Con đường sáng tạo 1
(Tư tưởng và quan niệm
về sáng tác của Nietzsche, Rimbaud, Henry Miller, Schopenhauer, William
Faulkner, André Gide, Georges Simenon, Rainer Maria Rilke, Emerson, Thomas
Wolfe)
Nguyễn Hữu Hiệu dịch và giới thiệu
Trong
cuộc đời và trong cả hội họa cũng vậy, rất có thể anh bỏ qua không cần Thượng Đế,
nhưng anh, kẻ khổ đau, anh không thể bỏ qua không cần tới một điều cao viễn hơn
anh, chính là đời anh: quyền năng sáng tạo.
Vincent van Gogh, “Thư cho Théo”, Ngày 1 tháng
chín 1888
Tựa cho
lần ấn hành thứ hai
1.
Tôi không bao giờ có ý định điên dại soạn thảo
một cuốn sách bàn về nghệ thuật viết văn.
Hiển nhiên văn chương là một nghệ thuật và bút
pháp là phương tiện và đồng thời sự đạt thành của chính nghệ thuật ấy. Nhưng
nghệ thuật văn chương là một nghệ thuật chỉ có thể thủ đắc được bằng kinh
nghiệm cá nhân, về chính bản thân và thực tại. Tiêu chuẩn duy nhất để thẩm định
một dòng văn chương là quan niệm và mức độ nó đến gần thực tại.
Tôi đồng ý hầu hết với Nietzsche, trừ tư tưởng
căn bản về cùng đích của nghệ thuật và chủ thuyết Siêu nhân mà càng ngày càng
tôi thấy càng sai lầm, vô hiệu và vô ích. Nietzsche rất có lý khi viết: “Chủ
trương hiện thực trong nghệ thuật là một ảo tưởng” [1], vì người ta chuyển
nhượng tất cả những gì làm ta mê đắm hay gớm ghét vào trong sự vật. Nhưng ta
không thể chấp nhận khi ông quan niệm: “Những nghệ sĩ không bao giờ được phép
nhìn vào sự vật như chân tướng của chúng” [2] và nghệ thuật là một
thứ “sùng bái mê lầm” (culte de l’erreur), một “thiện
chí về si tưởng” (bonne volonté de l’illusion) [3]. Chân lý xấu nên “nghệ
thuật được ban cho chúng ta để ngăn cản chúng ta khỏi chết vì chân lý” [4]. Không, nghệ thuật phải
là một phương tiện giúp ta đạt tới chân lý, tới cái mà thuật ngữ Phật giáo gọi
là NHƯ THẬT hay NHƯ THỊ - (Yathabhutam hay Yathatatham). Nghĩa là “sự thật
khách quan như thế nào nhìn đúng như thế ấy. Bản chất mình như thế nào, nhận
đúng như thế ấy”. Và phải cố gắng gột rửa mọi thứ cảm nhiễm lâu hoặc cho tâm
thể trong sáng như gương không lấm bụi trần, “hoa qua chiếu hoa, nguyệt qua
chiếu nguyệt” [5].
Nghệ thuật cũng không hướng tới cái gì xa xôi vĩ
đại, (le lointain de l’art) [6] mà là cúi nhìn cái rất
gần gũi, khiêm nhường. Chỉ cần với tinh thần Như Thật kiến, Như Thật tri chuyên
chú, chúng ta sẽ nhìn thấy cái đẹp ngay trong những sự vật rất mộc mạc, giản
dị. “Chỉ có những cái thông thường là kỳ diệu (thực sự vĩ đại), từ lúc được bàn
tay thiên tài chạm tới” như nhận xét sâu sắc của Pasternak. Sự kiện này đã được
chứng nghiệm bởi hai nhà thơ Đông Phương Basho và Quách Thoại. Basho viết một
bài Haiku tuyệt diệu gồm vỏn vẹn mười bảy âm như sau:
Nhìn kỹ
Tôi thấy đóa Nazuma
Bên hàng dậu!
Bông Nazuma tầm thường, khép nép gần như không
ai thèm để ý tới nở bên một hàng dậu đổ nát ven đường quê hẻo lánh kia thì có
gì đặc biệt đâu, nhưng khi ta chăm chú nhìn nó với tâm trong sáng hồn nhiên thì
phép lạ xảy ra: nó tự biến thành cả một vũ trụ linh thánh, hồng diệu, “rực rõ
hơn có vẻ rực rỡ của vua Solomon nữa!” [7]. Bông hoa thược dược của
Quách Thoại cũng vậy:
Đứng im bên hàng dậu
Em nở nụ nhiệm mầu
Lặng nhìn em kinh ngạc
Ta lắng nghe em hát
Lời ca em thiên thâu
Ta sụp lậy cúi đầu
2.
Cái mà ta gọi là bút pháp thực ra không phải là
kỹ thuật sắp xếp, dụng ngữ xảo diệu như người ta thường lầm tưởng mà chỉ là
cách diễn tả thật chính xác điều mà ta thấy, biết, suy nghĩ theo đúng chân
tướng của chúng. Stendhal đã cho chúng ta một định nghĩa rất đáng giá về bút
pháp: “Bút pháp phải giống như một nước sơn trong suốt, nó không được biến đổi
mầu sắc, hay những sự kiện và tư tưởng, trên đó nó được phối trí.” (Mélanges
de Littérature).
Văn chương chỉ có giá trị độc đáo khi nghệ sĩ
đạt tới chỗ thấy biết như thực và diễn tả như thực điều hắn thấy biết như thực.
Nhưng dĩ nhiên điều người nghệ sĩ thấy, biết đó không phải là sự thực khách
quan cứng nhắc chết chóc mà là sự thực sinh động, hủy diệt - tái tạo thường
xuyên, rung động hơi thở sự sống, rộn ràng nhịp đập thiên thu.
Bài thơ của Basho và Quách Thoại cho ta thấy
người nghệ sĩ, tự bản chất tuy là một người hiếu cảm, dễ bị xúc động, đụng chạm
đủ mọi phía, có khuynh hướng tự nhiên quay về phía những kích động, thác loạn,
nhưng những cực đoan thường gặp nhau nên tới một lúc nào đó hắn cũng có thể
ngung thần tĩnh lặng chiêm ngắm sự vật. Và khi tâm thức tĩnh lặng, mở phơi một
cách hồn nhiên hay thần bí, người ta có thể thấy vẻ đẹp ngay cả trong từng ngọn
cỏ lá cây, một vẻ đẹp siêu việt đưa người ta vượt thoát những lo toan thực tiễn
của đời sống tang thương thường nhật để thể nhập vào cảnh giới huy hoàng của
Tịnh Độ. Chừng nào mà chúng ta chưa đạt tới linh tưởng này thì nghệ thuật đúng
chỉ là sự sùng bái mê lầm, hảo ý về ảo tưởng.
Sáng tạo, trong chiều hướng đó, là sáng tạo bản
thân, thị hiện hình tượng, gột rửa tâm hồn, kiến chiếu THỰC TẠI.
Công việc đó không chỉ dành riêng cho một thiểu số nghệ sĩ chuyên môn
mà cho tất cả mọi người - những nghệ sĩ của đời sống, trong đời sông.
Và đó chính là cứu cánh của cuốn sách này.
Nguyễn Hữu Hiệu
Vạn Hạnh, Trung Thu 73
Lời nói đầu
Tôi đã có dịp đọc một số sách bàn về nghệ thuật
viết văn, từ những tuyển tập gồm bài vở của những văn gia, triết gia lừng danh
tới những chuyên thư soạn cho sinh viên đại học. Xin kể sơ qua:
Inquiry and Expression, a College Reader, edited by Harold C. Martin and
Richard M. Ohmann, Haward University, Holt, Reinehart and Winston, 1962.
Thought in Prose, edited by Richard S. Beal, Boston University and
Jacob Korg, University of Washington, Prentice - Hall, Inc, 1964.
Thought and Experience in Prose, Craig Thompson, Oxford University Press, New
York, 1963.
Language and Ideas, Robert Montgomerry, Boston, Little Brown and Company,
1962.
Subject and Structure, John Wasson, Boston, Little Brown and Company, 1963,
Study in Prose Writing, James R. Kreuzer, Holt, Reinehart and Winston,
1960.
The Written World, Forms of Writing, edited by Robert W. Daniel,
University of Washington, Prentice - Hall, 1962.
The Writer’s Book, edited by Helen Hull, Barness and Noble, 1966.
The Novel Now, Anthony Burgess, Faber and Faber, 1967.
L’Art du Roman, Virginia Woolf, Éditions du Seuil, 2- 1963.
Writers at Work, first series, edited, and with an Introduction
by Malcolm Cowley, Viking Press 1958, second series, edited by George Plimpton
and introduced by Van Wyck Brooks, Viking Press, third series edited by George
Plimpton and introduced by Alfred Kazin, Viking Press, 1968…
Nhưng không tác phẩm nào khiến tôi thích thú
bằng cuốn Henry Miller on Writing do Thomas Harry Moore ấn
hành (New Directions). Tôi say mê đọc tuyển tập trên nhiều lần và nẩy ra ý muốn
trình bầy một tuyển tập gồm nhiều tác giả tôi ngưỡng mộ cùng viết về cái ý
hướng nguyên thủy, ý hướng đớn đau, con dốc hiểm nghèo ma đưa quỷ dắt một người
đăm chiêu khiến hắn trở thành một nghệ sĩ: ý hướng Sáng Tạo. Và
tất cả những nỗi lo âu liên quan tới sự sáng tạo như: sứ mệnh của nhà văn, đề
tài, bút pháp, kinh nghiệm, nghệ thuật viết, những điều răn, những giới cấm,
thái độ đối với tác phẩm mình, thái độ với độc giả, thái độ đối với nhà phê
bình… Vậy thì cuốn sách này đây chính là sự tựu thành của ước muốn đó vậy.
Song Con đường sáng tạo gồm có
những bài mà, nếu độc giả đọc kỹ, ắt sẽ nhận ra chưa từng xuất hiện trong nhưng
chuyên thư trên trừ cuốn Thư cho một thi sỹ trẻ tuổi của
Rilke, lược bỏ những câu xã giao, rút gọn thành một bài in trong cuốn tập Thought
in Prose.
Con đường sáng tạo gồm những tác giả mà, nếu độc giả lưu tâm, hẳn sẽ nhận
thấy họ không thuộc vào hàng ngũ những nghệ sỹ thông thường. Đó là những kẻ
sáng tạo, những kẻ không coi nghệ thuật như một phương tiện giúp con người lẩn
tránh mình; một cách giải khuây, nhưng như một con đường dẫn về chính mình, con
đường cô đơn, con đường phiền não, khuynh hướng về bất hạnh mà cùng đích là
giải thoát - và Giải Thoát.
Ở đây nghệ thuật không phải là đám mây lơ lửng
trên dòng đời; nó chính là dòng đời. Ở đây nghệ thuật không phải là một lối đào
thoát khỏi thực tế; nó chính là cái neo gieo vào lòng Thực Tại. Một cây mọc
càng cao, cành nhánh càng tự do trổ vào bầu trời xanh bát ngát bao nhiêu, gốc
rễ lại càng cắm sâu vào lòng đất tối đen bấy nhiêu. Nghệ thuật phải cung cấp
cho chúng ta những gốc rễ gân guốc ấy! Nghệ thuật phải giúp chúng ta bám chặt
vào thực tại, nở hoa từ thực tại và giải thoát từ thực tại.
Tôi tin chắc rằng Con đường sáng tạo sẽ
khích lệ nhiều người, sẽ mang lại thích thú cho nhiều người hơn nữa. Nhưng như
thế chưa đủ. Và quá thừa. Chỉ mong sao có chàng trẻ tuổi nào, nhờ nó, thêm hăng
hái dấn bước trên đường định mệnh, thêm can đảm trút bỏ hết mọi thứ hành lý, ra
đi không có bất cứ một thứ gì đem theo ngoại trừ ý chí sáng tạo, lòng đam mê và
ngạo nghễ như chàng Rimbaud tóc rồi tung bay, áo quần tơi tả, túi rỗng nhưng
hồn đầy chất ngất vì
Ra đi là đủ rồi.
Je m’en allais, les poings dans mes poches
crevées;
Mon paletot aussi devenait idéal;
J’allais sous le ciel, Muse! Et j’ étais ton
féal;
Oh! là là! que d’amours splendides j’ai
rêvées!
Nguyễn Hữu Hiệu
Hoàng Hạc Lâu, 23 tháng ba Canh Tuất,
- Bao giờ cất cánh bay lên, hạc vàng?
Ta bất nhẫn Ba La Mật rồi đây.
Chú thích:
[1]Volonté
de- Puissance, Gallimard 1951, T.1. p.335, frg, 444.
[2]Volonté
de- Puissance, p.333, frg.438.
[3]Le Gai
Savoir, Gallimard, 1961, p.93, rg. 107.
[4]Volonté
de- Puissance, T. I.p. 338, fig. 453.
[5]Hòa
Thượng Thích Trí Thủ, “Ý nghĩa ngày Phật Đản”, trong Đặc san Phật Đản,
GHPGVNTN, tỉnh Giáo Hội Khánh Hòa P. L. 2517 p.9
[6]Nietzsche, Le
Gai Savoir, p.93
[7]Suzuki, Thiền
và Phân tâm học, Như Hạnh dịch, Kinh Thi, 1973.
Phần
thứ nhất
Henry Miller
Nói về sáng tạo
Giới thiệu
Henry Miller là một khuôn mặt độc đáo nhất
của văn học hiện đại. Tên ông phải được đặt giữa Emerson và
Whitman, Cendrars và Céline, Dostoievsky và Nietzsche, Élie Faure và Oswald
Spengler, Rimbaud và D.H. Lawrence, Milarepa và Lewis Carroll, Thoreau và
Trang Tử.
Tác phẩm Henry Miller đi giữa dòng văn chương và
kinh thánh. Đó là sự phối hợp kỳ diệu giữa Chí Tôn Ca (Bhagavad
Gita) linh thánh và Dục Lạc Kinh (Kama Sùtra) nhầy
nhụa. Bước vào tác phẩm Miller như bước vào một ngôi đền Ấn Độ: người ta thấy
những bộ phận sinh dục vĩ đại ngổn ngang cạnh những thánh tượng uy nghi, những
cảnh dâm loạn tiếp cận những nghi lễ tôn nghiêm tác động giao hợp được coi như
tác động sùng thượng (acte d’adoration sublime), một phương tiện xuất thần nhập
diện.
Henry Miller duy giác như những người duy linh,
những nhà thần bí, những thi sĩ thế kỷ XVI, những đại thi sĩ có khuynh hướng
tiên tri và đầy ắp viễn tưởng vũ trụ: Wiliam Blake, Cheikh el Nefzaoui, Omar
Khayyam, Walt Whitman. Nhất là Whitman qua Lá Cỏ, xưng tụng
một sự diễn tả tự do, một cuộc sống vũ trụ tràn trề ngây ngất không che giấu:
Qua tôi những tiếng nói bị cấm đoán,
Tiếng nói của giống đực giống cái và dâm
đãng, tiếng nói bị che đậy và tôi vén mở,
Tiếng nói tục tĩu, bởi tôi được soi sáng và chuyển hóa.
(“Song of Myself”)
Toàn bộ tác phẩm Henry Miller là một bài Ngợi
Ca Tôi (“Song of Myself”) trường thiên. “Với tôi sách vở là con
người, và cuốn sách của tôi là chính con người tôi, nồng nhiệt, dâm đãng, hiếu
động, trầm tư, thận trọng, dối trá và thành thực một cách quỉ quái.” (“Black
Spring”). Ông muốn phát lộ ông “càng công khai, trần truồng
và trâng tráo bao nhiêu càng hay bấy nhiêu”. (I wanted to reveal myself as
openly, nakedly, and unshamedly as possible - Obscenity and
Literature).
Có thể nói Henry Miller cũng là một “nhà thần bí
ở trạng thái man rợ” như Rimbaud. Ông sinh năm 1891 tại New York từ một gia
đình gốc Đức. Cha ông là thợ may. Cậu bé lớn lên trong lòng phố và phố xá mãi
mãi là trường học của cậu và bối cảnh của những cuốn tiểu thuyết sau này.
Năm 1924, Henry Miller bỏ ngang Westers Union
Telegraph Company, quyết định không làm gì hết, trừ sáng tạo, vì ông nhận định
rằng: “Bổn phận của thiên tài (…) là giữ phép mầu sinh động, là luôn luôn
sống trong phép mầu, là khiến cho phép mầu mầu nhiệm hơn nữa, là không thệ
nguyện trung thành với bất cứ cái gì, nhưng chỉ sống một cách mầu nhiệm, suy
tưởng một cách mầu nhiệm, chết một cách mầu nhiệm”. (The task
of genius, and man is nothing if not genius, is to keep the miracle alive, to
live always in the miracle, to make the miracle more and more miraculous, to
swear allegiance to nothing but to live only miraculously, think only
miraculously, die miraculousky - The Colossus of Maroussi, Penguin
Books, p.88) và “Sự kỳ diệu và và huyền nhiệm của cuộc đời bị bóp nghẹt
trong chúng ta khi chúng ta trở thành phần tử có trách nhiệm của xã hội!”.(The
wonder and the mystery of life - which is throtted in us we become responsible
members of society! - Tropic of Capricorn, SAS press. P.149).
Thế giới chỉ có thể bắt đầu rút tỉa được đôi chút giá trị nơi tôi “kể từ lúc
tôi chấm dứt là một thành phần trang nghiêm của xã hội và trở thành chính
Tôi” (Sexus, Grove Press, p. 261) dù cái tôi ấy thế nào. Ít ra
thế giới cũng sẽ bớt đi được một kẻ sẵn sàng dùng bạo lực để bắt người khác
theo mình, bớt đi được một con cừu nô lệ. Ít ra thế giới cũng có thêm được cá
thể sáng tạo và dám thể hiện mình, dám trở thành “cái tôi của chính tôi”.
Có hai điều Miller thành thực không tin, hai
điều mà xã hội thành thực tin: đó là sự trang nghiêm và Làm việc.
Trang nghiêm là một hình thức giả dối, cứng nhắc, chết chóc, còn làm việc là
một hành động chỉ dành cho bọn ngốc nghếch. Nó hoàn toàn trái với Sáng
tạo là một trò chơi, một hành động tối thượng, xứng đáng với con người.
Henry Miller theo sát tư tưởng Nietzsche về sáng tạo. Theo Nietzsche, sáng tạo
“là sự giải thoát thênh thang khỏi khổ đau, sự bay bổng của cuộc đời”. Nhưng để
trở thành kẻ sáng tạo, cần phải có nhiều khổ đau và hóa thân.
“Vâng,
Zarthustra nói, phải có nhiều cái chết đắng cay trong cuộc đời các ngươi,
ôi, những kẻ sáng tạo! Như thế các ngươi, ôi, những kẻ sáng tạo! Như thế các
ngươi sẽ trở thành những kẻ bảo vệ mà biện minh cho tất cả những gì hư mất phù
du.” (Also seid ihr Fürsprecher und Rechtsfertiger Vergänglichkeit -
Also sprach Zarathustra).
Bài “Nói về sáng tạo’’ dưới đây của Henry
Miller, trích trong cuốn Sexus (The Rosy Crucifixion, book
one) sẽ soi sáng tư tưởng trên của Nietzsche.
