để tạ ơn và xin từ giã.
Tuấn Trình trằn trọc suốt đêm. Khánh muốn giấu chàng một điều
gì quan trọng chăng? Tình yêu giữa hai người vẫn nguyên vẹn, thư từ qua lại vẫn
âu yếm, nhưng Tuấn Trình bắt đầu thấy lòng buồn bã băn khoăn khi giàn hoa Ti
Gôn bắt đầu héo rụng trong nắng úa tàn thu.
Thế rồi một hôm, chàng họa sĩ đa tình nhận được một bức thư của
người yêu, không, của người hết yêu, báo tin nàng sắp lấy chồng.
Thư viết bằng mực tím, trên bốn trang giấy học trò, xé trong
một quyển vở Nam Phương Hoàng Hậu (loại vở học trò rất thông dụng lúc bấy giờ).
Thư do một cô bạn gái của Khánh đem đến tòa báo Bắc Hà trao tận tay Tuấn Trình.
Cô bạn gái hỏi “ông Tuấn Trình” chứ không gọi Thâm Tâm.
Ngoài bao thư cũng đề: Monsieur Tuấn Trình (chữ Mr. bằng tiếng
Pháp), nét chữ quen thuộc của T .T .Khánh. Đại khái, Khánh nhắc lại tình yêu
“thơ mộng” của cô với người “nghệ sĩ tài hoa son trẻ” (những chữ cô dùng trong
thư), tình yêu rất đẹp, nhưng vì thầy me của cô rất “nghiêm”, theo lễ giáo, nên
dù người vị hôn phu của cô là một người chỉ mới biết sơ thôi, nhưng cô vẫn có bổn
phận “giữ tròn chữ hiếu, không dám cãi lời Thầy Me đặt đâu ngồi đấy v.v...”. Cô
nói cô buồn lắm vì tình yêu dang dở, “em vẫn yêu anh mãi mãi! không bao giờ
quên anh, nhưng ‘van’ anh đừng giận em, thương hại em, chứ đừng trách móc em
v.v...” Cô than thở đời cô khổ nên tình duyên ngang trái, cô khóc suốt đêm,
v.v...
Khánh không nói một câu nào về người vị hôn phu, không cho biết
ngày cưới, và cuối thư ký tắt: K.H.
Bức thư của K.H chấm dứt một cách đột ngột cuộc tình duyên thật
sự không mấy “thơ mộng” của họa sĩ Tuấn Trình và cô Trần Thị Khánh.
Sau do sự dọ hỏi vài người quen ở phố Sinh Từ, Tuấn Trình được
biết chồng cô Khánh là một nhà buôn giàu có ở phố Hàng Ngang, 39 tuổi, góa vợ
và không có con. Trong câu thơ: “Bên cạnh chồng Nghiêm luống tuổi rồi” chỉ sự
cách biệt tương đối giữa tuổi 39 của người chồng với tuổi hãy còn vị thành niên
của cô Khánh. Đó chỉ là nhận xét chủ quan và mỉa mai của Thâm Tâm, so sánh tuổi
mình 20 với người đàn ông được diễm phúc làm chồng cô Khánh, nhưng trên thực tế
và theo lời những người hàng xóm ở phố Sinh Từ nói với Tuấn Trình thì người chồng
cô Khánh “giàu sang và trẻ đẹp” chứ không phải một ông già. Tuấn Trình cũng
nhìn nhận rằng một người nhà giàu 40 tuổi, đẹp trai, không thể là một ông già.
Đám cưới đã nhờ mối lái qua lại từ lâu, và đồ sính lễ có kiềng
vàng, xuyến, nhẫn, vòng, kim cương, quần áo hàng lụa quí giá. Rước dâu bằng mười
chiếc Citroen mới, cô dâu đeo nữ trang rực rỡ, mặc chiếc áo cưới màu đỏ tươi, lộng
lẫy ngồi trong xe hoa như nàng công chúa ngồi cạnh người chồng mặc áo gấm xanh.
