Thứ Ba, 9 tháng 5, 2023

Nhà văn Bùi Tự Lực: Ký ức tuổi thơ làm bệ phóng trang văn

Nhà văn Bùi Tự Lực: Ký ức
tuổi thơ làm bệ phóng trang văn

Nhà văn Bùi Tự Lực sinh ngày 9.10.1954 ở xã Bình Trị, huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam vừa đột ngột từ trần ngày 30.4.2020 tại Đà Nẵng. Ông là Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam năm 2003, nguyên Ủy viên Ban Chấp hành – Chủ tịch Hội đồng Văn xuôi Hội Nhà văn TP Đà Nẵng. Bùi Tự Lực là tác giả của nhiều tập truyện, thơ, bút ký, trong đó nổi bật nhất là tập truyện vừa Nội tôi (Giải B cuộc vận động sáng tác truyện, tranh truyện thiếu nhi 1999-2000 của NXB Kim Đồng) được tái bản hàng chục lần, ngoài ra ông còn được trao Giải thưởng Văn học Nghệ thuật TP Đà Nẵng lần thứ nhất (1997-2005) và Giải thưởng Văn học Nghệ thuật Đất Quảng lần thứ nhất (1997-2010)…
Vĩnh biệt nhà văn Bùi Tự Lực, VHSG xin chia buồn sâu sắc với gia đình, đồng nghiệp cùng những người yêu mến ông, và xin trân trọng giới thiệu lại bài viết của nhà thơ Phan Hoàng từ báo Sài Gòn Giải Phóng như nén tâm hương tưởng nhớ một kẻ sĩ đất Quảng!
Tuổi thơ của các nhà văn
Thật khó hình dung một nhà văn không có những ký ức vui buồn của tuổi thơ để làm bệ phóng cho trang viết đời mình. Nhiều nhà văn trên thế giới đôi khi chỉ có một tác phẩm viết chủ yếu về thời thơ ấu mà sống mãi trong lòng bạn đọc. Kiệt tác Hoàng tử bé của nhà văn Pháp Antoine de Saint-Exupéry chính là giấc mơ chinh phục vũ trụ từ thuở nhỏ của ông với những tiên cảm đầy kinh ngạc. Hai tiểu thuyết nổi tiếng của Nga là Thời thơ ấu gian khổ của nhà văn Yamil Mustafin và Thép đã tôi thế đấy của nhà văn Nikolai Ostrovsky sống trong lòng người đọc những kỷ niệm lãng mạn và bi thương của tuổi xanh trôi qua trong chiến tranh.
Văn học Việt Nam đương đại cũng vậy. Ký ức tuổi thơ có khi là đề tài chủ đạo của một tác phẩm hoặc là nguồn cảm hứng chi phối trong nhiều sáng tác. Nếu như không có tuổi thơ phiêu bồng “tung tăng cuốc kêu dế gáy chim ca/ cóc nhái gọi sấm gọi chớp gọi mưa” ở làng Nghĩa Đô bên bờ sông Tô Lịch trong xanh ngày xưa với những trò chơi tắm sông, chọi dế, đúc dế thì nhà văn Tô Hoài khó mà dựng nên Dế mèn phiêu lưu ký làm say mê bạn đọc nhiều thế hệ. Còn nhà văn Nguyên Hồng với tiểu thuyết tự truyện Những ngày thơ ấu đã ám ảnh chúng ta bởi như nhà văn Thạch Lam nhìn nhận “nó là sự rung động cực điểm của một linh hồn trẻ dại lạc loài trong những lề thói khắc nghiệt của một gia đình sắp tàn”. Khác với nhà văn Tô Hoài, tuổi thơ của nhà văn Nguyễn Hồng cô đơn nghiệt ngã trong một gia đình mà người cha và người mẹ khác tính khác nết, không yêu thương nhau, để rồi cuối cùng “linh hồn trẻ” phải ngơ ngác lang thang hè phố giữa sự hắt hủi để kiếm miếng ăn tồn tại ở đất cảng Hải Phòng.
