Thứ Năm, 29 tháng 7, 2021

Xóm cầu mới 1

Xóm cầu mới 1

(Bèo giạt)

Tặng Nguyên, người rất thân yêu đã khuyên tôi trở lại đời văn sĩ và nhờ thế cuốn Xóm Cầu Mới này mới ra đời.
Hương Cảng, trên núi, ngày 16-10-1949
Nhất Linh

Cuốn truyện dài Xóm cầu mới được Nhất Linh cho ra đời là do đề nghị của một người đàn bà đã khuyên ông từ bỏ chính trị để trở về với đời viết văn.
Trước khi nhắm mắt lìa đời vào ngày mồng bẩy tháng Bẩy năm một chín sáu ba Nhất Linh đã để lại mấy dòng chữ trên gửi đến người đàn bà "rất thân yêu" ấy, người bạn đời của ông, và cũng là người Mẹ của chúng tôi: bà Nguyễn Tường Tam, khuê danh Phạm Thị Nguyên.

Ảnh chụp: Lê Văn Kiểm

Nhân ngày giỗ Mợ lần thứ hai mươi (mồng ba tháng Tư năm Nhâm Ngọ) chúng con, những đứa con còn lại của Mợ, cho tái bản cuốn Xóm cầu mới này và trang trọng in lời di chúc của Cậu, như thắp nén hương tưởng nhớ, biết ơn và vinh danh công đức của Mợ; người đàn bà tần tảo và đức hạnh đã hết lòng hy sinh cho chồng cho con mà suốt cuộc đời nhọc nhằn, vất vả chỉ sống với một niềm vui và hãnh diện qua lời ngợi khen của cụ Nguyễn Hải Thần: "Anh Tam nếu không có chị ấy thì không thể làm nên sự nghiệp này".
Nguyễn Tường Việt
Nguyễn Tường Triệu
Nguyễn Tường Thạch
Nguyễn Kim Thoa
Nguyễn Tường Thiết
Bèo giạt về đâu hàng nối hàng...
Huy Cận
Một cuốn Đông chu liệt quốc của những đời sống tầm thường, vui lẫn buồn, những vui buồn nhỏ nhặt hàng ngày của những nhân vật, những gia đình sinh hoạt ở trong một cái xóm nhỏ ở đầu một chiếc cầu gỗ từ lúc cầu bắt đầu mọt cho đến khi cầu gẫy và xóm nhỏ và các gia đình cũng tan tác theo với chiếc Cầu gỗ. Những đời "bèo giạt" đến tụ hội ở xóm nhỏ cũng như những bèo giạt đến, trong ít lâu, vương bám vào chân cầu, rồi lại trôi đi theo dòng nước, không biết về đâu?
Nhất Linh
Mở đầu
Xóm Cầu Mới
Xóm Cầu Mới là một cái xóm nhỏ ở cạnh một chiếc cầu gỗ cũ đã long mất gần một nửa số ván và gẫy mất gần một nửa số chân, cũng may ván long đều và chân cầu cũng gẫy đều nên cầu còn đứng vững và xe cộ còn qua lại được. Chiếc cầu gỗ sơn hắc ín và có lẽ từ lúc bắc đến giờ chưa sơn lại một lần nào.
Con đường qua cầu là một con đường đất, đi được ô tô con, chạy khỏi cầu đã dăm cây số thì dừng lại ở trên một bến đò không có phà qua sông, vì ở bên kia sông không bao giờ từng có đường. Ở đầu cầu, sở Lục Lộ mấy chục năm trước đã cẩn thận đóng một tấm biển báo là đường cụt, nhưng vì cái biển đã mọt và rơi từ lâu rồi nên thỉnh thoảng có ô tô đi lầm đường cứ phăng phăng chạy thẳng.
Người trong xóm, mỗi lần có ô tô đi qua, đều nhôn nhao cả lên vì đó là một sự rất hiếm có, trẻ con thì kêu la ầm ĩ, giơ tay đón mừng một cảnh lạ mắt. Không một ai muốn báo cho ô tô biết là đường cụt, cả xóm ai cũng xao lãng công việc, ngong ngóng đợi ô tô trở về. Vào quãng hai mươi phút sau, từ nhà nọ truyền sang nhà kia những tiếng reo mừng "Nó kia rồi!" "Đó nó về đó rồi!" Ô tô trở về bởi vì nếu không trở về thì chỉ còn mỗi một lối là đâm đầu xuống sông. Ô tô trở về chạy có vẻ hục hặc tức giận, nhảy chồm chồm trên con đường gồ ghề và cố tung thật nhiều bụi vào mũi những người dân xóm như để phạt họ và sở Lục Lộ. Dân xóm người thì lật vạt áo che mặt, người thì nhắm mắt bịt mũi, ngậm miệng nín thở; nhưng khi xe đi khỏi và bụi mù đã quang, họ nhìn nhau mỉm cười, trong mắt đầy vẻ vui tinh nghịch thấy những người trên xe đã bị lừa và bị tức.
Đời dân xóm liền với đời chiếc cầu nên bất cứ một tin gì lạ về chiếc cầu cũng làm họ thao thức và xôn xao bàn tán. Bốn năm trước có một người làm ở sở Lục Lộ, trong lúc vui câu chuyện, đã nói là sẽ sơn lại cầu. Sơn lại thì họ không cần lắm nhưng sơn tức là phải sửa chữa lại, dân xóm tán ra như vậy.
"Sơn tức là phải chữa lại cầu", câu ấy ròng rã bốn năm trời vẫn được nhắc đến luôn ở cửa miệng những người dân xóm, nghèo tiền nhưng rất giầu hy vọng hão.
Còn duyên do vì đâu lại oái oăm bắc một chiếc cầu vô dụng và đắp một con đường tắc tị thì không ai hiểu gì cả và sở Lục Lộ bây giờ có lẽ cũng không hiểu nốt.
Nhưng cũng nhờ có con đường tắc tị nên mới có chiếc cầu gỗ và nhờ có chiếc cầu gỗ nên mới có Xóm Cầu Mới.
Xóm Cầu Mới lập thành là do sự tiện lợi. Gia đình bác Lê là gia đình đầu tiên đến ở xóm. Hai mươi năm trước, nước sông Hàn lên to và chảy xiết, thuyền đánh cá của bác bị đắm và nhờ có chiếc cầu nên hai vợ chồng và đứa con đầu lòng sống sót; thuyền đắm đồ đạc mất hết, trời lại mưa to luôn mấy hôm. Nhờ có cái hốc ở cây đa nên gia đình bác Lê có chỗ tạm lánh. Ngay đêm đầu, bác Lê gái nằm mộng thấy có một bà tiên cho bác một cành hoa và dặn phải quét lá đa cho sạch. Cho là điềm hay, hai vợ chồng bàn đến việc ở hẳn dưới gốc đa. Bác Lê trai mấy hôm liền ra đứng ở cầu nhặt nhạnh các mảnh ván, tấm phên theo nước lụt trôi vướng vào chân cầu và dựng nên cái nhà đầu tiên của Xóm Cầu Mới.
Gần đây vì cả mạn sông Hàn bên Xóm Cầu Mới được mùa luôn, nên các bà cân gạo bên Phủ Lệ sang dựng rất nhiều quán cân gạo để đón mua trước của những người hàng sáo từ phía đó đi đến. Vì có các bà sang cân gạo nên mới có hàng bánh cuốn của cô Mùi, hàng cơm của bà cụ Yểng và nhờ có hàng cơm của bà cụ Yểng mới có gia đình ông Năm Bụng bán rượu lậu. Xóm lại gần Phủ nhưng vừa đủ xa để tiện việc nên có cả một nhà hát ả đào, và vì tiện nước nên có cả nhà bán áo quan.
Số đông dân xóm là những người ở nơi khác vì nghèo đói phải tha phương cầu thực rồi đến đấy thấy dễ làm ăn thì ở lại hẳn như những đám bèo giạt từ trăm ngả nước xa trôi về vương bám vào chân cầu. Hai người ở xa nhất đến có lẽ là hai cụ Huế Cả, Huế Hai; không biết duyên do gì hai cụ Huế nghèo như vậy mà từ ở trong Huế xa xôi đem nhau đến ở xóm; không ngày nào là hai cụ không cãi nhau và tiếng cãi nhau lanh lảnh bằng giọng Huế mỗi buổi chiều đưa vang khắp xóm nghe thực lạc loài, lạ tai.
Cả xóm không có một căn nhà gạch hay nhà gỗ nào. Toàn là những nhà tranh lụp xụp, xiêu vẹo; trông cũng cũ kỹ như chiếc cầu gỗ chỉ có cái tên là mới. Có mỗi một nhà bà Ký Ân cân gạo làm bằng gỗ lợp ngói thì lại ở cách xóm đến hơn trăm thước.
Cây đa của xóm người ta gọi là cây đa Cốc vì cốc ở khắp vùng thấy cây đa cao nhất và an toàn nhất đến đậu và ỉa trắng xoá cả lá cây. Người ở các nơi xa có việc lên Phủ thường vẫn lấy cây đa đó làm cái đích để biết được đường còn xa hay gần. Cây đa Cốc to đến nỗi "theo lời bác Lê gái nói đùa một cách nửa than phiền, nửa tự cao rằng sớm quét, chiều quét, quét đã gần hai mươi năm mà chưa hết lá.
Phần thứ nhất
(Bình thản)
Chương I
Một buổi sáng
Mùi sực thức giấc nhưng còn mơ màng chưa tỉnh hẳn. Tiếng gió trong lá cây, ở xa xa, không biết nàng nghe thấy thực hay chỉ là tiếng trong giấc mơ; tiếng lá loạt xoạt làm nàng cảm như đâu đây có ai vừa kéo chăn đắp cho khỏi lạnh, tay nàng bất giác kéo một góc chăn phủ lên chỗ ngực để hở. Một nỗi vui lành lạnh thấm nhuần khắp thân thể và hình như người nàng vẫn vui suốt cả đêm qua, bây giờ hơi tỉnh nàng mới nhận thấy. "Ban đêm mình nằm mê thấy một chuyện gì chắc là vui lắm".
Mùi cựa má trên gối, tỉnh hơn:
"Anh Siêu sắp về."
Nàng nghe thấy tiếng mình nói thầm với mình như thế.
Nàng lắng người nghe ngóng: không phải nàng nằm mê, cái tin Siêu về ở xóm là tin có thật, hôm qua đã có thư báo tin. Mùi nhớ lại cả nỗi vui chiều hôm qua. Trong lúc nàng ngủ quên đi thì cái vui sắp được gặp mặt Siêu vẫn nằm trong lòng nàng và ướp cho giấc ngủ của nàng vui suốt một đêm, vì thế sáng nay chợt tỉnh "nhưng chưa tỉnh hẳn để kịp nhớ lại tin Siêu về, nàng tưởng người nàng vui là chỉ vì đã nằm mê thấy một giấc mơ vui.
Mùi rụt rè mở hé một bên mắt, có ánh trăng rung rung ở hàng mi. Nàng mỉm cười rồi mở thêm cả mắt bên kia. Nàng lắc đầu một cái thật mạnh rồi ho lên một tiếng to. Mùi đã tỉnh hẳn và trước sự thực rõ ràng, quả tim nàng bắt đầu dồn dập một cách êm ái.
"Anh Siêu sắp về."
Nàng phải nhắc lại như thế vì nàng sợ cũng như nhiều lần trước rõ ràng nàng đã tỉnh hẳn rồi, tỉnh đến nỗi đã biết tự bảo mình là nhất định không phải nằm mê, thế mà một lúc sau lại tỉnh lại lần nữa và ngạc nhiên nhận ra lúc trước mình vẫn còn mê ngủ.
Mùi nhấc tay đưa lên chỗ túi áo, nắn một lúc vào bức thư của Siêu mà đêm qua, lúc đi ngủ nàng đã định tâm bỏ vào túi để có được cái thú "nằm ngủ một đêm với bức thư của anh Siêu’’ như nàng đã hồi hộp tự nhủ với nàng như thế. Nàng rút bức thư đưa ra ngoài chăn và tuy ánh sáng chỉ lờ mờ nàng cũng vẫn đọc lại vì nàng đã thuộc lòng từ đầu đến cuối:
Cô Mùi
Vì một lẽ mà khi gặp mới tiện nói, tôi đã định đưa bác về ở Xóm Cầu Mới. Vậy cô tìm ngay cho một căn nhà, rộng hẹp thế nào cũng được. Tìm được nhà, cô viết thư ngay cho tôi, càng sớm càng hay. Giá thuê bao nhiêu cũng được. Nhà tranh thôi và nếu có vườn chung quanh được như chỗ cô ở thì lại càng hay nữa.
Cô nói tôi có lời hỏi thăm chú và chúc chú an khang. Tôi mong cô mạnh và cô bé "hay cười hay khóc", nhất là hay khóc của tôi, từ bây giờ trở đi không có dịp phải khóc mà chỉ cười thôi.
Rất mong chóng nhận được thư cô vì tôi nóng ruột để được cái vui gặp mặt chú Lang, gặp mặt cô rồi lại có cái thú sống cạnh nhau như hồi nào... cô còn nhớ không?
Siêu
Chiều hôm qua, nàng đang ngồi ở cửa hàng ngoài Xóm Cầu Mới thì Triết, em trai nàng, đi học về qua đưa nàng bức thư này. Tay nàng lật đi lật lại bức thư, hơi run run vì trông nét chữ nàng biết ngay là thư của Siêu và linh tính báo nàng biết là có chuyện gì khác thường.
May quá, nàng chưa kịp bóc thư thì Triết đã vội vã cắp sách trở về nhà. Nếu Triết ngồi rán lại, Mùi chắc sẽ ngượng với em lắm vì lúc đọc xong, nàng đã thấy người nàng đổi khác hẳn và nỗi vui mừng, cảm động nàng biết là đã lộ ra rõ ràng trên nét mặt. Đưa thư ấy cho Triết xem thì nàng không dám đưa nhưng nếu vờ như trong bức thư không có chuyện gì lạ, không cần đưa Triết xem thì sao xem xong nàng lại luống cuống đến như vậy. Triết tất sẽ hiểu là nàng có sự gì muốn giấu. Chắc Triết cũng không đòi xem vì nàng biết tính em như thế nhưng Triết không đòi xem, nàng lại càng ngượng với em hơn vì nàng cho là Triết đã đoán hiểu mà không đòi xem chính vì đã hiểu. Mà nàng lại vẫn sợ nhất là có người nào nghi ngờ về tình nàng yêu Siêu. Ngồi một mình ở cửa hàng, nàng đã hoàn toàn tự do thả lỏng để đón lấy cái vui bất ngờ ấy; Triết ở lại, nàng sẽ phải cố giữ gìn và vì thế những phút vui chiều hôm qua, những phút vui ít khi có trong đời, sẽ bị vẩn đục bởi cái hối tiếc không được hưởng toàn vẹn.
Ngồi một mình, nàng tha hồ đọc đi đọc lại và lưu ý đến từng chữ một. Có một chữ mặc dầu đã xoá kỹ nàng cũng nhận ra là chữ "cô". Ra lúc đầu Siêu đã viết: "... để có được cái vui gặp mặt cô" nhưng sau lại xoá chữ "cô" đi và thêm vào hai chữ "chú Lang" hai chữ mà lúc mới đọc Mùi đã thấy chúng nó chương chướng, không ăn nhập xa gần gì đến những chữ "thú sống cạnh nhau" và "cô còn nhớ không" rất âu yếm kia.
Nàng mỉm cười một cách tự cao:
"Gặp mặt chú Lang thì vui gì, thú gì! Hoạ chăng gặp mặt mình thì có."
Nhưng hai chữ "chú Lang" che mắt ấy cho nàng biết là Siêu đã không tự nhiên khi viết những câu hơi thân yêu và tuy sợ nàng hiểu Siêu cũng không bỏ qua được cái thú viết những câu thân yêu ấy ra để mong nàng hiểu.
Nàng gấp thư bảo người ở trông hàng rồi đứng lên đi về phía nhà. Nhưng nàng không cốt về nhà. Nàng chỉ cốt được đi một mình trên con đường vắng để nghĩ kỹ hơn về cái sung sướng đột ngột nó như từ ở một nơi xa nào ùa vào tràn ngập cả tâm hồn. Người nàng phiêu phiêu. Trời lại gió to; gió thổi phất phất các tà áo và thổi dán cả vải ống quần vào hai đùi khiến nàng đi vương vướng, chập chững như người say. Nàng ngửa mặt đón lấy gió lạnh; những sợi tóc bị gió bay vờn qua làm nàng thấy ngứa một cách dễ chịu ở má, ở khoé môi. Hai bên đường, những ruộng lúa mới bắt đầu vàng; trong gió thoảng mùi lúa chín thơm và nỗi sung sướng của nàng, Mùi thấy cũng thơm như mùi lúa.
Nàng đưa mắt nhìn ra xa về phía chân trời mà nàng đoán là nơi quê nàng, nơi mà bốn năm năm trước, nàng đã cùng Siêu sống cạnh nhau hết cả thời thơ ấu.
"Cô còn nhớ không?"
Mấy tiếng ấy như vang lên, dịu dàng trong gió; nàng chợt nghĩ ra điều gì mới lạ và một thoáng vui rung rung trong hai con mắt sáng hẳn lên. Nàng thốt ra mấy tiếng:
"À thế đấy. Em hiểu rồi."
Nàng nhớ đến cái buổi trưa hồi nàng còn nhỏ được Siêu ôm và hôn nàng. Nàng chắc Siêu khi viết câu hỏi bâng quơ ấy đã nghĩ đến lúc hai người hôn nhau và kín đáo nhắc lại với nàng, nếu không... nếu không sao lại có mấy cái chấm đầy ý ngầm ngay trên mấy chữ "cô còn nhớ không". Nàng lặng người đi một lúc, ngơ ngác rồi hai hàng mi chớp mau vì cảm động, nàng lẩm bẩm như nói với Siêu:
"Có phải thế không anh Siêu?"
Thật nàng không ngờ; trong mấy năm cách biệt nàng vẫn thấy mình yêu Siêu nhưng chỉ là một thứ tình nhẹ nhàng, gần như phai lạt. Bức thư báo tin Siêu về ở cạnh làm cho nàng nhận rõ tình yêu Siêu mạnh mẽ là nhường nào; nó đột ngột hiện ra như một làn gió quật khiến nàng choáng váng. Mặc dầu Siêu với nàng là đôi con dì không lấy được nhau nhưng cái mãnh liệt của tình yêu ấy không mảy may làm nàng sợ hãi; nàng lại thấy mừng không ngờ mình yêu đến thế. Nàng đón lấy nó như hiện giờ nàng đón lấy cơn gió lạnh sắc đương quất vào hai bên má.
Gần đến ngõ nhà, bỗng nàng trù trừ đứng lại. Một ý nghĩ vừa thoáng qua và cả người nàng thẹn bâng khuâng. Nàng nhìn quay về sau lưng rồi nhìn hai bên cánh đồng, không thấy có bóng người nào.
"Phải đấy."
Nàng đi rẽ sang con đường ra đầm Cói, con đường bao giờ cũng vắng người, đi xuyên qua một cái đầm rộng mông mênh. Nàng ra tận cái miếu bỏ hoang và mừng rỡ thấy không có ai ở đấy. Nàng đi vòng ra sau miếu để biết chắc chắn là không có người nào. Mùi ngồi bệt xuống bãi cỏ sau miếu, dựa lưng vào tường. Nàng nhìn cả hai đầu đường cái một lần nữa; ngay ở thật xa cũng không có bóng ai đi lại. Nàng cần biết chắc chắn thế để gây cho nàng cái cảm tưởng là chỉ có nàng ngồi đó với Siêu. Nàng rút bức thư, mở ra cầm ở hai bàn tay thật chắc cho gió khỏi bay. Mắt nàng nhìn vào chữ Siêu ký trong thư và bằng một giọng run run mà nàng cố ý làm cho run run thêm để tự làm tăng sự cảm động của mình, nàng nói như nói với Siêu:
"Anh Siêu! Em hôn anh..."
Nàng nghiêng đầu, mỉm cười, miệng thì thầm một lúc như nói chuyện với Siêu; cả người nàng rung động rồi nàng đưa bức thư lên áp vào môi, yên lặng, mắt mở to nhìn vào quãng không. Cử chỉ ấy lại khiến nàng thấy mình yêu Siêu hơn lên; nàng thèn thẹn vì ngượng với chính mình nhưng cái thẹn ấy lại làm nàng thinh thích như là đã được thẹn với Siêu thật. Nàng cũng nhận thấy mình hơi lạ lùng, có những cử chỉ không bao giờ thấy ở một người khác, nhưng nàng lại nghĩ ngay biết đâu người khác chẳng như thế, nàng không biết vì đó chỉ là những ý nghĩ, những cử chỉ thầm kín.
Nàng ngồi như thế lâu lắm. Lúc thì nàng nghĩ đến Siêu, nhắc lại những nỗi vui buồn với Siêu thuở nhỏ, hôm Siêu hôn nàng, ngày Siêu về đưa đám mẹ nàng, việc đập tay vào cành găng, lúc thì nàng không nghĩ gì cả, vơ vẩn ấn mũi guốc xuống đất, đếm xem cây cỏ mận chẩu hoa chĩa ra thành mấy cọng hoặc nhìn những con kiến bò quanh hòn đá sỏi; nhưng cả những lúc không nghĩ ngợi gì nàng cũng biết là nỗi vui vẫn nằm yên trong lòng. Nàng bỏ thư ra rồi bắt chước cách nói của bà Ký Ân tự bảo mình:
"Thôi nhớ, đủ rồi nhớ. Về đi cô Thuý Kiều ơi, lạnh lắm rồi."
Lúc nàng đứng lên, nhìn đến bức thư mới nhận thấy bức thư đã nhầu nát trong tay lúc nào không biết.
Ra khỏi miếu, đi được một quãng Mùi thấy có bóng người đi lại phía mình. Nàng cố nhìn nhưng không nhìn ra là người quen hay lạ; nàng tự hỏi không biết người ấy có trông thấy mình ở miếu đi ra không; mà nàng ra miếu ấy làm gì, trời rét mà đi ra đấy thì chỉ có thể là hò hẹn với trai, thấy bóng người đến thì nàng ra về, còn người con trai thì lẩn sau miếu hay bụi rậm. Nhất định nàng phải tìm câu giảng giải, mà câu giảng giải tự nhiên nhất là xuống thăm lò gạch của bác Năng ở bên kia đầm Cói. Đến gần thì chính người ấy lại là bác Năng gái. Nàng luống cuống nhưng cũng nói được ngay:
"Ô kìa, bác Năng, tôi định xuống bác (Mùi có ý dằn vào tiếng định)..."
"Thế à cô!"
Bác Năng hơi lộ vẻ ngạc nhiên và tự nhiên lại đưa mắt nhìn về phía cái miếu. Mùi thấy mình nói định xuống bác ta mà lại đi ngược chiều, vội giảng giải:
"Định xuống bác nhưng mới đi đến miếu thì bị lạnh choáng váng cả người, phải ngồi nghỉ ở miếu một lúc. Để hôm khác vậy."
Nàng toan nói vậy rồi đi thẳng nhưng bác Năng xoắn suýt hỏi:
"Cô xuống cháu có việc gì thế?"
Mùi nhận thấy việc đến thăm bác ta là một sự lạ vì bác ta với Mùi chỉ là hai người quen gặp gỡ ở xóm Cầu Mới; xuống thăm bác ta ở tận bên kia đầm Cói, nhất là lúc đã xế chiều, trời lạnh gió rét như thế này tất phải có việc quan trọng lắm. Mùi đưa tay lên bóp trán:
"Tôi cứ choáng váng cả đầu."
Bỗng nàng tìm ra:
"Tôi định xuống bác mua gạch làm nhà."
Rồi nàng nghĩ thầm: thế là chỉ vì cái hôn không đâu mà phải làm một cái nhà.
Bác Năng lại càng xoắn suýt hơn, hai bàn tay xoa xoa, uốn éo đủ chiều còn miệng thì xuýt xoa như đứng trước một món đồ ăn ngon sắp được ăn. Đã biết mọi lần bác Năng vẫn có những cử chỉ ấy nhưng lần này nàng mới thấy chúng nó đáng ghét.
"À cô định làm nhà gạch. Nhà cháu có lứa gạch tốt lắm. Để mai tạnh ráo mời cô xuống xem. Chắc độ này cô buôn bán khá lắm."
Tuy buôn bán có khá nhưng với số vốn của Mùi hiện có thì cả đời cũng không làm nổi nhà gạch. Thế sao nàng lại thêm vào hai tiếng "làm nhà". Nói là chữa lại tường hay để xếp những chậu lan của cha nàng có hơn không. Nàng sẽ thấy tiếng nàng làm nhà gạch đồn vang khắp vùng: đi đâu rồi ai cũng hỏi: "cô làm nhà gạch... Nhà cô định bao giờ cất". Mới đầu chắc nghe cũng thích vì ai cũng nhìn nàng đầy vẻ kính phục một cô gái đảm đang, mẹ mất sớm mà mới mười chín tuổi đã kiếm được vốn làm nhà gạch, cho đến khi... đến khi mọi người đều thầm rủa nàng là đồ nói khoác. Mùi không dám nghĩ thêm nữa và lần này không biết đã bao nhiêu lần rồi nàng cau mũi tự trách mình hay mau miệng hão. Lúc nàng đang nghĩ ngợi thế thì tiếng bác Năng vẫn lọt vào tai nàng; đến lúc bác ta nói có người bà con có ít gỗ tốt, bán rẻ thì Mùi lại giật thót một cái, vội nói:
"Không, tôi làm nhà tây."
Câu ấy rất tự nhiên vì cả hai người đều yên trí làm nhà tây không cần gỗ. Mùi lại nghĩ thầm: "Thế là nhà mình lại biến ra nhà tây rồi’’. Nhìn vẻ mặt ngạc nhiên của bác Năng, nàng chỉ muốn bật lên cười rồi xoay ra nói đùa: "Không tôi nói đùa đấy, chỉ mua gạch về để..." nhưng nàng lại vừa đột nghĩ ra mua gạch làm nhà thì có thể chê gạch xấu, không mua chứ mua vài chục viên về kê lan thì nhất định phải mua. Tuy tiêu ít nhưng phải tiêu. Nàng tặc lưỡi:
"Thôi bác về, mai tôi xuống."
Bác Năng lại xoa tay và miệng lại xuýt xoa:
"Mai lúc nào cô xuống để cháu đợi."
"Lúc nào cũng được."
"Vâng thưa cô, lúc nào cũng được."
Thoáng trong một lúc, Mùi thấy trong vẻ mắt nhìn của bác Năng đầy nỗi vui mừng sắp bán được gạch.
Lúc về đến ngõ nhà, sực nghĩ đến nỗi vui riêng của lòng mình, tự nhiên Mùi nghĩ đến bác Năng. Nàng đứng lại nhìn theo bác: cái bóng đen nhỏ bé của bác, lủi thủi trên con đường vắng lạnh, nàng nhìn thấy trong lòng buồn buồn, ái ngại. Thế nào về nhà, bác chẳng kể lại với chồng con, hai vợ chồng trong lòng sẽ chứa chan hy vọng để rồi mai sẽ bị tưng hửng. Nàng mủi lòng thương hại; nàng không ngại cuộc đi thăm bác ngày mai vì cũng là một dịp nàng xem kỹ cách thức làm gạch nhưng nàng chỉ sợ nhất lúc phải mở miệng nói từ chối; giá nàng định tâm mua thật, thấy gạch không hợp ý thì nàng nói dễ dàng như chơi, không mảy may áy náy nhưng đằng này chưa thấy gạch đã từ chối rồi. Nàng cảm thấy như là đã định bụng đánh lừa, mà ở đời nàng lại rất ghét những người đi lừa và nhất là rất sợ chính mình lừa ai. Nàng kêu sịt một cái như người bị kim đâm rồi lắc đầu, tự tức bực mình.
Về đến nhà, Mùi chạy thẳng ra sân nhìn mấy chậu lan, nhìn cái bể nước và những bực bước rồi nàng đi vòng chung quanh cái nhà thờ gạch: không có chỗ nào phải cần đến gạch mà cả hai căn nhà thờ và nhà ngang đều là của người khác để cho gia đình nàng ở nhờ, trừ khi hư hỏng lắm mới phải lo tiền chữa. Rồi nàng đứng ở giữa sân, suy nghĩ. Bỗng nàng tươi hẳn nét mặt quay nhìn vào nhà, nói với ông Lang:
"Thưa thầy, con xây cái sân gạch để thầy phơi thuốc."
Nghĩ ra việc xây sân gạch nàng chỉ biết là bây giờ đã có cớ mua gạch không phải định tâm lừa bác Năng nữa. Óc nàng đương loay hoay về chỗ ấy, nay vụt tìm ra nên nói luôn với cha không kịp nghĩ ngợi, để ý đến chỗ tốn kém.
Ông Lang đã lâu vẫn muốn có cái sân phơi thuốc nhưng ông không dám nói ra với con, sợ con cho là tốn tiền. Thấy con nói đúng ý muốn, ông mừng lắm.
"Ừ, nếu có cái sân gạch thì tiện nhưng... nhưng thầy sợ tốn kém quá."
Mùi cũng mừng vì thấy cha muốn có cái sân gạch:
"Thưa thầy xây một cái sân nhỏ cũng chẳng mất bao nhiêu, lại dùng mãi."
"Ừ. Phải đấy."
"Thế mai con đi mua gạch. Hôm nay con đã dạm hỏi người ta rồi."
Ông Lang mỉm cười vuốt bộ râu cằm lơ thơ nhìn con gái. Ông thấy con gái mình chẳng bàn với mình một việc gì trước khi làm hay là có lắm việc Mùi hình như chẳng bao giờ để ý đến, mà đột nhiên Mùi nói làm và đã nói thì đi làm ngay. Thế cho nên ông không lấy làm lạ thấy Mùi mới về, chẳng nói chẳng rằng đã chạy quanh khắp nhà để tìm chỗ làm cái sân gạch, một ý nghĩ mà ông không hiểu tại sao tự nhiên vụt hiện trong óc con gái mình. Đã từ lâu, tin ở tài đảm đang của con gái mình nên hễ thấy Mùi nói làm việc gì là chắc Mùi sẽ làm chu đáo ông không bận tâm đến nữa. Ngày mai thế nào cũng có gạch về nhà, ngày kia thế nào cũng có thợ đến lát và ngày kìa là ông đã có cái sân phơi thuốc. Mọi việc, ông chắc thế, nhờ có Mùi sẽ xẩy ra một cách tốt đẹp: gạch sẽ già, sân sẽ phẳng, giá sẽ rẻ. Hai năm nay, từ khi bà Lang mất đi, ông rất mừng thấy con mỗi ngày một lớn lại tháo vát hơn và lo liệu công việc trong nhà, buôn bán tần tảo giỏi hơn cả bà Lang.
Mùi cũng thấy làm cái sân rất hợp ý cha muốn vì cha nàng đã nói thêm câu "thầy sợ tốn kém". Làm việc gì mà cha nàng không thích chỉ do cái thích riêng của Mùi, ông không bao giờ nói đến tốn kém vì sợ làm mất lòng con. Tiền trong nhà một phần lớn là do nàng kiếm ra nên đã từ lâu ông Lang có ý kiêng nể con, mặc con muốn làm gì thì làm, chỉ trừ khi nào Mùi muốn làm việc gì cho ông, ông mới nói thêm câu lấy lệ "thầy sợ tốn kém". Thế là sáng mai sang bác Năng, nàng có thể mua gạch cho bác ta; nàng hết cả cảm tưởng định lừa bác và thấy người nhẹ hẳn. Nàng ra đứng ở phía đầu hiên, xoay lưng vào ông Lang rồi ngửng nhìn trời. Nàng gọi thầm:
"Anh Siêu, anh Siêu..."
Và cả cái vui mừng lại nổi lên trong lòng nàng, mới mẻ. Rồi Mùi ngồi xuống hiên. Gió không mạnh lắm như ở ngoài cánh đồng, chỉ từng đợt từ phía sông thổi vào. Mùi ngồi đợi gió; thấy các ngọn tre rung rung lay chuyển thì một lát sau lại có một làn gió lạnh phào qua người nàng; có một thứ gì buồn ở trong gió mà sao lòng nàng lại thấy hiu hiu buồn như nhớ ai, một nỗi buồn có đậm vui ở trong, hay đúng hơn một nỗi vui hơi thoảng buồn, có vẻ thích hơn cả nỗi vui không.
Ông Lang thấy con gái hết nhìn xuống sân lại nhìn ra bể nước ông cũng suy nghĩ về cái sân:
"Con có làm thì làm ra tận bể nước."
Mùi nói luôn:
"Vâng con cũng đương nghĩ thế."
Rồi nàng lại yên lặng, trầm ngâm cố gợi lại cái buồn nhớ nhung thoảng trong nỗi vui của lòng nàng. Đã nhiều lần như thế rồi nàng đương vui tự nhiên thấy một cảm giác gì tương tự như một cảm giác buồn, nhưng rất nhẹ, phiêu phiêu thích rồi thoảng qua ngay khiến nàng hối tiếc những phút mong manh đó. Câu nói của ông Lang đã làm tan hẳn cái hiu hiu trong tâm hồn nàng. Mùi nhìn về phía những chậu lan; những ngọn lá lan chạy lát sát nghiêng cả về một phía như muốn trốn gió, tới tấp xanh lẫn trắng, Mùi nhìn thấy vui mắt; nàng hé môi mỉm cười đáp lại Siêu mà nàng tưởng như đương mỉm cười với nàng ở trong những lá lan.
Thấy con gái nhìn chậu lan, ông Lang đoán Mùi chắc đương nghĩ xem có nên làm sân đến chỗ ấy không. Nếu có sân thì những ngày mưa xong lầm lội ông có thể ung dung đi lại tỉa vuốt những lá lan. Ông rung đùi ngồi đợi và khi nhìn thấy con gái mỉm cười ông nói luôn:
"Con nghĩ phải đấy, nên làm ra cả chỗ để lan."
Mùi quay lại nhìn ông Lang ngạc nhiên; nàng tuy biết mình có mơ màng đãng trí nhưng chắc chắn là không nói gì về việc làm sân ra đến chỗ các chậu lan. Nhưng nàng cũng trả lời:
"Vâng, con cũng đương định thế."
Rồi nàng đứng lên đi bước một đếm thử chiều dài chiều ngang, lẩm bẩm tính phác qua và thấy nhói một cái tiếc tiền:
"Giời đất ơi! Hơn nghìn viên gạch. Những sáu đồng bạc cánh. Lại còn công lát."
Nhưng bấy giờ thì nhất định không lùi được nữa vì đã chót nói với ông Lang rồi. Thế là tự nhiên nàng đâm đi chữa một cái tội mau miệng hão bằng cách nhẩy vào phạm một cái tội mau miệng hão nữa.
Định quay về hiên, nàng ngừng lại nhìn ông Lang rồi đi rẽ về phía bếp; nàng sợ nếu còn đứng gần cha thì cái sân cứ mỗi lúc một lan rộng mãi ra.
Việc Siêu và bà Cai về ở Xóm Cầu Mới, Mùi định tâm lờ đi rồi đến lúc sắp đi ngủ nàng vờ nhớ ra và nói với ông Lang làm như không chú ý đến việc ấy lắm.
"À quên, thưa thầy mới có thư của bác Cai nói định về ở xóm và bảo tìm hộ nhà."
Ông Lang hỏi:
"Gửi thư về à? Thư đâu?"
Mùi đặt tay vào túi nhưng lại cho tay vào lục túi áo bên trái trong khi bức thư của Siêu nàng để ở túi áo bên phải.
"À, thưa thầy con bỏ quên ở hàng."
Rồi nàng ngáp một cái dài và vươn vai:
"Hừ, sao hôm nay mình buồn ngủ thế."
Nàng đi thẳng về buồng ngủ làm như chuyện bà Cai về không có gì đáng chú ý và để ông Lang khỏi hỏi lôi thôi.
Mùi định thức khuya để ngẫm nghĩ đến cái vui sướng riêng của lòng mình, nhưng vì Triết còn chong đèn xem sách nàng phải nằm yên sợ trằn trọc Triết sinh nghi. Nằm yên một lúc thấy hai mắt díu lại vì buồn ngủ; nàng lắc đầu một cái, mỉm cười như để chào Siêu, tạm biệt chàng đến mai. Lúc thiu thiu sắp thiếp đi, Mùi cảm thấy nỗi vui của nàng theo nàng vào giấc ngủ.
"Cô còn nhớ không?"

Sáng nay giở bức thư ra đọc, Mùi bất giác nhắc lại mấy tiếng ấy bằng một giọng hơi cao; nàng giật mình nhìn sang giường Triết nằm nhưng lại yên tâm ngay. Triết đã ngủ là ngủ say mê mệt, nàng không sợ gì mà không may phải lúc Triết thức cũng không sao. Đã nhiều sáng thức dậy khi cần nhớ ngày phiên chợ hay ra ga sớm nhờ người đi Hà Nội mua cà cuống hay mua tương Cừ Đà, nàng vẫn thường nói lẩm bẩm một mình trong chăn: "Hôm nay cô phải nhớ mua tương nhé" hoặc "mua cà cuống nhé".

Triết có nghe thấy cũng chỉ tưởng là nàng nhắc đến việc nhớ mua tương, nhớ mua cà cuống gì đó.

Nàng gấp thư bỏ vào túi rồi nằm ép má lên gối, đưa mắt nhìn qua cửa sổ chắn song. Ánh trăng hạ tuần càng về sáng càng tỏ và hơi ngả ra mầu vàng, Mùi trông tưởng như bên hàng xóm có việc vui mừng, ánh đèn làm cỗ bàn chiếu sang tận bên này. Nàng lặng người nhìn và thấy thoáng trong ánh trăng vàng có cái gì đẹp lắm.
"Cái gì nhỉ?"
Mùi tự hỏi và bỗng dưng nhớ ra. Phải, một hôm nào còn bé, nửa đêm thức dậy, nàng nhìn thấy ánh đèn làm cỗ bàn mừng Siêu mới thi đỗ từ ở bên nhà Siêu chiếu sang chỗ nàng nằm và in bóng những cây nứa ngang dọc của hàng rào và những cành lá cây mồng tơi leo, rõ như cắt trên bức tường trắng. Cái cảnh đẹp in sâu vào hồn nàng một đêm hè đã xa lắm và cả cái vui sống cạnh Siêu ở quê nhà cùng một lúc Mùi thấy như nó hiện ra trong mảng ánh trăng kia. Và bây giờ nàng mới hiểu tại sao lúc nãy nàng đã thấy trong mảng ánh trăng có cái gì vui đẹp.
Siêu và Mùi là hai anh em họ, con dì con già. Hai nhà ở cạnh chỉ cách có bức dậu thưa. Ngay từ lúc còn bé Siêu và Mùi đã hợp tính nhau và quấn quýt chơi đùa với nhau suốt ngày. Có một việc xẩy ra Mùi không bao giờ quên được là hôm Siêu ôm và hôn nàng. Siêu hơn nàng năm tuổi nên thường có khi bế nàng vào lòng tự nhiên trước mặt mọi người mà Mùi cũng thấy không có gì khác thường.
Nhưng một buổi trưa lúc đó Mùi đã lớn, nàng không nhớ rõ hẳn nhưng đoán mình vào quãng mười hai tuổi, Siêu đã hơn một năm không bế nàng vào lòng một lần nào nữa. Một buổi trưa, cả nhà đi vắng, Mùi đương ngồi ở buồng Siêu nghịch cắt giấy thì Siêu đi vào. Mùi ngửng lên thấy có vẻ gì hơi là lạ trên nét mặt Siêu; nàng toan hỏi:
"Anh làm sao thế?" Nhưng không hiểu tại sao Mùi chỉ nghĩ thế chứ không nói ra lời. Siêu đến ngồi bên cạnh Mùi không nói gì, ngực Siêu nàng thấy phập phồng thở mạnh và nhanh, tưởng như chàng vừa chạy vội ở đâu về. Mùi nghĩ chắc có việc gì quan trọng đã xẩy ra. Thế rồi tự nhiên Siêu giơ tay ôm lấy vai nàng, kéo ngửa người ra và đặt nằm ngả trong lòng; Siêu cúi đầu vào tóc nàng, áp má vào mặt nàng và môi chàng đưa đi đưa lại mấy cái nhẹ trên má.
Mùi nhận thấy tay Siêu vuốt cổ nàng hơi run run; có một thứ gì khác hẳn mọi lần Siêu ôm mình. Mùi sờ sợ vì đã hiểu nhưng thấy một sự thú trước chưa từng cảm thấy bao giờ, một sự rất êm thú như từ ở người Siêu truyền sang, thấm nhẹ vào và làm nàng ran ran gợn khắp người. Mùi ngửa mặt nhưng không phải cốt để tránh Siêu mà chỉ cốt nhận thấy rõ má nàng chạm vào môi Siêu hơn. Hai mắt nàng mở to và qua những sợi tóc của Siêu nàng nhìn thấy cái cửa sổ sáng với những lá non lấm tấm của hàng rào găng ta điểm một vài bông hoa trắng như ngôi sao. Cái ánh sáng ở cửa sổ, cái ánh sáng dịu và phơn phớt xanh ấy và những ngọn lá xanh mát với mầu trắng mới của hoa thoáng trong một lúc, Mùi thấy như là ở đâu, xa lắm, có vẻ thần tiên, không phải ánh sáng hay hoa lá của đời này... Nằm trong hơi ấm của người Siêu, nàng phiêu phiêu tưởng như mình không có nữa, cả người chỉ là một cảm giác êm êm, mắt nàng lần đầu tiên trong đời đã trông lọt vào ""qua những cửa sổ kia" một thế giới mới, thế giới của tình yêu.
Thế rồi, không biết tại sao lúc đó nàng lại có thể bạo đến thế và mãi về sau mỗi lần nghĩ đến quả tim nàng lại đập nhẹ một cách sung sướng vì thấy đã dám bạo đúng vào lúc đó (nếu lúc đó nàng không bạo thì sau này nàng sẽ hối hận xiết bao), thế rồi nàng giơ hai tay ôm vòng lấy cổ Siêu, kéo đầu chàng xuống và để hai môi chàng đặt lên môi mình. Hình như lúc đó nàng nhắm mắt lại; nàng thấy môi Siêu hơi nóng; hình như Siêu cũng không hôn lại nàng. Siêu để yên như thế một lúc lâu rồi nhẹ gỡ tay nàng ra. Nàng không nhớ rõ lắm mà nàng nhớ làm sao được rõ, vì nàng có biết nàng làm gì lúc đó đâu; nàng bàng hoàng về một thứ khác; lúc đưa môi lên cho Siêu hôn không phải nàng chỉ cốt có cái thú được Siêu hôn mình, có một thứ gì to tát hơn nhiều mà ngay lúc đó nàng chỉ cảm thấy mơ màng, không sao rõ được là thứ gì.
Phải đợi đến sáu bẩy năm sau, thấy tình yêu xưa đã phai lạt lại ngùn ngụt bốc lên mãnh liệt Mùi mới biết khi đưa môi lên cho Siêu hôn lần đầu tiên trong đời, nàng đã đem cả đời nàng, cả tình yêu hiến cho Siêu ngay từ lúc đó.
Từ buổi trưa hôm ấy, hai người không bao giờ ôm nhau một lần nào nữa và cũng không đả động xa gần đến việc đó, coi như chưa từng có hôn nhau bao giờ. Nhưng mỗi lần thấy Siêu nghỉ học về quê, đứng bên này hàng rào nhìn bóng áo trắng của Siêu qua cành lá, Mùi lại thấy quả tim đập mạnh vì mừng rỡ và mỗi lần Siêu rời nhà lên tỉnh học Mùi lại ra ngồi ở đầu hiên vắng chỗ có dậu găng ta che khuất yên lặng khóc, lòng vừa hiu hiu buồn lại vừa phiêu phiêu thú. Tuy ai cũng biết là nàng có tính mau nước mắt, mau đến nỗi hễ có đám ma đi qua ngõ có tiếng người than khóc là nàng không sao cầm được lòng, vừa mỉm cười vừa ứa nước mắt khóc theo họ, nhưng mỗi lần khóc vì nhớ Siêu thì nàng phải trốn tránh sợ có người bắt gặp; vả lại có khóc ở chỗ vắng nàng mới hưởng được hết cái thú buồn nhớ Siêu. Nhưng nhiều khi có những cơ hội rất thuận tiện như khi hai người đi chơi trong vườn chùa rộng hoặc đêm khuya cùng đứng ngắm trăng ở vườn nhà, Mùi cũng không có một lần nào thấy Siêu tỏ ý gì khác.
Còn Siêu sở dĩ hôn Mùi là vì chàng muốn biết ra sao; đã mười bẩy tuổi nhưng tính vốn rút rát, chưa có một lần nào chàng dám ngồi nói chuyện với một người con gái nếu người ấy đẹp; được hôm nhà vắng nên chàng muốn thử. Chàng không lo ngại gì vì cũng đã nhiều lần ôm Mùi rồi, chắc Mùi cho thế là tự nhiên. Nhưng vì chàng, chàng có định ý, nên lần này chàng thấy quả tim mình đập mạnh như sắp phạm một tội nặng. Chàng cũng đã có những cảm giác ngây ngất, nhất là lúc Mùi tự ý ôm lấy cổ chàng đặt đôi môi chàng lên đôi môi nàng. Nhưng chính vì Mùi có cử chỉ ấy nên chàng đâm sợ và về sau cứ phải lơ đi, coi việc xẩy ra ấy là một sự rất tự nhiên và không có gì quan trọng. Mùi còn nhỏ tuổi quá lại là em họ chàng; vẻ mặt Mùi hồi đó cũng không đẹp đến nỗi làm cho chàng mê đến dại dột. Chàng cũng không ngờ là Mùi ngầm yêu mình bắt đầu từ hôm đó.
Năm Mùi độmười lăm tuổi thì ông Cai, cha Siêu đưa cả gia đình đi xa làm ăn. Mùi đã buồn vì Siêu sắp đi, có thể không bao giờ còn gặp mặt nhau nữa, lại hờn uất thấy Siêu lấy sự đi xa làm vui vẻ lắm. Mùi thấy Siêu không để ý nhìn nàng, đối đãi với nàng cũng như mọi ngày và có vẻ không nhận thấy nàng buồn khổ, mặc dầu hễ nếu có dịp là nàng cố làm cho nét mặt mình thờ thẫn như là sắp chết đến nơi rồi.
Mùi tiễn Siêu ra tận cổng làng, Siêu đã lên xe và may quá cái xe ấy lại ở cách xa xe ông Cai bà Cai. Mùi tiến lại gần định nói với Siêu một câu mà đêm qua nàng đã nhẫn đi nhẫn lại không biết bao nhiêu lần, một câu mà nàng phải cố chọn thật giản dị, lỡ có ai nghe thấy cũng không sao, nhưng ở trong ngầm không biết bao nhiêu thương nhớ mà chỉ có nàng với Siêu hiểu được. Nàng cũng đã phải cố lấy hết sức can đảm để trấn nỗi ngượng và cất tiếng nói:
"Thôi anh đi... anh còn..."
Nàng vừa nói được mấy tiếng thì thấy Siêu nghĩ ngợi điều gì, hai con mắt có vẻ như đau khổ lắm. Vốn biết tính Siêu trầm tĩnh, Mùi thấy không cần nói nốt câu bỏ dở; chắc Siêu không trả lời gì mình cả nhưng chỉ cái vẻ đau khổ âm thầm thoáng hiện trong mắt chàng là đủ đối với nàng lắm rồi. Bỗng nàng thấy Siêu cau mày, nghiêng người về một bên, cúi đầu nhìn xuống bảo người phu xe:
"Cái gì thế này, bác xe? Giời ơi! Cái đầu đinh. Thế này thì rách mẹ cả quần!"
Mùi quắc mắt nhìn Siêu, rồi không chào ông Cai bà Cai, không chào Siêu, nàng quay phắt lưng bước về phía cổng làng. Nếu Siêu lúc đó cất tiếng gọi, nàng cũng không quay trở lại và cũng không bao giờ, không bao giờ nàng thèm nhìn đến mặt Siêu.
Giá Siêu gọi nàng lúc đó chắc nàng đỡ tức hơn nhưng đã đi qua cổng làng mà cũng không có ai gọi. Cả Siêu, cả ông Cai bà Cai đều không một ai biết là nàng giận. Đã đành nàng đã chào mỗi người một lần rồi nhưng nếu nàng bỏ đi một cách đột ngột thì tất phải để ý chứ. Thế là cái tức của nàng đã vô ích, không bao giờ ai biết đến. Giá được thấy một vẻ thoáng qua chỉ hơi ngạc nhiên thôi trong đôi mắt Siêu nàng cũng còn hả dạ đôi chút.
"Hay mình quay lại."
Nghĩ vậy nhưng chân nàng vừa bước nhanh như chạy, vụt một cái đã tới cổng nhà. Nàng đi thẳng ra đầu hiên để khóc, nhưng nàng không tài nào khóc được. Mắt nàng ráo hoảnh và lạnh lùng nhìn khu vườn bao bọc quanh nhà. Nàng bỏ người ngồi bệt xuống đất, mắt trừng trừng vào quãng không. Nàng ngồi thế trong bao lâu nàng cũng không biết nhưng chắc là lâu lắm vì nước ở đất ẩm đã thấm qua hai lần vải quần làm nàng thấy ướt và ngưa ngứa ở da. Cơn ngứa khêu lên một nỗi bứt rứt trong khắp thân thể, nhưng nàng cố giữ, nhất định không chịu gãi; nàng tưởng nếu cho tay xuống gãi thì sự uất ức của nàng sẽ hết mất.
"Cần quái gì! Cần quái gì! Giời đất ơi."
Rồi nàng ứ một tiếng, thở hắt ra, lẩm bẩm:
"Hừ rách mẹ cả quần!"
Nàng vùng vằng đứng lên, nhìn ngang ngửa. Nàng thấy cần phải đập vỡ một cái gì. Không thấy vật gì ở cạnh để có thể đập vỡ, nàng vẫy mạnh hai bàn tay. Tay nàng chạm phải một cành găng bị một ngọn gai đâm đau nhói. Cái đau nhói lại cũng làm tăng cái tức của nàng lên. Nàng quay mặt nhìn cành găng và rứt mạnh nó một cái báo thù. Bỗng nàng yên lặng nhìn chăm chú vào những ngọn gai tua tủa ẩn trong lá của cành găng còn rung động. Mắt nàng sáng quắc lên vì một ý nghĩ mới vụt đến; mặt nàng tái hẳn đi một cách ghê sợ. Cả người nàng lạnh toát.
"Này thì chết đi! Chết đi cho rảnh, xem nào..."
Mùi giơ cao bàn tay lên, nhắm mắt lại, mím môi rồi như điên như dại nàng lấy hết sức quật mạnh tay vào cành găng đầy gai sắc. Nàng không rõ đã quật mấy cái như thế; nàng cũng không thấy đau gì ở bàn tay hình như đã tê dại hẳn. Lúc Mùi mở mắt ra thì trên da trắng của lưng bàn tay nàng vằn lên ngang dọc những nét xước lốm đốm máu đặc đỏ thắm. Mùi lại ngồi xuống hiên nhìn những dòng máu chẩy loang dần trên da và nhỏ từng giọt một xuống đất. Cả cái đau khổ của nàng như hiện ra trên bàn tay run run; nàng đã bắt đầu thấy xót ở những vết thương. Thế là nước mắt nàng trào ra được; Mùi khóc, khóc nức nở trước cái tình yêu đầu tiên trong đời bị tan vỡ và quả tim non nớt mới biết yêu của nàng, ở trong ngực, nàng thấy nó cũng đương chẩy máu ròng ròng như bàn tay mềm trắng đầy máu kia.
Nàng chạy về nhà vì nàng biết không thể nào giấu được bàn tay đầy vết thương và tấm áo trắng đẫm máu. Nàng chỉ nói đã trượt chân ngã vào dậu găng, giơ tay đỡ nên bị thương. Bà Lang thấy con đi vào nước mắt giàn giụa, mặt tái xanh, tay và áo dính đầy máu, bà kêu thất thanh:
"Chết chửa, làm sao thế con?"
Mùi không trả lời, hạ thấp hàng mi, ngẫm nghĩ xem có nên nói là ngã hay cứ yên lặng không nói gì cả.
Bà Lang gọi cuống quít:
"Thầy nó ơi! Có ra ngay không... Nó sắp ngất đi, đây này."
Nghe mẹ nói, Mùi chợt nghĩ ra nếu ngất đúng vào hôm Siêu đi, cái tin ấy sớm muộn cũng đến tai Siêu; đối với mọi người thì mất nhiều máu nên ngất đi, nhưng Siêu thì tất Siêu hiểu. Mùi vội nói:
"Con ngã vào dậu găng, không sao..."
Nàng nhắm mắt lại và vừa kịp ngả người trong tay mẹ.
Mọi người đã chạy đến, người gọi người lay rộn rịp. Nàng phải cố giữ mỉm cười khi có người nói:
"Giữ chặt lấy hai ngón chân cái cho hồn nó khỏi chạy ra."