Đêm trước hôm cô Khánh lên xe hoa, Thâm Tâm có tổ chức tại tòa báo Bắc Hà một
tiệc thịt chó, uống Mai Quế Lộ, mời Trần Huyền Trân, Nguyễn Bính và Vũ Trọng
Can tham dự. Họ say sưa, ngâm thơ, làm thơ, cười đùa cho đến khuya rồi lăn ra
ngủ trên đất.
Người đau khổ trong cuộc tình duyên dang dở này không phải là
cô Khánh. Trái lại, cô có đầy đủ hạnh phúc với người chồng rất chiều chuộng cô.
Trần Huyền Trân đã gặp cô đi hí hởn với chồng vào ăn kem ở tiệm Blanche Neige
(kem Bạch Tuyết), Bờ Hồ, hai lần. Hai ông bà nhìn nhau và cười với nhau ra vẻ
âu yếm lắm. Khánh đã có thai, được chồng săn sóc nâng đỡ lên chiếc xe nhà
Citroen, lúc ra về, còn đi một vòng quanh Hồ Hoàn Kiếm. Trần Huyền Trân kể lại
cảnh âu yếm đó cho Tuấn Trình nghe và kết luận: “Con Khánh nó cho cậu leo cây,
cậu còn si nó làm gì nữa, thêm tủi nhục”.
Người đau khổ dĩ nhiên là Tuấn Trình, Thâm Tâm.
Chàng yêu nhớ đơn phương với mặc cảm của một nghệ sĩ nghèo bị
người yêu bỏ rơi, lại còn bị mấy thằng bạn trẻ chế nhạo đùa bỡn, nhất là Vũ Trọng
Can.
Vì một chút tự ái văn nghệ, đối với mấy người bạn kia, Tuấn
Trình đã phải thức một đêm, theo lời anh, làm một bài thơ đề là “Hai Sắc Hoa Ti
Gôn” ký T .T .KH, với thâm ý để Trần Huyền Trân và Vũ Trọng Can tin là của
Khánh làm, để thương tiếc mối tình tan vỡ. Muốn giữ tính cách bí mật, Tuấn
Trình dán kín bao thư rồi nhờ cô em họ, con gái của người cô ở phố Cửa Nam,
mang thư đến tòa báo. Cũng chính cô em họ đó đã chép giùm bài thơ với nét chữ
con gái dịu dàng của cô, để khỏi bị nghi ngờ. Cho nên giọng thơ hoàn toàn là giọng
thơ lãng mạn của Tuấn Trình, và lời thơ khác hẳn những lời tâm sự trong bức thư
cuối cùng của KH, báo tin sắp lấy chồng. Cô Khánh không biết làm thơ. Cô chưa
bao giờ làm thơ cả! Và cô ghét những bài thơ của Thâm Tâm nữa là khác. Tuấn
Trình đã nói quả quyết với tôi như vậy, sau khi nhận được một bức thư của
Khánh, bức thư cuối cùng, tỏ ý KHÔNG BẰNG LÒNG anh mượn tên cô để làm thơ kể
chuyện tình duyên cũ, có thể làm hại đến cuộc đời của cô. Trong thư PHẢN ĐỐI
đó, Khánh xưng TÔI chứ không xưng EM như những thư trước, để chấm dứt trò chơi
vô ích ấy. Thâm Tâm lấy những lời nghiêm khắc giận dữ của người yêu cũ để làm
ra “Bài Thơ Cuối Cùng”:
TRÁCH AI mang cánh ti gôn ấy
Mà viết tình xưa ĐƯỢC ÍCH GÌ?…
Bài Thơ đan áo nay RAO BÁN
CHO KHẮP NGƯỜI đời thóc mách xem
LÀ GIẾT ĐỜI nhau đấy, BIẾT KHÔNG?
Dưới dàn hoa máu, tiếng mưa rung
Giận anh tôi viết dư dòng lệ
Là chút dư hương điệu cuối cùng
Từ nay anh hãy BÁN THƠ ANH
VÀ ĐỂ YÊN TÔI với một mình
Những cánh hoa lòng, HỪ ĐÃ BỎ
Còn đem mà ĐỔI LẤY HƯ VINH.