Thế giới chỉ bắt đầu rút tỉa được đôi chút giá
trị từ nơi tôi kể từ lúc tôi ngừng là một thành phần trang nghiêm của xã hội và
trở thành chính Tôi. Nhà Nước, quốc gia, liên hiệp quốc của
thế giới không là gì khác hơn một tập thể rộng lớn gồm những cá nhân lập lại
những lỗi lầm của ông cha họ. Họ đã bị cuốn hút vào bánh xe từ thuở sơ sinh và
bị trói buộc ở đó cho tới chết - và sự nô lệ đó họ cố gắng làm cho ra vẻ đứng
đắn bằng cách gọi nó là “cuộc đời”. Nếu ta hỏi bất cứ một người nào giải thích
hay định nghĩa thế nào là cuộc đời, đâu là tất cả gốc gác ngọn ngành của nó,
chúng ta sẽ nhận được một cái nhìn bỡ ngỡ thay câu trả lời. Cuộc đời là một cái
gì mà triết gia đề cập tới trong những cuốn sách không ai đọc cả. Những kẻ ngụp
lặn giữa dòng đời, “khuất mình làm thân trâu ngựa”, không có thì giờ cho những
câu hỏi lẩn thẩn ấy. “Người ta phải ăn chứ, phải không?” Câu cật vấn
này, một câu nói cho có chuyện, đã được giải đáp, nếu không phải bằng cách phủ
định tuyệt đối thì ít ra cũng bằng cách phủ định tương đối khá lạ lùng bởi
những người hiểu biết là một đầu mối cho một loạt những câu hỏi khác tiếp nối
bằng một chiều rất ư là Euclide. Từ chút ít sách vở tôi đã học, tôi nghiệm ra
rằng những người lặn lội sâu nhất trong cuộc đời, những người nhồi nặn cuộc
đời, những người chính là cuộc đời, đều ăn ít, ngủ ít, thủ hữu ít hay không có
gì cả. Họ không có bất kỳ một ảo tưởng nào về bổn phận, hoặc nối dõi tông đường
hay duy trì quốc gia. Họ chỉ quan tâm tới chân lý và chân lý mà thôi. Họ chỉ
chấp nhận một hình thức hoạt động: sáng tạo. Không một người
nào có thể chỉ huy công việc họ, bởi vì họ tự nguyện tất cả. Họ cho không, bởi
vì đó là cách duy nhất để cho. Đó là lối sống lôi cuốn tôi: nó làm thành thiên
lương. Đó là cuộc đời - chứ không phải là sự giả đò mà những
người xung quanh tôi thờ phụng.
Tôi hiểu tất cả những điều ấy - bằng tâm trí -
trước tuổi thành nhân. Nhưng tôi phải trải qua cả một màn bi hài kịch vĩ đại
của cuộc đời trước khi viễn ảnh này về thực tại có thể trở thành một nguyên
động lực. Lòng khao khát cuộc đời dữ dội mà những người khác cảm thấy trong tôi
tức động như một khối nam châm, nó lôi cuốn những người thiếu lòng khát khao
đặc biệt của tôi. Lòng khát khao phóng đại lên một ngàn lần. Như thể những kẻ
đeo dính vào tôi như mạt sắt cũng trở nên có từ tính khác. Cảm giác chín mùi
thành kinh nghiệm và kinh nghiệm đẻ ra kinh nghiệm.
Điều tôi ngầm thèm muốn là gỡ mình ra khỏi tất
cả những cuộc sống tự đan bện ngang dọc vào chính cuộc đời tôi và khiến định
mệnh tôi trở thành một phần của họ. Để rũ mình khỏi những kinh nghiệm chồng
chất chỉ thuộc về tôi này bởi nọa lực, cần phải có một nỗ lực tàn bạo: thỉnh
thoảng tôi chọc thủng và xé rách lưới, nhưng chỉ trở nên vướng mắc thêm mà
thôi. Sự giải thoát của tôi dường như thiết yếu gây ra đau đớn và phiền não cho
những người gần kề và thân yêu đối với tôi. Mỗi vận động tôi làm cho lợi ích
của cá nhân tôi đều mang lại khiển trách và lời buộc tội. Tôi bị coi là một kẻ
phản bội hơn muôn ngàn lần. Tôi mất cả quyền trở nên đau ốm - bởi “người ta”
cần tôi. Tôi không được phép ù lì. Tôi tin rằng nếu tôi có
chết đi có lẽ họ cũng truyền điện vào tử thi của tôi để tạo cho nó một bề ngoài
sống động.
“Đứng trước gương, tôi sợ hãi tự nhủ: Ta muốn
nhìn trong gương xem ta giống cái gì với đôi mắt nhắm nghiền.”
Những chữ trên của Richter, khi tôi đọc lần đầu
tiên, đã đi xộc vào con người tôi và gây nên một cơn chấn động không thể tả
xiết. Cũng như câu tiếp theo, hầu như một hệ luận của câu trên - của Novalis:
“Chỗ của linh hồn là ở nơi mà nội giới và ngoại
giới giao tiếp nhau. Và không ai hiểu mình, nếu hắn chỉ là mình và không đồng
thời là một người khác.”
“Thủ đắc cái Tôi siêu việt của mình, đồng thời
là cái Tôi của cái Tôi của mình” như Novalis nói tiếp.
Có một lúc khi người ta bị tư tưởng áp chế, khi
người ta chỉ là một nạn nhân của tư tưởng khác. Sự “chiếm hữu” bởi những người
khác dường như xẩy ra vào những thời kỳ mất cá tính, khi những tự ngã khác bong
ra, nếu người ta có thể nói vậy. Thường thường người ta không thấu hiểu được tư
tưởng; chúng đến và đi, được chấp nhận và bị khước từ, được khoác lên những tấm
áo, bị cởi ra như những chiếc vớ dơ bẩn. Nhưng trong thời kỳ mà chúng ta gọi là
khủng hoảng, khi tâm trí bị bể vỡ ra từng mảnh như một viên kim cương dưới
những nhát búa dữ dội, những ý tưởng ngây thơ này của một kẻ mơ mộng bám víu
lấy, trú ấn trong những kẽ nứt của óc não. Và bởi một vài tiến triển thẩm thấu
tế nhị mang lại một sự biến đổi nhân cách rõ rệt, bất khả vãn hồi. Bề ngoài
không có sự thay đổi lớn lao nào xẩy ra; đương sự không thình lình cư xử khác
lạ; ngược lại hắn có thể cư xử một cách “bình thường” hơn trước kia. Vẻ bình
thường bề ngoài đó càng ngày càng đảm trách tính chất của một phương sách phòng
ngừa. Từ thất vọng bề ngoài hắn đi tới thất vọng bên trong. Tuy nhiên, với mỗi
một cơn khủng hoảng mới, hắn càng trở nên ý thức mãnh liệt hơn về một sự đổi
thay, đúng hơn không phải là đổi thay mà là một sự kiên cường hóa của một điều
gì ẩn sâu trong hắn. Bây giờ trong khi nhắm mắt, hắn có thể thực sự nhìn thấy
hắn. Hắn không thấy một cái mặt nạ nữa. Đúng hơn, hắn thấy mà không nhìn. Ảnh
tượng không thị giác, một sự thấu hiểu uyển chuyển những cái không thể sờ mó
được: sự hỗn hợp của hình tượng và âm thanh: trung tâm của màng lưới. Nơi tuôn
trào những cá tính bí mật, thoát khỏi sự tiếp xúc thô sơ của giác quan; nơi đây
những chủ âm của nhận thức kín đáo vỗ vào nhau trong những hòa điệu tươi sáng,
rung động. Không có một ngôn ngữ nào được sử dụng, không một hình thể nào được
phác họa hết.
Khi một con tầu đắm, nó thong thả chìm xuống,
cột trụ, cột buồm, dây thừng, neo móc trôi theo sóng nước. Trên đáy biển, chết,
chiếc vỏ tầu rỉ nước tự trang điểm bằng châu báu; cuộc sống cơ cấu lại bắt đầu
một cách chẳng ăn năn. Cái gì là con tầu đang trở thành cái vô danh bất khả hủy
diệt.
Tựa những con tầu, con người cũng nhiều phen
chìm đắm. Chỉ có trí nhớ cứu con người khỏi cảnh tan tác phân ly. Thi sĩ gieo
thoi trong khung cửi, trải rơm cho người chết đuối bám víu khi họ đang chìm vào
hủy diệt. Ma quỉ trèo lên những cầu thang máy nước, làm những cuộc thăng hoa hư
ảo, rơi ngã chóng mặt, ghi nhớ số lượng, ngày tháng, biến cố, trong khi đi từ
thể hơi sang chất lỏng và ngược trở lại. Không có đầu óc nào có thể ghi nổi
những cuộc dâu bể tang thương. Không có gì xẩy ra trong đầu óc ngoại trừ sự sét
rỉ và hao mòn tiệm tiến của tế bào. Nhưng trong tâm trí, những thế giới không xếp
loại, không định danh, không đồng hóa, thành hoại, kết hợp, tan vỡ không ngừng.
Trong tâm giới, ý tưởng là những yếu tố bất khả hủy diệt tạo thành những chòm
sao long lanh châu báu của đời sống nội tâm. Chúng ta di động trong những quĩ
đạo của chúng, một cách tự do nếu chúng ta tuân theo những kiểu mẫu phức tạp
của chúng, nô lệ hay bị chiếm hữu nếu ta cố gắng ức chế chúng. Tất cả mọi vật
ngoại giới chỉ là hình ảnh do cơ tâm phóng chiếu ra.
Sáng tạo là trò chơi ngoại diện diễn ra ở mép
rìa; nó tự phát và cưỡng bách, phục tùng luật lệ. Người ta dời khỏi gương soi
và màn vén lên. Séance permanente. Chỉ có những kẻ điên bị
loại trừ. Chỉ có những kẻ “mất trí” như chúng ta nói. Vì những người này không
bao giờ ngừng mơ bằng họ đang mơ mộng. Họ đứng trước gương mắt mở lớn và ngủ mê
mệt; họ niêm phong hình bóng họ vào trong nấm mộ kỷ niệm. Trong họ tinh tú rơi
rụng để tạo thành cái mà Hugo gọi là “bầy thú mù quáng trong lồng của những mặt
trời, bởi tình yêu, tự biến mình thành những con chó lông sù và những đảo Terre
Neuve của vô cùng.”
Cuộc sống sáng tạo! Thăng thiên. Vượt qua chính
mình. Phóng mình vào bầu trời xanh, nắm chắc những chiếc đu bay, leo lên, liệng
bay, nắm đầu thế giới kéo lên, lay động những thiên thần từ những vòm trời
thanh khí, đắm mình vào những vực sâu tinh tú, nắm chặt lấy đuôi sao chổi.
Nietzsche đã viết một cách xuất thần về sáng tạo – và sau đó bất tỉnh trong
gương để chết trong gốc rễ và hoa lá. “Cầu thang và những cầu thang trái ngược”
ông viết, và rồi hốt nhiên không còn đáy sâu nào nữa hết; tâm trí như một phiến
kim cương tan vỡ, bị nghiền nát bởi những nhát búa của chân lý.
Có một lúc tôi làm việc với tư cách quản lý của
cha tôi. Người ta để tôi một mình hàng giờ, giam kín trong một căn nhà nhỏ mà
chúng tôi dùng làm văn phòng. Khi cha tôi uống rượu với những người bạn chí
thân thì tôi cũng đang uống dưỡng chất từ bình của đời sống sáng tạo. Bạn đường
của tôi là những tinh thần tự do, những bậc chúa tể phi phàm của tâm hồn. Chàng
thanh niên ngồi trong ánh đèn vàng vọt đây trở nên hoàn toàn phóng dật; chàng
sống trong những kẽ nứt của tư tưởng vĩ đại, nép mình tựa một kẻ ẩn tu trong
khe núi khô cằn của một rặng núi cao. Từ thực chàng chuyển qua mộng và từ mộng
qua tưởng tượng. Tại cánh cửa cuối cùng này, qua đó không còn có nẻo về, sự sợ hãi
bám riết chàng. Mạo hiểm xa xôi là phiêu du một mình, là hoàn toàn tin cậy vào
chính mình.
Mục đích của kỷ luật là nâng đỡ tự do. Nhưng tự
do đưa tới vô biên và vô biên thì khủng khiếp quá. Rồi phát hiện cái tư tưởng
thoải mái là dừng lại tại mép rìa, ghi xuống thành từ ngữ những bí ẩn của rung
động, thôi thúc, đẩy đưa, của sự tắm gội cảm thức trong hơi hướng nhân loại.
Trở thành hoàn toàn nhân loại, quỉ quái yêu ma nhân từ nhập thể, kẻ gác những
cánh cửa lớn dẫn tới bên ngoài và đi xa khuất và mãi mãi cô độc…
Con người chìm đắm như tầu bè. Trẻ con cũng vậy.
Có những trẻ em đắm chìm vào lúc tuổi lên chín lên mười, mang theo với chúng
niềm bí ấn của kẻ phản bội. Có những ác quỉ phản trắc nhìn ta bằng cặp mắt dịu
dàng, thơ ngây của tuổi ngọc: tội ác của chúng không được ghi lại, bởi không có
tên gọi.
Tại sao những khuôn mặt khả ái ám ảnh chúng ta
nhường ấy? Những đóa hoa dị thường có chăng những gốc rễ độc địa?
Nghiên cứu nàng từng chút một, chân tay, tóc,
môi, tai, ngực du hành từ rốn tới mắt người đàn bà mà tôi đã đâm bổ xuống như
một con mãnh cầm, đã cào cấu, cắn xé, ngạt thở vì những chiếc hôn, người đàn bà
trước kia là Mara và bây giờ là Mona, người đã có và có thể có những cái tên
khác nữa, là những người khác nữa, những tập hợp gồm những vật bổ trợ khác,
không còn có thể đạt tới, không còn có thể đi sâu vào hơn một pho tượng lạnh
giá trong một khu vườn quên lãng của một lục địa đã mất. Vào lúc lên chín hay
sớm hơn, với một khẩu súng lục mà nàng không có ý định kết liễu, nàng có thể
bóp cái cò súng vọng tưởng và ngã xuống như một con thiên nga tử thương, từ
đỉnh cao của giấc mơ màng. Có thể như vậy được lắm, vì trong da thịt, nàng tan
tác, trong tâm trí nàng như hạt bụi phất phơ. Trong tim nàng một cái chuông
ngân, nhưng ý nghĩ nó thế nào thì không ai biết được. Hình ảnh nàng tương đồng
với hư vô mà tôi đã hình thành trong lòng. Nàng đã đưa nó vào, luồn nó vào tựa
một màn tơ mỏng giữa những nếp gấp của óc não vào một giây phút thương vong. Và
khi vết thương khép miệng, dấu vết hãy còn ghi, tựa dấu vết mong manh mà một
chiếc lá để lại trên phiến đá.
Những đêm thao thức khi hồn đầy sáng tạo, tôi
không thấy gì ngoài cặp mắt nàng và trong cặp mắt ấy, nổi lên như những vũng
dung nham sôi sục, ma quái hiện trên mặt mờ nhạt, tan biến, tái hiện, mang lại
kinh hoàng, lo âu, sợ hãi, huyền nhiệm. Một kẻ thường xuyên bị theo đuổi, một
đóa hoa bị che khuất mà hương thơm bọn chó săn tài giỏi nhất cũng không bao giờ
đánh hơi được. Sau những bóng ma, ló mình qua rừng rậm, một đứa trẻ nhỏ đứng
đường như tựa hiến thân mình một cách dâm đãng. Rồi con thiên nga lặn, chậm
rãi, như trong phim chiếu bóng, và tuyết đổ với thân thể sa xuống, kế đó bóng
ma và nhiều bóng ma hơn nữa, cặp mắt lại trở thành mắt, sáng rực như than đá
non, rồi đỏ chói như cục than hồng, rồi mềm như những đóa hoa; rồi mắt, mũi,
miệng, má, tai lờ mờ hiện ra khỏi hỗn mang, nặng nề như vầng trăng một cái mặt
nạ gỡ ra, xác thịt thành hình dáng, mặt mũi.
Đêm đêm, tôi từ bỏ ngôn từ để kiếm mộng mơ, xác
thịt, bóng ma. Ám ảnh và lay tỉnh. Những đóa hoa của vầng trăng, những cây dừa
thân rộng của rừng hoang mọc cao, tiếng bầy chó sủa ma, thân thể trắng mảnh mai
của một đứa trẻ, những bọt sôi sục của phún xuất thạch, nhịp chậm dần của tuyết
đổ, đáy sâu không cùng nơi khói sóng nở ra thành xác thịt. Và xác thịt là gì
nếu không phải là vầng trăng? và vầng trăng là gì nếu không phải là đêm? Và đêm
thì dài đằng đẵng, dài đằng đẵng, dài đằng đẵng, trên mọi sự chịu đựng.
“Hãy nghĩ tới chúng ta!” nàng nói
cái đêm hôm đó khi nàng quay đi và lao vút lên thang như một cánh chim. Và có
thể nói tôi không nghĩ đến điều gì khác. Hai chúng tôi là những cái cầu thang
lên cao bất tận. Rồi “những cầu thang ngược dòng”; cầu thang trong văn phòng
cha tôi, cầu thang dẫn tới tội ác, tới điên cuồng, tới những cửa chính của sáng
tạo. Làm sao tôi có thể nghĩ tới điều gì khác?
Sáng tạo. Sáng tạo huyền thoại trong
đó tôi có thể tra vừa chiếc thìa khóa mở tung cửa hồn nàng.
Một người đàn bà cố gắng phát lộ niềm bí ẩn của
nàng. Một người đàn bà tuyệt vọng, qua tình yêu, tìm cách nối kết nàng với
chính nàng. Đứng trước sự mênh mang của huyền bí, con người đứng như một con
rết cảm thấy mặt đất trơn tuột dưới chân mình. Mỗi cánh cửa mở đều dẫn tới
khoảng không trống trải hơn. Người ta phải bơi lội như một vì sao trong đại
dương không vết tích của thời gian. Người ta phải có sự nhẫn nại của quặng
radium chôn vùi dưới đỉnh Hy Mã Lạp Sơn.
Đến nay dễ đã đến hai chục năm qua kể từ ngày
tôi bắt đầu nghiên cứu sự phát quang của linh hồn; trong thời gian đó tôi đã
thực hiện hàng trăm cuộc thí nghiệm. Kết quả là tôi biết thêm đôi chút về chính
tôi. Tôi nghĩ nó phải gần giống với những nhà lãnh tụ chính trị hay những viên
tướng tài. Người ta không khám phá ra điều gì về sự bí ấn của vũ trụ, tốt hơn,
người ta biết được vài điều về bản chất của định mệnh.
Lúc khởi đầu, người ta muốn đề cập tới mọi vấn
đề một cách trực tiếp. Sự đề cập càng trực tiếp và cấp bách bao nhiêu, người ta
càng mau mắn và chắc chắn thành công trong việc để mình mắc lưới bấy nhiêu.
Không có một người nào đơn thương độc mã như người anh hùng. Và không một người
nào có thể tạo ra nhiều bi kịch và rốt loạn như mẫu người ấy. Hoa gươm trên cái
nút Gordian [1], hắn hứa hẹn sự giải
thoát mau lẹ. Ảo tưởng si mê kết thúc trong một đại dương máu me lai láng.
Nghệ sĩ sáng tạo có vài điểm tương đồng với
người anh hùng. Dầu tác động trên một bình diện khác, chính hắn cũng tin tưởng
rằng mình có thể đưa ra vài giải đáp. Hắn hiến đời mình để tựu thành những cuộc
chiến thắng tưởng tượng. Chung cục của bất cứ một thí nghiệm nào, dù bởi chính
khách, chiến sĩ, thi sĩ hay triết gia, thì những vấn đề của cuộc sống vẫn còn
nguyên vẻ bí ấn phức tạp ấy. Những người hạnh phúc nhất là những người không có
lịch sử, người ta nói vậy. Những kẻ có lịch sử, những kẻ là lịch sử, qua công
nghiệp của họ, dường như chỉ có việc nhấn mạnh vào tính chất vĩnh cửu của
nguyên lý đấu tranh. Chính họ cuối cùng cũng biến mất như những kẻ không cố
gắng, những kẻ bằng lòng sống chỉ để mà sống và hưởng thụ.
