Thứ Bảy, 31 tháng 7, 2021

Thâm Tâm - Một thời và mãi mãi

Thâm Tâm - Một thời và mãi mãi

Có một cách hình dung về đội ngũ những người sáng tạo văn học, căn cứ vào mức độ gắn bó với nghề ta có thể chia làm hai loại: Một, những người nếu không viết họ vẫn sống được, họ có thể bỏ bút đi làm nghề khác, ừ thì cũng có một chút lưu luyến nào đó với nghề, nhưng mà văn chương chẳng phải là… tất cả, cuộc đời còn có những thú vị khác hơn; và hai, những người nếu không viết thì không thể sống nổi,  hiểu theo nghĩa cụ thể, vật chất, và cả với nghĩa tinh thần của nó. Không sống nổi bởi vì, nếu không viết văn thì họ chẳng biết làm gì, họ không có cái khả năng mưu sinh bằng những nghề khác, họ không thạo đi giữa cuộc đời. Không sống nổi bởi vì cái đam mê văn chương như là định mệnh, nó cứ ám anh suốt đời. Có lúc rơi vào chán nản, muốn vứt hết chữ nghĩa văn chương đi, nhưng rồi bất ngờ nó lại hiện về, nó rủ rê quyến rũ anh, anh lại vồ lấy bút, lại đêm đêm độc lực viết như thiêu thân, viết như hành xác, viết đến lao lực… Nhà văn Thâm Tâm thuộc trường hợp thứ hai, nghĩa là Thâm Tâm sinh ra để làm nghệ sĩ. Như người ta vẫn thường nói: Văn chương nó chọn anh, chứ không phải anh chọn văn chương. Vâng, văn chương đã chọn Thâm Tâm để cất cánh trở thành thơ ca và truyện ngắn, trong đó có những vần thơ bất hủ, và một số áng văn xuôi đẹp đẽ.

Gia cảnh Thâm Tâm rất cơ hàn, túng quẫn. Từ Hải Dương lên Hà Nội (1938), kéo theo cả nhà gồm cha mẹ già, hai người chị cùng bốn đứa em còn nhỏ và người vợ, có đến cả chục miệng ăn như tằm ăn rỗi. Ngần ấy người dồn ép vào sống trong một căn nhà thuê tháng rộng khoảng chừng hai chục mét vuông. Thâm Tâm nhận việc đóng sách cho nhà in Mai Lĩnh rồi mang về cho cả gia đình làm, còn riêng mình thì đi vẽ tranh minh hoạ cho các báo, làm thơ, viết truyện, viết kịch, viết tạp văn…gửi đăng các báo vừa để sinh nhai, vừa thoả cái mộng văn chương hằng ấp ủ. Có nghĩa là ông viết cật lực, chẳng kén chọn gì lắm về đề tài, thể loại, nơi in…

Nhà văn Vũ Bằng kể lại: Khi đương giữ chân thư ký toà soạn cho tờ Tiểu thuyết thứ bẩy quãng năm 1941- 1943, ông thấy gia cảnh bạn mình túng thiếu, nên thường ưu tiên cho đăng của Thâm Tâm hai bài trong một số (hoặc một truyện, một thơ, hoặc một truyện, một kịch với hai bút danh: Thâm Tâm và Tuấn Trình) để bạn mình có chút đỉnh nhuận bút. Bây giờ nếu ai có điều kiện tiếp xúc trực tiếp với tờ Tiểu thuyết thứ bẩy vào quãng thời gian này sẽ thấy liên tục trên các số báo có tác phẩm của Thâm Tâm với hai bút danh như vậy. Ngoài ra ông còn viết cho Truyền bá, Phổ thông bán nguyệt san (cũng của nhà Tân Dân), Tiểu thuyết thứ năm của Lê Tràng Kiều (chủ bút) và một số báo khác. Tính sơ bộ trong tài liệu mà chúng tôi sưu tầm được, ông có hàng chục bài thơ, 70 cái truyện ngắn truyện dài, trên chục vở kịch, một số tạp văn… ra đời trong quãng thời gian này. Có thể khẳng định rằng cái động cơ thôi thúc Thâm Tâm viết được nhiều như vậy chủ yếu thuộc về lý do mưu sinh, viết văn để kiếm sống, để phụ giúp vào một gia đình mà lúc nào cũng có nguy cơ đứt bữa.
