Thứ Năm, 25 tháng 5, 2023

Nghìn lẻ một đêm 6

Nghìn lẻ một đêm 6

ALI BABA VÀ BỐN MƯƠI TÊN CƯỚP
Hoàng hậu Scheherajade được Dinarjade, em nàng, đánh thức dậy, kể cho vua Ấn Độ chồng nàng, câu chuyện ông đang muốn nghe.
Nàng nói: - Thưa hoàng đế hùng mạnh, trong một thành phố của Ba Tư giáp biên giới vương quốc của bệ hạ có hai anh em tên là Cassim và Ali Baba. Bố để lại một ít của cải, họ chia đều cho nhau, có vẻ tài sản bằng nhau nhưng tình cờ thành ra khác hẳn.
Cassim lấy một người vợ, ít lâu sau khi cưới bỗng được thừa kế một cửa hiệu đàng hoàng, một cửa hàng đầy hàng hoá tốt lại có cả nhà cửa đất đai, bỗng chốc cuộe sống của họ trở nên thoải mái, và là một trong những thương gia giàu có nhất thành phố.
Ali Baba ngược lại, cưới một người vợ cũng nghèo như mình, chỗ ở đã lụp sụp, bác lại còn không có một nghề nghiệp nào để kiếm sống nuôi gia đình ngoài việc đi kiếm củi ở rừng bên đem ra thành phố bán.
Chở trên ba con lừa là toàn bộ tài sản có được kiếm được trong ngày của bác.
Một hôm Ali Baba vào rừng đang đốn củi mong đủ cho lừa chở thì bỗng thấy một đám bụi tung bay lên không và tiến thẳng về phía mình. Nhìn kỹ bác nhận ra một toán đông người cưỡi ngựa đang phi nhanh lại.
Tuy không nghe nói về trộm cướp trong vùng, Ali Baba vẫn nghĩ có thể là toán cướp và không tính đến những con lừa sẽ ra sao, bác chạy trốn mong thoát thân. Bác trèo lên một cây to cành nhánh thấp quây tròn và sít nhau chỉ hở rất nhỏ, nấp vào giữa đám cành lá cây bảo đảm có thể nhìn xuống mà không ai thấy.
Cây lại mọc từ chân một tảng đá lẻ loi bốn phía, cao hơn cây nhiều và dốc đứng tưởng như không ai leo lên cao được.
Những kẻ cưỡi ngựa đều to lớn, khoẻ mạnh trang bị đầy đủ và có vũ khí tốt lại gần tảng đá xuống ngựa; Ali Baba đếm được bốn mươi, theo điệu bộ và trang bị, chắc chắn là những tên cướp: Thực tế đã không nhầm đây là bọn cướp không làm hại gì quanh vùng mà chỉ trộm cướp rất xa rồi hẹn gặp nhau ở chỗ này.
Mỗi kỵ sĩ tháo yên ngưa, buộc ngựa, đeo vào cổ từng con vật một túi lúa mạch mang theo và cả bọn bỏ những xuống, phần lớn những chiếc hòm rất nặng đầy tiền và vàng bạc.
Kẻ trông oai nhất Ali Baba cho là chỉ huy của cả bọn, cũng vác hòm như những tên kia, rẽ một đường đi trong đám cây bụi lại gần tảng đá sát ngay cây to bác đang ẩn nấp, nói rõ ràng một câu: Vừng ơi, mở cửa? Tên tướng cướp niệm thần chú xong, một cánh cửa mở ra, sau khi để đồng bọn vào trước hắn cũng vào theo và cánh cửa đóng lại.
Bọn cướp ở lâu trong tảng đá; Ali Baba sợ một tên hoặc cả toán đi ra khi mình tụt xuống bỏ chạy nên đành ngồi trên cây kiên trì chờ đợi. Bác cũng nghĩ hay là xuống lấy hai con ngưa, cưỡi lên một và dắt một, vừa chạy về thành phố vừa đuổi ba con lừa đi trước nhưng lại ngại chưa chắc đã thoát nên ở lại chắc chắn hơn.
Cuối cùng cửa mở, bốn mươi tên cướp đi ra; tên chỉ huy vào sau cùng đã ra trước, lúc thấy đồng bọn lần lượt qua hết trước mặt, Ali Baba nghe hắn đóng cửa bằng câu thần chú: “Vừng ơi, đóng lại? Mỗi tên xem lại ngựa của mình, tháo dây, buộc lại hòm và lên ngựa. Chỉ huy thấy tất cả đã sẵn sàng, thúc ngựa lên đầu cùng đồng bọn trở lại con đường đã tới.
Lúc đầu Ali Baba chưa xuống đất, tự nhủ: “Có thể chúng quên gì đó phải trở lại sẽ bắt gặp mình. Bác đưa mắt nhìn theo cho đến khi không trông thấy nữa và một lúc lâu mới xuống để bảo đảm thật an toàn. Nhớ những câu chỉ huy bọn cướp nói, bác tò mò muốn thử nói xem có tác dụng như thế không, đi qua đám cây bụi và thấy cánh cửa bị che lấp. Đứng trước cửa bác niệm: Vừng ơi, mở cửa! Cánh cửa mở rộng ra ngay.
Ali Baba nghĩ sẽ vào một chỗ tối tăm nhưng ngạc nhiên thấy rất sáng sủa, rộng rãi, ánh sáng từ trên cao rọi xuống qua lỗ khoét. Bác thấy rất nhiều thực phẩm, những túi lớn hàng hoá đẹp xếp thành đống, vải lụa và gấm, những tấm thảm đắt giá, nhất là vàng và tiền bạc hàng đống trong những túi vải hoặc túi da lớn chồng lên nhau.
Nhìn tất cả những cái đó hình như không phải nhiều năm mà trong nhiều thế kỷ hang này là chỗ cất giữ của cải của bọn cướp kế tiếp nhau.
Ali Baba không đắn đo phải làm gì; đã vào hang và cánh cửa khép lại. Bác nhằm vào bạc và tiền vàng, đặc biệt trong các túi, bác lấy tiền vàng đủ cho ba con lừa chở: Bác gom lũ lừa, đưa chúng lại gần tảng đá, chất những túi vàng lên và phủ một số củi lên trên để người ta không nhận thấy.
Khi xong bác lại gần cửa, chưa nói xong câu Vừng ơi, đóng lại” thì cửa đã đóng. Khi vào cửa tự động khép lại nhưng khi ra vẫn để mở.
Sau đó Ali Baba trở về thành phố, về đến nhà bác cho lừa vào sân nhỏ phía sau và đóng cửa cẩn thận, bỏ củi xuống, mang những túi nặng vào nhà xếp trước mặt vợ đang ngồi trên ghế.
Vợ bác, sờ vào các túi thấy đầy vàng, bạc, nghi ngờ chồng đi trộm cướp về nên khi bác mang vào hết, bác gái không ngăn được mình nói: Ali Baba, anh khốn khổ đến nỗi... Chồng bác ngắt lời: im đi em.
Đừng làm ồn lên, anh không phải kẻ trộm, ít nhất khi lấy của bọn cướp.
Em sẽ không quan niệm anh xấu như thế nếu nghe anh kể chuyện về số của cải này. Bác đổ các túi ra, cả một đống vàng lớn làm vợ loá mắt, sau đó kể lại sự việc từ đầu đến cuối và dặn vợ giữ kín.
Người vợ bình tĩnh không khiếp sợ nữa, phấn khởi cùng chồng về hạnh phúc đến với họ và muốn đếm ngay số vàng trước mặt. Em này - Ali Baba bảo - em chẳng khôn ngoan chút nào, định làm gì thế? Anh đi đào hố chôn chúng vào đó, không mất thì giờ được đâu.
- Ít nhất chúng ta cũng nên biết đại khái có bao nhiêu. Em đi mượn chiếc cân bên hàng xóm trong lúc anh đào hố - người vợ nói.
- Em à, điều ấy chẳng cần thiết nhưng nếu muốn em cứ làm theo ý thích; nhớ phải bí mật đấy.
Để thoả mãn, vợ Ali Baba đi sang nhà Cassim ông anh chồng ở gần đấy. Cassim không ở nhà, bác đã sai lầm hỏi mượn chị dâu chiếc cân một lúc. Bà chị hỏi chiếc cân to hay nhỏ, bác ta chỉ hỏi mượn một chiếc nhỏ.
- Sẵn lòng thôi - Bà chị dâu nới - Thím chờ tôi lấy cho. Bà này đi tìm cân, nhưng biết Ali Baba nghèo, muốn làm rõ họ cân loại hạt gì, bà liền khôn khéo bôi một ít mờ vào đáy đĩa cân và ra đưa cho em đâu, sau khi xin lỗi để bác phải chờ lâu vì khó tìm.
Vợ Ali Baba về nhà, để cân lên đống vàng, hết đầy vào và lần lượt cân đổ lên ghế. Cân xong bác gái hài lòng về số lượng vàng rất nhiều, và kể cho với người chồng vừa đào xong hố.
Trong lúc Ali Baba chôn vàng, vợ bác tỏ ra đúng hẹn và nhanh nhẹn, đem trả cân cho chị dâu mà không chú ý đến một đồng vàng dính dưới cân.
- Chị ơi - Vợ Ali Baba nói - Em trả chị chiếc cân và cám ơn chị; chị thấy đấy em không dám giữ lại lâu cân của chị.
Bác gái vừa quay lưng ra về thì vợ Cassim nhìn đáy cân, ngạc nhiên không tưởng được thấy có một đồng vàng dính vào đấy. Lòng tham trỗi dậy ngày, bà tự nhủ: Thế nào? Ali Baba có vàng đong bằng cân! Kẻ khốn khổ này lấy vàng từ đâu ra vậy?. Cassim chồng bà ở ngoài cửa hàng đến tối mới về.
Bà nóng lòng chờ chồng về để báo tin, mỗi lúc tưởng như mồt trăm năm thế kỷ.
Lúc Cassim về, bà nói ngay:
- Cassim, ông khá giàu nhưng nhầm rồi đấy. Ali Baba giàu hơn ông nhiều, không đếm vàng như ông đâu mà cân vàng!
Cassim gạn hỏi, bà bèn kể lại đã làm sao để phát hiện đíều đó và đưa ra đồng tiền vàng thấy dưới đáy cân lên, đồng tiền cũ có tên nhà vua ở một triều khá xa lạ đối với họ.
Thay vì mừng cho hạnh phúc đến với em có thể thoát khỏi nghèo nàn, Cassim ghen tức muốn chết, suốt đêm không ngủ được. Sáng hôm sau ông ta đến nhà em khi mặt trời chưa mọc. Đối xử như không phải với em mình mà ông đã quên từ sau ngày cưới bà vợ giàu.
- Alì Baba - Ông ta bảo - Chú kín đáo quá đáng: giả nghèo giả khổ, ăn ở rách nát nhưng đếm vàng bằng cân!
- Thưa anh - Ali Baba trả lời - Anh nói về điều gì em không rõ, anh giải thích cho.
- Đừng làm như ngu dốt - Cassim vừa nói vừa đưa ra đồng tiền vàng vợ giao cho - Chú có bao nhiêu đồng như thế này mà vợ tôi thấy dính vào đáy cân vợ chú sang mượn hôm qua?
Nghe nói thế, Ali Baba hiểu (vì sự cứng đầu của vợ mình) vợ chồng Cassim đã biết điều bác muốn giấu kín. Đã lầm lỗi rồi không sửa chữa được nữa. Để ông anh khỏi lạ lùng và buồn, bác kể lại việc tình cờ phát hiện kho của cải của bọn cướp và xin ông giữ kín bác sẽ san sẻ một phần số của cải cho ông.
Cassim kiêu kỳ nói:
- Tôi cũng đoán đúng như thế nhưng vẫn muốn biết chính xác kho của ấy ở đâu, dấu hiệu thế nào và nếu cần tôi có thể vào đó bằng cách nào; nếu chú không chỉ rõ tôi sẽ đến báo cho quan toà.
Chú mà giấu giếm thì không những chú chẳng còn mong có thêm gì mà còn mất nất số của cải đã lấy được còn tôi, tôi sẽ có một phần vì đã có công báo quan.
Ali Baba với bản tính hiền lành rất sợ những lời doạ nạt trâng tráo của ông anh tham tàn, vội nói rõ những điều ông ta mong muốn, cả những câu dùng để vào hay ra cửa hang.
Cassim không đòi hỏi gì hơn, ra khỏi nhà em hy vọng một mình chiếm lấy kho của. Sáng hôm sau ông ta đi thật sớm với mười con la chở những hòm lớn định chất đầy vàng, trù tính chuyến thứ hai sẽ lấy đi nhiều hơn tuỳ theo số lượng của cải có trong hang. Theo đường Ali Baba chỉ dẫn, đến gần tảng đá ông ta nhận ra những dấu hiệu và cây to Ali Baba ẩn nấp.
Tìm đừợc cửa, ông ta nói: Vừng ơi mở cửa!. Cánh cửa mở ra, ông vào và cửa tự đóng lại. Quan sát kỹ hang ông vô cùng thán phục thấy nhiều của cải hơn mình nghĩ khi nghe Ali Baba kể chuyện; xem xét riêng từng thứ ông càng thán phục. Vốn keo kiệt và góp nhặt của cải, nếu không nghĩ đến đây để lấy đủ chở cho mười con la, ông ta sẽ ở lại suốt ngày để nhìn ngắm vàng.
Lấy thật nhiều túi gắng sức mang và khi ra đến cửa trí óc chỉ mải nghĩ làm thế nào để mang được nhiều, ông ta quên mất từ cần thiết. Đáng lẽ “Vừng ơi ông nói: “Đại mạch ơi, mở cửa và rất kinh ngạc thấy cửa vẫn đóng. Ông gọi tên nhiều loại hạt khác, không đúng loại cần nên cửa không mở.
Cassim không ngờ gặp tình huống đó. Trước nguy cơ hiển nhiên, ông ta sợ hãi run người, càng cố gắng nhớ càng rối mù và đứng sững người như trời trồng. Ông vứt những túi vàng xuống đất, bước đài trong hang lúc bên này lúc bên kia, chẳng còn màng gì đến những của cải xung quanh nữa.
Bọn cướp trở lại hang vào buổi trưa, tới gần thấy nhũng con la của Cassim quanh tảng đá chở đẩy hòm, lo lắng về sự lạ đó, chúng liền phi nhanh đến đuổi mười con la Cassim không buộc vào đâu cả làm chúng tản mát trong rừng, rất xa không nhìn thấy nữa. Bọn cướp không cần đuổi theo lũ la mà quan trọng là lũ la của kẻ nào.
Trong lúc một số tên đi quanh tảng đá tìm kiếm, tên chỉ huy cùng những tên khác xuống ngựa, đi thẳng đến cửa hang rút gươm cầm tay, đọc thần chú và cửa mở.
Cassim nghe tiếng vó ngựa, biết chắc bọn cướp đến và mình sẽ chết. Quyết định ít nhất cũng cố gắng để thoát khỏi tay chúng, ông chuẩn bị chạy ra ngoài khi cửa mở. Nghe tiếng nói: Vừng ơi...? mà ông quên, cửa vừa mở, ông lao nhanh đến nỗi tông vào tên chỉ huy ngã lăn xuống đất.
Nhưng không thoát khỏi những tên cướp khác với lưỡI gươm trong tay, ông bị chúng chém chết.
Sau việc đó bọn cướp vào trong hang thấy gần cửa có những túi vàng Cassim lấy ra để đem đi, chúng bỏ vào chỗ cũ không nhận thấy mất những túi vàng Ali Baba mang về lần trước. Họp nhau lại bàn về hiện tượng này, chúng hiểu Cassim không mở được cửa ra khỏi hang nhưng không hình dung nổi ông ta làm sao mà vào được.
Chúng đã nghĩ có thể ông ta xuống từ chỏm tảng đá những lỗ ánh sáng vào cao quá mà phía trên tảng đá bên ngoài không trèo lên được nên đành chịu không rõ. Có thể ông ta vào từ cửa nhưng chúng cũng không tin chắc vì đinh ninh chỉ chúng mới biết mật hiệu mở cửa; đó là điều chúng nhầm, không biết Ali Baba đã rình nghe biết được.
Sự việc đã xảy ra rồi, chẳng còn cách nào khác để của cải được an toàn, chúng bàn với nhau chặt xác Cassịm ra làm bốn đoạn bỏ phía trong cửa hang, mỗi bên cửa hai đoạn để làm kẻ nào đó vào hang sẽ phải khiếp sợ.
Còn bọn chúng chỉ phải một thời gian lâu mới về hang, chờ mùi hôi thối bay đi hết đã.
Quyết định như thế, chúng thực hiện ngay rồi đóng cửa hang, lên ngựa tới những con đường mà các đoàn người ngựa thường qua lại để cướp bóc như thường lệ.
Vợ Cassim thấy đêm xuống lâu rồi mà chồng chưa về nên rất lo. Bà đến nhà Ali Baba hốt hoảng nói:
- Chú em này, tôi nghĩ chú cũng biết anh chú vào rừng để làm gì rồi. Đêm đã khuya mà ông ấy chưa về, tôi sợ có tai hoạ xảy ra với ông ấy chăng.
Ali Baba vẫn ngờ ông anh vào rừng sau khi nghe kể chuyện và vì thế hôm ấy bác không đi kiếm củi để khỏi làm phiền anh. Không trách móc gì, bác khuyên bà chị dâu không nên hoảng hốt có lẽ Cassim muốn trở về thành phố trong đêm khuya thì tốt hơn chăng.
Vợ Cassim cũng nghĩ thế nhất là bà thấy cần glữ kín việc làm của chồng chắc chờ đến nửa đêm ông ta mới trở về nhà. Nhưng sau đó bà càng lo sợ nhiều hơn và cảm thấy đau đớn ghê gớm mà không thể kêu than vì biết không nói ra được nguyên nhân. Bà ân hận đã tò mò muốn đi sâu vào công việc của vợ chồng người em, đó là một sai lầm không sửa chữa được, Khóc thầm cả đêm, hôm sau vừa rạng sáng bà chạy đến nhà họ khóc lóc chứ không nói được.
Ali Baba không chờ chị dâu đề nghị đi xem Cassim ra sao: Bác vào rừng ngay với ba con lừa sau khi an ủi bà chị hãy bớt đau buồn. Đến gần tảng đá, nhìn khắp nơi không thấy ông anh và mười con la, rất lạ thấy máu gần cánh cửa, anh nghĩ có chuyện không hay rồi. Đứng trước cửa, anh đọc câu thần chú, cửa mở và bác thấy cảnh tượng buồn thảm của thân thể ông anh bị chặt làm bốn khúc. Không ngần ngại làm nhiệm vụ cuối cùng đối với ông anh lạnh nhạt, bác tìm vải trong hang gói bốn khúc xác cho lên một con lừa chở với gỗ để che khuất.
Hai con lừa còn lại, bác chất đầy những túi vàng bạc, bỏ gỗ củi lên như lần trước, đọc thần chú ra lệnh đóng cửa rồi đi về thành phố nhưng cẩn thận dừng lại ở bìa rừng chờ tối đến mới ra về. Đến nhà bác cho hai con lừa chở vàng bạc vào sân, để cho vợ dỡ xuống và sau khi cho bác gái biết việc gì đã xảy ra với Cassim, bác dẫn con lừa kia sang nhà chị dâu.
Ali Baba gõ cửa, Morgiane ra mở. Morgiane là một nô lệ nữ khéo léo, hiểu biết rộng và có nhiều sáng kiến giải quyết thành công những điều khó khăn nhất. Ali Baba biết cô như vậy.
Vào đến sân bác tháo củi và hai gói xuống, nói riêng với Morgiane:
- Morgiane, trước hết tôi đề nghị cô tuyệt đối giữ bí mật, điều đó tối cần thiết đối với bà chủ và với tôi. Thân thể ông chủ ở trong hai gói này. Phải chôn cất như ông chết bình thường.
Chú ý cẩn thận như tôi đã nói và đưa tôi vào nói chuyện với bà chủ.
Morgiane vào báo trước với bà chủ sau đó Ali Baba đi theo cô bước vào.
- Thế nào chú, - bà chị dâu nóng lòng chờ đợi hỏi.
- Tin tức về chồng tôi thế nào? Trên mặt chú tôi không thấy có biểu hiện gì an ủi được tôi.
- Thưa chị, tôi không thể nói gì trước khi chị hứa nghe tôi từ đầu đến cuối câu chuyện mà không mở miệng. Đối với chị cũng như với tôi điều quan trọng nhất về việc xảy ra là phải rất bí mật vì lợi ích và sự yên bình của chị.
- A! - Bà chị dâu khẽ kêu lên - Lời dạo đầu ấy cho tôi biết rõ chồng tôi không còn nữa. Đồng thời tôi thấy cần thiết phải giữ kín như chú dặn dò. Tôi phải rất cố gắng vậy, chú nói đi, tôi nghe đây.
Ali Baba kể lại chuyến đi cho đến lúc về với thân thể Cassim. Bác nói thêm:
- Chị ạ, đây là một nỗi buồn lớn mà chị ít ngờ tới nhất. Tuy nỗi đau không phương cứu chữa nhưng nếu có thể an ủi chị, tôi sẽ đem của cải trời cho tôi vào tài sản của chị và cưới chị, bảo đảm vợ tôi sẽ không ghen và hai ngườI sống hoà hợp với nhau. Nếu chị bằng lòng như vậy, phải nghĩ cách làm thế nào để như anh tôi chết bình thường; chị có thể dựa vào Morgiane, tôi sẽ cố góp hết sức mình.
Chẳng còn cách gì hơn, vợ goá Cassim đành vâng theo lời đề nghị của Ali Baba? Với tài sản chồng trước để lại, lại tìm được một người glàu hơn mình và với sự phát hiện kho của có thể càng giàu hơn? Bà không từ chối cách giải quyết ấy mà ngược lại, xem như một níềm an ủi hợp lý.
Chùi nước mắt đã khóc quá nhiều, nén lại những tiếng kêu van bình thường của những người vợ mất chồng, bà chứng tỏ với Ali Baba mình đã ưng thuận.
Al1 Baba chào bà vợ goá Cassim, sau khi dặn dò Morgiane lo công việc gia đình cẩn thận rồi về nhà mình với con lừa.
Morgiane không lơ là; cô ra ngay cửa hàng dược bên hàng xóm, hỏi mua một loại thuốc rất tác dụng với những căn bệnh nguy hiểm. Dược sĩ đưa thuốc, nhận tiền rồi hỏI ai trong gia đình chủ cô bị ốm.
Cô thở dài trả lời:
- Chà! Chính ông chủ Cassim của tôi. Không ai ngờ ông bị căn bệnh nặng đến thế, chẳng nói chẳng ăn gì cả.
Nói rồi cô mang thuốc về mà thực tế Cassim không thể sử dụng được nữa.
Ngày hôm sau chính Morgiane lại trở lại cửa hàng dược đầy nước mắt mua một loại thuốc nước người ta chỉ cho người bệnh uống lúc hấp hối không hy vọng gì sống nữa nếu thuốc ấy không cứu được.
- Than ôi - cô buồn bã nói vừa nhận thuốc từ tay dược sĩ - tôi sợ loại thuốc này cũng chẳng có tác dụng gì như thuốc viên lần trước. Chà! Sợ tôi mất đi một ông chủ tốt!
Mặt khác người ta thấy vợ chồng Ali Baba suốt ngày buồn rầu đi đi lại lại nhà Cassim và tối đến không ai ngạc nhiên nghe tiếng kêu khóc của vợ Cassim và nhất là của Morgiane loan báo Cassim đã chết.
Sáng sớm hôm sau chưa rõ mặt người, Morgiane vốn biết trong vùng có một ông thợ giày tốt bụng đã rất già ngày nào cũng mở cửa hiệu trước những người khác rất lâu, cô ra đi tìm ông cụ ấy.
Vừa chào và hỏi chuyện, cô bỏ vào tay ông cụ một đồng vàng.
Baba Mustafa, người ta gọi ông thế, bản chất vui vẻ và bao giờ cũng có tiếng nói gây cười, nhìn đồng tiền vì trời chưa sáng hẳn, thấy là vàng bèn nói:
- Món quà tốt đấy, có việc gì vậy? Tôi sẵn sàng làm đây.
- Baba Mustafa - Morgiane bảo - Ông mang theo những gì cần thiết để khâu may và đi ngay với tôi với điều kiện đến chỗ ấy tôi phải bịt mắt ông lại.
Nghe nói vậy Baba Mustafa làm khó dễ:
- Ô! Ồ! Như thế là cô muốn tôi làm việc gì đó trái lương tâm hay trái danh dự chăng?
Bỏ vào tay ông một đồng tiền vàng khác, Morgiane lại nói:
- Có trời chứng giám, tôi chỉ đề nghị ông lâm một việc hoàn toàn trong danh dự. Ông đi cùng tôi, đừng sợ gì cả.
Baba Mustafa đi theo cô và Morgiane sau khi bịt mắt ông bằng chiếc khăn tay, dẫn ông vào chỗ ông chủ đã mất, chỉ cất chiếc khăn bịt mắt trong phòng cô đã đặt xác, mỗi khúc thân đúng vào chỗ của nó.
Cô bảo:
- Baba Musta tôi dẫn ông đến để nhờ khâu những tấm này. Ông làm nhanh chóng khâu xong tôi sẽ trả một đồng vàng nữa.
Khi Baba Musatafa khầu xong Morgiane lại bịt mắt ông ngay trong phòng đó, đưa đồng tiền vàng thứ ba như đã hứa, dặn giữ bí mật và dẫn ông ra chỗ cô đã bịt mắt ông khi đến. Tại đây cô bỏ khăn bịt mắt để ông trở về nhà, nhìn theo cho đến khi không thấy bóng nữa sợ ông tò mò trở lại quan sát.
Morgiane đã đun nước nóng rửa thân thể Cassim, rảy nước hoa và bọc xác chết lại như thường lệ. Thợ mộc cũng mang đến quan tài Ali Baba đã đặt làm. Để người thợ mộc không thấy gì, Morgiane nhận quan tài, trả tiền ngoài cổng để ông đi và đưa vào nhà giúp Áli Baba bỏ người chết vào quan tài.
Khi Ali Baba đã đóng kỹ đinh vào ván, cô đến báo tin với nhà thờ sẵn sàng để an táng. Những người của nhà thờ chuyên lau rửa những người chết nhận đến làm việc nhưng cô bảo đã hoàn tất rồi.
Morgiane vừa trở về nhà thì thầy cả và các chức sắc nhà thờ đến. Bốn người hàng xóm nâng chiếc quan tài lên vai, đi theo thầy cả đọc kinh, mang người chết ra nghĩa địa. Là nô lệ của người chết, Morgiane khóc lóc, đầu trần đi sau quan tài, than vãn, đấm vào ngực, giật tóc mình.
Ali Baba đi sau đó cùng những người hàng xóm; họ lần lượt tách ra để thay thế những người mang quan tài cho đến nghĩa địa.
Vợ Cassim ở nhà kêu van, than khóc với những người phụ nữ quanh xóm theo phong tục chạy đến với tang lễ, cùng than khóc với chủ nhà làm không khí buồn bã lan mãi cả vùng rất xa khu phố.
Bằng cách ấy, cái chết thê thảm của Cassim được che giấu bởi Ali Baba, vợ bác, bà vợ Cassim quá cố và Morgiane. Họ che giấu khéo léo đến nỗi chẳng có ai trong thành phố biết và nghi ngờ gì.
Ba bốn ngày sau khi an táng Cassim, Ali Baba mang số đồ đạc ít ỏi của nhà mình và của cải lấy được của bọn cướp, ban đêm đưa sang nhà vợ goá của Cassim bác ở lạI đấy kết hôn mới với chị dâu.
Theo tập quán tôn giáo của họ, những loại đám cưới như thế không ai lấy làm lạ.
Ỏ cửa hiệu của Cassim, Ali Baba có một đứa con trai đã tâp sự xong ở nhà một thương gia lớn khác, và được khen là tốt. Bác giao cửa hiệu cho con, hứa hẹn nếu quản lý tốt chẳng bao lâu sẽ cưới vợ theo gia thế của mình.
Nói về bọn cướp, chúng trở về hang vào một thời gian đã định, rất ngạc nhiên không thấy xác Cassim, càng lạ lùng thấy số túi vàng giảm đi. Tên tướng cướp nói:
- Chúng ta đã bị phát hiện và mất cắp. Nếu không tìm cách đề phòng gấp và ngăn chặn, chắc chắn chúng ta sẽ mất hết bao nhiêu của cải cha ông và chúng ta góp nhặt vất vả. Sự thiệt hại vừa qua là do đứa lấy trộm biết được câu thần chú mở cửa hang, may mắn là chúng ta đến lúc nó sắp ra.
Nhưng không phải một mình nó; phải có một đứa khác biết như nó. Xác nó bị lấy đi, của cải glảm bớt là những chứng cớ không chối cãi được. Có vẻ như không ai biết điều bí mật ngoài hai đứa ấy, đã chết một đứa rồi, chúng ta phải giết nốt đứa kia. Các anh em nghĩ sao? Có đồng ý với nhận định của ta không?
Ý kiến của tên tướng cướp rất hợp lý nên cả bọn thống nhất bỏ công việc khác để tìm giết đứa lấy trộm kỳ được.
Tên tướng cướp lại nói:
- Ta tin tưởng vào lòng dũng cảm của các anh em nhưng trước hết phải có một người táo bạo khôn khéo, xử trí nhanh, không mang vũ khí, ăn mặc như lữ hành lạ mặt vào thành phố tìm hiểu xem người ta nói ra sao về cái chết của đứa lấy trộm ta đã giết một cách xứng đáng với tội trạng và phát hiện nó ở nhà nào.
Đó là điều rất quan trọng chúng ta phải biết đầu tiên để khỏi phải hối hận vì lộ mặt trong đất nước lâu nay không ai biết chúng ta và cần thiết phải như thế mãi. Trước khi khuyến khích người xung phong nhận nhiệm vụ, để khỏi báo tin sai gây tai hại cho chúng ta, các anh em có đồng tình chúng ta sẽ xử tội chết người báo tin sai đó?
Không chờ cả bọn biểu quyết, một trong những tên cướp nói:
- Tôi chấp nhận điều ấy và vinh dự lấy mạng sống của mình để nhận nhiệm vụ. Nếu không có kết quả, các bạn nhớ rằng tôi không thiếu can đảm và tình nguyện vì quyền lợi chung của toán.
Tên cướp sau khi được tên tướng cướp và đồng bọn hoan nghênh cải trang để không ai nhận ra mình. Chia tay với toán cướp hắn ra đi trong đêm, trù tính khéo léo đến thành phố trời vừa sáng. Hắn.
tới quảng trường chỉ thấy một cửa hiệu mở cửa, đó là cửa hiệu của Baba Mustafa.