Cá thể sáng tạo (trong khi vật lộn với môi vật)
được coi như chứng nghiệm một nỗi hân hoan cân bằng, nếu không trầm trọng hơn,
nỗi đau đớn và khắc khoải đi kèm theo sự đấu tranh biểu lộ mình. Hắn sống trong
tác phẩm hắn, chúng ta nói vậy. Nhưng lối sống độc đáo ấy, thay đổi đến vô
cùng, tùy theo từng cá nhân. Chỉ với điều kiện người ta ý thức về một cuộc sống
phóng khoáng hơn, phong phú hơn, người ta mới có thể được kể như sống trong tác
phẩm mình. Nếu không có sự thể hiện thì đâu là mục đích hay lợi ích hay lợi ích
trong việc thay thế cuộc sống tưởng tượng bằng cuộc sống phiêu lưu thuần túy
của thực tại? Bất cứ kẻ nào nâng mình lên khỏi những giao động của cái vòng
quanh quẩn thường ngày không phải là chỉ làm vậy với hy vọng mở rộng kinh
nghiệm trường, hoặc ngay cả làm giầu có nó, mà còn làm cho nó tốt tươi thêm.
Chỉ trong ý hướng đó, cuộc đấu tranh mới có ý nghĩa. Khi đã chấp nhận quan điểm
đó rồi thì tất cả mọi phân biệt giữa thành công và thất bại đều trở thành
không. Đó là điều mà tất cả mọi nghệ sĩ vĩ đại đều học hỏi được giữa đường,
rằng tiến trình mà trong đó hắn bị cuốn lôi vào có liên quan tới một chiều kích
khác của đời sống, rằng trong khi đồng hóa mình với tiến trình đó hắn thăng
tiến cuộc sống. Nhờ quan niệm đó, hắn thường trực được dời xa - và che
chở - khỏi cái chết âm hiểm dường như đắc thắng khắp nơi quanh hắn. Hắn trực
cảm thấy rằng niềm bí ẩn lớn lao sẽ không bao giờ thấu hiểu được nhưng có thể
nhập vào trong chính bản chất hắn. Hắn phải khiến mình thành một phần của sự
huyền nhiệm, sống trong nó cũng như với chính nó. Chấp nhận là
giải pháp duy nhất. Chấp nhận là một nghệ thuật chứ không phải là sự thực thi
ích kỷ của trí tuệ. Và chính qua cửa ngõ nghệ thuật mà cuối cùng người ta thiết
lập được sự giao tiếp với thực tại: đó là một khám phá lớn lao. Ở đây tất cả
đều là trò chơi và sáng tạo; không có chỗ đặt chân vững trãi nào để phóng xạ
tiễn học thủng độc khí của tham, sân, si. Thế giới không cần phải
đưa vào trật tự: thế giới chính là trật tự nhập thể. Chính
chúng ta phải hòa điệu với trật tự đó, phải biết đâu là trật tự thế giới, khác
biệt nào với trật tự mong muốn mà chúng ta tìm cách bắt nhau theo. Sức mạnh mà
chúng ta khao khát thủ đắc ngõ hầu thiết định chân, thiện, mỹ, nếu chúng ta
chiếm lãnh được, sẽ chứng tỏ đó là những phương tiện để tàn sát lẫn nhau. Chúng
ta bất lực, thực là may mắn cho chúng ta. Trước hết chúng ta phải thủ hữu thị
kiến, kế đó kỷ luật và cuối cùng đức nhẫn nại. Chừng nào mà chúng ta chưa nhẫn
nhục nhận thức rằng có một thị kiến ở trên thị kiến của chúng ta, chừng nào
chúng ta chưa tin tưởng và trông cậy vào những sức mạnh siêu việt thì kẻ mù vẫn
còn dẫn dắt kẻ mù. Những kẻ tin vào sự toàn năng của công việc và trí thông
minh mãi mãi sẽ chỉ gặp những thất bại do những biến cố hư ảo và khôn lường gây
ra. Họ là những kẻ thường xuyên bất mãn, không còn có thể nguyền rủa thánh thần
hay Thượng Đế, họ quay sang anh em họ và vừa đổ lên đầu những người cơn ấy
thịnh nộ bất lực của họ, họ vừa la lên: “Phản bội! Ngu ngốc!” và những tiếng vô
nghĩa khác.
Niềm hân hoan lớn lao của nghệ sĩ là ý thức được
một trật tự cao viễn hơn, nhận thức được, bởi sự vận dụng thiết yếu và đột khởi
của những xung lực của chính hắn, mối tương đồng giữa sự sáng tạo của con người
và cái được gọi là “thiên” tạo. Trong những tác phẩm của tưởng tượng phóng
túng, sự hiện hữu của luật tự biểu thị qua trật tự còn hiển nhiên hơn trong
những tác phẩm nghệ thuật khác. Không có gì ít điên cuồng, ít hỗn loạn hơn một
tác phẩm tưởng tượng phóng túng. Những sự sáng tạo này, không là gì khác hơn sự
sáng tạo thuần túy, xâm nhập vào mọi mức độ, tạo tác mẫu mực riêng cho nó, như
nước. Sự miễn dịch không cùng không đem lại điều gì mới mẻ cho nó, ngoại trừ
nâng cao ý nghĩa của cái dường như bất khả lãnh hội. Một cách nào đó, cái bất
khả lãnh hội này là mẹ đẻ của ý nghĩa sâu xa. Không một người nào bị cảm kích,
ngay cả những người làm bộ không bị cảm kích. Trong tác phẩm tưởng tượng ngông
cuồng có một cái gì hiển hiện mà tác dụng chỉ có thể so sánh với rượu trường
sinh bất tử. Yếu tố bí mật này, thường bị gán cho nhãn hiệu “vô nghĩa” mang
theo nó hương vị của cái thế giới rộng lớn và hoàn toàn hiểm hóc này trong đó
chúng ta và tất cả những thiên thể khác tìm thấy thể hiện của mình. Từ ngữ vô
nghĩa là một trong những danh từ mù mờ nhất trong từ vựng chúng ta. Nó chỉ có
một tính chất tiêu cực, như cái chết. Không ai giải thích được vô nghĩa: nó chỉ
có thể được chứng minh. Tuy nhiên, nói thêm rằng ý nghĩa và vô nghĩa có thể đắp
đổi cho nhau là chẻ sợi tóc làm tư. Vô nghĩa thuộc về thế giới khác, những
chiều kích khác, và thái độ mà đôi lúc ta bứt nó khỏi chúng ta, cứu cánh mà
chúng ta bác bỏ nó, chứng tỏ bản chất lộn xộn của nó. Bất cứ điều gì chúng ta
không thể bao gồm nổi trong cái khung chật hẹp của nhận thức chúng ta là chúng
ta khước từ ngay. Do đó sự sâu sắc và vô nghĩa có thể được coi như có một vài
điểm đồng thanh tương ứng bất ngờ nào đó.
Tại sao tôi không nhắm thẳng và sự vô nghĩa đích
thực? Bởi vì cũng như những người khác, tôi sợ nó. Và sâu xa hơn thế nữa là sự
kiện, không những đặt mình ra bên ngoài, tôi lại vướng mắc vào chính giữa lưới.
Tôi phải duy trì trường phái Dada phá hoại của chính tôi: tôi phải tiến bộ nếu
đó là chữ dùng đúng, từ học giả tới nhà phê bình, cuối cùng tới người sử dụng
búa. Kinh nghiệm văn nghệ của tôi nắm trong đổ nát tựa những kinh thành cổ kính
bị bọn Vendale [2] cướp phá. Tôi muốn xây
dựng, nhưng những nguyên liệu thất thường không thể tin cậy được và họa đồ vẫn
chưa bước qua giai đoạn tuyến đồ. Nếu chất liệu của nghệ thuật là tâm hồn người
thì tôi phải thú thực rằng, với những tâm hồn chết, tôi không thể thấy hình ảnh
nào nhen nhúm nẩy mầm trong vòng tay tôi.
Bị vướng mắc vào thảm kịch lớp lang chồng chất,
bị bắt buộc tham gia không ngừng có nghĩa là người ta không ý thức về những nét
đại dương của màn kịch lớn lao hơn đó, trong ấy hành động của con người chỉ là
một phần rất nhỏ. Hành vi sáng tác chấm dứt mọi thứ hành động đã buông thả một
thứ hành động khác. Khi một nhà sư, trầm tư lúc tụng niệm, thong thả và lặng lẽ
kinh hành qua tiền đình một ngôi đền, và trong khi đi như vậy lần lượt làm
chuyển động mạn đà la [3], đã cho một hình ảnh
sống động của hành động ngồi xuống bàn viết. Tâm trí nhà văn, không còn bận
quan sát, nhận thức, tư lự, lang thang giữa thế giới của hình thể được làm quay
tròn bởi sự vỗ cánh đơn thuần. Đó không phải bạo chúa nào phỉ chí tung hoành
trên đám thần dân khuất phục của đế quốc chiếm lãnh phi nghĩa của hắn. Đúng
hơn, một nhà thám hiểm, đánh động thiếp gọi những thực thể say ngủ của mộng mơ
hắn trở về đời. Tác động mơ mộng như một luồng gió trong ngôi nhà hoang, xếp
đặt đồ đạc của tâm trí trong một môi trường mới. Bàn ghế cộng tác, mùi xú uế bay
hết, một cuộc chơi bắt đầu.
Hỏi mục đích của cuộc chơi này, nó quan hệ thế
nào với đời, là lẩn thẩn. Chẳng khác nào hỏi Hóa Công tại sao sinh ra núi lửa
đó? tại sao giông tố đó? Vì hiển nhiên chúng không đóng góp gì cả ngoại trừ tai
họa [4]. Nhưng, vì tai họa chỉ
tai hại cho những kẻ bị chìm đắm trong đó, trong khi chúng soi sáng cho những
kẻ sống sót và nghiên cứu chúng trong thế giới sáng tạo cũng vậy. Kẻ mơ mộng
trở về từ cuộc phiêu bạt giang hồ, nếu hắn không bị đắm tầu dọc đường, có thể
và thường chuyển hóa sự sụp đổ của cơ cấu vi tế hắn vào chất liệu khác. Đối với
một đứa trẻ, sự châm trích một cái bọt bóng không thể đem lại điều gì khác hơn
ngoài sự kinh ngạc và thích thú. Học viên của mê vọng có thể phản ứng một cách
khác.
Một khoa học gia có thể đem lại cho một bọt bóng
cảm xúc phong phú của một thế giới tư duy. Hiện tượng tương tự khiến đứa trẻ
kêu lên vì thích thú có thể phát sinh ra một viễn tượng chân lý chói lòa, trong
đầu óc một thí nghiệm viên nhiệt thành. Trong nhà nghệ sĩ những phản ứng tương
khắc này dường như hòa hợp hay hỗn hợp, tạo ra một phản ứng tối hậu, vật xúc
tác lớn lao gọi là thực hiện. Nhìn, biết, khám phá, hưởng thụ - những khả năng
hay năng lực này yếu đuối xanh xao hay vô sinh nếu không có sự hiện thực. Trò
chơi của nghệ sĩ là dời chuyển vào thực tại. Chỉ khi nhìn bên kia khía cạnh
“tai họa” hẹp hòi thì cảnh tượng một bãi chiến trường thảm bại mới biễu diễn
trước con mắt trần. Vì, từ thời khởi thủy, cảnh tượng mà thế giới trình bầy cho
con mắt trần của nhân loại dường như không là gì khác hơn một bãi chiến trường
tan hoang gớm ghê. Nó đã như vậy và sẽ như vậy cho đến khi con người ngừng coi
mình như một chỗ phân tranh. Cho đến khi hắn đảm nhận trọng trách mở thành “cái
Tôi của cái Tôi của hắn”.
Chú thích:
[1]Thần
thoại Hy Lạp: nút Gordius là một cái nút được thắt bởi vua Gordius xứ Phrygia
theo sấm truyền thì chỉ có vị chúa tể tương lai của châu Á mới cởi được.
Alexandre đại đế, không cởi được bèn cắt phăng. Từ đó thành ngữ: Cắt
cái nút Gordius có nghĩa: giải quyết vấn đề nan giải một cách thẳng
thừng và hữu hiệu - N.H.H.
[2] Người
Vandale thuộc giống Nhật Nhĩ Man đã xâm lăng xứ Gaule Bắc Phi, Tây Ban Nha, La
Mã phá hủy nhiều công trình văn học nghệ thuật. - N.H.H.
[3]Hay
bánh xe Pháp luân hoặc trống trên có chép kinh Phật giáo Tây Tạng thường dùng - N.H.H.
[4]Cùng
với tài hoa một vần - N.H.H.
Rimbaud
Để trở thành thi sĩ
Giới thiệu
“Tiến lên! Đi, gánh nặng, sa mạc, chán chường
và cuồng nộ.”
Câu thơ niên thiếu đó gói trọn cuộc sống
Rimbaud. Cuộc sống tình cảm cũng như cuộc sống tâm linh, cuộc sống thực tế cũng
như cuộc sống mộng tưởng, cuộc sống làm ăn cũng như cuộc sống sáng tạo. Đó là
cuộc đi không mỏi, là làm việc không ngừng, là sa mạc không cùng, là chán
chường không nguôi và là cuồng nộ không dứt. Và cũng là khám phá vô tận, kinh
nghiệm vô biên. “Đây là một người mà một ngàn cuộc đời cũng không đủ để khám
phá những kỳ diệu của trần gian”, Henry Miller viết trong một thiên nghiên cứu
về Rimbaud, “một người đã cắt đứt với bạn bè và thân quyến từ lúc tuổi còn xanh
để cảm nghiệm cuộc đời trong tất cả sự tròn đầy của nó.” [1]
Ở một thanh niên mà sự chín muồi của minh triết
đã cho phép khẳng định rằng: “Cuối cùng tôi khám phá thấy sự hỗn loạn của tâm
trí tôi là thiêng liêng” thì sự thái quá là một điều dễ hiểu. Nơi chàng, tất
cả đều thái quá.
Trước hết là sự đi của chàng. Đây là lộ trình
của hai chân chàng: Charleroi – Paris – Mazas – Charleville – Bỉ - Charleroi –
Bruxelles – Douai – Charleville – Paris – Charleville – Paris – Charleville –
Paris – Ardennes – Paris – Bỉ – Anh – Charleville – Roche – London – Roche –
London – Charleville – Stuttgart - Milan – Charleville – Vienne - Hòa Lan –
Batavia – Charleville – Brême – Hambourg – Thụy Điển –Đan Mạch – Marseille –
Alexandrie – Civita – Vecchia – Rome – Charleville – Hambourg – Charleville –
Vosges - Thụy Sĩ – Gênes – Alexandrie – Charleville - Chypre – Roche – Chypre –
Aden – Hara – Choa – Harar – Babussa – Ongadine – Tadjourah – Harar – Abyssinie
– Aden – Le Caire – Harar – Zeilah – Aden – Marseille – Roche – Marseille.
Chàng đi, đi hoài, lúc nào cũng ở trên đường như
một gã du đãng có sao thiên mã cư mệnh mà nếu không đi thì ắt là ngọa bệnh và
chỉ ngừng đi khi phải nằm xuống để người ta cưa chân đi. Mà trong cuộc đi như
ma đưa quỷ dắt ấy nào phải được lên xe xuống ngựa gì. Chỉ rặt những đi bộ là đi
bộ với đói và khát, cảnh sát với nhà giam. Chúng ta hãy nghe Henry Miller tả:
“Ba lần trong thời gian dưới hai mươi tuổi, chàng đã tới Bruxelles và Paris:
hai lần chàng tới London. Từ Stuttgart, sau khi đã thông thạo Đức ngữ đủ dùng,
chàng lang thang đi bộ qua Wurtemberg và Thụy Sĩ tới Ý Đại Lợi. Từ Milan chàng
khởi hành đi bộ tới Cyclades qua Brindisi, chỉ để bị trúng nắng và quay trở về
Marseille qua ngả Leghorn. Chàng vượt qua bán đảo Scandinavine và Đan Mạch với
một đoàn xiếc dạo; chàng đáp tầu từ Hambourg, Antwerp; Rotterdam: chàng đến
Java bằng cách gia nhập đạo quân Hà Lan, chỉ để đào ngũ sau khi nếm qua mùi vị
của nó. Một lần vượt qua đảo St. Hélène trên một con tầu Anh từ chối không
ngừng lại đảo, chàng phóng qua lan can tầu xuống biển nhưng bị bắt trở lại
trước khi chàng có thể tới đảo. Từ Vienne chàng bị cảnh sát dẫn độ về bến cảng
Baravi vì tội du đãng; từ đó chàng lại bị áp giải về biên cảnh Lorraine. Trong
tất cả những chuyến tẩu thoát và bỏ nhà ra đi đột ngột đó, chàng luôn luôn
không một xu dính túi, luôn luôn đi bộ, và luôn luôn đi bộ với một cái dạ dầy
lép kẹp. Tại Civita Vecchia chàng bị đưa xuống đất liền với chứng sốt đau dạ
dầy mắc phải vì màng dạ dầy sưng lên bởi sự cọ xát của xương sườn vào bụng. Đi
bộ thái quá. Ở Abyssinic là sự cưỡi ngựa thái quá. Tất cả mọi sự đều thái quá.
Chàng bắt buộc mình một cách phi nhân. Mục đích thì bao giờ cũng ở phía bên
kia.”
Năm mười chín tuổi, khi “Giã từ cõi mộng
điêu linh, Anh về buôn bán với mình phôi pha” [2] thì
chàng hoàn toàn là một tên lái buôn thực thụ, lúc nào cũng bị ám ảnh bởi lợi
lộc, bởi công việc. Chàng làm việc không ngừng, đầu tắt mặt tối quá mọi đen.
Chàng đoạn tuyệt hoàn toàn với giới văn nghệ và thế giới văn chương để trầm
luân miệt mài trong cõi làm ăn buôn bán. Trong những lá thư gửi về cho gia
đình, chàng làm khổ mẹ và em gái không ít, thúc bách gia đình gửi cho chàng
những chuyên thư, tự điển kỹ thuật, nông lâm, sách dậy tiếng địa phương man di
mọi rợ. Chàng muốn trở thành một kỹ sư, chàng muốn con chàng, nếu chàng có con,
cũng sẽ trở thành một kỹ sư nổi tiếng, “một người có thế lực và giàu sang vì
khoa học.”
Chàng đi vào sa mạc, phiêu lưu vào những vùng
chưa một người da trắng nào dám hẻo lánh tới, giao thiệp với mọi sắc dân, mọi
quốc tịch. Văn chương chữ nghĩa bay đi đâu hết chỉ còn lại café, hương liệu,
ngà voi, da thú, súng ống, nô lệ… và công việc, công việc, công việc mà chàng
chán mứa, mà chàng xốc vác đến hụt hơi. Nhưng trên tất cả là chán chường và
giận dữ: “Tôi luôn luôn chán nản vô cùng”, chàng viết cho gia đình ngày 1 tháng
tám 1888; “tôi chưa từng biết có người nào phiền muộn hơn tôi. Và rồi, có khốn
khổ không, cuộc sống gia đình; không công việc trí thức, bơ vơ lơ láo giữa đám
mọi mà mình muốn cải thiện số phận chúng, trong khi chính chúng tìm cách lợi
dụng mình và ngăn trở không cho mình giải quyết công việc một cách chóng vánh!
Bắt buộc phải nói ngôn ngữ tạp loạn của chúng, ăn những món ăn bẩn thỉu của
chúng, chịu đựng muôn ngàn phiền muộn do sự lười biếng, phản phúc, ngu ngốc của
chúng đem lại!”.
