Thứ Năm, 29 tháng 7, 2021

Xóm cầu mới 2

Xóm cầu mới 2

Chương IX
Buổi sáng đầu tiên ở nhà quê

Đối với Mạch thì buổi sáng này là buổi sáng đầu tiên ở nhà quê. Mạch chạy ra vườn sau, tuy còn mây trắng phủ khắp trời nhưng mưa đã tạnh hẳn. Mạch thấy không khí khác hẳn ở tỉnh, nó hin hít thở mấy cái và vì không khí trong và nhẹ quá nó có cái cảm giác như là không khí ở nhà quê có mùi (Mạch tưởng thế là vì không khí ở nhà quê có mùi thật). Mạch dừng lại ở vườn rau nhìn những lá cải xanh, nhìn những cây thìa là long lanh nước mưa, những bông hoa cải cúc vàng, và những con bướm trắng chập chờn trên hoa. Mạch lại ngắm cả những cành lá khoai lang, những mầm hành và những sợi rơm nằm dẹp trên đất. Cái gì cũng như mới mẻ, sạch sẽ. Mùi nước giải, mùi chuồng lợn đưa thoảng qua mũi, Mạch thấy là những mùi nhè nhẹ, không phải là một mùi thơm gì nhưng nó cũng cố hin hít mãi để ngửi rõ hơn và thấy là những mùi ngửi dễ chịu lắm. Mạch đi ra bờ ao chỗ có đống bèo u già đã thái nhỏ để chốc nữa nấu cho lợn ăn, Mạch không biết là bèo để làm gì nhưng thấy cái mùi thơm hăng hăng nó cúi xuống sát vào đống bèo đánh mũi ngửi. Thấy mùi bèo ngon ngon, Mạch yên trí là để cho người ăn, và chốc nữa chắc Mạch sẽ được ăn cái lá ấy.
Lúc đó Mạch mới nhớ ra là ra vườn đi giải mà vì mải ngắm nên quên bẵng đi mất. Nó đến chỗ chuồng lợn, đứng đái vào khóm thài lài, trên những bông hoa xanh biếc. Nó nghịch tưới nước giải cho trúng vào từng bông hoa một và tưới cho đủ hết các bông hoa và định bụng sáng nào cũng ra đấy đứng đái và tưới vào hoa như thế cho thích. Mạch thấy hoa thài lài xanh biếc đẹp thế mà sao nó lại không quý.
Lúc trở về qua bể nước Mạch nhìn thấy mấy cây mộc. Có bao nhiêu hoa Mạch hái tất cả. Nó trở vào buồng đưa hoa cho Siêu:
"Anh tha hồ ướp chè mạn. Chè mạn ướp sen của anh mùi nó làm sao ấy; đây này thơm lắm".
Nói đến đây Mạch mới sực nghĩ ra là mùi chè mạn sen của anh nó hơi giống mùi chuồng lợn lúc nẫy ngửi thì cũng dễ chịu nhưng không phải là một mùi thơm của nước chè. Câu nói của Mạch làm Siêu khó chịu; lần ướp chè mạn với thứ thuốc chế ra sau cùng, Siêu uống và ngẫm nghĩ cố tưởng tượng cho nó giống mùi hoa sen và thấy nó cũng hơi giống mùi hoa sen; chàng đưa cho Mạch uống thử và Mạch cũng bảo là thơm. Nhưng Siêu mang máng thấy mùi thuốc ướp vẫn có cái gì khang khác mùi hoa sen và uống vào lại thấy hơi lợm giọng. Câu nói thực thà của Mạch hôm nay làm chàng nhận ra rõ là thứ thuốc mới chế của chàng chỉ giống mùi hoa sen ở mỗi một chỗ là chàng cho nó giống mùi hoa sen.
Mùi đương đứng xếp lại chăn gối ở giường Triết chợt nhìn thấy chỗ hoa mộc Mạch đặt ở trước mặt Siêu và giật mình đến thót một cái:
"Chết tôi rồi".
Nàng hạ giọng bảo Mạch:
"Chú đã bảo đừng đụng vào những cái gì của chú, sao anh không nghe lời".
Mạch nói:
"Thế nhưng em biết thế nào cái gì là của chú, cái gì không là của chú".
"Ở đây cái gì cũng là của chú cả".
Mạch mỉm cười nói một mình:
"Phiền nhỉ".
Triết cắp sách rồi kéo áo Mạch:
"Thôi đi kẻo ở nhà cứ táy máy mãi. Đi xem ông Năm Bụng với đi xem trường học".
Chàng đưa Mạch đi tắt qua cánh đồng ra cuối phố Xóm Cầu Mới. Đến trước cửa nhà ông Năm, Triết bảo Mạch đứng lại và cả hai người nhìn vào trong. Ông Năm Bụng lúc đó ngồi ở phản giữa nhà. Triết bảo khẽ Mạch:
"Đấy ông Năm Bụng đấy".
Mạch lẩm bẩm:
"Trông ông ấy y như người".
Ông Năm Bụng thấy hai người đứng thì thầm ở trước cửa, vội hỏi to:
"Có việc gì thế cậu Triết? Cậu vào đây".
Triết và Mạch đi vào nhà.
"Thưa ông, đây là người anh họ tôi mới ở Hải Phòng về Xóm hôm qua. Tôi đưa anh ấy đi xem phố".
Ông Năm Bụng hỏi Mạch:
"Cậu đã đi học chưa?"
"Thưa ông đi học rồi".
"Thế thì tốt, cậu học lớp mấy?"
"Thưa ông lớp tư".
Mạch không thấy ông Năm Bụng có gì lạ nữa. Ông chỉ là một người mà lại là một người hiền lành nữa. Mạch định bụng sẽ đến đây luôn để nói chuyện với ông vì mới trông Mạch đã thấy thích và muốn được nghịch bộ râu xồm và rậm của ông ta.
Lúc hai người đến trường học thì vừa sắp đến giờ. Học trò đến đã đông. Mạch thấy quả tim hồi hộp như chính hôm ấy Mạch phải vào lớp học lần đầu tiên. Biết là trước sau rồi cũng phải đi học, Mạch chú ý nhìn các ông giáo xem các ông ấy ác hay hiền. Các ông giáo lúc đó đương đứng nói chuyện ở hiên. Mạch thấy một ông đứng tựa đầu vào cửa, một chân gấp lại và đặt chéo sang chân kia, một ông cho hai tay vào trong áo ba-đờ-suy vừa nói chuyện vừa mở hai vạt áo thật rộng rồi khép lại, mở ra và trong lúc đó kiễng chân trên mũi giầy đưa người ra đằng trước, rồi lại kiễng chân trên gót giầy đưa người ra đằng sau, còn ông giáo thứ ba thì đứng khoanh tay, bàn tay phải đặt ở dưới cằm có vẻ suy nghĩ, thỉnh thoảng ông lại quặt bàn tay phải xuống để xem giờ ở chiếc đồng hồ đeo tay. Mạch biết đấy là ông giáo dậy lớp nhất. Mạch thấy từng ông giáo một thì không ông nào giống ông nào, nhưng trông cả toàn thể các ông giáo ở đây cũng giống như hệt các ông giáo ở Hải Phòng. Các ông bao giờ cũng đứng tách riêng hẳn đám học trò, nghiêm trang, cười nói nhưng không bao giờ cười to thành tiếng, và cử chỉ lúc nói chuyện của các ông giáo trường nhà quê cũng không khác gì các ông giáo ở trường Mạch học trên tỉnh.
Học trò đã vào lớp hết chỉ còn một mình Mạch đứng ở giữa sân vắng. Mạch thấy chung quanh mình yên tĩnh hẳn và nghe rõ tiếng chim hót ở bụi tre cạnh trường; Mạch đưa mắt tìm xem Triết ngồi đâu nhưng không tìm thấy. Nhìn bóng các học trò ngồi yên lặng và nghe tiếng ông giáo nói vang trong lớp học, lẫn với tiếng chim ở ngoài, Mạch tự nhiên thấy hơi buồn.
Ở bến thuyền Xóm Cầu Mới, đồ đạc đã dọn lên để ngổn ngang trên bờ sông. Trời đã hửng nắng và gió nồm thổi man mát như trong những ngày sắp trở sang hè. Mùi chạy đi chạy lại sai bảo người khuân vác đồ đạc và Siêu thì ngồi trên cái rễ cây dưới gốc đa ung dung như người không có việc gì ra đứng ngắm trời ngắm đất. Lúc mới ra thuyền dọn đồ Siêu cũng cố hoạt động chạy đi chạy lại loăng quăng nhưng sau thấy việc gì Mùi cũng thạo và nhanh nhẹn hơn, Siêu nhận thấy mình là một người thừa và loăng quăng làm chỉ thêm vướng chân người khác, chàng nghĩ không gì tốt hơn là ngồi yên. Vả lại bao giờ cũng thế dọn nhà là một công việc mà Siêu thấy ngại hết sức. Chàng không phải ngại vì khuân vác mệt nhọc hay sợ mất đồ đạc. Nếu chỉ có một mình mình với đồ đạc thì chàng có thể dọn cả ngày không sao. Chàng ngại nhất là vì có những người đến khuân vác và những người đến xem. Chàng ngượng lắm khi thấy họ sờ hay nhìn vào cả những đồ vật lặt vặt và thân mật nhất trong nhà mình, cái chậu rửa bát, cái giỏ đựng đũa, cái bô đi giải, hay cái chiếu rách, cái nồi đồng đã méo mó.
Khó chịu nhất là đối đãi với những người khuân vác thuê. Thấy thuyền đậu ở xa bến chàng khó chịu vì những lời nói than phiền của những người đẩy xe hơn cả những người phải khó chịu đẩy xe xa thêm một quãng dài. Lúc mặc cả thuê dọn, họ đòi tám hào, chàng nhất định chỉ trả sáu hào một lúc lâu lắm rồi mới chịu, nhưng lại trả tám hào như số họ đòi, làm thế để sau họ khỏi đòi thêm nữa. Giá sáu hào chàng cũng biết đắt lắm rồi. Thế mà đến bến họ lại đòi thêm hai hào nữa. Giá không có cái mưu mẹo nói sáu hào để chịu trả tám hào thì chàng đành lòng trả họ thêm, nhưng đã chở rồi mà họ còn đòi thêm thì chàng thấy họ làm quá, bắt nạt mình một cách vô lý và chàng thấy giận ứ lên cổ, cãi nhau với họ một hồi, và sau cùng cũng phải trả cho họ thêm hai hào. Siêu thắng những tai nạn lớn trong đời như việc nhà bị phá sản, cha bỏ trốn, mẹ điên làm chàng đau khổ thật nhưng đau khổ ấy còn có lý; những việc lặt vặt vì không có lý gì cả nên làm chàng khó chịu và chàng bực mình lại khó chịu với chính mình tại sao tự nhiên lại giận uất nên được vì những việc không đâu ấy. Nhưng Siêu nghĩ không thể đổi được lòng mình chỉ có một cách là hết sức tránh không để xẩy ra. Cũng vì thế chàng ra ngồi ở gốc cây đa, đã có Mùi thì để mặc Mùi dọn nhà hộ mình.
Siêu cũng không khỏi ngạc nhiên về cách cư xử và lời ăn tiếng nói của Mùi đối với mọi người dọn đồ; ai cũng vui vẻ tươi cười và không thấy đả động gì đến việc tiền nong cả. Siêu đương ngồi thấy một người mặc áo dài vá nhiều chỗ, đầu chít khăn xếp đã rách hở cả lần giấy lót, đến gần chỗ Mùi đứng vái Mùi rồi nhìn đồ đạc cười hở cả lợi trên, miệng nói suýt xoa như người khấn Phật:
"Đồ đạc đâu mà lắm thế này. Lại có cả giường tây, ghế tàu".
Rồi Siêu thấy người ấy đến mở nắp cái bô đi giải nhìn vào trong, đặt nắp lại, mồm lẩm bẩm:
"Hẳn nồi cơm tây có khác".
Vừa nói vừa vái luôn cái bô đi giải mấy cái, làm Siêu không thể nhịn cười được. Người ấy nghe tiếng cười, quay lại nhìn thấy Siêu vội quay lại chắp tay vái Siêu mấy cái như vừa vái cái bô đi giải:
"Bẩm cậu mới về".
Tiếng hơi thân mật như quen biết chàng từ lâu và có vẻ cung kính như đã biết rõ chàng là ai. Siêu định hỏi người ấy là ai thì người ấy đã đón trước:
""Bẩm cậu, cháu đây. Bút. Để hôm nào cháu vào hát mừng cậu. Giọng hát khàn rồi; khàn khàn như tiếng vịt đực nhưng cậu muốn nghe giọng nào cháu cũng xin hát hầu cậu nghe".
Siêu nhìn để cố tìm xem bác Bút có say rượu không nhưng không sao biết được bác ta say hay không say. Mặt thì không say nhưng lời nói thì rõ ràng là lời nói một người say rượu. Mùi đến kéo áo bác Bút:
"Hát với hỏng gì. Ra khuân hộ người ta đi".
Bác Bút ngửa đầu ra đằng sau, hai vai co lên và cười hì hì ở trong cổ họng nhe cả lợi trên như có vẻ sung sướng lắm. Một lúc sau, bác ta đứng chỉ trỏ, sai Nhỡ vác cái này, bảo bác Lê vác cái khác, dặn dò cẩn thận chỉ bảo cách thức và ngăn cản trẻ con đang xem không được sờ mó như chính bác là chủ nhân hết cả đồ đạc ấy. Bác không hề dùng tay khuân vác một cái gì cả, bác vô tình thành ra làm tranh hết cả công việc của Mùi. Thấy mình không có công việc gì làm nữa, Mùi đến đứng cạnh Siêu:
"Dọn lên mới thấy là nhiều đồ đạc. Anh cũng có cái tính cẩn thận như em, cả cối giã vừng và dế nồi cũng đem đi".
Sự thực Siêu chẳng muốn đem một thứ gì hết trừ cái hòm sách và hòm đựng các chất thuốc hoá học. Chỉ có một mình không thể nào định đoạt được cái nào bỏ lại, cái nào đem đi, chàng bảo những người phu vác thuê đem hết cả không bỏ lại một cái gì cả. Như thế đỡ phải nghĩ ngợi mà lại tiện: lúc dọn xong chỉ nhìn qua một lượt cũng đủ biết chắc là không bỏ quên một thứ gì. Nhưng Siêu không nói sự thực ra; chàng chỉ mỉm cười nhận lấy lời khen của Mùi cho mình là người chi li cẩn thận. Chàng nhìn Mùi đứng ngoài nắng trán lấm tấm mồ hôi, và hai gò má đỏ hồng:
"Cô làm hộ lúc nãy chắc mệt lắm. Sao cô không ngồi vào bóng mát nghỉ một lúc đã. Giời mùa đông mà nóng như mùa hè. Cây đa cao quá thành ra bóng mát lạ".
Mùi ngồi xuống cạnh Siêu nói:
"Đằng sau lưng anh là ông Ninh Ký đương chõ mặt nhìn chúng mình. Ông ấy em vẫn gọi là cái chậu tóc tiên. Nhưng anh đừng quay mặt nhìn ngay, họ biết là mình nói đến họ".
Một lúc sau, Siêu lấy tay che miệng, quay mặt ra phía sau, vờ ho lên mấy tiếng và nhìn được mặt ông Ninh Ký mà chàng cũng thấy giống một cái chậu tóc tiên. Rồi Mùi nói chuyện về ông Ninh Ký nhưng không nói với Siêu là ông Ninh Ký có ý hỏi nàng làm vợ. Một lúc sau Siêu đã biết hết cả mọi người ở trong xóm, ở ấp cụ Án và ở làng Hàn. Cứ mỗi lần nói đến nhà nào có trẻ con đi học hay sắp đến tuổi đi học thì Mùi lại bảo chàng:
"Thong thả anh đến chơi họ".
Siêu gật gật nhưng trong trí mới nghĩ đến chỗ đó chàng cũng đã thấy phiền ngại rồi. Chàng thấy phục ông giáo Đông về cái chỗ thích đến bất cứ nhà ai và vì phục nên Siêu thấy mình ghét ông giáo Đông tệ mặc dầu chưa biết mặt ông ta. Chàng cất tiếng nói với Mùi:
"Tôi không thích ông giáo Đông, ông ấy có lắm cách lắm. Mà có một cách chính của ông ta là hình như đi lừa người. Tôi sẽ tìm ra và ông giáo Đông sẽ ngồi tù".
Mùi nhìn Siêu và lấy làm phục; Siêu đã đi học ở Hà Nội mấy năm chắc là thạo về luật lệ lắm. Có Siêu ở gần, xẩy ra chuyện gì Mùi cũng không sợ nữa. Nghe Siêu nói, Mùi cũng thấy ông giáo Đông là một người gian giảo như bà chủ Nhật Trình và đáng bỏ tù. Mùi bảo Siêu:
"Anh nên tìm được cách bỏ tù ông giáo Đông thì dân vùng này sẽ phục anh lắm và anh sẽ có vô số học trò. À, em chưa bảo anh là bên phố Phủ ông ấy cũng có nhà nữa, nhà nào đồ đạc cũng bầy biện sang trọng và người ta nói ông ấy đi hát nhà trò luôn. Tiền đâu ra lắm thế".
Rồi hai người ngồi bàn về cách thức để bỏ tù ông giáo Đông. Trước hết, Siêu giảng nghĩa cho Mùi biết về các hội buôn, cách thức lập hội, có những loại hội gì và nói nhiều hơn về các hội để dành tiền. Mùi chăm chú nghe vì lần đầu tiên có người giảng cho rành rọt về những việc mà Mùi chỉ biết lờ mờ. Bây giờ nàng đã rõ hết công việc của hội công ích để dành tiền. Mùi cũng bắt đầu thấy kinh tế học là một thứ thần diệu và người đã nghĩ ra làm việc lập hội để dành tiền phải là một người giỏi lắm.
Hai người mải nói chuyện quên hẳn việc dọn đồ đạc. Bác Bút phải đến nhắc:
"Cô Mùi, đồ đạc dọn hết rồi, không mất vỡ một cái nào cả".
Rồi bác vái cả hai người, đi về phía phố, đầu cúi xuống và nhe lợi như đương cười với những hòn sỏi, những khóm cỏ dưới chân. Siêu hỏi Mùi:
"Này sao không trả tiền bác ta".
Mùi nói:
"Không cần".
"Ở nhà quê thế tiện nhỉ. Đỡ phải mặc cả, mà nghe cãi nhau đắt rẻ đến khó chịu".
Mùi giảng giải:
"Trả bằng cách khác. Bác ta không bao giờ lấy tiền của ai cả. Khi nào nhà có giỗ tết, bác ta đến ăn cỗ, uống rượu".
"Lúc nẫy bác ta nói hát là hát gì thế?"
"Hát chèo".
Hai người cùng đứng lên để về nhà bầy biện. Mùi vừa đi vừa nói cho Siêu biết về đời bác Bút. Hai vợ chồng trước làm nghề hát chèo nhưng bị vỡ tiếng phải bỏ nghề đưa nhau đến ở cuối chợ. Hai vợ chồng bác nghèo lắm; bác Bút gái nuôi gà chăn vịt nên suốt ngày hay ở ngoài đồng cói và cũng may cho mọi người vì bác khó tính lắm, hay cà khịa cãi nhau với bất cứ một ai. Bác Bút trai thì suốt ngày đi hết nhà nọ đến nhà kia. Trước bác đi kéo xe nhưng bây giờ sức yếu phải nghỉ. Bác có đứa con trai nhưng từ khi đứa con mất thì người ta bảo bác hoá điên. Sự thực bác cũng không điên gì. Bác chỉ vui tính quá một tí thôi như là lúc nào cũng say rượu. Nhà ai có công việc thì bác đến làm giúp; bác cũng không giúp gì được nhiều vì bác không biết làm công việc gì cả nhưng bác có cái tài là ở bất cứ nhà nào từ nhà sang trọng như cụ Hường cụ Đốc cho đến nhà nghèo cùng đinh, ở đâu bác cũng đứng vào địa vị một người nhà và cư xử đúng với địa vị mình. Bác lại được cái rất lương thiện, không tơ hào của ai một tí gì. Vì vậy bác đến nhà ai cũng lọt và được người ta ưa. Quanh vùng này, bác ta đều quen và nhớ cả ngày giỗ lớn giỗ bé của từng nhà một. Bác tuy nghèo mà thành quanh năm ngày tháng được ăn cỗ và uống rượu. Ít khi lắm, nhưng nếu hôm nào buổi chiều phải ăn cơm nhà thì bác Bút gái thể nào cũng mua rượu và cả bác Bút gái hôm đó cũng uống rượu. Thế rồi hai vợ chồng say diễn trò ngay ở trước cửa nhà và trẻ con đến xem đông lắm. Mùi cười nói với Siêu:
"Em cũng đến nghe một lần. Hay và vui đáo để. Đúng đến chỗ... chỗ gì em cũng chẳng rõ, bác gái vừa hát vừa khóc mà bác khóc thật, nước mắt chẩy ròng ròng trông vừa thảm hại vừa buồn cười. Thành thử em cũng vừa cười vừa khóc theo bác ta, không nhịn được".
Chương X
Ông giáo Đông bắt ruồi
Cụ Án nghiêng người nhấc cái vung nồi cá kho dứa đặt trên cái hỏa lò con nhìn vào trong nồi và hít mũi mấy cái. Lứa cá kho này cụ thấy ngon hơn mọi lần. Trong đời cụ, cụ chỉ thích nhất ăn cá kho dứa, mùa nào không có dứa tươi thì cụ nấu cá với dứa hộp và Hải đi Hà Nội mua đạn bao giờ cũng nhớ mua mấy hộp dứa biếu cụ. Độ trước khi cụ Án ông còn sống bắt cụ rời nhà quê lên ở trên tỉnh, cụ được nếm đủ các thứ sơn hào hải vị nhưng cá kho dứa cụ vẫn thấy ngon nhất. Cá kho ăn lại đỡ tốn, mỗi miếng cá bé tí cũng ăn được bao nhiêu là cơm. Vì thế hễ cứ lần nào có người biếu thì cụ lại có nồi cá kho. Biết tính cụ nên có ai biếu cụ là biếu cá và phải là cá còn tươi nguyên. Cụ tự tay kho lấy và kho xong thì cụ treo ngay trên giường cụ ngồi, vừa tầm tay với.
Cụ đậy vung nồi và tay lại cầm lấy cái que đập ruồi. Chỉ trừ lúc giã trầu ở cối, còn thì lúc nào tay cụ cũng cầm que đập ruồi. Cụ ghét và sợ ruồi lắm. Nhưng ở chung quanh chỗ cụ ngồi thì lại có đủ các thứ để nhử ruồi đến thật nhiều; ngoài nồi cá, lại có những sâu cá mắm, những chai mật ong và những quả chuối bao giờ cũng chín đen chín nát. Vì cụ bại một chân đi phải chống nạng nên ít khi cụ đi lại. Giang sơn cụ và cả đời cụ vì thế thu hẹp trong phạm vội cái giường cụ ngồi. Tất cả những thứ gì cụ cần dùng đều để ở trên giường và ở cái tủ chè cạnh giường. Chỉ trừ có số tiền cụ để dành được là cụ giấu ở chỗ khác.
Vì cụ không đi lại được nên chỉ đánh được những con ruồi ở trên giường. Để bắt ruồi chung quanh giường cụ nuôi cò ruồi, nhưng con cò không được bắt ruồi trên giường. Có con ruồi nào vừa bay đến đậu trên chiếu mà con cò định mổ thì cụ đã nhanh tay đập tranh trước; đập xong cụ hất ruồi xuống đất cho cò ăn. Lần nào con cò nhanh hơn mổ cướp của cụ một con ruồi trên chiếu là cụ lấy cán que đập ruồi đập vào đầu con cò một cái để phạt nó hỗn. Có một con cò lâu dần hiểu được chỗ đó nên không bao giờ mổ tranh ruồi của cụ; cụ thích lắm và khoe với tất cả mọi người, nhưng sau con ấy bị chó cắn chết mất.
Gian nhà cụ ngồi thành thử chia ra ba từng rõ rệt. Từng trên là cái giá treo đựng các thức ăn; từng giữa là cái giường cụ với đủ các thứ đồ dùng như ống nhổ, ống vôi, hoả lò, than củi, ấm nước, chăn gối; từng dưới cùng là cái nền nhà trống không với một con cò ung dung đi qua đi lại.
Mùa đông ít ruồi, nên con cò đứng yên lặng đầu đặt trên cánh thiu thiu ngủ dưới nắng ở chỗ bực cửa. Cụ Án đưa mắt tìm nhưng không thấy một con ruồi nào, thấy có con nhện con, cụ đập nó một cái và hất xuống đất. Con cò nghe tiếng đập, mở mắt, nghếch mỏ nhìn vào rồi lại đặt đầu trên cánh nhắm mắt ngủ. Cả cái ấp rộng, không có một tiếng động. Hai vợ chồng Hải hôm ấy sang bên Bằng thăm một người anh cả và cho cả hai đứa con đi. Bác Huệ làm vườn thì ra bới khoai ở đâu phía sông.
Cụ Án bỗng lắng tai nghe. Hình như có tiếng người gọi cổng. Tiếng gọi lần thứ hai to hơn; gọi tên bác Huệ nhưng tiếng người thì lại là tiếng người lạ, chưa từng nghe thấy lần nào. Cụ Án đã gần bẩy mươi tuổi nhưng tai cụ còn sáng lắm. Chỉ nghe tiếng gọi cũng biết được người gọi cổng là ai và ít khi cụ lầm. Lần này cụ gọi bác Huệ đến, dặn cẩn thận xem đích xác là ai và báo cụ trước rồi mới được mở cổng. Cụ nghĩ đến số bạc để dành của cụ. Nhà có súng nhưng Hải hôm nay lại đi vắng cụ cần đề phòng.
Một lúc bác Huệ vào trình:
"Bẩm cụ lớn, cậu giáo Đông ạ".
"Cậu giáo Đông nào?"
"Bẩm cụ lớn, cậu giáo Đông, con cụ trợ tá Tiên Yên. Hồi cụ lớn nhà ngồi ở phủ Tiên Yên thì cụ thân sinh ra cậu giáo làm trợ tá. Cậu ấy lúc đó còn bé nhưng con cũng còn nhớ mặt".
Sự thực bác Huệ không nhớ được mặt vì ông giáo Đông không bao giờ là con ông trợ tá Tiên Yên cả. Cụ Án hết lo ngại:
"Mời ông ấy vào".
Bác Huệ mở cổng, nhìn Đông từ đầu đến chân:
"Giá đi ngoài phố gặp cậu thì cháu quả không sao nhận ra được. Cậu nói tên ra, cháu nhớ lại rõ lắm".

Bác Huệ khép cửa rồi cuống quít đưa ông giáo Đông vào. Bác mừng lắm vì bất cứ một sự gì có liên quan đến đời bác lúc đi hầu cụ Án ở các huyện phủ cũng làm bác vui sướng như được sống cái thời vinh quang đã qua.

"Bẩm cậu, quan lớn Trợ nhà ta..."
Đông vội vàng đáp:
"Thầy tôi đã mất".
Nói thế, nét mặt Đông cũng buồn hiu như là cha mình chết thật rồi. Bác Huệ thấy câu hỏi của mình làm Đông buồn vội nói sang chuyện khác:
"Bẩm cậu, thuở bé cậu hay sang bên vườn hái lựu lắm".
"Bây giờ tôi cũng vẫn còn thích ăn lựu như thuở bé".
Đông nghĩ cần phải lấy lòng bác Huệ:
"Bác trẻ lâu nhỉ. Tôi trông bác vẫn y nguyên như ngày trước".
Vào đến nhà, Đông đi thẳng đến chỗ cụ Án ngồi, hai tay giơ ra đằng trước, tươi cười nói:
"Bác còn nhớ cháu không? Cháu trông bác vẫn thế, chỉ khác cái tóc bạc. Cháu về đây mấy tháng mà đến hôm qua mới biết bác là bác Án Tiên Yên. Cháu mừng quá vội vào thăm bác".
Cụ Án thì không nhớ lại một tí gì, cả đến ông Trợ Tiên Yên cụ cũng không nhớ là ai và nếu có ông Trợ Tiên Yên thì cụ có được nhìn mặt ông ta hay không cụ cũng không biết. Cụ mời:
"Ông ngồi đây".
Đông thân mật ngồi ngay xuống giường. Mắt chàng đưa nhìn nải chuối treo trên giá.
"Bây giờ bác còn nhiều chuối như trước nữa không?"
Đông thân mật mở cái nồi cá, nói:
"Thơm nhỉ".
"Cá kho dứa đấy".
"Cá kho dứa thì ăn ngon lắm. Cháu vẫn thích nhất cá kho dứa. Hôm nào lại, bác cho ăn nhé".
Cụ Án nhìn Đông tươi hẳn nét mặt, nói:
"Có phải không. Yến tôi ăn nhiều lần, ăn nhạt phèo mà tốn bao nhiêu là tiền... Bây giờ ông làm gì?"
Đông đưa mắt thấy bác Huệ vẫn đứng ở bực cửa:
"Thưa bác cháu dậy học".
Cụ Án rót nước chè ở cái ấm vào một cái chén đã cáu ghét.
"Nước chè mạn kinh niên đấy".
Đông nhắp một hụm nhỏ và mỉm cười. Có lẽ vì là chè mạn kinh niên nên như có mùi thiu.
Cụ Án đập một con ruồi trên áo Đông rồi gạt xuống cho con cò đứng đợi ở dưới. Đông giật mình nhìn xuống áo. Cụ Án vội nói:
"Tôi đập bao giờ cũng có ngữ chỉ vừa chết chứ không bao giờ nát con ruồi. Ông không sợ bẩn áo.
Một lúc sau lại có con ruồi đậu trên thành chén của Đông. Cụ Án giơ que rình đợi nó bay xuống chiếu để đập. Đông đưa tay hất một cái bỏ ra chiếu một con ruồi chết. Cụ Án nhìn Đông lấy làm ngạc nhiên lắm.
"Thưa bác, cách bắt ấy cũng không khó gì. Cần phải đón đầu nó, con ruồi tự khắc vào nằm trong tay mình".
Cụ Án giơ que đập thêm con ruồi một cái rồi hất xuống đất. Đông đưa mắt tìm và thấy một con ruồi đậu ở trên cái que bình vôi, giơ ngón tay búng một cái, con ruồi rơi lăn xuống chiếu. Cụ Án nhìn, mỉm cười một cách ngây thơ như đứa trẻ con:
"Hay nhỉ".
"Thưa bác, cháu mà ngồi đây một buổi chiều thì nhà này bói cũng không ra một con ruồi nào nữa".
Nhưng Đông nghĩ thầm mình đến đây không phải để búng ruồi cho cụ Án. Vẫn thấy bác người nhà cứ đứng ở bực cửa nghe chuyện, chàng tức mình lắm nhưng không nghĩ được cách nào để làm cho bác ta đi chỗ khác. Trong lúc đợi, Đông xoay câu chuyện về đạo Tin lành:
"Thưa bác, bao giờ cũng thế ở lành thì gặp hiền. Đạo Tin lành cả nước Mỹ theo, vì thế họ văn minh gấp hai nước Pháp. Cả người Tầu bây giờ cũng bỏ đạo Phật, đạo Khổng, theo đạo Tin lành, bác ạ".
Rồi Đông mở cặp rút ra mấy cuốn sách về đạo mở qua cho cụ Án xem tranh vẽ. Cụ Án nói:
"Tôi bây giờ già rồi chẳng hiểu gì cả".
Đông không cần cụ Án hiểu hay tin đạo: trông vẻ mắt cụ nhìn Đông thấy rõ là cụ đã tin mình lắm. Nhưng sao bác người nhà đứng kia lâu thế? Đông đăm đăm nhìn vào gáy bác Huệ và thầm ra lệnh:
"Đi đi! Đi đi!"
Chàng có nghiên cứu về thuật thôi miên và đã có lần làm một đứa trẻ con ngủ thiếp đi. Nhưng còn nhìn vào gáy một người và bắt người ấy đi thì chàng không dám tin là công hiệu. Bác người nhà vì thế vẫn đứng yên và Đông lại phải kéo dài câu chuyện về đạo Tin lành.
Sau cùng cụ Án bảo bác Huệ:
"Bác ra dỡ nốt chỗ khoai để chốc nữa luộc một mẻ. Cậu Ấm mợ Ấm đi về chắc là đói bụng".
Đông nhẹ hẳn người. Chàng kéo dài thêm câu chuyện về đạo một lát cho cụ Án khỏi nghi rồi chuyển sang việc để dành tiền.
"Thưa bác cháu dậy học cũng không kiếm được bao nhiêu, lại cần đi nơi này nơi khác, tốn kém quá. Nhưng không đi không được, đức Chúa Trời không cho. Cũng may ông chủ nhất công ty Công Ích để dành tiền lại là một người theo đạo Tin lành, ông ấy cho cháu giữ độc quyền cả một tỉnh này. Nhờ thế cháu được ít hoa hồng, đủ chi dùng trong lúc vì Chúa Trời phải đi đây đi đó".
Rồi chàng vừa đặt tay lên cái cặp da vừa giảng giải về cách thức để dành tiền, về lợi ích của nó và thấy cụ Án chú ý nghe. Chàng rút các giấy má của hãng Công Ích ra đưa cụ Án xem:
"Thưa bác, đây là giấy để dành tiền của cụ Hường làng Trò. Cụ muốn có cái vốn chắc chắn cho cậu con út; đưa cho cậu con thì sợ cậu tiêu mất, để dành vào công ty thì tháng tháng có lãi mà nếu mở số trúng thì vốn tăng gấp đôi gấp ba ngay".
Đông mở tờ nhật trình cũ:
"Tháng vừa rồi, báo có đăng ông Tổng Nghi Xương trúng số một trăm".
Cụ Án hỏi đột ngột:
"Báo có đăng cơ à? Trúng một trăm cơ à?"
Đông nhìn cụ Án ngẫm nghĩ không biết cụ Án hỏi thế thì việc đáng tin hay là cụ sợ trúng số nếu đăng trên báo, ai cũng biết cụ có tiền để dành. Chàng nói:
"Đăng trên báo là tuỳ ý riêng người ấy có bằng lòng không, còn hãng thì cần phải đăng báo để tỏ ra mình không có gì khuất tất. Mỗi lẫn xổ số có đủ hết các quan tây, quan ta ở tỉnh chứng kiến. Cụ Sứ Ê-đà..."
Cụ Án nhắc lại:
"Cụ Sứ Ê-đà à? Cụ ấy có về chơi đây một lần hồi còn mồ ma ông nhà tôi. Cụ ấy bắt tay tôi làm tôi ngượng quá. Cụ ấy ăn được cả mắm tép nữa".
Rồi cụ Án nói mãi về ông Sứ Ê-đà và quên cả câu chuyện để dành tiền. Đông phải đưa câu chuyện quay về việc cũ.
"Cụ Ê-đà, thưa bác, bây giờ đứng đỡ đầu cho hãng Công Ích. Đây bác xem".
Đông vừa nói vừa chỉ vào chữ tên Edouard viết ở góc giấy. Cụ Án không biết đọc chữ nhưng cũng nhìn chăm chú vào mấy chữ dưới ngón tay Đông.
"À, cụ Sứ Ê-đà đấy à? Cụ còn sống".
Cụ Án vừa nói vừa lặng yên đập một con ruồi ở vành khay mà con cò định mổ tranh.
Đông đáp:
"Vâng, cụ ấy năm nay bẩy mươi sáu. Trông cụ cũng còn hồng hào khoẻ mạnh lắm. Cụ ấy ngày nào cũng uống rượu và thỉnh thoảng lại bắt cháu hầu rượu".
Đông và cụ Án cùng ngửng đầu lên một lượt. Hải chạy vào mặt hầm hầm tức giận:
"Thưa đẻ, thế nào mà cổng ngõ lại mở tung cả ra thế kia?"
Đối với tất cả mọi người trong ấp việc quên đóng cổng là một tội to lắm.
Cụ Án nói:
"Cái bác Huệ thế thì thôi".
Rồi cụ cất tiếng gọi bác Huệ lên. Hải lúc đó mới để ý đến Đông và gật đầu chào nhưng chàng không cất tiếng vì không biết Đông là ai và không hiểu vì lẽ gì tự nhiên lại ngồi nói chuyện với cụ Án. Đông vội thu các giấy má đút vào cặp nhưng Hải cũng đã nhìn được hai chữ Công Ích ở góc giấy.
Bác Huệ lên chắp tay đứng đợi:
"Bẩm cụ Lớn gọi con".
Thấy nét mặt đầy tức giận của Hải, Đông yên trí thế nào khi bác Huệ lên Hải cũng mắng cho một trận, nhưng chàng ngạc nhiên thấy Hải cứ đứng yên, còn cụ Án chỉ nói rất ngọt ngào với bác Huệ:
"Bận sau đừng có thế nữa".
Bác Huệ cúi đầu miệng lẩm bẩm "dạ, dạ", bác chịu nhận lỗi nhưng bác không biết là lỗi gì và cả Hải cả cụ Án cũng không ai nghĩ đến chỗ chưa bảo cho Huệ biết.
Đông thấy cụ Án "mắng" thế xong, thì cả cụ và Hải đều hết tức giận. Cụ Án nói với Hải:
"Này Ấm ạ, để dành tiền hay đáo để, chỉ tiếc là nhà không có tiền để để dành".
Đông không thấy cụ Án giới thiệu mình với Hải là con ông Trợ Tiên Yên. Cụ nói thế vô tình bảo cho Hải biết chàng đến để cổ động bán phiếu. Chàng cho thế là may, vì nếu Hải hỏi lâu về ông Trợ thì sự nói dối của chàng sẽ lộ.
Đông lấy làm mừng là đã nói kịp với cụ Án những điều cần nói. Chàng biết chắc là cụ Án có tiền để dành đúng như lời bà Ký Ân đoán. Cụ lại có tính hà tiện: cá kho dứa ngon hơn yến, nước trà thiu và những quả chuối để đã đen nát đủ chứng tỏ điều đó và như thế tất cụ tham lợi. Bác Huệ mới quên đóng cổng có một lúc mà cả nhà đã xôn xao, vậy chắc cụ lúc nào cũng lo sợ kẻ cướp. Cụ lại sợ đăng tên lên báo, như thế là cụ tỏ ý muốn để dành tiền để mong trúng số. Còn tin thì chắc là cụ tin rồi, tin vì có cụ Sứ Ê-đà.
Đông định đứng lên cáo thoái thì vừa lúc đó mợ Ấm ở nhà trên đi xuống. Nàng không để ý đến Đông, cười bảo chồng:
"Cái súng hãy còn nguyên, cậu ạ".
Đông nhìn mợ Ấm và thấy nàng đẹp không kém gì Mùi; nàng đẹp một cách phúc hậu. Mới trông thoáng và chỉ nghe mợ Ấm nói một câu thôi, chàng cũng đã biết chắc là mợ Ấm ngây thơ như trẻ con, hay ngây ngô thì đúng hơn. Lúc mợ Ấm cười, mợ không há miệng, chỉ cười ở trong mũi, nghe như tiếng gù của chim bồ câu và Đông thấy tiếng cười ấy hơi giống như tiếng rên của những người đàn bà chàng được ôm trong tay. Đông lại không định bụng đi ngay nữa. Chàng nhấc chén chè và uống hết chỗ nước chè thiu một cách khoan khoái. Chàng nói với Hải, mắt vẫn không nhìn mợ Ấm:
"Nghe nói ông bắn giỏi lắm?"
Hải chưa kịp trả lời, Đông đã nghe thấy Duyên cười và cũng cười như lúc nãy. Hải đáp:
"Ở nhà quê không có việc gì thì đi săn lảm nhảm cho vui".
Mợ Ấm nói:
"Nhà tôi hay đi bắn vịt trời".
Đông thấy mợ Ấm không để ý gì đến mình; mợ Ấm nhìn chàng, rõ ràng nói chuyện với chàng nhưng vẫn coi như là chàng không có đấy hay có đấy nhưng chỉ là một người quen đã lâu lắm không cần để ý. Vì thế mợ Ấm cũng không chào hỏi gì Đông, và Đông cũng nghĩ không cần đứng lên chào. Đông nói với mợ Ấm:
"Thịt vịt trời ngon lắm, nhưng phải biết cách làm... ngon nhất là vịt trời nấu sốt cay".
Duyên ngắt lời hỏi:
"Nấu vịt trời có cần cho sả không, ông?"
"Thưa bà không. Cần phải cho rượu vang hay rượu trắng. Thế thường bà nấu vịt trời với gì?"
Mợ Ấm đáp:
"Thường thường ấy à? Thường thường thì tôi chỉ nấu vịt nhà".
Nàng lại cười và đưa mắt nhìn chồng. Đông thầm nghĩ mợ Ấm có vẻ hóm hỉnh chứ không ngây ngô như lúc nãy chàng tưởng. Chàng nhìn Hải và nói:
"Để hôm nào tôi đi Hà Nội tôi cũng lấy cây súng của tôi về đây cùng ông đi bắn vịt trời cho vui. Bắn vịt trời thì vui lắm nhưng phải cái lội bùn khổ. Có lần tôi đi bắn suýt bị sa lầy, phải gọi người đến kéo lên".
Chàng vừa nói vừa cười. Chàng không có súng nhưng có thể mượn súng của bạn. Bắn vịt trời ở vùng nhà quê này thì chẳng sợ ai khám. Có cùng đi bắn với Hải thì mới có dịp gặp vợ Hải luôn được. Bà Ký Ân nói mợ Ấm cũng có của riêng; nếu không có cách gì năng đi lại luôn thì không tài nào gặp riêng được một người đàn bà trẻ đẹp mà lại sống cấm cung như nàng.
Mợ Ấm thấy Đông nói đến sa lầy, sợ hãi bảo chồng:
"Thôi, cậu đừng đi bắn vịt trời nữa, sa lầy chết".
Hải cũng sợ hãi vì thấy Đông nói định đi bắn vịt với mình; vì thế chàng nói với vợ:
"Phải đấy, tôi không nghĩ đến sa lầy".
Cụ Án cũng chợt nghĩ đến chỗ mấy đứa con trước đều chết về tai nạn:
"Thôi Ấm cũng đừng đi săn nữa. Để đạn giữ trộm cướp còn hơn".
Đông thấy mình nói hớ một tí mà mưu mô thành hỏng cả. Chàng không bực mình vì câu nói làm mất dịp đi lại gặp mợ Ấm; thực ra nghĩ lại chàng thấy sự làm thân với Hải một người đàn ông là con và chồng hai người đàn bà có tiền, là một sự rất nguy cho công việc bán phiếu. Chàng sẽ tìm cách khác để có được cả người đàn bà, cả tiền. Chàng bực mình chỉ vì chàng đã cố tránh nói hớ mà vẫn không tránh khỏi. Trong nghề chàng một câu nói hớ có thể làm mất hàng chục bạc là thường. Chàng vác cặp đứng lên và từ lúc Hải về cho đến lúc đó, chàng mới lại nói với cụ Án:
"Thôi bác cho cháu xin phép. Hôm nào thong thả cháu lại xin đến hầu bác và ăn chuối, ăn cá kho".
Cụ Án hỏi:
"Ông giáo ở đâu?"
"Thưa bác cháu ở ngoài Xóm Cầu Mới".
Đông nhớ lại mình đã nói chuyện với cụ Án là có hai nhà, một nhà ở phố Phủ và một nhà ở Xóm Cầu Mới; trước kia cụ không để ý đến chỗ ở của mình mà bây giờ cụ lại để ý. Đông biết chắc là cụ sẽ mua phiếu.
Chàng cúi xuống búng một con ruồi ở mép khay, vất xuống và hắt tay để bắt một con ruồi đang bay. Ruồi đang bay ít khi bắt được thế mà lần này may quá, chàng hắt có một cái đã bắt ngay được nó. Chàng cười đưa cho cụ Án xem con ruồi nằm trong kẽ tay rồi lại thả cho nó bay đi. Cụ Án nhìn rồi cất tiếng cười như trẻ con bảo con trai và con dâu:
"Ông ấy giỏi hơn cò ruồi nhiều".
Đông cũng cười sung sướng, chàng sung sướng vì cái may bắt được ruồi là cái triệu chứng báo trước sẽ lấy được tiền của cụ Án. Hai vợ chồng Hải thì không cười gì cả: thấy ông bán phiếu để dành tiền lại dám gọi mẹ mình là bác, tự xưng là cháu, đòi đến ăn chuối ăn cá kho và bắt ruồi nghịch với mẹ mình, cả hai người đều ngơ ngác nhìn Đông như nhìn một con vật lạ. Đông thì tưởng họ ngơ ngác vì phục cái tài bắt ruồi bay của mình.
Chương XI
Bé giận dỗi
Sáng ngày trước khi đi câu tôm, Tý bảo Bé:
"Từ rày có thiếu tôm thì chị phải đi mua lấy. Em không đi câu ở bến Trò nữa, em tìm được một chỗ nhiều tôm lắm cơ".
Ngừng một lát, Tý lại nói:
"Với lại bác Đỗi bây giờ bác ấy khó chịu làm sao ấy".
Nghe Tý nói vậy, Bé nhẹ hẳn người và cái ý nghĩ chiều nay lại có thể đến thăm Đỗi ở bến Trò làm tim nàng thổn thức. Mới cách mặt độ hai mươi hôm mà Bé tưởng đã lâu như một năm. Nàng tức Đỗi đã có lỗi làm cho Tý ngày nào cũng đến bến Trò lại còn làm cao không thèm tìm đến cửa hàng để gặp mặt nàng. Ngày nào Bé cũng đợi và ngày nào cũng thất vọng và càng lâu ngày cái tức càng tăng. Bé định bụng nếu Đỗi đến thì sẽ đứng ngay chạy vào trong bếp, không thèm tiếp để Đỗi tức và hả giận. Bé tưởng tượng lúc Đỗi đến cửa hàng, vào ngồi ở ghế; nàng để Đỗi ngồi vào ghế hẳn hoi, lật xong bát nước chè, lúc đó nàng mới đứng lên và đi vào trong bếp, nhất định không thèm nói nửa lời và nếu Đỗi cả gan dám gọi thì nàng nhất định không đáp, đợi cho vừa đúng lúc Đỗi đi ra đến đường cái nàng lại ra hàng và hắng giọng cho Đỗi nghe thấy để Đỗi phải tức uất lên. Bé thấy trước là sẽ thích lắm nếu làm được như thế và từ ngày nghĩ ra cách ấy, mỗi buổi chiều không thấy Đỗi đến nàng lại càng tức mình hơn và càng khổ hơn.
Suốt ngày hôm ấy Bé lưỡng lự không biết có nên đến tìm Đỗi không, hay là không đi, cương quyết đợi cho Đỗi đến. Theo lý ra thì Đỗi có lỗi phải đến trước, nàng sẽ không tiếp để cho Đỗi tức rồi sau đó nàng mới đến bến Trò gặp Đỗi và xí xoá hết cả những chuyện cũ đi. Nhưng Bé thấy mình khó lòng nén được cái ý muốn đến ngay chiều hôm nay, đến để mắng Đỗi một trận cho hả tức. Đợi Đỗi đến thì lâu quá và cái tức cứ kéo dài ra mãi không biết tới bao giờ. Đến chiều Bé quả quyết là sẽ đi đến bến Trò để cự Đỗi ngay.
Bé thấy cô Mùi đã mở hộp đếm số tiền thu được trong ngày. Cô Mùi sắp về nhưng vừa lúc đó thì ông giáo Đông lại vào hàng gọi một chai bia. Mùi đứng lên, ra tiếp - khách ngồi bên bàn khăn trắng thì bao giờ cũng do Mùi tiếp - Mùi đã cố tìm và đã tìm ra cái mở bia, vì thế không phải nhờ ông giáo Đông cắn nút chai.
Nàng nghiêng cái cốc rót rượu cho khỏi có bọt để tỏ cho ông khách biết rằng nàng đã học được cách rót rượu của ông và còn nhớ rõ là ông thích uống bia không có bọt. Đông nhìn cách Mùi rót bia, gật gật như tỏ ý bằng lòng. Được một cô hàng đẹp rót rượu cho uống, Đông khoan khoái uống một hơi cạn rồi lấy tay quệt miệng một cái và đưa cốc cầm nghiêng đợi Mùi rót rượu bia. Đông sang chỉ cốt ngồi uống bia và nhìn mặt Mùi một lát. Chàng không đem cặp đi vì không định tâm nói với Mùi về ích lợi của sự để dành tiền. Đông lim dim mắt nhìn Mùi trong khi đợi Mùi rót cạn chai. Vẫn biết cái cách tay cầm cốc mà bắt cô hàng rót rượu như thế hơi trịch thượng nhưng Đông thấy làm như thế thì có vẻ đầy thân ái và Đông có cái cảm tưởng được Mùi chuốc rượu mời như một cô ả đào nào đấy. Mùi cũng nhận thấy chỗ sỗ sàng của ông khách này, đã tức lắm nhưng cũng cố điềm tĩnh rót rượu vào cốc và cố cho rượu khỏi chẩy vào tay ông khách. Đông mỉm cười thấy Mùi vừa cẩn thận rót rượu vừa há đôi môi ra giống như điệu bộ một người vú em cho trẻ con ăn bột và chàng cũng bắt chước há miệng ra. Chàng nghĩ đến cái thú được hôn vào đôi môi của Mùi mà lúc đó chàng thấy nồng nàn ân ái. Chàng đưa cốc lên mồm và uống từng ngụm nhỏ, vừa uống vừa nhìn vào đôi môi của Mùi.
"Thế nào ông giáo, độ này ông có bán được nhiều phiếu để dành tiền không. Tôi muốn để dành ít tiền".
Đông đặt ngay cốc xuống và đưa mắt nhìn Bé. Giá không có Bé ngồi đó thì tiện hơn nhưng cũng không sao vì chính Mùi hỏi trước chắc Mùi không cần giấu Bé. Đông đặt tay lên cái khay cốc và tưởng tượng như là đặt tay trên cái cặp da rồi vừa xoay mấy cái cốc trên khay vừa nói về cách thức để dành tiền. Bỗng Đông lại đưa mắt nhìn Bé một cái và để ý đến cái khăn trắng che mắt của Bé. Chàng thấy mình nói không được gẫy gọn như mọi lần. Mùi bảo:
"Thưa ông giáo, công ty có nhà hàng nào bảo đảm không?"
Đông đưa mắt nhìn Mùi, ngạc nhiên về câu hỏi có vẻ chuyên môn của cô gái nhà quê. Mùi không cười, vẻ mặt vẫn cố làm ra ngây thơ như khi hỏi về cách thức làm cho rượu bia khỏi đắng. Nàng nhất quyết muốn báo thù Đông vì cái cử chỉ khinh thị nàng. Đông hỏi lại:
"Ư ử, cô hỏi gì cơ?"
"Thưa ông giáo, tôi muốn hỏi công ty Công Ích đứng riêng hay là một chi nhánh của một nhà băng nào bên Pháp hay của nhà Địa ốc ngân hàng".
Đông lại mở to mắt hơn. Chàng không trả lời vì đối với một người con gái nhà quê mà biết đến cả nhà băng, nhà địa ốc, chi nhánh, bảo đảm thì rất không nên nói chuyện lâu vì một là nguy hiểm hai là sẽ lộ cái dốt của một ông giáo như mình ra, nhất là Mùi lại có ý dằn vào hai tiếng ông giáo. Chàng định xoay câu chuyện và nói đùa:
"Cô thông thạo nhỉ. Trước kia cô có mở nhà băng?"
Mùi cười:
"Thưa ông giáo, ông nói đùa thế chứ nhà cháu làm gì có tiền mở nhà băng. Mở một cái nhà băng ít nhất cũng phải có mười vạn bạc vốn".
Nàng không nhớ rõ Siêu đã bảo nàng số tiền vốn của Địa ốc ngân hàng là bao nhiêu nhưng nàng cũng cứ nói bừa:
"Ông xem như Địa ốc ngân hàng cũng phải đến hai mươi nhăm vạn bạc vốn, còn hãng Hôm-Be..."
Mùi ngừng lại để nhận thấy cái ngạc nhiên gần như kinh hãi trên nét mặt Đông, nhưng nàng vẫn cố nhịn không cười và tiếp theo thản nhiên như nói đến chuyện làm nhân bánh cuốn:
"Thưa ông giáo, còn hãng Hôm-Be ở Ba-Lê có nuôi mấy cái nhà băng, nhà máy đồn điền cao su thì vốn không biết bao nhiêu mà kể".
Đông không biết là có hãng Hôm-Be nhưng chàng cũng làm như có biết hãng đó. Chàng cố gượng cười:
"Cô lại biết được có cả hãng Hôm-Be".
Mùi bắt chước bà chủ Nhật Trình, đáp vắn tắt:
"Ấy thế".
Rồi nàng trở lại câu chuyện để dành tiền:
"Thưa ông giáo, số tiền vốn mà công ty Công Ích thu được của mọi người, công ty chắc phải đem khai mỏ hay buôn bán để lấy lãi, nhưng ngộ nhỡ buôn bán thua lỗ, phá sản thì bao nhiêu có ít tiền người ở vùng này đều mất hết gia tài và chết đói. Ông chắc còn nhớ vụ phá sản của hãng Pa-na-mơ".
Nghe nói đến mấy chữ phá sản Panama, chàng sợ hãi như là chính chàng cũng sắp bị phá sản. Nếu Mùi cũng đi kể với mọi người những điều nàng kể với mình thì chàng phải bỏ phủ này đi nơi khác kiếm ăn. Ngoài mặt, Đông vẫn cố làm bộ cứng và nói:
"Mấy khi đã xẩy ra. Vả lại công ty Công Ích có cụ Sứ Ê-đà đỡ đầu..."
Thấy vẻ luống cuống của Đông, Mùi biết thế đã đủ thích của nàng rồi và không muốn làm mích lòng người khách hàng của mình thái quá. Thấy Đông có vẻ tự cao thạo đời và cái gì cũng biết, nàng đã cố để cả một buổi tối hỏi Siêu về các hãng buôn, nhà băng một cách rõ ràng hơn là hôm dọn đồ đạc. Mùi lại thấy ông giáo Đông sỗ sàng cầm cốc ở tay bắt mình rót nên nàng muốn báo thù. Báo thù thế đã đủ thích, Mùi nói:
"Với lại tôi chắc công ty Công Ích lấy vốn của những người ít tiền thì chắc có nhà nước đảm bảo và bắt buộc công ty chỉ được đặt tiền vào những việc kinh doanh chắc chắn, có phải không ông giáo".
Đông tươi hẳn nét mặt; câu nói của Mùi đã làm chàng nghĩ đến sự đảm bảo của nhà nước chắc hơn là cụ sứ Edouard. Chàng nói luôn:
"Ý tôi cũng muốn nói thế khi tôi bảo là có cụ Sứ Ê-đà đảm bảo".
Nhưng chàng vẫn khó chịu tự hỏi tại sao một cô gái bán bánh cuốn lại thông thạo về những cái bí hiểm của các hội buôn lớn mà chính chàng không biết.
Bé thì không hiểu hai người nói chuyện gì. Nàng khó chịu thấy Mùi mải nói chuyện chưa về để nàng có thể sang bến Trò; ông giáo Đông cũng còn một ít rượu trong cốc cũng mải nói chuyện quên không uống cạn. Bé đâm ra tức ông giáo Đông, vì ông giáo Đông còn ngồi đấy thì cố nhiên Mùi không bỏ về được. Nàng rứt cái khăn che mắt, vứt xuống ghế để tỏ sự tức của mình và đưa mắt nhìn ông giáo Đông tưởng như làm thế thì ông giáo Đông phải bỏ đi ngay. Đông thì chú ý nhìn cái khăn trắng nằm trên ghế cũng giống như cái khăn trắng chàng tưởng là khăn của Mùi và nhặt bỏ túi hôm nọ để đem về làm kỷ niệm. Chàng sực nhận ra mùi thuốc ở khăn tay mà hôm nọ chàng cho là hơi hướng của da thịt Mùi, con gái một ông Lang, chỉ là mùi thuốc đau mắt và chiếc khăn tay chàng tưởng của Mùi chỉ là một chiếc khăn bẩn Bé dùng để che mắt đau. Chàng thấy một sự ngượng làm cả người chàng rờn rợn như bị nổi gai ốc. Đã không biết bao nhiêu lần trước khi đi ngủ, chàng đã hôn hít một chiếc khăn che mắt bẩn. Chàng đứng lên nói với Mùi:
"Thôi cô ngồi hàng, tôi phải về, có ít việc".
Đông trả tiền rồi đi thẳng về nhà, đóng cửa lại chắc chắn. Chàng lấy bao diêm rồi đến đầu giường lật cái gối lên và rón rén đưa hai ngón tay cầm nhẹ lấy góc khăn đem xuống bếp đốt. Đông thấy gai gai ở mắt như là đã bị lây đau mắt của Bé rồi. Chàng sợ cả cái mùi khét của vải đốt và thấy hơi lợm giọng. Đốt xong, Đông nhẹ hẳn người tháo cái áo gối đem giặt ngay và giặt đến ba bốn nước xà phòng. Chàng nghĩ lại giá lúc lấy trộm khăn giấu vào túi mà Bé trông thấy thì thật là suốt đời không bao giờ chàng quên được cái xấu hổ đó: nghĩ đến chỗ ấy, Đông thấy lạnh ran cả sống lưng.
Bé lấy làm ngạc nhiên rằng cái lối vứt khăn và nhìn ông giáo Đông lại có hiệu nghiệm làm ông vội vã đi ngay. Bé nghĩ thầm chắc ông ấy sợ nhìn vào mắt đau thì sẽ bị lây. Cô Mùi về rồi, nàng lấy cái khăn lụa hoa trắng mới khâu xong che lên mắt, rồi móc túi lấy cái gương con lật khăn lên soi và ngắm nghía một hồi lâu. Cái khăn lụa hoa trắng đắt tiền thật, nhưng đeo lên mắt thật là xinh và nhẹ quá. Bé lại mong cho cái khăn vải thường cũng mất để nàng có cớ mua cái khăn lụa hoa nữa thay đổi và lúc nào cũng được đeo khăn đẹp.
Tuy nhà có tôm, Bé cũng xách cái rổ đi qua phố cho khỏi ngượng. Bé thấy ai cũng nhìn mình và cho là họ nhìn cái khăn lụa mới. Ông giáo Đông đương đứng ở bực cửa, thấy Bé đi qua vội vàng quay vào nhà khép cửa lại.
Đi khỏi nhà bà Ký Ân, Bé bỗng nhiên đứng dừng lại một lúc. Quả tim nàng lại đập mạnh lên, hai tai nóng bừng và tuy không có ai, Bé cũng thấy xấu hổ như có người đương nhìn mình và biết rõ là mình có tính đĩ thoã.
Đỗi thấy Bé ở đằng xa đi lại, vội ngồi xoay lưng về phía Bé. Đỗi cũng đã từ lâu tức Bé không đến và Đỗi không hiểu vì cớ gì. Tuy ngày nào cũng có Tý đến câu tôm nhưng Đỗi không dám hỏi thăm về Bé và cứ chiều đến Tý về là Đỗi bắt đầu ngồi đợi và tức Bé. Đỗi chắc không phải Bé giận mình giẵm lên chân hôm ăn bánh, vì sau hôm đó Bé còn đến nhiều lần và hôm cuối cùng gặp đây còn cho mình xem mắt và mỉm cười với mình. Nghe Tý nói, chàng biết là Bé không ốm đau gì thế mà mua tôm cũng nhờ Tý mua hộ. Thấy tự nhiên vô cớ Bé không đến nữa, Đỗi cho là Bé đã quên mình và lại càng tức hơn. Hôm nay Bé đến giữa vào ngày Tý đi nơi khác câu tôm, Đỗi mới hiểu là Bé không đến chỉ vì Tý, và Đỗi mừng rỡ quả tim đập một cách sung sướng.
Bé thấy Đỗi ngồi quay mặt đi vội hắng giọng nhưng vẫn không thấy Đỗi nhúc nhích. Nàng bước mạnh xuống thuyền để như tỏ cho Đỗi biết là mình bực tức lắm. Đỗi quay lại cười, Bé quăng cái rổ trúng chân Đỗi:
"Cười gì, bán cho một ít tôm, mau lên người ta phải về ngay, bận lắm".
Đỗi nói:
"Tôm với tép gì. Ngồi xuống đây người ta xem mắt cho".
Bé vẫn đứng yên, quay mặt nhìn ra chỗ khác. Đỗi nhìn thấy mặt Bé giận mình, phụng phịu trông vừa đáng ghét vừa đáng yêu, chàng mỉm cười rồi giơ tay kéo mạnh tay Bé:
"Ngồi xuống đây".
Bé ngoan ngoãn ngồi xuống cạnh Đỗi và lật khăn che mắt lên. Nàng định mắng Đỗi nhưng không tìm ra được câu mắng nào đích đáng; chính nàng lúc đó lại thấy rõ ràng là Đỗi không có lỗi gì để mắng cả. Nhưng mặt Bé vẫn hầm hầm đầy tức giận. Đỗi nhìn lâu vào hai con mắt Bé, chớp nhanh mấy cái, mỉm cười nói:
"Ừ, mắt độ này đã khá".
Chàng lại để ý đến cái khăn lụa hoa mới và nói tiếp:
"Đẹp nhỉ. Sao lâu lắm, đằng ấy không đến?"
Bé vẫn lầm lì nét mặt, không trả lời và ngón chân nàng đặt lên một ngón chân Đỗi. Đỗi định rụt chân mình lại vì tưởng chính chàng đã vô ý chạm vào chân Bé, nhưng chàng ngạc nhiên thấy ngón chân Bé ấn mạnh vào chân mình rồi lại nhấc lên ấn xuống. Đỗi sung sướng không nói được nữa; chàng ngồi đờ ra một lúc rồi khẽ kéo ngón chân mình ra đặt lên ngón chân Bé và bạo dạn đặt hẳn cả bàn chân lên, nhè nhẹ thoa chân mình vào chân Bé. Cả hai người đều thở mạnh. Bỗng có tiếng nói ở gần. Đỗi vội đứng dậy, cúi người cầm lấy cái rổ, tay run run vừa đi ra cửa khoang thuyền vừa nói cao giọng:
"Nào, mua bao nhiêu nào?"
Bé hất cái khăn che mắt xuống và nói:
"Bán cho như mọi lần".
Đỗi định kéo cái giỏ tôm ở dưới nước lên, vội ngừng lại vì thấy người đi đường rẽ xuống bến. Đỗi nhổ sào nói:
"Bác Phát đi đâu về đấy?"
Có người khác cùng đứng ở thuyền lúc đó, cả Đỗi cả Bé đều thấy dễ chịu và đỡ ngượng. Bác Phát đi rồi, Đỗi đẩy thuyền trở lại chỗ đậu cũ; chàng đưa rổ tôm cho Bé nói:
"Hôm nay tôi bán rẻ đấy".
Nói vậy nhưng Đỗi không nghĩ gì đến việc đòi tiền Bé và Bé vội vã đi ngay. Đỗi chống cây sào, nhìn theo Bé đi. Chàng có cái cảm tưởng như Bé là vợ mình rồi.
Đỗi đặt chân lên mũi thuyền và thẫn thờ đưa chân xoa đi xoa lại trên tấm ván, mỉm cười chớp mắt một lúc.