Baba Mustafa ngồi trên ghế tay cầm dùi thép chuẩn bị làm việc. Tên cướp thấy ông đã có tuổi chào hỏi:
- Chào ông, sao ông bắt đầu làm việc sớm thế? Ở tuổi ông có lẽ mắt trông chưa rõ, chờ sáng sủa hơn tôi chắc ông thấy tốt hơn, khâu may dễ hơn.
- Dù anh là ai, nhất định anh chưa biết rõ tôi. Tuy già nhưng đôi mắt tôi còn rất tốt. Anh sẽ không nghi ngờ gì điều đó khi biết cách đây không lâu, tôi đã khâu xác chết trong một chỗ không sáng sủa bằng bây giờ.
Tên cướp rất mừng gặp được người cho biết tin tức hằn cần mà chưa hỏi. Hắn ra vẻ kinh ngạc để ông nói tiếp:
- Xác chết à? Tại sao phải khâu một xác chết? Có lẽ ông muốn nói đã khâu may vải liệm?
- Không không - Baba Mustafa lại nói - Tôi biết ông muốn tôi kể cho nghe nhưng sẽ không biết gì hơn đâu.
Tên cướp chưa cần nói rõ hơn đã chắc chắn phát hiện ra điều mình tìm kiếm. Hắn lấy ra một đồng vàng bỏ vào tay ông lão và nói:
- Tôi chỉ tò mò muốn biết điều bí mật của ông, đảm bảo sẽ không nói ra điều ông thổ lộ. Tôi chỉ xin ông làm ơn cho biết hoặc chỉ đến ngôi nhà ông đã khâu người chết ấy.
- Dù tôi muốn làm ơn điều ông đòi hỏi- Baba Mustafa lại nói và cầm đồng vàng sẵn sàng trả lại - Tôi khẳng định với ông không làm việc ấy được và ông có thể tin tôi. Lý do là người ta dẫn tôi đến một chỗ rồi bịt mắt tôi lại dắt đến tận nhà; ở đấy sau khi làm xong người ta cũng theo cách ấy dẫn tôi ra chỗ đó.
Ông thấy đấy tôi không giúp gì ông được.
- Ít nhất - Tên trộm lại nói - Ông cũng nhớ láng máng con đường người ta bịt mắt đưa ông đi. Mong ông đến vớI tôi chỗ đó, tôi bịt mắt ông và chúng ta cùng đi theo con đường và những khúc quanh ông có thể nhớ lại được.
Mọi sự vất vả đều có thưởng, đây là một đồng vàng khác nữa: ông đi cùng tôi sẽ rất vui lòng làm như tôi đã đề nghị.
Nói rồi hắn bỏ vào tay ông lão một đồng vàng khác.
Hai đồng vàng hấp dẫn Baba Mustafa; ông nhìn chúng trong tay không nói một lời, tự nhủ nên làm thế nào. Cuối cùng ông rút túi trong người ra bỏ tiền vào và nói với tên cướp:
- Tôi không dám chắc có nhớ được chính xác con đường người ta dẫn tôi đi không. Nhưng vì ông muốn, chúng ta cùng đi và tôi cố gắng nhớ lại xem sao.
Ổng lão đứng dậy làm tên cướp rất thoả mãn và không cần phải đóng cửa, vả lại cũng chẳng có gì để mất, ông dẫn tên cướp đến chỗ Morgiane đã bịt mắt ông. Đến nơi ông bảo:
- Người ta bịt mắt tôi ở chỗ này và tôi quay người như thế này.
Tên cướp lấy khăn tay bịt mắt ông, đi bên cạnh lúc thì dắt ông lúc đi theo cho đến khi ông dừng lại.
Đến đây Baba Mustafa nói:
- Hình như tôi không đi xa hơn nữa đâu.
Và thực tế ông đứng trước nhà Cassim mà Ali Baba đang ở. Trước khi mở khăn bịt mắt tên trộm nhanh nhẹn dùng phấn chuẩn bị sẵn đánh dấu vào cánh cửa và khi đã mở mắt, hắn hỏi ông có biết nhà của ai đấy không; ông trả lời mình ở khu khác nên không nói được. Tên cướp thấy không thể biết gì hơn liền để Baba Mustafa trở về cửa hiệu, hắn cám ơn ông vì đã làm ông vất vả rồi hắn, theo đường vào rừng, chắc mẩm được đồng bọn đón tiếp tốt.
Một lúc sau khi tên cướp và ông thợ giày chia tay nhau Morgiane ra khỏi nhà đi mua vài đồ lặt vặt lúc trở về cô để ý đến dấu phấn ở cánh cửa, suy nghĩ rồi tự hỏi:
- Dấu hiệu này là thế nào? Có kẻ nào muốn hại chủ mình hay làm để chơi vui. Dù với ý định ra sao tốt hơn là cứ đề phòng mọi tình huống.
Cô cũng lấy phấn và do hai ba cửa phía trên, phía dưới giống nhau, cô đánh dấu vào một chỗ như thế và vào nhà không nói gì với ông bà chủ.
Tên cướp vào rừng gặp đồng bọn còn sớm, báo tin về kết quả cuộc đi, khuếch trương vận may gặp ngay một người qua đó nắm được tin tức mà không ai biết được. Hắn được mọi người nghe rất hài lòng và tên tướng cướp khen ngợi sự nhanh nhẹn của hắn rồi nói:
- Anh em, chúng ta đừng để mất thì giờ. Chúng ta trang bị vũ khí kín đáo và cùng đi. Vào đến thành phố chúng ta phân tán để tránh nghi ngờ, hẹn gặp nhau ở quảng trường đứng rải rác cách xa nhau, trong lúc đó tôi cùng anh đi đến ngôi nhà đã được đánh dấu rồi tôi xét xem nên làm như thế nào cho phù hợp nhất.
Lời tên tướng cướp được đồng bọn hoan nghênh, chuẩn bị cùng ra đi. Chúng đi từng hai, ba đứa, cách nhau vừa phải và vào thành phố không bị nghi ngờ gì. Tên tướng cướp và tên do thám vào thành phố cuối cùng, đến con đường đã đánh dấu nhà Ali Baba. Tên ấy dẫn tướng cướp đến trước một trong những cánh cửa Morgiane đánh dấu nói đây là nhà hắn đã đánh dấu.
Nhưng tiếp tục đi để tránh nghi ngờ, tên chỉ huy nhận thấy cánh cửa nhà sau cũng đánh đấu cách đó và cũng một chỗ như thế, hỏi tên do thám cái này hay cái trước. Tên này bối rối không biết trả lời thế nào, càng lúng túng khi chúng thấy bốn, năm cánh cửa những nhà tiếp theo cũng có dấu như vậy. Hắn khẳng định với chỉ huy hắn chỉ đánh dấu một cánh cửa và nói thêm:
- Tôi không biết kẻ nào đánh dấu thêm giống nhau đến thế, trong số lẫn lộn này tôi thú nhận không phân biệt rõ nhà nào do tôi đánh dấu.
Tên chỉ huy thấy ý đồ của mình bị phá huỷ, trở lại quảng trường nói với đồng bọn:
- Chúng ta đã mất công làm một hành trình vô ích và chỉ còn cách về lại chỗ ẩn thôi. - Hắn đi trước và cả bọn theo hắn cũng trật tự như khi chúng đến.
Về đến hang tên chỉ huy giải thích lý do phải ra lệnh rút về. Tền dẫn đường bị ngay toàn thể toán cướp kết tội chết; hắn cũng tự nhận thấy đáng lẽ phải đề phòng cẩn thận hơn và cứng cỏi đưa cổ ra cho tên đến chặt đầu hắn.
- Để bảữ vệ cả nhóm, không thể không chuộc lại sai lầm, một tên cướp khác hứa sẽ làm tốt hơn kẻ bị trừng phạt và đứng lên xin nhận nhiệm vụ. Được chấp nhận hắn đến hỏi Baba Mustafa như đứa đầu, và lại được ông lão bịt mắt dẫn di chỉ nhà Ali Baba. Hắn đánh dấu bút chì đỏ vào một chỗ kín đáo hơn, cho là cách dễ phân biệt với những nhà đánh dấu phấn trắng.
Nhưng một lúc sau Morgiane đi ra ngoài trở về, dấu đỏ cũng không thoát khỏi đôi mắt tinh tường của cô. Cô cũng suy tính như lần trước và đánh dấu bút chì đỏ ở cánh cửa những nhà gần đấy vào cùng chỗ.
Tên cướp trở về rừng đề cao cách đề phòng của hắn như là không thể nhầm lẫn nhà ấy với những nhà khác. Tên tướng cướp và đồng bọn tin tưởng, cùng ra thành phố theo trật tự lần trước, cũng tráng bị vũ khí như thế, sẵn sàng thực hiện ý đồ đã chuẩn bị. Cả tên tướng cướp và tên do thám thứ hai đến con đường trước nhà Ali Baba nhưng lại gặp phải khó khăn như lần trước. Tên tướng cướp bực tức và tên do thám đưa đường cũng bối rối vô cùng như tên làm nhiệm vụ trước đó.
Tên tướng cướp buộc phải rút quân về, cũng không hài lòng như ngày vừa qua; tên cướp đi làm nhiệm vụ cũng chịu hình phạt mà hắn sẵn lòng hứng chịu.
Tên chỉ huy thấy mất hai đồng bọn dũng cảm, sợ sẽ thiệt hại thêm nếu giao cho những đứa khác đi tìm nhà Ali Baba. Kinh nghiệm cho hắn thấy chúng hầu hết chỉ giỏi cướp giật không có đầu óc biết trù tính.
Hắn liền tự mình làm công việc ấy, hắn đi ra thành phố, nhờ Baba Mustafa giúp như hai tên trước và không tiếp tục trò đánh dấu nhận nhà. Hắn quan sát kỹ, không chỉ chú ý nhìn mà đi lại trước nhà nhiều lần để không nhầm lẫn được.
Hài lòng về chuyến đi và biết được điều mong muốn, hắn trở về rừng, vào trong hang chỗ cả toán đang chờ tuyên bố.
- Các anh em, cuối cùng không có gì ngăn cản được ta trả thù đích đáng về thiệt hại của chúng ta. Ta biết chắc chắn nhà của tên có tội và dọc đường ta đã nghĩ cách diệt nó thật khôn khéo để không kẻ nào biết được chỗ ẩn náu và kho báu của chúng ta mà vẫn tránh được kết cục thảm bại.
Trong hai, ba ngày, bọn cướp thu thập đủ những thùng không miệng hơi chật. Tên tướng cướp cho cắt rộng thêm miệng thùng và sau khi cho từng đứa một vào trong từng thùng với vũ khí cần thiết, hắn để hở một ít cho chúng thở còn thì đậy lại như những thùng đầy dầu và để ngụy trang kỹ, hắn còn lấy dầu ở thùng đầy bôi bên ngoài.
Công việc bố trí như thế, khi những con la mang ba mươi bảy tên cướp không có tên chỉ huy, mỗi đứa trong một thùng và cả thùng đẩy dầu, tên chỉ huy đóng vai dẫn dắt lên đường vào thành phố theo giờ đã định, đến nơi vừa mờ tối, khoảng một giờ sau khi mặt trời lặn. Hắn đến thẳng nhà Ali Baba, dự tính xin ngủ lại với đàn la.
Không cần gõ cửa, hắn gặp Ali Baba ở cổng, đứng hóng mát sau bữa ăn tối. Hắn cho la dừng lại, đến chào chủ nhà:
- Ông chủ, tôi từ xa đưa dầu đến mai ra chợ bán, vào giờ này không biết trọ vào đâu. Nếu không làm phiền ông quá, ông vui lòng cho tôi nghỉ lại nhà ông một đêm, tôi rất đội ơn ông.
Tuý Ali Baba đã thấy trong rừng tên này, nghe cả giọng nói của hắn nhưng làm sao bác nhận ra tên tướng cướp dưới lốt một người đi buôn dầu? Bác nói:
- Chúc mừng ông, xin mời vào - Nói rồi bác né người để hắn vào cùng những con la.
Đồng thời Ali Baba gọi một người nô lệ ra lệnh khi bỏ hàng xuống xong, đưa la vào chuồng, cho ăn cỏ khô và lúa mạch. Bác cũng cất công vào bếp bảo Morgiane chuẩn bị ăn khuya nhanh chóng cho khách vừa tới và chuẩn bị một chiếc giường trong phòng.
Bác còn niềm nở hơn: để đón tiếp khách hết sức tử tế, khi thấy tên tướng cướp bỏ hàng trên la xuống, đưa la vào chuồng rồi, đang chuẩn bị một chỗ ngủ ngoài trời, bác đến mời hắn vào phòng khách và bảo hắn không nên ngủ ngoài sân. Tên tướng cướp cảm ơn, lấy lý do không muốn làm phiền chủ nhà nhiều nhưng hắn thực sự muốn thực hiện ý đồ cho dễ đàng và chỉ chấp nhận lòng tốt của Ali Baba sau nhiều lần bác nài ép.
Ali Baba không chỉ ngồi nói chuyện với kẻ muốn giết bác cho đến lúc Morgiane phục vụ bữa ăn khuya, mà còn tiếp tục trao đổi những câu chuyện mà bác nghe là khách thích và chia tay khi khách đã ăn xong.
Bác nói:
- Tôi để ông nghỉ ngơi; có những việc gì cần ông cứ bảo, người nhà tôi sẵn sàng phục vụ ông.
Tên tướng cướp đứng dậy đưa Ali Baba ra cửa và trong lúc Ali Baba vào bếp dặn dò Morgiane, hắn ra sân lấy lý do đến chuồng gia súc xem có thiếu gì cho những con la không.
Ali Baba sau khl bảo chú ý cho khách đừng để thiếu gì nói thêm:
- Morglane, sáng mai ta đi tắm sớm, chuẩn bị khăn tắm cho ta đưa cho Abdalia (tên người hầu) và làm món cháo ngon khi trở về để ta ăn - Sau đó bác về phòng đi nằm.
Tướng cướp ở chuồng la ra, đến ra lệnh cho đồng bọn cần tiến hành công việc ra sao. Đi từ đứa đầu đến đứa cuốI trong thùng dầu, hắn bảo:
- Khi ta quăng ra những viên đá nhỏ từ phòng ta ngủ, các bạn dùng dao rạch thùng từ trên xuống dưới để ra ngoài, ta sẽ ra đón các bạn.
Con dao bọn cướp cầm theo thân mảnh và nhọn. Hắn đi vào nhà, đến cửa bếp thì gặp Morgiane cầm đèn đẫn hắn lên phòng đã chuẩn bị cho khách, cô hỏi hắn có cần gì khác nữa không và đi ra.
Để khỏi bị nghi ngờ hắn tắt đèn, mặc cả quần áo đi nằm, sẵn sàng dậy khi đã chợp mắt một lúc Morgiane không quên lời đặn của chủ, chuẩn bị khăn tắm đưa cho người hầu, đặt nồi nấu cháo và trong lúc đun vừa sôi nồi cháo ngọn đèn trong bếp phụt tắt. Không còn dầu, nến cũng hết. Làm sao đây? Cô cẩn có ánh sáng để đun xong nồi cháo, nói điều đó với người hầu. Anh này bảo:
- Việc gì phải bối rối thế? Ra lấy một ít dầu ở thùng ngoài sân kia kìa.
Morgiane cám ơn anh về lời khuyên và trong lúc anh này vào phòng gần chỗ Ali Baba ngủ để sáng cùng đi nhà tắm, cô cầm lọ đầu đi ra sân. Lại gần chiếc thùng gặp đầu tiên, tên cướp trốn trong đó hỏi nhỏ:
- Đến giờ lồi ư?
Tuy tên cứớp nói rất nhỏ cô cũng nghe được, hơn nữa tên tướng cướp kia hạ thùng từ những con la xuống, đã mở các thùng một ít để đồng bọn hít thở không khí ở tư thế gò bó trong thùng.
Một nô lệ nào khác ngoài Morgiane sẽ kinh ngạc vì thấy một người thay vì dầu có thể kêu ầm lên đưa đến tai họa. Nhưng Morgiane khôn hơn, hiểu ngay phải giữ bí mật và hiểu ngay mối nguy đang đe doạ Ali Baba, gia đình và cả bản thân cô nữa. Nghĩ phải tìm cách im lặng đối phó theo khả năng mình, cô bình tĩnh lại, không để lộ ra một xúc động nào, đóng vai tên tướng cướp, trả lời:
- Chưa đâu, lát nữa đã - Cô lại gần thùng tiếp đó cũng câu hỏi và trả lời như thế cho đến thùng cuối cùng, đầy dầu.
Qua đó Morgiane biết chủ mình tưởng cho người buôn dầu nghỉ nhờ nhưng đã cho vào nhà mình ba mươi tám tên cừớp kể cả chỉ huy của chúng. Cô vội múc đầy lọ dầu ở thùng cuối, trở vào bếp, đổ dầu vào đèn thắp sáng lên rồi lấy chiếc chảo to, trở ra sân đổ đầy dầu vào, đưa vào bắc lên bếp cho nhiều củi đun để dầu càng chóng sôi càng tốt nhằm mục đích cứu cả gia đình. Khi dầu đã sôi, cô bưng chảo đổ vào mỗi thùng một lượng dầu sôi đủ làm bỏng chết từng tên cướp trong thùng.
Hành động ấy chứng tỏ lòng can đảm của Morgiane, thực hiện xong cô mang chảo không vào bếp, đóng cửa lại. Tắt bớt lửa đủ để chín nồi cháo cho Ali Baba rồi thổi đèn, im lặng đứng trong bóng tối nhìn ra cửa sổ xem việc xảy đến tiếp theo. Quả nhiên chưa đầy mười lăm phút sau, tên tướng cướp tỉnh dậy.
Hắn đứng lên lại mở cửa sổ nhìn ra thấy không có ánh sáng, bốn phía rất im lặng, hắn ném những viên đá ra hiệu lệnh, nhiều viên hắn nghe tiếng rơi trên thùng. Lắng tai nghe không thấy đồng bọn hoạt động gì, hắn lo lắng ném đá lần thứ hai rồi thứ ba. Đá rơi xuống thùng nhưng không một tên cướp nào động đậy, hắn không hiểu vì sao.
Vội vàng ra sân hết sức lặng lẽ, hắn lại gần chiếc thùng đầu tiên ghé xuống hỏi. đồng bọn tưởng đang ngủ. Hắn ngửi thấy mùi dầu nóng và khét toát ra, biết rằng mưu mô giết Ali Baba, đất nhà, lấy lại vàng của hắn đã thất bại. Hắn lại thùng tiếp đó và lần lượt những thùng khác, thấy tất cả đồng bọn đều cùng chung số phận. Nhìn lượng dẩu thiếu hụt hắn biết người ta đã làm thế nào để diệt gọn đồng bọn của mình. Thất vọng vì hỏng việc, hắn chạy lại cửa ra vườn, nhảy tường từ vườn này sang vườn khác bỏ trốn.
Khi Morgiane không nghe tiếng gì nữa và không thấy tên tướng cướp trở lại, chắc chắn hắn đã chạy qua cửa vườn vì cổng nhà đã đóng kỹ. Hài lòng và rất vui mừng đã bảo vệ an toàn cho cả gia đình, cô đi nằm và ngủ thiếp đi.
Ali Baba dậy trước lúc trời sáng đi tắm cùng người hầu, không biết gì về sự việc kỳ lạ xảy ra trong nhà lúc anh đang ngủ mà Morgiane không muốn đánh thức bác dậy quấy rầy giấc ngủ của bác và cũng không đủ thì giờ trong lúc cứu nguy. Đi tắm về, mặt trời đã lên cao, Ali Baba ngạc nhiên thấy những thùng dầu còn nguyên ở chỗ cũ, người buôn dầu chưa chở ra chợ bán, hỏi Morgiane nguyên nhân. Cô ra mở cửa vốn để nguyên hiện trạng cho bác thấy quang cảnh và giải thích:
- Ông chủ tốtt bụng của tôi, Trời còn giữ gìn cho ông và gia đình! Ông hãy đến cùng tôi xem sẽ hiểu rõ hơn.
Alí Baba đi theo Morgiane đến chỗ những chiếc thùng. Cô nói:
- Ông nhìn vào thùng xem có dầu không?
Bác nhìn, thấy có người trong thùng, sợ hãi lùi lại kêu thét lên. Morgiane bảo:
- Ông đừng sợ gì, người ông thấy không làm hại được ông nữa. Hắn định làm nhưng không làm được gì nữa đối với ông hay bất cứ ai; hắn chết rồi.
- Morgiane, cô vừa cho ta xem như vậy nghĩa là sao? Giải thích rõ cho ta đi.
- Tôi sẽ trình bày rõ với ông nhưng đừng quá ngạc nhiên và đừng gây ra tò mò cho những người xung quanh biết điều rất quan trọng mà ông cần giấu kín. Ông cứ xem hết các thùng đi đã.
Ali Baba nhìn lần lượt vào thùng từ chiếc đầu đến chiếc cuối đựng dầu, thấy lượng dầu giảm đáng kể, sau đó đứng như bất động lúc nhìn vào những chiếc thùng, lúc nhìn Morgiane không nói một tiếng vì quá kinh ngạc.
Cuối cùng bác hỏi:
- Thế người buôn dầu ra sao rồi?
- Người buôn dầu, - Morgiane trả lời - còn ít buôn bán hơn tôi. Tôi cũng sẽ nói với ông hắn ra sao. Nhưng ông vào phòng nghe kể lại thuận lợi hơn vì đã đến lúc tắm xong ông nên ăn bát cháo để giữ gìn sức khoẻ.
Trong lúc Ali Baba vào phòng Morgiane đi lấy cháo mang lên. Trước khi ăn, bác bảo:
- Hãy bắt đầu thoả mãn sự nóng lòng muốn biết của ta đi. Kể lại cho ta nghe câu chuyện kỳ lạ ấy với mọi tình tiết.
Vâng lời chủ, Morgiane nói:
- Thưa ông, tối qua lúc ông đi nằm, tôi chuẩn bị khăn tắm của ông đưa cho Abdalia rồi nhóm bếp nấu cháo. Nước sôi thì đèn tắt vì hết dầu; trong nhà không còn một giọt, nến cũng không.
Abdalia thấy tôi bối rối, nhắc tôi có những thùng đầy dầu ngoài sân, cậu ta không ngờ cũng như tôi và chắc ông cũng thế. Tôi cầm lọ đựng dầu ra chỗ chiếc thùng gần nhất. Lại gần thùng tôi nghe thấy một giọng nói hỏi nhỏ: Đến giờ rồi ư? Tôi không sợ hãi, vì hiểu ra ngay mánh khoé của kẻ giả dạng lái buôn, tôi không ngập ngừng trả lời: Chưa đâu nhưng sắp đến rồi. Tôi lần lượt lại các thùng tiếp theo, nghe câu hỏi và cũng trả lời tương tự. Chỉ có dầu ở thùng cuối cùng, tôi múc đầy lọ.
Tôi chọ rằng trong sân có ba mươi bảy tên cướp đang chờ hiệu lệnh của tên tướng cướp để đốt cháy nhà ta mà ông tưởng là người lái buôn và tiếp đãi tử tế. Không để mất thì giờ, tôi đưa lọ dầu vào nhà, đốt đèn, lấy chiếc chảo to nhất trong bếp ra múc đầy dầu bắc lên bếp. Tôi nhóm lửa và khi dầu sôi tôi đem rót vào từng thùng có bọn cướp để ngăn cản chúng thực hiện ý đồ tàn ác.
Xong đâu đấy tôi trở vào bếp, tắt đèn và nhìn qua cửa sổ im lặng quan sát việc làm của tên giả danh lái buôn trước khi đi nằm.
Một lúc sau hắn quăng những viên đá rơi trên thùng để la hiệu lệnh. Quăng đến lần thứ hai, thứ ba không thấy đứa nào hành động gì, hắn ra sân đến từng chiếc thùng; do trời tối không trông rõ, tôi chắc chắn hắn bỏ chạy theo đường qua vườn vì thất vọng về âm mưu thất bại. Chắc chắn gia đình đã yên ổn, tôi bèn đi ngủ.
Kể xong Morgiane nói thêm:
- Đấy là câu chuyện ông muốn biết. Đấy là tiếp theo một nhận xét hai, ba ngày nay mà tôi nghĩ không phải báo với ông là một lần từ thành phố trở về lúc sáng sớm, tôi thấy trên cửa đánh dấu trắng, ngày hôm sau đánh dấu đỏ, tôi nghĩ ai đó có ý đồ gì xấu nên mỗi lần tôi cũng đánh dấu tương tự vào cả hai ba nhà trên dưới nhà ta.
Nếu ông theo dõi việc ấy, ông sẽ thấy những cái đó do mưu mô của bọn cướp trong rừng mà tôi không rõ vì sao thiếu mất hai đứa. Dù sao thì đây là lần thứ ba chúng thề quyết giết hại ông và nên đề phòng cẩn thận vì vẫn còn không phải chỉ có một tên trên đời. Tôi sẽ không quên theo dõi để bảo vệ ông theo nhiệm vụ của mình.
Morgiane nói xong, Ali Baba thấy mình chịu ơn cô nhiều, bác nói với cô:
- Ta không chết khi chưa thưởng cô xứng đáng với công lao. Ta chịu ơn cô về mạng sống và để bắt đầu chứng tỏ lòng biết ơn, ngay từ bây giờ ta trả lại tự do cho cô trong lúc chờ đợi làm đầy đủ thủ tục.
Ta khẳng định với cô chính bốn mươi tên cướp đặt bẫy đó với ta.
Chúa giải thoát cho ta qua những cách làm của cô; ta hy vọng: Người tiếp tục bảo vệ ta trước sự tàn ác của chúng và diệt gọn chúng để giải thoát cho mọi người những hành động ghê tởm của chúng. Điều chúng ta cần làm là chôn xác lũ bệnh dịch của dân chúng này thật bí mật để không ai nghi ngờ gì về số phận của chúng.
Ta sẽ cùng làm việc này với Abdalia.
Khu vườn của Ali Baba dài rộng, cuối vườn có nhiều cây to. Không chần chừ anh cùng người hầu đào một hố to tương ứng với những xác bọn cướp cần chôn. Đất dễ đào, họ hoàn thành chóng vánh, kéo xác chết ra khỏi thùng, để riêng vũ khí của bọn cướp, đưa những xác chết ra cuối vườn xếp nằm trong hố lấp đất lại, phủ đều xung quanh nện mặt đất bằng phẳng như trước. Ali Baba cho giấu kín những chiếc thùng và vũ khí, còn những con la, anh cho đưa ra chợ nhiều lần để người hầu đứng bán.
Trong lúc Ali Baba làm mọi cách để mọi người không biết vì sao bác trở nên rất giàu trong một thời gian ngắn như thế, tên tướng cướp trở về rừng với sự nhục nhã không chịu nổi và day dứt đúng hơn là xấu hổ vì thất bại khổ sở, ngược lại với dự tính, vào trong hang hắn không quyết định được cần phải làm gì để đối phó với Ali Baba.
Cô độc trong chỗ ở tối tăm hắn tỏ ra thật thảm hại. Hắn kêu lên:
- Những anh em dũng cảm! Các anh ở đâu. Ta có thể làm gì cho các anh em đây? Phải chăng ta đã tập hợp và chọn lựa các anh để trông thấy các anh bị giết chết tất cả một lúc thật thảm thương và không xứng với lòng can đảm của các anh. Ta sẽ đỡ nhớ tiếc hơn nếu các anh chết như những người dũng cảm gươm cầm trong tay.
Bao giờ thì ta lại có được một toán người hăng hái như các anh? Và khi muốn, làm sao ta có thể giữ gìn và không để bao nhiêu vàng bạc, của cải làm mồi cho kẻ đã làm giàu một phần nhờ của cải của chúng ta? Ta không thể không nghĩ đến phải lấy sinh mạng của nó. Điều đó ta không làm được với sự hỗ trợ mạnh của các anh thì ta sẽ làm một mình và làm thế nào để kho báu không bị tàn phá, sẽ không có người thừa kế, không có chủ nào sau ta; của cải phải được bảo vệ và tăng thêm trong hậu thế.
Quyết đình như vậy, hắn không còn lúng túng tìm cách thực hiện rồi sau đó đầy hy vọng và tâm trí bình tĩnh hơn, hắn nằm ngủ, qua một đêm khá thanh thản.
Sáng hôm sau tên tướng cướp dậy sớm, như đã dự dịnh hắn mặc bộ quần áo sạch sẽ phù hợp với việc ra thành phố, hắn thuê một chỗ ở nhà trọ. Chờ đợi những gì xảy ra ở nhà Ali Baba sẽ có tiếng vang, hắn hỏi người gầc cửa có tin gì mới trong thành phố không. Thấy người ấy cho biết ngược hẳn điều hắn nghĩ, hắn cho rằng Ali Baba giữ kín để mọi người không biết vì sao giàu lên và đo đó mà có kẻ muốn giết hại mình. Điều này càng kích thích hắn tìm mọi cách để trừ khử Ali Baba cũng theo cách bí mật ấy.
Tên tướng cướp có một con ngựa dùng để vào rừng đưa nhiều loại vải vóc đẹp ra chỗ trọ rất thận trọng để không lộ nơi mình đến lấy. Khi đã đưa ra một số vải khá nhiều, hắn tìm thuê một cửa hiệu, trang bị đầy đủ và mở cửa hàng.
Cửa hiệu ở ngay trước mặt cửa hiệu của Cassim trước đây và bây giờ do con trai Ali Baba quản lý.
Hắn lấy tên là Cogia Houssain, là người mới đến không lo là quan hệ xã giao với những nhà buôn bên cạnh, theo phong tục. Con trai Ali Baba rất trẻ tuổi tử tế, có hiểu biết, hắn lui tới nới chuyện nhiều với cậu hơn những người khác và kết bạn với cậu. Ba, bốn ngày sau khi hắn mở cửa hiệu, hắn nhận ra Ali Baba đến thăm con như thường vẫn làm và sau đó được cậu cơn trai giới thiệu đó là bố mình, hắn tăng cường vồn vã, săn đón, tặng quà, và nhiều lần cả chiêu đãi thân tình.
Con trai Ali Baba không muốn chịu ơn hắn nhiều mà không trả lại tương xứng nhưng cửa hiệu của cậu chật hẹp và không thuận tiện chiêu đãi như ý muốn, cậu bàn với bố về ý định của mình, cho rằng mình không lịch sự nếu không đáp lại sự tử tế của Cogia Houssain.
Ali Baba vui lòng nhận chuẩn bị bữa tiệc, bảo con:
- Con trai ta, ngày mai thứ sáu những nhà buôn lớn như Cogin Houssain và con đóng cửa hiệu, sau bữa ăn tối con đi dạo với ông ta, khi trở về làm thế nào đưa ông đi qua nhà bố và mời ông vào: làm thế tốt hơn chính thức mờI mọc; ta sẽ bảo Morgiane chuần bị sẵn sàng bữa ăn khuya.
Ngày thứ sáu, con trai Ali Baba và Cogia Houssain gặp nhau ở một chỗ hẹn và cùng nhau đi dạo. Lúc trở về, cơn trai Ali Baba đưa ông bạn đi vào con đường trước nhà bố mình, cậu dừng lại gõ cửa và nói:
- Đây là nhà bố tôi. Nghe nói ông cho tôi vinh dự được kết bạn, bố tôi muốn may mắn được làm quen; đề nghị ông vào chơi cho bố tôi hài lòng như đã làm tôi vui thích.
Tuy Cogia Houssain đã đạt được mục đích vào nhà Ali Baba nhưng để giết bác mà không bị nguy hiểm đến mình, hắn giả vờ từ chối, ra vẻ muốn chia tay với ngườI bạn trẻ nhưng vừa lúc đó người hầu ra mở cửa, con trai Ali Baba bước vào trước rồi cầm tay hắn kéo vào.
Ali Baba đón tiếp Cogia Houssain cởi mở, hết sức tử tế, cám ơn hắn đã rất tốt với con trai mình. Bác nói:
- Ông làm ơn cho nó cũng như cho tôi; nó còn trẻ chưa hiểu biết cuộc sống, ông đã không nề hà góp phần đào tạo nó.
Cogla HouBSain tỏ ra thán phục Ali Baba, khẳng định con trai bác chưa có kinh nghiệm như những ngườI già nhưng đã có sự hiểu biết thay cho kinh nghiệm của vô số người.
Sau một lúc trao đổi nhiều vấn đề khác nhau, Cogia Houssain muốn xin phép ra về. Ali Baba ngăn lại, nói:
- Ông chủ, ông định đi đâu? Tôi đề nghị được có vinh dự cùng ăn khuya với ông. Bữa ăn tối mời ông rất không tương xứng với ông nhưng dù sao tôi cũng mong ông sẵn lòng chấp nhận tấm lòng của chúng tôi.
- Thưa ông Ali Baba - Cogia HousBain nói - tôi rất tiếc lòng tốt của ông; nên tôi xin ông đừng cho là xấu khi rút lui không dùng bữa với ông, mong ông tin rằng không phải vì tôi coi thường hoặc bất lịch sự mà vì một lý do ông có thể tha thứ cho.
- Có thể là lý do gì ông chủ? Ông cho biết được không?
- Vấn đề là tôi không ăn thịt, không ăn ra-gu có muối. Ông thử nghĩ tôi sẽ Chịu đựng thế nào được khi cùng ăn với ông.
- Nếu chỉ vì lý do đó thì ông không thể từ chối làm tôi hài lòng vì bữa ăn được. Trước hết, trong bánh nhà tôi không có thịt và ra-gu tôi hứa sẽ cũng không cớ muối trong khẩu phần phục vụ ông; như vậy ông cứ ở lại tôi sẽ đi bảo nhà bếp làm, một lát tôi sẽ trở lại.
Ali Baba vào bếp ra lệnh cho Morgiane đừng bỏ muối và thịt cho khách và chuẩn bị hai, ba ra-gu cũng không có muối.
Morgiane sẵn sàng phục vụ nhưng không nén được bất bình về lệnh mới này, nói với Ali Baba:
- Ông này là ai mà khó khăn thế, không ăn cả muối? Nếu tôi làm nữa sẽ muộn, bữa ăn của ông không ngon.
- Đừng bực mình, Morgiane. Ông ấy là một người tốt, cứ làm như ta bảo.
Morgiane vâng lời nhưng bất đắc dĩ. Khi làm xong, tò mò muốn biết người thế nào mà không ăn- muối. Abdalia dọn bàn, cô giúp anh mang thức ăn lên. Nhìn Cọgia Houssain ngay lập tức cô nhận ra là tên tướng cướp tuy đã khéo cải trang; quan sát kỹ cô thấy hắn có con dao găm giấu dưới áo.
Cô tự nhủ: Mình chẳng lạ là tên gian ác không muốn ăn muối với ông chủ mình; kẻ thù không độI trời chung, hắn muốn giết hại ông nhưng mình sẽ ngăn cản hắn.
Trong lúc mọi người ăn, cô chuẩn bị mọi thứ cần thiết để thực hiện một kế hoạch táo bạo, vừa xong thì Abdalia vào báo đã đến lúc phục vụ quả cây. Cô mang quả cây lên và phục vụ khách trong lúc Abdalia dọn bàn.
Sau đó cô đặt bên cạnh Ali Baba một chiếc bàn nhỏ có chai rượu và ba chiếc cốc; đi ra cô dẫn Abdalia như cùng đi ăn với nhau, để Ali Baba theo phong tục, tự do nói chuyện vui vẻ với khách, mời khách uống rượu.
Cogia Houssain giả, đúng hơn là tên tướng cướp nghĩ là dịp thuận lợi giết Ali Baba đã đến. Hắn nghĩ: Mình sẽ chuốc rượu say cả hai bố con để đứa con trai dù còn sống cũng không cản trở được mình đâm đao vào tim bố nó, rồi mình chạy trốn qua vườn như đã làm, trong lúc đầu bếp và người hầu đang ăn hoặc đang ngủ trong bếp.
Giữa bữa ăn, Morgiane biết rõ ý định của tên mạo danh Cogla Houssaln, không để hắn có thì giờ tiến làm việc độc ác. Cô mặc chiếc áo vũ nữ sạch sẽ, tóc tai phù hợp, thắt chiếc thắt lưng bạc nạm vàng, giắt một con dao găm cán và vỏ bao cùng loại kim khí rồi mang chiếc mặt nạ thật đẹp.
Cải trang như thế cô bảo Abdalla:
- Abdalia, anh cầm chiếc trống đập nhịp, chúng ta ra mua vui cho khách của ông chử, bạn của con ông như đôi khi chúng ta vẫn làm vào buổi tối.
Abdalia cầm trống đập nhịp bắt đầu chơi, đi trước Morgiane vào phòng khách. Morgiane theo sau anh, cúi chào thanh thoát trình diện như muốn xin phép biểu diễn.Ali Baba nói:
- Vào đi Morgiane, Cogia Houssain sẽ xét xem cô có khả năng đến mức nào và sẽ nói ông nghĩ gì về cô. –Anh ngoảnh về phía Cogia nói tiếp, - ông đừng nghĩ tôi phải chi phí về trò mua vui này.
Của nhà đấy, cô đầu bếp và người hầu, thỉnh thoảng vẫn biểu dlễn cho tôi xem.
Mong rằng ông không cho là khó chịu.
Cogia Houssain không ngờ Ali Baba lại cho mua vui sau bũa ăn, hắn sợ không lợi dụng được thời cơ thuận lợi. Trong trường hợp này hắn đành tự an ủi sẽ tìm được dịp bằng cách tiep tục thắt chặt tình bạn với bố và con bác.
Vì thế tuy muốn Ali Baba không cho biểu diễn thì hơn, hắn vẫn vờ cám ơn và tỏ ra điều gì làm chủ nhà vui thích thì hãn cũng vui thích.
Abdalia thấy hai người không nói chuyện nữa, lại bắt đầu vỗ trống và hát một điệu vũ. Morgiane không kém một nữ vũ công chuyên nghiệp nào, nhảy với phong cách làm ai cũng phải thán phục, có lẽ chỉ tên giả danh Cogia Houssain không chú ý lắm.
Sau khi nhảy nhiều bài với duyên dáng và sức mạnh như từ đầu, Morgiane rút lưỡi dao găm cẩm tay múa một điệu vũ vượt hẳn những bài khác về động tác nhanh nhẹn, những bước kỳ lạ và những sức bật tuyệt vời kềm theo kiểu múa dao lúc như tấn công, lúc như tự đâm vào lòng mình.
Cuối cùng thở hổn hển cô giật lấy chiếc trống của Abdalia cầm bằng tay trái, cầm dao tay phải, giơ mặt sau rỗng của trống ra trước mặt Ali Baba, giống những vũ công chuyên nghiệp yêu cầu sự hào phóng của khán giả.
Ali Baba ném một đồng tiền vàng vào trống. Morgiane giơ tiếp cho con trai Ali Baba, và cậu cũng theo gương bố. Cogia Houssaln thấy cô cũng sẽ đến sau đó, hắn liền cho tay vào túi rút sẵn túi tiền để tặng quà, trong lúc đó Morgiane dũng cảm và quyết đoán, đâm lưỡi dao vào giữa tim hắn làm hắn chết ngay trước khi cô rút dao ra.
Ali Baba và con trai hoảng hốt trước hành động đó thét lên:
- A? Khốn nạn? - Ali Baba kêu lên - Cô này làm gì thế? Muốn hại ta và gia đình à?
- Không phải làm hại; tôi làm thế để bảo vệ ông – Cô lật áo Cogia Houssain chỉ con dao găm của hắn và nói - Ổng thấy đấy, ông tiếp xúc với kẻ nguy hiểm nào thế này? Ông nhìn kỹ mặt sẽ nhận ra kẻ buôn dầu giả mạo và là tên tướng cướp. Ông cũng không nghĩ đến việc hắn không ăn muối? Ông còn muốn gì hơn nữa để kết thúc cuộc sống tàn ác của hắn? Trước khi thấy hắn, tôi đã nghi ngờ khi ông bảo có một người khách như thế. Tôi ra quan sát thì ông xem tôi đã không nhầm.
Ali Baba nhận rõ lại phải chịu ơn Morgiane lần thứ hai cứu mình, bác ôm hôn Morgiane và nói:
- Morgiane, ta đã trả tự do cho cô, bây giờ ta hứa lòng biết ơn của ta không đừng lại ở đó mà sẽ bù đắp đầy đủ. Đã đến lúc ta nhận cô làm dâu trong gia đình.
Ngoảnh lại con trai, Ali Baba nói:
- Con trai ta, ta nghĩ con rất hiếu thảo để không lấy làm lạ việc ta cho Morgiane làm vợ con mà không hỏi ý kiến trước. Con thấy đấy Cogia Houssain kết bạn với con vớí ý đồ dễ dàng giết ta hơn và nếu hắn làm được việc đó, hắn cũng sẽ trả thù cả con( Hơn nữa con xem cưới Morgiane làm vợ, con sẽ có chỗ dựa cho gia đình ngay cả khi ta còn sống và là chỗ dựa của con cho đến cuối đời.
Cậu con trai vui lòng ngay lập tức về cuộc hôn nhân, không chỉ vì cậu không muốn trái lời bố mà vì cậu cũng muốn thế.
Sau đó người ta lo chôn cất xác tên tướng cướp bên cạnh đồng bọn và việc đó làm bí mật đến nỗi qua rất nhiều năm sau này, mọi người mới biết, nhưng thời gian làm người ta không quan tâm đến câu chuyện đáng nhớ ấy nữa.
Mấy ngày sau, Ali Baba tổ chức lễ thành hôn cho con trai và Morgiane trang trọng với buổi tiệc mừng rôm rả kèm theo nhảy múa và diễn kịch những trò giải trí quen thuộc và hài lòng thấy bạn bè, chòm xóm được mời tuy không biết rõ lý do đám cưới, nhưng vẫn công nhận những đùc tính tốt đẹp của Morgiane, và hết lời ca ngợi lòng độ lượng, phúc hậu eủa ông chủ.
Sau đám cưới, Ali Baba từ khi mang thi thể của ông anh và vàng bạc ở hang về vẫn không dám đến hang nữa sợ bị lộ, và còn nán lại một thời gian sau cái chết của ba mươi tám tên cướp kể cả tên tướng vì nghĩ rằng còn hai tến sống sót.
Nhưng sau một năm, thấy không có vụ khiêu khích nào đáng lo, tò mò muốn đến đấy xem sao, Ali Baba lên ngưa đi đến hang. Thấy không có dấu vết người, ngựa gì, bác xuống ngựa buộc vào cây, lại trước cửa nói: Vừng ơi, mở cửa! Cửa mở, anh bước vào, qua tình trạng các vật trong hang không có gì thay đổi khoảng từ khi tên giả mạo Cogia Houssain mở cửa hiệu biết rằng không có ai vào cũng từ thời gian ấy và cả bốn mươi tên cướp đều đã bị diệt gọn. Bác không còn nghi ngờ gì chỉ một mình trên đời biết bí mật mở cửa hang và kho báu ở đó đã thuộc về mình. Bác có đem theo chiếc hòm, chất đầy vàng theo sức ngựa chở và trở về thành phố.
Từ buổi đó, Ali Baba dẫn con đến cửa hang truyền lại bí mật mở cửa vào và sau đó truyền lại cho các thê hệ sau của họ, thừa hưởng của cải có chừng mực, trải qua một cuộc sống sang trọng và được quí mến của hàng ngũ danh giá nhất trong thành phố.
Sau khi kể xong chuyện này cho vua Schahriar nghe, Scheherazade thấy chưa sáng, nàng bắt đầu kể tiếp chuyện sau.
ALI COGIA. NGƯỜI LÁI BUÔN THÀNH BAGDAD
Dưới thời giáo chủ Haroun Alrasehid, ở thành phố Bagdad có một người lái buôn tên Ali Cogia, không phải một trong những thương gia giàu nhất cũng không phải loại kém nhất, ông ở trong nhà bố mẹ để lại, không vợ không con.
Trong thời gian nghỉ ngơi, ông rất hài lòng về việc buôn bán của mình và trong ba đêm liền ông nằm mơ thấy một cụ già đáng kính nghiêm khắc nhìn, quở trách ông chưa làm nhiệm vụ hành hương đến La Mecque.
Giấc mơ làm Ali Cogia bối rối. Là một tín đồ Hồi giáo trung thành, ông biết mình có bổn phận tiến hành cuộc hành hương ấy nhưng bận vì ngôi nhà, đồ đạc và một cửa hiệu, ông vẫn nghĩ có lý do chính đáng để được miễn trừ, cố gắng thay thế bằng những bố thí và các việc thiện khác.
Từ lúc nằm mơ, lương tâm dồn nén sợ có tai hoạ gì xảy ra nên ông đành quyết định không chần chừ làm nhiệm vụ đó.
Để năm tới có thể thoả mãn ý nguyện, Ali Cogia bắt đầu bán hết đồ đạc, sau đó bán cửa hiệu và phần lớn hàng hoá, chỉ dành lại những gì cần thiết cho cuộc hành hương đến La Mecque; về ngôi nhà ông cho một người thuê một thời gian dài. Bố trí như thế, ông sẵn sàng chờ đoàn lữ hành của thành phố Bagdad lên đường đi La Mecque để cùng đi. Việc độc nhất còn lại là cất giữ an toàn số tiền một nghìn đồng vàng khỏi phải mang theo cồng kềnh sau khi để riêng số tiền mang theo chi tiêu và cho những việc cần khác.
Ali Cogia chọn một chiếc hũ lượng chứa vừa phải, bỏ một nghìn đồng vàng vào và chất đầy quả ô-l1iu lên trên. Sau khi gắn miệng hũ, ông đưa sang nhà một lái buôn hàng xóm. Ông đè nghị:
- Người anh em, ông củng biết ít ngày nữa tôi sẽ đi La Mecque cùng đoàn lữ hành. Ông làm ơn cho tôi gửi nhờ hũ ô-liu này và giữ gìn cho đến lúc tôi trở về.
Người hàng xóm sẵn sàng, nói
- Đây là chìa khoá nhà kho của tôi; ông tự mang hũ của ồng vào đấy, để chỗ nào tuỳ thích. Tôi hứa ông sẽ thấy lại nguyên vẹn khi trở về.
Ngày đoàn lũ hành Bagdad lên đường đã tới, Ali Cogia cùng một con lạc đà chở hàng hoá đã lựa chọn, cưỡI lên lưng con vật đi theo đoàn, may mắn đến La Mecque yên bình. Ông cùng những người hành hương khác đi viếng ngồi đền thờ nổi tiếng, hàng năm mọi người dân theo Hồi giáo từ khắp nơi trên thế giới đến chiêm ngưỡng, thành kính quan sát những buổi lễ được thông báo. Khi làm xong nhiệm vụ hành hương, ông bày những hàng hoá mang theo để bán hoặc trao đổi.
Hai thương gia đi qua, thấy hàng của Ali Cogia rất đẹp dừng lài ngắm nghía tuy họ không cần. Thoả mãn tính tò mò rồi, trong lúc rút lui người này nói với ngườI kia:
- Nếu ông lái buôn này bán ở Caires sẽ rất lời, ông ta mang tới đó còn hơn bán ở đây quá rẻ.
Ali Cogia nghe họ nói thế và đã nghe nói hàng nghìn lần về những vẻ đẹp của Ai Cập, ông quyết định ngay nhân dịp này đi một chuyến du lịch tới đó. Như vậy ông gói lại hàng hoá và đáng lẽ trở về Bagdad, ông lên đường đi Ai Cập theo đoạn lữ hành đi Caire. Đến đây ông không phải hối hận về chuyến đi vì chỉ trong ít ngày ông bán hết số hàng hoá lãi rất nhiều so với dự kiến.
Ông mua hàng hoá khác với ý định qua bán ở Damas và chờ một đoàn sẽ đi trong sáu tuần nữa, để thoả mãn tính tò mò của mình ông xem hết những gì đáng tham quan ở Caire, ngắm nhìn Kim Tự Tháp, đi ngược đòng sông Nil, thấy những thành phố nổi tiếng nhất hai bên bờ.
Trong chuyến đi Damas, con đường đoàn lữ hành Damas qua Jerusalem, nhà buôn Bagdad tranh thủ tham quan ngôi đền mà mọi tín đồ Hồi giáo xem là thánh đia chỉ sall La Mecque.
Ali Cogia thấy thành phố Damas rất đẹp vì dồi dào nước, nhiều đồng cỏ, vườn cây mê hồn vượt xa những gì ông đọc được trong những truyện kể, nên ở ìại đó khá lâu. Tuy thế vẫn không quên mình là người Bagdad, cuối cùng ông ra đi, đến Halep ở lại một thời gian và từ đó sau khi vượt sông Euphrate ông đi theo con đường đến Moussoul với ý định rút ngắn đường về xuôi theo dòng sông Tigre.
Nhưng khi đến Moussoul, những thương giá BaTư cùng đi với ông từ Halep và đã cùng nhau kết bạn thân thiết, có ảnh hưởng lớn tới ông vì tính trung thực và chuyện trò dễ nghe, không khó khăn gì khẳng định với ông không chia tay với đoàn trước khi đến Sehirag, vì từ đó về Bagdad thuận hơn nhiều.
Họ dẫn ông qua nhiều thành phố rồi mới đến Sehirag; ở đây ông lại thoả thuận đi cùng họ sang Ấn Độ rồi mới trở lại Sehirag với họ.
Cứ thế, tính cả những thời gian lưu lại ở các thành phố, Ali Cogia xa thành phố Bagdad cũng bảy năm lồi mới lên đường trê về. Cho đến lúc đó người bạn ông gửi hũ ô- liu trước khi đi không nghĩ gì về ông cũng như về chiếc hũ.
Trong thời gian ông rời Sehirag cùng một đoàn người, người lái buôn bạn của ông ở nhà trong một bữa ăn tối của gia đình, người ta nói đến quả ô-liu và bà vợ mong muốn được ăn vì đã lâu lắm trong nhà không có.
Người chồng nói:
- Nhân chuyện ô-liu bà nhắc tôi nhớ ra khi đi La Mecque cách đây bảy năm Áli Cogia có gửi chúng ta một hũ đầy, tự mình đưa vào để trong kho và lúc trở về sẽ nhận lại. Nhưng từ khi đi đến nay Ali Cogia ở đâu.
Đúng là khi đoàn lữ hành trở về, có người nói với tôi ông ta sang Ai Cập.
Nhưng đã bao nhiêu năm nay ông không trở về, chắc đã chết bên ấy rồi; chúng ta có thể ăn ô-liu nếu còn ngon. Ai đó đưa cho tôi cái da và đèn, tôi vào kho lấy chúng nếm xem sao.
- Ông ơi - Bà vợ lại nói - nhân danh Chúa ông đừng làm một việc đen tối như vậy; không có gì thiêng liêng hơn việc giữ hộ. Đã bảy năm Ali Cogia đi La Mecque không về nhưng người ta bảo ông ta đi Ai Cập và từ Ai Cập ông có biết đâu ông ta đi xa hơn nữa? Chưa có tin chết rồi thì ngày một ngày hai ông ấy có thể trở về.
Nếu ông không đưa trả lại chiếc hũ nguyên vẹn như lúc gửi thì xấu hổ cho ông và gia đình biết mấy! Tôi tuyên bố với ông tôi không thèm muốn những quả ô-liu ấy và tôi không ăn đâu. Hơn nữa ông nghĩ sau bấy nhiêu năm, ô-liu còn ăn được ư? Thối và hỏng hết rồi. Và nếu Ali Cogia trở về như tôi linh cảm thấy, thấy chúng ta có sờ mó đến ông ta sẽ xét đoán như thế nào về tình bạn và tính trung thực của ông? Tôi khuyên ông từ bỏ ý định ấy đi.
Bà vợ thuyết phục lâu như vậy vì thấy có sự ngang bướng thể hiện trên nét mặt chồng. Thực vậy ông không nghe những lời khuyên đúng đắn, đứng dậy đi vào kho vớI đèn và một cái đĩa.
Lúc đó bà vợ nói với ông:
- Ít nhất ông cũng nhớ cho tôi không tham gia vào việc ông sắp làm; nếu phải hối hận thì ông đừng đổ lỗi cho tôi.
Người lái buôn vẫn không nghe, cố làm theo ý mình. Vào nhà kho ông ta lấy chiếc hũ mở nút thấy ô-liu đã hỏng hết. Để xem phần dưới có nhũn thối như ở trên không, ông đổ ô-liu lên đĩa và trong lúc lắc mạnh chiếc hũ, có vài đồng vàng rơi xuống.
Thấy thế, người lái buôn bản chất tham lam, chú ý nhìn vào hũ nhận thấy ô- liu ông ta đă đổ hết xuống đõa, phần còn lại toàn những đồng vàng rất đẹp. Ông bỏ lại vào hũ tất cả, nút chặt lại và về phòng.
- Bà ơi - Ông nói với vợ lúc vào - ô-liu thối hết, tôi đã nút kỹ hũ để Ali Cogia có trở về, ông ấy sẽ không nhận thấy.
- Đáng lẽ ông nghe tôi thì hơn - bà vợ bảo - đừng sờ mó đến đấy. Mong chúa không để xảy ra điều gì xấu!
Người lái buôn cũng hơi suy nghĩ về lời nói này và thái độ của vợ. Ông ta nằm gần suốt đêm nghĩ cách chiếm đoạt số vàng của Ali Cogia, làm thế nào để mình không bị rắc rối gì nếu ông ấy trở về đòi lại chiếc hũ.
Sáng sớm hôm sau ông ta đi mua những quả ô-liu mới trong năm, về vứt hết những quả cũ trong hũ, lấy vàng giấu đi, bỏ đầy hũ những quả ô-liu mới mua, gắn kín nút như cũ và đặt vào chỗ Ali Cogia đã đặt hũ.
Khoảng một tháng sau khi người lái buôn thực hiện việc làm hèn hạ ấy mà ông ta sẽ phải trả giá, Ali Cogia trở về Bagdad sau chuyến đi dài ngày. Do nhà đã cho thuê trước khi đi ông vào ở một phòng trong nhà trọ, tin cho người thuê nhà tìm chỗ ở mới. Ngày hôm sau ông đến nhà người lái buôn bạn; ông này vui mừng ôm hôn ông trở về sau chuyến vắng mặt quá lâu và nói đã hết hy vọng gặp lại ông. Sau những lời chúc mừng qua lại thường có trong một buổi gặp mặt như thế, Ali Cogia đề nghị cho xin lại chiếc hũ ông gửi và xin lỗi đã làm phiền ông bạn nhiều.
- Ali Cogia, bạn thân mến của tôi - người lái buôn nói - ông sai lầm vì đã xin lỗi tôi, tôi không hề phiền gì về chiếc hũ của ông. Trong trường hợp ấy tôi cũng nhờ ông theo cách ông nhờ tôi thôi.
Chìa khoá kho của tôi đây, ông vào lấy đi, vẫn nguyên ở chỗ ông đã để.
Ali Cogia vào kho, lấy chiếc hũ, trả chìa khoá và rất cám ơn đã được nhận lại được chiếc hũ. Trở về nhà trọ mở nắp hũ cho tay vào phần giấu vàng, ông rất ngạc nhiên không thấy vàng nữa.
Sợ mình nhầm ông lấy đĩa, xoong chảo trút cả hũ ô-liu ra nhưng không có một đồng vàng nào.
Ông đứng lặng người, kinh hoàng giơ hai tay lên trời kêu:
- Có thể thế được chăng, một người tôi xem là bạn tốt đã lừa lọc tôi hèn hạ đến như vậy?
Hốt hoảng sợ mất đi một số của cải lớn, trở lại nhà người lái buôn ông nói:
- Ông bạn, ông đừng ngạc nhiên thấy tôi trở lại đây. Tôi thú nhận đã nhận ra chiếc hũ tôi đã gửi. Cùng với những quả ô-liu, tôi có để trong đó một nghìn đồng vàng mà bây giờ không thấy.
Phải chăng có lúc ông cần và đã sử dụng vào việc mua bán. Nếu thế, ông cứ sử dụng, chỉ để mong cất bỏ nỗi phiền lòng cho tội, cho tôi biết và sau đó hoàn trả lại tôi khi thuận tiện.
Người lái buôn đã dự tính Ali Cogia đến nói thế, cũng đã suy nghĩ câu trả lời.
- Ali Cogia bạn tôi - Ông ta nói - khi ông mang hũ ô- liu đến, tôi có sờ đến không? Phải chăng tôi đã đưa chìa khỏa kho cho ông, ông tự mang vào và đã lấy lại ở chỗ ông đặt, tình trạng nguyên vẹn và nút chặt như cũ? Nếu ông để vàng trong đó ông phải tìm thấy chứ. Ông bảo tôi là hũ ô-liu tôi cũng tin như vậy.
Tôi biết tất cả chỉ thế, ông tin tôi thì tin, tôi không sờ mó gì đến chiếc hũ.
Ali Cogia dùng mọi lời lẽ nhẹ nhàng để người lái buôn trả lại số tiền. Ông nói:
-Tôi chỉ thích ổn thoả với nhau, không muốn đi đến. những biện pháp tận cùng làm ông chẳng danh giá gì trước mọi người mà tôi cũng phải ân hận. Ông nên nghĩ những thương gia chúng ta cần bỏ mọi lợi ích để giữ lấy tiếng tăm.
Một lần nũa mong ông không nên cố tình như thế buộc tôi phải đưa vấn đề ra trước pháp luật; tôi vẫn thích thiệt thòi một ít gì đó còn hơn phải xét xử.
- Ali Cogia - Người lái buôn lại nói - ông thừa nhận gửi chỗ chúng tôi một hũ ô-liu, ông đã lấy lại rồi và bây giờ trở lại đòi tôi một nghìn đồng vàng? Ông có nói với tôi có vàng trong đó đâu? Thậm chí tội không biết có ô-liu không, ông có mở cho tôi xem đâu; rất ngạc nhiên thấy ông không đòi ngọc hay kim cương thay vì vàng.
Thôi, ông về đi, đừng làm nhiều người tập hợp trước cửa hiệu tôi.
Một số người đã dừng lại đó và những lời nói ấy của người lái buôn tỏ ra rất căng thẳng không chỉ làm một số đông dừng lại mà những người buôn quanh đấy cũng phải ra khỏi cửa hàng đến xem họ cãi nhau về việc gì và cố gắng dàn xếp. Khi Ali Cogia trình bày vấn đề, những người sáng suốt nhất hỏi ông bạn lái buôn trả lời ra sao.
Người lái buôn nhận có giữ chiếc hũ của Ali Cogia gửI trong kho nhà mình nhưng chối là không sờ đến; ông ta thề chỉ biết có ô-liu vì nghe Ali Cogia nói và đề nghị họ làm chứng về việc bị Ali Cogia xúc phạm, chửu rủa ông ta ngay tại nhà.
Ali Cogia bèn nắm lấy cánh tay người lái buôn và nói:
- Chính ông chuốc lấy sự xúc phạm. Ông đã thâm độc như vậy, tôi sẽ nhờ đến luật lệ của Chúa. Để xem ông có dám nói như thế trước quan toà không.
Trước lời thúc bách ấy mà mọi tín đồ Hồi giáo đều phải nghe theo để khỏi phản nghịch đối với tôn giáo, người lái buôn không dám chống cự. Ông ta nói:
- Nào thì đi, tôi cũng đòi hỏi như thế. Rồi sẽ biết ai sai, ông hay tôi.
Ali Cogia dẫn người lái buôn đến toà án, trình bày sự việc và kết tội người lái buôn lấy cắp một nghìn đồng vàng. Quan toà hỏi có người làm chứng không. Ông trả lời không đề phòng đến trường hợp ấy vì vẫn tưởng gửi ở nhà một người bạn mà cho đến lúc đó ông vẫn nghĩ là người trung thực.
Người lái buôn không nói gì khác ngoài những lời đã nói với Ali Cogia và trước mặt những người hàng xóm. Kết thúc ông ta nói sẵn sàng khẳng định bằng lời thề, lời kết tội ông ta lấy một nghìn đồng vàng là sai, thậm chí ông cũng không hề biết có vàng. Quan toà bắt ông ta thề và sau đó cho về miễn bị truy tố.
Ali Cogia, vô cùng đau đớn vì mất một số tiền lớn, kháng nghị chống lại việc xét xử ấy, tuyên bố với quan toà sẽ kêu lên giáo chủ Haroun Alraschid nhưng quan toà không lạ việc chống án cho là phản ứng tất nhiên của người thua kiện, ông ta nghĩ mình đã làm đúng nhiệm vụ không truy tố một bị cáo không có chứng cứ.
Trong lúc người lái buôn thắng được Ali Cogia trở về nhà, vui sướng chiếm được một nghìn đồng vàng dễ dàng đến thế, Ali Cogia viết một lá đơn, ngay hôm sau nắm vững thời gian nhà vua đi nhà thờ cầu kinh đến trưa trở về cung, ông đứng bên đường lúc nhà vua đi qua hai tay nâng lá đơn và một võ quan hầu cận tách ra khỏi hàng đến nhận đơn kiện đưa trình lên giáo chủ.
Ali Cogia biết nhà vua Haroun Alraschid có thói quen về cung sẽ đọc ngay những loại đơn khiếu nại như thế, nên ông đi theo đoàn hộ tống vào trong cung chờ viên võ quan đã nhận đơn đi ra.
Viên võ quan đó bảo nhà vua đã đọc lá đơn, hẹn giờ xét xử vào ngày hôm sau rồi hỏi địa chỉ người lái buôn, và chũ người triệu tập ông ta cũng vào giờ đó.
Buổi tối hôm ấy, nhà vua cùng quan tể tướng Giafar và trưởng thái giám Mesrour cùng cải trang đi khảo sát trong thành phố. Qua một con đường nghe thấy tiếng ồn, nhà vua bước nhanh tới một cánh cổng nhìn vào và thấy trong sân khoảng mười, mười hai đứa trẻ chơi đưới trăng sáng.
Tò mò muốn biết những đứa trẻ chơi trò gì, ông ngồi xuống chiếc ghế đá cạnh cổng, tiếp tục nhìn vào qua khi cửa. ông nghe một đứa trong bọn, có vẻ nhanh nhẹn, thông minh hơn cả, nói với những đứa kia:
- Chúng ta chơi trò xử án; ta là quan toà; hãy dẫn vào đây Ali Cogia và người lái buôn ăn cắp một nghìn đồng vàng.
Nghe lời nói của đứa trẻ, nhà vua nhớ đến lá đơn trình lên ông ngày hôm ấy và ông đã đọc; điều đó càng làm ông chú ý hơn để xem kết quả xét xử ra sao.
Vì vụ Ali Cogia và người lái buôn mới xảy ra, gây tiếng vang lớn trong thành phố đến cả bọn trẻ con cũng biết nên những đứa trẻ khác cùng chơi vui vẻ chấp nhận và thống nhất với nhau phân vai.
Tất cả đều cử đứa trẻ đề xướng làm quan toà. Cậu bé bắt đầu phiên toà với điệu bộ và thái độ nghiêm trang của một quan toà; một cậu khác trong vai viên thư lại ở toà án giới thiệu hai cậu, một là Ali Cogia và cậu nữa là người lái buôn mà Ali Cogia đưa đơn kiện.
Cậu đóng giả quan toà lên tiếng, nghiêm khắc hỏi cậu bé trong vai Ali Cogia:
- Thế nào, Ali Cogia, ông đòi hỏi điều gì ở người lái buôn kia?
Cậu đóng Ali Cogia cúi chào rất thấp, kể lại chi tiết từ đầu đến hết câu chuyện và xin được quan toà phán xử để không mất một số tiền lớn như vậy.
Lắng nghe trình bày xong, quan toà ngoảnh lại người lái buôn hỏi vì sao không trả lại Ali Cogia món tiền trên.
Cậu bé đóng vai người lái buôn nói những lý lẽ như người lái buôn thật nói trước toà án Bagdad và cũng đề nghị khẳng định sự thật bằng lời thề.
- Không đi nhanh đến thế - Quan toà đóng giả nói - trước khi để ông thề, ta muốn xem những quả ô-liu đã. Ali Cogia, ông có mang theo hũ không?
Nghe nói không mang theo, quán toà bảọ:
- Đi lấy đến đây cho ta xem.
Cậu đóng giả Ali Cogia đi một lúc rồi mang chiếc hũ đến đặt trước mặt quan toà, cậu nói đó chính là chiếc hũ đã gửi và lấyvề lại. Không bỏ sót thủ tục nào, quan toà hởi người lái buôn có công nhận chiếc hũ ấy không; người lái buôn im lặng công nhận không dám chối nên quản toà ra lệnh mở nắp hũ.
Ali Cogia mở ra, quan toà nhìn vào trong hũ nói:
- Những quả ô-liu rất đẹp, ta muốn nếm thử.
Vờ lấy một quả nếm,quan toà giả nói thêm:
- Ngon lắm. Nhưng những quả o-liu giữ trong bảy năm ta thấy hình như không được ngon như vậy. Bảo những người buôn ô-liu tớI chổ họ xem thế nào.
Hai cậu bé được đưa tới với tính cách lái buôn ô-liu. Quan toà hỏi:
- Các ông có phải buôn bán ô-liu không?
Thấy họ trả lời đúng là nghề nghiệp ấy của họ, quan toà hỏi thêm:
- Các ông cho ta biết ô-liu được giữ gìn cẩn thận, qua bao nhiêu năm vẫn ăn ngon?
- Thưa quan toà - Những cậu bé đóng giả lái buôn ô- liu trả lời - dù bỏ công sức bảo quản đến mấy, đến năm thứ ba quả ô-liu không còn đáng giá gì, không màu khộng mùi vị chỉ đáng vứt đi.
- Nếu như thế, các ông nhìn vào hũ kia và cho ta biết những quả ô-liu ấy người ta bỏ vào đó bao lâu rồi?
Những người lái buôn quan sát, nếm thử và xác nhận với quan toà những quả ô-liu vừa bỏ vào và còn ngon.Quan toà bảo:
- Các ông nhầm rồi - Ali Cogia nói đã bỏ ô-liu vào hũ bảy năm rồi kia mà.
- Thưa quan toà - Những người lái buôn được xem như chuyên gia lại nói - điều chúng tôi có thể khẳng định những quả ô-liu này vừa hái trong năm nay.
Chúng tôi chắc chắn tất cả những người buôn ô-liu ở thành phố Bagdad không một người nào nói khác chúng tôi.
Người lái buôn bị Ali Cogia tố cáo định mở miệng bác lời xác nhận của eác chuyên gia nhưng quan toà không cho nói.
- Im đi, anh là một đứa ăn cắp, đem treo cổ nó lên!
Bọn trẻ kết thúc trò chơi như thế, vỗ tay vui vẻ và vờ lao đến kẻ tội phạm giả đưa đi hành hình.
Không tả hết được sự khâm phục của nhà vua Haroun Alraschid về trí óc khôn ngoan của đứa trẻ vừa xét xử thông minh đến thế vụ kiện ngày mai sẽ đưa ra trước mặt ông.
Rời mắt khỏi khe cửa, nhà vua đứng dậy hỏi vị tể tướng cũng vừa chú ý theo dõi việc xảy ra xem ông có nghe việc xét xử của đứa bé không và ông nghĩ như thế nào về chuyện đó.
- Thưa vị lãnh đạo những tín đồ - Đại thần Giafar trả lời - người ta không ai ngạc nhiên hơn thần về sự thông minh của lứa tuổi còn ít như vậy.
- Nhưng ông có biết một điều là ngày mai ta phải xử chính vụ ấy mà Ali Cogia thật vừa đệ đơn khiếu nại lên ta?
- Tôi có đuợc Người cho biết ạ.
- Ông nghĩ ta có sự xét xử nào khác ngoài việc phán quyết chúng ta vừa nghe?
- Nếu cũng là vụ việc ấy, tôi thấy có lẽ Người không thể có cách xử nào khác đúng hơn và tuyên bố đúng hơn được.
- Vậy ông ghi lấy ngôi nhà này và ngày mai cho dẫn đứa bé đã xét xử vụ ấy đến trước mặt ta. Triệu tập cả quan toà đã miễn tố tên lái buôn ăn cắp để cho hắn phải học theo gương một đứa bé mà sửa chữa.
Ta cũng muốn ông báo cho Ali Cogia mang hũ ô-liu đến và gọi thêm hai lái buôn ô-liu đến phiên toà.
Nhà vua chỉ thị như thế và tiếp tục cuộc vi hành không gặp một điều gì đáng chú ý nữa.
Ngày hôm sau vị tể tướng Giafar đến ngôi nhà ông đã chứng kiến trò chơi của bọn trẻ, hỏi gặp ông chủ nhưng ông ta đang đi vắng nên chỉ gặp bà vợ. Tể tướng hỏi về những đứa con. Bà bảo có ba đứa và gọi ra trước mặt ông.
Ông nói:
- Các cháu, tối hôm qua chơi với nhau, cháu nào đóng vai quan toà thế?
Đứa lớn nhất tái mặt nói chính là mình và không biết vì sao ông hỏi như vậy. Vị tể tướng nói:
- Con trai ta, con đi với ta, vị lãnh đạo các tín đồ muốn gặp con.
Bà mẹ hoảng sợ thấy vị tể tướng muốn đưa con đi, vội hỏi:
- Thưa ngài, có phải nhà vua muốn gặp con tôi không?
Vị tể tướng liền chấn an bà, và bảo cậu bé sẽ trở về chóng thôi và khi nó về bà sẽ biết lý do và bà sẽ rất hài lòng.
- Nếu vậy - Bà mẹ xin cho phép tôi bảo cháu mặc quần áo sạch sẽ hơn khi đến trước đức thống lĩnh của các tín đồ.
Và bà cho con thay ngay quần áo. Vị tể tướng đưa đứa bé trình diện nhà vua vào giờ ông triệu tập Ali Cogia và người lái buôn đến nghe xét xử.
Nhà vua chủ thấy đứa bé có vẻ sợ hãi và muốn chuẩn bị tinh thần cho nó, ông nói:
Lại đây con trai, có phải con hôm qua đã xét xử vụ Ali Cogia và tên lái buôn ăn cắp vàng. Ta đã thấy và nghe con xét xử, ta rất vui lòng.
Đứa bé không bối rối, khiêm tốn trả lời là chính nó. Nhà vua lại nói:
- Con trai, hôm nay ta cho con,thấy Ali Cogia và tên lái buôn thực sự; con đến ngồi đây.
Nhà vua dắt tay đứa bé lên cho ngồi cạnh mình và ra lệnh đưa các bên nguyên và bị cáo vào. Người ta dẫn họ vào, gọi tên trong lúc họ quỳ trước ngai vàng dập trán xuống tấm thảm trước đó.
Khi họ đứng lên, vị giáo chủ nói:
Mỗi người trình bày yêu cầu, lý lẽ của mình đi; đứa bé này sẽ nghe các anh và xét xử,nếu thiếu gì ta bổ sung.
Ali Cogia và người lái buôn lần lượt trình bày và khi người lái buôn đề nghị cho thề như lần xét xử trước, đứa bé bảo chưa đến lúc, trước hết đưa xem hũ ô- liu đã.
Ali Cogia đưa hũ ô-liu đến, đăt ở chân nhà vua và mở nắp. Nhà vua nhìn những quả ô-liu, lấy một quả nếm thử. Hũ được chuyển cho những người lái buôn có kinh nghiệm được triệu tập đến; họ nhận định những quả ô-liu vẫn ngon và mới được hái trong năm. Đứa bé nói với họ Ali Cogia khẳng đlnh đã bỏ vào hũ cách đây bảy năm; họ trả lời đúng như nhũng đứa bé giả làm lái buôn chuyên nghiệp đêm xét xử.
Đến đây lái buôn bị cáo thấy rõ hai lái buôn chuyên nghiệp vừa kết án hắn; muốn đưa ra nhiều lý do thanh minh nhưng đứa bé kiên quyết cho treo cổ. Nó nhìn vị giáo chủ nói:
- Thưa đức Thống lĩnh các tín đồ, đây không phải là một trò chơi: chính do Người kết án tử hình thực sự chứ không phải con, hôm qua con làm như thế để cười đùa với nhau thôi.
Nhà vua thấy rõ tâm địa xấu của lái buôn bị cáo, giao cho đao phủ đưa treo cổ sau khi hắn thú nhận chỗ cất giấu tiền. Một nghìn đồng vàng được đưa trả lại cho Ali Cogia. Vị thống lĩnh này cảnh cáo quan toà xét xử lần đầu, cũng đăng có mặt, phải học tập một đứa bé trong việc thi hành công lý cho chính xác hơn.
Ông ôm hôn đứa bé, rồi cho nó về với món tiền thưởng hào phóng là một trăm đồng vàng.
CON NGỰA THẦN DIỆU
Scheherasade đã tiếp tục kể những câu chuyện rất hay làm vua Ấn ĐỘ vô cùng vui thích, sau đó nàng chuyển sang chuyện con ngựa thần. Nàng nói:
- Thưa bệ hạ, ngày mới tức ngày đầu năm và đầu mùa xuân là một ngày lễ long trọng và lâu đời trên toàn đất nước Ba Tư. Ngày đó đã được đức thánh tối cao và anh linh của chúng ta đặt ra từ thủa sơ khai và duy trì cho đén nay; không chỉ có những thành phố lớn, mà không một thành phố nhỏ nào, không một ngoại ô, xóm làng nào không tổ chức với những trò vui khác thường.
Những thú vui chơi ấy ở triều đình thật rầm rộ vì các trò dIễn mới và kỳ lạ; người ở các nước lân cận, thậm chí ở những nước xa nhất cũng bị thu hút đến vì các phần thưởng và sự hào phóng của nhà vua đối với những ngườI xuất sắc về sáng kiến và công trình của họ, vì thế không có chỗ nào trên thế giới có được lễ hội rực rỡ như vậy.
Một trong những buổi lễ ấy, sau khỉ những người thành thạo, thông minh nhất trong nước cùng những người nước ngoài đến Schiraj là triều đình lúc đó, trình diễn những trò giải trí cho nhà vua và triều đình xong nhà vua đã rộng rãi khen thưởng những người tài giỏi đã biểu diễn những tiết mục kỳ lạ, đẹp, hoàn hảo nhất.
Khi vua chuẩn bị ra về và cho nghỉ thiết triều thì một người Ấn Độ đến trước ngai vàng dắt một con ngựa đầy đủ yên cương sang trọng, thiết kế tinh vi đến mức lúc đầu người ta tưởng là ngựa thật.
Người Ấn Độ quỳ xuống trước ngai vàng rồi đứng lên chỉ vào con ngựa nói:
- Thưa bệ hạ, tuy thần dân là người cuối cùng tham dự cuộc thi nhưng thần xin cam đoan trong lễ hội này Người không thấy có trò vui nào tuyệt vời, lạ lùng hơn con ngựa này, khẩn cầu Người để ý đến cho.
- Ta không thấy con ngựa này - Vua nói - có gì khác hơn nghệ thuật làm giống như thật nhưng một người thợ khác có thể cũng làm được như thế, thậm chí hoàn mỹ hơn.
- Thưa bệ hạ, không phải thần có ý định trình với Người thiết kế và dáng vẻ bề ngoài con ngưa mà là một kỳ quan. Chính bởi cách sử dụng của thần và bất cứ ai thần trao đổi về bí mật điều khiển.
Khi thần lên ngựa bất cứ ở đâu, xa xôi mấy, nếu muốn bay trên không thần cũng thực hiện được ngay.
Tóm lại, thưa bệ hạ, đớ là một kỳ quan và chưa ai được nghe nói; nếu bệ hạ ra lệnh thần sẽ làm thử để Người xem.
Vua Ba Tư, tò mò về tất cả những gì kỳ diệu, sau khi đã thấy và tìm tòi để thấy bao nhiêu điều lạ, chưa hề thấy hoặc nghe nói điều gì tương tự như thế. Nhà vua liền đồng ý để người Ấn Độ làm thử như ông ta,vừa nói để xem thực hư thế nào.
Người Ấn Độ cho ngay chân vào bàn đạp nhẹ nhàng nhảy lên ngựa và khi đã đưa chân sang bàn đạp kia, ngồi vững vàng trên yên ông ta liền hỏi nhà vua rằng Người muốn bảo ông ta đi đâu.
Cách Schiraj khoảng ba dặm có một ngọn núi cao trông rõ cả quảng trường nơi nhà vua ra mắt dân chúng trước hoàng cung. Vua chỉ ngọn núi đó nói với người Ấn Độ:
- Ngươi thấy ngọn núi ấy chứ? Ta muốn ngươi bay đến đó. Khoảng cách không xa nhưng ta chỉ cần biết người đi và về có nhanh chóng không. Do không nhìn theo ngươi mãi được, để chứng tỏ ngươi đã đến đó, ngươi hãy đem về cho ta một lá cọ ở cây dưới chân núi.
Vua Ba Tư vừa nói xong, người Ấn Độ chỉ vặn một cái chất trồi lến một chút ở cổ ngựa quay nắm tay về phía yên. Ngạy lập tức con ngưa rời mặt đất nâng người cưỡi lên không như tia chốp, cao đến nỗi những người mắt tinh tường nhất cũng không trông thấy; việc đó làm nhà vua, cận thần và những người tập hợp quanh đó kêu lên thán phục.
Không đầy mười lăm phút sau người ta thấy người Ấn Độ trên không trở về với lá cọ cầm tay: Ông ta bay trên quảng trường tung tăng nhiều vòng theo tiếng hoan hô của dân chúng rồi hạ xuống dừng lại trước ngai vàng đúng chỗ ông bay đi không một cử động của con ngựa làm khó chịu người cưỡi.
Ông ta nhảy xuống; lại gần ngai vàng quỳ xuống đặt chiếc lá cọ dướì chân vua.
Vua Ba Tư chứng kiến cảnh ấy vừa ngạc nhiên vừa thán phục muốn được có ngay con ngựa, nhà vua định sẽ trả bất cứ món tiền nào mà người Ấn Độ đòi. Nhà vua nói:
- Ta đã chỉ nhìn diện mạo con ngựa của ngươi nên đã đánh giá nó không đúng. Tạ cám ơn ngươi đã làm ta nhận ra sai lầm và để chứng tỏ ta quý trọng nó ra sao, ta sẵn sàng mua nó nếu ngươi bán.
- Thưa bệ hạ, thần chàng nghi ngờ gì trong những vị vua trị vì trên quả đất hiện nay bệ hạ là người, sáng suốt nhất trong mọi việc và đánh gIá đúng giá trị mọi thứ, sẽ là công bằng đối với con ngựa của thần khi bệ hạ lưụ ý đến giá trị của nó. Thần cũng đã dự kiến Người không chỉ khen ngợi mà còn muốn có nó như Người vừa nói.
Về phần thần, thưa bệ hạ, tuy thần biết như bất cứ ai về gỉá trị của nó và được có nó tức là thần đã có được là tên tuổi mình bất tử trên đời. Nhưng thần có thể dứt bỏ sự đam mê mạnh mẽ ấy để làm niềm say mê của đấng cao quý được thoả mãn. Trình bày điều đó với bệ hạ, thần cũng xin đề nghị một điều khác dính líu đến điều kiện mà không có được thần sẽ không thể chuyển con ngựa sang tay người khác và có lẽ Người sẽ không hài lòng. Bệ hạ biết cho, thần không bán con ngựa này.
Thần có nó từ người chế tạo ra nó khi anh ta đề nghị thần gả đứa con gái độc nhất cho anh ta và buộc thần không được bán mà chỉ chuyển cho người khác bằng cách đổi chác thần thấy thích hợp.
Người Ấn Độ muốn nói tiếp nhưng nghe nói có sự đổi chác, Nhà vua ngắt lời ông ta.
- Ta sẵn sàng - Vua nói - chấp nhận cuộc đổi chác nào ngươi yêu cầu. Ngươi biết vương quốc ta rộng rãi, nhiều thành phố lớn giàu có và đông dân. Ta để ngươi chọn thành phố nào tuỳ thích, được hưởng toàn bộ quyền lực và thống trị những năm cuối đời.
Việc trao đổi ấy thực sự vương giả trong triều đình Ba Tư nhưng còn rất thấp so với đề nghị của người Ấn Độ. Ông ta muốn cái gì đó cao hơn nhiều, nên ông ta trả lời nhà vua:
- Thưa bệ hạ, thần rất đội ơn về điều Người ban cho và hết lòng cảm kích về lòng đại lượng của Người. Tuy vậy xin khẩn cầu Người đừng phật lòng nếu thần dám táo tợn nói rõ thần chỉ có thể chuyển con ngựa lên Người khi được Người cho phép cưới công chúa con gái Ngườl làm vợ. Thần đã quyết tâm chỉ chịu mất tài sản ấy với giá đó.
Cận thần vây quanh vua Ba Tư không ngăn được cười phá lên trước đòi hỏi quá đáng của người Ấn Độ. Hoàng tử Firouj Schah,con trưởng của vua và là người sẽ thừa kế ngai vàng, giận dữ khi nghe yêu cầu đó.
Vua thì nghĩ khác, ngài cho rằng có thể hy sinh công chúa để thoả mãn ý thích của mình.
Tuy vậy ngài đang cân nhắc xem có nên như thế không.
Hoàng tử Firouj Schah thấy phụ hoàng ngập ngừng chưa trả lời, sợ ngài chấp nhận lời đòi hỏi mà chàng xem như thoá mạ danh giá nhà vua, công chúa và bản thân mình, liền phát biểu để nhà vua dè chừng:
- Thưa phụ hoàng, xin Người thứ lỗi nếu con nói có thể nào Người còn đắn đo không từ chối yêu cầu hỗn láo của một người không là gì, một tay làm trò ảo thuật hèn hạ, để hắn một lúc hí hửng sẽ được thông gia với một trong những nhà vua hùng mạnh nhất trên địa cầu? Con khẩn cầu Người xem lại không chỉ đối với riêng mình mà cả đối với dòng máu và sự cao quý của tổ tiên.
- Con trai ta - Vua Ba Tư nói - ta thông cảm với thái độ của con về nhiệt tình con chứng tỏ để bảo vệ ánh hào quang về nguồn gốc sinh thành nhưng con chưa đánh giá đúng mức tính ưu việt của con ngựa này của người Ấn Độ.
Nếu ta từ chối lời đề nghị đó có thể ông ta sẽ đến chỗ khác yêu cầu và người ta sẽ không bỏ qua của quý đầy danh giá đó. Ta sẽ thất vọng nếu một ông vua khác có thể tự hào đã đại lượng hơn ta, và lấy mất của ta con ngưa mà ta đánh giá là vật kỳ lạ và đáng khen nhất trên đời. Tuy vậy ta cũng không muốn thuận theo yêu cầu của hắn ta.
Có lẽ hắn cũng thấy đó là một tham vọng quá đáng và ngoài công chúa con gái ta, có thể sẽ có một thoả thuận gì đó mà hắn ta sẽ hài lòng. Nhưng trước khi bàn bạc để quyết định, ta muốn con quan sát kỹ con ngựa, tự mình thử nghiệm đi và nói với ta về cảm nghĩ của con. Chắc hắn ta sẵn lòng để con bay thử.
Người Ấn Độ thấy trong những lời nói vừa được nghe nhà vua rất hào hứng và mong muốn có con ngựa, vua Ba Tư không cương quyết từ chối chấp nhận thông gia với giá con ngựa và hoàng tử thay vì phản đối như vừa thể hiện, có thể vui lòng thuận tình theo ý thích của nhà vua. Để tỏ ra vui lòng cho hoàng tử thử nghiệm, ông ta lại gần con ngựa sẵn sàng hướng dẫn hoàng tử cách điều khiển và giúp chàng lên ngựa.
Hoàng tử Firouj Schah, lanh lẹn tuyệt vời, nhảy lên ngựa không cần người Ấn Độ giúp đỡ; vừa bỏ chân vào bàn đạp không đợi ý kiến của ông ta, quay chất, chàng đã thấy ông ta làm khi lên ngựa.
Ngay khi vừa quay chết, ngựa nâng chàng lên nhanh như mũi tên bắn và phút chốc vua, triều đình và cả tập hớp nhiều người ở đó không nhìn thấy chàng nữa.
Cả ngựa và hoàng tử không còn ở trên không trung vua cố gắng nhìn theo mãi không thấy trong lúc người Ân Độ hoảng sợ về việc xảy ra, quỳ trước ngài vàng làm vua phải nhìn xuống và nghe ông ta nói:
- Thưa bệ hạ, người cũng thấy hoàng tư quá vội không cho phép thần hướng dẫn cách điều khiển ngựa. Thấy thần đã làm, chàng tỏ ra không cần thần chỉ cách bay đi nhưng không biết cách thần hướng dẫn cho ngựa quay trở lại chỗ cũ.
Như vậy, thưa bệ hạ, Người làm ơn đừng bắt thần bảo đảm có thể sẽ xảy ra việc gì cho hoàng tử. Xin Người công minh xét cho nếu có tai hoạ phát sinh.
Lời nói của người Ấn Độ làm nhà vua rất buồn, hiểu ngay mối nguy hiểm hoàng tử không tránh khỏi, như ông ta nói, điều bí mật làm cho ngựa quay trở lại, khác với lúc đi Ngài giận dữ hỏi tại sao ông ta không nhắc khi thấy hoàng tử lên ngựa.
- Thưa bệ hạ - Người Ấn Độ trả lời - Người cũng thấy hoàng tử và con ngựa bay lên nhanh đến mức nào. Lúc đầu thần cũng ngạc nhiên không nói nên lời và lúc sắp hướng dẫn thì người ngựa đã đi xa, không nghe được; nếu có nghe thì hoàng tử đã có thể điều khiển cho ngựa quay trở về nhưng chàng đã không nắm đựợc bí mật vì chàng đã không chịu khó nghe lời thần. Nhưng thưa bệ hạ, cũng có thể hy vọng, trong lúc lúng túng chàng có thể thấy chất kia, quay chất ấy ngựa sẽ hạ xuống đất ở chỗ thích hợp bằng cách điều khiển đây cương.
Dù theo cách lý giải của người Ấn Độ, tình thế có vẻ còn có khả quan, nhà vua Ba Tư vẫn hoảng hốt về nguy cơ rất rõ ràng của con trai mình, ngài nói:
- Cứ cho là hoàng tử trông thấy cái chất kia và sử dụng như ngươi nói, tuy không chắc lắm, nhưng con ngựa thay vì xuống đất có thể rơi xuống đá tảng hoặc chìm xuống biển sâu thì sao?
- Thưa bệ hạ, Người không phải lo về chuyện ấy; ngựa qua biển không bao giờ rơi xuống và mang người đến chỗ người định đến. Bệ hạ có thể chắc chắn nếu hoàng tử nhận thấy chất kia như thần nói, ngựa chỉ mang chàng đến nơi chàng muốn và chắc chàng sẽ đến một nơi có thể cứu mình và làm cho người ta biết mình.
Nghe nói thế, vua bảo:
- Dù sao ta cũng không tin được vào sự bảo đảm an toàn như ngươi nói. Nếu trong ba tháng không thấy hoàng tử lành mạnh trở về hoặc được tin chắc chắn con ta còn sống, ngươi sẽ trả giá cho cuộc sông của con trai ta bằng đầu của mình.
Ngài ra lệnh bỏ người Ấn Độ vào ngục tối giữ cho ông ta sống sót, sau đó nhà vua trở về cung, rất buồn về lễ hội đầu năm trang trọng trong toàn nước Ba Tư, kết thúc buồn bã như vậy đối với mình và triều đình.
Hoàng tử Firouj Schah bay lên không rất nhanh, chưa đến một tiếng đồng hồ chàng thấy mình trên cao đến nỗi không phân biệt được gì trên mặt đất, núi đồi, thung lũng lẫn với đồng bằng.
Lúc ấy chàng nghĩ đến trở về nơi mình đã đi. Muốn vậy chàng hình dung sẽ quay chất trên đầu ngựa ngược chiều lại đồng thời quay đây cương. Chàng làm thế nhưng vô cùng kinh ngạc thấy con ngựa vẫn nâng mình lên càng nhanh. Chàng quay chất đi, lại nhiều lần nhưng vô ích. Lúc ấy chàng mới thấy mình sai lầm không nghe lời người Ấn Độ hướng dẫn điều khiển ngựa trước khi nhảy lên đi. Chàng cũng hiểu mối nguy hiểm rất lớn đang chờ mình nhưng không mất bình tĩnh, hết sức tỉnh táo quan sát đầu và cổ con ngựa, chàng thấy một cái chất khác nhỏ hơn, kín hơn cái trước bên cạnh tai phải của ngựa. Chàng quay chốt và thấy mình hạ xuống đất theo một đường giống như lúc lên nhưng chậm hơn.
Trời tối đã nửa giờ ở chỗ hoàng tử xuống thẳng mặt đất khi chàng quay chốt. Vì vậy thay vì chọn chỗ thích hợp, chàng đành thả dây cương trên cổ ngựa, kiên nhẫn chờ ngựa hạ xuống không khỏi lo lắng sẽ rơi vào một chỗ không có người ở, sa mạc hoặc sông, biển.
Ngựa dừng lại lúc đã quá nửa đêm; hoàng tử Flrouj Schah nhảy xuống đất nhưng đuối sức vì từ sáng đến hết ngày nay không ăn gì. Trước tiên chàng tìm hiểu chỗ mình hạ xuống. Chàng thấy mình đang ở trên mái bằng một lâu đài thật đẹp, bao quanh là một hàng rào đá hoa cương. Quan sát mái bằng chàng thấy có thang gác từ dưới lâu đài đi lên, cửa vẫn để mở.
Một ai khác hoàng tử Firouj Schah sẽ không dám bước xuống trong bóng tối vì sợ có thể gặp nhiều trở ngại mà chưa blết sẽ gặp bạn hay thù. Chàng tự nhủ: Mình đến không nhằm làm hại gì ai và những người mình gặp đầu tiên tay không vũ khí, sẽ nhân đạo nghe mình nói mà không hãm hại mình.
Chàng nhẹ nhàng mở rộng cửa, tiếp tục thận trọng đi xuống không gây tiếng động có thể đánh thúc một ai đó đang ngủ. Trên một khúc quanh của thang gác chàng thấy cửa mở của một gian phòng lớn có ánh sáng.
Hoàng tử Firouj Schah dừng lại trước cửa lắng tai nghe, không có gì khác ngoài tiếng ngáy khác nhau của những ngườI đang ngủ say. Chàng bước vào phòng, dưới ánh sáng của một ngọn đèn thấy những người đang ngủ là các thái giám da đen, gươm tuốt trần để bên cạnh mình; cảnh đó cho chàng biết đây là quân bảo vệ một hoàng hậu hay công chúa và chàng nhận ra là của một công chúa.
Gian phòng công chúa ngủ tiếp nối gian phòng đang cửa mở, che một tấm vải lụa nhẹ. Hoàng tử bước tới cánh cửa chân giơ cao không làm các thái giám tỉnh giấc. Đẩy cửa vào phòng, chàng không dừng lại ngắm gian phòng lộng lẫy đầy vương giả trong hoàn cảnh này mà chú ý đến điều mình quan tâm.
Chàng thấy nhiều chiếc gương, một đặt trên chiếc xô-pha và những chiếc khác dưới thấp. Các thị nữ ngủ trên những giường thấp để phục vụ công chúa đang nằm trên giường cao.
Phân biệt rõ thế, hoàng tử không nhầm khi đến trước chính công chúa, chàng lại gần giường nàng nằm mà không hề làm nàng hay một thị nữ nào thức dậy. Đứng ngay cạnh nàng chàng nhận ra một sắc đẹp tuyệt vời làm chàng mê mẩn và si mê ngay khi vừa thấy “TrờI! – Chàng tự nhủ, số phận dẫn mình đến tận đây để lấy mất tự do của mình ma lâu nay vẫn gìn giữ? Mình có nhất thiết chờ cho đến khi nàng mở mắt và đôi mắt ấy như mình tin tưởng sẽ tăng thêm ánh sáng và sự hoàn hảo của toàn bộ thân thể, duyên dáng tuyệt vời này? Mình phải nắm lấy cơ hội này vì lùi bước sẽ là tự giết mình và cần phải làm như thế.
Suy nghĩ như vậy, trong tình hình ấy và trước sắc đẹp của công chúa, hoàng tử Firouj Schah quỳ xuống, cầm lấy đầu cánh tay áo rủ xuống của công chúa bao lấy một cánh tay trắng như tuyết và kéo rất khẽ.
Công chúa mở mắt, ngạc nhiên thấy trước mặt mình một người đàn ông tuấn tú, ăn mặc sang trọng, nét mặt hiền hậu, nàng sững người tuy không có dấu hiệu sợ hãi hoặc hoảng hốt.
Hoàng tử lợi dụng lúc ấy, cúi đầu thấp xuống tận tấm thảm chân và ngẩng lên nói:
- Công chúa đáng kính, do một cuộc phiêu lưu khác thường và tuyệt vời nhất người ta có thể tưởng tượng, nàng thấy dưới chân nàng một hoàng tử, con vua Ba Tư đang cầu xin, sáng hôm qua còn ở bên phụ hoàng giữa những cuộc vui chơi trọng thể của lễ hội đầu năm và trong giờ này đang ở một nước xa lạ có nguy cơ bị hãm hại nếu tấm lòng phúc hậu và đạl lượng của nàng không cứu giúp, và bảo vệ. Tôi khẩn cầu sự bảo vệ đó, thưa công chúa đáng tôn sùng, với lòng tin nàng sẽ không từ chối.
Tôi đám khẳng đlnh điều đó vì không thể có sự vô tâm trong vẻ đẹp, duyên dáng và oai nghiêm đến thế của nàng.
Công chúa mà hoàng tử Firouj Schah sung sướng được trình bày như thế là công chúa xứ Bengale, con gái duy nhất của quốc vương này, ngài đã cho xây dựng lâu đài nói trên hơi xa kinh thành để nàng thường đến giải trí ở nông thôn.
Sau khi nhân hậu nghe chàng nói, công chúa trả lời tử tế.
- Thưa hoàng tử, chàng cứ yên tâm, chàng không phải đang ở trong một đất nước hoang dã. Lòng mến khách, tính nhân đạo và lễ nghi trong vương quốc Bengale cũng như ở vương quốc Ba Tư.
Không phải tôi sẵn sàng bảo vệ chàng vì chàng yêu cầu mà chàng có thể nhận đước điều đó trong toàn vương quốc chứ không riêng gì ở lâu đài tôi.
Hoàng tử Ba Tư cúi đầu muốn cám ơn công chúa Bengale về sự thẳng thắng và ân huệ đó, nhưng nàng không để chàng có thì giờ nói.
- Dù rất muốn - Nàng nói thêm - chàng cho biết bằng phép kỳ lạ nào chàng đi từ kinh thành Ba Tư đến đây một cách nhanh chóng như vậy và làm sao chàng bí, mật vào được trước mặt tôi, qua mắt được vệ binh.
Nhưng chàng cần phải ăn uống, phải nghênh đón như một thượng khách nên tôi nén sự tò mò lại sáng mai và lệnh cho thị nữ đưa chàng về một phòng trong lâu đài, tiếp đãi, để chàng thư giãn, nghỉ ngơi cho đến khi hồi phục có thể thoả mãn sự tò mò của tôi và tôí được thoải mái nghe chàng kể lại.
Những thị nữ, tỉnh dậy từ lúc hoàng tử bắt đầu nói với công chúa nữ chủ của họ, kinh ngạc không hiểu vì sao chàng đến tận đầu giường công chúa mà họ và các thái giám đều không biết; họ cũng hiểu ra ý định của công chúa nên vội vàng mặc quần áo và sẵn sàng thực hiện lệnh của công chúa ngay khi nàng vừa nói.
Mỗi người lấy một cây nến đang cháy sáng trong phòng công chúa và khi hoàng tử lễ phép chào công chúa để rút lui, họ đi trước dẫn chàng vào một gian phòng rất đẹp, một số chuẩn bị giường màn trong lúc số kia vào bếp chính và bếp phụ.
Tuy vào giờ bất thường, nhưng những thị nữ ấy của công chúa Bengale không để hoàng tử Firouj Schah phải chờ lâu. Họ mang vào nhiều loại thức ăn, đầy đủ cho chàng lựa chọn theo khẩu vị; khi chàng ăn uống no nê xong họ dọn dẹp để chàng tự do đi nằm sau khi chỉ nhiều chiếc tủ đựng nhiều đồ vật có thể cần thiết cho chàng.
Công chúa Bengale rất chú ý đến những đức tính của hoàng tử Ba Tư trong cuộc nói chuyện ngắn ngủi vừa qua, nàng chưa ngủ được khi các thị nữ trở vào phòng đi nằm. Nàng hỏi họ có chăm sóc chàng cẩn thận không, chàng có hài lòng không, có để chàng thiếu gì không và họ nghĩ về hoàng tử ấy như thế nào.
Các thị nữ trả lời mọi điều và về điều cuối cùng họ nói:
- Thưa công chúa, chúng tôi không biết Người nghĩ ra sao; đối với chúng tôi, chúng tôi đánh giá thật hạnh phúc nếu vua cha tìm cho công chúa được người chồng như vị hoàng tử đáng yêu đến thế.
Không một người nào trong triều đình Bengale có thể so sánh với chàng và chúng tôi cũng biết trong các quốc gia lân cận không có ai xứng đáng với công chúa.
Lời ca tụng ấy không làm mất lòng công chúa nhưng do không muốn nói lên tình cảm của mình, nàng bảo họ im lặng:
- Các chị nói nhảm mãi; đi nằm đi và để cho ta ngủ lại.
Ngày hôm sau việc đầu tiên công chúa làm sau lúc dậy là vào phòng trang điểm. Chưa bao giờ nàng bỏ nhiều thời gian vào công chải tóc tai, mặc quần áo sửa đi sửa lại trước gương đến thế.
Chưa bao giờ các thị nữ phải klên trì làm đi làm lại nhiều lần cùng một việc cho đến khi nàng bằng lòng đến vậy. Nàng tự nhủ: Không trang điểm mình cũng nhận thấy không phải không vừa lòng hoàng tử Ba Tư; nhưng chàng sẽ thấy khác hẳn khl mình trang sức đầy đủ Trên đầu nàng giắt những viên kim cương to nhất, lóng lánh nhất cùng vòng cổ, vòng tay và chiếc thắt lưng đầy những viên đá quí gíông nhau, tất cả đều vô giá,quẩn áo nàng mặc là loại vải sang trọng nhất trong toàn Ấn Độ chỉ dệt cho vua chúa, hoàng tộc, màu sắc nổi trội hơn tất cả.
Sau khi ngắm trước gương nhiều lần và hỏi ý klến thị nữ người này đến người khác xem còn thiếu sót gì không, nàng cho người đến xem chàng dậy chưa; trường hợp chàng đã dậy và mặc quần áo; chắc sẽ đề nghị được đến gặp nàng thì bảo nàng sẽ tự đến gặp chàng và có những lý do để làm thế.
Hoàng tử Ba Tư đã ngủ bù một đêm thức trắng, hoàn toàn lại sức sau chuyến bay vất vả vừa mặc quẩn áo xong thì một thị nữ vào mang đến lời chào của công chúa. Không để thị nữ truyền đạt lời công chúa, chàng hỏi ngay nàng có thể để mình đến làm nhiệm vụ lễ nghi khôgg. Khi nghe thị nữ nói lại ý định của công chúa, chàng bảo:
- Công chúa là chủ và tôi ở đây chỉ để thực hiện lệnh của nàng.
Công chúa Bengale vừa được báo hoàng tử đang chờ, nàng đến ngay để gặp mặt. Sau những lời chúc mừng lẫn nhau, hoàng tử xin lỗi đã làm nàng tỉnh giấc giữa lúc đang ngủ say và công chúa thì hỏi chàng đêm qua ra sao và tình hình sức khoẻ thế nào, công chúa ngồi xuống ghế xô-pha, hoàng tử cũng ngồi, lễ độ cách nàng một ít.
Công chúa bèn lên tiếng:
- Thưa hoàng tử, đáng lẽ tôi có thể tiếp chàng ở gian phòng lúc đêm chàng thấy tôi nằm ngủ nhưng ở đấy trưởng thái giám được tự do ra vào còn ở đây chưa được phép thì không bao giờ được vào; nóng lòng muốn nghe chuyến phiêu lưu kỳ lạ tạo cho tôi hạnh phúc được gặp chàng, tôi muốn đến đây, trong một chỗ chúng ta không bị gián đoạn. Mong hoàng tử cho thoả mãn yêu cầu của tôi.
Để làm công chúa Bengale hài lòng, hoàng tử Firouj Schah bắt đầu kể về lễ hội long trọng ngày đầu năm trong toàn vương quốc Ba Tư, những trò vui xứng đáng giải trí triều đình và hầu khắp thành phố Schirag.
Sau đó con ngựa thần kỳ với cảnh lạ lùng khi người Ấn Độ lên ngựa trước cả một tập hợp người nổi tiếng, đã thuyết phục công chúa, nàng công nhận không thể hình dung trên đời có một sự kiện lạ hơn.
- Thưa công chúa - Chàng nói tiếp - nàng biết cho phụ hoàng tôi không tiếc chi phí để tăng vào tài sản mình những vật hiếm, lạ nhất, rất nóng lòng muốn có thêm con ngưa oai ấy, không ngần ngại hỏi người Ấn Độ về giá cả.
Ông ta trả lời rất quá đáng: ông ta không mua mà có được do đổi người con gái độc nhất và chỉ có thể nhường lại với điều kiện tương tự nghĩa là cưới công chúa em tôi nếu vua cha đồng ý.
Toàn thể cận thần vây quanh phụ hoàng tôi phá lên cười nhạo trước lời đề nghị quái gở đó, riêng tôi không nén được vô cùng giận dữ, hơn thế khi thấy phụ hoàng ngập ngừng trả lời từ chối.
Thực vậy tôi nghĩ sẽ đến lúc Người có thể sẽ chấp nhận nếu tôi không cương quyết nói rõ đó là một quyết định sai lầm ảnh hưởng đến vinh quang của hoàng tộc. Thái độ của tôi vẫn chưa thể làm Người loại bỏ hoàn toàn ý định hy sinh công chúa cho con người đáng khinh đó. Người nghĩ tôi có thể thông cảm với Người nếu hiểu được như Người hình dung rằng con ngựa ấy thật đáng giá với tính chất đặc biệt của nó. Do vậy Người muốn tôi quan sát, lên ngựa và tự mình thử nghiệm xem.
Để vua cha hài lòng, tôi nhảy lên lưng ngựa, vì đã thấy người Ấn Độ quay một chiếc chất để ngựa bay lên, nên không chờ nghe những lời chỉ dẫn khác, tôi cũng làm thế và ngay lúc đó tôi được nâng lên không trung nhanh như một mũi tên bắn ra từ một cái cung khoẻ của một người có kinh nghiệm nhất.
Trong giây lát tôi đã cách rất xa mặt đất không phân biệt được vật gì, hình như lên gần đến vòm trời tôi sợ vỡ đầu mất. Trong tình trạng bay nhanh như vậy tôi không còn nghĩ được gì, không nghĩ đến những nguy hiểm đang chờ mình.
Tôi muốn quay ngược lại chiếc chết để hạ xuống nhưng càng quay con ngựa càng đưa tôi lên cao, càng xa mặt đất. Cuối cùng tôi nhận thấy một chiếc chất khác tôi quay chất và con ngựa bắt đầu hạ xuống.
Trong đêm tối tôi không thể điều khiển nó hướng đến một chỗ không nguy hiểm, tôi giữ nguyên dây cương, trông chờ vào Chúa về việc gì có thể đến với số phận mình.
Con ngựa dừng lại, tôi nhảy xuống, quan sát thấy ở ngay tầng thượng lâu đài này. Cửa cầu thang để ngỏ, tôi bước xuống không tiếng động, gặp một cánh cửa mở có ánh sáng. Nhìn vào tôi thấy các thái giám đang ngủ, ánh sáng qua một màn che cửa gợi cho tôi tò mò. Tôi táo bạo bước tới vén màn tuy hình dung được mối nguy nếu thái giám tỉnh dậy.
Phần còn lại thì nàng đã biết tôi không cần nói thêm - Thưa công chúa - Xin cảm ơn lòng tốt, độ lượng của nàng và xin cho biết tôi phải làm thế nào để làm nàng hài lòng. Theo luật lệ, thân xác tôi đã là nô lệ của nàng, tôi chỉ còn có thể hiến đâng nàng con tim. Thưa công chúa con tim ấy không còn của tôi nữa; say mê về sắc đẹp của nàng đến nỗi thay vì đòi lại, tôi để lại nó cho nàng. Do đó tôi mong muốn xin được tuyên thệ tôi công nhận nàng là nữ chủ của lòng tôi.
Những lời nói này của hoàng tử với giọng điệu và thái độ làm công chúa không nghi ngờ gì về sức hấp dẫn của mình. Nàng không bực mình về lời tuyên bố xem như quá vội vã của hoàng tử.
Mặt nàng ửng đỏ càng làm nàng đẹp và đáng yêu dưới con mắt hoàng tử.
Firouj Schah vừa nói xong, công chúa Bengale đáp:
- Thưa hoàng tử, nghe kể lại những việc kỳ lạ và tuyệt vời đến thế, một mặt tôi vô cùng xúc động, mặt khác hình dung chàng bay cao tít trên không trung tôi rất lo sợ, và tuy thấy chàng lành mạnh trước mặt, tôi vẫn không hết sợ lúc chàng nói con ngựa may mắn hạ xuống tầng thượng của lâu đài của chúng tôi.
Điều đó có thể xảy ra ở hàng nghìn chỗ khác nhưng tôi hân hạnh được sự tinh cờ đã ưu đãi và cho tôi có dịp nói rõ với chàng cũng vì sự tình cờ đó có thể ehàng sẽ bộc lộ lòng mình ở những chỗ khác nhưng không phải ìà chỗ chàng được nhận thân ái và vui thích hơn ở đây.
- Như vậy thưa hoàng tử, tôi sẽ thật không phải nếu muốn tin chàng tự cho mình là nô lệ của tôi là một ý nghĩ nghiêm túc và không cho đó là một biểu hiện trung thực thay vì tình cảm chân thực; việc tiếp đón hôm qua của tôi tỏ rõ chàng không kém tự do hơn ở giữa triều đình Ba Tư.
- Còn về lòng chàng - Công chúa nói thêm với giọng điệu không kém hơn một lời từ chối tôi rất chắc chắn chàng không đợi đến bây giờ mới trao đổi trái tim mình và phải đã chọn một công chúa xứng đáng rồi, tôi sẽ rất giận mình tạo điều kiện cho chàng thiếu chung thuỷ.
Hoàng tử Flrouj Schah định cãi lại công chúa Bengale rằng cho đến khi chàng đến từ Ba Tư thì chàng vẫn làm chủ trái tim mình nhưng lúc sắp nói thì một thị nữ đã được lệnh, vào báo bũa ăn đã chuẩn bị xong.
Việc đó đã giải thoát cho hoàng tử và công chúa phải giải thích thêm những điều làm họ cùng bối rối mà họ cũng thấy không cần thiết. Công chúa hoàn toàn bị chinh phục vì lòng thật thà của hoàng tử Ba Tư còn hoàng tử tuy công chúa không nói rõ, qua lời lẽ và thái độ của nàng, chàng có thể hài lòng về hạnh phúc của mình.
Thị nữ đang để màn vén lên, công chúa đứng dậy nói với hoàng tử cũng đã đứng lên, rằng nàng không có thói quen ăn sớm thế nhưng chắc bữa khuya thị nữ chuẩn bị không tất nên đã cho sửa soạn bữa ăn này sớm hơn bình thường.
Vừa nói nàng vừa dẫn chàng vào một gian phòng rất đẹp, trên bàn đã sẵn sàng nhiều thức ăn thật ngon. Họ ngồi vào bàn, rất nhiều các thị nữ nô lệ của công chúa mặc áo quần sang trọng bắt đầu hoà tấu nhạc và hát suốt trong bữa ăn.
Nhạc tấu rất êm dịu và không cản trở hoàng tử nói chuyện, hai người tiếp nhau phần lớn trong bữa ăn, công chúa lấy thức ăn mời hoàng tử và hoàng tử tiếp công chúa những thức ăn ngon nhất với thái độ và lờl nói càng làm công chúa thành tâm và khâm phục. Trong phong cách xã giao qua lại và quan tâm đến nhau như vậy tình yêu tăng dần ở từng người hơn lúc đối diện với nhau trước đó.
Ăn uống xong công chúa đưa hoàng tử vào một gian phòng rộng, đẹp do thiết kế và vàng bạc trang trí hài hoà, nội thất sang trọng. Họ ngồi trên ghế xô- pha nhìn ra khu vườn của lâu đài; hoàng tử tấm tắc khen về rất nhiều loại hoa, cây lớn cây nhỏ khác hẳn cây cối ở Ba Tư nhưng không kém vẻ đẹp.
Tranh thủ chuyện trò trong dịp này, hoàng tử Firouj Schah nói: Thưa công chúa, tôi tưởng trên thế giới chỉ ở Ba Tư mới có những lâu đài tuyệt đẹp và những khu vườn đáng khâm phục xứng đáng với phong thái các nhà vua nhưng giờ đây tôi thấy rõ ở đâu cũng có những vị vua lớn biết cho xây dựng những dinh thự phù hợp với sự lớn lao và quyền lực của họ và nếu có khác nhau về cách xây dựng và những gì kèm theo, các lâu đài đều giống nhau về qui mô và hoành tráng.
- Thưa hoàng tử, tôi không có một khái niệm nào về các lâu đài ở Ba Tư nên không có ý kiến gì về sự so sánh của chàng. Nhưng tuy chàng có thể rất thực lòng, tôi khó cho là đúng được.
Tuy không muốn coi thường lâu đài của tôi trước mặt chàng do chàng có lòng tất và thích thú nên không thể không nhận xét tất đẹp. Nhưng xin khẳng định với chàng tôi thấy nó rất xấu nếu so sánh với lâu đài phụ hoàng tôi, chiếc lâu đài vượt hẳn về qui mô, vẻ đẹp và giàu sang. Chàng cũng sẽ nói với tôi như thế khi thấy hoàng cung.
Tình cờ đã đưa chàng đến kinh thành này, tôi nghĩ chàng cũng muơn trông thấy nó và chào phụ hoàng tôi để Người đưa lại vinh dự cần có cho một hoàng tử của một hoàng tộc và xứng đáng như chàng.
Gợi lên ở hoàng tử Ba Tư tính tò mò muốn biết hoàng cung Bengale và chào vua cha, công chúa mong phụ hoàng thấy một hoàng tử tuấn tú, thông minh và có mọi đức tính như thế, có thể đề nghị kết liên bằng cách gả con gái cho chàng. Qua đó, do chắc chắn hoàng tử không thờ ơ với mình và sẽ không từ chối sự kết liên ấy, nàng hy vọng sẽ đạt được nguyện vọng nhưng vẫn giữ được tư cách một công chúa có vẻ vâng theo ý muốn của phụ hoàng. Nhưng hoàng tử không trả lời đúng theo điều nàng suy nghĩ Chàng nói:
. Thưa công chúa, việc nàng vừa nói hoàng cung của vua Bengale hơn hẳn lâu đài của nàng đủ cho tôi tin là đúng chẳng khó khăn gì. Còn lời đề nghị tôi đến chào vua cha không chỉ là niềm vui thích mà là một vinh dự lớn cho tôi Nhưng thưa công chúa, nàng xét xem, khuyên tôi có nên trình diện trước một vị vua lớn lao thế như một kẻ phiêu lưu, không tuỳ tùng và trang bị phù hợp với dòng tộc mình chăng?
- Thưa hoàng tử, chàng khỏi phải bận tâm về điều ấy; miễn chàng muốn, tiền bạc không thiếu để trang bị như chàng vừa lòng, tôi sẽ cung cấp cho chàng. Ở đây có những nhà buôn của đất nước chàng, có thể lựa chọn một nhà theo chàng thích để làm tăng vinh dự cho chàng.
Hoàng tử Flrouì Schah thấu hiểu ý định của công chúa và tình cảm rõ rệt của nàng càng làm tăng thêm niềm say mê của chàng đối với nàng nhưng dù sao cũng không làm chàng quên nhiệm vụ.
Chàng không ngập ngừng đáp lại:
- Thưa công chúa, tôi vui lòng chấp nhận lòng tốt của nàng và rất biết ơn nếu nỗi lo lắng vì tôl của phụ hoàng ở xa không cản trở tôi thực hiện điều đó. Tôi sẽ không xứng đáng với lòng nhân hậu và trìu mến của Người đối với tôi nếu không trở về sớm để làm Người yên tâm. Tôi biết rõ trong lúc tôi được hạnh phúc có một công chúa thật đáng yêu bảo vệ, chắc chắn Người đang rất đau lòng và mất hy vọng gặp lại tôi. Tôi mong nàng hiểu cho tôi không thể không vô ơn, thậm chí không mắc tội trọng nếu không trở về bảo toàn cuộc sống cho Người vì về quá chậm có thể gây nên nguy hại cho Người.
Sau đó thưa công chúa, - hoàng tử Ba Tư tiếp tục, - nếu nàng cho phép và xét thấy tôi xứng đáng hy vọng có hạnh phúc trở thành chồng nàng, nhù phụ hoàng tôi luôn tỏ ra không ép buộc trong việc chọn vợ, đễ đàng được Người cho phép tôi trở lại đây, không phải với tư cách một người xa lạ mà là một hoàng tử, thay mặt Người đến đề nghị kết thân với vua Bengale bằng cuộc hôn nhân của chúng ta. Tôi khẳng định Người sẽ đồng ý khi tôi tâu với Người về lòng độ lượng nàng đã tiếp đón tôi trong lúc không may.
Qua cách giải thích của hoàng tử, công chúa Bengale rất biết điều không thuyết phục chàng đi trình diện vua cha mình nữa, không buộc chàng làm gì trái với nhiệm vụ và danh dự của chàng.
Nhưng nàng hoảng hốt thấy chàng có vẻ muốn mau chóng ra đi, sợ rằng chia tay nhau sớm, thay vì giữ lời đã hứa chàng sẽ quên nàng khi không còn gặp nhau nữa. Để làm chàng đổi ý, nàng nói:
- Thưa hoàng tử, khi đề nghị góp phần để chàng đủ tư thế đi gặp phụ hoàng tôi, tôi không có ý định chống đối lời khước từ chính đáng như chàng nói mà tôi không dự kiến được. Nếu có ý định đó tôi sẽ là tòng phạm về lỗi của chàng. Nhưng tôi không đồng tình chàng sẽ đi ngay như chàng nghĩ.
Ít nhất mong chàng chấp nhận đề nghị của tôi vì hạnh phúc của tôi bởi chàng đến vương quốc Bengale chứ không phải giữa một sa mạc (hoặc trên một đỉnh núi dốc chàng không xuống được), hãy ở lại một thời gian ngắn đủ để thông báo chi tiết những gì có ở đây cho trìều đình Ba Tư.
Lời công chúa nhằm mục đích lưu hoàng tử Firouj Schah lại it lâu, chàng sẽ say mê sắc đẹp nàng hơn, hy vọng lòng mong mỏi về Ba Tư chậm lại, chàng có thể ra mắt công chúng, đến gặp nhà vua Bengale.
Hoàng tử không thể lại từ chối điều nàng đề nghị sau sự đón tiếp chân tình như vậy.
Chàng vui lòng nhượng bộ và công chúa chỉ còn nghĩ đến tổ chức những trò vui, giải trí thú vị trong lúc chàng lưu lại.
Trong nhiều ngày chỉ là lễ mừng, vũ hội, hoà nhạc, tiệc tùng sang trọng, những cuộc dạo chơi trong vườn, săn bắn trong công viên lâu đài ở đó đủ các loại muông thú, hươu nai, bê, hoẵng và những con vật tương tự đặc biệt riêng ở xứ Bengale mà cuộc săn không nguy hiểm phù hợp với công chúa.
Cuối những buổi săn bắn hoàng tử và công chúa cùng nhau đến một chỗ đẹp trong công viên, người ta trải một tấm thảm lớn và gối tựa để họ ngồi nghỉ thoải mái. Ở đó, tĩnh trí lại và thư giãn sau cuộc săn bắn mệt nhọc, họ nói chuyện với nhau về các loại đề tài. Trên tất cả, công chúa chú ý không để bỏ qua câu chuyện về sự lớn lao, sức mạnh, của cải và sự cai tn ở đất nướe Ba Tư, từ đó nàng có thể đến lượt mình kể về vương quốc Bengale và những lợi thế của đất nước mình để chinh phục tâm trí của hoàng tử, làm chàng quyết định ở lại. Nhưng phải thú nhận rằng mọi việc ngược lại điều nàng mong muốn.
Thực vậy, hoàng tử Ba Tư, không khuếch trương gì, kể với nàng chi tiết về sự hùng cường của đất nước Ba Tư, vẻ đẹp và sự sung túc tràn đầy, về sức mạnh quân đội, việc buôn bán đường bộ và đường biển đến những nước xa nhất mà chàng không hề biết, về vô vàn những thành phố lớn, hầu hết đông dân cư như kinh thành họ đã chọn, có những lâu đài trang bị đầy đủ, sẵn sàng tiếp đón chàng bốn mùa nên có thể hưởng thụ một mùa xuân vĩnh viễn. Nghe nói như vậy, trước khi hoàng tử kết thúc câu chuyện, công chúa nhìn lại vương quốc Bengale như thua xa Ba Tư về nhiều mặt.
Thậm chí lúc hoàng tử dứt lời và giục nàng kể những mặt mạnh của vương quốc Bengale, nàng đành nói sau nhiều lần hoàng tử khẩn khoản.
Công chúa kể chuyện cho hoàng tử vừa lòng nhưng bớt đi những lợi thế rõ ràng vương quốc Bengale vượt trội hơn vương quốc Ba Tư. Nàng tỏ cho hoàng tử biết rõ nàng sẵn sàng đi theo chàng về đấy khi chàng thấy cần đề xuất với nàng. Nhưng chàng nghĩ đã đến lúc cho nàng biết nàng đã sai lầm khi muốn giữ chàng lại lâu hơn, cản trở chàng mong muốn về gặp vua cha.
Suốt hai tháng ròng, hoàng tử Firouj Schah hoàn toàn thả mình theo ý muốn của công chúa Bengale, tham gia những trò giảl trí nàng có thể hình dung và tổ chức vì chàng, như chàng chẳng có việc gì khác ngoài vui sống với nàng theo cách ấy. Nhưng khi những việc đó trôi qua, chàng nghiêm túc tuyên bố mình xao nhãng bổn phận đã quá lâu và yêu cầu nàng để mình tự do thực hiện nhiệm vụ ấy, chàng lặp lại lời hứa sẽ mau chóng trở lại với một hành trang xứng đáng với nàng và với chàng, xin nhà vua Bengale cho cưới hỏi đúng thể thức.
- Thưa công chúa - Chàng nói thêm - tôi có lẽ đă có những lời lẽ đáng ngờ và đề nghị của tôi đã làm nàng cho tôi vào hàng ngũ những người đễ quên lãng khi xa nhau. Để chứng tỏ niềm say mê không giả dối, không che giấu khẳng định cuộc đời tôi chỉ có hạnh phúc bên cạnh một công chúa hiền dịu như nàng mà tôi không nghi ngờ đã yêu tôi, tôi dám xin nàng gia ân đưa nàng về cùng với tôi nếu nàng không cho lời đề nghị của tôi là một sự xúc phạm.
Thấy công chúa đỏ mặt khi nghe nói vậy và không có dấu hiệu giận dữ, nàng ngần ngại chưa biết nên như thế nào, hoàng tử tiếp tục:
- Tôi có thể bảo đảm phụ vương tôi sẽ bằng lòng và tiếp nhận nàng trong sự kết liên. Còn vua cha Bengale, với những thể hiện trìu mến từ trước tới nay và vẫn còn dành cho nàng, Người sẽ không phải như nàng đã nói, nghĩa là thù hằn về sự thanh thản và hạnh phúc của nàng nếu Người không tiếp nhận cởi mở sứ giả của phụ vương tôi cử đến để xin chấp nhận hôn lễ của hai chúng ta.
Công chúa không trả lời gì với hoàng tử nhưng sự im lặng và đôi mắt nhìn xuống của nàng cho hoàng tử biết rõ hơn bất cứ lời tuyên bố nào nàng không ngần ngại gì và sẽ chấp nhận đi cùng chàng sang Bá Tư.
Điều khó khăn nhất là nàng tỏ vẻ không tin hoàng tử đủ kinh nghiệm điều khiển con ngựa, sợ sẽ cùng chàng lúng túng như lúc chàng mới thử nghiệm. Hoàng tử Firouj Schah giải thoát cho nàng nỗi sợ hãi đó, khẳng định nàng có thể tin vào chàng và sau lúc những gì đã xảy ra, chàng có thẽ thách thức chính người Ấn Độ điều khiển ngựa thành thạo như chàng. Do đó nàng chỉ còn cùng chàng chuẩn bị ra đi bí mật đến nỗi không ai trong lâu đài nghi ngờ gì về vận mệnh của họ.
Ngay sáng hôm sau, một lúc trước khi trời sáng, cả lâu đài còn chìm đắm trong giấc ngủ, công chúa cùng hoàng tử lên tầng thượng và chàng quay con ngựa về hướng Ba Tư, ở một chỗ nàng có thể dễ dàng lên yên.
Hoàng tử lên trước, sau khi công chúa ngồi thoải mái phía sau, ôm lấy chàng cho an toàn, chàng quay chết mà chàng đã quay khi ở kinh thành Ba Tư và con ngựa nâng họ lên không trung.
Ngựa phóng theo tốc độ bình thường, hoàng tử điều khiển vững vàng và khoảng sau hai tiếng rưỡi đồng hồ, họ đã thấy kinh thành Ba Tư. Chàng không hạ xuống quảng trường trước hoàng cung, cũng không hạ trong lâu đài nhà vua mà xuống một lâu đài vui chơi giải trí không xa thành phố lắm.
Chàng đưa công chúa vào gian phòng đẹp nhất, nói sẽ tâu lên vua cha họ đã về để tiếp nàng theo vinh dự cần có đối với nàng và ra lệnh cho người hầu ở đấy lo lắng mọi việc để không thiếu điều gì cần cho nàng.
Sau khi để công chúa ở trong phòng, hoàng tử sai người hầu thắng ngựa; chàng bảo người hầu trở lại phục vụ thật nhanh việc ăn uống của công chúa và phi ngựa qua đường sá, phố phường.
Chàng được đân chúng vui mừng hoan nghênh thay vì nỗi thất vọng không được gặp chàng từ khi mất tích.
Nhà vua đang thiết triều, toàn thể triều đình mặc quần áo tang từ khi hoàng tử bị mang đi. Nhà vua ôm lấy con, chảy nước mắt vì vui mừng và trìu mến, vội vàng hỏi con ngựa ra sao rồi.
Câu hỏi ấy làm hoàng tử có dịp tâu trình lại với vua cha khi ngựa bay lên không trung chàng lúng túng và có nguy cơ hiểm nghèo như thế nào, chàng đã vượt qua lúc đó và đến tận lâu đài công chúa Bengale ra sao, việc tiếp đón chu đáo của nàng và lý do phải ở lại một thời gỉan cho đến lúc chàng hứa hôn và đưa nàng cùng về.
- Thưa bệ hạ - Hoàng tử kết thúc câu chuyện và nói thêm - sau khi hứa với nàng phụ hoàng sẽ đồng ý, con đã đưa nàng về đây trên con ngựa của người Ấn Độ, nàng đang chờ ở lâu đài vui chơi giải trí của bệ hạ và mong rằng con có thể đến báo tin cho nàng lời hứa của con có hiệu quả.
Hoàng tử quỳ xuống để làm vua cha chấp thuận nhưng ông ngăn lại, ôm hôn con lần thứ hai:
- Con trai, ta không chỉ đồng ý việc thành hôn của con với công chúa Bengale, ta còn muốn đích thân đến gặp nàng cám ơn về sự giúp đỡ của nàng, đưa nàng về hoàng cung và tổ chức hôn lễ ngay hôm nay.
Nhà vua sau khi ra lệnh chuẩn bị cho công chúa vào hoàng cung, cho quần thần cởi bỏ quần áo tang, tổ chức những cuộc vui bắt đầu bằng hoà tấu kèn trống, não bạt với những nhạc cụ khác, cũng lệnh cho thả người Ấn Độ và dẫn đến gặp Người.
Người Ấn Độ được đưa vào tiếp kiến, vua nói:
- Ta để lại mạng sống cho ngươi, ngươi không phải làm kẻ để ta trút giận và nỗi buồn, nhằm trả giá cho cuộc sống của hoàng tử nữa. Ngươi đi lấy lại con ngựa và đừng xuất hiện trước mặt ta nữa.
Khi ngườl Ấn Độ ra ngoài, qua những người mở cửa trại giam hắn đã biết hoàng tử Flrouj Schah trở về cùng công chúa Bengale trên con ngựa thần diệu.
Lâu dài giải trí là nơi công chúa đang tạm dừng chân và hắn cũng biết vua chuẩn bị ra gặp nàng để dẫn nàng về hoàng cung. Muốn đến trước vua và hoàng tử, hắn vội vã đi ngay tới lâu đài giải trí.
Hắn nói với quân hầu hắn được nhà vua phái đến đón công chúa lên ngựa đi gặp nhà vua đang ở quảng trường hoàng cung để tiếp đón nàng với tư cách đại diện cho triều đình và thành phố Bengale.
Quân hầu vốn biết nhà vua đã bắt người Ấn Độ và đã trả lại tự do cho hắn, tin vào lời hắn không gây khó khăn gì. Hắn đến trình diên công chúa; vừa nghe nói hoàng tử Ba Tư sai đến nàng đồng ý thực hiện ý muốn của hoàng tử ngay.
Người Ấn Độ, phấn khởi thấy dã tâm của mình đạt kết quả dễ dàng, lên ngựa ngay nhờ người hầu giúp công chúa ngồi phía sau, quay chất và ngựa đưa hắn cùng công chúa bay ngay vào không trung.
Cùng lúc đó vua Ba Tư với triều đình hộ tống, ra khỏi hoàng cung để đến lâu đài giải trí còn hoàng tử đi trước chuẩn bị cho công chúa tiếp đón vua cha thì người Ấn Độ cùng con mồi của mình vừa bay qua thành phố, thách thức nhà vua và hoàng tử, trả thù sự đối xử bất công như hắn nghĩ.
Khi vua Ba Tư nhận thấy tên khiêu khích, ông dừng lại kinh ngạc vô cùng bực tức về sự xúc phạm đặc biệt như thế. Ông nguyền rủa hắn trước mặt các cận thần và những người chứng kiến sự hỗn láo bằng những lời độc địa không gì bằng. Người Ấn Độ không đếm xỉa đến những lời thoá mạ vang lên đến tai mình, tiếp tục bay đi trong lúc vua Ba Tư trở về cung, đau đớn về sự ngạo mạn sâu cay và tự thấy mình bất lực không trừng phạt được.
Nhưng khổ sở xiết bao cho, hoàng tử, tận mắt thấy mà không thể ngăn chặn tên Ấn Độ bắt cóc công chúa Bengale, người mà chàng yêu say đắm và không thể sống thiếu nàng? Và về việc không ngờ đó trong lúc chàng đang đứng lặng người, nghĩ có nên chửi rủa tên Ấn Độ hay than phiền số phận đáng thương của công chúa và xin lỗi vì thiếu biện pháp bảo vệ người phó thác mình vào chàng chứng tỏ chàng được yêu thương đến mức nào, thì con ngựa với tốc độ không tưởng tượng nổi đã đưa họ ra khỏi tầm nhìn của chàng.
Làm gì đây? Trở về hoàng cung đắm mình vào phiền muộn trong phòng không một hành động đuổi theo tên khiêu khích để giải thoát công chúa và trừng phạt hắn thật thích đáng chăng? Lòng đại lượng, tình yêu, sự can đảm không cho phép chàng làm như thế. Chàng tiếp tục đi tới lâu đài vui chơi giải trí.
Thấy hoàng tử đi đến, người hầu tự nhận thấy sự nhẹ dạ của mình, đã để bị lừa, vội khóc lóc đến quỳ dưới chân chàng tự nhận tội và xin chịu chết. Hoàng tử bảo:
- Đứng dậy đi, ta không quy tội cho anh về việc công chúa bị bắt cóc mà chỉ do ta đã quá đơn giản mọi chuyện. Đừng để mất thì giờ, đi tìm cho ta một bộ quần áo tu sĩ và không nói chuẩn bị cho ta.
Không xa lâu đài có một tu viện mà người phụ trách là bạn của anh hầu. Anh đến tìm người ấy vờ tâm sự có một võ quan trong triều mà anh chịu ơn nay muốn giúp anh ta tránh khỏi cơn giận của nhà vua.
Anh mượn toàn bộ quần áo tu sĩ về cho hoàng tử. Firouì Schah thay quần áo của mình mặc vào.
Cải trang như thế, mang theo chi phí cho hành trình dựa vào hộp ngọc và kim cương mang đến định tặng công chúa Bengale, chàng ra khỏi lâu đài trong đêm tối bước theo con đường vô định nhưng quyết tâm không trở lại nếu không tìm được công chúa đưa về.
Trở lại người Ấn Độ. Hắn điều khiển con ngựa thần diệu ngay trong ngày đó đến một khu rừng nhỏ, gần kinh thành xứ Cachemire. Hắn thấy đói và xét thấy công chúa cũng cần ăn nên hạ xuống khu rừng này, vào một chỗ gần suối nước trong mát để công chúa ngồi lại trên bãi cỏ.
Trong lúc người Ấn Độ vắng mặt, công chúa Bengale thấy mình lệ thuộc vào một tên khiêu khích vô lại, sợ bị hắn hãm hại muốn tìm cách trốn vào một nơi nào đó. Nhưng buổi sáng lúc đến lâu đài nàng ăn rất ít nên cảm thấy quá yếu không thực hiện được ý định. Không lẽ buông xuôi, vì không còn nguồn lực nào khác ngoài long can đảm, cương quyết thà chết chứ không muốn thiếu chung thuỷ với hoàng tử. Vì vậy nàng không để người Ấn Độ mời hai lần. Nàng ăn uống lấy lại khá sức lực để dũng cảm chống đối những tán tỉnh hỗn láo của hắn sau bữa ăn.
Sau nhiều lần đe doạ hắn chuẩn bị dùng sức mạnh thì công chúa đứng dậy chống cự và kêu cứu ầm lên. Những tiếng kêu làm một toán ky sĩ kéo đến vây lấy nàng và người Ấn Độ.
Đấy là vua của vương quốc Cachemire cùng đoàn tuỳ tùng đi săn về qua chỗ đó nghe tiếng kêu chạy đến. Ông hỏi người Ấn Độ là ai, định làm gì người phụ nữ này. Hắn trâng tráo trả lời đấy là vợ hắn và không muốn để cho ai biết về điều bất hoà của hắn đối với vợ mình.
Công chúa không cần rõ tính chất và tư cách của người vừa đến kịp giải thoát cho mình nàng tố cáo:
Thưa ngài, dù ngài là ai mà trời đã cử đến kịp cứu tôi, xin ngài thương hại cho một công chúa và đừng tin vào một kẻ lừa bịp. May mà Chúa không bắt tôi làm vợ một tên Ấn Độ xấu xa và đáng khinh như thế! Đấy là một phù thuỷ ghê tởm hôm nay vừa bắt cóc tôi khỏi hoàng tử Ba Tư mà tôi sẽ là vợ chàng; hắn đưa tôi đến đây trên con ngựa ma quái mà ngài thấy kia.
Công chúa Bengale không cần nói nhiều để khẳng định sự thật với vua Cachemire. Sắc đẹp của nàng, phong thái công chúa và nước mắt đã nói thay nàng. Nàng định nói tiếp nhưng thay vì lắng nghe, vua Cachemire giận dữ vì sự hỗn láo của người Ãn Độ cho vây bắt ngay hắn và chặt đầu.
Lệnh ấy được thực hiện rất dễ dàng vì hắn vừa ra khỏi nhà giam thì bắt công chúa đi ngay, không có vũ khí nào để tự vệ.
Công chúa Bengale được giải thoát khỏi sự hành hạ của người Ấn Độ, nhưng nàng lại rơi vào một tình huống khác không kém đau khổ. Nhà vua sau khi bảo đắt cho nàng một con ngựa, đưa nàng về cung bố trí ở trong một gian phòng đẹp nhất sau phòng của ông, liền cho một số lớn thị nữ nô lệ phục vụ và những thái giám canh phòng.
Ông đích thân đưa nàng về gian phòng ấy, không để nàng có thì giờ cám ơn như nàng nghĩ, ông ta nói với nàng: Công chúa, chắc nàng cần nghỉ ngơi, tôi để nàng tự do. Ngày mai nàng sẽ bình tĩnh hơn để kể lại với tôi cuộc phiêu lưu lạ lùng của nàng. Nói xong ông rút lui.
Công chúa vô cùng vui mừng phút chốc được thoát khỏi sự hành hạ của một người nàng ghê tởm và tự nhủ nhà vua Cachemlre sẽ đầy độ lượng để trả nàng về với hoàng tử Ba Tư khi nghe nàng trình bày đã thuộc về hoàng tử như thế nào và khẩn cầu ông gia ân cho điều ấy. Nhưng còn lâu mớl thấy hy vọng của nàng được thực hiện được.
Thực vậy, vua Cachemire quyết định ngày hôm sau sẽ cưới nàng và ngay từ bình minh ông đã thông báo cho vui chơi với não bạt, trống kèn và các nhạc cụ khác vạng khắp hoàng cung và thành phố.
Công chúa tỉnh giấc vì tiếng hoà âm hỗn loạn, cho rằng vì lý do khác, không phải như ý định của nhà vua? Khi vua cho người báo sẽ đến thăm nàng và sau khi hỏi thăm sức khoẻ, ông cho biết tiếng chiêng trống đó là để làm hôn lễ của họ thếm long trọng và để cho nàng vui lòng, nàng kinh ngạc đến nỗi ngã xuống bất tỉnh.
Các thị nữ chạy tới cấp cứu, nhà vua cũng làm mọi cách để nàng tỉnh lại nhưng nàng vẫn trong tình trạng ấy rất lâu. Cuối cùng nàng cũng hồi phục, nhưng thay vì để mất lòng tin với hoàng tử Ba Tư nếu bằng lòng thành hôn với vua Cachemire, người đã quyết định mà không hỏi ý kiến nàng, nàng vờ mất trí trong lúc ngã bất tỉnh.
Nàng bắt đầu nói những điều quá đáng trước mặt vua, đứng dậy như muốn nhảy vào ông làm nhà vua rất ngạc nhiên và bất bình trước thời điểm quan trọng này. Thấy nàng chưa tỉnh táo, ông để nàng lại cho thị nữ, bảo không được rời mắt và chăm sóc nàng cẩn thận. Trong ngày ông cho người đến nắm tình hình của nàng và lần nào người ta cũng tâu với ông nàng vẫn ở trong tình trạng ấy hoặc tăng thêm chứ không giảm. Cơn đau có vẻ nặng hơn về buổi tối nên vua Cachemire đêm ấy không hạnh phúc như mình nghĩ.
Công chúa Bengale hôm sau không chỉ nói năng lung tung mà còn có nhiều dấu hiệu mất trí khác. Những ngày tiếp theo vẫn vậy; vua buộc phải tập hợp các lương y trong triều kể bệnh tình và bảo chạy chữa.
Các lương y sau khi hội chẩn, đều trả lời có nhiều trạng thái bệnh, tuỳ theo tính chất có những triệu chứng có thể khỏi, có những triệu chứng không chữa được và họ không phán đoán rõ bệnh tình công chúa nếu không trực tiếp gặp nàng. Nhà vua ra lệnh cho thái giám lần lượt đưa từng người vào phòng công chúa theo thứ bậc của họ.
Công chúa đã dự kiến việc sẽ đến, sợ nếu để các lương y lại gần bắt mạch mình, người ít kinh nghiệm nhất cũng biết nàng vẫn khoẻ và bệnh tật chỉ là một sự giả vờ nên tỏ ra rất ghê tởm, sẵn sàng cấu xé nếu họ đến gần nên không thầy thuốc nào dám bước tới.
Một số tự cho thành thạo hơn, nói có thể chẩn đoán bệnh qua nhìn bề ngoài, kê một số thuốc uống nhưng công chúa quá biết rằng bệnh hay không là do mình, nên các loại thuốc chẳng có tác dụng.
Nhà vua thấy các lương y trong triều không chữa được bệnh, liền huy động các thầy thuốc khắp kinh thành nhưng khoa học, kinh nghiệm cũng chẳng có kết quả gì hơn. Sau đó ông cho gọi những thầy thuốc ở các thành phố khác đặc biệt những người nổi tiếng về hành nghề. Công chúa không tiếp đón thuận lợi hơn và những đơn thuốc của họ cũng không tác dụng gì. Ông bèn thông báo đến các tỉnh trong nước, các vương triều lân cận, mời những lương y giỏi nhất đến chữa bệnh, hứa trả chi phí hành trình đến kinh thành Cachemire và thưởng rất hậu.
Nhiều thầy thuốc thực hiện cuộc hành trình đó nhưng không ai có thể nói gặp may hơn những đồng nghiệp địa phương trong việc khôi phục lại tâm trí của người bệnh, điều không phụ thuộc vào họ và nghệ thuật của họ mà tuỳ theo ý muốn của công chúa.
Trong thời gian đó, hoàng tử Firouj Schah cải trang thành tu sĩ qua nhiều tỉnh, thành phố, đau khổ về tinh thần khiến chàng bất chấp mọi mệt nhọc khi đi đường. Chú ý đến tin tức ở mỗi chỗ đi qua, nên khi đến một thành phố lớn ở Ấn Độ, chàng đã nghe thấy người ta nói nhiều về một công chúa Bengale mất trí vào hôm vua Cachemire dự định cưới nàng.
Nghe nói đến công chúa Bengale, chàng cho rằng nàng công chúa đó chính là người mình đi tìm kiếm vì không nghe nói ở triều đình Bengale có công chúa nào khác hơn công chúa của chàng. Tin vào lời đồn, chàng lên đường đến kinh thành Cachemire. Tới nơi chàng thuê một chỗ trọ, ngay trong ngày ấy biết được tin câu chuyện về công chúa Bengale, kết cục của ngườl Ấn Độ đã đưa công chúa đến trên con ngựa thần diệu và tốn phí vô ích của nhà vua trong việc chữa chạy cho công chúa.
Nắm được những chi tiết đó, hoàng tử kiếm một bộ quần áo thầy thuốc và với bộ râu để mọc dài suốt cuộc hành trình, chàng đi trên đường tự xưng là lương y giỏi. Nóng lòng gặp lại công chúa, chàng đi thẳng vào hoàng cung đề nghị cho gập một võ quan hầu cận. Người ta đưa chàng đến viên đội trưởng có trách nhiệm đón tiếp lương y; chàng nói với ông ta rằng chàng có thể bị coi là táo bạo khi đến xin chữa cho công chúa sau bao nhiêu lương y khác không đưa lại kết quả nhưng hy vọng với một số bài thuốc chàng biết và có kinh nghlệm, chàng có thể chữa được bệnh.
Viên đội trưởng hoan nghênh chàng, và bảo nhà vua vui lòng gặp chàng và nếu chữa cho công chúa đỡ bệnh, chàng sẽ có một phần thưởng hào phóng của nhà vua. Ông chờ một lúc, người tiếp đón nói thêm,tôi sẽ ra ngay.
Đã một thời gian không một thầy thuốc nào đến xin chữa bệnh và vua Cachemire rất đau lòng nghĩ đã hết hy vọng thấy lại công chúa khoẻ mạnh như ông đã gặp và yêu say mê muốn cưới nàng.
Ông ra lệnh cho viên đội trưởng tiếp đón đưa ngay lương y vào gặp mình.
Hoàng tử Ba Tư được vào trình diện nhà vua dưới dạng cải trang lương y và nhà vua không nói nhiều, lưu ý chàng,công chúa Bengale thấy thầy thuốc lại gần sẽ lồng lộn lên càng làm bệnh thêm nặng nên đưa chàng lên một phòng để ngỏ có thể nhìn qua một lỗ cửa mà không bị trông thấy.
Hoàng tử Firouj Schah bước lên, nhận ra công chúa thương yêu của mình, đang thẫn thờ ngồi khóc, hát một bài than số phận có lẽ không bao giờ gặp được người mình yêu tha thiết nữa.
Hoàng tử buồn rầu về hoàn cảnh của công chúa, không cần có những dấu hiệu gì khác cũng hiểu rằng nàng giả vờ bệnh và vì yêu chàng mà nàng buộc phải khổ long như vậy. Chàng xuống khỏi căn phòng, bẩm với nhà vua đã phát hiện ra bản chất căn bệnh của công chúa, không phải không chữa được.
Chàng nói để khỏi bệnh, cần thiết chàng phải nói riêng với nàng và thay vì nổi khùng khi thấy các thầy thuốc, chàng hy vọng công chúa sẽ dịu lại và lắng nghe chàng.
Vua sai mở cửa phòng công chúa và hoàng tử bước vào. Thấy chàng xuất hiện nàng cho là một thầy thuốc, nàng đứng lên giận dữ đe doạ và chửi rủa. Chàng vẫn tiến lại, khi khá gần để có thể nói chỉ một mình nàng nghe, chàng nói nhỏ giọng và thái độ cung kính:
- Công chúa, tôi không phải lương y; mong nàng nhận ra hoàng tử Ba Tư đến để giải thoát cho nàng.
Nghe giọng nói và nhìn những nét trên khuôn mặt, công chúa nhận ra chàng mặc dầu bộ râu để mọc dài. Nàng bình tĩnh lại và thể hiện trên mặt niềm vui người ta không còn hy vọng nàng có nữa và điều ít ngờ được là nàng có thể nói chuyện khi chàng bước vào. Sự ngạc nhiên êm dịu làm nàng im lặng một lúc; hoàng tử có dịp kể lại nỗi thất vọng của mình khi thấy tên Ấn Độ bắt cóc đem nàng đi mất, chàng quyết tâm bỏ tất cả để đi tìm nàng bất cứ đến đâu và giải thoát nàng khỏi tay tên vô lại; hạnh phúc làm sao qua một hành trình buồn tủi và vất vả chàng hài lòng lại được thấy nàng trong hoàng cung này.
Vắn tắt những điểm cần thiết xong chàng yêu cầu công chúa nói cho chàng biết những việc xảy ra từ khi bị cướp đi cho đến lúc này, chàng lưu ý nàng đó là điều rất quan trọng để có những cách làm đúng đắn đưa nàng ra khỏi sự độc đoán của vua Cachemire.
Công chúa không dài dòng, thuật lại những việc xảy ra và để giữ mình cho một hoàng tử nàng đã trao cả tấm lòng và niềm tin, nàng đã chọn con đường vờ mất trí hoặc sẽ chết hơn là kết hôn với một ông vua nàng không yêu và không thể yêu.
Hoàng tử Ba Tư thấy công chúa không còn gì để nói, liền hỏi nàng về con ngựa thần diệu ở đâu sau cái chết của tên Ân Độ.
- Thiếp không rõ - Nàng trả lời - nhưng sau việc thiếp đã kể, chắc rằng nhà vua đã cho bảo vệ cẩn thận.
Hoàng tử cũng tin như vậy, chàng bàn bạc với công chúa về ý định và cách làm để sử dụng ngựa thần đưa nàng về Ba Tư và bảo nàng ăn mặc lịch sự để tiếp nhà vua khi chàng dẫn ông ta lại tuy không bắt buộc phải nói chuyện với ông ta.
Vua Cachemire rất vui mừng khi nghe hoàng tử Ba Tư báo tin đã có biến chuyển tốt ngay lần đầu khi gặp và bệnh tình công chúa đã giảm. Ngày hôm sau ông xem hoàng tử như lương ỳ giỏi nhất thế giới khi công chúa tiếp ông và nhận định tình hình thực sự rất khả quan như hoàng tử đã nói.
Thấy nàng trong tình trạng chửa khỏi hẳn, vua chỉ nói rất sung sướng vì công chúa đã bắt đầu hồi phục và sau khi khuyến khích lương y tiếp tục việc chữa trị đã bắt đầu rất tốt, ông rút lui không chờ công chúa nói câu nào.
Hoàng tử Ba Tư đi theo nhà vua, khi ra khỏi phòng công chúa, chàng xin phép hỏi ông vì sao công chúa Bengale ở một mình trong vương quốc Cachemlre, xa nước mình đến thế, làm như chàng không biết nhằm làm nhà vua nói chuyện về con ngựa thần và để tự ông nói ra đã làm gì nó rồi.
Vua Cachemire không hiểu được mục đích hoàng tử hỏi, nên không giấu giếm gì. Ông kể lại gần như công chúa đã nói với ông còn về con ngựa ông đã cho đưa vào kho như một vật rất hiếm tuy ông không biết cách sử dụng nó như thế nào.
Lương y giả mạo nói:
- Thưa bệ hạ, điều Người vừa cho tôi biết có thể giúp tôi chữa hẳn được bệnh của công chúa. Do được mang tới trên lưng ngựa và là con ngựa thần diệu, nàng bị ảnh hưởng của điều gì đó bí hiểm chỉ được giải thoát bằng một số hương liệu tôi biết. Nếu bệ hạ vui lòng và cho triều thần và dân chúng kinh thành được xem một quang cảnh kỳ lạ nhất, ngày mai Người cho mang con ngựa ra giữa quảng trường trước hoàng cung và phần còn lại giao cho tôi làm, tôi hứa Người và toàn thể dân chúng sẽ tận mắt thấy chỉ trong chốc lát công chúa Bengale sẽ tỉnh táo và mạnh khoẻ hơn bao giờ hết.
Để việc làm được rầm rộ, đã đến lúc công chúa phải mặc thật đẹp, trang sức những viên đá quí nhất bệ hạ có.
Vua Cachemire đã làm những việc khó hơn điều hoàng tử đề nghị để được thoả thích nguyện vọng mà ông thấy đã tới gần.
Ngày hôm sau con ngựa thần diệu được kéo từ kho báu ra để ở quảng trường từ sớm theo lệnh nhà vua và tiếng đồn chuẩn bị cho một việc gì rất khác thường lan đi khắp thành phố làm từng đoàn người ở các khu vực kéo đến xem.
Quân bảo vệ được bố trí giữ trật tự và dành một chỗ rộng cho con ngựa.
Vua Cachemire xuất hiện, khi ông đã ngồi lên ghế cao ở khán đài, xung quanh là cận thần và các tướng lĩnh trong triều, công chúa Bengale có một toán thị nữ được chỉ định tháp tùng và giúp nàng lên ngựa.
Khi nàng đã ngồi trên yên, chân Sỏ vào bàn đạp tay cầm dây cương, lương y giả mạo cho đem đến quanh con ngựa nhiều lư hương lớn đầy lửa, quay vòng quanh ném vào mỗi lư hương một loại hương liệu toả ra nhiều loại mùi vị thật thơm. Sau đó tĩnh tâm lại, đôi mắt lim dim, tay chắp trước ngực, lương y đi ba vòng quanh ngựa vờ đọc thần chú và trong lúc các lư hương toả làn khói dày đồng thời với hương vị rất dịu ngọt bao quanh công chúa người ta không nhìn rõ nàng và con ngựa, hoàng tử nhẹ nhàng nhảy lên ngồi sau công chúa, đưa tay quay chết ra đi.
Trong lúc ngựa đưa chàng và công chúa lên không trung, hoàng tử lớn tiếng nói rõ ràng những lời mà nhà vua cũng nghe được:
- Nhà vua cachemire, khi ông muốn cưới những công chúa xin ông bảo vệ, trước hết phải được họ bằng long đã. Theo cách đó hoàng tử Ba Tư giành lại và giải thoát công chúa Bengale, ngay trong ngày ấy đưa nàng về kinh thành Ba Tư, không dừng lại ở lâu đài vui chơi mà hạ xuống hoàng cung.
Vua Ba Tư chỉ hoãn đám cưới trong thời gian cần thiết để chuẩn bị hôn lễ thật trang trọng, lộng lẫy hơn.
Sau những ngày vui chơi chúc mừng, việc đầu tiên vua Ba Tư thấy cần làm là cử một phái đoàn nổi danh đến nhà vua Bengale trình bày về những việc xảy ra và xin nhà vua chấp nhận làm thông gia qua cuộc hôn nhân này.
Vua Bengale biết rõ được mọi việc, cho là một vinh dự và vui lòng chấp nhận.
HOÀNG TỬ ADMED VÀ NÀNG TIÊN PARI-BANOU
Hoàng hậu Scheherazade kể tiếp câu chuyện Hoàng tử Admed và nàng tiên Pari-Banou sau chuyện Cọn ngựa thần diệu. Bà nói:
- Thưa bệ hạ, một trong những vị tiền bối của bệ hạ trị vì ngôi vua Ấn Độ yên bình trong nhiều năm, về già hài lòng thấy ba hoàng tử con Người xứng đáng học tập đạo đức của Người và một công chúa cháu gái, trang điểm cho triều đình thêm tươi vui. Hoàng tử con trưởng tên là Houssain, người thứ hai Ali, người trẻ nhất Ahmed và cháu gái là Nourounnihar.
Công chúa Nourounnlhar là con gái hoàng thân em vua được chia một phần lãnh thổ thu nhập lớn nhưng mất sau khi cưới vợ mấy năm, để nàng lại từ tấm bé. Nhà vua thấy hoàng thân em mình có tình nghĩa anh em hoàn hảo, rất gắn bó với mình, nên nhận việc giáo dục con gái em, đưa nàng về cung để nuôi dạy cùng ba hoàng tử.
Sắc đẹp đặc biệt cùng thân hình hoàn hảo, công chúa cũng rất thông minh và đoan trang không chê trách được làm nàng nổi lên so với các công chúa cùng thời.
Nhà vua, bác công chúa, đã định khi nàng đến tuổi, sẽ kết thân với một hoàng tử ở những nước xóm giềng, gả cho làm vợ; Người suy nghĩ về việc đó rất nghiêm túc vậy mà bỗng nhiên nhận ra ba hoàng tử con mình đều yêu công chúa say đắm. Người rất đau lòng không chỉ niềm say mê ấy cản trở sự kết thân được dự tính mà còn vì khó khăn làm hai người em sẽ không chấp nhận nhường cho anh cả như ông tiên đoán. Người nói chuyện với riêng từng hoàng tử, chỉ rõ một công chúa không thể là vợ của cả ba, sẽ gây rối loạn nếu họ vẫn cương quyết say mê công chúa, Nhà vua cố gắng thuyết phục, tuyên bố công chúa chỉ dành cho một trong ba người hoặc sẽ gả cho một hoàng tử nước khác, Người để các con suy nghĩ lựa chọn.
Nhưng thấy các hoàng tử vẫn khăng khăng theo ý họ, Người cho gọi cả ba người đến trước mặt và bảo:
- Các con ta, vì lợi ích và sự thanh thản của các con, ta không thuyết phục các con bỏ nguyện vọng cưới cháu ta và là em họ các con, nhưng ta không muốn dùng quyền lực cho phép một trong ba con, ta nghĩ đã tìm được một cách làm các con hài lòng và giữ được tình đoàn kết với nhau vậy các con hãy lắng nghe và thực hiện theo điều ta nói.
Các con hãy đi du lịch riêng rẽ, đến những đất nước khác nhau để không thể gặp nhau. Các con biết ta tò mò thích những vật hiếm và đặc biệt, ta hứa sẽ cưới công chúa cho người nào trong các con mang về cho ta vật khác thường nhất và đặc biệt nhất. Như vậy do tình cờ các con xét xem vật gì đặc biệt đứa về so sánh với nhau, ai hơn sẽ được ưu tiên một cách xứng đáng.
Về chi tiêu dọc đường và tìm mua vật hiếm, ta cho các con một số tiền ngang nhau phù hợp với nguồn gốc sinh trưởng tuy nhiên các con không được dùng tiền đó phung phí vào người hầu và hành trang vì như vậy các con sẽ tự làm lộ ra mình là ai, làm mất tự do, các con cần phải làm như vậy, không chỉ để hoàn thành mục đích chuyến đi mà còn để quan sát những điều đáng chú ý, cuối cùng thu được lợi ích lớn nhất về chuyến đi.
Ba hoàng tử vẫn luôn luôn vâng lệnh phụ hoàng và mỗi người đều nghĩ mình sẽ gặp may và có điều kiện chiếm lấy công chúa Nourounnihar, họ tỏ ra sẵn sàng thực hiện theo ý vua cha.
Không chần chừ, nhà vua cho đếm số tiền Người đã hứa và ngay hôm ấy các hoàng tử cho lệnh chuẩn bị hành trang, thậm chí chào từ biệt phụ hoàng để sáng hôm sau đi sớm. Họ đi ra cùng một cổng thành, ngựa và hành trang chu đáo, ăn mặc giả thương nhân mỗi người mang theo một võ quan hầu cận cải trang thành nô lệ, đến một địa điểm con đường phân làm ba mỗi hoàng tử đi theo một đường riêng. Buổi tối lúc ăn họ quyết định sẽ đi một năm, hẹn gặp nhau ở chỗ chia tay, người đến trước chờ người đến thứ hai, hai người phải chờ người thứ ba để khi đi cùng chào phụ hoàng thì khi về cũng đến trình diện Người một lúc.
Ngày hôm sau vừa bình minh họ ôm nhau hôn, chúc nhau may mắn trên đường đi rồi lên ngựa mỗi người theo một con đường để khỏi trùng lặp trong việc lùa chọn.
Hoàng tử Houssain, người anh cả nghe nói về sự lớn mạnh giàu có và vẻ đẹp của vương quốc Bisnagar, đi theo con đường ven bờ biển Ấn Độ, sau khoảng ba tháng hành trình cùng những đoàn lữ hành khác nhau, khi qua những hoang mạc đồi núi cằn cỗi, lúc đến những vùng đông dân, văn minh màu mỡ nhất trên thế giới, chàng đến Bisnagar, thành phố mang tên vương quốc và là kinh thành, chỗ ở của các nhà vua. Chàng thuê phòng trong nhà trọ dành cho các thương gia nước ngoài và được biết có bốn khu chính ở đó thương gia mở hiệu đủ các loại hàng hoá.
Hoàng cung ở giữa thành phố, chiếm một vùng đất rất rộng có ba lớp tường bao và hai vùng đất thông nhau về các mặt từ cổng này đến cổng khác. Ngày hôm sau chàng đến một trong những khu chính đó.
Hoàng tử Houssain không thể không ngỡ ngàng; khu vực thật rộng, nhiều con đường cắt ngang dọc tất cả có vòm che nhưng sáng sủa. Các cửa hiệu lớn như nhau, bố trí cân đối, mỗi con đường lại kinh doanh một loại hàng hoá hoặc một loại công nghệ phẩm khác nhau.
Rất, nhiều cửa hàng đầy vải vóc mịn nhất,của các vùng ở Ấn độ, vải màu rực rỡ có hình như thật về người, phong cảnh, cây, hoa, lụa và gấm như ở Ba Tư, Trung Quốc và những nước khác, đồ sành sứ của Nhật Bản và Trung Quốc thảm trải khổ rộng các cỡ... làm hoàng tử rất ngạc nhiên không biết có nên tin vào mắt mình không.
Nhưng đến cửa hàng thợ kim hoàn và vật trang sức (hai nghề này cùng một loại thương gia kinh doanh), chàng loá mắt trước số lượng thần kỳ về phẩm vật vàng, bạc, về màu sắc rực sáng của ngọc, kim cương, hồng ngọc, ngọc bích, xa-phia xen lẫn nhau bày ra bán. Nếu ngạc nhiên về bao nhiêu của cải tập trung vào một chỗ, chàng không kém sửng sốt về tài sản của toàn vương quốc, kể cả những nơi xa xôi, không chỗ nào không có những người dân Ấn Độ cả nam lẫn nữ không mang vòng cổ, vòng tay và những trang sức ở chân; ngọc hoặc đá quý có vẻ càng ánh lên vì da họ đen, một màu đen càng làm nổi bật màu sáng chói.
Một nét đặc biệt khác làm hoàng tử thán phục là rất nhiều những người bán hoa hồng thành đám đông trên đường phố. Chàng hiểu ra những người Ấn Độ phải rất thích loại hoa này vì ai cũng cầm một bó hoa hồng trên tay hoặc hoa trong cửa hàng nên khu phố rộng đến mức nào thì hương hoa cũng lan toả khắp nơi.
Hoàng tử Houssain đi qua nhiều đường phố, tâm trí đầy của cải đã thấy, chàng cảm thấy cần phải nghỉ ngơi. Hoàng tử liền ngỏ lời với một thương gia ông này lịch sự mời chàng vào ngồi trong quán, ngồi không lâu chàng thấy một người vắt một tấm thảm khoảng sáu bộ vuông trên tay rao bán, đấu giá với ba mươi đồng tiền vàng.
Chàng gọi lại xem tấm thảm, thấy giá quá đáng không chỉ vì tấm thảm nhỏ mà còn vì chất lượng. Quan sát kỹ tấm thảm, chàng hỏi người bán không hiểu vì sao một tấm thảm nhỏ và không đẹp mà giá cao đến thế.
Người rao bán nghĩ hoàng tử Houssain là một thương gia nên giải đáp ngay:
- Ông chủ, nếu ông cho giá đó quá cao, ông sẽ ngạc nhiên hơn nhiều khi ông biết tôi được lệnh đưa lên tới bốn mươi đồng tiền bằng vàng và chỉ giao cho người trả đủ số.
- Nếu vậy - Hoàng tử lại nói - nó có điểm nào quý giá mà tôi chưa biết?
- Đúng đấy thưa ông, và ông phải chấp nhận nếu biết khi ông ngồi lên đấy, tám thảm sẽ đưa ông bay tới chỗ ông muốn và ngay lập tức không gặp một trở ngại nào.
Hoàng tử nghe nói thế, thấy mục đích hành trình của mình là mang về cho vua cha vật hiếm hoi đặc biệt nào đó, nghĩ rằng không có gì làm vua hài lòng hơn vật này. Chàng nói với người bán:
- Nếu tấm thảm có tính chất quý như ông nói, không những tôi không cho là đắt mà tôi sẽ thu xếp để mua của ông giá đó cộng thêm một quà tặng hẳn ông bằng lòng.
- Thưa ông chủ, tôi nói thật đấy và ông dễ dàng xác nhận khi mua với giá bốn mươi đồng tiền bằng vàng với điều kiện tôi bay thử cho ông xem. Tôi sẽ theo ông đến chỗ trọ, chúng ta vào sân sau, tôi trải tấm thảm, ông và tôi ngồi lên, ông đưa ra ý muốn lên phòng của ông trong quán trọ, nếu chúng ta không được mang ngay tới đó thì ông không phải mua bán gì nữa cả. Về quà tặng, tôi xin nhận và cảm ơn ông còn tiền công thì đã có người buôn thảm trả.
Tin vào người rao hàng, hoàng tử chấp nhận mua với điều kiện ấy, cùng nhau ra phía sau quán trọ sau khi xin phép chủ nhà. Người rao trải tấm thảm, cả hai ngồi lên trên và ngay lúc hoàng tử nói ý muốn vào phòng mình trong quán, chàng có mặt ngay trong đó với người rao. Chắc chắn về tính chất quý của tấm thảm, chàng đếm cho ông ta bốn mươi đồng tiền vàng và tặng thêm hai mươi đồng tiền cho người rao.
Hoàng tử Houssain có chiếc thảm, chàng vô cùng vui mừng vừa đến Bisnagar đã kiếm được ngay một vật hiếm hoi, chắc chắn sẽ chiếm được công chúa Nourounnihar. Thực vậy chàng tin rằng hai người em không thể tìm được một vật gì sánh được tấm thảm chàng may mắn gặp được.
Không cần ở lại Bisnagar lâu hơn, chàng có thể ngồi lên tấm thảm ngay hôm ấy đến chỗ hẹn với họ nhưng chàng buộc phải chờ. Muốn biết thêm về nhà vua, triều đình xứ Bisnagar và tìm hiểu lực lượng, luật pháp, phong tục, tôn giáo cùng tình hình toàn vương quốc, chàng ở lại mấy tháng để thoả tính tò mò.
Thông lệ của vua Bisnagar là mỗi tuần một lần cho các thương gia nước ngoài tiếp kiến. Với danh nghĩa đó Houssain đã gặp ông nhiều lần. Hoàng tử này vốn tuấn tú, vô cùng thông minh và hiểu biết lễ nghi, nổi hẳn lên giữa những thương gia đến tiếp kiến vua. Chính nhà vua thích trao đổi với chàng hơn những thương gia khác để hỏi thăm sức khoẻ nhà vua Ấn Độ và ca tụng về sự hùng cường, giàu có của triều đình vương quốc ông.
Những ngày khác hoàng tử đi tham quan những nơi đáng chú ý trong kinh thành và các vùng xung quanh. Trong số cảnh vật đáng khâm phục, chàng thấy một ngôi đền thờ thần, kiến trúc thật đặc biệt ở chỗ tất cả bằng đồng đen: mặt bằng khoảng năm mét vuông, cao bảy mét rưới và đẹp nhất là một tượng thần bằng vàng khối cao bằng một người, đôi mắt bằng hồng ngọc bố trí nghệ thuật đến mức quay nhìn chiều nào cũng thấy. Chàng thấy một điều khác không kém phần được thán phục: giữa một ngôi làng có một bãi đất bằng khoảng mười mẫu trung tâm là khu vườn đầy hồng và các loài hoa nhìn rất đẹp, có cột bức tường thấp bao quanh ngăn súc vật lại gần.
Ở giũa vườn là một khu vực cao bằng đầu người gắn kết bằng những viên đá nối với nhau tinh vi như chỉ là một tảng đá. Ngôi đền mái vòm xây trên khu vực kết bằng đá đó, cao hai mươi lăm mét cách nhiều dặm quanh đấy vẫn trông thấy. Chiều dài ngôi đền mười lăm, rộng mười mét, tất cả bằng đá hoa cương màu đỏ phẳng lì. Vòm trần trang trí ba hàng phong cảnh, có chạm nổi hình các nữ thần, từ trên cao xuống dưới không chỗ nào để trống.
Sáng và chiều người ta làm lễ, cúng bái trong đền kèm theo những trò chơi, những hoà tấu nhạc cụ, nhảy múa, hát và yến tiệc. Những người lo việc trong đền, nhân dân ở đó sống vào phẩm vật những người hành hương đông đảo mang tới từ những nơi xa xôi nhất để cầu nguyện.
Hoàng tử Houssaln còn được tham dự buổi lễ long trọng hàng năm ở triều đình Bisnagar đủ mặt các quan chức địa phương, các tướng lĩnh những tổng trấn, những người Bà-la-môn, nổi tiếng nhất, có những nơi xa xôi ít nhất phải bốn tháng đi đường. Cuộc tập hợp vô vàn người Ấn Độ trên một bãi bằng rất rộng là một quang cảnh thật ngoạn mục.
Giữa bãi bằng có một quảng trường rất dài và rộng, một mặt ngăn bởi một toà nhà rất đẹp dưới dạng lâu đài chín tầng dựa trên bốn mươi chiếc cột, dành cho vua, triều đình và những người nước ngoài được vinh dự tiếp kiến vua mỗi tuần một lần, phía trong trang trí và trang bị tuyệt vời, bên ngoài vẽ những cảnh vật đủ các loài vật, chim, côn trùng cả những loại ruồi muỗi, tất cả theo tự nhiên. Ba mặt khác là những lâu đài ít nhất bốn, năm tầng cũng tô vẽ như nhau. Những lâu đài này có nét đặc biệt là người ta có thể xoay chuyển, thay đổi mặt và cảnh vẽ từng giờ.
Xung quanh quảng trường, cách đều nhau sắp xếp hàng nghìn con voi trang phục lộng lẫy mỗi con mang trên lưng một lầu vuông bằng gỗ tấm vàng và những nhạc công và các người làm trò trong mỗi lầu.
Vòi vọi, tai và phần thân sơn màu đỏ thẫm và các màu thể hiện những hình thù kỳ lạ.
Trong toàn cảnh đó, hoàng tử Houssain ca ngợi hơn cả kỹ nghệ, sự khéo léo và thiên tài sáng tạo của những người Ấn Độ là được thấy một con voi to khoẻ nhất đứng chụm bốn chân trên một chiếc cọc lớn cắm sâu vào đất, cách mặt đất khoảng hai bộ, múa vòi trên không theo nhịp nhạc cụ.
Chàng cũng khâm phục không kém một con voi khác cũng to khoẻ thế đứng một đầu thanh ngang bắc trên cọc cao mười bộ, đầu kia buộc một tảng đá cực kỳ lớn dùng làm đối trọng, lúc lên cao lúc xuống thấp làm các động tác thân và vòi theo nhịp điệu các nhạc cụ như con voi kia trước mặt vua và triều đình.
Những người Ấn Độ buộc chặt tảng đá đối trọng, dùng sức người kéo đầu kia xuống sát đất, nâng bổng được con voi lên.
Hoàng tử Houssain có thể ở lại lâu hơn ở vương quốc Bisnagar, vô vàn những điều kỳ lạ khác có thể hấp dẫn chàng cho đến ngày cuối năm; nhưng đã đến ngày ước định các anh em gặp nhau; vả lại chàng cũng đã thoả mãn về những điều trông thấy, chàng lại luôn luôn nghĩ đến đối tượng mình yêu, từ khi mua được vật hiếm, sắc đẹp, sự duyên dáng của công chúa ngày càng in đậm trong niềm say mê của chàng, chàng cảm thấy yên tâm, hạnh phúc hơn khi sắp được về đến gần nàng. Sau khi chi phí thoải mái cho người giữ phòng thuê trọ, hẹn giờ đến lấy chìa khoá để ở cửa mà không nói sẽ đi bằng cách nào, chàng vào phòng đóng cửa lại để chìa khoá ở đấy.
Chàng trải tấm thảm, ngồi lên cùng viên võ quan hầu cận, vừa tĩnh tâm ước được mang đến chỗ hẹn với các em thì đã thấy đến nơi rồi. Chàng dừng lại đấy, cho người ta biết mình là một thương gia và chờ các em. Hoàng tử Ali, em kế tiếp Houssain, dự định đi Ba Tư phù hợp với ý vua Ấn Độ, lên đường cùng một đoàn lữ hành vào ngày thứ ba đã chia tay với anh em. Sau bốn tháng chàng đến thành phố Schiraz lúc đó là kinh thành Ba Tư. Dọc đường kết bạn với một số thương gia nhân danh là người buôn kim hoàn, chàng cùng thuê phòng ở trong một nhà trọ với họ.
Ngày hôm sau trong lúc các thường gia mở hàng hoá, hoàng tử Ali đến đây theo ý thích và chỉ quan tâm đến những vật cần thiết, sau khi thay đổi quần áo, chàng cho dẫn đến các khu phố bán đá quý, những vật vàng, bạc, gấm, lụa, vải đẹp và những vật khác hiếm hoi và quý nhất. Nơi này lộng lẫy và xây dựng chắc chắn, có mái vòm do những cột to đỡ, xung quanh là các cửa hàng bố trí dọc theo tường cả trong lẫn ngoài, rất nổi tiếng ở Schiraz. Trước hết hoàng tử đi dọc ngang khắp chỗ ấy, nhận thấy sự giàu có trong số lượng khổng lồ những hàng hoá quý bày bán.
Trong số những người rao hàng đi lại mang theo hàng hoá, chàng ngạc nhiên thấy một người cầm trong tay một chiếc ống bằng ngà voi dài khoảng một bộ, to hơn ngón tay cái một ít rao với giá ba mươl đồng tiền vàng. Lúc đầu chàng tưởng người kia mất trí. Để rõ ràng hơn, chàng lại gần một cửa hàng hỏi người bán: Thưa ông chủ, ông cho biết người rao hàng kia có mất trí không mà đòi chiếc ống ngà vơi những ba mươi đồng tiền bằng vàng?
- Thưa ông - Người kia trả lời nếu ông ta không bị mất trí vào hôm qua thì tôi có thể khẳng định với ông đấy là người thông minh nhất trong số những người rao hàng và được người ta tin tưởng nhất khi cho giao bán những đồ vật quý. Còn chiếc ống rao bán ba mươi đồng tiền bằng vàng thì đáng giá đấy, thậm chí còn hơn.
Ông ta sẽ đi trở lại qua đây chúng ta gọi vào và tự ông hỏi xem. Mời ông ngồi nghỉ đã.
Hoàng tử Ali không từ chối lời mời tử tế của ông chủ cửa hàng, ngồi một lúc thì người rao hàng trở lại. Nghe gọi tên, ông ta vào, ông chủ cửa hàng chỉ vào Ali nói:
- Ông trả lời cho ông này xem có điên không mà rao bán những ba mươi đồng tiền bằng vàng một chiếc ống có vẻ ít tác dụng như vậy. Tôi cũng ngạc nhiên đấy nếu không biết ông vốn là người thông minh.
Người rao hàng nói với hoàng tử:
- Thưa ông chủ, không phải chỉ riểng ông cho tôi là điên vì chiếc ống này. Tôi hy vọng ông sẽ không, nghĩ thế như những người khác khi tôi nói rõ tính chất đặc biệt của nó. Trước hết ông chả ý ở mỗi đầu ống có miếng kính, khi nhìn vào một trong hai đầu đó, bất cứ ông muốn trông thấy gì ông sẽ trông thấy ngay.
- Tôi sẵn sàng xin lỗi vì đã đụng chạm tới danh dự của ông nếu ông cho tôi thấy thực tế như ông nói – Hoàng tử nói.
Cầm chiếc ống trong tay quan sát hai miếng kính, chàng bảo:
- Ông chỉ cho tôi phải nhìn vào đâu xem nào.
Người rao hàng chỉ. Hoàng tử nhìn vào, mong nhìn được vua cha, chàng thấy nhà vua ngay, Người rất mạnh khoẻ, ngồi trên ngai vàng giữa các triều thần. Sau vua cha không ai thân yêu trên đời bằng công chúa Nourounnihar, chàng mong được thấy nàng, chàng liền nhìn thấy nàng đang ngồi trang điểm có thị nữ vây quanh vui vẻ cười đùa.
Hoàng tử Ali không cẩn chứng minh gì khác để khẳng định chiếc ống này là vật quý nhất chàng có được không riêng trong thành phố Schiraz mà cả toàn cầu. Chàng nghĩ nếu không mua thì không bao giờ mua được một vật hiếm như vậy đem về dù ở Shiraz hay chỗ nào khác đến mười năm. Chàng nói với người rao hàng:
- Tôi xin rút lui ý kiến không đúng đã tưởng ông mất trí. Tôi nghĩ ông sẽ rất hài lòng việc tôi bù đắp lại là mua chiếc ống của ông. Tôi không muốn một người khác sở hữu nó, ông nói đúng giá để khỏi phải rao hàng nữa và đi lại mệt nhọc. Ông đến chỗ tôi, tôi sẽ trả đủ tiền cho ông.
Người rao hàng khẳng định và thề thốt được lệnh bán cho được bốn mươi đồng tiền bằng vàng. Hoàng tử dẫn ông ta về chỗ trọ đếm đủ số tiền vàng và như vậy, sở hữu chiếc ống bằng ngà voi.
Được chiếc vật hiếm này, hoàng tử vô cùng vui sướng chắc chắn các anh, em chàng không gặp được vật hiếm hoi đáng khâm phục như vậy và công chúa Nourounnihar sẽ là phần thưởng cho cuộc hành trình vất vả của chàng.
Chàng chỉ còn nghĩ đến việc tham quan triều đình Ba Tư, xem những gì lạ ở Schiraz và quanh vùng, rồi chờ đoàn lữ hành cùng đi trở về Ãn Độ. Thoả mãn tính tò mò rồi thì đoàn lữ hành chuẩn bị lên đường, chàng gia nhập hành trình.
Không một trở ngại làm gián đoạn chuyến đi ngoài việc phải đi nhiều ngày và mệt mỏi dọc đường, hoàng tử Ali may mắn đến chỗ hẹn đã có hoàng tử Houssain. Họ ở lại cùng nhau chờ hoàng tử Ahmed.
Hoàng tử Ahmed theo con đường đi Samarcande, ngày hôm sau khi đến nơi, cũng như hai hoàng tử anh, chàng ra vùng trung tâm đô thị. Một người rao hạng đến trước mặt chàng, tay cầm một quả táo nhân tạo, rao giá ba mươi lăm đồng tiền bằng vàng. Chàng ngăn người ấy dừng lại và nói:
- Ông cho tôi xem quả táo và cho biết rõ tính năng đặc biệt nào của nó mà hô giá cao đến thế.
Đưa cho chàng để quan sát kỹ, người rao hàng bảo:
- Thưa ông chủ, nhìn bề ngoài quả táo này không đáng giá mấy, nhưng nếu người ta nhìn vào tính năng và việc sử dụng rất tốt làm lợi cho người, thì có thể nói nó vô giá, chắc chắn người có nó là người sở hữu cả một kho báu.
Thực vậy bất cứ căn bệnh nào, dù bị bệnh chờ chết như sốt kéo dài, sốt xuất huyết, viêm màng phổi, dịch hạch hoặc các loại bệnh như thế, kể cả đang hấp hối, sử dụng nó đều chữa khỏi, phục hồi ngay được sức khoẻ như chưa bao giờ đau yếu. Làm việc đó cũng dễ nhất trần đời vì chỉ đơn giản xoa nó vào người.
- Nếu như lời ông nói thì quả táo có một đặc tính tuyệt vời và có thể nói vô giá nhưng một người trung thực như tôi muốn mua, làm sao xác nhận được không có gì giả dối và ông không ca tụng thái quá?
- Thưa ông, việc đó được toàn thành phố, Samarcande biết rõ và xác nhận. Không cần đi xa, ông cứ hỏi tất cả những người buôn bán ở đây trong đó một số người hôm nay sẽ không còn sống nữa nếu không dùng phương thuốc chữa bệnh rất công hiệu này. Để ông hiểu rõ thêm xin nói đó là kết quả nghiên cứu lâu dài của một học gia nổi tiếng ở thành phố này dành suốt đời tìm hiểu đặc tính quý của cây cối và khoáng chất, đã tổng hợp tạo ra quả táo này, dùng nó chữa bệnh thật kỳ lạ trong thành phố làm người ta không quên ông được.
Cái chết đột ngột làm ông không có thì giờ sử dụng phương thuốc đặc biệt này, mới đây ông lìa trần và bà vợ goá nhà đông con còn nhỏ tuổi phải bán nó đi để gia đình sống thong dong hơn.
Trong lúc người rao hàng kể lại với hoàng tử Ali những đặc tính quý của quả táo kỳ diệu, nhiều người đứng lại vây quanh họ, phần đông xác nhận đúng như lời người kia nói. Một trong số ấy bảo ông có một người bạn đang bị bệnh nghiêm trọng chỉ chờ chết, là một dịp thử nghiệm hiệu quả hoàng tử Ahmed nói với người rao hàng nếu chữa lành người bệnh ấy thì chàng sẽ mua với giá bốn mươi đồng tiền bằng vàng.
Người rao hàng được lệnh bán với giá ấy nói với chàng:
- Thưa ông, chúng ta đi thử nghiệm xem và quả táo sẽ thuộc về ông. Tôi tin chắc như vậy vì lần nào chữa bệnh nó cũng đưa lại cuộc sống cho những người chuẩn bị vào cửa tử thần.
Cuộc thử nghiệm thành công, hoàng tử đem đủ bốn mươi đồng tiền bằng vàng, người rao hàng đưa cho chàng quả táo nhấn tạo và chàng kiên trì chờ ngày ra đi của đoàn lữ hành thứ nhất để trở về Ấn Độ.
Chàng dùng thời gian ấy đi xem Samarcande và những vùng xung quanh, chủ yếu là lưu vực sông Sogde mà những người A-rập xem là một trong bốn thiên đường của vũ trụ về vẻ đẹp đồng ruộng và những khu vườn quanh các lâu đài dồi dào đủ loại hoa quả và những thú vui ở đây vào mùa nắng đẹp.
Hoàng tử Ahmed không bỏ lỡ dịp đoàn lữ hành đầu tiên lên đường đi Ấn Độ, chàng cùng đi và mặc dù những khó khăn không tránh được trong một hành trình lâu dài, chàng vẫn khoẻ mạnh về đến chỗ hẹn nơi hoàng tử Houssain và Ali đang chờ đợi.
Hoàng tử Ali đến trước Ahmed một thời gian, hỏi hoàng tử Houssain, người tới nơi hẹn đầu tiên, đến được bao lâu rồi. Được biết hoàng tử anh đến đã ba tháng, chàng nói:
- Như thế hẳn anh không đi xa được.
- Bây giờ anh không nói với em chỗ anh đã đến - Hoàng tử Houssain lại nói - nhưng anh có thể khẳng định phải đi hơn ba tháng mới tới nơi.
- Nếu vậy anh ở lại đấy rất ít.
Em lầm rồi; anh ở lại chỗ ấy từ bốn đến năm tháng, ở lại lâu hơn là do anh thôi.
- Ít ra thì anh cũng không từ đó bay về. Em không hiểu làm sao anh về đến đây đã ba tháng như anh nói.
- Anh sẽ nói rõ sự thật, sẽ giải thích điều bí mật ấy khi Ahmed, hoàng tử em chúng ta, trở về, đồng thời sẽ tuyên bố vật quý hiếm anh đưa về. Đối với em, anh không biết em đưa vật gì về, chắc chẳng được bao nhiêu, anh thấy hành lý của em không tăng thêm.
- Còn anh - Hoàng tử Ali đáp lại - ngoài việc dự trữ tấm thảm chẳng đẹp đẽ gì chắc anh phải mua mà ghế xô- pha của anh cũng đã có, hình như em có thể nhạo lại anh đấy. Nhưng anh đang muốn giấu vật quý hiếm mang về, anh cũng cho em giữ bí mật về vật em đã mua.
- Anh cho là vật anh mang về hơn hẳn mọi vật khác dù đến thế nào chăng nữa, anh không khó gì để cho em xem làm em phải đồng ý vật anh mang về như anh ước tính. Nhưng chúng ta chờ hoàng tử Ahmed đến đã rồi có thể cho nhau biết, trân trọng và tuân theo thủ tục quy định về vận may của nhau.
Hoàng tử Ali không muốn đi sâu tranh cãi với hoàng tử anh cho rằng vật anh mang về quý hiếm hơn. Chàng thầm nghĩ nếu chàng đưa ra chiếc ống ngà voi, hẳn nó không hơn được thì ít nhất cũng không thua kém vật của anh và đồng ý sẽ đưa ra vật lạ của mình ra khi hoàng tử Ahmed trở về.
Khi Ahmed về gặp hai anh, sau khi đã ôm hôn nhau trìu mến và chúc mừng hạnh phúc gặp lại nhau ở chỗ đã chia tay ra đi, hoàng tử Houssain với danh nghĩa anh cả, lên tiếng nói:
- Các em, sau này chúng ta sẽ kể chuyện về những nét đặc biệt của hành trình, hãy nói về điều quan trọng nhất cần biết đã. Anh nghĩ các em đều nhớ đến mục đích chuyến đi của chúng ta, đừng giấu giếm nhau vật lạ chúng ta mang về và trước khi đưa ra chúng ta phải thật công bằng xét xem phụ hoàng sẽ cho ý kiến ai thắng cuộc.
- Để làm gương - Anh nói với các em - vật quý hiếm anh mang về từ vương quốc Bisnagar là tấm thảm anh đang ngồi, nó bình thường, bề ngoài không có gì hấp dẫn như các em thấy nhưng khi anh nói về tính chất của nó, các em sẽ khâm phục như chưa bao giờ được nghe nói và sẽ phải xác nhận rất quý.
Thực vậy, nếu ngồi lên đấy như chúng ta đang ngồi và ước muốn được mang tới một chỗ nào đấy dù xa mấy, người ta sẽ đến ngay chỗ ấy hầu như lập tức. Anh đã thử nghiệm trước khi không tiếc đếm đủ số tiền bốn mươi đồng tiền bằng vàng và khi đã hoàn toàn thoả mãn tính tò mò về triều đình Bisagar, muốn trở về anh không dùng xe cộ nào khác ngoài tấm thảm kỳ diệu này.
Nó đã đưa anh và người hầu cùng bay, người hầu có thể cho các em biết anh mất bao nhiêu thời gian để đến đấy. Anh sẽ thử nghiệm để các em xem khi thích hợp. Còn bây giờ anh chờ xem các em cho biết đã đem vật gì về, có thể so sánh với tấm thảm của anh được không.
Hoàng tử Houssain kết thúc lời ca ngợi tấm thảm ở đấy, hoàng tử Ali tiếp lời anh:
-Thưa anh, phải thú nhận tấm thảm của anh là một trong những vật tuyệt vời nhất nếu nó có đặc tính như anh vừa nói không ai nghi ngờ gì. Nhưng cũng phải công nhận có những vật khác em không nói hơn nhưng ít nhất cũng tuyệt vời như thế ở dạng khác, Để anh đồng ý, em đưa anh xem chiếc ống bằng ngà voi này, nhìn không đáng chú ý như tấm thảm của anh.
Em cũng mua với giá như anh mua nhưng cũng không kém bằng lòng về nó như anh thích tấm thảm. Công minh như anh, hẳn phải công nhận em đã không nhầm khi có thể biết bất cứ vật nào muốn thấy. Em không muốn anh chỉ tin vào lời nói, đây là chiếc ống, anh thử xem sao.
Hoàng tử Houssain cầm chiếc ống, đưa lên mắt nhìn vào một đầu theo cách em chỉ, ý muốn được thấy công chúa Nourounnihar và biết sức khoẻ của nàng thế nào. Hoàng tử Ali và Ahmed nhìn vào anh, rất ngạc nhiên thấy nét mặt anh thay đổi rất lạ, sau đó có vẻ buồn. Hoàng tử Houssain không để các em hỏi, bảo ngay:
Các hoàng tử, hai em và anh đi xa vất vả để mong được thưởng cho mình công chúa Nourounnihar thật vô ích. Chỉ một lúc nữa thôi nàng không còn sống nữa. Anh vừa thấy nàng nằm trên giường xung quanh là các thị nữ, thái giám khóc lóc, xem ra chỉ chờ giờ chết của nàng. Đây, các em tự nhìn xem cảnh thương tâm ấy và cùng khóc với anh đi.
Hoàng tử Ali cầm chiếc ống ở tay hoàng tử Houssain nhìn xem, rất buồn đưa lại cho hoàng tử Ahmed cùng thấy quang cảnh thật bi thảm và làm họ quan tâm nhiều.
Khi hoàng tử Ahmed cầm chiếc ống từ tay hoàng tử Ali, nhìn thấy công chúa Nourounnihar chẳng còn sống được bao lâu nữa, chàng nói với hai anh:
- Các anh ạ, công chúa là người chúng ta đều mong muốn đang ở trong tình trạng hấp hối rồi nhưng em thấy chúng ta còn cơ may cứu được nàng nếu tranh thủ được thời gian.
Chàng rút trong túi ra quả táo kỳ diệu, đưa cho hai anh xem và nói:
- Quả táo này đắt không kém tấm thảm và chiếc ống bằng ngà các anh mua đưa về. Có dịp để các anh thấy đặc tính tuyệt vời của nó làm em không tiếc đã mua với giá bốn mươi đồng tiền bằng vàng.
Người bệnh ngửi nó, dù đang hấp hối cũng phục hồi sức khoẻ ngay lập tức, em đã thử nghiệm rồi.
Chúng ta phải mau chóng đến cứu công chúa và các anh sẽ thấy ngay tác dụng.
Hoàng tử Houssaln nói:
- Nếu thế, chúng ta sẽ đến ngay phòng của công chúa bằng cách ngồi lên tấm thảm của anh. Các em lại ngay đây, ngồi vào như anh, khá rộng đủ chỗ cho cả ba người. Trước hết hãy ra lệnh cho người hầu cùng lên đường ngay và đến tìm chúng ta ở hoàng cung.
Ra lệnh cho tuỳ tùng xong hoàng tử Ali và Ahmed ngồi vào tấm thảm, cùng hoàng tử Houssain, cả ba cùng ước muốn được mang đến phòng công chúa Nourounnihar. Họ tới nơi rất nhanh, hầu như chưa rời khỏi chỗ vừa ra đi.
Ba hoàng tử có mặt thật bất ngờ làm các thị nữ, thái giám sợ hãi, không hiểu phép lạ nào đưa ba người đàn ông tới đây. Lúc đấy chưa nhận ra, các thái giám chuẩn bị tấn công họ như những người đã vào tới phòng cấm nhưng rồi tự thấy sai lầm vì sau đó đã biết họ là ai.
Hoàng tử Ahmed vừa vào đến phòng công chúa. Nourounnihar, thấy nàng hấp hối bèn ra khỏi tấm thảm lại gần gíường đưa quả táo thần diệu lại sát mũi công chúa trong lúc hai hoàng tử kia cũng tới sát giường.
Một lúc sau công chúa mở mắt, ngoảnh đầu nhìn những người bao quanh nàng, ngồi dậy đòi mặc quần áo ngoài thoải mái, tỉnh táo như vừa qua một giấc ngủ dài. Các thị nữ vui mừng bảo với nàng nhờ ba hoàng tử anh họ nàng đặc biệt là nhờ hoàng tử Ahmed đã cứu nàng nhanh chóng phục hồi sức khoẻ.
Thể hiện niềm vui được gặp lại họ, công chúa cám ơn cả ba chàng, nhất là hoàng tử Ahmed. Thấy nàng bảo thị nữ lấy quần áo, các hoàng tử nói rất sung sướng được đến kịp để mỗi người góp một phần cứu nàng khỏi cơn hiểm nguy, được gặp nàng và mong nàng sống lâu rồi họ rút lui.
Trong lúc công chúa thay quần áo, ba hoàng tử ra khỏi phòng nàng đến quỳ trước phụ hoàng chúc thọ. Họ nhận thấy vua cha đã được trưởng thái giám bẩm báo họ đã về và công chúa mà các thầy thuốc chịu bó tay, đã được họ chữa khỏi một cách thần diệu. Sau những lời chúc mừng trong những trường hợp như vậy, mỗi hoàng tử trình với vua cha vật quý hiếm mình mang về: hoàng tử Houssain, tấm thảm chàng đã lấy lại từ buồng công chúa, hoàng tử Ali chiếc ống ngà voi và hoàng tử Ahmeđ quả táo kỳ diệu.
Ca tụng đặc tính quý hiếm rồi, họ nộp lại cho vua cha, khẩn cầu Người công bố vật nào hơn và như vậy theo như lời hứa, Người cho ai lấy công chúa Nourounnihar làm vợ.
Nhà vua Ấn Độ đôn hậu lắng nghe những gì các hoàng tử nói về lợi thế của vật mình mang về không ngắt lời họ và biết rõ việc chữa khỏi bệnh cho công chúa, ngồi im lặng một lúc như suy nghĩ để trả lời.
Sau đó ông ngắt lời các con và khôn khéo nói:
Các con ta, ta vui lòng tuyên bố điều đó nếu ta xét được thật đúng đắn nhưng các con xem ta có thể phán quyết như thế không. Con, hoàng tử Ahmed, đúng là công chúa khỏi bệnh nhờ quả táo nhân tạo của con nhưng ta hỏi con có điều kiện làm việc ấy không nếu trước đó không có chiếc ống ngà voi của Ali cho biết mối nguy hiểm đang đe doạ công chúa và tấm thảm của Houssain không nhanh chóng đưa con về kịp cứu chữa? Con hoàng tử Ali, chiếc ống ngà voi cho con và anh em con biết sắp mất công chúa và như vậy phải công nhận nàng, chịu ơn con.
Nhưng con cũng phải công nhận biết như thế cũng vô ích nếu không có quả táo và tấm thảm. Cuối cùng, hoàng tử Houssain, công chúa sẽ vô ơn nếu không coi trọng tác dụng của tấm thảm. Nhưng con xem tấm thảm sẽ không đóng góp được gì nếu không nhờ ống - ngà voi của Ali để nắm được tình hình và Ahmed không dùng quả táo nhân tạo chữa cho công chúa. Như vậy cả ba vật quý hiếm không cái nào hơn cái nào mà ngược lại các con hoàn toàn bằng nhau mà ta chỉ có thể cho một người cưới công chúa, các con cũng tự thấy vật các con mang về chỉ vinh dự góp phần như nhau cứu sống được công chúa Nourounnihar.
Vì vậy ta phải dựa vào một con đường khác để xác định được chắc chắn việc chọn lựa giữa các con. Bây giờ còn có thì giờ cho đến tối. Các con hãy đi lấy mỗi người một chiếc cung tên, ra khỏi thành phố đến sân lớn đua ngựa, ta cũng sẽ ra đấy và tuyên bố cho người nào bắn xa hơn sẽ được cưới công chúa.
Ta cũng không quên cám ơn các con nói chung và riêng từng người về món quà quý mang về. Trong kho cũng đã có nhiều vật hiếm nhưng không có gì sánh với tính chất đặc biệt của tấm thảm, chiếc ống ngà voi và quả táo kỳ diệu sẽ làm phong phú thêm cho kho tàng. Đấy làb ba vật đứng đầu, ta sẽ giữ gìn không chỉ vì vật lạ mà để có dịp sử dụng có lợi sau này.
Ba hoàng tử không có gì phản bác lại quyết định của phụ hoàng vừa nêu ra. Khi ra ngoài, người ta đem lại cho họ mỗi người một cung một tên, họ giao lại đồ dùng cho lính hầu vừa về tập hợp và họ cùng ra bãi đua ngựa với vô số dân chúng đi theo.
Nhà vua không để phải chờ đợi. Khi ngài đến, hoàng tử Houssain là anh cả, cầm cung tên bắn trước, hoàng tử Ali bắn sau đó và mũi tên rơi xuống xa hơn, hoàng tử Ahmed bắn sau cùng nhưng mũi tên vút đi, không thấy rơi xuống.
Người ta vội vã chạy theo tìm, hoàng tử Ahmed cũng tìm nhưng xa hay gần đều không thấy. Tuy có thể tin là chàng bắn xa hơn cả và đáng được cho cưới công chúa Nourounnihar nhưng phải có mũi tên để xác thực, dù chàng chứng minh ra sao, nhà vua vẫn xét để Ali thắng cuộc. Ngài ra lệnh chuẩn bị lễ cưới thật trang trọng và mấy ngày sau đó hôn lễ được tố chức thật rầm rộ.
Hoàng tử Houssaln không tham dự tôn vinh buổi lễ. Quá say mê công chúa chàng không đủ sức chịu đựng nỗi đau khổ thấy nàng thuộc về Ali mà chàng bảo không xứng đáng và cũng không yêu công chúa hơn chàng.
Chàng bất mãn rõ rệt đến nỗi rời bỏ triều đình, từ chối quyền kế vị để đi tu, khép mình vào kỷ luật một tu sĩ nổi tiếng về một cuộc sống gương mẫu cùng một số đông môn đồ xây dựng một nơi ở ẩn rất tĩnh lặng.
Hoàng tử Ahmed với lý do như Houssain, cũng không tham dự lễ cưới hoàng tử Ali và công chúa Nourounnihar nhưng không từ bỏ thế tục. Vì không hiểu được tại sao mũi tên của chàng mất tích, chàng giấu mọi người, quyết tâm tìm cho được mũi tên để khỏi phải ân hận điều gì, chàng đến chỗ người ta lượm tên của hai hoàng tử anh, đi thẳng tới trước mặt, nhìn trái nhìn phải đã quá xa mà không thấy, chàng không cho rằng mình đã phí công vô ích. Rồi như bị cuốn hút, chàng cứ đi tiếp không mệt mỏi cho đến những núi đá cao buộc phải đi vòng khi muốn vượt qua và những tảng đá ở đó rất hiểm trở, ở trong một vùng khô cằn cách nơi chàng ra đi bốn dặm.
Lại gần những tảng đá, hoàng tử Ahmed thấy một mũi tên, nhặt lên nhìn kỹ thì chính là mũi tên chàng đã bắn. Chàng nghĩ: Đúng mũi tên này nhưng mình cũng như mọi người sống trên đời không đủ sức bắn một mũi tên xa đến thế? Thấy nó nằm trên mặt đất không cắm sâu xuống, chàng cho là mũi tên bắn vành tảng đá cứng quá bị bật lại.
Chàng lại tự nhủ:
- Có điều gì bí mật trong việc lạ lùng này và điều bí mật này chỉ có lợi cho mình. Số phận làm mình buồn nản khi tước đi quyền được có về người mình yêu mong đưa lại hạnh phúc trong đời có lẽ dành cho mình một cái khác để an ủi mình chăng:
Với ý nghĩ đó, thấy núi đá nhô ra lõm vào, hoàng tử đi vào một trong những chỗ lõm ấy, đôi mắt nhìn vào từng góc, chàng thấy một cánh cửa sắt có vẻ không khoá. Đẩy mạnh cánh cửa mở vào trong, có lối dốc không bậc thang, chàng bước xuống tay cầm mũi tên. Tưởng sẽ vào chỗ tối tăm nhưng một luồng ánh sáng mới tiếp theo đó, chàng bước vào một quảng trường lộng lẫy cách khoảng năm mươi, sáu mươi bộ thấy có một lâu đài thật đẹp. Nhưng chưa kịp có thì giờ ngắm nghía vẻ đẹp của toà lâu đài thì ngay lúc đó bỗng xuất hiện vị nữ hoàng phong thái oai nghiêm, với sắc đẹp mà quần áo sang trọng và đá quý nàng trang điểm cũng không thể làm tăng thêm được vẻ đẹp tuyệt vời của nàng hơn nữa.
Nàng tiến ra tiền sảnh có toán thị nữ đi theo cũng tuyệt đẹp đến nỗi phải khó khăn lắm mới nhận ra ai là nữ chủ.
Hoàng tử thấy nàng, bước vội đến cung kính chào và nữ hoàng cao giọng nói:
- Hoàng tử Ahmeđ lại gần đây, chàng sẽ được tiếp đón nồng nhiệt.
Hoàng tử rất ngạc nhiên thấy có người gọi tên mình trong một vùng chưa bao giờ chàng nghe nói tuy rất gần kinh thành vua cha và không hiểu vì sao một nữ hoàng chàng không quen lại đã biết nàng.
Hoàng tử quỳ xuống dưới chân nàng lồi vừa đứng dậy chàng vừa nói:
- Thưa nữ hoàng, tôi vừa đến một nơi mà do tò mò tôi đã liều lĩnh bước vào, rất cám ơn nữ hoàng đã sẵn sàng tiếp đón. Nhưng thưa nữ hoàng, xin lỗi cho phép tôi được hỏi do đâu nàng biết tôi, tuy nàng ở rất gần chúng tôi mà hôm nay tôi mới biết?
- Hoàng tử - Nữ hoàng nói - chúng ta vào phòng khách thiếp sẽ trả lời như thế tiện hơn cho thiếp và cho chàng.
Nói xong nữ hoàng dẫn Ahmed vào một ngôi nhà có kiến trúc tuyệt vời có màu vàng và màu xanh da trời trang trí vòm nhà, và bài trí bằng những vật giàu có vô giá. Ngôi nhà quả là có vẻ vô cùng mới lạ làm chàng tấm tắc khen, nói chưa từng thấy tương tự. Nàng lại nói: Tuy thế thiếp bảo đảm với chàng đây là gian phòng kém nhất trong lâu đài của thiếp.
Chàng sẽ đồng ý với nhận định ấy khi thiếp đưa chàng đi xem hết các phòng”. Nàng lên ngồi trên ghế xô pha và khi hoàng tử đã ngồi gần mình, nàng giải đáp câu hỏi của chàng: Hoàng tử, chàng ngạc nhiên vì thiếp biết chàng mà chàng không biết thiếp. Khì biết thiếp là ai chàng sẽ hết ngạc nhiên ngay.
Chắc chàng cũng biết tôn giáo chàng đã dạy, trên đời có các vị thần ở cũng như người. Thiếp là con gái một trong các vị thần đó, những vị thần quyền lực và nổi bật nhất, tên thiếp là PariBanou. Thiếp biết chàng, vua cha, các hoàng tử anh chàng và công chúa Nourounnihar. Thiếp cũng được tin cả tình yêu và cuộc hành trình của các hoàng tử, có thể kể lại mọi trường hợp vì chính thiếp đã bán quả táo nhân tạo ở Samarean mà chàng đã mua, tấm thảm ở Bisnagar hoàng tử Houssaln tìm được và chiếc ống nhòm bằng ngà voi hoàng tử Ali mang về.
Như thế đủ để chàng hiểu thiếp biết hết những gì liên quan đến chàng. Thiếp nói thêm một điều là chàng xứng đáng có một vận mệnh sung sướng hơn việc có công chúa Nourounnlhar. Và để dẫn chàng tới đây, thiếp đã có mặt trong cuộc bắn thi, thiếp thấy cách bắn cung của chàng thậm chí không đưa nổi mũi tên vượt quá mũi tên của hoàng tử Houssain, thiếp liền bắt lấy nó trên không, phóng vào tảng đá dội lại như chàng vừa tìm thấy. Bây giờ tuỳ thuộc ở chàng có nên tranh thủ cơ hội để trở nên hạnh phúc hơn.
Nàng tiên Pari-Banou nói những lời cuối với giọng khác biệt, thậm chí nhìn hoàng tử Ali một cách âu yếm, đôi mắt khiêm tốn nhìn xuống nét mặt ửng hồng, hoàng tử không khó khăn gì để hiểu nàng muốn nói về hạnh phúc nào.
Xét kỹ thấy công chúa Nourounnihar không thể thuộc về chàng nữa và nàng tiên Pari- Banou hơn hẳn nàng về sắc đẹp, sự hấp dẫn và nàng đang rất vui sướng nếu được chàng chấp thuận, nàng lại thông minh, giàu có qua lâu đài tráng lệ chàng được chứng kiến, hoàng tử Ali hàm ơn ý nghĩ đi tìm mũi tên của mình và thuận theo xu hướng nghiêng về đối tượng đang đốt cháy lòng chàng.
Thưa nữ hoàng - chàng nói - nếu suốt đời được là kẻ nô lệ của nàng và là người thán phục bao nhiêu sự duyên dáng làm ta say mê, ta cho là mình sung sướng nhất trong những người trần. Hãy thứ lỗi cho ta táo tợn xin nàng ân huệ ấy và mong nàng không từ chối nhận vào triều một hoàng tử nguyện hy sinh tất cả vì nàng.
- Thưa hoàng tử, đã từ lâu thiếp làm chủ ý muốn của mình và đối với sự thoả thuận của bố mẹ, thiếp không muốn nhận chàng vào triều như một nô lệ mà là chủ nhân của bản thân thiếp và của những gì đã và có thể thuộc về thiếp bằng cách phối hợp với thiếp, cho thiếp lòng tin và cưới thiếp làm vợ.
Thiếp hy vọng chàng không có ý nghĩ không hay đối với thiếp khi thấy thiếp đề nghị như thế. Thiếp đã nói thiếp làm chủ ý muốn của mình, các nàng tiên không như phụ nữ ngoài đời đối với đàn ông, không có thói quen đi trước như vậy mà họ cho là mất danh giá của mình. Đối với thiếp, thiếp làm thế và cho rằng người ta phải biết ơn thiếp.
Hoàng tử Ahmed không trả lời gì về lời nói của nàng tiên, nhưng lòng đầy biết ơn, chàng nghĩ không thể hiện gì hơn bằng tiến lại gần hôn vào tà áo của nàng. Nàng tiên không để chàng làm thế, đưa bàn tay ra cho chàng hôn và giữ lại, nắm chặt tay chàng:
- Hoàng tử Ahmed - Nàng nói - chàng có cho thiếp lòng tin như thiếp đã tin tưởng chàng không?
- Chà! - Hoàng tử vô cùng sung sướng đáp- ta có thể làm gì hơn và có niềm vui nào hơn? Vâng, thưa nữ hoàng của ta, ta tặng nàng lòng tin với cả tấm lòng không dè dặt.
- Nếu vậy - Nàng tiên lại nói – chàng là chồng thiếp và thiếp, vợ chàng. Trong bọn thiếp, việc thành hôn không do các lễ tiết: vững chắc và lâu bền hơn những lễ cưới hỏi của người trần tuy họ nhiều thủ tục hơn.
Bây giờ, trong lúc chờ đợi chuẩn bị tiệc cưới cho chúng ta tối nay và hình như hôm nay chàng chưa ăn gì, người ta sẽ đưa tới cho chàng một bữa ăn nhẹ sau đó thiếp dẫn chàng đi xem các phòng trong lâu đài để chàng thấy có đúng gian phòng này là gian phòng kém nhất như thiếp nói không.
Một số thị nữ vào trong phòng khách với nàng tiên hiểu được ý định của nữ chủ, liền ra ngoài và một lúc sau đem vào một số thức ăn và rượu ngon tuyệt.
Khi hoàng tử Ahmed đã ăn uống thoải mái, nàng tiên Pari-Banou dẫn chàng đi từ phòng này sang phòng khác, thấy kim cương, hồng ngọc, ngọc bích và đủ loại đá quý, chưa nói đến đồ đạc giàu sang vô giá tất cả phối hợp hài hoà kỳ lạ làm hoàng tử phải thốt lên không thể thấy như thế ngoài đời.
Nàng tiên bảo chàng:
- Thưa hoàng tử, nếu chàng khen ngợi lâu đài của thiếp đến thế, thực ra cũng rất đẹp rồi nhưng chàng sẽ nói ra sao về lâu đài của những trưởng các vị thần chúng thiếp, đẹp, tráng lệ, lộng lẫy khác hẳn? Thiếp có thể đưa chàng đi xem vẻ đẹp khu vườn của thiếp nữa nhưng để lần khác.
Trời gần tối rồi, chúng ta chuẩn bị đi ăn thôi.
Gian phòng nàng tiên dẫn hoàng tử Ahmed vào đã có bàn ăn dọn sẵn là phòng cuối cùng chàng thấy trong lâu đài, không kém một phòng nào đã được xem. Bước vào chàng choáng ngợp với vô số ngọn nến có mùi thơm, rất nhiều nhưng không hề lẫn lộn mà bố trí cân đối ưa nhìn. Chàng cũng ngợi khen một chiếc tủ buýp-phê lớn đầy bát đĩa vàng, nghệ thuật tạo dáng quý hơn chất liệu và nhiều toán phụ nữ, tất cả đẹp mê hồn và ăn mặc sang trọng, bắt đầu hoà tấu với giọng hát và đủ loại nhạc cụ hay nhất chưa bao giờ được nghe.
Họ ngồi vào bàn, Pari-Banou chú trọng tiếp hoàng tử những thức ăn ngon nhất vừa kể tên vừa mời chàng dùng tnử mà hoàng tử chưa từng được nghe nói đến nên hết lời ca tụng, cho bàn ăn vượt mọi bàn tiệc của người đời. Chàng cũng kêu lên như thế về chất lượng tuyệt vời của rượu, hai người bắt đầu say sưa uống và đến bữa tráng miệng bằng những quả cây, bánh ngọt và những loại khác càng ngon hơn.
Sau tráng miệng, nàng tiên Pari-Banou và hoàng tử Ahmed rời khỏi bàn tiệc đã được dọn dẹp ngay. Họ cùng ngồi thoải mái trên ghế xô-pha, tựa lưng vào gối vải lụa thêu các loại hoa rất khéo.
Bỗng một số đông các vị thần và các nàng tiên bước vào phòng, bắt đầu một điệu vũ kỳ lạ nhất, tiếp tục mãi cho đến khi nàng tiên và hoàng tử đứng dậy. Các thần và tiên nữ vừa nhảy múa vừa ra khỏi phòng đi trước đôi tân hôn đùa họ đến gian phòng đã chuẩn bị giường cưới. Đến trước cửa, họ xếp thành hàng để hai người đi vào sau đó rút lui để vợ chồng tự do đi nằm.
Những tiệc tùng mừng hôn lễ tiếp tục vào ngày hôm sau, đúng hơn là những ngày nối tiếp mà nàng tiên Pari- Banou dễ dàng cho thay đổi những món ăn mới, những buổi hoà tấu khiêu vũ mới, những cuộc biểu diễn giải trí mới, tất cả
đều khác thường làm hoàng tử Ahmed không thể hình dung trong đời thường dù có sống đến một nghìn năm.
Ý định của nàng tiên không chỉ thể hiện với hoàng tử những điều cần thiết về tình yêu trung thực và niềm say mê của nàng, nàng cũng muốn qua sự tiếp đón, làm cho chàng thấy không thể tìm được ở triều đình vua cha hoặc một chỗ nào khác ở trên đời một hạnh phúc được hưởng thụ như bên cạnh nàng, chưa nói đến sắc đẹp của nàng kèm theo, để chàng hoàn toàn gắn bó với nàng không bao giờ rời bỏ. Nàng đã rất thành công theo lòng mong muốn của mình: hoàng tử Ahmed không chủ động được nữa trong tình yêu của mình, tình yêu của chàng tăng lên đến mức không thể đừng yêu nàng được khi mà nàng vẫn có thể quyết định được không yêu chàng nữa.
Qua sáu tháng, hoàng tử Ahmed vẫn luôn yêu thương và tôn vinh vua cha, cảm thấy mong muốn biết tin tức của Người, chàng muốn rời khỏi lâu đài về gặp mặt vua cha. Trong một buổi nói chuyện với Pari-Banou chàng đã nói ra ước muốn đó và mong nàng cho phép. Nàng tiên hoảng hốt, sợ đây là một cớ để chàng bỏ rơi nàng, nàng nói với chàng:
- Thiếp đã có gì làm chàng không bằng lòng khiến chàng phải xin phép điều đó? Phải chăng chàng có thể quên đã cho thiếp lòng tin và không yêu thiếp nữa trong lúc thiếp vẫn yêu chàng tha thiết? Chàng phải thấy rõ điều đó qua những thể hiện không ngừng của thiếp đối với chàng.
- Nữ hoàng của ta - Hoàng tử nói - ta biết rất rõ tình yêu của nàng và sẽ không xứng đáng nếu không đáp lại nàng với một tình yêu như thế. Nếu nàng bị xúc phạm về đề nghị của ta thì hãy tha lỗi cho ta, ta sẵn sàng sửa chữa vì nàng. Ta nói ra việc đó không phải để làm nàng mất lòng mà chỉ vì lòng kính trọng vua cha, muốn Người khỏi buồn rầu vì ta vắng mặt lâu ngày, nỗi buồn của Người sẽ càng lớn cho rằng ta không còn sống nữa. Nhưng vì nàng không muốn ta đi làm nhiệm vụ an ủi ấy thì thôi vậy, không có gì ta không làm để làm nàng vừa lòng.
Hoàng tử Ahmed không giấu giếm nỗi nhớ vua cha nhưng chàng cũng yêu nàng hoàn toàn như lời đã nói, nên không nài xin về đề nghị ấy nữa, nàng tiến tỏ ra thoả mãn về việc chàng chiều theo ý mình.
Tuy thế hoàng tử không bỏ hẳn ý định của mình, thỉnh thoảng chàng nói chuyện về những đức tính của vua cha, nhất là sự trìu mến đối với riêng chàng, với hy vọng cuối cùng nàng xiêu lòng.
Như hoàng tử Ahmed dự đoán, giữa niềm vui về hôn lễ của hoàng tử Ali và công chúa Nourounnihar, nhà vua Ấn Độ vẫn buồn rầu vô cùng về sự ra đi của hai con trai khác. Không bao lâu ngài được tin hoàng tử Houssain đã dứt bỏ đời thường và nơi chàng chọn để ở ẩn. Là một người bố tốt ngài xác định một phần hạnh phúc của mình ở chỗ thấy những đứa con của lòng mình nhất là khi chúng xứng đáng với tình thương của mình, sống gắn bó bên cạnh mình, tuy không thể chối bỏ sự lựa chọn cách sống của các hoàng tử, ngài đành nóng lòng chờ đợi trong lúc chúng vắng mặt.
Nhà vua cử các đoàn nhanh chóng đi tìm tin tức của hoàng tử Ahmed, ban chiếu đi tất cả các tỉnh trong vương quốc, ra lệnh cho các quan tổng đốc bắt giữ và buộc chàng về triều nhưng các biện pháp đều không hiệu quả và nỗi phiền muộn đáng lẽ giảm bớt thì càng tăng thêm. Thường ngài hay trao đổi việc ấy với quan tể tướng của ngài.
- Quan tể tướng - Ngài nói - khanh biết Ahmed là người trong các hoàng tử ta luôn yêu thương nhất và ta đã làm mọi cách tìm kiếm mà không có kết quả. Ta đau lòng đến mức suy sụp nếu khanh không thông cảm với ta.
Để bảo vệ ta, ta cần khanh giúp đỡ và cho ta những lời khuyên.
Viên tể tướng gắn bó với nhà vua cũng như tích cực giải quyết những công việc trong nước, suy nghĩ để làm sao an ủi được Người, nhớ đến một bà phù thủy có nhiều phép lạ. Ông đề nghị cho triệu bà ta vào hỏi ý kiến.
Nhà vua đồng ý, ông cho người đi tìm và đích thân dẫn vào triều.
Vua nói với bà phù thuỷ:
- Từ khi hoàng tử Ali, con ta thành hôn cùng công chúa Nourounnihar, hoàng tử trưởng và hoàng tử Ahmed bỏ đi, ta buồn không nguôi và mọi người đều biết. Với pháp thuật và sự khéo léo vốn có, bà có thể nói với ta hoàng tử ra sao rồi không? Chàng còn sống không? Đang ở đâu? Làm gì? Ta có hy vọng gặp lại chàng không?
Mụ phù thuỷ trả lời để vua hài lòng:
- Thưa bệ hạ, dù khéo léo trong nghề đến mấy thần cũng không thể giải đáp ngay những câu hỏi của bệ hạ được. Nếu Người cho thần thời gian đế ngày mai, thần sẽ xin trả lời.
Vua đồng ý thời hạn trên, để mụ trở về, hứa sẽ khen thưởng xứng đáng nếu giải đáp được lòng mong muốn của ngài.
Mụ phù thuỷ hôm sau trở lại, vị tể tướng lại giới thiệu lần thứ hai với vua. Mụ trình bày:
- Thưa bệ hạ, thần đã nhanh chóng sử dụng mọi thủ thuật trong nghề để vâng theo lệnh Người, thần chỉ biết được một điều là hoàng tử Ahmed chưa chết. Đó là điều chắc chắn, bệ hạ có thể tin như thế.
Còn về những điều khác thần vẫn chưa thể phát hiện thêm gì được.
Vua Ãn Độ đành bằng lòng với câu trả lời đó, nhưng ngài vẫn lo lắng chẳng kém trước về số phận hoàng tử con trai mình.
Trở lại với hoàng tử Ahmed, chàng tuy vẫn luôn nói chuyện về vua cha với nàng tiên Pari-Banou nhưng không nêu lên nguyện vọng được gặp lại Người nữa, nỗi nhớ nhưng đó làm nàng hiểu ý muốn của chàng.
Vì vậy nàng cảm thấy càng giữ chàng lại càng sợ chàng mếch lòng vì bị từ chối và nhận ra tình yêu của chàng đối với nàng thể hiện rất trung thực. Sau đó xét thấy thật bất công đối với một người con yêu mến cha khi muốn buộc chàng từ bỏ thiên hướng tự nhiên, nàng quyết định thuận tình theo nguyện vọng của chàng.
Một hôm nàng bảo:

- Hoàng tử, điều chàng xin phép về thăm vua cha làm thiếp lo ngại đấy chỉ là vì thiếp sợ đó chính là lý do thể hiện chàng không chung thuỷ và muốn bỏ rơi thiếp, thiếp từ chối chỉ vì thế.
Hôm nay hoàn toàn tin tưởng vì những việc làm và lời nói của chàng, thiếp có thể yên tâm về tình yêu chung thuỷ và vững chắc của chàng nên thiếp đã đổi ý, đồng ý để chàng về thăm vua cha với một điều kiện, chàng phải thề trước với thiếp sẽ không ở lại lâu và trở lại sớm. Điều kiện đó chắc không làm chàng phiền lòng và cho là thiếp không tin chàng. Thiếp nêu lên điều này vì rất tin tưởng vào sự trung thực trong tình yêu của chàng.
Hoàng tử Ahmed muốn quỳ xuống dưới chân nàng để tỏ lòng cảm kích nhưng nàng tiên ngăn lại. Chàng nói:
- Nữ hoàng của ta, ta biết rõ giá trị của ân huệ nàng ban cho ta nhưng lời nói không thể hiện đủ lòng cám ơn như ta mong muốn. Nàng hãy tin chắc ta nhớ mãi điều đó. Nàng đã đúng khi tin rằng buộc ta thề thất không làm ta phiền lòng. Ta sẵn sàng hứa từ nay ta không thể sống nếu thiếu nàng.
Ta sẽ ra đi nhưng mau chóng trở lại, không phải lo sợ vì bội ước mà do lương tâm mách bảo là đã mong ước được sống không xa rời nàng suốt đời và nếu đôi khi được nàng vui vẻ cho xa nàng, ta sẽ tránh phải buồn phiền vì xa cách nhau lâu ngày.

14/8/2015
Antoine Galland
Phan Quang dịch
Theo https://isach.info/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Sự liên hệ kỳ lạ giữa hai tác giả Tế Hanh và Sully Prudhomme

Sự liên hệ kỳ lạ giữa hai tác giả Tế Hanh và Sully Prudhomme Bạn đọc yêu thơ hẳn còn nhớ tới một trong những thi phẩm đầu tay của nhà thơ ...