Nhưng đó chưa phải là điều buồn bã nhất. “Điều
buốn bã nhất là sự chính mình dần dần trở nên đần độn u mê vì cô độc và xa cách
mọi xã hội văn minh.”
Đâu là ý nghĩa của tất cả những cái thái quá đó,
hỡi chàng Rimbaud, kẻ “sinh ra dưới cung Thiên Xứng” lại chọn những cái thái
quá “với đam mê của một kẻ đi đây (equilibrist)” kia? [3] Một trong những châm ngôn
tinh yếu nhất của “Châm Ngôn của Địa Ngục” (The Proverbs of Hell) của Blake –
một người anh em của Rimbaud là:
“Con đường thái quá dẫn tới lâu đài minh
triết,” (The road of excess
leads to the palace of wisdom).
Phải chăng Rimbaud muốn đi trên con đường đó?
Đúng là chàng đã đi trên con đường đó và con đường mâu thuẫn. Suốt đời
chàng, chàng đã đi ngược lại tất cả những gì chàng đã linh tưởng từ ấu thời. Suốt
đời chàng, chàng đã phá hủy tất cả những gì chàng đã xây dựng tự ấu thời. Suốt
đời chàng, chàng đã phản bội tất cả những gì chàng đã tin tưởng từ ấu thời. Để
làm gì vậy? – Để biết mặt sau của mặt trăng, mặt trái của thiên đàng, để trở
thành thi nhân theo quan niệm của chàng, nghĩa là trở thành một tiên
tri thấu thị (voyant), có thể “thấy tất cả, cảm tất cả,
tiêu thụ tất cả, thám hiểm tất cả, nói tất cả”. Vì chàng chủ trương rằng thi
nhân cần phải “đi đến cái vị tri (hay mới lạ) bằng sự hỗn loạn của tất
cả mọi giác quan” (“Thư cho Izambard”), “cần phải biến tâm hồn thành
quái dị”, phải biết tất cả mọi hình thức tình yêu, mọi hình thức đau khổ, mọi
hình thức điên cuồng, phải nuốt hết tất cả mọi chất ma túy để chỉ giữ lại tinh
túy, phải biết “tất cả giày vò trong đó hắn cần tất cả mọi đức tin, cần tất cả
mọi sức mạnh siêu nhân trong đó hắn trở thành một tên bệnh nhân vĩ đại, tên tội
nhân vĩ đại, tên bị nguyền rủa vĩ đại, - và nhà Bác Học siêu phàm! – Vì hắn đi
tới cái vị tri! (“Thư cho Paul Demeny”). Dù cho cuối cùng,
điên cuồng, hắn mất tất cả mọi ý niệm về những viễn tưởng của hắn. Song le, hắn
đã nhìn thấy chúng tận mắt. “Vậy hãy để hắn nổ tung trong cơn
chấn động bởi những điều dị thường và vô danh; những nhân công khủng khiếp khác
sẽ tới; họ sẽ bắt đầu lại những chân trời nơi hắn tắt nghỉ!” (Một Mùa
Địa Ngục)
Như thế, thi nhân của Rimbaud đã tiếp nối truyền
thống những thi nhân đầu tiên của nhân loại (bị gián đoạn bởi những thi sĩ):
thi nhân đồng thời là một tiên tri, một Prométhée ăn cắp lửa cho con người.
Rimbaud cũng chính là một Prométhée: chàng đã hy sinh cuộc đời chàng để thể
hiện linh tưởng của chàng theo sứ mệnh của thi nhân: “Thi sĩ có ích lợi gì trừ
khi hắn đạt tới một viễn tưởng về cuộc đời, trừ khi hắn sẵn sàng hy sinh cuộc
đời để chứng minh chân lý và vẻ rực rỡ của thị kiến hắn?” (Henry Miller, Sđd,
tr. 107) Rimbaud đã can đảm lao ra khỏi Thiên Đàng tuổi thơ, như Lucifer, để
sống, không phải một mùa mà là tất cả những mùa còn lại của đời chàng trong
chốn Địa Ngục Trần Gian. Chàng, - đứa con của mặt trời, chàng muốn biết thế nào
là đêm tối địa ngục, Chàng, - kẻ mà định mệnh là hạnh phúc, “không hề nghĩ tới
lạc thú đào thoát những đau khổ của thời đại mới”. Chàng, - kẻ mà cuộc đời là
một bữa yến tiệc nơi tất cả mọi trái tim đều mở phơi, tất cả rượu ngọt tuôn
trào” đã tự nguyện vùi dập đời mình trong sa mạc cát bỏng tịch liêu.
Những đau khổ thời đại mới là gì? – là máy móc,
là bạc tiền. Chàng muốn trở thành kỹ sư – lý tưởng của thời hiện đại. Chàng đi
làm tiền, lúc nào cũng quấn một cái ruột tượng đầy tiền quanh bụng – ám ảnh của
thời đại mới.
Tất cả những kẻ chê bai khinh bỉ, chế giễu chàng
đều sai lầm. Tất cả những kẻ tự nhận là hậu thân của chàng còn sai lầm hơn nữa.
Không phải chàng bỏ làm thơ vì thấy rõ sự thất bại của thi ca. Bài hát chỉ được
nghe với tất cả xúc động khi âm thanh đã dứt, người ca sĩ là ca sĩ thực thụ,
sống bài hát, khi đã ngừng hát. Chàng là thi sĩ (Poète) khi chàng đang làm thơ,
chàng là thi nhân (Poète) khi chàng không còn làm thơ nữa. Chàng thôi làm
thơ để sống thơ. Chàng muốn “thủ đắc chân lý trong
hồn và xác”. Chân lý ấy là gì? – là “tất cả đều có một định mệnh hạnh phúc” mà
sự sợ hãi, đau khổ, sự hồ nghi hạnh phúc, sự thiếu tin tưởng ở thiên đàng - đã
làm lạc lõng, mà sự tin tưởng và địa ngục, đã khuất lấp.
Trong cuộc sống người ta sợ gì nhất? – thất bại.
Cuối cuộc đời người ta kinh hãi gì nhất? – địa ngục.
Rimbaud không phải là hiện thân của thất bại như
những kẻ chê bai chàng nhận định. Chàng cũng không muốn là biểu tượng của sự
thất bại như những kẻ ca ngợi chàng đề cao. Chàng muốn đeo đuổi ôm ghì sự thất
bại; cách duy nhất để chiến thắng nó.
Tại sao chúng ta tin tưởng rằng, cuối cùng, tất
cả đều thất bại mà chúng ta lại không dám chấp nhận thất bại, một
cách tiên thiên, không dám nhận là sự thất bại, để
cuộc đời chúng ta, với tất cả công nghiệp, đam mê dần dần trở thành thất
bại? Tại sao chúng ta tin tưởng rằng cuộc sống là địa ngục, cuối cùng của cuộc
sống cũng sẽ là địa ngục, tại sao chúng ta không dám chấp nhận địa
ngục, một cách tiên thiên, không dám sống trong địa ngục, để địa ngục
ám ảnh chúng ta? để cuộc đời chúng ta, với tất cả hân hoan, say đắm, dần trở
thành địa ngục? Và quả thực cuộc đời chúng ta là địa ngục, chỉ bởi
chúng ta tin ở nó. “Tôi tin vào địa ngục, vậy tôi đang ở địa ngục” (Je
crois en enfer, donc j’y suis – “Nuit de l’enfer”). Con
đường dẫn tới thiên đàng bao giờ cũng đi qua địa ngục. Ánh sáng của thiên đàng
chỉ ở địa ngục, tôi khát vọng Thiên Đàng. Vậy…
Con người sẽ thất bại, ở mọi chiều hướng, người
ta nói như thế. Con người sẽ đi tới sa mạc cô đơn, tới địa ngục, người đe dọa
thế. Vậy tại sao ta không chấp nhận thất bại, sa mạc, địa ngục? Sao ta trở gót,
quẩy lại gánh nặng và sống trong run sợ? Tại sao chúng ta không chấp nhận những
điều kiện thiết yếu của cuộc đời? “Lý trí đã ra đời. Thế giới tốt lành. Tôi sẽ
chúc phúc cuộc đời. Tôi sẽ yêu anh em tôi. Đây không phải là những lời hứa hẹn
trẻ con nữa. Cũng không phải hy vọng thoát khỏi tuổi già và cái chết. Thượng Đế
làm thành sức mạnh của tôi và tôi ca ngợi Thượng đế.”
“Chán chường không phải là tình yêu của tôi nữa.
Những cuồng nộ, trác táng, điên dại, mà tôi biết tất cả xung động đẩy đưa và
tác hại, - tất cả gánh nặng của tôi đều được đặt xuống – Hãy thẩm định không
choáng váng vẻ mênh mông của lòng ngây thơ tôi – Une saison en
enfer, “Mauvais sang” ). Với lòng ngây thơ ấy, người
ta trở lại Thiên Đàng. Chính trong “cùng sa mạc đó, cùng đêm tối đó”, khi ý
thức hóa thân: lạc đà trở thành sư tử, sư tử trở thành hài nhi ngây thơ, chàng
giục giã chúng ta lên đường sáng tạo những giá trị hân hoan: “khi nào chúng ta
sẽ lên đường, qua những đụn cát, qua núi đồi, đón chào sự ra đời của cần lao
mới, minh triết mới, sự chạy trốn của những bạo chúa và quỉ dữ, sự chấm dứt của
mê tín, và sùng bái – như những kẻ thứ nhất! – Giáng Sinh trên trần gian!”
Henry Miller thấu suốt ruột gan Rimbaud khi
viết: “Điều tôi vô cùng quan tâm nơi Rimbaud là viễn tượng Thiên Đàng
chiếm lại được của chàng. Thiên Đàng kiếm được.”.(That
interests me extremely in Rimbaud is his vision of Paradise regained,
Paradise earned).
Cuộc đời Rimbaud, sự tàn lụi tự ý, đầu độc tự ý,
đánh mất Thiên Đàng tự ý, những gánh nặng, sa mạc, những chuyến đi vào cô đơn
cuồng điên không mỏi đó chính là hình ảnh rực rỡ nhất, ngút lửa nhất, rõ rệt
nhất của CON ĐƯỜNG SÁNG TẠO.
Rimbaud
Thư gửi Georges Izambard, 27 đường l’Abbaye – des – Champs, Douai (Bắc)
Charleville, (13) tháng năm 1871
Ông thân mến!
Thế là ông lại làm giáo sư nữa rồi! Người ta mắc
nợ xã hội, ông đã nói với tôi như vậy; ông tham dự vào ban giảng huấn: ông đang
đi lối đường mòn êm đẹp! – Tôi cũng theo tôn chỉ của tôi: tôi tìm cách bảo
tồn tôi một cách ngang chướng; tôi khai quật những tên đần độn ở
trường cũ, tất cả những gì ngu ngốc, bẩn thỉu, xấu xa nhất tôi có thể bầy đặt
ra, bằng hành động và bằng lời nói, trao cho họ: tôi được đãi nhậu nhẹt và em
út thả cửa. Stat mater dolorosa, dum pendet filius, - Tôi mắc
nợ xã hội, đúng như vậy; - và tôi có lý. – Ông nữa, ông cũng có lý, hôm nay.
Thực sự, ông chỉ nhìn thấy trong tôn chỉ của ông thi ca chủ quan: sự ông khăng
khăng trở lại máng ăn cám đại học – xin lỗi – chứng tỏ điều đó. Nhưng bao giờ
cũng kết thúc như một kẻ thỏa mãn không làm gì cả, không muốn làm bất cứ việc
gì cả. Chưa kể thi ca chủ quan của ông bao giờ cũng sẽ nhạt thếch một cách
khủng khiếp. Một ngày kia, tôi hy vọng, - nhiều người cũng hy vọng như vậy –
tôi sẽ nhìn thấy thi ca khách quan trong tôn chỉ của ông, tôi sẽ nhìn thấy nó
một cách chân thành hơn ông nhiều! – Tôi sẽ là một người lao động: đó là ý
tưởng cầm giữ tôi lại khi những cơn giận giữ điên cuồng xô đẩy tôi về phía cuộc
tranh đấu Paris – nơi biết bao dân lao động hãy còn đang chết trong khi tôi
viết cho ông! Làm việc bây giờ, không bao giờ, không bao giờ; tôi đang đình
công.
Bây giờ tôi dấn mình vào đường phóng đãng càng
sâu bao nhiêu càng hay bấy nhiêu. Tại sao vậy? Tôi muốn làm thi nhân, và tôi
làm để khiến mình trở thành tiên tri thấu thị: ông không thể hiểu
được đâu và tôi hầu như cũng không biết cách nào giảng giải cho ông hiểu được.
Cần phải đi tới cái mới lạ chưa từng biết bằng sự hỗn loạn của tất cả
mọi giác quan. Những nỗi đau khổ sẽ chất ngất, nhưng phải mạnh, phải
là thi nhân bẩm sinh, và tôi biết mình là một thi nhân. Tôi
không có lỗi chút nào. Nói rằng: tôi suy tưởng là sai. Người ta phải nói: Tôi
bị suy tưởng. Xin lỗi trò chơi chữ.
TÔI là một kẻ khác. Thây kệ nếu cây gỗ khám phá
thấy mình là một cây vĩ cầm, và mặc xác những tên xuẩn ngốc cãi chầy cãi cối về
những điều chúng mù tịt!
Ông không phải là một ông thầy đối
với tôi. Tôi cho ông điều này: đây có phải là phúng thi không, như ông có thể
sẽ nói! Đây có phải là thi ca không? Đây là ý ngông, dù sao – Nhưng tôi xin ông
đừng gạch dưới bằng bút chì, cũng đừng quá quan tâm:
TRÁI TIM ĐAU
Trái tim đau nhỏ giọt ở đuôi…
Điều ấy không phải là không có ý nói gì.
Hồi âm: Gửi Ô. Deverrière, nhờ chuyển cho A. R.
Thân mến,
Arth. RimBaud
À Georges Izambard, 27 rue de l’Abbaye –des –
Champs, à Douai (Nord)
Charleville, (13) mai 1871.
Cher Monsieur!
Vous revoilà professeur. On se doit à la
Société, m’avez – vous dit; vous faites partie des corps enseingnants: vous
roulez dans la bonne ornière. – Moi aussi, je suis le principe: je me fais
cyniquement entretenir; je déterre d’ anciens imbèciles de
collège: tout ce que je puis inventer de bête, de sale, de mauvais, en action
et en paroles, je le leur livre; on me paie en bocks et en filles. Stat
mater dolorosa, dum pendet filius. – Je me dois à la Société, c’est
juste, - et j’ai raison. - Vous aussi, vous avez raison, pour aujourd’hui. Au
fond, vous ne voyez en votre pricinpe que poesie subjective: votre obstination
à regagner le râtelier universitaire – pardon! – le prouve. Mais vous finirez
toujours comme un satisfait qui n’a rich fait, n’ayant rien voulu faire. Sans
compter que votre poésie subjective sera toujours horriblement fadasse. Un
jour, j’espère, - bien d’autres espèrent la même chose, - je verrai dans votre
principe la poésie objective, je la verrai plus sincèrement que vous ne le
feriez! – Je serai un travailleur: c’est l’idée qui me retient quand les
colères folles me poussent vers la bataille de Paris, - où tant de travailleurs
la bataille de Paris, - où tant de travailleurs meurent pourtant encore tandis
que je vous écris! Travailler maintenant, jamais, jamais; je suis en grève.
Maintenant, je m’encrapule le plus possible.
Pourquoi? Je veux être poète, et je travaille à me rendre voyant: vous
ne comprendrez pas du tout, et je ne saurais presque vous expliquer. Il s’agit
d’arriver à l’inconnu, par le dérèglement de tous les sens. Les souffrances
sont énormes, mais il faut être fort, être né poète, et je me suis reconnu
poète. Ce n’est pas du tout ma aute. C’est faux de dire: Je pense. On devrait
dire: On me pense. Pardon du jeu de mots.
JE est un autre. Tant pis pour le bois qui se
trouve violon, et nargue aux inconscients, qui ergotent sur ce qu’ils ignorent
tout à fait!
Vous n’êtes pas enseignant pour moi: Je vous
donne ceci: est – ce de la satire, comme vous diriez? Est – ce de la poésie?
C’est de la fantaisie, toujours. Mais, je vous en supplie, ne soulignez ni du
crayon, ni trop de la pensée:
LE COEUR SUPPLICIÉ
Mon triste cour bave à la poupe…
Ça ne vent pas rien dire.
Répondez – moi: chez M. Deverrière, pour A. R.
Bonjour de cour,
Arth. Rimbaud
Gửi Paul Demeny
Ở Douai,Charleville, ngày 15 tháng năm 1871
Tôi đã quyết định cho bạn một giờ văn học mới.
Tôi bắt đầu ngay bằng một thành thi có tính cách thời sự:
CHIẾN CA THÀNH PARIS
Mùa xuân đã hiển nhiên rồi, vì…
A. Rimbaud
- Đây là luận thuyết về tương lai của thi ca:
Tất cả thi ca thượng cổ lên đến chóp đỉnh trong thi ca Hy Lạp, cuộc sống hòa
điệu. – Từ Hy Lạp đến phong trào lãng mạn, - thời trung cổ, - có những văn
nhân, những thợ thơ. Từ Ennius tới Theroldus, từ Theroldus tới Casimir
Delavigne, toàn là văn vần, một trò tiêu khiển, sự sa đọa yếu đuối và danh vọng
của nhiều thế hệ xuẩn ngốc: Racine là đấng tinh khiết, mãnh liệt, vĩ đại . –
Nếu người ta xóa thơ người, thì Thánh Gàn ngày nay cũng vô danh tiểu tốt như
những tác giả đầu tiên của Khởi Nguyên. – Sau Racine, trò chơi
bị bỏ xó mốc meo. Nó kéo dài hai nghìn năm.
Không đùa bỡn, không nghịch lý. Lý trí gợi cho
tôi nhiều xác tín về vấn đề này nhiều hơn bất cứ một Tân - Pháp quốc nào với
thịnh nộ. Vả lại những người mới tha hồ kết án tiền nhân:
người ta thong dong tự tại và người ta có vô khối thì giờ.
Chưa bao giờ người ta phê phán đúng đắn phong
trào lãng mạn. Những kẻ nào ắt sẽ phê phán nó? Bọn Phê Bình!! Bọn Lãng Mạn ư?
Những kẻ đã chứng minh rõ rệt rằng bài hát hiếm khi là tác phẩm, nghĩa là, tư
tưởng được hát lên và được hiểu bởi người ca.
Bởi vì TÔI là một kẻ khác. Nếu chất đồng bỗng
một đêm thức giấc thấy mình là cái kèn đồng, thì không phải là lỗi tại nó chút
nào. Điều này quá hiển nhiên đối với tôi: tôi chứng kiến sự phát tiết của tư
tưởng tôi: tôi nhìn, tôi nghe nó; tôi nhấn mạnh cung đàn; hòa tấu khúc rung lên
trong những niềm sâu thẳm, hay nhẩy vọt lên sân khấu.
Nếu những tên khốn khiếp ngày xưa không chỉ tìm
thấy ở cái Tôi ý nghĩa sai lầm thì ngày nay chúng ta đã không phải quét đi hàng
triệu bộ xương khô, từ ngày xửa ngày xưa, đã chồng chất lên thành những sản
phẩm của trí thông minh thông manh của chúng, trong khi tự vỗ ngực xưng là tác
giả!