Sợ ngất lâu quá mẹ lo hãi, Mùi vội mở mắt nhìn mọi người. Ông Lang chạy đi tìm thuốc lào; ông Lý Đàn nói: "Gớm ra đến một chậu máu’’. Êm ái nhất là câu của mẹ nàng nói:

"Không may cho con tôi quá. Anh Siêu lại vừa đi."

Bà Lang nói thế vì Siêu rất thông thạo về thuốc tây, băng bó.
Mùi tưởng tượng có người sẽ gặp ông Cai và Siêu rồi kể lại:
"Gớm, con Mùi nó ngã vào dậu găng thế nào mà gai nó khứa nát cả bàn tay, ra đầy chậu máu, ngất đi đến nửa giờ đồng hồ."
Người ấy thế nào cũng tán rộng ra như vậy và thế nào chẳng thêm:
"Ấy ngay hôm ông và cậu Siêu đi ấy mà."
Nghe người ta nói đến đây, Siêu nàng chắc thế sẽ phải giật nẩy mình. Nghĩ đến chỗ ấy, Mùi úp mặt xuống chiếu, nhếch mép: nàng đã có cách báo cho Siêu biết cái giận uất của mình và trả thù được Siêu cho bõ tức.
Vết thương trong tim nàng cũng hàn dần với những vết xước gai trên bàn tay. Mấy tháng sau nhà Mùi bị cháy; cả gia đình nàng phải dọn đến ở nhờ nhà một người bà con gần Xóm Cầu Mới. Cũng may trước đó ít lâu, người bà con ấy đem cả gia quyến vào Sài Gòn làm ăn nên có nhờ ông Lang đến ở trông nom hộ nhà cửa.
Lâu dần nàng cũng không mấy khi nghĩ đến Siêu và việc cũ nữa.
Sau đó hai năm, mẹ nàng mất.
Hôm sau khi đưa đám, Mùi đương ngồi thái su hào làm cỗ cúng ở dưới bếp, thoáng nghe có tiếng mấy người nói xen nhau ở nhà trên. Sao lại có cái gì khác thường ở trong những tiếng đó; mà sự khác thường ấy linh cảm báo nàng biết chỉ có thể là một sự khác thường vui.
"Tiếng ai thế?"
Quả tim nàng bỗng đập mạnh:
"Anh Siêu về, anh Siêu về."
Mùi bỏ rơi con dao ở tay, đứng thẳng lên.
Nàng toan bước xuống phản, bỗng ngừng lại, ngồi xuống thái su hào một cách vội vàng.
"Anh ấy về thì về. Kệ xác anh ấy."
Nhưng nàng cũng không ngăn nổi quả tim mình cứ đập mãi vì mừng rỡ và tuy tự bảo thế nhưng trong thâm tâm, Mùi chỉ mong Siêu xuống ngay bếp, mong Siêu cũng nóng được gặp mặt nàng. Còn nàng , nàng nhất định ngồi đấy; khi Siêu xuống nàng nhất định cứ cúi mặt thái su hào và khi Siêu chào hỏi, nàng nhất định cứ cúi mặt và trả lời nhát gừng cho Siêu hiểu là nàng còn ức và muốn báo thù.
Có tiếng giầy tây đi vội vàng qua sân. Mùi cau mũi nghĩ thầm: tiếng giầy tây ấy thì chỉ có thể là tiếng bước của Siêu. Trong họ toàn người nghèo, làm gì có tiền mà đi giầy tây giầy tiếc như bố con ông Cai. Nàng nghe tiếng ông Cai làm ăn khá giả đã lâu nhưng đến lúc này nàng mới thấy ghét cái tiếng giầy tây bước có vẻ lạ tai và ngạo nghễ. Siêu đã đến đứng ở cửa bếp và nàng đã nhìn thấy ống quần là và hai mũi giầy tây vàng. Nhưng Siêu đứng lâu lắm mà không tiến bước cũng không hỏi han gì nàng cả.
Mùi lấy làm lạ ngửng lên.
Lúc đó Siêu mới tiến về phía nàng, thốt ra một tiếng "cô" rất khẽ rồi lại đứng sững nhìn nàng như muốn nói một câu chia buồn mà chưa tìm được câu nào tự nhiên. Nhưng không, Mùi ngầm thấy có một cái gì khác thế trong cử chỉ của Siêu đứng sững nhìn nàng và lúc nãy nữa, khi Siêu dừng lại ở cửa bếp. Mùi ngơ ngác một cách sung sướng trước vẻ nhìn hơi là lạ của hai con mắt Siêu, hai con mắt mà nàng vẫn thấy đẹp như xưa, thân yêu hơn sau một hồi xa cách và hơn thế nữa, Mùi thấy rõ hai con mắt ấy vẫn yêu nàng, yêu nàng từ lâu. Nàng không nghi ngờ gì nữa, bao nhiêu những giận uất xưa, trong một lúc,tiêu tán hết như không bao giờ từng có. Mùi nói, dịu dàng:
"Anh về."
Bằng tiếng chào rất thường ấy, Mùi đã tha lỗi cho Siêu về hết cả những đau khổ của nàng đã qua; nàng mủi lòng rơm rớm nước mắt, vội cúi mặt, hai hàng mi chớp mau để cố giữ cho khỏi khóc. Nhưng rồi nàng lại ngửng lên và nước mắt lại trào ra nhiều hơn. Nàng khóc, khóc một cách sung sướng; lòng nàng nở ra đón mừng Siêu đã trở về với nàng và tình yêu cũ đã trở lại trong đời nàng từ đây.
Siêu thì tưởng nàng khóc vì thấy chàng về viếng bà Lang, nàng mủi lòng nhớ đến mẹ. Vì tưởng thế nên chàng tha hồ ngắm mặt Mùi không e dè; chàng lại có thể nhìn một cách rất âu yếm như là đang thương hại Mùi và cố an ủi bằng hai con mắt nhìn.
Sau hai năm cách biệt, cô em họ của chàng tuy không thay đổi mấy nhưng khác xa ngày trước. Lúc mới đến cửa bếp chàng đứng lại ngạc nhiên vì người con gái mặc đại tang chỉ có thể là Mùi và nét mặt lại giống Mùi nhưng chàng vẫn không thể tin người con gái đẹp như thế lại là cô em họ tầm thường của mình trước kia.
Mùi lại có một vẻ đẹp hoàn toàn hợp với chàng đến nỗi chàng vừa bàng hoàng sung sướng vì Mùi đẹp lại vừa rờn rợn sợ vì hai con mắt Mùi đẹp quá.
Siêu ở lại cho đến hết bảy ngày tuần chay. Trong những ngày tang bận rộn, hai người ít khi có dịp nói chuyện và cả hai cùng tránh không muốn để lòng mình nghĩ về những thứ không nên nghĩ đến trong lúc nhà đương có việc buồn. Nhưng chạy đi chạy lại, mỗi lần trông thấy mặt Siêu, Mùi cũng thấy lòng vui vui, khuây khoả. Mùi mừng rằng có những đêm khuya, Siêu cũng cố thức cho đến khi nàng đi ngủ mới chịu đi ngủ. Hết tuần chay Siêu ngỏ lời xin đi. Lúc đó khách đến viếng không còn ai; căn nhà sau mấy ngày rộn rịp đông người trông rộng hẳn ra và lạnh lẽo.
Mùi tiễn Siêu ra tận bờ sông vì biết trước là khi từ biệt, nàng không sao giữ được nước mắt mà ở nhà có vẻ khóc vì nhớ Siêu cũng không tiện vả lại nàng muốn nói với Siêu một vài câu thân mật không thể nói trước mặt mọi người. Tự nhiên Mùi thấy nóng ở ngực và lo sợ vô cớ; nàng vụt nhớ đến hôm tiễn Siêu ra xe và nỗi uất ức của nàng về cái đầu đinh.
Đến chỗ rẽ lên con đường lớn, chỗ ấy vắng, Mùi đứng lại bên gốc cây bàng.
"Thôi anh đi. Thỉnh thoảng anh lại về chơi."
Nói đến câu ấy Mùi đã thấy nước mắt muốn trào ra, nàng tiếp luôn:
"Em cảm ơn anh... nhờ có anh ở cạnh, em đã khuây khoả rất nhiều. Giá cứ được có anh ở cạnh mãi..."
Mùi ngừng lại; nàng nhận thấy một thoáng đổi khác trong vẻ nhìn của Siêu. Nàng vừa lo sợ là đã nói ra lại vừa sung sướng là đã nói ra được đúng câu ấy, nói hơi lộ để Siêu có thể đoán hiểu nhưng cũng không lộ quá để Siêu có thể biết chắc chắn.
Siêu nói:
"Giữa cô với tôi, cô nói làm gì đến cảm ơn. Cái buồn của cô cũng là cái buồn của tôi. Nếu hai bác không mệt thì tôi còn muốn ở lâu nữa. Nhưng thôi, khi nào có dịp tôi lại về thăm cô ngay, tôi về thăm..."
Mắt Siêu, Mùi thấy nhiễm vẻ dịu dàng và hơi buồn. Siêu tiếp theo:
"Lại nhớ độ nào còn cùng nhau ở làng mà tiếc, cô nhỉ..."
Mùi lặng nhìn Siêu một lúc rồi khẽ gật đầu, nói trong hơi thở:
"Em thì không bao giờ em quên được..."
Sợ lộ quá, nàng tiếp theo ngay:
"Đẻ em mất rồi, bao giờ lại có những ngày vui vẻ đông đủ như độ ấy nữa. Không bao giờ nữa, anh Siêu ạ."
Nước mắt Mùi trào ra mờ cả mắt và chẩy ròng ròng hai bên má; nàng há miệng ra để thở rồi vừa mếu máo vừa nói:
"Đời em khổ lắm."
Nàng kéo vạt áo đặt lên miệng để giữ những cơn nức nở:
"Thôi anh đi... Bao giờ anh trở về?"
Siêu lặng người nhìn nàng một lúc rồi quay đi không đáp lại lời nàng và cũng quên cả chào lại.
Mùi đứng tựa vào thân cây bàng khóc cho đến hết cơn. Siêu đi khỏi Cầu Mới; gần đến luỹ tre đầu Phủ Lệ, chàng quay lại và ngạc nhiên nhìn thấy Mùi còn đứng nguyên chỗ cũ. Chàng đưa tay vẫy thì thấy Mùi cũng giơ tay đưa đi đưa lại. Lúc Siêu đi khuất, Mùi ngả đầu áp má vào gốc cây rồi cứ đứng yên như thế lâu lắm.
Từ hôm ấy thành ra cái lệ là khi nào thấy lòng buồn bã, Mùi lại ra đứng ở gốc cây bàng áp má vào cây mà khóc. Nàng vừa khóc nhớ mẹ vừa khóc nhớ Siêu. Thỉnh thoảng nàng lại giơ tay đưa đi đưa lại như để vẫy mẹ nàng ở thế giới bên kia hay là vẫy Siêu. Nàng có ý bao giờ cũng đưa đi đưa lại tay rất thong thả. Hôm Siêu đi, nàng mừng là Siêu đã đưa tay vẫy nhưng nàng vẫn khó chịu là Siêu vẫy tay nhanh quá không đúng với nhịp buồn của lòng hai người lúc đó và nàng vẫn bứt rứt tự hỏi có lẽ Siêu xa nàng đã không buồn gì cho lắm.
Về phần Siêu, khi ngồi trên xe lửa chàng cũng cảm thấy nao nao nhớ Mùi; chàng cố gợi lại hình dáng Mùi đứng tựa vào gốc cây và những lời Mùi nói với chàng lúc từ biệt. Cảm động nhất là khi đột nhiên chàng nói tiếc cái hồi còn ở quê ý chàng muốn gợi nàng nhớ đến buổi trưa hai người hôn nhau thì Mùi lại nhìn chàng như là đã hiểu rõ chàng định nói gì và nàng lại gật đầu để tỏ ra với chàng là nàng đã hiểu. Và cũng vì bây giờ Mùi đẹp nên Siêu mới dần dần nhận thấy là Mùi có lẽ đã yêu chàng ngay từ buổi trưa đáng kỷ niệm ấy và có lẽ... bây giờ chàng mới vụt nghĩ đến câu chuyện người làng nói Mùi đã ngất đi đúng hôm chàng đi xa, bây giờ chàng mới chợt nghĩ ra có cái gì bất thường hôm Mùi tiễn chàng đi nhưng chuyện lâu ngày quá và hồi đó chàng không để ý đến Mùi mấy nên không thể nào nhớ ra được. Chàng đặt đầu vào cửa xe nhìn ra ngoài để cố nhớ lại nhưng nửa giờ sau chàng lắc đầu. Nếu nhớ lại được chàng sẽ biết vì cớ gì Mùi ngất đi và biết được cớ đó chàng sẽ biết chắc là Mùi yêu mình. Bây giờ thì chàng chỉ có cái an ủi may ra đó là sự thực.
Nửa năm sau, nhân dịp ông Cai sai Siêu đến một cái ga gần Xóm Cầu Mới giao thiệp về một việc thầu, Siêu thuê xe về thăm Mùi. Lúc đến cái ngõ dâm bụt vào nhà Mùi sao chàng sợ hãi thế; lâu lắm mới về thăm lại có cớ rõ ràng, không ai có thể nghi ngờ nhưng chính chàng, chàng chỉ sợ Mùi đoán rõ được ý mình.
Qua cành lá dậu dâm bụt, thấp thoáng lộ ra bức tường và mấy tấm cửa bức bàn. Chàng thấy không khí ở bên kia bức dậu hơi là lạ, có vẻ quan trọng và cả cái yên tĩnh của buổi chiều hôm ấy chàng cũng thấy như đang nghe ngóng, mong đợi một sự gì. Lúc đó chàng mới nhận ra là mình đã yêu Mùi.
Nhân một lúc ngồi nói chuyện ở hiên, Siêu muốn gợi đến việc Mùi ngất đi độ nào. Chàng nhìn vào bàn tay trái của Mùi nhưng không thấy vết sẹo gì cả. Bàn tay phải thì lại đặt về phía bên kia, Siêu không nhìn thấy; chàng thẳng người quay đầu để nhìn nốt cả bàn tay phải. Thấy lạ Mùi hỏi:
"Anh nhìn gì thế?"
"Tôi tìm những vết sẹo ở bàn tay."
Mùi giật nẩy mình, nhìn Siêu nói:
"Sao anh biết?"
Nói xong, Mùi lo sợ và nghĩ ngay là tại sao Siêu vừa chợt hỏi về những vết sẹo nàng lại giật mình cho ngay là hỏi về việc đập tay vào cành găng.
Siêu đã để ý đến chỗ Mùi đã giật mình lo sợ. Chàng nói:
"Chú Lý Đàn nói chuyện."
Mùi mỉm cười:
"Em biết mà. Thế chú ấy nói thế nào, cơ anh?"
Siêu thấy Mùi mỉm cười láu lỉnh khi nói câu "em biết mà" nhưng chàng không hiểu tại sao.
"Chú bảo chính hôm tôi đi cô ngã vào dậu gai, ngất đi đến nửa giờ. Cả nhà ai cũng hoảng sợ."
Mùi nhìn xa xa, mắt long lanh rồi lại mỉm cười:
"Thế chú ấy có nói ra nhiều máu không?"
"Có, chú ấy bảo đến một chậu."
Mùi sặc lên cười vì bao nhiêu dự đoán của nàng đã thành sự thực. Siêu cũng cười theo:
"Thế chú ấy bịa?"
"Không chú ấy không bịa đâu."
"Thế làm sao cô lại cười?"
"Không làm sao cả."
Mùi không cần chú ý đến chỗ đã báo thù được Siêu vì bây giờ không còn cần gì nữa. Bây giờ thì nàng lại sợ Siêu đoán biết nên vội nói thêm:
"Có gì đâu, em ngã xoàng thôi. Vì gai khứa, ra một ít máu, em choáng váng lịm đi độ một lát."
Siêu mỉm cười thất vọng. Thế là không phải. Nếu Mùi tức chàng thật thì khi nói chuyện ấy với chàng Mùi tất phải dè dặt, không thể phá lên cười thẳng thắn như thế được. Nhưng sao lúc đầu mới nghe Mùi lại giật nẩy mình.
Mùi nhấc bàn tay phải đưa cho Siêu xem rồi cứ để yên bàn tay mình trước mặt Siêu.
"Bàn tay này đây, anh ạ."
Nàng thấy mình nói, giọng dịu hẳn đi và cái hờn xưa lại trở lại trong lòng nhưng nhẹ nhàng, êm dịu khiến nàng muốn âu yếm nhắc nhở như người đã được sung sướng thích nhắc lại những ngày khổ đã qua.
"Sao hôm ấy, em đau xót thế."
Siêu sung sướng thấy Mùi rơm rớm nước mắt; Mùi cho ngón tay lên chấm chấm vào hai bên khoé mắt rồi thở dài nhẹ một cái.
"Bây giờ thì khỏi hẳn rồi."
Thế mà bây giờ Siêu lại về ở cạnh nàng như độ nào. Nằm nghĩ phiêu diêu, Mùi quên không biết là đã để hở cả ngực ra ngoài chăn mà sáng hôm nay lại lạnh nhất từ khi bắt đầu trở rét đến giờ. Mùi vội kéo chăn che chùm đầu. Nàng cựa quậy người mấy cái để nhận thấy rõ hơn cái ấm của hơi nóng trong chăn thấm ran khắp người.
Bên ngoài, bỗng có tiếng ông Lang ho luôn mấy cái; sáng nào ông cũng ho thế, để báo cho con gái biết là ông đã dậy, nước đun gần sôi, đã đến lúc Mùi ra vườn hái hoa mộc. Ông Lang Hàn nghiện chè tàu và bao giờ cũng dậy uống chè thật sớm. Ông lại có cái thú cầu kỳ là mỗi chén chè phải bỏ vào một nhánh hoa mộc mới hái; khi nào cánh hoa ngả mầu nâu thì lại vất đi thay nhánh khác. Vì ông mới ốm khỏi ra vườn sợ bị cảm lại nên sáng nào Mùi cũng phải dậy sớm ra vườn hái hoa mặc dầu chưa đến giờ ra hàng ngoài Xóm Cầu Mới.
Ông Lang Hàn ngồi yên đợi; một lát lâu không thấy động tĩnh gì bên buồng con gái, ông mới cất tiếng gọi. Nể con nên ông gọi rất khẽ chỉ đủ để Mùi nghe thấy nếu nàng đã hơi tỉnh và nếu nàng còn ngủ thì tiếng gọi không làm nàng mất giấc. Thấy Mùi ho mà không trả lời, ông lấy làm lạ xong ông cũng đành ngồi yên đợi.
"Cứ để ông cụ đợi một lát nữa. Gớm, giời rét gì mà rét ghê rét gớm thế này."
Tuy miệng lẩm bẩm thế nhưng không lúc nào Mùi thấy trong người ấm áp như lúc đó.
Mùi co hai chân lên, hai cánh tay ruỗi thẳng và bàn tay đặt giữa hai đùi nóng kẹp thật chặt vào nhau. Nàng rùng mình ở sống lưng một cái rồi lấy gân ở cánh tay ở bắp đùi, ưỡn cong các đầu ngón chân để nhận rõ cái mệt mỏi dễ chịu của các thớ thịt sau một đêm không động đậy rồi lại thả người cho mềm đi và thấy các thớ thịt êm dịu dần dần rồi người nàng nhẹ hẳn. Nàng làm như thế hai ba lần. Rồi vơ vẩn, hai bàn tay nàng nắn vào thịt của bắp đùi mình, mềm êm và nóng dưới làn lĩnh trơn; nàng tưởng hai bàn tay ấy như là hai bàn tay của một người khác. Một cái thú là lạ và hơi thèn thẹn làm nàng thấy bâng khuâng ở bụng, ở hai đầu vú mọng cứng và nóng bừng hai bên gò má. Nàng hé môi yên lặng một lúc lâu rồi mỉm cười, nói theo giọng ông Lang thường nói với những người đến chữa mắt:
"Hoả nó bốc!"
Nàng thường nghe người ta nói đến chuyện những người đĩ ngầm; nàng chắc mình thuộc vào loại đó mà lại đa tình nữa, như cô Thuý Kiều.
Bỗng nàng tung chăn ngồi thẳng dậy vì nàng vừa sực nghĩ đến hôm nay là ngày phiên chợ Xóm Cầu Mới. Nàng vội dạ lên một tiếng to. Ông Lang đương ngồi trầm ngâm ở ngoài nhà giật mình một cái, ngơ ngác không hiểu vì cớ sao mình gọi đã lâu lắm mà đến bây giờ con mình mới cất tiếng dạ. Ông mỉm cười:
"Nó lại mê ngủ."
Mùi khoác vội chiếc áo bông rồi thò đầu ra cửa buồng tựa vành khăn vào cánh cửa để quấn. Ông Lang nói:
"Làm thế nào tìm được nhà cho bà Cai bây giờ."
Mùi ngước nhìn cha, mắt long lanh cười; cũng như nàng cái ý nghĩ đầu tiên của cha nàng cũng là về việc Siêu đến xóm. Ông Lang lại tiếp:
"Còn cái ông Cai ấy không bao giờ chừa được máu mê cờ bạc để đến nỗi vợ con phải khổ sở như thế."
Ông Lang nhắc đến việc ông Cai vì thua bạc nên vỡ nợ phải bỏ trốn mấy tháng trước, nhưng ông nói thế không phải khó chịu vì ông Cai cờ bạc. Tính ông xưa nay không muốn có gì bận đến thân mà việc bà Cai về ở đây sẽ làm rối loạn đến ông. Bà Cai về đây trong lúc thiếu thốn ông không thể tránh được việc giúp đỡ vợ con một người đã từng giúp ông nhiều lần trước kia. Mùi nói:
"Thế nào con cũng tìm được nhà cho bác Cai, thầy không lo."
Nàng quấn khăn xong, lại tủ chè lấy cái đĩa đi ra sân. Tuy trời sáng trăng nàng cũng khó khăn lắm mới ra được tới chỗ những cây mộc vì sợ chạm vào các chậu lan và nhất là đi qua đầu bể nước, chỗ ấy đã làm bất cứ người nào trong nhà cũng ngã một vài lần. Cứ chiều đến ông Lang ra bể nước rửa chân và trong mười lần thì đến tám chín lần ông bỏ quên bánh xà phòng. Lần đầu tiên Triết (lúc bấy giờ còn bé) bị ngã đau quá và trong lúc tức kêu rầm lên:
"Không biết đứa nào để xà phòng thế này!"
Ông Lang nghe thấy thế vội nói:
"Tao đấy chứ đứa nào đâu. Ai bảo mày giẫm vào nó. Còn mày, mày bé nhất nhà sao lại hỗn gọi ai là đứa. Đồ mất dậy."
Thế là Triết vừa ngã đau tại lỗi ở bố lại vừa bị bố mắng.
"Hôm nay ít sương, hoa thơm lắm thầy ạ."
Mùi vừa nói vừa đưa hoa cho cha rồi kéo vạt áo ngồi xuống phản, giơ hai tay lên sưởi trên hoả lò than.
"Hôm nay rét quá thầy nhỉ."
Ông Lang rót chè ra chén, nói với Mùi:
"Uống một chén cho ấm."
Nói vậy nhưng ông chỉ rót có một chén vì ông biết Mùi không bao giờ uống chè ô long sợ đau bụng. Còn Mùi, nàng lật ngửa một chén và rót vào ít nước sôi.
Ông Lang uống một ngụm nhỏ, ngẫm nghĩ một lát rồi nói:
"Ngoài xóm thì đào đâu ra nhà cho thuê mà thuê."
"Thưa thầy, chẳng thuê được nhà thì làm nhà mới."
"Làm gì có tiền mà làm nhà với làm cửa. Còn ở đây thì chật chết."
Lúc ông Lang nói đến chỗ ấy, bất giác Mùi đưa mắt nhìn quanh và mỉm cười; riêng nàng, nàng thấy nhà ở rộng quá. Tiếng ông Lang lại tiếp theo:
"Mà tại sao lại oái oăm đưa nhau về ở cái xóm này. Lấy gì mà sống... hừ... lấy gì mà sống."
Mùi nhìn cha ái ngại vì thấy cha thắc mắc khó chịu về việc bà Cai và Siêu về ở xóm.

Từ lúc dậy đến giờ hễ cha mở miệng nói là y như nói đến việc bà Cai. Câu "lấy gì mà sống" nhắc lại hai lượt khiến Mùi nghĩ đến chỗ cha nàng sợ gia đình Siêu quấy quả. Nàng thì trái lại, nàng chỉ thích thế. Siêu bây giờ chắc vẫn đi giầy tây nhưng đôi giầy tây của chàng không đáng ghét nữa như độ chàng còn giầu và nàng còn tức. Nếu Siêu nghèo đến nỗi không còn giầy tây đi nàng sẽ tự bỏ tiền mua biếu chàng một đôi, hai đôi cũng không sao để chàng đi cho oai. Mùi nhớ lại câu trong thư "giá thuê nhà bao nhiêu cũng được" vội nói cho vui lòng cha:

"Thưa thầy bác Cai có tiền."

"Sao cô biết?"
"Con biết."
Nhưng Mùi không đả động đến bức thư; nàng loay hoay tìm câu trả lời khác. Song ông Lang không hỏi vặn tại sao Mùi lại biết, ông nói sang chuyện khác:
"Hôm nay gió to mà giời hanh, con phải cẩn thận củi lửa."
Một lúc sau ông Lang lại nói:
"Nhưng về đây rồi buôn bán gì mà sống?"
"Thầy không lo. Con có cách. Thầy cứ để mặc con lo liệu, thế nào cũng xong."
Ông Lang nghe nói thế lại tin ở tài con gái mình, ông nhẹ hẳn người. Ông không phải bận tâm nữa, việc bà Cai về là việc của Mùi rồi. Ông uống một ngụm to, vuốt râu nói:
"Gói chè này ngon như chè đầu xuân."
"Thưa thầy con cũng đoán thế. Nhà chú Phoóng có ba gói con mua cả. Con không uống được nhưng con ngửi cũng biết. Ngửi thì không sợ đau bụng."
Mùi mỉm cười rồi đứng dậy vui vẻ vì thấy ông Lang đã hết băn khoăn. Rồi nàng lại mỉm cười một mình, nghĩ đến tính cha hay sợ phiền đến nỗi là ông Lang mà có người đến chữa lại lấy làm khó chịu, có khi lại trốn tránh bảo u già nói là đi vắng. Vì thế ông chỉ chuyên chế các thứ thuốc bột, thuốc viên, giao Mùi bán, cho đỡ bận đến thân.
Mùi thấy cha thắc mắc về việc bà Cai đến nỗi quên cả cái sân gạch.
"À thưa thầy, khi nào họ đem gạch đến thầy bảo u già ra trông kẻo họ làm vỡ."
Mùi nói thế để nhắc ông Lang nghĩ đến cái sân gạch cho ông quên hẳn bà Cai đi.
Lúc trở về buồng, thấy Triết nằm lòi ra ngoài màn để hở cả ngực, nàng khẽ ngồi xuống cạnh giường, kéo chăn đắp lên ngực em rồi tay nàng vuốt vuốt những sợi tóc rũ xuống trán. Có một thứ gì thân yêu hơn, sáng hôm nay, trong cử chỉ nàng vuốt tóc em và lần đầu tiên nàng thấy êm êm trong lòng chứ không như mọi lần bao giờ nghĩ đến em là nàng cũng nao nao thương em và lòng nàng se lại vì buồn.
Trước kia tuy là sống cạnh cha và em, hai người mà nàng yêu, nhưng Mùi vẫn thấy mình cô đơn và đời sống trong gia đình lạnh lẽo. Cha nàng thì ít khi nói, lúc nào cũng sợ phiền mà buồn nhất là nàng thấy cha nàng như xa nàng lắm, không hề có một lời thân yêu với nàng bao giờ và cũng không bao giờ có một lời mắng hay gắt nàng, hoặc tỏ vẻ giận dữ với nàng. Cha nàng lúc nào nói với nàng cũng nói một cách ôn tồn tử tế, tử tế quá như là đối với một người khách lạ không phải con gái. Cha nàng vẫn hình như có sự gì giấu nàng; nàng đoán thế và linh tính nàng cảm thấy thế chứ cũng không có một căn cứ gì rõ ràng cả. Có vài lúc cha nàng như có vẻ sợ nàng và lánh mặt hay tránh nói chuyện.
"Cớ sao thế?"
Mùi vẫn tự hỏi vậy, nhưng không tìm ra duyên cớ bởi vì chính cái cảm giác thấy cha sợ mình ấy, Mùi cũng không dám chắc là có đúng không. Nhưng tại sao nàng lại cứ thấy có cái cảm giác ấy; nó vô lý, không dựa vào cái gì cả nhưng mà nàng không thể bảo là nó không có. Từ lúc bà Lang mất đi nàng cố hết sức chiều chuộng cha, cố hết sức làm việc kiếm tiền để cha nàng khỏi phải lo phiền, khỏi phải có điều gì không vui lòng, nàng thấy nàng yêu cha nhưng sao trong thâm tâm nàng vẫn ngấm ngầm một thứ gì khiến nàng nghi ngờ cả lòng mình.
Giữa nàng và Triết cũng thế, cũng vẫn có cái gì cách bức giữa hai chị em. Triết lại còn ít nói hơn ông Lang và lúc nào em nàng cũng buồn, nàng chẳng hiểu tại sao. Cái phiền của ông Lang là do việc ngoài gây nên và như thế nàng còn có thể tìm cách tránh cho cha; đối với cái buồn vô duyên cớ của em, nàng không biết xử trí ra sao. Triết lúc nào cũng yếu, gầy và xanh lướt nhưng ít khi ốm đau. Triết lười học, cái đó nàng không cần lắm, nhưng lười đến nỗi không thiết gì tới quần áo mặc, tắm rửa, không thiết cả đến ăn uống nữa. Có hôm làm món ăn đặc biệt ngon cho em ăn, nàng cũng chỉ thấy Triết gắp lấy lệ, nhai uể oải như là phải ăn gượng vì nể chị. Nàng tức nghẹn ngào ở cổ, nhưng làm gì được đối với một người chỉ có mỗi một cái lỗi là ăn không thấy ngon.
Có nhiều buổi trưa bất chợt có việc gì phải về nhà, nàng bắt gặp Triết ngồi ở hiên mặt nhìn thẳng vào quãng không, yên lặng và rất buồn; nàng có cái cảm tưởng là Triết ngồi yên thế đã mấy giờ đồng hồ rồi. Một lần về đến ngõ nhìn qua dậu dâm bụt thấy Triết ngồi buồn ở hiên nàng đứng lại rình đợi xem Triết ngồi như thế bao lâu. Nàng đứng đến nửa giờ mà Triết vẫn ngồi yên chỉ thỉnh thoảng thở dài một cái. Nàng lẳng lặng bỏ đi không muốn vào nhà vì nàng thấy ngượng đã đứng rình trộm em không muốn nhìn mặt em lúc đó. Thảm đạm nhất cho nàng là cái cảnh một buổi chiều mùa đông, nàng mới ở ngoài hàng về, vừa đến cửa buồng bỗng đứng dừng lại: Triết nằm trên giường, hai tay thủ bọc còn đầu Triết thì chui vào lòng một chiếc chăn bông còn cuộn tròn nguyên, ngập kín cả cổ; Triết thấy lạnh chui đầu vào chăn cho ấm nhưng lười quá không muốn dở chăn đắp hay là Triết nằm thế để buồn mà không muốn cho ai biết, hay là Triết khóc? Em Triết của nàng mà từ lúc nhớn nàng chưa từng thấy khóc một lần nào. Nàng muốn đến lôi em dậy để an ủi; nghĩ thế nhưng nàng lại đi thẳng ra vườn. Nàng nhớ tới lời mẹ nàng trước khi mất dặn dò nàng trông nom em và gây dựng cho nó thành người: mẹ nàng chỉ có mỗi một người con trai nên trước khi nhắm mắt đặt cả hy vọng vào nàng. Bây giờ Triết như thế kia, Mùi thấy tất cả những cái ấy đều là lỗi ở nàng cả. Nghĩ đến đây Mùi lại ứa nước mắt khóc thương em và thương cả đời nàng nữa.
Mùi rất yêu em và biết là Triết cũng yêu mình nhưng lạ lắm không bao giờ nàng nói một câu hay làm một cử chỉ gì có tính cách thân yêu với em. Nàng săn sóc chiều chuộng em từng ly từng tý nhưng không bao giờ ngỏ với Triết về những sự thầm kín của lòng mình và cũng không bao giờ hỏi Triết về ý nghĩ riêng của Triết. Vì thế thấy em buồn nàng chỉ yên lặng thương em và thương cho mình. Nhiều lần định hỏi nhưng sợ hãi cái gì nàng lại thôi. Giá Triết cũng như nàng có tính hay khóc nàng còn dễ có dịp phá tan cái yên lặng cách bức hai người; nhưng Triết chỉ lẳng lặng có vẻ không muốn nàng hỏi đến mà nàng thì lại ngập ngừng sợ không muốn biết sự thực; cái cách làm lơ như không thấy gì cả là một cách tiện và dễ dàng nhất nên nàng làm theo cách đó và lâu dần cái hàng rào cách bức hai người lại càng dầy thêm.
Có một lần nàng đã suýt phá tan được hàng rào yên lặng cách bức ấy.
Một hôm chính lòng nàng cũng hiu hiu buồn vô cớ, nàng ra luỹ tre sau nhà để bắt chước "ngồi buồn" như em thì lại vừa bắt gặp Triết đương ngồi trên đám cỏ khô, yên lặng nhìn ra sông.
"Sao mặt em tôi nó buồn thế kia?"
Nàng đến đứng gần em và cũng nhìn ra sông. Nàng định hỏi:
"Sao lúc nào chị cũng thấy em buồn?"
Nhưng chỉ mới nghĩ đến nói câu thân mật ấy thôi, Mùi đã thấy rươm rướm nước mắt. Triết nhìn chị không hiểu tại sao chị mình lại ra đứng ở bờ sông khóc, nhưng đã biết tính chị nên Triết cũng không hỏi và cũng không bận tâm; chàng đứng lên đi thẳng về nhà. Triết đi rồi, Mùi đến ngồi thay vào chỗ lá tre khô để suy nghĩ; thấy nóng ở hai mông, Mùi biết Triết ngồi đấy đã lâu lắm, nàng lại càng thương em và nước mắt lại trào ra nhiều hơn:
"Vì lẽ gì em tôi buồn thế?"
Có khi Mùi đương ngồi ở cửa hàng tíu tít gắp bánh cuốn, rót nước chè cho khách, lòng nàng lại se lại vì nàng vừa chợt nghĩ Triết giờ này có lẽ đương ngồi một mình yên lặng, nét mặt buồn thiu ở hiên vắng và nàng thấy mủi lòng thương em. Khách hàng ngạc nhiên thấy Mùi vừa tươi cười gắp bánh vừa rươm rướm nước mắt. Mùi thấy mọi người nhìn mình vội cười nói:
"Khói đấy, các bà ạ."
Triết lại sống một đời lủi thủi; dễ thường Mùi chưa thấy có một người bạn học nào của Triết đến nhà chơi. Hai người bạn của Triết là một cuốn sách ướp bươm bướm và một cuốn sổ tay. Cuốn sổ tay ấy Mùi không biết Triết viết những gì, chỉ biết là viết thứ chữ nhỏ lắm. Cho đến một ngày Triết dở chạy ra ngoài vườn, Mùi đến gần mới nhìn, chưa kịp đọc thì Triết đã chạy vào sợ hãi giằng nhanh lấy cuốn sổ. Từ hôm đó Mùi không thấy Triết biên sổ nữa hay đúng hơn không biên trước mặt nàng. Mùi chỉ biết là Triết có cái gì không muốn cho nàng biết nhưng nàng không mảy may đoán được là cái gì.
Cũng may Triết có cái thú chơi bươm bướm; thứ năm hay chủ nhật nào Triết cũng ra đầm Cói hoặc đi các làng xa bắt bướm, có khi quên cả về ăn cơm trưa. Chiều về, quần áo nhầu nát, bẩn thỉu hơn lúc thường và rơm cỏ, lá khô đầy cả tóc, đầy cả túi áo. Chỉ có những lúc đó là Mùi thấy Triết vui sướng; hôm nào bắt được con bướm lạ, dầu Mùi bận đến đâu, Triết cũng bắt nàng xem và Mùi cũng bắt buộc phải xem và phải khen để được thấy em vui sướng hơn.
Nhưng cả đến cái thú chơi bướm của Triết, Mùi cũng thấy là một thứ chơi buồn. Đêm nào đi ngủ Triết cũng để sách ướp bướm ở cạnh gối và từ hôm bắt được một con bướm lạ mà Triết đặt tên là con "bươm bướm ma" Triết vẫn nói với nàng:
"Thỉnh thoảng lại có đêm nó nói chuyện với em, chị Mùi ạ."
Mùi chợt nghĩ đến những chuyện hồ tinh hiện hình thành bướm hay bướm hiện thành các thiếu nữ mà thuở nhỏ cha nàng vẫn kể cho nghe và nàng sờ sợ. Một hôm đi rẽ ra sau vườn chùa, Mùi thấy em ngồi ở trên con đường xuyên qua đầm Cói, yên lặng bên cạnh một khóm xương rồng bị lá bạc thau che kín. Nàng không biết Triết ngồi rình bướm hay ngồi để buồn. Dẫu sao cái thú ra ngồi cả ngày ở những nơi nào vắng người nhất, Mùi vẫn thấy là một cái thú buồn và nàng lo sợ nghĩ thầm:
"Biết đâu không phải là hồ tinh nó quyến rũ, nó hiện thành bướm và nó lấy mất cả hồn."
Nàng thấy nhói ở quả tim khi chợt nghĩ ra trước kia Triết không buồn, em nàng chỉ bắt đầu buồn từ khi bắt đầu chơi bướm.
"Phải rồi, những lúc Triết ngồi yên là lúc bị hồ tinh nó thu mất hồn. Thảo nào mà em tôi nó xanh xao thế!"
Bây giờ có tin Siêu về, những mối lo ngại của nàng về Triết tan đâu hết; anh Siêu học rộng, biết nhiều chắc sẽ có cách chữa cho Triết khỏi cái nạn hồ tinh. Đời nàng sống trong gia đình sẽ hết cả lạnh lẽo.
"Hôm nay rét quá chị nhỉ?"
Mùi giật mình ngồi thẳng lên vì nàng yên trí là Triết đã ngủ say.
"Triết thức đấy à?"
Rồi để khỏi ngượng vì đã bị em bắt gặp mình vuốt ve tóc, làm một cử chỉ có vẻ thân yêu, Mùi nói, hơi gắt:
"Ngủ gì mà cứ để hở cả ngực ra thế này. Rồi lại đâm ho tốn hết tiền thuốc."
Mùi đứng lên về phía giường gấp chăn rồi đi dọn các thứ đồ đạc trong nhà. Triết hỏi:
"Mấy giờ rồi chị?"
"Còn sớm, nhưng hôm nay chủ nhật, hỏi giờ làm gì. Cứ ngủ đi."
Triết thấy mình buồn ngủ nhưng cố chống lại; chàng thích nhất những lúc sực thức giấc mà được có cái thú thiu thiu ngủ lại. Chàng cố kéo dài lúc đó ra và có khi sắp thiếp đi, chàng lại cựa mình, lắc đầu cho hơi tỉnh để rồi lại có được cái thú đó lần nữa.
Qua vải màn, bóng Mùi đi lại trong buồng càng làm tăng thêm cái thú của chàng đương nằm trong chăn ấm, phiêu phiêu đợi giấc ngủ đến. Triết thấy thương chị trời rét thế này mà phải dậy sớm rồi lại phải ra ngoài Xóm Cầu Mới. Cái ý nghĩ ái ngại cho chị, cho tất cả cuộc đời rét mướt ngoài tấm chăn làm chàng cảm thấy rõ hơn và hưởng một cách đậm hơn cái khoan khoái ấm áp nó đương ran ran trong khắp người. Tiếng Mùi lọt vào tai chàng:
"À Triết này. Bác Cai sắp về ở đây."
Chàng định cất tiếng nói "thế à!" nhưng sự tê dại của giấc ngủ làm chàng không đủ sức nói lên thành tiếng. Tiếng Mùi tiếp theo nghe xa hơn:
"Cả anh Siêu nữa."
Tiếng guốc của Mùi nhỏ dần rồi lại có tiếng nói gần như không nghe thấy:
"Vui quá nhỉ."
Triết thiu thiu ngủ nhưng chỉ mới là thân thể chàng ngủ thôi; tai chàng vẫn nghe thấy tiếng guốc của chị tuy chỉ là những tiếng rất nhỏ; ánh sáng ngọn đèn vẫn lọt qua hai mi mắt lim dim và lờ mờ trong ánh sáng Triết vẫn thấy hình dáng thân yêu của người chị thân yêu qua lại trước ánh đèn. Lòng chàng êm êm và nở ra đón lấy một nỗi thương yêu chị dào dạt. Trong đời, chàng chỉ có một người chị như Mùi một người chị hơn cả một người mẹ lúc nào cũng săn sóc tới chàng, trông nom hết cả mọi việc lớn nhỏ của đời chàng. Có chị đây, chàng có thể yên tâm sống, cũng như sáng nay chàng có thể yên tâm nằm hưởng cái thú giấc ngủ êm và hơi chăn ấm: ngoài căn buồng rét mướt kia cũng như ngoài cuộc đời đầy rẫy vất vả, đã có chị lo liệu cả, đã có hình dáng lanh lẹn, hoạt động và những tiếng guốc qua lại mau lẹ, như không bao giờ biết mỏi của người chị đảm đang và chăm chỉ ấy. Chàng cũng chẳng cần ái ngại cho chị vì chị chàng hình như lấy sự làm việc làm vui thích lắm.
"Thì cứ để chị ấy làm việc."
Triết nghĩ thế và định ý mỉm cười nhưng môi vẫn không động đậy. Chàng ngủ thiếp đi lúc nào không biết và lần này thì ngủ hẳn.
Đợi một lúc lâu không thấy Triết nói gì, Mùi về ngồi trên giường để tính sổ đếm tiền. Đếm xong Mùi lấy những đồng bạc cho vào cái hộp đề dành tiền. Vốn riêng của nàng đã lên một số khá cao; bẩy chục bạc tất cả, gói thành từng gói mười đồng một, bọc giấy trắng. Chỉ riêng gói mười đồng của mẹ nàng cho nàng làm vốn trước khi chết là gói bằng giấy đỏ bao giờ cũng đặt giữa những gói giấy trắng trông như một nhị bông hoa. Mùi vẫn thường nói với mọi người: "Độ này sắp phải tiêu đến bạc nhị rồi còn gì nữa" hoặc: "làm ăn vất vả mà chả kiếm được mấy đồng bạc cánh" mặc dầu nàng vẫn biết không ai hiểu bạc nhị, bạc cánh là cái gì cả.
Nàng lại thấy nhói một cái tiếc tiền vì nghĩ đến cái sân gạch.
"Thế là bay mẹ nó mất một cánh, chỉ còn năm."
Mùi mở hòm chân, đặt cái hộp để dành tiền vào trong một cái nồi đất rồi đậy vung lên vì nàng cho kẻ trộm kẻ cướp không bao giờ nghĩ đến lục một cái nồi đất.
Mùi ra vườn sau đánh thức u già dậy rồi rẽ sang chuồng lợn. Nàng ngừng lại ở vườn rau xem chiều hôm qua nàng vui về việc Siêu về, quên không tưới thì u già có nghĩ đến tưới thay nàng không. Nàng thích việc trồng rau cũng như Triết thích chơi bướm; từ việc cuốc đất đến việc tỉa lá, bắt sâu, tưới nước, nhất nhất nàng đều tự tay làm lấy.
"Nếu u già có ý tứ một tí chắc..."
Nàng cúi nhìn xuống đất. Dưới ánh trăng các gốc rau vẫn còn khô nguyên. Thế mà chiều hôm kia nàng mới cấy lại cả một luống cải.
"Chết tôi rồi, ngu đến thế là cùng."
Nàng cất tiếng rối rít gọi:
"U già ơi, u già! U ra ngay đây. Thế này thì thôi... chết cả rồi!"
U già vừa chít khăn vuông vừa đi ra thong thả; thấy vẻ cuống quít giẫy nẩy của Mùi, u nói giọng chậm rãi:
"Ai chết thế?"
Mùi gắt:
"Ai chết. U chết, tôi chết, chết hết cả. Đấy u xem, cải mới cấy lại mà chiều hôm qua u không tưới nước. Chết khô cả rồi. Sao mà ngu đến thế!"
U già cúi xuống nhìn luống rau mới cấy rồi ngửng lên thản nhiên nói:
"Không sao, chưa chết khô."
"Thế sao hôm qua u không tưới. Tôi quên thì u cũng phải có ý tứ một tí chứ. Ngu đâu mà ngu đến thế!"
"Tôi biết thế nào được là cô quên. Cô phải bảo tôi chứ. Thế ai ngu nào."
"Ai ngu? Tôi quên thì còn bảo u thế nào được."
Mùi thấy u già nói ngang phè nhưng mà u nói có lý. Người có ý tứ đến đâu cũng không thể biết được là nàng quên vì cứ yên trí là một lát sau nàng sẽ ra tưới. Câu mắng của nàng thật là vô lý và nàng cũng nhận thấy nàng vô lý ngay từ lúc bắt đầu gắt nhưng nàng cũng cứ gắt. Sự nàng hay gắt u già lâu ngày thành một thói quen, một sự cần nữa. Ở cửa hàng về, Mùi thấy nhà lúc nào cũng yên lặng quá, yên lặng và lạnh như một ngôi chùa. Cha và em đều ít nói. Chỉ có u già với nàng thôi nhưng u già lẩn thẩn nàng biết nói chuyện gì với u ta, thành thử hễ có dịp là nàng gắt mắng u gọi là cãi nhau với u thì đúng hơn. U già vốn là vú nuôi của Mùi nên u cho việc cãi lại Mùi là tự nhiên. Khi có chuyện gì bất bình u hay lẩm bẩm; đối với ông Lang, u nể nên u chỉ lẩm bẩm trong miệng; Triết để mặc u nói nên u cũng không nói dai, chỉ có đối với Mùi hay cãi lại là u nói lải nhải mãi cho tới bao giờ Mùi chịu thua. Thường thường thì Mùi chịu thua, nghĩa là yên lặng hay bỏ đi nơi khác. Còn nhận lỗi với u già thì Mùi không bao giờ nhận. Những lý của u già tuy một vài lần Mùi thấy có vẻ đung đúng nhưng nàng thấy chúng nó đúng một cách ngang ngang thế nào, nàng không thể chịu phục hẳn được. Tuy nhiên lúc nàng không biết rõ là mình có lý ở chỗ nào, nhưng nàng cũng cứ mắng to tiếng hơn để nàng có cái cảm tưởng là mình có lý thật và để u già cũng có cái cảm tưởng ấy. Nhưng u già thì không bao giờ u có cái cảm tưởng ấy vì bao giờ u cũng cho u là phải.
Lần này Mùi biết mình thật vô lý nhưng Mùi cũng cứ gắt thêm:
"Thế sao u không nhắc tôi."
"Không biết cô quên, sao lại nhắc."
"U thì lúc nào cũng nhiều lý sự cùn lắm."
Đấy là câu mà lúc cùng Mùi đem ra để cắt đứt câu chuyện. Nhưng câu chuyện không bao giờ cắt đứt một cách gọn gàng thế vì chính lúc đó là lúc u già lẩm bẩm:
"Quên mà cứ bắt người khác..."
U già đã bắt đầu; bây giờ Mùi đã nhận rõ mình hoàn toàn có lỗi nên nàng không thể chịu được những lời ray rứt của u già. Nàng đổi câu chuyện:
"À này. Bà Cai sắp về đây ở. Hôm qua tôi nhận được thư."
Thấy u già ngửng đầu quay về phía mình Mùi biết là u chú ý đến tin đó lắm, nàng chắc thoát.
"Thế sao cô không cho tôi biết ngay để... bao giờ thì bà Cai đến."
"Chưa biết, nhưng cũng sắp."
"Thế à? Thảo nào mà cô cứ lú gan lú ruột quên cả tưới rau... Đã quên lại còn..."
Thấy u già quay trở lại chuyện trước, Mùi chỉ còn một cách bao giờ cũng hiệu nghiệm là chuồn đi nơi
khác.
"Tôi phải ra hàng ngay, hôm nay phiên chợ. Chốc nữa u đừng quên tưới. Đừng lý sự cùn nữa."
Mùi đi rồi còn nghe từng mẩu tiếng u già sau lưng:
"Mình lơ đễnh mà ...lý sự... ai lý sự thì khắc biết..."
Mùi đi nhanh bước hơn và khi không nghe thấy tiếng u già nữa, nàng mỉm cười. Nàng thấy tuy nàng gắt một cách tức tối nhưng u già cũng biết rõ là nàng không tức gì cả mà u cũng chẳng có tí gì khó chịu; u lại thích nữa vì được có dịp lẩm bẩm hả hê và tự cao là mình phải, cô chủ bị thua. Thế là nàng đã hả được cái tức vì rau cải bị héo và u già cũng thích chí.
Mùi ra chỗ bể gạch múc nước rửa mặt, vào bàn thờ mẹ thay nước cúng và thắp hương rồi chào cha mở cửa đi ra ngoài hàng.
Trong gió từ ngoài sông Hàn đưa lại có thoảng mùi khói; nàng đoán là ở các thuyền chài đậu bến chùa Hàn người ta đã dậy thổi cơm. Mùi đã ra đến bờ sông mới sực nghĩ ra là sáng nay đã đi qua gốc cây thị có ma mà không để ý và rờn rợn sợ như mọi ngày.
Đến chỗ bè lưới của bác Lê thấy có bóng người, Mùi đứng lại nhìn xuống:
"Bác Lê đấy phải không?"
"Thưa cô không. Cháu đây mà."
Mùi cất tiếng vui vẻ:
"À, anh Nhỡ đấy à? Sao lại ngồi đấy."
Yên lặng một lúc rồi Mùi hỏi:
"Rượu?"
Nàng nghĩ đến bác Lê tính nết hiền lành nhưng khi uống rượu say thì đánh chửi vợ con rất thậm tệ.
Tiếng Nhỡ ở dưới đưa lên:
"Vâng, thưa cô, rượu."
Nhỡ nói tiếp:
"Hôm qua cháu kéo xe ở bến Cháy về, đến nhà mệt chết cha chết mẹ thì ở nhà cha mẹ cũng đánh nhau gần chết. Cháu vội chuồn ra đây ngay."
Giọng Nhỡ nói vẫn vui vẻ. Mùi nhìn Nhỡ ái ngại và thầm phục. Từ ngày biết Nhỡ, Mùi chưa thấy Nhỡ buồn hay tức giận bao giờ. Gặp những việc có thể tức chết người thì Nhỡ cũng nói ra là tức lắm nhưng có vẻ như là chỉ nói tức ở miệng thôi. Hai mắt của Nhỡ lúc cười nói thì hai vành môi đều cong lên và hai mép môi của Nhỡ lúc bình thường cũng nhếch lên một tí khiến miệng chàng lúc nào cũng như hơi mỉm cười. Cả gia đình bác Lê người nào cũng xấu xí, chỉ riêng có mình Nhỡ đẹp trai, có lẽ đẹp trai nhất xóm. Cả đến Mùi cũng bắt gặp mình ngồi lặng nhìn ngắm Nhỡ vì nét mặt đẹp và có duyên của Nhỡ.
"Thưa cô, đêm nay dễ được đến bốn năm hào cá."
"Nhiều thế cơ à! Anh Nhỡ."
Mùi cũng thấy vui vì Nhỡ được nhiều cá, nàng bước qua mấy mô cỏ rồi lần đường dốc đi xuống chỗ bè lưới. Nàng đưa mắt nhìn vào vào cái khoang tuy bé nhỏ nhưng cũng đủ chỗ cho một người nằm. Chắc Nhỡ đêm qua đã ngủ trong cái khoang ấy.
Nhỡ từ từ kéo lưới cất tiếng hát:
"Cuộc phù thế nhân sinh..."
Câu ấy không biết Nhỡ học của ai mà Nhỡ cũng không hiểu rõ nghĩa ra sao nhưng hễ có cái gì hứng chí là cất tiếng hát. Lần này chàng hát là vì ngạc nhiên thấy Mùi, cô Mùi xinh đẹp mà chàng vẫn yêu thầm giấu hai ba năm nay, cô Mùi cao quý mà chàng không dám yêu nhưng vẫn cứ yêu cô tự nhiên bỏ đường cái, đi xuống cái dốc gồ ghề rất khó đi kia để đến đứng cạnh chàng mà lại vào giữa đêm hôm vắng người như thế này.
Nhỡ đã kéo lưới lên hẳn khỏi mặt nước.
"Đấy cô xem."
Mùi tiến lên một bước để nhìn cho rõ. Trong cái lưới rộng mênh mông chỉ có một con cá bé bằng cái lá liễu làm cả Mùi cả Nhỡ đều bật cười lên một lúc. Hai tiếng cười vang lên trong đêm thanh làm cho cả hai người đều nhận ra là đứng gần nhau quá.
Con cá đương rẫy rụa tìm đường ra, dưới ánh trăng thân lấp lánh như bạc mới. Nhỡ cũng cố rung rung lưới cho đến khi con cá trôi tuột vào miệng rổ.
Mùi lại đưa mắt nhìn vào trong cái khoang nhỏ, hỏi Nhỡ:
"Chật thế kia mà anh cũng nằm ngủ được cơ à... mà lạnh chết."
"Thưa cô cũng chẳng chết vì cháu còn đây. Nhưng lạnh thì có lạnh cô ạ."
Một sự yên lặng hơi là lạ theo sau hai câu nói vì cả hai người cũng vừa nhận ra câu chuyện ấy có vẻ hơi thân. Bỗng Nhỡ mỉm cười giơ tay với cái điếu cầy nhỏ dắt ở mũi thuyền. Mùi vội nói:
"Muốn chết à!"
Cứ hễ khi nào hút thuốc lào là Nhỡ say lịm đi bất tỉnh nhân sự đến mấy phút; đã có lần ngồi bếp ngã chúi xuống bị cháy cả mảng tóc.
Nhỡ nói:
"Cháu biết hút vào thì "tùng bi li" xuống theo với cá ngay. Cháu chỉ cầm lấy cho đỡ thèm."
Bỗng Mùi giật mình vì thấy Nhỡ đột nhiên gọi:
"À này, cô Mùi..."
Yên lặng một lúc rồi Nhỡ ngập ngừng nói:
"Thôi, cháu chẳng dám nói ra sợ..."
Mùi ngơ ngác nhìn quanh; xưa nay nàng vẫn mang máng thấy Nhỡ đối với mình không phải đối với người thường; nàng biết nàng đẹp nhất xóm mà Nhỡ lại đẹp trai nhất xóm. Vì thế điệu bộ và câu nói ngập ngừng của Nhỡ ở một nơi vắng người làm nàng hơi sợ. Nhỡ nói tiếp:
"Có cô đây cháu mới nghĩ ra. Cháu thèm thuốc lào quá."
Mùi thốt ra một tiếng "à" nhẹ nhõm rồi mỉm cười. Nhưng sao trong thâm tâm nàng lại thấy như hơi thất vọng. Nàng cất tiếng nói to:
"Ý anh định bảo tôi đứng đây nhìn anh chết đuối có phải không?"
"Sao cô nhanh ý thế."
"Nhưng tôi chịu thôi, tôi không biết bơi."
"Cô không sợ. Cháu biết bơi. Cháu sẽ cứu cô."
Mùi bật lên cười vì câu nói ngộ nghĩnh của Nhỡ, nhưng nàng đổi ngay câu chuyện vì nhận thấy nó có vẻ thân mật quá.
"Hễ cứ hôm nào bác Lê say rượu là anh phải ra ngồi lưới suốt đêm thế này?"
"Vâng, vì ở nhà cũng không ngủ được. Ra đây lại được mẻ cá."
Mùi cất bước:
"Thôi anh Nhỡ ngồi đấy mà chịu rét nhé."
"Cám ơn cô, cô ra hàng."
Lúc Mùi đã đi xa, Nhỡ lẩm bẩm:
"Cô Mùi nhà ta sao sáng hôm nay vớ vẩn tệ."
Nhỡ sung sướng đứng nhìn theo Mùi và mỉm cười tinh nghịch. Chàng ngồi xuống bè, dựa lưng vào cửa khoang, duỗi thẳng hai chân, quên cả kéo lưới.
Chàng tự hỏi thầm:
"Không biết tại sao cô ấy lại hỏi thế?"
Câu "hễ cứ hôm nào bác Lê say rượu..." mà Mùi hỏi vô tình lại khiến Nhỡ chú ý đến nhất. Chàng lặng người đi khi đem chắp câu hỏi ấy với câu hỏi về cái khoang chật và những cái đưa mắt của Mùi nhìn vào trong khoang, có vẻ nghĩ ngợi. Chàng cũng không dám chắc và cũng không dám mong như thế nhưng chàng cũng hồi hộp sung sướng. Chàng cất tiếng hát chèo theo giọng than để cho Mùi nghe.