Có thể ai đó sẽ cho rằng cách giải thích này không được “thơ” cho lắm, nhưng quả thật như thế (Cơm áo không đùa với khách thơ)! Mà chẳng cứ gì Thâm Tâm. Nhiều nhà văn nhà thơ ưu tú của chúng ta thời đó vướng vào nghiệp văn chương, cũng đã từng lận đận mưu sinh bằng ngòi bút. Kể từ bậc “trưởng lão” Tản Đà, cho đến Ngô Tất Tố, Lê Văn Trương, Lan Khai, Thạch Lam, Nam Cao, Tô Hoài và rất nhiều nhà văn khác. Vũ Trọng Phụng chẳng đã từng vừa ôm ngực vừa ho vừa viết, viết đến lao lực rồi chết đó sao.
Mà đã viết mưu sinh thì không thể không chạy theo số lượng. Tác phẩm được in ấn càng nhiều, thì cái nồi cơm trong mỗi bữa lại càng đầy, trong bữa ăn mọi người đỡ phải trông nồi ý tứ nhường nhau, mới dám nhìn thẳng vào mặt nhau một cách tự nhiên, thành thực. Chẳng may trong nhà có ai ốm đau, con cái có đứa nào sài đẹn mới có cái để chạy thuốc men cho đỡ tủi.
Tuy nhiên, ở những nhà văn có tài, trong số các văn phẩm ít nhiều chạy theo số lượng ấy vẫn có những tác phẩm đỉnh cao như thường. Vâng, phải có tài, người có tài thì ngay cả khi viết trong một điều kiện ngặt nghèo nhất, hoặc viết chạy theo một mục đích sát sườn nhất thì các trang viết vẫn cứ có thể lấp lánh như thường.
Tống biệt hành của Thâm Tâm là một thi phẩm thuộc vào hàng đỉnh cao sáng giá như vậy. Xin kể lại một kỷ niệm thời còn học đại học vào quãng những năm sau ngày giải phóng miền Nam 1975, lúc bấy giờ hầu hết Thơ Mới đang còn bị định kiến, bị hiểu lầm. Cho nên trong giới sinh viên, ai biết được bài nào liền thì thụt đọc hoặc chép cho nhau, vì thế nên có tình trạng tam sao thất bản. Riêng với bài Tống biệt hành, lứa sinh viên bọn tôi chỉ biết có bốn câu đầu. Vì là thể hành, nên đoán chắc bài thơ sẽ còn dài nữa, nhưng chẳng mấy ai biết phần tiếp theo là như thế nào, mà hỏi thầy thì không dám. Thôi thì đành ngâm nga bốn câu thơ đầu:
Đưa người, ta không đưa qua sông
Sao có tiếng sóng ở trong lòng?
Bóng chiều không thắm không vàng vọt
Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong?
Phải thừa nhận rằng bốn câu mở đầu này có một sức quyến rũ mê người. Và hầu hết trong số chúng tôi đều coi mấy câu thơ ấy viết về tình yêu, viết về cuộc tiễn biệt của trai gái yêu nhau nào đó. Bảo là nỗi buồn nặng trĩu trong lòng đôi người yêu nhau kẻ đi người ở có gì là sai đâu. Chúng tôi lại còn ngâm nga, thậm chí viết tặng vào sổ tay bạn gái như một gửi gắm vu vơ. Sau này, khi định kiến đối với Thơ Mới dần được gỡ bỏ, tư liệu về Thơ Mới được công bố công khai, rộng rãi, mới biết rằng không phải như thế. Hoá ra  bài thơ là câu chuyện và tâm sự của hai người đàn ông tráng chí nặng tình tiễn biệt nhau, một ở lại một lên đường vì chí lớn.Thậm chí lại có tư liệu cho biết nhà thơ Thâm Tâm viết tặng cho một người bạn hoạt động bí mật trong tổ chức cách mạng nhân lần tiễn bạn đi chiến khu chiến đấu (1).
Tuy nhiên, không vì thế mà ý nghĩa bài thơ bị bó hẹp vào một cách giải thích cụ thể nào, hoặc vẻ đẹp của nó bị suy giảm. Bài thơ đã được đưa vào trong chương trình văn THPT. Bài thơ đã gây ra những thảo luận, tranh luận sôi nổi một dạo. Có những cách hiểu khác nhau ít nhiều, điều này càng chứng tỏ tầm vóc của thi phẩm. Một tác phẩm hay, nó không chịu nằm yên trong một cách hiểu duy nhất nào, mà nó luôn muốn vượt thoát để đến với tất thảy mọi người, thuộc về mọi người. Như hương của một loài hoa quý, nó dâng tặng mọi người, nhưng hễ ai có ý định “nhốt” mùi hương lại đều cảm thấy ít nhiều thất bại. Với bài thơ bất hủ này, nhà văn Vũ Bằng, một người bạn đàn anh của Thâm Tâm đã tặng Thâm Tâm một thi hiệu nghe lạ lạ và thú vị: Nhà phù thuỷ hô sóng vào lòng và gọi hoàng hôn lên mắt(2).