Ở Hy Lạp, như tôi đã nói, thơ và thất huyền cầm
đánh nhịp cho Hành Động. Sau đó, âm nhạc và thi vận là trò chơi tiêu khiển. Sự
nghiên cứu thời quá khứ này quyến rũ những kẻ tò mò; nhiều kẻ thích thú phục
hồi lại mỹ thuật cổ thời: - đó là công việc của họ. Tâm vũ trụ luôn luôn phóng
những ý tưởng của mình ra một cách tự nhiên: người ta lượm lặt một phần của hoa
trái của đầu óc này: người ta hành động bằng, người ta viết sách bằng những hoa
trái ấy: sự việc tiến hành như vậy, con người không làm việc tự lực, chưa tỉnh
thức, hoặc chưa mơ mộng chín mùi trong giấc mộng lớn. Nhà văn; những công bộc:
tác giả, kẻ sáng tạo, thi nhân, con người đó chưa hiện hữu!
Sự nghiên cứu đầu tiên của con người muốn trở
thành thi nhân là sự hiểu biết về chính hắn, toàn bộ; hắn tìm kiếm tâm hồn hắn,
hắn tra xét, khảo sát, học hỏi nó. Ngay sau khi hiểu nó, hắn phải đào luyện nó!
Việc đó có vẻ đơn giản: trong bất kỳ bộ óc nào một cuộc phát triển tự nhiên
cũng tự viên thành; dù bao nhiêu kẻ ích kỷ tự nhận mình là tác
giả thì cũng có bao người góp phần vào sự tiến bộ tinh thần của họ! – Nhưng cần
phải làm tâm hồn trở nên dị thường: theo kiểu những comprachicos, nếu bạn muốn!
Hãy tưởng tượng một người trồng và nuôi dưỡng những mụn cóc trên mặt mình.
Tôi nói người ta phải là tiên tri thấu
thị, tự khiến mình trở thành tiên tri thấu thị.
Thi Nhân tự biến mình thành tiên tri
thấu thị bằng một sự hỗn loạn của tất cả mọi giác quan lâu
dài, rộng lớn phi thường và hợp lý. Tất cả mọi hình thức tình yêu, đau khổ,
điên cuồng: hắn tìm kiếm chính hắn, hắn nuốt trọn mọi độc tố trong hắn để giữ
lại tinh túy. Cực hình khôn tả trong đó hắn cần tất cả sức mạnh siêu nhân,
trong đó hắn trở thành kẻ bệnh nhân vĩ đại, kẻ tội nhân vĩ đại, kẻ bị nguyền
rủa vĩ đại, - và nhà Bác Học siêu phàm! – Bởi vì hắn đi tới cái vị tri!
Vì hắn đã đào luyện tâm hồn, vốn phong phú hơn bất kỳ người nào! Hắn đi tới
cái vị tri, và cuối cùng, phát điên, hắn mất trí không hiểu những
linh tượng của hắn, ít nhất hắn cũng đã nhìn thấy chúng! Hãy để hắn chết trong
cơn chấn động bởi những điều kỳ dị và không thể gọi tên: những lao công kinh
khủng khác sẽ tới: họ sẽ bắt đầu từ những chân trời mà hắn quỵ xuống!
- Đoạn tiếp theo sáu phút sau - Ở tôi đây chêm
vào một thánh thi thứ hai phụ bản; xin hãy ân cần lắng tai nghe, -
và tất cả thế giới sẽ bị quyến rũ. – Tôi đã cầm cung đàn nơi tay, tôi xin bắt
đầu:
NHỮNG CÔ NHÂN TÌNH BÉ NHỎ CỦA TÔI
Một mầu nước mắt phai nhòa...
A.R
Thế đó. Và lưu ý cho rằng, nếu tôi không sợ làm
ông tốt hơn 60x, tiền tem, tôi, kẻ lưu đãng cố cùng, từ bẩy tháng nay, không
được sờ tới một trinh – thì tôi đã gửi thêm cho ông bài “Những Tình Nhân
Paris’’ của tôi, một trăm câu sáu chữ thưa ông, và bài “Paris chết’’ của tôi,
gồm hai trăm câu sáu chữ!
Tôi nói tiếp:
Vậy thi nhân đúng là kẻ ăn trộm lửa.
Hắn có trách nhiệm với nhân loại, cả thú
vật nữa! hắn phải làm cho những sáng tác của hắn có thể ngửi, sờ mó,
nghe thấy được; nếu điều hắn ghi nhận từ nơi đó có hình thể
hắn phải cho nó hình thể; nếu vô hình, hắn phải cho nó vô hình, phải tìm một
ngôn ngữ; - Vả lại, mọi lời nói đều là ý tưởng, thời của ngôn ngữ đại đồng sẽ
tới! Phải là một ông hàn – chết chóc hơn một vật hóa thạch – để hoàn thành một
cuốn từ điển, của bất cứ ngôn ngữ nào. Những kẻ yếu đuối, bắt đầu suy
tưởng về chữ đầu tiên của mẫu tự chẳng bao lâu có thể phát điên lên!
Ngôn ngữ này sẽ là ngôn ngữ của tâm hồn nói với
tâm hồn, thâu tóm tất cả, hương sắc, thanh âm, tư tưởng bám lấy tư tưởng và lôi
kéo. Thi nhân xác định số lượng vị trí thức tỉnh trong tâm vũ trụ ở thời đại
hắn: hắn tạo tác nhiều hơn thể thức của tư tưởng hắn, hơn sự đo lường con
đường đi tới Tiến Bộ của hắn! Sự phi thường trở thành bình thường [4], hấp thụ bởi tất cả, quả
thực hắn sẽ là một thừa số của tiến bộ!
Tương lai này sẽ hiện thực như ông thấy. – Luôn
luôn đầy Số và Hòa Âm, những bài thơ này sẽ
được làm ra để tồn tại. – Quả thực, hãy còn một chút thi ca Hy Lạp.
Nghệ thuật vĩnh cửu sẽ có chức vụ của nó, bởi
thi nhân là những công dân. Thi ca sẽ không đánh nhịp cho hành động nữa, nó
sẽ đi tiên phong.
Những thi nhân sẽ hiện hữu! Khi nào ách nô lệ vô
cùng tận của đàn bà đổ gẫy, khi nào người đàn bà sống cho mình và tự mình,
người đàn ông, - khả ố từ xưa tới nay, - đã trả lại cho người đàn bà tự do,
chính người đàn bà cũng sẽ là thi nhân nữa! Người đàn bà sẽ khám phá thấy cái
vị tri! Thế giới tự do của nàng có khác thế giới của chúng ta không? – Nàng tìm
thấy những điều kỳ lạ, khôn lường, gớm ghê, dịu ngọt; chúng ta sẽ thu nạp,
chúng ta sẽ hiểu.
Trong khi chờ đợi, chúng ta hãy đòi hỏi thi
nhân cái mới lạ, - nội dung và hình thức. Tất cả những kẻ quỉ quái
tinh ma chẳng bao lâu tưởng có thể thỏa mãn chúng ta đòi hỏi này: - Đâu phải
như vậy!
Những kẻ đầu tiên theo chủ trương lãng mạn đều
là tiên tri thấu thị mà không hoàn toàn ý thức điều đó: sự đào
luyện của tâm hồn họ bắt đầu một cách tình cờ: những đầu tầu hỏa bị thải đi, nhưng
vẫn cháy bỏng, mà thỉnh thoảng thiết lộ còn đẩy đưa đi. – Lamartine đôi khi là
tiên tri thấu thị, nhưng bị bóp nghẹt bởi hình thức cũ. – Hugo, quá
cứng đầu, đích thực đã có nhiều thị kiến trong những tác phẩm cuối
cùng: Les Misérables đúng là một bài thơ. Tôi
có bộ Les Châtiments bên mình; Stella gần cho thấy giới hạn
của thị lực của Hugo. Quá nhiều tính chất Belmontet và Lamenais. Jehovahs
và đội ngũ, những kẻvĩ đại già cỗi đã chết.
Musset đáng ghét gấp mười bốn lần hơn đối với
chúng ta, những thế hệ đau khổ bị ảo tưởng lôi cuốn, mà sự làm biếng thần thánh
của hắn là một sự sỉ nhục! Ôi những tiểu thoại và những châm ngôn nhạt nhẽo! Ôi
những Nuits! Ôi Rolla, ôi Namouna, ôi la
Coupe! Tất cả đều có tính chất Pháp quốc, nghĩa là đáng ghét đến cùng
độ; tính chất Pháp quốc chứ không phải parisien! Còn một tác phẩm nữa của thiên
tài khả ố này đã làm hứng khởi Rabelais, Voltaire, Jean La Fontaine, chú giải
bởi Ô. Taine! Tươi như hoa xuân, cái tinh thần của Musset! Quyến rũ, tình yêu
của hắn! Đó là hội họa đồ sứ, thi ca vững bền trường cửu! Thi ca Pháp sẽ được
thưởng thức lâu dài, nhưng chỉ ở Pháp. Tất cả mọi cậu bé bán hàng đều có thể gỡ
rối phép hô khởi Rolla, tất cả mọi chủng sinh đều có năm trăm vần thơ giấu kín
trong sổ ghi. Ở tuổi mười lăm, những xung động của đam mê khiến những thanh
niên động cỡn: ở tuổi mười sáu, họ đã bằng lòng đọc thuộc lòng với tất cả tâm
tình, ở tuổi mười tám, ngay cả ở tuổi mười bẩy, tất cả mọi học sinh
trung học cơ phương sách làm Rolla đều viết một cuốn Rolla! Có thể có vài kẻ
còn chết được vì nó nữa. Musset không biết làm gì cả: có những linh tượng sau
tấm vải mỏng của màn cửa: hắn nhắm mắt. Dân Pháp, èo ượt, lê lết từ quán rượu
tới phòng học, thi thể mỹ miều đã chết thực và, từ nay chúng ta chẳng mất công
đâu đánh thức nó với sự ghê tởm của chúng ta!
Lớp lãng mạn thứ nhì đúng là những tiên
tri thấu thị; Théophile Gautier, Leconte de Lisle, Théodore de
Banville. Nhưng thám sát cái không thể thấy và lắng nghe cái chưa từng nghe
hoàn toàn khác việc lấy lại tinh thần những sự việc đã chết, Baudelaire là một
tiên tri thấu trị đầu tiên, vua của những thi nhân, một Thượng Đế đích
thực. Tiếc thay ông sống trong một môi trường quá nghệ sĩ và hình thức
được tán dương quá đáng nơi ông hèn mọn chứ không có chi đặc sắc. Những khám
phá cái vị trí đòi hỏi những hình thức mới.
Đoạn tuyệt những hình thức cũ – trong đám những
kẻ ngây thơ. A. Renaud, - đã thực hiện tác phẩm Rolla của mình; - L. Grandet, -
đã thực hiện những tác phẩm Rolla của mình; - L, Grandet, - đã thực hiện những
tác phẩm Rolla của mình; - những tên gaulois và những tên Musset, G.
Lafenestre, Coran, Cl. Popelin, Soulary, L. Salles; những tên học trò, Marc,
Aicard, Theuriet; những đã kẻ chết và và những tên khốn khiếp, Autran, Barbier,
L. Cladel, Robert Luzarches, X. de Aicard; những tên nghệ sĩ ngông, C. Mendès;
những tên lưu đãng; những mụ đàn bà; những tên có tài, Léon Dierx và Sully -
Prudhomme, Coppée, - trường phái mới, gọi là thi sơn, có hai tiên tri thấu thị,
Albert Mérat và Paul Verlaine, một thi nhân đích thực. Vậy đó.
Bởi thế tôi làm để khiến mình trở thành tiên
tri thấu thị. – Và chúng ta kết thúc bằng một bài ca thành kinh.
NGỒI XỔM
Đêm khuya, khi chàng cảm thấy dạ dầy nôn nao...
Ông sẽ đáng ghét vô cùng nếu không trả lời: trả
lời ngay, bởi vì có thể tám ngày nữa, tôi đã ở Paris rồi.
Tạm biệt.
A. Rimbaud.
À Paul Demeny
à Douai
Charleville, 15 mai 1871
J’ ai résolu de vous donner une heure de
littérature nouvelle. Je commence de suite par un psaume d’actualité:
CHANT DE GUERRE PARISIEN
Le printemps est evident, car…
A. Rimbaud.
- Voici de la prose sur l’avenir de la poésie: -
Toute poésie antique aboutie à la poésie greeque. Vie harmonieuse . – De la
Grèce au mouvement romantique, - moyen âge, - il y a des lettrés, des
versificateurs. D’Ennius à Theroldus, de Theroldus à Casimir Delavigne, tout
est prose rimé un jeu, avachissement et gloire d’inombrables générations
idiotes: Racine est le pur, le fort, le grand. – On eût, soufflé sur ses rimes,
brouillé ses hémistiches, que le Divin Sot serait aujourd’hui aussi ignoré que
le premier venu auteur d’ Origines. – Après Racine, le jeu moisit.
Il a duré deux mille ans!
Ni plaisanterie, ni paradoxe. La raison
m’inspire plus de certitudes sur le sujet que n’aurait jamais eu de colère un
Jeune France. Du reste, libre aux nouveaux d’exécrer les
ancêtres: on est chez soi et l’on a le temps.
On n’a jamais bien jugé le romantisme. Qui
aurait jugé? Les Critiques!! Les Roman tiques? Qui prouvent si bien que la
chanson est si peu souvent l’œuvre, c’est – à- dire la pensée chantée et
comprise du chanteur?
Car JE est un autre. Si le cuivre s’éveille
clairon, il n’y a rien de sa faute. Cela m’est évident: j’assiste à l’éclosion
de ma pensée: je la regarde, je l’écoute: je lance un coup d’archet: la
symphonie fait son remuement dans les profondeurs, ou vient d’un bond sur la
scène.
Si les vieux imbéciles n’avaient pas trouvé du
Moi que la signification fausse, nous n’aurions pas à balayer ces millions de
squelettes qui, depuis un temps infini, ont accumulé les produits de leur
intilligence borgnesse, en s’en clamant les auteurs!
En Grèce, ai – je dit, vers et lyres rhythment
l’Action. Après. Musique et rimes sont jeux, délassements. L’étude de ce passé
charme les curieux: plusieurs s’ejouissent à renouveler ces antiquités: - c’est
pour eux. L’intelligence universelle a toujours jeté ses idées naturellement;
les hommes ramassaient une partie de ces fruits du cerveau: on agissait par, on
en ecrivait des livres: telle allait la marche, l’homme ne se travaillant pas,
n’étant pas encore éveillé, ou pas encore dans la plénitude du grand songe. Des
fonctionnaires, des ecrivains: auteur, créateur, poète, cet homme n’a jamais
existé!
La première étude de l’homme qui veut être poète
est sa propre connaisance, entière; il cherche son âme, il l’inspecte, il la
tente, l’apprend. Des qu’il la sait, il doit la cultiver: cela semble simple:
en tout cerveau s’accomplit un développement naturel, tant d’égoistes se
proclament auteurs: il en est bien d’autres qui s’attribuent leur progrès
intellecture! – Mais il s’agit de fair l’âme monstrueuse: à l’instar des
comprachicos, quoi! Imaginez un homme s’implantant et se cultivant des verrues
sur le visage.
Je dis qu’il faut être voyant, se
faire voyant.
Le Poète se fait voyant par un
long, immense et raisonné dérèglement de tous les sens.
Toutes les formes d’amour, de souffrance, de folie; il cherche lui même, il
épuise que les tous les poisons, pour n’en garder que les quintessences
Ineffable torture où il besion de toute la foi, de toute la force surhumaine,
où il devient entre tous le grand malade, le grand criminel, le grand maudit, -
et le suprême Savant! – Car il arrive à l’inconnu! Puisqu’il a
cultive son âme, déjà riche, plus qu’aucun! ll arrive à l’inconnu et quand,
affolé, il finirait par perdre, l’intelligence de ses visions, il les a vues!
Qu’il crève dans son boudissement par les choses inoures et innommables:
viendront d’autres horriblé travailleurs; ils commenceront par les horizons où
l’autre c’est affaissé!
- la suite à six minutes –
Ici j’intercale un second psaume, hors
du texte: veuillez tendre une oreille complaicante, - et tout le moude
sera charmé – J’ai l’archet en main, je commence:
MES PETITES AMOUREUSES
Un hydrolat lacrymal lave…
A. R
Voilà. Et remarquez bien que, si je ne eraignais
de vous faire débourser plus de 60 c. de port, - moi pauvre effaré qui, depuis
sept mois, n’ai pas tenu un seul rond de bronze! – je vous livrais encore mes “Amants
de Paris’’, cent hexamètres, Monsieur, et ma “Mort de Paris’’, deux
cents hexamètres!
Je reprends:
Done le poète est vraiment voleur de feu.
ll est chargé de l’humanité, des animaux même;
il devra faire sentir, palper, écouter ses inventions; si ce qu’il rapporte
de là – bas a forme, il donne forme; si c’est
informe, il donne de informe. Trouver une langue; - Du reste, toute parole
étant idée, le temps d’un langage universel viendra! ll faut être académicien,
- plus mort qu’un fossile, - pour parfaire un dictionnaire, de quelque langue
que ce soit. Des faibles ce mettraient à penser sur
la première lettre de l’alphabet, qui pourraient vile ruer dans la folie!
Cette langue sera de l’âme pour l’âme, résumant
tout, parfums, sons, couleurs, de la pensée accrochant la pensée et tirant. Le
poète définirait la quantité d’inconnu s’éveillant en son temps dans l’âme
universelle: il donnerait plus que la formule de sa pensée, que l’annotation de
sa marche au Progrès ! Énormité devenant norme, absorbée par
tous, il serait vraiment un multiplicateur de progrès!
Cet avenir sera matérialiste, vous le voyez; -
Toujour pleins du Nombre et de l’Harmonie, ces poèmes seront
faits pour rester. – Au fond, ce serait encore un peu la Poésie grècque.
L’art éternel aurail ses fonctions, comme les
poetes sont citoyens. La Poésie ne rhythmera plus l’action; elle sera
en avant.
Ces petes seront! Quand sera brisé l’infini
servage de la femme, quand elle vivra pour elle et par elle, l’homme, -
jusqu’ici abominable, - lui ayant donné son renvoi; elle sera poete, elle
aussi! La femme trouvera de l’inconnu! Ses mondes d’idées différeront – ils des
notres? – Elle trouvera des choses étranges, insondables, repousantes,
délicieuses; nous les prendrons, nous les comprendrons.
En attendant, demandons aux poètes du nouveau,
- idées et formes. Tous les habiles croiraient bientôt avoir satisfait à cette
demande: - Ce n’est pas cela!
Les premièrs romantiques ont été voyants sans
trop bien s’en rende compte; la culture de leurs âmes s’est commencée aux
accidents: locomotives abandonnées, mais brûlantes, que prennent quelque temps
les rails. – Lamartine est quelquefois voyant, mais étranglé par la forme
vieille. – Hugo, trop cabochard, a bien du vu dans les
derniers volumes: Les Châtiment sont un vrai poème. J’ai Les
Châtiments sous main; Stella donne à peu près la mesure de la vue de
Hugo. Trop de Belmontet et de Lamennais, de Jéhovahs et de colonnes, vieilles
énormités crevées.
Musset est quatorze fois exécrable pour nous,
générations douloureuses et prises de visions –que sa paresse d’ange a
insultées! Ô ! les contes et les proverbess fadasses! Ô les Nuit!
Ô Rolla, Ô Namouna, Ô la Coupe! Tout
est français, c’est – à – dire haissable au suprême degré; français, pas
parisien! Encore une œuvre de cet odieux génie qui a insprié Rabelais,
Voltaire, Jean La Fontaine! Commenté par M. Taine! Printainier, l’esprit de
Musset! Charmant, son amour! En voilà, de la peinture à l’émail, de la poésie
solide! On savourera longtemps la poésie française, mais en France.