Cô Khánh “TRÁCH” người cũ không những đem chuyện tình xưa ra
viết chẳng “ĐƯỢC ÍCH GÌ” lại còn làm BÀI THƠ đi “RAO BÁN” cho người đời “THÓC
MÁCH” mua xem. Như thế là ANH “GIẾT ĐỜI TÔI, anh CÓ BIẾT KHÔNG?” Anh đem BÁN
THƠ để kiếm chút HƯ VINH, nhưng chuyện xưa ĐÃ BỎ rồi, anh hãy ĐỂ TÔI YÊN! ..
Thâm Tâm lấy gần hết chữ và nghĩa trong bức thư đoạn tuyệt
tàn nhẫn của Trần Thị Khánh làm bài thơ CUỐI CÙNG đó mà vẫn ký T .T .Kh, một lần
cuối cùng. Rồi, để đáp lại, chàng làm một bài ký tên THÂM TÂM và cũng là bài cuối
cùng, mỉa mai, chua chát:…
Đây bài thơ chót KÍNH DÂNG TẶNG BẠN
Và thành chúc đời em luôn tươi sáng
Như mộng kiều đầm ấm tuổi xuân xanh
Như hương trinh bát ngát dịu dàng
Hoa nhạc mới triều dâng tơ Hạnh Phúc...
Trên phương diện văn thơ cũng như tình cảm, ta chỉ thương hại
Thâm Tâm, nhà thơ trẻ, hãy còn ngây thơ với tuổi 19, đầy thơ mộng, cứ tưởng rằng
cô Khánh vẫn thành thật yêu chàng, rằng cô bị cha mẹ ép gả cho một “ông già”,
nhưng cô vẫn giữ mối tình thiêng liêng chung thủy với người nghệ sĩ tài hoa.
Cho nên tưởng làm vui lòng người yêu, chàng lấy tên nàng để ký dưới bài thơ
thương tiếc, với những câu tình tứ như:
Từ đấy thu rồi thu lại thu
Lòng tôi còn giá đến bao giờ?
Chồng tôi vẫn biết tôi thương nhớ
Người ấy cho nên vẫn hững hờ.
Nếu biết rằng tôi đã lấy chồng
Trời ơi người ấy có buồn không?
Có thầm nghĩ tới loài hoa vỡ,
Tựa trái tim phai, tựa máu hồng?…
Cho tôi ép nốt dòng dư lệ,
Nhỏ xuống thành thơ khóc chút duyên...
Nhưng chàng thi sĩ có ngờ đâu không những cô Khánh không hề tỏ
chút gì cảm động vì mối tình đau khổ, thủy chung của chàng, hoặc cảm ơn những
bài thơ an ủi của chàng, mà trái lại cô còn gởi một bức thư vô cùng tàn nhẫn hằn
học nào là “Anh giết đời tôi, anh biết không?” nào là anh mang chuyện cũ ra viết
“chẳng ích gì”, cô lại còn tỏ ý khinh rẻ: “từ nay anh cứ đem thơ anh bán rao để
kiếm chút hư vinh, nhưng anh hãy để tôi yên” v.v...
Bấy giờ Thâm Tâm mới thức tỉnh, tìm lời bào chữa cho mình!
Nào là:
... Anh biết cái gì xưa đã chết
Anh càng buồn, càng muốn viết thành thơ
Nhưng thôi,
Mộng đang xanh, mộng hóa bơ phờ
Đây bài thơ chót kính dâng tặng bạn.
Thâm Tâm tự hạ mình viết “kính dâng tặng bạn” có ý xin lỗi
chua chát người không phải là người yêu của mình nữa, và chàng đã viết:
Chim muốn bay, cũng giữ chẳng được nào!
(Nàng đã không muốn yêu nữa, thì giữ làm sao được?).
Và:
Có gì đâu, khi bướm muốn xa cành!