Tiếng Nhỡ hay rất hay; tính người vui vẻ nhưng đến lúc hát thì Nhỡ chỉ thích những điệu than thật buồn. Thỉnh thoảng những đêm có trăng, đợi đến khi đã khuya, mọi người trong xóm đều đóng cửa tắt đèn, chàng ra ngồi một mình trên rễ cây đa rồi cất tiếng than. Tiếng hát theo gió tan vào ánh trăng, lan ra khắp nơi, não nuột ai oán khiến các bà goá chạnh lòng nao nao buồn và các cô con gái đến tuổi dậy thì, vừa lắng tai nghe vừa thở dài, thương nhớ vẩn vơ. Còn Nhỡ, chàng chỉ cốt hát cho Mùi nghe vì một hôm đã lâu, Mùi có hỏi xem ai hát ở ngoài xóm và khi đã biết là Nhỡ hát nàng khen chàng hát hay lắm, nàng đã mải lắng nghe quên cả ngủ. Nhỡ tưởng mình như anh Trương Chi, anh thuyền chài xấu xí mà được con gái nhà quan mê vì tiếng hát. Thế mà chàng, chàng lại không xấu xí.

Sáng nay chàng hát để riêng cho Mùi nghe và để tỏ nỗi sung sướng của lòng mình.
Mùi quặt lên con đường lớn để ra quán hàng. Tiếng những người gánh gạo trên con đường cụt đã thấy vang lên ở xa. Mùi không trông thấy rõ người chỉ thỉnh thoảng thấy lấp lánh ánh trăng trên một hai chiếc nón mới, nhưng nghe tiếng họ, Mùi đoán là đông lắm. Trong khi phố Phủ Lệ ở xa xa bên kia sông còn yên lặng, tối tăm thì Xóm Cầu Mới đã ồn ào tiếng người và lấp lánh ánh đèn cân gạo.
Mùi nghĩ đến những người ở xóm, độ này nhà nào cũng làm ăn khá giả. Sự thịnh vượng chung ấy là do cả mạn sông Hàn về phía bên xóm được mùa luôn, các bà bên Phủ Lệ sang dựng rất nhiều quán cân gạo để đón mua trước của những người hàng sáo. Cả đến nhà bác Lê vừa nghèo vừa hà tiện nhất xóm mà thỉnh thoảng cũng có đĩa tôm đĩa cá trong mâm cơm, lại có cả rượu để uống để vợ chồng đánh đập nhau. Mùi cũng không quên nghĩ đến cái nồi đất đã khá nặng của nàng; giữa lúc này Siêu lại về ở cạnh. Nàng mỉm cười ngửa mặt đón lấy gió lạnh, trong lòng rung động một nỗi vui nhẹ và xôn xao yêu đời, yêu tất cả mọi người.
Tiếng Nhỡ hát sau lưng, ai oán trong đêm trăng thơm mùi lúa, tuy là những câu than mà nàng nghe cũng thấy phiêu phiêu như những lời vui.
Ở ngay cầu đi vào nhà đầu tiên của xóm là nhà bác Lê. Ở cạnh nhà bác Lê là cửa hàng của Mùi. Cửa hàng ấy từ khi bà Lang mất, Mùi thuê để tiện việc buôn bán. Cửa hàng có hai gian: một bên là hàng bán thuốc và rượu bia, nước chanh, một bên là nước chè, bánh cuốn. Ở phía gian bán thuốc có treo một tấm biển vẽ hai con mắt dưới đề:
HIỆU THỌ-ĐƯỜNG
BÁN THUỐC ĐAU MẮT
THUỐC GIUN, THUỐC TẢ
RƯỢU BIA, NƯỚC CHANH
Cái biển ấy là do công trình của Triết vẽ và kẻ chữ. Mấy chữ kẻ dưới tên hiệu đã làm cho Mùi giận em. Triết cho đề như thế thì buồn cười chết, làm như nước chanh và thuốc giun, thuốc tả cũng là một thứ. Mùi thì cứ nhất định bắt em để cho đủ; nàng viện lý:
"Mình bán nó thì mình đề nó. Ở trong hàng mình để được rượu bia gần thuốc giun thì ở biển mình cũng để được chúng nó gần nhau. Sao chú hay kiếm chuyện thế?"
Tiếng nàng lúc nói câu sau cùng đã bắt đầu run run. Không phải nàng tức vì lời nói mỉa của Triết mà chỉ vì thấy Triết đã viện cớ tỏ ra không thích làm một việc mà nàng nhờ. Điều mà nàng vẫn sợ nhất ở đời là bị một người thân yêu làm mất lòng (đối với người không thân nàng không cần lắm). Nỗi sợ đó hình như nàng đã có từ lâu, có lẽ từ hôm đập tay vào cành găng. Vì sợ chỗ đó nên đối với mọi người thân yêu nàng ít khi dám nhờ một việc gì hay có nhờ cũng chỉ khi nào nàng chắc chắn người ấy vui lòng nhận. Một sự từ chối rất nhẹ, một vẻ phiền thoáng qua về một thứ nàng nhờ không có gì quan trọng cũng sẽ làm nàng tủi thân vô cùng và đau khổ như là đã nhận ra mình lầm, người thân yêu ấy không yêu gì mình cả. Nàng đã dặn Triết vẽ đến mười hôm rồi mà vẫn không thấy Triết bắt đầu. Bao nhiêu lần nghĩ đến nàng đã thấy giận ứ lên cổ nhưng nàng không dám nhắc vì nàng sợ nhắc mà Triết vẫn không chịu vẽ thì nàng sẽ không giữ được cáu nữa. Và sẽ có chuyện to giữa hai chị em. Mãi đến một hôm nhân thấy Triết vẽ địa đồ nàng mới làm như chính nàng cũng đã quên việc nhờ em vẽ để có thể nhắc em mà không nổi tức:
"À cái biển của chị. Hôm nay nhân tiện có thuốc vẽ, em vẽ cho chị nhé."
Vì vậy mà những lời nói lý của Triết khiến Mùi tưởng Triết kiếm cớ nọ cớ kia để dằn vặt nàng, báo thù nàng đã bắt Triết phải làm một việc mà Triết không thích.
Triết thì không để ý đến chỗ đó; chàng thấy chị có lý nhưng mặc dầu có lý chàng vẫn thấy câu đề biển ấy buồn cười và những người có học đi qua đọc đến ai cũng phải bật lên cười chế riễu. Chàng thong thả đặt bút chì lẩm bẩm:
"Nước chanh mà để gần thuốc tả, thuốc giun, làm cho người ta nghĩ ngay rằng uống nước chanh của chị thì sẽ tả ngay hoặc sinh giun đầy bụng. Chị không nghĩ thế à?"
"Tôi không thấy gì cả!"
Triết ngước mắt nhìn vì thấy có vẻ hơi khác trong giọng nói và nhất là chữ tôi chị dùng. Thấy chị mắt đã chớp mau và hai môi bắt đầu rung rung, Triết biết là chị sắp khóc nên phải vội vàng cầm lấy bút chì.
"Chú không muốn kẻ thì thôi... thế này là xong!"
Nói xong câu ấy một sự hờn uất mà chính nàng cũng không hiểu vì cớ gì từ ở đâu đến, nhưng từ ở rất xa nổi lên trong lòng nàng, ào ạt lấn át cả lẽ phải. Mùi giằng mạnh lấy tờ giấy rồi trước vẻ mặt đương ngơ ngác và hơi hối hận của Triết, Mùi xé tan tờ giấy làm mấy mảnh, quẳng xuống đất và nằm gục xuống giường nức nở khóc. Triết đau khổ thấy chị tự nhiên lại giận mình đến thế mà mình thì không có gì trái với chị lắm; miệng chàng bất giác lẩm bẩm xin lỗi chị, mặc dầu chàng biết chàng không có lỗi gì cả. Tuy Triết đã xin lỗi, Mùi đã nguôi hẳn giận nhưng cũng đến mấy ngày nàng ngượng không dám nhìn mặt em vì sau khi hết cơn giận nàng lại thấy chỉ có nàng là người có lỗi, đã không nén nổi lòng mình và đã làm em Triết của nàng khổ lắm tuy Triết không nói ra. Cái vẻ hối hận thoáng hiện ra ở nét mặt em khi nàng sắp xé tờ giấy làm nàng bứt rứt nhất; giá nàng nhận thấy sớm một chút thì không bao giờ lại làm khổ em như thế. Nghĩ vậy, Mùi lại thấy thương em hơn; nàng muốn xin lỗi em nhưng đã chậm quá. Bây giờ tự nhiên nàng không thể nhắc lại chuyện ấy để ngỏ lời xin lỗi em được nữa. Nàng chỉ hối tiếc là ngay lúc đó nàng chỉ nghĩ đến việc nhận lời xin lỗi của em mà không nghĩ đến việc xin lỗi em. Mùi nhận thấy mang máng có một mối liên quan gì giữa cái tính hay hờn của nàng bây giờ với việc xẩy ra hôm tiễn Siêu đi, nhưng tại sao lại có liên quan thì nàng không biết. Lúc nàng nói câu: "Thế này là xong" nàng đã thấy có sống qua một lần như thế rồi. Tuy không nhớ rõ hẳn nhưng nàng cũng cảm thấy câu ấy nàng đã nói đến, chính hôm đập tay vào gai và cơn hờn giận Triết, Mùi cũng thấy giống như cơn hờn Siêu, tuy nhẹ nhàng hơn.
Mấy hôm sau, cứ khi nào Mùi buông màn ngủ là Triết bắt đầu lấy giấy, lấy thuốc vẽ ra kẻ biển. Chàng ra công vẽ một con mắt thật đẹp và cố ý để những chữ "thuốc giun, thuốc tả, rượu bia, nước chanh" vào một dòng riêng để chiều ý chị, còn ai muốn cười thì mặc người ta. Rồi một buổi sáng chàng đem biển ra treo ở cửa hàng; lúc Mùi xem biển đọc đến dòng đề thuốc giun, nước chanh, Triết nhếch mép mỉm cười. Mùi cũng nhìn em một cái và mỉm cười theo. Thế là hai chị em đã lặng lẽ làm lành với nhau.
Ở phía bên bàn rượu bia nước chanh có để một cái bàn và bốn cái ghế; trên bàn phủ một tấm vải lúc nào cũng trắng tinh và để một cái lọ thuỷ tinh vằn xanh đỏ, trong cắm mấy bông cúc bằng giấy. Vì sang và sạch sẽ quá nên thỉnh thoảng lắm mới có khách sang trọng ghé qua mới ngồi đấy. Mùi bầy biện thế không phải mong có khách ngồi mà chỉ cốt để cửa hàng có vẻ sang.
Ở gian bên kia thì quang cảnh khác hẳn. Mặc dầu ngày nào Mùi cũng lau rửa rất sạch sẽ chõng ghế, bát đĩa nhưng lò bánh đun củi thì tránh sao khỏi được nhọ nồi, mồ hóng.
Thấy Mùi ra hàng, Bé đương ngồi gần lò bánh vội đứng dậy nhường chỗ. Đã thành cái lệ - tuy không ai bảo ai - là chỗ lò bánh mùa rét thì về phần Mùi ngồi, mùa nực thì về phần Bé.
Trước đây vì bán hàng mỗi ngày một chạy nên Mùi phải thuê Bé con gái bác Lê sang giúp việc và đem bánh sang bán cả bên Phủ Lệ; Bé tuy sạch sẽ nhưng quanh năm đau mắt và vì thế bao giờ trên mắt cũng che cái khăn vải trắng tinh. Mắt của Bé ít người được trông thấy cả hai con một lúc. Nếu con mắt bên phải đỡ hơn thì Bé cài phía khăn bên phải cao hơn để hở một nửa mắt bên phải nhìn, nếu mắt bên trái đỡ thì ngược lại. Mới đầu Mùi bắt Bé luôn luôn tra thuốc của hiệu mình nhưng mãi cũng không thấy đỡ. Mùi nghĩ đến chỗ Bé đau mắt là một cái quảng cáo không hay cho hiệu thuốc đau mắt rất thần diệu của cha nàng. Nhưng nàng tìm ra được một lý cứng, nếu có ai đả động đến nàng sẽ đem ra đáp:
"Nếu không có thuốc của hiệu Thọ-Đường thì mù rồi, còn gì nữa."
Song cũng không có ai đả động vì không ai để ý đến điều đó.
Ngoài đường, bóng mái nhà và bóng lá đa mờ mờ nhạt dần rồi mất đi; ánh trăng đã hoà tan với ánh sáng ban ngày. Có tiếng kẹt cửa ở hiệu tạp hoá bên kia đường. Mùi nghĩ thầm:
"Chậu tóc tiên" sắp ra đánh răng."
"Chậu tóc tiên" là tên Mùi đặt riêng cho ông chủ hiệu tạp hoá Ninh Ký. Ông ấy là khách lai nhưng lai đã ba đời nên mặc quần áo ta; ông ấy đã trên ba mươi tuổi, goá vợ mà chưa có con. Mùi thấy có người nói phong thanh là ông Ninh Ký định hỏi nàng làm vợ. Nàng cười cho việc ông Ninh Ký định lấy nàng là vô nghĩa lý. Ngay từ lúc mở cửa hàng hai năm trước, Mùi đã thấy ông Ninh Ký ngồi sừng sững ngay trước mặt với hai con mắt to và lồi ra, cái mũi tròn và xù xì nằm ở giữa hai gò má rỗ hoa và phụng phịu lúc nào cũng như sắp nhổ; đầu bao giờ cũng đi khăn xếp nhưng ở lòng khăn các tóc bao giờ cũng dựng ngược tua tủa ra bốn bên, cả cái đầu trông như một chậu tóc tiên, còn lá tóc tiên ngắn hay dài là tuỳ khi mới húi hay lâu chưa húi.
Trước kia đầu ông Ninh Ký đối với Mùi là một cảnh vui mắt vì Mùi mới mười sáu mười bẩy và ông Ninh Ký gần gấp hai tuổi nàng nên nàng nhìn ngắm ông ta rất tự nhiên. Nhưng năm ngoái được biết ông Ninh Ký định hỏi mình làm vợ, chưa hỏi chỉ vì nàng đương có tang, thì từ đấy cái đầu của ông Ninh Ký đối với Mùi là một cái tội vạ lúc nào cũng ở ngay trước mắt. Mùi cố hết sức tránh nhìn ông Ninh Ký để ông ấy khỏi tưởng lầm là nàng để ý đến ông; chỉ mới nghĩ đến chỗ ông Ninh Ký yêu mình, Mùi đã thấy ngượng ran cả người. Nhưng ông Ninh Ký lại ngồi ngay trước mặt nàng và nàng cũng lại ngồi ngay trước mặt ông; hết ngày nọ đến ngày kia, tháng nọ sang tháng kia mà cứ phải nghĩ đến việc tránh nhìn một người ngồi lù lù trước mặt, Mùi cho là một cái tội nợ truyền kiếp, một sự hành hình kéo dài. Lắm lúc thật tình nàng muốn cả dẫy phố bên kia bị cháy mà chỉ riêng dẫy phố bên kia thôi - cháy cả hiệu tạp hoá và cháy luôn cả ông Ninh Ký nữa.
Nhưng buổi sáng sớm, còn mờ mờ tối, biết là ông Ninh Ký không nhìn rõ mặt mình, Mùi tha hồ ngắm nghía ông. Ông Ninh Ký đánh răng thì cẩn thận lắm, ông đánh thật nhiều bọt và thật lâu, đánh ngoài răng, trong răng, đánh cả lợi cả môi, có khi Mùi thấy ông ta lè lưỡi ra thật dài và "eo ôi". Mùi thốt ra như vậy ông ta đánh cả lưỡi (có lẽ hôm ấy ông ta quên mang cái nạo lưỡi ra). Đánh xong ông uống một ngụm nước to, ngửa mặt súc ở trong cổ họng y như con gà uống nước rồi ông phun mạnh cho nước toả ra nhỏ và đều, y như rồng phun mưa. Mỗi lần phun ông lại xoay về một phía sân và khi ông trở vào thì cả mặt sân ướt đều. Trước Mùi nghĩ mãi không hiểu tại sao ông ta lại cứ phải ra trước nhà đánh răng, có lẽ ông ta muốn được nhìn mặt nàng. Mãi gần đây nàng mới nghĩ ra ông ta làm thế để sân khỏi bụi. "Cũng là một cách tiện" nàng nghĩ thế và cũng vì thế nàng cho ông Ninh Ký có tính lẩn thẩn.
Ngồi một lúc thì Nhỡ đem rổ cá về ngồi vào ghế hàng của Mùi lật bát nước chè rồi nói:
"Cô bán cho cháu một hào bánh cuốn nhân thịt."
Mùi nhìn Nhỡ ngạc nhiên.
"Anh Nhỡ hôm nay hoang ghê."
"Vâng hôm nay được nhiều cá, phải ăn một bữa cho thỏa thê."
Nói xong Nhỡ cúi mặt húp nước chè nóng không dám nhìn lâu vào hai con mắt của Mùi, hai con mắt mà bây giờ trời sáng nhìn rõ chàng thấy đẹp khác hẳn mọi ngày. Lúc còn ở ngoài lưới Nhỡ đã nẩy ra ý định ăn bánh cuốn, không phải vì tham ăn nhưng chỉ cốt để được Mùi hầu mình trong một lúc, một cái thú mà đặc biệt sáng hôm nay chàng muốn có mặc dầu phải tốn đến hào bạc.
Ngay từ lúc Mùi dọn cửa hàng ở xóm, lúc đó Mùi mới độ mười lăm mười sáu và Nhỡ mười bẩy, tính còn trẻ và bồng bột, chàng đã để lòng mình yêu ngay cô gái ít tuổi, xinh đẹp và đảm đang ấy, không nghĩ ngợi xa gần. Mỗi lần sang bên cửa hàng được Mùi mỉm cười với mình hay có cử chỉ gì tỏ vẻ săn sóc đến mình đôi chút là Nhỡ sung sướng cả ngày. Nhưng hết năm nọ qua năm kia, Nhỡ càng lớn tuổi càng nhận thấy rõ sự cách bức giữa chàng, một anh phu xe và Mùi, cô con gái một ông Lang, cháu một cụ cử; tuy mới có Bé sang ở nhưng chàng cũng thấy rõ Mùi đứng vào địa vị một cô chủ mình. Nhỡ thấy Mùi đối với mình một cách quá tự nhiên; chắc nàng cũng chỉ coi mình như một người đầy tớ không sợ ai dị nghị. Nhưng trong mấy năm nay thấy Mùi cư xử với mình rất tử tế, hễ có dịp là cho tiền mình một cách rộng rãi khác thường, Nhỡ cũng biết là Mùi có cảm tình ngầm với mình. Chàng cũng tự biết mình đẹp trai, có duyên và có khi cũng thấy Mùi nhìn mình một lúc lâu, mắt có vẻ khác lúc bình thường và vì thế chàng mới nuôi cái hy vọng được Mùi yêu lại. Chuyện con nhà thuyền chài lấy công chúa ít khi xẩy ra nhưng ít khi nghĩa là cũng có khi xẩy ra.
Nhỡ ăn thong thả ngẫm nghĩ đến cái ngon của những chiếc bánh thơm nóng mà Mùi lấy dần ở trong quả hấp ra, tự tay nàng đặt vào đĩa của chàng. Mỗi lần mở quả hấp một làn hơi trắng lại phào qua khiến Mùi nheo một bên mắt, nghiêng đầu để tránh hơi nóng. Ngồi gần lò sưởi đôi gò má của Mùi hơi phớt hồng. Thỉnh thoảng qua làn hơi trắng, Nhỡ lại thấy nàng yên lặng nhìn ra ngoài và mỉm cười. Nhỡ đã quen nhìn nàng lâu ngày nên bất cứ một cái gì đặc biệt trong cử chỉ của Mùi chàng đều để ý mà để ý nhất là cách cười hay mỉm cười của nàng. Bao giờ cũng vậy, trước khi mỉm cười, hai mắt Mùi cũng long lanh sáng, hai hàng mi hơi rung rung như báo trước cái cười rồi nét cười mới lộ hẳn ra trên môi. Sáng hôm nay tuy Mùi nhìn đi chỗ khác mỉm cười và vì cớ gì sáng nay nàng lại mỉm cười luôn thế, Nhỡ không rõ nhưng Nhỡ cũng thấy bàng hoàng như là được Mùi mỉm cười với chính mình.
Bỗng Mùi cất tiếng reo to:
"Ơ hơ, bà "chủ nhật trình"! Bà đi đâu về sớm thế, vào xơi bánh cuốn nóng đã, mới có cà cuống ở Hà Nội về."
Mùi nhận thấy tiếng mình chào mời bà Ký Ân có vẻ mừng rỡ khác hẳn mọi lần và chân thật mừng rỡ. Đã từ lâu nàng không ưa gì bà Ký Ân và sáu cô con gái của bà ta tuy hai bên vẫn đi lại giao du như thường, nhưng sáng nay chợt thấy bà Ký Ân nàng nghĩ ngay đến việc hỏi bà ta xem ở đâu có nhà cho thuê vì vậy nàng chân thật mừng rỡ. Bà Ký Ân thì chắc biết và nếu bà ta không biết thì chắc chắn là không có nhà.
Nhìn thấy hai môi bà Ký bắt đầu động đậy, Mùi biết là bà ta sắp nói:
"Con này đi đánh tổ tôm suốt đêm về đây. Nào có bánh cuốn thì cho ăn mấy cái. Nhà mẹ Lục kiết bỏ mẹ. Đánh tổ tôm suốt đêm mà chẳng có gì dính răng dính lợi".
Bà Ký Ân vì nặng tai nên bao giờ cũng nói to như mắng vào mặt người ta. Tuy bà ta không biết đọc và không biết viết chữ nhưng không một việc gì xẩy ra ở vùng quanh đấy, không một tin gì quan trọng đăng báo ở "tận Hà Nội" mà bà ta không biết rồi bà ta đi la cà hết nhà nọ đến nhà kia kể lại cho mọi người nghe. Vì thế người ta gọi bà là "bà chủ nhật trình" và lâu ngày tên ấy át cả tên thật. Thấy người nào nghe bà kể cho tin gì lạ mà tỏ vẻ ngạc nhiên khâm phục thì bà ta lấy làm sung sướng và bao giờ cũng thưởng cho người kia bằng một câu riếc:
"Người trần mắt thịt ơi!"
Lúc bà ta nói thì cả mặt bà là một bức tranh hoạt động và hoạt động nhất là vành môi dưới. Trong khi vành môi trên yên tắp và ngậm chặt lấy hàm răng trên thì vành môi dưới uốn éo đủ chiều: lúc thì chìa hẳn ra phía trước, lúc lại uốn cong hẳn vào phía trong, lúc thì chếch chếch xuống mép phải để hở cả răng lợi, lúc lại chếch sang bên trái, có lúc cong xuống cả hai bên mép nhưng ở giữa lại còng lên; chưa nói thì cái môi dưới đã bắt đầu động đậy và nói xong rồi nó cũng còn quằn quại một lúc mới yên.
Nhỡ đứng lên nhường chỗ cho bà Ký Ân, rồi đi ra phía sau nhà, chỗ có ổ rơm của Bé. Chàng bảo Bé xách rổ cá về nhà, với cái điếu cầy kéo một hơi dài rồi nằm xuống ổ rơm. Ban ngày khi nào cần ngủ thì Nhỡ ngủ ở đấy vì có chăn ấm và yên tĩnh. Nhỡ nằm thẳng nhìn sợi tơ nhện đen mồ hóng rủ trên mái nhà gió đưa đi đưa lại. Suốt một đêm kéo lưới, chân tay mệt mỏi của chàng được đặt trên ổ rơm, chàng thấy êm ái lạ thường. Một lúc sau chàng ngủ đi lúc nào không biết. Ánh nắng chiếu vào chỗ Nhỡ nằm và in những vòng tròn ánh sáng mờ tỏ trên mặt chàng. Nhỡ nằm mê thấy mình đương kéo lưới, nặng trĩu cả hai tay và trong lưới không biết bao nhiêu là cá vàng cá bạc lấp lánh hoa cả mắt. Trên bờ có một cô công chúa đương nhìn chàng kéo lưới và mỉm cười luôn. Cô công chúa phảng phất giống Mùi.
Ở ngoài hàng tiếng bà Ký Ân vẫn oang oang:
"Rõ tội nghiệp ông Năm Bụng đêm qua. Có tây đoan sang khám ở phố Phủ ông ấy đã vất cả nồi rượu xuống sông."
Mùi ngạc nhiên vì chính nàng ngồi đây nàng không biết; bà Ký Ân ở trên phố Phủ mới về làm sao bà biết được.
"Bà vừa lại ông Năm Bụng?"
"Không tôi vừa về đến đây."
"Thế sao bà biết?"
"Ấy thế."
Mùi hỏi nhưng nàng không đợi câu trả lời vì bà Ký Ân không bao giờ nói ra tại sao bà lại biết được tin nọ tin kia.
"Bà biết bên phố Phủ ở đâu có nhà cho thuê hay để lại không? Ở xóm này thì chắc là không có."
Biết đó là một điều kiện của bà Ký để bà mách nhà nên Mùi phải nói rõ duyên do; vả lại cũng không phải là một tin cần phải giữ bí mật. Bà Ký chăm chú nghe; thế là tự nhiên bà biết được một tin mới, chắc chưa ai biết. Bà Ký ngồi nghe nhưng cũng không quên gắp bánh ăn luôn miệng. Lúc ăn bà không cho bánh vào trong miệng mà lại đặt nó lên cái môi dưới đã chìa sẵn ra đợi rồi hai môi bà đớp đớp và cho dần vào y như một con thỏ ăn lá rau. Trong khi nhai, cái môi dưới cũng uốn éo như khi bà nói.
Mùi nói chuyện nhưng cũng không quên mỗi khi bà ta ăn xong một chiếc bánh thì lại đặt ngay một chiếc khác vào đĩa bà ta.
Bà Ký nghe xong, ăn nốt chiếc bánh ở đĩa rồi nói:
"Người trần mắt thịt ơi! Mở mắt ra mà nhìn sẽ thấy nhà. Mở tai ra mà nghe thì sẽ có nhà."
Rồi bà cúi đầu ghé vào tai Mùi nói thầm. Mùi nghĩ không cần phải mở tai vì bà Ký nói thầm mà cũng nói to hơn người khác nói thường.
"Hai Vinh bán củ nâu ấy mà. Củ với kiếc gì lão ấy. Hắn vờ buôn để đến đây ở với vợ bé. Bây giờ vợ cả nó biết tin rồi, chỉ dăm bữa nửa tháng là nó đến kéo chồng về quê. Nhà đấy chứ đâu."
Mùi mừng rỡ vì đã thấy có nhà, nhà ở ngay Xóm Cầu Mới mà giá thuê chắc lại rẻ. Đã biết được điểm cần biết nàng chỉ mong bà Ký đi ngay khỏi cửa hàng để nàng chạy qua báo tin cho cha yên tâm. Nhất là nàng lại vừa nhớ ra là đã quên bẵng không để tiền ăn quà cho Triết. Mỗi ngày, Triết có hai xu ăn quà ở trường học, ngày thứ năm chủ nhật nàng đưa nhiều hơn để em đi chơi xa bắt bướm. Nàng phải về vì nếu nàng quên thì Triết không bao giờ ra cửa hàng xin tiền cả. Nhưng bà Ký Ân thì vui miệng cứ ngồi nói chuyện mãi. Sau cùng Mùi vui mừng thấy bà ta đứng lên cho tay vào túi áo cánh lấy tiền:
"Ấy chết làm thế nào bây giờ; chúng mình mải nói chuyện thành ra không biết bao nhiêu bánh tất cả."
Mùi mỉm cười vì chữ "chúng mình" dùng không đúng, nàng thì nàng nhớ đếm bánh lắm.
"Bà không lo, cháu đếm. Tám chiếc, hào hai bà ạ."
"Nhiều thế cơ à? Đồ ăn tham."
Bà Ký trả tiền, lấy miếng trầu ăn rồi đi ra cửa nhưng bà lại quay trở vào ngay và môi lại bắt đầu uốn éo. Mùi sợ lắm vì bà Ký nhiều lần ngồi nói chuyện rất lâu, đã nói hết cả chuyện, đứng dậy đi rồi lại quay trở lại vì tìm ra được một câu chuyện mới và đứng nói lâu hơn lần ngồi trước. Mùi cũng hay nói nên Mùi sợ nhất là những người hay nói, nhất là những người đó lại là những người nàng phải kính trọng không dám ngắt lời. Nàng nói thì nàng không thấy mệt nhưng cứ phải chú ý nghe... thỉnh thoảng phải gật đầu tán thưởng, hoặc điểm những câu nói đệm hay mỉm cười ngượng ngạo, về những câu không có gì đáng cười, Mùi thấy mệt vô cùng; tức nhất là cứ chịu khó nghe cho xong câu chuyện ấy là chắc thoát (dựa vào một vài cử chỉ rất rõ ràng) nhưng rồi lại phải nghe thêm một câu chuyện nữa, thất vọng vài lần mới thoát hẳn. Bà Ký nói:
"À tối hôm qua cụ Hường đuổi thằng Minh hầu trà vì nó ăn cắp một chai rượu tây uống say tuý luý càn khôn mà còn đánh vỡ luôn cả cái lọ lộc bình cổ. Cái lọ cổ Khang Hy ấy..."
Mùi lo sợ vì bà Ký Ân chắc lại kể cho nàng nghe sự tích cái lọ cổ ấy, ai biếu cụ Hường, vì sao mà biếu; sự tích mà bà Ký đã kể cho nàng nghe một lần rồi. Nhưng nàng ngạc nhiên thấy môi bà ấy rung rung rồi yên hẳn. Bà Ký có vẻ suy nghĩ, bà vừa nhớ ra bà đã kể cho Mùi nghe rồi; bà ta không chắc chắn lắm nhưng trong khi nghi ngờ bà ta thà thôi còn hơn vì bà rất sợ kể một chuyện gì hai lần cho một người nghe. Bà nhìn Mùi:
"... Cô đã biết chuyện cái lọ ấy rồi mà."
Mùi vội gật, bà Ký ngoe nguẩy đi, lấy hai tay tự đập vào mông mấy cái làm như mình đuổi mình.
"Thôi cút đi, cút đi, con nỏ mồm ơi!"
Mùi đứng nhìn theo khẽ lẩm bẩm:
"Ừ phải đấy, cút đi, nỏ mồm lắm."
Tuy nói thật khẽ nhưng nói xong nàng cũng giật mình. Bà Ký điếc nhưng lại có khi hiểu được cả những câu nói rất khẽ (Mùi không hiểu là người điếc có thể nhìn môi đoán được vài câu ngắn), Mùi sợ nhưng lại yên tâm ngay vì nàng nhìn lưng bà ta không có gì thay đổi.
Mùi gọi Bé trông hàng thay rồi cắp hộp tiền chạy về nhà báo tin. Ông Lang đương ngồi chọn thuốc với u già thấy con gái về đột ngột lại thở hồng hộc, tay ôm hộp tiền, ông giật mình lo sợ.
"Cháy nhà à?"
Mùi vừa thở vừa mỉm cười, cho cha khỏi lo.
"Con đã thuê được nhà rồi, thầy ạ (nói đến đấy nàng chợt để ý đến u già nhìn nàng). Nhà Hai Vinh củ nâu, có hai đồng một tháng, rẻ quá (sao u già lại cứ nhìn nàng như thế)".
Nàng nói ngay là đã thuê được hẳn nhà và kể cả tên chủ nhà và bịa cả số tiền thuê để ông Lang chắc bụng là việc ấy đã giải quyết xong hẳn rồi; trong người nàng nhẹ nhõm hẳn. Nàng mỉm cười một mình vì nhận thấy rằng việc báo tin không có gì gấp nhưng nàng cần phải nói ngay mà cần phải nói ngay như thế không phải để cho nàng được yên tâm sớm hơn mà chỉ vì nàng thấy để việc ấy chậm lại lúc nào thì nàng cứ dấm dứt khó chịu trong người lúc ấy. Lúc qua mặt u già nàng thấy u già lẩm bẩm:
"Đã biết ngay mà."
Nghe câu ấy Mùi hiểu ngay tại sao u già lúc nẫy lại cứ nhìn nàng và bĩu môi: u thì u cho nàng chỉ vờ vờ vĩnh vĩnh để về nhà bắt chộp u nếu u quên chưa tưới rau.
Nàng đi thẳng ra đứng cạnh Triết:
"Triết à. Chị đã thuê được nhà cho bác Cai, may quá. À hôm nay Triết có đi chơi đâu không?"
"Có, hôm nay em đi xa, không về nhà ăn cơm trưa."
Mùi suy nghĩ chưa biết đưa Triết bao nhiêu và nàng cũng chẳng bao giờ biết đưa Triết bao nhiêu là vừa cả. Đã có lần, quen thói hay tính toán của mình, Mùi có hỏi về sự chi tiêu của Triết hơi kỹ thì nàng thấy em tỏ ý khác; số tiền nàng cho em đến chiều về nàng thấy vẫn còn để nguyên trên bàn. Nàng khổ lắm vì mới có một tí thế mà Triết đã dỗi nhưng nàng cũng cố nén lòng nói thản nhiên như không thấy gì cả:
"Này Triết để quên tiền."
Nàng thấy Triết ngần ngừ một lát rồi đứng dậy bỏ tiền vào túi:
"Em quên."
Từ hôm ấy Mùi cứ đưa tiền mà không bao giờ hỏi nữa nhưng Mùi không biết rõ Triết tiêu những gì; đưa ít quá thì Mùi sợ em thầm chê ít mà đưa nhiều quá lại sợ em tiêu phí mà nàng cũng tiếc tiền thành thử nàng phải dùng cái lối đưa thất thường cho khỏi thành lệ, lúc nhiều lúc ít không chừng.
Mùi mở hộp lấy ra hai hào đặt ở thành bể:
"Em cầm lấy mà tiêu, hôm qua chị được món lời."
Chưa bao giờ trong một ngày nàng đưa em nhiều thế để tiêu vặt. Nhưng vì có cái mừng nhận được tin Siêu sắp về nên nàng không mảy may tiếc tiền. Nàng thấy Triết đưa mắt nhìn hai hào bạc rồi nói khẽ, mặt vẫn cúi xuống:
"Chị cho em thêm hai hào nữa."
Mùi ngạc nhiên nhìn em rồi sợ em hiểu lầm là mình ngạc nhiên vì khó chịu, nàng mở hộp, mở vội vàng lấy ra đồng hào ván đặt xuống thành bể. Nàng nhận ra là nếu Triết có xin thêm năm hào hay một đồng nàng cũng đưa ngay, không chút tiếc rẻ mà lại vui sướng nữa. Cái vẻ rụt rè của Triết lúc xin thêm tiền (một việc chưa bao giờ có) đã tỏ ra cho nàng rõ là Triết đã cần đến tiền như thế là em nàng tất phải có một thú vui riêng, mặc dầu nàng không biết thú vui ấy thuộc loại gì mà nàng cũng không bao giờ hỏi em cho biết rõ.
Thực tình nàng cũng muốn ra qua vườn rau xem luống cải, nhưng vì u già đã có ý nghĩ nàng, nếu ra vườn sau tất sẽ tỏ ra là u già hoàn toàn nghĩ đúng mà nàng chỉ hoàn toàn vờ vĩnh.
Đợi đến lúc ra đến cổng, nàng mới quay mặt vào nhìn u già, mỉm cười và nháy u một cái.
Chương II
Nhà bác Lê
Sáng sớm hôm đó, cả gia đình bác Lê cũng đã dậy. Vì công việc bác Lê gái sáng nào cũng phải dậy thật sớm, nhưng bác lại bắt cả những đứa con nhỏ tuổi của bác phải dậy một lúc với bác mặc dầu chúng nó không có việc gì. Bác vẫn nói:
"Như thế cho chúng nó quen đi, khỏi lười."
Sáng hôm nay cả nhà lại dậy sớm hơn mọi sáng. Chiều hôm trước, bác Lê trai có người mời đi uống rượu. Lúc thường bác rất hiền lành nhưng lúc say rượu bác có cái thói xấu là đánh chửi vợ con. Cả nhà đêm qua bị một trận lục đục phải thức khuya quá, nên bác Lê gái lo phấp phỏng chỉ sợ ngủ trưa lỡ cả mọi việc. Vừa chợt tỉnh, bác vội châm đèn con, đánh thức các con dậy mặc dầu không biết lúc đó là mấy giờ; vả lại có trăng nên bác yên trí là trời đã tờ mờ sáng.
Bác tung chăn của Thêm và Nữa, hai đứa con sinh đôi mới lên bốn tuổi và vứt chăn ra thật xa. Vì hà tiện quần, bác Lê gái bắt chúng nó ngủ truồng; khi mẹ tung mất chăn, chúng nó không biết làm gì hơn là ngồi dậy xếp bằng tròn trên ổ rơm còn nóng hơi người cho ấm mông, hai tay thủ vào bọc. Út vì con gái, lại lớn hơn nên không phải ngủ truồng và là con gái yêu nhất của bác Lê gái, nên được ngủ chung với mẹ. Cả nhà chỉ có Thêm, Nữa và Thôi được đắp chăn nghĩa là đắp mấy cái bao tải cũ khâu lại với nhau, thực ra lạnh hơn chiếu nhưng có cái tiếng là ấm vì có thể gọi nó là cái chăn.
Bác Lê gái cốc đầu Út một cái; bao giờ bác cũng đánh thức Út bằng cách ấy, được cái Út có nhiều tóc độn đầu nên không thấy đau. Bác không bao giờ đánh con nhưng bác hay cốc đầu chúng nó bất cứ chúng có lỗi hay không có lỗi gì và bất cứ lúc nào bác tức mình hay có cái gì thích chí. Lũ con bác thật đã khổ sở rất nhiều về cái tính ấy; chúng nó cho là mẹ cầm roi đánh còn hơn, đau tuy có đau nhưng đánh roi phải đánh ra trận, không dễ dàng như cốc đầu. Chính cái cốc đầu chúng không sợ lắm nhưng chúng khó chịu vì lúc nào cũng nơm nớp như người đi ngoài trời bão, trên đầu sấm sét đùng đùng mà không biết lúc nào sét bổ xuống đầu mình. Chỉ có Thôi chưa đầy tuổi tôi và các thóp chưa liền xương nên chưa bị bác cốc đầu.
Bác Lê hiện có tất cả tám người con còn sống, nhưng đã đẻ bao nhiêu lần rồi thì đến bác, bác cũng không nhớ nữa. Đã bao lần vì nhà nghèo quá bác định cai đẻ nhưng vẫn không cai được. Đẻ đến lần thứ chín thứ mười bác nhất quyết cai nên đặt tên đứa bé là Út để tỏ ý ấy. Nhưng chỉ vài năm sau, bác lại đẻ thêm hai đứa sinh đôi và vì thế đặt tên chúng là Thêm và Nữa. Rồi đến đứa bé sau cùng nhất bác đặt tên nó là Thôi vì lần này nhất định thôi.
"Già rồi còn gì, muốn đẻ cũng không đẻ được nữa."
Đưa mắt sang góc nhà bên kia, bác thấy chồng cũng đã thức giấc, nằm yên quay mặt về phía bác. Bác Lê trai thấy vợ nhìn, bác cũng nhìn lại một lúc nhưng bỗng vụt nhớ ra cái lỗi mình tối hôm trước bác vội quay mặt đi nhìn thẳng lên mái nhà. Bác Lê gái đã hết tức chồng về việc xẩy ra đêm qua; thấy chồng không dám nhìn mình, có vẻ ngượng ngập hối hận, bác cũng hơi chạnh lòng thương. Tuy hết tức nhưng không bao giờ bác làm lành trước. Bác nhìn xuống đứa con đương bú nói nựng:
"Cả nhà chỉ có một mình bé là no thôi."
Bác nói bóng nhắc đến việc đêm qua cả nhà phải nhịn đói vì bác Lê say rượu. Lúc thường bác không dám mắng chồng bao giờ vì biết chồng hiền lành nhưng hay cục và nhất là lúc có lỗi lại dễ cáu hơn lúc thường. Bác chỉ nói cạnh và cho thế là một cách phạt chồng thấm thía hơn.
Tý, đứa con lên chín của bác cũng đã tung chiếu ngồi dậy vì sợ mẹ đến cốc đầu đánh thức. Đầu nó mới nhờ bác Thảo cạo sáng hôm qua nên trông nhẵn bóng và trắng như cái sọ đầu lâu. Sáng nay dậy, Tý thấy có cái gì khang khác mọi ngày. Nó ngồi ngẫm nghĩ một lát rồi sực nhớ ra là cái đầu mới cạo và lúc đó nó mới bắt đầu thấy lạnh ở đầu, ở gáy.
Tý hít hít cái mùi thơm của nhân thịt xào từ ở bên cửa hàng bánh cuốn của cô Mùi thoảng đưa sang. Cái mùi quen thuộc ấy sáng hôm nay nó thấy thơm ngon hơn. Tý nuốt nước dãi và nghếch mũi hít mạnh một cái dài. Tý lại nghĩ ra một điều nữa là hôm qua nhịn cơm tối và Tý bắt đầu thấy đói bụng. Nó tưởng tượng giá lúc này được ăn một chiếc thôi, ăn ngập đầy mồm, nhai qua rồi nuốt đến ực một cái... nghĩ thế Tý cũng nuốt đến ực một cái, rối há miệng thổi hắt ra như là đã có cái khoan khoái ăn xong chiếc bánh cuốn thực. Nhưng ăn giả cách xong, Tý lại thấy mình thèm hơn. Tý bò đến cạnh mẹ, xem em bú, sữa ứ ra thành một viền trắng quanh môi. Vì Tý đói nên Tý thấy em bé bú vội vã và ngon lành lắm. Tý ngắm nghía đứa bé và ngẫm nghĩ Tý hay có tính ngắm nghía và ngẫm nghĩ luôn rồi Tý tìm ra và nói to:
"Nó bú chùn chụt y như một con lợn ăn cám."
Bác Lê gái sực nhớ ra điều gì giơ tay cốc vào đầu Tý một cái:
"Ông tướng! Có ra nhà sau cho lợn ăn cám không. Mày không nhắc thì tao quên mất. Thằng Nhỡ hôm nay đi vắng."
Bác Lê gái ghét Tý nhất nhà vì bác cho nó có tính dở hơi, đãng trí, làm việc gì cũng không nên thân và nói ngớ ngẩn.
Tý giơ tay lên xoa đầu rồi đứng ngay dậy đi về phía cửa, nhưng tới cửa Tý ngừng lại. Nó vừa nhận ra là trời chưa sáng. Xuống chuồng lợn phải đi qua gốc cây đa, nổi tiếng trong bọn trẻ con là có nhiều ma, và có những bình vôi trông như những cái sọ người treo lủng lẳng mà Tý lại sợ ma hơn cả sợ mẹ. Trời sáng trăng có chỗ tối chỗ sáng Tý càng sợ hơn vì nó cho là có ánh trăng thì ma có thể trông thấy nó. Tý quay trở vào:
"Trời chưa sáng, bu ạ."
Bác Lê gắt:
"Trời sáng rồi."
Tý quay ra một lúc rồi lại trở vào:
"Lợn còn ngủ bu ạ."
"Nó ngủ thì đánh thức nó dậy. Đồ lười!"
Hai tiếng "Đồ lười" Tý không biết mẹ chỉ vào lợn hay chỉ vào mình. Bỗng nó thấy mẹ trợn mắt và giơ tay lên:
"À thằng nói láo, mày chưa ra khỏi cửa mà dám bảo là lợn còn ngủ. Thằng chết tiệt."
Tý đành đi ra vì lần này mà quay trở vào nữa thì không sao tránh khỏi một trận cốc đầu cũng ghê sợ như ma quỷ.
Gió lạnh mà Tý cũng không thấy rét. Nó đi khỏi được qua gốc cây đa là đã sợ đến nỗi tưởng như cả người nó không có nữa, chỉ còn lại một quả tim đập thình thình. Mấy con lợn thấy động, biết có người đến cho ăn, hình hịch chạy ra. Tý trong lúc không còn hồn vía, nghe tiếng hình hịch cho ngay là tiếng ma, sợ dựng ngược tóc gáy (mặc dầu gáy nó không còn một sợi tóc nào) vội quay trở lại, chạy thẳng về nhà. Thấy có ánh đèn và có bóng người nó hoàn hồn nhưng lại thấy mẹ đương quắc mắt nhìn ra, nó cười gượng gạo rồi vừa thở hổn hển vừa nói:
"Lợn nó dậy rồi bu ạ."
"Ừ thì nó dậy rồi. Xuống cho nó ăn. Thằng ngớ ngẩn."
Mấy tiếng "thằng ngớ ngẩn" lần này Tý thấy rõ ràng chỉ vào mình. Tý lại đành ra nhưng xuống chuồng lợn thì nó không dám xuống nữa; ngay như đứng ở gần cửa, xoay lưng ra phía chuồng lợn mà nó cũng đã thấy lành lạnh sợ ở sau lưng. Tý vừa nghĩ ra tiếng hình hịch lúc nẫy có lẽ là tiếng lợn chạy, nhưng nghĩ thế chỉ cốt đứng đấy cho khỏi sợ thôi. Tý đi lần qua chỗ cửa sổ nan rồi ghé nhìn qua khe cửa vào những người ở trong nhà và cách ấy làm cho nỗi sợ của nó bớt chút đỉnh.
Một lúc lâu, Tý mừng rỡ thấy mẹ đã đưa Thôi cho Út bế, ra cóng đong gạo. Mẹ nó sắp xuống bếp thổi cơm mà bếp lại ở cạnh chuồng lợn; Tý hết cả sợ và chạy vụt một mạch ra chuồng lợn. Nó đổ nồi bèo cám nấu hôm qua vào cái ang cho lợn ăn rồi đứng đợi mẹ nó đến. Nhìn cái ang còn đầy cám nó nghĩ cách nói để mẹ khỏi ngờ là nó vừa mới xuống:
"Bu ạ, hôm nay lợn nó lười ăn."
Bác Lê giật mình đến thót một cái, hoảng sợ như là có người báo tin một đứa con bác chết hay là hơn thế nữa, lợn mà lười ăn rồi toi thì phải nhịn đói trả nợ cả năm không hết. Bác chạy vội đến chuồng nhìn vào: ba con lợn đang chúi mũi vào cái ang, chen nhau ăn lấy ăn để. Bác không để ý đến cái ang còn đầy cám, bác chỉ cáu Tý đã cho bác một mẻ sợ. Tý thì cứ yên trí là vì cái ang còn đầy nên bị mẹ cốc; nhưng tại sao mẹ nó lại cốc cho nó luôn hồi một cách tức giận, hằn học hơn mọi lần, Tý ngẫm nghĩ xem vì sao chỉ cho lợn ăn chậm một tí mà bị mẹ giận đến thế nhưng Tý ngẫm nghĩ mãi không ra. Nó đành xoa đầu đi vào trong nhà để dọn dẹp. Bác Lê trai tung chiếu ngồi dậy, bác với cái điếu cầy nhưng tìm đến thuốc lào thì thuốc lào hết, bác cất tiếng gọi:
"Nhỡ ơi!"
Tý đương xếp chiếu ngừng lại, ngạc nhiên:
"Thưa thầy, anh Nhỡ hôm qua không về."
"Thế à?"
Bác thất vọng, cố vét những thuốc vụn cho vào điếu, kéo một hơi mạnh rồi với khăn đi ra phía bờ sông rửa mặt. Bác đi còn chập choạng say, người hơi mệt nhưng mệt một cách phiêu phiêu dễ chịu.