Tout garçon épicier est en mesure de déhobiner une apostrophe Rollaque, tout
séminariste emporte les cinq cents rimes dans le secret d’un carnet. A quinze
ans, ces élans de passion mettent les jeunes en rut; à seize ans, ils se
contentent dèjà de les réciter avec cœur; à dix – huit ans, à dix – sept même,
tout collégien qui a le moyen fait le Rolla, écrit un Rolla! Quelques uns en meurent
peut – être encore. Musset n’a rien su faire: il y avait des visions derrière
la gaze des rideaux: il a fermé les yeux. Francais, panadis, traîné de
l’estaminet au pupitre de collége, le beau mort est mort, et, désormais, ne
nous donnons même plus la peine de le réveiller par nos abominations!
Les seconds romantiques sont très voyants:
Theophile Gautier, Leconte de Lisle, Théodore de Banville. Mais inspecter
l’invisible et entendre l’inoui étant autre chose que reprendre l’esprit des
choses mortes, Baudelaire est le premier voyant, roi des poetes, un
vrai Dieu. Encore a – t – il vécu dans un milieu trop artiste; et la
forme si vantée en lui est mesquine. Les inventions d’inconnu réclament des
formes nouvelles.
Rompue aux formes vieilles, - parmi les innocents,
A. Renaud, - a fait son Rolla; I. Grandet, a- fait son Rolla;- les gaulois et
les Mussets, G. Lafenestre, Coran, Cl. Poipelin, Soulary, L. Salles; les
écoliers, et les imbéciles, Autran, Barbier, L. Pichat, Lemoyne, les Deschamps,
les Des Essarts; les journalistes, L. Cladel, Robert Luzarches, X. de Ricard;
les fantaisistes, C. Mendès; les bohèmes; les femmes; les talents, Léon Dierx,
Sully – Prudhomme, Coppée; - la nouvelle école, dite parnassienne, a deux voyant,
Albert Mérat et Paul Verlaine, un vrai poète. – Voilà.
Ainsi je travaille à me rendre voyant.
– Et finissions par un chant pieux.
Accroupissements
Bien tard, quand il se sent l’estonmac écocuré,...
Vous seriez exécrable de ne pas répondre; vite,
car dans huit jours, je serai à Paris, peut – être.
Au revoir,
A. Rimbaud.
Gửi gia đình
Harar, 4 tháng năm 1881
Gia đình mến,
Ở bên ấy đang là mùa hè, và ở bên này là mùa
đông, nghĩa là trời khá nóng, nhưng mưa luôn. Thời tiết này còn kéo dài vài
tháng nữa.
Trong vòng sáu tháng nữa sẽ tới mùa hái café.
Phần tôi, tôi tính sắp rời tỉnh này để đi buôn
bán trong vùng đất lạ. Có một cái hồ lớn cách đây dăm ngày đường và đó là xứ
ngà voi: tôi sắp cố gắng đi tới. Nhưng xứ đó chắc phải thù nghịch lắm.
Tôi sắp mua một con ngựa và ra đi. Trong trường
hợp sự việc hung hiểm và tôi ở lại đó, tôi xin báo trước cho gia đình rõ là tôi
có một số tiền bẩy lần 129 roupie thuộc về tôi gửi ở phân cục Aden, và gia đình
cứ việc đòi nếu thấy bõ công.
Gửi cho tôi xin một số báo nào đó cũng được nói
về việc công để tôi biết qua tình hình. Có phải người ta làm việc ở Panama
không?
Hãy viết cho Ô. Wurster và Cty giám đốc xuất bản
ở Zurich, Thụy Sĩ và yêu cầu họ gửi ngay cho nhà cuốn “Chuyên Thư Du Lịch” của
Ô. Kaltbrünner, theo thể thức lãnh hóa giao ngân hay cách nào cũng được tùy ý
ông ta. Cũng xin gửi cho cuốn “Xây cất ở biển” của Bonniceau, nhà sách Lacroix.
Gửi cho phân cục Aden.
Chúc gia đình an khang. Bái biệt.
A. Rimbaud
Aux Siens
Harar, 4 mai 1881.
Chers amis,
Vous êtes en été, et c’est l’hiver ici, c’est –
à – dire qu’il fait assez chaud, mais il pleut souvent. Cela va durer quelques
mois.
La récolte du café aura lieu dans six mois.
Pour moi, je compte quitter prochainenment cette
ville – ci pour aller trafiquer dans l’inconnu. ll y a un grand lac à quelques
journées, et c’est en pays d’ivoire: je vais tâcher d’y arriver. Mais le pays
doit être hostile.
Je vais acheter un cheval et m’en aller. Dans le
cas où cela tournerait mal, et vue j’y reste, je vous préviens que j’ai une
somme de 7 fois 150 roupie m’ appartenant déposé à l’agence d’ Aden, et que
vous réclamerez, si ça vous semble en valoir la peine.
Envoyez – moi un numéro d’un journal quelconque
de travaux publics que je sache ce qui se passe. Est – ce qu’on travaille à
Panama?
Écrivez à MM Wurster et Cie, éditeurs à Zurich,
Suissse, et demandez de vous envoyer de suite la Manuel du Voyageur, par
M. Kaltbrünner, contre remboursement on comme il lui plaira. Envoyez aussi
les Constructions à la mer par Bonniceau, librairie Lacroix.
Expédiez à l’agence d’Aden.
Portez - vous bien. Adieu.
A. Rimbaud
Chú thích:
[1]Thời
của những kẻ giết người, Nghiên cứu về Rimbaud, Hồng Hà xuất
bản.
[2]Thơ Bùi
Giáng
[3]cf.
Henry Miller, Sđd, tr. 96
[4]Hay cực
đại trở thành quy phạm nguyên tắc
Arthur
Schopenhauer
Nói về bút pháp
Giới thiệu - Arthur Schopenhauer chào đời tại Danzig ngày 22 tháng
hai năm 1887. Cha ông là một thương gia theo tư tưởng cấp tiến. Mẹ ông,
Johanna, là một người thông minh và là một tiểu thuyết gia thành công thời bấy
giờ.
Từ thuở nhỏ, Schopenhauer đã tỏ ra thông minh
khác thường. Ông theo cha trong những cuộc buôn bán ở ngoại quốc và tòng học
tại những nước đó. Ông bước vào thương trường tại Hamburg. Sau khi cha ông từ
trần, có lẽ tự tử, vào năm 1805, Schopenhauer lại tiếp tục đi học lại. Ông
khinh bỉ triết học của Fichte đang được giảng dậy tại đại học Berlin. Ông quyết
định lập một triết thuyết riêng.
Luận án tiến sĩ của ông, Về bốn
cội nguồn của nguyên tắc túc lý, được in năm 1813. Ông trở về sống với
mẹ tại Weimar, nơi ông được nhiều triết gia, trong số đó có Goethe, khuyến
khích.
Sau khi bất hòa với mẹ, Schopenhauer, tới
Dresden, chính tại đó, ông viết tác phẩm lớn nhất của ông Thế giới như
ý chí và ý tượng. Ông chủ trương rằng ý chí là nền tảng của vũ trụ và
ý chí tội lỗi tự căn bản. Bởi thế, cứu cánh của đời người là tiêu diệt ý chí
ấy. Tư tưởng Schopenhauer nhuốm mầu sắc Phật giáo và Vedanta. Ông hy vọng tác
phẩm của ông được chấp nhận ngay như một tác phẩm triết học quan trọng, cách
mạng. Trái với lòng mong mỏi ấy, Thế giới như ý chí và ý tượng, bị
người ta bỏ quên.
Schopenhauer bắt đầu diễn giảng tại đại học
Berlin từ 1820, nhưng ông cũng lại bị thất lạc trước triết học duy lý của Hegel
đang làm mưa làm gió tại đại học Berlin lúc đó. Từ năm 1822 tới năm 1831
Schopenhauer du lịch qua Ý, Thụy Sĩ. Lúc nào cũng chỉ có một mình. Cuối cùng,
năm 1831, ông hẳn tại Frankfurt – am – Main, nơi ông sống hoàn toàn trong cô
liêu. Ông mất tại Frankfurt ngảy 21 tháng chín năm 1860.
Có một khía cạnh trong cá tính và tư tưởng
Schopenhauer thường được liên tưởng tới mỗi khi tên ông được nhắc đến: bi quan.
Tuy nhiên, không có dụng ngữ nào khó dùng như chữ “bi quan”. Đôi khi, bi quan
triệt để lại chính là nguồn gốc của nỗi hân hoan cùng cực như Nietzsche, môn đệ
của Schopenhauer, đã chứng minh. Người ta ghê sợ, xa lánh, không muốn nói tới
ông không phải vì tính chất bi quan phi lý của ông nhiều cho bằng vì sự tàn bạo
của ông. Quả thực, ông là một người vô cùng tàn bạo. Không một người nào, ngay
cả Beethoven, lại có thể duy trì được cơn thịnh nộ hung bạo lâu đến như ông.
Khi Nietzsche tìm cách “Làm thế nào triết lý với một cây búa”, chúng ta phải
hiểu rằng, chính Schopenhauer đã cho Nietzsche mượn cái cán búa ấy.
Có một điểm mà tất cả những người đọc
Schopenhauer phải công nhận, dù họ thích triết lý của ông hay không, đó là sự
kiện Schopenhauer là một nhà văn tài ba. Sau Platon, trước Nietzsche và
Bergson, Schopenhauer là một triết gia có một bút pháp vô cùng quyến rũ, đến
nỗi chính Nietzsche, trong cuốn khảo luận Schopenhauer, nhà giáo dục (Schopenhauer
als Erzicher) trong bộ Những suy tưởng phi thời (Unzeil – gemmaisse
Betrachtungen) cũng phải nhìn nhận rằng: “Bút pháp của Schopenhauer
đôi khi khiến tôi nhớ đến bút pháp của Goethe, nhưng không nghĩ tới một mẫu mực
nào khác ở Đức. Vì ông biết nói một cách đơn giản những điều thật sâu xa, khiến
người ta cảm động mà không cần tu từ pháp, và diễn tả những chân lý hoàn toàn
có tính cách khoa học mà không thông thái rởm…”. Chỉ có bút pháp của Lessing và
Montaigne họa may mới có thể sánh được với ông.
Schopenhauer lên án những lối viết khoa trương
rỗng tuếch. Ông chỉ trích nặng nề những kẻ chuyên dùng đao to búa lớn; những
tên tiên tri thấu thị giả mạo, chuyên nói chuyện trên trời dưới bể, viết như có
thể hô phong hoán vũ, khạc ra lửa, mửa ra mật đen mật vàng ở trang trước để
rồi, ngay ở trang sau thôi, quỵ và lụy xuống những tình cảm yếu đuối, con người
(Schopenhauer’s Ausdruck erinnert mich hier und da ein wenig an Goethe, sonst
aber überhaupt nicht an deutsche Muster. Denn er versteht es, das Tiefsinnige
einfach, das Ergreifende ohne Rhetorik, das streng Wissenschaftliche ohne
Pedanterie zu sagen…), quá con người, kể lể dài dòng, mơn trớn rối rít đến thảm
bại, ca và ngợi mãi được lòng thương xót mà trong lòng chúng không có đến một
giọt. Ông lột mặt nạ một cách tàn nhẫn những kẻ bịp bợm chuyên dùng khiếm khí
giả, viết những câu, những chữ trừu tượng, khó hiểu để, thay vì diễn tả điều
mình muốn nói, lại che dấu đi, bởi trong thâm tâm, chúng biết rằng những điều
ấy quá tầm thường không hấp dẫn nổi ai: chúng sợ bị hiểu. Ông cũng không tha
thứ những tên ma giáo chỉ có ngoại kích mà thiếu nội công, chuyên dùng loạn
đao, chửi bới lung tung đập phá lung tung hay ca tụng lung tung, tâng bốc lung
tung thì cũng vậy, như một cách duy nhất để tiến thân.
Với tất cả những kẻ ấy, Schopenhauer cảnh báo
rằng:
Chỉ là mảnh vải thô chướng thôi, man trá đem lau
chùi hay bôi xóa những hoành phi câu đối vàng son mà hy vọng trở thành hoa gấm
ư? Hư vọng lắm thay! Mi sẽ rớt xuống như một tấm rẻ rách bẩn thỉu!
Hãy là mình, thẳng thắn nhìn nhận con người
mình, dù yếu đuối hay bất tài.
Hãy viết thành thực và một cách bình dị, tất cả
những điều mình thấy, biết, cảm nghiệm, dù xấu xa hay tầm thường.
Vì thành thực là bí quyết của một bút pháp hay
và đơn giản chính là yếu tính của thiên tài.
Bút pháp là diện mạo của tâm hồn và là dấu chỉ
tính tình bảo đảm hơn nét mặt. Bắt chước bút pháp của người khác chẳng khác nào
đeo mặt nạ, chẳng những không bao giờ đẹp đẽ hơn mà lại còn lập tức tạo ra sự
kinh tởm và gớm ghiếc, bởi vì nó vô sinh; đến nỗi ngay cả khuôn mặt xấu xí nhất
cũng vẫn còn hơn. Từ đó những kẻ nào viết bằng tiếng La Tanh và mô phỏng cách
viết của những tác giả cổ điển có thể bị coi như nói qua một cái mặt nạ; độc
giả, thực tế, nghe thấy họ nói gì nhưng không thể quan sát diện mạo họ; không
thể thấy bút pháp họ. Với những tác phẩm La Tanh của những tác
giả suy nghĩ cho mình, trường hợp lại khác hẳn, và bút pháp của họ biểu lộ; nhà
văn, tôi muốn nói tới những người không chịu hạ mình chấp nhận bất cứ một hình
thức bắt chước nào, như Scotus Erigena, Petrarch, Bacon, Descartes, Spinoza, và
nhiều người khác nữa. Sự làm bộ trong bút pháp giống như sự nhăn mặt. Hơn nữa,
ngôn ngữ trong đó nhà văn sử dụng còn là diện mạo của quốc gia ông ta; và từ
đây có nhiều sự sai biệt rõ rệt và dễ thấy ngay, bắt đầu từ ngôn ngữ của người
Hy Lạp tới ngôn ngữ của thổ dân đảo Caribbean.
Hình thành một sự thẩm định hẹp hòi về giá trị
của sáng tác phẩm của một nhà văn, không trực thiết bằng hiểu biết về đề tài mà
nhà văn đó suy tưởng, hay điều ông ta nói: việc đó bao hàm việc đọc toàn bộ tác
phẩm của ông ta. Đại để, hiểu ông ta suy tưởng cách nào là đủ rồi. Điều này,
nghĩa là tính tình chủ yếu hay tính chất đại cương của tâm trí ông ta, có thể
xác định rõ rệt bởi bút pháp của ông ta. Bút pháp một người cho ta thấy đặc
tính hình thái của toàn thể tư tưởng hắn – đặc tính tình thái không bao giờ
thay đổi, dù đề tài hay đặc chất của tư tưởng hắn có thể thế nào đi chăng nữa.
Nó như thể bột nhồi làm bánh mà mọi nội dung của tâm hồn hắn được nặn thành.
Khi được hỏi đi sang làng bên cạnh mất bao lâu, Eulenspiegel trả lời có vẻ phi
lý: Đi. Ông ta muốn tìm ra khoảng cách con người có thể đi
trong một thời gian chỉ định bằng cách đi của người ta. Tương tự như vậy, khi
tôi đọc vài trang của một tác giả, tôi biết rất rõ hắn có thể mang tôi đi xa
đến đâu.
Tất cả mọi nhà văn tầm thường đều cố gắng che
đậy bút pháp tự nhiên của chính mình, bởi vì trong thâm tâm, họ biết sự thật
của điều mà tôi đang nói đây. Thoạt tiên, họ bị bắt buộc phải chấm dứt bất cứ toan
tính muốn được thẳng thắn hay chân thật nào – một đặc ân chỉ dành cho những tâm
hồn siêu đẳng, ý thức về giá trị của chính mình và do đó tự tin nơi mình. Điều
tôi muốn nói là những nhà văn tầm thường tuyệt đối không thể quả quyết viết như
họ nghĩ, bởi vì họ cảm tưởng rằng, nếu họ làm vậy, tác phẩm của họ có thể sẽ
rất trẻ con và ngây ngô. Dầu sao, nó không phải là không có đôi chút giá trị.
Nếu họ bắt tay vào việc một cách lương thiện, và nói, một cách đơn giản những
điều họ suy nghĩ thực sự, và đúng y như họ nghĩ về chúng, những nhà văn này có
thể đọc được và trong phạm vi riêng của họ, còn có tác dụng giáo huấn nữa.
Nhưng thay vì thế, họ cố gắng làm cho độc giả
tin rằng tư tưởng của họ còn đi xa hơn thế rất nhiều và sâu xa hơn thực tế. Họ
nói điều phải nói bằng những câu dài quanh co ngoắt ngéo , câu thúc và thiếu tự
nhiên; họ đặt ra những chữ mới và viết những câu văn rườm rà đi vòng quanh,
vòng quanh ý tưởng và bao bọc nó trong một hình thức trá hình giả dối. Họ giao
động giữa hai mục đích khác hẳn nhau: thông tri điều họ muốn nói và che đậy nó.
Mục tiêu của họ là trang điểm nó để nó có vẻ trí thức hoặc sâu sắc, hầu cho độc
giả có cảm tưởng rằng trong đó nó chứa đựng nhiều hơn lúc mắt mới nhìn qua rất
nhiều. Hoặc họ ghi chép ý tưởng họ từng mảnh vụn một, tóm lại, những câu mơ hồ
và mâu thuẫn, bề ngoài có vẻ hàm ngụ nhiều ý nghĩa hơn họ nói – về lối viết
này, những bài luận thuyết về triết học tự nhiên của Schelling là một thí dụ
điển hình; hoặc họ diễn thuyết tràng giang đại hải và dài dòng không chịu nổi
như thể sự lê thê không dứt cần để độc giả hiểu ý nghĩa thâm trầm của câu văn
họ, trong khi nó có vẻ hơi ngây ngô nếu thực không phải là ý tưởng tầm thường
được lặp đi lặp lại, thí dụ về lối viết này có thể tìm thấy vô số trong những
tác phẩm phổ thông của Fichte, và trong những cuốn chuyên thư triết học của
hàng trăm tên khờ khạo đáng thương khác không đáng kể ra ở đây; hoặc, họ còn cố
gắng viết bằng một vài bút pháp đặc biệt mà họ say mê sử dụng và nghĩ rằng đó
một bút pháp cao siêu sâu sắc và khoa học tuyệt với, mà độc giả có thể bị giầy
vò tới chết đi được bởi hiệu quả ru ngủ của những câu cú dài lê thê không chứa
đựng một mảy may ý tưởng nào trong đó cả - như được cung cấp trong một phạm vi
đặc biệt bởi những con người trơ trẽn nhất trên đời, những môn đồ của Hegel;
hoặc có thể đó là một bút pháp trí thức mà họ cố gắng đạt tới, bút pháp trong
đó hình như đối tượng hoàn toàn phát điên; v.v… trong nhiều trường hợp khác.
Tất cả mọi bút pháp này cố gắng dời lại việc nascetur ridiculus mus (cố
gắng Thái Sơn đẻ ra con chuột nhắt) – tránh trình bầy cái sinh vật tí hon sinh
ra từ những nỗi thống khổ lớn lao này – thường làm cho người ta khó hiểu thực
sự chúng muốn nói gì. Và rồi, họ viết lia lịa có khi cả chục câu trọn vẹn, mà
không gắn bó một chút ý nghĩa nào vào đó cả, nhưng lại hy vọng rằng một số
người nào đó sẽ mọi móc từ đó ra được đôi chút ý nghĩa.
Và đâu là nền tảng của tất cả những thứ đó?