Cũng lại Vũ Bằng, ông bảo Thâm Tâm là một người ốm yếu mà can đảm((3) 3), ý muốn nói thân hình Thâm Tâm thì nhỏ bé, da hơi đen, hơi gầy, ít nói, mà làm thơ viết văn thì hay nói đến cái tráng chí, cái hùng khí của con người. Quả thật, trong thơ của Thâm Tâm, thấy ông nói rất nhiều về niềm sầu hận, có khi trực tiếp, có khi xa gần gián tiếp:
–   Tan tiệc quần anh, người nuốt giận
–    Thằng bó văn chương đôi gối hận
–    Chán ngắt gia tình sầu ngất ngất
Gìa teo thân thế hận mang mang
–    Tro tàn có đốt không hồng nữa
Thắt lạnh bên lòng nỗi hận thương
– Lòng ai bầm tím, ai buồn tối
Cũng tại rừng đời lạc lối ra
Sầu hận là một trạng thái tâm lý chỉ có đến giai đoạn cuối của phong trào Thơ Mới mới xuất hiện, nghĩa là vào quãng từ 1940 trở đi. Trước đó chỉ có thấy sầu mộng (Lưu Trọng Lư, Thế Lữ…), sầu đơn, sầu tủi, u sầu (Xuân Diệu, Nguyễn Bính…). Những nỗi sầu đó về cơ bản vẫn không nằm ngoài một chữ tình. Vượt ra khỏi chữ tình một chút, với Huy Cận, lại là  vũ trụ sầu. Đến thời này, sự bế tắc của đời sống cá nhân nghệ sĩ đã lên đến tột đỉnh. Vũ Hoàng Chương phải kêu lên: Lũ chúng ta lạc loài dăm bảy đứa- Bị quê hương ruồng bỏ, giống nòi khinh. Trần Huyền Trân thì: Kinh thành mây đỏ như son- Cái lồng eo hẹp giam con chim trời. Đến Nguyễn Bính, cũng đã chán cảnh “giang hồ vặt”: Đất khách cùng đường ta khóc ta. Ngay cả Xuân Diệu của những năm 42-43 khi đang lưu lạc ở Mỹ Tho cũng đã bắt đầu thấy nhắc đến hai chữ “sầu hận”: Ngủ đi, ngủ đi, sầu hận muôn năm (Riêng tây)…
Nếu như các trạng thái sầu trên kia có nguyên do trực tiếp từ tâm tình cá nhân thì đến sầu hận, nguyên do lại bắt nguồn từ thời thế, từ những vang động xã hội. Một câu hỏi trực diện đặt ra cho bất cứ người nghệ sĩ nào lúc này là: Đi về đâu? Câu hỏi đó lập tức bắt người nghệ sĩ phải đối mặt với thời cuộc. Đi tìm giải pháp cho cách thế tồn tại của cuộc đời, mỗi người lựa chọn theo những cách khác nhau. Có người vùi mình vào những hưởng thụ cá nhân, nên bế tắc lại càng bế tắc. Có người nỗ lực tìm đường đổi thay số phận, không chịu bị cuộc sống đè bẹp. Trong những nỗ lực cảm động đó, có Thâm Tâm. Thơ ca cũng như  văn xuôi của Thâm Tâm có khá nhiều tác phẩm trình bày hình ảnh người ra đi. Người ra đi này thường được đặt trong tình huống tống biệt, chia ly. Thông thường người ra đi là một người mang sầu hận, ôm chí lớn, và bữa rượu tiễn biệt đều có những nhân vật mang dáng dấp trượng phu hoặc chiến binh thời trung đại. Uống rượu thì phải ném vỡ tan chén rượu, phải tỏ chí ngang tàng, lắm khi nói lời thề thốt:
– Thở phù hơi rượu đua tranh
Quăng tay chén khói tan thành trời mưa
– Ly khách! Ly khách! Con đường nhỏ
Chí lớn chưa về bàn tay không
Có người rắp tâm ôm chí lớn nhưng không thành, quyết nuôi chí phục thù. Hình ảnh Huyền Sinh trong truyện ngắn Lá quạt hoa quỳ là một người như vậy. Chí lớn không có cơ thực hiện, người yêu bị Quỷ vương chiếm đoạt, chàng tưởng như lâm vào tuyệt vọng. Chàng giả điên để chờ thời. Người điên này chiều chiều thả vào trời đất tiếng sáo ai oán của mình. Thế rồi một hôm, một người có dáng trượng phu đến gặp rủ đi. Từ bấy chàng điên mất tích. Chàng đã lên đường. Đó là một hình ảnh  ẩn dụ, nhuốm mầu bi tráng.