Bác thích uống rượu đã lâu nhưng bác không nghiện. Bác không nghiện không phải vì bác muốn thế; nếu không có cái thói đánh đập vợ con thì chiều nào bác cũng uống vì ở đời bác chỉ có ba cái thú: về thăm làng, uống rượu và ăn của ngon. Giá chiều nào bác cũng được uống rượu và ăn của ngon thì có lẽ cũng khuây khoả được đôi chút tất cả những lo phiền vất vả của một cuộc đời nghèo kéo dài hơn hai mươi năm trời. Ăn của ngon thì bác không dám màng tới vì đắt quá, vả lại bác cũng không yên tâm ăn một mình trong khi cả lũ con đông đúc của bác phải nhịn thèm. Rượu thì rẻ, chỉ một cút bác cũng đủ say rồi; chiều nào cũng uống một cút với mấy củ lạc rang, thế thôi, nhưng cái ao ước đơn giản ấy cũng không được thỏa mãn.

Mỗi khi bác uống rượu vào bác thấy trong người khoan khoái và càng uống càng khoan khoái hơn cho đến khi bác tưởng là bác mê thiếp đi và khi tỉnh rượu bác không nhớ lại là mình đã làm những việc gì. Cả những lúc chửi con, bác cũng chỉ nhớ lại là có đánh chửi nhưng đánh ai, đánh ra làm sao thì bác chỉ nhớ một cách rất mơ màng như là chuyện xẩy ra trong một giấc chiêm bao. Sáng hôm sau thấy vợ sứt mảng da ở trán hoặc thấy con bầm tím cả mặt, bác mới nhận rõ cả sự thực ghê sợ và thương vợ con. Uống rượu ở nhà thì khổ đến vợ con mà bác yêu quý, đi nơi khác uống đợi tỉnh hãy về nhà thì ai dám chứa một người say như thế.
Nhưng chừa thì bác vẫn không chừa được: những lúc thèm bác Lê đi la cà các nhà quen để tìm dịp uống nhưng dịp ấy cũng hiếm lắm vì ai cũng sợ bác Lê gái trách móc. Còn mua rượu uống vụng thì cả vùng ấy không ai dám bán. Hôm qua được uống rượu ở nhà cụ Hường cũng là do bác định tâm: hôm kia cụ Hường cho gọi bác chữa lại cái giàn hoa nhưng biết hôm qua nhà cụ mừng thọ, bác để chậm lại một ngày mới tới.
Bác Lê ngồi xuống bờ sông. Bác gật gù luôn mấy cái rồi ngẩn người ra một lúc:
"Bữa cỗ ngon quá. Hừ mình được uống rượu tây. Được ăn yến."
Bác chép miệng há môi như đương lấy làm lạ trong đời sao có cái may ăn một bữa cỗ sang như thế, bác một người cùng đinh trong xã hội. Có một món trông như tép bưởi, chắc là yến. Thảo nào mà ngon ghê. Bác người nhà lại lấy trộm một chai rượu tây ở bàn thờ, để giấu ở gậm phản rồi bảo bác và những người cùng mâm:
"Rượu tây đấy. Cứ uống đi không sợ."
Bác thì bác sợ lắm nhưng muốn nhắp một tí cho biết mùi. Nhắp một tí bác lại đưa chén uống thử thêm tí nữa và càng thử cái sợ càng bớt đi. Rượu tây thật lạ lùng: trong vàng như hổ phách, uống vào chỉ thấy thơm, giọng rất êm và cái say cũng khác hẳn cái say của rượu ta.
Bác lẩm bẩm nhắc lại mấy tiếng "rượu tây" "yến" như để nhắc lại cái thú ít khi có trong đời, chiều hôm qua. Bác bỗng sực nghĩ đến vợ: lúc nẫy nhìn vợ một lúc, tuy quên không để ý xem mặt vợ có xây xát, thâm tím chỗ nào không nhưng bác cũng biết là vợ mình không việc gì lắm. Bác đứng lên đi vội về nhà để xem có đúng thế không.
Khi bác trở vào thì mâm cơm đã đặt ở giữa nhà, khói bốc lên nghi ngút. Mâm cơm chỉ có một đĩa rau má và một bát nước muối để chấm. Cả nhà cũng đã ngồi quanh mâm đợi bác. Bao giờ cũng vậy, chỉ trừ khi bác đi vắng còn không ai dám ăn trước bác cả. Nữa và Thêm đã đói lắm nhưng cũng không dám nhúc nhích cầm đũa, bác Lê trai lúc thường không đánh con bao giờ nhưng lũ trẻ sợ bố hơn sợ mẹ nhiều.
Bác ra chỗ phên, tay tìm cái que để vắt khăn nhưng mắt thì nhìn mặt vợ: quả nhiên vợ bác không có thương tích gì. Thấy thế bác tươi hẳn nét mặt. Bỗng bác giật mình vì tay nắn vào chiếc khăn còn cứng khô nguyên: bác đã quên không rửa mặt. Bác mỉm cười với vợ, lẩm bẩm:
"Hừ, mình hãy còn say."
Nhưng bác không muốn trở ra sông rửa mặt, sợ vợ con phải đợi. Bác đến ngồi xuống cạnh mâm. Bác lại nhìn vợ mỉm cười một lần nữa nhưng lần này cười một cách ngượng ngập. Bác biết có lỗi xong không bao giờ tự hạ mình xin lỗi vợ; bác cho một cái mỉm cười để làm lành cũng đủ lắm rồi. Bác nói trống không như nói cho cả nhà nghe:
"Ừ, hôm qua uống rượu tây. Lại có bát đồ ăn, cái gì như tép bưởi, không khéo là yến."
Bác quay lại nhìn vợ, hỏi giọng đùa:
"Bu mày dễ chưa được ăn yến bao giờ?"
Biết là chồng đã làm lành, nhưng muốn phạt chồng thêm ít nữa, bác Lê gái cúi mặt lặng yên gắp dưa.
Sau một đêm lục đục và đói bụng, cả nhà ăn một bữa cơm ngon lành ít khi có.
Ăn gần xong bữa, bỗng có tiếng Mùi từ bên cửa hàng đưa sang:
"Bác Lê, bác Lê, hôm nay dễ được đến bốn năm hào chỉ cá."
Cả nhà không ai hiểu Mùi định nói gì. Tiếng Mùi lại tiếp theo:
"Tội nghiệp anh Nhỡ, rét thế này mà ngồi suốt đêm ngoài lưới."
Bác Lê gái thốt ra mấy tiếng "thế à cô?" vui sướng. Chắc Nhỡ kéo xe về nhà từ tối hôm qua, thấy cha mẹ đánh nhau, phải ra ngồi ngoài lưới suốt đêm đề kéo lưới thay cha. Ra tiếng hát chèo lúc nẫy khiến bác ngờ ngợ quả thật là tiếng Nhỡ. Bác rối rít lên vì thấy được nhiều cá đến thế và bác cốc vào đầu Tý:
"Thằng vô tích sự, thằng ăn không, có ra xách cá về hộ anh mày không?"
Bác dí ngón tay vào trán chồng:
"Đấy thầy mày xem, yến mấy rượu tây mãi vào để nó phải ngồi suốt đêm ngoài lưới. Giá nó không ngồi thì lấy gì mà tọng vào miệng. Tội nghiệp thằng Nhỡ!"
Những lúc bác có sự gì vui sướng quá thì bác thường nói chồng thậm tệ không sợ hãi vì bác biết chồng không giận bác những lúc đó. Bác Lê trai không những không giận mà lại thích nữa; thấy vợ đã dí ngón tay vào trán mình, đã nói chuyện với mình (cho dẫu là nói những câu nhiếc móc nữa) bác biết vợ hoàn toàn hết giận mình. Bác cúi đầu cười xoà:
"Đâu mà mãi, chỉ có một lần."
Bác Lê gái nguýt một cái dài:
"Một lần cũng đủ chết con tôi rồi, ông ơi."
Thêm và Nữa ngay từ lúc đầu bỏ bát chạy sang cửa hàng để xem cá vì chúng tưởng cá đã đem về bên cửa hàng rồi. Bác Lê gái sực nghĩ ra là Nhỡ chưa ăn cơm và lúc nẫy không thổi phần cơm Nhỡ. Bác vội đổ cả hai bát cơm còn đầy của Thêm và Nữa vào nồi; thấy Út toan xới cơm bác lấy đũa chặn lại:
"Thôi đừng ăn nữa."
Rồi bác đậy nồi cơm cất lên trên cao. Út không hiểu gì nhưng sợ mẹ không dám hỏi; Thêm và Nữa trở về mâm, ngơ ngác nhìn hai bát cơm tự nhiên không có cơm; còn nồi cơm cũng biến đâu mất. Chúng nó cùng oà lên khóc một lượt, như hai cái máy. Bác Lê trai thấy vợ bắt chúng nó ăn đói, để dành cơm cho Nhỡ là vô lý nhưng giữa lúc vợ vừa hết giận mình, bác không nói gì. Bác dỗ Thêm và Nữa:
"Thôi nín đi. Hôm nay phiên chợ."
Bác nói vắn tắt thế nhưng chúng cũng hiểu và nín ngay. Phiên chợ nào chúng nó cũng được ăn ngọn suốt ngày vì đi la cà các cửa hàng bán bánh nhặt những tấm lá còn vướng ít bánh gặm ăn hay đứng đợi ở các cửa hàng bán mía nhặt những khoang mía sâu hay những gốc mía người ta vứt đi.
Nhỡ, Tý xách lưới và giỏ cá về, đặt ở cửa. Bác Lê gái chạy ra nhìn vào giỏ rồi nói với Mùi:
"Dễ được đến năm hào thật, cô Mùi ạ."
Bác bảo Nhỡ:
"Trong nhà có cơm đấy. Vào mà ăn không đói. Bây giờ tao phải đi."
Nhỡ đáp:
"Con không đói, chỉ mệt thôi. Con ăn mấy chiếc bánh rồi đi ngủ đây."
Bác Lê gái bực mình vì đã mất công lấy cơm của những đứa khác để phần mà Nhỡ không ăn, lại thấy Nhỡ đòi ăn bánh là một thứ tốn tiền:
"Ăn thế thì cũng như ăn hết cả chỗ cá này đi."
Nhưng bác cũng chiều Nhỡ nói:
"Tuỳ mày."
Bác dí ngón tay vào trán Nhỡ:
"Mày thì rồi cũng như bố mày thôi. Con nhà lính tính nhà quan. Bố thì yến, rượu tây, con thì bánh cuốn nhân tôm, nhân thịt. Tao cũng đến chết. Thôi tao đi".
Chợt thấy Tý bác chỏ vào mặt:
"Mày không đi nhặt lờ. Còn đợi tao nhắc à?"
Tý nói:
"Con đương ăn dở. Con vào ăn nốt đã."
"Hết cơm rồi. A nhưng bây giờ còn cơm. Mày gọi cả các em vào ăn với. Tội nghiệp chúng nó. Tối qua nhịn cơm, sáng nay lại ăn đói.
Tý không hiểu mẹ nói gì, đến lúc vào nhà hỏi Út mới rõ. Nó lại bưng nồi cơm xuống, xới cơm vào bát rồi chạy đi tìm Thêm và Nữa. Thêm, Nữa trở về, nhìn vào mâm ngạc nhiên thấy bát lại đầy cơm như cũ. Không có bố mẹ ngồi ở mâm, chúng nó và lấy và để và tranh nhau gắp dưa. Thoáng một cái nồi cơm đã sạch nhẵn còn mồm và mũi Thêm, Nữa thì đen sì những cháy. Ăn xong chúng nó vẫn thấy đói; mặc dầu nhịn cơm chiều hôm qua nhưng mẹ chúng vẫn đong đúng ngữ gạo như mọi bữa mà ăn như mọi bữa thì chúng không bao giờ thấy no cả.
Tý dọn mâm nhưng không đem rửa vội. Nó nhìn ra phía sau nhà thấy Út, Thêm và Nữa đương chăm chú ngồi nhìn cha phơi lưới, Tý đi sang cửa hàng bánh cuốn.
Cứ lúc nào đã làm hết công việc bác Lê gái giao cho mà lại đúng vào lúc bác ấy đi vắng, không ở nhà để bịa ra công việc bắt nó làm, cho nó khỏi đứng không ngứa mắt bác, thì Tý đứng xem chim sẻ. Tý biết rõ cả có mấy đàn chim sẻ, nói cho đúng mấy tốp vì chỉ có một đàn chim nhưng chia ra từng tốp, mỗi tốp đến ăn một cửa hàng cân gạo. Tý nhớ rõ cả những con nào bạo nhất, con nào nhát nhất. Tý thấy tốp chim bao giờ cũng bay sà xuống đất ở thật xa chỗ có gạo rồi chúng cứ nhẩy dần đến gần, con bạo nhất đi đầu ngừng lại nghe ngóng, nhìn ngang nhìn ngửa. Tý hồi hộp khi chúng nó đã gần đến nơi.
"Này nó sắp ăn, nó sắp ăn này."
Tý cũng hồi hộp như khi Tý trèo lên cây ăn trộm quả, giơ tay sắp với tới. Có tiếng động con đi đầu bay lên đậu trên mái nhà gần đấy, kêu ríu rít như thất vọng rồi chúng bay chuyền từ mái nhà nọ sang mái nhà kia cho đến khi đã khá xa chỗ cân gạo lại bay sà xuống đất và bắt đầu tấn công lần nữa. Khi nào tốp chim đến nơi và được ăn là Tý vui sướng như là chính Tý được ăn quả hái trộm.
Nhưng sáng hôm nay mắt Tý nhìn thấy chim sẻ mà óc Tý chỉ nghĩ đến phía sau lưng Tý. Không quay lại nghe tiếng chân bước Tý cũng biết là Nhỡ đương đi sang cửa hàng. Tý hồi hộp đợi.
Nhỡ ngồi vào ghế, lật bát nước chè rồi nói:
"Cô bán cho cháu một hào bánh nhân thịt."
Mùi nhìn Nhỡ ngạc nhiên:
"Anh Nhỡ hôm nay hoang ghê!"
"Vâng, hôm nay được nhiều cá phải ăn một bữa cho bõ."
Tý vẫn đứng nhìn chim sẻ và đợi. Cũng may chỉ mình nó nghe thấy Nhỡ nói sang ăn bánh cuốn nhưng tại sao ăn đã lâu mà Nhỡ không gọi mình: có một mình Tý thì còn hy vọng anh cho ăn chứ nếu cả Út, Thêm, và Nữa chạy sang, chừng ấy đứa em thì không còn xơ múi. Tý đâm ra tức anh, tức cả Mùi nữa.
"Sao lại không ai gọi mình mà ăn lâu thế không khéo ăn hết rồi."
Tý thấy nhói ở ngực một cái rồi nó tính nhẫn vội vội vàng vàng chỉ sợ không kịp:
"Một hào tất cả mà ba xu hai chiếc, hai chiếc thì ba xu, một chiếc thì một xu rưỡi, một hào thì bao nhiêu?... bao nhiêu? À một chiếc thì xu rưỡi, hai chiếc thì ba xu, một hào thì..."
Tý chịu, tính không ra. Nó chỉ biết một hào thì mua được nhiều lắm và cũng còn đôi chút hy vọng. Tý lại đưa mắt nhìn chim sẻ rồi không quay lại nó nói với Mùi:
"Cô Mùi ạ, chim sẻ con nào hôm nay cũng béo tròn.”
"À, Tý đấy à?"
Mấy tiếng ấy của Nhỡ, Tý nghe sao mà vui tai thế. Nó vội quay mặt lại:
"Anh gọi gì em?"
"Lại đây ăn bánh. Tao mải ăn nên không biết có mày đứng đấy."
Tý đến ngồi ở ghế vẻ mặt nghiêm trang đợi Mùi mở quả hấp, gắp ra một chiếc bánh bóng loáng, hơi bốc nghi ngút, và đặt vào đĩa trước mặt Tý. Tý giơ cả hai bàn tay toan cầm lấy chiếc bánh, thế là cái ao ước lúc nãy của nó đã thành sự thực. Nó định bỏ tất cả chiếc bánh vào mồm rồi nhai qua và nuốt đến ực một cái như lúc nãy ăn giả vờ. Bỗng Mùi giơ đũa chặn tay nó lại.
"Nóng chết. Eo ơi bẩn. Để tao bảo cho cách ăn. Mới đầu phải xắn ra đã rồi gắp từng miếng chấm vào nước mắm; ăn bánh cuốn mà không có nước mắm chanh ớt thì phí cả bánh cuốn, mà phải ăn thong thả, Tý lớn rồi phải tập ăn cho chỉnh tề".
Nội các trẻ trong xóm, Mùi yêu Tý nhất vì nàng biết nó thông minh và có óc nhận xét. Nàng hiểu nên không thấy những câu nói, những điều nhận xét của nó là ngớ ngẩn. Như lúc nãy, trong lúc ngồi nghỉ vơ vẩn nghĩ đến Siêu, nàng cũng vừa nhận thấy những con chim sẻ sáng hôm nay con nào cũng béo tròn. Mới đầu nàng chỉ thấy chúng khác mọi ngày, nhìn mãi nàng mới thấy là chúng béo tròn và khi nghe câu Tý nói về chim sẻ nàng hơi ngạc nhiên về trí nhận xét của Tý. Mùi đã phải nghĩ một lúc mới tìm ra được tại sao hôm nay chim sẻ lại béo, nàng toan hỏi Tý xem Tý có biết không nhưng nghĩ ra được điều gì nàng lại thôi.
Ăn xong Nhỡ với cái điếu cầy hút một hơi rồi về nhà; Tý vẫn ngồi yên ở ghế đợi may ra cô Mùi có cho thêm một chiếc không. Nhưng Mùi không bao giờ cho trẻ ăn bánh. Tuy nàng rất thương hại lũ trẻ nghèo bên nhà bác Lê nhưng vì chúng nó đông quá cho một đứa phải cho tất cả nên nàng đặt ra cái lệ rất nghiêm và cấm ngặt cả Bé; không bao giờ cho trẻ con ăn bánh.
Bỗng Mùi đưa mắt tìm Bé, thấy Bé đã ra phía sau nhà bếp, nàng hỏi Tý:
"Đố Tý biết tại sao sáng hôm nay chim sẻ lại béo tròn thế? Nói đúng, tao cho một cái bánh."
Tý vui mừng đáp:
"Thưa cô tại trời rét".
"Thằng này giỏi."
Tý thấy Mùi nhìn nhanh xuống bếp một cái, mở vội cái nắp quả hấp cho tay vào bốc một chiếc bánh chứ không dùng đũa rồi đưa cho Tý:
"Ăn đi."
Tý đặt bánh xuống đĩa, toan lấy đũa xắn theo cách Mùi vừa dạy thì nó ngơ ngác thấy Mùi ra hiệu bảo cho cả chiếc bánh vào mồm:
"Nhai đi."
"Thưa cô còn nóng."
Nghe có tiếng chân ở dưới bếp bước lên, Mùi bảo khẽ Tý:
"Thôi đừng nhai. Ra ngoài kia mà nhai."
Tý không hiểu vì sao Mùi sau khi dạy nó cách thức ăn tử tế, thong thả thì lại bắt nó ăn ngấu ăn nghiến. Nó cũng phải nghe lời đi ra, miệng còn đầy bánh. Sợ có các em trông thấy nó đi ngược mấy bước sang phía nhà cân gạo bên cạnh rồi đứng lại nhai thong thả, vừa nhai vừa ngẫm nghĩ. Nuốt xong miếng sau cùng, nó há miệng thở hắt ra một cái như lúc mới ngủ dậy ăn giả vờ nhưng lần này nó đã có cái khoái ăn bánh thật.
Chương III
Bé và Đỗi
Cứ hôm nào nhà không có đủ tôm để làm nhân bánh cuốn và không nhằm ngày phiên chợ thì Bé phải cắp rổ sang mua tôm ở chợ bến đò làng Trò. Những ngày như thế ít khi xẩy ra nên buổi sáng nào thấy nhà không có tôm là Bé bắt đầu mong chóng đến giờ cô Mùi về để Bé đi mua tôm và gặp anh Đỗi chở đò và bán tôm.
Bé và Đỗi gặp gỡ nhau lần đầu tiên, cách đây đã gần nửa năm. Gặp lần đầu, Bé để ý ngay đến Đỗi vì Đỗi đã để ý ngay đến con mắt của nàng. Bé đứng trên bờ cất tiếng hỏi mua tôm, nhưng Đỗi hình như không nghĩ gì đến việc mua bán. Đỗi thấy cô con gái đến mua tôm có đôi môi xinh và tươi nhưng mắt vì có khăn che nên chàng không biết ra sao. Đỗi nhìn vào chiếc khăn trắng che mắt rồi lại cúi đầu để cố tìm hai con mắt dưới khăn nhưng không thấy; chàng cất tiếng hỏi:
"Đau mắt à?"
Bé mỉm cười vì thấy anh chàng bán tôm lại tự nhiên hỏi về đôi mắt đau của mình, nàng đáp:
"Trông thì biết."
"Nhưng chẳng trông thấy gì cả."
Rồi Đỗi vẫy Bé bảo xuống thuyền:
"Xuống đây."
Bé chưa biết nghĩ sao nhưng giọng nói của Đỗi thẳng thắn, quả quyết làm cho Bé phải nghe theo và xuống thuyền mặc dầu lúc đó bến đò vắng không có ai.
"Lại gần đây. Ngồi xuống người ta xem cho."
Rồi Đỗi cũng ngồi sát bên cạnh Bé. Đỗi hình như chỉ để ý đến con mắt nên chân Đỗi giẵm lên cả chân Bé, Bé phải vội vàng rút chân mình ra. Đỗi giơ tay từ từ nhấc miếng vải trắng lên, nhìn một lúc:
"Hừ, đau nặng. Đau từ bao giờ rồi?"
"Chẳng biết đau từ bao giờ!"
Đỗi mỉm cười:
"Đau mà không biết đau từ bao giờ. Rõ ngớ ngẩn."
Bé cũng mỉm cười:
"Nhà bác mắng tôi đấy à?"
"Thế nhà chị có ngớ ngẩn không?"
Tuy mới gặp có mấy phút mà hai người đã thấy như thân nhau từ lâu.
"Tôi không đùa nữa. Để tôi xem cho, đau lâu không khéo đau mắt hột."
Bé hốt hoảng:
"Đau mắt hột thì sao?"
"Đau mắt hột thì mù, chẳng sớm thì muộn, mà thuốc của tôi cũng chịu không chữa được. Nào đưa mắt đây..."
Rồi Đỗi lật cả hai mi mắt trên của Bé lên xem: thấy không phải đau mắt hột, chàng lại cho hai mi mắt xuống. Bé lo sợ, quả tim đập mạnh; Đỗi đã buông tay ra rồi mà nàng vẫn còn ngửa mặt, mắt nhìn ngược lên trời và hai làn môi hé mở, hồi hộp đợi. Bỗng Đỗi lặng người nhìn Bé; không phải chàng thấy Bé đẹp nhưng chàng thấy cả người Bé tỏa ra một thứ gì nồng nàn, hơi là lạ mà chàng ưa thích, thấy hợp với mình lắm. Chàng để mặt mình sát gần thêm mặt Bé, ngây ngất về mùi tóc, mùi da thịt và nhất là về hơi ấm ở cổ, ở vú nàng đưa nhẹ lên có vẻ thân yêu ngay. Đỗi khẽ đưa bàn chân mình giẵm lên chân Bé, nhưng lần này không phải vô tình. Chàng lại giơ hai bàn tay lên để ngón tay vào mắt mà chỉ cốt cho lòng bàn tay được áp vào hai má mịn màng và nóng của nàng.
"Không phải đau mắt hột, may quá."
Rồi chàng bỏ tay ra, sợ để lâu Bé sinh nghi.
Bé vui mừng nhắc lại câu của Đỗi:
"May quá nhỉ."
Đỗi nói:
"Đau mắt này thì tôi chữa được."
Nhưng giọng Đỗi đã mất vẻ tự nhiên lúc đầu. Thực tình mới trông thấy Bé, chàng chỉ nghĩ đến một người đau mắt mà chàng muốn thử cái môn thuốc lá riêng của chàng.
Trước kia, Đỗi cũng đau mắt ròng rã đến sáu bảy tháng và đã chữa đủ mọi thứ thuốc. Nhà nghèo lại tốn nhiều tiền mà mắt vẫn không khỏi, chàng ra vườn sau gặp lá gì hái lá đó, đem về giã rồi đắp lên mắt:
"Một là khỏi hai là mù thì mù quách đi."
Hôm sau mắt chàng đỡ; chàng lại ra vườn hái đúng những lá ấy đem về đắp, trong vòng năm hôm bệnh khỏi hẳn. Từ độ ấy, hễ gặp ai đau mắt chàng lại đem thử thuốc và cũng có một vài người khỏi, chỉ trừ đối với những người đau mắt hột thì thứ thuốc lá của chàng vô công hiệu; vì thế hễ gặp ai đau, muốn thử thuốc lá của chàng, bất kể đàn bà con gái, việc đầu tiên của Đỗi là vạch mắt, uốn mi xem. Còn đắp bằng những thứ lá gì thì chàng giấu kín vì nghĩ nếu chữa khỏi nhiều người chàng sẽ lấy tiền.
Đỗi ngồi kể hết ra với Bé và cả cái hy vọng của chàng được trở nên một ông lang chữa mắt.
"Giỏi hơn cả ông Lang Hàn nữa. Rồi chị xem. Bây giờ ngày nào nhà chị cũng đến đây, tôi đắp lá chỉ năm hôm là khỏi. Khỏi thì thích biết bao, không cần phải lúc nào cũng che khăn..."
Đỗi mỉm cười nhìn Bé rồi tiếp theo:
"Chẳng ai nhìn được mắt mình."
Đỗi thích chí tìm được câu có nghĩa ngầm: ai đây tức là chàng và mình đây là tiếng thân yêu chàng gọi Bé.
Bé thì không chú ý đến chỗ đó, nàng hỏi:
"Ngày nào cũng đến đây? Sao nhà bác không bảo tôi hái lá gì, tôi ở nhà đắp tiện hơn."
Đỗi đáp, tiếng tự nhiên nhỏ hẳn đi như là sợ có người nghe thấy:
"Đối với đằng ấy thì tôi cũng chẳng cần giấu nhưng sợ đằng ấy đi hái lá người ta biết mất. Vậy thế này thì tiện, chiều nào cũng giờ này đến đây tôi giã sẵn lá chỉ việc đem về đắp. Chiều nào cũng đến nhé!"
Bé hỏi lại:
"Chỉ năm hôm là khỏi?"
"Cái đó chị cứ tin ở tôi."
Bé sung sướng thầm cám ơn anh chàng bán tôm mà nàng cũng bắt đầu hơi mên mến.
"Thích nhỉ, chỉ năm hôm?"
Bỗng Bé lặng người, nhấc một bên mép khăn nhìn Đỗi. Nàng vừa nhận ra là chân Đỗi lại giẵm lên chân nàng. Nhưng lần này, Bé để yên không rụt chân lại.
Ngày hôm sau Bé đến thì Đỗi đã để sẵn một gói lá giã ở thuyền. Chàng lại bảo Bé ngồi xuống bên cạnh và nói:
"Cho tôi xem."
Bé ngoan ngoãn nhấc hai mép chiếc khăn lên để Đỗi xem mắt: nhưng Đỗi "nhìn" chứ không xem vì hôm nay đã có gì khác hôm qua đâu mà phải xem. Bé lại thấy chân Đỗi giẵm lên chân mình.
Cứ như thế luôn năm hôm mà mắt Bé vẫn không đỡ chút nào. Đỗi bảo Bé cố chữa thêm năm hôm nữa. Bé chỉ thất vọng là mắt không khỏi, chứ chữa thêm năm hôm hay mười hôm nữa Bé cũng không ngại. Bé đã bắt đầu thấy thinh thích mỗi khi chân Đỗi đặt lên chân mình song nàng vẫn làm như mải nghĩ về con mắt, không biết tới chỗ đó.
Mỗi lần đến là Bé ngồi ngay xuống cạnh Đỗi và không cần Đỗi bảo, nàng đã nhấc chiếc khăn lên để hở mắt cho Đỗi xem. Nhưng bây giờ thì về phần riêng Đỗi, Đỗi biết là mình không xem xét gì cả và về riêng phần Bé, Bé cũng không phải giơ mắt Đỗi xem. Trong một lúc, hai người "nhìn lẫn nhau". Hai người đường hoàng nhìn nhau ở nơi vắng mà không ai thẹn ngượng cả.
Dần dần hai người sau khi "nhìn lẫn nhau" xong, cũng không nói đến đau mắt và thuốc đau mắt nữa. Họ nói đến những chuyện xa gần đâu đâu, hay có khi cũng không cần nói chuyện gì. Sau khi nhìn nhau và sau khi chân Đỗi đã đặt lên chân Bé một lúc khá lâu thì Bé đứng dậy cầm gói lá giã, chào Đỗi đi về. Đến hôm thứ mười, Đỗi mới hỏi Bé:
"À quên, đằng ấy tên gì?"
"Thế còn nhà bác tên gì?"
Mặc dầu Đỗi gọi Bé là "đằng ấy" ngay từ đầu mà Bé cũng chưa lần nào dám gọi Đỗi là "đằng ấy". Hai người hỏi nhau thế nhưng cũng không nói tên mình ra. Lúc Bé đứng dậy ra về, mặc dầu đã biết ngày hôm ấy là ngày thứ mười chàng cũng cứ bảo Bé:
"Mai lại đến."
Quả nhiên ngày hôm sau Bé lại đến. "Bé đến tức là Bé đã ưng mình" Đỗi nghĩ thế và hôm ấy bạo dạn hơn mọi ngày. Bến đò vắng người vì giờ ấy ngày nào cũng ít người qua lại. Cũng như mọi lần chàng xem mắt và để chân lên chân Bé. Một lúc lâu sau, bỗng Bé tự nhiên quay mặt cúi nhìn xuống nước sông; nàng vừa nhận thấy mấy ngón chân Đỗi ấn xuống chân nàng rồi lại khẽ nhấc lên rồi lại ấn xuống, ấn rất nhẹ nhưng nàng cũng nhận rõ. Nàng thấy cả người nóng ran, nóng từ đầu ngón chân nóng lên. Người nàng phiêu phiêu và quả tim như ngừng đập. Bé lo sợ và đứng thẳng lên:
"Thôi tôi đi về, thuốc đâu?"
Đỗi cũng rụt mau chân lại, quả tim vẫn còn hồi hộp:
"Hôm nay quá mười ngày rồi."
Bé nói nhanh mắt vẫn nhìn xuống sông:
"Mai tôi không phải lại nữa."
Từ hôm ấy Bé không đến nữa. Cách những dăm ngày sau, nhà không tôm lại không gặp ngày phiên chợ, Bé lại phải sang bến Trò, nàng thấy mình vui sướng khi cắp rổ ra. Mới lờ mờ trông thấy Đỗi đằng xa, Bé đã vội nói ngay:
"Hôm nay tôi sang để mua tôm."
Đỗi cũng sung sướng nói to:
"Hôm nay tôi có nhiều tôm lắm."
Khi Bé đến bờ sông, Đỗi bảo:
"Xuống đây tôi xem mắt cho. Cách mấy hôm có khi đỡ đi chăng?"
Giọng chàng tự nhiên và thẳng thắn như lần đầu tiên và Bé cũng thấy việc ấy rất tự nhiên: nàng ngoan ngoãn ngồi xuống cạnh Đỗi lật khăn lên cho Đỗi xem mắt. Nhưng lần này Đỗi xem thật chứ không phải "nhìn" và Bé ngạc nhiên không thấy Đỗi giẵm chân mình. Xem xong Đỗi nói:
"Đã đỡ được một tí."
Thế rồi cứ hôm nào có dịp mua tôm là Bé lại đến. Tuy ngày nào cũng vậy, cứ độ bốn giờ cô Mùi về nhà rồi là Bé đóng cửa hàng không có việc gì làm nữa, muốn đi gặp Đỗi lúc nào cũng được, nhưng chưa một lần nào nhà có tôm mà Bé dám đi.
Có một lần lâu không thấy Bé sang, Đỗi nhờ mẹ chở đò thay, đánh bạo ra Xóm Cầu Mới thăm Bé. Cũng may sáng hôm ấy cô Mùi vào chơi trong ấp cụ Án, chỉ có mình Bé ngồi hàng. Đỗi vào ngồi, lật bát nước chè rồi với cái điếu cầy hút làm như một người khách thường. Nhìn chung quanh, chắc chắn không có ai, Đỗi bảo Bé:
"Lâu ngày quá cho xem nào."
Ý ngầm của Đỗi là định nói lâu ngày nhớ quá muốn nhìn mắt Bé một tí cho đỡ nhớ. Bé đưa mắt nhìn sang nhà trước cửa rồi khẽ lật khăn lên nhìn lại Đỗi. Tuy là xem mắt nhưng hai người ngồi cách nhau một cái chõng và xa nhau đến hai thước. Bàn chân Đỗi đã đặt lên bực cửa. Như thế một lúc lâu, Đỗi nói:
"Thôi đủ rồi."
Câu ấy có thể muốn nói xem mắt đủ cẩn thận rồi nhưng cũng có thể muốn nói "nhìn" thế đủ nhớ rồi. Bé nói:
"Ăn vài chiếc bánh cuốn nhân tôm. Bánh ngon lắm."
Đỗi cười nói to:
"Không có tiền."
Bé ngắt:
"Nói khẽ chứ."
Nhưng cả hai người đều không chú ý đến chỗ vô lý: tại sao phải nói khẽ. Bé muốn lấy bánh mời Đỗi ăn nhưng không dám, vì lúc trước khi Mùi đi, Bé đã đếm bánh xem còn bao nhiêu và bảo cho chủ biết. Bỗng nàng sực nghĩ ra, khẽ bảo Đỗi:
"Cứ ăn đi, tôi có tiền đây."
Đỗi lấy làm lạ sao Bé không mời mình ăn lại nói là trả hộ?
"Thôi chịu thôi, với lại tôi sợ ăn tôm lắm rồi."
"Thế thì ăn bánh nhân thịt. Ngon lắm có cả cà cuống ở Hà Nội mới về."
Câu ấy Bé bắt chước lời cô chủ vẫn nói với khách hàng. Đỗi nói:
"Ừ thì ăn."
Bé gắp bánh ra đĩa vui sướng nhìn Đỗi ăn, Đỗi chưa bao giờ được ăn thứ bánh ngon như thế.
Đỗi đi rồi, Bé lần hầu bao lấy sáu xu rón rén đặt ở cạnh đĩa, rồi lại nhặt lên và cho xu vào khe hòm thu tiền của cô chủ, cố ý làm cho những đồng xu rơi kêu to để mọi người chung quanh nghe thấy.
Lần thứ hai Đỗi đến thì gặp lúc có cả cô Mùi và Bé ở cửa hàng. Chàng khó chịu vì có cô Mùi ở nhà; nhưng đã trót rẽ vào cửa hàng mất một bước và thấy cô Mùi đã biết là mình định vào cửa hàng rồi nên chàng không dám quay ra. Trong khi Đỗi uống nước, Bé khó chịu thấy Mùi cứ nhìn Đỗi không chớp mắt, Bé nghĩ thầm:
"Hay cô ấy biết rồi."
Bé lại thấy tự nhiên Mùi mỉm cười nhìn Đỗi rồi lại nhìn Bé một cái. Bé thấy hai tai nóng bừng. Mùi nói:
"Tôi trông bác quen quen?"
Đỗi chưa kịp trả lời thì Mùi lại nói tiếp:
"À phải rồi, bác chở đò ở bến Trò."
Nàng vừa nhớ lại trước đây đã lâu lắm đi qua bến đò Trò, thấy người chở đò có nhiều tôm, nàng có hỏi chuyện và chính nàng bảo Bé đến mua khi nào thiếu tôm. Nàng chỉ vào Bé:
"Chị này vẫn sang mua tôm của bác luôn."
Nàng gọi Bé và làm Bé giật mình:
"Chị vẫn sang mua tôm của bác ấy có phải không? Thế sao bác ấy vào mà không chào hỏi gì cả. Chị này lạ quá."
Đỗi đáp hộ Bé:
"Tại chị ấy đau mắt, không nhìn thấy."
Chuyện xẩy ra chỉ có thế thôi nhưng ngay chiều hôm sau đợi Mùi trở về nhà, Bé chạy vội sang bến đò Trò mặc dầu hôm ấy nhà có tôm. Nàng bảo Đỗi giọng như cự:
"Đừng đến nữa."
Đỗi cũng gắt, đáp lại:
"Thế sao lâu không đến?"
Thế là hai người đã ngỏ tình yêu cho nhau biết mà không ai định tâm cả. Nhưng cả hai người chỉ thấy vui sướng chứ không thẹn vì cả hai đều làm như không chú ý đến nghĩa ngầm ẩn trong những câu nói ấy. Đỗi nói tiếp:
"Bánh cuốn ngon quá. Mai lại phải đến."
Bé gắt:
"Con khỉ, người ta đem đến cho mà ăn."
"Mai nhé."
"Mai không được. Sao đằng ấy nóng nẩy thế?"
Lần đầu tiên Bé gọi Đỗi là "đằng ấy’’ và lại mắng cả Đỗi "con khỉ". Nhưng còn đến với Đỗi luôn mà không có cớ mua tôm thì Bé chưa dám. Không phải Bé ngượng với Đỗi, nàng chỉ ngượng với mọi người trong phố và nhất là sợ họ đoán biết.
Bé đợi mấy hôm bên nhà mẹ nàng mới không có tôm. Bé vội đem cất đi một chục chiếc bánh. Bé không sợ Mùi nghi ngờ vì từ lúc đến ở với Mùi chưa lần nào nàng lấy vụng bánh. Hôm ấy, dịp may Mùi có việc về nhà sớm hơn mọi khi. Nàng hạ những cái phên đóng cửa hàng rồi lấy bánh ra. Nhưng Bé không biết cất bánh ở đâu và không dám để ở cái rổ mua tôm trống trải quá. Bé nghĩ mãi mới tìm được một cách; nàng gói cẩn thận từng cái một vào trong lá chuối khô rồi cho vào thắt lưng buộc tròn quanh bụng: ở ngoài buộc thêm hai cái thắt lưng nữa. Đũa thì không cần, ăn bốc cũng được, nhưng phải đem đi cái đĩa đựng nước mắm chấm; Bé bỏ một cái đĩa vào trong túi áo cánh. Nàng đi tìm một cái chai nhỏ để đựng nước mắm nhưng tìm khắp nhà không có cái chai nhỏ nào cả. Chỉ có một cái chai nước chanh cũ. Bé rót nước mắm vào trong chai nước chanh và cho chai vào thắt lưng cuộn lại buộc nút ở hai đầu cho khỏi rơi, rồi bỏ thõng lẫn với những đầu dây thắt lưng khác.
Ra đến ngoài đường Bé mới bắt đầu thấy khó chịu, phải đi chậm bước lại vì lá chuối khô gói bánh cứ lạo xạo chung quanh bụng, cái đĩa cứ đập vào sườn và khó chịu nhất là cái chai lủng lẳng lúc thì va vào đùi bên trái, lúc va đùi bên phải.
Khi đi qua cửa nhà cụ Huế Hai, cụ gọi giật lại:
"Chị Bé đi mua tôm đấy à? Mua cho tôi một mớ với."
Bé đi tạt vào, hỏi:
"Cụ làm bánh xèo?"
"Ừ, lâu lắm chưa làm. Chị sang ăn, tôi để dành cho hai chiếc."
Tuy chỉ có một mình và rất hà tiện nhưng vì nhớ Huế và nhớ lũ cháu ở quê nhà nên mỗi lần làm bánh cụ làm đến hai chục chiếc, cụ chỉ ăn có một chiếc đầu rồi ra cửa hễ thấy đứa trẻ nào là cụ gọi lại cho ăn. Thành thử mỗi khi làm bánh xèo nhà cụ đông như cái chợ; trẻ con ngồi la liệt đợi và đứa nào đến trước thì được ăn trước. Thấy số trẻ con đủ số bánh rồi, cụ đóng cửa lại.
Bé nhận lấy tiền rồi đáng lẽ đi thẳng, nàng lại quay trở về báo cho lũ em ở nhà biết để chúng đến nhà cụ giữ chỗ, và làm giúp đỡ cụ và như thế được ăn hai chiếc. Khi tôm về cụ rán ngay, nên Bé phải quay lại báo trước các em mới kịp. Thấy Tý, em nàng đứng xem con yểng của cụ Hai hàng cơm, Bé bảo:
"Hôm nay bên cụ Huế Hai làm bánh xèo."
Tý vui mừng chạy đi.
"Về bảo các em mày nữa chứ. Mày chỉ biết ăn một mình."
Tý hỏi:
"Hôm nay chị sang bến Trò?"
"Ừ tao sang bến Trò mua tôm."
Bé khó chịu thấy Tý cứ nhìn vào chỗ thắt lưng mình.
"Mày hỏi làm gì?"
Tý không trả lời lại nói thêm:
"Chị sang bác Đỗi?"
Bé giật nẩy mình, lo sợ; vội nhấc khăn che mắt để nhìn rõ mặt Tý:
"Mày biết bác ta à?"
"Thì ngày nào em cũng sang học bác ấy cách thức câu tôm. Bác ấy bảo bác ấy có thuốc đau mắt hay lắm. Sao chị không chữa?"
Bé hết lo nhưng vẫn còn khó chịu; nàng vội quay đi sợ đứng lâu Tý có thể nhìn thấy cả những chiếc bánh cuốn chung quanh bụng mình.
"Nó ranh mãnh lắm."
Bé vừa đi ra bến Trò vừa tức Đỗi; nàng lẩm bẩm luôn miệng.
Đỗi thấy Bé đến với một cái rổ không, vội hỏi:
"Bánh đâu?"
Bé không trả lời, quăng mạnh cái rổ không xuống thuyền. Đỗi cười nói:
"Người ta hỏi ăn bánh lại cho người ta ăn cái rổ."
Bé gắt:
"Sao lại cho thằng Tý nó đến?"
"Thì nó cứ đến, cấm thế nào được nó."
"Sao lại dậy nó câu tôm?"
"Nó đến, nó bảo dậy nó thì dậy nó. Nó chịu khó lắm, chịu khó nghe, chịu khó hỏi. Tôi thích nó lắm."
Nghe mấy tiếng "chịu khó hỏi" Bé lại giật mình.
"Mai đừng dậy nó câu nữa. Nó tinh lắm."
"Nó tinh thì mới dậy nó chứ."
Bé gắt:
"Con khỉ, đùa mãi. Tôi về đây."
Đỗi vội nói:
"Ừ thì mai không dậy nó câu nữa."
"Mai đừng cho nó đến nữa."
Bé bước xuống thuyền, nhìn hai bên bờ sông nói:
"Nào ăn bánh."
Dưới con mắt ngơ ngác của Đỗi, Bé rút ở túi ra một cái đĩa đặt trên sàn thuyền, mở nút thắt lưng lấy ra một cái chai đổ nước mắm vào đĩa, rồi nói:
"Ăn đi."
Đỗi nhìn vào hai túi áo cánh của Bé tìm, nhưng hai túi đều dẹt, không có hình bóng một chiếc bánh nào cả, Đỗi lại nhìn vào mắt Bé hất đầu một cái.
Bé cười:
"Thong thả đã."
Đỗi thấy Bé cởi dây lưng ngoài rồi lại cởi cả dây lưng trong, cho tay vào lần cái dây lưng thứ ba và rút ra một cái gói lá chuối đưa cho mình. Đỗi hỏi:
"Chỉ có một cái?"
"Ăn đi không cần đếm. Cô Mùi biết thì chết."
Đỗi mỉm cười, nghĩ đến chuyện ma xó ở đường ngược và cô Mùi là con ma xó.
Đỗi chấm bánh vào đĩa rồi ngửa mặt cho cả chiếc bánh vào mồm. Bé rút cái thứ hai, ngồi nhìn Đỗi ăn ngon lành, trong lòng sung sướng. Nàng chợt nghĩ nếu Mùi biết chắc chắn sẽ bị đuổi; về nhà, nhà cũng không chứa nữa và nếu lại biết cả là ăn cắp bánh đem cho trai thì... Bé không dám nghĩ đến chỗ đó, định tâm lần sau không chiều Đỗi như thế nữa và cất tiếng bảo Đỗi:
"Ăn thế thôi chớ."
Đỗi tưởng lầm vội nói:
"Chỉ có hai cái thôi à?"
Bé rút luôn ra ba bốn chiếc, nói:
"Còn nhiều, ăn cho chán chê đi."
Ăn đến sáu bẩy cái, Đỗi mới sực nhớ mời Bé:
"Hai người cùng ăn mới ngon."
Trong lúc Bé cầm miếng bánh cắn từng miếng nhỏ, Đỗi khẽ rón rén đưa chân mình lại gần chân Bé và đặt chân mình lên bàn chân Bé. Bỗng Bé giật nẩy mình kêu "ấy chết" lên một tiếng to làm Đỗi sợ rụt ngay chân lại. Bé đặt vội cái bánh xuống sàn thuyền còn bao nhiêu bánh cuốn trong người trút ra hết giơ hai tay với các đầu dây lưng, rối rít buộc lại và trong lúc cuống quít buộc lẫn đầu dây nọ với đầu dây kia, thành một mớ lung tung ở trước bụng. Bé vừa sực nghĩ đến việc ngồi ngay trước mặt một người con trai mà dây lưng trong dây lưng ngoài lại cởi tung hết ra cả. Bé bảo Đỗi:
"Thôi ăn mau lên người ta về đây."
Nghĩ đến cái nguy hiểm ăn cắp bánh và ngồi ăn với Đỗi, Bé nói tiếp:
"Con khỉ, lần sau đừng có hòng người ta đem bánh cho mà ăn nữa."
Đỗi thì cho là Bé tức giận mình giẵm lên chân. Chàng tự hỏi mình đã giẵm lên chân Bé không biết bao nhiêu lần rồi mà sao bây giờ Bé mới biết và mới giận. Chàng nghĩ thầm:
"Mà giẵm chân thế thì thích chết người, có việc gì đâu mà phải giận."
Tuy nghĩ vậy nhưng từ hôm đó Đỗi không dám giẵm lên chân Bé nữa và lại đến lượt Bé lấy làm lạ vì sao Đỗi lại bỏ hẳn cái thói rất thú vị ấy đi.
Chương IV
Mua rượu của ông Năm Bụng
Mười mấy hôm sau quả như lời bà chủ Nhật Trình nói, vợ cả ông Hai Vinh "củ nâu" đến Xóm Cầu Mới vào lúc nửa đêm, bắt gặp chồng và vợ bé, đánh chửi hai người một trận rầm cả xóm rồi đuổi vợ bé đi, đuổi cả con sen (vì bà cho là cùng một tụi với nhau) còn chồng thì bà ta nhốt lại với bà ta ở trong nhà luôn mấy hôm.
Mùi mừng rỡ lắm nhưng nàng khó chịu không tìm được cách nào tỏ cho ông Hai Vinh biết là mình định thuê nhà. Ông Hai Vinh không được ra khỏi cửa; còn nàng không dám đến vì không quen bà ta, vả lại có đến cũng không biết nói thế nào cho khỏi mất lòng.
Ba ngày hôm sau, nhà ông Hai Vinh lại bắt đầu mở cửa. Mùi vờ sang thăm cụ Hai Huế để có dịp đi qua trước cửa nhà ông Hai Vinh mong gặp ông ta và nếu tiện thì hỏi về việc thuê nhà.
Nàng đưa mắt nhìn vào thấy ông Vinh ngồi ở một đầu giường, bà Vinh ngồi ở một đầu giường, hai người cùng nhìn ra phố. Ông Hai Vinh rõ ràng trông thấy nàng nhưng không cất tiếng chào. Bà Hai Vinh nhìn nàng một cách tò mò và đầy ác cảm. Nàng có cái cảm tưởng là cả hai vợ chồng đều cho là nàng xấu bụng, định đến xem mặt họ. Nhìn mặt bà Hai Vinh không biết vì sao nàng thấy đáng ghét tệ. Nàng cũng không cất tiếng chào, vội vàng quay mặt đi.
Lúc trở về, khi đi qua trước cửa nhà ông Vinh nàng ngửa mặt nhìn thẳng như muốn tỏ cho họ biết là không phải nàng xấu tính muốn sang xem mặt họ; nàng thấy trong người tức bực và lại càng ghét bà Vinh hơn.
Hôm sau nàng lại đến thăm bà Năm Bụng để có dịp gặp mặt ông Vinh. Đến gần nhà ông Hai Vinh, nàng chợt nghĩ chắc thế nào bà Vinh thấy nàng đến cũng rủa thầm: con bé này vờ vờ vĩnh vĩnh. Nghĩ thế Mùi lại không dám rẽ vào, mắt nhìn thật thẳng, không dám cả liếc vào nữa. Lúc trở về Mùi lại quay hẳn mặt nhìn sang nhà trước cửa ông Hai Vinh.
Mùi lấy làm khoan khoái đã tỏ ra được cho bà Hai Vinh đáng ghét kia biết rằng nàng không thèm nhìn đến cái mặt người bà ta. Nhưng nàng thấy bực tức là việc thuê nhà của nàng, nếu cứ thế, thì không tiến được bước nào.
Nàng thấy mình có chịu khó gặp ông Hai Vinh một lần cũng vô ích; trong khi vợ chồng người ta đương ở một tình trạng như thế không có cách nào hỏi thẳng ngay, phải đợi người ta nói ra trước và như vậy cần phải lân la sang chơi một vài bận và nói chuyện lâu với cả hai vợ chồng, nghĩa là phải tìm cách làm thân với bà Hai Vinh. "Làm thân với bà Vinh?’’ Mùi nghĩ thế và cười hắt ra một cái. Nàng chỉ còn cách là đợi. Nàng cũng không sợ ai thuê tranh vì ngoài nàng ra còn ai thuê nhà ở xóm làm gì.
Một hôm bà Ký Ân vào hàng và hỏi ngay:
"Cô không thuê nhà nữa à?"
Mùi nhìn bà Ký Ân hơi ngạc nhiên:
"Ai bảo bà thế?"
"Tại sao cô không hỏi Hai Vinh."
Mùi ghé vào tai bà Ký nói cho bà rõ những sự khó khăn. Nghe Mùi nói xong, bà Ký Ân thở dài một cái bảo Mùi:
"Nhà ấy có người thuê rồi."
Mùi sửng sốt nhưng tự nhiên nàng lại thấy trong lòng vui vẻ nhẹ nhõm hẳn.
"Ai thế? Chắc bà chủ Nhật Trình thì phải biết."
"Ông giáo Đông Công Ích Tin lành."
"Thế sao ông ấy biết mà thuê?"
"Ông ấy quen Hai Vinh và ông ấy hỏi thẳng Hai Vinh không như cô."
Ông "Giáo Đông Công Ích Tin Lành" có cái tên dài thế vì ông làm rất nhiều nghề nhưng chỉ có một nghề là nghề thật; ông làm người đi cổ động và bán phiếu cho hãng Công Ích để dành tiền. Muốn cho người ta tin, ông tự gán cho ông là một ông giáo mặc dầu ông không đi dậy học bao giờ và đi đâu ông cũng rút ở trong cặp ra cùng với những giấy giảng giải về cách thức để dành tiền, lời lãi, sổ số v.v. một hai cuốn sách đạo và ông nói vài câu cổ động cho hội Tin lành.
Chính bà Ký Ân vẫn thường nói chuyện với Mùi về ông giáo Đông luôn; có một lần đương khen ông giáo Đông và bà lại chêm vào một câu nói ông ta chưa có vợ. Giá là người khác nói thì Mùi đã cho là ông giáo Đông nhờ người bắn tin nàng nhưng đối với bà Ký Ân lúc nào cũng chỉ nghĩ đến sự kén chồng cho sáu cô con gái đến tuổi hay xấp xỉ đến tuổi lấy chồng thì Mùi không để tâm.
Bỗng nàng vừa sực nghĩ ra điều gì, đưa mắt nhìn bà Ký rồi cười nhạt. Linh cảm vừa báo cho nàng biết là chính bà Ký đã bảo ông giáo Đông biết là Hai Vinh sắp dọn đi, để ông giáo thuê cái nhà đó, ở gần gũi bà và năng đi lại nhà bà tự nhiên.
Nàng cất tiếng nói với bà Ký:
"Bà này, cái ông giáo Đông thế mà giỏi nhỉ không kém gì bà chủ Nhật Trình. Cháu ở ngay bên cạnh không biết... phải nhờ bà bảo, thế mà ông ta ở xa cũng biết được... mà không cần bà bảo."
Ngừng một lát, nàng lại hừ lên một tiếng rồi tiếp theo:
"Ông ta tài thật đấy nhỉ, bà chủ Nhật Trình nhỉ."
Khi Mùi nói tiếp câu sau cùng sau một hồi ngừng lại và sau một tiếng "hừ" ngầm nhiều ý nghĩa, bà Ký chột dạ. Chính bà đã bảo ông giáo Đông thuê tranh Mùi. Thấy Mùi có ý nghi ngờ, bà vội nói dối thêm một câu nữa cho Mùi hết nghi:

"Thì chính ông giáo Đông bảo tôi là vợ cả Hai Vinh biết Hai Vinh có vợ bé ở đây."

Thấy Mùi vẫn có vẻ không tin, cứ nhìn chòng chọc vào miệng mình nói, bà Ký ngượng quá, cái môi dưới đương uốn éo định nói thêm bỗng rung rung rồi yên tắp. Bà Ký đứng dậy:

"Thôi con này đi về thôi."
Mùi không tức gì về việc không có nhà thuê; sự thực thấy sự bất đắc dĩ không thuê được nhà nàng lại mừng nghĩ đến cái vui được ở cùng nhà với Siêu trong ít lâu. Nàng chỉ đâm ghét bà Ký Ân xấu bụng mà xưa nay nàng vẫn không ưa gì và sáu cô con gái của bà xưa nay nàng vẫn có ác cảm thì nay nàng lại thấy đáng ghét, đáng ghét như mẹ.
Nàng lại lấy làm bằng lòng vì đã không cần dùng lời nói rõ ràng mà cũng tỏ ra được một cách rất rõ ràng rằng nàng biết bà Ký Ân đã xấu bụng đánh lừa nàng; nàng đã làm cho bà Ký Ân bứt rứt để báo thù bà mà bà không dựa vào cớ gì để giận nàng được.
Nàng vừa sực nhớ là bà Ký Ân quên không ăn trầu và nàng cũng quên đứt không mời bà ăn trầu như mọi lần. Mùi nhìn theo bà Ký đi về phía chợ; bỗng nàng cau mũi:
"Nói thế nào với ông cụ bây giờ."
Nàng bực mình và tự trách mình nhanh nhẩu đoảng chưa chi đã nói ngay với cha là thuê được nhà của ông Hai Vinh mà lại nói cả số tiền thuê là hai đồng một tháng. Mùi thấy ngưa ngứa ở gáy và cho tay lên gãi và càng gãi càng ngứa thêm.
Chợt thấy ông Ninh Ký đương thố lố hai mắt lồi nhìn mình, Mùi lẩm bẩm:
"Người ta đương bực mình đây. Nhìn cái gì?"
Nhưng Mùi không quay mặt đi nhìn ra chỗ khác như mọi lần: nàng nhìn thẳng vào mặt ông Ninh Ký không chớp và mắt nàng cũng cố mở to như mắt ông Ninh Ký. Nàng cứ nhìn như thế cho đến lúc ông Ninh Ký chịu thua phải cúi mặt xuống.
"Xem nào, còn nhìn nữa không nào."
Mùi gọi Bé lên:
"Chị trông hàng, tôi phải về nhà có tí việc cần."
Mùi về nhà không phải để báo cho ông Lang biết không thuê được nhà nữa, tin ấy nàng muốn để chậm lại càng lâu càng hay. Bao giờ cũng thế, hễ khi nào có việc bực mình là Mùi về thẳng nhà rồi ra vườn xới rau nhặt sâu để không nghĩ ngợi gì nữa.
Mùi về đến cổng nhà, gặp ông Năm Bụng đương đứng nấp sau dậu dâm bụt. Ông Năm thấy Mùi về, mừng rỡ nói:
"May quá."
Mùi nhìn vào bụng ông Năm Bụng, hiểu ý và mỉm cười nói:
"Ông cứ vào không sợ gì."
Không sợ đây tức là không sợ chó. Ông Năm Bụng có cái tài giắt ở bụng tới năm chai rượu lậu mà lúc đi vẫn ngang nhiên như trong bụng không có chai nào; dẫu những người đã biết chắc chắn là ông có rượu ở bụng nhìn cũng chỉ thấy bụng ông hơi phình một tí thôi. Có một lần đương đi ở phố Phủ Lệ gặp một bọn tây đoan và lính đoan ở ga xuống đi ngược lại phía ông mà bụng ông lúc đó cũng như mọi lúc dắt năm chai rượu lậu. Cả phố Phủ lo sợ nhưng họ thấy ông mặt vẫn lầm lì và thản nhiên như người đi chơi mát. Vì người ông cao lớn, trán rộng mắt sâu lại có một bộ râu quai nón đen và dài như râu một ông cố đạo, trông ông bệ vệ và đạo mạo như một vị quan to; bụng ông có to một tí cũng là sự thường. Lính đoan nhìn ông không đời nào ngờ được trong bụng ông chứa đến năm chai rượu lậu. Khi tây đoan đi xa rồi, có người hỏi ông có sợ không, ông thản nhiên đáp:
"Không sợ bằng chó."
Họ tưởng ông ghét tây đoan nên nói xỏ một câu chơi nhưng chính ra ông Năm Bụng cả đời không nói xỏ ai bao giờ, dẫu cho là nói xỏ tây đoan mà cố nhiên vì nghề ông phải ghét. Một lần phải chống cự lại một con chó dữ ông đã đánh rơi và vỡ mất cả năm chai giắt ở bụng và từ hôm ấy ông bắt đầu sợ chó hơn sợ tây đoan. Vì thế ông đi đâu cũng cầm một cây gậy trúc để đuổi chó và trong túi ông bao giờ cũng có kẹo vừng kẹo bột để cho trẻ con chạy ra đánh chó cho ông. Trẻ con nhà nào có chó lành không bao giờ được ăn kẹo của ông.
Ông vừa vào đến trong nhà, thoáng một cái Mùi đã thấy năm chai đặt trên phản trước mặt ông Lang. Mỗi khi ông bán bao nhiêu thì ông chỉ lấy ra bấy nhiêu thôi; nhà Mùi thì chỉ cần rượu cúng và vì thế thường mua rượu tốt để được lâu trong nhà không sợ. Có mua giúp ông Năm Bụng thì nàng chỉ mua một chai ngâm thuốc thỉnh thoảng cha nàng uống hay đề phòng xa thết khách.
Thấy ông rút ra cả năm chai, Mùi vội kêu:
"Nhà tôi làm gì mua nhiều rượu thế!"
Ông Năm Bụng quay mặt về phía ông Lang nói:
"Ông mua giùm cho lấy may."
Rồi ông lại quay về phía Mùi:
"Lần này lứa rượu tốt. Cô mua cho cả năm chai. Không uống thì để đó có thiệt đi đâu."
Mùi mỉm cười:
"Để đấy tây đoan nó khám phá, ông bắt tôi ngồi tù thay ông à? Mà đào đâu ra thuốc mà ngâm cả năm chai, hỡi trời!"
Ông Năm Bụng nói nằn nì mãi, sau cũng ông nói với ông Lang:
"Thì ông mua hộ tôi hai chai vậy. Đã đến kỳ trả tiền học cho cháu Nghĩa."
Ông Năm Bụng sở dĩ đi bán rượu lậu không sợ tù tội một phần lớn để nuôi người con trai đi học. Mỗi năm hai lần cứ khi nào đến kỳ trả tiền học là ông đi tất cả các nhà quen thuộc và gần như bắt mỗi nhà mua thêm mấy chai. Ông vẫn nói:
"Ông cố mua thêm mấy chai, không có tiền trả tiền học, nhà trường có đuổi cháu đi rồi ông có mua thêm cũng vô ích."
Thường thường thì ai cũng nể và mua thêm. Cả vùng ấy và ngay cả đến bà chủ Nhật Trình nữa không một ai biết là ông ở đâu đến và vì cớ gì ông lại đến ở Xóm Cầu Mới làm cái nghề hèn hạ ấy. Nhưng thấy ông diện mạo khôi ngô ra vẻ con nhà dòng và cách cư xử cùng lời ăn tiếng nói đường hoàng đứng đắn (đã có lần cả nhà ông chịu đói hai hôm liền mà ông nhất định không chịu đi vay ai cả) nên ai cũng đoán ông thuộc về một nhà gia thế chỉ vì một việc buồn uẩn khúc nên phải bỏ đi tha phương cầu thực. Trước kia chưa biết, thỉnh thoảng có người vô tình hỏi ông về lai lịch của ông; những lúc đó ông không đáp lại, hai mắt ông nhìn thẳng vào quãng không một cách đau khổ và mắt ông vốn lúc nào cũng đỏ thì lúc đó đỏ thắm lên như tiết lợn, trông thật ghê sợ, nét mặt đã sẵn lầm lì của ông lại lầm lì hơn và ông ngồi yên không động đậy một thớ thịt - sự yên lặng ấy lại làm cho người hỏi ông sợ ông hơn là ông tỏ vẻ tức giận - rồi sau một lúc ông đứng dậy và bỏ đi thẳng, vẫn không nói nửa lời bất kể người hỏi là ai và bất kỳ giữa hai người đương có việc gì quan trọng đến đâu mặc lòng. Bây giờ thì ai cũng biết thế nên không ai dám hỏi ông duyên do vì sao ông đến đây. Cũng không ai biết cả đến tên ông nữa, vì cái tài dắt nổi năm chai rượu ở bụng nên mọi người gọi ông là ông Năm Bụng làm như ông là con trai thứ năm và tên là Bụng.
Ông Năm Bụng nói xong vội cầm lên ba chai đút vào bụng chỉ để lại hai chai cho Mùi khỏi thấy nhiều quá, sợ không mua. Mùi nghe ông nói đến kỳ trả tiền học mới sực nhớ ra tại sao hôm nay ông lại nằn nì đòi mình mua nhiều thế. Nàng nghĩ đến Nghĩa, anh chàng học trò nét mặt sáng sủa, thông minh, bằng trạc tuổi nàng, thỉnh thoảng đi qua cửa hàng, mỗi lần nghỉ học ở Hà Nội về thăm nhà. Anh chàng giống ông Năm Bụng như tạc khuôn chỉ khác là mắt không đỏ, cầm không có râu và bụng thì không có chai. Anh chàng bao giờ cũng nhìn thẳng trước mặt y như cha và Mùi đã thấy nhiều lần đi qua cửa hàng mà chưa một lần nào nhìn vào; nàng nghĩ có lẽ anh chàng cũng chưa biết mặt mình nữa. Hình như anh chàng chỉ biết có học, ngoài ra không biết đến chuyện gì khác.
"Bụng cha thì đầy rượu, bụng con thì đầy chữ."
Mùi mỉm cười nghĩ đến câu mọi người vẫn bình phẩm về nhà ông Năm Bụng. Nàng đưa mắt nhìn ông ta đứng đợi và thương hại. Nhìn nét mặt thẳng thắn của ông, Mùi lại nghĩ đến bà Hai Vinh mặt mày trơ trẽn và đáng ghét, đến bà chủ Nhật Trình đã lừa nàng, đến sáu cô con gái của bà cũng quỉ quyệt như mẹ và đến mặt xù xì, phụng phịu của ông Ninh Ký bì thế nào được với nét mặt sáng sủa, lịch sự của Nghĩa. Nàng bảo ông Năm Bụng:
"Ông để đấy tôi lấy cả năm chai. U già ơi, đem hũ rượu ra đây."
Ông Năm Bụng ngạc nhiên vui mừng nhưng không tỏ ra nét mặt và cho tay vào bụng rút ba chai kia ra. Ông Lang Hàn cũng ngạc nhiên và mỉm cười. Thấy con gái mình đương chê nhiều rượu, vừa nghe ông Năm Bụng nói đến việc trả tiền học cho Nghĩa đã vội vàng mua cả năm chai, ông chợt nghĩ ra một điều và tươi hẳn nét mặt. Ông vui sướng vì thấy con gái mình đã mười chín tuổi mà quanh vùng không thấy một ai xứng đáng; cử chỉ vô tình của Mùi đã làm ông chợt nghĩ đến Nghĩa. Ông Năm Bụng tuy nghèo nhưng thuộc về nhà gia thế, ông không biết rõ nhưng tin chắc như vậy mà Nghĩa lại học giỏi, thế nào cũng đỗ cao và làm nên. Ông nhẹ hẳn người:
"Thế mà sao mình không nghĩ ra."
Rồi ông cất tiếng vui vẻ thân mật bảo ông Năm Bụng:
"Ông Năm ở đây uống với tôi vài chén cho vui. Sáng ngày cháu Mùi có mua được con cá béo lắm."
Ông Năm Bụng nhanh nhẹn đút cả năm chai không vào bụng, vội nói:
"Ông cho tôi đi; tôi còn đi nhiều nơi lắm, vì sáng mai tôi phải đi Hà Nội kịp trả tiền học cho cháu."
"Không tôi không để ông đi đâu."
Rồi ông Lang rối rít gọi Mùi bảo làm cơm:
"Mùi đi rán con cá đi, đừng để u già rán."
Ông quay lại phía ông Năm Bụng:
"Sợ ông thiệt, tôi mua thêm ông năm chai nữa để giúp cháu."
Lần này thì lại đến lượt Mùi ngạc nhiên. Ông Bụng cũng ngạc nhiên, nhưng còn lưỡng lự. Ông Lang Hàn chợt nghĩ đến chỗ tự nhiên vô cớ mời ông Năm Bụng uống rượu, khác hẳn mọi lần, ông vội nói:
"Tôi muốn hỏi về cách thức cậu Nghĩa học ở trường Bưởi thế nào, để sau tôi cũng lo cho cháu Triết lên theo học."
Ông Lang đã tình cờ nói đúng vào chỗ yếu của ông Năm; hễ ai nói chuyện hỏi han về sự học của con ông thì ông thích lắm, ngồi nghe bao lâu cũng không chán và chỉ những lúc đó thì trên nét mặt lầm lì - lầm lì gần như đau khổ - của ông người ta mới thoáng thấy một vẻ tươi cười rất nhẹ ở khoé mắt. Ông Năm Bụng không nói gì, từ từ rút năm cái chai không ở bụng ra, đặt xuống chân cột. Mùi biết là ông đã nhận lời vội cất tiếng gọi u già đương đi cất hũ rượu vào trong buồng:
"U già đem hũ rượu ra đây."
U già ngơ ngác rồi lẩm bẩm: vừa đem rượu cất đi xong lại thấy gọi đem rượu ra, u tưởng là Mùi trả lại ông Năm Bụng không mua nữa.
"U điếc à? Đem mau ra hai ông nhắm suông trước rồi làm cá để tôi rán."
Nàng cũng chạy ngay xuống bếp làm cơm và quên cả việc ra vườn xới rau như ý định lúc còn ở ngoài cửa hàng. Lần này Mùi cho nhiều dầu rán cho cá vàng ròn và ngon rồi nàng đi lấy ít tương Cừ Đà đã mua ở Hà Nội về, thái mấy miếng ớt thật mỏng cho vào. Ông Lang thích uống rượu với cá rán chấm tương, nhưng con cá phải thật tươi, rán phải chín vàng, thịt trắng và thơm, còn vây và vẩy ăn phải vừa ròn không mềm mà cũng không cháy vụn quá. Chỉ có Mùi là rán được như ý muốn của ông. Rán xong con thứ nhất, chính tay Mùi bưng lên, hơi ở con cá còn bốc nghi ngút và trong những vẩy con cá cong queo còn nghe lách tách tiếng dầu nổ.
"Mời ông mời thầy xơi cho nóng."
Ông Lang nhắc chén rượu mời ông Năm Bụng:
"Mời ông dùng. Rượu của ông phải có cá của tôi."
Mùi đưa mắt nhìn ông Lang, ngẫm nghĩ không biết cha mình có sự vui vẻ đột nhiên gì. Mỗi khi ông Năm Bụng đến, ông Lang chỉ nói vài câu lấy lệ, và có khi chẳng nói câu nào; lần này cha nàng lại mời ông ở lại uống rượu, nói chuyện luôn miệng và nhất là mua thêm năm chai; cha nàng chỉ hay nói khi nào trong lòng vui vẻ đặc biệt. Mùi đưa mắt nhìn ông Năm Bụng làm như nhìn ông ta thì có thể tìm thấy duyên do sự vui vẻ của cha mình. Ông Năm Bụng cho miếng cá vào miệng, vừa nhai vừa ngẫm nghĩ gật đầu:
"Cá của ông phải có rượu của tôi!"
Ông mở nút hũ, rót rượu vào chén ông Lang:
"Mời ông xơi một chén nữa.".
Mùi nhìn ông không ngăn nổi mỉm cười: ông nói đến rượu và mời ông Lang uống rượu tự nhiên như rượu trong hũ vẫn còn là rượu của ông. Mùi quay xuống bếp để rán con cá thứ hai.
Ông Lang nói tiếp câu chuyện bỏ dở:
"Cái tuổi cũng quan trọng lắm chứ? Cậu ấy năm nay bao nhiêu tuổi?"
Mùi đi chậm bước lại và đáng lẽ bước ra hiên nàng lại rẽ sang cái tủ chè, mở cánh cửa làm như tìm một vật gì.
Ông Năm Bụng đáp:
"Cháu nó hai mươi mốt nhưng cái tuổi không quan hệ gì, lúc làm giấy khai sinh bớt đi một hai tuổi."
Mùi khép cửa tủ lại, miệng nói:
"Không biết cái... cái ấy ở đâu."
Nàng nghĩ thầm:
"Ra hai ông cụ nói về việc học. Anh chàng hơn mình ba tuổi."
Lúc Mùi đem con cá lên thì hai ông đã thân như là đôi tri kỷ lâu năm. Ông Lang nói:
"Hôm nào tôi lại chơi đằng ông, ông cho tôi uống rượu nhé. Lại đằng ông thì không cần báo trước. Lúc nào cũng sẵn."
Ông Năm nói:
"Cũng cần chứ, ban ngày tôi không bao giờ để rượu ở nhà và cứ chập tối là tôi ngủ rồi, để sáng sớm một hai giờ sáng dậy nấu. Chắc ông hiểu vì sao."
"Tôi hiểu rồi, tôi hiểu... không biết tại sao giời lại sinh ra tây đoan."
Ông Năm Bụng nói:
"Tây sinh ra tây đoan, giời sinh chó."
Ông nói đùa nhưng không cười, còn ông Lang và Mùi thì không sao nhịn được. Bỗng Mùi vừa sực nhớ đến chỗ ông Lang chưa biết rõ tính ông Năm Bụng, lỡ cha nàng hỏi về duyên cớ tại sao ông Năm lại đến Xóm Cầu Mới khiến ông Năm đứng dậy bỏ đi thì thật rầy rà. Nàng loay hoay cố tìm cách báo cho cha biết nhưng nghĩ mãi không có cách nào; tự nhiên nói thầm với cha thì vô lễ mà gọi cha ra chỗ khác cũng không tiện. Mùi ngồi ăn mất cả ngon. Nàng bứt rứt mỗi khi thấy câu chuyện sắp đưa đến chỗ mà câu hỏi về gia thế ông Năm có thể xẩy ra được.
Ông Lang hỏi ông Năm:
"Ông có mấy cô cậu?"
"Tôi có bốn cháu. Hai cháu còn bé."
"Ông sinh cháu ở đây?"
"Không, tôi sinh hai cháu lớn ở nơi khác."
"Ông mới đến đây được mấy năm?"
"Được hai năm."
"Ông..."
Mùi giật mình nhìn ông Năm Bụng rồi đằng hắng to một tiếng để cha chú ý đến mình; nàng nhìn cha chớp chớp mắt rồi lắc đầu nhanh mấy cái. Ông Lang ngơ ngác, nhìn xuống mâm cơm, nhìn hai bên quay đầu nhìn phía sau lưng rồi lại nhìn Mùi. Ông không hiểu tại sao con gái mình lắc đầu, chớp mắt. Ông nghĩ thầm chắc nó ăn phải ớt cay, ông nói tiếp câu định hỏi:
"...Ông bắt đầu cất rượu từ khi đến đây?"
Mùi thở một cái, nhẹ người. Nhưng chỉ một lúc sau câu chuyện lại đưa đến cái dốc nguy hiểm ấy. Ông Lang nói:
"Độ này, thuốc đau mắt của tôi bán cũng chày chạy, cháu nó lại chịu khó buôn bán tần tảo. Độ tôi còn ở quê tôi, bên Phướn..."
Thế rồi ông kể đến việc cháy nhà, việc rời quê đưa vợ con đến đây bẩy năm trước và ông hỏi ông Năm Bụng:
"Quê ông ở gần đây?"
"Không, ở xa lắm."
"Ông..."
Mùi lại giật mình, đặt đũa xuống, đằng hắng đến mấy tiếng nhưng cha nàng vẫn không nhìn về phía nàng.
"Ông thế là may, không như tôi ở gần quê, có nhiều người qua lại phiền nhiễu tệ."
Mùi lại thở nhẹ một cái; sau cùng, ông Lang đứng dậy ra lấy cái khăn mặt. Mùi chạy theo rồi khẽ nói vào tai:
"Thầy đừng hỏi vì cớ gì ông ấy đến đây."
Nói xong được câu ấy, Mùi quay về mâm; còn mỗi một miếng cá trong đĩa nàng gắp luôn, chấm thật nhiều tương rồi và lùa hết cả bát cơm; lúc bấy giờ nàng mới thấy thịt cá thơm ngon và rán vừa chín ròn.
Ông Lang lúc đó mới hiểu vì sao ban nẫy con gái mình lắc đầu làm hiệu nhưng mà tại sao lại đừng hỏi ông Năm câu ấy thì ông không hiểu. Chính câu nói của Mùi lại nhắc ông nhớ ra rằng ông đã quên bẵng đi không hỏi về gia thế ông Năm, một câu hỏi rất cần đối với ông. Thế mà câu rất cần ấy Mùi lại bảo ông đừng đả động đến. Lạ thật, không hỏi về gia thế ông Năm thì đời nào làm thông gia với ông được. Lúc trở về mâm, ông định tìm cách khéo không hỏi thẳng. Sau khi tỏ cho ông Năm Bụng biết là chính quê ông không phải ở bên Phướn, ông cụ thân sinh ra ông mới rời đến đây được dăm chục năm, ông nói tiếp:
"Chính quê tôi ở vùng Bắc. Quê ông chắc cũng ở vùng ấy."
"Không."
Ông Năm Bụng không nói thêm gì nữa, nhấc cốc uống một hơi cạn. Một lát sau ông Lang lại nói:
"Làng tôi chính tên chữ là Phương Thảo thế mà nôm na thế nào lại gọi là Phương thành Phướn được. Cũng như làng Trò ở Xóm Cầu Mới chính tên chữ là Trà Viên, làng Giằng tên chữ là Châu Giang. Người nhà quê ta đến hay, tên đẹp thế mà gọi nôm na xấu cả đi. Thật nôm na cha mách qué. Tên nôm làng ông là gì nhỉ?"
Mùi phục cha đã hỏi rất khéo. Ông Năm chắc bị vào tròng. Nhưng ông chỉ đáp:
"Làng tôi không có tên nôm."
Ông Lang lại nói đến tên cụ Cử thân sinh ra ông cũng bị họ gọi nôm na là cụ tú Nịch rồi ông kể lại những việc làm của cụ lúc còn sinh thời:
"À, cụ thân sinh ra ông mất hay còn?"
"Cụ nhà tôi mất rồi."
Nói hết câu, ông Năm Bụng đặt bát, bỏ đũa xuống mâm ngồi yên lặng lầm lì. Mùi đưa mắt nhìn cha. Vừa lúc ấy Triết đi học về vào tới nhà và cất tiếng chào ông Năm. Ông Năm vẫn cứ ngồi yên không đáp lại lời chào.
Ông Lang bảo Triết:
"Cố học lên, sang năm tao cho mày lên học trường Bưởi với anh Nghĩa ở Hà Nội."
Ông quay lại phía ông Năm:
"Nghỉ hè này ông cho cháu sang bên nhà học thêm cậu Nghĩa."
Triết cất sách rồi ngồi xuống phản ăn cơm. Chàng vui sướng nhưng không phải vì được lên Hà Nội mà chỉ vì đến học với Nghĩa chàng có được cơ hội gần Lan con gái lớn ông Năm Bụng mà chàng thấy đẹp như tiên và vì thế chưa dám nhìn rõ mặt bao giờ.
Ông Lang lại quay về phía Triết:
"Mày xem cậu Nghĩa, cậu ấy học cả đêm lẫn ngày, ăn cũng học ngủ cũng học còn mày thì động học là ngủ."
Mùi thấy ông Năm lại cầm bát đũa lên và gắp ăn ngon lành như trước. Ông Lang cũng không dám hỏi bóng gió về gia thế ông Năm nữa, nói sang chuyện khác và bữa cơm lại trở lại vui vẻ như lúc đầu.
Cơm nước xong ông Năm Bụng đứng lên cầm chai dắt vào bụng. Ông Lang hỏi:
"Chai không thì sợ gì tây đoan mà cần dắt vào bụng?"
"Phải dắt chứ, nếu không làm thế nào mang được chai về."
Tuy ông Năm Bụng say rượu nhưng thoắt một cái năm chai đã biến mất. Mùi chợt thấy là ông Năm nói phải, nếu không dắt chai không vào bụng thì không có cách gì mang được năm chai và một cái gậy về.
Ông Lang tiễn ông Năm ra cửa như tiễn một quý khách chứ không phải một người đến bán rượu. Bỗng Mùi gọi giật ông Năm lại:
"Quên, ông chưa lấy tiền rượu."
Ông Năm Bụng quay lại:
"Tôi lại đem rượu sang ngay bây giờ và lấy tiền cả mười chai luôn thể."
Mùi mỉm cười vì ông Năm say mà nhớ kỹ thế; bỗng nàng thấy quả tim như thót lại khi nghĩ đến phải trả tiền những mười chai:
"Để đấy có mất đi đâu."
Nàng thầm nhắc lại câu ông Năm nhưng vẫn không an ủi được sự rấm rứt tiếc tiền ở trong lòng. Mười chai rượu uống mấy tháng cũng chưa hết.
"Thật là mất toi đồng bạc."
Mùi tự trách mình hay có tính thương hại vơ vẩn và tức cả cha tự nhiên cũng đâm hoang phí mua thêm năm chai nữa.
"Năm chai thì không sao. Đằng này lại mười chai. Lại còn phải mua thuốc ngâm không có tây đoan nó bắt bỏ tù. Thuốc ngâm mười chai cũng đến đồng bạc nữa là ít. Mười chai, hai đồng bạc, giời đất ơi."
Nàng mỉm cười cất tiếng nói với ông Lang:
"Thầy ơi, mười chai kia à?"
Ông Lang mỉm cười và Mùi tưởng ông cũng như nàng ngoài mặt vui vẻ nhưng trong lòng thì chua chát:
"Ừ, không mười chai thì mấy. Mày mua năm, tao năm. Năm với năm vị chi là mười."
Rồi ông Lang hỏi Mùi tại sao lại đừng hỏi về gia thế ông Năm. Mùi nói cho cha rõ nguyên do. Ông Lang buột miệng:
"Thế thì làm thế nào?"
Mùi hỏi:
"Thầy cần gì biết rõ việc riêng nhà ông ta."
Ông Lang không đáp. Ông vừa chợt nghĩ đến bà Cai. "Phải nếu bà Cai về đây thì việc mới xong được, đàn bà với đàn bà nói những câu chuyện ấy mới dễ." Ông hỏi Mùi:
"Bác Cai sắp đến chưa?"
"Thưa thầy con không biết."
"Thế bao giờ thì bác ấy đến?"
"Thưa thầy trong thư không nói rõ."
"Phiền nhỉ."
Mùi tưởng cha phiền vì việc bà Cai về.
"Thế nhà đã thuê được rồi à?"
"Thưa...thưa thầy..."
Mùi lưỡng lự rồi đánh liều nói với cha vì biết là cứ dấu thì cái phiền cứ kéo dài mãi:
"Thưa thầy chưa!"
"Thế sao độ nọ mày lại bảo là đã thuê được nhà rồi."
"Người ta lại đổi ý kiến, phiền quá."
"Cũng chẳng sao. Chúng bay liệu dọn nhà cửa để bác ấy đến có chỗ ở.”
Ông Lang nhìn về phía nhà:
"Nhà cũng rộng chán. Mày viết ngay cái thư báo cho bác biết là chỗ ở có rồi, bác cứ dọn ngay về, càng sớm càng hay."
Mùi ngạc nhiên đưa mắt nhìn cha, không hiểu vì lẽ gì cha lại đột nhiên đổi cả tính nết: đương ít nói đổi ra hay nói, đương hà tiện đổi ra hoang, đương bứt rứt về việc bà Cai và việc không thuê được nhà lại bảo nàng viết thư dặn bà Cai về càng sớm càng hay và lại ở ngay nhà này và cả cái nhà này nữa lúc trước thì chật chết bây giờ cũng hoá ra rộng. Mùi vui sướng nhìn cha, cố tìm hiểu vì cớ gì nhưng nghĩ không ra.
Chương V
Cậu Ấm đi bắn vịt trời
Ấp cụ Án ở cách xóm Cầu Mới vài trăm thước. Cụ Án ông đã mất hơn hai mươi năm trước nên người trong xóm không ai biết mặt. Cụ Án bà thì vì liệt một bàn chân, đi lại rất khó khăn và phải chống nạng nên không ra khỏi cửa, vì thế cũng rất ít người biết mặt. Chung quanh ấp luỹ tre bao vây dầy đặc, "con gà chui không lọt"; vào ấp chỉ có một lối đi nhưng có đến ba cái cổng: ở ngoài cùng là một cái cổng gạch, ô tô đi lọt, cái cổng thứ hai và thứ ba trước kia bằng gỗ nhưng bây giờ vì đổ nên thay bằng hai cái cổng tre trống. Trước kia vì cụ Án còn ruộng ở chung quanh nên người ra vào tấp nập; gần đây cụ bán dần hết nên không mấy người vào ấp nữa; mọi người đều ngại gọi cổng, phải đợi người nhà ra mở ba cái cửa, lại đợi người nhà đóng hết ba cái cửa, rồi vào đến sân lại gặp một đàn chó dữ. Vả lại cũng không ai có công việc gì cần vào ấp. Dân xóm ngày ngày nhìn thấy cái luỹ tre cao trước mặt nhưng còn ở trong luỹ tre ấy cái nhà cụ Án ở và cả cụ Án nữa mà họ vẫn nhắc đến tên luôn thì đối với họ như là ở một thế giới xa xôi, bí mật. Mỗi ngày hai lần người nhà ra phố mua thức ăn nhưng anh người nhà lại rất ít nói và hình như có lệnh cấm không được nói chuyện với ai về công việc ở trong ấp. Mợ Ấm Hải con dâu cụ Án thỉnh thoảng lắm mới ra phố và mỗi lần nàng ra phố là cả dân phố ngừng công việc để ngắm. Họ tưởng mợ như vừa ở trên trời rơi xuống, mới ở một cảnh tiên nào hiện ra. Mợ ăn mặc rất sang, người mợ đẹp, mắt đen và sáng và nhất là nước da của mợ được họ chú ý đến nhất. Mợ đi đến cửa nhà lão Nhai thì Hai Diên ở cách đấy một nhà thì thầm bảo chồng:
"Người đâu trắng như bột."
Mợ đi qua nhà Hai Diên thì cả nhà Hai Diên lại đứng yên tắp để ngắm và lại đến lượt mẹ Liễn ở bên cạnh khen:
"Hai má như hai quả trứng gà bóc."
Hai bà cụ Huế vì ở Kinh Đô nên thường tấm tắc:
"Trắng hơn cả bà Hoàng Hậu."
Chỉ có cậu Ấm Hải là hay ra phố luôn hoặc đi chơi hay đi bắn chim nên ai cũng thấy cậu tầm thường, không có gì đặc biệt hơn người. Cũng vì thế nên Hải thấy mình tự do, đi đâu không ai chú ý, không như vợ chàng mỗi lần ra phố về lại than phiền:
"Họ cứ nhìn tròng trọc vào mình như nhìn một con vật lạ."
Có lần Hải bảo vợ:
"Thì tại em là một con vật lạ thật. Ai bảo lại ăn mặc sang thế kia."
"Thì chỉ có mỗi một bộ áo, không mặc nó thì mặc áo cánh ra phố à?"
"Thế tại làm sao da lại trắng thế?"
"Giời sinh ra, làm thế nào?"
"Thế tại sao mắt Duyên lại đẹp thế, má Duyên lại hồng thế, môi duyên lại tươi thế?"
Thế là Hải kéo vợ vào lòng, hôn luôn mấy cái:
"Mình ăn mặc thế này hôn mình tưởng như là hôm mới cưới nhau. Sao mình không mặc luôn?"
"Mặc luôn thì rách."
Bỗng Duyên đẩy chồng ra:
"Cái áo gần mười năm, ôm chặt lấy người ta rách tung cả ra rồi."
Hai vợ chồng cùng cười rồi lại ôm chặt lấy nhau hơn trước và sung sướng. Hôm ấy Duyên phải ngồi cả buổi chiều mạng lại chỗ bục ở vai. Nàng sung sướng nghĩ đến tình vợ chồng yêu nhau cứ mỗi ngày một tăng. Tuy nhà bắt đầu sa sút, không có nhiều tiền để sắm sửa thêm, nhưng tiền riêng của nàng vẫn còn một ít và đồ tư trang của nàng vẫn còn nguyên, nếu tằn tiện thì cũng không phải tiêu đến nó. Hai đứa con nàng còn nhỏ, chưa phải đi học nên cũng không mấy tốn kém. Hoạ chăng tốn tiền nhất là những hôm Hải đi Hà Nội mua đạn:
"Mua đạn để toàn bắn những cò là cò."
Hải hay bắn cò vì cò dễ bắn trúng và lúc nào muốn bắn cũng có sẵn cò, không phải đi xa tìm kiếm.
Tuy là tốn tiền mà chỉ được ăn thịt cò, ăn nhiều đến nỗi bây giờ nuốt không trôi nữa phải đem cho, nhưng mỗi lần chồng hỏi tiền để đi Hà Nội mua đạn thì nàng vẫn đưa một cách vui vẻ vì thấy chồng chỉ có mỗi cái thú bắn cò ấy. Độ này Duyên lại thấy Hải hay đi bắn luôn và tuy không được con cò nào - hay được nhiều quá nhưng không dám đem về sợ vợ buồn nôn chăng - nhưng đạn thì chóng hết và hay đi Hà Nội luôn.
"Cậu lại sắp đi bắn à? Bắn luôn thế tốn đạn chết?"
Ăn cơm sáng xong, thấy chồng đem súng tháo ra lau dầu, Duyên đến gần xem. Hải nói:
"Có lau hộ người ta không nào?"
"Bẩn tay chết."
Hải cầm cái giẻ đầy dầu quệt mạnh một cái lên bàn tay trắng nõn của vợ:
"Bây giờ lau đi, lau súng chứ không phải lau tay, đằng nào cũng bẩn rồi; nói léo nhéo cái gì."
Duyên dí ngay bàn tay bẩn vào mũi Hải; xoa xoa mấy cái cho mũi Hải thật đen bóng. Hải cứ để yên mặc vợ xoa không nói gì.
Duyên cười:
"Người ta mới nói có thế mà đã tìm cách báo thù. Hay là chỉ cốt bắn phung phí cho chóng hết đạn để lên Hà Nội với con ranh nào..."
Đương lau súng, Duyên như chợt nghĩ ra một điều gì, bảo chồng:
"Bắn, sao độ này không nghe thấy tiếng súng?"
Hải trả lời ngay vì câu trả lời đã nằm sẵn ở trong óc chàng từ lâu:
"Người ta đi bắn vịt giời, ở mãi tận cánh đồng Nậu."
Duyên ngơ ngác, lấy làm phục:
"Cậu mà cũng bắn được vịt giời cơ à?"
Hải nhấc cái nòng súng đưa ra ánh sáng, nhắm một bên mắt và nhìn vào vợ chứ không nhìn vào lòng súng rồi nói:
"Bắn được."
Yên lặng một lúc Duyên lại hỏi:
"Thế có trúng không?"
"Không trúng".
Duyên gật gù đầu:
"Tài nhỉ".
"Tôi tài hay vịt giời tài?"
Hải nhìn ra sân không có ai, vội đưa đầu ra đằng trước và hôn vào môi vợ một cái.
Duyên nghiệm ra rằng độ này chồng hay có những lúc vui vẻ đột ngột, nói đùa luôn miệng và có khi đương đêm cũng đánh thức nàng dậy:
"Người ta đương thấy thinh thích trong người, dậy đi nói chuyện với nhau cho vui đi em."
Hôm nay, thấy tự nhiên đang lau súng Hải lại hôn mình, nàng nhìn chàng nói:
"Lại lên cơn điên vui có phải không?"
Bỗng nàng ngơ ngác, nét mặt yên tắp. Nàng vừa để ý đến vết dầu đen ở mũi chồng và chợt hiểu tại sao chồng lại hôn mình. Hải nhìn vào mũi Duyên rồi cất tiếng cười to.
Duyên nói:
"Đồ tiểu nhân báo thù."
Hải đáp:
"Khổng Tử đã dậy: Không nên làm cho người khác cái gì mà mình không muốn người khác làm cho mình.”
"Thế sao cậu lại làm mũi em đen?"
"Câu ấy ám chỉ vào một mình mợ thôi, còn tôi hôn tức là tôi theo đúng lời thánh dậy: làm cho người khác cái gì mà mình thấy thinh thích muốn người khác làm cho mình. Mợ hiểu ý chưa?"
Chàng đưa đầu ra đằng trước, chờ Duyên hôn lại, Duyên cười:
"Thánh đâu lại dậy cái câu buồn cười thế. Thánh đâu lại nói thấy thinh thích..."
Duyên hôn lại chồng, vừa hôn vừa nói:
"Đằng nào mũi cũng đen rồi."
Hải cười, nói:
"Ồ, mợ làm thơ. "Đằng nào mũi cũng đen rồi", nhưng câu thơ ấy buồn lắm."
Một lúc sau, bác người nhà lên đưa Hải đôi giầy. Bác nhìn vào mũi cậu Ấm rồi lại nhìn vào mũi mợ ấm, nhưng bác không dám cười, vội vàng đi ngay xuống nhà dưới.
Hải đi giầy, đeo súng, với cái mũ đi săn đi lên đầu, nhìn cái đầu súng rồi lại nhìn vợ. Duyên cũng nhìn đầu súng rồi nhìn chồng gật đầu mấy cái, tỏ vẻ hiểu ý chồng. Hải ra tủ lén vợ lấy cuốn tiểu thuyết đút vào túi. Rồi chàng cho tay vào ngực xem đã có gói chè tàu ngon trong ấy chưa.
Duyên đứng nhìn theo chồng đi ra sân, nghĩ thầm:
"Độ này anh Hải lại dám bắn cả vịt giời. Nhưng chưa khoe với mình vì chưa bắn trúng con nào."
Nàng nuốt nước bọt vì nàng nghĩ bắn mãi thì rồi cũng có ngày trúng một con và thịt vịt trời chắc hẳn phải ngon, không như thịt cò tanh chết, cho bao nhiêu xả cũng không hết tanh, mà ăn mãi lại sợ mùi xả hơn cả mùi tanh của cò.
"Cậu Ấm đi bắn vịt giời."
"Cậu Ấm đi sang cánh đồng Nậu."
Đó là những lời trẻ con ở xóm nói với Hải mỗi lần chàng vác súng đi qua. Trước kia còn đi bắn cò, bắn chim gáy, bao giờ theo sau Hải cũng có hai ba đứa trẻ; chúng lội xuống ruộng, chui vào bụi rậm để nhặt chim cho chàng. Hải đuổi chúng đi, chúng cũng không đi. Thành thử rất khó khăn cho việc riêng của chàng bây giờ. Vì vậy chàng nghĩ ra kế đi bắn vịt trời ở tận cánh đồng Nậu, xa quá chúng không theo được. Chúng đợi mãi chưa thấy lần nào Hải xách vịt về nên chúng thất vọng và có đứa bảo Hải:
"Cậu Ấm không đi bắn cò để cháu xách nữa à? Vịt giời thì cậu bắn thế nào được?"
Nghe câu ấy, Hải nghĩ bắn vịt trời dễ hơn bắn cò vì vịt trời to hơn nhưng cái khó là làm thế nào đến được gần sát nó như là đến gần cò. Cái súng cổ của chàng không thể bắn xa mà chết vịt được, chỉ trừ may ra trúng ngay đầu vịt, chứ thực ra tài bắn của chàng không đến nỗi để đến cả trẻ con cũng khinh. Súng chàng không bắn được vịt trời, biết thế nhưng chàng không nói ra cho vợ rõ và tuy những đứa bé tỏ lời khinh thị chàng cũng không nói ra để chống chế. Súng không bắn được vịt trời mà cứ đi bắn vịt trời là một sự vô lý.
Hải đi qua Xóm Cầu Mới, đi qua phố Phủ rồi đến nửa đường sang làng Nậu, tới chỗ cái quán làng Cầu có cây đa con gà, chàng ngồi xuống lấy thuốc lá hút. Hút xong chàng ngồi nghỉ, giở tiểu thuyết ra đọc và khi đã đến giờ, chàng đứng lên. Đưa mắt tìm không có con chim nào, chàng bắn chỉ thiên một phát để có chứng cớ là súng có bắn đạn. Lúc đầu chàng còn chịu khó đi đến tận cánh đồng làng Nậu vì chàng nghĩ nếu gặp vịt dẫu xa đến đâu thì xa cũng cứ bắn bừa một phát may ra trúng đầu vịt hay mắt vịt chăng. Về sau chàng thấy vô ích và đi xa quá mỏi chân, cứ đến quán làng Cầu là chàng ngừng lại. Chỗ ấy vắng, không ai biết chàng ra đấy và nếu có ai quen đi qua cũng chỉ cho là chàng đi săn mệt, ngồi nghỉ chân một lát.
Lúc trở về, Hải không đi qua Xóm Cầu Mới. Trước khi đến cầu, chàng rẽ sang con đường đi về làng Trò vì từ ở Phủ về ấp của chàng có hai con đường: con đường đi qua Xóm Cầu Mới thì có cầu và con đường đi qua làng Trò gần hơn một ít nhưng lại phải qua đò. Đi trên con đường vào làng Trò có thể trông thấy luỹ tre ấp và tuy biết là đứng ở hiên nhà nhìn ra không thấy được con đường (chàng đã xem xét cẩn thận rồi) và Duyên ít khi đem con ra cổng đứng chơi, nhưng chàng cũng để súng sát vào cạnh sườn bên trái ngộ nhỡ Duyên có ra cổng ngoài nhìn về phía ấy thì ở xa không có súng không thể nhận ra chàng được. Vào làng, Hải chọn những con đường vắng nhất và tuy vác súng đi vào làng Trò để kiếm chim là một sự tự nhiên mà thấy có người tò mò nhìn, chàng cũng ngường ngượng như là người ta đã biết chàng vào đấy không phải là để bắn chim. Nhất là lúc chàng đi khỏi, nếu họ nói với nhau câu gì chàng nghe không rõ thì chàng lo sợ tưởng họ nói cạnh đến mình. Tới chỗ đường rẽ ra bến Trò, Hải cũng cứ đi thẳng. Đến tận cuối làng, chỗ có cái cổng gạch làng mở ra cánh đồng, quay lại nhìn phía sau không có ai chàng đi rẽ sang bên phải lần theo hàng dậu ruối đi thật nhanh và khi đến cổng một cái nhà tranh, chàng dừng lại, đứng sát vào cửa cho người đi ở ngoài đường cái làng không trông thấy.
Hải nhìn qua những cành tre ở cạnh cổng. Một cơn gió thoảng qua; bóng lá tre và bóng nắng chạy loang loáng trên sân đất nhẵn bóng và quét sạch. Tuy trời giá rét nhưng chàng thấy cái cảnh bóng lá tre rung động là mát và cả gió cũng mát nữa. Có hai con gà đứng sưởi nắng ở cạnh gốc đậu ván, lấm tấm hoa tím. Cả những cảnh nhỏ nhặt ấy chàng cũng để ý đến và thấy đẹp như trong một thế giới bồng lai nào.
Chàng cất tiếng gọi:
"Bác Hiên ơi!"
Có tiếng kẹt cửa rồi bác Hiên gái bước ra, mỉm cười nói:
"Bẩm cậu đến."
Bác ra chống cửa tre, đợi Hải đi qua, lại hạ xuống ngay, cài chốt rồi đi vào nhà và cũng đóng ngay cửa nhà lại. Hải nhìn thấy cái giường không, thất vọng:
"Bác giai đi vắng?"
"Vâng thưa cậu, thầy cháu có việc phải sang Yên Ninh."
"Thế độ bao giờ thì về."
"Bẩm cậu không biết có lẽ tối xẩm mới về."
"Phiền nhỉ, bây giờ mới độ ba giờ chiều mà đợi đến tối thì tôi không thể đợi được."
Nói thế nhưng chàng cũng cứ bỏ mũ, đặt súng, lại giường ngồi, nói với bác Hiên gái:
"Làm thế nào bây giờ?"
Bác Hiên gái không trả lời câu Hải hỏi, nàng nói:
"Để cháu đi đun nước."
Hải móc ở túi ra gói chè đưa cho bác Hiên và hỏi:
"Nhà còn thuốc không?"
Nhà còn thuốc nhưng bác Hiên gái đáp:
"Thưa cậu không, để cháu chạy đi mua, chỉ một lát thôi."
Hải nhìn bác Hiên một lúc rồi ngượng ngập nói:
"Nhưng tôi không biết tiêm."
"Cháu biết tiêm. Nếu cậu không chê là tiêm vụng thì để hôm nay cháu tiêm hầu cậu."