Không gì khác hơn là một cố gắng bán chữ cho tư tưởng không biết mệt, một lối
buôn bán luôn luôn cố gắng khai trương lại cho chính mình và những thành ngữ kỳ
cục, đảo câu và kết hợp đủ mọi kiểu, hoặc mới hoặc cũ trong một ý nghĩa mới, để
tạo ra một vẻ trí thức hầu thay thế cho cái cảm thức khiếm khuyết đớn đau.
Thú vị biết bao khi thấy những nhà văn nhằm đối
tượng này thử hết kiểu thức cầu kỳ này đến kiểu thức cầu kỳ khác như thể họ
đang đeo mặt nạ trí thức! Chiếc mặt nạ này có thể đánh lừa được kẻ thiếu kinh
nghiệm trong chốc lát, cho đến khi người thấy rõ nó là một vật chết, không có
chút sự sống nào trong đó cả; rồi nó bị chế giễu và được thay bằng cái khác.
Một tác giả thuộc loại này có lúc viết một cách sôi nổi như thể hắn đang say
sưa, nhưng có lúc, ngay trang sau thôi, hắn sẽ phách lối, nghiêm khắc, uyên bác
và luộm thuộm, ấp úng trong một cách nói luống cuống ngập ngừng nhất và chẻ sợi
tóc ra làm tư; giống như nhà văn quá cố Christian Wolf; chỉ trong bộ cánh tân
thời hơn thôi. Sống dai dẳng nhất là cái mặt nạ của sự khó hiểu; nhưng cái mặt
nạ này chỉ có Đức, nơi nó được du nhập vào bởi Fichte, được làm cho hoàn hảo
thêm bởi Schelling và được đưa lên tới chóp đỉnh trong tác phẩm của Hegel –
luôn luôn nó gặt hái được kết quả tốt đẹp nhất.
Tuy nhiên, không có gì dễ hơn là viết khiến cho
không ai hiểu gì cả, ngược lại, không có gì khó hơn là diễn tả những điều sâu
xa bằng một cách mà tất cả mọi người, từ ngu phu ngu phụ, đều nhất thiết phải
hiểu được. Tất cả mọi nghệ thuật và mánh lới tôi vừa kể trên trở thành vô dụng
nếu tác giả quả thật có chút đầu óc; vì điều đó cho phép hắn trình bầy con
người thực của hắn, và chứng thực cho mọi thời đại câu châm ngôn của Horace nói
rằng không ngoan là suối nguồn và khởi nguyên của bút pháp:
Scribendi recte sapere est el principium et
fons.
(Minh triết là khởi nguyên và nguồn gốc của văn hay)
Nhưng những tác giả tôi đã kể tên giống như một
số công nhân kim loại, thí nghiệm hàng trăm hợp kim để thay thế vàng – một kim
loại duy nhất không bao giờ thay thế được. Tệ hơn thế nữa, không gì khiến nhà
văn sơ hở hơn là cố gắng lộ liễu trưng bầy trí thức của mình hơn thực sự có;
bởi vì điều đó khiến độc giả nghi ngờ rằng hắn hiểu biết rất ít; vì bao giờ
cũng vậy, nếu một người làm bộ có bất cứ điều gì, thì y như rằng hắn khiếm
khuyết điều đó.
Đó là lý do tại sao chúng ta ca ngợi một nhà văn
khi nói rằng ông ta ngây thơ: điều đó có nghĩa rằng ông ta không cần trốn tránh
việc tự biểu lộ con người chân thật của ông ta. Nói chung, ngây thơ đồng nghĩa
với việc quyến rũ, trong khi thiếu tự nhiên nơi nào cũng bị cự tuyệt. Thực thế,
chúng ta thấy rằng bất cứ một nhà văn vĩ đại thực sự nào cũng cố gắng trình bầy
tư tưởng ông ta càng thuần khiết, minh bạch, xác đáng và gọn gàng bao nhiêu
càng hay bấy nhiêu. Sự đơn giản bao giờ cũng được coi như một dấu hiệu của sự
thật, nó còn là một dấu hiệu của thiên tài. Bút pháp nhận được vẻ đẹp từ câu
văn nó diễn tả; nhưng với những triết gia giả mạo, người tưởng rằng tư tưởng sở
dĩ đẹp là nhờ bút pháp. Bút pháp không là gì hết ngoài cái bóng của tư tưởng,
và một bút pháp tối tăm hay tồi tệ có nghĩa là một đầu óc trì độn hay rối loạn.
Vậy thì, qui luật thứ nhất cho một bút pháp hay,
là tác giả có điều gì để nói; hơn nữa; điều này, trong tự thể,
hầu như là tất cả những gì cần thiết. A, nó bao hàm biết bao ý nghĩa! Sự lơ là
với qui luật này là một nét căn bản của lối văn triết luận; và quả thực, của
toàn thể mọi thứ văn chương trầm tư mặc tưởng, của đất nước tôi, đặc biệt bắt
đầu từ Fichte. Tất cả những nhà văn này đều cho thấy họ muốn tỏ ra như thể họ
có điều gì để nói; trong khi họ chẳng có gì để nói cả. Lối viết lách kiểu này
được mang vào bởi những ngụy triết gia ở các Đại học đường và bây giờ nó thông
dụng khắp nơi, ngay cả trong đám danh sĩ số một của thời đại. Nó đẻ ra thứ văn
chải chuốt và mơ hồ, có vẻ hai nghĩa hay nhiều hơn nữa trong cùng một câu; nó
còn đẻ ra lối diễn tả lê thê và bừa bãi, gọi là style empesé; chưa
hết nó còn đẻ ra lối văn phí phạm vô ích tuôn chữ nghĩa ra như một trận lụt
lội; cuối cùng, nó đẻ ra một sự dối trá che đậy sự nghèo nàn ý tưởng đáng ghê
tởm nhất dưới hình thức một cuộc nói bá láp lộn xộn không bao giờ dứt, lè nhè
như chè thiu và hoàn toàn mê muội – chuyện cũ rích mà người ta có thể đọc hàng
giờ liền mà không thâu lượm được một mảy may ý tưởng diễn tả minh bạch và xác
định nào. Tuy nhiên, người ta thường dễ tính, và họ có thói quen đọc hết trang
này đến trang khác của mọi loại nhảm nhí dài dòng này mà không có bất cứ một ý
niệm đặc biệt nào về điều tác giả thực sự muốn nói. Họ say mê nói đúng như số
phận nó, và không khám phá ra rằng tác giả đó viết chỉ để mà viết.
Ngược lại, một nhà văn có tài, ý tưởng phong
phú, chẳng bao lâu sẽ khiến độc giả của mình tin tưởng rằng, khi ông ta viết,
thì thực sự và đúng là ông ta có điều gì muốn nói; và điều đó
khiến cho độc giả thông minh đủ kiên nhẫn chăm chú theo dõi ông ta. Một tác giả
như vậy, chỉ bởi vì quả thực ông ta có điều gì để nói, không bao giờ thất bại
trong việc diễn tả mình bằng một cách đơn giản nhất và thẳng thắn nhất, bởi vì
mục đích của ông không ta ngoài việc đánh thức chính cái ý tưởng tương tự trong
độc giả mà ông mang trong mình. Bởi thế ông ta có thể khẳng định cùng với
Boileau rằng tư tưởng ông ta ở khắp nơi mở phơi ra ánh sáng thanh thiên bạch
nhật, và thi ca ông ta luôn luôn nói lên một điều gì; mặc dầu nó nói hay dở:
Ma pensée au grand jour partout s’offre et
s’expose.
Et mon vers, bien ou mal, dit toujours
quelque chose.
Trong khi về những nhà văn đã nói trên, ta có
thể quả quyết vẫn bằng ngôn ngữ của nhà thơ đó, rằng họ nói nhiều mà kỳ thực
chẳng bao giờ nói điều gì cả - qui parlant beaucoup ne disent jamais
rien.
Một đặc tính khác của những nhà văn này là họ
luôn luôn tránh phán quyết xác định bất cứ nơi nào họ có thể làm, hầu chừa sẵn
một lối thoát trong trường hợp, cần thiết. Vì thế họ chẳng bao giờ sao nhãng
việc chọn lựa lối diễn tả trừu tượng hơn; trong khi đó người
thông minh sử dụng lối cụ thể hơn, bởi vì cách sau mang sự việc vào sâu hơn
trong lãnh vực biểu thị thực tại, suối nguồn của tất cả mọi minh nhiên.
Có nhiều thí dụ chứng tỏ sự yêu chuộng cách diễn
tả trừu tượng này; và ta có một thí dụ đặc biệt lố bịch là việc dùng động
tự tạo điều kiện trong ý nghĩa gây ra hay tạo
ra mang lại. Người ta tạo điều kiện cho việc gì thay vì gây
ra nó, bởi vì khi trừu tượng và bất định nó nói ít; nó khẳng định rằng
A không thể xẩy ra nếu không có B, thay vì A được tạo ra bởi B. Một cái cửa hậu
bao giờ cũng mở ngỏ; và cái cửa đó thích hợp với những người mà sự ngầm biết về
sự bất tài của mình khiến họ thường trực kinh sợ mọi phán quyết xác định; trong
khi với người khác nó chỉ là hiệu quả của khuynh hướng, theo đó, mọi cái ngu
ngốc trong văn chương hay tồi tệ trong cuộc đời được mô phỏng ngay tức khắc –
một sự kiện chứng minh trong trường hợp này hay trường hợp khác, bằng cách
trong đó nó có trải ra nhanh chóng. Người Anh dùng phán đoán của chính mình
trong bất cứ điều gì hắn viết cũng như trong bất cứ việc gì hắn làm; nhưng
không có nước nào mà tán từ học lại kém thành thực như của nước Đức. Hậu quả là
chữ nguyên nhân ngày xưa hầu như biến mất trong ngôn ngữ văn
chương, và người ta chỉ nói tới điều kiện. Sự kiện này đáng
được nêu ra bởi vì nó đặc biệt lố bịch.
Chính sự kiện những nhà văn tầm thường này không
bao giờ có quá bán ý thức khi họ viết đủ giải thích sự trầm trệ của tâm trí và
những cái tẻ ngắt họ tạo ra. Tôi nói họ chỉ có bán phần ý thức, bởi lẽ chính họ
không thực sự hiểu ý nghĩa những chữ họ sử dụng: họ cóp nhặt những chữ làm sẵn
và ghi sâu vào trí nhớ. Từ đó khi họ viết, những chữ họ kết hợp lại với nhau
không nhiều bằng những câu nguyên – phrases banales. Điều đó
giải thích cho sự khiếm khuyết tư tưởng diễn tả minh bạch sờ sờ kia trong điều
họ nói. Sự thực là họ không có con mộc để đóng cái dấu triện đó lên điều họ
viết: tư tưởng minh bạch riêng tư chính là cái họ không có. Và chúng ta tìm
thấy gì trong chỗ đáng lẽ là của ý tưởng ấy? – một sự trộn lẫn chữ nghĩa mơ hồ,
bí hiểm, những câu thông dụng, những từ ngữ lặp lại, những thành ngữ hợp thời
trang. Kết quả là cái chất liệu tối mù họ viết giống như một trang sách in bằng
những rất cũ.
Ngược lại, một tác giả thông minh thực sự nói
với chúng ta khi họ viết, và đó là lý do tại sao họ có thể khiến chúng ta thích
thú và đàm đạo với chúng ta. Đây chỉ tác giả thông minh mới có thể kết hợp
những chữ đơn lại với nhau với một ý thức trọn vẹn về ý nghĩa của chúng, và lựa
chọn chúng với một sự chủ định chín chắn. Do đó, luận văn của ông ta đứng vào
chỗ nhà văn đã tả trên, giống như một bức tranh được vẽ thực sự, nhiều hơn là
bức hình được tạo ra bởi miếng kim loại đục lỗ theo hình họ muốn in ra. Trong
trường hợp này, mỗi chữ, mỗi nét cọ, đều có một mục đích đặc biệt; trong trường
hợp kia, tất cả đều được làm một cách máy móc. Cùng một sự phân biệt tương tự
có thể thấy trong âm nhạc. Cũng như Lichtenberg nói rằng tâm hồn Garrick hình
như ở trong thân thể ông ta, cũng vậy vô sở bất tại tính của tinh thần luôn
luôn và ở khắp nơi biểu thị chân tướng tác phẩm của thiên tài.
Tôi đã ám chỉ tính chất tẻ ngắt đánh dấu tác
phẩm của những nhà văn này, và trong mối liên quan đó, chúng ta nhận thấy đại
để, sự tẻ ngắt gồm có hai loại: khách quan và chủ quan. Một tác phẩm tẻ ngắt
một cách khách quan khi nó chứa đựng sự khiếm khuyết trong vấn đề; nghĩa là,
khi tác giả của nó không có ý tưởng minh bạch toàn bích hay hiểu biết để truyền
đạt. Vì nếu một người có bất cứ ý tưởng minh bạch hay hiểu biết nào, mục tiêu
của hắn sẽ là truyền đạt nó và hắn sẽ điều khiển những năng lực của hắn tới mục
đích ấy; đến nỗi những ý tưởng mà hắn đem lại đều được diễn tả một cách sáng
sủa ở mọi chỗ. Kết quả là hắn không rườm rà, không vô nghĩa cũng chẳng lộn xộn,
và do đó, không tẻ nhạt. Trong trường hợp này, ngay cả dầu cho tác giả sai lầm
tại căn đề, sự sai lầm ấy, dầu sao cũng được thi hành minh bạch và suy nghĩ
thấu đáo, đến nỗi ít ra nó cũng đúng về phương diện hình thức; và vì thế tác
phẩm cũng bao hàm đôi chú giá trị. Nhưng cũng chính vì lý do đó, một tác phẩm
tẻ ngắt về phương diện khách quan, không có bất cứ một chút giá trị nào cả.
Thứ tẻ ngắt kia chỉ có tính cách tương đối: một
độc giả có thể thấy một tác phẩm buồn tẻ hơn bởi vì hắn không thấy thích thú
vấn đề được đề cập tới trong đó, và điều ấy có nghĩa là tri thức của hắn bị
giới hạn. Do đó, một kiệt tác có thể tẻ ngắt một cách chủ quan, tẻ ngắt, tôi
muốn nói cho một cá nhân này hay một cá nhân kia; cũng như thế, ngược lại, một
tác phẩm tệ nhất cũng có thể lôi cuốn một chủ quan một cá nhân này hay một cá
nhân khác, thích thú với vấn đề được đề cập tới trong đó, hay với tác giả cuốn
sách.
Đại để nó có thể giúp nhà văn một cách đắc lực
nếu họ có thể thấy rằng, trong khi một người, nếu có thể, suy nghĩ như một
thiên tài lớn, hắn lại nói phải cùng một ngôn ngữ như bất cứ một người nào
khác. Tác giả phải dùng những tiếng thông thường để nói về những điều khác
thường. Nhưng họ lại làm ngược lại. Chúng ta thấy họ cố gắng bao bọc những ý
tưởng tầm thường bằng những danh từ đao to búa lớn, và che đậy những tư tưởng
vô cùng bình thường bằng những câu phi thường nhất, bằng những cách diễn tả xa
lạ nhất, thiếu tự nhiên nhất và lạ thường. Câu văn của họ vĩnh viễn kênh kiệu
như đi trên cà kheo. Họ vô cùng mê luyến sự khoa trương và viết bằng một bút
pháp dài lê thê, rỗng tuếch, cầu kỳ chải chuốt, thùng rỗng kêu to và leo dây
múa rồi đến độ kiểu mẫu đầu tiên của họ phải là Ancient Pistol; người có lần đã
bị bạn là Falstaff gắt lên bảo hắn hãy nói điều hắn phải nói như tất cả mọi
người trên thế gian [1] này.
Không có một từ ngữ nào trong bất cứ một ngôn
ngữ nào có thể tương ứng với từ ngữ style empesé của Pháp;
nhưng thực tại đó tự nó hiện hữu khắp nơi. Khi vướng vào sự kiểu cách cầu kỳ,
thì trong văn chương nẩy sinh ra cái mà sự kẻ cả và lên mặt nghiêm trang đứng
đắn trong xã hội và đều không thể tha thứ được như nhau. Sự tẻ ngắt của trí óc
thích mặc bộ cánh này giống như trong đời sống bình thường chính bọn ngốc là
bọn thích đoan trang và kiểu cách.
Một tác giả viết bằng bút pháp nghiêm nghị giống
như người ăn mặc đồ lớn để tránh khỏi bị đặt lên cùng bình diện với đám đông –
một việc mà không bao giờ một nhà quí phái làm, dù trong bộ quần áo tồi tệ nhất
của ý. Kẻ hạ lưu có thể bị người ta nhận ra bởi quần áo phô trương lòe loẹt và
bởi ước mong muốn có tất cả một sự ngăn nắp và sạch như li như lau; tương tự
cách đó, người tầm thường bị tố giác bởi bút pháp của hắn.
Tuy nhiên, một tác giả đuổi theo một mục đích
sai lầm khi cố gắng viết đúng hết như hắn nói. Không có bút pháp viết lách
nhưng phải có dấu vết nào đó của liên hệ thân tộc với kiểu kiến trúc bia mộ,
quả thực là tổ tiên của mọi bút pháp. Vì một tác giả viết như hắn nói cũng đáng
trách bị hệt như mắc phải lỗi lầm ngược lại, là nói như hắn viết, vì điều đó
mang lại cho điều hắn nói một tác dụng mô phạm, và đồng thời khiến hắn trở nên
khó hiểu.
Một cách diễn tả tối tăm và mơ hồ luôn luôn và ở
khắp mọi nơi là một dấu hiệu vô cùng xấu. Trong chín mươi chín phần trăm trường
hợp nó bắt nguồn tự sự mơ hồ của tư tưởng; và lại một lần nữa điều đó hầu như
bao giờ cũng có nghĩa rằng có một cái gì triệt để sai lầm và bất ổn về chính tư
tưởng – tắt một lời, tư tưởng sai lầm. Khi một ý tưởng đúng đắn khởi lên tâm
trí, nó gắng sức đạt tới cách diễn tả và nó không mất nhiều thì giờ đạt tới
điều đó, vì ý tưởng minh bạch dễ dàng tìm thấy chữ thích hợp với nó. Nếu một
người có thể suy nghĩ về bất cứ điều gì, thì bao giờ hắn cũng có thể diễn tả nó
bằng những từ ngữ trong sáng, dễ hiểu và khúc chiết . Những nhà văn nào tạo ra
những câu văn khó hiểu, tối tăm, rắc rối và mơ hồ đa số chắc chắn không hiểu
đúng điều họ muốn nói là điều gì: họ chỉ một ý thức mờ tối về điều đó, điều
đang còn ở trong giai đoạn tranh đấu để định hình là tư tưởng. Quả thực, họ
thường có ước muốn giấu chính họ và những người khác rằng, thực tình, họ chẳng
có gì để nói cả. Họ muốn tỏ ra hiểu biết điều họ không biết, suy nghĩ điều họ
không nghĩ. Nếu một người có điều cần phải truyền đạt thực sự, hắn chọn cách
diễn tả nào – một cách diễn tả mập mờ hay một cách minh bạch? Ngay cả
Quintilian cũng phải nhận thấy rằng những điều người học thức cao nói ra thường
dễ hiểu và sáng sủa; và một người học thức càng thấp kém bao nhiêu, viết lách
càng tăm tối bấy nhiêu – plerumque accidit ut faciliora sint ad
intelligendum et lucdiora multo quae a doctissimo quoque dicuntur… Erit ergo
etiam obscurior quo quisque deterior.