Tất cả những điều đó nói với chúng ta rằng Thâm Tâm thuộc trong số không nhiều các nhà văn có khí cốt mạnh mẽ lúc bấy giờ. Họ không thích kêu rên, than khóc. Cũng không muốn chết chìm vào trong những khoái thú cá nhân. Họ muốn đổi thay, muốn lên đường. Dòng huyết mạch chảy mạnh mẽ trong cơ thể họ. Quả tim trẻ tuổi đang đập rộn trong lồng ngực họ. Thơ của Thâm Tâm, Trần Huyền Trân có cái ngang tàng, khoẻ khoắn, dám đi “ngược gió” giữa đời. Sự thực là sầu hận và chí lớn đã tạo nên cái “chút bâng khuâng khó hiểu của thời đại” trong Tống biệt hành như Hoài Thanh đã từng cảm nhận. Tôi nghĩ rằng nếu nói lúc viết Tống biệt hành (1940-1941) Thâm Tâm đã đứng vào hàng ngũ hoạt động cách mạng thì e hơi sớm, nhưng bảo là Thâm Tâm đã cảm nhận được không khí sục sôi đang diễn ra từng ngày từng giờ của thời đại do những người cách mạng khởi xướng và lãnh đạo và đồng tình với nó thì chắc chắn là đã có. Cho nên, như một tất yếu, sau Cách mạng tháng Tám, Thâm Tâm rất sớm đi theo kháng chiến, đứng vào hàng ngũ những người cách mạng đánh đuổi kẻ thù xâm lược.
Nhưng nếu chỉ nói như thế không thôi, thì Thâm Tâm không đi xa hơn là mấy so với các nhà thơ trung đại. Cái điều làm cho Thâm Tâm trở thành điệu hồn Thơ Mới, Tống biệt hành trở thành thi phẩm Thơ Mới là ở chỗ: Nhà thơ đã thể hiện được một cách sâu sắc và thành thực đến cảm động cái mối giằng xé giữa con người tráng chí (con người tỏ mình trước cuộc đời) với con người tình nghĩa (con người vừa mang bổn phận hiếu đễ với gia đình, vừa thuận theo cái tình cảm tự nhiên mà ai cũng có với người thân, với bạn bè). Mối giằng xé này đã làm vọt ra những câu thơ đứng vào hàng tuyệt bút. Hãy thử lắng nghe xem đằng sau cái vẻ rất Kinh Kha kia là niềm day dứt, nỗi xót thương của một người nặng tình biết bao nhiêu, tưởng như những giọt nước mắt cố nén nay chực vỡ oà:
Người đi? Ừ nhỉ người đi thực!
Mẹ thà coi như chiếc lá bay,
Chị thà coi như là hạt bụi,
Em thà coi như hơi rượu say.
Bài thơ đã chạm vào nỗi lòng muôn thưở của kiếp người, thứ tấm lòng thuộc về nhân loại. Chính vì thế, bài thơ đã đi vào bất tử. Không có cái tôi Thơ Mới, các nhà thơ của chúng ta làm sao có thể đập vỡ được cái vỏ ước lệ thuộc về cái ta trung đại để bước vào cái tôi nhân văn phổ quát.
Như ta đã biết, sau này Thâm Tâm đi theo kháng chiến. Ông là thư ký Toà soạn báo Vệ quốc quân (tiền thân của báo Quân đội nhân dân ngày nay) có trụ sở đóng tại vùng căn cứ kháng chiến thuộc tỉnh Cao Bằng. Theo các tài liệu trong hồi ức của bạn bè đồng chí, Thâm Tâm là một người làm báo tận tuỵ, rất có trách nhiệm trước công việc, trước bạn đọc. Chỉ một cái địa danh in sai trên bản in thử mà ông đã băng rừng gần chục cây số qua suối lũ, hổ rừng đe doạ để sửa((4) 4). Ông mất vì bệnh sốt rét rừng. Cũng là do làm việc quá sức, ăn uống kham khổ, lại khí hậu khắc nghiệt mà ra cả. Đồng đội ông kể lại rằng khi phát hiện ra Thâm Tâm bị ốm thì đã vội cáng nhà thơ về trạm xá của đơn vị cách chừng một ngày đường đi bộ để điều trị, tiếc thay trên đường nhà thơ đã lặng lẽ tắt thở, không kịp trăng trối điều gì. Lúc ấy vào rạng sáng một ngày thu sương trên núi rừng Việt Bắc – 18.8.1950.
Người viết bài này đã cùng thân nhân gia đình Thâm Tâm và một số nhà văn nhà thơ khác của tỉnh Cao Bằng cất công đi tìm mộ nhà thơ Thâm Tâm. Thật kỳ công. Khung cảnh nơi đây đã khác hẳn. Năm mươi năm vật đổi sao dời. Khi xác định được đúng ngôi mộ rồi, thì hài cốt nhà thơ đã dược bốc dỡ, di dời về nghĩa trang huyện Quảng Hoà. Nhưng tiếc thay, về tới đây, khi chưa kịp gắn bia mộ, sơ đồ mộ chí còn trong túi hồ sơ, thì chẳng may trong vụ tháng 2-1979, hồ sơ bị những kẻ ngoại bang đốt sạch. Vậy là ngôi mộ Thâm Tâm hiện giờ không rõ đích xác ngôi mộ nào, nhưng chỉ biết chắc chắn là đã có mặt trong các hàng mộ liệt sĩ vô danh tại Nghĩa trang Quảng Hoà. Tên Anh đã hoà cùng tên Đất Nước.
Khi Thâm Tâm mất, hành trang chẳng có gì. Sau này gia đình nhà thơ được đơn vị trao lại một chiếc ba lô, trong đó còn một vài thứ gồm mấy trang ghi chép có tính chất nhật ký, cuốn Đại đội Kim Sơn của tác giả mới in, một bài tham luận tại Đại hội văn nghệ, sáu bức ảnh chụp hình nhà thơ và các bạn văn nghệ kháng chiến, một chiếc bút máy và một cái thìa nhỏ. Tất cả chỉ có thế. Bà quả phụ Thâm Tâm lâu nay vẫn đặt chiếc thìa nhỏ đó lên ban thờ linh hồn Thâm Tâm, như một kỷ vật thân thương duy nhất còn giữ được.
Tuy nhiên, còn có một thứ hành trang vô giá mà Thâm Tâm để lại đó là các áng văn thơ. Ông viết không phải là nhiều. Cũng không thể nói đó là một sự nghiệp đồ sộ. Nhưng lạ lùng thay, văn chương không phục tùng quy luật của số lượng, mà chỉ tuân theo quy luật về chất. Với Tống biệt hành, với vài ba truyện ngắn, thí dụ như Thuốc mê chẳng hạn, Thâm Tâm vĩnh viễn có chỗ đứng riêng trong nền văn chương dân tộc.
Núi rừng Việt Bắc, con người Việt Bắc cùng Đất Nước đã tiễn đưa Thâm Tâm vào cõi mây trời cách đây năm mươi năm có lẻ. Cuộc tống biệt này không có ngày đoàn tụ. Mỗi khi nhớ về ông, bỗng lại có sương khói hoàng hôn và những gợn sóng lòng ba động.
———————————————————————————— (1)Theo tài liệu của ông Hoài Việt, trong bài Thêm một chút tư liệu về bài Tống biệt hành,in trong Thâm Tâm và T.T.Kh, Nxb Văn học, 1997 (2), (3) Xem thêm trong bài Thâm Tâm: Nhà phù thuỷ hô sóng vào lòng và gọi hoàng hôn lên mắt, in trong Vũ Bằng- Mười chín chân dung nhà văn cùng thời (Văn Giá sưu tầm, tuyển chọn, giới thiệu), Nxb ĐHQG- Trung tâm Văn hoá và Ngôn ngữ Đông Tây, 2002.(4) Xem bài Những phút cuối cùng của Thâm Tâm của nhà báo Trúc Kỳ, in trong Thâm Tâm và T.T.Kh (Sđd).