"Thôi cũng được."

Biết là sức mình chỉ hút hết hai hào chàng cũng đưa cả cho bác Hiên ba hào để bác đi mua, ăn bớt thì vừa đúng ngữ say của chàng.
Bác Hiên đi khỏi, Hải kéo gối nằm ngửa trên giường, nhìn trần nhà.
Lần đầu tiên chàng đến đây đã trên tám tháng. Hôm ấy chàng bắn chết một con chim gáy và chim lại rơi vào phía sau nhà bác Hiên. Trẻ con không có đứa nào theo nên chàng phải vào nhặt và vì tay rẩy máu chim chàng phải lại cái cóng nước gần chỗ bác Hiên trai nằm hút thuốc để rửa tay. Bác Hiên ngồi dậy rồi chào mời chàng vào uống nước và xơi điếu thuốc cho đỡ mệt. Thế là sự tình cờ đã xui chàng hút điếu thuốc phiện đầu tiên trong đời. Chàng hút luôn hai điếu nữa chỉ cốt hút nhiều một tí để có cớ trả tiền, bác Hiên khỏi từ chối. Lại vì sự tình cờ hút ba điếu là vừa đúng ngữ say (về sau chàng mới biết rõ là đúng ngữ) nên hôm ấy chàng thấy chưa bao giờ trong người sung sướng dễ chịu như thế.
Ở nhà bác Hiên đi ra, chàng đứng lại ở sân nhìn và không bao giờ chàng quên được lúc đó. Gió rét nhưng trong người chàng ấm áp; chàng ngạt mũi thấy nóng và hơi ngứa ở hai lỗ mũi phải thở mạnh luôn nhưng cả đến cái ngạt mũi cũng dễ chịu lắm. Người chàng hơi lảo đảo, lơ mơ nhưng không lúc nào trí chàng sáng suốt đến thế, óc chàng như trong hẳn ra. Cái sung sướng của chàng không phải là cái sung sướng mê man của những người đương yêu hay say rượu; từng thớ thịt, từng thớ xương, khắp người chàng thì sung sướng bàng hoàng nhưng trí chàng thì lại tỉnh táo để nhận thấy rõ hơn cái sung sướng của thân thể.
Gió lạnh rào rào trong luỹ tre, lá tre rung rung, và các đầu ngọn tre ngả nghiêng trước gió, mọi cái chàng nhìn thấy rõ ràng trước mắt nhưng hình như lại ở tận đâu đâu, ở một thế giới nào khác và thế giới ấy là một thế giới sung sướng, vui vẻ.
Tối về nằm, gối đầu vào cánh tay vợ, lúc đó thuốc đã ngấm cái thú của chàng lại hơi khác. Chàng có cái khoan khoái của người đương thiu thiu buồn ngủ sau mấy đêm không được ngủ và cái thú thiu thiu buồn ngủ ấy lại kéo dài đến mấy giờ đồng hồ. Thỉnh thoảng chàng lại cựa quậy mấy cái, sợ mình ngủ thật đi mất; ngay những lúc mà chàng thiêm thiếp tưởng mình ngủ rồi thì lạ lắm, óc ngủ nhưng riêng thân thể chàng vẫn thức để cảm thấy sung sướng; cái sung sướng ấy nó cũng ngủ như thân thể chàng; đến khi chàng cựa tay, lắc đầu cho tỉnh giấc thì cái sung sướng ấy cũng thức dậy.
Thế rồi nửa tháng sau chàng lại đến nhà bác Hiên và cứ đến đều đều như thế trong ba tháng. Rồi cái hạn rút ngắn xuống mười ngày, một tuần lễ; bây giờ thì cứ năm ngày chàng đến một lần và chàng cố giữ như vậy đã được hai tháng rồi. Chàng đã bắt đầu phải để ý đến tiền hút nhưng đối với bác Hiên chàng vẫn chi tiền rộng rãi vì chàng nghĩ một tháng hút sáu bẩy lần không tốn bao nhiêu; hai giờ đồng hồ chàng nằm ở nhà bác là hai giờ sống thần tiên, chàng muốn hai bác Hiên lúc nào cũng vui vẻ tiếp đãi chàng. Tiền Duyên đưa chàng đi Hà Nội và tiền mua đạn chàng đã để dành được một số; đã lâu chàng không đi Hà Nội nữa, đi chơi vơ vẩn ở các làng xa đến giờ xe lửa đêm ở Hà Nội về thì chàng cũng về nhà ga như mình ở xe lửa xuống. Đạn thì mỗi lần chỉ bắn một viên; sợ trẻ con theo đông không tiện và sợ mọi người không nghe thấy tiếng súng nên chàng bỏ bắn cò và vì thế chàng đi bắn vịt trời.
Bác Hiên gái đã đi mua thuốc về. Bác đặt lên giường cái khay thuốc và thắp đèn. Bác đi xuống nhà bếp lấy ấm nước sôi pha chè rót vào một cái chén riêng mời Hải uống.
"Xin phép cậu."
Nàng vén áo ngồi lên giường và bắt đầu hơ nướng thuốc. Hải lấy ở túi ra một cái bánh khảo nhân đỗ đen và một quả quýt mới mua ở phố Phủ. Bao giờ chàng cũng phải mua quýt, cam hay bưởi để khi về đến cổng thì cấu một ít vỏ lấy nước thơm xoa lên môi cho vợ khỏi ngửi thấy mùi thuốc phiện. Cứ thế bao lần rồi mà Duyên không để ý.
"Đàn bà tinh ranh lắm nhưng vợ mình thì ngớ ngẩn."
Hải ngồi dậy, cởi giầy rồi kéo cái chăn đắp lên chân. Chàng nằm nhìn bác Hiên gái nướng thuốc. Không biết vì thuốc có pha hay vì vụng tay mà điếu thuốc cứ thỉnh thoảng lại rớt xuống đèn. Mỗi lần có một giọt sắp rớt xuống thì môi bác Hiên lại trễ xuống một cái. Rồi nàng lại mỉm cười nhìn Hải.
Hải vẫn thấy bác Hiên đẹp nhưng lần đầu tiên chàng được nhìn kỹ nét mặt. Nằm đợi bác tiêm, Hải tha hồ ngắm: đôi mắt bác, chàng thấy có vẻ thơ ngây vì có hàng lông mi dài và cong lên; đôi môi bác có duyên ở chỗ hai bên mép lại cong xuống một tí, hai cái lúm đồng tiền thì một cái cao một cái thấp và vì thế miệng lại có vẻ tinh nghịch. Chàng giơ bàn tay như để che ánh đèn chói nhưng thực ra chỉ cốt để che nửa mặt dưới chỉ nhìn hai con mắt, rồi lại che hai con mắt chỉ nhìn nửa mặt dưới. Chàng thấy như là nhìn hai người đàn bà và bất giác bật cười làm bác Hiên lại nhìn chàng nhanh một cái tưởng như Hải chê mình tiêm vụng.
Hải nghĩ nếu lần nào cũng được bác Hiên gái tiêm thì thật an toàn. Căn nhà này ở chỗ cuối làng, đi ra đi vào không ai nhìn thấy; nhà lại chỉ có hai vợ chồng tính nết kín đáo, và không có con, không có khách, chàng nằm hút hàng giờ được yên tâm. Hai vợ chồng vì thỉnh thoảng chàng đến hút kiếm thêm được ít nhiều, nên chiều chuộng chàng hết sức. Mỗi lần chàng đến, chàng có cái ý nghĩ đã làm cho người khác được nhờ mình và cái ý nghĩ làm cho người khác vui vẻ ấy cũng cần cho cái thú hút thuốc phiện của chàng như nước chè ngon và bánh khảo.
Chàng thích nhất - và cái thích ấy hơi khác cái tính thích thông thường của những người hút thuốc - là căn nhà chàng nằm không tối hẳn và cũng không sáng quá. Tiếng gió trong lá tre, hoa nắng và bóng lá tre lấp loáng trong buồng, qua các cửa chắn song hé mở, ánh phản chiếu của nước sông phía sau chạy lăn tăn vàng trên mái nhà, tất cả những cái đó trong khi chàng say thuốc lơ mơ nằm yên, thì hoạt động quanh người chàng, tiếng gió rào rào lúc to lúc bé, ánh nắng vàng lúc sáng lúc nhạt, tất cả những cái rung rinh của thế giới ở ngoài làm tăng thêm rất nhiều cái thú yên tĩnh và thâm trầm ở trong thân thể chàng.
Hải đã hút đến điếu thứ năm và đã bắt đầu say. Trong khi cái hạn đến hút của chàng thu ngắn lại thì số điếu thuốc đúng ngữ say của chàng tăng lên. Bây giờ chàng phải hút tám điếu mới đủ.
Bỗng Hải ngạc nhiên thấy bác Hiên đặt dọc tẩu và tiêm xuống, tay ôm bụng, đôi lông mày cau lại, thở mạnh.
"Bác sao thế?"
"Bẩm cậu cháu đau bụng."
"Bác đau bụng à, hút một điếu thì khỏi ngay."
Hải giơ tay đỡ dọc tẩu để bác Hiên hút; nhìn thấy nàng hút có vẻ thạo, chàng hỏi:
"Bác đã hút bao giờ chưa?"
Bác Hiên nằm ngửa, đưa tay ấn vào bụng; một lúc sau bác nói một mình:
"Kiến hiệu thật, hết hẳn đau."
Rồi nàng nói to với Hải:
"Bẩm cậu, khi nào đau thì phải hút. Lúc thường thầy cháu không cho."
Nàng vẫn nằm yên ngửa mặt, hai hàng lông mi đưa lên đưa xuống, và đôi môi mở rộng để thở. Hải thấy nàng nằm yên lâu lắm; chàng nóng ruột.
"Bác khỏi đau rồi thì lại tiêm đi chứ."
Bác Hiên ngồi thẳng dậy nói:
"Chết chửa."
"Bác cứ nằm tiêm cũng được chứ sao."
"Bẩm cậu, cháu không quen nằm tiêm. Bây giờ hết đau rồi, ngồi cũng không sao."
Hải thấy nét mặt bác Hiên biến đổi hẳn: hai con mắt sáng long lanh, đôi gò má ửng hồng và đôi môi đỏ thắm lại trông như mới nở mọng ra một ít và hơi khô khô; cả mặt như bừng bừng nóng, lông mi và đôi môi rung rung vì sung sướng.
Bác Hiên đưa mắt nhìn Hải và thấy hai con mắt Hải nhìn mình có vẻ khác. Hải nói:
"Cổng trống, bác cài then rồi chứ?"
"Bẩm cậu cài rồi, cả cửa nhà nữa ạ."
Câu hỏi ấy rất thường vì lần nào Hải đến cũng dặn dò đóng cổng ngoài cẩn thận, nhưng hôm nay nàng thấy mang máng câu hỏi ấy có vẻ gì khác lạ. Vừa tiêm xong điếu thuốc, nàng đưa cho Hải. Hải ngồi dậy:
"Bác hút thêm một điếu nữa."
"Thưa cậu cháu khỏi đau rồi."
"Khỏi đau cũng cứ hút cho đủ say."
Hải đặt dọc tẩu vào bàn tay nàng; Hiên đẩy ra, và trong lúc giằng co tay Hải nhiều lần chạm vào tay nàng. Sau cùng Hải nắm hẳn lấy bàn tay Hiên, kéo nàng nằm xuống và bắt hút; Hải cũng giơ tay đỡ dọc tẩu và như vô tình bàn tay chàng đặt lên bàn tay Hiên. Tuy chàng đã hơn ba mươi tuổi nhưng lần này là lần đầu tiên trong đời chàng dám tình tứ cầm lấy tay một người đàn bà không phải vợ mình. Quả tim chàng đập mạnh, mặc dầu lúc đó vì say thuốc chàng đã trở nên bạo dạn gấp mười lúc thường.
Bác Hiên hút xong đặt dọc tẩu xuống, hai mắt nhắm lại và hai môi mở rộng ra thở mạnh.
"Cậu làm cháu say quá!"
Tiếng nàng nói Hải nghe ấm áp và đầy lẳng lơ. Chàng cũng cố lấy giọng âu yếm nói tiếp theo:
"Say thế mới thú chứ!"
Hải nhắm mắt lại: chàng nghĩ nếu được hôn vào đôi môi một người đàn bà đương say thuốc chắc là một cái thú mê hồn nhưng tuy thèm muốn, chàng cũng không dám đi xa hơn nữa. Không phải chàng sợ; bác Hiên trai có đột ngột trở về cũng phải gọi cổng, bác Hiên gái nếu không thuận cũng không dám làm rầm. Chàng chỉ sợ nếu bác Hiên không thuận thì chàng sẽ ngượng lắm, ngượng riêng với bác ta thôi và cái ngượng ấy sẽ làm vẩn đục cả cái vui của chàng mỗi khi đến đây hút thuốc. Thà bỏ qua một cái thú trong chốc lát về nhục dục còn hơn mất một chỗ hút thuận tiện và thú vị lâu bền. Hải cất tiếng nói với bác Hiên, giọng chàng trở lại bình thường:
"Bây giờ lại tiêm cho tôi hút chứ. Tôi thì tôi chưa đủ say như bác."
Hiền cười rồi ngồi dậy. Nàng cũng thấy nóng ran cả người vì thèm muốn chứ không phải vì say thuốc. Lấy một người chồng xấu xí nghiện ngập, lại không có đứa con nào, đời nàng thiếu thốn. Tuy vậy chưa một lần nào, nàng dám có ý nghĩ bất chính với chồng; nhưng hôm nay ngồi cùng một giường với một người đàn ông đẹp trai, và con nhà dòng dõi trong một căn nhà vắng, các cửa đóng hết, không sợ ai nghi ngờ, nàng đã thấy trong lòng hồi hộp và khổ sở vì thèm muốn. "Biết đâu không có đứa con" nàng nghĩ thế để che đậy sự rạo rực về nhục dục. Chính nàng đã giả vờ đau bụng để Hải mời hút thuốc và như thế nàng sẽ bạo dạn hơn.
Hiên với dọc tẩu, bắt đầu tiêm. Nhìn Hải, nàng biết thế là hết. Nàng thất vọng nhưng cũng thấy nhẹ người vì đã giữ được trong sạch với chồng.
Chương VI
Ngày bán lợn
Tý thò đầu ra khỏi chiếu; thấy trời sáng, không phải sáng trăng, rõ ràng sáng ban ngày, nó vội rụt ngay đầu vào trong chiếu như để tránh một cái cốc đầu của mẹ phạt nó ngủ trưa. Tý định ngủ lại thêm một giấc nữa vì đằng nào cũng sẽ bị mẹ cốc đầu rồi. Nhưng một lúc sau, Tý lại thò đầu ra khỏi chiếu, vì nó cảm thấy có một sự gì khác thường: nó ngủ trưa thế mà sao chưa bị cốc đầu. Nó nhìn sang chỗ Thêm, Nữa nằm và ngạc nhiên thấy hai đứa em nó cũng còn ngủ, chưa bị mẹ tung chăn như mọi buổi sáng.
"Tại sao thế này?"
Nó tự hỏi thế và nhìn ra cửa; rõ ràng trời sáng hẳn rồi, không phải nó ngủ mê. Tý nhìn sang chỗ mẹ nằm và lần này thì không hiểu gì nữa; mẹ nó vẫn còn ngủ, ngáy đều đều. Một là mẹ nó ngủ quên, hai là ốm, nó nghĩ thế và tung chiếu ngồi dậy. Tý định đánh thức mẹ nhưng nó lại ngồi xuống vì nghĩ nếu mẹ nó ngủ quên, đến đánh thức chắc mẹ nó sẽ cốc đầu và mắng tại sao nó ngủ trưa, sáng bảnh mắt rồi mới gọi mẹ dậy và nếu mẹ nó ốm đến đánh thức cũng là một tội nặng. Tý định cứ dậy và ra cho lợn ăn như mọi lần. Nhưng nếu dậy mà không đánh thức mẹ nó dậy, chốc nữa tất sẽ bị đòn. Không biết nên làm thế nào, nó lại chui vào chiếu vì việc làm ấy nó thấy thích nhất, hợp lý và hợp với ý nó lúc đó. Tý lại ngủ thiếp đi.
Một lúc sau Tý sực tỉnh vì cái gì động vào vai. Nó mở một bên mắt và lạ lắm, nó thấy bác Lê gái lay vai nó rồi gọi bằng một cách nghe rất êm tai:
"Tý ơi, dậy thôi đi con."
Nhất là tiếng "con" thêm vào sau cùng, sao mà Tý nghe êm ái thế. Nó mở cả hai mắt nhìn mẹ và nhe răng cười với mẹ. Bác Lê gái thấy tự nhiên con cười với mình, bác không hiểu vì sao nhưng bác thấy cái cười ấy có vẻ ngốc và vì thế bác mỉm cười. Tý dụi mắt vì thấy mẹ lại mỉm cười cả với mình mà như thế đúng vào một hôm ngủ trưa nhất từ trước tới nay. Tý sung sướng, tưởng như mình ở trong một giấc chiêm bao, nhưng rõ ràng không phải chiêm bao, Tý biết chắc như thế.
Thêm, Nữa cũng đã thức giấc nhưng vẫn còn nằm trong chăn; Út đương ngồi bế em bên cạnh. Bác Lê gái với cái bồ đựng quần áo treo ở mái nhà xuống, trút hết quần áo ở trong đổ ra ổ rơm rồi bác ngồi nhặt từng cái xem xét và đếm. Hôm qua bác lái Tính làng Hàn ghé qua, bác Lê gái đã bán ba con lợn được một giá rất hời. Bác định để chậm lại đến gần Tết hãy bán vì có thể được giá cao hơn nhưng mấy hôm trước bác thấy lợn lười ăn mất một ngày. Bác sợ vì trước kia bác đã bị toi mất một con lợn hai ngày trước khi người dạm mua đến bắt. Tuy lợn đã trở lại như thường bác cũng bán ngay và may lại bán được giá cao. Hôm nay bác lái Tính đến bắt lợn và trả tiền. Thế là chắc chắn có tiền để về quê ăn Tết. Cứ mỗi lần bán lợn thì cả nhà lại nghỉ một ngày, vì thế sáng hôm nay bác không dậy sớm và không đánh thức lũ con dậy. Tý mon men đến ngồi gần xem mẹ soạn quần áo. Bác Lê miệng vừa đếm vừa giơ tay làm hiệu bảo Tý đừng sờ đến quần áo. Tý thấy mặt mẹ mình nghiêm trang và miệng lẩm bẩm y như khi cúng Phật. Đếm xong rồi bác xếp những quần áo vào thành từng bộ một. Tý hỏi:
"Hôm nay về quê ăn Tết hở bu?"
Nó nhớ năm ngoái mẹ nó lấy quần áo mới ra mặc cho nó và hôm ấy cả nhà ra ga về quê ăn Tết. Bác Lê đáp:
"Thằng ngớ ngẩn. Tết gì bây giờ mà về... Đứng lên."
Tý đứng lên và tưởng mẹ đuổi toan bước ra chỗ khác. Mẹ nó lại nói:
"Đứng đấy."
Rồi Tý thấy mẹ mình lấy gang tay đo một cái quần rồi lại đặt bàn tay vào chân nó và xoay tay đo từ bàn chân trở lên; khi bàn tay bác Lê lên đến cạnh sườn nó co rúm cả người vì nó có máu buồn. Thấy mẹ nó lại đo một cái quần khác và sắp đặt tay vào người nó đo một lần nữa, Tý vội nói:
"Sao bu không cầm cái quần lên ướm vào người có nhanh không?"
Bác Lê gái toan đo chân Tý, vội vàng cầm cái quần lên ướm. Bác hừ một cái rồi nói:
"Cái thằng này tinh hơn tao."
Tý sướng nở mũi; hôm nay mẹ nó lại lần đầu tiên khen nó nữa.
Rồi Tý thấy mẹ bảo:
"Cởi quần ra!"
Nó ngập ngừng vì nó đã lớn, đứng ngay trước mặt mẹ mà cởi quần nó sợ hỗn và ngượng. Bác Lê giục:
"Cởi ngay ra!"
Rồi bác lấy cái quần mới ướm mặc cho Tý và ngửa mặt ra đằng sau ngắm nghía một hồi rồi nói:
"Tọng cho nhiều vào để bây giờ mặc quần áo ngắn cũn thế này à? Lại mất mấy hào chỉ với mày thôi. Thằng ranh, cởi áo ra."
Tý cởi ngay áo và thấy lạnh ran cả người. Bác Lê lấy một cái áo cánh lên ướm rồi thấy không vừa lại lấy lên một cái khác; bác ngừng lại lấy ngón tay cạo cạo một cái tổ gián dính ở lưng áo. Bác cạo mãi mà không sạch; Tý đứng rét run.
Được mẹ khen, Tý đâm ra bạo dạn, nên lại nói:
"Sao bu không ướm trước để con khỏi lạnh."
Bác Lê gắt:
"Thằng hỗn, mày lại dậy khôn cả tao à? Mới lạnh có một tý thế mà đã dám mắng cả mẹ."
Nhưng Tý đợi mãi không thấy mẹ cốc đầu mình.
Bác Lê mặc áo xong, ngửa đầu ngắm nghía rồi lại cầm hai vai quay Tý một vòng, rồi lại quay Tý một vòng nữa, sau cùng bác lẩm bẩm:
"Thế mà cũng vừa."
Tý thì thấy tay áo ngắn cũn, ống quần thì lên đến nửa bắp chân, thế mà cái quần đã bỏ chùng xuống tận dưới rốn, cái áo cánh thì lại chưa xuống che kín rốn thành thử nó thấy lành lạnh ở bụng. Tý nghĩ mặc thế này mà về quê ăn Tết thì trẻ con làng nó cười chết. Nhưng lần này nó đứng yên, buồn rầu không nói gì.
Bác Lê đẩy Tý ra bên cạnh, nói:
"Nào bây giờ đến lượt thằng Thêm, thằng Nữa."
Thêm và Nữa tung chăn rồi vội đến đứng chờ; sắp được ướm quần mới nên tuy cởi truồng mà chúng cũng quên không thấy lạnh. Bác Lê cúi mặt loay hoay tìm cái quần của Thêm, bác bảo:
"Thêm cởi quần ra."
Tý thấy Thêm đứng truồng tô hô mà mẹ thì cứ bảo cởi quần ra, nó không nhịn được bật lên cười. Bác Lê ngửng lên nhìn Thêm rồi cũng bật cười. Nhưng bác quay ngay mặt về phía Tý:
"À thằng này lại cười cả tao à?"
Nhưng bác không giữ được nghiêm trang, bác vừa nói thế vừa cười to hơn. Tý lại nhìn Nữa nói như ra lệnh:
"Còn thằng Nữa cũng phải cởi quần ra nữa."
Thấy anh nói vậy, Nữa bất giác đưa hai tay xuống bụng như người muốn cởi quần làm bác Lê bò lăn ra cười:
"Mày làm tao không chịu được nữa."
Út không hiểu gì nhưng cũng thích chí cười theo; nó lắc lư người và đụng đầu bé Thôi vào cái bồ làm Thôi khóc thét lên.
Bác Lê trai ở phía ổ rơm bên kia, thò đầu ra ngoài chiếu:
"Mẹ con mày làm gì mà cười, khóc rộn cả nhà lên thế?"
Bác Lê gái ít khi hay cười, nhưng lúc nào có gì vui vẻ trong lòng thì một chuyện cỏn con cũng làm bác cười đến không thở được nữa. Nhưng trong đời bác ít có ngày sung sướng nên bác cũng ít có ngày cười như hôm nay.
Bác Lê gái mặc quần áo cho Thêm, Nữa xong, ngắm nghía Tý thấy quần áo Thêm và Nữa cũng ngắn như quần áo nó. Bỗng bác Lê gái nói:
"Chúng bay cởi hết quần áo ra."
Tý, Thêm và Nữa lại vội vàng cởi hết quần áo ra, đứng truồng tô hô như ba cái tượng lạnh.
Tý hiểu và sung sướng hy vọng không phải mặc bộ quần áo ngắn cỡn, mẹ may cho quần áo mới và cũng vì Tý hiểu nên vừa cởi xong nó vội lấy quần áo cũ mặc ngay vào người. Bác Lê gái lấy quần áo của Tý mặc cho Thêm. Đúng như Tý đoán bác gái gật đầu lẩm bẩm:
"Sang năm thì vừa."
Bác nghĩ dài còn hơn ngắn, ống tay có thể lật nên được, quần thì có thể buộc cao lên và quần áo của Nữa sau này có thể để Thôi mặc. Bác bảo Tý:
"Còn mày, tao may cho bộ mới. Thôi bây giờ chúng bay cởi quần áo ra và đi chơi để tao khâu vá."
Tý sung sướng đi ra phố xem chim sẻ. Một ngày dậy trưa mà không bị cốc đầu lại được mẹ mỉm cười với mình và may cho quần áo mới. Tý không hiểu vì cớ gì nhưng nó thấy rõ là ngày hôm nay không phải làm việc gì cả và muốn làm gì thì làm. Bỗng nó chợt nghĩ đến bác Đỗi:
"Phải đấy, câu tôm cả một ngày, thích biết bao."
Tuy bác Đỗi đã cấm nó đến và không dậy nó câu nữa - nó không hiểu vì cớ gì - nhưng đã lâu nó không đến nên lần này đến may ra bác ấy cho câu chăng. Lần này nó đến không phải để học câu nữa nhưng mà để câu lấy tôm. Câu cả ngày, chiều lại đem một giỏ tôm về, chắc mẹ nó phải bằng lòng. Nghĩ thế Tý chạy về nhà lấy cái giá con đi thẳng về phía bến đò làng Trò. Đi qua ấp cụ Án, gần tới lăng cụ Quận, Tý mới sực nghĩ ra là chưa ăn cơm, nhưng nó cũng cứ đi thẳng. Đã có lần nó thấy cụ Nhiêu đem ra cho Đỗi một rổ cơm đầy và có cả thịt; nó hy vọng bác Đỗi sẽ cho nó ăn một bát và hy vọng lại được ăn thịt nữa.
Bác Lê gái lấy kim chỉ ra ngồi khâu lại những chỗ tuột chỉ. Nửa giờ sau, bác Lê trai ngồi dậy với điếu hút. Bác nhìn vợ rồi lại nhìn xuống bếp, nhưng vẫn không thấy khói:
"Này đằng ấy, nghỉ làm thì nghỉ cả ăn nữa à?"
Bác Lê gái giật mình, bác cốc vào đầu Thêm một cái, mỉm cười nói với Thêm:
"Sao mẹ mày lú gan lú ruột đến thế."
Bác đem quần áo ra phơi, rồi xuống làm cơm. Mâm cơm vẫn như mọi lần, chỉ có một đĩa dưa. Bác Lê bảo chồng:
"Này đằng ấy, chiều bán lợn xong thì có lòng lợn ăn. Bác lái ngả ngay một con và đã hứa cho tôi xin một ít lòng và tiết."
Bác Lê nuốt nước bọt nghĩ đến bữa lòng lợn buổi chiều, nhưng lòng lợn lại gợi bác nghĩ đến rượu và khiến bác băn khoăn. Bác ngồi vào mâm ăn cơm, đãng trí quên không biết là mâm cơm sáng hôm nay thiếu mất Tý. Nhỡ thì kéo xe xa chiều mới về. Bác Lê gái lại càng đãng trí hơn bác Lê trai nên cũng không nghĩ đến thiếu Tý. Út nhớ nên bảo Thêm chạy ra gọi Tý. Thêm đi một lúc lâu lắm rồi trở về nói:
"Anh Tý anh ấy đi đâu ấy."
Bỗng bác Lê gái buông cả đũa bát xuống:
"Chết tôi rồi, lợn của tôi. Giời đất ơi!"
Bác đứng lên chạy vội xuống chuồng lợn. Quả như bác đoán cái ang cám còn đầy nguyên. Ba con lợn thấy người sùng sục chạy ra vì đói. Bác gọi to:
"Tý ơi Tý, thằng chết ranh chết tiệt, chết dấp chết dí, chết..."
Bác bảo chồng:
"Thằng Tý nó quên không cho lợn ăn. Lợn đói mấy tiếng đồng hồ rồi mà chốc nữa người ta đến mua lợn, thế có chết tôi không."
Giận ứ lên cổ, bác vội chạy sang bên hàng bánh cuốn, hiệu Ninh Ký, hàng cơm cụ Yểng, bác Hai Vinh, bà cụ Huế Cả, bà cụ Huế Hai... bác chạy khắp phố vừa lùng Tý vừa réo tên. Mọi người lo sợ tưởng Tý bị chết đuối. Chỉ có Mùi lo sợ cho Tý nhất nhưng không phải sợ Tý chết đuối; nàng nhìn vào hai bàn tay bác Lê run run lên vì giận và những ngón tay co quắp lại vì lấy gân và nàng sợ nếu lúc này mà bác tóm được Tý thì cái đầu nhẵn bóng của Tý có thể vỡ tan tành. Nhưng may bác Lê không tìm thấy Tý. Bác đành trở về nhà: những ngón tay của bác lại mềm dần dần và bác ngồi vào mâm vác bát ăn.
Ăn xong, bác Lê trai xuống xem lợn vì bác nghĩ đến bữa lòng lợn buổi chiều. "Con lợn có béo thì lòng mới ngon". Bác nhìn thấy ba con đều béo cả, bác lại nuốt nước bọt rồi bác nhìn đến cái ang cám và ngạc nhiên thấy cái ang cám vẫn còn đầy. Bác đặt ang vào chuồng cho lợn ăn rồi đi lên, đứng nhìn bác Lê gái đương ngồi uống nước xỉa răng ở cạnh mâm. Bác nhìn vợ, mỉm cười. Bác Lê gái thấy chồng nhìn mình mỉm cười luôn, tưởng chồng cũng thích vì hôm nay bán lợn; bác cũng mỉm cười lại chồng. Bác nghĩ đến cái sung sướng về thăm nhà, ăn Tết, đánh bạc, xem hội và nghĩ đến con lợn cúng thần to béo bằng cả ba con lợn của bác; giá sau này bác cũng có đủ tiền nuôi lợn cúng thần thì sung sướng đến đâu. Bác gật gù mỉm cười với chồng nói:
"Sang năm cố nuôi lợn cúng thần, đằng ấy ạ."
Bác Lê trai cũng mỉm cười hỏi:
"Thế đằng ấy đã cho lợn ăn chưa?"
Bác Lê gái giật mình đến thót một cái và đặt ngay bát nước xuống mâm. Bác Lê trai giơ tay cản:
"Tôi vừa cho nó ăn rồi."

Lúc nãy bác Lê trai cũng lo sợ cho Tý, nhưng Tý có lỗi bác không thể bênh được. Lần nào cũng vậy, bác thì bênh Tý còn bác gái thì đổ tội cho Tý và bao giờ bác gái cũng thắng. Lần này thấy vợ đã nguôi nguôi giận, bác cố tìm cách chống chế để Tý có về khỏi bị đánh và được ăn cơm:

"Đấy mình cũng còn quên nữa là trẻ con."