Thâm Tâm không những đã tỉnh ngộ, mà lại còn uất hận vì thái
độ khinh bạc của cô Khánh:
Chiều nay lạnh, có nhiều sương rơi quá
Nhưng lòng ANH đã BÌNH THẢN lại rồi
Hết đau buồn và cảm thấy sục sôi
Niềm UẤT HẬN của một thời lạc lối
Lấy nghệ thuật làm trò hề múa rối
Đem tài hoa cung phụng sóng mắt huyền
Để khẩn cầu xin một nụ cười duyên.
Thâm Tâm tự thú nhận: LẤY NGHỆ THUẬT VĂN THƠ để làm trò hề
múa rối, (vì sự thật chẳng có gì cả) trong mấy bài thơ ký tên T .T .KH với mục
đích “Đem tài hoa cung phụng sóng mắt huyền, để khẩn cầu xin một nụ cười
duyên”.
Để rồi, mỉa mai thay, nhận những lời khinh khi ngạo mạn, và hằn
học của nàng. Đó là “niềm uất hận” của Tuấn Trình trong một thời “lạc lối” (lầm
đường lạc lối).
Nhưng: Thôi em nhé, từ đây anh cất bước
Em yên lòng vui hưởng cuộc đời vui
Chàng hứa chấm dứt trò hề múa rối về văn thơ. Và nàng không
mong gì hơn.
Để tôn trọng thực tế những sự kiện đã qua trong Lịch sử hay
trong Văn học, để đừng xuyên tạc những chuyện không có, phải nói ngay rằng tên
T.T.Kh. không hề gợi một dư luận nào “xôn xao” ở thời tiền chiến, và cuộc
tình duyên của Tuấn Trình (Thâm Tâm) với cô Trần Thị Khánh không hề gây một xúc
động nào về tâm lý cũng như về văn chương trong giới Văn nghệ và giới Trẻ thời
bấy giờ.
Tôi chắc rằng những nhà văn thơ tiền chiến ở Hà Nội hiện còn
sống tại Sài Gòn, như các anh Vi Huyền Đắc, Lê Tràng Kiều, Tchya, Vũ Bằng... (cả
các anh Nhất Linh và Lê Văn Trương vừa tạ thế mấy năm trước) đều phải hết sức
ngạc nhiên thấy một vài người của thế hệ hậu chiến ở Sài Gòn bỗng dưng tôn sùng
ba tên T.T.Kh thành một thần tượng và biến mối tình rất tầm thường, có thể
nói là quá tầm thường, của cô học trò cũ trường tiểu học Sinh Từ, thành một thảm
kịch của tình yêu!
Nguyễn Nhược Pháp, nhà ở gần nhà cô Khánh, chỉ cách năm, sáu
căn, mà cũng không hề nghe nói đến cô này, và cũng không biết một tí gì về mối
tình của một Họa sĩ kiêm Thi sĩ, Tuấn Trình hay Thâm Tâm, xảy ra cùng dãy phố với
anh.
Cũng như người đàn bà tên Mộng Cầm, hiện là vợ một Giáo chức ở
Phan Rang, đã phủ nhận những chuyện người ta thêu dệt về mối tình bạn của bà,
lúc còn là nữ y tá, với thi sĩ Hàn Mặc Tử (Phổ Thông tạp chí, số 63, ngày
15-8-1961)
“Tôi không thể yêu được một người bị bệnh cùi!” Bà Mộng Cầm
đã thẳng thắn nói thế, không thể trách bà được.
Hai Sắc Hoa Ti Gôn
Một mùa thu trước, mỗi hoàng hôn,
Nhặt cánh hoa rơi chẳng thấy buồn,
Nhuộm ánh nắng tà qua mái tóc,
Tôi chờ người đến với yêu đương.
Người ấy thường hay ngắm lạnh lùng
Dải đường xa vút bóng chiều phong,
Và phương trời thẳm mờ sương, cát,
Tay vít dây hoa trắng chạnh lòng.
Người ấy thường hay vuốt tóc tôi,
Thở dài trong lúc thấy tôi vui,
Bảo rằng: “Hoa, dáng như tim vỡ,
Anh sợ tình ta cũng vỡ thôi!”