Chương XII
Siêu thu xếp xong mọi việc

Từ hôm về xóm, Siêu không đả động gì đến việc làm nhà. Một là mới về làm nhà ngay, thiên hạ họ sẽ biết là mình có tiền, hai là ở riêng chàng sẽ phải bận bịu về bao nhiêu công việc vô ích mất cả thì giờ nghiên cứu và câu cá. Ở đây có Mùi trông nom săn sóc đủ hết mọi thứ Siêu thấy dễ chịu lắm. Mùi đã lấy cái phên dại che một phía hiên nhà thờ để Siêu kê một cái giường ngủ và để sách vở cùng cách chai lọ đựng các chất hoá học. Đêm nằm ngủ, gió thổi vù vù tuy có lạnh đôi chút nhưng từ xưa đến nay bao giờ Siêu cũng thích sống ở hiên, vả lại ở chỗ ấy khuất và yên tĩnh chàng không bị ai quấy rầy cả. Hai bữa cơm chàng ra ăn rồi lại trở về hiên làm việc. Siêu cũng chưa lần nào ra đến phố. Vì chưa có nhà rộng nên việc dậy học tư cũng tạm gác lại. Có làm nhà, Siêu nghĩ cũng không nên ra mặt, phải làm như chính Mùi đứng ra làm nhà rồi cho chàng thuê lại. Nghĩ thế Siêu tưởng như việc làm nhà hoàn toàn là việc của Mùi, khi nào nàng thấy cần làm thì nàng làm. Thấy cả đến Mùi cũng không nhắc gì đến việc làm nhà, Siêu lấy làm lạ nhưng chàng cũng tránh không hỏi.
Mùi cũng thấy việc làm nhà ngay là nguy hiểm; cho dẫu là nàng đứng ra làm nữa. Nàng có nói chuyện với ông Lang và ông Lang cũng cho thế là phải. Ông phiền hết sức khi thấy Siêu kê đồ đạc cẩn thận như là ở đây suốt cả đời. Ông bảo Siêu cho Mạch đi học ngay đi không ở nhà táy máy, nhưng Siêu vì thấy ngại việc đưa em sang gặp ông đốc trường nên trù trừ và mỗi lần ông Lang nhắc tới chàng lại khất ông Lang như là người khất nợ.
Thấy Siêu mãi không ra phố để xem xét về việc dậy học tư, Mùi nhắc:
"Thỉnh thoảng anh ra phố một tí".
Siêu hỏi:
"Để làm gì?"
"Anh quên chuyện dậy học tư à?"
Siêu cười:
"Cô không có óc thực tế tí nào. Đã có nhà đâu mà dậy học".
"Nhưng ít ra cũng cần phải xem xét. Đi chơi mỗi nhà một tí làm quen trước với họ".
"Ừ thì đi, nhưng cần gì phải vội. Bây giờ gần tết tôi phải cố chế ít chè mạn sen uống và làm pháo đốt".
Mùi vui sướng:
"Anh cũng làm được pháo thật à?"
"Tôi làm được đủ các thứ pháo, pháo tràng, pháo tép, pháo chuột, pháo xiết, pháo quay, pháo thăng thiên. Rồi cô xem".
"Phải đấy, anh có làm pháo bán về dịp tết chắc được vô khối tiền".
Miệng nói vậy nhưng trong lòng thì Mùi không tin Siêu có tài làm được pháo. Dẫu sao nàng cũng hỏi Siêu về cách thức làm pháo và hai người lại nói chuyện về pháo quên cả việc dậy học tư. Mùi thấy Siêu nói về cách thức làm các thứ pháo thạo như đã làm qua nhiều lần rồi; thứ thuốc nào bao nhiêu lạng, giấy gói thế nào, dây tết ra sao, rành mạch rõ ràng đến nỗi nghe xong Mùi tưởng mình cũng có thể làm được pháo dễ dàng như không".
Siêu nói:
"Làm pháo không khó gì. Cái khó nhất là mình phải làm cho tan xác. Pháo Tàu đốt, xác pháo cứ tan vụn ra từng miếng nhỏ và đều, trông đến đẹp mắt. Pháo ta lúc đốt còn nguyên cả vỏ. Nhưng tôi cũng sẽ có cách chế xác pháo tan đều như pháo Tàu. Tết này cô sẽ xem. Nếu làm được thì sang năm giầu to".
"Thế à anh? Thích nhỉ".
Mùi cười hóm hỉnh, Siêu nhìn Mùi và thấy Mùi không có vẻ gì tin mình cả.
"Rồi cô xem, sang năm thì giầu to. Với lại, xác pháo tan không cần bằng mùi khói pháo. Mùi khói pháo ta ngửi khét như thuốc súng, khói pháo Tàu ngửi thơm như nước hoa. À lại còn nước hoa nữa chế được nước hoa Cô Ty thì giầu hơn cả ông Ký Bưởi".
Mùi hỏi:
"Ông Ký Bưởi là ông nào?"
Siêu đáp:
"Ông Ký Bưởi là ai không cần, chỉ biết ông ấy giầu chỉ vì ông đã có tài khai được mỏ và đóng được tàu thuỷ. Nếu bây giờ mình làm được khói pháo thành thơm thì..."
Mùi ngắt lời:
"Anh thong thả đã. Anh đương nói chuyện pháo tại sao tự nhiên bỏ sang nước hoa và ông Ký Bưởi".
Siêu bật lên cười:
"Thôi bây giờ tạm gác nước hoa và ông Ký Bưởi lại. Tôi đã tìm được cớ vì sao khói pháo Tàu thơm. Cô cho vào thuốc pháo một ít Sulfure de Potassium".
Mùi lẩm bẩm nhắc lại:
"Phên phên đờ bồ tát son. Có cả Bồ tát nghe như tên niệm phật ấy nhỉ".
Nàng lại hỏi Siêu:
"Anh nhắc lại thong thả cho em nghe".
Siêu nhắc lại và Mùi lẩm bẩm nhắc lại ba lần. Bỗng Siêu giật mình nói:
"Này, đừng có nói ra cho ông giáo Đông biết đấy!"
Mùi cười:
"Sao anh lại nghĩ là em định bảo ông giáo Đông?"
"Tôi sợ cô tưởng Suyn fuya đờ pô tát siom cũng như ông Hôm-Be. Ông Hôm-Be khác. Nếu ông giáo Đông biết được cách ấy thì ông ấy sẽ giầu to. Có khi chẳng bao giờ biết được nó là chất gì nhưng đối với mọi người nó là một chất rất thường. Cái khó là phải nghĩ ra. Cô xem như quả trứng của ông Kha Luân Bố, dễ thế mà không ai nghĩ ra".
Mùi hỏi:
"Quả trứng gì?"
"Cô không biết à? Bây giờ cô muốn để một quả trứng đứng dựng trên đĩa, cô làm thế nào?"
"Em chẳng bao giờ để nó đứng cả. Để nó nằm tiện hơn".
Siêu cười nói:
"Cô ngớ ngẩn lắm, đây là nói thí dụ thế. Ông Kha Luân Bố ông ấy ấn mạnh cho đầu quả trứng bẹp đi một tí thì là quả trứng đứng được. Dễ lắm nhưng phải nghĩ ra".
"Nhưng ông Kha Luân Bố nào mà lẩn thẩn thế. Để quả trứng đứng để làm gì để nó vỡ ra như thế".

"Cô chẳng hiểu một tí gì về lịch sử cả. Hôm nào tôi phải giảng cho cô nghe. Ông Kha Luân Bố đã tìm ra được châu Mỹ. Thôi bây giờ lấy một thí dụ gần hơn. Cô xem như cái kim băng... rất dễ nhưng người đầu tiên đã nghĩ ra cái kim đó, người ấy giầu bạc vạn ngay".

Mùi thì cố sức nhưng vẫn chưa hiểu tại sao ông Kha Luân Bố vì đặt được quả trứng đứng mà lại tìm ra được châu Mỹ. Nàng thấy chính đầu óc Siêu không có thứ tự gì cả; nói chuyện có một lúc mà từ xác pháo, khói pháo, nhẩy sang nước hoa và ông Ký Bưởi lại nhẩy đến quả trứng và cái ghim băng. Nàng mỉm cười một cách sung sướng vì nghiệm ra rằng Siêu cả ngày chỉ loay hoay làm việc ở hiên, hoặc không làm việc thì ra bờ sông câu cá, sáng dậy uống nước chè với ông Lang thì chỉ thỉnh thoảng lắm khi ông Lang hỏi mới chịu nói, thế mà buổi chiều khi nàng về đến ngồi ở hiên thì Siêu bỏ cả công việc và mê mải nói chuyện với nàng, về tất cả các thứ chàng biết, chàng đương làm và định làm. Từ hôm Siêu về xóm, thường thường Mùi hay về nhà sớm hơn. Trưa nào nàng cũng nấu cháo hay làm bún cá bún riêu, hoặc các thứ bánh mặn bánh ngọt, nàng đã học của Duyên và cả bánh xèo theo lối cụ Huế để bà Cai, ông Lang ăn nhưng nàng chỉ cốt có cái thú đi bưng thức ăn sang bên hiên nhà thờ cho Siêu và đứng nhìn Siêu ăn một cách ngon lành. Siêu ít nói nhưng ăn thì ăn rất nhiều và bất cứ lúc nào cũng ăn như là người đói lắm. Đương giở bận gì mặc lòng, Siêu cũng ngừng lại khi Mùi đem quà ăn đến. Có một lần thấy Mùi bưng một cái mâm đi qua, Siêu gọi lại. Mở cái vung thấy là canh bún cá, chàng đòi ăn ngay.
"Trời rét như hôm nay mà ăn bún cá thì ngon tuyệt".
Chàng nói thế, múc một bát ăn và múc thêm một bát đưa cho Mùi. Siêu vừa ăn vừa nói chuyện về các thứ quà ở Hải Phòng, Hà Nội cho Mùi nghe và hai anh em vừa mải nói chuyện vừa mải ăn. Mùi giật mình nhìn vào liễn canh mới biết là đã ăn hết cả phần của ông Lang và bà Cai. Trong liễn chỉ còn độ một bát, Siêu giải quyết sự thắc mắc của Mùi bằng cách đổ nốt chỗ canh vào bát ăn hết và bảo Mùi đem đi rửa và lờ đi làm như trưa nay không có quà.
Mùi cũng vui mừng vì thấy Triết đã bắt đầu ăn một cách ngon lành, ông Lang mỗi bữa cũng ăn thêm được bát cơm vì có đồ ăn ngon. Thỉnh thoảng có lúc Mùi chợt nghĩ:
"Cứ ăn như thế này chả mấy lúc hết cả bạc nhị mất".
Nhưng nàng vẫn không bớt tiền chợ và tiền quà. Nàng chưa bao giờ sống những ngày vui vẻ như những ngày vừa qua, nên nàng cũng không áy náy gì mỗi khi đếm tiền thấy số bạc cánh đã lâu không tăng nữa. Vả lại nàng sẽ có số tiền vốn của Siêu để đi cân gạo và giầu to. Nghĩ đến đấy, Mùi chợt lấy làm lạ là Siêu không nghĩ gì đến việc đi Hải Phòng đổi tiền cả. Một hôm Mùi phải xoay câu chuyện mãi đến chỗ câu hỏi về việc đổi tiền được tự nhiên. Hỏi xong, nàng thấy Siêu nhìn mình như không hiểu:
"Cô bảo đổi tiền làm gì cơ?"
"Để làm nhà chứ?"
"Nhà đã làm đâu".
Mùi không dám hỏi thêm nữa. Nàng sợ hỏi dằn quá, Siêu sực nghĩ đến chỗ không đưa giúp nàng tiền về việc ăn uống của gia đình chàng ở đây và chàng sẽ cho là nàng giục chàng đổi tiền để nhắc chàng nghĩ đến chỗ đó. Còn vay số tiền ba trăm làm vốn thì nàng muốn lắm nhưng tối hôm đầu nàng đã nói gián tiếp ngỏ ý vay mà Siêu hình như muốn lờ đi nên Mùi thấy mình sẽ không bao giờ hỏi vay Siêu nữa.
Siêu không nói ra, nhưng cũng thắc mắc về chỗ nhận thấy Mùi muốn hỏi vay tiền mà không dám ngỏ lời hỏi. Chàng khó chịu là thấy Mùi không được hài lòng về chàng. Và cả ông Lang nữa, buổi sáng ngồi uống nước chè, ông Lang cũng có ý nhắc gần nhắc xa đến số tiền và hình như muốn hỏi vay mà chưa dám hỏi. Có lần ông đã thốt ra câu:
"Tết đến cần tiền mà lão chánh Nhiếp nợ mình hơn chục bạc tự nhiên lăn đùng ra ốm không biết làm thế nào bây giờ".
Lẽ ra lúc đó, cái câu tất nhiên phải nói ra của chàng phải là:
"Cháu có tiền chưa dùng đến. Chú lấy một ít mà tiêu tạm".
Nhưng không hiểu tại sao, chàng lại ngồi yên không nói gì cả. Ông Lang có ý ngượng và khó chịu, với điếu hút và nói lảng sang chuyện khác. Siêu thấy nếu ông Lang hỏi vay thẳng thì thế nào chàng cũng đưa mặc dầu chàng khó chịu, nhưng ông lại nói bóng, chàng có thể lờ đi như là không hiểu nên chàng lờ đi. Dẫu sao, chàng vẫn khó chịu cảm thấy rõ ông Lang đã cho mình là một anh chàng keo bẩn và không có ý tứ. Chàng chắc Mùi cũng nghĩ như cha.
Từ hôm về xóm, Siêu đã sống những ngày hoàn toàn sung sướng nghĩa là những ngày không phải bận bịu giao thiệp với người lạ nào. Thỉnh thoảng nhà có khách đến nhưng khách của ông Lang chàng không phải đón tiếp chào hỏi họ. Mẹ chàng đã có Mùi và u già săn sóc đến, ăn uống chi tiêu mọi thứ cũng không phải bận tâm, chất thuốc ướp chè mạn chàng đã chế được giống mùi sen hơn và đỡ lợm giọng. Chỉ cố tìm tòi một ít nữa, chàng sẽ giầu to; chàng chỉ mong giầu có vì chàng tưởng có nhiều tiền thì không có cái gì bận bịu vào thân nữa. Chàng có thể trả nợ cho ông Cai và ông Cai lại trở về cùng cả nhà đoàn tụ. Việc dậy học tư, việc mà chàng tự nhiên bịa ra nói với ông Lang và Mùi để cốt cho hai người ấy vui lòng, thì vì sự chưa có nhà nên tạm thời có thể không phải nghĩ đến nó. Chỉ còn mỗi một việc sang gặp ông đốc trường để xin cho Mạch đi học làm chàng ngần ngại đôi chút, mỗi lần nghĩ đến nó. Nhưng khó chịu nhất là cả số tiền ba trăm để ở ngực mà có hai người cứ rình rình định vay, mà hai người ấy lại ở cùng nhà với chàng.
Ba ngày sau khi Mùi nói đến việc đổi tiền, Siêu thấy Mùi đến, vội rút cái gói giấy ba trăm đưa cho Mùi. Chàng nghĩ chỉ có cách ấy là tiện hơn cả, chàng bảo Mùi:
"Cô giữ lấy hộ rồi mỗi tháng tiêu hết bao nhiêu thì cô trừ dần đi cho đến khi nào hết thì thôi".
Mùi nhìn Siêu, vẻ mặt nghĩ ngợi. Thấy Mùi trù trừ, Siêu quẳng cái gói giấy vào lòng Mùi:
"Đấy cô cầm lấy".
Mùi thì cho Siêu ngay từ hôm nàng bảo đổi tiền đã cho là nàng nhắc đến việc chi tiêu nhưng đợi mấy hôm sau chàng mới đưa tiền để làm như tự ý chàng đưa chứ không phải vì nàng nhắc đến. Siêu lại đưa nàng tất cả số tiền và quẳng vào người mình như muốn cho xong chuyện đi. Nàng thấy hình như Siêu có vẻ dỗi là nàng đã nhắc khéo đến Siêu cái ý tưởng ấy.
"Anh nói làm gì cái việc chi tiêu. Khi nào anh có nhà ở riêng hẵng hay".
Mùi vứt trả lại gói giấy tiền, hai tay run run trong lòng rơm rớm tức.
"Anh cứ cầm lấy. Em không cần mà..."
Siêu lại đẩy gói giấy về phía Mùi:
"Cô cứ cầm lấy làm vốn buôn bán".
Câu nói ấy Siêu nói ra chỉ cốt cho Mùi nhận tiền vì đã nhận thấy Mùi có vẻ giận mình trả tiền ăn uống, nhưng câu nói vô tình cũng đã gợi chàng nghĩ đến việc đem số tiền ấy buôn bán để lấy lời. Biết đâu số tiền ấy mỗi tháng lại không có một số lời đủ để sống cả nhà mà ba trăm vẫn còn nguyên. Chàng đưa mắt nhìn Mùi làm như nhìn Mùi thì có thể biết được số tiền ấy mỗi tháng sinh lợi bao nhiêu. Nhìn nét mặt Mùi lúc đó, chàng thấy Mùi có vẻ chắc chắn cẩn thận, số tiền trong tay nàng không tài nào mất được và số lời tất lớn. Mùi đã gom góp được một số tiền vốn bốn năm chục bạc, chắc là buôn bán phải giỏi lắm. Chàng tiếp:
"Cô xem có gì buôn bán thì buôn. Tôi mới về đây chưa thuộc thông thổ".
Nghe Siêu nói vậy Mùi đã thấy nguôi nguôi tức. Siêu đưa nàng số tiền để buôn bán mà nàng không cần hỏi.
"Sao anh bảo em không biết một tí gì về buôn bán cả".
"Cô thì vẫn không biết một tí gì về buôn bán cả nhưng tôi thì tôi bận và ngoài cô ra không còn ai nữa".
Mùi cầm lấy gói, mở ra ngắm nghía những tờ giấy bạc, rồi bỏ nó vào túi áo cánh và lấy tay khẽ khẽ đập mấy cái vào túi. Từ bé đến giờ nàng chưa có số tiền nào to đến thế. Nàng sung sướng như chính nàng đã làm giầu được ba trăm chứ không phải là tiền vay. Nàng nghĩ bây giờ nàng cũng giầu không kém gì bà Ký Ân và nghĩ đến chỗ ấy nàng lại thấy thích chí hơn và bảo Siêu:
"Em sẽ đi cân gạo, nhàn mà kiếm được nhiều lãi hơn. Em sẽ đem số bạc cánh của em ra, cộng với số này, lời bao nhiêu anh lấy sáu phần, em lấy một. Thế có được không anh".
Siêu cười:
"Thế không được. Tôi để trong túi áo tôi có được đồng xu nào thêm không? Bây giờ để nó trong túi áo cô cũng vậy".
"Thì bây giờ lời lãi chia đôi có được không anh?"
"Cũng không công bình. Tôi lấy nhiều quá".
"Thế bây giờ lời lãi tiêu chung có được không anh?"
"Phải đấy, tiêu chung".
Siêu thấy cách tiêu chung ổn thoả nhất. Nhưng nghĩ ngợi một lát, chàng nói:
"Nhưng tiêu chung nghĩa là thế nào cơ?"
"Nghĩa là anh tiêu sáu phần, em tiêu một phần".
Câu chuyện lại trở lại chỗ cũ và hai người cùng bật cười. Mùi nói sang cách thức cân gạo; vì cách thức cân gạo thì nàng thạo lắm, còn Siêu thì nàng thấy không hiểu một tí gì. Nàng nói đến việc thuê toa xe lửa và bán thẳng xuống Hải Phòng, chứ không phải bán qua hiệu khách ở phố Phủ Lệ, như thế sẽ nhiều lãi hơn, tiền vốn một ngày một tăng và có thể mỗi ngày một buôn to hơn và giầu to.
"Nhưng giầu quá cũng phiền. Khi nào kiếm đủ thì thôi. Em sẽ về quê ở, làm cho anh một cái nhà tây và em..."
Siêu ngắt lời:
"Tôi không thích ở nhà tây. Làm một cái nhà lối ta, nhưng cần có cái hiên rộng, rộng hơn cả cái hiên này và có hàng rào găng che khuất".
Thế rồi hai người ngồi nói chuyện về cách thức làm nhà, làm vườn, sung sướng xếp đặt đời sống như là đã giầu hẳn rồi.
Siêu nói:
"Tôi cần nhất là chung quanh hiên trồng đủ các thứ hoa".
"Đừng trồng hoa anh ạ. Có bao nhiêu anh Mạch anh ấy ngắt hết".
"Không sao. Lúc đó Mạch nó nhớn rồi, không loăng quăng nữa".
"Anh có chắc không? Em thấy dù lúc ấy anh ấy vẫn loăng quăng như bây giờ. Em thì không trồng hoa. Em cần có một cái vườn rộng để trồng rau và một cái ao nuôi cá để rán cho thầy em ăn và nấu canh bún cho anh ăn. Thế có được không? Em lại làm một cái chuồng rộng như ở nhà cụ Hường và nuôi một đôi công".
Hai năm trước, có dịp sang nhà cụ Hường làng Trò, Mùi đã xem được đôi chim công của cụ và nàng thấy ở đời không có thứ chim gì đẹp bằng chim công. Nhưng nàng không được ngắm lâu; từ hôm đó nàng vẫn ao ước có được công ở trong nhà để suốt ngày ngắm nghía nhưng nàng cho là chim công đắt tiền lắm chỉ những người giầu như cụ Hường mới nuôi được.
"Hôm nào anh vẽ cho em một cái kiểu lồng thật đẹp nhé".
Chợt nghĩ đến việc thuê toa chở gạo rất khó khăn, còn phải làm quen với ông xếp ga, lại cần có Siêu làm các giấy má bằng chữ Pháp, Mùi bảo Siêu:
"Mai kia anh nên lại chơi ông xếp ga".
Siêu hỏi:
"Ông ta có chim công?"
"Không, ông xếp ga thì có thế nào được chim công. Ông ấy cho thuê toa. Mà thuê toa khó lắm; anh phải đến chơi luôn làm quen với ông ta và khi nào có toa về anh phải ra biên các giấy má. Tết này anh đem chè mạn sen và pháo anh chế được biếu ông ta. Cần nhất là anh đừng để bà Ký Ân tranh mất toa, em sẽ tức chết".
Siêu yên lặng nhìn Mùi nói. Câu nói của Mùi kéo chàng trở lại đời sống thực tế hiện tại. Phải đến thăm ông Đốc xin cho Mạch học, bây giờ Mùi lại bảo chàng đến chơi ông xếp ga và đến chơi để nịnh ông ta, biên các giấy má thuê toa và tranh nhau với bà Ký Ân nữa. Siêu cũng cố mỉm cười để Mùi khỏi nhận rõ sự phiền muộn trong lòng mình lúc đó. Chàng kiếm cớ:
"Tôi rất ghét xếp ga".
Mùi hỏi:
"Anh có quen ông ta trước kia?"
"Không, nhưng cô không thấy các ông xếp ga, ông nào cũng đáng ghét cả à? Điều thứ nhất là các ông xếp ga bao giờ cũng học dở dang, nói chuyện nhạt nhẽo mà đầy tự cao tự đại, ông ấy lại lúc nào cũng vội; có gì tức bằng phải nói chuyện với một người tay lăm le cầm cái cờ như lúc nào cũng sắp chạy ra sân ga phất, và chốc chốc nghe tiếng chuông lại chạy vào buồng giấy và bỏ mình đứng trơ một mình. Ông ấy đứng nói chuyện với mình mà chỉ nghĩ đến chạy đi, lúc nào cũng như có ý bảo mình: ông có nói gì thì nói mau lên, tầu sắp đậu rồi, chuông sắp kêu rồi. Cô nghĩ thế có chán không?"
Mùi thấy những lời nói của Siêu rất đúng với ông xếp ga Phủ Lệ. Trước khi Siêu nói, những lúc đi với bà Ký Ân ra ga, nàng cũng thấy ông xếp ga có cái gì khác thường nhưng nàng không nghĩ ra.
"Kể thì cũng chán thật. Thế còn điều thứ hai?"
"Điều thứ hai à?"
Siêu chợt nhớ mình đã nói điều thứ nhất còn điều thứ hai không có.
"Thôi một điều cũng đủ ghét rồi. Giá buôn cái gì không có các ông Ký ga ở trong thì thích hơn. Có lẽ cô ra thuê toa, ông ấy lại nể hơn".
Siêu nói thế vì nghĩ đến vẻ đẹp của Mùi. Chàng sợ lộ quá và tiếp ngay:
"Bao giờ người ta cũng nể đàn bà hơn. Tôi thì không tranh được bà Ký Ân đâu".
Nghĩ đến cái thích tự mình tranh được toa của bà Ký Ân, Mùi bảo Siêu:
"Phải đấy, anh không cần ra ga. Em sẽ ra và em có cách".
Siêu nghĩ thầm:
"Nhưng còn gặp ông đốc trường? Mùi thì không thể đi thay mình được. Cố nhiên".
Chàng cất tiếng hỏi Mùi:
"Cho Mạch đi học ở đây thể lệ phải thế nào".
Mùi đáp:
"Chẳng có thể lệ gì cả. Và cũng chẳng có gì khó khăn. Anh viết một lá đơn rồi bảo em Triết đưa anh Mạch đến nhà trường nộp đơn và vào học".
Siêu nhẹ hẳn người:
"Giản dị thế à?"
Chàng nhủ thầm có Triết mà sao chàng không nghĩ ra. Chàng nói với Mùi:
"Tôi muốn đi gặp ông ta một tí. Tiện hơn. Có người lớn đưa đến vẫn có vẻ long trọng hơn có phải không cô?"
"Cái đó tuỳ anh, nếu anh thích gặp họ".
"Các ông giáo thì tôi thích gặp không như các ông xếp ga".
Bỗng Mùi chợt nghĩ ra:
"Nhưng anh không nên gặp các ông giáo. Anh định dậy tư mà làm quen với họ, ngày sau tranh nhau học trò với họ, khó xử".
"Ừ nhỉ, tôi không nên đi. Để chú Triết đi tiện hơn. Cô nghĩ thế rất phải. À, trưa hôm nay có gì ăn không?"
Mùi đứng lên:
"Hôm nay lại có canh bún cá. Để em đi nấu".
Nàng vỗ vỗ vào chỗ túi để tiền rồi rút giấy bạc ra vứt trả lại Siêu:
"Rõ thật lú ruột. Anh giữ lấy vì anh còn phải đi đổi kia mà?"
Siêu vội nói:
"Thôi cô cứ cầm lấy. Thế là cô nợ tôi ba trăm. Hôm nào tôi đi, cô lại đưa tôi làm như tôi đi đổi hộ cô".
Mùi đi khỏi, Siêu giở quyển sách dậy cách thức làm pháo ra. Nhưng lại gấp lại ngay, dựa lưng vào thành ghế và hai chân ruỗi thẳng nhìn ra vườn. Chàng khoan khoái vì mọi việc đã giải quyết một cách ổn thỏa Trước ngực chàng không còn cái gói ba trăm để có người định vay nữa. Tết xong không phải đi gặp ông Đốc trường Phủ, Mùi buôn bán mỗi tháng chắc có số tiền đủ sống, chàng không phải đi dậy học tư nữa. Đời sống ở nhà quê lại yên tĩnh có thể cả năm không phải tiếp người khách nào. Cái hiên chàng ở cũng vừa vặn; ở cùng nhà mà chàng vẫn có riêng một thế giới. Ngồi ở hiên nhìn ra bất cứ về phía nào phong cảnh cũng đẹp. Lại còn Mùi... cô em họ cũng rất đẹp và hình như rất hợp tính chàng.
Chàng mỉm cười khi tìm ra cái cớ tại sao Mùi lại hợp tính chàng: Mùi hợp chàng chính vì Mùi thích làm những cái trái ngược hẳn những cái chàng thích làm. Sống gần Mùi chàng thấy đời sống dễ dàng và bình tĩnh. Chàng thấy yêu Mùi, nhưng cái tình ấy khác hẳn tình yêu của chàng đã cảm đối với Chi ở Hà Nội. Chi ở ngay cạnh chỗ chàng trọ nhưng chàng đã đi hàng mấy cây số một ngày chỉ để đến nhìn cái cửa sổ nhà trường mà chàng đoán là Chi ngồi học ở trong. Hôm nào bạo dạn lắm, chàng mới dám đón đường để gặp mặt Chi và quả tim chàng đập mạnh như người phạm tội gì. Câu chào của Chi "cậu đi chơi" cũng làm chàng sung sướng ran cả người; gặp rồi chàng không có cớ gì đi xa nữa nhưng chàng không dám quay về sợ nàng đoán biết là mình đi về phía ấy chỉ cốt gặp mặt nàng; chàng cứ đi thẳng hai ba cây số nữa và sự sung sướng làm chàng quên mỏi chân. Bây giờ không yêu nữa, chàng không biết tại sao đã yêu vô lý như thế và mỗi lần nghĩ đến chàng còn thấy mình ngượng với mình. Nhưng lúc mà chàng yêu thì cái tình yêu mạnh mẽ lắm, làm cả người chàng biến đổi khác hẳn. Sống gần Mùi, chàng thấy lòng mình không có cái gì hồi hộp, mỗi lần nhìn nét mặt Mùi chàng chỉ thấy thoảng một nỗi vui nhè nhẹ và chàng cũng có khi nhìn vào mắt nàng mà không nghĩ đến nhìn; không như độ yêu Chi, bất cứ có dịp nào là hai người cũng nhìn nhau yên lặng và mê đắm như mất cả hồn.
Siêu đưa mắt nhìn lên và thấy Mùi tay cầm đôi đũa đi lại phía hiên, hai má còn đỏ hồng vì ánh lửa bếp:
"Gì thế cô. Canh được rồi à?"
"Chưa. Một lát nữa thôi. À, hôm nào anh đi anh mua một cái cân cho em".
"Một cái cân à? Cân gì?"
"Cân để cân gạo chứ còn cần gì".
"Cân gạo à? Nặng chết tôi mang thế nào được".
Mùi mỉm cười:
"Ai bắt anh xách mà nặng. Mà anh xách nổi thế nào. Phải thuê hai người gánh lên tàu, xuống tàu".
Siêu cũng nhếch mép gượng cười:
"Thuê người thì đem được".
Chàng nghĩ thầm Mùi không biết mình khó chịu chính vì phải thuê người gánh. Chàng nói tiếp:
"Ở đây không có cân bán à?"
"Không có anh ạ. Hôm đi Hà Nội anh nhớ nhé? Anh đi ngay nhé?"
Rồi Mùi vội vã quay trở vào bếp. Đi đổi tiền chàng đã ngại nhưng được cái đằng nào chàng cũng phải đi mua các thứ thuốc hoá học và lại đi ăn các thứ quà ở Hà Nội. Bây giờ chàng lại phải mang một cái cân từ Hà Nội về cho đến đây. Chàng tắc lưỡi búng ngón tay một cái, tự an ủi:
"Chỉ còn cái cân là hết!"
Chàng mỉm cười một mình nghĩ đến chỗ Mùi đương nấu canh bún cũng bỏ chạy vào để dặn một câu mà mấy ngày sau nàng dặn cũng được. Chàng chắc Mùi vừa làm bếp vừa nghĩ bụng về việc buôn bán, cái cân mới sẽ mua về - mà chàng rất ghét - chắc là làm nàng sung sướng lắm.
Ăn bún xong, Mùi nói với ông Lang:
"Thưa thầy nay mai con đi cân gạo. Con đã bảo anh Siêu đi Hà Nội mua cái cân".
Ông Lang ngạc nhiên:
"Đi cân gạo à? Vốn ở đâu ra?"
Mùi mỉm cười:
"Con lại thuê cả toa tầu nữa. Còn vốn..."
Nàng hạ giọng sợ bà Cai ngồi bên kia nghe thấy:
"Vốn, thầy không nhớ à, anh Siêu anh ấy đưa con cả ba trăm để buôn bán lấy lãi chi tiêu. Con đã nhận lời và định đi cân gạo. Chắc là lời to".
Ông Lang thì phiền hết sức; gần Tết ông cần tiền để sắm sửa cho người vợ goá ông Ký Thu, người mà ông đã lấy làm vợ nhưng còn để ở bên làng Yên Ninh giấu giếm chưa dám đưa về nhà. Đã mấy lần ông định hỏi vay Siêu nhưng còn ngại chưa dám hỏi vì Siêu mới về được ít lâu; ông định bụng gần Tết sẽ hỏi và chắc sẽ có món tiền đó. Bây giờ tiền đã ở trong tay Mùi ông hết cả hy vọng. Ông không bao giờ dám hỏi vay con gái cả, vì Mùi biết ông có đủ tiền để tiêu riêng còn tiền tiêu cả nhà đã có nàng lo liệu rồi. Nếu hỏi vay, Mùi tất sinh nghi. Mùi thấy nét mặt cha không vui khi nghe tin nàng bảo đi cân gạo tưởng là cha lo ngại sợ lỗ vốn. Nàng vội nói chắc:
"Cân gạo thì không thể lỗ được, thầy xem các bà Huyện Thanh, bà Ký Ân, cụ Hai Sinh người nào cân gạo cũng lãi to cả. Mà con mua toa, buôn thẳng đi Hải Phòng còn lãi gấp hai thế nữa".
Mùi đứng lên đi ra ngoài Xóm. Thấy cửa hàng mình đã đóng cửa, nàng bảo Bé chống cả các phên cửa lên. Bé không hiểu vì cớ gì và cũng không hỏi. Mùi cũng không nói gì với Bé; nàng nhìn ngang nhìn ngửa rồi giơ hai tay hất hất như muốn vất hết cả lò bánh, chõng bán nước đi. Mùi làm thế để tưởng tượng xem cái gian nếu bỏ trống thì có đủ rộng để đổ gạo không. Mùi lại đi sang bên gian bầy bàn có phủ khăn trắng, làm điệu bộ như dẹp cái bàn ép vào tường rồi nàng nhìn Bé và gật đầu mấy cái. Rồi Mùi cho ngón tay chỏ vào mồm, cắn vào ngón tay, dáng suy nghĩ. Nàng chạy vội ra ngoài đường đứng nhìn vào trong gian hàng, lại quay nhìn sang tay trái ra phía chợ và lắc đầu.
"Không được, ở đây xa, họ đón các hàng sáo cân hết, mình chẳng còn gì. Với lại bỏ cửa hàng bánh cuốn thì thiệt khá tiền".
Mùi nghĩ thầm thế, nhưng còn việc bỏ cái bàn phủ khăn trắng cả năm chỉ có một ông Ký Đông đến ngồi thì nàng không nghĩ tới. Nàng chỉ định dẹp nó lại một bên nhưng nếu thế nhà không đủ chỗ để đổ gạo.
Bé đứng trong nhà lật khăn che mắt lên nhìn Mùi và cố đoán xem Mùi định làm gì nhưng không đoán ra. Ông Ninh Ký cũng nhìn tròng trọc vào Mùi. Mùi mỉm cười với Bé rồi giơ tay làm hiệu bảo hạ phên cửa xuống. Nàng quay nhìn ông Ninh Ký một cái và bất giác mỉm cười với ông ta.
"Ít nữa đi cân gạo thì hết cả nhìn nhé?"
Rồi Mùi đi thẳng về phía chợ, qua nhà nào nàng cũng nhìn vào lần lượt cho đến nhà ông Năm Bụng ở cuối phố. Tuy nhà nào nàng cũng vào nhiều lần, quen lắm nhưng bây giờ nàng nhìn bằng con mắt người đi tìm chỗ tiện để cân gạo, nên trông vào các nhà một cách khác: người và đồ đạc nàng coi như không có và vì thế nàng không chào hỏi ai cả, chỉ chú ý đến cái nền đất. Mọi người ở phố thì tưởng nàng đi tìm người. Mùi thấy có hai cái nhà có thể thuê được, trong đó tốt nhất là nhà ông Năm Bụng ở cuối phố. Nhưng nàng cũng không hỏi dạm ai cả. Lúc trở về, Mùi rẽ vào thăm bà Ký Ân. Tuy chưa phải là đến để nói cho bà ta biết nàng cũng sẽ đi cân gạo nhưng nàng thấy được nhìn mặt bà ta lúc đó là một cái thích cho nàng.
Trong lúc Mùi nói chuyện với bà Ký Ân và hỏi xa gần về cách thức cân gạo của bà như là hỏi chơi cho biết thì Siêu ở nhà băn khoăn đi ra đi vào, đợi Mùi về. Chàng vừa chợt nghĩ ra được một ý kiến hay cho đời sống của chàng ở đây được yên ổn hẳn, nên định nói ra với Mùi ngay. Chàng thấy chưa nói ra được với Mùi và chưa được Mùi tán thành thì ý kiến ấy chưa chắc chắn đúng hẳn. Siêu tức Mùi tại sao lúc đó Mùi lại không có nhà, bỏ nhà đi chơi và đi chơi lâu thế.
Gần đến giờ ăn cơm chiều, Mùi mới về nhưng lại còn ngồi nói chuyện thì thầm với ông Lang. Đợi lâu lắm Siêu mới thấy Mùi đi qua sân xuống bếp. Chàng làm như ngẫu nhiên gặp Mùi và nói chuyện chứ không tỏ ra vẻ gì mong đợi đến tức cả mình.
"À này, cô nghĩ lại xem có nên cân gạo ngay không?"
Mùi lo lắng:
"Tại sao thế anh?"
"Tôi sợ tôi mới về đây mà đột nhiên cô lại có vốn đi cân gạo, thuê toa người ta sinh nghi chăng".
Mùi gật gật rồi chậm rãi bước theo chân Siêu đi về phía hiên nhà thờ. Trong lúc háo hức vì cái thích sắp được mua cân, đi buôn, nàng đã quên không nghĩ đến chỗ đó.
"Phiền nhỉ".
Mùi vén áo ngồi xuống giường, tựa tay trên bàn, nét mặt thờ thẫn. Siêu nhìn Mùi và biết là Mùi đã trúng kế mình:
"Cô thích đi cân gạo lắm à? Tôi nghĩ có cách này..."
Mùi ngửng lên nhìn Siêu. Siêu hỏi:
"Ở đây, đã có ai biết chuyện về thầy tôi chưa?"
Mùi đáp nhanh:
"Chưa".
"Cả bà chủ Nhật Trình mà cô nói là cái gì cũng biết".
Mùi cố nhớ lại hôm kể cho bà Ký Ân nghe về chuyện phải thuê nhà. Nàng không nhớ rõ lắm nhưng cũng đáp:
"Bà ấy chỉ biết là anh với bác về đây thôi".
Siêu nhìn ra sân, nét mặt làm ra có dáng suy nghĩ. Chàng gật đầu, lẩm bẩm:
"Thế thì tốt. Chỉ hơi phiền cho tôi một tí thôi".
Chàng yên lặng và đợi xem Mùi có hiểu ý mình không. Nhưng không thấy Mùi nói gì và xem chừng Mùi cũng chưa hiểu ý mình, chàng lại thong thả nói tiếp:
"Tôi về đây không nên đi giao du với mọi người. Cô nghĩ xem điều thứ nhất bác thì như thế, không nên để nhiều người đến chơi nhà. Điều thứ hai tôi đi lại giao thiệp nhiều với họ, họ sẽ biết đến chuyện thầy tôi. Cứ như bây giờ, ở đây, không ai chú ý đến mình, cũng chẳng biết mình là ai, thì cô vẫn có thể đi cân gạo được, và thầy tôi lúc nào trốn về thăm nhà cũng kín đáo hơn. Nhưng tôi cần là cứ phải ở đây. Ở ngoài xóm lộ quá. Việc làm nhà, trong một lúc nghĩ viển vông nói mà chơi thôi. Cũng vì thế, mà từ hôm tôi về muốn lắm mà có dám đi ra phố Phủ chơi đâu. Cô thì cứ lại giục tôi đi chơi nhà này nhà khác...
Mùi thì cho Siêu nói là phải chỉ vì lý ấy nàng vẫn đi cân gạo được. Nàng cũng thấy trong lúc này cân gạo mà Siêu đi thăm hết nhà nọ đến nhà kia, người ta sẽ dễ dàng đem chắp hai việc bà Cai mới về và việc nàng bắt đầu có vốn lại với nhau. Mùi tươi hẳn nét mặt, bảo Siêu:
"Em thật viển vông như người ở trên cung trăng".
Nói đến đây, nàng mỉm cười nghĩ thầm chính Siêu viển vông như người ở trên cung trăng mà thỉnh thoảng lại có óc thực tế hơn nàng nhiều.
"Như lúc nẫy em lại lú ruột bảo anh ra thăm ông xếp ga. Thăm ông ấy cũng không nên, rồi lại còn bảo anh ra thuê toa. Anh mà có tiền thuê toa thì còn lộ bằng mấy lần cái nhà tây hai từng ở ngoài xóm".
Siêu hất cằm tự đắc:
"Đấy cô xem. Cô cũng chưa nói với ai là tôi định dậy học tư chứ?"

"Chưa anh ạ. Nhưng phiền nhỉ, anh không đi lại thì dậy học tư thế nào được".

Siêu thở dài một cái như buồn phiền:
"Kể thì phiền thực. Nhưng làm thế nào. Một đằng cô đi cân gạo lãi trông thấy ngay, một đằng dậy học trẻ phải làm cái nhà rộng, lộ quá mà học trò chắc đâu đã có mống nào. Lại gây xích mích với ông Đốc trường Phủ, với nhà nước mà mình thì đương là một người có tội".
Cái lý nhẽ sau cùng, lúc đó chàng mới bật nghĩ ra và lý đó chàng thấy chắc chắn lắm.
"Đấy cô xem, giá cô không đi cân gạo tôi cũng chẳng dậy được học tư. Phiền thực nhưng ở đời vẫn có những cái phiền thế, làm thế nào. Được cái đã có cô đi cân gạo".
Siêu lại lấy làm bằng lòng mình lắm. Trước khi Mùi về, chàng mang máng thấy việc không nên giao thiệp với ai là đúng chỉ vì nó tiện cho chàng; không ngờ lúc nói với Mùi những lý nhẽ ấy lại thành cứng lắm, được Mùi nhận là phải ngay. Siêu thích nhất là đã tìm được thêm một lý nhẽ mới làm cho chàng từ nay về sau được hoàn toàn yên tâm hẳn; chàng phải tránh đụng chạm với đời vì chàng là một người có tội.
Mùi nói:
"Thế thì phiền cho anh thật. Nhưng đã có em".
Siêu thì mừng rằng Mùi không nhận thấy cái ý ngầm của mình, nàng vẫn tưởng chàng thích dậy tư, thích đi lại chỉ vì việc nàng cân gạo mà không được toại ý. Chàng nghĩ bây giờ chỉ còn làm xong việc mua cân là hết và nghĩ đến đây chàng định tâm làm cho xong ngay việc đi:
"À cô đưa tôi ba trăm. Mai tôi đi Hà Nội đổi tiền và mua cân".
Ngày hôm sau Siêu đi Hà Nội và đem được cái cân lên xe lửa mà không bị việc gì khó chịu. Nhà bán cân bán với giá bao nhiêu và phu khuân đòi bao nhiêu, chàng trả theo đúng giá họ nói. Tuy biết là hớ, bị họ đánh lừa mình, nhưng vì mới đổi ba trăm ra bạc lẻ chàng thấy mình giầu lắm và không khó chịu vì thiệt tiền như trước kia. Vả lại chàng đã định tâm trước là họ có nói bao nhiêu thì trả bấy nhiêu chàng cứ đúng thế mà làm, không nghĩ ngợi gì. Đến ga Phủ Lệ đã có Mùi ra đón và chàng đã dặn trước Mùi khi tàu đến thì Mùi cứ bảo người lên khuân xuống và chàng cứ việc đi thẳng về nhà trước.
Xe lửa đến ga, Siêu nhìn ra thấy Mùi ngơ ngác nhìn hết toa nọ đến toa kia và khi trông thấy chàng thì tươi hẳn nét mặt và rón rén bảo Nhỡ đứng bên cạnh:
"Đây rồi, đây rồi".
Siêu vờ như không quen biết gì Mùi cả. Lúc đó chàng thấy sắc đẹp của Mùi là bất tiện. Mấy người con trai đứng cạnh chàng nhìn Mùi và thì thầm. Họ không dám nói to vì có lẽ họ tưởng chàng là chồng hay là anh cô gái nhưng chàng cũng đoán là họ đương khen Mùi đẹp. Siêu thấy trong lòng vừa vui thích vừa khó chịu. Lần đầu tiên nhìn Mùi đứng ở giữa một đám đông, chàng càng nhận thấy Mùi đẹp và đối với chàng có vẻ là lạ như một người con gái thường không phải là em họ chàng nữa. Nhưng chàng khó chịu vì tưởng như cả toa xe lửa, cả sân ga ai cũng chú ý vào đôi mắt đen, hai gò má hồng của Mùi, vào cái cân và chàng. Siêu cau đôi lông mày lại. Chàng sợ Mùi cười hay nói với chàng, không làm đúng như đã dặn trước nên chàng phải cau sẵn lông mày để Mùi nhớ. Tàu đỗ, chàng vội xách va li đựng tiền đi xuống trước khi Mùi và Nhỡ lên toa, rồi đi thẳng về phía cửa ga làm như cả cái cân và cả Mùi không phải thuộc về chàng. Mùi đã phải lôi thôi một lúc với ông Ký thu vé vì việc không có vé trước. Đối với người quen khác thì ông Ký cho đem đi ngay nhưng đối với Mùi ông muốn làm khó dễ để cốt được nói chuyện và nhìn mặt Mùi lâu đôi chút.
Nhỡ đặt cái cân lên xe kéo đi trước và Mùi đi theo sát cạnh xe. Những người quen ở phố ai cũng nhìn ra.
"Cân cô mua đấy à?"
"Cô mua cân làm gì thế?"
"Cô Mùi chắc mua cân để cân gạo".
Mỗi người hỏi, Mùi lại quay mặt vào, mỉm cười và trả lời vắn tắt:
"Vâng. Cháu mua cân, cân gạo".
Mùi thấy vui thích trong lòng vì tưởng tượng mọi người đương thầm khen mình đảm đang, buôn bán giỏi, mẹ chết sớm mà nuôi được cả nhà lại còn để dành được vốn cân gạo. Mùi càng nghĩ càng thấy cái cách của Siêu là hay vì làm thế ai cũng tưởng là nàng có tài buôn bán, tự mình để dành được vốn. Nàng nghĩ thầm:
"Anh ấy lờ phờ thế mà nghĩ được cái gì là chính mực cái ấy. Còn mình thì chỉ được cái nóng tính hão".
Còn đảm đang thì lúc đó nàng cũng tự thấy mình là đảm đang thật. Nàng đi nhanh sát lên gần xe và giơ tay đẩy xe giúp Nhỡ. Cái cân mới bóng loáng dưới ánh mặt trời Mùi thấy như là có một cái tương lai rực rỡ. Nàng đưa mắt nhìn xem có Siêu đi ở đằng xa không và ngạc nhiên hết sức thấy Siêu đã đi tới gần cổng nhà. Siêu xách cái va li nặng mà đi được nhanh thế.
Nhỡ vác cái cân vào nhà. Mùi cho tay vào túi lấy tiền, nàng trù trừ ngẫm nghĩ một lát và lấy ra hai hào đưa Nhỡ, làm Nhỡ ngạc nhiên hết sức. Ra đến ngõ Nhỡ tung hai hào lên rồi lại bắt lại miệng lẩm bẩm:
"Công trả bằng bốn lần tiền. Cuộc phù thế nhân sinh ơi..."
Thấy cái cân đã đặt ở giữa nhà rồi, Mùi đứng chống tay ngắm nghía và lúc đó nàng mới có cái cảm tưởng việc cân gạo của nàng là một sự thực chắc chắn rồi. Bà Cai cũng ngắm nghía cái cân rồi cười gắt lên một tiếng bảo Mùi:
"Bảo thằng Quý nó cất đi, đừng để trẻ nó làm hỏng cái cân si mo. Lần sau lấy gì mà cân".
Mùi mỉm cười chạy lại chỗ bà Cai ngồi:
"Thưa bác đấy là cái cân cân gạo của cháu đấy ạ. Cháu sắp đi cân gạo. Bác có thích cân gạo không?"
Nàng nhận thấy nói với bà Cai như nói với một đứa trẻ. Nàng nhìn bà Cai và thấy lòng dịu dịu thương yêu bà Cai như một người mẹ. Nàng giơ tay sửa lại mép khăn vuông của bà Cai và phủi phủi mấy cái trên vai áo:
"Nó đã đun thuốc bác xơi chưa?"
Câu ấy tình cờ giống như hệt một câu nàng đã nói với mẹ nàng độ mẹ nàng ốm chết. Mùi thấy trong lòng nao nao vội đứng lên vì nàng thấy trước nếu nói thêm một câu gì thân yêu với bà Cai nữa thì không sao nhịn được khóc. Mà Siêu đã dặn nàng không nên để ai khóc trước mặt bà Cai vì sợ cơn bệnh của bà lại tăng lên.
Mùi chạy vào buồng, khép cửa lại rồi mở cái hòm chân lấy ra cái hộp đựng tiền. Nàng tháo cái gói giấy đỏ bọc những đồng bạc của mẹ nàng cho làm vốn trước khi chết. Có một đồng bạc mới còn toàn là bạc cũ, lại có cả một đồng còn xám đen vì đã dùng đánh cảm cho mẹ nàng. Mùi nhớ lại câu mẹ nàng dặn trước khi chết: "Nếu mẹ chết thì con thắt lưng cho chặt cố làm ăn nuôi em đi học và săn sóc thầy. Đây mẹ chỉ còn số tiền này thôi cho con làm vốn. Con chịu khó làm ăn thì không bao giờ sợ chết đói". Mùi chợt thấy nhói ở tim nghĩ đến chỗ bây giờ mẹ nàng không còn sống nữa để được trông thấy nàng đi cân gạo; chắc là mẹ nàng vui lòng lắm. Mùi không bao giờ khóc ra nước mắt. Sợ bà Cai nghe thấy, Mùi há miệng thở thật mạnh và thật lâu cho khỏi khóc to tiếng và nước mắt nàng chẩy xuống ướt cả cái gói giấy đỏ. Nàng ngửng nhìn lên chỗ khe sáng ở gần mái nhà, rồi thì thầm nói như là nói với bà Lang mà nàng tưởng như ở trên trời sau cái khe hở sáng ấy:
"Bây giờ đẻ đi đâu?"
Siêu đợi mãi không thấy Mùi xuống để nhận tiền. Chàng mỉm cười vì thấy Mùi mê mệt về cái cân mới quên cả cái thích lớn hơn là xem ba trăm bạc đồng còn mới nguyên vừa lấy ở nhà băng ra. Chính Siêu cũng thấy ba trăm đồng bạc đồng tuy nặng thật nhưng thích hơn ba tờ giấy một trăm nhiều. Siêu xách cái va li tiền, khẽ ẩy cửa buồng Mùi bước vào rồi lại khép ngay cửa lại. Chàng đứng dừng ngơ ngác; thấy Mùi ngồi trước cái hộp tiền để ngỏ, nước mắt ròng ròng trên má và mắt thì nhìn lên cái khe hở ở mái nhà, chàng tưởng là Mùi đã bị mất trộm cả số tiền để dành. Mùi quay mặt và khi thấy Siêu và nàng vội gạt nước mắt và mỉm cười:
"Em hay mau nước mắt lắm, phải không anh?"
Siêu biết là không phải Mùi mất tiền. Chàng nói:
"Tôi tưởng là cô mất hết cả tiền. Cũng không sao, đã có số tiền này. Thế tại sao cô khóc?"
Mùi lấy vạt áo lau mắt và má nhưng ngực vẫn phập phồng nức nở một hồi lâu. Nàng làm hiệu bảo Siêu đặt cái va li tiền xuống giường:
"Em có khóc đâu. Nước mắt trào ra đấy chứ. Đây anh xem, đồng bạc này trước để dành đánh cảm cho đẻ em trước khi đẻ em mất. Cả số tiền này em vẫn cố giữ nguyên, có chết đói cũng không tiêu đến nó. Bây giờ lại có thêm chỗ này".
Nàng mở va li, tháo những gói giấy rồi đưa tay sờ những đồng bạc còn mới nguyên sáng loáng, miệng nàng vẫn nói tiếp:
"Không bao giờ phải tiêu đến tiền đẻ em cho em. Em sẽ giữ nó suốt đời. Khổ, mẹ em làm ăn vất vả mà cả đời gặp toàn việc không may, đến lúc chết cũng chỉ còn có mười đồng bạc này. Đẻ em không sống đến bây giờ để được trông thấy số tiền này, đẻ em chắc mừng lắm. Đẻ em cũng không bao giờ tưởng em lại có đủ vốn để đi cân gạo... Nhưng thôi không nói nữa, em lại sắp khóc bây giờ".
Siêu nói:
"Tại sao cô lại cứ nhắc đến những việc qua rồi. Chỉ thêm làm khổ mình..."
"Nhưng em có khổ đâu. Những lúc nào em không khóc được em mới khổ. Em khóc xong trong người nó nhẹ hẳn đi, dễ chịu lắm. Anh không biết, khóc thích lắm cơ".
Chương XIII
Tý thông minh
Bác Lê gái sực thức dậy nhưng bác chưa tỉnh hẳn. Thấy lành lạnh ở hai vai, bác lui người để vai mình chạm vào vai Út và một lúc lâu, hơi nóng của người Út truyền sang làm bác ấm áp dễ chịu và thiu thiu ngủ lại. Bác giơ tay với cái đầu chiếu nhưng quờ quạng một lúc không sờ thấy, bác mở hé mắt để tìm. Bỗng bác giật nẩy mình, tung chiếu ngồi nhỏm dậy, cốc một cái vào đầu Út làm Út cũng giật mình ngồi nhổm dậy theo.
"Chết tôi rồi. Sáng bảnh mắt rồi còn gì nữa".
Bác nghiêng người tung chăn của Thêm và Nữa và ra cốc đầu đánh thức Tý dậy.
Sau hôm Tý ốm, được một độ bác không cốc đầu các con nữa; những lúc tay ngứa ngáy bác chỉ đập đập vào vai các con mấy cái, nhưng dần dần những lúc nào có cái gì thích chí quá, bác lại xoay ra cốc đầu vì bác thấy cốc đầu như thế chúng nó mới nhận thấy cái thích của mình truyền sang một cách thấm thía hơn nhiều. Chúng nó đau, dúi đầu xuống một cái nhưng miệng thì cười xoà như tán đồng cái vui của thím Thế rồi lâu dần, cả những lúc tức bác cũng cốc đầu vì bác chỉ thấy làm thế mới hả được tức. Lũ trẻ con cũng không lấy thế làm lạ và chính bác cũng không để ý là mình đã trở lại tính cũ.
Bác lấy rá ra đong gạo thổi cơm sáng, quên cả rửa mặt. Hôm qua bác Lê trai sang bên phố Phủ uống rượu say về, cả nhà lục đục thức khuya, vì thế bác mới ngủ quên. Nhìn chồng thấy chồng hãy còn ngủ nhưng bác không đánh thức và định bụng nếu chốc nữa đem cơm lên mà chồng chưa dậy thì bác sẽ ăn hết phần để chồng đói cho biết thân.
Tý ngồi thủ tay vào bọc, mỉm cười một cách hơi buồn vì nhớ lại tối hôm qua nó đã sợ hãi hết sức và vì thế không dám nhìn bố mẹ đánh nhau. Nó nhắm nghiền mắt lại và cố ngủ trong khi tai nghe những tiếng huỳnh huỵch và kêu thét. May quá nó ngủ đi được và sáng nay thức dậy nó lấy làm lạ là mọi việc đã trở lại như thường; mẹ nó đi lấy gạo thổi cơm và cha nó vẫn nằm kia quấn chiếu ngủ như là việc hôm qua đã không xẩy ra. Tý nhìn bác Lê nằm thẳng quấn tròn cái chiếu, đầu thò ra ngoài, trông giống một cái gì nó đã được nhìn thấy nhiều lần và nghĩ một lúc nó lẩm bẩm:
"Trông như con sâu kèn".
Thêm và Nữa thì đương bận lấy cái bao tải phủ lên chỗ chiếu ướt nước giải. Chính chúng cũng không biết là ai đã đái dầm đêm qua và cũng không nghĩ đến sự đổ lẫn cho nhau nữa; đã nhiều lần chúng cãi nhau nhưng vì cả hai đều cởi truồng mà bác Lê gái không sao phân biệt được và đánh đòn cả hai đứa, vì vậy nên lâu dần chúng coi như là cái tội chung cùng chịu. Cũng có lần, một đứa nhớ lại là ban đêm chính nó đái nhưng vì thấy đứa kia không nói gì nên nó cũng lờ đi. Hôm nay chúng mừng là mẹ đã không để ý đến chỗ chiếu ướt; chúng dậy xong, chạy đi chơi, hy vọng đến lúc mẹ chúng giở đến bao tải thì nước giải đã khô rồi. Dẫu sao, sang bên cửa hàng, xem cô Mùi hấp bánh cuốn, chúng cũng sợ hãi và ngường ngượng như là cái tội chúng đái dầm cô Mùi cũng đã biết và tất cả mọi người trong xóm đều biết hết cả rồi.
Bác Lê trai cũng thức dậy, cầm cái khăn tay ra sông rửa mặt. Lúc trở vào thì mâm cơm đã dọn và cả nhà đã ngồi quanh mâm cơm. Bác nhìn vào mâm cơm một cái rồi đi về phía ổ rơm với điếu thuốc hút. Hút xong, bác ngồi yên.
Bác Lê gái nhìn chồng và cũng ngồi yên đợi. Bác không hiểu vì cớ gì mọi người đều đã ngồi vào mâm mà chồng chưa ăn lại còn bắt mọi người đợi. Bác không muốn cất tiếng mời chồng hay bảo con ra mời sợ như thế là mình làm lành trước, điều mà bao giờ bác cũng tránh mặc dầu bác đã hết cơn tức chồng uống rượu. Còn nếu cứ bảo con ăn trước thì tức là dậy cả lũ con không cần gì đến bố. Thành thử cả nhà cứ ngồi yên quanh mâm cơm và nhìn lẫn nhau một cách khó chịu. Tý nhìn mẹ, thấy mẹ ngồi yên nhìn mâm cơm, nó ngẫm nghĩ không biết có nên cất tiếng mời bố không sợ mẹ đương giận bố, mời bố biết đâu không bị mẹ cốc đầu, nhất là lúc đó nó lại ngồi ngay bên tay phải mẹ nó. Tý lại đưa mắt nhìn bác Lê trai và thấy bố cũng ngồi yên nhìn mâm cơm, nó ngẫm nghĩ không biết cha mình còn đợi gì.
Cứ như thế một lúc lâu lắm và trong lúc đó óc Tý làm việc rất dữ dội Bác Lê gái đợi lâu và bắt đầu tức chồng cho là chồng đã có lỗi lại còn làm cao, ngồi đợi để bác phải mời mới chịu lại ăn cho. Bác tức nhất Tý và lại thấy Tý là ngu ngốc vì đã lớn tuổi mà không biết tự ý mời bố, không cần đợi mẹ bảo. Bác thì nhất định bác không thèm mời. Bác cầm lấy đôi đũa toan gắp ăn nhưng nếu bác ăn thì tất cả trẻ đều ăn. Bác lại chống đũa xuống mâm, giận đã bắt đầu ứ lên cổ, bác thấy trước là bác không thể yên được nữa, bác sẽ vứt cả đũa, hất cả mâm cơm đi rồi muốn ra sao thì ra. Vừa lúc tình thế đương rất găng thì Tý thấy bố như xuống bếp, nó nghĩ ra và cất tiếng nói:
"Thưa thầy anh Nhỡ hôm qua kéo xe không về".
Bác Lê trai đáp:
"Thế à? Tao cứ ngỡ nó ở dưới bếp nên cả nhà còn ngồi đợi nó lên, chưa ăn".
Bác Lê gái thở mạnh một cái:
"À ra chồng mình tưởng cả nhà đợi Nhỡ lên nên cũng ngồi đợi chứ không phải định làm cao. Thế mà mình không biết".
Bác lại thấy hết cả giận. Bỗng bác giật nẩy mình, quay nhìn Tý:
"Nhưng sao cái thằng ranh con này nó lại biết".
Bác Lê trai đi lại phía mâm cơm ngồi xuống chỗ của mình. Bác cũng vừa chợt nghĩ đến chỗ lạ lùng ấy, hỏi Tý:
"Nhưng sao mày lại biết là tao đợi thằng Nhỡ".
Không đợi Tý trả lời, bác nói luôn như nói một mình, giọng đùa:
"Ừ, thằng này thông minh. Ngày sau làm nên và cũng được uống rượu tây như tao độ nào".
Bác quay lại nói với vợ:
"U mày cứ bảo nó ngớ ngẩn mãi đi. Ngày sau già không khéo lại nhờ nó".
Bác Lê gái bĩu môi:
"Nó chẳng vẫn cứ ngớ ngẩn thế là gì. Lần này may trúng. Thằng ngáp phải ruồi".
Hai vợ chồng đã phá tan được sự ngượng nghịu. Câu nói ngáp phải ruồi của thằng Tý cũng đã có cái may ngăn được một sự lục đục vừa xẩy ra sau một đêm đã khổ sở lắm rồi.
Ăn cơm xong, Tý bưng mâm đi ra phía sông rửa bát. Nó ngước mặt nhìn trời một cách sung sướng vì đã được cha khen là thông minh.
Tý đi khỏi, bác Lê trai nói với vợ:
"Hay u mày nói phải, chứ nó đâu lại tinh ý quá như thế. Nó phải chú ý đến chỗ bao giờ cũng đợi ăn một lúc, cái đó thì dễ đoán, nhưng về chỗ chỉ có mình tôi vì say hôm qua mà không biết là Nhỡ không về, nhất là nghĩ ra được là tôi đợi thằng Nhỡ, chỗ ấy nó đoán được thì thật là tài quá".
Ngẫm nghĩ một lát, bác lại cất tiếng:
"Ờ, nhưng không phải nó nói một câu ngáp phải ruồi. Nó phải biết là tôi đương ngồi đợi thằng Nhỡ nó mới bảo tôi là thằng Nhỡ hôm qua không về chứ. Ừ, nó thông minh thật đấy; một đứa trẻ mới lên chín mà nhanh ý thế, thật ít có. Bu mày ạ, phải cố sống cố chết cho nó đi học, ừ cho nó đi học bu mày ạ ..."
Nhất là lúc đó bác còn hơi men nên bác lại càng cao hứng, bác nói chuyện với vợ về cái hy vọng Tý sẽ thi đỗ cũng như con ông Năm Bụng:
"Ông Năm Bụng nghèo thế cũng nuôi con đi học tận Hà Nội nữa là. Nó mà thi đỗ thì mình tha hồ danh giá với làng nước, về làng tậu rung tậu nương. Bu mày xem".
Bác Lê gái nói:
"Ông Năm Bụng là con một ông Bố, mình bì thế nào được".
Bác Lê trai cãi:
"Thế ngày xưa chả có con anh Mõ làng đỗ Trạng là gì?"
"Đấy là chuyện phường chèo".
"Chuyện phường chèo đâu, chuyện thật đấy chứ. Cô Mùi có kể cho tôi nghe mà".
Bác Lê gái đứng dậy. Chính bác cũng thấy Tý thông minh nghĩ ra được là chồng mình ngồi đợi Nhỡ mà mình thì không nghĩ ra và bác cũng mang máng nhận thấy Tý cũng đã biết để ý đến cả cái khó chịu của bác lúc đó nữa; nên mới nói ra câu ấy để chồng mình đến ăn cơm và mình hết khó chịu. Nhưng nghe chồng nói, bác không tin lắm và tên Mùi tình cờ nhắc đến làm bác nghĩ ra việc chạy sang hỏi Mùi, người mà bác vẫn phục và tin nhất. Mùi thấy bác Lê gái chạy vội sang, giật mình hỏi:
"Việc gì thế bác Lê?"
Bác Lê mỉm cười cho Mùi khỏi lo và đáng lẽ hỏi Mùi về Tý bác lại nói ngay:
"Thằng Tý nó thông minh lắm cô ạ".
Mùi mỉm cười tự hỏi không biết vì cớ gì bác Lê đã nhận thấy Tý thông minh. Nàng nói:
"Thế à? Tại sao bác biết nó thông minh".
"Cô ạ, nó biết là thầy nó đợi thằng Nhỡ".
Mùi không hiểu tại sao Tý biết bác Lê trai đợi Nhỡ lại thông minh nhưng nàng cũng không hỏi thêm và gật đầu như hiểu thấu cả. Nói chuyện với bác Lê gái, nhiều lúc nàng thấy khó hiểu vô cùng. Việc gì bác biết bác cũng tưởng như người khác biết rồi và có khi đương nói chuyện bác yên lặng ngẫm nghĩ rồi thốt ra một câu không có liên can gì đến câu chuyện cả. Bác nghĩ rồi bác nói tiếp theo ý nghĩ của bác làm như người kia cũng đã biết những ý nghĩ thầm của bác rồi. Mùi nói:
"Thế tôi đã bảo nó thông minh bác không nghe tôi. Nó mà được đi học..."
Bác Lê vội ngắt lời Mùi:
"Nó đi học có được không?"
"Sao không được, nó mà được đi học thì có thể đỗ đến Đít-Lôm".
"Thế à cô? Thầy nó định cho nó đi học".
Bác sợ Mùi cười bác ngông cuồng, dám có ý tưởng cho con đi học, nên vội đổ cho đó là ý của chồng. Mùi mới chợt nghe cũng cho là một ý tưởng ngông cuồng, nhưng nghĩ thật ra cho Tý đi học cũng chỉ thiệt ít công việc giúp đỡ ở nhà chứ cũng không tốn kém mấy. Nàng sẽ bảo Triết cho Tý ít giấy bút, sách vở cũ. Tý không học được cũng không hại gì, nhỡ ra nó học giỏi thì hai bác Lê tha hồ sung sướng. Mùi thấy mình cảm động và vội nói ngay với bác Lê tuy biết là sau này chắc sẽ hối hận vì nóng tính:
"Tôi sẽ cố giúp bác cho nó đi học. Tôi độ này làm ăn khá chắc có thể giúp bác được ít nhiều".
Thế rồi Mùi nói về việc cho Tý đi học và háo hức không kém gì bác Lê gái.
"Để tôi về hỏi lại thầy nó. Cô đợi tôi một tí".
Bác Lê gái chạy về, lại quay trở lại hỏi:
"Cô bảo nó đỗ đến gì cơ?"
"Đỗ Đít-Lôm, bổ đi làm ông Thông ông Phán".
Bác Lê vội chạy về nhà bảo chồng:
"Phải đấy, thầy mày nói phải, phải cố sống cố chết cho nó đi học. Cô Mùi bảo nó ngày sau đỗ đến Đít-Lôm, bổ đi làm ông Thông, ông Phán. Cô Mùi cô ấy lại bảo giúp thêm cho nó đi học nữa".
Hai vợ chồng sung sướng như là Tý đã đỗ rồi. Bác Lê gái nghĩ hai vợ chồng cả đời làm ăn vất vả mà vẫn nghèo khổ, Nhỡ rất chăm chỉ nhưng cũng chỉ đủ nuôi miệng. Phải có đứa con đi học, thi đỗ. Bác tưởng đến một ngày kia, Tý đỗ rồi, được bổ đi làm ông Giáo, ông Phán, hai vợ chồng bác, cùng đinh trong xã hội, khố rách áo ôm, được cái danh giá làm bố mẹ một ông Giáo, về làng nở mặt với họ hàng, lại tậu được ruộng, làm được một cái nhà tây hai từng.
Nghĩ đến cả một đời nghèo đói, khổ sở; bác hạ giọng, nuốt nước bọt nói với chồng:
"Thầy mày ạ... nhà mình..."
Nhưng bác nghẹn ngào ở cổ không nói được và ứa nước mắt khóc. Tý vác rổ bát vào và đứng dừng lại ở cửa, ngơ ngác nhìn. Bác Lê trai vẫy nó lại. Bác định hỏi lại nó xem có thật nó đã đoán được hay là nó ngáp phải ruồi. Tý đặt rổ bát, sợ hãi chưa dám tiến vì thấy mẹ nó khóc và bố lại gọi đến. Bác Lê trai nhắc:
"Lại đây".
Tý đứng cạnh ổ rơm. Bác Lê trai hỏi:
"Sao lúc nẫy tự nhiên mày bảo tao là thằng Nhỡ không về".
Thấy cha đột ngột hỏi đến việc Nhỡ không về trong lúc mẹ nó nức nở khóc, Tý hơi lo:
"Hay là anh Nhỡ chết rồi".
Nhưng Tý không dám hỏi. Bác Lê gái nhắc:
"Sao mày không trả lời câu thầy hỏi?"
Tý vội đáp:
"Thưa thầy con thấy thầy không lại ăn cơm con lấy làm lạ; thấy thầy nhòm xuống bếp con tưởng là thầy đợi anh Nhỡ".
Bác Lê trai hỏi:
"Thế tại sao mày lại tưởng tao đợi thằng Nhỡ?"
Tý đứng yên ngẫm nghĩ lại càng làm hai bác Lê hồi hộp đợi. Tý đứng ngẫm nghĩ là ngẫm nghĩ không hiểu tại sao cha lại hỏi vặn về chỗ ấy, chứ không phải nó nghĩ về câu trả lời. Sau cùng vì bác Lê trai giục, Tý đáp:
"Cả nhà đủ cả chỉ thiếu một mình anh Nhỡ".
"Thế là khá".
Thấy cha mẹ vui vẻ nét mặt, Tý nghĩ thầm:
"À không phải anh Nhỡ chết".
Bác Lê trai lại hỏi:
"Thế mày có đợi anh Nhỡ mày không?"
"Thưa thầy không".
"Thế bu mày có đợi thằng Nhỡ không. Thế con Út thằng Thêm thằng Nữa có đợi thằng Nhỡ không?"
"Thưa thầy không".
"Thế sao mày lại cho là tao đợi thằng Nhỡ".
Câu sau cùng bác Lê trai hỏi dằn từng tiếng nên Tý lo sợ tưởng mình đã có gì hỗn đối với cha khi bảo cha đợi anh Nhỡ.
Bác Lê gái thấy chồng hỏi to tiếng quá, vội dịu giọng nói với Tý:
"Mày nghĩ thế nào thì mày cứ nói thật như thế. Không sợ gì".
Tý nghe mẹ nói, yên tâm vội vàng trả lời nhưng nó cũng không dám nói hẳn là cha say rượu mê man sợ như thế hỗn với cha:
"Thưa thầy chúng con không đợi vì chúng con biết anh Nhỡ không về".
Bác Lê trai nhìn vợ rồi hất hàm một cái, vẻ mặt đắc thắng và đầy vui sướng. Bác Lê gái lại oà lên khóc. Tý vò đầu không hiểu một tí gì cả.
Bác Lê trai vẫy Tý bảo ngồi xuống cạnh mình.
"Từ hôm nay mày không phải đi câu tôm nữa".
Tý hơi lo sợ tưởng có lỗi gì nên cha không cho đi câu tôm nữa, nhưng có hai tiếng ‘‘không phải’’ nên Tý yên tâm.
"Hôm nay mày ở nhà, bu mày cho quần áo, mua bút giấy cho mày đi học".
Nghe câu nói của cha bảo đi học, Tý không biết là thích hay khó chịu. Nó đưa mắt nhìn mẹ, dò hỏi. Bác Lê gái lấy vạt áo lau nước mắt rồi kéo Tý về phía mình:
"Con cố chịu khó học cho thầy bu vui lòng. Thầy bu biết là..."
Bác Lê trai làm hiệu bảo vợ yên vì bác sợ nói khen con quá làm Tý đâm ra kiêu căng. Bác gái không hiểu tại sao nhưng thấy chồng làm hiệu bảo đừng nói thì bác cũng ngừng lại. Bác ngắm nghía nét mặt Tý và thấy nét mặt Tý lúc đó đầy thông minh, không có vẻ ngớ ngẩn như trước nữa. Bác nhớ lại câu Thần Đa nói với bác đêm hôm đầu tiên ngủ ở gốc đa và đoán có lẽ cành hoa Thần Đa cho bác là một đứa quí tử và Tý là đứa quí tử ấy. Nghĩ ra chỗ đó, bác hoàn toàn tin là Tý thông minh và nhà bác Lê sau này khá là nhờ Tý.
Bác Lê trai bảo Tý:
"Thôi cho mày đi chơi".
Tý cũng muốn đứng lên chạy đi nơi khác ngẫm nghĩ. Nó mang máng thấy đi học là khó chịu nhưng cũng không chắc hẳn như thế. Từ trước đến giờ không bao giờ Tý ngờ có ngày bố mẹ lại cho đi học nên cái tin đột ngột làm Tý hoang mang thấy có một sự gì thay đổi lớn nhưng không biết sự thay đổi ấy có lợi hay không có lợi cho mình. Hai vợ chồng bác Lê sau một lúc háo hức lại bắt đầu lo ngại, chỉ mới nghĩ đến chỗ có một đứa con đi học hai bác đã thấy sợ hãi và ngượng với tất cả mọi người trong xóm tưởng như họ chê mình là ngông cuồng, kỳ quái. Mấy năm trước, dẫu cho đứa con thông minh đến đâu đi nữa, hai bác cũng chịu không tài nào cho con đi học. Gần đây làm ăn đã khá, có ít tiền để dành, cố sức thì có thể cho Tý đi học được nhưng hai bác vẫn thấy là việc ấy cao xa quá không phải vừa tầm những hạng người như hai bác.
Vì băn khoăn thế nên bác Lê gái thỉnh thoảng lại chạy ra cửa nhìn sang hàng Mùi xem Mùi có ngồi một mình không. Cửa hàng Mùi đã đông khách nên đợi lâu lắm không có dịp, bác vác chổi ra quét lá đa, quét sạch hơn mọi hôm như để tạ Thần Đa, rồi ra miếu thờ thắp hương khấn đi khấn lại hai ba lần. Bác đi ra cánh đồng nhặt lờ, nhưng về ngay chứ không đi bắt cua như mọi hôm.
Thấy Mùi ngồi một mình ở cửa hàng, bác rẽ vào và nói chuyện với Mùi về việc Tý đi học. Mùi thấy bác Lê có vẻ lo ngại, rụt rè nên bảo bác ta:
"Bác cứ làm như chính tôi bảo cho nó đi học và giúp nó đi học. Nếu nó học không được là lỗi tại tôi, không ai nói gì hai bác cả".
Rồi Mùi đứng lên bảo bác Lê gái đi theo mình về nhà. Có bao nhiêu giấy thừa, bút cũ của Triết và Siêu, nàng lấy đưa cả bác Lê. Rồi nàng giấu giếm đưa bác Lê hai đồng bạc để sắm sửa cho Tý.
Thế là hai bác Lê nhất quyết hẳn cho Tý đi học. Tối hôm ấy, đợi cả nhà ngủ say, bác Lê gái lần sang bên ổ rơm chồng nằm. Đã lâu lắm bác chưa ngủ chung với chồng lần nào nên bác hồi hộp lo sợ các con biết. Bác lắng tai nghe tiếng Nhỡ thở đều đều, có vẻ ngủ say, bác yên tâm. Đến gần chỗ chồng nằm, bác hắng giọng cho chồng khỏi giật mình hỏi to. Bác khẽ nhấc chiếu lên rồi chui người vào nằm sát cạnh chồng.
"Chưa ngủ chứ?"

Bác Lê trai đặt tay lên vai vợ, đáp:

"Chưa, cái gì thế?"
Biết là vợ sang chỉ cốt ngủ chung với mình chứ không có việc gì, bác thích lắm nhưng bác cũng cứ hỏi thế để cho vợ tưởng mình chưa hiểu ý vợ. Từ độ đẻ thêm thằng Thôi, hai vợ chồng bác vì sợ có thêm con nên kiêng ngủ chung. Bác Lê trai ban đêm khó chịu lắm nhưng không biết làm thế nào vì bác Lê gái đã tránh chồng nên đêm nào cũng ngủ chung với Út.
Bác Lê gái để ngón tay vào trán chồng, nói:
"Thôi, từ rầy đừng uống rượu nữa nhé, để tiền cho con nó đi học".
Bác Lê trai cãi:
"Tôi uống rượu có bao giờ mất tiền đâu. Đáng lẽ có con đi học phải uống rượu mừng chứ. À mà mai phải mua con gà cúng khai tâm cho nó chứ. Cúng xong tôi uống rượu. Bác Lê gái cốc một cái vào đầu chồng:
"Đùa mãi. Này, phải xin cho nó đi học trước Tết".
"Cần gì vội thế".
"Cần lắm chứ. Cần nó đi học trước khi mình về thăm bà con, làng nước".
Bác Lê trai cất tiếng vui vẻ:
"Ừ phải đấy. Đằng ấy nghĩ chu đáo lắm".
Bác vừa nói thế vừa đặt chân lên đùi vợ. Bác Lê gái lấy tay hất chân chồng xuống:
"Này, tôi càng nghĩ càng nhớ ra là nó thông minh. Hôm nọ tôi lấy tay đo quần đo người nó, nó bảo sao không ướm thử có nhanh hơn không".
Bác Lê trai nghĩ bụng cho là không phải Tý thông minh mà chính vợ mình ngốc nghếch nhưng bác không nói ra. Bác lại gác chân lên đùi vợ, nói:
"Đẻ đứa nào cũng thông minh như nó thì đẻ bao nhiêu cũng không sợ".
Bác Lê gái hất chân chồng xuống và gắt:
"Thôi ngủ đi. Tán mãi. Hôm qua thức khuya thành ra buồn ngủ díu cả mắt".
Bác nằm sát vào người chồng nhắm mắt và cố yên lặng không nhúc nhích như đương thiu thiu ngủ. Bác Lê trai hiểu ý, mỉm cười rồi cũng vờ nằm yên như là mình cũng đã sắp ngủ rồi. Nhưng cả hai người đều thức và người nọ tưởng người kia ngủ. Nửa giờ sau, bác Lê trai cũng vẫn còn thức nhưng đã đủ thiu thiu say ngủ để đặt chân lên người vợ được tự nhiên và bác Lê gái thì chắc là chồng mình ngủ rồi, không cần nghĩ đến việc hất chân chồng ra nữa.
Chương XIV
Tý đi học
Thế là Tý đã đi học và cũng chưa biết rõ đi học thích hay khó chịu. Tý bị công việc xô đẩy một cách nhanh chóng và chỉ việc làm theo lời của mẹ, của Mùi, của ông giáo Đông hay bà chủ Nhật Trình. Có hai cái thích và khó chịu, Tý nhận thấy rõ ràng nhất là từ lúc đi học nó thấy ấm áp trong người vì ông giáo Đông cho nó cái áo nịt cũ nhưng nó lại bị cái khó chịu là mẹ đem tắm mỗi ngày một bận và bắt giữ móng tay cho sạch.
Bác Lê gái được ông giáo Đông nói cho biết là ông Đốc trường cần nhất là học trò sạch, mỗi ngày phải tắm ít ra một lần và móng tay không được để dài và đen ghét, nếu không sẽ bị ông đuổi ngay. Bác không biết vì sao cần tắm nhiều thế và cần cắt móng tay ngắn nhưng bác phải làm theo.
Còn về những sự thay đổi khác, Tý thấy lẫn lộn cả thích cả khó chịu. Như hôm đầu tiên được mặc áo dài, quần trắng và đi cái mũ mới, Tý thấy hãnh diện với tất cả mọi người trong xóm, tưởng như ai cũng đương khen ngầm nó; nhưng cách mấy hôm sau, Tý lại thấy không gì khổ hơn là phải mặc quần áo trắng và giữ sao cho nó không bẩn, để ông Đốc khỏi đuổi và mẹ khỏi cốc đầu.
Ngồi học ở trường, điều mà trước kia Tý sợ nhất thì bây giờ Tý lại thấy là một công việc dễ dàng. Tý được ông giáo lớp tư đặt ngồi ở ghế cuối cùng với mấy đứa trẻ mới lên sáu lên bảy và cũng như Tý mới bắt đầu học. Ông giáo chỉ giảng bài cho những học trò ghế trên ít khi để ý đến bảy tám đứa trẻ bé tí ấy và thấy Tý nhớn tuổi nhất ông giao cho Tý việc trông coi những đứa bé ấy. Tý thấy công việc trông nom lũ trẻ bé quan trọng hơn cả việc học nhiều và Tý để hết tâm hồn vào việc ấy nên được ông giáo khen.
Ông giáo cũng khen là Tý học nhanh và Tý thấy việc học không có gì khó cả. Học một tuần lễ Tý đã gần thuộc hai mươi nhăm chữ cái. Ngoài việc học chữ ra, Tý tập viết, nghĩa là cả ngày ngồi gạch những nét sổ dọc cho thẳng và đều nhau, hết trang nọ đến trang kia. Tý không biết tại sao cần sổ những nét gạch ấy nhưng thấy ông giáo khen là thẳng và đều, Tý thấy công việc gạch thế thích lắm. Mỗi lần ông giáo đi xuống cuối lớp Tý lại áp mũi xuống vở, lưỡi thè cả ra ngoài mồm, cố công gạch cho thẳng hơn. Đêm về nhà, Tý cũng gạch có khi mẹ giục đi ngủ mới chịu thôi. Nhưng gạch được ít lâu đã đều và thẳng lắm rồi mà không thấy ông giáo nói gì đến nữa, Tý lại đâm chán. Tý chán nhưng vẫn cứ phải gạch.
Tý bắt đầu thấy lúc nào cũng buồn ngủ; ở lớp Tý không dám ngủ, đêm đến bác Lê gái vặn to ngọn đèn đặt bên cạnh Tý và ngồi xem Tý viết nên Tý sợ mẹ, phải cố sức chống lại giấc ngủ đã làm díu cả hai mắt và gạch, gạch hết trang nọ đến trang kia. Nhìn các em bé đã ngủ say, Tý thấy thèm và tiếc độ còn đi câu tôm.
Bác Lê gái vui mừng thấy Tý đã thông minh lại có tính ham học. Bây giờ bác không coi việc cho Tý đi học là ngông cuồng nữa. Hai hôm sau khi Mùi bảo cho Tý đi học, thì ông giáo Đông cũng tự nhiên sang săn sóc đến Tý, cho nó áo mặc và nói với ông Đốc mà ông giáo Đông bảo là bạn thân để cho Tý đi học ngay. Ông giáo Đông cũng bảo là Tý thông minh đặc biệt không cố cho nó đi học thì phí cả một đời nó và ông hứa sẽ hết sức giúp. Bà Ký Ân cũng nói một giọng điệu ấy.
Chừng ấy người, toàn là người bác đáng tin cả, nên bác yên trí hẳn là Tý thông minh thực và việc đi học của Tý không có gì lạ nữa. Tối đến, bác thức để có cái vui nhìn con ngồi viết và nhất là bác thương con không muốn để nó ngồi học một mình trong khi cả nhà ngủ hết sợ nó buồn. Tý thấy mẹ chưa đi ngủ nên cũng cứ phải cắm cúi lè lưỡi gạch hoài; bác Lê gái cũng buồn ngủ nhưng phải cố ngồi đấy. Thành thử cả hai mẹ con đều buồn ngủ mà cứ phải thức khuya.
Bác Lê lắm lúc cũng khó chịu thấy Tý có khi hàng giờ ngồi gạch, tốn phí bao nhiêu là giấy; bác nghĩ đến câu: ‘‘văn hay chữ tốt’’ và bác tưởng học chữ tây viết đẹp cũng cần như viết chữ nho, nhưng điều cốt yếu là bác thấy Tý chăm học. Sau một tuần, bác Lê gái không thấy Tý gạch dọc nữa mà gạch hai gạch chéo nhau ở giữa, bác cho là Tý đã tiến bộ nên ông giáo bắt viết khó hơn.
Mùi từ khi thấy ông giáo Đông săn sóc đến Tý nàng không thấy thích để ý đến Tý nữa. Hôm đầu tiên thấy ông giáo Đông sang chơi nhà bác Lê, Mùi lấy làm lạ lắm: bác Lê thì làm gì có tiền để dành mà ông giáo nhà ta sang chơi.
Nàng nghĩ thế và mỉm cười rồi chạy sang bên bác Lê mới biết là ông giáo Đông nghe tin bác Lê định cho Tý đi học nên đến ngỏ lời giúp đỡ. Rồi sau, nàng thấy Đông giúp đỡ thật và nhiệt tâm lắm, đon đả đưa nó đi mua mũ, mua giấy bút sách vở mới, cho nó quần áo mặc, giúp bác Lê tiền rồi đem nó sang gặp ông Đốc và xin nó được vào học ngay. Thỉnh thoảng, Đông lại dắt nó đi ăn quà. Cả xóm ở đâu ai cũng nói đến việc ông giáo Đông giúp con bác Lê đi học và khen Tý là một đứa quí tử mà ông giáo Đông đã tìm ra. Không có ai nói đến Mùi cả. Mới đầu bác Lê gái còn nhắc đến tên Mùi khi có người hỏi; lâu dần đến cả bác, bác cũng chỉ nói đến ông giáo Đông.
Từ hôm ông giáo Đông săn sóc đến Tý thì Mùi cũng thấy cả bà Ký Ân chạy đi chạy lại luôn nhà bác Lê, hỏi đón săn sóc đến việc Tý đi học. Bà Ký Ân thì chỉ hỏi han nói miệng thôi, không bỏ ra đồng xu nào giúp cả. Những lúc rỗi ông giáo Đông thường hay đưa Tý sang chơi bên bà Ký Ân và mỗi lần đưa sang bà Ký Ân lại cho nó ăn chè, bánh. Tý lại về khoe với Mùi làm Mùi càng thêm tức.
Mùi thấy rõ là ông giáo Đông và bà chủ Nhật Trình đã hoàn toàn cướp mất Tý. Nàng cũng thấy rõ là ông giáo Đông chẳng tử tế gì với nhà bác Lê cả; Đông giúp chỉ vì nhà bác Lê nghèo nhất xóm và như thế ai cũng để ý đến cử chỉ hào phóng của Đông, khen Đông có bụng tốt và như thế để bán được nhiều phiếu để dành tiền hơn. Mùi đoán sở dĩ có việc ấy là do mưu mô của bà Ký Ân cả.
Những lần Đông đưa Tý vào cửa hàng ăn bánh cuốn, Mùi không thèm hỏi Tý nửa lời và Tý có hỏi nàng hay khoe cái gì thì nàng làm như không nghe thấy và đương bận ngắm ông Ninh Ký ngồi bên kia phố. Trong thâm tâm Mùi vẫn còn yêu Tý nhưng nàng chỉ muốn tỏ cho Tý biết là nàng ghét Tý. Nàng khó chịu không thấy Tý hiểu; Tý vẫn cười nói và thấy Mùi nhìn ra phố, nó quay về phía Đông, hai tay nắm lấy cánh tay Đông một cách thân mật và cười nói với Đông; lúc đó Mùi nhận thấy Tý là một đứa trẻ khéo nịnh hót.
Có lần Mùi đột ngột hỏi Đông:
"Tại sao ông lại biết là thằng Tý nó thông minh?"
Trước câu hỏi bất ngờ, Đông lưỡng lự chưa biết trả lời ra sao. Thực tình, Đông cũng không bao giờ để ý đến tại sao Tý lại thông minh. Đúng như Mùi đoán, chính bà Ký Ân đã bảo Đông - hay nói cho đúng hơn - gợi Đông nghĩ đến việc giúp Tý và Đông cũng ngầm nhận thấy việc giúp Tý rất có lợi cho công việc bán phiếu của mình. Đông chỉ được bác Lê gái bảo là Tý thông minh vì Mùi bảo thế nhưng chàng cũng quên không nghĩ đến hỏi những chứng cớ vì sao.
Đông ấp úng một lát rồi nói:
"Cô không bảo là nó thông minh à?"
"Đấy là tôi bảo, nhưng còn ông. Nếu ông không nhận thấy là nó thông minh thì đời nào ông lại tử tế giúp bác Lê như thế!"
Đông đưa mắt nhìn Mùi hơi lo sợ; chàng tưởng như Mùi đã thấy rõ là mình giúp Tý không phải vì lẽ Tý thông minh mà chỉ vì việc ấy làm quảng cáo cho mình.
Câu nói của Mùi có vẻ khiêu khích và nhất là Mùi lại dằn vào hai tiếng ‘‘tử tế’’ một cách mỉa mai. Đông nhớ lại hôm Mùi nhắc đến vụ phá sản panama; lần này nếu Mùi cũng ngầm đi nói với mọi người rằng chàng giúp bác Lê chỉ vì lợi riêng thì thật là một việc không hay. Đông mang máng thấy Mùi có cái gì ác cảm với mình; trong nghề chàng chàng cần không có ai là kẻ thù cả. Nghĩ vậy, Đông mỉm cười nói với Mùi:
"Cô bảo nó thông minh, thế không đủ à? Mới đầu bác Lê nói, tôi không tin nhưng sau bác ấy bảo là chính cô đã tìm ra là nó thông minh. Mấy hôm trước ông giáo Canh cũng nói chuyện với tôi là nó học nhanh lắm, đúng như cô đoán".
Mùi cũng thấy thích là Đông chịu nhận nàng đã tìm ra Tý thông minh. Nàng nói:
"Tôi có đoán đâu, tôi biết chắc".
Thấy mặt Mùi có vẻ đắc thắng, Đông chợt nghĩ ra được cách làm cho hết cái khó chịu từ hôm thấy Mùi thông thạo về các hội buôn. Mới đây chàng lại được biết là Mùi có một người anh họ mới về và trước đã từng học ở trường Bưởi. Tuy là chưa gặp nhưng chàng cũng đoán thấy người ấy cũng ác cảm với chàng như Mùi và chính người đó đã bảo Mùi về các hội buôn.
Từ trước chàng chỉ khó chịu khi nào để lộ cái dốt của mình ra với một người lạ hay một người kém chàng; đối với một người mà chàng biết là giỏi, chàng tự nhận ngay là mình kém và nhờ người ấy dậy cho biết, chàng nhận mình là dốt và không sợ gì người ấy cho mình là dốt nữa. Thế là chàng yên tâm hẳn.
Bây giờ đối với Mùi, chàng cũng coi hẳn như Mùi giỏi hơn chàng, làm như thế chắc Mùi thích, không tìm cách hại mình, mà chàng cũng không e sợ gì khi nói chuyện với Mùi nữa.
Đông loay hoay nghĩ tìm cách xoay câu chuyện về phía đó.
"Nhưng tìm ra Tý thông minh không tài bằng biết được cả hãng Hôm-Be và các nhà băng. Tôi thì chỗ ấy tôi xoàng lắm. Cô không được đi học nhưng cô chịu khó xem sách biết rộng hơn tôi nhiều".
Mùi đưa mắt nhìn Đông hơi ngạc nhiên, ông giáo Đông thạo đời, biết lắm cách, vẫn khinh rẻ nàng là một cô gái quê bán bánh cuốn, mà lại nhún nhường cho là nàng biết rộng hơn ông ta. Ông giáo Đông đã khen nàng, phục nàng. Mùi chớp chớp mắt luôn mấy cái; nàng thường làm thế để che đậy cái ngượng và cái thích mỗi khi có ai khen mình. Khi Đông đã nhũn và đã khen nàng rồi thì nàng lại thấy muốn nhún nhường ngay và nàng cũng thấy đỡ ghét Đông hơn trước. Mùi nhìn Đông, mỉm cười hỏi:
"Tôi lấy bia ông xơi".
"Vâng, cô cho tôi chai bia".
Mùi vừa mở nút xong, Đông đứng lên đỡ lấy chai bia. Mùi nghĩ thầm: Ông giáo Đông đã kính trọng mình không coi như cô gái bán hàng nhà quê, muốn loè thế nào thì loè và muốn bắt rót rượu bia một cách sỗ sàng thế nào cũng được. Nhưng nàng không để Đông cầm lấy chai; nàng lật cốc để nghiêng và từ từ rót rượu:
"Trước khi ông chưa bảo cách này thì tôi cứ yên trí rượu bia bao giờ cũng có bọt. Có những cái rất dễ mà không nghĩ ra".
Đông thấy Mùi đã đổi thái độ và cách ăn nói đối với mình. Chàng nói:
"Vâng, có những cái rất dễ mà sau bao nhiêu năm tôi mới nghĩ ra. Như cách làm thế nào rũ sạch bùn khô ở quần, không cần dùng bàn chải; lau xà phòng sạch tóc dính và đánh diêm ẩm không hay tắt.
Mùi để ý ông giáo đã hai lần "vâng" với mình, không "ừ ử" một cách khó chịu như trước nữa. Nàng hỏi:
"Làm thế nào cơ, ông giáo?"
"Nhúng xà phòng xuống nước cho sâu rồi rửa thì tóc đi ngay. Lấy tay vò quần thì hết bùn; còn diêm thì lúc đánh cần chúc đầu xuống".
"Cách vò quần thì tôi vẫn làm, còn làm cho xà phòng hết tóc thì trước tôi cứ phải cào cạo, mất bao nhiêu thì giờ. Thật lắm cái rất dễ mà không nghĩ ra. Như ông Kha Luân Bố tìm được châu Mỹ, ông ấy đã để được cái trứng luộc đứng trên đĩa bằng cách đập dẹp đầu trứng".
Đông cũng biết chuyện ông Kha Luân Bố nhưng chàng nói:
"Thế à cô Mùi, tôi không biết đấy. Cô lại thông thạo cả lịch sử nữa. Cháu cụ Cử có khác. Kể ra cũng ít người như cô. Ở nhà quê, bận làm ăn mà cũng chịu khó xem sách, học thêm. Tôi thì lười xem lắm, nên học được bao nhiêu chữ lại trả thầy cả. Cô không biết lần đầu tiên cô hỏi tôi có nhà băng nào đảm bảo, tôi ngạc nhiên hết sức. Tôi đã đi nhiều nơi mà chưa thấy ai, cả những người học giỏi nữa, hỏi tôi một câu như thế. Nếu mà người nào cũng biết như cô mà hỏi thì tôi đành chịu không biết đằng nào mà mò. Hôm nào thong thả, cô làm ơn bảo tôi để nhỡ có ai hỏi thì còn biết mà trả lời".
Nói xong, Đông thấy nhẹ hẳn người. Từ nay chàng có thể luôn luôn sang hàng uống rượu bia, nhìn mặt đẹp của Mùi mà không phải nơm nớp giữ gìn sợ để lộ cái dốt của mình ra với Mùi nữa. Uống rượu bia luôn cũng khá tốn nhưng đối với việc lấy được tình yêu của cô gái đẹp thì Đông không bao giờ để ý đến tốn kém. Mùi nói:
"Ông giáo cứ nói thế chứ nhà cháu thì biết gì đâu".
Bỗng nàng đột nhiên hỏi Đông:
"Ông giáo này, sao ông biết mà thuê nhà ông Hai Vinh?"
Đông trả lời ngay:
"Bà Ký Ân bảo tôi".
"Thế à?"
Mùi không hỏi thêm gì nữa. Đông cũng hơi lạ tự nhiên Mùi lại hỏi về việc ấy, một việc không có liên quan gì đến nàng và đến câu chuyện đương nói. Mùi yên lặng một lúc, ngẫm nghĩ, tự hỏi không biết có nên không và lại sợ mình nóng tính sau lại hối. Nàng chép miệng:
"Lạ nhỉ, thế mà bà Ký Ân lại bảo tôi là ông Hai Vinh bảo ông biết".
Đông chột dạ vì đã nói một câu hớ. Câu nói của chàng có thể làm cho Mùi giận bà Ký Ân và bà Ký Ân giận chàng. Bà chủ Nhật Trình đã mua phiếu để dành tiền của chàng, bà lại chỉ bảo về tình hình các gia đình ở vùng đó, rất có lợi cho chàng; bà ấy lại hay đi nhiều nơi và mở chuyện. Nếu bà ấy giận là một việc rất không nên. Đông muốn biết rõ câu chuyện để dễ tìm cách đối phó:
"Tại sao bà ấy lại nói thế?"
Mùi kể cho Đông nghe rõ đầu đuôi câu chuyện. Đông vội nói:
"Ồ, thế thì để tôi trả lại cái nhà ấy cho cô vậy".
"Không, cám ơn ông. Bây giờ thì tôi không cần nữa. Hỏi thế để cho biết là tôi đã đoán đúng thôi. Tôi cũng chẳng giận bà Ký Ân làm gì vì tôi đã biết thế ngay từ lúc đầu".
Thấy Mùi không định sinh sự với bà Ký Ân, Đông yên tâm và chàng lại có thể tha hồ nói chơi bà Ký Ân để Mùi vui lòng:
"Làm thế không tốt tí nào. Thuê một căn nhà có là quái gì, ăn ở với nhau cốt ở cái bụng dạ".
"Ông nói rất phải".
Mùi thấy thích vì ông giáo Đông đã đứng về phía nàng chống lại bà Ký Ân. Không những nàng không ghét Đông mà lại bắt đầu có thiện cảm. Đông ngông nghênh chỉ vì chưa biết nàng là người thế nào, tưởng nàng cũng như bất kỳ cô con gái bán hàng nào ở phố Phủ và Xóm Cầu Mới. Đông là người biết phục thiện vì thế nên một khi đã hiểu nàng rồi thì biết thay đổi thái độ ngay. Nàng đưa mắt nhìn ông Ninh Ký và đoán chắc ông đương khó chịu lắm thấy mình nói chuyện lâu và thân mật với Đông. Nàng nghĩ Đông không sao bằng được Siêu nhưng ít ra Đông còn đi nhiều nơi, thạo đời, có vẻ dân tỉnh thành, không ngốc nghếch ngu đần như ông Ninh Ký cả đời chỉ ngồi ru rú sau những bình kẹo, thùng dầu lạc, để thô lố mắt nhìn nàng, bờm tóc tiên ở hai đầu hết dài lại ngắn, hết ngắn lại dài.
Đông đứng lên đi về và tự lấy làm bằng lòng. Chàng trách mình trước kia làm cao với Mùi và chỉ cốt ở cái thích được Mùi phục mình nên bị Mùi có ác cảm. Giờ thì chàng phải làm đủ thứ để tỏ cho Mùi biết là chàng phục Mùi, chàng phải đánh vào chỗ yếu của Mùi là Mùi có tính kiêu hãnh. Đông định tâm từ nay sẽ có dịp khen Mùi với mọi người. Thế nào cũng có lời khen bắn đến tai nàng và cái đó sẽ làm nàng thích chí và mến mình hơn là những lời khen nói thẳng ngay với chính nàng.
Chương XV
Hờn dỗi
Mùi sang bên hiên nhà thờ để đánh thức Siêu dậy. Siêu cũng đã bắt đầu nghiện chè tàu buổi sáng và cũng bắt chước ông Lang uống nước chè với hoa mộc. Vì chàng không quen dậy sớm nên thường Mùi phải sang đánh thức. Mùi thấy thích công việc ấy lắm và Siêu cũng thế nên lắm buổi sáng chàng đã thức giấc mà vẫn cứ nằm yên để đợi Mùi sang đánh thức mình. Có lẽ chàng nghiện chè tàu một phần vì thế và cũng vì thế chàng không thấy ngại trời rét dậy sớm như trước kia.
Mùi đứng dừng lại ở dưới hiên; ánh trăng hạ tuần chiếu sáng cả chỗ giường Siêu nằm và bóng lá cây in trên vải chăn trắng vì trời yên gió nên trông như là những chiếc lá thêu. Mùi cất tiếng gọi để đánh thức Siêu dậy nhưng gọi rất khẽ vì sợ Siêu thức giấc. Không thấy Siêu trả lời, nàng lại gọi một tiếng nữa và gọi khẽ hơn. Vẫn thấy Siêu nằm yên, Mùi bước lên hiên rồi ngồi rất nhẹ xuống cạnh Siêu. Nhưng nàng cứ ngồi như thế một lúc lâu, yên lặng.
Nàng thấy thích lắm những lúc ngồi yên như thế bên cạnh Siêu còn ngủ; nhất là hôm ánh sáng trăng chiếu sáng rõ nét mặt Siêu và nét mặt Siêu lúc đó Mùi thấy có vẻ êm ả một cách lạ thường, trông như nét mặt một đứa trẻ con. Trông Siêu lúc ngủ lại có phần tươi và đẹp hơn lúc thức.
Nhưng ngồi lâu quá, Mùi thấy không tự nhiên nữa, như là mình phạm cái tội gì và nếu nhỡ Siêu biết nàng sẽ thẹn chết. Nàng giơ tay khẽ lay vai Siêu, gọi:
"Dậy thôi anh. Dậy anh..."
Mùi lim dim mắt và tự nhiên cố làm cho tiếng gọi thành ra uể oải, kéo dài ra như tiếng nói trong lúc nàng còn mê ngủ.
Siêu đã mở mắt nhìn lên nhưng vẫn cứ để Mùi lay vai mình:
"Tôi đã dậy rồi sao cô cứ đánh thức mãi".
Mùi lại lay vai Siêu thêm một cái mạnh nữa:
"Anh tỉnh hẳn chưa. Hôm nọ đã đánh thức anh ngồi dậy rồi mà anh vẫn còn cự em là lười không chịu sang đánh thức anh. Bây giờ cũng thế, anh hãy còn ngủ".
"Thế à?" Thế thì tôi lại ngủ thêm một lát nữa vậy".
Chàng chợt để ý nhìn Mùi. Lúc đó, đầu Mùi vừa đúng che khuất ánh trăng. Những sợi tóc ở viền ngoài sáng loáng như những sợ tơ long lanh; nét mặt Mùi lẩn trong một thứ ánh sáng mờ mờ và đều, hai con mắt đen êm như nhung. Bất giác Siêu nghĩ đến cái cảnh Thuý Kiều sang thăm Kim Trọng và câu thơ: "Bóng trăng đã xế hoa lê lại gần". Chàng vội tìm câu nói chuyện để Mùi khỏi đứng lên mất.
"Nhưng còn sớm quá, cô Mùi ạ".
"Sao anh biết là sớm".
"Trông ánh trăng thì biết. Cô tưởng tôi ở hiên này cả đêm nằm ngủ với trăng mà lại không biết à?" Cứ theo ngày và trông ánh trăng là có thể biết là bây giờ mới bốn giờ. Đêm thì trông ánh trăng, ngày thì trông ánh mặt trời. Nhưng cần phải thay đổi tuỳ theo mùa; mặt trời mùa hè thì ở giữa đỉnh trời đến mùa đông thì đi xuống thấp dần rồi mùa xuân lại đi trở lên... à hôm nào tôi phải giảng cho cô về thiên văn học. Hay lắm cơ, thí dụ ngôi sao cô nhìn kia".
Mùi mỉm cười vì Siêu mới thức dậy đã nói luôn miệng. Nàng quay mặt nhìn theo phía tay Siêu chỉ:
"Ngôi sao nào cơ anh?"
Siêu thì không nhìn vào ngôi sao nào cả, chàng nhìn vào con mắt của Mùi vừa sáng lên dưới ánh trăng.
"Ngôi sao nào cũng được. Thí dụ thế. Ngôi sao ấy cô trông thấy nó, nhưng có khi nó đã tắt hàng mấy trăm năm rồi, thế mà cô không biết".
"Thế sao anh biết".
"Tôi tính thì tôi biết. Ánh sáng nó chạy..."
"Ánh sáng nó biết chạy, hở anh".
"Có chứ, nó chạy nhanh lắm. Nhưng vì ngôi sao ở xa lắm nó phải đi một nghìn năm mới tới chỗ cô ngồi. Nó tới thì cô trông thấy nó. Thế bây giờ thí dụ ngôi sao đã tắt ba trăm năm trước, ánh sáng của nó vẫn còn đi chưa tới nơi và bảy trăm năm sau cô mới trông thấy nó tắt. Nếu bây giờ tôi với cô được may trông thấy một ngôi sao tắt thì có khi cái việc ấy nó đã xẩy ra ba nghìn năm trước rồi. Ghê không?"
Lần này Mùi không hiểu một tí gì về những câu giảng của Siêu và nàng cho thiên văn học là một thứ học ghê gớm lắm. Nàng mỉm cười đứng lên:
"Ghê thật. Nhưng đây là chuyện trên trời dưới biển không cần lắm. Bây giờ em phải đi cân gạo. Anh dậy mặc áo đi. Anh không nhớ hôm nay là ngày em khai cân à?"
Siêu cũng hất chăn ngồi dậy:
"Có, tôi nhớ. Nhưng cô đi cân gạo chứ có phải tôi đi cân đâu mà tôi phải dậy sớm thế này".
"Chính em đi cân, anh mới cần dậy sớm chứ".
"Tại sao thế?"
"Tại thế. Anh không nghĩ ra à?"
Câu Mùi định sắp nói với Siêu, nàng đã nghĩ đến từ mấy hôm trước nhưng nàng vẫn thấy ngài ngại. Mỗi buổi sáng, đi từ nhà ra ngoài xóm đem một số tiền lớn, cần phải có người khoẻ mạnh đi theo để phòng xa kẻ cướp giật. Bà Huyện Thanh đi từ Phủ sang phải có hai người vác gậy đi theo. Nàng nghĩ ở nhà, ngoài Siêu ra không còn ai có thể cùng nàng đi ra xóm được, và cái ý tưởng được mỗi buổi sáng cùng đi với Siêu một cách tự nhiên làm tim nàng hồi hộp. Nhưng nàng khó chịu ở chỗ lại nghĩ ra được là Nhỡ mà nàng bảo đừng đi kéo xe nữa, ở nhà khuân cân, trông nom hàng sáo, đổ gạo và cho gạo vào bao, Nhỡ rất có thể mỗi buổi sáng vào đón nàng. Nàng chắc ngoài nàng ra chẳng ai nghĩ đến Nhỡ. Sáng nay vẫn chưa quả quyết hẳn nói ra với Siêu vì nàng mang máng thấy như thế hơi phiền cho Siêu một tí và sợ Siêu phiền mà từ chối; nàng thấy thích được đi với Siêu mà nếu Siêu lại chỉ thấy ngại thì chắc là Siêu để cái phiền của mình lên trên cái thích giúp đỡ nàng, mà sự giúp đỡ ấy cũng không khó nhọc gì. Mùi nghĩ thầm: "Nếu anh ấy phiền thì mình phải nói thẳng vào mặt là việc cân gạo cũng là việc của anh ấy, anh ấy cũng phải dự một phần vất vả", nhưng chính vì nghĩ thế và sợ xẩy ra như thế nên Mùi lưỡng lự. Sáng nay, đến lúc nói câu: "Anh không nghĩ ra à?" Mùi đã toan tiếp theo: "Anh không phải dậy uống nước chè à, nếu em đi thì ai đánh thức anh". Nhưng không biết tại sao Mùi lại cất tiếng nói với Siêu:
"Từ đây ra phố, đem nhiều tiền đi, anh cần đi với em phòng xa. Ngoài anh ra không còn ai có thể đi với em được. Thầy em và Triết đều yếu cả. U già đi với em thì có cũng như không. Không làm phiền anh chứ".
Mùi phải nói hết chứng cớ với Siêu vì nàng sợ Siêu từ chối. Nàng nhìn nét mặt Siêu dưới ánh trăng để cố dò ý tứ, nàng đoán nếu Siêu cũng như nàng thì chắc Siêu phải thấy ngay việc đó là thích. Nhưng nét mặt Siêu, Mùi thấy tỏ vẻ khó chịu. Siêu đáp:
"Chẳng phiền gì lắm, nhưng..."
Mùi hồi hộp đợi. Siêu tiếp theo:
"Nhưng sao cô bảo ở đây từ ngày có ông Phủ mới về thì yên ổn lắm, không bao giờ có cướp cả".
Mùi đã thấy hơi nóng ở hai tai và hối hận rằng đã chót ngỏ ý ra với Siêu. Nàng nói không nghĩ ngợi:
"Cướp thì vẫn không có, nhưng cướp giật thì biết đâu đấy. Bà Huyện Thanh sáng nào ra cân cũng phải có hai người vác gậy đi theo. Với lại có anh đi, em yên tâm hơn. Thế không đủ à?"
Hai câu sau cùng, Mùi nói thêm vào thật nhanh như sợ hãi là đã nói ra. Nói thế chắc là Siêu không kiếm cớ từ chối, nhưng nếu nói thế mà Siêu vẫn cứ từ chối thì nàng sẽ khổ lắm; dẫu thế nào đi nữa nàng cũng không xoá bỏ được cái cảm tưởng đầu tiên là Siêu đã kiếm cớ và không lấy việc đó làm thích gì cả.
Siêu thì thấy việc đó nhiều phiền hơn là thích. Chỉ có mỗi một cái thích là đi với Mùi nhưng ngày nào cũng phải đi thì đến cái thích ấy cũng chỉ thành ra sự phiền ngay. Chàng cố hỏi Mùi cho hết cách, nếu việc đó thật không thể nào tránh được thì lúc đó chàng đành phải làm vậy. Chàng cất tiếng bảo Mùi:
"Thế sao cô không thuê người đem gậy vào đón như bà Huyện Thanh".
"Tốn tiền chết".
Mùi nói là sợ tốn tiền nhưng trong bụng Mùi đã tức uất lên là Siêu lại nghĩ đến việc thuê người. Nàng vừa nghĩ đến Nhỡ và thấy mình tự thẹn với mình là đã biết Nhỡ có thể làm việc đó, không tốn thêm đồng xu nào, mà nàng lại giấu không nói ra, và chính vì lẽ ấy nàng lại thấy giận Siêu thêm.
Siêu đứng lên đi về phía treo áo:
"Thôi được để tôi đi với cô cũng được, không sao. Cô lên nhà trước đi để tôi mặc áo".
Mùi thấy không thế nào bỏ đi như thế với cái tức còn đầy ứ ở cổ.
"Anh thấy ngại à?"
Thấy Siêu không để ý đến lời mình nói, cho tay vào áo một cách miễn cưỡng, nàng nói dằn:

"Anh ngại thì anh cứ bảo thẳng em".
Siêu thấy giọng Mùi hơi khác, quay mặt lại. Mùi nói luôn:
"Anh thấy phiền thì thôi. Em có cần đâu..."

Siêu nói:

"Ô hay, cô này. Tôi bảo là tôi đi cơ mà".
Mùi bước một chân xuống bực hiên. Nàng giận ứ lên cổ vì cái giọng của Siêu lúc nói tiếng "cô này":
"Thôi chẳng cần anh đi nữa".
Cái tức của nàng cứ theo lời nói mà tăng thêm:
"Anh ngại thì anh ở nhà mà ngủ cho ấm. Em đi một mình..."
Nước mắt nàng đã trào ra. Nàng không sao giữ được miệng nữa:
"Việc cân gạo cũng là việc của anh. Nhờ anh có một tí thế mà anh cũng ngại. Thôi em cũng chẳng cần gì cả. Em hơi đâu vất vả vào thân. Thôi, chẳng đi đâu nữa... Sao mà khổ thế này, giời đất ơi!"
Nàng chạy đến giường nằm úp mặt trên gối, nức nở khóc. Việc đã xảy ra đúng như nàng sợ trước mà lại đúng vào hôm bắt đầu cân gạo mong đợi từ lâu mà đáng lẽ vui biết bao. Tại sao nàng lại hỏi Siêu làm gì để xẩy ra như vậy. Bây giờ, sau mấy câu nói sau cùng, mọi sự đều hỏng hết. Nàng cắn vào cái gối, ấn mặt xuống cho tiếng khóc khỏi to sợ ông Lang nghe thấy. Bỗng nàng nhận thấy hơi nóng ở chiếc chăn bông thấm vào người và mùi tóc của Siêu trên mặt gối. Mùi thấy mình ngừng khóc một lúc lâu rồi lại bắt đầu nức nở, ấn mặt xuống gối và áp người vào chiếc khăn bông chặt hơn.
"Thôi chẳng cần thì thôi. Sao đời em khổ thế này..."
Đợi lâu không thấy Siêu nói gì cả, Mùi cất tiếng gọi: "Anh Siêu, chốc nữa trả lại anh cả ba trăm, anh muốn làm gì thì làm. Tôi không cân gạo nữa. Thế là hết chuyện. Rồi nàng giơ tay kéo cả cái chăn áp mạnh vào ngực và khóc nghẹn ngào như không thở được nữa. Một lúc sau, Mùi nhận thấy tiếng khóc của mình đã đều đều và nhỏ dần, cơn tức đã nguôi chỉ còn lại một sự hờn dỗi dìu dịu. Mùi kéo hẳn chăn lên đắp chùm cả đầu và sau mấy tiếng nức nở còn rớt lại, nàng thở dài một cái thật sâu và nằm yên.
Đợi đến lúc đó, Siêu mới đến ngồi xuống cạnh giường, khẽ gọi:
"Cô Mùi..."
Mùi thấy dễ chịu là Siêu hỏi đến nhưng nàng cũng không đáp lại. Siêu phiền hết sức đã vô tình làm Mùi dỗi; nhưng biết tính Mùi chàng phải cố đợi; để Mùi khóc một lúc cho nguôi giận đã. Chàng tự trách mình là đối với Mùi, một người đã giúp đỡ, chiều chuộng chàng đủ thứ mà nhờ chàng có một việc cỏn con chàng cũng để lộ sự khó chịu của mình ra cho Mùi mất lòng.
"Cô Mùi, có phải tôi ngại gì đâu. Cô giúp đỡ tôi bao nhiêu thứ, dẫu phải vất vả đến đâu đi nữa tôi cũng vui lòng, huống chi một việc cỏn con mà chính tôi cũng thích lắm. Nhưng cô nghĩ xem".
Chàng không dám nói ra cái cớ đi hai người không tiện:
"Cô nghĩ xem, tôi đưa cô ra hẳn đến chỗ cân không được rồi; nếu chỉ đến gần xóm rồi lại lẩn lút trở về, ngộ có ai trông thấy thì thật là khó coi, mà chắc lâu thì thế nào cũng có người nhận thấy chỗ lạ lùng đó, họ sẽ rêu rao lên và chẳng bao lâu cả xóm sẽ thì thào về việc đêm nào tôi cũng đưa cô đến gần xóm rồi lẩn trốn về. Cô nghĩ lại xem. Nếu cô giận, oan tôi quá. Tôi thề với cô..."
Chàng định nói thêm là "tôi không ngại gì" nhưng thấy đó là câu nói dối, chàng bỏ lửng câu nói. Mùi nằm nghe, trong lòng nhẹ hẳn; cái cớ Siêu viện ra đúng lắm, Siêu ngại chỉ vì nghĩ đến chỗ đó thôi; còn nàng, nàng không nghĩ ra nên giận oan. Dẫu sao, Mùi vẫn thấy khổ là đã bị một lúc giận uất và đã nói những câu phân bì tôi, anh không bao giờ nên nói ra với Siêu và cái vui của ngày đầu tiên đi cân gạo nữa, tự nhiên bị tan vỡ. Nàng lại nức nở khóc và lần này khóc vì ân hận. Siêu thì tưởng Mùi lại giận mình hơn:
"Xin lỗi cô, tôi đã làm phiền lòng cô".
Chàng lật chăn kéo tay Mùi:
"Cô dậy thôi để đi cân, cô mà không đi cân thì cô làm khổ tôi. Dậy đi..."
Chàng kéo mạnh tay Mùi bắt ngồi dậy:
"Tôi lạy cô".
Mùi rút tay mình ra. Lại gục đầu vào trong chăn.
"Tôi chẳng đi đâu. Tôi không cân với kiếc gì cả".
Siêu đã nói đến thế mà nàng còn giận. Siêu thấy hai bàn tay mình run run và quả tim đập mạnh. Chàng đã bắt đầu cáu và một khi cơn tức lên thì chàng không còn biết mình làm gì nữa. Chàng kéo mạnh tay ôm lấy cổ, lấy vai Mùi kéo mạnh nàng ngồi dậy. Chàng vừa thở mạnh vừa nói:
"Tôi van cô".
Rồi chàng cất tiếng nói to như ra lệnh:
"Cô dậy đi cân!"
Mùi ngoan ngoãn để Siêu ôm mình kéo ngồi dậy. Nàng đã muốn làm lành, nhưng muốn để Siêu ôm mình lần nữa, nàng lại ngả người như định tâm nằm xuống, miệng nói:
"Em khổ lắm..."
Bỗng Siêu hất nàng một cái mạnh làm nàng rúc người vào đống chăn. Nhưng tuy bị Siêu hất một cái mạnh quá nàng lại thấy choáng váng dễ chịu và sung sướng.
"Phải, tôi làm khổ cô. Ngay ngày hôm nay tôi sẽ đi khỏi cái nhà này. Không cần nói nhiều".
Ông Lang vừa sực thức và nghe thấy tiếng Siêu nói to, ông vội hỏi:
"Cái gì thế ?"
Mùi vội vàng ngồi ngay dậy, quấn lại khăn:
"Thưa thầy không ạ".
Ông Lang đoán là hai anh em to tiếng về một câu chuyện gì đó nhưng ông cũng không hỏi thêm cho biết rõ. Mùi nhìn Siêu ngồi gục đầu bên thành giường, hai tay nắm chặt; đợi một lúc lâu không thấy ông Lang hỏi gì nữa nàng hạ giọng và dịu dàng nói với Siêu:
"Em làm anh khổ lắm phải không".
Không thấy Siêu nhúc nhích, nàng tiếp theo:
"Khổ, em động một tí thì hờn dỗi. Xin lỗi anh..."
Bỗng nàng cảm thấy tất cả cái buồn khổ trong tâm Siêu lúc đó. Ông Cai trốn tránh, bà Cai điên, Siêu về đây được yên ổn ít lâu, nàng săn sóc đến gia đình Siêu chưa được mấy tí; thế mà chỉ vì Siêu hơi tỏ cái khó chịu đưa nàng ra xóm, mới có thế thôi, mà nàng đã vội giận và nói ra những câu không còn tình nghĩa gì nữa. Nàng chỉ biết đến cái tức của mình, quên hẳn cái khổ của Siêu. Nghĩ đến đấy, Mùi lại mủi lòng và nước mắt lại trào ra. Nàng vừa nức nở vừa giơ tay lay vai Siêu:
"Anh tha lỗi cho em. Em lạy anh, anh tha lỗi cho em. Khổ, anh còn giận em thì em chết mất. Đi, anh".
Thấy Siêu quay lại yên lặng nhìn mình, Mùi đưa vạt áo lau nước mắt.
"Bây giờ em không khổ vì giận anh nữa nhưng em lại khổ vì anh giận em. Thành ra bây giờ em lại khổ bằng mấy lúc nãy. Thế có khổ không".
Bất giác nàng mỉm cười vì câu nói của mình. Siêu cũng mỉm cười:
"Tôi cũng nóng tính lắm. Từ rầy không nên nóng tính".
Mùi ngước mặt nhìn Siêu:
"Có phải không anh".
Thế rồi nước mắt nàng lại trào ra và nàng khóc một cách sung sướng. Siêu nói:
"Thôi cô lau nước mắt rồi đi cân gạo chứ".
"Thế anh ở nhà nhớ".
"Thôi, tôi đưa cô đi, chắc cũng chẳng ai để ý".
"Không cần anh ạ, anh đưa em đi một buổi sáng này thôi. Ngày mai em bảo anh Nhỡ vào đón. Phải, thế mà em không nghĩ ra".
Nói đến chỗ ấy, Mùi thấy ngượng mồm tệ và mỉm cười hất cằm một cái để tự chế giễu mình. Siêu nói:
"Nhỡ à? Đi thế không tiện".
"Có gì mà không tiện. Ngày nào cũng đi sợ phiền anh quá".
Ngưng một lát, rồi Mùi mỉm cười tinh nghịch hỏi Siêu:
"Hỏi thật anh, có phải thực tình lúc nãy anh cũng thấy ngại không".
Siêu cũng bật cười và thẳng thắn đáp:
"Kể thì cũng hơi ngại một tí".
Nhưng câu ấy bây giờ lại làm Mùi sung sướng.
"Đấy thế, em có tinh không. Thế là lúc nãy em giận anh chẳng oan tí nào cả. À, thế ra anh ngại thật à. Việc cân gạo cũng là việc của anh, mới một tí thế mà sợ vất vả. Thế em đi cân không sợ vất vả à? Thôi em chẳng đi cân nữa, ở nhà ngủ cho ấm. Ba trăm bạc trả lại cả anh".
Siêu lo lắng nhìn Mùi nhưng thấy ánh mắt nàng tươi cười, Siêu hiểu và nói:
"Nếu cô còn nói nữa thì nội ngày hôm nay tôi sẽ đi khỏi cái..."
Mùi ngắt lời:
"Khỏi cái nhà này".
Cả hai người cùng bật cười lên một lúc. Mùi đứng lên với cái khăn của Siêu lau kỹ nước mắt, sợ chốc nữa ông Lang biết mình đã khóc. Nàng nhanh nhẹn bước xuống hiên để về buồng đếm tiền. Mùi lại thấy sung sướng hơn là khi chưa xẩy ra chuyện gì. Nàng vừa đếm tiền vừa tưởng tượng đến hơi nóng trong tấm chăn của Siêu, mùi tóc của chàng trên áo gối và nhất là lúc Siêu kéo tay nàng, Siêu ôm lấy cổ vai nàng bế ngồi dậy và nàng cưỡng lại. Nàng thấy không những chỉ mình nàng để ý đến và đoán mang máng hình như Siêu cũng không phải hoàn toàn vô tình trong những cử chỉ đó. Bao nhiêu những cái tức đều biến đâu mất, tan hẳn đi, hình như không từng có song cái thú được nằm trong chiếc chăn còn ấm hơi người Siêu ôm trong tay thì lạ lắm, còn lại rõ ràng và làm nàng phiêu phiêu trong người.
Mùi bỗng mỉm cười vì vừa nhận ra rằng nàng đương ao ước hôm nào lại có cái may xẩy ra một chuyện cãi nhau như thế nữa.
Siêu lúc đó vừa rửa mặt vừa nhìn vào cái áo gối dưới ánh trăng có mấy chỗ sẫm lại vì nước mắt của Mùi và cái chăn bông bị Mùi vất lung tung, một góc chăn chạm cả xuống nền gạch. Lúc nãy thật tình chàng đã cáu lắm khi kéo Mùi ngồi dậy bắt đi cân nhưng ngay trong lúc cáu chàng cũng nhận thấy được cái may là trong lúc vội vàng tay chàng lại nắm trúng được cổ Mùi. Chàng vẫn thấy cái cổ của Mùi, nhìn ở đằng sau có một vẻ đẹp rất ý nhị. Cái cổ không gầy không béo quá, thon thon từ ở vai áo đưa lên, da gáy màu trắng lẫn trong những làn tóc lơ thơ rũ xuống, có những nét thần diệu và có một thứ duyên lạ lắm đối với riêng chàng. Có khi chàng ngồi rất lâu chỉ ngắm nghía cái gáy của Mùi, trong lòng bâng khuâng như thấy trước mắt một thứ gì êm dịu lắm, thanh thanh, phảng phất có vẻ thần tiên và ngầm ở trong một thứ gì khác nữa. Chàng cũng không biết tả sao; nhưng cảm thấy như là có một nỗi vui nhẹ lắm thấm ở trong tóc, trong da thịt đương toả ra, xông ra nhưng xông rất ít gần như không có nữa.
Trong đời Siêu có hai thứ giống nhau chàng nghĩ mãi không hiểu: gáy của Mùi và những ngọn lá khoai lang, tuy hai cái không có gì giống nhau cả. Từ bé đến giờ, hễ có lần nào nhìn những ngọn lá khoai lang bất cứ là lá xanh hay lá đỏ là chàng thấy như mình nhìn vào một cái gì vui lắm. Không phải là nhìn những lá ấy chàng thấy vui đâu, chính chàng thấy cái vui nó ẩn ở ngay trong ngọn lá, chàng thấy lá xanh vui hơn lá đỏ, và khi nào ngọn lá ướt nước thì lại càng vui hơn. Chàng thấy làm lạ lắm nhưng nghĩ mãi vẫn không hiểu vì sao, chàng đoán có lẽ khi còn bé lắm, trong một lúc đương vui sướng về cái gì chàng lại tình cờ đứng nhìn mấy ngọn lá khoai và nhìn lần đầu tiên, lúc còn bé cảm giác rất mạnh, nên nỗi vui sướng của chàng thấm vào lá khoai và bây giờ mỗi lần nhìn, chàng lại thấy hiện trong lá khoai nỗi vui của chàng đã cảm từ ngày nào mà chính chàng đã quên hẳn rồi. Siêu nghĩ đến lắm đêm chàng đã mê thấy cái gì vui lắm những sáng ngày quên hẳn đi, nghĩ mãi cũng không nhớ ra nhưng cái vui thì chàng còn cảm thấy rõ trong người chàng và mặc dầu không nhớ nhưng người chàng vẫn vui. Ngọn lá khoai chắc đã thấm và giữ lấy cái vui xưa cũng như chàng đã giữ lại cái vui của giấc mơ. Cổ Mùi chàng chắc cũng có một nguyên do như lá khoai.
Thuở bé trong một lúc vui chắc chàng cũng đương nhìn vào gáy Mùi và chàng đoán việc ấy xảy ra khi hai người đánh đáo cõng. Lúc Mùi cõng vì Mùi yếu và thấp nên chàng chỉ để hờ tay lên vai và ruỗi hai chân lê trên đất cho khỏi nặng. Có lẽ trong một lúc Mùi cõng, chàng đã nhìn vào gáy Mùi. Siêu bỗng mỉm cười, tự nghĩ:
"Nhìn vào thấy vui thì cứ nhìn việc quái gì mà nghĩ ngợi tìm tòi như tìm duyên cớ khói pháo tàn vì sao ra thơm, giấy pháo tàn vì sao tan xác".
Chàng chỉ đoán thế thôi chứ chắc cả đời cũng không bao giờ tìm được lý nhẽ đích xác tại sao nhìn lá khoai và cổ Mùi lại thấy vui. Có lần Siêu ao ước được đặt tay vào cổ Mùi thì việc cãi nhau sáng nay lại vừa cho chàng cơ hội và cái may được ôm lấy cổ Mùi một lúc khá lâu. Chàng cũng nhớ cả lại cái thú được ôm lấy Mùi trong cái không khí âu yếm toả ra của một tấm chăn nóng hơi người tưởng như Mùi đã là vợ chàng, thoáng trong một lúc.
Chương XVI
Mùi đi cân gạo
Siêu đặt chén nước chè xuống khay, hỏi Mùi:
"Đã đến giờ đi chưa?"
Mùi nhìn đồng hồ nói:
"Chưa anh ạ".
"Thế sao cô phải dậy sớm thế và đánh thức tôi dậy sớm thế. Chè tàu sáng nay ngon mà phải uống vội mất cả thú".
Ông Lang cũng chen vào:
"Có phải không. Uống chè tàu mà uống vội mất cả ngon. Được cái tôi có tính dậy sớm nên tha hồ thong thả uống nước chè. Người tây họ uống nước chè, họ uống từng cốc to và cho đường vào, thế thì còn lý thú gì".
Siêu nói tiếp:
"Vâng, cháu cũng thấy thế. Và nhà tây nữa, họ ở họ ăn, ngồi chơi mà đi ngoài đường ai cũng cứ nhìn thông thống vào, ở như thế thì khó chịu chết. Có phải không chú?"
Nói xong Siêu mới thấy câu của mình về nhà tây không ăn nhịp gì lắm với việc uống nước chè đường. Nhưng chàng nói ra vì xưa nay chàng vẫn ghét lối sống lồ lộ trước mắt mọi người và sáng nay Mùi đi cân gạo nhắc chàng đến câu chuyện có tiền về quê làm cái nhà lối ta có hiên rộng và có hàng rào găng ta che khuất.
Mùi rót ít nước sôi vào chén uống, thỉnh thoảng lại nhìn đồng hồ. Nàng hồi hộp không yên lúc đã sắp đến giờ ra cửa hàng cân lần đầu. Mùi không muốn ra sớm quá, sợ ngượng với các bà cân khác; vả lại ra sớm mà ngồi trơ ra với cái cân không có người hàng sáo nào, kể cũng hơi phiền trong một ngày mở hàng. Ra chậm quá cũng không được vì người khác ra sớm mua tranh mất nhiều. Thành thử Mùi cứ thấp thỏm, không biết lúc nào ra thì vừa đúng. Sau cùng nàng cặp tráp tiền đứng lên:
"À, nặng quá".
Siêu cũng đứng lên:
"Cô đưa tôi mang cho".
"Không được, anh phải mang gậy cơ mà. Nó có đến mà anh vướng tráp bạc thì làm thế nào".
Lúc đi qua gốc cây thị, Mùi bảo Siêu:
"Cây thị này có ma, mọi sáng đi qua em vẫn sợ lắm. Từ hôm nay giở đi thì hết sợ".
Nghe Mùi nói thế, Siêu lấy cái gậy vụt mấy cái vào thân cây thị, nhưng mặc dầu lý trí bảo chàng không có ma, lúc vụt chàng cũng thấy rờn rợn ở tay.
"Làm gì có ma. Cô chỉ được cái thần hồn nát thần tính".
"Sao anh bảo không có ma. Em đã trông thấy ma rồi, ba con tất cả".
"Ghê nhỉ, cô tả cho tôi nghe".
"Ba con như ba ngọn lửa nó chạy ở trên bãi tha ma".
Siêu cười:
"Ma đâu, lửa đấy. Ma ấy thì tôi có thể làm cho cô xem".
Mùi cũng cười:
"Anh làm được cả ma".
"Làm ra ma không khó gì, nhưng làm được ma cũng không giầu thêm đồng xu nào. Để hôm nào tôi giảng cho cô tại sao lại có ma trơi, ma đống. Xương người chết có chất lân tinh, chất lân tinh ở mộ bốc lên gặp không khí nó cháy, nếu có gió nó đi chơi thì gọi là ma trơi, nếu im gió nó ngồi yên thì gọi là ma đống. Cô đã hiểu chưa và hết sợ chưa?"
Mùi mỉm cười thấy Siêu nói để hôm nào giảng mà lại giảng ngay. Nàng hiểu nhưng nàng thấy chất ấy ở trong xương người chết trong mộ bốc ra rồi tự nhiên lại bùng cháy được, thế thì chất ấy đích thị là ma rồi còn gì nữa. Trước nàng vẫn còn cho có thể là lửa đóm của những người đi bắt ếch, nay được biết rõ là có lửa thật ở mả bốc lên không phải là lửa đóm; nàng lại càng tin là có ma thật.
"Anh nói thế em lại càng sợ thêm".
"Cô sợ chất lân tinh".
"Chất gì không biết. Nhưng anh bảo nó ở xương người chết nó bốc ra, tự nhiên nó lại cháy bùng lên được rồi lúc nó ngồi lúc nó đi chơi, ma ấy mới sợ".
Siêu thấy Mùi nói một cách thành thực, không phải đùa.
"Hôm nào thong thả tôi phải giảng cho cô nghe về khoa học và nhất là hoá học cho cô hết sợ ma. Hoá học nhiều cái thần tình lắm cơ".
Rồi chàng bật cười tiếp:
"Vì hoá học thần tình nên tôi chỉ chuyên về hoá học, thành ra đi thi trượt luôn hai năm. Nhưng không sao, cô cứ cân gạo, tôi cứ cố tìm tòi, xem người nào giầu trước".
Hai người đã đi vào bóng cây đa cốc. Siêu đứng lại nhìn cho đến khi Mùi đi khuất rồi chàng vác gậy trở về.
"Nhất định làm gì có ma".
Tuy nghĩ thế và tin chắc là thế, Siêu cũng thấy rợn cả người lúc đi qua một mình dưới gốc cây thị. Chàng nắm chặt gậy đề phòng ma báo thù chàng đánh nó ban nãy.
<
Bác Lê gái thấy Mùi đi qua hỏi:
"Hôm nay cô mở cửa hàng cân gạo. Chúc cô phát tài".
Bác nhìn vào cái tráp có vẻ nặng tiền của Mùi:
"Cô đi một mình từ trong nhà ra đấy à?"
Mùi không đáp vì không dám nói đi với Siêu và cũng không dám nói là đi một mình. Lúc đó nàng mới nhận thấy rõ là Siêu đã nói đúng khi bảo là đi đưa nàng không tiện. Mùi nói:
"À, sáng mai phải bảo anh Nhỡ vào đón".
Lúc ra đến chỗ các quán cân gạo, Mùi thấy bà Huyện Thanh, cụ Hai Sinh, bà Đồ Minh đã ra nhưng đương sửa soạn chưa bắt đầu cân. Bỗng Mùi chớp mắt một cách ngạc nhiên nhìn vui sướng; ở trước cửa hàng bác Liễn mà nàng đã thuê để đổ gạo, hàng sáo ngồi đợi đông lắm. Bà Ký Ân chưa ra nhưng chung quanh cân bà ta không có người nào. Mùi cúi đầu chào cụ Hai Sinh và bà Huyện Thanh một cách rất lễ phép, cung kính hơn mọi lần. Nàng thích lắm khi nghe thấy sau lưng tiếng bà Huyện Thanh nói với bà Ký Sinh:
"Con gái tôi thật là đảm đang. Cô ấy năm nay dễ mới mười bảy mười tám".
Hai câu ấy nói liền nhau tỏ ra rằng các bà đương phục nàng còn ít tuổi thế mà đã thông thạo đi cân được gạo. Đám hàng sáo rẽ ra để Mùi đi vào:
"Cô để cháu bán mở hàng cho cô".
"Cô để tôi".
Bác Nhiêu Lịch lấy tay gọi Mùi:
"Cháu đợi cô mãi".
Bác đã đến thật sớm và mưu mô với Nhỡ để Nhỡ đặt hai bị gạo của bác lên trên cái cân và bác đứng chống tay vào đòn gánh canh không cho ai nhắc xuống. Những lúc túng bấn, bác thường đến vay mượn Mùi nên nghe tin Mùi sắp đi cân gạo bác vui mừng lắm và dò hỏi Nhỡ xem đích xác hôm nào và bác nhất quyết mở hàng cho Mùi.
Lúc đó Mùi cũng hồi hộp trong lòng và hơi ngượng. Nàng móc túi lấy ra quyển sổ con và bút chì vì nàng không quen dùng bàn tính. Nhỡ đã treo sẵn chiếc đèn ở cạnh cân; chàng tươi cười nói với Mùi:
"Đông quá mà ai cũng chen nhau đòi mở hàng, cháu không biết làm thế nào. Tuỳ cô muốn để ai thì để".
Mùi ngồi xuống ghế. Thế là sau bao nhiêu lâu, cái mộng đi cân gạo của nàng đến lúc này đã biến thành sự thực: Nàng cũng được ngồi sau cái cân, cái tráp tiền đặt nặng ở trên hai đùi. Nàng ngửng nhìn mọi người và mỉm cười vơ vẩn.
"Nào, ai mở hàng cho tôi bây giờ?"
Những tiếng "cháu, tôi" nhao nhao lên chung quanh cái cân. Bác Lịch khó chịu vì không thấy Mùi nhìn mình, nhưng bác không đời nào chịu để cho ai bỏ gạo của bác xuống cho người khác mở hàng. Mùi đã biết là bác Lịch có gạo để trên cân; vốn biết bác từ lâu và vẫn mến bác vì tính thẳng thắn nên nàng cũng muốn bác mở hàng mình và cho đó là một sự may mắn. Giá bác còn đứng ở xa, Mùi cũng gọi đến; nhưng muốn làm được lòng cả mọi người, nàng vẫn không nhìn bác Lịch, đưa mắt và mỉm cười với tất cả mọi người.
"Ai thì tôi cũng muốn để mở hàng nhưng không biết chọn ai, vậy người nào đến trước nhất thì mở hàng cho tôi".
Bác Nhiêu Lịch lại chống mạnh vào cái đòn gánh hơn trước; bác cũng đưa mắt nhìn tất cả mọi người nhưng để lườm họ và tỏ cái đắc thắng của mình. Mùi giơ tay xê dịch quả cân; tuy chưa quen nhìn gạo mà biết được đúng số cân nhưng nàng cũng đoán hai bị gạo của bác Lịch độ bốn mươi cân. Nàng xê quả cân đến năm mươi vẫn thấy cán cân còn bổng lên. Nàng vừa xê quả cân vừa lẩm bẩm:
"Bác Lịch còn khoẻ nhỉ, gánh nổi hơn năm mươi cân tây gạo".
Mùi xê quả cân đến nấc năm mươi lăm vẫn thấy cán cân bổng.
"Lạ nhỉ, hay là cân hỏng?"
Nàng ngửng lên nhìn bác Lịch. Bác Lịch nói:
"Thế nào ấy chứ chỗ gạo của cháu chỉ độ bốn mươi cân thôi".
Bỗng Mùi bật lên cười:
"Giời đất ơi! Thảo vào mà gần sáu mươi cân. Tôi có mua đòn gánh và người bác đâu".
Lúc đó bác Lịch mới sực nghĩ đến là mình đương đứng tựa cả người trên cái đòn gánh mà đầu đòn gánh lại chống lên mặt cân.
"Ồ, thế mà cháu không biết".
Mọi người đều nhao nhao lên, cười nói một lúc. Có tiếng người bảo là bác Lịch xấu tính, nhân lúc cô Mùi mới đi cân lần đầu chưa thạo nên định mưu đánh lừa. Bác Lịch giơ đòn gánh lên, đưa mắt tìm xem người nào nói thế; nếu bác biết chắc là ai thì bác sẽ đập một cái mạnh vào đầu cho bõ tức, nhưng không chắc hẳn là ai nên bác đành hạ đòn gánh xuống. Mùi bật cười:
"Bác định sinh sự đánh nhau lúc tôi đi khai cân?"
"Nhưng mà cháu tức lộn ruột. Nó lại dám bảo là cháu dám đánh lừa cô. Thế còn giời đất nào nữa không. Thế cô, cô có bảo là cháu định đánh lừa cô không?"
"Thì chính bác đã nói với tôi là chỉ độ bốn mươi cân thôi".
"Đấy nhé cô làm chứng nhé... Cha đời vạn mớ đứa nào vu oan cho bà, nó chết hết đời cha đời ông nhà nó, cả họ xa gần nhà nó, chết băm chết bầm, chết đâm chết chém, chết ..."
Không đánh được, bác chửi vì bác nghĩ chửi thì chắc chắn lọt vào tai người nói. Mùi lại can:
"Không đánh nhau thì bác lại xoay ra chửi nhau thì cũng thế. Thôi bốn mươi tư cân, vào đổ gạo đi".
Hết bác Lịch rồi lại đến hai người khác cãi nhau; tuy là một người đàn ông và một người đàn bà nhưng cả hai đều khoẻ ngang nhau và cùng đặt được thúng gạo vào cân đều nhau, nên không ai chịu nhường ai, miệng thì nói tay thì ấn thúng gạo, cứ giằng co như thế một lúc lâu. Mùi mỉm cười vì họ tranh nhau để cân sớm một tí mà lại thành chậm gấp mấy không tranh nhau. Nhưng Mùi cũng không khỏi cắn chặt hàm răng, cứng cả gân người như lấy hết sức hộ người đàn bà khi thấy người đàn bà đã đẩy được thúng gạo của người đàn ông ra khỏi mặt cân. Nàng cũng muốn cho người đàn bà thắng và thấy vui thích khi người đàn bà đẩy được thúng gạo của người đàn ông xuống đất và phủi tay, sửa lại khăn, mỉm cười với nàng. Cân xong, Mùi lại thấy người đàn bà khác đặt được thúng gạo của mình lên cân trước người đàn ông. Người đàn ông có vẻ tức lắm, nhấc thúng gạo của mình đặt lên trên thúng gạo của người kia lấy cớ là đã lỡ lượt trước thì lượt này phải được cân. Lý người đàn bà cũng cứng: ai đặt được gạo lên cân là được cân trước. Rồi hai người cãi nhau một hồi, không ai chịu thua ai. Sau mọi người chung quanh đều nói người đàn ông trái. Mùi cân xong cho người đàn bà, lại đợi xem lần nầy người đàn ông có cho được gạo mình lên cân không hay lại bị người khác tranh mất.
Bây giờ Mùi mới biết là họ cần tranh nhau: giá nàng có gạo đem cân nàng cũng phải tranh, không phải vì sớm được một lúc nhưng bị như người đàn ông kia thì tức chết.
Thế là Mùi bận rối rít; xê quả cân, tính giá tiền, bốc gạo xem, đếm tiền trả họ và bận nhất là hồi hộp xem họ tranh nhau, xem họ cãi nhau đến vui. Được cái hôm nay giá gạo số chẵn nên nàng làm tính nhân rất nhanh, không sợ lầm. Bà Ký Ân lúc đó cũng bê tráp tiền ra cân, thấy cửa hàng Mùi đông và cân mình vắng không có một ai, bà rẽ đến chỗ Mùi, cất tiếng cười to và nói:
"Bà chủ hiệu thuốc Thọ Đường ơi, bà tranh hết cả khách hàng của con này rồi".
Mùi ngửng lên nhìn bà Ký Ân và thấy mặt bà ta có vẻ vui một cách thực tình. Mùi ngửng lên cười lại với bà Ký; hôm nay nàng thấy ai cũng tử tế với mình và cả bà Ký Ân và sáu cô con gái của bà nàng cũng thấy không có gì đáng ghét nữa:
"Bà cứ nói thế. Hôm nay khai cân ai cũng muốn đến mở cửa hàng cho cháu".
Nhưng Mùi khó chịu là vì cửa hàng của bà Ký vắng khách nên bà nói chuyện luôn mồm. Mùi đã bận tíu tít lại phải chú ý lắng tai nghe và thỉnh thoảng tuy không nghe rõ bà nói khôi hài về chuyện gì, nàng cũng phải cố gắng cười gượng gạo. Chốc chốc nàng lại phải chen vào những tiếng nói hưởng ứng bà Ký mà không công phạt:
"Thế à bà?"
"Thế cơ à?"
"À ra thế".
"À thế đấy".
Đến chín giờ sáng thì người đến cân gạo đã vãn. Mùi lúc đó mới thấy mỏi rừ cả hai vai và cánh tay phải. Hai đùi nàng gần như bị tê liệt. Nàng đứng lên vươn vai, thấy hơi chóng mặt nặng đầu và cho là tại vì xem họ tranh nhau, cãi nhau nhiều quá. Nàng định ngày mai cũng phải bắt chước mấy bà kia, nghĩa là cứ thấy gạo ở trên cân là cân, đừng để ý đến mọi người. Họ muốn cãi nhau, đánh nhau, đâm chém nhau để được gạo lên cân là việc của họ, nàng mệt một phần vì hồi hộp xem họ tranh nhau và cứ lấy gân, cứng người như là chính nàng phải tranh với họ.
Quay nhìn vào trong nhà, nàng thấy hai đống gạo trắng và đỏ đã lên đến nửa cột nhà và chân hai đống gạo đã gần chạm vào nhau. Mai có lẽ phải vây cót. Mệt nhưng Mùi cũng phải vào trong nhà, giữ miệng bao để Nhỡ đổ gạo. Nàng thấy Nhỡ chăm làm, săn sóc công việc từng ly từng tý và lúc nào cũng vui tươi, làm vừa lòng cả mọi người. Nhỡ nói với Mùi giọng vui vẻ:
"Chưa nhà nào một hôm mà cân được nhiều thế này cô ạ".
Mùi nói:
"Cân càng nhiều càng mệt vào thân. Này anh Nhỡ, giữ miệng bao, tôi mỏi tay lắm rồi".
Suốt mấy giờ đồng hồ giơ tay cân nay lại giơ tay giữ bao, làm những công việc nhẹ ấy, Mùi thấy mỏi cả hai cánh tay nên nàng định tâm xúc gạo, cử động một cách khác và làm việc nặng nhọc hơn có lẽ không mệt nữa. Thế là nàng ra xúc gạo; một lúc lâu nàng phải cởi cả áo cánh bông và mồ hôi ra lấm tấm ở trán. Công việc ấy tuy mệt nhưng nàng thấy trong người nhẹ nhàng dễ chịu hơn và hết nặng đầu. Nàng lại ra sức xúc gạo không ngừng tay, làm cho Nhỡ cũng lấy làm lạ về sức khoẻ của nàng. Bà Huyện Thanh và Đồ Minh cũng chạy sang cửa hàng, Mùi làm như chưa trông thấy hai bà ấy và cứ cặm cụi xúc gạo.
Bà Huyện nói:
"Kìa anh Nhỡ, sao anh không xúc gạo lại để cô ấy xúc".
"Bẩm bà lớn, cô con đòi xúc, nói cầm miệng bao mỏi tay".
Mùi dướn thẳng người lên, lấy tay gạt mồ hôi trán. Bà Đồ Minh nói:
"Hôm nay cô cân dễ đến gần trăm bạc".
"Vâng thưa bà, cháu chưa tính nhưng cũng đến gần chín mươi đồng rồi".
Bà Huyện chợt nghĩ đến chỗ Mùi có số tiền lớn thế, ít ra vốn nàng cũng đến trăm rưỡi. Hiệu Khách có ứng tiền, nhưng nàng có quen gì hiệu Khách lắm đâu và mới đi cân cũng chẳng bao giờ hiệu ứng một số tiền lớn thế. Bà Mùi hỏi:
"Hiệu ứng tiền trước cho cô?"
Mùi đáp ngay:
"Thưa bà không, vốn của cháu".
"Thế à?" Con gái tôi giầu nhỉ.
Hai bà đưa mắt nhìn nhau. Mùi thấy nóng ở hai tai nhưng không phải vì xúc gạo:
"Mấy năm nay, nhờ trời làm ăn cũng khá nên cháu mới dám nghĩ đến cân gạo. Hiệu thì cháu không quen mà đi vay thì sợ thua lỗ đâm nợ".
Bà Huyện mỉm cười nhìn Mùi:
"Con gái cụ Lang Hàn, ở khắp đây đã biết tiếng đảm đang, ai không biết; nhưng tôi không ngờ đâu lại có vốn để dành nhiều thế. Hay là đã đào được con cóc vàng nào. Thực tình, vốn của cô à, cứ nói thẳng cho bà con mừng cho".
Bà Huyện thấy Mùi có nhan sắc, lại đảm đang, bây giờ lại có vốn riêng nhiều thế nên bà định làm mối cho Mùi lấy Luyện, một người cháu họ của bà mới vào học trường Thuốc.
"Vâng thưa bà, vốn cháu để dành trong ba năm nay".
Nói thế nhưng nàng thấy bà Huyện như không tin. Cũng may bà chưa biết bà Cai về xóm. Vả lại dẫu họ đoán bà Cai có tiền đưa nàng thì cũng là một việc không có gì lạ, còn việc ông Cai ở Hải Phòng xa xôi mấy ai đã chú ý đến. Ông Năm Bụng người ở đâu đến, đời ông có sự gì uẩn khúc, nào có ai biết mảy may. Bà Ký Ân nữa, tại sao bà ấy lại có nhiều tiền, cũng không ai biết. Siêu thì đã cẩn thận tránh sự giao du, như thế càng khó lòng có người biết hơn. Nhưng sao bà ấy lại nói bóng nói gió đến con cóc vàng.
Bà Huyện lại nhìn bà Đồ Minh nói:
"Con gái tôi thì giỏi thực".
Lời bà Huyện, Mùi thấy nhiễm đầy mỉa mai. Nàng đã thấy ngứa ran ở gáy và giá nói ra được thì nàng đã nói ngay cho bà Huyện biết việc đó là việc của nàng không việc gì đến bà ấy mà phải hỏi căn hỏi vặn. Nhưng bà Huyện, Mùi phải kính nể nên không dám nói gì. Bà Huyện bỗng hỏi Mùi:
"Năm nay cô bao nhiêu tuổi nhỉ?"
Mùi nhìn bà Huyện trong người nhẹ hẳn, nhưng nàng không đáp lời. Nàng đoán biết bà Huyện định làm mối cho mình lấy người nào và hỏi căn vặn về số vốn của mình là vì lẽ ấy. Nàng lại nhớ đến câu Siêu nói lúc sáng: "thần hồn nát thần tính"; chứ ai hơi đâu bới chuyện riêng nhà mình ra. Có bà Ký Ân hay kiếm chuyện thì lúc nãy sang xem gạo nàng cân, bà ấy không đả động gì đến tiền vốn cân của nàng và cũng không lấy làm lạ rằng nàng có nhiều vốn thế. Mùi hú vía vì lúc nãy nếu không giữ được miệng nói xẵng lại bà Huyện thì một là mình là con gái vô lễ, đáo để - cả đến bà Huyện mà cũng không kiêng nể - hai là tự nhiên tỏ ra có sự gì khuất tất trong số vốn của mình. Mùi cúi mặt, ấn đầu guốc vào cột nhà. Bà Huyện thấy Mùi e thẹn, cho là Mùi tinh ý đã hiểu được ý bà:
"Chắc cô độ mười bảy tuổi chứ gì. Con gái tôi, thì phải lấy chồng Cao đẳng mới xứng. Nào, có muốn lấy chồng Cao đẳng, học trường Thuốc, trường Luật thì nói ra. Tôi có vô số".
Rồi bà quay lại bảo bà Đồ:
"Con gái nuôi tôi đấy, bà ạ. Con gái nuôi mà bây giờ quên cả mẹ. Lúc bà Lang còn sống sang chơi cứ bảo cho cô ấy cho tôi làm con nuôi".
Mùi thì không biết mẹ nàng có nói thế không, còn nàng thì hoàn toàn nàng không biết có việc đó. Thảo nào mà nàng cứ thấy bà ấy gọi mình là "con gái tôi", ba tiếng mà lúc nãy nàng chưa hiểu nghĩa nên thấy đầy mỉa mai.
"Thế nào, trường Thuốc nhé. Cô thì chắc thích lấy chồng trường Thuốc vì là con gái ông Lang mà".
Mùi ngửng lên:
"Thưa bà, học trò Cao đẳng thì bao giờ thèm lấy đến những người như cháu. Với lại, cháu phải ở nhà để trông nom thầy cháu và em cháu đi học".
Nói vậy nhưng trong lòng Mùi thấy vui sướng vì đã có người - mà người ấy lại là một bà Huyện - nói đến việc nàng xứng đáng lấy chồng Cao đẳng. Mùi lại chợt nghĩ đến ông Ninh Ký và mỉm cười.
Bà Huyện rủ bà Đồ đi về. Ra đến ngoài, bà còn quay lại:
"Thôi, nhất định đi. Học trò trường Thuốc nhé".
Bà Huyện và bà Đồ đi khỏi, Mùi bất giác mỉm cười. Nhỡ cũng mỉm cười nhìn Mùi một cái rồi lại cúi mặt cười tủm tỉm một mình.
"Anh Nhỡ cười gì đấy".
"Thưa cô không".
"Rõ ràng anh cười mà lại bảo không".
Mới đầu thấy Mùi mỉm cười thì Nhỡ cũng tự nhiên mỉm cười theo, sau lại nghĩ đến chỗ Mùi mỉm cười vì sắp được lấy chồng Cao đẳng chắc là thích lắm nên chàng lại cúi mặt mỉm cười thêm. Nhưng Nhỡ không đáp lại Mùi, đứng lên mở miệng bao đợi Mùi xúc gạo. Mùi cũng đoán là Nhỡ cười nhạo nàng nhưng không hỏi gặng, toan cúi người bắt đầu xúc; bỗng nàng ngừng lại vì thấy Nhỡ mở miệng bao ung dung đứng đợi làm như chính nàng chỉ thuê Nhờ cầm miệng bao còn xúc gạo nặng nhọc là việc của nàng.
Đóng bao xong hết chỗ gạo thì u già cũng vừa bưng cơm ra, Nhỡ chạy về nhà ăn cơm. Vì Mùi thuê làm không cơm và sáng sớm đã phải ra cửa hàng nên Nhỡ phải dặn mẹ để phần cơm.
Bác Lê gái lấy cơm để phần đem ra cho Nhỡ ăn:
"Bây giờ không phải đi kéo xe cũng đỡ vất vả".
Nhỡ thì cho là làm gạo vất vả hơn. Chốc nữa muốn kiếm thêm, chàng lại định vác gạo thêm nữa, mà lần đầu vác chắc là mỏi người lắm. Nhưng Nhỡ cũng mỉm cười với mẹ nói:
"Vâng, bu ạ. Nhất là hôm nào mưa bão lại được nghỉ mà vẫn có tiền. Nhưng mà cân gạo chỉ có mùa, hết mùa gạo lại phải đi kéo xe".
Hôm được Mùi thuê làm công, Nhỡ thích lắm. Mùi đã hoàn toàn là một cô chủ và chàng từ nay được dịp ở luôn cạnh nàng, hầu hạ nàng và cố sức làm nàng vui lòng. "Hầu hạ Mùi", Nhỡ nghĩ được hầu hạ Mùi cũng thích như là được yêu Mùi. Nhỡ nhớ lại năm ngoái nước to, kéo xe đưa Mùi sang bên làng Tiên để mời ông Lang Nghệ vì ông Lang Hàn bị cơn suyễn nguy hiểm. Cái cầu tre vào nhà ông Lang Nghệ bị trôi mà nước thì sâu và chảy xiết. Nhưng không lẽ trở về. Chỉ còn một cách là cõng Mùi qua. Mùi thì buồn vì cha ốm và lo mời cho được ông Lang nên cứ bá lấy cổ Nhỡ nhắm mắt để Nhỡ cõng sang; không nghĩ gì đến việc ấy. Nhỡ thì khác nào như anh thuyền chài trong truyện cổ tích được ôm lấy cô công chúa. Và đến lúc về, lại được cõng Mùi lần nữa. Nhỡ tưởng mình được lên tiên khi hai tay Mùi ôm vòng lấy cổ, đè nặng lên vai và hai cái đùi chắc nịch, rất êm sau làn lĩnh trơn đè nặng lên hai bàn tay; hai bắp mà chàng thấy rất cao quý ấy ngờ đâu có ngày chàng lại được đặt tay vào... và thích nhất là chàng nhận thấy hơi nóng của bụng Mùi truyền sang làm ấm cả lưng chàng. Một làn gió tình cờ đã đưa nhẹ vào mũi chàng mùi thơm của tóc Mùi, một mùi thơm lạ lắm. Hương thơm của tóc Mùi chỉ thoảng qua trong một dây như thấm đọng vào tâm hồn chàng không bao giờ phai. Về sau mỗi lần có dịp, Nhỡ lại cố ý để mặt mình sát gần tóc Mùi; nếu may hôm nào tóc Mùi ở đầu gió, Nhỡ lại được ngửi mùi tóc ấy và sung sướng tưởng như còn thấy Mùi đương ôm lấy vai và đùi nàng đè nặng trên hai bàn tay. Nhỡ vẫn ao ước lại có dịp hầu hạ Mùi như thế nhưng khó lòng lại xảy ra sự tình cờ thứ hai nữa. Được Mùi ngỏ lời thuê làm công, Nhỡ không lưu tâm gì đến số tiền công cả nhưng chàng không khỏi lấy làm lạ là lúc thường Mùi rất rộng rãi nhưng lúc thuê lại tính toán từng ly từng tý và chỉ trả chàng một số lương vừa đúng, có phần hơi ít. Nhưng Nhỡ cũng nhận, không suy bì và cũng thấy việc mình nhận rẻ làm Mùi vui lòng.
Ăn xong, Nhỡ lại vội vàng sang bên cửa hàng. Phu gạo chưa đến. Bỗng Nhỡ vội chạy ra cửa. Mùi đương ngồi uống nước giật mình hỏi:
"Việc gì thế anh Nhỡ".
"Cháu ấy à? Cháu đi ra thăm cô hàng kẹo vừng. Ăn xong không có gì tráng miệng, nhạt mồm quá".
Những việc tằng tịu với các cô gái quanh vùng, Nhỡ không thấy ngượng gì cả như là về tình thầm yêu Mùi và đi đâu cũng nói đùa tung ra như là một việc rất thường. Chàng nói thẳng cả ra với Mùi; làm thế Nhỡ có ý bảo chàng chỉ nghĩ đến dan díu với những người vào hạng của chàng thôi nhưng cũng có ngầm cái ý khoe với Mùi rằng mình có số đào hoa, nhiều con gái mê. Về tiếng xưng hô, mấy năm trước chàng vẫn xưng tôi với Mùi vì lúc đó Mùi còn trẻ quá. Gần đây chàng đổi ra xưng cháu vì như thế đặt ngay Mùi lên bực trên và có vẻ thân mật hơn.
Nhỡ đi thẳng ra gốc cây đa chỗ Nguyệt ngồi bán kẹo. Nguyệt thấy Nhỡ đi lại vội gắt:
"Này lại sắp ra quấy rầy người ta rồi phải không?"
Nhỡ nhận rõ Nguyệt tuy nét mặt cau có nhưng vẫn ngầm có vẻ vui được gặp chàng.
"Người ta đến người ta ăn kẹo hộ, thích chết người lại còn vờ vĩnh".
Nhỡ ngồi xuống mở cái quả định cho tay vào lấy một chiếc bỏng ngô thì đã bị Nguyệt đập mạnh một cái vào tay và hất ra. Nhỡ kêu đau và cười:
"Sao hôm nay đằng ấy ác thế?"
"Đằng ấy đằng này gì? Có đi ngay cho người ta bán hàng không. Đã ế hàng lại còn đến ám. Có muốn một đòn gánh vào lưng thì bảo".
Thấy nói đến đòn gánh vào lưng, Nhỡ chợt nghĩ Nguyệt chưa biết mình có công việc mới:
"À này chị Nguyệt ạ, bây giờ tôi không đi kéo xe nữa. Cô Mùi thuê tôi trông nom cân gạo, nhàn lắm và lại có nhiều tiền, chị tha hồ bán kẹo".
Nguyệt nói:
"Nhàn. Thảo nào mà ra đây ngồi tán hão. Có cút ngay đi không".
Nhỡ nghiêng đầu, chống cằm trong lòng bàn tay, rồi ngồi yên nhìn Nguyệt, ngắm nghía từ cái lông mi, lông mày rồi lẩm bẩm đến xem có bao nhiêu nốt tàn nhang trên hai gò má: một, hai, ba... Nguyệt thấy Nhỡ ngắm nét mặt mình lại càng cau nét mặt lại. Ngắm nghía một hồi lâu rồi Nhỡ nói:
"Hừ, người thế mà cũng có duyên".
Nguyệt giơ đòn gánh đập vào lưng Nhỡ một cái:
"Này, có đi không? Người thế là người thế nào?"
Nhỡ vội né người ra một bên cho đòn nhẹ hơn:
"Thôi, không đùa nữa. Kẹo vừng chị bán một xu mấy chiếc".
Nguyệt đặt đòn gánh xuống, hơi ngạc nhiên thấy Nhỡ hỏi giá kẹo như có ý mua thật.
"Một xu năm. Hôm nay kẹo ngon lắm".
"Cho tôi mua hai xu. Hai xu thì bao nhiêu nhỉ?"
"Hai xu thì mười chiếc. Có thế mà cũng không tính ra".
Nhỡ lẩm bẩm:
"Hai xu mười chiếc. Nhưng chỗ tôi với chị, chị cho thêm hai chiếc là mười hai chiếc tất cả. Có được không?"
"Ừ thì cho nhà anh thêm hai chiếc".
"Thế à, chị. Chị cho tôi hai chiếc à".
Nhỡ vừa nói vừa giơ tay bốc hai chiếc kẹo bỏ tọt vào mồm rồi đứng ngay lên chạy đi. Nguyệt giơ đòn gánh định đập nhưng không kịp, nàng vội quăng đòn gánh theo Nhỡ:
"Cái nhà anh phải gió".
"Thì chính chị bảo cho tôi hai chiếc mà".
Hai người cùng bật cười. Bỗng Nhỡ quay mặt nhìn bác Xuân gái ngồi bán kẹo ở bờ đường bên kia và đương cười, ngừng hẳn lại. Không biết tại sao Nhỡ lại có ác cảm thậm tệ với bác Xuân gái. Nguyệt cau có nét mặt mỗi khi chàng đến nhưng chàng biết Nguyệt thích được chàng trêu, còn bác Xuân gái tuy nét mặt vẫn thản nhiên nhưng chàng thấy rõ bác ghét nói đùa lắm. Vì thế chàng không nói đùa với bác ta nữa và cũng ghét cả nói chuyện với bác ta. Như lúc này, trông nét mặt bác Xuân tràn đầy khó chịu phải trông cái cảnh chàng và Nguyệt đùa rỡn với nhau. Chắc bác ta cho là chướng mắt lắm.
Thấy Nhỡ về, Mùi hỏi:
"Kẹo đâu?"
"Thưa cô, cháu ăn hết rồi".
"Anh mua mấy xu mà ăn hết chóng thế".
"Thưa cô không phải mua. Cháu cướp giật được có hai cái".
"Tiếc nhỉ. Tôi ở nhà cứ đợi anh về để ăn kẹo. Anh đi mau quá tôi không kịp đưa tiền".
"Thế à, cô".
Thế rồi Nhỡ lại chạy vụt ra chợ. Chàng rút sẵn ra ba xu và mới đến gần chỗ Nguyệt ngồi chàng đã chìa sẵn bàn tay để Nguyệt trông thấy rõ, phòng xa tránh một cái đòn gánh báo thù về hai chiếc kẹo lúc nãy.
"Chị bán cho tôi ba xu".
Vừa nói, Nhỡ vừa bỏ ba đồng xu rơi xuống mẹt. Nguyệt ngạc nhiên hết sức vì lần đầu tiên Nhỡ bỏ tiền ra mua kẹo. Sợ Nhỡ mới nghĩ được mưu mẹo gì để đánh lừa nên Nguyệt vội bỏ ngay tiền vào túi áo. Nàng đếm kẹo, gói lại đưa cho Nhỡ và khi Nhỡ đi xa rồi Nguyệt mới dám chắc là sáng nay đã thật bán được kẹo. Nguyệt đưa mắt nhìn theo Nhỡ, mỉm cười. Lúc nãy đáng lẽ gói mười tám chiếc nàng đã bớt đi hai chiếc Nhỡ ăn lừa nàng và lấy làm lạ rằng Nhỡ không nghĩ đến đếm lại kẹo. Nguyệt chắc khi Nhỡ về tới nhà sẽ đếm lại, biết thiếu tất phải quay trở lại và nàng ngồi hồi hộp đợi. Tuy là tốn kẹo nhưng Nguyệt vẫn mong Nhỡ đến trêu đùa mình, nàng thích nhất là những lúc đánh được Nhỡ một hai cái đòn gánh. Nàng thấy càng đánh mạnh càng thích tay nhưng nàng vẫn giữ đà không dám đánh mạnh quá sợ Nhỡ thấy đau đến khó chịu tất sẽ không dám trêu nàng nữa. Nhưng lần này Nguyệt lại ngạc nhiên hơn nữa là đợi mãi không thấy Nhỡ quay trở lại.
Nhỡ giơ tay đưa Mùi gói kẹo. Mùi mở tráp lấy tiền hỏi:
"Chỗ này bao nhiêu".
Nhỡ vội vàng đáp:
"Thưa cô cháu không biết".
"Lại kẹo cướp giật phải không? Nhiều thế này người ta lại không đánh cho vỡ đầu ra à?"
Nhỡ cười:
"Thưa cô, họ chỉ đánh gẫy lưng thôi".
Mùi đếm kẹo rồi nói:
"Chỗ này dễ đến ba xu, có mười sáu chiếc tất cả".
Nhỡ nói:
"Mười tám chiếc chứ cô".
"Không chỉ mười sáu chiếc".
Nhỡ buột miệng kêu:
"Thôi, chết tôi rồi! Con ranh nó trừ đi hai chiếc ăn cướp lúc nãy".
Mùi bật lên cười:
"Anh Nhỡ nói dối nhớ. Anh đã mua ba xu mười tám chiếc".
Nhỡ vôi đưa tay lên miệng nhưng chậm quá rồi. Chàng thấy nóng bừng ở hai tai; chàng ngượng không phải vì để lộ ra cái khoe mẽ có kẹo không phải mất tiền mua; nhưng chỉ vì để lộ cho Mùi biết chàng đã bỏ tiền ra mua kẹo để được cái thích biếu Mùi, mà lại giấu Mùi. Mùi thì cho là Nhỡ khó chịu vì nàng đã biết Nhỡ khoe mẽ. Nàng đưa cho Nhỡ ba xu. Nhỡ phải ngoan ngoãn cầm lấy sợ từ chối thì tỏ rõ quá cái ý định biếu nàng".
Mùi đương ăn kẹo bỗng bảo Nhỡ:
"Bắt đầu từ ngày mai, sáng nào anh cũng vào trong nhà đón tôi ra. Anh nhớ đem gậy đi theo".
"Để làm gì thế cô?"
"Để nhỡ có kẻ cướp giật. Ăn cướp kẹo như anh thì không sao nhưng nó mà cướp giật mất cái tráp bạc này thì nguy to".
Nhỡ trong người bàng hoàng; chàng không nghĩ đến cái thú được mỗi buổi sáng cùng đi với Mùi trên đường tối, chàng thích chỉ vì có thể xẩy ra việc cướp giật để chàng có dịp cứu Mùi và tiền của Mùi. Chàng quên cả trả lời. Mùi vội nói:
"Anh sợ kẻ cướp à?"
Nhỡ sực nhớ là chưa trả lời Mùi, vội đáp:
"Thưa cô, vâng..."
"Anh mà cũng sợ kẻ cướp à?"
"Thưa cô, không".
Mùi đưa mắt nhìn Nhỡ:
"Anh còn tức cô hàng kẹo có phải không?"
Nàng nói chạnh ra thế để giảng giải những câu đáp đãng trí của Nhỡ. Nàng mang máng thấy Nhỡ cũng đương nghĩ ngợi về việc vào đón nàng. Chính Mùi cũng đã hơi ngượng khi nói bảo Nhỡ vào đón. Nhỡ bằng trạc tuổi nàng và nhất là Nhỡ lại đẹp trai nên việc mỗi buổi sáng đi với Nhỡ trên đường tối, vắng người, Mùi cũng thấy là bất tiện, đúng như lời Siêu nói. Nhưng nàng cũng mạnh bạo nhìn Nhỡ nói như là sai Nhỡ một việc thường:
"Thế mai anh vào đón tôi. Anh khiêng cân xong vào đón thì vừa".
Chương XVII
Về thăm làng
Mọi người đã mỏi chân thì vừa tới chợ Keo và may quá lại vừa đúng ngày phiên chợ. Đi từ sáng sớm chưa ăn gì nên người nào cũng nghĩ đến ăn quà. Siêu nói với Mùi:
"Ngộ hôm nay ở đây không có phiên chợ thì cô làm thế nào".
Mùi đáp:
"Ngộ thế nào được. Ở khắp vùng này bất cứ một cái chợ nhỏ nào có phiên hay không em đều biết cả. Và chợ nào có quà gì ngon em cũng biết, biết rõ hơn cả anh biết các ngôi sao trên giời".
Mạch nói:
"Chợ này ngon nhất bánh gio".
Mùi nhìn Mạch và thấy không phải Mạch nói đùa.
"Anh cũng đã loăng quăng đến đây rồi cơ à?"
"Vâng em đến đây hai lần".
Triết nói:
"Chúng em đến bắt bướm".
"Bắt bướm mà cũng phải đi xa thế này cơ à?"
"Vâng vì chúng em muốn bắt cả bánh gio, bún riêu".
Siêu rẽ vào hàng bún riêu ở dưới gốc cây đa vì ở đấy có bún riêu mà chàng thích và có chỗ ngồi dễ chịu nhất. Chàng lật bát nước chè, bẻ quả chuối rồi ngồi ruỗi thẳng chân, dựa đầu vào cột vừa ăn vừa nhìn ngang ngửa. Tuy mọi người đều chú ý nhìn, nhưng ở cái chợ nhỏ hẻo lánh này, Siêu không thấy khó chịu gì cả; những người nhà quê ngồi rải rác dưới mấy cái lều tranh nát, Siêu thấy họ không có liên can gì đến đời chàng cả và vì thế chàng không ngại khi họ nhìn mình. Chàng định tâm lúc nào rỗi đi lang thang về các vùng quê hẻo lánh chơi và ăn quà.
"Cô Mùi này..."
Chàng định hỏi về các chợ và phiên chợ ở quanh vùng nhưng không thấy Mùi đâu. Đưa mắt tìm chàng thấy Mùi đương đứng nói chuyện với mấy người đàn bà ở cuối chợ và cười đùa luôn miệng. Một lúc Mùi đã lại sang ngồi ở cửa hàng của một bà hàng xén và hai người vui vẻ nói chuyện cười ran như là đã mấy năm không được gặp mặt nhau. Thoáng một cái, Siêu lại thấy Mùi ngồi trước một người đàn ông chàng không hiểu bán gì và cho tay vào quờ mãi trong một cái bị. Siêu nghĩ có lẽ Mùi định đi thăm khắp hết mọi người trong chợ. Chàng cất tiếng gọi to:
"Cô Mùi ơi, cô về ăn quà, ngồi nghỉ cho đỡ mỏi chân, còn đi chứ?"
Siêu lấy làm lạ nghe tiếng mình nói; ở một đám đông người chàng cất tiếng thật to nói với Mùi mà thấy tự nhiên như không. Chàng thấy Mùi ngửng lên nhìn về phía chàng mỉm cười và cũng đáp thật to tiếng:
"Anh đợi em một lát nhé!"
Rồi nàng lại cúi xuống, lấy tay vạch miệng bị và cúi sát đầu vào miệng nhìn vào trong tìm tòi. Siêu thấy Mùi rất hợp với những người sống quanh nàng. Sự gặp gỡ giao du với mọi người không có gì đáng vui vẻ cũng hình như làm nàng vui thích lắm. Mùi nhìn vào trong bị rồi lại ngửng lên giơ tay và xoè bàn tay như để đo chiều cao; thấy người đàn ông lắc đầu Mùi lại giơ bàn tay lên cao thêm một chút nữa. Siêu đoán là Mùi hỏi thăm về một đứa con nào đó của người đàn ông và nếu đứa con đã cao hơn nhiều thế chắc là Mùi lâu chưa gặp người đó. Siêu mỉm cười vì lâu không gặp nàng mà Mùi cũng nhớ hỏi đến đứa con họ và tài nhất là nàng lại nghĩ đến đứa con họ mà ân cần hỏi. Chàng thì chàng đành chịu. Ngay đến ông Lý Đàn người chú họ của Mùi ở nhờ nhà cũ của chàng ở làng Phướn mà chàng cũng không biết là có mấy đứa con. Siêu lại mỉm cười nữa vì tự hỏi mình đoán thế có chắc đúng không; hỏi đến con người ta việc gì nàng phải cúi sát mũi vào miệng cái bị. Chàng thấy từ ngày về Xóm Cầu Mới chàng đã thấy rất dễ chịu, một phần vì chàng không phải giao thiệp với ai cả nhưng một phần lớn vì chàng thấy tất cả mọi người ở vùng này chỉ là những người quen của Mùi thôi, hay có việc gì cũng hoàn toàn là việc của Mùi, đã có nàng đối phó và nàng lại lấy thế làm thích, chàng không phải quan tâm gì cả. Cho đến mấy người nhà quê ngồi ở một cái chỗ hẻo lánh này mà Mùi cũng chạy ngay đến tìm và nói chuyện mừng rỡ quên cả đói cả mỏi chân.
Mùi trở về hàng và ngồi trên cái rễ đa mặt đẽo phẳng để làm chỗ ngồi. Không thấy Mạch và Triết đâu, nàng nói:
"Hai ông tướng chắc lại đi lùng bánh gio. Còn anh, anh ăn gì?"
Siêu hỏi lại:
"Thế còn cô, hình như cô không thiết ăn bằng nói chuyện".
Mùi đáp:
"Lâu lắm em chưa đến chợ này. Em nói chuyện đâu, em đòi nợ".
"Sao lắm người nợ cô thế?"
"Nợ không là bao, có mấy hào nhưng nợ càng ít càng cần phải có dịp là đòi ngay. Để lâu thế nào cũng mất. Nhưng chả ai giả đồng xu nào cả. Đến bực mình".
Siêu cười:
"Cô bực mình mà cô lại cười đùa với họ vui vẻ như thế?"
"Em đùa đâu, em mắng họ đấy chứ".
"Cô mắng thế thì đến tôi, tôi cũng thích cô mắng luôn. À này, cô Mùi..."
Chàng đưa mắt nhìn bà cụ bán hàng. Bà cụ bán hàng chàng thấy chẳng có liên can gì đến việc giữa Mùi và chàng:
"Tôi nghĩ ra được một cách. Muốn tránh những việc xẩy ra như hôm cô bắt đầu đi cân thì từ rầy tôi có gì không phải cô cứ mắng tôi như cô vừa mắng họ ban nãy nhé. Thế tốt cho cô và cho tôi hơn là cô hờn dỗi".
Mùi bật cười:
"Anh thật lắm cách hơn cả ông giáo Đông. Lúc hờn thì còn mắng thế nào được. Vả lại hôm ấy em có lỗi, người có lỗi đâu dám mắng người không có lỗi".
"Nghĩa là chung quy chỉ còn một cách hờn. Hôm nào cô lại hờn lần nữa".
"Vâng, em cũng định thế, nhưng phải có dịp mới được".
Hai người cùng mỉm cười nhưng người nọ tưởng người kia chỉ mỉm cười vì câu nói đùa. Siêu nói sang chuyện khác:
"À lúc nãy, cô nhìn vào bị người đàn ông ấy làm gì thế. Cô tìm đứa con bác ta?"
Mùi hơi ngạc nhiên vì chỗ sao Siêu ngồi ở chỗ xa thế, không tài nào nghe thấy tiếng nói chuyện mà lại biết được nàng hỏi về đứa con bác Na. Nàng mỉm cười tinh nghịch rồi hỏi Siêu như không hiểu:
"Đứa con nào?"
"Đứa con nó cao thế này, này".
Chàng giơ tay nhắc lại điệu bộ Mùi làm lúc nãy. Mùi nói:
"Bác ta không có con. Anh đoán sai cả".
"Thế à?"
Chàng định hỏi xem Mùi làm gì nhưng lại thôi. Chàng coi đó như một cái tính đố và phải cố dựa vào những điều biết sẵn mà tìm ra. Sợ Mùi nói, Siêu vội tiếp:
"Cô đừng nói. Thế nào tôi cũng nghĩ ra. Cô đòi nợ mà tôi tưởng cô nhớ họ đến thăm, cô mắng họ mà tôi tưởng cô vui mừng gặp họ, cái gì cũng ngược hẳn lại, vậy bây giờ cô nhìn vào bị rồi giơ tay đo... đo... như thế là cái gì nhỉ?"
Mùi mỉm cười:
"Sao anh lại hỏi em. Nhưng thôi anh nghĩ làm gì rức đầu. Anh không bao giờ tìm ra đâu. Ăn gì bây giờ, anh".
Rồi nàng lại nhìn Siêu, vì nàng vừa thấy mắt Siêu nhìn mình có vẻ khác. Mùi chỉ nhận thấy thế chứ không biết khác như thế nào và tại sao lại khác. Nàng thấy trong người bâng khuâng và lần đầu tiên nàng thấy ngượng với Siêu. Nàng quay mặt nhìn đi và nói luôn làm như không chú ý đến chỗ hai người vừa nhìn nhau một cách khác thường:
"Mời anh làm gì. Anh thì thức gì cũng thích ăn, mà hình như anh đã ăn đến bốn quả chuối rồi. Ngày sau làm nhà, phải giồng cho anh một vườn chuối, chuối tiêu, chuối ngự, ngon như chuối ngự ở Nam Định..."
Mùi nói luôn miệng, nhưng Siêu không để ý nghe nàng nói gì. Chàng thong thả nói:
"Ở đời có những cái vui con con thích hơn những cái vui nhớn nhiều".
Siêu vừa nhận thấy trong đời chàng, chàng sẽ không bao giờ quên cái lúc ngồi với Mùi ở quán hàng trong cái chợ hẻo lánh này. Bà cụ bán hàng có cái yếm đỏ thắm, cây đa với những cái lều chợ xơ xác, và tiếng ồn ào lẫn với mùi bèo, mùi mắm tôm, mùi bánh đa khoai nướng thoang thoảng trong gió và trong nắng với tiếng một con chim chích choè vừa hót đâu đây; tất cả những thứ đó và trong đó có hai con mắt đen, nét mặt hơi mệt nhưng rất tươi của Mùi, dáng người thanh thanh của nàng trong bộ áo nâu non in trên gốc đa, chàng thấy còn mãi trong trí nhớ của chàng không bao giờ phai lạt.
Ít lâu nữa Mùi sẽ đi lấy chồng, có con và chàng cũng lấy vợ, ai người nấy hai cuộc đời riêng biệt hẳn, Siêu cảm thấy trước cái buồn của lòng chàng một hôm nào, độ mười năm sau chàng lại sẽ đến cái chợ này một mình, để có lại được cái tâm hồn chàng hiện nay và để buồn rầu một cách êm ái nhớ lại một hôm đã xa xôi ở đúng chỗ này lòng chàng đã rung động vì yêu Mùi. Siêu mỉm cười vì nghĩ đến có lẽ hôm đó chàng cũng không thể nào không nhớ đến cái cảnh Mùi chúi mũi nhìn vào bị giơ tay đo đo và cái tính đố ấy lúc đó chắc chàng cũng chưa nghĩ ra.
Lần này là lần thứ hai, Siêu nhìn mặt Mùi ở giữa nơi toàn người lạ và cũng như lần đứng trên xe lửa, chàng thấy Mùi có vẻ là lạ khác mọi ngày và giữa đám người nhà quê cục mịch xấu xí, vẻ đẹp thanh nhã của Mùi lại càng lộ rõ hơn. Nhìn Mùi chàng tưởng tượng như những cô tiên trong truyện cổ tích giả vờ làm cô bán hàng nước để trêu đùa và an ủi những chàng thư sinh thi trượt như chàng.
Mùi không quay mặt lại nhưng biết là Siêu đương nhìn mình.
"Ở đời có những cái vui con con..."
Câu nói của Siêu nàng không biết rõ hẳn là ngầm chỉ việc gì nhưng nàng thấy rõ là không phải nói về việc ăn chuối. Mùi tự nhiên thấy sung sướng và mắt nàng luôn luôn chớp như là lúc đương được ai khen cần chớp mắt cho đỡ ngượng.
Triết và Mạch trở về hàng làm tan sự yên lặng giữa hai người. Mùi nhìn vào hai cái khăn tay buộc đầy bánh của Mạch và Triết.
"Giời đất ơi, sao mà nhiều thế kia. Ăn thế nào hết".
Triết nói:
"Ăn không hết thì đem về làng biếu. Em mua tất cả gần ba hào".
"Tiền đâu ra?"
"Thưa chị, tiền anh Mạch".
"Anh Mạch có tiền à?"
Mạch móc túi đưa cho Mùi xem một nắm hào con:
"Đây chị xem!"
Lại đến lượt Siêu ngạc nhiên:
"Thằng loăng quăng, mày làm gì có tiền. Hay lại loăng quăng cho tay vào túi ai".
"Anh cứ nói thế. Mợ cho em một đồng bạc hôm qua..."
Mùi thấy bà Cai mấy hôm nay đã tỉnh, có lúc gần như người thường nhưng bà Cai làm gì có tiền mà cho Mạch.
"Anh Mạch lại nói dối rồi, nói dối xấu lắm. Bác làm gì có tiền mà cho anh".
Nói thế nhưng nàng thấy nét mặt Mạch lúc đó thẳng thắn và rõ ràng không phải Mạch nói dối. Mạch cau mày nhìn Mùi:
"Chị không biết. Mợ có nhiều lắm cơ; mợ chỉ cho em có một đồng".
Siêu mỉm cười vì thấy mẹ mình mắc bệnh mà vẫn biết giấu tiền. Số tiền ba trăm, trước kia Siêu đã thử hỏi mẹ trong một lúc hơi tỉnh nhưng mẹ chàng hoàn toàn không nhớ gì cả, thế mà mẹ chàng vẫn biết giấu tiền, kể cũng hơi lạ. Chàng hỏi Mạch:
"Mạch thấy mợ có độ bao nhiêu?"
"Em không rõ nhưng thấy có nhiều giấy năm đồng lắm chỉ có độ hai ba tờ một đồng".
Mùi hỏi:
"Anh có thấy giấy một trăm nào không?"
"Giấy một trăm như thế nào cơ chị?"
"Giấy màu đỏ có vẽ cái đỉnh.
"Em không nhớ rõ nhưng hình như không có giấy màu đỏ. Hay là mợ để ở túi áo cánh bên kia. Mợ chỉ kéo ra có một nửa rồi lại đút ngay vào. Mợ để ở túi áo trong".
Siêu đoán là trước khi bị bệnh ngoài việc giấu tờ ba trăm mẹ chàng có may thêm hai cái túi áo trong để một ít tiền tiêu thường. Số tiền ấy chắc cũng không quá năm chục bạc. Nhưng năm chục bạc cũng là một số tiền khá to. Mùi thì cũng đoán số tiền bà Cai có độ dăm chục bạc nhưng nàng hy vọng vào chỗ tập giấy bạc túi bên kia mới rút ra một nửa, may ra có tờ giấy một trăm nào không. Số tiền ấy khó lòng đem ra buôn bán được nhưng thế lại tốt hơn vì cũng như là một số tiền để dành; nếu vạn nhất có buôn bán thua lỗ, lúc cùng đã có số tiền phòng xa ấy. Thế là từ hôm Siêu về tự nhiên nàng có được số tiền để buôn bán và có thêm được số tiền để dành. Bất giác nàng nghĩ đến câu bắt được cóc vàng của bà Huyện Thanh; nàng lại bắt được hai con tất cả.
Cả Mùi và Siêu đều muốn tránh bàn tán nhiều về số tiền ấy trước mặt Triết, Mạch và mở khăn lấy bánh ăn. Siêu ăn ngon lành còn Mùi vì mừng mà ăn không thấy ngon. Nàng lẩm nhẩm tính thầm:
"Sáu chục với hai trăm chín mươi đồng là ba trăm năm mươi với năm mươi nữa là bốn trăm và có thể có tờ giấy một trăm nữa là năm trăm tất cả. Mình thành ra giầu nhất xóm. Cố buôn bán một hai năm thì có thể về ở hẳn làng, tậu ruộng làm nhà...
Triết nhìn chị, nói:
"Chị không ăn đi à? Ăn mau còn đi chứ?"
Mùi chớp mắt, mỉm cười:
"Anh Mạch anh ấy ăn như thế kia, làm chị ăn mất cả ngon".
Mùi ngồi nhìn Mạch thấy Mạch một tay cầm bánh gio chấm đầy mật, một tay cầm bánh dầy đỗ xanh bên trong và trước mặt một quả chuối bóc vỏ sẵn; Mạch cắn xong một miếng bánh gio lại cắn một miếng bánh dầy rồi đặt bánh dầy cắn một miếng chuối và nuốt lấy nuốt để cả ba thứ một lúc. Mật dính cả lên má lên thái dương và đậu xanh dính cả ở vành tai và ở tóc nữa. Mạch ngừng nhai để nói:
"Ăn thế mới ngon chứ chị. Chị thử ăn như thế xem".
Mặc dầu Mạch và Siêu ăn khoẻ nhưng cũng chỉ hết một gói. Muốn chiều bà cụ hàng, Siêu lại ăn thêm hai bát bún riêu. Mạch, Triết cũng ăn thêm một bát, Mùi vì muốn cho Siêu vui lòng, nên nàng cũng ăn một bát nhỏ. Siêu tính nhẩm và tuy chỉ có bẩy xu tất cả, chàng cũng cho bà cụ cả một hào. Bà cụ mừng rỡ nhìn Siêu nói:
"Hôm nào các cô cậu lại đến ăn quà".
Siêu đáp:
"Có, hôm nào tôi lại đến đây ngồi đúng ở đây để ăn quà của bà cụ nhé. Độ mười năm sau bà cụ ạ".
Mọi người đứng lên một cách nặng nề vì bụng no, chỉ trừ có Mùi. Lúc đi ngang qua hai cái bị của người đàn ông, Siêu cố ngoảnh mặt nhìn đi chỗ khác để mắt khỏi vô tình đặt vào cái bị làm chàng mất cả cái thú đoán. Đi ba cây số nữa thì đã đến làng Phướn. Siêu đã bẩy năm chưa về làng lần nào, nhưng chàng thấy không có gì đổi khác cả. Cây đa và luỹ tre không cao lên được chút nào và hình dáng vẫn nguyên như cũ. Đi khỏi nhà ông Chánh Hoạt, Siêu ngừng lại để nhìn vào một cái ngõ; cái ngõ ấy hai bên tre cao rào sát nhau nên bao giờ cũng tối và đầy lá khô; cuối ngõ lộ ra một quãng cánh đồng sáng và ở chân trời, hình lờ mờ và tím nhạt của một trái đồi nhỏ. Trước kia đi học về qua, lần nào chàng cũng không quên nhìn vào cái ngõ ấy và có cái cảm tưởng như đứng ở một thế giới nhìn qua ngõ tre sang một thế giới khác, vì thế chưa lần nào chàng đi vào cái ngõ ấy sợ đi biết hết mất cả bí hiểm. Siêu thấy ngõ vẫn đầy lá tre khô, ánh nắng vẫn đan nhau với lá tre trên vòm cao cũng như ngày nào và quả đồi cũng vẫn một màu tím nhạt ấy và vẫn hình như ở một thế giới xa xôi khác.
Đi qua cổng nhà nào, Mùi cũng giục mọi người đi mau và đừng nói chuyện. Nàng sợ họ biết là mình về làng, không vào thăm thì sợ họ giận mà nếu vào thăm cho khắp thì không đủ thì giờ.
Đến căn nhà cũ của Siêu thì ông Lý Đàn đã sửa soạn gà xôi sẵn sàng theo lời Mùi nhờ người về nhắn mấy hôm trước.
Hồi ông Cai đem vợ con đi Hải Phòng, cái nhà tranh của Siêu để lại cho ông Lý Đàn người chú họ của Mùi ở nhờ. Bên cạnh nhà ông Lý, cạnh một cái giậu thưa là cái nền gạch còn trơ lại của nhà ông Lang bị cháy. Cái nhà dưới đã siêu vẹo bây giờ để lại cho một người có họ xa và nghèo ở.
Sau bẩy năm Siêu mới lại bước vào căn nhà cũ của mình. Siêu để mặc Mùi sửa soạn và nói chuyện với ông Lý, chàng đi vào cái buồng ở bên tay trái là chỗ chàng vẫn sống từ lúc sinh ra đời và cho đến khi rời khỏi làng. Qua cái cửa sổ chấn song nhỏ, ánh sáng ở ngoài đưa vào phơn phớt xanh; vẫn còn nguyên mấy cành lá cây na rủ sát cạnh cửa sổ và làm cho ánh sáng căn buồng của chàng lúc nào cũng phơn phớt xanh và cả tuổi thơ của chàng hình như có nhuộm thứ ánh sáng trong và mát ấy. Siêu nhìn ra ngoài cửa sổ và lúc đó chàng tưởng thời gian ngừng hẳn lại: ở cạnh cây mít vẫn còn treo cái dây sắt có móc mà lúc còn bé chàng đã tự tay làm và buộc ở cành cây để treo cái lồng đánh bẫy chim khuyên; chàng phải buộc dây dài để cho cái lồng thấp, ngồi ở trong buồng có thể nhìn thấy. Chỉ còn cái dây nhưng Siêu tưởng như còn thấy rõ cái lồng với con chim khuyên mồi và chung quanh lồng giắt đầy lá cây với hoa dâm bụt, hoa chuối tây đỏ gắt dưới ánh nắng. Chàng như còn nghe thấy tiếng một đàn chim khuyên sắp bay sà xuống lồng; cảm thấy lòng mình hồi hộp đợi và bên cạnh chàng - đến bây giờ chàng mới vụt nhớ lại - Mùi cô con gái bé của chàng cũng đương nín thở nhìn ra, tay nàng víu chặt lấy vai chàng vì cảm động. Chàng cất tiếng gọi:
"Cô Mùi ơi. Cô vào đây."
Mùi chạy ngay vào buồng, hỏi:
"Gì thế anh?"
Siêu chỉ tay ra phía cây mít:
"Cô nhìn xem".
Mùi nhìn và nói:
"À cây mít".
"Không phải cây mít. Cái dây để treo lồng bẫy chim bây giờ hãy còn kia. Thế có tài không?"
"Ờ nhỉ, thế mà lần nào về đây em cũng vào cái buồng này mà không nhìn thấy nó".
Nhưng Mùi không nói ra cho Siêu biết là nàng thường vào cái buồng này chỉ để cốt nhớ lại hôm được Siêu ôm nàng trong người. Mùi cúi đầu nhìn cho rõ và có ý để sát đầu mình vào đầu Siêu.
"Thế này y như là thuở bé chúng mình đợi chim ấy nhỉ".
Siêu thoáng ngửi thấy mùi tóc thơm, thẫn thờ nói:
"Thuở bé thích nhỉ. Chẳng có gì phải lo".
Mùi nói:
"Bây giờ cũng thích chứ, có gì phải lo đâu".
"Ừ nhỉ, bây giờ cũng thích nhỉ".
"Có phải không anh?"
Trong lúc đó thì Triết và Mạch đứng ở bờ ao. Mạch rời làng lúc còn bé quá nên chỉ nhớ lại có cái ao, lần đi tắm bị ngã xuống ao thấy nước vàng khè cả mắt và một lần nữa đi bắt châu chấu bị ngã xuống rồi tự bò lên được. Mạch kể lại cho Triết nghe, Triết nói:
"Từ thuở bé hình như anh cũng đã loăng quăng rồi".
"Thế mà hai lần em không chết. Không biết độ em ngã ở chỗ cầu kia, ai kéo chân em lên?"
Triết nói:
"Tôi kéo chân anh lên đấy. Không có tôi thì Mạch chết rồi còn đâu sống đến giờ mà loăng quăng".
Rồi Triết đấm một cái mạnh vào lưng Mạch làm Mạch kêu "ái" lên một tiếng và mỉm cười:
"Không biết thuở bé anh có hay đấm em như thế này không. Thuở bé mà đấm thế này thì gẫy hết lưng rồi còn gì".
Rồi Mạch cho tay vào sườn áo Triết, lần lần đưa lên tìm đầu vú Triết và véo mạnh một cái. Triết cứ để yên: giữa hai người đã thành cái lệ là hễ khi nào Triết đấm một cái thì phải để cho Mạch béo vú một cái đền.
Ông Lý Đàn lấy làm lạ rằng về viếng mộ bà Lang mà chẳng ai để ý đến việc dọn mâm cúng cả. Triết thì chạy ra bờ ao còn Mùi thì chạy vào trong buồng. Ông cất tiếng:
"Cô Mùi ơi. Cơm cúng đã dọn xong rồi".
Siêu và Mùi trở ra. Lúc mở cánh cửa to ra cho Mùi đi, nghe lưng cửa kêu két, chàng thấy nhói một cái ở tim.
Cái cánh cửa ấy trước kia có một cái tật làm chàng khó chịu lắm là mỗi lần mở to ra, nó kêu két lên một tiếng chàng nghe rùng mình như là nghe tiếng mài cưa hay cạo nứa. Chàng nhớ lại đã nhiều lần đâm cáu và vì thế mà mỗi lần đi ra chàng phải để ý mở nhỏ vừa đi thôi. Chàng đã bảo bác chủ nhà chữa mấy lần nhưng bác ta cứ lần lữa mãi rồi sau chàng phải đi Hải Phòng. Thế mà sau sáu bẩy năm, bao nhiêu sự thay đổi, cái cửa vẫn giữ nguyên cái tật cũ.
Siêu mỉm cười vì lần này nếu có ngày về đây ở, chàng không bao giờ chữa cái cửa nữa, cứ để cho nó kêu két.
Mộ bà Lang ở cạnh chùa làng; bà rất sùng đạo nên trước khi chết bà trối trăng lại chồng thế nào cũng an táng ở gần chùa làng. Mùi đặt mâm xôi gà lên mộ, thắp hương rồi ngồi xệp xuống cỏ lâm râm khấn. Lúc mới đầu, nàng khấn theo bài khấn mà các cô đã dậy nàng học thuộc lòng và bài ấy có vần có điệu. Nhưng lần này, Mùi lại có nhiều việc muốn nói với bà Lang mà trong bài khấn không có; nên khấn xong bài cúng rồi, nàng xoay ra nói như thường. Nàng lẩm bẩm:
"Thưa đẻ, năm nay bác Cai với các anh Siêu anh Mạch về ở với con. Bác Cai bị bệnh, xin đẻ phù hộ cho bác ấy chóng mạnh. Thưa đẻ bây giờ con đi cân gạo, đẻ phù hộ cho con phát tài để con về xây cất mộ đẻ thật đẹp. Mười đồng bạc đẻ cho vẫn còn nguyên mà bây giờ con đã có cái vốn năm trăm bạc rồi, đẻ ạ".
Mùi không dám chắc bà Cai có tờ giấy một trăm nhưng nàng cũng cứ nói cộng vào để cho số vốn to hơn và như thế mẹ nàng ở dưới suối vàng mừng hơn. Lúc khấn theo bài thì nàng không cảm động gì nhưng đến lúc xoay ra nói thường thì nàng tưởng như là được nói chuyện với mẹ và nước mắt trào ra.
Lúc về qua chùa, Mùi rủ Siêu vào thăm chùa và bảo bác người nhà đem mâm về trước, làm sẵn cơm đợi. Mùi chỉ vào cái gác chuông nói:

"Độ trước em đi học chữ nho cụ Đồ Khải vẫn thường ẩn mưa ở cái gác chuông này. Anh Siêu, anh lên gác xem cái chuông không?"

Lên tới nơi Mùi chạy ngay lại cái chuông cúi người tìm hai con rồng chầu mà ông Ký Rượu đã chỉ cho nàng xem. Nàng quay lại bảo Siêu:
"Đấy anh xem".
Siêu chẳng thấy có gì lạ đáng xem cả:
"Có cái gì mà xem".
"Con rồng".
Rồi Mùi lại giơ tay ướm thử chiều cao của con rồng rồi lại nhấc tay cao lên một tí, Mùi nhớ rõ độ ấy nàng phải hơi kiễng chân mới nhìn thấy con rồng nên nàng đo chiều cao để biết rõ hôm ông Ký Rượu ôm nàng, nàng độ bao nhiêu tuổi. Siêu mỉm cười vì không hiểu tại sao Mùi nhìn một con rồng rất thường ở mặt chuông lại rối rít lên như thế và nhất là nàng lại giơ tay đo đo y như lúc nãy ngồi trước cái bị. Chàng bảo Mùi:
"Cao thế thì hôm ấy cô độ bẩy tám tuổi".
Mùi thản nhiên nói:
"Em cũng đoán phỏng chừng thế. Thôi xuống thôi".
Xuống đến giữa sân chùa, Mùi đột nhiên hỏi Siêu:
"À! Anh nói hôm ấy là hôm nào cơ?"
Siêu mỉm cười:
"Hôm ấy là hôm cô đi học chữ nho về, bị giời mưa to vào ẩn mưa ở cái gác chuông rồi không có việc gì làm mới vớ vẩn đứng ngắm con rồng ở cái chuông".
"Anh đoán tài nhỉ không như lúc ở chợ".
Rồi Mùi gọi Triết và Mạch để cùng về. 
Cơm đã dọn sẵn sàng và ông Lý Đàn đã ngồi cạnh mâm, bên đùi đặt một chai rượu bố. Thấy từ lúc ngồi ăn, ông Lý chỉ gắp luôn có thịt gà và gắp có vẻ vội vã, Siêu biết là ông ta vì nghèo nên họa hoằn lắm mới được ăn thịt gà như hôm nay. Ông ấy nhắm rượu và mọi người thì ăn cơm nên ông có vẻ lo đĩa thịt chóng hết, nhất là Mạch lại luôn tay gắp. Siêu gắp một miếng đậu phụ nấu thịt, nói:
"Lâu lắm mới lại được ăn đậu phụ làng, ngon tệ. Mạch ăn thử mà xem".
Mạch gắp một miếng đậu nhỏ ăn thử nhưng nó vẫn thấy thịt gà ngon hơn và lại giơ đũa gắp một miếng thịt gà to. Biết là Mạch không hiểu ý tứ, Siêu nói thẳng:
"Mạch hỗn nào. Ăn ít thịt gà chứ để ông Lý nhắm rượu".
Từ lúc nói xong câu ấy, Siêu thấy ông Lý uống một cách thong thả và nhắm thịt gà ung dung hơn. Nhưng phiền cho Siêu là ông ấy lại bắt đầu nói chuyện và hỏi luôn về ông Cai. Lúc mới đến thấy ông Lý có vẻ ngạc nhiên, chàng đã nói là mẹ chàng vì người mệt, đốc-tờ bảo ở tỉnh không được phải về quê tĩnh dưỡng vì thế chàng phải đưa bà Cai về Xóm Cầu Mới, chàng cũng phải về để trông nom và cũng để học thi cho tĩnh, còn ông Cai vì công việc bận phải ở lại Hải Phòng. Bây giờ thấy ông Lý cứ hỏi mãi về ông Cai, Siêu khó chịu vì cứ phải nói dối mãi.
Mạch thấy anh bảo mình ăn ít thịt gà chứ không bảo đừng ăn nên lại đưa đũa mon men gần đĩa thịt và đưa mắt nhìn anh. Siêu gật gật mấy cái như muốn tỏ ý bảo Mạch cứ gắp thật nhiều thịt gà đi. Mạch sợ ít có dịp nên gắp cả một cái đùi gà cho ngay vào bát; nó hơi lấy làm lạ không bị Siêu cự gì. Siêu mỉm cười vì thấy ông Lý Đàn có vẻ chưng hửng bị Mạch lấy mất cái đùi gà ngon; ông lại bắt đầu uống nhanh hơn. Vì đĩa thịt gà chỉ còn lại những miếng có xương nên ông bận nhằn xương và thôi không hỏi chuyện về ông Cai nữa.
Siêu và Mùi ăn xong trước nên ra đứng ở ngoài sân, nói chuyện về việc làm nhà sau này. Mùi chạy ra chỗ đống rơm, lấy chân giẫm một cái:
"Chỗ này em định để cái chuồng công. Có được không anh?"
Siêu nói:
"Chỗ ấy không đẹp vì không có cây".
"Không, chỗ này đẹp chứ. Anh không thấy à, để chuồng công ở đây, ở bên nhà anh, anh cũng trông thấy được".
"Nhưng cô không biết, nhà tôi xoay mặt về phía kia cơ mà".
"Thế không được. Nhà anh lại xoay lưng vào nhà em à?"
"Cô không biết về địa lý, nhà phải có hướng chứ?"
Mùi nhăn mũi:
"Này, này, anh lại sắp giảng về địa lý. Em không cần biết địa lý là gì nhưng anh làm nhà xoay lưng vào nhà em thì em cũng làm nhà xoay lưng lại nhà anh".
Siêu cũng bắt chước Mùi nhăn mũi:
"Này này, chưa chi hai cái nhà nó đã hờn nhau rồi đấy".
Cả hai người cùng bật lên cười. Siêu nói:
"Vâng, thì cô làm chuồng công ở đấy".
Chàng giơ tay vạch một cái dài:
"Chỗ này tôi định làm một cái hàng rào găng ta".
Mùi nói:
"Ở đây làm hàng rào không được".
Siêu giơ tay làm mực cao của hàng rào và để bàn tay cao hơn đầu. Mùi nói tiếp:
"Cao thế thì lấp cả công của em, anh không nhìn thấy nữa".
Siêu nói:
"Nhưng cần gì cứ phải nhìn công. Với lại nếu muốn nhìn công thì tôi cũng nuôi hai con để nhìn".
Mùi hỏi:
"Anh cũng thích nuôi công à..."
"Thích nuôi thì cũng chẳng thích gì. Nhưng tại cô cứ bắt tôi phải nhìn công. Làm nhà để ở, cần phải có hướng mát, có gió nam, có ánh sáng mặt giời, có cái hiên thoáng, có cây cối chung quanh. Cô làm như làm nhà chỉ cốt để nhìn công. Nhìn lâu chán chết".
Mùi mỉm cười:
"Này, nếu anh làm hàng rào ở đây, đêm em sai người nhà ra chặt cụt hết".
"Tôi cũng cho người sang vặn cổ chim công của cô. Còn thịt công đem về làm nem, nem công thì phải biết là ngon".
"Tôi thách anh đấy".
"Tôi sợ gì... Nhưng này, thôi, hai người chưa chi đã sắp cãi nhau rồi".
Mùi cau mày, ngắt lời:
"Sắp gì, cãi nhau rồi còn gì nữa. Anh làm em tức chết".
Siêu nói:
"Thôi tôi chịu nhún. Tôi không làm hàng rào găng ta nữa. Tôi xây một cái tường, cái tường cao thế này để không bao giờ phải nhìn công của cô với cái mặt nhăn nhó của cô nữa".
Bỗng Siêu ngừng bặt một lúc rồi bảo Mùi:
"À tôi nghĩ ra rồi, nó là cây cam".
Mùi cười sặc lên rồi cúi mặt ho luôn mấy cái. Nàng thích chí vì đã làm cho óc Siêu bứt rứt ngẫm nghĩ từ lúc ở chợ Keo đến giờ. Nàng thấy Siêu hay có tính cái gì cũng cố tìm tòi hiểu biết, bận trí suy nghĩ vì những việc không đâu nên nàng định tâm trêu chơi và nàng thấy Siêu đúng như nàng đoán đã trúng kế này. Từ sáng đến giờ tuy ngoài mặt thản nhiên làm những công việc khác nhưng Siêu vẫn thầm nghĩ về cái bị và đứa bé con, bây giờ tưởng nghĩ được rồi nên bật ra câu nói ấy. Nhưng Mùi làm như chưa hiểu Siêu nói gì:
"Nó? Nó là cái gì cơ anh?"
"Cái cô lấy tay đo đo ấy mà".
Mùi mỉm cười:
"À lúc nãy nó là đứa bé con, bây giờ nó lại là cây cam. Thế mà em không biết đấy".
"Thế cô bảo nó là cái gì cơ?"
Mùi bật cười:
"Anh định đánh lừa cả em vào tròng lần này là lần thứ hai rồi nhưng em không mắc lừa đâu. Anh bảo anh tìm ra thì anh cố mà tìm như ông Bố gì đã tìm ra châu Mỹ, như anh đã tìm ra chất Suyn-phua Bồ-tát. À này anh, sắp đến tết rồi mà chưa thấy anh làm pháo. Anh có làm thì làm pháo thường thôi đừng làm pháo cây..."
Siêu ngắt lời:
"Đầu óc cô lúc nào cũng lung tung tệ. Hãy nói cho xong chuyện cây cam đã".
"Vâng thì nói chuyện cây cam, anh thử kể em nghe xem có đúng không? Nào tại sao anh lại cho nó là cây cam?"
"Thế này nhớ. Cô nhìn vào cái bị, cho tay sục bới tận trong thì chắc là cô chọn thứ gì, bây giờ gần tết chỉ có thể là cam hay quýt là thứ mua ăn ngay được, nhưng không phải quýt vì quýt thì tất cô phải ngửi xem có phải là quýt hôi không..."
Mùi gật đầu:
"Tài nhỉ. Thế sao nữa?"
"Vậy thì chắc là cam. Và tôi đoán, chỗ này thì tôi đoán liều, là độ nào cô mua được cam Xã Đoài cho bác ta ít hột làm giống và cô hỏi thăm bác ta về cam Xã Đoài ấy bây giờ nó cao như thế nào rồi. Bởi vậy nó là cây cam".
Mùi nói:
"Kể thì đoán cũng tài đấy nhưng sai hết cả".
Thực ra nàng cũng phục Siêu đoán đúng lần trước và lần này lại đoán gần đúng. Lúc nãy nàng đã chọn quýt nhưng nàng không cần ngửi, nàng chỉ nhìn cũng biết là quýt hôi hay không, còn Siêu không thạo tưởng ngoài cách ngửi không có cách gì khác nữa nên đã nghĩ đến quýt mà lại nói là cam. Nàng không mua vì quả nào cũng khô và vì thế nàng phải cho tay với tận trong. Nhưng nàng định tâm nhất định không nói ra, để Siêu nghĩ vỡ đầu và nàng được thích chí. Mùi tiếp theo:
"Sao anh lại chỉ cho là cam hay là quýt. Thế ngộ nó là khoai sọ, khoai lang, gừng tỏi, đỗ đen, đỗ xanh, hành củ; gần tết anh phải đoán đấy là hành củ mới phải chứ?"
Siêu gật đầu:
"Ừ nhỉ, hay nó là hành củ. Nhưng không phải vì hành củ ai cần cho tay vào bị và hành củ thì cần gì chọn. Có lẽ nó là khoai sọ... Nhưng thôi, không nghĩ nữa. Đầu tôi đã rức dữ, cô ạ".
Mùi mỉm cười thích chí:
"Thế à anh. Anh nghỉ một hôm, mai hết rức đầu lại cố đoán xem. Anh mà đoán đúng thì được em phục anh nhất thế giới".
Siêu lẩm bẩm:
"Lạ thực. Nó là cái gì?... Nhưng thôi".
Mùi nhìn Siêu và đã bắt đầu hơi thương hại.
"Hay là bây giờ anh để em giúp anh nhớ".
Siêu vội giơ hai tay xua:
"Cô đừng nói. Cô nói thì hỏng hết".
Mùi lại thôi không nói nữa. Nàng nghĩ đến câu Siêu bảo đầu óc nàng lung tung lúc nãy. Chính ra không phải nàng lung tung: mười hôm trước nàng chợt nghĩ ra là nếu để Siêu làm pháo thăng thiên, cả Xóm Cầu Mới, cả hai phố Phủ nữa họ sẽ đổ đến xem, nhà nàng sẽ là chỗ chú mục của tất cả mọi người và khắp vùng ấy họ sẽ bàn tán về Siêu, về bà Cai, thành chuyện to ngay. Nàng định bảo Siêu nhưng lúc nhớ đến việc bảo thì nàng lại ngồi ở cân hay ở cửa hàng, lúc về nhà lại quên bẵng đi mất, như thế đã mấy lần rồi.
Rồi nàng nói cho Siêu biết rõ cái nguy hiểm của việc làm pháo bông. Siêu cũng lấy thế làm phiền nhưng chàng hơi mừng vì chàng không dám chắc pháo thăng thiên của mình nó có thăng thiên không. Nếu định làm pháo thăng thiên mà nó không thăng chỉ xì xì ở mặt đất thì ngượng với Mùi chết. Bây giờ nếu nó thăng thiên thật thì càng hay, chàng sẽ đốt nó lúc bốn giờ sáng không sợ ai trông thấy; nếu nó chỉ toả ra ở mặt đất chàng cũng có thể bảo Mùi là chàng định tâm làm thế để người trong nhà xem với nhau thôi. Chàng lại lấy làm mừng thấy bây giờ Mùi lại lo lắng giữ gìn cho sự yên tĩnh của chàng hơn cả chàng nữa.
"Cô nghĩ thật chu đáo. Tôi thì vì thích làm pháo thăng thiên quá nên không nghĩ đến chỗ đó. May đã có cô nghĩ đến".
Chàng khen Mùi và mong Mùi để ý hơn nữa đến những việc như thế. Mùi chớp chớp mắt, nói:
"Thế sao anh lại bảo em đầu óc lung tung".
"Chẳng lung tung là gì. Không lung tung mà lúc xem cam xem quýt lại hỏi thăm về đứa con người ta".
"Ồ, anh nói đúng".
Mùi giật mình thấy Siêu nói đúng nên bất giác thốt ra câu thú nhận đó nhưng nàng thấy Siêu không để ý đến. Siêu thì cho là Mùi bảo chàng nói đầu óc nàng lung tung là đúng. Mùi toan nói giảng thêm nhưng tự nhiên nàng lại thôi; nàng mỉm cười nghĩ thầm:
"Anh ấy thích nghĩ thì cứ để anh ấy nghĩ cho rức đầu chơi".
Triết ở trong nhà ra giục chị về. Chào ông Lý Đàn rồi, Siêu còn đứng lại một lúc nhìn quanh và tưởng tượng đến khi làm nhà mới xong thì quang cảnh sẽ ra sao. Chàng lim dim mắt như trông thấy trước một cái hiên rộng và mát có để cái ghế bành mây sơn màu sữa lẫn màu da cam, giống như cái ghế mây chàng đã trông thấy ở hiên một biệt thự ở bãi biển Đồ Sơn, ngoài hiên là một vườn đầy na, và trong bóng mát xanh xanh của lá na, Mùi mặc một cái áo trắng đương đứng nhăn mũi gắt với chàng về chuyện hai con công.
Giữa lúc đó, Mùi đương vừa nhăn mũi vừa mỉm cười nhìn Siêu vì nàng đoán là Siêu lại nghĩ đến cái hàng rào găng. Siêu định nhìn vòng quanh sang nền gạch nhà Mùi nhưng đến gần rặng cây chàng ngừng lại, không muốn cho cái chuồng chim công của Mùi làm bẩn mất cái cảnh đẹp đẽ kia. Mùi thích công không sao nhưng nàng lại thích cái chuồng công; ở trước mắt chàng mà lúc nào cũng có một cái chuồng nó nhắc chàng nghĩ đến những cái chuồng khỉ ở Bách Thú, đời chàng sẽ kém thú đi nhiều. Nhưng chàng không dám nói ra sợ Mùi không bằng lòng. Thế mà độ nào Mùi lại bảo chàng vẽ cho nàng một cái kiểu chuồng công. Nhưng nếu không vẽ cho Mùi chắc nàng lại hờn dỗii bằng ba hôm đi cân gạo.
Siêu vừa đi trên đường làng vừa nghĩ tiếp:
"Làm mình lại phải ôm lấy cổ để dỗ".
Chàng ngẫm nghĩ một lát rồi thốt ra câu:
"Ừ, phải đấy".
Mùi đi trước quay lại hỏi:
"Phải gì cơ anh".
"Không".
Chàng mỉm cười nhìn vào gáy Mùi một lúc lâu.
Lúc trở về, Triết lại dẫn mọi người đi vào một con đường khác. Đến Mùi cũng ngạc nhiên thấy Triết thông thuộc cả những con đường ngóc ngách mà chính nàng cũng chưa đi đến bao giờ:
"Con đường này chú đã đi qua rồi à?"
"Vâng em đi qua nhiều lần".
"Chú đi bắt bướm?"
"Không".
"Thế chú đi vào đây làm gì?"
Mùi đợi nhưng không thấy em trả lời. Nàng đoán có lẽ em mình không ngồi ở hiên hay ở bờ sông thì lại đi lang thang đến những con đường hẻo lánh, vắng người này để buồn. Đi gần đến gốc một bụi tre Triết để ý tìm và cảm động khi thấy trên đất còn một đám lá khô. Chàng nói:
"Ở chỗ này lần trước, nắng quá, em ngồi nghỉ ở đây. Đám lá em hái để lót ngồi bây giờ cũng vẫn còn đây".
Mùi lại thấy bùi ngùi thương em. Tự nhiên đi bẩy tám cây số để đến ngồi đây một mình, chắc Triết phải có sự gì buồn uẩn khúc, không thể nói ra được với ai cả. Hôm nay đi bên cạnh có Siêu, Mùi thấy việc hỏi Triết dễ dàng hơn là chỉ có mình nàng với Triết. Nàng đánh bạo và nói luôn:
"Này chú, sao chú cứ ra ngồi ở hiên hay ở bờ sông những lần nhà vắng người mà nét mặt chị thấy cứ buồn thiu. Chú có việc gì buồn thì cứ nói ra với chị, với anh Siêu..."
Mùi mừng rỡ đã nói được câu bắt đầu mà không đến nỗi ứa nước mắt.
"Em ngồi thế chứ em có buồn gì đâu. Sao chị lại cho em là buồn".
"Chị biết chú vẫn có sự gì buồn muốn giấu chị".
Triết đưa mắt nhìn Mùi và thấy Mùi có vẻ như sắp khóc. Chàng nói to giọng vui vẻ:
"Thế bây giờ em cũng hỏi lại chị thế thì chị giả lời em thế nào? Như hôm em ngồi ở bờ sông ngắm phong cảnh, chị ra đứng cạnh em rồi tự nhiên chị ứa nước mắt khóc. Tự nhiên chị buồn thế mà em có bảo chị là có sự gì giấu em không?"
Mùi định nói là nàng thấy em ngồi buồn nên thương em mà khóc, nhưng câu ấy nàng không dám nói ra vì nó có vẻ thân mật quá, nói ra chắc không giữ nổi nước mắt. Triết lại tiếp theo, tiếng nói vẫn pha giọng đùa:
"Vô số hôm em thấy chị về mà mắt còn ướt nước mắt, em có thấy gì buồn cho chị đâu".
Mùi cười:
"Tại hôm ấy có đám ma".
Triết nói:
"Ấy thế, thế còn em chỉ ngồi ngắm phong cảnh mà chị cứ bắt em phải buồn. Hay chị cấm cả em nhìn phong cảnh".
"Thế còn tại sao lại đi lang thang cả ngày ở những chỗ hẻo lánh thế này".
"Những ngày thứ năm chủ nhật chị bắt em ở nhà à? Đi chơi thích thế sao chị lại cho em là buồn".
Siêu cũng nói chêm vào:
"Tôi mới về đây chưa yên ổn hẳn. Thong thả tôi cũng đi lang thang về các vùng quê chơi rồi lúc nào mỏi chân thì ăn quà. Thích chứ?"
Mùi nhìn Siêu hỏi:
"Thế à anh?"
Và nàng cũng bắt đầu nhận thấy đi chơi thế là thích nhưng phải đi đông người chứ đi một mình thì buồn chết. Mùi thấy thực là giản dị, hỏi Triết xong nàng thấy nhẹ hẳn người. Nàng định tâm về sau có xẩy việc gì cứ hỏi thẳng ngay Triết chắc sẽ hết những sự hiểu lầm. Dẫu sao, Mùi hãy còn cái cảm tưởng là vẫn có cái gì cách bức giữa Triết và nàng. Mùi nghĩ có lẽ tại Triết ít nói; không những Triết ít nói chuyện với nàng, cả với Siêu cũng vậy. Siêu biết rộng thế mà Triết không một lần nào hỏi Siêu một điều gì. Với Mạch thì lại khác hẳn; có khi hàng giờ hai anh em chơi với nhau, chuyện trò vui vẻ không biết chán. Nàng thấy Triết hợp với Mạch cũng như là nàng hợp với Siêu.
Đến chiều mới về tới nhà. Công việc đầu tiên của Mùi khi thấy bà Cai là nhìn chăm chú vào ngực bà ta để cố đoán xem tập giấy bạc dầy như thế nào. Nhưng nhìn kỹ cũng không thấy người bà có gì khác. Nàng định bụng hôm nào cố lấy được cái áo cánh để xem có tờ giấy một trăm nào không. Không phải nàng định lấy số tiền đó, nàng chỉ cốt biết rõ số ấy đích xác bao nhiêu thôi cho khỏi khó chịu.
Buổi chiều ăn cơm xong trời nổi gió và hơi lạnh. Tuy là ngày hôm nay mọi sự đều vui hoàn toàn sao tự nhiên Mùi lại thấy hơi buồn bã trong lòng. Lần này không phải lần đầu tiên nàng cảm thấy thế; cứ mỗi khi có việc gì bận suốt ngày hoặc đi nhiều như hôm nay thì đến chiều nàng thấy buồn; có khi nàng thấy buồn mà cũng chẳng có duyên cớ nào cả nhưng lần này nàng thấy thích cái buồn của mình. Nàng sang bên hiên định nói chuyện với Siêu cho khuây khoả. Siêu đương ngồi ngả trên ghế mây, chân đặt lên cột hiên và đầu đặt lên hai bàn tay quặt ra sau làm gối. Mùi nói:
"Thế nào anh đã nghĩ ra chưa?"
Nàng thấy Siêu nhìn mình nhưng không nói gì. Siêu cũng có vẻ mệt và nét mặt Siêu nàng cũng thấy không vui.
Siêu nhìn nét mặt Mùi đứng ở hiên lim dim hai mắt và nghĩ đến nét mặt mệt và tươi của Mùi ngồi ở quán chợ Keo. Đối với chàng lúc đó hình như có hai cô Mùi và mỗi người có một vẻ riêng hơi khác nhau. Gió chiều về hơi lạnh và buồn, hình ảnh cái chợ mờ mờ trong bóng chiều. Siêu thấy mình phiêu phiêu nhớ Mùi, nhớ cô Mùi ngồi ở quán hàng mới sáng nay mà hình như đã xa xôi lắm. Chàng định tâm hôm nào lại đi một mình đến cái chợ ấy để có được cái buồn hiu hắt nhớ Mùi. Chàng mỉm cười vì nghĩ đến chỗ lúc nào cũng có Mùi bên cạnh mà lại muốn có cái thích được buồn nhớ nàng.
"Những hôm nào thì có phiên chợ Keo, cô Mùi".
"Ngày ba ngày bẩy".
"Ngày ba ngày bẩy là thế nào cơ?"
"Anh không biết à? Mồng ba mồng bẩy, mười ba mười bẩy... cứ mười ngày chợ có hai phiên. Anh hỏi phiên chợ Keo làm gì cơ?"
Bỗng nàng chợt nghĩ ra là Siêu cốt hỏi phiên chợ Keo để đến dò xem người đàn ông ấy bán gì và có khi hỏi cả người ấy xem hôm đó nàng đo cái gì. Nàng cất tiếng bảo Siêu:
"Thế không được".
Siêu mỉm cười không hiểu sao tự nhiên Mùi lại nói câu ấy.
"Cái gì không được".
"Anh định đến xem cái bị của người bán khoai sọ".
Nói xong hai tiếng khoai sọ mà nàng cố ý làm như lỡ lời thốt ra, Mùi lấy tay chụp miệng nhìn Siêu. Siêu thản nhiên nói:
"Không, tôi... đến xem cái khác..."
Siêu mỉm cười khi thấy Siêu tự nhiên giật mình, nét mặt tươi hẳn lên và nhìn nàng một cách tự đắc.
"À ra cô chọn khoai sọ. Thôi thế là tôi bắt chộp được rồi".
Nàng thích đã lừa được Siêu.
"Khoai sọ cần gì chọn. Với lại khoai sọ cần gì phải hỏi xem cao thấp".
Siêu ngồi hẳn dậy:
"Phải rồi, đích khoai sọ. Chắc khoai sọ củ to lắm nên cô bới mãi xem có to đều không và khi thấy to đều thì cô lấy làm ngạc nhiên và bảo chắc cây khoai phải cao thế này, nhưng người đàn ông lắc đầu nói cao hơn nữa".
Siêu giơ tay đặt cao bằng ngữ Mùi đo:
"Phải rồi cao thế này thì vừa đúng chiều cao của một cây khoai to, thế mà tôi không nghĩ ra. Phải để cô nói, mất cả thú".
Mùi thì thấy rõ ràng Siêu thích chí lắm và thích không phải vì đã tìm ra nhưng chỉ vì đã bắt chộp được nàng lỡ mồm nói ra.
"Thôi được anh cho nó là khoai sọ thì vâng nó là khoai sọ. Như thế đỡ rức đầu".
"Thế ra không phải khoai sọ à?"
"Muốn biết chắc, hôm nào anh đến chợ Keo hỏi xem".
Siêu lại nằm ngửa đầu trên lưng ghế.
"Cần gì hỏi. Ừ thì nó không là khoai sọ. Nó muốn là cái gì thì là. Cả ngày hôm nay mất cả thú về cái bị rồi".
Mùi nói:
"Thế anh để em bảo anh nhé".
Siêu lại gạt tay:
"Ấy, cô đừng nói".
Siêu không muốn Mùi nói không phải để cố đoán ra nữa, nhưng chỉ cốt để cho cái tính đố ấy cứ mãi mãi vẫn còn là cái tính đố không giải được.
Tuy miệng cười nói với Siêu nhưng Mùi vẫn không ngăn nổi nỗi buồn bã trong lòng. Bỗng nàng hỏi Siêu:
"Tại làm sao người ta lại buồn nhỉ?"
Siêu hơi ngạc nhiên về câu hỏi đột ngột.
"Người ta có việc gì buồn thì buồn chứ tại sao nữa. Nhưng tại sao tự nhiên cô lại hỏi câu ấy?"
Mùi thong thả nói:
"Không phải, có khi chỉ có toàn việc rất vui mà vẫn thấy buồn. Em muốn hỏi anh cho biết rõ".
"Chính thế, cái vui bao giờ cũng có lẫn cái buồn ở trong. Cái buồn ấy thích chứ".
Mùi lắc đầu:
"Không phải, như hôm nay em chỉ có toàn việc vui mà sao tự nhiên em lại buồn đến muốn khóc. Em nhiều lần bị như thế rồi. Anh thử tìm hộ xem".
Siêu định nói đùa vì tưởng Mùi lại bảo chàng tìm đoán một cái tính đố khác như cái tính đố cái bị, nhưng thấy nét mặt Mùi nghiêm trang chàng lại thôi và lấy làm thương hại Mùi buồn. Chàng âu yếm bảo Mùi:
"Cô ngồi xuống đây".
Mùi ngồi né cạnh giường, ngay ngắn đợi. Nàng đoán cả Triết nữa có lẽ cũng bị những cái buồn như nàng nên mới ngồi hàng giờ ở hiên vắng. Lúc nãy Triết đã giấu nàng vì sợ nàng buồn nên nói là ngồi ngắm phong cảnh. Mùi thương em hơn là thương chính mình và thấy Siêu biết nhiều, nàng định hỏi về nàng để biết được duyên cớ sự buồn của em. Siêu nói:
"Lắm cái buồn tưởng vô cớ nhưng bao giờ nó cũng có cớ ở trong. Thí dụ sau khi cô ốm một trận, cô khỏi hẳn rồi nhưng cô tự nhiên thấy buồn một hai hôm. Có khi làm việc nhiều quá như người học trò thi, đến lúc thi đỗ đáng lẽ vui lại thấy buồn khổ hơn là thi trượt, buồn thế là vì làm việc lao lực quá".
Mùi thấy Siêu nói chỗ ấy đúng với nàng nhưng đối với Triết thì không đúng vì Triết lười học lắm. Nàng cất tiếng nói với Siêu:
"Nhưng Triết những lúc đi thi, em chẳng bao giờ thấy nó học cả".
Siêu nhìn Mùi:
"Này đầu óc cô lại bắt đầu loăng quăng. Cô muốn hỏi về cô buồn hay là Triết buồn. Triết thì tôi chẳng thấy có gì buồn cả".
Siêu cười nói tiếp:
"Mà cô nữa, tôi cũng chẳng thấy cô buồn gì cả".
Sợ Siêu lại tưởng nàng lại vờ vĩnh hỏi đùa, nên Mùi vội cau mày nghiêm nét mặt hơn nhưng thấy cả cái cách nghiêm nét mặt cũng có thể cho Siêu tưởng là nàng chỉ vờ nghiêm nên Mùi lại thôi không cau mày nữa.
"Không, anh cứ nói đi. Em buồn. Em nói về Triết vì anh nói đến chuyện đi thi".
Siêu nói tiếp:
"Cũng có khi ăn phải thứ gì không tiêu cũng thấy buồn hoặc nóng ruột".
Mùi nghĩ thầm có lẽ tại mình ăn bánh dầy. Nàng ăn bánh dầy bao giờ cũng thấy khó tiêu. Nhưng Mùi buồn thì chắc là Mạch phải buồn nhất vì Mạch ăn đến bốn năm chiếc. Bất giác Mùi lại mỉm cười làm Siêu lại ngừng lại hơi ngờ ngợ. Mùi vội nói:
"Em chắc không phải vì ăn bánh dầy khó tiêu vì em ăn có một chiếc".
Siêu lại nói tiếp:
"Cũng có nhiều người đến tuổi trưởng thành hay lúc về già, trong người thay đổi, tự nhiên thấy buồn bã. Nếu không có việc gì ở ngoài làm mình buồn, thì chính ở trong thân thể nó làm mình buồn. Cô không thấy lắm người có chửa, cả ngày cứ ngồi lì không nói nửa lời đến lúc đẻ xong thì cười nói vui vẻ như con quạ cái".
Mùi mỉm cười vì nghĩ đến bác Lê gái lúc thường rất ít nói nhưng lúc có chửa thì lại vui vẻ nói luôn miệng. Nàng lại mỉm cười một lần nữa vì thấy Siêu, không những chỉ để ý đến khói pháo thơm, ma trơi mà lại để ý cả đến dò xét những người đàn bà đẻ. Siêu thì cho là Mùi mỉm cười vì câu ví người đàn bà với con quạ cái".
"Ở vào trong cái trường hợp của cô, chín phần mười là vì đến tuổi trưởng thành nên có những lúc tự nhiên buồn. Chính tôi năm kia cũng mất ít ngày".
"Có cách gì chữa không anh?"
"Chẳng có cách gì cả. Nó buồn một lúc lâu rồi hết, không sao".
"Nhưng lúc buồn, khó chịu chết. Làm thế nào?"
Siêu mỉm cười:
"Nếu khóc được thì cô cố mà khóc. Khóc xong nó nhẹ đi".
Siêu thấy câu nói của mình với Mùi là một câu khuyên thừa. Mùi cũng mỉm cười:
"Ngỡ gì chứ cách ấy thì em vẫn làm luôn".
Mùi thấy Siêu biết nhiều nhưng rốt cuộc cũng chỉ biết thế thôi chứ không có cách gì. Dẫu sao biết được như vậy Mùi cũng thấy trong người nhẹ đi chút, một là vì biết nên nàng không sợ nữa, hai là cái đó chỉ tạm thời hay ít lâu rồi hết. Nàng thấy đã có cách khóc để làm nhẹ bớt những khi bị cơn buồn. Mùi nhìn Siêu, nói:
"Cám ơn anh".
Bỗng Mùi yên lặng nhìn vào cái gối và cái chăn bông để cạnh giường. Thoáng trong một giây nàng nghĩ đến - nhưng chỉ thoáng trong một dây thôi rồi nàng không dám nghĩ đến nữa - một đêm trời gió lạnh như hôm nay, trong lòng nàng đương buồn bã, nếu được nằm trong lòng Siêu, đầu nàng ngả lên tay Siêu, và Siêu ôm lấy nàng kề má lên má nàng như hồi nào nàng còn bé... Chỉ có cách ấy có lẽ an ủi được và làm dịu hẳn nỗi buồn của nàng.
Siêu đánh diêm châm đèn. Mùi đứng lên thẫn thờ nói:
"Hôm nay thì anh đi ngủ sớm chứ? Đi cả ngày chắc anh cũng mệt".
Siêu đáp:
"Tôi cũng hơi mệt nhưng cần phải xem nốt cuốn tiểu thuyết xem giở hôm qua. Cô đi đâu bây giờ?"
"Em có đi đâu đâu. Em về bên nhà".
Nói câu ấy tự nhiên Mùi lại thấy cái buồn trong lòng mình đậm hẳn lên. Nàng nhớ lại một hai buổi chiều buồn trước kia, chưa có Siêu, nàng muốn khuây khoả nên mặc dầu trời gần tối rồi nàng cũng đến ấp cụ Án để gặp Duyên người bạn tâm giao thân nhất xóm của nàng. Ngồi ở dưới ánh đèn măng-xông sáng, uống nước chè ngon và nói chuyện vớ vẩn với Duyên nàng cũng thấy hơi khuây. Hai vợ chồng Hải có vẻ vui mừng được nàng đến chơi nói chuyện. Tuy là Duyên sống yên ổn bên cạnh một người chồng yêu nhưng nàng vẫn thấy đời Duyên có vẻ buồn thế nào và có lẽ cũng vì thế nên lúc buồn nàng chỉ nghĩ đến thăm Duyên. Nhưng ngồi khuya cũng không tiện, đến lúc đã chào Duyên, cổng ngoài đã đóng, ánh chiếc đèn khuất hẳn, Mùi lại thấy mình đứng sững trước bóng tối với nỗi buồn trong lòng, nàng lại rươm rướm nước mắt và tự lấy làm thương mình.
Siêu ngập ngừng rồi nói:
"Nếu hôm nay cô buồn thì hãy ngồi chơi nói chuyện cho khuây. Tôi không đọc tiểu thuyết nữa".
"Thôi em về đây..."
Mùi đi thẳng về buồng rồi kéo chăn đắp. Triết và Mạch đương ngồi xem bướm thấy Mùi đi ngủ sớm nhưng cũng không lấy làm lạ, tưởng Mùi đi nhiều nên mệt. Mùi nằm cố ngủ nhưng hơn một giờ sau cũng còn trằn trọc. Nàng khó chịu thấy Triết chưa đi ngủ để nàng có thể khóc một lúc cho nhẹ người. Có lúc nàng đã sắp khóc được nhưng phải cố giữ vì sợ Triết nghe thấy. Sau cùng Mùi bảo Triết:
"Thôi em đi ngủ đi. Chị chói ánh đèn khó ngủ quá".
Nửa giờ sau, thấy bên giường Triết tiếng nói ngừng đã lâu và bắt đầu có tiếng người cựa quậy và đạp chân Mùi biết là em đã ngủ say. Mùi lật một mép chăn rồi nghiêng người ra góc cái hòm chân, cúi nhìn qua khe cửa sổ. Gốc cây bưởi còn có ánh sáng ngọn đèn dầu. Đối với Mùi đã từ lâu, gốc cây bưởi là chỗ ban đêm nàng liên lạc ngầm với Siêu; nhìn gốc cây bưởi nàng có thể biết được Siêu đã đi ngủ hay còn thức.
Lắm đêm nàng chưa ngủ được nhìn ra gốc cây thấy còn ánh đèn, nàng mừng là trong lúc nàng còn trằn trọc thì Siêu cũng còn thức với nàng. Mùi hơi buồn cho Siêu một mình thức khuya như vậy, nhưng nàng cũng vui trong lòng cho là Siêu chắc thích công việc nghiên cứu của mình lắm nên mới không thiết gì đến ngủ.
Đêm nay biết là Siêu còn thức, Mùi thấy trong lòng dìu dịu. Mùi lại rụt người vào trong chăn, nằm áp má xuống gối định khóc nhưng nàng thấy mình không khóc được nữa. Nỗi buồn trong lòng cũng hình như đã nguôi nguôi. Mùi nghĩ đến mẹ, nhắc lại cái ý tưởng mẹ nàng không còn sống để nhìn nàng cân gạo, nhưng nàng vẫn thấy lòng mình thản nhiên. Nàng nghĩ đến Triết và thấy chẳng có lý gì phải thương Triết cả. Mùi thấy trong người trơ trơ và khô khan, khó chịu hơn là buồn như lúc nãy. Nàng xoay ra nghĩ về những cái vui may ra có cảm động mà ứa nước mắt được không; nàng nghĩ đến số vốn nàng có, nghĩ đến việc về làng làm nhà, cái chuồng công nhưng đều vô công hiệu. Nàng há mồm, nấc nấc ở cổ họng mấy cái làm như mình nghẹn ngào muốn khóc và lặng người đi làm như mình đương thương hại cho mình lắm, nhưng người nàng vẫn cứ trơ ra và nước mắt ráo hoảnh. Mùi nghĩ giá có ai khóc bố khóc mẹ ở ngay bên cạnh lúc đó, nàng cũng thản nhiên như không. Ngay lúc nàng muốn khóc nhất thì lại không sao khóc được.
Mùi nằm yên một lát, cố không nghĩ ngợi gì. Nhưng nàng vẫn không sao không bị dầy vò bởi cái ý tưởng muốn khóc lên được để sang với Siêu ngồi nói chuyện thầm vụng với nhau. Lúc nãy Siêu bảo nàng ngồi lại, không biết tại sao nàng lại cứ bỏ về. Nàng vẫn định đưa ra cái cớ không dám khóc ở giường sợ Triết hoặc bà Cai nghe thấy, phải chạy sang ngồi ở bên Siêu để tự do khóc và như thế tự nhiên lắm đối với Siêu. Nhưng không khóc mà đương đêm tìm đến Siêu nàng sợ ngượng với Siêu quá. Tính nàng xưa nay vẫn thế, đã không định thì thôi, nếu định trước làm cái gì thì thế nào cũng phải cố làm cho kỳ được, không phải vì thích làm nhưng chỉ vì để cho mình hết khó chịu, bứt rứt. Lúc nãy trong lúc còn cơn buồn nàng muốn suốt một đêm ngồi nói chuyện với Siêu nhưng muốn nói chuyện hai người phải giấu giếm không để ai biết. Thế mà nàng lại không sao khóc lên được. Bỗng Mùi vội nghiêng người nhìn qua khe cửa và đưa mắt tìm mãi. Ánh sáng ngọn đèn trên gốc bưởi đã tắt.
"Thôi thế là hết".
Mùi lại chúi mặt vào trong chăn, nằm yên một cách thất vọng. Một bàn chân nàng rời khỏi chăn tuột xuống cạnh giường, ngón chân quờ quờ tìm quai guốc rồi chân lại co lên để thẳng lên giường nhưng vẫn ở ngoài chăn. Một lúc lâu, bàn chân lại cho xuống đất tìm guốc. Mùi tự nhủ:
"Định sang hay không sang hẳn thì định cho mau kẻo khuya quá".
Nàng quay người, kéo chân lên, nằm yên một lát rồi tung chăn ngồi dậy.
Chân nàng đã chạm vào quai guốc. Mùi đứng dậy đi ra ngoài đi lần từng bước sợ chạm vào bàn ghế. Có gì mà nàng lại sợ hãi đến thế. Ở ngoài nhà rộng nên sự yên lặng tưởng như tăng hẳn lên; tiếng tích tắc của chiếc đồng hồ treo nghe rõ mồn một. Mùi không nhìn rõ mặt đồng hồ nhưng nghe tiếng tích tắc này nàng có cái cảm tưởng như đêm đã khuya lắm rồi. Mùi đã mở then cửa, rồi lại cài then lại, nàng định quay về buồng rót một cốc rượu uống cho say để ngủ thiếp đi. Nàng nghĩ lúc đó chưa đến chín giờ mà sao đêm lại có vẻ khuya thế này. Tất cả mọi người trong nhà nàng, trong các nhà láng giềng, tất cả mọi người ngoài Xóm Cầu Mới ai ai cũng hình như đã ngủ say cả và ngủ đã từ lâu lắm rồi. Siêu nói xem tiểu thuyết sao lại ngủ ngay thế hay là Siêu mệt. Mùi nghĩ sang lúc này làm mất giấc ngủ của Siêu chắc là làm phiền Siêu lắm. Nghĩ đến chỗ đó, Mùi hết lưỡng lự, rút then rồi mở cửa bước ra sân.
"Sang để thử xem anh ấy phiền như thế nào".
Lúc đi xung quanh cái bể nước, thấy đêm tối và yên tĩnh, Mùi cảm thấy rõ là việc sang tìm Siêu giữa lúc Siêu đang ngủ và cả nhà đều ngủ là một việc không nên.

Mùi đã đến bên cái phên dậu và nghe ngóng không thấy có tiếng động chỗ Siêu nằm. Mùi lo sợ... quả tim đập mạnh. Nàng đã nhận rõ việc định làm là không nên mà nàng cứ làm, vì vậy nàng sẽ ngượng với Siêu nếu chàng cũng tỏ ý thấy việc nàng làm là không nên. Bụng nàng định quay trở về nhưng miệng nàng lại cất tiếng khẽ gọi:

"Anh Siêu?"

"À, cô đấy à?"
Mùi thấy Siêu tung chăn chạy ngay ra khỏi giường, tìm diêm rồi thắp đèn một cách vội vã, tay luống cuống. Mùi nhẹ hẳn người vì Siêu có vẻ vui mừng thấy nàng sang. Chắc Siêu còn nghĩ đến cơn buồn của nàng và cho là nàng khổ sở quá không chịu được phải sang để nhờ chàng tìm cách an ủi. Việc nàng sang đối với Siêu rất tự nhiên.
"Cô vào đây. Chắc cô không ngủ được. Tôi đã bảo cô ngồi nói chuyện cho khuây cô không nghe, cô cứ về".
Siêu chỉ vào cái ghế mây.
"Cô ngồi đây. Lúc nãy tôi để cô về vì mong cô ngủ được thì tốt. Nhưng bị thế bao giờ cũng khó ngủ sao cô không sang ngay. Khổ..."
Mùi sẽ đặt người ngả vào ghế mây, khẽ lẩm bẩm:
"Em khổ lắm..."
Nói đến câu ấy, Mùi thấy nao nao trong lòng và hai giọt nước mắt đã mọng lên ở khoé mắt. Nàng há miệng, thở mạnh và hai dòng nước mắt chẩy nghiêng xuống làm nàng thấy nóng và ngứa một cách dễ chịu ở bên má. Thế là nàng đã khóc được. Mùi nuốt nước bọt rồi nghẹn ngào:
"Em nghe lời anh cố khóc nhưng không sao khóc được".
Siêu nói:
"Bây giờ khóc được, người nhẹ đi ngay".
Chàng lấy khăn đưa cho Mùi. Mùi cúi mặt áp vào cái khăn để thả lòng khóc cho hết cơn. Thỉnh thoảng nàng lại lấy khăn lau nhưng chỉ lau qua đủ cho nước mắt nước mũi khỏi làm khó chịu; nàng sợ lau kỹ quá có khi làm tắt hẳn nguồn nước mắt và lại phải cố dịu lòng để lấy đà khóc thêm.
Siêu chợt thấy Mùi chỉ mặc có chiếc áo cánh:
"Chết chửa, cô lạnh chết. Cô khoác tạm cái áo ba-đờ-suy của tôi".
Chàng mỉm cười và thương hại Mùi bị cơn buồn đến nỗi quên cả rét. Mùi vẫn áp mặt vào khăn, nức nở như không để ý đến lời Siêu nói. Siêu với cái áo; thấy nàng như không nghĩ gì đến mặc áo, chàng đặt áo lên người nàng và lấy tay dắt chung quanh cho kín. Chàng ngồi xuống giường nhìn Mùi khóc và đợi. Bỗng chàng thấy lành lạnh và bất giác mỉm cười: chính chàng cũng đãng trí quên cả mặc áo dài. Lúc nãy, không phải Siêu cần đọc tiểu thuyết nhưng chàng nói ra như vậy để Mùi có cần sang lúc nào thì cũng có thể sang được. Nhưng đọc hai giờ đồng hồ vẫn không thấy Mùi sang, chàng tưởng Mùi đã ngủ, còn chàng thì chàng cũng đã thấy hai con mắt díu lại. May quá, vừa đúng lúc chàng vừa thiu thiu sắp ngủ thì Mùi sang.
"Cô uống nước nhớ, cô Mùi. Để tôi đi đun".
Mùi lau khô nước mắt rồi quay mặt ngửng nhìn Siêu, hai con mắt đen của nàng sáng long lanh. Cơn buồn đã hết hẳn, cái khô khan rất khó chịu trong người cũng nhường chỗ cho một nỗi phiêu phiêu dìu dịu thấm khắp thân thể, từng thớ thịt. Siêu hỏi:
"Cô thấy trong người dễ chịu chưa?"
"Chưa anh ạ. Em khát khô cả môi".
"Thế à cô? Hoả lò cô để đâu. Phải, tôi lấy hoả lò để vừa đun nước vừa sưởi luôn thể".
Siêu chạy đi một lúc rồi khiêng hoả lò và củi về. Rồi chàng lại chạy đi lấy siêu nước và bộ ấm chén của ông Lang. Chàng xếp củi và đánh diêm dóm bếp. Nhưng không quen dóm bếp, Siêu loay hoay đến mười phút mà lửa vẫn chưa bén. Chàng thổi bếp khói cay chảy cả nước mắt. Cả cái hiên mờ mờ như ở trong sương mù. Mùi cũng thấy cay cả mắt nhưng nàng vẫn nằm yên nhìn Siêu, làm như mình buồn nên không thiết đả động chân tay. Rất thích hầu hạ Siêu nhưng thỉnh thoảng được Siêu hầu lại nàng lại thấy thích hơn, có vẻ như là một cái thích báo thù. Nàng thất Siêu luống cuống, nàng càng thích hơn. Siêu ngửng nhìn Mùi và vui mừng thấy nét mặt Mùi đã có vẻ tươi.
"Dóm bếp kể cũng khó. Dóm thế nào thì chóng cháy, cô Mùi. Cô thôi khóc thì lại đến lượt tôi mắt đầy những nước mắt".
Sau cùng ngọn lửa bùng cháy to và khói đã quang. Mùi hỏi:
"Anh có chè Liên Tâm không?"
"Không, tôi chỉ có chè mạn ướp sen".
"Thế anh đi lấy cho em lọ chè Liên Tâm".
"Lọ để đâu?"
"Em để nó ở trong hòm chân, trong cái nồi đất cạnh cái nồi tiền. Anh có vào lấy thì cẩn thận nhỡ ai biết lại tưởng anh là kẻ trộm.
Siêu đi khỏi, Mùi đứng dậy mặc cái áo ba-đờ-suy; cái áo dài gần sát đất và tay áo che kín cả tay. Siêu trở về đứng yên ngắm nghía: Mùi mặc chiếc áo tây trông đẹp hẳn lên nhưng buồn cười lắm. Siêu nghĩ đến cô Jeanne, con gái ông Bernard. Mùi mặc chiếc áo tây lại càng giống cô Jeanne. Nhưng cái áo dài lướt thướt, tay áo rộng che khuất cả bàn tay làm cho Siêu nghĩ đến Dương Quý Phi và Tây Thi. Siêu mỉm cười nói:
"Cô ăn mặc thế này trông từa tựa như Dương Quý Phi".
"Dương Quý Phi là ai cơ?"
"Ồ, cô không biết Dương Quý Phi là ai à? Dương Quý Phi là vợ ông Đường Minh Hoàng".
Mùi lại ngồi xuống ghế, lật cổ áo cho đỡ lạnh gáy. Thế là sự ao ước của nàng đã thành sự thực. Mùi nghĩ giá bây giờ còn nằm trằn trọc trong giường, bứt rứt với cái ý tưởng sang hay không sang, thì tức chết người. Nàng hỏi Siêu:
"Nhưng ông Đường Minh Hoàng là ai?"
Siêu vừa cho chè vào ấm vừa nói:
"Ông Đường Minh Hoàng là chồng Dương Quý Phi".
"Thế à. Anh giảng nghĩa tài nhỉ. Nước sôi rồi đấy anh ạ".
Mùi khát mà chén nước lại là chén hạt mít nên Siêu bận luôn tay rót và đưa nước cho Mùi, quên cả uống. Uống đến chén thứ mười, Mùi hỏi Siêu:
"Anh đã đói chưa?"
Mùi không đói nhưng cũng muốn có cái gì ăn. Siêu mỉm cười vì câu Mùi sai khéo mình:
"Phải đấy. Cô muốn ăn gì. Ăn cháo cho mát ruột nhớ".
"Phải đấy ăn cháo. Có ít gạo tám thơm ở trong cái nồi đựng tiền ấy".
Thấy Siêu ngơ ngác, Mùi hạ giọng nói:
"Từ hôm có nhiều tiền, em nghĩ thêm được cách là đổ gạo lên trên tiền như thế kẻ cướp có mở đến cái nồi cũng chỉ tưởng là nồi đựng gạo".
Siêu lại phải sang bên nhà và đi lần mò đến cái hòm chân một lần nữa, như anh kẻ trộm. Mùi bật cười vì thấy Siêu lấy một bát gạo đầy. Mùi chút một ít gạo vào lòng bàn tay Siêu:
"Thế là đủ. Anh lấy nhiều thế này không khéo lại có lẫn cả bạc ở trong gạo. Ăn cháo bạc có lẽ ngon hơn cháo gà".
"Bây giờ anh đi vo gạo".
Siêu nhìn gạo ở lòng bàn tay:
"Gạo nấu cháo cũng phải vo cơ à? Có một tí gạo thế này vo cái gì cho lạnh tay".
"Không vo ăn hôi chết. Anh ngại à, anh ngại lạnh tay thì thôi đừng vo nữa và cũng đừng nấu cháo nữa".
Siêu nhìn Mùi rồi vội vã bước xuống hiên:
"Đi mau không bà tướng bà ấy hờn thì nguy".
Siêu khệ nệ bưng nồi về đặt lên bếp. Mùi lại mỉm cười:
"Bây giờ thì anh sang lấy trứng. Còn mấy quả để trong chạn ấy".
Siêu lại chạy đi. Mùi nghĩ mình lúc đó có vẻ một bà tướng thật. Lúc Siêu trở về, Mùi lại hỏi:
"Anh không lấy đũa bát, muối tiêu à?"
"Sao cô chỉ bảo lấy trứng. Còn gì nữa không, tôi chạy lấy luôn thể".
Mùi gật gật ngẫm nghĩ; còn một thứ nữa cần lấy nhất nhưng nàng không nói ra.
"Thôi thế tạm đủ".
Siêu đem đũa bát về:
"Nấu một ít cháo mà cũng lắm thứ lôi thôi tệ. Thật à nấu bát cháo chạy ba quãng đàng".
Khi cháo gần nhừ, Mùi nói với Siêu:
"Có thuốc gì không nhỉ. Em khóc cũng nhẹ nhưng vẫn chưa hết hẳn".
"Có thứ thuốc của mợ tôi. Nhưng tôi không dám cho cô uống".
"Phiền nhỉ".
Ngừng một lát lâu, rồi Mùi hỏi:
"Tại sao anh lại hút thuốc lá nhỉ?"
"Thấy ngon thì hút chứ còn biết tại sao".
"Anh quấn em một điếu, em thử hút xem".
"Thuốc lá thì đắng chết".
Nói thế nhưng Siêu cũng đứng dậy lấy thuốc lá và quấn một điếu nhỏ đưa cho Mùi. Siêu đánh diêm rồi đứng đợi Mùi hơ đầu thuốc lá vào ngọn lửa; chàng chịu khó đánh hai ba que diêm, đầu thuốc lá đã đen nhưng vẫn không cháy. Siêu mỉm cười vì thấy Mùi cũng châm thuốc lá như vậy đúng như chàng đoán. Chàng khó chịu lắm mỗi lần thấy ai châm như thế và chàng nghiệm ra rằng trong mười người châm thuốc lá như thế thì đến chín người là đàn bà, nhất là các bà nào mới tập hút thì mười bà đều châm theo cách ấy cả mười. Sau cùng chàng bảo Mùi để thuốc lá lên miệng hút thì sẽ cháy ngay. Mùi làm theo và vừa hút vào một hơi, nàng đã vội đưa điếu thuốc cho Siêu, rồi lấy tay che miệng ho rũ rượi, nước mắt ứa cả ra. Mùi lấy khăn lau nước mắt:
"Say chết, chẳng ngon gì. Thế mà anh lại nghiện được".
Nàng chỉ cốt hút thuốc lá để nói đến rượu được tự nhiên, vì thế nàng tiếp ngay:
"Uống rượu còn dễ hơn nhiều".
Nói xong Mùi nhìn Siêu đợi; nhưng Siêu vẫn không nghĩ đến việc bảo nàng uống rượu.
"Cái gì có cay thì mới dễ nghiện. Nhịn đói được chứ nhịn thuốc lá thì khổ lắm".
Lưỡng lự một lúc lâu rồi Mùi lại hỏi:
"Tại sao những thứ như thuốc lá, chè tàu, rượu (tiếng rượu nàng có ý nói ra sau cùng và dằn vào một tí) lại làm người ta nghiện nhỉ?"
"Tại trong đó có những chất làm cho người ta say. Trong thuốc lá có chất ni-cô-tin, trong rượu có chất rượu, trong..."
Mùi ngắt lời:
"Trong rượu chẳng có chất rượu thì chất gì".
Sau một lúc yên lặng, Mùi lại hỏi:
"Chất rượu nó thế nào cơ?"
"Trong rượu có chất rượu và nước lã. Chất rượu không pha chỉ dùng làm nước hoa, làm thuốc. Uống vào thì cháy gan cháy ruột".
"Thế sao hôm nọ em uống không thấy cháy gì cả".
"Cô không biết, uống pha nước thì rượu làm cho mạch máu lưu thông, trong lòng vui vẻ..."
Mùi nhắc lại:
"Rượu làm cho mạch máu lưu thông hay người vui vẻ à?"
"Vâng, nhưng uống nhiều quá thì có hại".
Mùi khó chịu vì Siêu đã nói thế mà không nghĩ đến việc bảo nàng uống rượu cho hết buồn. Mùi ngập ngừng; nếu nàng không nói ngay lúc này thì không có dịp nói đến tự nhiên được nữa; nàng sợ ngượng nếu Siêu đoán biết là nàng đã có ý xấu muốn uống rượu từ lâu. Câu nói của Siêu làm cho việc nàng nghĩ đến uống rượu là đột nhiên vụt ra chứ không phải định tâm. Mùi nói luôn:
"À, hay là em uống một tí rượu. Anh bảo rượu nó làm cho mạch..."
"Ồ, phải đấy. Chết chửa thế mà không nghĩ ra".
Lời nói của Siêu, Mùi nghe như một lời reo vui, hưởng ứng với nàng. Nàng nhẹ hẳn người và tưởng chắc sẽ bẽ lắm nếu Siêu hơi tỏ ý lấy làm lạ nàng lại nghĩ đến uống rượu. Siêu tiếp theo:
"Khổ, thế mà bây giờ cô mới nghĩ ra. Giá nghĩ ra từ lúc chiều có phải đỡ khổ mấy giờ đồng hồ. Rượu đâu để tôi đi lấy".
Mùi thấy Siêu mừng cuống quýt như là chính chàng đương bị bệnh mà tìm ra được thuốc chữa. Nàng nói:
"Rượu ở cái hũ để dưới cái hòm chân ấy. Anh lại phải vào ăn trộm một lần nữa".
Nàng hơi khó chịu là thấy Siêu cầm cái chén uống chè đi lấy rượu. Uống chén ấy Siêu có lẽ đủ say chứ đối với nàng thì không thấm. Nhưng nàng không nói gì. Bước xuống hiên, Siêu giật mình, nhìn cái chén nhìn Mùi mỉm cười một cái rồi lại cái tủ chè lấy một cái tách lớn. Mùi mỉm cười gật gật như tỏ ý biểu đồng tình với Siêu.
Siêu cố ý rót rượu thật đầy tách. Đi đến chỗ để những chậu lan chàng đứng lại rồi cho tách lên miệng, lặng người ngẫm nghĩ và thấy trong lòng nóng ran vì cái thú mong đợi. Chàng uống một ngụm to cho hơi say để mạnh bạo hơn và cố khuyên Mùi uống nhiều một tí cho nàng quá say. Đi đến đầu nhà thờ, Siêu lại ngừng lại uống thêm một ngụm nữa.
Siêu đưa tách cho Mùi:
"Uống rượu mà không có gì nhắm".
Mùi cầm lấy tách đưa lên môi làm như coi rượu là một thứ thuốc càng uống nhanh càng hay.
"Uống rượu đâu. Uống thuốc thì cần gì đồ nhắm".
Nàng uống một phần tư tách, nhắm mắt nhắm mũi uống như là cố uống một thứ thuốc đắng. Nhưng thực tình, dẫu không có đồ nhắm, nàng cũng thấy rượu là ngon. Nàng thấy rượu ngon ngay từ hôm đầu tiên trong đời uống đến rượu. Mặc dầu thế và tuy hũ rượu lúc nào cũng để cạnh giường nàng không bao giờ nghĩ đến uống cả. Bỗng nàng ngạc nhiên nhìn da mặt đỏ hồng của Siêu:
"Anh đã uống vụng rượu..."
Siêu mỉm cười:
"Tôi rót lỡ tay đầy quá, sợ sánh ra ngoài, tôi phải uống một tí để cầm tách cho dễ".
Mùi với cái chén chè rót một chút rồi đưa cho Siêu:
"Uống rượu như uống thuốc thành quên cả mời anh. Anh cũng uống một tí cho vui".
Siêu để Mùi nằn nì mãi mới chịu uống, nhưng chàng chỉ nhắp một ngụm nhỏ. Hai ngụm uống ở tách lúc nãy đã làm chàng say bâng khuâng vừa vặn thú; chàng không dám uống nhiều sợ say quá mà lại không đủ rượu để cho Mùi đủ say.
Uống hết nửa tách, mà tách ấy cũng bằng hơn một cốc uống hôm Siêu mới về xóm, Mùi đã hơi choáng váng, trong người lâng lâng nhẹ.
Lúc sắp sửa ăn cháo, Mùi cầm tách uống cạn:
"Uống lúc đói hay no mà chóng say thế. Em đã thấy say hơn hôm anh mới về uống bốn cốc nhỏ".
Ăn xong cháo, còn chỗ rượu ở chén, Siêu đưa cho Mùi bảo uống nốt. Mùi thấy uống đã đủ say nhưng uống thêm một ít nữa có lẽ lại say một cách tự nhiên hơn, nàng cầm chén uống cạn rồi vừa giơ tay đỡ vừa đi lần về cái ghế mây. Nàng đưa nhẹ khuỷu tay cho cái chén trên bàn đổ nghiêng nhưng không lăn xuống vỡ. Siêu chạy đến dựng cái chén đổ rồi giúp Mùi ngồi xuống ghế.
"Say, hết buồn nhưng lại bị say... Cả cái nhà anh nó cứ chạy chạy đến hay. Anh có thấy thế không? Anh cho em xin chén nước".
Mùi cầm chén để sóng ra gần hết, ướt cả áo. Siêu phải đỡ lấy chén, rót thêm nước rồi cầm cho Mùi uống.
"Cám ơn anh".
Mùi đặt đầu xuống thành ghế, nhìn lên mái ngói. Nàng nằm đợi rượu ngấm, để say hơn một chút nữa thì mới vừa.
Siêu dọn xong các thứ rồi cũng đến ngồi ở giường. Hai người đang say nhưng thấy đều ít nói và nét mặt trở nên nghiêm trang. Mùi cố tránh nhìn vào Siêu. Quả tim nàng đập mạnh và nàng thấy lo sợ. Giá còn rượu ở ngay cạnh thì nàng đã uống thêm một ít nữa; bảo Siêu lấy thêm rượu thì không được vì nàng đã nói là quá say rồi, với lại cầm cái chén cũng không nổi mà đòi uống thêm là vô lý. Uống nhiều thế để làm gì. Mùi nhắm mắt lại khiến Siêu tưởng là nàng ngủ.
"Nếu cô buồn ngủ rồi thì về ngay mà ngủ cho khỏi mất giấc. Ngủ được thì tốt".
Mùi vội mở mắt:
"Chưa anh ạ. Em định nhắm mắt lại xem đã buồn ngủ chưa, nhưng chưa thấy gì. Vả lại bây giờ hết buồn rồi thì ngủ hay không cũng không cần lắm".
Độ mười phút sau, thấy mình đã say hơn, Mùi đứng lên và mừng thấy mình đã choáng váng thực, người lảo đảo đứng không vững.
"Thôi em về đi ngủ thôi. Cám ơn anh".
Bước xuống bực hiên, Mùi bước hụt suýt ngã, may lại nắm được cái cột. Siêu đứng lên toan giơ tay nắm lấy cánh tay để đỡ nàng đi, bỗng mỉm cười nói:
"Cô cởi áo ra đã chứ?"
Mùi nói:
"Ừ nhỉ".
Cả hai người đều cho việc cởi áo là cần vì sợ sáng mai mọi người thấy Mùi ngủ mà lại mặc áo của chàng. Mùi một tay bận giữ cột cho khỏi ngã nên loay hoay mãi không cởi được áo. Cái nách áo vướng chặt lấy vai nàng kéo mãi không xuống. Siêu chạy lại để giúp. Mùi bỏ tay giữ cột để Siêu cởi áo. Siêu thấy Mùi say quá rồi, cả người nàng cứ mềm đi chỉ chực ngã nên phải vừa cởi áo vừa đỡ lấy người nàng.
Chàng thấy thân Mùi trong tấm áo rộng, cổ áo mở rộng để lộ cả hai vạt áo cánh trắng hơi giống bức tranh vẽ Dương Quý Phi tuý tửu; áo nàng cũng lôi thôi xốc xếch như Dương Quý Phi trong bức tranh, mái tóc nàng rối lung tung, xổ cả xuống trán, đầu nàng đặt nghiêng và thân nàng dựa vào người chàng như Dương Quý Phi dựa vào hai con thị tì. Siêu cởi áo thong thả, làm như chỉ chú ý đến cách cởi áo thế nào cho Mùi khỏi ngã nhưng cả người chàng nóng ran vì cái thú được ôm lấy người nàng mà cởi áo cho nàng. Mùi tóc thơm, mùi của da thịt, chàng tuy uống rượu mà cũng ngửi thấy rõ. Hơi ấm của người Mùi toả ra và cái êm êm cảm thấy ở bàn tay khi nắm vào thân nàng, tất cả những cái cựa quậy mềm yếu của người nàng trong tay mình, làm chàng thấy lần đầu tiên đối với Mùi cái thú của lòng thèm muốn vì xác thịt hoà hợp với cái thú của tình yêu.
Chàng đã cởi xong áo nhưng tay vẫn còn đỡ lấy người nàng; ôm ngang tấm thân Mùi chỉ mặc chiếc áo cánh mỏng chàng lại nhận thấy rõ hơn cái êm ấm và cái nồng nàn của da thịt nàng trong bàn tay. Thoáng trong một dây chàng vụt có ý nghĩ ôm hẳn lấy Mùi và hôn lên má nàng, lên cái cổ tròn Mùi đương ngửa ra và cả trên ngực nàng giữa hai bầu vú tròn phồng lên dưới vạt áo mà chàng đoán có một mùi sữa thơm chắc mê hồn. Chàng dám chắc có làm thế Mùi cũng không kháng cự. Siêu thở dài một cái rồi cất tiếng nói:
"Vất vả quá mới cởi xong cái áo".
Chàng vất cái áo lên ghế mây rồi vực Mùi đi xuống hiên. Lúc vực được Mùi vào trong nhà, Siêu lo sợ ông Lang thức giấc chạy ra và thấy cái cảnh kỳ khôi, đêm khuya chàng vực Mùi say rượu. Chàng mừng thấy Mùi say thì chỉ miên man yên lặng chứ không nói lảm nhảm, chắc Mùi cũng biết sợ có người thấy nàng say rượu. Lần lần mãi mới đưa được Mùi đến giường mà không chạm bàn ghế. Chàng đặt người nàng nằm trên giường, kéo chăn đắp cẩn thận. Vì cúi đầu xuống sát mặt nàng trong bóng tối, nên chàng dễ vô tình chạm vào môi vào tóc và cả vào má Mùi. Chàng nói thầm vào tai Mùi:
"Cô cố ngủ đi nhé".
Chàng hít mạnh mùi thơm của tóc Mùi và nghe thấy tiếng nàng nói rất khẽ như một tiếng thở dài sung sướng:
"Say quá..."
Siêu đi khỏi, Mùi nằm lặng người đi một lúc rồi mỉm cười. Tường nhà đã bắt đầu chạy vùn vụt, người nàng lúc bổng lúc chìm nhưng lần này nàng không say quá như lần trước nên trong người phiêu phiêu dễ chịu. Nàng bâng khuâng nghĩ đến lúc Siêu cởi áo cho mình, tuy Siêu say nhưng nàng cũng thấy không phải chàng vô tình cởi áo lâu để được ôm lấy người nàng lâu hơn. Nàng nhận thấy rõ lắm là lúc cởi xong áo ngoài, khi bàn tay Siêu nắm lấy người nàng chặt hơn, có cái gì hơi khác thường, hình như Siêu cũng như nàng đều cảm thấy lại cái thú ôm nhau hồi còn bé. Rồi đến khi Siêu vực nàng về nhà, hai người không nói gì nữa, yên lặng đi trong vườn tối, Mùi có cái cảm tưởng êm thú là được một người tình nhân ôm lấy mình và hai người hình như đương đưa nhau đi đến một thế giới thần tiên nào.
Mùi thả người để cho hơi say đưa nàng chơi vơi ở quãng không và ngủ đi lúc nào không biết, trên môi còn điểm nét cười.
Chương XVIII
Cái thắt lưng
Bé khép cửa rồi đi vào buồng xép, lấy cái va li đặt trên ổ rơm. Sáng ngày nhờ bác Lê gái trông hàng hộ một lúc, Bé chạy vội sang bên phố Phủ để mua cái thắt lưng lụa mầu hoa thiên lý. Cái dây lưng ấy, từ khi Mùi chưa đi cân gạo, mỗi lần đi bán bánh cuốn qua cửa hàng bà Lục, Bé cũng không quên nhìn vào cho đỡ thèm. Cái dây lưng ấy đắt tiền quá và nhất là sang quá nên Bé không dám mua. Hôm qua Mùi vừa trả tiền công tháng và ngỏ lời từ tháng sau sẽ tăng lương vì chỗ Bé một mình phải thay Mùi bán hàng nên Bé vội chạy đi mua ngay; trong một lúc quá mừng rỡ nàng không cảm thấy việc mua chiếc dây lưng ấy là hoang phí và táo bạo. Nàng định đợi đến dịp Tết mới thắt đến nó, như vậy mẹ nàng không nỡ cự nàng hay làm đỏm.
Bé có tính sạch sẽ và săn sóc đến sự ăn mặc, trái ngược hẳn với mọi người trong nhà bác Lê, nhưng vì nàng ở làm thuê với Mùi cần phải thế nên ai cũng cho là tự nhiên, cũng như Tý từ ngày đi học cần phải ăn mặc tử tế và sạch sẽ. Mùi thỉnh thoảng cho Bé khăn yếm và áo cũ nên Bé ăn mặc lúc nào cũng có vẻ sang mà không tốn mấy tiền. Nhưng còn tự nhiên mua cái thắt lưng lụa màu thiên lý mà ngày nào cũng thắt nó, Bé thấy như thế là làm dáng quá và không khỏi bị mọi người chê bai.
Bé lấy chìa khoá mở va li rồi rút cái dây lưng ra lật khăn che mắt ngắm nghía, rồi đưa ra phía ánh sáng. Cái màu nó đẹp quá và đem về nhà nó lại đẹp hơn lúc còn treo ở hàng bà Lục. Bé thắt vào người và cúi xuống nhìn rồi thắt đi thắt lại đến năm sáu lần, mà lần nào trông cũng đẹp cả. Bé với cái gương soi. Cái gương bé quá, nàng phải dí mũi vào mặt gương, hơi thở làm mờ cả gương, và nàng phải xoa tay mấy lượt nhưng cũng không sao nhìn thấy cả mặt mình, cái yếm trắng và cái đầu thắt lưng ở trong gương cùng một lúc. Bé nghĩ ra một cách là đưa cái gương thật nhanh từ trên xuống dưới; nàng mỉm cười vì làm thế thì nhìn thấy rõ cả mặt, cái yếm và thắt lưng. Mỗi lần đưa cái gương xuống dưới thì nàng lại thấy mặt gương hơi sáng lên vì màu xanh của chiếc thắt lưng. Bé ngẫm nghĩ nếu Đỗi được trông thấy nàng với cái thắt lưng mới này thì chắc Đỗi cũng phải hoa cả mắt. Nàng hơi buồn là nếu chỉ có dịp Tết mới dám mặc mà Tết thì nàng lại phải về quê, Đỗi không được nhìn. Bé cởi dây lưng rồi ngồi xuống cạnh cái va li, gấp thắt lưng lại. Cái va li ấy cũng của Mùi cho; tuy là một cái va li cũ nhưng Bé cũng thấy nó sang lắm; cứ hôm nào trời hơi ẩm một tí mà có nắng mới là Bé lại đem cái va li và hết cả quần áo ra trước cửa hàng phơi để khoe với mọi người qua lại.
Trong cái va li, Bé để rất nhiều thứ và xếp đặt rất ngăn nắp. Tuy chẳng cần gì xếp lại, Bé cũng lấy hết cả các thứ trong va li ra để được cái thú xếp lại và ngắm nghía từng thứ một. Vả lại việc mới mua thêm cái thắt lưng và tìm chỗ xếp là cái cớ để nàng xếp lại cả va li. Nàng mở cái hộp bánh bích qui, lấy ra mấy tập vải mẫu của hãng Samaritaine. Bé cũng không biết đấy là các vải mẫu; đã lâu lắm sang bên ông Ký rượu ở phố Phủ thấy trẻ con đương nghịch và có nhiều lắm, nàng đã cướp được ba tập đem về cất trong hộp rồi thỉnh thoảng lại giở ra ngắm nghía. Bé thấy những miếng vải đó đẹp lắm song cũng chưa biết sẽ dùng vào việc gì. Dưới cùng hộp là cái tranh quảng cáo cho bánh bích qui. Nàng đã xin được cái hộp bánh của cậu Ấm Hải; lúc về nhà mở hộp, nàng thấy lẫn trong giấy bóng có cái tranh. Nàng thấy tranh vẽ một người Tây còn trẻ, tay khoác một cô đầm cũng còn trẻ, có hai con mắt to và hai gò má đỏ hồng, hai người ngồi cạnh cái bàn để rượu và bánh. Bé đoán hai người ấy là hai vợ chồng và lại thấy rõ là mới lấy nhau. Nàng nghĩ thế vì nàng cho là chỉ vợ chồng mới lấy nhau mới ôm cổ nhau. Mỗi lần Bé nhìn cái tranh, nàng lại thấy ngường ngượng, hơi thẹn; nàng lấy làm lạ là người Tây sao họ lại đem vẽ hai người đàn ông đàn bà ôm cổ nhau trước mặt mọi người như thế rồi lại cho cái tranh vào hộp bánh không sợ trẻ con nhìn thấy. Giá lúc cậu Ấm Hải cho nàng cái hộp, nàng nhìn thấy cái tranh vẽ thì không bao giờ nàng dám nhận, nhưng vì về nhà nàng mới biết nên nàng không vứt đi, đem để xuống đáy hộp và úp mặt vẽ xuống dưới. Thỉnh thoảng xếp lại va li, nàng lại lật tấm tranh lên ngắm nghía cái tay người đàn ông quàng qua cổ người đàn bà và thèn thẹn. Bé cho má người đàn bà sở dĩ đỏ như thế chắc cũng vì thẹn lắm. Lần này Bé ngắm nghía cái tranh lâu hơn và thấy thẹn hơn vì nghĩ đến một ngày kia cũng được Đỗi ôm lấy cổ như thế; cố nhiên là ôm vai nhau không có ai trông thấy(chứ không như hai người tây đầm kia); chỉ mới đặt chân lên nhau đã thấy thẹn chết người rồi, nếu Đỗi ôm lấy vai nàng thì không biết sẽ thẹn đến thế nào. Bé đặt úp cái tranh xuống đáy hộp, lấy cái tập mẫu vải phủ lên rồi thôi không nghĩ nữa.
Rồi Bé mở đến cái hộp đựng kim chỉ, mở cái túi tiền lấy ra năm đồng bạc còn mới nguyên là số tiền nàng đã để dành được mà cả bác Lê gái cả Mùi cũng không biết. Bé sợ nhất là Mùi biết, vì thế Bé không dám giắt ở trong người. Số tiền công hàng tháng, Bé phải đưa mẹ gần hết chỉ giữ lại một hai hào; trong số tiền năm đồng hơn một nửa là tiền nàng đã ăn bớt của Mùi. Mỗi ngày, nàng nhất định chỉ ăn bớt có một xu và ngày nào cũng ăn bớt. Có dịp may có thể ăn bớt được đến bốn năm xu nhưng Bé cũng chỉ ăn bớt có một xu thôi và còn mấy xu kia đưa cho Mùi. Mùi thấy Bé bán được hời giá mà cũng đưa cho mình nên càng tin là Bé thật thà và thường thường nàng cho lại cả Bé. Sự thực cũng không phải là Bé ăn bớt. Những lúc bán cho những nhà giầu và nhất là khi người mua là đàn ông thì nàng nói giá cao lên một xu hay có khi hai xu. Từ ngày Mùi đi cân gạo, nàng phải ngồi hàng nên không ăn bớt như thế được nữa.
Từ ngày Mùi đi cân, Bé phải săn sóc đủ các thứ; nàng đâm lo lắng như chính nàng là chủ cửa hàng và khó chịu lắm. Lắm hôm cửa hàng ế, nàng cũng thấy hơi buồn và ngượng với Mùi như chính vì lỗi tại mình nên cửa hàng ế. Trước kia, Mùi dặn bảo làm cái gì thì nàng làm cái ấy, chỉ việc nghe theo, yên tâm không phải nghĩ ngợi. Bây giờ bất cứ việc gì, việc cân nhắc làm bao nhiêu bánh, rán bao nhiêu chả, việc giao thiệp với khách hàng, mọi việc trách nhiệm đều ở cả một mình nàng. Việc làm Bé khổ sở nhất là việc bán các thứ thuốc; Bé đã cố nhớ lọ nào là lọ thuốc đau bụng, lọ nào là lọ thuốc sốt nhưng vẫn không dám chắc hẳn và khi bán xong cho ai một thứ thuốc gì, nàng lại bắt đầu lo sợ mình nhầm, người ốm uống nhầm thuốc bị trúng độc chết. Cách thức uống thế nào thì Bé học mãi mà không sao thuộc được. Thành thử thấy mỗi lần có người đến mua thuốc, Bé lấy làm sợ hãi vô cùng và chỉ mong người ấy đến mua thuốc giun vì thuốc giun dễ nhận nhất. Từ hôm nàng phải ngồi miết ở hàng, Bé nói với Mùi giao bác Lê gái việc đem bánh,chả đem bán bên phố Phủ, nhờ thế mẹ nàng cũng kiếm thêm được ít nhiều.
Bỗng nhiên Bé vơ lấy hết cả các thứ để bừa bãi chung quanh người ấn vào va li một cách hỗn độn, khoá lại chỉ trừ cái dây lưng là để ở ngoài. Bé đưa mắt nhìn ra ngoài trời và hơi lo là có cơn mưa. Nàng chải đầu, vấn khăn lấy chiếc khăn lụa hoa che mắt rồi cuộn cái dây lưng mới cho thật nhỏ, nhét vào túi áo trong. Bé vừa sực nghĩ ra là bỏ cái dây lưng vào túi áo lúc đến gần bến đò mới thắt, như thế Đỗi có thể nhìn nàng với chiếc thắt lưng mới mà người ở xóm không ai biết. Vì thế nàng định đi ngay sang bến Trò để khoe với Đỗi cái thắt lưng mới.
Bé khoá cửa ngoài, cơn mưa đã gần tới nhưng Bé không dám đi nhanh; gặp bác hai Liên, nàng đứng lại, nói chuyện một lát rồi lại chạy sang bên cụ Huế Hai. Bé làm như chạy sang chơi với các nhà ở xóm chứ không phải đi đâu. Rồi nàng rẽ ra chợ đi về phía nhà bác Bút. Nàng mừng thấy nhà bác Bút đóng cửa và đi quẹo ra phía con đường đi ra bến Trò.
Gần đến lăng cụ Quận, Bé dừng lại và lấy dây lưng ra thắt. Gió thổi mạnh và trời tối sầm lại, nhưng lúc đó Bé không sợ có cơn mưa nữa. Những đầu dây lưng bay phấp phới trong gió, nền trời tối lại càng làm cho sáng thêm màu hoa lý của chiếc thắt lưng. Gió mạnh thổi dán vải váy vào đùi làm Bé bước vương vướng. Gần đến lúc gặp Đỗi để khoe chiếc dây lưng mới, Bé lại thấy bắt đầu ngượng. Nàng lại mong lúc đó mưa ngay xuống để có thể đến với Đỗi được tự nhiên, lấy cớ là tạm lánh mưa. Nhất là lúc đó gió thổi từ phía sau người lại, các đầu dây lưng cứ bay toả ra trước mặt nàng, trông đẹp và sang một cách lộng lẫy quá.
Đỗi thấy đã chiều và trời sắp mưa, toan về thì trông thấy Bé. Chàng ngửa mặt sung sướng nhìn Bé đi xuống bờ sông. Người Bé in lên nền trời mây đen, nên cái khăn che mắt trắng hẳn lên. Cái khăn trắng rung rung trong gió và các đầu dây lưng phấp phới bay toả ra hai bên người nàng; Đỗi cũng để ý đến chiếc dây lưng mới và thấy Bé đẹp khác hẳn mọi ngày. Lòng chàng vui rối rít nhưng chàng lại bảo Bé:
"Có mau mau mà về, trời bão đến nơi rồi".
Bé bước chân xuống thuyền nói:
"Không mua bán gì hôm nay cả. Đi sang làng Thảo về đến lăng cụ Quận thấy trời sắp mưa phải rẽ vào đây mượn cái nón. Có nón không?"
Đỗi mỉm cười nhìn Bé rồi lại nhìn cái thắt lưng mới, ngẫm nghĩ một lát rồi nói:
"Hôm nay quên đem nón. Ngồi đây một tí đợi tan cơn hãy về. Cơn này thì chắc không mưa đâu mà sợ".
Cả Đỗi và Bé không ai để ý đến chỗ vô lý trong câu nói: nếu cơn này không mưa thì cần gì phải ngồi đợi cho tan cơn. Bé ngồi xuống và thấy thích là lần này Đỗi không nhìn vào mắt nàng mà lại chỉ nhìn vào cái dây lưng mới. Đỗi cũng quên cả hỏi xem mắt nữa. Đỗi thì thấy không cần bảo Bé lật khăn vì đã có gió lật hộ, chốc chốc gió lại lật chiếc khăn lên một lúc và chàng lại được nhìn mắt Bé tha hồ. Đỗi lại nhìn cái thắt lưng rồi ngửng nhìn mắt Bé, cứ như thế đến hai ba lượt, rồi mỉm cười. Bé gắt:
"Cười cái gì! Sáu hào rưỡi đấy".
Đỗi nói:
"Đẹp nhỉ, nhưng tôi cười cái khác cơ".
"Cái khác là cái gì?"
Đỗi đáp vắn tắt:
"Đằng ấy biết rồi".
Rồi chàng giơ tay với một đầu dây lưng, xoa xoa trong tay ngắm nghía:
"Đằng ấy hoang nhỉ?"
"Hoang gì. Người ta mua về để mặc Tết. À mai kia, tôi phải về quê ăn Tết".
"Sao không ăn Tết ở đây cho vui".
Tuy là về quê ăn Tết chỉ độ dăm bẩy ngày, ngắn hơn quãng thời gian giữa hai lần gặp Đỗi, mà Bé cũng thấy buồn bã trong lòng và lần này đến có vẻ như từ biệt Đỗi để đi đâu xa và lâu lắm. Bé nói:
"Về quê ăn Tết thích lắm chứ. Này làm thế nào bây giờ, mưa đến nơi rồi kìa. Con khỉ, thế mà dám nói mẽ là trời không mưa".
Đỗi cười xòa:
"Mưa thì chui vào khoang".
Mưa nặng hạt, gió thổi mạnh mà cái khoang lại thấp và chật. Hai người phải ngồi thu mình ở tận phía trong nhưng cũng không tránh được ướt cả chân. Nước mưa rào rào trên khoang, bắn cả nước vào mặt Bé và Đỗi. Những hạt mưa to và mau đến nỗi làm đục cả mặt nước sông. Bé và Đỗi ngồi yên bị bao trùm bởi mưa rơi khắp quanh thuyền và tiếng rào rào trên mái khoang không ngớt; hai người thấy xa hẳn thế giới bên ngoài và tuy vừa rét vừa ướt cũng mong cứ mưa thế mãi. Đỗi nhìn Bé:
"À quên mất, cho người ta xem mắt nào".
Bé gắt:
"Mưa thế này thì xem gì".
Nói thế nhưng nàng cũng đưa tay lật khăn lên và giắt hẳn hai đầu khăn vào cho gió khỏi thổi hắt xuống. Đỗi vừa nhìn Bé vừa ngẫm nghĩ. Quả tim chàng đập mạnh. Chàng thấy không lúc nào tiện bằng lúc này để ngỏ tình yêu cho Bé biết.
"Hừ, mắt sao độ này đỡ hẳn ra".
Bé cũng nghĩ nếu Đỗi lúc này có đặt tay ôm lấy vai nàng như trong bức tranh ở hộp bích qui thì nàng cũng không ngượng lắm.
Khoang chật nên hai người phải ngồi sát gần chạm người vào nhau. Mưa to như thế kia, chắc không có ai ra bến đò làm gì. Bé thấy là một cơ hội ít khi có và lấy làm khó chịu rằng cả đến việc giẵmchân nàng Đỗi cũng không nghĩ tới nữa. Bé lại nhìn trời mưa, nói:
"Mưa này thì biết bao giờ cho tạnh".
Nàng lại ngồi sát vào người Đỗi một tí. Đỗi cũng nhìn trời mưa:
"Không khéo bão rớt mất".
Rồi Đỗi cũng nghiêng người cho vai chạm sát mạnh thêm một tí vào vai Bé. Chàng gật gù nói:
"Bão rớt thì đến mấy ngày mới tạnh. Mùa này mà có bão kể thì lạ thật".
Chàng lại gật gù nữa như có vẻ lấy làm lạ về điều đó nhưng chỉ cốt được thấy vai mình cọ vào vai Bé. Bé nói:
"Mưa ướt hết cả vai rồi. Sao đằng ấy lại quên không đem nón".
Đỗi giơ tay đặt lên vai Bé:
"Ừ, ướt cả vai rồi".
Đỗi cứ để yên tay mình trên vai Bé. Một lúc sau Đỗi dịu giọng hỏi:
"Đằng ấy có lạnh không".
Bé gắt:
"Lạnh gì, đương nóng ran cả người đây".
Nói thế rồi Bé nghiêng đầu đặt má vào vai Đỗi. Bỗng Bé giật mình đến thót một cái, làm Đỗi hốt hoảng vội vàng bỏ tay ra, ngồi thẳng lên:
"Chết tôi rồi, nó thôi".
"Cái gì thôi".
"Cái thắt lưng".
Đỗi cười:
"Ngỡ gì. Làm người ta hết cả hồn vía tưởng có ai đến".
Bé cau nét mặt, nhìn một mảng xanh loang trên yếm trắng:
"Chứ không hết hồn vía à? Giời đất ơi! Cái thắt lưng sáu hào rưỡi".
Bé vội vàng cởi thắt lưng, sợ nó loang hết cả cái yếm. Đỗi yên tâm và mạnh bạo hơn, lại giơ tay ôm lấy vai Bé và lần này ôm chặt hơn vào cổ Bé. Bé như không để ý đến Đỗi ôm cổ mình, đưa cái thắt lưng ra ngoài mưa cho ướt hết rồi vắt và thấy nước thôi ra xanh lè. Tuy trong người mê man vì sung sướng, Bé cũng thấy tức đầy ứ lên cổ. Nàng không tiếc gì số tiền mua nhưng nàng khó chịu vì đã ao ước mãi, mong đợi mãi mới dám mua cái thắt lưng mà lại bị cái thắt lưng hỏng, lại vì háo hức mua quá nên quên xem xét cẩn thận nên bị bà Lục đánh lừa. Đem trả lại bà Lục và mắng bà ta một trận, nàng không dám làm vì như thế sẽ xấu hổ chết để bà ta biết mình đã bị hớ vì háo hức. Đến Tết thắt nó sẽ bị mẹ mắng là mua bán cẩu thả. Đem cất vào va li thì mỗi lần giở ra nó lại nhắc nàng đến cái bẽ đã bị lừa vì hấp tấp. Đỗi nói:
"Sao mình không xem cẩn thận rồi hãy mua".
Lần đầu tiên Đỗi gọi Bé là mình nên phải nói một câu cự Bé cho đỡ bớt vẻ thân mật. Bé rứt mạnh cái thắt lưng mấy cái như muốn xé tan cái thắt lưng.
"Im đi. Người ta đã tức lắm rồi, lại còn nói đay nói nghiến cái gì. Này, thế này là xong".
Bé vừa nói vừa vứt mạnh cái thắt lưng xuống dòng sông và nhìn nó trôi đi. Khi cái thắt lưng trôi khuất vào trong mưa, Bé nhẹ hẳn người, hết cả tiếc tiền, hết cả ngượng như là không từng mua dây lưng bao giờ. Bé nhìn xuống yếm và thấy hãy còn cái vết xanh; cũng may vết xanh mới loang ra có một tí, giặt chắc sẽ hết ngay. Bé lại đặt đầu mình vào vai Đỗi. Đỗi cúi đầu nói, cố ý làm cho má mình chạm vào thái dương Bé:

"Tôi mua một cái thắt lưng khác biếu đằng ấy nhé. Một cái cũng mầu hoa thiên lý nhưng cái này nhưng không thôi".
"Tốn chết".
"Không, tôi có tiền mà. Đằng ấy nhận đi nào. Cười đi chứ, mặt phụng phịu thế này khó chịu chết".

Rồi Đỗi lấy tay lay người Bé mấy cái. Bé ngửa mặt thành ra má nàng chạm vào má Đỗi. Nàng gật gật và mỉm cười. Cũng như lần đầu tiên nhưng lần này rõ ràng hơn nhiều, Đỗi cảm thấy một thứ gì rất nồng nàn toả ở da thịt Bé ra và hợp với chàng lắm. Chàng thấy trước là khi lấy Bé làm vợ rồi, đầu gối tay ấp, đếm mấy chục năm cũng không sao chán được cái hơi nồng nàn của người Bé mà hơi ấy chàng chỉ thấy có riêng ở người Bé thôi. Đỗi nói:

"Thế ngày kia đến lấy thắt lưng nhé?"

Bé thẳng người lên, nói:
"Thế bây giờ đằng ấy cho em về nhé".
Khi nói đến tiếng "em", Bé lại thấy thẹn và sung sướng hơn cả khi má nàng chạm vào má Đỗi. Đỗi kéo tay mình về, nhìn trời mưa đã hơi ngớt, nói:
"Ừ thôi, mình về".
Chàng thò tay ra đằng sau khoang:
"Lấy cái nón này mà đi cho đỡ ướt".
Bé nhìn thấy Đỗi kéo ra một cái nón thật, không phải Đỗi nói đùa, Bé cốc mạnh một cái lên đầu Đỗi:
"Rõ thật, thế mà... Đồ nói dối".
Đỗi cúi đầu xuống, lấy tay xoa đầu rồi cười xoà:
"Thế đằng ấy có đi làng Thảo về không? Giời đánh đứa nào nói dối trước nhớ".
Bé ngượng nóng bừng cả mặt, tức Đỗi đã nhiếc mỉa mình và biết đích là mình chỉ cốt đến đẻ khoe cái dây lưng mới, nàng giơ tay toan cốc đầu Đỗi cái nữa, nhưng bị Đỗi nắm được lấy cổ tay vặn xuống. Đỗi nghiến răng bóp thật mạnh vào cổ tay Bé làm Bé đau nhói lên. Nàng cựa quậy cánh tay để gỡ ra. Đỗi nói:
"Thua chưa?"
"Thua thế nào được".
Rồi Bé giật mạnh tay thành ra kéo cả người Đỗi ngã về phía mình, nhưng Đỗi vẫn không buông tay lại bóp mạnh hơn làm Bé đau quá. Bé đâm cáu thật và giơ bàn tay kia mím môi véo một cái thật mạnh vào người Đỗi:
"Đồ vũ phu, có buông người ta ra không nào!"
Đỗi lại nắm chặt lấy cổ tay Bé và tay kia ôm ngang lưng Bé đặt người nàng ngả vào cạnh thuyền rồi Đỗi cúi đầu úp mặt vào ngực Bé, trên bầu vú. Tuy chàng đã thả lỏng cổ tay Bé mà Bé cũng không nghĩ đến kéo tay ra, yên lặng như thế một lúc rồi Bé đẩy nhẹ đầu Đỗi ra, ngồi thẳng lên, kéo cánh tay áo nhìn vào chỗ cổ tay bị một vệt lằn đỏ. Đỗi cũng nhìn vào vệt đỏ nhưng không nói gì. Cả hai người đều tránh nhìn mặt nhau. Sau cùng, Đỗi cầm cái nón đặt vào tay Bé. Bé cầm nón, chui đầu ra ngoài rồi đứng ở ván thuyền quay nhìn Đỗi. Đỗi cũng ngửng nhìn Bé. Hai người yên lặng nhìn nhau như thế một lúc lâu. Bé mỉm cười ngượng nghịumột cái rồi quay đi và Đỗi cũng mỉm cười ngượng nghịu cúi nhìn xuống ván thuyền.
Đi gần đến nhà bà Ký Ân cạnh chợ xóm, Bé mới sực nghĩ là mình quên chưa kéo cái khăn che mắt xuống.
Bé vừa đến cửa hàng thì có tiếng Nhỡ reo lên:
"Đây rồi!"
Bé giật mình nhìn sang hỏi:
"Gì thế anh?"
"Cô sang ăn cơm. Cả nhà đợi. Cô đi đâu về thế?"
Bé bất giác nhìn xuống chỗ thắt lưng, nói:
"Tôi có đi đâu đâu. Tôi chạy ra kia, bị mưa nên bây giờ mới về được".
Nhìn thấy mâm cơm có món giả cầy và đĩa thịt chân giò luộc, Bé ngạc nhiên. Bác Lê gái thấy vai áo Bé ướt đẫm nước, nói:
"Khổ con gái tôi chưa, ướt cả thế kia. Về bên nhà thay áo đã".
Bé dựa nón vào tường rồi ngồi ghé bên cạnh mâm:
"Con không sao, bu để mặc con. Sao bu độ này hoang thế?"
Nàng nói đến đĩa thịt để xoay câu chuyện sang việc khác để mọi người khỏi hỏi mãi về nàng. Bác Lê gái nói:
"Hoang đâu, thừa lộc quan Đốc đấy. Mua hai cái chân giò biếu quan Đốc một, quan giáo một thì quan Đốc lại vừa ra tàu về quê ăn Tết. Tao đem cả hai cái đem biếu quan giáo nhưng quan chỉ nhất định lấy có một cái".
Rồi bác lại nói khoe lại một lần nữa với Bé về việc ông giáo rất ân cần với bác, khen bác nhà nghèo mà cũng cố nuôi được con đi học và Tý, theo lời ông giáo nói, học thông minh lắm.
"Quan lại bảo nếu không đủ tiền thì cho Tý sang ở hầu hạ việc vặt, quan lại dậy thêm cho. Cũng may nhờ phúc Thần Đa nên được quan để ý đến nhà ta như thế này".
Sự thực ông giáo đã để ý đến bác Lê gái không phải vì nhờ phúc Thần Đa như bác tưởng. Hôm đầu tiên đi bán bánh cuốn thay Bé, thấy Bé nói nhà ông giáo cũng thỉnh thoảng mua bánh, bác đem bánh đến nhà ông giáo trước tiên. Lúc đương bốc bánh cho vào đĩa thì ông giáo tình cờ đi qua thấy bác rách rưới bẩn thỉu mà lại lấy tay bốc bánh không như cô bé bán hàng mọi ngày vừa sạch lại vừa có ý tứ lấy đũa gắp. Bán ở các nhà sang, Mùi đã dặn Bé phải lấy đũa gắp nhưng Bé quên không dặn lại mẹ. Nhìn thấy thế, ông giáo đứng lại:
"Hừ, sao bác lại..."
Bác Lê gái tưởng ông giáo đứng lại hỏi bác sao hôm nay lại đi bán hàng nên bác ngửng lên:
"Bẩm quan lớn, vâng, cô Mùi đi cân gạo, cháu bé bận ngồi hàng nên con phải đi bán thay. Bẩm quan lớn cả nhà phải làm ăn vất vả mới đủ tiền cho cháu Tý sang nhờ quan lớn dậy bảo cho".
Bác làm như việc Mùi đi cân gạo, việc nhà của bác, ông giáo đã biết cả rồi. Không mấy khi được ông giáo đứng lại hỏi đến nên bác sung sướng hỏi luôn ông giáo về việc Tý:
"Bẩm quan, quan xem cháu Tý nó có học được không ạ?"
"Hừ thằng Tý..."
Về thằng Tý thì ông giáo nhớ lắm vì đã nhiều người nói cho ông rõ về tình cảnh nhà nó. Thì ra người đàn bà rách rưới kia là mẹ thằng Tý:
"À, thằng Tý là con bác?"
Mắt bác Lê sáng hẳn lên:
"Bẩm quan lớn vâng ạ. Cháu có tám đứa con, nhưng chỉ có nó là... Cô Mùi, ông giáo Đông đều bảo nên cho nó đi học. Nhà cháu nghèo quan lớn xem cháu có học được không. Nếu nó..."
Ông giáo thấy bác tỏ vẻ rối rít vì cảm động; tay bác nhấc bánh lên lại bỏ xuống, mắt chớp nhanh và hình như hơi ướt.
"Thằng Tý nó học sáng dạ lắm. Nó học một ngày bằng đứa khác học ba ngày".
Bác Lê gái cúi mặt xuống, ứa nước mắt, lấy tay xỉ mũi hất một cái mạnh, làm ông giáo đứng lùi ngay lại. Bác Lê gái quệt tay một cái vào váy rồi bốc chiếc bánh cuốn cho vào đĩa. Ông giáo vào nhà bảo con gái ra chọn lấy chiếc bánh khác và ở dưới cùng nhưng sáng hôm ấy, riêng ông, ông không ăn bánh cuốn.
Hôm đưa chân giò đến biếu, ông giáo cũng nhắc lại đến chỗ Tý ngoan, chăm học và sáng dạ. Bác Lê gái vì thế sung sướng hơn cả ngày bán lợn. Bác đã có lúc nghĩ đến việc mua rượu cho chồng uống nhưng thấy chồng hình như không nghĩ gì đến rượu nên bác lại thôi. Bác Lê trai thì hôm ấy lại nghĩ đến việc uống rượu nhiều hơn là hôm bán lợn. Nhất là hôm nay trời cũng mưa to. Bác mới nghĩ ra được một cách mới và nếu cách ấy được thì cả đời không những bác không khổ sở vì rượu nữa mà lại sung sướng vì rượu. Cách ấy giản dị lắm và bác lấy làm lạ sao bây giờ mới nghĩ ra. Bác nghiệm ra rằng uống xong một chén đầu thì trong người bàng hoàng dễ chịu ăn ngon miệng, uống chén thứ hai thứ ba say đậm hơn và dễ chịu hơn nhưng lại phải cái say mê hẳn đi và đánh chửi vợ con. Bây giờ bác chỉ uống một chén thôi, tuy say không thú bằng khi uống hai ba chén nhưng cũng là say đủ để thú và ăn ngon miệng mà chiều nào cũng được uống. Bác nhớ lại một hôm Tết mấy năm trước, tình cờ đến nhà ông Hàn Điểm được ông cho uống một cốc rượu mùi. Bác không nhớ lại rõ cái thú say như thế nào nhưng có một điều chắc là ngày hôm ấy bác vẫn đi mừng tuổi các nhà, không xẩy ra chuyện gì. Nhưng lần khân mãi bác chưa dám nói ra với vợ. Đến lúc bắt đầu ăn thì hết không nói được nữa, lại phải đợi đến hôm Tết mới có dịp thử cách mới đó. Cũng may Bé lại đi đâu chưa về, phải đợi thêm một lúc nhưng bác cũng chưa dám nói. Bác bảo Bé:
"Đi về mà thay quần áo đi. Chúng tao đợi cũng chẳng sao. Mặc áo ướt rồi lại bị cảm sốt như hôm nào thằng Tý câu tôm ở bến Trò".
Bé sang bên cửa hàng. Bác Lê trai đưa mắt nhìn vợ một cái, mỉm cười. Bác toan nói. Bác Lê gái chợt nghĩ có lẽ chồng mình đã mua giấu được chai rượu nào chăng như hôm bán lợn.
"Này nếu đã mua trộm được rượu thì đem ra đây cả nhà uống".
Bác Lê trai mừng rỡ; bác mỉm cười một cái thật tươi:
"Làm gì có rượu. Này, bu này, tôi mới nghĩ ra được một cách".
Rồi bác thong thả nói rõ cho vợ biết và dò ý tứ vợ.
Bác Lê gái nhìn trừng trừng vào mặt chồng; hai con mắt phủ nhài quạt của chồng bác thấy như có dấu mưu mô đánh lừa bác. Biết đâu không là uống một tí lấy đà say để không sợ gì ai nữa và chạy đi mua thêm rượu về uống.
"Uống thì uống không sao".
Bác Lê gái nghĩ thế nhưng phải là do tự ý bác thuận mới được. Nhỡ nhìn cha thương hại và nói với mẹ:
"Hay bu cứ mua một ít về xem sao. Bu chỉ mua một chén thôi. Bu cũng uống một tí cho vui".
Tý cũng bênh cha nói chêm vào:
"Uống một tí không sao đâu bu ạ. Con cũng uống một tí".
Rồi Tý cười và cúi đầu xuống như để tránh cái cốc của mẹ. Thấy vợ có vẻ thuận, bác Lê trai mừng rỡ và nói đùa:
"Mua có một chén mà đứa nào cũng đòi uống một tí cho vui thì còn gì phần tao nữa".
Bác Lê gái cũng cười vui vẻ:
"Chúng mày đứa nào cũng về bè với bố. Tao cũng đến chết với bố con mày thôi. Thôi tao đi".
Nhỡ nói:
"Bu để con đi mua cho".
"Mày đi thì ai dám bán. Mày lại mua một chai to về thì đến chết tao".
Bé đi sang nhà thấy mẹ ở cửa đi ra tay cầm cái chai không, vội hỏi:
"Bu đi mua gì?"
"Tao đi mua rượu.
"Bu đi mua rượu?"
"Ừ tao đi mua rượu cho bố mày uống".
Bé lật khăn che mắt, nhìn mẹ mỉm cười. Bác Lê gái hỏi:
"Mày cũng muốn uống à?"
"Không, con uống vào đau mắt chết. Phải đấy hôm nay có chân giò, thầy uống một ít rượu cho vui".
"Lại mày nữa. Tao cũng đến chết. Thôi tao đi".
Bác đến thẳng nhà ông Năm Bụng. Thực ra hôm nay chính bác, bác cũng muốn uống rượu vì thế bác cần mua rượu lậu dễ uống hơn. Bà Năm Bụng đương ngồi thấy bác Lê đi vào, vội vàng đứng dậy, dắt hai đứa con vào buồng. Bà tưởng chồng mình đã bán rượu cho bác Lê trai và bây giờ bác Lê gái vác chai không đến làm tang chứng để mắng chồng mình. Ông Năm Bụng thì không sợ hãi gì, ông cất tiếng hỏi:
"Bác mua rượu để cúng?"
"Không tôi mua rượu cho thầy cháu uống".
Ông Năm Bụng hừ lên một tiếng nhưng nét mặt ông vẫn không tỏ vẻ ngạc nhiên. Bán xong, ông đứng ở cửa và những vết nhăn ở đuôi mắt ông giãn ra như mỉm cười.
Cụ Huế Hai đương ngồi ở bực cửa hát nghêu ngao. Cụ đã uống xong bữa rượu chiều nhưng vì cụ Huế Cả đi sang phố Phủ vắng nên cụ không sang sinh sự để cãi nhau được, cụ đành ngồi hát. Mọi người đều thấy rằng nếu không có cụ Huế Cả thì cơn say của cụ Huế Hai rất dễ chịu; cụ ngồi ở cửa hát đủ các giọng Huế và tiếng hát cụ nghe hay và buồn lắm. Gặp ai cụ chỉ nói đùa. Thấy bác Lê gái, cụ chạy ngay ra rồi kéo thắt lưng:
"Có rượu đấy à, cho lão này uống với".
Cụ nhắm mắt lại một lúc lâu rồi lại mở to ra gần như rách cả kẽ mắt, con ngươi cụ đưa đi đưa lại thật nhanh. Mắt cụ tròn xoe và long lanh như mắt mèo; cụ uốn éo người gần như ngã nhưng không ngã và cụ hất bàn tay một cái vào mặt bác Lê:
"Mua rượu cho chồng uống đấy à?"
Rồi cụ hát to vang cả phố theo giọng hát ru Huế:
"Ai kêu nheo nhéo bên sông, tôi còn mua rượu cho chồng tôi xơi".
Và cả phố ai cũng ngơ ngác nhìn bác Lê đi qua, tay cầm chai rượu. Về đến nhà, con cái ngồi ở mâm đều reo lên. Chỉ có bác Lê trai là ngồi im. Thấy các con đứa nào cũng vui mừng vì mình được uống rượu, bác cảm động. Trong mâm lại có đồ nhắm ngon. Giá nhà giầu, để chiều nào cũng có rượu ngon với thức ăn ngon như thế này, vợ con quây quần quanh mâm, vui vẻ như hôm nay, thì càng có nhiều con càng vui. Thoáng một lúc bác thấy nao nao nhớ Tuất đứa con trai của bác, năm sáu năm trước vì đói kém phải bán cho cụ đồ Vinh làm con nuôi; Tuất ở với cụ đồ Vinh được ăn no mặc ấm nhưng lúc này bác lại thấy thương Tuất. Bác đưa mắt nhìn vợ đương chăm chú rót rượu ra hai cái chén cho vừa đầy, trong chai còn thừa một ít đem hắt ngay xuống đất. Bác Lê gái bưng cốc đưa cho chồng.
"Mời thầy nó xơi".
Bác Lê trai đỡ lấy cốc đưa lên môi nhìn vợ nói:
"Bu mày..."
Bác Lê gái cũng nâng chén nhìn lại chồng mời:
"Thầy mày..."
Bác Lê trai nhắp một ngụm nhỏ và thấy ngon như người khát được uống nước suối. Bác gái cũng uống một hụm và cay chảy cả nước mắt. Bác Lê trai toan nói:
"Giá lúc này mà có cả thằng Tuất..."
Nhưng bác không dám nói ra sợ vợ buồn. Bác lại cảm động vì hôm nay lần đầu tiên trong đời được vợ chiều mua rượu cho mình uống. Bác thấy nước mắt đã rưng rưng ướt cả mắt và bác chớp luôn để khỏi khóc; bác Lê gái thì tưởng chồng vì uống rượu nên cay mắt.
Nhỡ cũng nhấc chén uống một ngụm to. Chàng uống được rượu nhưng không mấy khi dám uống chỉ trừ những lúc ăn giỗ ở đâu hay hôm nào kéo xe đi thật xa trong người mệt mỏi. Bác Lê gái bảo Bé:
"Đau mắt gì. Uống một tí cũng không sao".
Nể mẹ, Bé cũng nhắp một ngụm, ngẫm nghĩ một lát rồi lại uống thêm một ngụm nữa và sau khi nhai xong miếng thịt luộc, Bé lại nhấc cốc uống một ngụm thứ ba. Bác Lê gái vội giằng lấy chén:
"Uống gì mà uống nhiều thế. Đau mắt chết.
Nói vậy nhưng sau khi uống, bác lại đặt chén bên cạnh Bé. Bác uống thế là say lắm rồi và thấy Bé uống được rượu, bác hy vọng Bé tiêu thụ được hết chén để bác Lê trai không có rượư uống thêm. Bác đã thấy choáng váng hoa cả mắt; bác nghĩ đến hôm nay chồng có say như mọi lần, cần phải đánh nhau một trận kịch liệt thì cũng đánh nhau chơi, không sợ gì.
Bác Lê trai đã uống gần cạn chén, trong người thấy phiêu phiêu dễ chịu. Bác thấy cái lối uống ít rượu có lẽ thành công và ngẫm nghĩ trước đến cái thú buổi chiều nào cũng được ngồi khề khà với một đĩa lạc rang hay đậu phụ chấm mắm tôm. Tuy say thế còn thòm thèm không thú hẳn như khi uống hai ba chén nhưng bác cũng tự an ủi là cái say nhè nhẹ nó có một cái thú khác.
Ăn cơm xong cả nhà ngồi đợi. Yên lặng một lúc khá lâu rồi bác Lê trai mới chợt nhận thấy vợ và mấy đứa con lớn ngồi nhìn bác như rình trộm, bác bật cười. Bác Lê gái cốc một cái vào đầu Tý:
"Ồ, không việc gì!"
Tý nói:
"Thì con đã bảo bu. Mai bu lại mua rượu cho thầy uống nhé".
Bác Lê trai với cái điếu cầy kéo một hơi dài rồi thở khói che mờ cả mắt:
"Thằng Tý nó hợp ý tao. Mai bu mày mua đậu phụ về nướng chấm mắm tôm để uống thử một bữa nữa xem sao?"
Bác mỉm cười nói tiếp:
"Chiều nào cũng uống thử như thế".
Cho đến lúc đi ngủ cũng không xẩy ra chuyện gì. Nhỡ say bàng hoàng nên không nghĩ đến đi ngủ; chàng ra ngồi ở gốc đa và cất tiếng hát chèo theo tích Lưu Bình - Dương Lễ. Gió hơi lạnh nhưng chàng say nên không thấy lạnh gì cả. Giọng hát có hơi rượu vào, Nhỡ lại thấy trong hơn mọi khi. Chàng cất tiếng hát thật to để Mùi ở trong chùa Hàn nghe thấy. Nhỡ ngồi hát thế chỉ cốt để Mùi nghe; chàng tưởng mình cũng như chàng Trương Chi, có lẽ vì vậy nên Nhỡ bao giờ cũng tránh hát bài "Anh Trương Chi" sợ hát thế có vẻ lộ quá.
Ở nhà trước cửa, ông Ninh Ký từ chiều đã lo sợ mất ngủ. Cụ Yểng ngồi ngong ngóng đợi. Đợi mãi nhưng không thấy có tiếng cãi nhau mà lại có tiếng Nhỡ hát vang ở đầu cầu đưa lại. Cửa hàng cụ hôm nay không có khách; ngồi một mình trong gian nhà rộng với bốn năm cái phản trống không, gió lạnh lọt qua hai cái cửa gian làm rung rinh cây đèn treo và ánh đèn mờ tỏ, lại nghe tiếng hát than vãn, cụ chợt nhớ đến chồng và thấy hiu hiu buồn.
Bé nằm ở bên cửa hàng bánh cuốn, cũng không ngủ được. Từ lúc ở bến đò về, ngồi ăn cơm đông đủ cả nhà, ăn thức ăn ngon lại uống rượu, vui mừng vì việc cha nàng uống rượu mà không đánh đập vợ con nữa, Bé vẫn cảm thấy mình sống riêng rẽ với cái vui sướng. Tuy Bé chưa có thì giờ nghĩ đến nhưng nàng vẫn biết là nỗi vui riêng ấy vẫn nằm yên trong lòng mình. Đến lúc về nhà đóng cửa cẩn thận rồi, Bé mới thấy quả tim bắt đầu hồi hộp. Nàng đi chập choạng nửa vì say rượu nửa vì sung sướng. Nàng nằm xuống ổ rơm, mặt ngửa, mắt mở to nhìn vào trong bóng tối. Bé lắc bàn tay phải và thấy còn hơi đau ở cổ tay; nàng đặt tay lên ngực vào chỗ mà ban chiều Đỗi vừa úp mặt vào rồi lắc đầu một cái và thở dài. Lần đầu tiên trong đời Bé đã được người con trai ôm lấy mình; nàng ôn lại trong trí lúc Đỗi đặt tay vòng lấy cổ, lúc nàng ngả đầu vào vai Đỗi, Đỗi cúi mặt chạm má vào má mình và nhất là lúc Đỗi đặt nàng vào cạnh thuyền và úp mặt vào ngực mình. Bây giờ nghĩ lại thấy người nóng ran vì thẹn và sung sướng hơn cả lúc ở bến Trò.
Chương XIX
Lăng cụ quận
Hai hôm sau, Bé lại sang tìm Đỗi để lấy cái thắt lưng. Hai người gặp nhau không nói gì và đều có ý ngồi thật xa nhau. Nhìn chung quanh thấy không có người, Đỗi rút cái thắt lưng đưa cho Bé và làm hiệu bảo Bé cất ngay đi. Bé nhìn qua rồi đút vào túi áo trong.
"Đi tìm mua cả sáng hôm nay đấy. Trông nó giống hệt như cái thắt lưng kia nhưng tôi thử rồi, nó không thôi đâu".
Bé đứng lên nói:
"Thôi tôi về đây".
Bé bước chân lên bờ, Đỗi gọi lại:
"Này..."
Đỗi ngập ngừng, đưa mắt nhìn chung quanh rồi nói như trong hơi thở:
"Tối hôm nay ở lăng cụ Quận nhé".
Bé nói:
"Thôi, chịu thôi".
Nhưng Bé vẫn đứng yên trên bờ, không nhúc nhích. Đỗi cúi mặt nhìn xuống chân rồi lại ngửng lên nhìn Bé, hất cằm một cái nói:
"Nhé".
Bé cúi đầu một cái nhẹ, nhưng cả nàng và Đỗi đều không biết đó là lắc đầu hay là gật đầu. Tối hôm ấy, lúc ăn cơm xong Bé cố ý ngồi lại bên nhà bố mẹ lâu hơn. Một là lúc nàng đi, mắt nàng được nhìn thấy cả nhà đã nằm yên, như thế yên tâm hơn, hai là nếu đi ngủ sớm lại trở dậy mở cửa đi chơi là một sự bất thường, ai thấy tất sinh nghi. Đằng này, ở nhà ra nàng đi thẳng làm như chưa buồn ngủ, chạy sang chơi một vài nhà. Hai bên phố các nhà đóng cửa gần hết. Chỉ có một hai nhà còn mở nhưng may không ai thấy nàng đi qua. Đi qua khỏi nhà bà Ký Ân đèn sáng trưng và vang lên tiếng người đánh tổ tôm, Bé yên tâm vì từ đây trở đi không sợ gặp ai nữa. Đường đã tối, mắt Bé lại kém nên Bé phải đi lần từng bước. Trời hôm nay lại tối một cách đặc biệt, nếu có người cách dăm bước chắc cũng không nhìn thấy. Đến lăng cụ Quận, nhìn vào chỗ lăng lại càng thấy tối đen; đi trên đường không tài nào nhìn thấy được người ngồi ở lăng, Bé yên tâm không sợ ai nhìn thấy nhưng bước đến gần lăng, Bé lại bắt đầu sợ cuộc gặp gỡ Đỗi trong một đêm tối như thế này.
Bé đến đứng gần cái bia đưa mắt nhìn quanh. Trời tối không nom thấy xa nhưng Bé có cái cảm tưởng là Đỗi không có ở lăng. Có lẽ Đỗi tưởng nàng lắc đầu từ chối nên không ra chăng. Bé thấy rờn rợn sợ vì nàng vừa chợt nghĩ đến ma mà chỉ có một mình ở đây, gọi Đỗi thì nàng không dám cất tiếng gọi. Nàng ho nhẹ lên một tiếng và không thấy tiếng Nhỡ trả lời, chắc chắn Đỗi không ra. Bé sợ tưởng tiếng ho của mình đã có ma nó nghe rồi, nàng không còn hồn vía nào nữa, định quay trở lên đường rồi chạy một mạch về nhà. Vừa lúc đó có cái gì chạm vai nàng; nàng giật mình một cái và khi nghĩ ra là Đỗi, nàng nhẹ hẳn người:
"Làm người ta hết cả hồn cả vía!"
"Nói khẽ chứ".
"Sao người ta ho lại không trả lời?"
"Ho thì người ta biết trả lời ra làm sao. Sao chậm thế, người ta đợi mãi".
Bé cũng gắt lại:
"Con khỉ, lại hẹn ra đây ai biết thì chết".
Đỗi ra hiệu bảo Bé ngồi xuống cạnh cái bia:
"Tôi cứ tưởng đằng ấy không đến. Không đến thì tôi đợi suốt đêm ở đây".
Đỗi cũng ngồi xuống cạnh Bé nhưng ngồi cách xa một ít. Một lúc lâu hai người yên lặng không nói gì. Chung quanh đêm tối phủ dầy đặc; tiếng dế gáy ran ở cỏ và xa xa ở đâu có tiếng chó sủa. Ngồi trong đêm tối không nhìn thấy mặt nhau, Đỗi và Bé không thấy ngượng nhưng cả hai đều sợ nên cử chỉ thành rụt rè. Tay Đỗi xoè ra một ít định tìm tay Bé nhưng lại rụt lại ngay. Chàng có cái ý muốn đợi để Bé bắt đầu trước. Thấy việc ngồi với Bé trong đêm tối là táo bạo quá nên chàng phải cố giữ gìn cho Bé khỏi sợ. Bé cũng ngồi yên hơi lấy làm lạ rằng Đỗi sao lại yên lặng thế. Nàng định ngồi sát vào người Đỗi nhưng chỉ nghĩ thế thôi, người nàng vẫn không nhúc nhích. Một lúc lâu rồi Đỗi hỏi, giọng nghiêm trang:
"Hôm nào thì đằng ấy về quê ăn Tết?"
"Hai mươi bẩy".
Thế rồi Đỗi hỏi về việc nhà quê của Bé, những chuyện viển vông về đình đám ở làng Bé, tục lệ nuôi lợn cúng thần. Bé cũng vui vẻ kể chuyện cho Đỗi nghe và cả hai người nói về những chuyện rất thường nhưng thấy cuộc nói chuyện rất lý thú. Rồi Bé lại hỏi Đỗi về việc gia đình của Đỗi và những chuyện có liên can xa gần đến Đỗi. Bé thấy cuộc gặp gỡ ban đêm này có lý lắm; nếu không gặp thế này thì làm sao ngồi nói chuyện với nhau lâu được. Nghĩ thế Bé không sợ hãi nữa và chân nàng đã tìm thấy chân Đỗi và giẵm lên trên. Tay Đỗi một lúc sau đã nắm lấy bàn tay Bé và lúc mải nói chuyện thì các ngón tay cũng luôn luôn hoạt động: sau khi Đỗi nắm lấy các ngón tay Bé bóp mạnh một lúc lâu thì Đỗi lại thả tay ra và lại đến lượt Bé nắm tay chàng. Thấy Bé bóp hơi mạnh làm đau cả ngón tay mình, Đỗi bóp mạnh một cái để báo thù; nhưng cả hai người như không chú ý đến và tuy đau tay lắm, Bé cũng không kêu. Bé đã ngồi sát vào người Đỗi lúc nào không biết và tay Đỗi cũng đã ôm lấy cổ nàng nàng. Bé ngửa mặt để cho tóc nàng chạm vào đầu Đỗi, mỉm cười nói:
"À hôm nào tôi đến xem nhà mình".
Đỗi bàn về cách thức để Bé đến chơi nhà mình được tự nhiên. Rồi chàng ôm mạnh lấy vai Bé và nói:
"Bao giờ em về ở hẳn nhà anh?"
Chàng lay lay Bé mấy cái, giục:
"Bao giờ em?... Sao không đáp".
Bé xoay người rồi như một người vợ đối với chồng Bé giơ tay ôm lấy vai Đỗi và ngửa mặt đặt đầu vào ngực chàng, và nói trong hơi thở:
"Cái đó tuỳ anh".
Đỗi áp má mình vào má Bé. Hai người yên lặng ngồi như thế lâu lắm. Có tiếng còi xe lửa rúc lên ở xa. Bé bỏ tay ra nói:
"Thôi em đi về không khuya".
"Đã khuya đâu".
"Tàu lên rồi đấy. Gần mười giờ rồi còn gì".
"Tàu xuống đấy chứ? Chưa có còi tàu xuống làm gì có tàu lên".
"Tàu xuống từ đời tám kiếp nào rồi, đằng ấy điếc".
Sau luỹ tre đen làng Trò, chiếc xe lửa vụt hiện ra lấp lánh ánh đèn. Ánh đèn sáng ở xe lửa và tiếng máy chạy rầm rầm trên chiếc cầu sắt lại càng làm tăng vẻ yên lặng và tối tăm chỗ hai người ngồi. Đỗi giơ tay chỉ chiếc tàu:
"Thế kia mà bảo tàu lên. Đằng ấy mù".
Bé véo mạnh một cái vào sườn Đỗi:
"Diếc mãi. Đau mắt mãi như thế này cũng đến mù quách cho xong đời".
Đỗi kêu ái lên một tiếng rồi cười xoà:
"Thế sao lại bảo người ta điếc".
Rồi Đỗi ghé vào tai Bé nói thầm mấy tiếng và vặn mạnh cổ tay Bé hỏi to:
"Có phải thế không nào?"
Bé ẩy người Đỗi ra:
"Con khỉ. Đồ phải gió".
Bé lại véo mạnh vào vai Đỗi và nghiến răng nghiến lợi véo không buông tay cho đến khi Đỗi đau quá phải bỏ cổ tay nàng ra. Bé vừa thở vừa nói:
"Nào, xem có thua không nào".
Đỗi giơ tay tìm tay Bé:
"Ai thua?"
Lần này Đỗi lại nắm cả hai tay, Bé không véo lại Đỗi được và Đỗi lại bóp mạnh quá, nàng đau không thể chịu được nữa:
"Có bỏ tay ra không người ta khóc đây này".
Đỗi bỏ tay ra ôm lấy Bé rồi toan đặt Bé dựa vào thanh bia như trong lúc tránh mưa trong mui thuyền. Bé cũng hồi hộp đợi. Nhưng vì ở một nơi vắng người, đêm tối, lại bị cái đau bóp cổ tay và bị véo nó kích thích quá mạnh nên cả hai người đều thở hổn hển và sợ cho mình. Yên lặng một lúc lâu lắm, rồi Đỗi nói:
"Thôi, từ rầy đừng đùa thế nữa nhé".
Vì Bé cũng nghĩ như Đỗi trong lúc hai người ngồi yên nên Bé hiểu hết cả cái ý nghĩ ngầm ở trong câu nói của Đỗi. Thế là hai người lại hết cả sợ và biết là không xẩy ra chuyện gì nữa. Lần này lại chính Bé ngồi sát vào Đỗi và giơ tay ôm vòng lấy cổ Đỗi trước, bạo dạn, và có cái thú như Đỗi là chồng mình rồi. Đỗi cười lên một tiếng rồi ngả đầu đặt má mình vào má Bé rồi hai người cứ ngồi yên thế và lại tiếp tục nói những chuyện xa gần, không đâu.
Lại có ánh đèn lấp lánh ở xa. Bé trông thấy nhưng không hề nghĩ tới đó là tàu lên. Tay phải nàng, cái tay đỡ lấy người Đỗi đã mỏi rừ và tê bại hẳn đi. Giá bỏ tay xuống được cho đỡ mỏi thì dễ chịu lắm nhưng nàng chỉ nghĩ thế thôi chứ không dám bỏ tay ra. Muốn cho đỡ mỏi Bé ruỗi thẳng mấy ngón tay rồi co lại và như thế vô tình ấn mạnh vào sườn Đỗi. Đỗi tuy có máu buồn nhưng không dám cười tưởng Bé bóp yêu mình nên cố chịu đựng. Bỗng Bé nhận ra ánh sáng ấy là ánh sáng đèn tàu lên và thốt ra câu:
"Chết chửa tàu lên rồi. Thôi cho em về".
Nói thế rồi nàng ngồi thẳng lên và bỏ thõng được cánh tay xuống một cách khoan khoái. Đỗi nói:
"Việc gì cứ tàu lên là phải về".
Rồi lại đến lượt Đỗi ôm lấy vai Bé và lắc lư người Bé mấy cái, khẽ nói:
"Ở đến nửa đêm hãy về".
Đỗi cúi đầu đặt môi vào má Bé đưa đi đưa lại:
"Cái gì thế?"
Đỗi ngừng lại và hỏi thế vì thấy Bé cứ giẫy nẩy cả người như bị động kinh. Bé không đáp, lại vung mạnh cánh tay phải mấy cái cho tay hết tê.
"Thôi khỏi rồi".
"Cái gì khỏi".
Bé không đáp ruỗi thẳng tay đặt lên đùi rồi ngồi yên. Tiếng còi tàu gần đến ga lại rúc lên trong đêm khuya. Bé nhắm mắt rồi ngả người đặt má vào ngực Đỗi. Cái bàng hoàng lúc đầu đã hết, lòng nàng thốt nhiên thấy dìu dịu và bình tĩnh nghĩ đến cái sung sướng của nàng lúc đó, cái sung sướng của tình yêu thứ nhất trong đời. Trong lúc tay nàng vơ vẩn rứt cái cúc cổ áo của Đỗi thì óc nàng loay hoay nghĩ: bây giờ nàng đã có một người đàn ông yêu mình, người ấy nay mai sẽ là chồng mình, đang âu yếm mình và mình đang dựa đầu vào ngực người ta, tất cả cái đó là sự thực mà nàng cảm thấy rõ lắm.
"Thật là to chuyện".
Nàng mỉm cười rồi lại nghĩ:
"Nếu mà ai trông thấy mình như thế này thì chuyện còn to đến đâu!"
Tay nàng loay hoay cởi khuy cổ áo của Đỗi lúc nào nàng cũng không để ý. Nhưng Đỗi thì để ý vì áo hở phanh ra lạnh cả cổ. Chàng nắm lấy bàn tay Bé đưa lên và đặt vào má mình và trong khi tay Bé vuốt má thì chàng cho được tay xuống cổ và cài lại cúc áo cho đỡ lạnh mà không để cho Bé biết. Cử chỉ của Đỗi đặt tay Bé vào má chỉ cốt để cài lại khuy áo làm cho Bé tưởng là một cử chỉ rất âu yếm của Đỗi và Bé cũng thấy lúc mình vuốt ve má Đỗi nàng nhìn thấy rõ cái sung sướng của mình hơn là rứt cổ áo. Muốn nhận thấy rõ hơn nữa và muốn tỏ ra cho Đỗi biết cái sung sướng của mình, nàng véo một cái thật mạnh vào má Đỗi, nàng thấy véo thế cái sung sướng của mình như truyền cả sang người Đỗi một cách rất thấm thía và nàng lại véo thêm vào cổ vào vai Đỗi và vừa véo vừa mắng Đỗi:
"Con khỉ ơi!"
Đỗi cười xoà một cái rồi giơ tay lên xoa các chỗ đau. Chàng nói giọng nghiêm trang:
"Đã bảo đừng đùa thế cơ mà".
Bé cười:
"Ừ nhỉ".
Nói thế nhưng chính Bé lại xoay người ôm lấy Đỗi, kéo mạnh cả người Đỗi về phía nàng. Đỗi ngạc nhiên một cách sung sướng rồi ôm chặt lấy Bé vào tấm bia rồi trong khi hai bàn tay chàng bóp vào khắp người nàng đau như dần, chàng úp mặt vào mặt nàng, nửa như hôn nửa như cắn vào má, vào cổ, vào tóc, ngấu nghiến như muốn nuốt cả người nàng.
Để yên mặc Đỗi một lúc lâu, Bé bàng hoàng và thấy mình không có lúc nào sung sướng đến như thế. Sau cùng nàng đẩy Đỗi ra, giơ tay sửa lại mái tóc rồi đứng lên. Đỗi cũng đứng lên và không ai bảo ai, hai người đều tiến về phía đường cái, vừa đi vừa thở mạnh. Hai người từ biệt nhau yên lặng và quên cả việc hẹn gặp gỡ lần sau.
Đến gần nhà bà Ký Ân thấy có ánh đèn sáng, Bé có cảm tưởng là vừa nằm mơ chợt thức giấc và nhớ lại rõ hơn những sự việc xẩy ra trong giấc mơ và như thế lại thích hơn và sợ hãi hơn. Các nhà ở xóm đã đóng cửa hết. Nhà hát ả đào đêm nay cũng không có khách. Bé thấy hình như khuya lắm và đêm yên tĩnh quá. Nàng nghe thấy tiếng váy mình sộtsoạt và phải đi chậm bước lại. Lâu lắm nàng mới mở xong cửa và đóng cửa lại mà không có tiếng động. Nàng đặt mình nằm ngủ trên ổ rơm. Thế là thoát, không ai biết cả. Nàng cựa quậy và thấy đau ở khắp người. Bé nằm yên một lúc lâu ngẫm nghĩ rồi ở khóe mắt mọng lên hai giọt nước mắt. Bé không lau mắt và cũng không dám nuôi cho mình khóc thêm sợ bên kia mẹ nghe thấy. Nàng nằm thiu thiu đợi giấc ngủ đến, thỉnh thoảng lại mỉm cười một cái và bỏ tay rõ mạnh xuống chiếu để lại thấy rõ cái đau ở cổ tay. Lâu lắm rồi mà Bé không ngủ được nhưng nàng cũng không cần gì đến giấc ngủ.

Nguồn: Nhất Linh - Trong Tự lực Văn đoàn. Xóm Cầu Mới (Bèo giạt). Nhà xuất bản Văn Mới, California, Hoa Kỳ, 2002. Bìa: Nhất Linh. Họa bản: Nhất Linh. Trình bày: Nguyễn Tường Thiết. Copyright © Nguyễn Tường Thiết. Bản điện tử đăng trên talawas do Nguyễn Tường Thiết cung cấp.
4/6/2007
Nhất Linh
Theo http://www.talawas.org/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Giải mã tục cúng Thần Tài vào mùng 10 tháng giêng âm lịch

Giải mã tục cúng Thần Tài vào mùng 10 tháng giêng âm lịch Khoảng hơn 10 năm trở lại đây, trên báo chí và mạng xã hội thường phản ánh chuyệ...