Bác Lê gái nói:
"Lại sắp bênh nó phải không. Việc cho lợn ăn là việc của nó."
"Thế sao bu mày lúc nãy cũng quên không thổi cơm?"
Bác Lê gái không biết trả lời như thế nào; bác đứng dậy:
"Thôi đừng bênh nó nữa đi! Nó quên cho lợn ăn vào giữa hôm người ta đến mua lợn."
"Đến cho mình ăn cơm mình còn quên nữa là cho lợn ăn."
"Thế còn cái tội đi chơi bỏ cả ăn cơm mà đến giờ chưa về."
Bác Lê gái dí một ngón tay vào trán chồng:
"Bênh nữa thôi."
Bác Lê trai mỉm cười, cả lần này nữa bác cũng chịu thua. Sự thực bác Lê gái cũng đã nguôi tức; nếu Tý có về ngay lúc đó cũng chỉ bị cốc đầu qua loa và được ăn cơm. Nhưng Tý lại không về ngay lúc đó. Tý còn câu tôm...
Mặc dầu là ngày bán được lợn và sắp được ăn lòng lợn, bác Lê trai cũng băn khoăn bứt rứt trong lòng cả buổi sáng và buổi trưa. Lòng bác băn khoăn chính vì lòng lợn. Sau cùng bác không thể chịu được nữa nhất quyết đi mua rượu để cho hết băn khoăn. Nhưng mua rượu là một việc khó vô cùng vì bác Lê gái đã đi dặn bất cứ hàng rượu nào ở vùng quanh đó đừng bán rượu cho bác trai. Giá có thằng Tý ở nhà thì công việc có thể dễ dàng đôi chút. Út thì về bè với mẹ, nó lại phải bế em, còn Thêm và Nữa thì bé quá. Lúc đó bác cũng đâm ra tức cả Tý đã bỏ cơm đi chơi bạt mạng và bác cũng cảm thấy như bác gái cái tội đó là nặng, cần phải đánh đòn, bắt nhịn cơm.
Sau cùng bác nghĩ đến ông Năm Bụng. Sang tới nơi, may quá ông Năm có nhà:
"Ông bán cho tôi một cút rượu."
Ông Năm Bụng ngạc nhiên lắm, nhưng ông không tỏ vẻ ngạc nhiên ra. Ông chỉ gật gù mấy cái. Bác Lê cho là ông nghĩ đến những câu chửi của vợ mình sáng mai. Bác vội tiếp:
"Tôi mua rượu để về cúng."
Ông Năm lại gật gù rồi hỏi:
"Ngày mai có cúng nữa không?"
Nghe câu hỏi mát ấy, bác Lê biết là ông Năm không tin mình. Biết là không mua được rượu, bác Lê hơi tiếc nhưng tự nhiên hết băn khoăn... Bác toan quay ra về thẳng nhà vì ông Năm Bụng mà không dám bán thì không ai dám bán. Bỗng ông Năm Bụng bảo bác:
"Bác đợi tôi một lát. Tôi đi lấy rượu."
Bác Lê trai ngồi xuống phản đợi. Lúc đã biết chắc là mua được rượu rồi, tự nhiên bác lại thấy áy náy. Uống vào thú thì cũng thú thật nhưng lại làm khổ vợ con vào giữa ngày bán lợn. Bác chợt nẩy ra cái ý nghĩ là cai hẳn rượu:
"Phải đấy cai hẳn cả đời chứ không phải cai mà thỉnh thoảng vẫn uống. Khổ nhất là thèm mà cứ phải nhịn, mà nhịn lại càng thấy thèm hơn. Định bụng cai hẳn thì không nghĩ đến rượu nữa, không thèm nữa và hết bứt rứt, hết khổ vợ con."
Ông Năm Bụng đi về rút ra một chai rượu con và làm hiệu bảo bác Lê đứng lên. Ông Năm lật áo cánh đưa chai rượu vào bụng bác Lê, rồi gạt gạt mấy cái vào áo cho nếp răn tự nhiên:
"Thót bụng vào."
Bác Lê vội thót bụng vào.
""Phải đấy cứ vừa đi vừa thót bụng như thế. Mới đầu cũng hơi khó chịu sau lâu cũng quen đi. Ấy là nói về tôi, chứ bác thì chỉ thót một lần này, về sau thôi đừng thót nữa nhé."
Bác Lê định bụng cai hẳn nhưng bác không nghĩ đến việc trả lại rượu ông Năm. Bác lại cần phải mua hơn trước vì bác nghĩ mua về để đấy có lòng lợn ngon mà cũng không uống thì là chắc chắn cả đời cai được, rồi mấy ngày sau, bác sẽ đưa vợ con xem chai rượu mua từ hôm ăn lòng mà vẫn còn nguyên, như thế vợ con từ nay về sau hết lo và sẽ phục bác "lăn đùng cả ra". Bận về những ý nghĩ ấy nên bác Lê không để ý đến sự mỉa mai của việc mà bác cùng ông Năm Bụng đương làm, vì rõ ràng bác đã nói là mua rượu về cúng thì cần gì phải giấu kỹ thế. Ông Năm Bụng thì không nhớ rõ lời bác Lê lắm nên phải cố chọn cái chai nhỏ để dấu cho dễ kín.
Bác Lê chào ông Năm rồi vừa thót bụng vừa đi. Bác đi thong thả và lúc đó bác mới thấy phục ông Năm Bụng đã giắt nổi năm chai lớn mà đi lại vẫn tự nhiên, ngay cả trước mặt tây đoan. Bác nhìn xuống bụng và tuy chỉ là một cái chai bé, mà cũng cứ lồ lộ phồng ra trông rõ ràng là một cái chai; bác vội thót bụng lại nhưng nếu thót nhiều quá, cái chai mà rơi xuống vỡ tan ở giữa phố thì thật là ê. "Lúc này mà chó dữ chạy ra cắn mình", bác nghĩ thế và hiểu vì sao ông Năm phải sợ chó.
Gần về đến nhà bác lại lo hơn; vợ bác mà nhìn biết thì cái "mưu mô" của bác hỏng hết. Bác sẽ bị cốc đầu và nhiếc chứ không phải chỉ bị dí ngón tay vào trán và nguy nhất là lỡ xẩy ra như vậy thì bác lại không cai được hẳn rượu. Bác đã tính sẵn nếu vợ bác biết thì bác cố giữ lấy chai rượu, tu một hơi hết chai để say đi và quên hết cả rồi ngày hôm sau muốn ra sao thì ra.
Bước đến cửa nhà, bác thấy vợ vừa ở dưới bếp đi lên.
"Thầy mày đi đâu về đấy?"
Bác thấy bác lúc đó sợ vợ hơn ông Năm Bụng sợ chó. Câu hỏi bất ngờ làm bác bối rối; bác vội thót bụng mạnh làm cái chai tụt xuống một tí. Trời rét mà trán bác tưởng như toát mồ hôi vì bác nhận thấy cái bầu chai đã tuột xuống dưới thắt lưng chỉ có cái cổ chai còn vướng và hình... hình... hình như nó sắp rơi.
"Hừ... tôi sang xem... xem bà cụ Huế."
Miệng bác nói câu ấy còn chính bác, bác không biết mình nói gì và cũng không biết là mình nói nữa. Bác Lê gái cho là chồng nói đùa; hôm nay thì bác tưởng là ai cũng vui vẻ cả. Giá hôm khác thì thế nào bác cũng đâm nghi và khám; nhưng hôm nay vừa bán lợn xong, bụng bác còn đương nặng những bạc đồng một cách thinh thích thì bụng chồng có phồng bằng hai thế bác cũng không nom thấy. Bác cười và cũng nói đùa lại với chồng:
"Hừ... bà cụ Huế thì có gì lạ mà xem. Sao không về xem cái bụng này có hơn không?"
Bác vừa nói vừa vỗ vào ruột tượng, chỗ có giắt tiền. Bác Lê trai nhìn nhanh vợ một cái, thấy nét mặt vợ vẫn vui tươi. Bác cũng bắt chước vợ cho tay lên bụng mình:
"Bụng tôi không có gì, lát nữa đưa tôi một nửa tôi giữ hộ cho."
Nhờ cách ấy nên bác để tay lên bụng được tự nhiên và lấy một ngón tay ấn cái đáy chai lên một tí. Thế là bác đi được, đến ngồi xuống ổ rơm, và thở dài một cái nhẹ nhõm.
Bác Lê gái tháo cái ruột tượng đưa cả cho chồng:
"Này, giữ hộ để tôi đi lấy lòng lợn. Hay đằng ấy cùng đi một thể."
"Thôi, tôi chịu thôi, mệt".
Bác Lê gái lo lắng nhìn chồng:
"Ừ, tôi trông thầy mày như người mất hồn. Nếu mệt thì thôi đừng ăn lòng lợn nữa. Lòng lợn độc lắm."
Bác Lê trai vội cười:
"Nói đùa đấy thôi, cho bu mày lo một tí. Tôi không đi vì hai vợ chồng đi đôi thế, xấu hổ chết."
Hai vợ chồng bác không bao giờ dám đi đôi, nếu có việc gì bất đắc dĩ phải cùng đi thì hai bác đi cách nhau đến mấy chục thước, kể cả những khi qua cánh đồng vắng không có ai.
Bác Lê trai đợi cho vợ đi thật lâu rồi mới đứng dậy, bước vội vào trong buồng xép tối và rút chai rượu đặt ra đằng sau một cái hũ không. Bác phủi tay giũ những màng nhện rồi đứng lên đi ra. Tuy hôm ấy nghỉ cả mọi việc nhưng bác cũng đem cai lờ đan dở ra đan; bác muốn làm việc để thì giờ chóng qua.
Bác Lê có hai nghề chính: đánh cá và đan tre, nhưng cả hai nghề cũng không kiếm được bao nhiêu tiền. Vợ bác thì đi đặt lờ ở các ruộng và đi bắt cua, mò ốc. Tuy đông con nhưng người nào cũng có việc làm và chịu khó làm nên cũng đủ ngày hai bữa cơm rau. Gánh nặng nhất đối với bác là tiền đóng góp việc làng; tuy xa làng đã hơn hai mươi năm nhưng bất cứ một số tiền đóng góp nào bác cũng nộp đủ. Một năm cả nhà bác phải còng lưng làm để đợi đến ngày Tết về thăm làng xóm và nộp tiền đóng góp. Mấy năm nay Xóm Cầu Mới lại thịnh vượng, bác cũng có nhiều công việc làm hơn. Bác nắn cái ruột tượng; số tiền bán lợn năm nay, trừ tiền trả công nợ đi rồi, là một số tiền vốn lớn nhất của bác từ khi đến ở xóm. Bác nghĩ đến năm nào cũng như năm nay cả thì ngày rằm mồng một, ngày kị ngày giỗ có thể ăn thịt gà thịt vịt được, có đồ nhắm ngon và... Óc nghĩ liên miên đến đấy, bác lại vội lắc đầu, nghĩ sang việc khác. Bác nghĩ đến cái tính viển vông của vợ bác đào đâu ra tiền mà lúc nãy lại đòi nuôi lợn cúng thần; có lần vợ bác lại muốn có cả cái nhà tây hai từng như cụ Hường làng Trò. Thật là đàn bà... Bác cũng thương vợ lúc nào cũng phải nhịn ăn nhịn tiêu và thương cả lũ con đứa nào cũng gầy gò xanh xao vì thiếu ăn thiếu mặc. Bác lại thương cả bác nữa, có mỗi một cái thú... Thấy ý nghĩ luẩn quẩn lại quay trở về chỗ cũ bác ngửng lên nhìn ra phố để khỏi nghĩ thêm nữa.
Một lúc sau, bác Lê gái trở về thấy chồng ngồi đan lờ, bác gắt yêu:
"Đan với điếc gì. Ra đây mà xem."
Bác đặt cái rổ trước mặt chồng:
"Tha hồ ăn."
Bác Lê trai nhìn vào rổ, ngạc nhiên một cách kinh hãi. Ngoài lòng và tiết ra còn có cả gan, có cả thịt và cả một cái chân giò.
"Sao họ cho nhiều thế này?"
"Cho đâu, mua đấy. Năm hào chỉ nhưng bác ấy bán rẻ."
Bác Lê trai ngước mắt nhìn vợ, tưởng vợ hoá điên. Bác gái lại lấy ở túi ra một gói giấy bản vứt xuống rổ:
"Nấm hương đấy. Lòng luộc, thịt xào nấm và chân giò giả cầy. Tha hồ mà ăn một bữa cho sướng miệng... à còn thằng Tý đâu, nó về chưa?"
Bác trai giật mình vì Tý đi lâu một cách bất thường mà lại không ăn cơm sáng nữa. Vừa lúc đó bác Bút đi vào cười nhe cả lợi vừa nhìn tròng trọc vào cái rổ thịt lợn vừa chắp hai tay vái vái cái chân giò, miệng xuýt xoa:
"Cỗ bàn linh đình thế này..."
Bất cứ ai ở xóm hay ở làng Hàn, bên phố Phủ, làng Trò, làng Nậu, làng Yên Ninh, hễ đâu có cỗ là có mặt bác. Bác không biên sổ vì bác không biết viết, nhưng nhà nào những ngày nào có giỗ bác đều thuộc lòng cả.
Bác Lê gái dí ngón tay vào trán bác Bút:
"Cười với vái thì cũng chẳng được ăn. Hễ cứ thấy đâu có ăn là có mặt nhà bác..."
Bác Bút lại cười và lại vái hai bác Lê rồi đi lùi dần ra cửa. Bác chưa bao giờ được ăn cỗ ở nhà bác Lê cả vì bác Lê còn nghèo hơn bác. Bác Lê trai bảo vợ:
"Không khéo nó chết đuối!"
"Chết đuối gì, nó biết bơi mà."
"Biết bơi mà không bị à..."
Bác Bút ra đến cửa quay mặt lại hỏi:
"Ai chết đuối cơ?"
"Thằng Tý."
"Tôi vừa gặp nó câu tôm ở bến đò Trò."
Rồi bác lại xoay người vái vái mấy cái về phía bến đò Trò như là vái Tý vì phục Tý ham chơi đến nỗi bố mẹ ở nhà tưởng chết đuối.
Bác Lê gái hất hàm bảo chồng:
"Còn bênh nó nữa thôi. Chốc nữa về thì đừng hòng ăn."
Bác Lê trai nhìn rổ thịt, rồi nhìn vợ:
"Thế này mà bắt nó nhịn thì tội nghiệp."
Bác Lê gái cầm cái rổ xuống bếp nấu đồ ăn. Bác ít khi được ăn của ngon nhưng làm đồ ăn ngon thì cũng tàm tạm được vì hồi u già của Mùi về quê mấy tháng, bác đến ở thay và được Mùi dậy cho.
Bác Lê trai lại cặm cụi đan lờ. Được một lúc, bác ngửng lên nhìn cái buồng xép trong đó có chai rượu rồi lại nhìn xuống bếp. Bác đứng lên đi xuống bếp xem vợ nấu đồ ăn, nhưng chân giò mới chặt xong chưa cho vào nồi, chẳng có gì đáng xem bác lại lên nhà ngồi đan lờ.
"Chân giò ninh rừ thì cũng mất hai tiếng đồng hồ."
Bác lẩm bẩm thế rồi ý nghĩ bác lại đi từ những miếng giả cầy béo ngậy đến những miếng lòng tràng ròn và những miếng dồi thái to chấm đẵm mắm tôm chanh ớt ăn vào đầy chắc cả mồm; bác nuốt nước bọt đến ực một cái đưa mắt nhìn vào cái buồng xép và thở dài. Rồi bác lại cúi xuống cặm cụi đan.
Thấy ở bếp có khói, Út bế em về để ngồi cạnh bếp sưởi và xem mẹ nấu đồ ăn.
Thêm và Nữa cũng đã đi chơi về và xuống bếp. Bác Lê trai thấy mình ngồi đan cũng đã lâu, nghĩ chắc bây giờ giả cầy đã nhừ và các món lòng dồi đã luộc chín nên cũng vứt lờ chạy xuống bếp. Thấy vợ vừa cắt xong mấy khúc dồi hơi còn bốc nghi ngút, bác cầm một miếng nếm thử, nhai thong thả và gật gù:
"Bu mày làm đồ ăn cũng khéo như bên nhà cụ Hường. Hừ, dồi này ăn ngon như yến..."
Bác định nói chỉ còn thiếu rượu tây nhưng không dám nói ra.
Trời đương nắng bỗng nhiên tối sầm lại:
"Trời muốn mưa chăng?"
Bác vội chạy ra nhìn: về phía tây và phía bắc trời đầy mây nhưng mây không đen lắm. Bác lại trở về bếp và ngồi xuống đùa với con. Thỉnh thoảng bác lại nhìn ra ngoài. Một lúc thấy trời tối hơn, bác lại chạy ra đứng nhìn trời. Ở phía bắc, đằng sau lá mấy cây núc nắc trên con đường sang Phướn có một đám mây đen và ở viền có mấy chỗ mây lở ra lả tả, rớt xuống nhưng không phải mưa. Bác quay trở vào bếp, giơ tay xoa trên lửa nói với vợ:
"Mưa xuống thì lại càng rét, ăn lại càng ngon."
Lá đa rơi xuống lộp độp ở sân. Bác Lê trai nhìn ra và sung sướng thấy trời nổi gió to. Bác Lê gái nói:
"Trời gió to, lại khổ tôi quét lá thôi."
Bác Lê trai vội chạy ra nhìn trời. Lần này bác đi ra tận phía sau nhà để nhìn rõ chân trời. Mây bốc lên từ chân trời, chạy vùn vụt qua đầu bác nhưng vẫn là mây trắng và rời rạc. Bác lại quay trở về bếp. Bác gái đương lấy đũa cắm vào miếng giả cầy xem đã nhừ chưa bỗng ngừng lại hỏi chồng:
"Này làm sao thế. Thầy mày đi ra rồi lại chạy vào dễ đến chục lần rồi. Thịt cầy nhừ rồi đấy, liệu dọn mâm trước đi thì vừa... Ồ, sao thằng Nhỡ đi kéo xe mãi vẫn chưa về."
Bác Lê trai đặt mâm xuống ổ rơm, rồi bỗng đứng yên lắng tai nghe. Rõ ràng có tiếng giọt mưa trên mái nhà. Bác nhìn ra sân, các hạt mưa đan nhau, mới đầu thưa thớt rồi mau dần. Trời đổ mưa rào.
"Thế là số trời."
Bác vừa lẩm nhẩm trong miệng vừa đi ngay xuống bếp ngồi sưởi một lúc; khi đi lên bác với cái khăn mặt và đi thẳng xuống buồng xép. Ngay từ khi trời bắt đầu tối lại, bác đã định ngầm với bác là nếu trời mưa thì bác phải uống rượu, trời không mưa thì thôi. Có đồ nhắm ngon, có sẵn rượu ở bên cạnh mà trời lại đổ mưa, đến thánh cũng không chịu được nữa là bác. Bác ngầm thấy, nhưng không tự thú với mình, là nếu trời không mưa bác cũng uống rượu, uống chỉ cốt cho khỏi bứt rứt khổ sở vì cái chai rượu ở cạnh người, uống cho mất hẳn chai rượu ấy đi và lần sau cạch không chơi cái trò dại ấy nữa.
Ngay từ khi ngồi đan rổ trước khi trời có mây, bác đã nghĩ kỹ về cách thức uống thế nào cho vợ con không biết. Bác uống rượu vào da mặt không đỏ, nếu có đỏ thì cũng chỉ đỏ hơi hơi, vậy, trước khi uống, bác sẽ xuống ngồi ở bếp một lúc. Hơi rượu sẽ bị mùi thịt giả cầy đánh át đi. Cả đến cách uống rượu bác cũng đã nghĩ đâu vào đấy, nếu uống hết cả cút rượu trước khi ăn, sợ say quá lúc ăn có thấy ngon đi nữa mà hôm sau không nhớ lại được thì cũng kể như là không ăn. Nếu vừa ăn lại vừa thỉnh thoảng chạy vào làm một tợp thì lộ ngay. Bác sẽ uống làm ba bận, bận đầu trước khi ăn, bận thứ nhì giữa bữa ăn và bận thứ ba ngay sau khi ăn. Vì vậy bác phải đem cái khăn mặt treo ở buồng xép, lúc nào cần uống thì làm cho tay rây bẩn để vào buồng lấy khăn lau cho tự nhiên.
Bác ngồi xuống cạnh cái hũ không, với chai rượu giơ lên chỗ mờ mờ sáng ở mái nhà và lấy ngón tay cái bấm vào chai đánh dấu ngữ rượu uống một bận. Rồi bác uống từ từ từng ngụm nhỏ một. Uống xong một ngụm bác lại ngừng lại nghe ngóng; bác nghe hơi rượu chạy thấm vào trong người và làm bác bắt đầu bâng khuâng. Bác giơ chai rượu như mời vọng ông Năm Bụng và nói thầm:
"Mời ông xơi."
Rồi bác đặt miệng chai lên môi bác, nhếch mép nói:
"Mời tôi xơi..."
Và bác cười khì một cái sung sướng.
Vừa lúc ấy Nhỡ kéo xe về; thấy có mùi thơm chàng chạy vào bếp. Bác Lê gái thấy Nhỡ về mừng rỡ:
"Hôm nay mà mày không về thì tao ăn mất cả ngon."
Nhỡ nhìn vào những miếng lòng gan, những khúc dồi, nhìn cái chảo thịt xào nấm hương rồi lại mở vung nồi giả cầy hít hơi mấy cái:
"Cuộc phù thế nhân sinh ơi..."
Chàng quay mặt hỏi mẹ:
"Ai cho mà nhiều thế này?"
"Ai cho? Rõ thật con như bố, tưởng người ta cho dễ dàng thế? Tao mua đấy. Hôm nay bán lợn rồi."
Nhỡ thấy mẹ quay mặt đi vội cầm một miếng dồi bỏ tọt vào mồm và ngậm môi lại ngay yên tắp, rõ ràng mẹ không nhìn thấy. Bác Lê gái quay lại và cốc lên đầu Nhỡ một cái:
"Mày tưởng tao không biết à? Rõ thật con như bố, toàn giỏi khoa ăn vụng, uống vụng..."
Bác Lê trai đương tu rượu nghe tiếng vợ nói ở dưới bếp vọng lên, giật nẩy mình một cái, bị sặc rượu ho sù sụ. Bác đút nút đặt chai rượu xuống đi ra. Tuy là chia rượu làm ba phần nhưng lần đầu bác đã uống hết ngay nửa cút vì bác cần phòng xa lỡ chốc nữa xẩy chuyện gì bất ngờ không uống được nữa. Bác ngồi xuống ổ rơm, nhìn mâm cơm, nhìn xuống bếp, lại nhìn trời mưa và rung đùi. Bác với điếu hút, vì bác ngà ngà say, hút thuốc ngon hẳn lên. Đời bác dễ không mấy khi được sung sướng như lúc đó. Lần trước bác được nhắm rượu tây với yến, lần này bác được nhắm rượu với lòng lợn, giả cầy. Đùi bác rung mạnh hơn; bác duỗi hai cánh tay cho bàn tay thủ vào bọc và rùng mình một cái. Môi bác mỉm cười một cách ngây ngô, những vết rỗ hoa trên má trên mũi bác cũng như tươi cả lên, hai lỗ mũi bác nở rộng ra, cánh mũi rung rung và con ngươi của bác sáng hẳn lên dưới làn nhài quạt trắng mờ.
Ở dưới bếp, bác Lê gái đã xào xong thịt. Bác quay lại bảo Út:
"Thôi bế em lên nhà. Lấy cái nón che cho em, không ướt. Cả Thêm, Nữa cũng lên nhà thôi."
Nhìn Nhỡ vẫn còn đứng chờ như muốn rình ăn vụng một miếng nữa, bác bảo:
"Còn mày nữa, ra miếu dọn sạch để tao ra cúng."
Rồi bác cất tiếng gọi Bé ở bên cửa hàng, bảo sang ăn. Nhìn quanh bếp không có ai, bác lấy một cái nồi đất mở vung, vội vã gắp mấy miếng giả cầy, lòng gan thịt cho vào, đậy vung lại và treo lên cái quang ở mái bếp. Bác đem mâm đồ ăn ra miếu gốc đa rồi thắp hương cúng. Mặc dù trời mưa nhưng bác cũng khấn cẩn thận và lễ thật lâu làm cả nhà nóng ruột chờ.
Mọi người đã ngồi quanh mâm chỉ còn thiếu Tý. Bé hỏi:
"Còn thằng Tý đâu?"
Bác Lê gái vội nói:
"Cứ ăn đi, mặc xác nó. Sáng nay nó quên không cho lợn ăn lại đi chơi quên cả cơm sáng, nó lại sang tận bến Trò câu tôm."
Nhỡ nói:
"Thế là nó đi câu tôm chứ nó có đi chơi đâu!"
"Mày cũng bênh nó à. Thôi ăn đi."
Bác đưa mắt nhìn chồng, mỉm cười mời:
"Thầy mày..."
Bác Lê trai cũng mỉm cười lại vợ:
"Bu mày... Ăn đi các con."
Ở ngoài trời lại mưa to hơn. Út áy náy vì bữa cơm có thịt mà Tý lại không được ăn. Nếu lúc trước biết là anh nó sang bến Trò thì thế nào nó cũng chạy đến gọi về. Nhưng bây giờ thì chậm quá, vả lại trời mưa. Nó giơ đũa gắp miếng dồi to nhất đĩa, bỏ vào mồm nuốt chửng và thôi không áy náy vì Tý nữa. Khắp mâm, người nào vẻ mặt cũng nghiêm trang; cả Thêm và Nữa cũng ăn thong thả - không phải vì sợ bố mẹ mắng - nhưng vì chúng thấy nhiều đồ ăn quá không cần tranh nhau.
Giữa lúc đó Tý đương đứng rét run ở lăng cụ Quận. Nó vừa cắp rổ tôm đi khỏi bến Trò một quãng thì trời đổ mưa và chỗ ấy ngoài mấy cây thông ở lăng không có chỗ nào để trú ẩn. Nhưng đứng đấy cũng không tránh được ướt, nó đưa cái rổ tôm lên đầu và đi về nhà. Nó sợ lỡ mất bữa cơm chiều thì nguy vì nó đã đói lắm. Bác Đỗi có cho nó ăn cơm nhưng chỉ được ăn một bát và cũng ăn với dưa, chẳng có miếng thịt cá nào cả. Nhưng tôm thì nó câu được đến hai ba chục con và vì thế nó quên không nghĩ đến về.
Càng về gần đến nhà, cái lo của Tý càng tăng. Nó nhớ lại là đã quên không cho lợn ăn sáng và đi cả ngày không về nhà để cho lợn đói. Tý không dám về trước cửa; nó đi ra sau đến đứng ở đầu nhà bếp để tránh mưa và nghe ngóng. Quần áo Tý đã ướt hết.
Ở trên nhà mọi người đều ăn cơm xong, mâm đã dọn. Bác Lê trai đã vào tu cạn hẳn chai rượu và cử chỉ bác đã khác nhiều khiến Nhỡ chú ý, lấy làm lạ và hỏi mẹ:
"Lúc nãy ở nhà, thầy uống rượu đấy à?"
Bác Lê gái nhìn Nhỡ ngạc nhiên hỏi:
"Mày mê ngủ?"
Rồi bác đưa mắt nhìn chồng và thốt ra một câu:
"Lạ nhỉ, không uống rượu mà say rượu."
Bác chợt nhớ đến lúc ở bếp lên nhà trên gặp chồng vừa đi đâu về.
"Phải rồi, đi mua rượu."
Trong một giây, bác nhớ lại cả điệu bộ ngượng ngập và vẻ mặt mất hồn của bác trai. Bác lấy tay dí vào trán chồng:
"Trời đất ơi! Hừ, này, đi xem bà cụ Huế này! Xem, xem cái..."
Bác giận ứ lên cổ không nói được nữa. Bác Lê trai gạt mạnh tay bác gái ra, chửi lên một câu, giọng nói líu lại. Bác Lê gái đau nhói ở tay và lại càng tức hơn, định nắm lấy tóc chồng nhưng đã bị bác trai ẩy một cái mạnh ngã lăn xuống ổ rơm. Bác Lê trai cúi người xuống và nắm tay giơ lên. Bé trở về bên cửa hàng. Út bế em ngồi lui vào góc nhà; Thêm và Nữa cởi vội quần rồi cả hai đều chui vào chăn "bao tải" cùng một lúc.
Ngay khi đó thì Tý vác rổ tôm bước vào. Bác Lê gái nhìn thấy Tý hừ một tiếng rồi ngồi nhỏm dậy giơ tay với lấy Tý; bác Lê trai cũng đứng thẳng người lên quắc mắt nhìn Tý. Cả hai vợ chồng quên hẳn đánh nhau và giận đều đổ dồn cả vào Tý.
"Này tôm với tiếc..."
Bác Lê gái hất cái rổ văng ra và tôm của Tý rơi hết cả xuống đất rồi bác giữ chặt lấy tay Tý và cốc một thôi một hồi. Tý giơ hai tay ôm đầu van lạy mẹ vì mẹ nó cốc lâu và nhiều quá. Tý khóc thấy tôm mình văng khắp đất. Sau cùng bác Lê gái đẩy nó một cái, ngã chúi vào cột nhà. Bác Lê trai quát to:
"Tý, lại đây... sao mày không cho lợn ăn...?"
Bác tát vào má Tý luôn hai cái:
"Sao mày lại đi chơi cả ngày để... để tao phải đến ông Năm Bụng mua rượu lấy...?"
Bác đấm vào ngực Tý một cái khiến Tý co dúm người ôm ngực. Nhỡ vội chạy đến, cố giằng được Tý ra và bảo Tý:
"Chạy ngay đi."
Nhỡ cũng bị bác trai đấm phải mấy cái. Tý chạy ngay xuống bếp; rồi lại chạy ra chuồng lợn vì chuồng lợn xa và ẩn kín hơn. Bỗng Tý giật mình, lấy tay gạt nước mắt, và chớp chớp luôn mấy cái, cố nhìn cho rõ. Ba con lợn đã biến đâu mất cả. Tý nghĩ:
"Mình không ăn cả ngày cũng không chết, lẽ đâu lợn lại chết.
Tý biết là không phải lợn chết nhưng nó cũng mang máng thấy đã có một sự rất không hay xẩy ra ở nhà trong lúc nó bỏ đi chơi liều lĩnh. Mà cái việc không hay ấy đã xẩy ra là vì nó đi chơi và bởi vậy cả bố mẹ đánh nó đau đến như thế. Đứng mãi ở chuồng lợn thấy rét và đói, Tý lại trở về bếp. Nhưng bếp rơm chóng nguội, Tý cũng không ấm thêm được tí nào. Chợt thấy cái nồi cơm, Tý chạy lại lật vung. May quá trong nồi còn cơm. Tý cho tay vào bốc ăn lấy ăn để. Tý lấy làm lạ sao hôm nay lại ăn cơm trắng; mỗi một miếng bỏ vào mồm thấy thơm ngon vô cùng và chỉ một lúc sau nồi cơm đã hết nhẵn. Thấy bụng đã no, Tý thở dài một cái khoan khoái. Ở ngoài trời đã ngớt mưa và bắt đầu tối. Mắt Tý nhìn vào gốc đa và những bình vôi. "Ngồi đây chốc nữa tối sẫm, ma nó đến thì nguy". Nghĩ vậy Tý đánh liều đi lên nhà, vả lại đã một lúc lâu trên nhà không có tiếng đánh chửi nhau rầm rầm nữa.
Bác Lê gái đương ngồi rủa ông Năm Bụng nên cũng không để ý đến Tý. Bác Lê trai đã quấn chiếu nằm nhưng thỉnh thoảng bác lại líu lưỡi thét lên một hồi dài. Rồi tự nhiên bác lại cười oà lên một mình. Bác đấm vào khoảng không, đá tung cái chiếu ra một bên rồi bác lại kéo chiếu đắp và nằm yên được một lúc. Tý cầm cái giỏ của nó lên và trong bóng tối mờ mờ nó loay hoay nhặt tôm cho vào giỏ. Tý về chỗ mình nằm, với cái chiếu đắp. Nằm vào trong chiếu rồi Tý lại càng thấy lạnh vì quần áo ướt; nhưng nó chỉ có một bộ quần áo còn một bộ mới thì nó không dám đụng đến. Tý nghĩ nằm một lúc rồi quần áo sẽ khô đi.
Tý chợt thấy Út thong thả bò đến gần mình và Út ghé vào tai nói thầm:
"Ở nhà lúc nãy ăn thịt giả cầy, có cả lòng lợn, nhiều lắm cơ anh Tý ạ.
Nói thế xong Út lại bò ngay về chỗ nằm sợ mẹ biết. Tý nuốt mãi nước bọt.
Chương VII
Tý đi câu tôm
Năm giờ sáng, bác Lê gái sực thức dậy, nhưng bác không đánh thức Út và tung chăn của Thêm với Nữa như mọi buổi sáng. Bác khẽ bước sang chỗ Tý nằm, cúi xuống cốc vào đầu Tý mà cốc rất nhẹ. Sau một đêm, cơn tức chồng của bác đã hết; bác lại hơi hối hận đã mắng chồng quá thậm tệ đêm qua. Chính bác đã mua những thức ăn ngon về như xui chồng nhớ đến rượu và chính bác cũng đã có lúc nghĩ đến mua một ít rượu cho chồng uống vì là ngày bán lợn lại có thức nhắm ngon. Bác cũng hối hận đã đánh Tý một trận đòn quá đau, còn về chỗ Tý không được ăn lòng, ăn thịt lợn thì không sao vì bác đã để phần riêng cho nó. Bác định đánh thức riêng Tý rồi dắt nó xuống bếp cho nó ăn trong khi cả nhà còn ngủ. Nồi cơm bác cũng đã để sẵn ở dưới bếp rồi. Bác không muốn một ai trong nhà biết là bác cho Tý ăn. Dưới ánh trăng mờ mờ, bác thấy Tý cựa quậy nhưng vẫn không dậy. Bác cho tay xuống lay vai và bác giật nẩy mình; vai Tý nóng như lửa. Bác vội cho tay lên trán sờ rồi kêu lên:
"Thằng Tý nó sốt, thầy nó ơi!"
Bác ra thắp đèn rồi quay về bế Tý vào lòng. Hai mắt Tý mở to nhìn bác. Bác gọi, nhưng Tý không trả lời, vẫn cứ nhìn trừng trừng vào bác.
"Thầy nó ơi, dậy mau, nó mê man không biết gì nữa. Cô Mùi ơi! Thằng Tý nó sốt mê không biết gì nữa. Mời cô sang ngay. Nhỡ ơi, Tý nó sốt. Út ơi, dậy. Bé ơi, Tý ơi, tỉnh đi con! Cô Mùi ơi, mời cô sang".
Bác lại lấy tay lay người Tý; nhưng Tý vẫn không tỉnh, mắt cứ nhìn ngược lên làm cả nhà càng sợ hơn. Mùi chạy sang. Mọi người đều giãn ra để Mùi xem bệnh. Tuy Mùi không biết một Tý gì về thuốc nhưng cả nhà cũng đổ dồn hy vọng vào Mùi vì nàng là con gái một ông Lang, lại đứng chủ một cửa hàng bán thuốc. Mùi đến sờ tay lên trán Tý, ngẫm nghĩ một lát rồi nói:
"Hoả nó bốc."
Câu nói ấy cũng không khác gì câu nói: "Tý nó sốt" (mà ai không biết là Tý sốt) nhưng nghe Mùi nói thế bác Lê gái nhìn chồng một cái và nhắc lại một cách đầy trịnh trọng:
"Hoả nó bốc thầy mày ạ."
Mùi lại nói tiếp:
"Bây giờ phải cho nó hạ hoả."
Mùi đứng lên chạy sang cửa hàng để lấy một liều thuốc sốt. Bác Lê gái lại lay đầu Tý:
"Tý ơi, tỉnh mau, uống thuốc hạ hoả thì khỏi ngay, cô Mùi đã bảo thế."
Nhưng Tý lúc đó đương nghĩ ngợi cố hiểu xem tại làm sao ruột gan phổi của nó lại chạy ra ngoài người nó, nhưng nó nghĩ không ra; người nó như chơi vơi trên quãng không một cách rất khó chịu và óc thì nhức như búa bổ. Tý nói với mẹ:
"Bu ơi, ruột con làm sao lại chạy ra ngoài bụng thế?"
Bác Lê gái nhìn chồng nói:
"Không khéo nó chết mất, thầy mày ạ. Đấy, đã đến lúc nó mê sảng rồi..."
Nói xong bác oà lên khóc, rối rít gọi tên thằng Tý. Mùi đi sang cầm gói thuốc, bảo Bé đi lấy chén nước. Nghe bác Lê gái khóc, Mùi vừa hoà thuốc, vừa rướm rướm nước mắt, đến lúc nàng nhấc đầu Tý và thấy hai con mắt của Tý nhìn ngược lên - một triệu chứng mà nàng tin là triệu chứng của những người sắp chết - Mùi lại khóc nhiều hơn nhưng lúc đó nàng khóc không phải vì nghe bác Lê gái khóc mà vì thương Tý sắp chết, thằng Tý mà nàng vẫn yêu nhất đám trẻ con ở xóm và nàng càng yêu hơn từ khi đã vụng trộm cho nó ăn bánh.
Bé biết tánh Mùi nên bảo mẹ:
"Bu có nín đi không để cô Mùi chữa..."
Nhưng cả nhà thì tưởng Bé bảo mẹ nín sợ làm rối trí Mùi. Mùi cho Tý uống xong, cất tiếng hỏi:
"Tý ơi, Tý có biết ai đây không?"
Mùi vừa hỏi vừa lấy ngón tay chỉ vào mình. Tý thấy cô Mùi vừa khóc vừa hỏi nó thế, nó chẳng hiểu vì sao nhưng cũng đáp:
"Cô Mùi."
Mùi tươi nét mặt nhìn bác Lê gái. Bác Lê gái cốc một cái lên đầu Thêm ngồi bên cạnh.
"Nó tỉnh rồi. Thuốc cô hiệu nghiệm thật."
Mùi muốn biết rõ hơn nên lại hỏi:
"Tại sao hôm nọ Tý lại được ăn bánh cuốn?"
Tý yên lặng một lúc lâu rồi nói:
"Cô cho ăn."
Mùi biết Tý không nhớ lại được duyên cớ nhưng nó cũng còn nhớ lại được là nàng cho nó ăn. Thế đã khá. Mùi bảo bác Lê cứ hai giờ cho Tý uống thuốc một lần, rồi đứng lên đi về hàng. Nhỡ xuống thổi cơm. Ăn xong bác Lê trai đi nhặt lờ thay vợ; Nhỡ kéo xe sang phố Phủ đón khách chuyến xe lửa sớm. Đã cho Tý uống thuốc rồi chỉ còn đợi thuốc ngấm và Tý đã tỉnh nên mọi người yên tâm đi làm công việc hàng ngày. Út cũng bế em ra chợ chơi với Thêm, Nữa. Chỉ còn một mình bác Lê gái ngồi bế Tý ở nhà.
Một lúc sau, bác Lê gái thấy Tý chỉ lên đầu:
"Bu ạ, con cứ nhức nhối ở đầu."
Bác lấy tay xoa nhẹ lên đầu Tý. Bỗng bác sực nghĩ đến có lẽ vì đêm qua cốc đầu mạnh quá nên nó long óc và đâm ra sốt. Nghĩ như vậy, bác ứa nước mắt, ôm Tý vào lòng chặt hơn:
"Con đừng chết. Từ rầy bu không bao giờ cốc đầu con nữa."
Tý nói:
"Bu cho con uống nước."
Nhìn thấy nét mặt Tý đã tỉnh táo, hai con mắt đã nhanh nhẹn không lờ đờ như trước nữa, bác Lê vui vẻ. Con bác lại thèm uống nước và uống ừng ực nghe ngon lành lắm. Nghĩ ra điều gì bác mỉm cười đặt Tý xuống ổ rơm.
"Con nằm đây một tí nhé. Bu đi lấy cái này cho con."
Bác chạy ra chỗ thờ ở gốc đa, vái lia lịa và lâm râm khấn rồi bác đi xuống bếp. Lúc lên, bác đặt trước mặt Tý một cái đĩa đầy thịt và lòng:
"Tao để phần cho mày đêm qua đấy".
Rồi bác nhìn Tý một cái như để bảo cho Tý biết là tuy hay đánh mắng Tý luôn nhưng bác vẫn thương Tý trong lòng. Rồi bác bế Tý lên, cầm đũa gắp miếng thịt lợn xào đút vào mồm Tý:
"Ăn đi, ăn được thì chóng khỏi. Còn lòng lợn thì độc không ăn được, hôm nào khỏi tao mua riêng cho mà ăn."
Tý nhai miếng thịt nhưng không thấy ngon gì. Nó cũng cứ cố nhai và nhắm mắt nuốt cho được miếng thịt vì Tý thấy mẹ bảo cố ăn cho chóng khỏi. Nuốt hết bốn miếng thịt, Tý lắc đầu:
"Con không ăn được nữa, bu cho con uống nước."
Vừa lúc ấy Mùi chạy sang để nhắc bác Lê cho Tý uống thuốc vì đã được hai giờ rồi. Mùi giật mình nhìn thấy đĩa thịt đặt ở trước hai người và tay bác Lê còn cầm đũa:
"Chết, bác cho nó ăn lòng lợn đấy à?"
"Không, tôi cho nó ăn thịt thôi, thịt xào lành mà."
"Thịt gì ăn vào thì cũng nguy."
"Thế à cô?"
Bác lại lo sợ nói với Mùi:
"Nhưng nó có ăn được đâu. Đây là hôm qua nó đi cả ngày sang câu tôm bên bến Trò giờ ăn cơm cũng không về, tôi để phần cho nó."
"Thế nó có bị ướt mưa không? Chiều hôm qua mưa to."
"Tôi không để ý nhưng chắc là ướt."
"Thôi thế nó bị cảm rồi. Cảm thì không sao."
Bác Lê nhẹ hẳn người, một là vì Mùi nói cảm không sao, hai là vì không phải nó sốt vì bác cốc đầu long óc. Mùi về rồi, bác vừa bế Tý vừa thong thả gắp các miếng lòng, miếng giả cầy ăn vã. Bác thấy ăn ngon và ăn hết cả đĩa lúc nào không biết. Nhưng đến hai giờ chiều, Tý lại sốt nặng hơn, nó nằm thiêm thiếp, thở nhanh và nói lảm nhảm luôn mồm.
Nghe bác Lê gái gọi, Mùi lại phải sang, rất bực mình vì thuốc của mình không công hiệu. Vừa sang đến nơi thì Tý cũng vừa nôn ra đầy chiếu nào cơm nào thịt. Mùi nhìn vào những miếng thịt, lấy làm mừng rằng không phải thuốc không công hiệu nhưng vì tại bác Lê gái đã cho nó ăn thịt và vì thế nó bị sốt nặng lên. Nhưng Mùi không nói cho bác Lê biết sợ bác Lê áy náy. Bác Lê cũng nhìn vào chỗ cơm nôn ra và lấy làm ngạc nhiên cả ngày hôm qua Tý nhịn đói, cơm ở đâu mà nôn ra nhiều thế kia. Bác Lê trai hỏi vợ:
"Tối hôm qua cho nó ăn lòng vào thảo nào nó sốt."
"Rõ thật ngủ mê. Ai cho nó ăn lòng. Tại hôm qua thầy mày say rượu đánh nó nên nó sốt. Từ rầy còn uống rượu vào thì cả lũ con cũng chết dần chết mòn hết mà cả tôi cũng chết quách đi cho xong chuyện! Tý ơi, tỉnh đi con."
Nhưng Tý vẫn nói mê sảng: "... con tôm... lăng cụ Quận..."
Bác Lê gái nói với Mùi:
"Cô Mùi, nó nói lảm nhảm như bị ma làm."
Nói đến đây bác Lê gái sực nghĩ ra:
"Phải rồi, cả ngày hôm qua nó đi câu tôm, chắc lúc qua lăng cụ Quận bị ma làm. Thầy mày trông nó, để tôi chạy đi lễ tạ."
Thế rồi bác chạy ra cây đa lễ chỗ thờ thần đa, lễ cái bình vôi rồi bác đi thật nhanh ra bến đò Trò. Dọc đường thấy bụi cây nào bác cũng đứng lại lễ và khấn; đến lăng cụ Quận, bác lễ m cụ Quận, lễ hai con chó đá ở cạnh lăng và lễ đủ cả năm cây thông. Ra bến đò Trò thấy không có gì để ma ẩn nấp, bác lễ đất, lễ trời, lễ sông, vái huyên thuyên. Đỗi ngồi ở thuyền nhìn lên thấy bác Lê đương thì thụp lễ mình, lâm râm khấn làm như mình là một ông thần sống, chàng tưởng bác Lê vừa phát dại, vội đứng lên hỏi:
"Làm sao thế bác Lê?"
Bác Lê nhìn thấy Đỗi:
"Anh Đỗi ơi, Tý nó bị ma làm sốt nói mê nói sảng."
Thật ra lúc đó, thấy nét mặt hốt hoảng của bác Lê miệng vẫn lẩm bẩm khấn, tay vái trên trời dưới đất, Đỗi cho là chính bác Lê bị ma làm. Đỗi nói:
"Tý nó ốm à, để tôi chạy lại thăm nó một tí."
Đỗi vừa mới sực nhớ đã lâu Bé không đến và Tý ốm là một cớ chàng đến thăm Bé rất tự nhiên.
Bác Lê thấy lễ đã đủ khắp nơi, quay trở về. Lúc đến phố, bác rẽ sang tay trái, đi về phía nhà ông Năm Bụng. Lúc đó thì bác không nghĩ đến ma quỷ nữa, bác cho mọi sự đều do ông Năm Bụng gây nên. Vì ông Năm Bụng bán rượu nên chồng bác mới đánh con đến phát sốt, bác mới đánh Tý đến long óc, Tý mới chết mà không được ăn lòng, ăn thịt giả cầy. Lúc thường bác sợ ông Năm Bụng lắm, sợ và trọng nữa, vì có người nói với bác rằng ông Năm Bụng là con một ông Bố ở Sơn Tây. Nhưng cơn tức bác lên thì ai bác cũng không sợ. Thấy ông Năm Bụng đứng ở trong nhà bác tiến thẳng vào, lấy tay dí vào trán ông Năm Bụng.
"Làm sao cái nhà ông lại bán rượu cho chồng tôi. Con tôi chết, thì tôi cho ông tù mọt gông."
Ông Năm Bụng thấy bác Lê gái vào, không lấy làm lạ; ông vẫn đợi bác đến, nhưng nghe bác Lê nói thế ông biết là bác Lê trai say rượu đánh con gần chết. Ông hối hận và sợ hãi. Bác Lê gái thấy thế càng làm già:
"Ông cậy ông con ông Bố à?"
Rồi bác ấn mạnh ngón tay vào trán ông Năm Bụng làm ông Năm phải lùi lại một bước và cho hai tay ôm bụng sợ rơi năm chai rượu giắt ở trong.
"Con ông Bố, con ông mẹ gì thì cũng kệ bố, kệ mẹ ông."
Bà Năm Bụng ở trong nhà chạy ra, nhưng bà không nhìn bác Lê gái, giơ tay chỉ vào mặt chồng:
"Nhục nhã chưa? Mấy năm rồi khổ thân này lắm rồi. Đã bảo về, không về, ở đây để bất cứ một con đĩ dại nào nó cũng mắng được vào mặt mình."
Bác Lê gái chạy lại gần bà Năm:
"Ai bảo ai là đĩ dại. Chồng bà bán rượu cho chồng tôi uống đánh con tôi sắp chết mà lại còn mắng tôi là đĩ dại à? Bà cậy thế à?"
Bà Năm Bụng làm như không nghe thấy bác Lê gái nói và bà cũng không quay nhìn bác Lê, tiếp lời nói với chồng:
"Ê chưa, không về thì mai tôi về một mình, tha hồ ở đây mà nghe người ta chửi bố chửi mẹ cho."
Bác Lê gái thấy ông Năm Bụng rút cả năm chai rượu giắt ở bụng ra đặt xuống phản rồi lừ lừ đi đến phía bà Năm và bà Năm thì cứ lùi lùi dần vào cửa buồng. Ông Năm vẫn không nói gì giơ tay ấn mạnh vào má vợ một cái. Bà Năm khóc oà lên.
"Cứ đánh chết người ta đi, đồ vũ phu."
Ông Năm Bụng vẫn không nói gì, đẩy mạnh vợ vào trong buồng rồi khép cửa buồng lại. Ông thong thả cầm năm chai rượu đút vào trong bụng; mắt ông lúc đó, bác Lê gái thấy đỏ thắm hơn cả chỗ tiết lợn mua hôm qua. Bác Lê vội quay trở ra và hối hận. Bác tưởng ông Năm đánh vợ vì vợ mắng mình là con đĩ dại và bác phục ông Năm là người lớn biết điều.
"Con ông Bố có khác."
Và sự tức mình của bác lại dồn cả vào bà Năm mà bác cho là khinh người và hợm mình.
Lúc bác về tới nhà thì Tý đã tỉnh và sốt nhẹ hẳn người đi. Mùi nói:
"Tại nó nôn ra được."
Bác Lê gái thì cho là vì bác đi lễ và đã lễ đúng vào cái bụi cây hay đống đất mà Tý đã nghịch. Bác bế Tý vào lòng, nói lẩm bẩm một mình:
"Ông Năm Bụng thật là người tốt, biết điều."
Bác Lê trai nhìn vợ một cái. Bác biết là vợ mình vừa rẽ qua nhà ông Năm để mắng ông ta bán rượu cho mình, nhưng còn tại sao lại biết là ông Năm bụng bán rượu cho mình và tại sao khi về lại khen ông Năm là người tốt thì bác không hiểu. Bác thấy ngầm sung sướng vì bác vừa chợt nghĩ ra là lần sau có thèm rượu thì có thể lại đến ông Năm mua được.
Đỗi bước vào nhà bác Lê ngạc nhiên thấy nét mặt mọi người đều vui vẻ; tự nhiên Đỗi cũng vui vẻ đoán Tý đã khỏi và nhất là thấy Bé cũng ngồi đấy đương nhấc một bên khăn trắng lên nhìn mình. Đỗi lại hồi hộp vì lần đầu tiên vào nhà bác Lê mà chàng coi như là nhà vợ mình. Chàng nhìn vào mặt mọi người cất tiếng chào, chỉ trừ riêng Bé là chàng làm như không nhìn thấy.
Đỗi hất hàm hỏi Tý:
"Khỏi rồi à?"
Rồi Đỗi nhe răng cười với Tý. Bác Lê gái nói:
"Sao anh lại không bảo nó về để nó câu cả ngày quên cả ăn cơm?"
"Thì nó bảo tôi là chính bác cho nó đi chơi."
Bác Lê gái lúc đó mới sực nhớ ra:
"Thật là mình lú gan lú ruột, đánh oan con một trận."
Bác mủi lòng ứa nước mắt.
Tý hỏi:
"Chỗ tôm của con hôm qua đâu?"
"Ăn rồi, sáng ngày anh Nhỡ đem rang."
Bác Lê gái nói thế rồi quay nhìn Đỗi hỏi:
"Tự nó câu được nhiều thế hay là anh cho thêm?"
"Một mình nó câu được. Trước cháu chỉ dậy nó cách thức câu có một hai lần, nó tinh ý và học chóng lắm".
Bác Lê gái nghĩ chỗ tôm ấy cũng bán được đến bốn năm xu và định bụng để nó đi câu tôm lại có lợi hơn là ở nhà làm việc khác. Bác cúi xuống bảo Tý:
"Cố chóng khỏi đi, thầy mày vót cho ít cần đi câu tôm cả ngày cũng được."
Tý mỉm cười nhìn lại mẹ.
Mùi đứng lên đi về nhà, nàng mừng rằng Tý đã đỡ, khỏi phải mời làm phiền cha mình ra. Bé cũng đứng lên sang bên cửa hàng. Đỗi cũng muốn đứng lên đi về nhưng không dám vì sợ cùng đi một lúc với Bé; trừ khi mới vào còn thì không một lần nào Đỗi được nhìn mặt Bé cả. Chàng định gợi chuyện nói với hai bác Lê để làm thân nhưng không biết nói về chuyện gì. Chàng nghĩ mãi không ra câu bắt đầu. Thấy tay Đỗi cứ vặt mãi những cái đầu cói làm chỗ rách ở chiếu to dần ra, bác Lê gái nói:
"Rứt mãi làm chiếu rách to ra bây giờ".
Đỗi giật mình ngửng nhìn bác Lê gái và đứng lên:
"Thôi, cháu về đây."
Lúc đi qua cửa hàng bánh cuốn, Đỗi đánh liều nhìn vào và thấy Bé lật khăn lên để hở cả hai mắt cho chàng nhìn và mỉm cười nhìn lại chàng. Lần đầu tiên Đỗi thấy Bé lật khăn cho mình nhìn mà chàng không cần bảo mà lại lật những hai lần và lại mỉm cười cả với chàng nữa. Đỗi sung sướng bàng hoàng và đi chập choạng như người say rượu.
Ngày hôm sau Tý không sốt nữa và cách ba hôm sau Tý khỏi hẳn và khoẻ khoắn như thường. Bác Lê gái mua lòng và dồi về cho Tý ăn và bữa cơm nào cũng có nồi trứng để riêng cho Tý. Buổi sáng nào Mùi cũng gọi Tý sang cho ăn hai chiếc bánh cuốn nóng, nhưng không cho Tý ăn ớt và cà cuống.
Bác Lê trai lại ngồi vót cho Tý đến chục cái cần câu... Tý mới ốm khỏi trong người dễ chịu, khoan khoái lạ thấy cái gì cũng khác hẳn trước, nó như sống một đời đổi mới. Mẹ nó lại không cốc đầu nó nữa và cũng không cốc đầu các em nó.
Hôm đầu tiên đi câu tôm, Tý trở nên nghiêm trang. Nó thấy không phải là đi chơi nữa mà là đi câu để được nhiều tôm đem về bán lấy tiền; nó nghĩ nó cũng sắp được như anh Nhỡ nó, mỗi buổi chiều kéo xe về đưa cho mẹ bao nhiêu là tiền. Nó cũng có thể để dành riêng một ít tiền, thỉnh thoảng ra chợ ăn bánh đúc riêu của bác Mành.
Ăn cơm sáng xong, bác Lê gái đập nhẹ một cái lên vai Tý nói:
"Chiều về cố đem thật nhiều tôm về. Đừng đi chơi lăng quăng và thấy có cái đống hay bụi cây thì đừng có nghịch, đừng có đái vào mà lại sốt như hôm nọ."
Mùi thấy Tý đi qua, vai vác cần câu tay xách giỏ, vội gọi vào và cho ăn hai chiếc bánh.
"Bây giờ khỏi rồi thì mai không có bánh ăn nữa đâu."
Bé hỏi Tý đi câu ở đâu. Tý đáp:
"Em sang bến đò Trò, ở chỗ ấy nhiều tôm lắm."
"Ngày nào mày cũng đi câu ở bến Trò?"
"Vâng ngày nào cũng thế. Chị hỏi làm gì cơ?"
Bé giật mình nhưng cũng tìm ngay được câu ứng phó:
"Như thế tao không phải thỉnh thoảng sang bến Trò mua tôm nữa."
Tý đi khỏi, Bé chạy ngay xuống bếp vò đầu vò tai, miệng lẩm bẩm:
"Đã bảo đừng cho nó câu lại cho nó câu để bây giờ thế này? Còn mình nữa, tự nhiên lại nói câu ấy ra với Tý để bây giờ không còn cớ gì sang bến Trò nữa."
Bé tức Đỗi và tức cả chính mình. Nàng rứt mạnh cái khăn che xuống, ngồi thừ người ra một lúc:
"Thì cần gì sang bến Trò! Đáng ghét cái mặt."
Chương VIII
Siêu đến xóm

Mùi đợi đến chiều mà vẫn chưa thấy thuyền đến. Mấy hôm trước nàng đã nhận được thư Siêu báo tin sẽ về bằng thuyền vì phải chở nhiều đồ đạc và thuyền sẽ tới Xóm Cầu Mới đúng vào ngày hôm nay. Suốt ngày Mùi thấp thỏm đợi, ngồi ngoài hàng thỉnh thoảng nàng lại quay cổ nghiêng người nhìn qua cái cửa sổ chắn song về phía Đầm Cói xem có cánh buồm hay cột buồm nào không. Mùi thấy mỏi cả cổ và mỏi cả lưng. Mùi toan đứng dậy đi về nhà thì vừa lúc đó ông Giáo Đông Công Ích Tin Lành bước vào hàng.

Ông giáo Đông đã dọn đến ở xóm được mấy hôm; ông ấy đã nhiều lần đi qua cửa hàng Mùi và mấy hôm nay đã bắt đầu chào nàng, mỉm cười với nàng nữa. Mùi nhìn ông Giáo đi sang ngồi bên phía có bàn giải khăn trắng và thầm nghĩ không biết ông ta sang để bán phiếu để dành tiền hay để tán tỉnh mình.