Tác giả phải tránh những câu bí hiểm; hắn phải
biết rằng hoặc hắn muốn nói một điều gì hoặc hắn không muốn nói điều đó. Chính
sự do dự này khiến bút pháp của biết bao nhà văn trở nên lạt lẽo vô vị. Trường
hợp duy nhất cung hiến một luật trừ cho luật lệ này phát khởi khi cần phải nêu
ra một ghi nhận, mà một cách nào đó, không phải thích đáng.
Vì sự phóng đại thường tạo ra một hiệu quả trái
ngược với hiệu quả người ta nhắm đến, nên lời, thực tế , dùng để làm cho ý hẳn
trở nên dễ hiểu – nhưng chỉ đến một mức độ nào đó thôi. Nếu lời chồng chất lên
nó, ý trở lại thành càng ngày càng tối tăm thêm. Tìm kiếm xem mức độ nằm ở đâu
là vấn đề của khả năng phê bình; vì một chữ thừa luôn luôn làm hỏng mục tiêu.
Đó chính là điều Voltaire muốn nói khi ông phát biểu rằng tĩnh từ là kẻ
thù của danh từ. Nhưng, như chúng ta đã thấy, đa số cố gắng che đậy sự
nghèo nàn của ý tưởng mình dưới câu văn dài giòng tràng giang đại hải.
Chiếu theo đó chúng ta, hãy tránh mọi sự rườm
rà, đồng thời hãy luôn luôn ghi nhớ nhận xét: điều đó vô nghĩa không đáng đọc.
Một nhà văn phải tiết kiệm thì giờ, lòng kiên nhẫn, sự chú ý của độc giả hầu
như độc giả tới ngay chỗ tin tưởng rằng tác giả của mình viết cái đáng nghiên
cứu cẩn thận và thời gian dùng vào việc đó sẽ được đền bù. Lược bỏ một vài điểm
hay ho nào đó bao giờ cũng tốt hơn thêm thắt điều không đáng nói chút nào. Đó
là chúng ta áp dụng đúng phương châm của Hesiod: pleon hemisy pan
tos [2] – một
nửa tốt hơn toàn thể. Le secret pour être ennuyeux, c’est de tout dire
(Bí quyết để trở nên tẻ ngắt là nói tất cả). Do đó, nếu có thể, chỉ nói cái cốt
yếu thôi! Chỉ có tư tưởng dẫn dạo thôi! Không nên nói điều gì độc giả có thể tự
suy nghĩ được.
Dùng nhiều lời để truyền đạt ít ý là dấu hiệu
không thể lầm lẫn được của tầm thường ở khắp nơi. Thâu tóm nhiều ý trong ít lời
đánh dấu thiên tài.
Chân lý đẹp nhất khi trần truồng và ấn tượng nó
tạo ra càng sâu sắc nêu sự diễn tả của nó càng đơn giản. Được vậy một phần bởi
nó thu nhiếp trọn vẹn tâm hồn người nghe không trắc trở, và không để cho hắn
những tư tưởng phụ làm hắn đãng trí, một phần, cũng bởi tại hắn cảm thấy ở đây
hắn không bị sa đọa hay lường gạt bởi tu từ pháp, nhưng mọi hiệu quả của những
gì được nói đến phát khởi từ chính sự việc. Chẳng hạn, có lời phát biểu nào về tính
cách phù hoa của kiếp nhân sinh khéo nói hơn những lời của Job? “Con người sinh
ra từ một người nữ, chỉ có một thời gian ngắn để cuộc sống đầy cơ cực. Nó vươn
lên rồi bị hạ xuống, như một bông hoa; nó vụt lao nhanh như bóng tối, và chẳng
bao giờ ở lâu tại một chỗ.”
Cũng chính vì lý do đó, thi ca hồn nhiên của
Goethe vĩ đại vô song so với tu từ thi pháp của Schiller. Và cũng lại chính lý
do đó khiến nhiều bài dân ca vô cùng cảm động Cũng như trong ngành kiến trúc,
cách mạng trí thái quá cần phải tránh, cũng vậy trong nghệ thuật văn chương một
nhà văn phải phòng ngừa mọi tinh luyện tu từ học, mọi phóng đại vô ích, mọi
tính cách thừa thãi của cách diễn tả nói chung, tắt một lời, hắn phải gắng sức
đạt tới sự bình dị của bút pháp. Tất cả mọi chữ có thể bớt đi đều gây tổn hại
đến nó, được giữ lại. Luật đơn giản và hồn nhiên vẫn còn hiệu lực trong mọi bộ
môn kỹ thuật, bởi vì rất có thể đơn giản đồng thời phi phàm.
Tính chất vắn tắt đích thực của cách diễn tả ở
khắp nơi hệ tại việc chỉ nói cái gì đáng nói và tránh những chi tiết tẻ nhạt mà
bất cứ người nào cũng có thể tự cung cấp lấy cho mình. Điều đó liên can tới sự
biện biệt đúng đắn giữa cái cần thiết và cái thừa thãi vô ích. Một nhà văn
không bao giờ được vắn tắt mà thiếu sáng sủa, không được nói điều gì ngoài điều
hợp văn phạm. Nó cho thấy khuyết điểm phán đoán đáng tiếc làm muội lược cách
diễn tả của một tư tưởng hay làm còi cọc ý nghĩa của một nguyên câu, để phục vụ
cho việc dùng ít chứ hơn mức cần thiết. Nhưng đó chính là cố gắng của sự vắn
tắt giả tạo rất thịnh hành ngày nay, diễn tiến bằng cách gạt bỏ những chữ ích
dụng và ngay cả bằng cách hy sinh văn phạm và luân lý. Không những những nhà
văn đó tiết kiệm một chữ bằng cách biến một động từ hay một tĩnh từ đơn giữ
chức vụ của một số nguyên câu khác nhau, đến nỗi có thể nói độc giả, phải sờ
soạn lần mò tìm đường qua chúng trong bóng tối; họ còn thực hành, trong nhiều
phương diện khác, một số sự tiết kiệm ngôn từ không thích đáng trong nỗ lực
thực hiện cái mà một cách điên cuồng họ cho là sự diễn tả vắn tắt và bút pháp
gọn ghẽ minh bạch. Trong khi gạt bỏ cái đáng lẽ mang lại ánh sáng trên toàn thể
câu văn, họ chuyển nó thành một câu đố hắc búa mà độc giả phải ráng giải đáp
bằng cách đọc đi đọc lại mãi.
Chính sự phong phú và sức nặng của tư tưởng chứ
không phải điều gì khác mang lại sự vắn tắt cho bút pháp, và khiến nó gẫy gọn
nhiều ý nghĩa. Nếu ý tưởng của nhà văn quan trọng, sáng sủa, và thường thường
đáng truyền đạt, những ý tưởng ấy cần được cung cấp đầy đủ vật liệu để tạo
thành những nguyên nhân dồi dào cho ý tưởng biểu lộ và khiến tất cả những câu
này trong mọi phần vừa hợp văn phạm và đầy đủ về phương diện từ ngữ; và đây là
phần lớn những trường hợp mà người ta không bao giờ thấy chúng giả dối trống
rỗng hay yếu đuối. Cách chọn lời chỗ nào cũng sẽ vắn tắt và hàm xúc, và cho
phép ý tưởng tìm được lối diễn tả sáng sủa dễ dàng, lại còn phơi bầy và chuyển
vận duyên dáng uyển chuyển.
Do đó thay vì thâu ngắn từ ngữ và những hình
thức ngôn từ, hãy để nhà văn trải rộng ý tưởng của hắn.
Nếu một người gầy mòn vì bệnh tật và thấy quần
áo mình quá rộng, thì không phải hắn phải làm cho chúng vừa vặn như trước bằng
cách cắt bớt đi, nhưng bằng cách phục hồi lại tính trạng thân thể bình thường.
Ở đây tôi xin nêu ra sự sai lầm của bút pháp,
rất thịnh hành ngày nay, và, trong tình trạng sa đọa của văn chương và xao lãng
cổ ngữ, luôn luôn càng ngày càng gia tăng; tôi muốn nói tính cách chủ
quan. Một nhà văn phạm phải lỗi lầm này khi hắn nghĩ rằng chính mình
hắn biết hắn nói gì và điều hắn muốn nói là đủ và không thèm đếm xỉa gì đến độc
giả, muốn dẫn dắt độc giả đi đến đâu cũng được. Như thế chẳng khác nào như thể
tác giả đang độc thoại, trong khi đáng lẽ phải là một cuộc đối thoại; và dù là
một cuộc đối thoại đi chăng nữa, hẵn cũng phải diễn tả mình hết sức minh bạch
như thế hắn không thể nghe những câu hỏi của người đối thoại.
Chính vì lý do đó, bút pháp không được chủ quan
mà phải khách quan, và bút pháp sẽ không khách quan trừ phi
chữ được xếp đặt cách nào để chúng trực tiếp cưỡng bách độc giả phải suy nghĩ
cùng một điều đúng như tác giả nghĩ khi hắn viết chúng. Kết quả này cũng chẳng
thể đạt tới trừ phi tác giả luôn luôn thận trọng nhớ rằng tư tưởng tuân theo
luật trọng lực nhiều đến nỗi nó đi từ đầu óc xuống giấy dễ dàng hơn từ giấy lên
tới đầu óc rất nhiều; bởi thế hắn phải trợ lực cho cuộc hành trình sau bằng mọi
phương tiện trong khả năng của hắn. Nếu hắn làm như vậy, chữ viết của một nhà
văn sẽ có một hiệu lực thuần túy khách quan, như hiệu lực của một bức tranh sơn
dầu hoàn mỹ; trong khi bút pháp chủ quan không chắc chắn có tác dụng được như
những chấm đen trên tường, chỉ trông giống những bức hình bởi kẻ nào mà ngẫu
nhiên chúng khêu gợi lên được một ảo tưởng, những người khác không thấy gì
ngoài những chấm đen lem luốc. Sự khác biệt trên áp dụng cho toàn thể phương
pháp văn chương; nhưng nó cũng thường được thiết định bởi những trường hợp đặc
thù. Chẳng hạn trong tác phẩm mới ấn hành gần đây tôi tìm thấy câu sau: “Tôi
không viết để gia tăng con số những cuốn sách hiện đang có”. Điều này có nghĩa
khác hẳn điều nhà văn muốn nói và đồng thời vô nghĩa.
Kẻ nào viết một cách cẩu thả, kể đó thú nhận
ngay từ đầu rằng hắn chẳng chú trọng bao nhiêu tới chính tư tưởng hắn. Bởi vì
chỉ nơi nào một người tin chắc vào chân lý và tầm quan trọng của những ý tưởng
mình hắn mới cảm nhận thấy sự say sưa thiết yếu cho nỗ lực siêng năng và không
biết mệt để tìm cách sáng sủa nhất, tao nhã nhất và mãnh liệt nhất, như phải
tìm ra rương bạc hay vàng để cất những thánh tính hoặc những tác phẩm nghệ
thuật vô giá. Chính cảm thức này đã đưa những tác giả thượng cổ, nhưng người mà
tư tưởng, được diễn tả trong chính chữ của họ, đã trường cửu muôn ngàn năm, dầu
phải mang nhãn hiệu cổ điển, tới chỗ viết một cách thận trọng.
Quả thực Platon, như người ta nói, đã viết phần giới thiệu cuốn Cộng
Hòa của ông hơn bẩy lần bằng nhiều lối khác nhau.
Cũng như sự ăn mặc cẩu thả tố cáo sự khiếm nhã
đối với người bạn ta gặp, cũng vậy một bút pháp khinh suất, vô ý, tồi tệ cho
thấy một thái độ thiếu tôn kính đối với độc giả, người này trừng phạt tức thì
bằng cách từ chối không đọc cuốn sách. Thật tức cười khi thấy những ký giả tạp
chí chỉ trích tác phẩm của người khác bằng bút pháp cẩu thả nhất của họ - bút
pháp của một kẻ viết mướn. Như thể một ông quan tòa ra trước pháp đình trong
tấm áo choàng và dép đi trong nhà! Nếu thoạt tiên tôi cảm thấy đôi chút do dự
không muốn nói chuyện với một người khi thấy hắn ăn mặc bê bối và dơ dáy, thì
khi cầm một cuốn sách mà tôi nhận thấy ngay bút pháp cẩu thả, tôi sẽ gạt nó đi.
Văn hay phải tuân theo qui luật sau đây là trong
một lúc, một người chỉ có thể suy nghĩ sáng suốt về một điều mà thôi, và do đó,
người ta không nên mong đợi hắn suy nghĩ về hai điều hoặc có khi nhiều điều hơn
nữa trong cùng và đồng thời một lúc. Nhưng điều này chính là điều xẩy ra khi
một nhà văn phá vỡ câu chính thành những phần nhỏ với mục đích lấp đầy những
khoảng trống như thế tạo ra hai hay ba ý tưởng bằng cách dùng những ngoặc đơn,
do đó, làm rối đầu óc người đọc một cách không cần thiết và vô cớ. Và chính lỗi
này đồng bào của tôi mắc phải nhiều nhất. Đức ngữ thích hợp với lối viết này
nhưng không thể biện minh cho nó. Không có thể văn xuôi nào dễ đọc hơn hoặc thú
vị hơn Pháp văn, vì như một quy luật, Pháp văn thoát khỏi lỗi lầm trên. Người
Pháp hết sức bó kết ý tưởng của họ lại với nhau, theo một trật tự hợp luân lý
và tự nhiên nhất và bởi thế lần lượt đặt chúng trước độc giả thuận tiện cho sự
xét đoán, khiến cho mỗi một ý tưởng có thể nhận được sự chú ý không phân hóa.
Người Đức, ngược lại, đan bện chúng lại với nhau trong câu văn mà hắn vặn vẹo
và bắt chéo , bắt chéo và vặn vẹo nữa; bởi hắn muốn nói mươi mười ý tưởng thay
vì tuần tự ý tưởng nọ kế tiếp ý tưởng kia. Mục đích của hắn phải là thu hút và
nắm giữ sự chú ý của độc giả; nhưng lơ là với mục đích này, hắn yêu cầu người
đọc cho hắn thách thức qui luật kể trên và suy nghĩ ba bốn ý tưởng khác nhau
cùng một lúc; mà, vì điều đó không thể được, mà mỗi một ý tưởng của hắn sẽ
thành công nhanh chóng như sự rung động của giây đàn. Bằng cách này một tác giả
đặt nền móng cho style empesé của hắn, bút pháp được đem tới chỗ thành công bởi
việc sử dụng những cách diễn tả rườm rà, hào nhoáng để truyền đạt những điều
đơn giản nhất, và những xảo thuật tương tự.
Trong những câu dài lê thê đầy rẫy ngoặc đơn
ngoặc kép đó, tựa một cái hộp có nhiều hộp con, cái nọ lồng trong cái kia và
được nhồi nhét như một con ngỗng nhồi đầy táo, chính trí nhớ phải làm việc cực
nhọc nhất; trong khi trí thông minh và óc phán đoán thay vì cần phải được vận
dụng, lại vì lẽ đó mà bị ngăn trở và làm muội lược đi. Loại câu này chỉ cung cấp
cho độc giả những bán câu, đòi hỏi độc giả thu nhận cẩn thận và tàng trữ trong
ký ức, như thể chúng ta là những mảnh vụn của một lá thư rách nát sau đó phải
được bổ túc và làm cho lọn nghĩa bởi những bán câu khác mà chúng hỗ tương phụ
thuộc. Người ta yêu cầu hắn tiếp tục đọc thêm chút nữa mà không vận dụng bất cứ
tư tưởng nào, mà chỉ vận dụng có trí nhớ của hắn, với hy vọng rằng, khi hắn đọc
đến hết câu, hắn có thể thấy ý nghĩa của nó và do đó nó nhận được điều gì để
suy tưởng; và vì thế hắn được trao cho rất nhiều điều để học thuộc lòng trước
khi thâu lượm được dăm ba điều để lãnh hội. Điều đó sai lầm rõ rệt và là một sự
lạm dụng tính kiên nhẫn của độc giả.
Chắc chắn nhà văn tầm thường ưa chuộng bút pháp
này bởi vì nó khiến độc giả mất thì giờ và bối rối trong việc lãnh hội điều lẽ
ra hắn hiểu trong giây lát không cần suy nghĩ; và nó khiến cho tác giả dường
như có vẻ sâu sắc và thông minh hơn độc giả nhiều. Quả thực đó là một trong
những xảo thuật đã nói trên; xảo thuật theo đó những tác giả tồi cố gắng che
đậy vẻ nghèo nàn ý tưởng của họ và cho thấy một bề ngoài ngược lại một cách vô
thức và dường như bởi bản năng. Sự ngây thơ ở đây thật đáng ngạc nhiên.
Hiển nhiên ngược lại với mọi lương tri khi đặt
một ý tưởng tà vạy lên trên một ý tưởng khác, như thể cả hai ý tưởng cùng họp
thành một cây thập tự gỗ. Nhưng điều này được thể hiện nơi nào một nhà văn ngắt
điều hắn đã bắt đầu nói với mục đích xen vào một vài yếu tố không quan hệ, do
đó đặt độc giả trước một bán câu vô nghĩa và buộc độc giả giữ nó cho đến khi
nào phần bổ túc đến. Nó cũng như thể một người trao những thực khách của mình
một cái đĩa không với hy vọng có một cái gì sẽ hiện ra trong đó. Và những dấu
phết được dùng cho một mục đích tương tự thuộc về cùng một gia đình như những
ghi chú ở cuối trang và những dấu ngoặc ở giữa bản văn, đúng hơn, cả ba chỉ
khác nhau về mực độ? Nếu thảng hoặc Demosthenes và Cicero có thêm chữ vào bằng
cách dùng những dấu ngoặc, có lẽ tốt hơn họ nên nhắc lại.
Nhưng bút pháp của lối văn này trở nên phi lý
cùng độ khi những dấu ngoặckhông những lồng vào khuôn khổ câu văn mà còn chêm
vào để phá tan nó ra từng mảnh nữa. Nếu ngắt lời người khác là một điều hỗn
xược thì ngắt lời mình cũng là một điều hỗn xược và không thích đáng không kém.
Nhưng tất cả những nhà văn tồi, cẩu thả và hấp tấp, bôi bác nguệch ngoạc với
hình ảnh cơm áo trước mắt, dùng sáu bẩy lần bút pháp của lối văn này trong một
trang mà còn thích thú vì điều đó. Nó hệ tại việc – nên nêu ra nguyên tắc và
thí dụ kèm theo bất cứ nơi nào có thể phá vỡ cơ cấu một câu văn để dính vào câu
khác. Không những chỉ vì lười biếng họ viết như thế. Họ còn làm vậy vì ngu
ngốc; họ tưởng điều đó một vẻ légèreté quyến rũ” [3]; họ tưởng rằng nó đem
lại sự linh động cho điều họ nói. Chắc chắn có rất ít trường hợp mà lối văn này
có thể miễn thứ được.
Ít người viết theo lối một kiến trúc sư xây nhà
cửa, người này trước khi bắt tay vào việc, phác họa đồ hình và nghĩ tới nghĩ
lui tới những chi tiết nhỏ nhặt nhất. Còn đa số chỉ viết như để họ chơi domino
và, cũng như trong trò chơi này, quân được xếp đặt một nửa bởi sự trù tính, một
nửa bởi tình cờ; sự phối hợp và nối kết câu cú của họ cũng vậy. Họ chỉ có một ý
niệm về hình thức tổng quát các tác phẩm họ sau này, và về mục đích mà họ đặt
ra trước mình. Nhiều người còn không biết tới cả điều đó, và viết như những con
sâu san hô chồng chất; nguyên câu tiếp nối nguyên câu và chỉ có trời mới biết
tác giả muốn gì.
Ngày nay cuộc sống lao nhanh; và sự kiện đó tác
động trên văn chương bằng cách khiến nó trở nên cực kỳ hời hợt và luộm thuộm.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét