Thứ Tư, 28 tháng 7, 2021

Thềm hoang 1

Thềm hoang 1

Buổi lễ trao tặng Giải Văn chương Toàn quốc 
ngày 8 tháng 9 năm 1962 tại Sài Gòn

Từ trái qua phải: thi sĩ Vương Đức Lệ (giải nhì thơ đồng hạng), nhà văn Nhật Tiến (giải nhất tiểu thuyết), thi sĩ Đinh Hùng (giải nhất thơ), học giả Lê Ngọc Trụ (giải nhất biên khảo), thi sĩ Mai Trung Tĩnh (giải nhì đồng hạng thơ).

Ai mang tôi đến chốn này
Ban đêm thì tối, ban ngày thì đen...

Chương nhất
Tiếng đàn rời rạc bật lên giữa những ngón tay của bác Tốn. Bác ấy đứng ở đằng sau. Không cần nhìn, Ích cũng biết hai con mắt của bác lim dim dưới ánh đèn sáng. Có thể bây giờ bác đang nhếch miệng cười vì tiếng đàn của bác đột nhiên căng lên phừn phựt. Những lúc hứng chí, bác hay bật dây đàn như thế. Bật xong thì bác cười, nụ cười vu vơ bao giờ cũng chỉ nhếch ra ở nửa miệng, làm bờ môi hơi trễ xuống, đồng thời gò má của bác dúm lại thành mấy nếp nhăn. Ích đứng ở đằng trước. Nó đang hát. Tiếng hát của nó rơi lạc lõng vào tiếng ồn ào của cửa tiệm. Những lúc ấy, đầu óc của Ích hay vấn vương ở trên ngọn đèn ống có những con thiêu thân đang nhảy múa. Nhiều khi chúng nó bay chấp chới quanh mấy sợi dây đèn hoặc trước cái mồm đỏ hỏn của những con thạch sùng. Mỗi lần mấy chú này chớp được một con thì Ích lấy làm khoái, cái khoái như lúc người ta ném vào mũ của bác Tốn một đồng bạc. Mắt Ích nhìn đi vẩn vơ như vậy mà miệng nó vẫn hát, vì thế có lúc chính Ích cũng không hiểu mình đang hát cho mọi người nghe bài gì. Điều ấy làm cái giọng đang trơn tru của nó tự nhiên tắc lại. Nó quên tịt ngay câu hát ở dưới, và nó đứng ì ra với một vẻ mặt hết sức đần độn. Bác Tốn thấy nó tự nhiên câm họng vội lấy cái cùi chỏ dúi vào lưng nó:
"Nhà ông làm sao thế?"
Ích nói:
"Quên mất rồi."
Bác Tốn vội búng sợi dây đàn dạo lại mấy nốt nhạc lúc trước. Ích vụt nhớ ra, nó vội vàng rít lên qua hai hàm răng sún:
"Chiều... chiều nhớ em khôn lòng nguôi... nhớ em khôn lòng nguôi...”
Tiếng đàn của bác Tốn lại kêu ròn ở phía đằng sau. Chắc bác ấy lại đang cười. Hát xong một bài, Ích lùi lại mấy bước. Bây giờ thì nó lại nhìn ra xung quanh. Mọi người có vẻ không nhớ rằng họ vừa được thưởng thức xong một bản nhạc. Những cái thìa vẫn múa lên trong từng bát phở bốc khói. Mùi nước dùng toả ra ngào ngạt. Ích hếch mũi lên cho cái hương vị thơm tho ấy thấm vào tận ruột. Nó nghĩ đến mấy khoanh hành tây trắng nõn xếp gọn gàng bên cạnh những lá hành hoa xanh biếc, rồi lại có cả tương ớt đỏ rưới lên những miếng thịt óng ánh mỡ vàng nữa. Tự nhiên nước bọt ứa ra chân răng làm Ích phải nuốt vào ừng ực. Bàn tay xương xẩu của bác Tốn chợt sờ soạng lên đầu Ích. Nó biết ý dẫn bác ta đi chầm chậm. Một tay nó nắm vào vạt áo tây vàng của bác, một tay nó chìa cái mũ dạ xuống từng bàn, không nói. Có một vài đồng bạc rơi vào lòng mũ. Ích nhón lên ấn vào túi bác. Bác Tốn mỉm cười gật gật. Sợi dây đàn bật lên rất khẽ dưới mấy ngón tay. Âm thanh rung nhè nhẹ và ngân dài trong bầu gỗ. Chợt thằng Ích đứng lại. Bác sờ tay lên đầu nó dò dẫm, thì ra nó thoáng trông thấy một lưng bát phở. Bát phở không có khói nhưng vẫn còn có thịt. Ích úp cái mũ lên đầu và bưng bát phở lên môi. Tiếng sợi phở kêu lách chách trên đầu lưỡi của nó. Mùi nước dùng thơm ngậy đưa thoang thoảng qua mũi bác Tốn, làm bác hếch mặt lên cười:
"Phở hả?"
Ích nói qua miệng bát:
"Phở!"
"Chín hay tái!"
"Chín!"
"Sướng mê đi rồi!"
Hàm răng bác Tốn đưa ra phía đằng trước. Mũi bác cũng hấp háy. Một dúm nước bọt quyện ở trong hàm, trôi một cách khó khăn qua cổ. Bác nghe thấy tiếng thằng bé mút chùn chụt và nhai khoái trá. Nghĩ đến món bở của nó bác gõ ngón tay lên bầu đàn rồi cười vu vơ. Nụ cười làm hai bờ môi của bác trễ xuống, kéo theo làn da má dúm dó lại. Mặt bác ngửa lên. Bác nom thấy một khoảng đục lờ lờ có những cái bóng mờ thấp thoáng phía đằng trước. Đứng ở đấy bác có thể nghe thấy tiếng quạt chạy vù vù trên đầu. Gió mát lùa qua lần cổ áo và mơn man trên lưng. Đâu đó quanh đây có mùi nước hoa và phấn thơm thoang thoảng. Cái hương vị rạo rực ấy khiến bác nhớ đến mỗi lần cô Huệ đi qua hàng rào vào lúc nửa đêm. Tiếng guốc của Huệ khua lóc cóc trên mặt đất gồ ghề. Một đôi lần có tiếng hỏi bâng quơ của mấy người phu xe tinh nghịch:
"Mệt không cô Huệ ơi?"
Huệ đáp chanh chua:
"Mệt cái phải gió! Cha tổ bố, ít tiền mà cứ muốn của đẹp!"
Cái chanh chua của Huệ làm bác Tốn rất khoái. Bác cười một mình trong bóng tối. Và bác hít nhè nhẹ mùi phấn thơm của nàng còn thoang thoảng trong gió mát ban đêm.
Khi Ích ăn xong bát phở, nó lại kéo bác đi chầm chậm. Cái mũ dạ lại chìa xuống từng bàn. Nhưng lần này không có đồng bạc nào được ném vào đấy cả. Bác bảo Ích:
"Tao đói rồi."
Ích vừa quệt ngang cái mồm còn bóng mỡ vừa hỏi:
"Về chưa?"
Bác Tốn hỏi lại nó:
"Mấy giờ rồi nhỉ?"
Ích bước ra ngoài, nhìn lên nền trời lặng lẽ có sao lưa thưa trên đỉnh đầu. Nó trông về phía những nóc nhà cao ngất đứng im lìm trong ánh sáng mờ nhạt. Ích đoán phỏng:
"Chắc gần một giờ."
Hai bác cháu dẫn nhau đi lầm lũi. Gió về đêm thổi lành lạnh. Bầu không khí nhẹ nhàng, mất hẳn cái ngột ngạt trong hiệu ăn. Đèn cuối phố úa vàng trên những lùm cây. Vài chiếc xích lô đi chầm chậm vào bóng tối. Mắt Ích bắt đầu thấy díu lại. Nó ngáp một cái thật dài và có mấy giọt nước mắt ứa ra nhếch nháp ở bờ mi. Ích nghĩ đến cái ổ rơm đầy muỗi và bóng tối. Nằm đấy, Ích có thể nhìn ra khung cửa đục lờ lờ của đêm mùa hạ. Những hôm có trăng, ánh sáng êm mát lùa vào tới tận mép chiếu. Khoảng sân đằng trước cũng sáng lên, soi rõ cái bể nước thấp lè tè xây cạnh mấy chum tương của u nó vẫn làm để bán ngoài chợ. Về đêm, lúc bắt đầu ngủ, Ích hay nghe thấy tiếng con Vện nằm nhá cái ống bơ lóc cóc ngoài ngõ. Xa xa, có tiếng bác Tốn hát vu vơ một mình vẳng lại từ phía bên kia bờ rào. Và trong bóng tối của nhà trên, Ích nghe thấy cả tiếng ngáy rất nặng nề của dượng Tám nữa. Thấy nó lâu không nói, bác Tốn hỏi:
"Ích nghĩ gì thế?"
Nó uể oải:
"Buồn ngủ ghê!"
Tiếng đàn bật lên khe khẽ. Bác Tốn không hỏi nữa, và lẩm nhẩm hát một mình trong miệng. Ích quay lại nhìn. Khuôn mặt trắng xanh và xương xương của bác có ánh đèn chiếu sáng một nửa. Mái tóc cắt ngắn ép sát vào vầng trán cao hơi dô. Hai mắt bác lúc nào cũng nhắm nghiền, cái miệng hay cười một nửa làm tăng vẻ ngạo nghễ, khôi hài. Ích thấy mến bác ở cái cười như thế. Điều mà nó khoái nhất là bác luôn luôn coi nó như một người lớn thật sự. Bác hay thủ thỉ với nó đủ các loại chuyện, từ chuyện nhà cửa, chuyện vợ chồng, chuyện đi ô tô, tầu bay, tầu ngầm, cho đến cả chuyện gái điếm nữa. Những lần hai bác cháu dẫn nhau đi qua ánh đèn đỏ gay gắt của các tiệm nhảy trên phố, có tiếng kèn xoáy vào không khí tĩnh mịch ban đêm, tiếng cốc tách va vào nhau lách cách, bác Tốn thường lắc lắc vai nó:
"Nhảy đầm khoái chứ nhỉ?"
Ích đáp có vẻ thành thạo:
"Khoái đứt đuôi đi ấy chứ lị."
"Dơ bỏ bố đi."
"Dơ mà lại khoái!"
"Khoái nhưng dơ! Đếch gì ôm nhau thế này, rồi lại đi uốn éo như vào xiếc. Tao thì tao khoái ở nhà với vợ hơn."
Ích cãi:
"Bác có vợ đếch đâu mà nói."
Bác Tốn cười hề hề:
"Không có nhưng mà phải biết chứ. Mày nhớn như tao rồi mày cũng biết."
Ích nói:
"Vợ chồng hay đánh nhau bỏ xừ đi."
Bác Tốn cười:
"Dào, vợ chồng như dượng với u mày thì nói làm chó gì. Phải biết hy sinh."
Ích hỏi:
"Hy sinh cái gì?"
"Cái gì mà không được. Nghĩa là nhường nhau. Tao mà có vợ thì tao nhường phải biết. Yêu không chê được."
Rồi bác lại bật dây đàn, hát lẩm nhẩm trong miệng:
"Cô Huệ ơi!
Nếu cô lấy tôi thì tôi xây nhà gạch hai tầng..."
Hàm răng của bác lại đưa ra phía đằng trước. Nụ cười có vẻ ngạo nghễ lại nở trên vành môi. Nghĩ đến Huệ, lòng bác tự nhiên thấy nôn nao, cái nôn nao đầy êm ả.
Về đến vườn hoa, bác Tốn đòi nghỉ. Hai người ngồi xuống chân cột đèn. Cây đàn va vào nền xi măng reo lên một tiếng khô khan. Bác Tốn bảo:
"Bây giờ đếm cái đã."
Vừa nói, bác vừa chậm rãi móc túi lấy ra những tờ giấy bạc. Ích vuốt lại cho thẳng rồi xếp lên nhau. Bác hỏi:
"Mấy?"
Nó kiểm lại một lần nữa rồi nói:
"Hai mươi hai!"
"Vậy tao mười một, mày mười một."
Chia tiền xong hai người lại đứng dậy, Ích dặn:
"Về nhà bác nói chín thôi nhé."
Bác Tốn cấu vào lưng Ích, mắt bác tìm về phía nó:
"Ôn con, mày giấu hai làm gì?"
Ích vừa nhét hai đồng bạc vào sâu trong cạp quần, vừa đáp:
"Để đành ăn một chầu ga tô thật no."
"Ăn no thì hết mấy. Sức mày chỉ ba cái chứ gì."
Ích xì một cái rồi bĩu môi:
"Ba! Ba cái chả bõ dính răng. Bác thử bỏ chục cái ra đây xem nào. Cháu chỉ đớp một cái là hết xoẳn."
Vừa nói nó vừa nghĩ đến những cánh hoa bằng kem xanh đỏ rực rỡ rắc ở trên mặt bánh. Nó tưởng tượng nếu được ngoạm một miếng như thế thì chắc sướng phải biết! Nước bọt lại ứa ra trong mồm. Ích tắc lưỡi mấy cái y như nó đang được thưởng thức món thần tiên ấy. Bác Tốn nói:
"Tao thì tao khoái phở hơn."
"Sao hôm qua có mấy bát, bác không ăn?"
"Ai lại đi húp thừa ấy."
"Thế thì mua hẳn một bát. Phở gầu ròn, muối tiêu chanh ớt vào. Tuyệt!"
"Đắt bỏ bố đi. Những bẩy đồng một tô. Gần một buổi đi hát của nhà cháu đấy ông ạ!"
Ích cười khanh khách:
"Thế thì cả đời không bao giờ bác được ăn phở cả."
Bác Tốn cãi lại:
"Có chứ! Ngày xưa thì tao ăn khối ra. Lúc nào khoái là tao có phở ngay..."
"Ngày xưa thì nói làm đếch gì! Kể bây giờ cơ chứ. Cháu mà như bác thì gọi mua đàng hoàng. Phở nóng hổi, húp vào bỏng môi, cay sè lưới ra... khoái phải biết."
Bác Tốn cười vu vơ:
"Nói như bố chó xồm ấy. Phở nóng thì còn chê thế đếch nào được."
Nói đến chuyện phở, Ích chợt nghĩ đến em gái. Cái Ngoan vẫn ước ao được ăn một mình một bát phở, mặc dầu một đôi khi nó cũng đã được nếm cái hương vị thơm ngon ấy. Nhưng phở của nó chỉ là phở trộn cơm nguội mà dượng Tám ăn thừa cho nó, hết cả nóng, hết cả thịt, chỉ lõng bõng ít nước đục lờ đờ đỏ ửng lên vì ớt. Ích thấy thương em. Nó vẫn định bụng khi ăn bớt được tiền thì một bận nào đó sẽ dẫn em ra chợ. Nó sẽ ăn một chầu ga tô thật no, và em nó sẽ ăn riêng một mình một bát phở. Tuy vậy nó nơm nớp sợ dượng Tám. Nếu dượng ấy mà biết thì ốm đòn. Ích rùng mình khi nghĩ đến những lần dượng Tám say rượu đánh u chúng nó ở ngoài sân, chán tay rồi ngủ gục ngay ở bực cửa. Trong khi trên nhà xô xát ầm ĩ thì anh em nó lén xuống bếp ngồi trong xó tối. Ngoan khóc thút thít vì sợ. Tiếng dượng Tám gọi tên chúng nó giận dữ bên ngoài. Nhưng không bao giờ chúng nó dám thưa cả. Thưa thì chết. Dượng sẽ tóm chúng nó như tóm củ khoai. Và chúng nó sẽ bị dượng đá lăn lông lốc từ thềm hiên xuống sân đất. Bởi vậy chúng nó chỉ nín thở, nép mình vào ổ rơm, lặng yên nhìn ra khung cửa bếp in rõ nền trời lấp lánh những vì sao. Trời càng về khuya, gió lùa trong sân đất càng trở nên mát mẻ. Tiếng động trong xóm bớt dần dần, cho đến khi chúng nó chỉ còn nghe thấy tiếng u Tám nỉ non khóc một mình ở bậc cửa và tiếng dượng Tám ngáy pho pho ở đầu hè. Ánh trăng sáng tỏ soi rõ khuôn mặt ngây thơ của con bé. Má nó bầu bĩnh, miệng nó bĩu ra. Hai mắt nó còn ngấn lệ. Nhưng cũng có lần Ngoan thức đến khuya với anh. Hai đứa ngồi thủ thỉ nói chuyện với nhau. Ngoan kể với anh chuyện buổi sáng, chuyện buổi chiều. Có khi nó khoe với anh tờ giấy một đồng mới tinh mà nó kiếm được. Ngoan tuy nhỏ nhưng nhanh nhẹn, giỏi dắn. Nó giữ việc đi mua bán đồ đồng nát rồi đem về đổi cho bác Vang ở trong ngõ. Mới mười tuổi đầu, nhưng nó cũng đỡ được cho gia đình một món chi tiêu không phải là nhỏ. Câu chuyện của chúng nó chẳng bao giờ dứt. Chúng nó hay đố nhau xem ban ngày đã được ăn món gì sang nhất. Cả đời Ngoan chỉ nói được món ô mai vì ô mai rẻ nhất và hợp với ý thích của nó nhất. Còn thằng Ích thì nói ngay món phở thơm tho mà nó vẫn thưởng thức ở trên hiệu. Ngoan chịu thua ngay vì đối với Ngoan, phở là món quà lý tưởng rồi. Tuy vậy, nếu được ước ao, thì Ngoan không ước ao món phở. Nó mê một cái lược xanh thật đẹp cài trên đầu hơn. Chúng nó nói chuyện với nhau quên cả ngủ. U Tám đã hết khóc và nhà trên đã hoàn toàn im lặng. Ngoài ngõ chỉ còn thấp thoáng một vài cô áo trắng đi về. Có tiếng xe xích lô lăn khấp khểnh trên nền đất lồi lõm. Họ hỏi thăm nhau:
"Mệt không cô Huệ ơi..."
Vẫn tiếng chanh chua của Huệ:
"Mệt cái phải gió. Cha tổ bố, ít tiền mà cứ muốn của đẹp!"
Những lúc như thế là phải hơn hai giờ. Hai anh em Ích nằm ngủ quên trên đống lá. Giấc ngủ đến với chúng nó thật dễ dàng. Khuôn mặt thơ ngây của chúng thấp thoáng dưới ánh trăng lọt qua khung cửa. Cái Ngoan gối đầu lên chân của thằng Ích. Nhiều khi chúng nó ngủ quên, lăn mãi vào gầm chạn hay ghếch đùi lên cạnh liếp. Đến sáng, Ngoan dậy sớm, quẩy hai cái sọt xinh xinh đi lên phố. Ích ở nhà thổi cơm, gánh nước cho đến chiều thì đi hát với bác Tốn. Ngày trước hồi chưa có nó thì bác nuôi thằng Đăng, cũng bằng trạc tuổi nó. Thằng Đăng láu cá hơn Ích nhiều. Nó lại xin tiền dai như đỉa nên kiếm cho bác Tốn khá bộn. Cũng vì thế bác Tốn để dành được một món tiền lớn. Một dạo bác ta tầm ngầm có ý định cưới vợ. Những đồng bạc để dành, bác cẩn thận nhét vào cái ống tre ở thành chõng. Nhưng có lần bác để cho thằng Đăng trông thấy. Nó "chớp" luôn mấy nghìn bạc và trốn đi bịệt. Bác Tốn tiếc ngẩn tiếc ngơ như người mất vợ. Những đêm buồn, bác hay mang đàn ra gẩy ở ngoài sân rồi cất tiếng hát:
"Tôi mấy cô... không duyên, không nợ...
Tôi mấy cô... không vợ, không chồng..."
Giọng hát của bác buồn buồn vang trong ngõ vắng. Tiếng hát vẳng sang nhà Ích vào những đêm trời nóng nực, mọi người thao thức không ngủ. Dượng Tám nằm đập muỗi trong mùng nói vọng ra:
"Cái thằng, không mù thì khối đứa cảm."
Rồi không hiểu nghĩ lan man thế nào, dượng điều đình với bác cho Ích thay chỗ của thằng Đăng. Ích bỏ nghề kiếm củi khô để đi hát với bác từ dạo ấy.
Về đến nhà, Ích còn dặn bác Tốn một câu trước khi chia tay:
"Dượng cháu có hỏi thì bác nói chín thôi nhé."
Bác Tốn mỉm cười, gật gật. Bóng của bác quờ quạng đi trong sân đất. Tiếng đàn bật nhẹ và kêu rung rung trong bóng tối. Ích rẽ sang phía cổng nhà mình. Con Vện hực lên mấy tiếng. Ích vuốt lên đầu con vật mấy cái rồi đi thẳng lên thềm. Đèn trong nhà tối om om. Có tiếng cười rúc rích ở giường dượng Tám. Trong bóng tối, bàn tay cái Ngoan thò ra nắm lấy tay nó kéo xuống bếp. Ích hỏi:
"U đâu?"
Ngoan thì thào:
"U đi làm hồ từ hồi chiều rồi."
"Còn tương thì sao?"
"Mẻ tương này chậm vì lần trước không có đỗ ngon. Bác Nhan rủ, u đi rồi."
"Ai trong nhà thế?"
"Cô xóm trong!"
Hai đứa dừng lại. Tiếng cười len qua vách lá to hơn rồi im bặt. Ích dắt em ra đầu nhà. Thỉnh thoảng u chúng nó đi vắng, dượng Tám vẫn ngủ với một vài người như thế. Nhưng chẳng lần nào chúng nó dám mách cả. Cứ chỉ nhìn vào đôi mắt đỏ như tiết và nom như bốc lửa của dượng là bọn chúng nó cũng đủ dúm người lại rồi.
Hai đứa ngồi xuống thềm đất. Ngoan lấy ra cho Ích một gói nhỏ:
"Kẹo tây đây này!"
Ích mở to mắt trong bóng tối:
"Ở đâu ra thế?"
"Em mua đấy. Một đồng năm cái."
Ích xuýt xoa:
"Sang nhỉ! Hôm nay mày được bao nhiêu?"
"Có tám đồng."
Ích vội khoe:
"Tao có riêng gần một chục đây này."
Ngoan nắm lấy tay anh:
"Ở đâu ra mà nhiều thế?"
Ích định thú thật với em rằng mình đã ăn bớt tiền đi hát được, nhưng rồi nó lại ngập ngừng:
"Thì người ta cho chứ ở đâu."
Hai đứa im lặng một lúc lâu. Ích chợt nói:
"Tao sẽ cho mày ăn riêng một tô phở và mua thêm một cái lược."
Ngoan náo nức:
"Lược mầu xanh biếc ấy anh nhá."
"Được rồi, mai cùng đi rồi tha hồ mày chọn."
"Nhưng mua rồi thì giấu ở đâu."
Ích đáp:
"Tao có chỗ này kín lắm. Mai tao chỉ cho. Dượng Tám có tìm một ngày cũng không thấy được."
Ngoan chép miệng:
"Mình chán nhỉ. Có tiền mua mà cũng không dám dùng hẳn hoi."
Tự nhiên Ích thấy buồn buồn và thương Ngoan. Ít khi tình thương đến với nó một cách rõ ràng như thế. Thường thường có nghĩ đến em thì nó cũng chỉ biết để dành cho em cái bánh, cái kẹo là cùng, chứ không bao giờ Ích lại thấy lòng nôn nao một cách khó tả như thế. Nó nhìn trộm sang phía Ngoan. Khuôn mặt bầu bĩnh của con bé chìm mờ trong bóng tối. Bất giác Ích giơ tay tìm tay em. Ngoan lặng lẽ nắm hờ lấy anh, mắt nó nhìn long lanh ra phía ngoài sáng. Giây lâu nó bóc kẹo trao cho Ích. Hai anh em ngồi ngậm kẹo. Bốn bề im lặng chỉ có tiếng gió rì rào trên lùm cây xanh đen, xen lẫn tiếng chó sủa vu vơ ở phía đằng xa. Hai đứa cùng như cảm thấy một điều gì nhẹ nhõm. Mãi Ích mới nghĩ ra rằng tại u Tám đi vắng và dượng Tám đang ngủ với cô gái ở trên nhà. Chúng nó được tự do ngồi với nhau, lại có cả kẹo ngậm nữa. Vì thế đêm đã khuya rồi mà chúng nó chưa buồn ngủ. Ngoan kể với anh chuyện ban ngày, chuyện ở dọc đường, ở mọi nhà mà nó đến đổi đồ đồng nát. Nó nói với anh như mới khám phá một điều lạ:
"Anh Ích này, bé như em mà người ta cũng mượn đi làm cơ."
Ích đáp:
"Dĩ nhiên! Bằng mày mà không chạy được khối việc à."
"Em tưởng phải nhớn cơ chứ?"
"Nhớn công nhiều, bé công ít."
"Ít là bao nhiêu?"
Ích tịt mít. Nó cũng không hiểu cỡ như cái Ngoan đi ở thì một tháng được bao nhiêu tiền. Nhưng Ngoan đã ước lượng hộ nó:
"Chắc một trăm."
Ích cãi:
"Hơn chứ!"
"Một trăm có cơm nuôi. Đến tết lại được một bộ quần áo."
"Sao mày rõ thế?"
"Em hỏi mà lị. Giá dượng cho em đi làm như thế thì em đi ngay. Ở nhà, u với dượng hay đánh nhau, chán chết!"
Ích nói:
"Nhưng cũng còn hơn là làm đầy tớ người ta."
"Ồ! Mình cũng phải làm chứ có đi xin đâu mà sợ."
Rồi nó thấy mình lỡ lời, nên vội chữa:
"Như anh đấy, cũng phải hát mới có tiền chứ!"
Ích ngập ngừng:
"Chắc dượng không cho đâu!"
Ngoan thấy cái náo nức trong lòng đang nhen nhúm tự nhiên tắt hẳn. Anh nó nói đúng. Chẳng bao giờ u nó và dượng nó lại cho đi như thế. Ở nhà, nó còn đỡ được nhiều việc. Nó mà đi thì chỉ mình nó sướng thôi. Ngoan nghĩ đến những chiếc nhà tây hai, ba tầng, quét vôi sáng sủa. Buổi chiều có nắng chiếu lên những dàn hoa sặc sỡ. Sân gạch ở đằng trước đầy gió và bóng mát. Đã có lần nó đi theo người ta vào trong ấy khuân các đồ chai lọ. Nó đã được đứng trên mặt đá hoa mát lạnh mà chưa từng bao giờ nó đặt chân đến. Những vòi nước máy bằng đồng sáng loáng, mở ra có nước tuôn xối xả quyến rũ nó một cách lạ lùng. Ở trong căn nhà ấy, thứ gì, vật gì đối với nó cũng đều lạ mắt cả. Từ cái quạt cao hơn đầu dượng Tám dựng đứng, xoay khắp trong phòng, đến những ổ điện nhằng nhịt, những bàn, ghế, giường, nệm, tất cả tạo thành một thế giới riêng biệt, thần tiên, khác xa hẳn với căn nhà lá ẩm thấp và tối tăm của dượng nó ở xóm Cỏ này. Vì thế mà Ngoan vẫn nuôi cái mộng trong đầu là được rời xa chốn khốn khổ ấy. Nhất là nó sẽ chẳng còn phải chứng kiến cái cảnh dượng Tám uống rượu say rồi nắm từng mớ tóc của u nó mà giật. Những khi ấy, Ngoan có cảm tưởng như chính những mảng tóc của nó đang bị bật ra, và nó chỉ biết ngồi ôm mặt khóc.
Về phần u Tám, thì nhiều lúc u lầm lì như cục đất. Trong nhà, u chẳng hay nói với ai một lời vui vẻ, ngay cả đến anh em nó. Chúng nó nhận ra sự im lặng của u có một vẻ khác thường. Hình như u sống với chúng nó đấy, mà đầu óc chẳng để ý gì đến ai cả. Cặp mắt của u bạc nhược, khuôn mặt trắng xanh nổi lên những nét khắc khổ và mệt nhọc. U rất chăm làm, làm như một con vật mà lại là thứ con vật vô tri giác. Ấy thế mà dượng Tám chẳng mấy khi để cho u được yên cả. Tiền u kiếm được, dượng moi bằng hết để đi đánh bạc. Mỗi lần không có, thì dượng gây sự với u để lại túm lấy u và đánh như đánh một quân thù không đội trời chung. Nhiều khi u Tám cũng chống cự lại bằng sức lực yếu đuối của mình. Như thế, trong nhà lại tán loạn lên vì tiếng khóc và tiếng chửi rủa. Anh em Ích lại rúc vào ổ rơm mà trốn bịệt.
Nghĩ lan man thế nào, Ngoan tự nhiên rưng rưng khóc. Thấy nó không nói, Ích ngẩng lên nhìn và trông thấy những giọt nước mắt ứa ra trên hai má của Ngoan. Nó hỏi em:
"Ngoan làm sao thế?"
Ngoan không đáp chỉ lắc đầu, và bắt đầu khóc thành tiếng nho nhỏ. Ích vỗ lên lưng em, dỗ dành:
"Mày đi làm làm gì. Ở nhà có anh, có em sướng hơn.”
Ngoan càng lắc đầu mạnh. Nó biết không phải nó khóc vì không được đi làm. Nó chỉ tủi thân thôi. Mà tủi thân thì nói thế nào cho Ích hiểu được. Vì thế nó chỉ ôm hai tay lên mặt, im lặng cho dòng nước mắt nóng hổi chảy trên từng ngón tay nhớp nháp. Ích cũng ngồi yên không nói nữa. Cái vui nhẹ nhàng ban nãy không còn. Bây giờ chúng nó lại cảm thấy buồn hơn hết. Chúng nó nghĩ đến ngày mai, ngày kia và mãi mãi, buổi sáng phải đi mót củi khô và lá rụng ở mặt đường, buổi trưa nắng gắt, đi quẩy nước ở ngoài giếng, chiều tối, lúc dượng Tám uống rượu lảo đảo trở về, chửi lảm nhảm đến khuya. Mỗi cử động mạnh của dượng, ngay lúc dượng chẳng đánh ai cả, cũng đủ làm cho tim Ích đập nhanh trong lồng ngực. Ích nghĩ, dượng Tám thật là tráo trở, vui đấy, mà cũng giở mặt ngay đấy. Nhiều khi Ích dám có ý nghĩ là mình được cầm một con dao nhọn hoắt mà đâm mạnh vào tim dượng. Máu đỏ phun ra sẽ làm nó rất kinh sợ nhưng hẳn cũng hả hê biết mấy. Hả hê ngay từ khi nó mới chỉ tượng tượng ra như thế mà thôi. Cũng có lúc Ích ao ước mình được dẫn em bỏ trốn nhà ra đi. Nhưng điều ấy lại còn khó khăn hơn là sự cầm dao giết dượng Tám. Vì trong thành phố ồn ào này, tuy rộng rãi thật, nhưng nó chẳng biết là mình sẽ đi về đâu. Bất giác Ích thở dài, ngẩng lên nhìn về phía nhà trên. Ở trong vẫn tối om và chắc dượng Tám đã cùng cô gái ngủ say rồi. Nó trông lên nền trời xanh đen. Bây giờ có một lớp sương trắng đùng đục che mờ những vì sao thưa. Gió càng về đêm càng lạnh hơn và sương đêm hắt vào vai nó một cảm giác âm ẩm. Nó kéo Ngoan đứng dậy. Hai anh em dắt nhau xuống ngủ ở nền lá khô dưới bếp. Ngoan trở mình một lúc rồi nằm yên. Còn Ích thì nhìn rất lâu ra khung cửa đùng đục trắng. Ánh sáng nhàn nhạt lùa vào đống lá một vệt sáng nhờ. Ích thấy những mơ ước vẩn vơ của mình hiện lên ở trên nền cửa ấy. Những con thiêu thân trên ngọn đèn sáng ở ngoài tiệm phở bay mơ hồ qua lại. Tiếng đàn của bác Tốn văng vẳng bên tai nghe xa xôi. Ích thiếp đi trong những cảm giác chập chờn như thế...
Chương hai
Ở đường cái rẽ vào là tới ngay đầu xóm Cỏ. Có những mái lá nứt rạn chìa ra lối hẹp. Vào những ngày mưa, lòng xóm hoá ra lòng cống, khi nước rút đi thì ngập bùn và rác rưởi. Mùi tanh nồng theo gió thoang thoảng bay đi. Mỗi lần đêm về, lối ngõ tối hun hút như một cái miệng có chiều sâu. Một vài ngọn đèn dầu đỏ đòng đọc lùa ánh sáng qua kẽ vách không soi hết những mô đá khấp khểnh nhô lên giữa mỗi vũng bùn đen quánh. Ở đấy về đêm có từng bóng áo trắng thấp thoáng sau mấy cái thùng xe đậu rải rác. Khách tìm hoa chụm đầu vào nhau thì thào. Que diêm bật lên rồi tắt ngóm. Ánh sáng teo lại theo tàn than rồi bóng tối lại tiếp tục bưng lấy tội lỗi một cách hối hả, vội vàng.
Dạo ấy, dân xóm Cỏ làm đủ mọi nghề của một tầng lớp thấp kém. Đạp xích lô kiêm nghề ma cạo, bán hàng rong không hẳn là nghề chính thức, thợ mộc, thợ hồ, hót rác, hát dạo và cả ăn mày nữa, tất cả quây quần trong những túp lều tồi tàn, ẩm thấp. Cuộc sống dữ dội và ồn ào bắt đầu ngay từ lúc mây hồng mới rạng ở trên nền trời và kéo dài cho tới quá nửa khuya. Vào buổi tinh mơ, đã có những bóng người lố nhố chụm đầu quanh ngọn đèn đất vàng vọt ở cái quán nghèo đầu ngõ. Họ trao cho nhau những ca nước nóng hổi, những đĩa xôi, bát cháo còn nghi ngút khói. Chiếc điếu cầy rít lên sòng sọc, cháy đỏ ở trong từng góc tối.
Đến lúc trời sáng hẳn thì trong ngõ là thế giới của lũ trẻ con. Hàng dăm chục đứa lốc nhốc, bẩn thỉu chen chân nhau ở bên lề cống. Dưới tia nắng đầu tiên của một ngày mùa hạ, chúng cãi nhau om sòm trong từng đám đánh bi, đánh đáo, đánh bài cào ăn thua nhau từng cắc. Đứa bé hơn thì bò ở trên mặt đất. Mắt chúng nó kèm nhèm dử xanh. Từng đàn ruồi bay vo vo ở trên những cọng rác, thỉnh thoảng táp lại, bám lấy hai vành mi rồi bò xuống má, xuống cổ, hoặc đôi khi rúc mãi vào những cái mụn lở loét có mùi tanh đến lợm giọng.
Buổi chiều lúc gió mát thổi ở trên mái lá thì cuộc sống còn ồn ào hơn. Người lớn trở về chửi nhau ở hai đầu ngõ. Họ tranh nhau từng thùng nước ở ngoài miệng giếng nhỏ. Họ đòi nhau những đồng bạc cho vay từ tuần lễ trước. Chai dầu đong đầy, đong vơi, bó củi bán năm hào bắt tháo ra đổi lại từng nhánh cũng là đầu đề cho cuộc cãi lộn om sòm, liên miên hầu như không dứt.
Huệ vào nghề từ mấy năm trước khi về xóm Cỏ. Hồi còn hương sắc, nàng đi khách với giá hằng trăm. Như thế buổi sáng có cháo gà, có phở, có xôi lạp sường. Thỉnh thoảng có phim nói tiếng Việt, Huệ lại đi xem. Cuộc sống đối với Huệ cứ càng ngày càng tươi đẹp thêm, khác hẳn với những ý nghĩ đen tối hãi hùng của buổi đầu tiên Huệ bị đẩy vào phòng riêng với một người đàn ông xa lạ. Ngày ấy, Huệ cho rằng cuộc đời mà phải dẫn đến những chỗ ấy thì là tàn đời và không còn gì nhục nhã và xấu hổ hơn.
Nhưng cái nghề nhàn hạ của Huệ lại tàn phá thân thể nàng một cách thảm hại. Đầu tiên da Huệ ngả màu xanh lướt. Cặp mắt bạc đi, lòng đen trở thành nhờ nhờ đục. Rồi từng mấu xương cứ nhô ra, khuôn mặt hốc hác thêm, và những đêm trời trở lạnh, nàng bắt đầu húng hắng ho gióng một. Rồi đến cái lần Huệ nghe con bạn cố tình làm sẩy cái thai đã mấy tháng thì Huệ nhược hẳn người ra như chẳng còn mấy hơi sức. Tóc Huệ sáng nào chải cũng rụng ra hằng nắm. Đờm nhổ ra đã thấy vẩn lên từng tia máu. Chính những sợi máu ấy đã khiến Huệ tự tử hụt một lần. Đối với nàng, như vậy là nàng đã mắc phải một tai hoạ lớn lao, còn lớn lao hơn cả cái tai hoạ đang từ một cô gái ngây thơ bị vướng chân mà sa vào vòng tội lỗi. Sau đó mấy lần liền, không có khách nào nhận "đi" với Huệ. Thím Phềnh thẳng tay đuổi Huệ ra khỏi nhà. Bạn Huệ thu xếp cho nàng về xóm Cỏ.
Huệ thuê nhà của một bà cụ bán cháo, xôi. Căn nhà chật hẹp và ẩm mốc, chỉ vẻn vẹn có hai người. Hằng ngày họ ra vào im lặng như những cái bóng. Cụ Chín là một bà già kì cục. Cuộc sống của cụ âm thầm và cô độc đến độ khó hiểu. Ban ngày cụ quẩy hàng lên chợ. Đến tối trở về thì cụ rúc vào cái buồng xép chỉ vừa vặn kê một cái ghế bố, không đồ đạc, hòm xiểng, không nồi niêu, ấm chén, cũng không có cả ánh sáng của một ngọn đèn nhỏ. Bà cụ ăn uống ở trong bóng tối âm thầm đầy muỗi và hơi ẩm. Những bữa cơm của bà, Huệ chỉ nghe thấy tiếng nhai chóp chép, nhỏ nhẹ, uể oải và nặng nhọc. Rồi một lát sau thì Huệ nghe thấy tiếng ngáy. Lúc ấy là lúc bà cụ đã trùm kín mít cái mền rách, hôi hám sặc sụa lên đầu và ngủ một giấc đến sáng. Ít khi Huệ nghe thấy bà ta nói một câu. Ở trong nhà, hai người ít nhìn nhau. Nhiều khi Huệ muốn biết bà ta nghĩ gì về mình, nhưng trong cái nhìn lạnh lẽo, thờ ơ ấy, Huệ không thể nào đọc ra được một ý tưởng nào. Duy chỉ có một điều chắc nhất là bà cụ biết Huệ tiếp khách ở trong nhà.
Phòng ngoài, Huệ kê một cái đi văng ở sát vách, có màn quây kín chung quanh. Cạnh đấy là một cái bàn gỗ đầy bụi bẩn. Mặt bàn rất bừa bãi, chiếc gương vỡ đặt chếch lên ngọn đèn dầu, vài hộp phấn và lọ nước hoa rẻ tiền xếp ở trên mấy tập bài hát in chỉ có lời mà không có nhạc. Huệ cũng đọc cả tiểu thuyết nữa. Cuốn truyện Huệ mua "xon" từ mấy tháng trước mà hầu như không bao giờ nàng đọc hết cả. Nàng lẩm bẩm từng trang, từng chữ. Chỗ nào hiểu được thì cười một mình, rồi đọc lại, đọc lại nữa vì có thể ngày mai Huệ đã quên mất mấy đoạn ấy rồi. Lúc nào không đọc truyện thì Huệ nằm lơ mơ trên đi văng nghe tiếng chuột chạy sột soạt trên mái lá, tiếng trẻ con lao xao ở đầu hồi, hoặc đôi khi có tiếng đàn của bác Tốn gẩy vu vơ ở ngách ngoài. Những lúc nhàn rỗi, bác Tốn hay hát một mình. Cải cách có, vọng cổ có, chán rồi xoay ra hát bậy:
"Cô Huệ ơi...
Nếu cô lấy tôi thì tôi xây nhà gạch hai tầng.
Tôi mua ô tô cho cô ngự, mua váy đầm cho cô thay..."
Mới đầu Huệ còn bật dậy, chửi đổng qua vách hàng xóm:
"Khỉ gió đùng lăn! Thừa cơm rửng mỡ chửa! Ai thèm mặc cái thứ váy đầm. Mà đồng xu chẳng có, còn bầy đặt xây nhà hai tầng!"
Nhưng mãi rồi Huệ cũng quen đi, vì bác Tốn lúc nào buồn mồm thì hát chơi, ngay cả khi bác không nghe tiếng Huệ léo xéo ở bên tai. Về phần bác thì bác hình dung ra cô Huệ qua lời diễn tả của thằng Ích.
"Cô Huệ béo hay gầy?"
Nó đáp:
"Cũng nhùng nhằng!"
"Đen hay trắng?"
"Trắng bốp!"
"Ui cha! Thế tóc phi dê hả?"
"Phi dê!"
"Xoăn không?"
"Xoăn tít! Phi dê mà lại không xoăn!"
"Áo gì?"
"Áo cánh.”
"Mầu gì?"
"Mầu đỏ!"
"Quần gì?"
"Quần lụa trắng!"
"Ái chà sang nhỉ! Môi son má phấn chứ?"
"Đứt đuôi đi rồi!"
"Thơm không?"
"Bác nói như bố chó xồm ấy! Phấn mà lại không thơm!"
Bác Tốn cười hì hì:
"Ừ nhỉ! Phấn mà lại không thơm!"
Rồi bác ngửa cổ ra đằng trước, mũi bác hếch lên, hít khìn khịt, hai hàm răng ngà ngà của bác nhăn ra nửa chừng, nom trắng như răng ngựa. Bác có vẻ khoái chí. Trong trí tưởng tượng của bác, Huệ là một người đẹp. Từ đấy mỗi lần hứng chí lên, bác lại hát:
"Cô Huệ ơi... nếu cô lấy tôi thì tôi xây nhà gạch hai tầng..."
Tiếng đàn bật lên ở mấy đầu ngón tay xen lẫn tiếng cười khúc khích của bà con hàng xóm. Nhưng ai cũng cho là bác đùa vậy thôi, vì chưa một ai nom thấy Huệ ở nhà bác Tốn đi ra. Ngay cả đến hai người đứng lại trò chuyện với nhau cũng chẳng còn có nữa là.
Về phần Huệ thì bực mình mãi rồi cũng thành quen cũng như nàng cũng đã quen mồm gọi bác Tốn là thằng khỉ gió!
"Thằng khỉ gió ngứa mồm chửa! Bộ cái mã ấy mà xây được nhà gạch hai tầng thì chó nó đã có váy lĩnh.”
Đôi khi bác Tốn đi qua cửa, Huệ mượn lời mắng mấy đứa trẻ như để nói với bác, giọng nàng chanh chua rít lên đành đạch:
"Khỉ gió đùng lăn chửa, giẫm chết chân người ta rồi đây này.”
Rồi nàng cười như nắc nẻ. Bác Tốn cũng che mồm quay đi tủm tỉm một mình. Lòng bác khoan khoái như vừa hớp xong một ly rượu lớn. Hình ảnh của Huệ chập chờn sáng lên ở trong khoang tối tăm mù loà của bác. Nhiều khi bác muốn quay lại góp với Huệ một câu. Nhưng chỉ cứ nghĩ như thế là chân tay, mồm miệng của bác đã ríu lại cả với nhau rồi. Bác vẫn tự nhủ với mình:
"Nói gì! Nói cái quái gì! Xấu hổ bỏ bố đi..."
Đấy là kể những lúc bác nghe tiếng Huệ léo xéo ở bên tai. Còn khi vắng nàng, bác lại chẳng nhút nhát tí nào. Bác đã nghĩ ra rất nhiều câu hát bậy và đánh đàn hát cho hàng xóm nghe. Tất nhiên ai mà chẳng khoái chí, ai mà chẳng rúc lên cười. Tiếng cười của họ khiến bác nghĩ rằng mình không cô độc. Chung quanh bác có nhiều người thân yêu. Huệ cùng cảnh với bác, nghèo như bác, và tất cả đều lam lũ, khốn khổ như nhau. Khi vui thì giọng bác ngân được rất dài và rất cao:
"Cô Huệ ơi...
Tôi theo cô đến tận góc bể chân trời
Sông sâu tôi cũng lặn, núi đồi tôi cũng leo
Sang Tây, sang Nhật, sang Lèo
Sang Tàu, sang Mỹ... tôi theo cô đến cùng...
Ới cô Huệ ơi..."
Câu hát như thế mỗi lần Huệ nghe thấy nàng lại dẫy lên:
"Rõ thừa cơm rửng mỡ chửa! Sang Lèo để mà ăn cái khỉ gió đùng lăn gì kia chứ..."
Cũng có những lúc giọng hát của bác tự nhiên buồn não nuột, nhất là về đêm khuya thanh vắng. Mọi người nghe như cảm lây với cái buồn của bác. Huệ nói với hàng xóm:
"Thằng khỉ gió nhớ con nào mà thảm chửa.”
Rồi nàng cũng lắng tai nghe tiếng hát của bác vẳng lên trong ngõ tối:
"Tôi chờ cô tối qua.
Suốt canh chầy chẳng thấy cô ra..."
Chắc lúc ấy bác Tốn đang ôm đàn ngồi ở bực cửa. Bóng tối vây quanh như nỗi cô độc của bác trong sự mù loà. Mặt bác hướng ra khung cửa. Mùi tanh nồng của nước mương đầy rác rưởi theo gió bay vào gây cho bác cảm giác nhẹ nhàng yên tĩnh. Tiếng đàn bật lên ở trên tay. Âm thanh quen thuộc rung trên phím gỗ và lắng sâu vào hồn bác. Những lúc ấy bác muốn lấy Huệ làm vợ. Bác nhớ đến mùi phấn thoang thoảng của Huệ lúc nàng đi qua hàng rào. Nếu những buổi tối có Huệ, sau bữa cơm, hai người sẽ ra ngồi ở đầu hè. Bóng tối êm ả vây quanh. Bác sẽ cầm lấy tay Huệ mà không nói. Không nói tức là nói thật nhiều. Rồi hai người sẽ hôn nhau. Mùi phấn thơm là của riêng bác, gió mát và bóng tối là của riêng hai người. Bác thấy lòng rạo rực với niềm yêu dâng lên. Mắt bác nhắm nghiền. Bác thấy hình ảnh của Huệ, mặc áo đỏ, đánh môi hồng đang cười với bác. Bác chợt mỉm cười và thấy mình sung sướng, hạnh phúc.
Tuy vậy ý định lấy Huệ chỉ đến với bác vào những buổi tối ngồi một mình trên bực cửa. Đến sáng ra, nằm trên nệm cỏ, nghe thấy tiếng thùng tôn va chạm loảng xoảng ngoài giếng nước, tiếng trẻ con khóc lên ngằn ngặt ở đầu hồi và tiếng xe, tiếng người chửi nhau loạn xạ thì bác quên hẳn ý nghĩ ngày hôm trước. Bác thấy buồn vì cuộc sống ồn ào, gay gắt chẳng như trong mộng tưởng. Huệ có cuộc sống riêng của nàng, tự do, nhàn hạ và đầy vẻ chanh chua, kiêu kì. Mỗi lần có tiếng Huệ léo xéo ở ngoài ngõ, bác nghe tiếng họ trao đổi với nhau mấy câu nói quen thuộc:
"Mệt không cô Huệ ơi!"
"Mệt cái phải gió! Ít tiền mà cứ đòi của đẹp.”
Tiếng nói của Huệ gieo vào lòng bác những cung bậc trầm buồn khiến cho bác thấy lòng mình thắt lại. Bác nghĩ rằng nếu mình chỉ ngửi thấy mùi phấn thơm của Huệ mà không phải nghe thấy những câu nói ấy của Huệ nói chắc sự sung sướng của bác sẽ trọn vẹn hơn nhiều. Ý nghĩ ấy làm bác có thể khóc được, và bác lại sờ soạng tìm cây đàn, vừa gẩy vừa hát nhè nhẹ:
"Tôi với cô... không duyên, không nợ
Tôi với cô... không vợ, không chồng..."
Thường thường buổi sáng nào bác Tốn cũng tiêu phí thì giờ vào nỗi buồn vu vơ như thế, đến gần trưa thì có con gái bác Nhan gọi sang ăn cơm. Bác Tốn ăn trọ ở nhà bên ấy. Bác Nhan gái làm đủ nghề lam lũ: cu li, thợ hồ, mua bán đồng nát và gánh nước thuê. Tuy quần quật suốt ngày mà bác cũng chỉ kiếm đủ tiền nuôi bốn miệng ăn. Bác Nhan giai ốm yếu lúc nào cũng chỉ nằm như một cái xác ve trên phản. Hai đứa con gái thì một đứa còn phải ẵm. Con chị là cái Hòn cũng mới lên tám, so với cái Ngoan thì Hòn xấu xí và đen đủi hơn nhiều. Sự thiếu thốn, đói khổ làm người nó quắt lại, tay chân khẳng khiu như que củi. Cả ngày hai chị em nó bế nhau thơ thẩn ở ngoài ngõ, nhất là ở quán nước cụ Tư. Chúng nó hay nhặt những cái lá gói còn dính bánh chưng, những khúc mía xương xẩu hoặc mấy cái đuôi bánh mì thừa vứt đi, đem vét voi nhấm nháp gọi là cho biết mùi của lạ. Tuy vậy thỉnh thoảng chúng nó cũng được bác Tốn mua hẳn cho một đồng kẹo tây. Mấy cái kẹo xanh đỏ, tuy ít ỏi nhưng hai chị em nhè đi, nhè lại cho nhau cũng ăn được suốt cả một ngày. Bác Tốn biết nhà chúng nó nghèo nên hay chia ngọt sẻ bùi với mọi người. Nhiều lúc nhà hết gạo, thổi thiếu cơm bác vẫn cười dễ dãi và bỏ tiền ra mua cho hai chị em thêm tấm bánh. Thành ra đối với họ, bác là người rất phong lưu, rộng rãi.
Buổi trưa, sau bữa cơm, bác Nhan trai lại xoay ra rủ đánh cờ. Cờ bác Tốn rất cao và sắc nước. Chỉ dùng có mấy ngón tay sờ soạng mà bác Nhan nhiều khi tức đến muốn hộc máu. Nhất là mỗi khi đi được một nước đắc ý, bác Tốn lại mỉm cười vu vơ. Hàm răng trắng nhởn của bác nhe ra như răng ngựa, cổ bác đưa hẳn ra đàng trước, cặp mắt hấp him như muốn tìm vẻ bối rối trên mặt bạn, rồi mấy ngón tay của bác lại gõ như khiêu khích lên mặt bàn. Nếu không vì sự thổi cơm trọ có lời cho nhà mình, thì bác Nhan đã hất cả bàn cờ xuống đất rồi.
Những lần thắng như thế bác Tốn thường hay hứng chí có khi bỏ hẳn chục bạc ra mua rượu đế, tôm khô về nhậu. Nghe đến rượu thì mắt bố con bác Nhan cùng sáng lên. Cái Hòn thì ăn bớt đứt đuôi đi được một đồng bạc rồi. Còn bác Nhan thì khỏi phải nói. Rượu tuy bác ít mua nhưng của người khác thì bao nhiêu cũng hết. Vừa được say sưa, vừa không sợ bị vợ la tốn tiền, bác chả dại gì mà làm khách. Sự bệnh tật và ốm yếu quanh năm làm cho bác hèn hẳn con người đi. Trong đầu bác lúc nào cũng chỉ quanh quẩn so kè mấy điều hơn thua nho nhỏ. Đầu óc bác chẳng bao giờ vượt ra khỏi mấy chai dầu đong đầy đong vơi, bó củi khô hay ướt hoặc bữa cơm cái Hòn đong thừa hay thiếu gạo. Điều ấy đối với bác thật quan trọng. Vì nếu có chểnh mảng ra mà để sơ suất thì thế nào mấy bố con cũng phải nghe bác Nhan gái cằn nhằn mãi không thôi. Một đôi lần có ức quá vì sự dai dẳng của vợ, bác cũng chỉ văng được một câu:
"Này thôi đi! Sốt tiết lắm nữa.”
Rồi bác nằm ngửa mặt nhìn lên trần nhà hậm hực. Lúc ấy bác thấy đời thật đáng chán. Cả một đời bác chưa một lần nào bác được ăn sung, mặc sướng hay có ít tiền tung tẩy. Nhiều lúc bác muốn được chết quách đi cho thoát khỏi cái cảnh tối tăm, khốn khổ như thế này. Những tiếng đá thúng đụng nia của bác gái làm cho bác chẳng nghĩ gì được xa hơn. Mình bác dán xuống phản, tim bác đập mạnh, phập phồng, lòng bác thì nửa như tức tối, nửa như lo sợ. Con vợ to xác như thế, đụng vào nó thì chỉ có thiệt thân. Nhưng rồi bác lại thấy im lặng như thế thì mình hèn với nó quá, nên bác lại nhỏm dậy, đập tay xuống mặt giường nói chõ ra bực cửa:
"Này thôi đi... Sốt tiết lắm nữa..."
Vọt xong câu nói nghe mạnh bạo và hùng hổ ấy, bác cũng hơi ngại. Nhưng thấy vợ vẫn lúi húi ngoài đầu hè thì bác lại yên tâm nằm xuống. Trong đời bác chưa lần nào bác có gan đánh vợ:
"Nó khỏe như voi. Nó mà du mình một cái thì chỉ có chết!"
Được cái là bác Nhan gái chưa lần nào dùng cái sức của mình để lấn át sự ốm yếu của chồng cả. Cũng vì vậy cơn giận của bác dễ nguôi xuống một cách rất mau chóng, nhất là khi vợ chồng đang cãi nhau lại có tiếng người léo xéo ở cổng. Người khách đến chơi bất ngờ như một gáo nước dội mát lòng bác. Niềm vui tự nhiên lại tràn ngập trong lòng. Bác không thấy ghét vợ nữa. Bác nghĩ đến sự vất vả lam lũ suốt ngày của "nó.”... Nó cáu một tí, mình nhịn một tị cũng chẳng chết ai. Sự độ lượng ấy khiến bác tươi tỉnh hẳn và xun xoe đi làm giúp vợ một vài việc trong nhà. Cho đến khi vợ bác chịu nói với bác một câu thì bác cười rất hể hả. Sau mỗi lần như thế, bác lại kiêu hãnh với vợ về sự tốt nhịn của mình. Bác so sánh vợ chồng bác với dượng u thằng Ích. Hai nhà cách nhau có đến mấy chục thước mà tiếng chửi bới nhau nghe rõ mồn một. Có lần họ lôi nhau ra ngõ để phang nhau bằng những cái đòn gánh, bằng then cửa, bằng cả thùng gánh nước nữa. Xóm Cỏ đã ồn vì thế lại ồn thêm. Trẻ con bu đông lại như xem đám rước. Tiếng hò reo vui sướng của chúng nó như thúc đẩy đôi vợ chồng thêm hăng hái. Về phần bác Nhan thì chân tay run bắn lên như chính mình đang can dự vào vụ ấy. Nhất là những khi bác nhìn thấy vết máu thấm đỏ cả áo hai người. Đầu tóc u thằng Ích xoã xợi. Tiếng khóc thê thảm xoáy vào bầu không khí oi nồng của buổi trưa. Chiếc áo cánh nâu của u xoạc từ vai xuống đến nách. Làn da trắng bệch bạc xây xát nhiều vết thâm tím. Còn mặt dượng Tám thì tái ngăn ngắt. Môi gã bậm lại, cặp mắt long lanh đầy vẻ dữ tợn, mấy cụm tóc chải tém xễ xuống mang tai, bóng nhẫy ở dưới nắng.
Những lúc ấy, thằng Ích không bao giờ dám bén mảng lại gần để bênh mẹ. Mặt nó xám như chàm đổ. Nó ngồi ở đầu hè vừa khóc vừa mếu, cũng có khi nó chuồn sang với bác Tốn ở tịt đấy cho đến tận chiều và đi hát luôn với bác.
Ngày xưa dượng Tám đối với u chúng nó không tệ như thế. Ích không rõ lắm về quá khứ của dượng, vì ngày u nó lấy dượng, anh em nó còn bé quá. Nhưng càng lớn, Ích càng thấy dượng là người độc ác. Hai cánh tay của dượng phồng lên từng múi thịt. Những đường gân nổi lên ở giữa nét chàm xâm nhằng nhịt. Hồi trước dượng Tám rất khoẻ. Chính mắt thằng Ích đã có lần được trông thấy ở ngoài quán nước, dượng kê vào cánh tay một đẫn mía lớn rồi quất thật lực. Đẫn mía gẫy ròn làm đôi như thể bị va vào khối sắt nguội. Còn dượng Tám thì nét mặt vẫn thản nhiên như không, dượng còn cười ha hả trước bao cặp mắt kính phục của mọi người. Mồm dượng rộng huếch hoác, mấy chiếc răng bịt vàng lấp loáng ở sau làn môi dầy và thâm. Dượng tuy xấu giai nhưng ngày xưa các cô bán hàng lại mê dượng về sự hào hùng tương tự. Họ hay cấu chí hoặc phát đôm đốp lên hai bờ vai u, đầy thịt của dượng. Nhưng dượng Tám lại chỉ mê có mỗi một người đàn bà goá trẻ tuổi. Đó là u thằng Ích. Da u chúng nó trắng và mịn màng. Đôi mắt lá răm đen lay láy như mắt bồ câu. Mỗi lần ra chợ, dượng cứ hay nắm lấy tay u mà cười một cách ngáo ngổ. Mặt u đỏ bừng bừng, người u vùng vằng tỏ vẻ giận dỗi. Nhưng thật ra sức mạnh bàn tay thô bạo của dượng Tám đã gây cho u những cảm giác rộn ràng mà từ lâu u không thấy. Đã thế, dượng Tám lại tỏ ra rất si tình. Buổi tối khi về chợ, dượng hay giúp u khuân những thúng cá đầy nước, vừa tanh vừa bẩn đổ vào cái sạp lớn. Trong cái nhá nhem của buổi hoàng hôn yên tĩnh, bóng dượng cao lớn, đầy sinh lực, khiến u như cảm thấy có một chỗ dựa vững chãi. Dượng rất hay đùa với u. Nhiều lần dượng cặp lấy mang những con cá lớn vào hai đầu ngón tay cứng như sắt giơ lên ngang mày. Con cá vùng vẫy một cách tuyệt vọng làm nước bẩn bắn lên tung toé, rồi dượng cười với u, tiếng cười lỗ mãng, và ngay thẳng. Vì thế u tìm thấy ở dượng cái vẻ gì gọi là chất phác, đáng yêu. U vờ chạy trốn ra đằng sau dượng. Bàn tay nhỏ nhắn của u bám chặt lấy cánh tay lực lưỡng của dượng và u tru tréo lên một cách nũng nịu. Cho đến một hôm, dượng ôm lấy u vào lòng, hôn chùn chụt lên má u và u nghe thấy tiếng nói của dượng nóng lên ở trong hơi thở:
"Mình ơi... Mình ơi..."
Lúc ấy u không nghĩ được gì nữa cả. Người u run bắn lên như chưa lần nào u rối loạn như thế. Rồi u khóc và để mặc dượng Tám hôn như mưa lên mặt của mình, u biết cuộc đời u bắt đầu thay đổi từ giây phút ấy.
Mấy hôm sau hai người lấy nhau rất giản dị. Dượng Tám không ngủ ở trên cầu nữa. Dượng cũng bỏ cả những buổi tối tụ họp thành đám đông để cười đùa và văng tục. Dượng ôm chăn gối về ở chung với mẹ con thằng Ích. Anh em Ích chẳng ưa gì dượng nó, nhưng những ngày đầu cũng yên vui. Dượng hay công kênh anh em nó lên vai để ra đón u vào lúc buổi chiều. U Tám đi chợ về sớm hơn trước, trên vai quẩy gánh kĩu kịt. Nắng quái chiếu ngang tầm mắt làm khuôn mặt của u trở nên rạng rỡ. U cười ngay từ khi mới thấy bóng chúng nó, hai hàm răng của u đen lấp lánh. Lúc lên đèn, bốn người quây quần quanh mâm cơm nghi ngút khói. Dạo ấy kiếm ăn dễ dãi nên cơm có thịt, có tôm tươi hoặc có chả rán. Nồi cơm trắng thơm phức và đầy đặn khiến bữa nào chúng nó cũng được ăn no. Ăn xong, dượng Tám hay phanh trần ra, vỗ ngực hát nghêu ngao. Đến khuya, u Tám vãn việc thì hai người vào ngủ ở trong buồng. Giấc ngủ của thằng Ích bao giờ cũng bắt đầu bằng tiếng cười khúc khích của họ. Cái Ngoan thì không còn cái thú nằm ngủ ôm lấy cổ mẹ nữa. Đêm đêm hai anh em nằm ôm nhau lăn lóc ở trên chiếc phản gỗ kê ở nhà ngoài. U Tám vì được thời làm ăn nên chúng không hề phải vất vả. Suốt ngày hai đứa chỉ tha thẩn ở hang cùng ngõ hẻm để đánh bi, đánh đáo. Hoặc chán rồi thì chúng lại trở về làm tội làm tình những con cá thả trong mấy chục cái thùng sơn để ở sau nhà. Nhiều khi chúng nó còn lấy cắp cá của mẹ đem nướng rồi chơi bầy cỗ nữa.
Về phần dượng Tám thì tử tế với u được gần một năm. Sau này vì nhàn rỗi, dượng sinh ra tật cờ bạc, rượu chè. Cái tử tế ban đầu dần dần cũng nhạt đi. Nguồn vui trong gia đình thằng Ích như một cơn gió mát thoáng qua rất nhanh rồi liên tiếp đổ về từng cơn giông bão. Ngày trước u thằng Ích yêu dượng vì sức vóc, thì bây giờ dượng lại dùng cái sức vóc ấy để đánh u đến thâm tím mình mẩy. Nhiều buổi tối, u hay ngồi khóc ở cột gỗ ngoài hiên. Tiếng sụt sùi của u rấm rứt mãi trong đêm khuya xen lẫn với tiếng ngáy nặng nề của dượng Tám đưa qua kẽ vách. Thằng Ích nằm buồn hiu, thao thức mãi ở trong tiếng động não lòng. Nó hay trở dậy ngồi bó gối trong bóng tối, đăm đăm im lặng nhìn ngọn đèn lu dần trên kệ. Khung cửa gỗ bên ngoài lờ lờ đục một màn sương của bầu trời lúc chớm sang thu. Ích ngấm nghía thấy oán dượng, oán mẹ và nó bật lên khóc. Trong đầu óc non nớt, nó mang máng nhớ lại một hình ảnh rất xa xôi, từ ngày còn thầy nó, người đàn ông yêu thương chúng nó rất mực. Thầy nó gầy và trắng trẻo. Những đêm mùa hạ, ông thường ngồi đạp chiếc máy may ở một góc nhà. Bên cạnh là khung cửa sổ mở rộng trông ra một bầu trời đầy sao sáng. Cuộc đời của Ích êm đềm trôi qua tiếng kéo cắt xoàn xoạt trên thớ vải, và tiếng máy rì rào chạy thâu đêm, suốt sáng.
Hình ảnh đã qua, tuy rất mơ hồ, nhưng cũng đủ gây cho nó những cảm giác êm đềm, xao xuyến. Ích tự nghĩ chẳng còn bao giờ nó tìm lại được khung cảnh thần tiên như thế. Điều ấy có thể làm cho Ích phát khóc lên được. Trong đầu óc còn non dại của một đứa bé mười hai, Ích đã có cái ý tưởng bỏ nhà ra đi.
Chương ba
Buổi sáng, lúc Ngoan quẩy hai cái thúng đồng nát ra cổng, Ích chạy theo rỉ vào tai nó:
"Đi vòng quanh một lát độ chừng chín giờ thì chờ tao ở quán cơm bà Hỉ nhé. Tao sẽ mua cho mày một cái lược.”

Mặt Ngoan bừng lên nét mừng rỡ. Nó nhắc anh:

"Lược màu xanh ấy, anh Ích nhé..."

Ích hãnh diện gật đầu. Nó nghĩ đến tờ giấy bạc nằm ép dưới hòn gạch kê ở chân cái thạp gỗ. Chỗ ấy chẳng bao giờ dượng Tám sờ đến, vì dượng không hề dính vào việc làm cơm nấu nước ở trong nhà. Hằng ngày, buổi sáng dượng dậy rất muộn, thường thường là lúc ánh nắng đã xiên vào đến đầu hè. Đêm trước thức trắng vùi đầu vào đám bạc, khiến giấc ngủ của dượng nặng nề và nom thảm hại. Hai má của dượng hóp vào, quầng mắt trũng xuống, mồm dượng há hốc ra, nom đầy vẻ mỏi mệt. U Tám lúc ấy đã đi chợ từ lâu, u để trên mặt phản cho dượng mâm cơm có bát canh rau và đĩa xào nhỏ, món xào mà anh em thằng Ích chỉ được ăn với bát cơm đầu tiên, còn những bát sau thì chúng nó phải chan thật đầy canh, rưới tương vào mà húp tuồn tuột.
Ăn cơm xong thì dượng Tám thường ra đứng ở đầu hè, hoặc ngồi xỉa răng trên bực cửa. Tuy chẳng nói với ai nhưng dượng vẫn giữ khuôn mặt lầm lì, cặp mắt lúc nào cũng long lên như muốn cấu xé. Cho nên, ở gần dượng, Ích thấy sợ cả cái lúc dượng trầm ngâm. Rất có thể bất thình lình dượng túm lấy nó, hạch sách nó đôi điều rồi đá nó lăn lông lốc xuống sân đất. Mỗi lần như thế, Ích muốn có một mũi dao thật sắc và nhọn. Nó muốn lăn vào đâm cho dượng nát ra như những lần nó đâm nát con giun đất mà nó đào được. Nhưng ý nghĩ táo bạo ấy chỉ thoáng qua trong đầu. Nó thừa biết với bàn tay hộ pháp của dượng, dượng chỉ bóp nó một cái là chết ngỏm ngay rồi. Bởi vậy Ích chỉ kêu váng trời, váng đất để cầu cứu hàng xóm rồi nó ôm đầu chạy tuốt ra ngoài ngõ. Đó cũng là một cái cớ để cho Ích bỏ nhà đi lang thang ở các góc phố, hoặc lại sà vào đám đánh bài cào với một bọn lau nhau, rách rưới, và bẩn thỉu. Cuộc đời của thằng Ích hệt như một trang sách được giở đi giở lại nhiều lần, hôm này qua hôm khác không ngớt tiếng chửi rủa và đánh đập vào thân hình còm cõi, khiến nó cứ mỗi ngày một tóp đi, quắt lại và đen thui thủi. Trong đầu Ích chỉ mơ ước có một điều. Đó là lúc nó sẽ lớn lên, nó tin rằng cuộc đời nó khi ấy sẽ hoàn toàn đổi khác.
Cái Ngoan đi được một lát thì đột nhiên u chúng nó trở về. Tiếng quang gánh xao động một cách quen thuộc ở đầu hồi làm thằng Ích đang nằm trong phản vụt nhỏm dậy. Đầu nó thò ra khỏi ô cửa gỗ. Nó thấy u Tám đang dựng cái đòn gánh vào một góc bếp lổn nhổn đầy đồ đạc. Ích hỏi:
"Sao hôm nay u về sớm thế?"
Nhưng u không quay lại và cũng không đáp lời nó. U đứng im lặng ở cạnh con chó đang ngủ. Mặt u hốc hác đầy mệt mỏi. Ánh nắng chiếu rõ vào đôi mắt đen và sâu. Nước da u trắng bệch bạc, có những đường gân xanh nổi lên nom yếu ớt, bệnh hoạn. U rũ chiếc khăn đen bít đầu ra vắt ở bờ vai. Từng sợi tóc nhếch nháp mồ hôi dính kết lại ở trên trán và má. Trong nắng sớm, chiếc bóng bé nhỏ của u ngả dài trên thềm gạch nham nhở. Ích lại nói:
"Con dọn cơm cho u ăn nhé!"
Bây giờ thì u quay lại nhìn. Nét mặt u thản nhiên, hờ hững đến độ nhiều khi thằng Ích thấy phát ghét. Nó vẫn cảm thấy rằng u Tám đã hết thương chúng nó rồi. Trong nhà, chẳng bao giờ u cười, chẳng bao giờ u nói, u ra vào như một cái bóng im lặng, khắc khổ, và đầy vẻ chán nản, chịu đựng. Ích leo hẳn người qua cửa sổ, nó định tuột xuống thì u nó bảo:
"Không, u không đói.”
Rồi u đi thẳng xuống sân đất. Bàn chân đầy kẽ nứt nẻ giẫm lạo xạo lên những viên gạch lổn nhổn toàn vôi và vữa. U dừng lại ở trước chum nước quơ lấy cái gáo bằng tôn. Một tay u vén quần đến đầu gối, môït tay u vục cái gáo vào miệng chum nước. U rửa chân một cách chậm chạp. Ích vụt nhận thấy trên lớp da trắng nhễ nhại của chân u có đầy máu bám chung quanh một khoảng thịt tím bầm và sưng vù lên như bắp chuối. Nó kêu lên:
"Giời ơi, u ngã có phải không?"
U quay lại nhìn nó im lặng. Ích nhận ra ở trong con mắt u chứa đầy vẻ xót xa và khốn khổ. Nó vụt nghĩ đến sự dịu dàng của u đối với anh em nó từ ngày xưa. Ích bỗng thấy thương u lạ lùng, tự nhiên nước mắt của nó chảy dài xuống hai bên má. U Tám trông thấy nó khóc, nên vội vàng nói:
"Không làm sao cả, chẳng có gì đâu.”
Nói rồi u vội vàng thả ống quần chùng xuống đến gót, và u khập khiễng đi lên nhà. U gặp dượng Tám đứng chờ ở bực cửa. Ích nghe thấy dượng nói:
"Cho mượn ít chục, mai trả.”
U Tám ngước lên nhìn dượng. Bốn tia mắt cùng long lên như nhau. Nhưng u không đáp mà lách người, bước qua bực cửa. Tiếng dượng Tám vụt quát lên:
"Có nghe thấy gì không?"
Giọng u Tám đáp lại nho nhỏ:
"Làm gì có tiền! Hết rồi!"
Mọi lần tấn kịch đến đây là Ích đoán được sẽ xẩy ra những gì. Trống ngực nó đập ran lên, chân tay nó bủn rủn. Nó biết hai người sẽ đánh nhau ở trên ấy. Nhưng lần này thì Ích chỉ thấy hai người lao xao một tí rồi yên lặng ngay. Dượng Tám hiện ra ở bực thềm với chiếc áo cánh trắng. Mắt dượng nheo lại dưới ánh nắng chiếu chếch từ vòm cây xoan tây trước ngõ. Môi dượng dầy và cong lên một cách vừa đáng ghét vừa đáng sợ. Dượng hầm hầm đi ra cổng. Ích thấy bàn tay của dượng thọc vào miệng túi. Những đồng bạc lẻ chắc mới lấy của u thò ra từng cái mép xanh, đỏ. Ích hậm hực muốn chửi to lên vào mặt dượng. Ý nghĩ muốn xỉa con dao vào ngực dượng lại thoáng qua trong đầu. Mắt nó long lên nhìn vào cụm tóc của dượng bóng nhễ nhại dưới nắng. Dượng Tám bước nặng nề qua mặt nó. Tiếng guốc lạo xạo nghiền nát từng viên gạch vụn. Ích hậm hực nhìn theo. Nó hình dung ra không biết bao nhiêu câu chửi chanh chua và tàn tệ.
Một lát sau Ích trở lên nhà. Nó thấy u Tám nằm ở trên chõng. Hai chân u quắp lại, bàn tay u dấu ở trong lòng. Đầu gối u dựa lên bọc quần áo mà u thường gói mang đi làm. Mắt u nhắm nghiền và sâu trũng xuống. Khuôn mặt của u hốc hác thảm hại. Miệng u há ra nửa chừng. Hơi thở ngắn và nặng nề. Dưới gầm phản có mấy đồng bạc lẻ nằm vật vờ, Ích đoán là tiền ấy vương ra lúc hai người giằng co. Nó cúi xuống nhặt lên, ngần ngừ định trả vào túi áo của u. Nhưng rồi nó nghĩ ba đồng bạc thật là ít ỏi so với số tiền dượng Tám đã lấy. Nếu mấy đồng bạc ấy không rơi ra thì chắc chắn bây giờ đã nằm gọn trong túi áo của dượng rồi. Nghĩ thế, Ích yên tâm thủ nhanh tất cả vào túi của mình và vui sướng thấy u Tám vẫn nằm yên lặng. Nó cho rằng u đã ngủ say. Dượng Tám cũng đã đi rồi. Giờ phút tự do này là của riêng nó, nó sẽ lấy tiền dấu ở dưới hòn gạch và thong thả ra chỗ hẹn với em. Hai đứa sẽ đi chơi và ăn uống thật thoả thích. Ngoan sẽ có một cái lược mầu xanh thật đẹp. Hai đứa sẽ ngậm ô mai mà đi khắp chợ. Sự vui sướng đột nhiên làm Ích quên hẳn tai nạn vừa xẩy ra liên tiếp cho u nó. Bây giờ nó chỉ nghĩ đến lúc hẹn với cái Ngoan. Nó dọn dẹp căn nhà một cách rất nhanh chóng và cẩu thả. Chân nó đá cái thúng vào gậm giường, hai tay nó đun mạnh đống chăn màn vào một góc và lấy cái chiếu trùm lên. Đoạn nó quơ lấy cái chổi lia ba bốn nhát cho những cọng rác bay vào những hốc ngách bí hiểm. Căn buồng trong chớp mắt theo nó đã sạch sẽ và gọn gàng. Ích yên tâm khép cánh cửa giữa rồi đi ra cổng.
Đến quán bà Hỉ, Ích đã thấy cái Ngoan chờ ở đấy. Con bé ngồi xổm ở giữa hai cái thúng đầy những đồ nát vụn vặt. Hai tay Ngoan mở rộng quyển báo đầy tranh ảnh, chăm chú đọc. Ích lấy bộ điệu đàn anh vừa ngoắc tay vừa huýt sáo gọi nó. Cái Ngoan ngẩng lên cười rất tươi. Ích nói:
"Mày mà cũng biết đọc báo cơ à?"
Ngoan đáp:
"Em coi ảnh đấy chứ. Nhưng không biết chữ cũng khổ. Nhiều đứa chỉ bé bằng em mà cũng đã đọc vanh vách cả rồi.”
Ích đáp hờ hững như trong đời chưa bao giờ nó quan tâm đến chuyện chữ nghĩa cả:
"Thì nhà chúng nó đã không có dượng. Thử bây giờ mà giống ngày xưa xem.”
Ngoan hỏi:
"Ngày xưa chắc nhà mình giầu lắm nhỉ?"
"Đứt đuôi đi rồi. Dạo còn thầy, nhà có cả máy may nữa. Máy quần áo nhanh không chê được.”
"Thầy có hay đánh u không?"
Ích trợn mắt:
"Đời nào. Thầy khoái bằng nghìn dượng Tám.”
Ngoan chép miệng:
"Hoài của quá nhỉ? Thế mà thầy lại chết.”
Ngừng một lát, Ngoan lại hỏi:
"Thế lúc thầy chết thì đã có em chưa?"
"Có rồi chứ lị. Nhưng mà dạo ấy u còn phải ẵm mày cơ. Hôm ấy u đi lấy thuốc về, nghe tin thầy chết, u buông mày xuống đất, suýt vỡ đầu.”
Cái Ngoan sờ lên mái tóc như định xuýt xoa. Nó có cảm giác như mình vừa bị ngã thật. Một nỗi buồn nhẹ nhàng tự nhiên đến xâm chiếm tâm hồn nó. Một lát sau nó nói:
"Em gởi quang gánh ở hàng bà Hỉ rồi mình vào chợ nhé.”
Ích gật đầu, mắt nó lơ đãng nhìn vào đám đông hỗn loạn phía trước mặt. Nắng bây giờ đã gay gắt hơn, chiếu sáng loà lên những mái tôn ở nóc chợ. Mọi người chen nhau trong những lối đi nhỏ hẹp. Mùi cá tanh nồng xen lẫn với mùi rác rưởi hôi thối thoang thoảng đưa vào mũi Ích. Nó đứng lùi lại dưới bóng một thân cây và thò tay vào cạp quần nắn lại mấy tớ giấy bạc. Bất giác Ích nghĩ đến ba đồng bạc dưới gậm giường hồi nãy và hình ảnh của u nó nằm co quắp ở trên phản với một bên chân tím bầm, bê bết máu. Ích thấy như mình đang muốn khóc. Nó buồn thật sự. Nỗi buồn nhen nhúm từ lúc nó kể chuyện ngày xưa cho cái Ngoan nghe. U chúng nó thật khổ sở và đáng thương hại. Nếu không có dượng Tám thì u và chúng nó đâu đến nỗi khổ sở như thế.
Ích đang băn khoăn thì cái Ngoan đã gửi xong gánh hàng và chạy đến bên nó. Hai anh em thong thả đi vào chợ. Ích vụt nói:
"U ngã đấy.”
Cái Ngoan giật mình:
"Chết! Ngã ở đâu?"
"Tao không biết! Nhưng chân u tím ngắt và có máu.”
"Nặng không?"
"Chắc nặng.”
"Dượng Tám đã mua thuốc cho u chưa?"
Ích bĩu môi:
"Mày nói như bố chó xồm ấy. Dượng ấy còn vét thêm tiền của u đi đánh bài nữa kìa.”
Ngoan lầu bầu những tiếng chửi thề trong miệng. Một lát nó co tay thằng Ích:
"Vậy mình phải mua thuốc cho u chứ?"
Ích bối rối:
"Mua thuốc gì bây giờ?"
Mặt Ngoan cũng ngẩn ra:
"Ừ, ngã thì mua thuốc gì được nhỉ. Uống ký ninh được không?"
"Đồ dốt! Ký ninh là thuốc cảm!"
"Hay là bôi dầu con hổ. Em thấy dầu con hổ bôi gì cũng được.”
"Thôi để hỏi kỹ cho nó chắc. Có bác Phớn kia kìa. Mày đến hỏi xem.”
Mắt Ngoan nhướng lên. Nó trông thấy người đàn bà nhà quê bận quần áo đen, chít khăn đại tang ở trên đầu. Ngoan chen lại gần, níu lấy tay bác ta nói:
"Bác ơi bác, u chúng cháu ngã.”
Bác Phớn đang đi, đứng dừng lại, giở cái nón ra cầm trên tay, giọng hốt hoảng:
"Chết chửa! Ngã ở đâu?"
"Chắc ở sở làm hồ.”
"Có làm sao không?"
"Tím hết và chảy máu một bên bụng chân. Bây giờ bác bảo cháu mua thuốc gì được?"
Mắt bác Phớn sáng lên. Bác có cảm giác sung sướng của một người được hỏi đúng cái sở trưởng của mình. Bác khẽ ghé miệng sang một bên để nhổ bãi cốt trầu xuống bùn rồi nói:
"Thuốc thang gì. Bây giờ phải giã cua sống lấy nước cho bà ấy uống thì mới rút cơn đau xuống được.”
Ngoan cãi:
"Đấy là phải đòn thì mới uống nước cua hay là nước lá tre chứ.”
Bác Phớn chồm lên như một người vừa nghe tin nhà mình động mồ, động mả. Bác cất tiếng chửi ngay con nhãi đã dám láo lếu cãi lời bác:
"Cha tổ bố tiên nhân nhà mày, trứng mà cứ đòi khôn hơn rận. Thế ngã mà không giập xương, giập tủy ra à.”
Nói rồi bác làm mặt giận, úp chụp cái nón lên đầu, cung cúc đi thẳng. Mãi một lúc sau bác mới thấy tiếc rằng mình không nhớ ra để bảo nó cái món lá râm bụt giã nhỏ đắp lên vài hôm thì cũng rút ngay được cơn đau xuống. Phải rồi, ngã thì chỉ có lá râm bụt là tốt nhất. Bác tiếc mãi về sự hay quên của mình, và nhiều lần bác cũng đã hay quên như thế để cứ bệnh này thì mách thuốc nọ. Tuy vậy, được cái là thuốc của bác mách cũng chưa làm chết được ai.
Còn cái Ngoan thì quay trở lại tìm anh. Chúng nó bàn tán với nhau và cùng đồng ý rằng mua cua sống giã là một món thuốc không thể tin được. Vừa may thằng Ích túm được ngay gã Hai Hào đạp xích lô ở xế ngay nhà nó, lúc ấy đang lễ mễ khuân những xúc vải của người ta vào chợ. Một tay Ích nắm lấy người gã, một tay nó sờ lên nếp vải trắng phau phau, nó hỏi:
"Ngã chảy máu thì bôi gì được hở bác?"
Hai Hào gạt hẳn nó ra một bên cho bàn tay lem luốc của nó khỏi sờ vào xúc vải, rồi đáp:
"Ra hiệu thuốc tây mà mua "canh ki rốt.”
Ích reo lên một tiếng vui mừng vì cái tên thuốc mà bác ta vừa nói nghe có lý bội phần. Thế là nó bỏ ngay bác ở lại, chạy về chỗ, nắm lấy tay em:
"Phải rồi, có thế mà không nghĩ ra. Phải mua "canh ki rốt", Ngoan ạ.”
Ngoan biểu đồng tình ngay. Cái tên thuốc nghe rất quen thuộc và hữu lý đối với chúng nó. Hai anh em quên bẵng hẳn câu chuyện mua ô mai và lược bợp dự định từ hôm trước. Chúng nó rủ nhau ra ngoài phố. Tới một hiệu thuốc, Ích móc tất cả tiền trong túi trao cho Ngoan rồi đẩy nó vào. Giây phút chờ đợi thật là lâu. Ích thấy tim mình đập mạnh. Đây là lần đầu tiên nó dám tự ý bỏ tiền ra để mua thuốc trong một hiệu giầu có sang trọng như thế. Nó không biết với hai chục thì có đủ để mua một lọ hay không. Trong bụng Ích, nó vái trời cho cái Ngoan đừng ra tay không. Nó sẽ được đem lọ thuốc về cho u nó. Sự mong u nó khỏi thì ít, nhưng để tỏ lòng thương xót với u thì nhiều. U sẽ quý chúng nó hơn, vì chúng nó vẫn coi u là ruột thịt.
Mắt Ích cứ dán mãi vào cửa hiệu. Nó trông thấy cái Ngoan bé loắt choắt đang kiễng chân lên cao cho với tới cái quầy hàng bằng xi măng cao ngất ngưởng. Người ta trao đổi những lời gì với nó. Một lát Ngoan quay trở ra, tay cầm lọ thuốc. Ích thở phào khoan khoái. Chân nó nhẩy cẫng lên, nó chạy ù té lại phía Ngoan. Mặt cái Ngoan cũng tươi như hoa. Tay nó múa lên vì giá lọ thuốc chỉ có bốn đồng bạc. Một giá rẻ rề mà không bao giờ anh em nó ngờ tới. Giả thử họ có bán cho hai chục một lọ, nó cũng vui lòng bỏ tiền ra mua không tiếc xót. Ngoan trao lại chỗ tiền còn thừa cho Ích với sự vui sướng như vừa mới bắt được lọ thuốc quí giá ấy. Hai tay nó ôm khư khư lấy cái lọ còn thơm mùi mực in trên nhãn hiệu. Nó đưa cả lên mũi hít thật dài. Có lẽ trong đời nó, đấy là lần đầu tiên nó được cầm lọ thuốc tây còn mới nguyên ở trong tay. Bây giờ thì nó không thiết chuyện đi mua lược và ô mai bằng sự đem thuốc về cho u Tám. Những ngày trước Ngoan chỉ biết thương u ở trong lòng. Mỗi khi dượng Tám đánh u, Ngoan chỉ biết khóc. Nó không biết nói thế nào để tỏ lòng thương yêu của nó với u cả. Nhất là u Tám chẳng hề trò chuyện gì với anh em nó. Hôm nay với lọ thuốc do chính anh em nó tự ý mua về, Ngoan đoán chắc u Tám sẽ hả lòng và vui sướng. Ngoan thấy mình vui sướng trong sự vui sướng ấy của u. Nó kéo tay anh đi thật nhanh về nhà.
Lúc đến cổng, chúng nó đã thấy u Tám trở dậy và đang ngâm những cái quần áo bẩn trong chiếc chậu sành. U Tám ngạc nhiên nhìn hai đứa rồi hỏi:
"Ngoan không đi hàng à?"
Ngoan nhanh nhẩu giơ lọ thuốc ra trước mặt và nói:
"Nghe anh Ích nói u ngã, chúng con đi mua thuốc cho u đây này.”
U Tám ném cái quần vào trong chậu, nhìn vào mặt chúng nó, rồi đón lấy lọ thuốc ngắm nghía. Một lát u chép miệng:
"Chỉ vẽ chuyện cho tốn tiền. Bao nhiêu?"
Ích đáp:
"Có bốn đồng thôi u ạ.”
U mở cái nút ra đem lên mũi ngửi rồi nói:
"Mà tao có làm sao đâu mà phải thuốc.”
Cái Ngoan chạy lại cúi xuống vén một bên ống quần của u nó lên. Cả hai đứa cùng giật mình sửng sốt. Một mảng thịt ở chân u giập nát như những vỏ trứng vụn. Từng tia máu ở đấy rỉ ra theo những ngấn nước vàng rồi đọng cục lại. Mặt u Tám nhăn lên, đầy vẻ đau đớn. U ngồi xệp xuống đất, dùng hai tay nắn đều ở chung quanh. Ích nói như khóc:
"Làm sao mà đến nỗi thế hả u?"
U Tám không ngửng lên, trả lời:
"Tao bị cái xà lớn nó đổ vào người. May mà chỉ đánh vào chân thôi.”
"Thế người ta không băng bó cho u à?"
"Có chứ, nhưng tao bảo không việc gì. Nếu lên xin thuốc thì cai nó cho nghỉ việc và ăn chặn mất lương của mình.”
Ích và Ngoan cùng đau xót nhìn vào vết thương của u Tám. Một lát Ngoan lẳng lặng lên nhà lấy xuống một nắm giẻ. Nó sai thằng Ích múc một chậu nước mưa để rửa vết bẩn bám vào quanh chỗ đau của u. Trông thấy hai đứa trẻ sốt sắng bu lại chung quanh mình, tự nhiên u Tám bưng mặt khóc. U nghĩ đến căn nhà nhỏ ở ngoại ô Hà nội năm nào. Người đàn ông ngày xưa chết đi mang theo của đời u sự ấm cúng và vững chãi. Rồi u lại lầm lỡ một lần nghe theo lời hão huyền của dượng Tám. Bây giờ nghĩ lại u chỉ còn biết nhớ tiếc những ngày đã qua và cắn răng chịu đựng sự khốn khổ bây giờ. Đã thế, nghĩ đến anh em thằng Ích và nghề nghiệp nhem nhuốc của chúng nó, u lại càng không vui. Từ trước đến nay, u vẫn muốn cho chúng nó đi học. Nhưng dượng Tám đã làm hư hết cả dự định đẹp đẽ ấy. Dượng cần tiền và chỉ còn thiếu điều dượng cho chúng nó đi ăn cắp. Anh em thằng Ích thì lấy sự kiếm được tiền làm vui thích và hãnh diện, trong khi u rất buồn về điều ấy. Tuy vậy không bao giờ u nói ra vì u không làm được gì để thay đổi được cái hoàn cảnh khốn khổ cứ mãi mãi đeo đẳng này.
Chương bốn
Vào những lúc buổi chiều sâm sẩm tối, mọi người trong xóm Cỏ mới trở về đông đủ. Nhất là lão Hói thì không hôm nào vắng mặt. Lão đi đâu ít ai biết ngay từ lúc trời còn sương lạnh buổi sáng và trở về rất đúng giờ khi thành phố mới lên đèn. Nhác trông từ xa, người ta đã nhận ra ngay cái hình thù kỳ dị của lão. Lão đi lom khom, cái đầu nhẵn bóng giơ ra phía đằng trước. Khuôn mặt của lão tóp lại, choắt choeo. Mũi lão đỏ ửng như một quả cà chua. Cặp lông mày rậm, lốm đốm bạc rủ xuống hai con mắt lúc nào cũng đục ngầu lên, tráo trưng vì men rượu. Tứ thời lão bận một cái quần tây vàng, mất một khúc gấu, vừa bẩn vừa rách, thắt lưng chẳng có, lão đã thay bằng một sợi dây gai luồn qua cạp quần, buộc túm lại ở phía đằng trước. Lão bận một cái sơ mi lụa nhuộm màu nâu già, lúc nào cũng bốc ra mùi hôi khét lẹt và chua như mẻ. Vai lão đeo một cái túi vải. Trong túi, lúc dốc ra, người ta nom thấy có một cỗ bài tây cáu ghét, một cái khăn tay nhầy nhụa mũi dãi và mồ hôi, một gói giấy đựng thuốc lá sợi đen và một cái bật lửa cũ kỹ vừa nặng, vừa thô, đã phai bóng cả nước mạ bên ngoài. Đó là cả cơ nghiệp của lão.
Lão kiếm ăn bằng gì, không ai rõ. Nhưng lúc nào lão cũng ra vẻ phong lưu. Thuốc lá sâu kèn lão phì phèo luôn trên miệng. Rượu lão nốc hàng chai. Và buổi chiều khi trở về lão say sưa sung sướng như một người không vướng víu nợ đời. Lần cháy nhà trên phố, lão khiêng về được một cánh cửa cháy dở. Lão đem kê nhờ dưới mái hiên nhà gã Hai Hào làm chỗ ngủ. Những hôm trời mát, lão vừa đập muỗi vo vo trên mặt, vừa chõ mồm qua lỗ hổng của vách đất nói chuyện huênh hoang với gã chủ nhà. Có hôm lão đọc cả thơ cho Hai Hào nghe nữa. Thơ lão thì lẩm cà lẩm cẩm, vừa đọc lão vừa giảng:
"Ngọc xuất thiên cung thủ quả châu. Ngọc đây là Ngọc Hoàng Thượng Đế đó. Ông trời mà... ông trời xuất ngai ngó xuống tụi mình.”
Hai Hào hỏi:
"Vậy chớ quả châu là quả gì?"
"Châu là châu báu. Vàng bạc châu báu ông trời thiếu gì. Người ta đây ổng còn sinh ra biết bao nhiêu nữa mà..."
Rồi lão ngâm tiếp:
"Ngọc xuất thiên cung thủ quả châu. Hoàng thiên thương mến quả địa cầu. Ông trời bình đẳng mà, ổng không về phe một ai hết, ổng thương mến hết ráo trọi mọi nơi, mọi người... cùng khắp địa cầu này. Vậy mới xứng bực ông trời chớ.”
"Ổng thương hết mọi người sao tụi mình khổ mãi vậy cà?"
Lão Hói cười ha hả:
"Vậy mới có thơ chớ! Phải biết... thơ này "sâu" lắm mà. Nghe nốt coi nè:
Hoàng thiên thương mến quả địa cầu
Giáng tạo thay đời không tranh đấu
Thế giới thanh bình khỏi thuế sâu.
Rồi coi nghen, ông trời sẽ thay đổi tuốt hết cái thế gian này. Vì trên đời này thì nhất hết thẩy là ổng mà. Ổng sinh ra mình, sinh ra cây cỏ, sinh ra mọi thứ lu bù. Tây, Tầu, Anh, Mỹ gì cũng thua ổng ráo trọi..."
"Thôi đi cha... Thời buổi nguyên tử mà cha tính nói những chuyện đâu đâu.”
"Chèn ơi... Cha biết một mà không biết mười. Qua hỏi nhen, ừ thì các cha có tàu bay hoả tiễn tùm lum, thử hỏi không có khí trời của ổng trên đầu thì các cha có nghẹt léc không. Ông nội ơi, cứ là rơi rụng tuốt luốt hết! Thế cho nên mới:
Giáng tạo thay đời không tranh đấu.
Thế giới thanh bình khỏi thuế sâu... mà!"
Thấy Hai Hào làm thinh, lão nói tiếp:
"Lúc đó nghen, không còn có cái nước chiến tranh um sùm bậy bạ như bây giờ. Không tranh đấu mà. Chiến tranh không còn thì thế giới thanh bình, người người ấm no. Đến cái nước ấm no cả rồi thì còn ai thâu thuế mần chi. Chèn ơi...hay thiệt hay..."
Rồi lão lại cất giọng ư ử ngâm bài thơ tuyệt tác của lão mãi đến khi trăng lên quá đỉnh đầu. Nhiều hôm nằm ngủ quên, mưa đổ xuống ướt không còn một sợi tóc. Ấy vậy mà lão chẳng hề bao giờ ốm. Sức lực lão dai như đỉa. Cứ sáng tinh mơ là đã thấy lão thức dậy, ngồi bó gối hút thuốc một mình trong góc tối. Môi lão bậm lại, mũi hếch ra, hai bên gò má tóp lại làm nhô lên cái lưỡng quyền cao và nhọn. Đến khi trời bắt đầu hửng sáng là lão lại xách cái bị lên vai ngất ngưởng đi ra ngõ để mãi đến tối mới trở về với hơi men sặc sụa.
Hôm nay lão đi khật khưỡng qua lề đường. Ống chân nhún nhẩy trên đôi giầy ba ta rách lòi cả ngón chân. Hai tay lão múa may. Miệng lão lẩm bẩm. Có khi lão ca vọng cổ một mình. Bọn trẻ trong xóm mê cái tính khôi hài của lão nên hễ nhác thấy lão về là chúng bu lại. Một đứa chổng mông vào mặt lão, đít cong lên, ngực ưỡn ra phía trước, hai chân nó đi khệnh khạng, miệng nó hét to:
"A lê! Đi nào... ắc ê... ắc ê..."
Lão Hói cũng vội vàng khuỳnh hai đầu gối xuống, đít lão ngoe nguẩy, hai tay lão vung lên bắt chước kiểu đi của thằng bé, miệng lão kêu theo nó:
"Ắc ê! Ắc ê!"
Bọn trẻ khoái chí vỗ tay reo ầm ĩ. Chúng nó theo lão đi mãi vào mạn trong xóm Cỏ. Đám người đi qua nhà ông Phó Ngữ. Đào ở trong ngứa miệng hỏi ra:
"Mấy cút rồi lão Hói?"
Lão Hói đứng dừng lại. Cặp mắt của lão hấp him. Lão nhìn hai cái bụng chân trắng nhẫy của Đào lúc nàng đang xắn quần tưới những gáo nước lên gánh rau đầy tú hú. Rồi chẳng chờ Đào hỏi thêm một tiếng, lão sà ngay vào bực cửa. Đào chu chéo lên:
"Khắm chửa! Vô đây làm gì? Đừng có ám quẻ người ta, bố già..."
Lão Hói bật lên cười, giọng lão lè nhè sặc men rượu:
"Qua dô uống nước, ăn trầu mà..."
Đào buông cái gáo xuống đất, lấy cả hai tay tì lên vai lão, đẩy ra ngoài. Lão Hói lùi lại loạng choạng. Mùi mồ hôi chua loét xen lẫn với hơi thở nặng nề của lão khiến mũi Đào chun lại. Nàng "xì" mấy cái thật mạnh và dúi hắn lão ra khỏi bực cửa. Lão Hói ngã ngồi ngay xuống những viên gạch lổn nhổn. Hai chân lão duỗi ra, người lão vặn đi mấy cái. Xương lão rão ra, kêu ục ục. Lão khoan khoái cười nhăn cả mấy cái răng cải mả móm mém. Lão không giận Đào mà chỉ lẳng lặng lục cái túi lấy ra bao thuốc lá, nhón một dúm đặt lên miếng giấy mỏng rồi vê tròn trong hai bàn tay. Quấn xong điếu thuốc, lão châm lửa hít một hơi thật dài. Miệng lão phà mạnh những sợi khói khai và khét lẹt vào mặt lũ trẻ. Bọn chúng nó túa lên, thi nhau nhẩy thật cao để bắt những sợi khói xanh lơ bay tản mạn. Mọi người đi ngang qua bị nghẹn ứ lại, chen chúc chật cả lối đi trong tiếng cười nói loạn xạ.
Chợt một cái xích lô từ xa lăn khấp khểnh vào lối ngõ. Tiếng vành xe nẩy lên xọc xạch, xen lẫn với tiếng chuông bóp ầm ĩ. Gã Hai Hào vừa đập vào thùng xe vừa hét:
"Dô... Dô..."
Bọn trẻ túa ra hai bên rìa đường rồi lại ùa tới. Chúng nó bỏ lão Hói để trèo lên chiếc xe. Đột nhiên cái xe nặng trĩu những người. Có đứa trèo phắt lên đệm, có đứa đánh đu ở đằng trước, ở đằng sau, nom xúm xít như một chùm sung, lố nhố hàng chục cái đầu cạo nhẵn, đầy chốc và lở. Hai Hào nói lớn:
"Tụi bây rút chân nên, không kẹp chết đừng kêu!"
Nói rồi gã đứng lên đạp. Bắp thịt của gã nổi cuồn cuộn ở trên hai vồng tay. Mồ hôi loang loáng thấm ướt cả lần áo thung rách lỗ chỗ. Đít gã cong lên, ngoáy bên nọ, ngoáy bên kia. Nhắc trông thấy Đào đứng trong khung cửa, gã cất tiếng hát:
"Đào thơ niễu yếu em ơi!
Kén gì cho đặng bằng nơi anh hào!"
Cho rằng mình dùng được chữ "anh hào" mấy nghĩa, Hai Hào cất tiếng cười khoái trá. Tay gã lại gõ vào thùng xe, đít gã lại ngúng nguẩy, gã hò không ngớt miệng:
"Dô... Dô..."
Ở trong khung cửa, Đào liếc gã một cái thật dài, rồi nàng hắt theo cái xe ọp ẹp một gáo nước lã. Gáo nước văng lên tung toé khiến lão Hói nhỏm phắt dậy, chu chéo lên:
"Ý trời đất ơi... Bộ đui hả?"
Đào trông ra, vội vàng nói:
"Ấy chết... xin lỗi! Tưởng lão đi rồi.”
Lão Hói vừa cằn nhằn vừa phủi những giọt nước dính đầy cả cổ lẫn má, rồi lão nói:
"Đàn bà đâu có thứ đàn bà..."
Đào dẩu môi lên, hỏi xẵng:
"Khắm chửa... đàn bà làm sao?"
"Đàn bà đẹp quá cỡ chứ làm sao!"
Đào bật lên cười, hắt nốt gáo nước cặn về phía lão rồi lại cúi xuống vục nước tưới lia lịa lên gánh rau. Lão Hói lèm bèm một lúc rồi cũng xách túi lên vai. Mồm lão lại cất tiếng ư ử:
"Ngọc xuất thiên cung thủ quả châu
Hoàng thiền thương mến quả địa cầu...
Có ông trời! Có ông trời thiệt mà..."
Đến đầu lối rẽ, lão ngừng lại trước tiếng khóc như ri của ba đứa trẻ. Chúng nó là con nhà mụ Năm Trà. Năm Trà đi lính từ mấy năm nay. Gã để vợ một mình nuôi mẹ già và bầy trẻ. Hàng năm gã chẳng gửi về nhà lấy một đồng xu. Mụ Năm Trà vất vả ngược xuôi lo lắng mãi rồi cũng đâm chán. Mụ coi cái bổn phận của mình là một món nợ lớn. Bà cụ lẩm cẩm và già nua chẳng giúp cho mụ được gì hơn là dò dẫm ra vào với ba đứa cháu nội. Một đứa gái lên sáu, môït đứa gái lên năm và một thằng bé lên ba. Chị em chúng nó là hiện thân của sự nghèo đói. Quần áo không được lấy một cái lành lặn. Mặt mày nhem nhuốc, bẩn thỉu và lúc nào cũng vêu vao vì bữa có bữa không. Mụ Trà thì đi lên phố tối ngày. Một vài hôm mụ đổ vào thùng dăm ba chục lon gạo. Vại dưa trong nhà ủng lên, đóng váng dầy đặc, chưa ăn hết đùm này đã ấn vào đùm khác. Thỉnh thoảng lắm mụ mới mang về cho mấy khúc xương bò, thứ xương vớt ra ở thùng phở. Lũ trẻ nhôi nhai gậm nhá hàng buổi. Tuy vậy không phải mụ ta nghèo đến độ ấy đâu. Mụ có vàng đeo ở hai tai. Cổ tay còn có đôi xuyến. Mỗi lúc ra đường, mụ toàn bận quần mỹ a với cái áo bà ba may bằng phin nõn. Mụ mới ngoài ba mươi nên trông vẫn còn xuân sắc lắm. Hai gò má hồng hào, cặp môi bôi son đỏ chót. Bộ ngực thỗn thện của mụ kín hở trong cái áo nịt bằng sa tanh đen, thít hằn lên lớp da in rõ sau lần áo mỏng. Ra ngoài thì mụ tươi tỉnh như hoa. Nhưng ở nhà thì mụ không ngớt gầm gừ với mẹ chồng và các con. Cặp mắt sắc như dao của mụ lườm chúng nó như muốn giết. Đối với chúng, mụ ít lòng thương. Mụ cầm đầu đứa này đập vào đầu đứa nọ. Có khi mụ bóp cổ chúng nó rồi lắc lia lịa khiến mắt đứa bé cứ trợn lên. Bà cụ chẳng oai quyền gì chỉ biết ngồi cúi mặt làm thinh. Thật ra cụ cũng sợ mụ ta nốt.
Lúc lão Hói đi qua thì ba đứa trẻ đang khóc lóc hò hét với nhau ở đầu hè. Con bé Ba ỉa đùn, phân vãi từ đầu đến chân. Bát cơm đổ vung ra khắp mặt đất. Thằng Út lê từ góc này sang góc kia, phân cũng dính đầy cả lên mặt và tóc. Bà cụ Nết vừa chửi, vừa quơ lấy dúm lá chuối, vét cả cơm lẫn phân đùn đống lại. Ruồi và nhặng bu đen, bay vo vo loạn xạ. Lão Hói đứng lại, miệng lão vê điếu thuốc bằng hai bờ môi, lão kè nhè:
"Ỉa rồi còn khóc! Trời ơi, tụi bây bộ muốn làm lớn hả?"
Giọng ồm ồm của lão làm mấy đứa sợ hãi im thít. Mắt chúng nó giương lên nhìn lão, nhưng cái mồm thì vẫn còn như mếu dở. Bà cụ bèn nhân dịp nói gióng:
"Thôi đấy cho ông già bế tuốt tụi bây đi... Chèn ơi! Cực với tụi bây bao giờ mới hết chớ.”
Lão Hói cúi xuống, vừa quệt tay lên má thằng út, vừa nói:
"Kêu làm chi cho mất công, bà cụ. Có ông trời... có ông trời thiệt mà!"
Nói rồi lão giơ tay bẹo lên má thằng bé khiến nó lùi lại, mắt sợ hãi nhìn lên. Chợt có tiếng hỏi ở đằng sau:
"Có trời thật không, lão Hói?"
Lão Hói quay lại. Lão nhận ra Huệ đang tới gần. Nàng bận áo đỏ, quần trắng, đánh môi hồng, cặp mắt bôi đen, sâu hõm xuống. Tay lão xòe ra, lão cười sung sướng như được người ta gãi trúng chỗ ngứa của mình:
"Thiệt chớ. Nói thiệt đấy chớ. Bộ không có ông trời làm sao có được cô.”
Huệ đáp:
"Thôi đi dấm dớ! Dễ thường ông già bà già nhà tôi không "ấy" thì dễ có được tôi đấy chắc.”
"Vậy chớ ai sinh ra ông già, bà già nhà cô?"
"Ông nội bà nội chớ còn ai.”
"Vậy ông nội bà nội thì ai sinh?"
"Khỉ gió đùng lăn nhà lão lắm nữa. Hỏi vậy thì có đến hàng đời không nói hết.”
"Hết chớ sao không hết. Bộ nhiều lắm là ngàn vạn ức đời chớ bao nhiêu. Vậy trước đó hết thẩy thì ai?"
Huệ hỏi lại:
"Vậy thì ai, lão nói thử coi?"
Lão Hói rúc lên cười, hai hàm răng của lão nhe ra, hở hết cả lợi:
"Ông trời chớ ai! Ông trời chớ ai!"
"Vậy ai sinh ra ông trời kia chớ.”
"Ý trời đất ơi! Đã là ông trời thì còn ai sinh ra được ổng nữa cơ chớ! Ổng là nhứt hết thẩy mà..."
Huệ phản đối lão bằng cách lấy chân đá một viên sỏi nhỏ về phía lão rồi bỏ đi. Mùi nước hoa thoang thoảng trong gió mát làm mũi lão hếch lên. Lão lim dim nhìn cái mông của nàng ngúng quẩy theo nhịp bước. Lão nhớ đến câu hát của bác Tốn vẫn thường gẩy đàn, giọng vọng ra:
"Cô Huệ ơi
Nếu cô lấy tôi thì tôi xây nhà gạch hai tầng...
Tôi mua ô tô cho cô ngự, mua váy đầm cho cô thay.”
Bất giác lão bật lên cười.
Về đến nhà, lão móc cái túi lên vách rồi nằm dài trên cánh cửa. Trời đã tối hắn. Mấy vì sao long lanh ướt trên mấy nóc nhà tranh. Qua những khung cửa gỗ của dẫy nhà hai bên lối đi, ánh đèn dầu đỏ úa bắt đầu le lói. Men rượu thấm dần làm hai mắt lão díu lại. Lão thoáng nghĩ đến những hình ảnh ban ngày. Buổi sáng, lão lang thang ở những vườn hoa, gạ bói bài tây cho mọi người. Buổi chiều, lão trở về khung cảnh quen thuộc trong xóm Cỏ. Lão thấy mình sống đủ một ngày sung sướng.
Nội xóm Cỏ, Hai Hào chỉ thích có mỗi Đào. Gã cảm Đào mê mệt và chẳng để lỡ dịp nào để có thể ghẹo nàng dăm ba câu chuyện vu vơ. Đào không đẹp nhưng có duyên. Một phần cũng là do cái tính lẳng lơ của nàng. Đứng ở đâu, Đào cũng cười được. Tiếng cười rích lên như chuột rúc. Cái cổ nghẹo sang một bên. Hai gò má núng nính thịt rung rinh, cặp mắt tít lại. Những hôm Phó Ngữ say rượu đi ngủ sớm, Đào lẻn cha ra đứng túm năm túm ba ở ngoài giếng nước. Mấy cô chụm đầu vào nhau nói chuyện nhảm rồi rũ lên cười.Tiếng phát đùi, phát bẹn đôm đốp trong bóng tối. Mà bao giờ người ta cũng nghe thấy tiếng Đào to nhất. Nàng "chí" bạn rõ đau rồi chu lên:
"Ý cha mẹ ơi! Bộ mày "muốn" hả..."
"Khỉ gió, "cấu" chết thịt người ta đây này. Về nhà mà cấu nó có được không?"
"Nó là đứa nào. Không khai được tao rút lưỡi.”
"Bộ tưởng người ta đui cả đấy hẳn. Hai Hào chớ ai!"
Đào giẫy nẩy lên, phát đen đét vào lưng bạn:
"Khắm chửa! Khắm chửa! Ai thuê mà nói..."
Một cô bắt chước giọng gã đàn ông:
"Đào thơ niễu yếu em ơi!
Kén gì cho đặng bằng nơi cái anh Hai Hào.”
Tiếng cười lại choé lên như tuột nắp và năm sáu cô lại ôm nhau rũ ra như những người không có xương sống.
Nhiều hôm mải chơi, Đào bị bố xách gậy đuổi chạy đầu làng cuối xóm. Chó sủa vang cả một vùng. Đào xắn quần chạy trước. Phó Ngữ say rượu loạng choạng đuổi theo sau. Cái gậy vung lên, lão vừa quật xuống đất vừa chửi tán loạn:
"Cha bố tiên nhân cái con đĩ ngựa, ông mà tóm được mày thì ông cắt lưỡi, biết chưa..."
Nhưng chẳng bao giờ lão tóm được Đào cả. Nàng chạy như ngựa vía, lồng qua hàng rào nhà này, leo qua cửa nhà kia, trong một loáng, chỉ còn thấy Phó Ngữ đứng chống gậy một mình mà chửi toáng lên khắp ngõ:
"Tiên nhân cha nhà mày, biết chưa! Con đĩ ngựa!"
Nội ở cái xóm này, lão là người khó tính nhất. Lão goá vợ và chỉ có một mình Đào. Càng về già lão càng trở nên cau có, gắt gỏng. Mối lo duy nhất của lão là sợ thiên hạ "chim" không mất con gái. Mỗi buổi chiều ở xưởng về, lão thường sai Đào đi mua lưng chai rượu. Rồi suốt cả buổi tối lão cứ ngồi ôm mâm cơm và ly rượu để lèm bèm với con gái:
"Tao nói cho mà hay, cha bố cái con đĩ mẹ nhà mày! Con gái là ăn thua ở cái tiết trinh, biết chưa? Mày lăng loàn đú đởn thì có con chó nó thèm lấy mày, biết chưa?"
Đào ngồi nghe mãi cũng chán tai, một đôi khi tức mình cũng chêm một câu:
"Thì ai đã làm gì mà cứ rối mãi lên.”
"Rối cái thằng bố nhà mày. Dễ tao không rối thì để cho mày đi đánh đĩ à. Tao nói cho mày hay, biết chưa, giữ mày như giữ bom trong nhà!"
"Thì đuổi tôi đi!"
"Đi đâu? Mày tính đi đâu, con đĩ ngựa! Này, ông nói cho mà hay, ông còn ngồi đây thì chẳng có đứa nào bước ra khỏi được cái nhà này đâu! Biết chưa!"
Thành ra trong nhà, tiếng rằng chỉ có hai bố con mà không lúc nào là không to tiếng hay xô xát. Đào thì dẫu có đánh chết cũng không bỏ được cái tính lẳng lơ. Hơi một tí là mắt đã tít lại, miệng nhăn ra cười. Nhưng chính vì cái tính xốc nổi, bộp chộp ấy mà Hai Hào lại say nàng mê mệt. Gã tống tình với nàng bằng đầu mày, cuối mắt. Mỗi lần đạp xe qua giếng, nghe thấy tiếng Đào cười, không biết ất giáp gì, gã cũng phá lên cười theo. Đào dẩu môi nhìn lên:
"Khắm chưa! Ai người ta làm gì mà cười.”
Gã không đáp, chỉ nhe bộ răng trắng nhởn ra, nhìn chòng chọc về phía nàng. Cái nhìn sỗ sàng của gã khiến Đào bẽn lẽn, nóng bừng cả mặt. Nàng liếc gã một cái thật dài rồi cúi xuống nói bâng quơ:
"Dơ đâu có thứ dơ lạ!"
Rồi nàng cao giọng hỏi bà cụ Tư đang giặt quần ở đằng xa:
"Có phải thế không hả cụ Tư?"
Bà cụ ngẩng lên ngơ ngác:
"Phải cái gì kia?"
"Dơ đó... phải dơ không?"
Bà cụ cau mặt lại, ném đống quần thâm một cách giận dỗi vào chậu giặt rồi càu nhàu:
"Chớ lại không dơ. Nó thấy tháng, nó bắt con mẹ nó giặt..."
Đào rú lên cười. Nàng hể hả nhìn theo Hai Hào bẽn lẽn đạp cái xe ken két trên vòng xích sắt. Bắp thịt của gã vồng lên, hai bả vai vạm vỡ ướt đẫm mồ hôi, nom nhễ nhại ở dưới nắng.
Cho đến một hôm, Đào đi chợ vào lúc hừng đông. Trên con đường nhàn nhạt ánh điện, nàng nhí nhảnh quẩy gánh rau kĩu kịt trên vai. Hai Hào cũng dậy thật sớm, đạp xe theo hút ở đằng sau. Tay gã gõ nhịp vào thùng xe, miệng gã huýt sáo vu vơ. Đến một chỗ tối, gã la lên:
"Rớt... rớt!"
Đào hạ gánh rau xuống, đứng lại xem xét rồi chanh chua:
"Khắm chửa! Rớt ở đâu nào?"
Hai Hào cười ha hả:
"Ô hay! Ai nói nhà cô!"
"Chả nói đây thì nói ai.”
"Nói bâng quơ!"
"Này thôi đi, sáng ra đừng có ám quẻ người ta!"
"Chả ám đâu... thương thì có.”
"Thương! Thương cái xương không còn.”
"Thật mà... thương thật mà!"
"Thề đi nào!"
"Đứa nào nói dối thì xe nó cán nòi con ngươi ra.”
"Phỉ phủi đi! Chỉ dại nào!"
Hai Hào sướng mê tơi, gã vội vàng tuột xuống khỏi yên xe. Hai bên đường phố hãy còn vắng ngắt. Ngọn đèn đường vừa mới tắt trên nền trời trong xanh, tươi mát. Đứng ở bên Đào, gã tẩn mẩn bứt những lá rau non đem miết nát trong bàn tay. Giây lâu Đào gỡ cho gã ra khỏi sự lúng túng:
"Bứt mãi hư hết rau của người ta.”
"Hư thì đây đền.”
"Đền cái gì nào.”
Gã ôm cứng cô gái vào hai cánh tay. Đào cũng ghì chặt lấy gã. Gã ấp úng trong hơi thở nóng hổi:
"Đào ơi! Mình ơi..."
Cặp môi của gã hôn như mưa lên má của Đào. Giây sau, gã mới nói, giọng vẫn còn lạc đi:
"Nên đây, tôi chở mình vào chợ.”
Đào giẫy nẩy:
"Chịu thôi, chúng nó chế chết.”
"Chế cái nỗ đít! Mặc bố chúng nó..."
"Chịu thôi. Để đến tối.”
"Tối ở đâu?"
"Sau giếng đi.”
"Mấy giờ?"
"Chín giờ.”
Vừa đáp, Đào vừa đẩy gã lùi lại phía sau. Nàng sửa lại mái tóc rồi cúi xuống nhấc cái gánh lên vai. Hai Hào sung sướng đưa tay lên gãi mãi bả vai mình. Đào nói:
"Cấm theo đấy nhé.”
Gã gật đầu lia lịa. Lúc Đào đi xa, gã nói với theo:
"Mình đi bình an nhe... tối nhe... thiệt nhe..."
Từ hôm ấy, gã thì thọt với Đào rất nhiều lần. Hai người hẹn nhau hoặc ở đầu nhà, hoặc ở ngõ giếng, có khi Đào liều lĩnh lại rủ gã đi coi tuồng nữa. Hôm hẹn với Đào, gã đóng kín cửa để sửa soạn cho mình. Hộp bi lăng tin đã nhiều lần lấy ra, lấy vào để ướm, để ngửi, bây giờ gã mới thực sự đem dùng. Gã chải đầu bóng loáng và rẽ đường ngôi thật thẳng. Gã mặc chiếc áo sơ mi trắng bốp bỏ ra ngoài chiếc quần ka ki ngắn và chật căng. Chân gã rửa sạch. Gã xỏ vào đôi guốc mộc còn mới nguyên thớ gỗ. Gã tiếc cái gương chỉ bé bằng nửa bàn tay, không đủ cho gã soi cả bóng của mình. Lúc sửa soạn xong, gã thập thò ở cánh cửa mấy lần rồi mới dám đánh bạo bước ra. Gã cảm thấy rất xấu hổ vì chưa bao giờ mình ăn mặc trịnh trọng như thế. Mặc dầu trời đã tối hẳn mà gã vẫn cúi đầu len lét đi, tưởng như tất cả lối xóm đều trông thấy mình.
Gã bước những bước thật dài, đôi guốc ngượng nghịu trên hai bàn chân thô kệch. Gạch đất lổn nhổn làm gã vấp mấy lần. Qua nhà bác Nhan, cái Hòn nhác trông thấy gã vội reo lên:
"Chèn ơi... bác Hai đi đâu mà diện "oách" thế kia.”
Hai Hào nóng mặt, vội vàng giơ hai tay ra suỵt nó:
"Im mồm! Tao nên phố đây.”
Hòn nhẩy cẫng hai chân:
"Cho cháu đi phố với.”
Gã tức ứ lên tận cổ:
"Đi cái nỗ đít! Đừng có mà nôi thôi.”
Nhưng cái Hòn đâu có biết nỗi khổ tâm của gã. Nó nói bô bô:
"Cháu đi được. Hôm nay u cháu về muộn mà.”
Mắt Hai Hào trợn lên, gã muốn vả cho nó mấy cái tát. Nhưng nghĩ thế nào, gã lại thò tay vào túi lấy ra đồng bạc rồi đay nghiến:
"Suỵt! Mồm chó gì mà to như mồm mõ thế. Đây, tao cho một đồng. Về nhà cấm nói nà gặp tao nghe không.”
Cái Hòn vội vã thủ ngay tờ giấy bạc vào túi rồi gật lấy, gật để:
"Cháu không nói đâu... không nói gì hết.”
Rồi nó ù té chạy tuốt vào khuôn cửa. Hai Hào thở một hơi dài nhẹ nhõm. Gã đi như chạy trốn ra đầu ngõ. Lúc qua quán nhà cụ Tư, gã tảng lờ như không nom thấy mọi người đang ăn uống um sùm ở bên trong. Mà cũng không có ai nom thấy gã cả.
Đến chỗ hẹn, gã đã nom thấy Đào đang chờ dưới bóng tối một lùm cây. Hai người đi ngược lên mạn phố. Hôm nay Đào cũng diện ghê. Nàng bận áo vải phin nõn và cái quần sa tanh đen, bóng mượt. Hai gò má nàng đỏ ửng lên vì phấn sáp. Miệng nàng bỏm bẻm nhai một miếng trầu. Hai Hào sung sướng hết ngắm người yêu lại nhìn ra xung quanh.
Thành phố đông nghịt người qua lại. Đèn thắp sáng choang khắp mặt phố. Tiếng còi xe, tiếng hò hét, tiếng máy nổ vui như nỗi vui trong lòng gã. Gã thấy mình như bơi trên mấy tầng mây. Gã nắm lấy bàn tay mềm mại của Đào. Nước da mát rượi của nàng gây cho gã cảm giác nôn nao. Gã ấp úng:
"Mình xem ‘tích’ gì bây giờ?"
Đào đáp:
"Lên ngã tư đi. Hôm nay có Lã Bố hí Điêu Thuyền..."
Hai người len lỏi đi qua những lùm cây. Lâu lắm gã mới nói:
"Mình đi, ở nhà có nói sao không?"
"Nói sao?"
"Nói rằng đi chứ còn sao.”
"Tôi trốn đấy. Nhưng cần gì. Cho thầy tôi đánh.”
Gã kéo Đào đi sát lại mình. Giọng gã đầy thương cảm:
"Khổ cho thân mình... Mình khổ vì tôi.”
Đào ôm lấy cánh tay của gã thì thầm:
"Đã yêu nhau thì sông cũng lội, núi cũng trèo nữa là.”
Hai Hào sung sướng nói:
"Thiệt nhe! Mình nói thiệt nhe!"
Đào "chí" cho gã một cái thật đau rồi nói:
"Chả thiệt với mình thì thiệt với ai.”
Một lát sau, gã lại hỏi:
"Bao giờ chúng mình cưới nhau nhỉ mình nhỉ.”
"Bao giờ chẳng được.”
"Niệu thầy mình có ưng tôi không?"
"Chả ưng tôi cũng lấy.”
"Thiệt nhe! Mình nói thiệt nhe!"
Lòng nôn nao về ý nghĩ được sống mãi mãi bên Đào, gã cảm thấy hạnh phúc tràn ngập ở khắp mọi nơi, trong gió mát, trong lùm cây, trên nền trời xanh đen thấp thoáng mấy vì sao thưa. Lâu lâu gã lại hỏi:
"Chắc phải nâu nâu thì mới cưới ấy mình nhỉ.”
Đào nhìn gã cười hóm hỉnh:
"Thì bao giờ chẳng được. Sao mà nóng thế!"
Gã bẽn lẽn:
"Đã yêu nhau mà nại không nóng. Mình có thấy... nóng không?"
Đào cấu gã một cái rồi nói:
"Rõ khéo nhà mình lắm nữa!"
Hai Hào bật lên cưới, răng gã nhe ra, mắt gã nhìn Đào một cách đĩ thõa. Đào đỏ mặt, phát đôm đốp vào lưng gã:
"Khắm chửa kìa... Khắm chửa kìa..."
Hôm ấy hai người đi mãi đến khuya. Lúc trở về, xóm Cỏ đã chìm trong giấc ngủ. Đào bắt đầu cảm thấy lo lắng. Nàng thì thào:
"Mình về trước đi.”
Hai Hào chùn lại:
"Mình đi trước thì hơn. Tôi sợ!"
"Khắm chửa... Gì mà sợ.”
"Thầy mình biết thì ông ấy đánh tôi chết.”
"Chả biết đâu. Ông ấy ngủ từ lâu rồi. Hẹn mai nhé..."
Hai Hào nắm chặt lấy tay nàng. Hai người hôn nhau trong bóng tối. Một lát, Đào đẩy gã ra:
"Thôi khuya rồi. Mình về đi.”
Gã buông nàng ra, hối hả đi vào ngõ tối. Qua cửa nhà Phó Ngữ, gã bỏ guốc ra, cầm trên tay. Mắt gã mở to, đầu gã nghiêng nghiêng nghe ngóng. Cửa nhà Đào tối om, sự yên lặng bao phủ suốt một dãy nhà lá lụp xụp chạy dài. Gã cảm thấy lòng hồi hộp. Hai chân gã bước rón rén. Những viên gạch răm nhỏ đâm nhói vào gan bàn chân. Chợt gã giật bắn người khi nghe thấy tiếng quát ở phía đằng sau:
"Sư bố thằng Hai Hào chim con gái ông... ông thì ghè vỡ sọ mày ra, biết chưa.”
Rồi từ trong xó tối, có tiếng xô ghế đứng dậy và gã thấy Phó Ngữ nhẩy bổ ra với cái gậy quen thuộc ở trên tay. Hai Hào vội vàng la lên:
"Ơ.... ơ đâu nào... Tôi chim ở đâu nào..."
Phó Ngữ hét lớn hơn nữa:
"Ông biết rồi, ông biết tỏng ra rồi..."
Nói rồi lão vụt cho Hai Hào một gậy. Gã co chân ù té chạy. Lão già vùng lên đuổi theo. Giọng lão oang oang phá tan cái im lặng về đêm của xóm Cỏ:
"Sư bố thằng Hai Hào... ông mà tóm được thì ông rút lưỡi, biết chưa.”
Hai người chạy huỳnh huỵch trên mặt đất gồ ghề. Tiếng chó theo đó sủa ran lên loạn xạ. Hai Hào thục mạng băng qua một cái rãnh đầy bùn. Phó Ngữ theo sát ở đằng sau. Gã cuống cuồng vứt phăng đôi guốc ở trong tay rồi len vào những ngách nhỏ. Tiếng Phó Ngữ vẫn oang oang làm mọi người trong xóm đổ ra lố nhố:
"Mày chim con gái ông... ông thì ghè vỡ sọ mày ra, biết chưa..."
Hai Hào vượt qua một đống rác lớn. Gã nom thấy cái cổng bằng nan tre của nhà bác Tốn. Vội vã gã co chân nhảy tuốt qua rồi băng vào trong sân đất. Chân gã vướng phải mấy cái lon sữa bò. Những chiếc hộp sắt va vào nhau kêu loảng xoảng. Ở đằng sau Phó Ngữ trờ tới, lão quờ tay xuống đất tìm mấy viên gạch ném mạnh về phía bóng Hai Hào. Trong nhà chợt có tiếng quát lên:
"Ai? Ai đấy..."
Đó là tiếng bác Tốn, khi ấy đang nằm mơ màng chợt nghe thấy tiếng vách vỡ rơi lả tả. Bác vụt nhỏm dậy và nhớ tới mấy trăm bạc để dành cất dưới nệm chiếu. Bác vội vàng thủ cái túi tiền vào ngực áo rồi khua chân xuống đất tìm đôi guốc mộc. Bỗng có tiếng thở hồng hộc ở bên tai:
"Nó đâu rồi... Nó đâu rồi..."
Bác Tốn vung tay ra phía trước. Tay bác chạm phải ngực áo Phó Ngữ. Bác la lên:.
"Ai? Ai đấy?"
Phó Ngữ vội đáp:
"Tôi đây... Bố cái Đào đây. Bác có thấy thằng Hai Hào chạy vào đây không?"
"Ấm ớ chưa! Hai Hào vào đây làm đếch gì.”
Giọng Phó Ngữ hậm hực:
"Thì rõ ràng tôi thấy nó chui vào đây mà..."
Rồi lão bước xuống thềm đất, tức tối vụt cái gậy vào những xó xỉnh, miệng la to:
"Thằng Hai Hào... Ông mà vớ được mày, ông ghè vỡ sọ biết chưa..."
Bác Tốn bật cười hỏi vọng ra:
"Sao? Nó làm gì cụ đấy?"
"Nó chim con gái nhà tôi. Hai đứa rủ nhau đi đến giờ mới về. Cha bố tiên nhân quân đầu trộm đuôi cướp, ông mà nắm được mày thì ông giết!"
Lèm bèm một hồi, lão lê cái gậy bước ra cổng. Mấy con chó xồ lại. Lão điên tiết phang bậy một cái. Một con chó la oẳng lên rồi co chân chạy tuốt vào cuối ngõ. Tiếng sủa của nó không ngớt vọng lại phía đằng sau. Bác Tốn ngó nghiêng một lúc rồi dò dẫm về giường. Tay bác sờ soạng tìm hộp diêm và cái điếu. Chợt có tiếng lục sục ở góc nhà. Bác bật dậy:
"Ai thế?"
Có tiếng thì thào đáp lại:
"Tôi đây! Hai Hào đây!"
Rồi gã đội cái chõng, lồm cồm bò ra. Bác Tốn nói:
"Gớm! Cậu vào lúc nào mà nhanh thế. Cứ im tê thôi"
"Suỵt! Lão ấy đi khỏi chưa?"
"Khỏi rồi, đừng lo. Cậu tầm ngầm thế mà ghê thật. Suýt vỡ đầu đấy nhá.”
"Vỡ cái nỗ đít đây này. Bộ não ấy thì đây chỉ đá một cái chết tốt!"
"Ái chà, hăng nhỉ. Vậy mà tôi cứ ngỡ lão ấy đuổi nhà ông chạy quắn đít lên đấy nhá.”
Hai Hào bẽn lẽn bỏ ra ngoài. Gã lo ngay ngáy về số phận của người yêu. Tai gã lắng về phía ấy. Nhưng gã không nghe thấy tiếng Đào la hét như mỗi khi bố nàng đánh nàng. Đầu xóm Cỏ chỉ nhộn lên một lúc rồi lại trở về sự yên tĩnh hằng đêm. Gã yên tâm giơ tay phủi bụi trên đầu rồi bước xuống sân đất. Có tiếng bác Tốn hỏi ra:
"Hào về đấy hả?"
Gã đáp:
"Tôi về đây! Cám ơn bác đấy nhé.”
Bác Tốn bật lên cười:
"Ơn với iếc gì. Nhà ông không đá vỡ đít con nhà người ta ngay trong nhà tôi là may bỏ bố cho tôi rồi.”
Gã hậm hực đi hùng hục trên những mô đất lổn nhổn. Nghĩ đến đôi guốc mới để văng đâu mất, gã tiếc của lẩm bẩm văng tục. Mồ hôi trên vai gã ướt đầm đìa. Gã bỏ đi về cuối xóm.
Đến quá nửa đêm, lúc gã còn đang thao thức về số phận người yêu thì có tiếng cậy cửa và tiếng gọi thì thào:
"Mình ơi..."
Hai Hào bật dậy. Gã nhẩy bổ ra tháo cái then cửa. Gã nom thấy Đào đứng ở dưới chân lão Hói. Gã cất giọng xuýt xoa:
"Sao? Mình có nàm sao không? Có đau không?"
Đào lắc đầu:
"Tôi không về. Nom thấy ông ấy đuổi mình, tôi đi tuốt ra đường cái rồi vòng lối giếng về đây. Mình có... bị gì không?"
"Không, tôi cũng nhanh chân chạy được.”
"Khổ quá, thật là mình khổ vì tôi.”
Hai Hào vội vàng bịt lấy miệng người yêu:
"Khỉ nắm nữa. Đã yêu nhau rồi mà mình cứ khách khí. Tôi khổ thế chứ, khổ nữa vì mình tôi cũng cam.”
Đào cảm động ôm chầm lấy gã. Gã dìu nàng đi vào trong bóng tối. Hai người im lặng không nói với nhau. Qua khung cửa sổ, trời bên ngoài sáng lên đùng đục. Có tiếng chuột chạy rinh rích trên rui nhà. Một lát có tiếng Đào giẫy lên:
"Đừng mình ơi... Tôi van mình.”
Rồi thì mọi sự trở nên im bặt, chỉ có tiếng ghế ngựa du đi du lại kêu cót két và tiếng Hai Hào thở mạnh như những lúc gã đạp xe chở nhiều đồ.
Trời càng ngày càng về sáng. Đằng xa thỉnh thoảng có tiếng ô tô chở hàng chạy nặng nề trên đường cái xen với tiếng chó sủa vu vơ vọng lại. Qua kẽ vách, lão Hói ngủ ngáy vang như sấm. Rồi bỗng có tiếng Đào tỉ tê khóc và tiếng Hai Hào dỗ dành:

"Tôi nậy mình. Đứng có khóc. Rồi mình nấy nhau cần gì.”

Giọng Đào thút thít qua nước mắt:
"Nhưng rồi bố tôi biết thì bố tôi giết!"
"Biết nàm sao được. Chốc nữa tôi đưa mình về thật sớm.”
"Ngộ tôi có chửa thì sao?"
"Chả nàm sao hết. Mình nấy nhau rồi, tha hồ mà chửa.”
Mặt Đào tươi lên. Nàng dụi đầu vào ngực gã nũng nịu và bắt chước cái giọng của gã:
"Thiệt nhe! Mình nói thiệt đấy nhe..."
Có tiếng cựa mình của lão Hói. Hai người vội vàng nín thinh.
Sáng hôm sau, lúc bừng mắt ra, Phó Ngữ thấy mình ngủ gục ở hàng hiên. Lão vội choàng dậy nhòm qua khung cửa sổ. Lão thấy Đào nằm ngủ li bì ở một góc giường. Mái tóc nàng xổ tung, khuôn mặt nhếch nháp phấn son, hơi thở đầy vẻ nặng nề mệt nhọc. Lão hùng hổ xô cửa định bước vào, nhưng cái cửa nghẹt cứng làm lão đau điếng một bên cánh tay. Thì ra Đào đã gài kỹ ở bên trong. Lão giận dữ thò tay xuống ghế với lấy cái gậy, rồi lão nện thình thình lên mặt cửa:
"Mở cửa! Mớ cửa! Cha bố tiên sư con đĩ ngựa.”
Đào hốt hoảng choàng dậy. Nàng dụi mắt nhìn ra xung quanh. Nom thấy bố đứng ở bên ngoài, đồng thời nhớ lại những phút đê mê mới xẩy ra hôm qua đã làm nàng từ một cô gái biến thành một người đàn bà, nàng sợ hãi kêu lên:
"Lậy thầy... Tôi lậy thầy..."
"Lậy cái thằng bố mày ấy à. Có mở ra cho ông không thì bảo!"
Vừa la Phó Ngữ vừa đá cái cánh cửa cho kêu lên rầm rầm. Đào cuống quít, vừa giậm chân xuống đất vừa lu loa:
"Chịu thôi. Tôi chịu thôi. Tôi mở để thầy vào thầy đánh chết tôi đấy à.”
Hàng xóm bắt đầu bu lại khiến cơn giận của Phó Ngữ càng tăng thêm. Lão quát om sòm:
"Mẹ bố mày! Ông không đánh thì để rồi cho mày đi đánh đĩ à. Mở! Mở!"
Bác Nhan gái ở ngoài len tới, nói chõ vào trong:
"Thì mở ra nào cô Đào ơi. Mở ra rồi xin lỗi ông ấy đi.”
Phó Ngữ gầm lên:
"Xin lỗi cái mả cha nhà nó. Ông thì ông vẫn đập cho mà chết, biết chưa.”
Bác Nhan gái cố nén cơn giận đang đưa lên cổ, nói gượng thêm một câu:
"Nó đã biết lỗi thì tha cho nó một lần nào, ông cứ nghe tôi đi.”
"Tha cái c. ông là ông không dung cái đồ voi dầy quạ mổ ấy đâu.”
Mặt bác Nhan bỗng đỏ ửng lên, rồi tím lại. Bác đổi giọng, quát lớn:
"Văng c. ra với ai thế. Này tôi nói cho mà biết, đây không có thêm dây với hủi đâu.”
Phó Ngữ sừng sộ:
"Hủi! Bà nói ai là hủi. Tôi nói cho mà nghe biết chưa... Tôi đếch sợ thằng nào, con nào hết.”
Bác Nhan buông cái rổ xuống đất, chồm lên:
"Không sợ thì làm cái thá gì. Thằng nào? Con nào? Đàn ông đàn ang mà ăn nói như đồ cu li..."
"A! Mày nói ai là đồ cu li? Mày nói ai là đồ cu li? Ông thì ghè vỡ sọ cái đứa ăn nói hỗn hào ra bây giờ!"
Bác Nhan xắn cái quần lên, bện vào cạp mấy vòng rồi vỗ đen đét vào ngang đùi:
"Đây! Bà đây! Bà đây... mày thử ghè cho bà coi.”
Thế là hai người túm lấy nhau. Trẻ con đứng ở ngoài vỗ tay ầm ĩ. Tiếng vật nhau, xen lẫn với tiếng chửi rủa om sòm làm tán loạn cả lối xóm. Mọi người bu lại, mỗi bên gỡ ra một người. Có tiếng Phó Ngữ thở hổn hển:
"Các ông các bà cứ mặc bố tôi. Tôi phải đánh cho nó chừa tôi ra, biết chưa.”
Giọng bác Nhan gái cũng chanh chua không kém:
"Xê ra... xê ra... Để tôi vặn cổ cái thằng nói láo cho mà xem. Xê ra..."
Từ bên trong, Đào vội vàng sửa lại mái tóc rồi mở tung cánh cửa chạy ra. Nàng xông vào ôm lấy đầu bác Nhan vật xuống. Tiếng bác chu lên:
"Ối giời đất ơi... ối ông phu lít ơi... bố con nhà nó đánh chết tôi.”
Cụm người xô đi xô lại. Cái hàng rào bị nghiêng đi, nghiến vào nhau kêu ken két. Tiếng Đào thét lên lanh lảnh:
"Thầy để mặc nó cho tôi... Tôi đánh chết nó đi..."
Ở vòng ngoài, cái Hòn cũng vừa chạy tới. Mặt nó xám ngoét, tay nó run bắn lên, nó quơ vội lấy hòn gạch rồi len vào la thất thanh:
"Giời đất ơi... Chúng mày đánh chết u tao rồi.”
Nói rồi nó chồm lên, nhằm lưng Phó Ngữ mà ghè xuống. Phó Ngữ rên lên hồng hộc:
"Ôi chao ôi... chúng mày giết ông... ông thì bỏ tù chúng mày cho rục xương ra, biết chưa..."
Cụm người lại chen nhau xô đẩy. Mãi người ta mới gỡ được bác Nhan ra ngoài. Đầu tóc bác rối bù, cúc áo sổ tung, bộ ngực hở ra thỗn thện. Tiếng bác khản đi:
"Đánh chết nó đi... Đánh chết nó đi..."
Ngay lúc ấy bác Nhan trai cũng đã len được vào. Mặt bác xanh như tầu lá. Chân tay bác run lẩy bẩy. Bác nói không ra hơi:
"Giời ơi! Giời ơi... làm sao mà đến nông nỗi này. Tôi xin bà..."
Vừa nói bác vừa xô vợ ra phía ngoài. Mọi người giãn ra xa. Bác Nhan gái vẫn hùng hổ:
"Đi ra, đi ra để tôi vặn cổ bố con thằng Phó Ngữ cho coi.”
Nhưng nói thế thì nói, bác vẫn cứ lùi bước đi theo chồng. Cái Hòn len lét đi đằng sau. Trên thềm gạch, Phó Ngữ nằm lết bết trên cánh tay của Đào. Lão hổn hển:
"Cha bố chúng mày... rồi thì rũ tù, biết chưa.”
Đào ôm lấy lão vào lòng. Mồ hôi trên trán lão vã ra lấm tấm. Đào xốc nách lão dìu qua ngưỡng cửa, rồi đặt lão nằm ngay ngắn trên mặt phản. Hai mắt lão nhắm nghiền, lão nói với Đào bằng một giọng mệt nhọc:
"Cầm cái chai trên nóc tủ lại đây cho tao..."
Đào bưng lại cho lão một ly rượu trắng. Lão hớp từng ngụm nhỏ. Lúc cạn hết ly, chợt lão ngóc đầu dậy:
"Đêm qua mày đi đâu?"
Đào mỉm cười gượng gạo:
"Tôi đi coi hát. Tích Điêu Thuyền.”
"Điêu bằng mày không? Con đĩ ngựa! Mày đi coi hát sao mày không về?"
Mặt Đào vênh lên:
"Về chứ sao không về. Nhưng trời tối thui, tôi sợ ma nên ngủ luôn nhà bạn.”
"Ma cái con chó. Tao còn lạ gì... mày đi với thằng Hai Hào.”
"Khắm chửa, hào với xu nào ở đâu mà cứ nói.”
"Bộ mày tưởng tao đui hả. Tao nói cho mà nghe biết chưa, tao là tao không có gả con cho cái đồ cu li cu leo ấy đâu.”
"Cu li thì đã làm sao. Miễn là tốt thì thôi chứ.”
"Nó tốt mặc bố nó. Tao đã bảo không là không mà.”
Đào vặc lên:
"Nhưng tôi ngủ với nó rồi!"
Mồm Phó Ngữ đột nhiên há ra. Mắt lão trợn tròn lên nhìn cô con gái quí. Tay lão sững sờ buông cái chén xuống đất vỡ tan tành, đồng thời miệng lão ngoác lên:
"Ối giời ơi... làm sao... mày làm sao với nó rồi..."
Đào lí nhí:
"Ngủ rồi..."
Lão buông ngay Đào ra rồi ngã vật xuống. Tay chân lão quật thình thình trên mặt phản, lão rên lên những lời thảm thiết:
"Ngủ rồi... ngủ rồi... ối con ôi là con ôi... thế là con ăn cứt rồi..."
Rồi tự nhiên lão bưng mặt khóc. Đào cuống cuồng chạy lại ôm lấy lão, nhưng lão thuận chân đạp một cái nên thân vào ngực nàng. Đào kêu lên một tiếng "hự" rồi ngã quay lơ trên mặt đất. Chưa hả cơn giận, lão còn gầm lên:
"Đồ con đĩ! Giời ơi, thà mày lấy dao cắt cổ tao đi còn hơn là mày bêu riếu tao như thế.”
Đào lồm cồm bò dậy, nàng vừa lấy tay cuộn lại mái tóc vừa chanh chua:
"Ừ đấy! Tôi ngủ với nó đấy. Tôi thương nó thì tôi lấy.”
"Lấy nó thì xéo ngay ra khỏi cái nhà này. Đồ đĩ ngựa, đồ voi dày.”
Đào không đáp hầm hầm đi ra cửa. Đến tối, lúc gặp nhau, nàng nói với Hai Hào:
"Tôi thú với thầy tôi rồi!"
Gã đàn ông choáng người:
"Ý chèng đéc ơi! Mình thú nàm sao?"
"Thú ngủ rồi.”
Gã đàn ông giẫy nẩy lên, hai chân gã giậm xuống đất:
"Chết bà tôi rồi! Gặp tôi thì ông ấy đánh tôi chết..."
"Cần gì. Đằng nào thì rồi ông ấy cũng biết.”
Thấy gã đứng lặng thinh, Đào tiếp:
"Mình lấy tôi đi!"
"Ngộ ông ấy không chịu thì sao?"
"Mặc kệ! Từ giờ tôi là vợ của mình rồi.”
Gã cảm động:
"Thiệt nhe. Mình nói thiệt đấy nhe.”
Đào không đáp, áp má vào ngực người yêu. Hai người im lặng. Một lát gã nói:
"Nhưng cũng phải cưới nhau thì mình mới nàm vợ tôi được chứ.”
"Thì tất nhiên!"
"Vậy cưới thì cưới thế nào?"
"Tôi biết làm sao được. Người ta thế nào thì mình thế ấy.”
"Chỉ hãi bố mình thôi!"
"Để rồi tôi nói. Rồi thế nào ông ấy cũng phải chịu.”
"Thiệt nhe. Mình nói thiệt nhe.”
"Thật chứ. Mình cứ lo sửa soạn đi.”
"Mình bảo tôi sửa soạn cái gì cơ?"
"Khắm chửa! Thì cũng phải sắm sửa cái nọ cái kia chứ.”
Gã ngập ngừng:
"Tôi thì tôi chỉ có mấy trăm... thiếu không?"
"Đừng lo. Tôi cũng có. Thiếu tôi đưa…"
"Thiệt nhe!"
Thấy Đào không nói, gã tiếp:
"Nhưng tôi nhờ ai hỏi được bây giờ?"
"Ai chả được.”
"Lão Hói được không?"
"Ấy chớ! Lão Hói thầy tôi chả chịu đâu.”
"Tốn nhé?"
"Cũng chả được.”
"Thế thì đếch ai bây giờ. Hay cụ Nết vậy.”
"Ừ, cụ Nết thì thầy tôi ưng.”
Hai Hào náo nức:
"Thế thì xong rồi nhỉ mình nhỉ. Chúng mình nấy nhau. Tôi không ngờ đấy nhé.”
Đào cấu vào lưng gã một cái đau điếng. Gã nhe răng ra cười. Hai tay gã gãi lia lịa lên bả vai. Rồi gã ôm Đào vào lòng. Gã thấy như mình ôm cả hạnh phúc trong vòng tay.
Chương năm
Ở chợ về, mụ Năm Trà vẫn thấy ba đứa trẻ nằm ngủ trên giường. Bà cụ Nết ngồi khom lưng ở một góc, vừa lim dim ngủ, vừa phe phẩy cái quạt đuổi ruồi cho mấy đứa cháu. Mụ ném gói đồ xuống giường, lấy khăn lau mồ hôi trán rồi hỏi:
"Má ăn cơm chưa?"
Bà cụ choàng dậy:
"Đã về đấy à? Sao không nói trước, tôi lại không thổi cơm.”
Mụ đàn bà khép cánh cửa lại rồi cởi cái áo bà ba vắt lên mắc:
"Khỏi! Tôi không thấy đói. Nhà còn nước tắm không?"
"Còn lưng thùng lớn đấy. Cứ xài đi rồi bảo nó đổ.”
Mụ Trà tiến lại phía dây thép, với cái khăn mặt lau những giọt mồ hôi lăn tăn ở nách và ở bụng rồi ngồi xuống mặt phản mở gói giấy mới đem về. Mụ lấy ra một xấp quần áo trẻ con còn nguyên nếp hồ sột soạt. Mắt bà cụ sáng lên trước những hình vẽ xanh đỏ sặc sỡ đủ mầu trên những mảnh quần áo xinh xắn. Cụ reo to:
"Chèn ơi! Đẹp quá ta. Cô mua đó hả?"
"Phải! Mua cho xấp nhỏ đấy. Má nhắm thử coi vừa không?"
Bà cụ đỡ lấy cái váy đầm bằng vải hoa xanh viền chỉ đỏ rồi xuýt xoa:
"Ôi cha... được cái này thì nhất xóm rồi còn gì.”
"Hàng mắc đấy. Tôi mua mỗi đứa hai bộ để dành mặc tết.”
"Những hai bộ kia à. Sang dữ. Mỗi đứa một là quá xá rồi.”
Mụ Trà không đáp đứng dậy đi vào nhà trong. Lát sau có tiếng nước dội ùm ùm ở đằng sau vách gỗ. Bà cụ nghe thấy tiếng hỏi vọng ra:
"Má có thiếu gì không?"
"Thiếu gì?"
"Quần áo đó! Tôi có mua thêm xấp vải. Má lấy mà may.”
Bà cụ ngạc nhiên nhìn về phía con dâu. Chưa bao giờ nó tử tế, săn sóc cụ như thế. Tần ngần một lát, cụ trả lời:
"Thôi tôi chả cần. Còn ba cái đồ cũ xài được rồi.”
"Thì có vải đấy, má cứ lấy mà may. Tôi chỉ sắm có một lần này nữa thôi.”
Bà cụ nhoài người ra với lấy cái gói giấy. Dưới mấy bộ quần áo là một xấp vải láng mượt. Bà run run giở ra ướm thử trên mấy ngón tay. Mặt vải trơn láng, đen bóng, mềm mại và óng ả như mặt tơ. Bà nói chõ vào trong:
"Mà sao mua nhiều quá vậy kìa. Chắc trúng số hả?"
Người con dâu mở tung cánh cửa bước ra, vừa lau cái khăn lên lớp da trắng muốt, vừa nói:
"Dễ gì mà trúng số! Nhưng cứ sắm. Để rồi tôi nói chuyện với má.”
Một lát sau mụ thay xong áo rồi ra ngồi trên mặt phản. Mụ đặt cái hộp sắt đựng phấn son phía trước mặt, ngồi vuốt cẩn thận từng sợi tóc. Đầu mụ nghiêng mãi trước cái gương nhỏ. Hai tay mụ sửa lại ba bốn lần vành tóc cho thật tròn rồi nhặt cái bút chì trong hộp sắt lên tô đậm nét lông mày. Vừa sửa soạn vừa đắn đo mãi, hồi lâu mụ mới nói:
"Tôi có chuyện muốn nói với má đây.”
Bà cụ dừng tay quạt, ngẩng lên không nói. Tần ngần một giây, mụ tiếp:
"Tôi sắp phải đi. Mà đi lâu mới về.”
Bà cụ hỏi:
"Mai mốt rồi không?"
Mụ Năm bật lên cười. Vành môi đỏ chót của mụ trễ xuống, ướt mọng. Mụ nói:
"Mai mốt gì! Đi là đi luôn ấy chớ! Tôi tính đi chỗ khác mà.”
Bà cụ ngạc nhiên:
"Làm ăn cái gì mà đi luôn. Chỗ nào thì chỗ cũng phải có lúc về chớ?"
Mụ Năm ném thỏi son vào hộp, chân mụ quơ lấy đôi guốc dưới gậm giường. Mụ buông thõng một câu:
"Tôi đi lấy chồng.”
Bà cụ lặng đi không đáp. Mắt bà hết nhìn con dâu lại trông vào ba đứa trẻ vẫn nằm thiêm thiếp ngủ. Đàn ruồi thỉnh thoảng táp lại, đậu quanh mắt rồi bò xuống vành môi chúng nó. Thấy lâu mẹ không đáp, mụ Năm tiếp:
"Tôi suy nghĩ hết sức rồi. Tôi không chờ ba chúng nó được nữa. Ba chúng nó muốn thôi tôi trước. Đấy má coi, hàng mấy năm nay thư từ đâu có. Coi bộ đã sa vào con nào hay chết ngỏm rồi không chừng!"
Bà cụ giơ vạt áo lên lau nước mắt. Ngập ngừng một lát lâu cụ mới nói:
"Tôi thì tôi không cần gì hết. Nhưng xấp nhỏ này rồi ai nuôi?"
Giọng mụ Năm Trà trở nên gay gắt:
"Vậy má bắt tôi ngồi ôm chúng tới già sao? Tôi còn cái thân tôi chớ. Đó, má có nuôi được chúng thì nuôi, không thì mang cho đi, tôi không tiếc.”
Nói rồi mụ mở cái bóp đầm lấy ra mấy tờ giấy bạc ấn vào tay bà cụ và đổi giọng ngọt ngào:
"Thôi má ráng đi. Tôi suy nghĩ hết sức rồi. Má không trẻ như tôi má đâu có biết.”
Bà cụ sụt sùi không nói. Hai người im lặng hồi lâu. Một lát mụ Năm vừa đứng dậy vừa thở dài. Bà cụ ngước mắt nhìn lên. Tia mắt của cụ làm mụ bối rối. Mụ vội vã đi lại phía vách với tay lấy chiếc áo dài. Bà cụ hỏi với giọng đầy nước mắt:
"Bộ đi ngay bây giờ à?"
"Tôi đi ngay. Tầu ra Trung chạy bốn giờ. Còn phải đi gặp người ta nữa chớ.”
Bây giờ thì bà cụ nghẹn ngào, nước mắt đổ ràn rụa:
"Vậy để gọi chúng nó dậy cho chúng nó chào.”
Mụ Năm xua tay:
"Thôi, khỏi. Để chúng ngủ đi. Lúc dậy má mua cho chúng nó ít tấm bánh. Nói là của má cho.”
Mặc áo xong, mụ lại giường ngắm ba đứa trẻ. Chúng nó vẫn nằm ôm lấy nhau. Những cái vạt áo hếch lên, để phơi cả bụng lẫn rốn. Trong giấc ngủ, môi đứa nào cũng bĩu ra. Cặp lông mi kết dử dính bết vào nhau thành từng mảng. Mụ thò tay với lấy cái quạt xua mạnh lũ ruồi bay loăng quăng trên đầu chúng nó, rồi mụ cúi xuống vừa quệt lên má chúng, vừa nói:
"Tội nghiệp tụi bay, nhưng tại ba tụi bây hết đó.”
Bà cụ nấc lên thành tiếng. Mụ quay lại nói vội vàng:
"Thôi tôi đi đây.”
Bà cụ mếu máo:
"Bộ đi thật à?"
"Thật chớ, ai nói chơi.”
"Rồi khi nào về thăm chúng nó?"
"Tôi chả hứa đâu. Đừng có trông.”
Bây giờ thì bà cụ oà lên khóc. Đầu cụ dúi vào cánh cửa. Hai tay cụ ôm lấy mặt. Cụ không nhìn theo bóng người đàn bà đi vội vã như chạy trốn ra lối ngõ. Bên tai cụ còn vang vọng lại tiếng guốc của mụ gõ lóc cóc trên mặt đường. Lát sau cụ gào lên:
"Ới con ơi là con ơi... ới cháu ơi là cháu ơi..."
Người cụ run rẩy. Hai tay cụ bíu vào vách gỗ. Đứng lao đao một lúc cụ ngồi gục xuống mặt giường. Đùi cụ tì nghiến lên chân thằng út làm nó choàng dậy oà lên khóc. Hai đứa kia cũng cựa quậy, càu nhàu rồi khóc theo. Căn nhà bỗng nhiên thê thảm như có người chết. Bà cụ ôm lấy chúng nó rền rĩ:
"Các cháu ơi, má tụi bay đi rồi! Má tụi bay đi rồi!"
Bọn trẻ không biết gì càng gào to hơn. Con chị lớn gọi to:
"Má ơi... má ơi..."
Mấy nhà trước cửa thò đầu ra ngó. Bà cụ bế thằng út ra đứng ở đầu thềm lu loa:
"Bà con vô mà coi... Nó bỏ con lại mà đi rồi... Trời ơi là trời, rồi lũ này ai nuôi..."
Vừa nói cụ vừa hỉ mũi và giơ vạt áo lên lau. Bọn trẻ cũng theo ra ngồi phệt xuống mặt hè. Tay chúng nó dụi lia lịa lên mắt, nước mắt nước mũi chảy dài ra, đùn ứ ở vành môi. Một người nói:
"Sao? Bộ má chúng nó đi thiệt rồi sao?"
Bà cụ mếu máo:
"Đi thiệt rồi. Bây giờ bơ vơ, tôi biết trông cậy vào ai. Ới Năm ơi là Năm ơi... Mày không về mà coi vợ con mày.”
Có người kêu lên:
"Trời đất ơi, sao mà bất nhân quá vậy. Con mình dứt ruột ra mà!"
Một người khác tiến lại bế cái Ba lên. Mặt nó lem luốc, mồm đầy dãi rớt và nước mắt. Con bé không chịu, đạp giẫy ra khiến bác ta ngọt ngào:
"Tao thương mà! Tội nghiệp! Rồi tao cho ăn bánh.”
Nhưng con bé tuột ngay xuống đất. Nó bò lồm cồm trên bực gạch. Đít chổng lên, hai bên mông loang lổ những nốt mụn bẩn. Bà cụ cúi xuống xốc nách nó lên rồi lấy tay quệt dãi ở mồm nó. Cái Hai đứng bên cũng sệu mệu:
"Bà ơi, cháu đói..."
Bà Cụ đặt thằng út vào một góc rồi tất tả lại chạn bếp lục ra bát cơm nguội. Cụ chan đầy nước dưa lõng bõng, rưới thêm ít tương và mấy quả cà nhỏ rồi đem ra ngồi ở bực cửa. Mấy đứa xúm lại. Chúng nó ăn uống và húp nước ngon lành. Nụ cười lại nở trên vành môi. Thằng bé tươi tỉnh bước lững chững trên thềm, miệng nó bi bô:
"Bà... má... bà... má..."
Lúc đạp xe qua nhà Huệ, Hai Hào thấy nàng ngồi thu lu trên ngưỡng cửa. Khuôn mặt Huệ khuất trong bóng tối. Ánh đèn leo lét rọi qua những song gỗ in rõ mái tóc của nàng xù lên, xoắn lại với nhau. Gã cất tiếng giả lả:
"Mệt không cô Huệ ơi..."
Huệ ném cái hột ô mai về phía gã, chanh chua:
"Mệt cái phải gió! Đang túng bỏ mẹ lên đây.”
Gã cất tiếng cười. Tay gã gõ vào thùng xe, một chân gã ghếch lên, một chân quay hờ hững cái bàn đạp. Gã hát theo giọng bác Tốn:
"Cô Huệ ơi
Tôi theo cô đi đến tận góc bể chân trời
Sông sâu tôi cũng nặn, núi đầy tôi cũng neo.”
Huệ đứng dậy xốc lại cái cạp quần cho ngay ngắn rồi cất tiếng gọi:
"Này... Hai ơi!"
Hai Hào quay lại nhăn ra cười, hát tiếp:
"Sang Tây, sang Nhựt, sang Nèo,
Sang Tàu, sang Mỹ... tôi theo đến cùng..."
Huệ nói:
"Khỉ gió đùng lăn lắm nữa, lại đây người ta nói cái này..."
Gã ngừng xe lại nhìn Huệ như dò hỏi:
"Chuyện gì thế?"
"Thì cứ lại đây nào.”
Hai Hào ngần ngại xuống xe, gã nhìn Huệ nghi ngờ:
"Thôi tôi đếch vào.”
"Thối chửa! Ai ăn thịt mà sợ. Lại gần đây!"
Gã rụt rè tiến lại gần. Hai người đứng đối diện nhau. Huệ lùa bàn tay vào túi quần của gã:
"Từ sáng mấy cuốc rồi?"
Gã chộp lấy bàn tay Huệ như sợ nàng mó phải cuộn giấy bạc nằm ở bên trong. Gã nói:
"Mấy cái nỗ đít. Ế bỏ mẹ đi.”
"Đừng có xạo! Ai người ta lạ gì. Đạp khoẻ như voi ấy mà lị.”
"Ai thèm xạo làm chi. Thật tình từ sáng mới bỏ riêng được bốn chục, còn thì chui vào tiền thuế bố nó hết.”
Huệ bật lên cười:
"Bốn chục tốt rồi. Vào đây đi!"
Gã đàn ông giẫy nẩy lên:
"Thôi chịu thôi! Chả chơi.”
"Thì ai đã làm gì mà lo.”
Gã bẽn lẽn:
"Đếch ai lo. Nhưng chả đủ đâu..."
Huệ gắt:
"Thì ai thêm lấy đủ. Chia đôi đỡ thôi mà.”
Nói rồi nàng xoa bàn tay lên ngực gã làm gã rúm người lại. Bàn tay kia, nàng vít cổ gã xuống. Gã định nói gì thì đã bị cặp môi của Huệ bít ngay miệng lại. Một lát sau gã lại duỗi ra:
"Thôi chả chơi đâu. Tôi hãi..."
"Khỉ gió! Ai người ta làm gì mà hãi.”
"Hãi cái Đào ấy chứ. Nó mà biết thì chỉ có chết!"
Huệ xoa mái tóc bờm xờm của gã như xoa đầu một đứa trẻ:
"Ôi chao ơi! Sao mà khốn khổ thế. Ngữ này rồi thì cũng đến cái nước đem vợ lên ban thờ mà thờ mất thôi!"
Gã tức mình:
"Thờ gì! Có mà đây ghè cho vỡ đít!"
Huệ rích lên cười, bất kể trời trăng, nàng đẩy gã đàn ông qua ngưỡng cửa. Gã líu ríu bước theo nàng. Ở trong nhà, ánh đèn bây giờ soi rõ khuôn mặt vêu vao của Huệ. Cặp mắt nàng sâu trũng xuống, hai gò má nhô lên cao. Màu son tím ngăn ngắt tô trên môi trở thành cái mầu bạc nhược dưới ánh sáng vàng vọt. Gã đàn ông nói:
"Hai chục thôi đấy nhe.”
Huệ không đáp, giơ tay kéo cái màn che giăng ở đầu giường. Một lát gã nói:
"Sao người nóng thế?"
Huệ uể oải:
"Đang lên cơn sốt đây!"
"Sốt thì thôi đi.”
Huệ nắm vội lấy tay gã:
"Khỉ gió lắm nữa. Ai khiến!"
Gã đàn ông miễn cưỡng kê lưng xuống mép giường. Một lát, gã lại thở phì phò như đang đạp một cuốc xe nặng chở hàng lên chợ.
Ở nhà Huệ ra, gã đến chỗ hẹn với Đào ở mé giếng. Tiếng Đào gắt lên trong bóng tối:
"Sao lâu thế. Làm người ta đứng chờ tưởng đến chết chân đây này.”
Hai Hào xuýt xoa:
"Xin nỗi. Xin nỗi. Cái phanh xe nghẹt cứng, gỡ mãi không ra.”
Hai người im lặng. Một lát gã nói:
"Việc không xong rồi.”
"Việc gì không xong?"
"Định nhắn cụ Nết nói hộ thì mụ Năm Trà bỏ đi. Ai còn dám nhờ nữa.”
"Khỏi cần đi. Thầy tôi ưng rồi.”
Gã vồ lấy tay Đào, rối rít:
"Chèn ơi, rồi ư? Thầy mình ưng tôi rồi ư?"
"Thì tôi đã bảo mà.”
"Vậy thì tôi sướng chết người tôi nên đây nè..."
"Chưa sướng đâu. Mình hãy lại gặp thầy tôi một cái đi đã.”
Gã choáng người lên:
"Ý trời đất ơi... bắt tôi nại đằng ý hả?"
"Khắm chửa. Mình chả phải lại dễ cứ ở tịt trong nhà rồi tôi lùi lũi về với chắc?"
"Nhưng tôi hãi thấy bà tôi đi.”
Đào cười thương hại:
"Thì đã bảo thầy tôi ưng mình rồi mà.”
"Thiệt nhe. Mình nói thiệt đấy nhe.”
"Bây giờ mình đi trước tôi vào cửa đằng sau.”
Người gã lại bắn lên như bị điện giật:
"Ý trời ơi! Bộ bắt tôi nại mình ngay bây giờ sao?"
"Chớ sao. Bây giờ ông ấy đang vui vẻ, đến càng tốt.”
Tim gã đập mạnh, gã ngập ngừng:
"Nại thì tôi biết nói cái gì bây giờ?"
"Tuỳ mình đấy. Thầy tôi hỏi cái gì mình nói cái nấy.”
"Vậy ông ấy sẽ hỏi gì mình có biết không?"
"Bố ai mà biết được. Đến đâu hay đó chứ.”
"Nhưng mà... hay nà..."
Đào gắt lên:
"Đã bảo không sợ mà. Cứ đi theo tôi.”
Đào túm lấy áo gã dẫn về lối ngõ. Tới gần cửa, nàng chùn lại, ghé vào tai gã thì thào:
"Mình vô đi. Tôi đứng nghe mình ở cửa đàng sau.”
Gã định nắm lấy Đào xin nàng tha cho cái công việc tầy đình ấy nhưng Đào đã gỡ tay gã ra và khuất nhanh vào bóng tối. Còn đứng lại một mình, gã ngần ngại trông về phía đàng trước. Căn nhà Phó Ngữ toả ánh đèn lù mù. Gã không nom thấy Phó Ngữ ngồi quạt ở cửa như mọi khi. Từ đầu ngõ, tiếng người ăn uống hát hỏng ồn ào còn vọng lại. Gã ngập ngừng giây lâu rồi đánh bạo bước qua ngưỡng cửa. Đầu gã thò vào trong, miệng gã ấp úng:
"Nậy cụ..."
Phó Ngữ đang nằm vắt tay lên trán, nghe tiếng vội nghển đầu nhìn ra. Chợt lão nhỏm phắt ngay dậy giương mắt nhìn Hai Hào như muốn ghè cho gã năm bẩy gậy. Hai Hào lại nói:
"Nậy cụ ạ..."
Phó Ngữ cất tiếng xẵng:
"Đứa nào thế? Phải Hai Hào đấy không?"
Gã đáp:
"Thưa cụ phải.”
Bàn tay của lão đập mạnh xuống phản một tiếng khô khan:
"Anh chim con gái nhà tôi..."
Gã lùi phắt ngay lại, miệng bải hải:
"Ơ... ơ... đâu có..."
"Lại muốn chối phải không? Không có mà nó lại khai cho nhà anh. Anh dụ dỗ nó... anh dụ dỗ con gái nhà lành. Tôi là tôi cho nhà anh rũ tù, biết chưa!"
Hồn vía Hai Hào lên tận mây xanh, gã ta chắp hai tay xá lia lịa:
"Cháu nậy cụ... cháu hứa... cháu chừa!"
"Liến láu cái mồm xin hứa, xin chừa. Bộ tưởng nói vậy là xong hả?"
Thấy mặt Hai Hào đực ra, Phó Ngữ vẫn giữ giọng hách dịch nhưng có phần dịu hơn:
"Này tôi hỏi thật, có hay không?"
Gã ấp úng:
"Dạ... dạ có…"
"Có cái gì?"
Hai Hào lại ngẩn người ra khiến lão phải quát lên:
"Có ngủ với nhau không?"
Hai Hào cuống quít:
"Dạ... dạ... có..."
"Có rồi làm sao nữa?"
"Dạ... chả nàm sao nữa hết.”
Phó Ngữ bật dậy, lão xô cái gối ra tuốt đằng sau, miệng lão hét lớn:
"Làm ễnh mẹ nó cái bụng con nhà người ta lên rồi nói chả làm sao nữa hết là làm sao! Cái quân này phải cho rũ tù thì mới mở mắt ra.”
Hai Hào lại run lên:
"Nậy cụ... cụ thương chúng cháu tầng nào hay tầng ấy.”
"Thương cái con chó... ông thì ghè vỡ đầu mày ra..."

Hai Hào hốt hoảng nhẩy bổ xuống hè và co chân chực chạy. Nhưng Phó Ngữ đã nhanh hơn, lão nhào ngay xuống đất, túm ngay được lấy lưng áo của gã. Chủ tâm của lão chỉ là doạ gã mấy câu cho bõ ghét mà thôi. Cho nên lão đổi giọng ngọt ngào hơn:
"Này... Hào!"
Gã đứng sững lại, nhưng vẫn giữ thế để có thể tháo thân dễ dàng. Phó Ngữ lại hét lên:
"Thì lại đây đã nào!"
"Tôi hãi..."
"Hãi cái con chó... ai người ta đã làm gì cơ chứ.”
"Cụ tha cho chúng cháu..."
"Tha rồi biết chưa!"
Gã tươi mặt lên, rón rén quay trở lại. Phó Ngữ chỉ tay vào một cái ghế rồi nói:
"Ngồi xuống đấy.”
Gã cảm động rụt rè ngồi xuống một nửa bên mông trong khi Phó Ngữ lặng lẽ châm một điếu thuốc thả khói lơ mơ. Lát sau, lão mới nói:
"Thôi, anh đã biết lỗi thì tôi tha cho anh. Nhưng tôi hỏi bây giờ anh tính làm sao?"
"Dạ cháu chả tính làm sao hết..."
"Con chó! Thế dễ anh để cho con gái nhà tôi mang tiếng chửa hoang đấy chắc.”
Gã đàn ông vội vàng nói rối rít:
"Dạ có chớ... Cưới chớ! Cưới chớ!"
Phó Ngữ gật gù:
"Thế thì được. Nhưng tôi nói cho anh hay, biết chưa..."
"Dạ biết..."
"Muốn cưới con gái tôi thì phải theo mấy điều..."
Ngừng một tí để chiêu ngụm nước, lão nói tiếp:
"Một là từ nay phải bỏ cái lối đi ngang về tắt, biết chưa?"
"Dạ biết!"
"Hai là phải lo tổ chức cưới xin cho đàng hoàng, mời bà con lối xóm cho đông đủ biết chưa!"
"Dạ biết!"
"Ba là phải giấu cái chuyện ăn nằm trước với nhau đi biết chưa!"
Mặt lão tự nhiên lại bốc nóng lên. Lão buông một câu hằn học:
"Rõ ra là những trò đốn mạt!"
Thấy Hai Hào nem mép ngồi im, lão lại tiếp:
"Bốn là phải chăm chỉ làm ăn cho khá giả rồi ráng kiếm nghề khác. Tôi là tôi không ưa cái nghề đạp xích lô biết chưa!"
"Dạ biết!"
"Năm là cưới rồi thì phải về đây ở rể chứ không có được tự do biết chưa.”
"Dạ biết!"
Phó Ngữ vui vẻ gẩy cái tàn thuốc vào cạnh tường, rồi cất tiếng gọi:
"Cái Đào đâu rồi. Đào!"
Tiếng Đào lí nhí ở đằng sau vách gỗ:
"Dạ.”
"Mày ra đây, tao nói.”
Đào bẽn lẽn bước ra, nét mặt tươi hơn hớn. Phó Ngữ nhìn về phía con gái rồi hỏi:
"Mày nghe hết rồi chứ?"
"Tôi đâu có nghe gì.”
"Nhưng rồi mày chịu không chứ?"
Đào cúi đầu di chân xuống mặt đất:
"Tuỳ ở thầy hết. Tôi có biết cái gì ở đâu nào.”
"Thế thì được. Thôi tao nói thế thôi. Đấy rồi liệu mà tính với nhau, đừng có để cho tao mất thể diện ở cái xóm này, biết chưa!"
Nói rồi lão nằm xuống phản, vớ lấy cái quạt khua phành phạch. Đào biết ý xích lại gần chí một cái vào lưng Hai Hào. Hai người len lén đi ra cửa. Trong bóng tối, Đào hí hửng:
"Đó, thấy chưa. Tôi đã bảo thầy tôi ưng mà mình cứ cãi.”
"Thì tôi có cãi đếch gì đâu.”
"Chả cãi mà cứ dúm người lại, nhát như cáy ngày.”
Gã bật lên cười:
"Nhát! Nhát cái nỗ đít!"
Chương sáu
Huệ nằm liệt trên giường. Giấc ngủ chập chờn như ý nghĩ của nàng. Những buổi trưa, cái nóng hầm hập hắt từ mái tôn xuống khiến người Huệ muốn rộp lên. Từ tấm mền hôi và bẩn đến cái quần, cái áo, tất cả đều tỏa ra hơi nóng bứt rứt đến khổ sở. Huệ để sẵn chậu nước lạnh ở đầu giường. Chiếc khăn mặt nhầy nhụa dãi và mồ hôi thỉnh thoảng được nhúng cho ướt sũng rồi Huệ đem đắp lên mặt. Dòng nước đen và ngầu bọt chảy vòng vèo ở trên cổ, xuống gáy, gây cho Huệ đôi chút cảm giác mát mẻ dễ chịu. Huệ nằm, hai chân gác lên vách gỗ. Lưng nàng độn cao bằng cái gối cho xương cốt đỡ mỏi. Lồng ngực nàng đưa ra đằng trước, như thế Huệ thấy bớt được sự nặng nề đang đồn nén ở phổi. Mắt Huệ nhắm nghiền, hơi thở ngắn và mệt nhọc. Tiếng muỗi ngày vo vo ở bên tai. Những con ruồi bu đen ở trên miệng bát cháo nguội tanh, thỉnh thoảng táp lại, bò lên môi, lên mắt, gây cho nàng những cảm giác vô cùng khó chịu.
Buổi trưa tuy cực khổ như thế, nhưng đến chiều, Huệ thấy thoải mái hơn. Cơn nóng dịu đi, gió mát lùa qua cửa sổ làm bay rung rinh tấm màn mỏng. Huệ gượng ngồi dậy, lưng dựa lên vách gỗ, mắt nhìn ra phía ngoài. Trên con đường đất nhỏ hẹp, người tấp nập qua lại. Tiếng cười, tiếng nói lao xao vọng lại từ bốn phía. Thỉnh thoảng lại có một cái đầu thò hẳn vào trong nhà hỏi sõng Huệ một câu:
"Đỡ chưa cô Huệ?"
Huệ cười héo hắt, môi nàng se lại và miệng thì thấy đắng nghét. Nàng muốn có một người ngồi bên nói chuyện cho đỡ buồn nhưng chẳng có một ai chịu bước qua khỏi ngưỡng cửa. Đôi khi có một thằng bé ngồi chầu hẫu ở bên thềm, cằm ghếch lên như một con chó, mắt hau háu nhìn vào giường Huệ. Nàng ném cho nó mẩu bánh mì khô cứng như cục gỗ. Nó ngập ngừng cầm lên sờ mó một tí rồi ném trả vào trong gậm. Huệ thấy ân hận với mình nên lục đầu giường tìm ra được đồng hào ván. Nàng liệng về phía nó. Nó vồ lấy như sợ Huệ đổi ý, rồi chạy tuốt ra ngõ. Một lát sau nó trở lại với ba bốn đứa. Chúng nó hy vọng Huệ ném tiền ra cửa một lần nữa, nhưng Huệ chẳng bao giờ làm lại công việc dại dột ấy. Vì thế bọn chúng nó xoay ra bàn tán với nhau về các đồ dùng của Huệ như về cái bô nước tiểu vẫn để ở gậm giường, về bát cháo Huệ ăn dở từ hồi trưa bây giờ khô queo lại và có lúc chúng còn nói đến cả về nghề nghiệp của Huệ nữa. Điều ấy khiến Huệ trở nên khó chịu. Nàng xua cái quạt về phía chúng như xua đuổi những kẻ ăn mày. Bọn trẻ cười với nhau rồi bỏ đi.
Nằm trơ một mình, bao nhiêu ý nghĩ chán nản lại đến xâm chiếm lòng Huệ. Huệ tiếc những buổi chiều, sau bữa cơm được đi tắm bằng hai thùng nước giếng trong và mát. Rồi lúc bắt đầu lên đèn, Huệ trang điểm ở bàn gỗ, mặt thoa phấn trắng, mắt kẻ bút chì than và tô môi hồng đỏ chót. Huệ sẽ ra cửa hàng mụ Bẩy và ở đó đến khuya. Những buổi tối như thế đối với Huệ thật là vui. Căn phòng trong quán thắp đèn nê ông sáng choang, có những chai rượu lấp loáng ở bên cạnh chồng ly pha lê trong suốt. Mùi khói thuốc lá, mùi men rượu, mùi phấn và nước hoa ngào ngạt ở khắp mọi bàn. Tiếng cười đùa, tiếng nhạc xen lẫn với những tiếng chửi thề thô tục liên miên từ chập tối hầu như không dứt. Những người đàn ông hay kéo Huệ vào lòng, nhè vào miệng Huệ từng ngụm bịa hôi và đắng. Huệ cười sặc sụa như quên hẳn mình là mình, quên hẳn bệnh tật và ý nghĩ đen tối thường ám ảnh lúc ban ngày. Huệ thấy hài lòng với cuộc sống như thế, hài lòng đến độ ham mê, hễ thiếu thốn thì nhớ nhung dằn vặt.
Bây giờ nằm ốm ở nhà Huệ không còn được chia tiền vào những lúc nhạc tắt trên chiếc ra đi ô có riềm tua đỏ. Những đồng bạc mới, mùi thơm phưng phức cầm ở tay khiến Huệ quên cả nỗi mệt nhọc. Huệ nghĩ đến món tiêu ngày mai, bữa quà sáng, bữa cơm trưa, cơm chiều và cả những lúc ăn quà vặt. Những ngày ấy thật là đầy đủ sung sướng. Đang nghĩ vẩn vơ, chợt con bé ngoài hiệu chạy vào gõ cửa bảo Huệ:
"Có người tìm cô đấy.”
Huệ bật dậy như một kẻ đi câu thấy cái phao bị cá lôi chìm, nhưng đầu óc Huệ bỗng choáng váng, ánh sáng chung quanh tự nhiên tối sầm lại, có những tia máu chạy rậm rật trong đầu. Huệ thất vọng nằm xuống, nàng giận dữ với mình, với tất cả sự tối tăm bao phủ lấy căn buồng nhỏ hẹp. Rồi tiếc của, Huệ nguyền rủa bệnh tật, nguyền rủa cả kẻ vô danh nào đã nhớ đến nàng:
"Cha tổ bố! Khi người ta khoẻ thì còn cứ õng ẹo..."
Khi con bé đi khỏi, Huệ kéo chăn lên phủ kín đầu một cách giận dữ. Nàng muốn ngủ thật say cho quên hết mọi sự, nhưng mắt nàng ráo hoảnh, đầu óc thì căng đầy những nỗi lo âu, dằn vặt. Toàn thân của nàng đau ê ẩm và nhất là ở ngực, cơn tức ngực cứ kéo dài như lúc nào cũng có vật gì nặng nề ép xuống. Trời bên ngoài đã tối hẳn, căn buồng chật hẹp của Huệ chìm trong yên lặng. Cụ Chín mới đi hàng về đang rửa ráy bì bõm ở ngoài chum nước. Một lát cụ trở vào thắp cho Huệ cây đèn dầu đặt trên mặt bàn. Ánh sáng hiu hắt toả mờ mờ lên vách. Huệ quơ lấy quyển truyện định đọc nhưng xem thấy mỏi mắt nên lại ném xuống. Nàng im lặng nằm nghe tiếng bà cụ dò dẫm một mình trong bóng tối. Có tiếng cụ mở nồi cơm lạch cạch và tiếng bát, thìa va chạm nhau.
Một lát sau có tiếng nhai nhóp nhép, nhỏ nhẹ. Từ lâu Huệ đã quen với sự im lặng của cụ, ngay cả khi Huệ ốm nằm dài trên giường bệnh. Công việc của cụ hằng ngày có thêm việc khép cửa cho Huệ ngủ muộn, hạ bức chắn gỗ xuống cho nắng khỏi chiếu vào đầu giường và buổi tối thắp hộ Huệ cây đèn dầu trên mặt bàn. Rất hoạ hoằn, Huệ nghe thấy cụ hỏi thăm mình. Chỉ có những đêm Huệ ho rũ rượi và nằm rên một mình thì cụ mới trở dậy, dò dẫm đến bên đầu giường, sờ soạng:
"Có dầu đây cô này!"
Mắt Huệ mở to tìm cụ trong bóng tối lờ mờ. Huệ nom thấy khuôn mặt héo hon và cằn cỗi của cụ chập chờn trước mắt như một bóng ma. Nàng nắm lấy bàn tay xương xẩu của cụ. Hai người lần trao cho nhau hộp dầu con hổ, rồi cụ lại lầm lũi trở vào, sau khi khêu cho Huệ ngọn đèn đã lụn bấc.
Có lần Huệ muốn tỏ sự biết ơn của mình, nên hỏi thăm vu vơ:
"Hôm nay hàng bán được không, cụ?"
Bà cụ nhìn Huệ, cái nhìn ngụ ý như trả lời, rồi mỗi người lại theo đuổi một ý nghĩ riêng. Sự cô độc ấy của cụ khiến Huệ ví cuộc đời cụ như cuộc đời của một con chó già bị ruồng bỏ. Đó là số phận những con chó vẫn lang thang ở ngoài bãi hoang, nơi mà dân xóm Cỏ đổ rác và các thứ hôi thối. Chúng nó sống rất dai dẳng, thiếu thốn và đầy chịu đựng. Sự chịu đựng có thể sánh ngang với bà cụ già ở chung nhà với Huệ. Những đêm không ngủ, nghe tiếng cụ đập muỗi liên hồi trong bóng tối, Huệ nghĩ sao bà cụ không chết quách đi cho rảnh. Một kiếp sống như thế mà kéo dài thì có vui sướng gì. Ý nghĩ ấy làm Huệ liên tưởng đến chính mình. Thật ra thì cuộc sống của Huệ cũng chẳng vẻ vang gì hơn. Bệnh tật khiến nhan sắc của Huệ phai tàn một cách mau chóng. Hai gò má nhô cao lên, cặp mắt trũng sâu xuống. Hơn nữa, điều đáng lo nhất của Huệ là bộ ngực cứ teo lại, dúm dó như một mớ da vô tri giác. Nhiều hôm Huệ khóc thút thít một mình. Nàng coi tất cả những chuyện ấy như là một tai hoạ lớn lao đang đe doạ miếng cơm, manh áo của mình.
Bác Tốn biết tin Huệ ốm vào lúc ngồi ăn cơm ở nhà bác Nhan. Cái Hòn nói:
"Cô Huệ thuê con hai đồng để giặt hộ cho cô ấy bộ quần áo.”
Bác Nhan gái buông ngay đôi đũa của mình xuống mâm, chửi đổng một câu:
"Tiên nhân cha con bỏ mẹ, lăn vào chỗ ấy để vi trùng nó ăn luỗng phổi mày ra à?"
Cái Hòn tưởng sẽ được khen vì số tiền nó kiếm ra lần đầu tiên trong đời nó, không ngờ bị chửi nên mặt sưng lên. Một lát nó buông bát giằn dỗi đứng dậy. Mâm cơm đang vui vẻ đột nhiên yên lặng đến khó chịu. Mọi người chỉ nghe thấy tiếng nhai ở trong mồm nhau. Mặt bác Tốn trở nên trầm ngâm và buồn bã. Mắt bác nhắm nghiền hẳn lại, bờ môi hơi trễ xuống, vừng trán thấp thoáng mấy nếp nhăn.
Bác hình dung thấy Huệ nằm mệt mỏi sau lần chăn trắng, cặp mắt đen và sâu, hơi thở nhẹ nhàng, yếu ớt. Bác thấy tình yêu bừng lên như men rượu. Nếu Huệ có bác thì bác sẽ thức đêm để ngồi bên Huệ, rót nước cho Huệ uống, bón cháo cho Huệ ăn và bác vuốt ve trìu mến từng sợi tóc óng ả của Huệ. Quần áo của Huệ thay ra, bác sẽ mang đi giặt. Bác xôn xao trong lòng: "Giặt cho vợ chứ cho ai!.” Những ý nghĩ ấy cứ ám ảnh trong đầu bác gây cho niềm yêu của bác càng thêm nung nấu.
Buổi tối, khi ôm đàn đi theo Ích ra ngoài phố, bác gợi chuyện:
"Cô Huệ thế mà ốm nhỉ..."
Ích nói:
"Ốm từ lâu rồi ấy chứ..."
Bác Tốn đáp giọng thản nhiên:
"Thế mà tao không biết đấy. Còn mày, sao biết?"
"Trưa nào gánh nước cháu chả đi qua.”
"Dòm vào à?"
"Dòm chơi!"
"Thấy cô ấy không?"
"Thấy chứ!"
"Nằm ở đâu?"
"Ở giường chớ còn ở đâu!"
Bác Tốn cười hề hề:
"Ừ nhỉ!"
Một lát thấy nó im lặng, bác lại nói:
"Mày thích ốm không?"
"Thích chứ! Ốm được nằm một chỗ, chẳng phải làm gì.”
"Lại có cả cam ăn nữa. Ngon phải biết!"
"Gớm! Bác làm như triệu phú không bằng. Ốm lại còn đòi ăn cam!"
"Chắc cô Huệ thì có!"
"Cháu không biết!"
"Mày dòm mà lại không biết!"
"Thật mà! Chỉ thấy cháo thôi?"
"Cháo gì?"
"Chắc cháo thịt!"
Tự nhiên bác Tốn thấy vui. Bác hài lòng vì sự ăn uống của Huệ. Điều ấy khiến bác trở nên mạnh bạo hơn, bác hỏi thằng ích:
"Mày trông cô ấy có xanh lắm không?"
Ích nhìn vào mặt bác. Nó hơi ngạc nhiên thấy câu chuyện của bác chỉ xoay quanh có mỗi cô Huệ. Nhưng nó không nghĩ gì hơn cả. Nó đáp:
"Xanh đứt đuôi đi ấy chứ! Nhất là cái mặt, ối dà, nom cứ như người chết trôi.”
Bác Tốn thấy đau lòng quá. Câu nói ngắn ngủi của Ích thừa đủ để bác hình dung ra Huệ bây giờ ra sao rồi. Bác định hỏi thăm nữa nhưng sợ nói nhiều thằng Ích sẽ bép xép nên chỉ im lặng đi bên cạnh nó. Ngón tay bác bật mấy dây đàn. Lòng bác buồn thấm thía. Nhưng càng buồn bác càng thương Huệ, càng muốn lấy Huệ làm vợ. Bác mơ màng nghĩ đến một căn nhà nhỏ, mái ngói, vách tường xây, ở đấy bác sống êm đềm bên cạnh Huệ. Sau những bữa cơm, Huệ quấn thuốc sâu kèn cho bác hút, hai người nói chuyện tương lai, chuyện thằng nhỏ xinh xinh mà Huệ sắp cho chào đời. Bác sẽ sờ tay lên bụng Huệ, hỏi thăm sự cựa quậy của nó, chắc Huệ sẽ nũng nịu mà trách bác:
"Nó cứ đạp em..."
Gớm! Tiếng "em" mà Huệ xưng với bác sao mà êm đềm và thân yêu như thế. Bác chợt muốn hôn Huệ, muốn ôm Huệ vào lòng, nhưng bên cạnh bác vẫn chỉ là thằng Ích chập choạng bước đi ở trong bóng tối. Những ý nghĩ về Huệ làm bác thấy gần nàng hơn. Bác chợt nẩy ra ý định mua cho Huệ một món quà. Cái sáng kiến ấy vụt bừng lên như ánh chớp của một vì sao đổi ngôi. Bác thấy thật là hay ho và ý nhị mà chưa bao giờ bác nghĩ tới. Lòng bác vụt xao xuyến như chính Huệ giơ tay cảm động nhận quà của bác, Huệ đang nhìn bác với lòng mến yêu, và bác cũng cảm động lây ngay từ phút ấy. Bác Tốn thấy lòng vui trở lại, tay bác sờ soạng lên mái tóc trơ trụi của thằng Ích. Bác khẽ lắc cái đầu nó rồi nói:
"Ích ơi, mày có biết ở đâu bán bánh không?"
Ích ngạc nhiên hỏi:
"Bác hỏi bánh làm gì?"
"Tao làm cái này!"
"Cái này là cái gì?"
"Cho! Mua cho..."
"Cho ai?"
"Cái thằng lạ nhỉ! Cho ai chẳng được.”
Ích toét ra cười:
"Thôi, cháu biết rồi. Bác cho cô Huệ chứ gì..."
Mặt bác Tốn chợt nóng lên, bác bối rối tưởng chừng như mọi người ai cũng đều rõ mối tình thầm kín của mình. Cho nên bác vội lấp liếm:
"Ừ thì cho cô Huệ đã sao?"
"Bác lại muốn bắt nhân tình hả?"
"Thằng ranh! Chỉ nói bậy!"
"Nếu không thì tự dưng ai lại mất tiền toi như thế. Đúng tổ con chuồn chuồn rồi.”
Bác Tốn cười hềnh hệch, tiếng cười như thú nhận với nó, rồi làm như nó là đồng minh với mình, bác co một cánh tay nó về phía sau, nói nhỏ:
"Tao mê thật đấy. Nhưng cấm mày bép xép nghe không.”
"Ai rỗi hơi đi nói làm gì!"
"Thì tao cứ dặn thế, chứ còn mày thì tao biết.”
Ích hỏi:
"Thế bác mê nhau lâu chưa?"
Bác Tốn đưa cái cằm của mình về phía trước, hai hàm răng ngựa nhe ra dưới ánh đèn:
"Cũng lâu lâu..."
"Thế mà cứ tẩm ngẩm tầm ngầm. Thảo nào bác có vẻ khoái cô ấy dữ.”
"Còn mày thì nghĩ sao? Bộ tao có ăn thua gì không?"
"Đứt đuôi đi rồi!"
"Sao lại đứt đuôi đi rồi!"
"Ờ! Có tiền thì muốn gì cô ấy chẳng được.”
Mặt bác Tốn hơi sạm đi nhưng thằng Ích chẳng thể hiểu được cái tâm tình ấy của bác. Ngừng lại giây lâu, bác cố lấy giọng vui vẻ:
"Nhưng mày nghĩ có xứng không ấy chứ.”
"Xứng đứt đuôi đi ấy chứ còn nói gì nữa.”
Thế là lòng bác Tốn dạt dào vui sướng. Lúc này bác thật dễ dãi và thấy cần một niềm tin. Nên dù niềm tin ấy do thằng Ích mang lại cũng đủ cho bác sướng mê tơi đi rồi. Bác ôm chặt cây đàn vào ngực, ngón tay của bác sờ soạng lên từng cung bậc, rồi bác vừa gẩy, vừa hát sẽ:
"Trên trời xanh bóng trăng
Dưới bến con thuyền lội nước tung tăng..."
Hai bác cháu đi lên chỗ có ánh đèn rực rỡ. Tiếng người qua lại vang ồn ào ở bên tai. Bác mở to mắt nhìn ngang ngửa. Một màng sáng đục thấp thoáng có những bóng đen mơ hồ đi qua mặt. Cái rộn rã của một buổi chiều trong thành phố làm tăng thêm niềm vui trong lòng bác. Tình yêu dâng lên dào dạt, bác Tốn cảm thấy lòng ngây ngất. Chợt Ích nắm tay bác dừng lại:
"Bánh đây này? Bác định mua thứ nào?"
"Thế à! Có những bánh gì?"
Ích đảo mắt ở trước tủ kính sáng choang đầy chai lọ:
"Nhiều ối ra! Bánh ga tô, bánh đậu xanh, bánh khảo, bánh cốm, bánh sâm banh, gì cũng có.”
Bác Tốn phân vân:
"Gì được nhỉ... mày thì mày mua cái gì?"
"Cháu thì cháu khoái ga tô!"
"Ga tô! Ốm ai mà lại đi ăn bánh ga tô! Thôi mày mua bánh bích qui đi.”
"Mua bao nhiêu?"
"Cầm lấy hai chục.”
"Hai chục cơ? Sang thế! Hai ngày hát đấy.”
"Thì mặc kệ tao!"
Thằng Ích cầm tiền đi vào trong hiệu. Lần đầu tiên trong đời, nó được bước vào một hiệu sang như thế. Tay nó xòe sẵn tờ giấy bạc cho người bán hàng trông thấy, miệng nó nói:
"Bán cho hai chục bánh bích qui!"
Cô hàng nhìn nó chăm chú, rồi cô cầm tiền và lấy cho nó một hộp bánh, thứ hộp sắt tây có bọc giấy bóng kính hẳn hoi. Ích vui mừng giơ cái hộp ra ngắm nghía. Nó nghĩ hai chục bạc có khác, cái hộp còn quí hơn cả những chiếc bánh ở trong. Nó chạy ra khoe rối rít:
"Hai chục đây này! Oai không chê được!"
Bác Tốn cảm động giơ tay đón lấy. Năm ngón xương xẩu của bác quệt mãi lên nếp giấy phẳng và mịn. Đoạn bác đưa lên mũi ngửi. Bác cảm thấy ở đấy toát ra một mùi đặc biệt, vừa thơm, vừa mát mẻ, vừa sang trọng, phú quí. Lòng bác rộn ràng nghĩ đến lúc Huệ cầm hộp bánh ở trong tay. Huệ sẽ biết rằng bác nghĩ đến Huệ, mà chỉ cần Huệ biết cho như thế là bác đã thấy tim mình đập mạnh lên rồi. Sờ mó một hồi, bác trao cho thằng Ích rồi nói:
"Hôm nay về sớm một tí, mày chịu khó mang sang hộ tao nhé.”
"Làm gì mà vội thế. Mình về thì cô ấy đã ngủ mất rồi còn đâu.”
"Nhưng để ban ngày không tiện. Hàng xóm người ta biết.”
"Biết thì làm sao?"
"Xấu hổ bỏ bố đi!"
Hai bác cháu cùng mỉm cười. Ích thu cái hộp vào trong bụng áo rồi nói:
"Cô Huệ được cái này thì sướng mê cu tơi đi rồi.”
"Bánh bích qui thì cô ấy thiếu gì. Còn sợ cô ấy chê nữa ấy chứ. Mày nghĩ có chê không?"
Ích đáp:
"Chả chê đâu!"
"Ngộ cứ chê thì sao?"
"Thì chúng mình ăn.”
"Mày nói như bố chó xồm ấy.”
"Thế chả ăn thì vứt đi à?"
"Ừ nhỉ! Nhưng chả chê đâu.”
Ích gắt lên:
"Rõ ấm ớ! Bảo chê rồi lại không chê, rồi lại chê.”
Bác Tốn cười hềnh hệch:
"Ừ nhỉ! Thôi đến tối rồi biết.”
Ích nói:
"Tối thì cháu nói làm sao?"
"Mày nói thế nào tuỳ ý mày.”
"Nói toạc ra rằng bác phải lòng cô ấy nhé.”
Bác Tốn giẫy nẩy lên:
"Ấy chớ, mày nói thế thì chết tao rồi!"
"Sao chết?"
"Chết chứ! Đã yêu thì cũng phải từ từ thôi chứ ai lại thế.”
"Vậy cháu cứ đút hộp bánh vào cửa sổ nhé.”
"Ấy đừng! Làm gì thì cũng phải nói chứ!"
"Sao bảo nói thì chết?"
"Nói nhưng là nói khéo cơ chứ. Mày bảo tao phải lòng cô ấy thì bỏ bố tao rồi.”
"Bác rõ thật rắc rối.
"Mày ngu như bò ấy. Tâm lý phải thế chứ.”
"Ừ, thì bác bảo phải nói cái gì nào?"
Bác Tốn gật gù:
"Mày phải nói rằng tao quí cô ấy..."
"Sao quí?"
"Hỏi thế thì đếch ai trả lời được.”
"Nhỡ cô ấy hỏi thì cháu tịt mít à?"
"Mày đừng lo, quí là quí chứ chả có ai đi hỏi ngớ ngẩn như thế bao giờ.”
Ích gật đầu:
"Sao nữa?"
"Rồi mày nói là tao vừa nghe nói cô ấy mệt nặng..."
"Ai nói?"
"Cái thằng, ngang như đấm vào tai ấy. Ai mà chả được, nghe phong phanh mà..."
"Ừ, thế rồi sao nữa?"
"Rồi mày bảo tao vì tình hàng xóm, mua tặng cô ấy cái này..."
"Sao nữa?"
"Rồi mày phải nghe cô ấy cảm ơn, cảm iếc gì thì về kể cho tao nghe.”
"Như thế thì ngon ơ! Đâu có phải làm tâm lý tâm liếc gì!"
"Thì tao đã bảo mà? Mày làm xong việc thì tao cho một chầu ga tô thật no.”
"Ái chà sang nhỉ! No là mấy cái?"
"Độ vài ba cái chứ gì!"
"Vài ba cái thì chả bỏ dính răng.”
"Thế mấy?"
"Mấy mà chả hết.”
"Thôi, bốn đi! Bốn là hết bố nó tám đồng với nhà ông rồi.”
Ích cười hề hề. Nước dãi nó ứa ra. Nó nghĩ đến những miếng bánh ngọt lịm phết kem xanh đỏ mà nó sẽ được nhai ngấu nghiến một mình.
Lát sau, hai bác cháu dừng lại ở mộtt cửa hiệu ăn. Mùi phở thơm lừng bốc lên ngào ngạt. Thằng Ích quên ngay hương vị bánh ngọt nó vừa tưởng tượng và nó vụt thấy đói cồn cào. Mắt nó đưa vào phía trong hiệu, lơ đãng ngắm một cách thèm thuồng mọi người ăn uống. Trong khi ấy, bác Tốn sửa lại dây đàn. Một ngón tay bác bật lên những nốt dạo nhạc, một tay bác khẽ dúi vào đầu thằng Ích. Như cái máy, Ích gân cao cổ lên, giọng làm ra điệu rung rung như một tài tử chính hiệu. Nó bắt đầu hát:
"Đêm qua mơ dáng em đang ôm đàn gieo muôn tiếng tơ.
Không gian trầm lặng như âu yếm ru ai trong giấc mơ.
Muốn nói cùng em... ơ... ơ..."
Lòng bác Tốn bỗng thấy rạo rực, một niềm vui khó tả dâng lên theo lời nhạc làm bác xao xuyến. Hình ảnh Huệ, đánh môi đỏ, mặc áo hồng, phấn thơm sực nức hiện ra như một bà hoàng trong trí tưởng tượng của bác. Tay bác bật mạnh dây đàn, âm thanh rung lên trong bầu gỗ làm chói tai thằng Ích. Nó quay lại nhìn bác. Nó chợt mỉm cười, vì lúc ấy, bác Tốn cũng đang mỉm cười vu vơ. Ích thấy hàm răng ngựa của bác trắng bóng ở dưới ánh đèn...

Sài Gòn tháng 10/1959
tháng 4/1961
Nhật Tiến
Nguồn: Thềm hoang, truyện dài của Nhật Tiến. 
Đời Nay ấn hành lần thứ nhất ở Sài Gòn năm 1961 
Theo http://www.talawas.org/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Giải mã tục cúng Thần Tài vào mùng 10 tháng giêng âm lịch

Giải mã tục cúng Thần Tài vào mùng 10 tháng giêng âm lịch Khoảng hơn 10 năm trở lại đây, trên báo chí và mạng xã hội thường phản ánh chuyệ...