Mùi đứng lên, ân cần hỏi:
"Ông dùng gì?"
Ông giáo Đông ngồi quặt hai tay ra sau thành ghế, ngực hơi ưỡn, chân bắt chữ ngũ và đưa đi đưa lại chiếc giầy tây vàng bóng. Ông gật gù nhìn Mùi như suy nghĩ:
"Ừ ử... cô cho tôi chai bia".
Ông giáo Đông vừa nói vừa lấy ngón tay búng búng những nếp răn ở trên quần rồi bỗng như sực nhớ ra, ông bỏ chân đặt ở trên xuống cho ống quần khỏi nhầu nát. Lúc đó Mùi mới để ý đến vẻ người ông giáo Đông. Nàng thấy ông giáo Đông hao hao giống ông Ninh Ký tuy đẹp trai và lịch sự hơn nhiều. Hai mắt ông tròn và to, hơi lồi nhưng chỉ hơi lồi một tí thôi và ở người ông cái gì cũng tròn, từ khuôn mặt, gò má, mũi mồm cho đến cả hai bàn tay bé và ngón ngắn cũn. Quần áo ông như vừa mới lấy ở hòm ra và nàng thoáng thấy một mùi thơm nhẹ như mùi thơm của gỗ thông. Cả người ông cái gì cũng như bóng mới và sạch sẽ, bóng sạch quá khiến nàng tưởng như ông là một con búp bê mới nguyên, có người vừa lấy ở trong hộp ra đặt ngồi ở đấy. Mùi, một người rất sạch sẽ, rất thích sạch sẽ cũng đâm ra ghét và khó chịu về cái sạch sẽ gọn gàng của người ông và quần áo ông. Mùi tự hỏi không biết ông ta gọn gàng quá như thế để làm gì vì chính cái gọn gàng ấy đã làm cho nàng - và nàng chắc những người khác cũng thế - có ác cảm ngay với ông ta.
Mùi đặt chai bia lên bàn rồi đi tìm cái mở bia. Mấy tháng trời rét, lần đầu tiên có người uống bia nên nàng không nhớ rõ đã để cái mở bia ở xó nào. Đông thấy Mùi luống cuống vội cầm lấy chai bia, mỉm cười rồi cho chai lên cắn đến tách một cái, nút bia tung xuống đất. Mùi nói:
"Ông làm thế gẫy răng chết".
Giọng Mùi là giọng chế nhạo nhưng Đông lại cho là dí dỏm. Chàng tươi cười nói:
"Cô cũng phải tập mở cách này cho tiện. Không khó gì cả. Biết cách thì thỉnh thoảng lắm mới sứt một tí răng thôi".
Rồi Đông lại cất tiếng cười để điểm câu pha trò của mình. Đông vì nghề nghiệp cần đến nên lúc nào cũng tươi cười nhưng phần nhiều là tươi cười gượng chỉ trừ lúc ngủ nhưng cả đến lúc ngủ theo thói quen bắp thịt ở má cũng làm việc, thỉnh thoảng hai mép lại nhếch lên một tí.
Đông để nghiêng cái cốc, vừa rót rượu vừa nói như dậy Mùi:
"Ừ ử... rót cách này thì rượu không có bọt, có người thích uống có nhiều bọt, có người thích uống không bọt. Nếu không biết cách này thì cứ phải ngồi đợi hay thổi bọt đi. Khát mà phải ngồi đợi thì phiền mà thổi bọt đi thì phí. Không biết cách này thì thật là phiền phí".
Chàng nâng cốc uống một hơi cạn, lấy tay áo quệt ngang mồm một cái. Cách quệt mồm này, Đông bắt chước ông Công Sứ ở tỉnh và vì thế cho đó là một cử chỉ lịch sự. Mùi nghĩ ông giáo Đông có lắm cách lắm vì mới vào có một lúc mà đã giở ra mấy cách rồi nhưng cái cách lấy tay quệt ngang mồm - nhất là tay áo của ông phẳng phiu sạch sẽ như thế kia - thì không lịch sự tí nào và nàng mỉm cười. Đông thấy Mùi mỉm cười tưởng là Mùi phục mình:
"Người tây thích uống một hơi cạn, người ta thích uống từng ngụm nhỏ, mỗi cách ngon một khác".
Mùi hỏi một cách ngây thơ:
"Thế có cách nào làm cho rượu bia không đắng không ông? Ông biết lắm cách thế thì chắc ông phải có cách".
Nàng định nói mát để tỏ cho ông giáo Đông biết là ông đã quá khoe khoang về các cách không có gì tài tình của ông, nhưng Đông lại tươi hẳn nét mặt vì tưởng Mùi phục mình thạo và vì câu hỏi ấy chàng lại có thể tỏ sự thông thạo của chàng ra nhiều hơn:
"Rượu bia ngon chính vì nó đắng, nhưng cũng có người thích ngọt nhất là các bà các cô. Vì thế người ta phải chế ra hai thứ bia: bia nâu thì đắng, bia vàng thì ngọt. Rượu này là rượu bia vàng. Rượu bia nâu chỉ bán ở Hà Nội, Hải Phòng. Ở nhà quê tôi kiếm đâu cũng không có rượu bia nâu vì không có những tay sành uống".
Mùi nghĩ thầm "Thế nghĩa là ông Giáo Đông là tay sành uống" rồi nàng nói to:
"Nhưng ngay cả đến rượu bia vàng này tôi cũng thấy nó đắng thì làm thế nào?"
Đông không hiểu tại sao Mùi lại thấy rượu bia này là đắng được:
"Ừ ử... muốn ngọt thì chỉ có một cách cho thật nhiều đường vào".
"Ngỡ cách gì chứ cách ấy thì tôi vẫn làm mỗi khi có bà nào đau bụng máu cần phải uống đến bia mới khỏi".
Đông nói:
"Uống rượu bia thì khỏi đau bụng à?"
Đông đã thấy mình nói nhiều quá về rượu bia mà chàng đến đây không phải cốt để uống bia và nói chuyện về cách thức uống rượu bia. Sau khi đã hỏi rõ bà Ký Ân và biết Mùi có vốn liếng riêng, chàng đến cửa hàng Mùi với ý định nói cho Mùi biết về những ích lợi của công ty để dành tiền Công Ích. Đối với ai lần đầu chàng cũng chỉ nói về lợi ích thôi, không nằn nì họ mua phiếu. Chàng để mặc cho khách hàng nghĩ chín rồi lần sau đến chỉ nhắc qua để tự ý người khách ngỏ ý mua trước. Đông bao giờ cũng có hai nguyên tắc chính: làm cho họ thấy rõ là có lợi và làm cho họ tin chắc chắn là không bao giờ mất. Chàng thấy phần nhiều các bà hay mua vì các bà tham lợi và dễ tin. Cần nhất là phải nói chuyện riêng với các bà các cô vì họ hay mua giấu chồng (sợ chồng tiêu mất) hoặc giấu cha (sợ cha lấy mất); vả lại như thế đỡ có người nói ra nói vào làm giảm lòng tin đi.
Đợi mãi mới được lúc Mùi ngồi ở cửa hàng một mình, không ngờ vui miệng nói mãi về rượu bia. Sự thực lúc đó Đông quên hẳn ý nghĩ nhà nghề. Chàng thấy cô hàng xinh đẹp ấy mới gặp chàng mà đã ra vẻ có cảm tình riêng với chàng; hai con mắt trong sáng như ướt nước của nàng vừa có vẻ thơ ngây, lại vừa tinh nghịch nhìn chàng những khi chàng nói - chắc cô nàng đã thấy mình có duyên và thông thạo - cô nàng đã phục mình rồi thì mình cũng phải tỏ ý phục cô nàng về một vài chỗ nào đấy:
"Cô hình như thạo về cách thức chữa bệnh lắm thì phải. Con gái một ông Lang mà".
Chàng thấy Mùi không để ý nghe câu nói của mình; nàng nghiêng cổ nhìn về phía sau. Đông không hiểu vì cớ gì, từ lúc chàng vào hàng có lẽ đến ba bốn lần Mùi làm như thế rồi. Lần này chàng thấy Mùi đứng thẳng lên:
"Bác Lê ơi, anh Nhỡ, Bé ơi!"
Rồi chàng thấy Mùi chạy sang nhà bên cạnh như là không biết có chàng ngồi đấy; chàng thấy tiếng người nói ríu rít một lúc rồi yên hẳn nhưng đợi mãi cũng không thấy Mùi trở về. Chàng chạy sang hỏi thì Nhỡ nói là Mùi đã về nhà. Đông ngơ ngác tự hỏi:
"Về nhà? Trong lúc có khách ngồi ở hàng và bỏ quên cả khách".
Chàng cất tiếng hỏi Nhỡ:
"Việc gì đây?"
Nhỡ cười đáp:
"Bẩm không có việc gì cả. Cô ấy bảo cháu đợi thuyền đến khuân đồ đạc".
Đông quay về cửa hàng, nét mặt hết cả tươi cười. Chàng nhận ra Mùi đã không để ý gì đến chàng như lúc nẫy chàng vẫn sung sướng tưởng thế. Chàng cắp cái cặp vào nách, rót nốt chỗ rượu ở chai và nhấc cốc uống một hơi cạn. Rượu bia vàng mà lúc đó chàng cũng thấy đăng đắng.
Đông đặt tiền rượu ở bàn, toan đi. Bỗng chàng ngừng lại vì chợt thấy một cái khăn tay trắng để ngay cạnh chỗ Mùi ngồi.
"Chắc là khăn tay của cô ả bỏ quên".
Nhìn quanh không thấy ai, Đông tiến đến, cúi nhặt chiếc khăn và bỏ ngay vào túi, quả tim hồi hộp. Ra đến cửa thấy Bé ở bên cạnh chạy về, Đông bảo Bé:
"Tiền rượu tôi để ở bàn ấy".
Đông đi khỏi, Bé vào ngồi ở ghế cạnh chõng. Bỗng Bé nhìn quanh người:
"Ồ cái khăn che mắt mình vừa thay ra để đây, đâu rồi?"
Bé cúi nhìn xuống dưới chõng, nhìn sang cái bàn phủ khăn trắng, nhìn sang chỗ lò bánh, nhìn khắp nhà.
Bé nghĩ Mùi thì không đời nào cầm lẫn khăn của nàng vì Mùi sợ lây, từ nẫy đến giờ chỉ có một mình ông Giáo Đông mà ông Giáo Đông thì lấy làm gì cái khăn bẩn và dễ lây ấy; hay là chuột tha.
Trong lúc đó thì Đông, sau khi đã đóng cửa, rút chiếc khăn ra vò ở tay ngắm nghía. Chàng đưa lên Mũi ngửi và lẩm bẩm:
"Khăn có một mùi thơm là lạ, hay hay".
Và Đông thấy khắp người choáng váng một cái thú say sưa; chàng cho là một điềm hay vì khi nào đã có được khăn tay của một người con gái thì người ấy thường hay mê lại. Có một điều chắc chắn là vì chiếc khăn đó mà Đông đâm ra mê người con gái có khăn.
Chàng lại đưa chiếc khăn lên hôn và chợt tìm ra là mùi thơm là lạ ấy giống mùi thơm của một vị thuốc.
Chàng mỉm cười nói một mình:
"Khăn tay của con gái ông Lang có khác".
Chiếc khăn đối với chàng trở nên quý giá và thân yêu hơn vì như còn giữ lại trong nếp hơi hướng của da thịt Mùi.
Mùi chạy về báo tin cho cha và em biết, gọi u già bảo sửa soạn làm cơm rồi ra đứng ở luỹ tre nhìn về phía cánh đồng:
"Không khéo trời mưa mất".
Cánh buồm bỗng vàng hẳn lên vì ánh mặt trời tà chiếu xuyên từ phía tây lại và nổi bật lên trên nền xám mờ mờ ở chân trời, Mùi chắc không bao giờ quên được cái cảnh chiếc buồm vàng tươi nổi bật lên như sự hiển hiện của nỗi vui trong lòng nàng.
Triết cũng chạy lại đứng gần chị nói:
"Nhưng chắc đâu đã là thuyền chở bác Cai. Em trông giống cánh buồm thuyền chở nâu của bác Hai Vinh".
Mùi cũng sực nhớ ra là cánh buồm ấy giống cánh buồm thuyền của ông Hai Vinh và nàng thất vọng. Nàng nói:
"Cũng có lẽ... à... nhưng thuyền có thể vừa chở nâu vừa chở người được lắm chứ?"
Triết nói:
"Nhưng làm gì có nâu ở bể mà chị bảo là chở nâu. Chị thật lú gan lú ruột".
"Ừ nhỉ".
Mùi vừa trả lời nhát gừng vừa nhìn cánh buồm và nhìn cơn mưa mỗi lúc một gần thêm. Bỗng nàng sực nghĩ ra sự vô lý của Triết:
"Thế sao chú lại bảo là thuyền chở nâu".
"Thế em mới lẩn thẩn mà chị cũng lẩn thẩn. Thuyền chở nâu thì phải đi phía bên trên cầu chứ".
Mùi cười nói:
"Mà còn đâu Hai Vinh củ nâu mà củ với kiếc. Chắc là thuyền bác Cai rồi".
Trời bắt đầu đổ mưa. Hai chị em chạy đứng nấp dưới gốc một cây nhãn. Chiếc thuyền tới gần chùa Hàn, Mùi thấy một người thò đầu ra ngoài khoang giơ tay vẫy, nàng đoán là Siêu. Nàng cũng giơ tay đưa đi đưa lại: bỗng nàng mỉm cười nhớ đến hôm đứng cạnh gốc bàng hai người vẫy tay từ biệt và tay nàng đổi ra vẫy nhanh rối rít.
Lúc thuyền đi ngang, cả Mùi cả Siêu đều thôi không vẫy tay nữa. Mùi yên lặng nhìn Siêu. Thế là cái mong ước trong bao lâu từ lúc này đã biến thành sự thực nhưng lòng Mùi không thấy xao xuyến gì cho lắm. Thấy bên cạnh Siêu có một cái đầu thò ra nhìn rồi lại thụt vào rồi lại thò ra đến bốn năm lượt, Mùi đoán là Mạch em trai bé của Siêu. Lúc thuyền đến gần, Mùi hỏi Siêu:
"Bác đâu?"
Siêu lấy tay chỉ vào khoang, Mùi hơi lấy làm lạ vì cho dầu trời mưa, ít ra bà Cai cũng phải ra cửa khoang nhìn khi nghe tiếng nàng hỏi. Nàng đoán có lẽ bà Cai say sóng.
Lúc thuyền tới bến vừa bắc cầu xong, Mùi đã nhanh nhẹn bước xuống và chui vào khoang thuyền:
"Lạy bác ạ... hai anh ạ. Cháu đợi suốt ngày hôm nay, nóng ruột quá".
Mùi thấy bà Cai ngồi yên; nàng vào mà bà cũng không để ý gì đến nàng cả. Mạch thì nhìn nàng trừng trừng. Một lúc bà Cai mới nhìn nàng và bảo Siêu:
"Sao không mời cô ấy ngồi".
Mùi đoán có lẽ xa cách nhau lâu năm, nàng đã đổi khác nhiều nên bà Cai không nhận ra được mặt nên nàng vội mỉm cười nói:
"Thưa bác cháu đây mà. Cháu Mùi đây mà".
Nhưng Mùi cũng không khỏi ngạc nhiên vì bà Cai nếu không nhận được mặt thì ít nhất cũng phải đoán ra. Vả lại nàng đã ngồi rồi mà còn nói mời ngồi. Mùi thấy bà Cai tự nhiên cười lên một tiếng rồi lẩm bẩm nói nhưng không phải nói với nàng:
"Trông cô ấy giống như con gái lão Bẹc-Nà râu xồm".
Mùi trợn mắt rồi lại chớp chớp luôn mấy cái, nhìn bà Cai rồi lại đưa mắt nhìn Siêu. Mùi thấy Mạch cũng trợn mắt và chớp chớp bắt chước mình, rồi nghiêng đầu nhìn mình như nhìn một con vật lạ. Nàng giơ tay xoa đầu Mạch nói:
"Anh Mạch bây giờ đã nhớn lắm rồi nhỉ".
Bà Cai lại nói và vẫn nói một mình tuy mắt thì nhìn vào Mùi:
"Chai rượu cốt-nhắc biếu lão Bẹc-Nà thằng Quý đánh vỡ cả rồi. Cái thằng Quý động cầm cái gì thì đánh vỡ cái ấy".
Triết bấm vào tay chị một cái. Mùi đưa mắt hỏi Siêu. Siêu giơ tay lên che miệng và lắc tay mấy cái. Mùi hiểu là bà Cai điên nhưng nàng phải theo ý của Siêu diễn ra bằng hiệu tay là làm như không nhận thấy có gì lạ cả. Nàng hỏi bà Cai:
"Bác đi thuyền có say sóng không?"
"Có. Đi ra Hòn Gai sóng to lắm. Có bốn con cá nó đi theo tầu, một con đi gần tầu, một con cũng đi gần, một con đi đằng xa, còn một con đi tít tận đằng xa".
Rồi bà Cai lại nhìn Mùi và lần này nói với Mùi:
"Cô có biết bà Hợp Thành ở Hòn Gai không nhỉ?"
"Thưa bác không ạ".
""Cô thì không biết cái gì cả".
"Vâng ạ".
Và Mùi không giữ được mỉm cười khi nói hai tiếng "vâng ạ" ngớ ngẩn ấy.
Lúc đó Mùi mới nhìn Siêu; tuy nhìn Siêu nhiều lần rồi nhưng lần này Mùi mới thật là nhìn Siêu sau hơn một năm cách mặt. Mùi thấy Siêu đẹp ra và ở trong nét mặt phảng phất có một thứ gì khác ngày trước. Nàng lấy làm lạ là tuy bà Cai bị điên, ông Cai vỡ nợ phải bỏ trốn mà nét mặt Siêu vẫn điềm tĩnh sáng sủa như không có chuyện gì lo buồn đã xẩy ra. Nhìn mặt Siêu nàng thấy có một cảm giác bình tĩnh, ở trong lòng lâng lâng coi như mọi việc không có việc gì quan trọng nữa.
Siêu cũng nhìn Mùi và mỉm cười. Chàng vừa nhận thấy Mùi giống cô Jeanne con gái ông Bernard thật: Jeanne tóc đỏ, mắt xanh, mũi lõ, cái gì cũng khác Mùi cả, nhưng giống thì đúng như bà Cai nói: giống lắm. Chàng nghĩ thầm: "Những người điên nhìn cái gì cũng nhìn một cách giản dị, bỏ hết những cái phụ thuộc nên trông rõ cái chính. Vì thế mẹ mình đã thấy Mùi giống Jeanne còn mình thì không nhận thấy".
Óc chàng suy nghĩ thế nhưng miệng chàng nói:
"Bây giờ chiều rồi, không dọn được đồ đạc. Đợi xem một lát ngớt mưa thì về".
Lúc đó Mùi mới để ý đến đồ đạc xếp ngổn ngang ở trong khoang và thấy thứ nào cũng có vẻ sang trọng cả; quần áo bà Cai và Siêu, Mạch nàng thấy cũng có vẻ sang đối với những người ở Xóm Cầu Mới. Nàng vui mừng thấy câu nói "anh Siêu có tiền" là đúng với sự thật. Nàng nhìn xuống chân Siêu, mỉm cười: Siêu hãy còn đi giầy tây.
Mạch lúc bấy giờ thôi không nhìn Mùi nữa, nó quay sang nhìn Triết. Triết đặt một tay lên vai Mạch. Mạch cũng đặt tay lên vai Triết và hỏi:
"Ở đây có trường học không?"
Triết nói:
"Có. Anh hỏi làm gì?"
Mạch không đáp; tay Mạch đã hạ xuống dưới cổ Triết và tháo xong cái cúc áo ở cổ.
"Thế anh có đi học không?"
Triết nói:
"Có. Thế mới phiền".
"Phiền thật".
Tay Mạch đã cởi được cúc của áo thứ hai của Triết. Mạch lại hỏi:
"Sao anh gầy thế?"
Và Mạch giơ tay lên sờ vào má Triết chỗ có cái gân xanh và cào cạo như thử xem cái vết xanh ấy có sạch không. Tay trái Mạch đặt vào sườn Triết làm như ướm xem Triết gầy như thế nào và cởi luôn được cả hai cái cúc ở dưới nách.
Mùi nói:
"Giời này thì còn mưa lâu. Mời bác và anh về nhà xơi cơm, đồ đạc sáng mai dọn".
Triết vội chui ra ngoài khoang cầm ô giương và lấy làm lạ thấy tự nhiên các áo mình lại tuột hết và vạt áo trước lật ra để hở cả áo cánh. Siêu nói:
"Lại cái thằng loăng quăng bị gậy".
Triết lúc bấy giờ mới nhận ra là Mạch loăng quăng thật. Từ lúc gặp, Triết nhận thấy tay chân Mạch không để yên được một lúc, đầu hết nghiêng bên nọ lại nghiêng bên kia, cái bờm tóc ở đầu cũng hình như đổi chỗ luôn và quần áo mặc thì cổ áo lệch sang hẳn bên vai và cái quần thì hình như nút buộc chạy hẳn sang bên cạnh sườn; cả người Mạch hình như không có một cái gì ở vào đúng chỗ của nó.
Mạch chạy ra đứng nấp dưới ô của Triết và lại bắt đầu cài cúc lại cho Triết. Mùi vừa dắt bà Cai vừa giương ô che. Còn ba cái nón của Mùi đem ra Siêu phải đi cả lên đầu.
Mưa mỗi lúc một nặng hạt thêm. Mùi gọi Bé bảo xách hai cái gói chăn và đi hộ Siêu hai cái nón. Lên tới bờ, bỗng Mùi thấy nhói một cái ở tim; nàng vừa nhận thấy là cả bà Cai, cả Siêu Mạch đều không mang một thứ gì, cả đến một cái hộp nhỏ hay cái cặp cũng không.
"Thế thì chả có đồng xu mẹ nào".
Mùi tự trách là sao lúc này nàng lại để ý đến việc đó và cái nhói ở tim đã cho nàng biết là chính nàng lại khó chịu về chỗ bà Cai hết tiền hơn cả ông Lang nữa; cái ý thích Siêu nghèo chỉ là một ý bề ngoài.
Triết vừa đi vừa hỏi Mạch:
"Anh có thích bươm bướm không?"
"Thích lắm nhưng ở Hải Phòng không có bươm bướm".
Triết giơ tay kéo Mạch vào vì thấy Mạch loăng quăng chạy ra ngoài ô giẫm lên một đám cỏ may ở cạnh đường để xem cỏ may bám vào quần ra làm sao.
"Chốc nữa tôi cho anh xem. Có cả bươm bướm ma. Nó biết nói".
"Thế à? Thích nhỉ. Ngày trước tôi cũng có một con vẹt biết nói; nó nói "có khách, có khách" nghe y như người. Thế bươm bướm nó nói thế nào?"
Triết lại giơ tay kéo Mạch đi vào trong ô:
"Bươm bướm nó nói khác. Nó nói thầm".
Mạch hỏi:
"Nó nói thầm thì mình nghe thế nào được".
"Nghe được chứ. Tôi đi ngủ để ở đầu giường, đêm khuya yên tĩnh thỉnh thoảng lắm nó mới nói cho nghe".
"Thế thì phiền nhỉ. Mình ngủ không nghe được nó nói".
"Tôi sẽ đánh thức anh dậy".
Về đến chỗ dậu dâm bụt nở hoa thì Triết không sao giữ nổi Mạch ở trong ô nữa. Mạch hình như muốn hái hết cả hoa ở giậu.
Vào đến nhà, Mùi đặt bà Cai ở giường rồi đi lấy khăn khô lau những chỗ ướt ở khăn vuông, ở vai áo. Ông Lang Hàn ở trong buồng đi ra, vẻ mặt tươi cười. Thấy bà Cai và Siêu ăn mặc có vẻ sang, ông Lang thấy trong lòng nhẹ nhõm vì biết chắc bà Cai còn tiền như lời Mùi nói độ trước. Bà Cai nhìn ông Lang đi lại phía mình rồi giơ tay, nói:
"Ông Lang đấy à? Sao lâu lắm không thấy ông đến chơi. Có vài sào đất chứ có bao nhiêu đâu mà ông giận tôi. Mời ông ngồi chơi. Quý ơi, pha nước".
Tự nhiên bà Cai khẽ cười lên một tràng dài rồi lại lẩm bẩm nói một mình không để ý đến ông Lang nữa. Ông Lang đưa mắt nhìn Siêu rồi lại nhìn Mùi; thấy vẻ mắt hai người nhìn lại mình, ông biết chắc là bà Cai điên. Bụng ông phiền hết sức và mặt ông Mùi thấy nhiễm đầy phiền muộn và khó chịu.
Mạch đi vào, tay ôm một bó hoa đầy và đặt lên cái thảm lông của ông Lang vẫn ngồi uống nước trà. Nó nằm sấp xuống chọn những hoa to xếp lại với nhau. Bỗng nó thấy cuốn sách thuốc của ông Lang, nó mở ra lật từng trang, ngắm nghía các tranh vẽ. Loay hoay thế nào khuỷu tay nó chạm ngay vào bộ chén trà quý của ông Lang rơi tung ra phản. Ông Lang quay mặt lại rồi chạy vội ra phản nhặt chén; may không vỡ chiếc nào nhưng cái bực mình của ông đã lên đến cực điểm. Ông nhìn cái thảm lông thì cái thảm cũng đã ướt dầm nước và cả cuốn sách nhờ người mua tận bên Tàu cũng đã bị Mạch làm nhầu nát mấy trang. Ông nhìn Mạch thấy Mạch quần áo xốc xếch đầu tóc rối bù, trên trán trên má đầy lá ướt trông y như một thằng quỷ con, ông nghĩ thầm:
"Tự nhiên rước một thằng quỷ con với một bà điên về nhà".
Để chuộc lại cái lỗi đánh đổ chén, cái lỗi của Mạch thấy không có gì to lắm vì chén không vỡ cái nào, Mạch loay hoay xếp lại các chén ở trong khay cho ngay ngắn. Ông Lang thì tưởng là Mạch lại bắt đầu nghịch chén nữa. Ông gắt:
"Muốn ở đây thì đừng động vào những cái gì của tôi".
Mùi nhìn Siêu thấy Siêu nét mặt vẫn bình tĩnh nhưng nàng đoán Siêu chắc khó chịu lắm. Trong lúc gặp gỡ sau mấy năm cách mặt, lại vào giữa tình trạng éo le đến nhờ vả mà câu nói đầu tiên của cha nàng lại là câu "Muốn ở đây thì..." Tuy là nói một đứa trẻ con, nhưng sao cha nàng lại không có ý tứ hơn. Siêu thì buồn phiền hết sức nhưng chàng không thể giận ông Lang vì dẫu sao câu nói chỉ là một câu nói sơ suất, chàng biết không có ngụ ý gì khác. Chàng sẽ búng tay một cái như muốn rũ cái khó chịu đi.
Ông Lang quay lại và thoáng thấy vẻ yên lặng đặc biệt trên nét mặt Siêu và Mùi, ông hối hận là đã nói lỡ lời chạm đến bà Cai và Siêu. Mà sự hối hận ấy lại làm ông bứt rứt khó chịu hơn cả việc bà Cai điên, Mạch nghịch ngợm, và chính sự khó chịu bứt rứt ấy lại làm ông cố tươi nét mặt và mỉm cười nhìn mọi người. Ông khẽ gọi Siêu lại gần và thân mật hỏi về bệnh của bà Cai. Mùi lấy gối để bà Cai nằm rồi lại gần nghe Siêu nói:
"Lúc xẩy ra việc lôi thôi thì mợ cháu không việc gì. Mới bị điên hai tháng nay. Có lúc tỉnh lúc mê nhưng không bao giờ đập đồ đạc, xé quần áo. Lúc mê nặng thì nói nhiều và cười nhiều hơn. Bây giờ vào độ mê bình thường, vì còn nhận ra được chú".
Ông Lang nói:
"Chắc bác ấy buồn vì nhà buôn bán thua lỗ hết tiền phải lo công nợ".
Siêu nói luôn:
"Không phải thế..."
Chàng ngừng lại suy nghĩ một lát rồi tiếp theo:
"Thưa chú trước cháu cũng tưởng thế, nhưng đến khi mợ cháu bị bệnh vì một sự tình cờ cháu tìm ra được chỗ mợ cháu dấu tiền có đến ba trăm bạc..."
Mùi giật nẩy mình, sự sung sướng tràn ngập cả lòng. Nàng nhắc lại, giọng hơi to:
"Những ba trăm bạc nhỉ!"
Siêu giơ tay làm hiệu:
"Cô nói khe khẽ chứ".
Mùi hỏi luôn:
"Thế bây giờ còn không?"
"Hãy còn nguyên cả".
"Thế anh để đâu, anh để quên ngoài thuyền à?"
"Thì cô hãy thong thả đã. Nhà chưa bao giờ có nhiều tiền như thế vậy mợ cháu bị điên không phải vì chuyện tiền. Chắc có một nguyên do khác cháu chưa tìm ra hoặc không có duyên cớ gì cả".
Mùi hỏi:
"Có nhiều tiền thế sao không ở Hải Phòng buôn bán lại về đây làm gì".
Siêu nói:
"Không buôn bán được".
Trả lời xong Siêu đưa mắt nhìn Mùi dò xét xem câu nói của Mùi có ngầm ý khác không. Dẫu thế nào chàng cũng khó chịu vì mấy chữ "về đây làm gì" của Mùi dùng. Chàng cố dằn lòng nhưng miệng vẫn cứ nói:
"Lẽ ra tôi không muốn về đây làm gì".
Chàng muốn nói đến đấy thì dừng hẳn lại không nói thêm gì nữa nhưng làm thế tất Mùi sẽ biết là chàng tức, nên chàng phải tiếp theo luôn:
"Cậu tôi trước khi trốn có dặn thế nào cũng về ở Xóm. Tôi đoán là vì có khi muốn lẩn lút về thăm nhà. Cho nên thế nào cũng phải thuê nhà hay làm nhà ngoài xóm".
Mùi không hỏi kỹ nhưng cũng biết số tiền ba trăm này là bất chính, chắc ông Cai trước khi trốn đã đưa giấu bà Cai, nếu có người biết bà Cai sẽ bị tù thay chồng.
"Phiền nhỉ. Có tiền mà không buôn bán được cứ ngồi ăn mãi thì cũng đến hết cả bạc cánh, bạc nhị".
Siêu nói:
"Tôi có cách".
Ông Lang hỏi:
"Cách gì cơ?"
"Thưa chú để vài hôm nữa mới biết đích xác".
Ông Lang lúc đó hết cả phiền muộn; không những không phải giúp đỡ nhà ông Cai mà khi nào cần lại có chỗ để vay tiền rất dễ dàng mà không mất lãi. Việc gả chồng của Mùi (vì bà Cai điên) ông sẽ liệu cách khác. Mùi thì sung sướng như là chính cái nồi đất của nàng đã nặng thêm được ba trăm bạc đồng.
Trong lúc đó thì ở trong buồng Triết đương giơ cuốn sách, thong thả lật từng trang một cho Mạch xem bướm.
"Trông nó lồi hẳn lên".
Mạch nói thế và đưa tay định sờ vào cánh bướm xem nó có lồi thật không nhưng đã bị Triết đấm một cái mạnh vào lưng:
"Sờ vào thì mất hết phấn".
Tuy biết thế nhưng giá Mạch được vừa nhìn vừa sờ thì khoái trá hơn nhiều. Tay nó lại để lên cổ Triết vừa nghe Triết giảng giải về bướm vừa rứt rứt những tóc gáy của Triết.
"Anh Mạch, đây là con bướm tàu vì cánh nó có hai đuôi, đây là hai con bướm đêm. Bướm đêm lúc đậu thì xoè cánh, bướm ngày lúc đậu thì chụm cánh lại. Bướm đêm cũng có khi bay ban ngày, bướm ngày không bao giờ bay ban đêm vì nó không trông thấy gì mà mình cũng không trông thấy nó. Bướm đêm mới nhiều con đẹp. Con bướm ma cũng là bướm đêm".
Mạch rứt tóc gáy Triết một cái mạnh:
"Ừ nhỉ, bướm ma đâu?"
Triết gấp sách lại cất đi:
"Thôi, phải xem dần mỗi ngày một tí mới thích".
Mạch nói:
"Mai anh cho tôi đi bắt bướm với nhé".
"Không được, mai phải đi học. Để đến chủ nhật, thứ năm".
"Phiền nhỉ. Đi học làm cái quái quỉ gì. Mà sao ở đây là nhà quê mà cũng có trường học, cũng có thứ năm, chủ nhật y như ở Hải Phòng. Anh có ghét đi học không?"
"Ghét lắm nhưng vẫn phải đi".
"Em cũng ghét nhất đi học. Ghét nhỉ".
Triết gật gù tán thành và đấm vào lưng Mạch một cái nữa.
Lúc ra đến nhà ngoài Triết và Mạch đã trở nên hai bạn thân nhất đời và hoàn toàn hợp tính nết.
Mùi thấy Triết và Mạch đi ra quấn quýt lấy nhau và nét mặt Triết lần đầu tiên nàng thấy hớn hở, mắt sáng và nhanh hẳn lên, nước da cũng bớt xanh xao. Mùi mừng rằng từ nay em mình có người bạn nhỏ để cùng chơi, chắc sẽ không ngồi buồn ở hiên nữa. Nhưng quần áo hai anh em, Mùi nhìn thấy rối cả mắt, em nàng đã lôi thôi, Mạch lại xốc xếch gấp hai.
Mùi ngồi xuống kéo Mạch lại gần, vuốt lại tóc, nhặt những cái lá dính ở trán ở má, sửa lại cổ áo, nhặt các hoa cỏ may vướng ở áo và kéo lại cái quần cho ngay ngắn. Xếp đặt người Mạch xong, Mùi nghiêng đầu nghiêng cổ ngắm nghía và thấy Mạch vẫn lôi thôi thế nào ấy. Bỗng Mùi giật mình nhìn xuống và thấy vạt áo dài rơi toả xuống nền gạch, áo cánh hở ra trắng xoá.
Siêu cười bảo Mùi:
"Thực là cái thằng oái oăm".
Trước khi đến Xóm, Siêu thấy Mạch hỏi kỹ xem nhà ông Lang có mấy người và cách thức ăn mặc của từng người một. Trước thấy Mạch cởi áo Triết mà lần này lại cởi được áo của Mùi, Siêu mới hiểu ý định của Mạch và nghĩ đến chỗ Mạch cứ từ tốn thực hành cái chương trình nhỏ của mình, đã thành công được hai người rồi, chỉ còn thiếu một ông Lang, Siêu không thể nhịn cười được.
Mùi nghĩ lúc đó giận mắng Mạch thì cũng không được mà sự thật nàng cũng không giận gì, cười với Mạch thì sợ nuông cho Mạch hỗn, chỉ có một cách là bắt chước bác Lê gái, cốc đầu Mạch một cái là hợp nhất. Nghĩ thế Mùi giơ tay cốc đầu Mạch một cái không nhẹ quá mà cũng không mạnh quá vừa đúng tình thế nửa đùa nửa giận lúc đó.
Nhìn bà Cai nằm ở phản nói lảm nhảm một mình, Mùi lấy làm lạ rằng không ai để ý và buồn về việc bà Cai điên mà cả đến Siêu cũng vậy. Chính Mùi lại nhận thấy bà Cai điên như thế nàng được tự do với Siêu hơn. Nhưng còn Siêu, tại sao Siêu lại không mảy may buồn bã, coi như bà Cai điên là một sự tự nhiên hay một việc đã lâu hàng năm và quen lắm rồi.
Ngoài nhà trời đã tối và mưa vẫn rơi rả rích, Siêu và Mùi ngồi đối diện nhưng cả hai đều yên lặng và không nhìn nhau. Mùi thì đương nghĩ đến số tiền của bà Cai và miệng lẩm bẩm tính:
"Bẩy chục với ba trăm bẩy mươi đồng. Cứ tính bỏ nhỏ là mười phân cũng được bốn chục, đủ tiêu rộng rãi cả nhà. Nếu đi cân gạo thì còn gấp đôi thế nữa.
Siêu thì đương hối hận đã nói số tiền đó, nhất là nói cho ông Lang biết. Tuy không hiểu vì cớ gì nhưng chàng thấy chắc sau này sẽ có nhiều chuyện rất phiền về việc đó. Trong một lúc nóng nẩy chàng chỉ nghĩ đến việc làm cho mình bớt khó chịu về câu nói vô tình của ông Lang mắng Mạch. Để tránh một sự khó chịu nhỏ chỉ trong chốc lát sẽ qua đi, chàng đã vướng vào một sự bứt rứt có lẽ kéo dài. Chàng vụt ra cái ý tưởng bảo rằng bà Cai đã đem số tiền đó trả nợ những chỗ thân thuộc và túng thiếu khổ sở về việc ông Cai vỡ nợ nhưng tuy không nhớ hẳn chàng cũng mang máng là như đã có nói số tiền ấy còn. Chàng tự hỏi:
"Mình đã nói những gì lúc nãy?"
Chàng cố nhớ lại những câu nói chuyện nhưng không tài nào nhớ rõ, song có một điều rõ ràng nhất là chàng đã có tỏ ra rằng số tiền ấy còn. Chàng bực tức đứng lên; Mùi chạy vào buồng cầm ra một đôi guốc, đặt cạnh chỗ Siêu đứng:
"Mời anh đi rửa chân".
Mùi thắp đèn rồi lấy nón đưa cho Siêu. Hai người đi qua cái sân gạch ra chỗ bể nước. Mùi lấy gáo múc nước đưa cho Siêu rồi đợi Siêu dội xong, nàng đón lấy gáo rửa chân mình.
Đứng trong vòng ánh sáng nhỏ hẹp của chiếc đèn con, một màn mưa bao bọc chung quanh, giữa những tiếng rào rào và quen thuộc của mưa trên nón lá, hai người nhìn nhau lặng lẽ và cùng có cái cảm tưởng là từ lúc đó mới thực là đã trở về với nhau. Tiếng Mùi nói khẽ và hơi run run trong một niềm vui thâm trầm:
"Nước lạnh chân quá, anh có thấy lạnh không!"
Miệng nói câu ấy nhưng lòng nàng là muốn diễn với Siêu: "Em đương vui sướng đây. Anh có thấy không?". Siêu nghe tiếng Mùi như vẳng ở đâu rất xa lại và thân yêu như một nỗi nhớ nào từ hồi quá vãng. Chàng nhìn hai bàn chân nhỏ nhắn của Mùi đương bắt tréo hứng lấy dòng nước từ gáo chẩy xuống. Chàng loay hoay nghĩ ngợi để tìm một câu tả nỗi vui được gặp mặt Mùi, được sống gần Mùi, nhưng chàng không biết nói câu gì.
"Đôi guốc của cô tôi đi nhỏ quá, đau cả chân".
Những tiếng vu vơ ấy lại vang lên trong lòng chàng thân yêu hơn những lời thân yêu. Chính câu chàng nói không định diễn tả lòng mình mà lại diễn tả nhiều hơn. Đối với chàng lúc đó thì bất cứ một câu nói gì cũng diễn tả tất cả nỗi vui của chàng bởi vì cái vui đã reo lên trong lòng chàng rồi trước khi chàng nói ra lời diễn tả.
Bỗng tiếng gió rào rào trong luỹ tre nổi mạnh, rồi một cơn gió đưa qua làm lung lay ánh ngọn đèn con và thổi rối loạn các giọt mưa đương rơi đều giữa hai người. Siêu không nhìn rõ hai con mắt Mùi vì ánh đèn để ở dưới chiếu bóng tối phớt ngược lên, nhưng chàng cũng nhận thấy có một tia sáng vụt loé rất mau trong hai con ngươi của Mùi. Chàng không biết có phải Mùi đương mỉm cười với chàng không nhưng chàng cũng mỉm cười rất nhẹ đáp lại.
Siêu và Mùi bước vào nhà thì u già đã đặt mâm cơm trên phản. Ông Lang nói với Mùi:
"Con vào lấy cái hũ rượu ra. Hôm nay thì phải uống rượu chứ".
Mùi hỏi Siêu:
"Anh uống được rượu không? Rượu của ông Năm Bụng ngon lắm".
Siêu đáp:
"Rượu thì tôi phải uống luôn".
"Thế thì may quá".
Mùi nói thế vì nghĩ đến chỗ mười chai rượu của ông Năm Bụng đã có người tiêu thụ. Nàng lệ khệ xách ra một cái hũ rượu lớn, đặt trước chỗ Siêu ngồi:
"Chỗ này thì anh uống mấy hôm hết".
Siêu mỉm cười:
"Không bao giờ hết cả, vì tôi có rượu riêng".
"Anh có rượu riêng?"
"Rượu tôi tự chế lấy".
Mùi nói:
"Anh cũng như ông Năm Bụng à?"
Mùi thấy Mạch lại gần và mở cái nút vò rượu ra, hin hít mấy cái, ngẫm nghĩ như có vẻ thạo về rượu lắm.

"Thứ rượu này không ngon, không thơm, anh Siêu nhỉ. Rượu này thì em chả uống".
Mùi ngạc nhiên nhìn Mạch rồi lại nhìn Siêu; anh thì nghiện rượu và tự chế lấy rượu uống, em thì mới một tí tuổi đầu mà cũng đã biết uống rượu và sành sỏi về rượu rồi.
Mọi người lại ngồi quanh mâm. Mạch nhất định đòi ngồi gần Triết và đặt đùi mình lên đùi Triết. Tay nó nhấc đũa lên, lại đặt xuống đến bốn năm lượt mà chưa thấy ai bắt đầu ăn cả. Ông Lang, Mùi và Siêu còn bận rót rượu mời lẫn nhau. Bà Cai nhìn thấy rượu, cười khì rồi bảo Mùi:
"Rượu cốt-nhắc của lão Bẹc-Nà râu xồm đấy".
Nhưng bà Cai không đòi uống mà cũng không ai dám mời bà uống. Mùi thì lần đầu tiên uống rượu nên chỉ nhấp một tí. Nhưng mỗi lần uống thêm một hụm nàng lại uống nhiều thêm một ít, và cốc nàng lại cạn trước cốc của ông Lang và Siêu. Mùi lại đưa cốc để Siêu rót cốc thứ hai. Mùi ngẫm nghĩ:
"Rượu uống cũng không say lắm. Ngon là đằng khác".
Mùi cầm cái cốc, xoay xoay trong tay rồi bỗng nhiên nàng ngồi đờ ra một lúc ngẫm nghĩ và mỉm cười một mình, đưa cốc lên miệng uống một hơi cạn. Mặt nàng không đỏ lắm chỉ hơi ửng hồng ở hai gò má. Ông Lang ngạc nhiên nhìn Mùi nói:
"Con tôi uống được rượu".
Mùi thấy trong người nhẹ nhõm một cách khoan khoái, nhưng say thì chắc chưa say lắm. Nàng không hiểu tại sao cụ Huế Hai mỗi bữa uống có một chén nhỏ cũng đủ say được. Mùi ăn ngon miệng lắm. Nàng nhận thấy mình vui vẻ hẳn lên, nói nhiều hơn lúc thường, hay pha trò, ai nói câu gì cũng thấy buồn cười và gắp đồ ăn đã khó hơn lúc trước nhưng nàng vẫn nhận thấy mình còn tỉnh.
Mùi bạo dạn hơn và có lúc nhìn lâu vào mắt Siêu và mỉm cười. Nàng lại giơ cốc lên trước mặt Siêu gật gật mấy cái làm hiệu để Siêu rót. Cái hũ rượu nặng lắm nàng nghĩ lúc đó khó lòng bê nổi lên. Siêu đã say, cũng cố bê hũ vui vẻ rót rượu cho Mùi. Ông Lang uống đã say mềm nên sẵn sàng chiều con gái:
"Uống được rượu thì cứ uống".
Mùi lại uống một hơi cạn. Mùi thấy mình say thế là vừa lắm, nhưng nàng lại giơ cốc lên chờ Siêu rót cốc thứ tư. Cốc ấy Mùi uống thong thả.
Chỉ có Triết và Mạch không uống rượu nên nhận rõ là cả ba người đều say rượu cả ba. Mâm cơm vì thế chia làm ba tốp, sống ba thế giới. Ông Lang, Siêu và Mùi vào một tốp. Triết và Mạch vừa nói chuyện vừa gắp thịt gà mời lẫn nhau ăn, cũng như tốp thứ nhất mời lẫn nhau uống. Và tốp thứ ba chỉ có mình bà Cai; bà đã ăn cơm xong và ngồi lẩm bẩm nói chuyện một mình. Cả mâm cơm ồn ào như cái chợ, nhưng vì người nào cũng nói khẽ nên ồn ào như một cái chợ ở đằng xa. Còn một tốp thứ tư nữa nhưng ở ngoài mâm là u già. U không nói gì và cũng không cười. Nghe bà Cai lẩm bẩm nói chuyện một mình, trông thấy Mùi uống bốn chén rượu một hơi cạn mà mặt không đỏ, Siêu mới uống có một góc chén mà mặt đỏ gay như mặt trời và nhìn Mạch Triết mời mọc nhau trịnh trọng như hai ông cụ rồi thỉnh thoảng Mạch lại rứt tóc, véo tai Triết, Triết lại chốc chốc bỏ cả đũa xuống mâm đấm một cái mạnh vào hông Mạch tưởng như đến oẹ cả cơm ra, những cảnh ấy đáng buồn cười nhưng u thì u chỉ thấy buồn. U già ở nuôi vú cho Mùi rồi ở hầu hạ nhà ông Lang trong gần hai mươi năm. Năm ông Cai đi Hải Phòng và ông Lang bị cháy nhà ông phải rời đi thì chồng u mất và hai đứa con u cũng bị lên đậu chết cả hai. Cái cảnh nhà ông Lang và ông Cai đoàn tụ sau sáu bẩy năm cách biệt làm u mủi lòng nhớ đến chồng con đã khuất và tủi cho thân già cô độc.
Mùi nhìn u già nói:
"U vào đây mà uống rượu luôn thể".
Những lúc khác thì u không dám ngồi như thế và u cũng không thích nữa. U nghiện rượu và may hôm nào Mùi cũng cúng rượu nên u không mất tiền mua chỉ uống chỗ rượu cúng thừa cũng đủ, và bao giờ u cũng chỉ uống lúc trước khi đi ngủ. Nhưng hôm nay Mùi gọi u gần như bắt buộc và u cũng muốn uống một cốc cho khuây khoả nên ngồi ghé ở bên phản và giơ cốc cho Siêu rót rượu.
Ăn cơm xong, Mùi mới nhận thấy là mình đã say. Những việc gì mọi đêm nàng vẫn quen làm trước khi đi ngủ như thắp hương thay nước ở bàn thờ, đem hoả lò, củi than và ấm nước, để cha nàng mai dậy có sẵn pha chè thì nàng vẫn đủ trí sáng suốt, mà làm dễ dàng, còn những việc mới về bà Cai hay Siêu thì nàng thấy rất bối rối. Nàng cố định thần nghĩ mãi xem u già đã lấy nước cho bà Cai rửa mặt chưa nhưng nghĩ không ra, hai cái chăn cuốn đem về nàng cũng nghĩ mãi không nhớ là Bé để đâu; chính lúc nghĩ xem hai gói chăn để đâu thì hai gói chăn đặt ngay sau lưng nàng. Một lúc sau quay lại Mùi mới nhìn thấy. Mùi càng cố giữ không nói nhiều vì đã thấy lưỡi díu lại. Đoán là mọi người đã đi ngủ, Mùi tắt đèn và vừa đắp xong được chăn thì Mùi thấy rõ ràng là nếu chậm thêm một lúc thì tất là nàng mê man không biết gì nữa. Mùi thấy người mình như bay bổng lên trần nhà rồi lại rơi dần dần xuống đất, và lúc nào nàng cũng tưởng nàng sắp sửa ngất đi. Đồ đạc và tường nhà mắt nàng không trông thấy nhưng nàng có cái cảm tưởng là chúng nó chạy vùn vụt và nghiêng nghiêng về một chiều. Nếu nàng chớp mắt mấy cái thời chúng nó lại đứng yên một lúc rồi lại bắt đầu chạy vùn vụt.
Ở giường bên, chỗ Triết vẫn nằm một mình thì đêm ấy nằm ba người. Siêu nằm ngoài và bảo Triết nằm giữa để tránh những cái đạp chân đấm tay của Mạch. Mạch lần đầu tiên nằm ngủ không đèn nên có cái cảm tưởng như nằm trong mực đen. Nhưng không sao vì đêm ấy nó được gối đầu tay Triết, dưới hai chân và bên cạnh sườn lại có gối ôm để dựa; Mạch rất phục Triết vì cái cách để thật nhiều gối, êm và dễ ngủ ghê. Nó bảo Triết:
"Anh này, ông Năm Bụng là ông gì thế?"
Triết đương thiu thiu sợ mất giấc ngủ đáp:
"Ngủ đi, hỏi mãi. Mai đi xem ông Năm Bụng".
Nghe cái tên kỳ khôi ấy, Mạch cứ tưởng tượng ông Năm Bụng có năm cái bụng và giống như ông Ba bị chín quai mười hai con mắt hay bắt trẻ con. Mạch lại đoán ông Năm Bụng đầy một bụng rượu và phun vào trẻ con cho say mê để bắt đi. Giờ lại thấy Triết nói đi xem ông ta, chắc ông ta lạ lùng kỳ quái lắm. Và Mạch thiu thiu với cái hy vọng đêm được nghe bươm bướm ma nói chuyện và sáng ra được xem ông Năm Bụng.
Nguồn: Nhất Linh - Trong Tự lực Văn đoàn. Xóm Cầu Mới (Bèo giạt). Nhà xuất bản Văn Mới, California, Hoa Kỳ, 2002. Bìa: Nhất Linh. Họa bản: Nhất Linh. Trình bày: Nguyễn Tường Thiết. Copyright © Nguyễn Tường Thiết. Bản điện tử đăng trên talawas do Nguyễn Tường Thiết cung cấp.
4/6/2007
Nhất Linh
Theo http://www.talawas.org/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Giải mã tục cúng Thần Tài vào mùng 10 tháng giêng âm lịch

Giải mã tục cúng Thần Tài vào mùng 10 tháng giêng âm lịch Khoảng hơn 10 năm trở lại đây, trên báo chí và mạng xã hội thường phản ánh chuyệ...