VĂN GIÁ
.
@
CUỘC ĐỜI

SỰ NGHIỆP
[theo Wikipedia]
Ông tên thật là Nguyễn Tuấn Trình,
sinh ngày 12 tháng 5 năm 1917
tại thị xã Hải Dương (nay là thành phố Hải Dương), tỉnh Hải Dương.
Xuất thân trong một nhà giáo nền nếp, thuở nhỏ, ông học tiểu học ở Hà Nội. Từ năm 1938, từng vẽ tranh để kiếm sống. Từ những năm 1940, ông tham gia viết báo, viết văn và thường được đăng tải trên Tiểu thuyết thứ bảy, Ngày nay, Tiểu thuyết thứ năm và Truyền bá quốc ngữ… Ông từng thử sức trên nhiều thể loại nhưng thành công hơn cả vẫn là thơ. Thơ Thâm Tâm có nhiều giọng điệu, khi buồn da diết, khi trầm hùng, bi tráng, khi reo vui…
Sau Cách mạng tháng Tám 1945, Thâm Tâm tham gia văn hóa Cứu quốc, ở trong Ban biên tập báo Tiên Phong (1945-1946), sau đó ông nhập ngũ, làm thư ký tòa soạn báo Vệ quốc quân (sau là báo Quân đội Nhân dân).
Ông mất sau một cơn bệnh đột ngột ngày 18 tháng 8 năm 1950 trên đường đi công tác trong chiến dịch Biên giới, được đồng đội và nhân dân địa phương mai táng tại Bản Pò Noa, Xã Phi Hải, huyện Quảng Uyên, tỉnh Cao Bằng.
Thâm Tâm nổi tiếng với bài thơ Tống biệt hành. Sinh thời ông chưa in thơ thành tập. Sáng tác thơ của ông được xuất bản năm 1988 trong sưu tập Thơ Thâm Tâm.
Ngoài ra, Thâm Tâm còn có 3 bài thơ Gửi T.T.Kh., Màu máu Tygôn, Dang dở. Đây là những bài thơ tình hay nhất của Thâm Tâm gởi cho thi sĩ bí ẩn T.T.Kh. trong năm 1940. Trong các bài thơ, ông tự nhận là người tình cũ của T.T.Kh. Một số người còn cho rằng chính ông là T.T.Kh. Tuy nhiên, vẫn không ai biết chính xác là như thế nào.
Thâm Tâm được truy tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật năm 2007
Gia đình
Thâm Tâm sinh ra trong một gia đình đông anh chị em. Cụ thân sinh Nguyễn Tuấn Thịnh, làm thầy giáo nên còn gọi là cụ giáo Thịnh. Thâm Tâm có 2 chị gái, 2 em trai và 2 em gái. Em trai út tên là Nguyễn Tuấn San, bút danh Hoài Niệm, Bắc Thôn, tác giả truyện thiếu nhi “Hai làng Tà Pình và Động Hía”. Bà Phạm Thị An (1920-2005) là vợ Thâm Tâm. Thâm Tâm có 1 con trai duy nhất, Nguyễn Tuấn Khoa, sinh năm 1946, nguyên Viện trưởng Viện Thông tin Y học Bộ Y tế, tác giả truyện ngắn “Hoa Thạch Trúc báo bình yên”. Con dâu là Nguyễn Ngọc Mỹ, nguyên Chủ nhiệm Bộ môn Ngoại ngữ, Đại học Dược Hà Nội. Hai cháu nội là Nguyễn Tuấn Huy và Nguyễn Mỹ Trang.
TÁC PHẨM
Thơ
Tống biệt hành
Ngậm ngùi cố sự
Chào Hương Sơn
Ly biệt
Vạn lý Trường thành (thơ in trên các báo trước 1945)
Chiều mưa đường số 5 (1948)
Thơ Thâm Tâm (1988)
Kịch
Sương tháng Tám (kịch một hồi, Tiểu thuyết thứ bảy, 1939)
Nga Thiên Hương
19-8
Lối sống (1945)
Lá cờ máu
Người thợ (1946)
Văn Giá
Theo https://doanthuan.wordpress.com/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Giải mã tục cúng Thần Tài vào mùng 10 tháng giêng âm lịch

Giải mã tục cúng Thần Tài vào mùng 10 tháng giêng âm lịch Khoảng hơn 10 năm trở lại đây, trên báo chí và mạng xã hội thường phản ánh chuyệ...