Thế hệ sau, ở Nam bộ, nhà văn Nguyễn Quang Sáng trải qua tuổi thơ thi vị và dữ dội ở Cù lao Giêng nằm giữa sông Tiền, để từ đó ông viết nên hai tiểu thuyết Đất lửa và Dòng sông thơ ấu và nhiều truyện ngắn. Nhà văn Sơn Nam tái hiện Chuyện xưa tích cũ cùng một số tác phẩm khác cũng từ những hồi ức thuở ấu thơ được nghe người lớn kể về thời khẩn hoang lập làng đánh cọp đuổi sấu ở Nam Bộ. Tự truyện Gió bụi Sài Gòn của Thiếu tướng – nhà văn Bùi Cát Vũ cũng chính là hồi ức tuổi thơ lưu lạc của ông từ Trà Vinh lên thành phố này mưu sinh, chạy chân bán báo rồi viết báo, trước khi dấn thân vào con đường cứu nước. Nhà thơ Bùi Chí Vinh viết bộ truyện 40 tập cho thiếu nhi Ngũ quái Sài Gòn chủ yếu cũng kết nối cảm hứng từ những ký ức thời thơ ấu gian khổ của ông bên bờ kênh Nhiêu Lộc – Thị Nghè. Thành công vang dội của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh với hàng loạt tác phẩm gây sốt với bạn đọc nhiều thế hệ cũng gắn liền với những ký ức đẹp đẽ và sinh động của thời tuổi xanh ở xứ Quảng và Sài Gòn. Và nhiều truyện viết cho thiếu nhi của các nhà văn Lê Văn Thảo, Hoàng Văn Bổn, Minh Quân, Thuỳ An, Kim Hài, Trần Đức Tiến, Khôi Vũ, Trần Quốc Toàn, Trần Hoàng Vy, Lý Lan, Lưu Thị Lương,… cũng từ cảm hứng ký ức ấu thơ.
Trong thi ca Việt cũng vậy. Nhờ từ thuở bé được mẹ ru hời bằng những câu Kiều và lời ví dặm 5 chữ xen lục bát mà nhà thơ Huy Cận đã thấm thấu tinh thần văn hoá và thể thơ truyền thống dân tộc, trở thành người viết lục bát hay hàng đầu thi ca Việt đương đại, đồng thời với tình yêu thiên nhiên và con người mà ông đã được sớm “giác ngộ” để thể hiện nhân văn trong thơ mình. Nhà thơ Lê Đạt viết bài thơ Cha tôi nổi tiếng từ những kỷ niệm đau thương về đấng sinh thành mà tuổi thơ ông chứng kiến ở vùng cao Bắc Giang: “Đất quê cha tôi/ đất quê Đề Thám/ Rừng rậm sông sâu/ Con gái cũng theo đòi nghề võ”, để rồi từ thất bại của cuộc đời người cha mà ông đã đứng lên: “Năm tháng mài mòn/ bao nhiêu khát vọng/ Cha đã dạy con một bài học lớn/ Đau thương/ kiên quyết làm người”. Với nhà thơ Hoàng Cầm, ký ức lãng mạn thuở thiếu thời không chỉ giúp viết nên bài thơ Lá diêu bông bất tử, mà còn bàng bạc trong suốt đời thơ ông, như trong Bên kia sông Đuống thơ mộng và nuối tiếc về một vùng văn hoá Kinh Bắc: “Ai về bên kia sông Đuống/ Có nhớ từng khuôn mặt búp sen/ Những cô hàng xén răng đen/ Cười như mùa thu toả nắng/ Chợ Hồ, chợ Sủi người đua chen/ Bãi Trầm Chỉ người giăng tơ nghẽn lối/ Những nàng dệt sợi/ Đi bán lụa mầu/  Những người thợ nhuộm/ Đồng Tỉnh, Huê Cầu/ Bây giờ đi đâu, về đâu?”.
Nhà văn Bùi Tự Lực tặng sách cho bạn đọc nhỏ tuổi
Bi kịch thời thơ ấu của Bùi Tự Lực
Tôi cũng có một tuổi thơ vừa lãng mạn như nhà thơ Hoàng Cầm nhưng vừa dữ dội, gian khó như nhà văn Nguyễn Quang Sáng và Bùi Cát Vũ. Đó là một tuổi thơ trôi qua trong chiến tranh bi thương ở duyên hải miền Trung, lớn lên trên đôi vai gồng gánh đạn bom của người mẹ đơn độc tảo tần, mà tôi đã ghi lại trong bài thơ Mẹ gánh ước mơ: “Mẹ quảy mẹ chạy/ cắc bụp cắc đùng/ người ngã sau lưng/ người chúi trước mặt/ Tuổi thơ tôi trên thúng gióng tản cư/ mẹ gánh ước mơ chạy qua mùa loạn lạc/ tiếng khóc con thơ/ mạnh hơn/ tiếng gầm đại bác…”. Chính nhờ đó mà mới đây khi ra Đà Nẵng được nhà văn Bùi Tự Lực tặng tự truyện Nội tôi viết về thời thơ ấu gian khổ của anh giữa chiến tranh, tôi đọc trong nỗi nghẹn ngào xúc động, hiểu hơn tại sao tác phẩm này từng được trao giải cao về văn học thiếu nhi và được Nhà xuất bản Kim Đồng tái bản đến 6 lần trong hơn 15 năm qua.
Cha hoạt động cách mạng, bị địch bắt, ra tù tiếp tục bám trụ quê hương chiến đấu ở đất Quảng Nam. Vì hoàn cảnh éo le, để cứu con trai và gia đình chồng bị địch vây hãm, người mẹ đành nuốt nước mắt đi lấy chồng làng bên. Bùi Tự Lực phải sống côi cút nhờ sự cưu mang của bà nội giữa vùng địch tạm chiếm trong hoàn cảnh ngặt nghèo. Bà nội đơn độc làm vườn làm ruộng để nuôi cháu trai, bốc thuốc Nam giúp đỡ bà con hàng xóm, dành dụm thực phẩm tiếp tế cho con trai và cán bộ hoạt động bí mật, nghĩ ra nhiều mưu mẹo nhằm tránh sự theo dõi khủng bố của kẻ thù. Sống thiếu thốn vật chất lẫn tình cảm, Bùi Tự Lực sớm “tự lực” giúp bà nội làm lụng để có cái ăn cái mặc và đi học, dù phải đến trường rất muộn so với bạn cùng lứa. Đến năm 12 tuổi, anh thoát ly làm giao bưu, rồi rời bà nội vượt Trường Sơn ra miền Bắc…
Tập truyện “Nội tôi” của Bùi Tự Lực
Đất nước thống nhất, Bùi Tự Lực trở về quê hương thì bà nội không còn nữa. Bà đã mất tích vào đêm rằm tháng bảy năm 1972. Mười ba năm anh và gia đình ra sức tìm kiếm nhưng vẫn không tìm được tung tích của bà. Thế rồi một ngày ngay tại quê hương làng Bình Trị bỗng nổi lên câu chuyện ma, mà hình ảnh được thuật lại giống như bà nội của anh, đó là bóng bà lão ngồi chải tóc trắng như cước ở cống Bà Xanh vào những chạng vạng tối, vào quán bên đường gõ cửa mua rượu uống, ngâm ngợi lời thơ tuồng “Thoại Khanh – Châu Tuấn”… Anh liền vội về quê cùng gia đình đi tìm hiểu. Khi trở lại cơ quan anh lại nhận được một lá thư lạ vẽ sơ đồ bằng chữ Nho về nơi bà nội được chôn cất. Địa điểm ấy chính là một doi bờ ngay cống Bà Xanh ở Bình Trị. Bà nội bị địch âm thầm thủ tiêu vào ngay buổi chiều rằm tháng bảy bà mất tích, được một người đàn ông trong làng hay tin tìm đến chôn cất tử tế. Vì ngại liên luỵ nên ông giữ mãi bí mật, cho đến khi ở tuổi bát tuần sắp gần đất xa trời ông mới tiết lộ, bắn tin bằng câu chuyện ma và vẽ sơ đồ gửi cho Bùi Tự Lực.
Hài cốt bà nội được cải táng về nghĩa trang gia tộc. Nhà nước truy tặng bà là liệt sĩ và phong Bà mẹ Việt Nam anh hùng ngay đợt I. Đó là cụ Lê Thị Đỉnh, một trong những người phụ nữ nổi tiếng của xứ Quảng thời chiến tranh chống Mỹ, như nhà văn Bùi Tự Lực tự thuật trong truyện Nội tôi: “Cuộc đời bà hiện hữu giữa đời thường, với những việc làm rất thực, như mơ và có những điều tưởng như huyền thoại: Chuyên cần tích góp để mà dâng hiến, hy sinh; dồn nén đau thương để bùng nổ căm giận; đa mưu kỳ xảo để giữ lòng tận tuỵ thành tâm… Trong bà nội vô hình có một ranh giới cực kỳ mong manh giữa bao nhiêu nghịch lý: Tỉnh táo với say sưa, chuyện đời với truyền thuyết, loạn trí với tĩnh tâm, tiếng chửi rủa oán thù cay nghiệt với lời ru mênh mang giữa đất trời… và có một điều gì đó phi thường – Già cỗi, đơn phương, trắng tay mà đầy uy lực trước kẻ thù”.
Mấy mươi năm chiến tranh trên đất nước này xuất hiện rất nhiều người phụ nữ như cụ bà anh hùng Lê Thị Đỉnh. Trong đau thương bà may mắn có được người cháu trai Bùi Tự Lực trải qua tuổi thơ bất hạnh đã trở thành người cầm bút tái hiện lại hình ảnh xúc động về bà nội mình. Chính từ bi kịch mà con người lớn lên, và với Bùi Tự Lực cũng chính từ bi kịch thời thơ ấu đã giúp anh viết nên câu chuyện day dứt lòng người. Một lần nữa ký ức tuổi thơ đã trở thành bệ phóng cho trang văn, bởi nếu không trải qua thời thơ ấu với bà nội trong hoàn cảnh khắc nghiệt thì cuộc đời người thầy giáo hiệu trưởng và phó giám đốc kho bạc huyện ở xứ Quảng là Bùi Tự Lực có thể đã chuyển sang một hướng khác.
2/5/2020
Phan Hoàng
Theo https://vanhocsaigon.com/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Khu ổ chuột Những ngôi nhà dột nát… Những thân hình dặt dẹo… Những bóng đèn tù mù… Những con đường quanh co không lối thoát… Một góc H...