Thuở đó nào tôi đã hiểu gì
Cánh hoa tan tác của sinh ly,
Cho nên cười đáp: “Màu hoa trắng
Là chút lòng trong chẳng biến suy.”
Đâu biết lần đi một lỡ làng,
Dưới trời đau khổ chết yêu đương.
Người xa xăm quá! - Tôi buồn lắm
Trong một ngày vui pháo nhuộm đường…
Từ đó thu rồi thu lại thu,
Lòng tôi còn giá đến bao giờ?
Chồng tôi vẫn biết tôi thương nhớ
Người ấy cho nên vẫn hững hờ!
Tôi vẫn đi bên cạnh cuộc đời
Ái ân lạt lẽo của chồng tôi,
Mà từng thu chết, từng thu chết,
Vẫn giấu trong tâm bóng “một người”.
Buồn quá! hôm nay xem tiểu thuyết
Thấy ai cũng ví cánh hoa xưa
(Nhưng hồng) tựa trái tim tan vỡ.
Và đỏ như màu máu thắm pha!
Tôi nhớ lời người đã bảo tôi
Một mùa thu trước rất xa xôi:
Đến nay tôi hiểu thì tôi đã,
Làm lỡ tình duyên cũ mất rồi!
Tôi sợ chiều thu phớt nắng mờ,
Chiều thu hoa đỏ rụng, chiều thu
Gió về lạnh lẽo, chân mây vắng,
Người ấy ngang sông đứng ngóng đò…
Nếu biết rằng tôi đã lấy chồng,
Trời ơi! người ấy có buồn không?
Có thầm nghĩ tới loài hoa… vỡ
Tựa trái tim, phai tựa máu hồng…?
Bài thơ “Hai Sắc Hoa Ti Gôn” theo ghi nhận có ba bản phổ nhạc:Hai Sắc Hoa Ti Gôn - Hà PhươngChuyện hoa Ti Gôn - Anh BằngChuyện tình T.T.Kh Trần Thiện Thanh
Chuyện tình T.T.Kh Song Ngọc
Bài thơ thứ nhất
Thuở trước hồn tôi phơi phới quá,
Lòng thơ nguyên vẹn một làn hương…
Nhưng nhà nghệ sĩ từ đâu lại,
Êm ái trao tôi một vết thương.
Tai ác ngờ đâu gió lại qua,
Làm kinh giấc mộng những ngày hoa,
Thổi tan tâm điệu du dương trước
Và tiễn người đi bến cát xa.
Ở lại vườn Thanh có một mình,
Tôi yêu gió rụng lúc tàn canh;
Yêu trăng lặng lẽ rơi trên áo,
Yêu bóng chim xa nắng lướt mành.
Và một ngày kia tôi phải yêu
Cả chồng tôi nữa lúc đi theo
Những cô áo đỏ sang nhà khác,
Gió hỡi! Làm sao lạnh rất nhiều?
Từ đấy không mong không dám hẹn
Một lần gặp nữa dưới trăng nghiêm,
Nhưng tôi vẫn chắc nơi trời lạ,
Người ấy ghi lòng: “Vẫn nhớ em!”
Đang lúc lòng tôi muốn tạm yên,
Bỗng ai mang lại cánh hoa tim
Cho tôi ép nốt dòng dư lệ
Rỏ xuống thành thơ khóc chút duyên?
Đẹp gì một mảnh lòng tan vỡ
Đã bọc hoa tàn dấu xác xơ!
Tóc úa giết dần đời thiếu phụ…
Thì ai trông ngóng, chả nên chờ!
Viết đoạn thơ đầu lo ngại quá
Vì tôi còn nhớ hẹn nhau xưa:
“Cố quên đi nhé, câm và nín
Đừng thở than bằng những giọng thơ!”
Tôi run sợ viết, lặng im nghe
Tiếng lá thu khô xiết mặt hè
Như tiếng chân người len lén đến.
Song đời nào dám gặp ai về!
Tuy thế tôi tin vẫn có người
Thiết tha theo đuổi nữa, than ôi!
Biết đâu… tôi: một tâm hồn héo,
Bên cạnh chồng nghiêm luống tuổi rồi.
Bài Thơ Cuối Cùng
Anh ạ, tháng ngày xa quá nhỉ!
Một mùa thu cũ, một lòng đau…
Ba năm ví biết anh còn nhớ,
Em đã câm lời có nói đâu!
Ðã lỡ, thôi rồi! Chuyện biệt ly,
Càng khơi càng thấy luỵ từng khi.
Trách ai mang cánh “ti-gôn” ấy,
Mà viết tình em, được ích gì?
Chỉ có ba người đã đọc riêng,
Bài thơ “đan áo” của chồng em.
Bài thơ “đan áo” nay rao bán,
Cho khắp người đời thóc mách xem…
Là giết đời nhau đấy, biết không?
… Dưới giàn hoa máu tiếng mưa rung,
Giận anh, em viết dòng dư lệ,
Là chút dư hương: điệu cuối cùng!
Từ nay, anh hãy bán thơ anh,
Còn để yên tôi với một mình,
Những cánh hoa lòng, hừ! đã ghét,
Thì đem mà đổi lấy hư vinh.
Ngang trái đời hoa đã úa rồi,
Từng mùa gió lạnh sắc hương rơi…
Buồng nghiêm thơ thẩn hồn eo hẹp,
Ði nhớ người không muốn nhớ lời!
Tôi oán hờn anh, mỗi phút giây,
Tôi run sợ viết, bởi rồi đây
Nếu không yên được thì tôi… chết
Ðêm hỡi! làm sao tối thế này?
Năm lại năm qua cứ muốn yên
Mà phương ngoài gió chẳng làm quên;
Và người vỡ lỡ duyên thầm kín,
Lại chính là anh, anh của em!
Tôi biết làm sao được hỡi trời?
Giận anh, không nỡ! Nhớ không thôi!
Mưa buồn, mưa hắt, trong lòng ướt…
Sợ quá đi, anh… “có một người”!…
Đan Áo Cho Chồng
Chị ơi! Nếu chị đã yêu,
Đã từng lỡ hái ít nhiều đau thương,
Đã xa hẳn quãng đời hương,
Đã đem lòng gởi gió sương mịt mùng.
Biết chăng chị? Mỗi mùa đông,
Đáng thương những kẻ có chồng như em.
Vẫn còn thấy lạnh trong tim,
Đan đi đan lại áo len cho chồng.
Như con chim hót trong lồng,
Hạt mưa nó rụng bên sông bơ thờ.
Tháng ngày nổi tiếng tiêu sơ,
Than ôi! Gió đã sang bờ ly tan…
Tháng ngày miễn cưỡng em đan,
Kéo dài một chiếc áo len cho chồng.
Như con chim nhốt trong lồng,
Tháng ngày mong đợi ánh hồng năm nao!
Ngoài trời mưa gió xôn xao,
Ai đem khóa chết chim vào lồng nghiêm?
Ai đem lễ giáo giam em?
Sống hờ trọn kiếp trong duyên trái đời…
Lòng em khổ lắm chị ơi!
Trong bao tủi cực với lời mỉa mai.
Quang cảnh lạ, tháng năm dài,
Đêm đêm nghĩ tới ngày mai giật mình!.
Nguồn tư liệu:
+ https://thanhnien.vn/ (Truyện ngắn “Hoa ti gôn” của
nhà văn Thanh Châu đăng trên tuần báo Tiểu Thuyết Thứ Bảy)
+ https://vi.wikipedia.org/ (Thanh Châu)
+ https://thanhnien.vn/ (Đi
tìm tác giả bí ẩn TTKH)
+ http://www1.rfi.fr/ (Huyền thoại TTKH và Hai sắc hoa
ty gôn)
+ https://vanhaiphong.com/ (Thâm Tâm và sự thật về
TTKH - Nguyễn Vỹ).
22/12/2018Vàng Son
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét