Ông Cử
CHƯƠNG 1
Ở sát một bên kinh thành Sài Gòn, lại nhờ mấy năm lúa gạo cao
giá làm cho cuộc kinh tế đâu đâu cũng thạnh phát, nên miệt Phú Nhuận mở-mang
mau lẹ, ngày nay dân cư đông-đảo buôn-bán xôn xao xe hơi, xe điển rần rần, nhà
gach phố lầu chớn chở.
Mà cách mười mấy năm trở về trrước thì Phú-nhuận bất quá là
môt làng trộng trộng của tỉnh Gia-Ðịnh vậy thôi. Tưy trong làng có một cái chợ
kêu là chợ Xã Tài, ở dựa bên đường xuống Cầu Kiệu, song cái chợ ấy leo-heo mỗi
buổi sớm mai bạn hàng nhóm thưa-thớt một lát mà bán cá, tôm, rau, thịt sơ sịa
cho bình-dân ở chung-quanh dùng hàng ngày, chớ không có món chi ngon, không có
đồ chi quí. Dọc theo đường xuống Cầu Kiệu thì có năm ba tòa nhà ngói nền đúc,
rào sắt coi sạch-sẽ mỗi chặn xa xa có môt tiệm chệt bán đồ tạp-hoá giống như
các tiệm ở theo mấy chợ nhà quê còn bao nhiêu thì là nhà lá, hoặc phố lầu hay
phố ngói mà vách ván cũ mèm cất chen lộn với nhau coi dơ-dáy mà lại không thứ-tự.
Hạng dân ở trong mấy nhà lá và phố cũ đây thường thường là:
1) Những người chủ xe kiếng hoặc xe song mã, sắm xe ấy để mỗi
ngày đem xuống chọ Bến Thành mà đưa hành-khách;
2) Những thợ hồ, thợ mộc, thợ nguội, thợ sơn, cùng tiểu-công,
làm ăn tiền ngày hoặc tiền tuần trong các sở, hãng dưới Sài-gờn;
3) Những người mua bán hàng bông mỗi bữa lên vườn mua trái
cây, bầu, bí, rau cải, gánh xuống chợ Bến Thành mà bán ;
4) Những bồi bếp ở dọn phường hoặc đi chợ nấu ăn cho Tây.
Lại còn có một hạng người nữa - hạng nầy đông hơn hết - ấy là
lạng người không nghề-nghiệp nhứt định, đàn-ông có, đàn-bà có, làm ngày nào ăn
ngày nấy, gặp việc gì thì làm việc ấy, việc phải cũng làm mà việc quấy cũng
làm.
Ðám bình-dân lao-khổ nầy thường thường ban ngày rảo đi mỗi
người một nơi, đi theo nghề nấy mà làm ăn, đến chiều tối mới trở về mà phần nhiều
thì ghé quán chị Năm Tiền mà ăn uống.
Cái quán cơm của chị Năm Tiền đây dọn trong hai căn phố ngói
cũ, vách ván, cửa day qua hông chợ Xã Tài. Bởi bề ăn ở của dân trong chợ như vầy,
nên quán buổi sớm mai thường thưa khách còn buổi chiều lại đông đầy, làm cho
Năm Tiền là một người goá chồng phải quay mòng-mòng với hai đứa con, một đứa
gái chừng 20 tuổi với một đứa trai 15 tuổi, có bữa mẹ con bán tới 9 giờ tối mới
rảnh đưọc.
Một bữa chúa-nhựt, thợ cùng tiểu-công các sở, các hãng đều được
nghỉ nên giờ ăn cơm trưa, tựu mhau lại quán của chị Năm Tiền gần vài mươi người
mà ăn uống. Có người vì không có vợ con, nên không đi nấu cơm, có ngưới tuy có
vợ song vợ mắc buôn gánh bán bưng, nên lại quán mua cơm ăn cho tiện mà có người
trong nhà có vợ sẵn, vợ đã lo cơm nước cho mà cũng lại quán mua rượu uống rồi
làng-nhằng đển một hai giờ đồng-hồ cũng chưa dứt.
Chị Năm Tiền ngồi tại bếp mà kho nấu. Ðứa con gáí, tên là con
Cưởng, thì lo bới cơm múc cá không hở tay. Còn đứa con trai, tên là Cu, thì
lăng-xãng lo bưng dọn.
Bàn nầy hai ba người ngồi ăn cơm, tuy gạo không được trắng, đồ
ăn không có gì, song ăn coi ngon quá.
Bàn kia năm ba người ăn rồi, nên ngồi chơi người hút thuốc, kẻ
xỉa răng, nói chuyện om-sòm, chưởi thề vang rân, coi tự-do mà lại tự-đắc lắm,
Phía trong có một tốp chừng mười mấy người, dụm nhau lại trên một bộ ván nhỏ mà
đánh bài cào, đàn-ông có, đàn-bà có, con trai có, con gái có, lời qua tiếng lại
cãi-cọ inh-ỏi. Chị Năm Tiền đang xới nồi cơm, chị nghe rầy lộn(#1) thì day vô,
tay cầm đũa bếp và chỉ và nói rằng: „Nè tôi lập quán đặng buôn-bán, chớ không
phải lập ra cho mấy người tựu bài bạc rồi rầy lộn đa. Cha chả! Bộ đánh bài có
mua thuế hay sao mà lên chữ dữ vậy hử! Dẹp đi, nếu cãi tôi, đố khỏi tôi kêu
lính bắt hết cả đám cho mà coi“.
Hai Cao, làm cu-ly trong nhà thuốc đường Catinat, nghe chị
Năm Tiền rầy, thì bỏ sòng bàỉ, xốc-xốc đi ra mà nói rằng: „Con Lãnh ngang quá
mà không rầy sao đặng. Chị Năm nghĩ coi: nó làm cái, mình đặt trên một cắc dưới
năng xu. Nó hô tám rồi đùa hết hai tụ. Tôi xét bài, té ra nó bảy, chớ không phải
tám; mà biểu nó trả tụ dưới lại, nó không chịu trả. Chơi xấu như vậy thì chơi với
chó, chớ ai thèm chơi nữa“.
Con Lãnh xốc lại xỉa ngay mặt Hai Cao mà nói làng: „Tao chơi
với mầy! Sao mầy đàm nói tao chơi với chó? Ớ thứ đồ ngu, khéo nói bậy! Muốn xét
bài thì hồi ta để xuống đó sao không xét đợi nhập bài rồi xét cái gì !“.
Hai Cao giận đỏ mặt, hất tay con Lãnh mà nói rằng: „Mầy muốn
làm phách với tao hả? Tao chẻ đầu mầy cho mầy coi. Thứ đồ đĩ thúi! ...
Con Lãnh nhảy dựng mắng rằng: „Mẹ mầy con đĩ, bà nội mầy con
đĩ, chớ ai đĩ. Ðây, mầy giỏi chẻ đâu tao thì chẻ thử coi. Mầy chẻ không được
thì tao chẻ đâu mầy lại“.
Ba Cam, là chồng con Lãnh, làm thợ nguội ở sở Ba-Son nóng
lòng nên bước lại xô Hai Cao mà hỏi rằng: „Cao, sao mầy dám kêu vợ tao là con
đĩ. Nó làm đĩ hồi nào mầy phảỉ chỉ ra. Mầy ăn thua với đàn-bà có giỏi gì đâu.
Như mầy là anh-hùng, thì bước ra cho khỏi quán chị Năm, rồi nói chuyện với
tao“.
Hai Cao nói: „Mầy muốn binh vợ hả? Ðược mà. Mầy muốn chơi với
tao thì tao sẵn lòng“.
Hai đàng thách-đố với nhau, quyết đánh lộn. Trong quán ai nấy
tựu đứng vây chung-quanh mà coi làm cho có vẻ náo- nhiệt lắm. Trong lúc lộn-xộn
ấy, thình-lình có một người vỏc cao lớn mặt trắng-trẻo tuổi chưa quá 50, mà râu
tóc đã bạc hoa râm, râu hàm dưới để dài hàm trên chuốt ngạnh trê, tóc hớt điệu
ma-ninh(#2) đầu đội nón xám, mình mặc áo bành-tô(#3) bố xám, quần vải đen mới
chơn mang guốc, tướng-mạo phương-phi, bộ đi nghiêm-chỉnh bước vô quán hỏi lớn rằng:
„Làm cái gì chộn-rộn đó? Muổn đánh lộn hay sao? Ai rầy với ai đó vậy hử?“
Ai nấy ngó lại đồng nói: „Ông Cử, ông Cử“ rồi dang ra hết, để
có Hai Cao với vợ chồng Ba Cam đứng đó mà thôi.
Chị Năm Tiền nói rằng: „Hai Cao với vợ Ba Cam đánh bài, rầy lộn,
rồi muốn làm dữ với nhau đố. Ông xử giùm chút ông Cử“.
Người mà ai nấy kêu là „Ông Cử“ đó đứng ngó Hai Cao với vợ chồng
Ba Cam rồi chau mày nói chẫm-rãi rằng: „Bây có cái tài làm bậy vậy hoài! Qua
thường nói với em út, mình ở một chỗ như con một nhà, nếu có việc gì xích-mích
thì lấy lời hòa-nhã mà phân-trần cùng nhau, rầy lộn với nhau, rồi bị còng bị bắt,
ở tù ở rạc, hay-ho gì mà tranh đấu“.
Ông Cử nóỉ dứt lời rồi kéo ghế ngồi dựa một cái bàn. Hai Cao
với vợ chồng Ba Cam áp lại, ai cũng muốn giành nói trước.
Ống Cử lắc đầu, khoát tay nói rằng: „Không đưoc. Giành nói lộn-xộn,
ai cũng muốn được phần phải tôi biết đâu mà nghe. Thôi, để tôi hói thằng Cu mới
công-bình. Cu a, chuyện sao mà sanh gây gổ, đâu cháu nói lại rõ-ràng cho bác
nghe thử coi.
Thằng Cu là con chủ quán, bước lại nói rằng: „Anh Hai Cao
đánh bài-cào vợ mấy người kia. Chị Ba Lãnh cũng xen vô đánh nữa. Tơi quận chỉ
làm cái, anh Hai Cao đặt trên một cắc dưới năm xu. Chỉ coi bài rồi hô tám, nên
dùa(#4) hết hai tụ. Anh Hai Cao xét bài thì có 7 nút, chớ hổng phải 8; ảnh đòi
5 xu tụ dưới lại. Chị Ba Lãnh không chịu trả, hai đàng cãi-cọ rồi gây lộn. Anh
Hai Cao mắng chị Ba Lãnh là đồ đĩ-thúi. Chỉ không nhịn, chỉ chửi lại. Anh Ba
Cam binh vợ vô gây nữa, hai đàng thách-đố muốn đách nhau. Chuyện như vậy đó
không có chi nữa hết“.
Ổng Cử lóng tai nghe rõ đầu-đuôi, rồi cười và nói với ba người
gây lộn đó rằng: „Dữ hồn! Cỏ 5 đồng xu mà đến nỗi mắng chửi với nhau, may hôn
đã lỗ đầu, hoặc đổ ruột không bỉết chừng, rồi có kẻ ở tù hoặc bị đày nữa. Em út
hổng nghe lời qua, thiệt qua buồn quá! Mình là bọn nghèo-khổ, nhiều khi đói
không có cơm mà ăn, đau không có thuốc mà uống. Làm có dư một, hai đồng thì để
dành, phòng khi không có công việc làm, hoặc khi đau ốm, có sẵn tiền nuôi thân.
Sao có đồng tiền lại bài bạc chi vậy. Ngồi vô sòng thì mong ăn người ta, còn
quên tính cái thua. Nếu thua rồi thì lấy gì mà nuôi vợ con, lấy gì ăn cơm mà
làm việc. Mà dầu mình ăn đi nữa, lại vui-sưóng gì. Nội đây em-út đều nghèo hết
thảy. Ví như có một đứa ăn, còn 5 đứa thua, đứa ăn đó đành hớn-hở lấy tiền mà để
cho năm đứa thua kia nhịn đói hay sao? Qua nói lần nầy là lần chót, qua không
muốn cho em út đánh hàì bạc với nhau nữa. Còn cái việc vợ chồng Ba Cam rầy lộn
với Hai Cao lại còn quấy nhiều hơn. Sá gì 5 đồng xu mà gây-gổ gần móc họng với
nhau hử? Ví như con Ba nầy có hụng xấu ăn gian 5 xu, thì thằng Hai mầy cười mà
bỏ cho nó mắc cỡ, hoặc đi mét với chồng nó cũng đựơc, chớ cần gì phải gây. Còn
thằng Ba nầy có vợ mà không biết xử. Khi hai đàng mới gây nhau, mấy phải nghĩ một
đàng là vợ một đàng là anh em mà phân-giải một chút cho rồi chớ sao lại để cho
tới mắng chửi nhau, rồi mầy xen vô mà cự với thằng Hai nữa. Quấy hết thảy, cả
ba đứa rầy lộn đều quấy cả, mà hết thảy em út ở trong quán nầy cũng đều quấy cả,
bởi vì ba đứa nó có nóng-nảy sanh ra rầy, sao anh em muốn cho ba đứa nó giập đầu
chảy máu, rồi bị còng bị bắt, đặng anh em coi chơi cho vui chăng?
Ai nấy đều gục mặt nín khe, không biết lấy lời chi mà đối-đáp.
Ông Cử móc túi lấy ra 5 đồng xu để trên bàn mà nói: „Thằng
Hai Cao nói con Ba Lãnh ăn gian 5 xu, thôi qua thường cho đó, đừng có rầy rà với
nhau nữa.“
Con Ba Lãnh động lòng liền móc túi lấy 5 xu ra mà nói rằng:
„Ông là cô bác, ông phân xử như vậy cháu phục lắm. Thiệt không phải cháu ăn
gian; mà thôi, để cháu trả tiền lại cho anh Hai Cao, chớ ông có ăn thua gì đâu
mà ông phải thường“. Ba Lãnh lại day qua đưa 5 xu cho Hai Cao và nói: „Tôi trả
tiền lại cho anh đó. Phải hồi nãy anh nói tử tế tôi trả liền. Tại anh ào-ào rồi
lại mắng tôi là đồ đĩ thúi nên tôi mới nổi nóng chớ“.
Hai Cao lấy 5 xu và cười và nói: „Ông Cử nói, mình biết tụi
mình bậy hết thảy. Thôi, đừng giận hờn chi nhau, mà từ rày sắp lên cũng đừng đứa
nào bày đánh bài nữa“.
Ba Cam bắt tay Hai Cao rồi dắt nhau lại ngồi nơi bàn để dựa
vách.
Người mà nãy giờ bọn ở trong quán kêu là „Ông Cử“, phân-xử cuộc
rầy lộn một cách rất êm-ái, làm cho kẻ nóng phải nguội, kẻ dữ phải hiền, kẻ giận
phải cười, kẻ quấy biết lỗi đó, chẳng phải là „ông“ gì hết. Ấy là một người thợ
sơn, làm việc tại hãng Tao-Trúc, chuyên nghề sơn nhà, sơn cửa, sơn vách, sơn
rào vậy thôi và ăn tiền một ngày được 1 đồng.
Ông ấy mướn một căn phố lá ở phía trên, cách chợ chừng 50 thước.
Ông không có vợ, không có con, nhưng có một người ở đậu tên là Ba Sang, làm nghề
ăn bán dạo, mỗi ngày mang một giỏ mây, xuống tiệm nào ở ngang chợ Bến Thành đó
không biết, lãnh xà-bông thơm, dầu thơm, phấn đánh răng, phấn giồi mặt, bàn chảỉ,
vớ, dây nịt, mu-soa, mang đi các nẻo đường đến từ nhà mà bán. Ở nhà không ải nấu
cơm, ông đi làm, trưa ăn cơm ở dưới Bến Thành, nhưng mỗi buổi chiều và ngày
chúa nhựt thì ồng ăn tại quán chị Năm Tiền.
Ông đến chợ Xã Tài đã hơn 8 năm rồi, mà không ai biết ông tên
họ gì, gốc gác ở đâu. Nhơn ông ấy biết nghề võ, già rồi mà sức hãy còn mạnh,
ông biết chữ An-nam biết chữ quốc-ngữ và lạỉ biết nói tiếng Tây chút đỉnh, ông
biết thương xót và bênh vực kẻ nghèo, ông hay giúp-đỡ người bị tai-nạn, ông thường
hay dạy-dỗ kẻ khờ dại, ông ưa can dứt đứa hung-hăng, trong chợ ai cậy ông viết
thơ ông cũng viết, ai cậy ông làm đơn ông cũng làm, trong đám dân nghèo ở
chung-quanh chợ Xă Tài, duy có một mình ông thông-minh, hay chữ, đứng đắn, lại
hòa-nhã, nên hồi trước người nào đó, có tánh giễu cợt, mới kêu đùa ông là „Ông
Cử“ rồi truyền tụng lâu ngày hai tiếng ấy thành tên của ông, mà ông cũng vui
lòng nhận lãnh cái tên ấy, không phiền không giận chi hết.
Bữa nay ông xử êm được đám rầy lộn đó, ngồi vuốt râu mà cười,
bộ đắc chí. Con Cưởng, là con gái của chủ quán, bước ra hỏi ông rằng: „ Ông đói
bụng hay chưa, đặng tôi dọn cơm cho ông ăn?“ Ông lắc đầu và đáp: „Chưa đói! Chờ
một lát nữa thằug Ba Sang về rồi cháu sẽ dọn ăn luôn một hiệp cho khỏi thất công“.
Trong lúc ấy có một người đàn bà bước vô quán đứng ngó
giáo-giác, thấy ông Cử, bèn xốc-xốc đi lại gần, móc túi lấy ra một phong thơ,
miệng cười ngỏn ngoẻn và nói „Tôi được cái thơ nầy, ai gởi không biết xin ông
làm ơn đọc gìùm tôi coi thơ nói giống gì vậy“.
Ông Cử cầm phong thơ coi ngoài bao và con cò nói thơ ở Tân-an
gởi, rồi xé bao lấy ra một bức thơ mà đọc như vầy:
“Gởi lời cho con hay. Má con đau nhiều lắm, chuyến nầy sợ qua
không khỏi. Ðau đã hơn 10 ngày rày, ăn cơm ăn cháo gì cũng không được. Tía có
rước thầy Tý coi mạch, ngặt không tiền hốt thuốc, nên không biết làm sao. Dưới
nầy bà con ai cũng nghèo quá, nên khôug biết cậy mượn ai, Nếu con có tiền, đem
về tía mượn vài đồng bạc đặng tía chạy thuốc cho má con, tới đâu hay tới đó chớ
biết sao. Chừng lúa chín tía gặt, có lúa rồi sẽ trả lại cho con xài“.
Người đàn-bà nầy, tên Ta Thời, bán rau cải ngoài chợ. Chị ta
nghe đọc thơ rồi thì hai hàng nước mắt chảy ròng-ròng, lấy thơ xếp bỏ vô túi,
mà đứng trân-trân không đi được.
Ông Cử thấy người bi-ai bối-rối, ông động lòng, nên hỏi:
- Bà già em năm nay được mấy mươi ?
- Thưa, sáu mươi lăm.
- Ở đâu vậy ?
- Thưa, ở gần Kỳ-sơn.
- Em đi xe lửa xuống Tân-an rồi mướn xe ngựa về được. Em đi
chuyến xe trưa đây thì bốn năm giờ chiều em sẽ về tới nhà. Thôi, em về sửa-soạn
mà đi cho sớm đi.
Tư Thời đứng lặng thinh một hồi rồi nói:
- Có một đồng bạc đi xe tiêu hết thì còn gì chạy thuốc?
Chị ta bệu-bạo, lấy vạt áo lau nước mắt, rồi thủng-thẳng bước
ra cửa. Ông Cử kêu lại mà nói rằng: “Em không có tiền thôi để qua cho em mượn
hai đồng bạc”. Ông nói xong liền móc bóp lấy ra 2 đồng bạc mà đưa cho Tư Thời.
Tư Thời ngồi bẹp xuống đất lạy ông mà tạ ơn, ông cản hết sức cũng không được.
Tư Thời lấy hai đồng bạc ra đi; những người trong quán bàn
bàn luận luận, người nói chắc chị ta về kịp, kẻ sợ bà chịu không nổi tới bữa
nay, kế Ba Sang xợt-xợt bước vô, hỏì ông Cử chờ lâu hay mau và hối con Cưởng dọn
cơm ăn kẻo đói bụng.
Trong bếp lửa cháy đỏ lòm; chị Năm Tiền đổ giá vô chảo mà
chiên tiếng nghe xèo-xèo. Con Cưởng lau chén dọn cơm miêng cười chúm-chiếm.
Khách trong quán kẻ đứng người ngồi, đầu nầy cười, đầu kia nói, tiếng nghe
không dứt.
Ba Sang, là người mới vô đó trạc chừng 25, 26 tuổi mặc một bộ
đô An-nam bằng vải trắng, chơn mang guốc, đầu đội nón tây trắng mà cũ đến đỗi
rách, nước da tuy đen, song gương mặt vui-vẻ. Ba Sang ngồi chung một bàn với
ông Cử, ngó vòng trong quán, chào người nầy kêu người nọ, miệng cười hoài. Anh
ta ngó quanh-quất rồi kêu một người ngồi gần cửa mà hỏi rằng: “Anh Sáu Hi, anh
kiếm chỗ làm được chưa ?” Sáu Hi bước lại gần nói; „Hổm nay đi cùng hết mà kiếm
cũng chưa được chỗ nào. Tôi tức quá Cặp rằng kiếm chuyện đuổi tôi, đặng đem thằng
kia vô mà ăn tiền chớ có gì đâu. Tôi muốn cậy ông Cử làm giùm cho tôi một lá
đơn đặng tôi thưa nó. Nó đem người ta vô để nó ăn một tháng lương đầu, rồi nó
kiếm chuyện đuổi mình, có dễ tức không?“.
Ông Cử cười và hỏi:
- Cặp rằng đó tên gì ?
- Cặp-rằng Lương.
- Em nói nó đuổi em đặng đem người khác vô ăn tiền, vậy mà em
có bằng-cớ chi chăng?
- Trong sở ai cũng biết hết. Hồi đó tôi cũng vây. Mới vô lãnh
tháng lương đầu tôi phải đưa hết cho nó.
- Phải có chứng-cớ, mới tố-cáo người ta được.
- Có chứng-cớ. Thằng vô thế cho tôi đó có nói với thằng Sô rằng,
cặp-rằng Lương đem nó vô, nó phải chịu hết một tháng lương. Thằng Sô chịu làm
chứng giùm cho tôi luôn.
- Nếu thằng Sô chịu làm chứng thì được. Thôi, để tối em lại
nhà, rồi qua viết đơn giùm cho.
Có một người ở trần, nghe ông Cử hứa làm đơn giùm cho sáu Hi
cũng bước lại nói: “Ðể tối tôi mua giấy đem lại rồi ông làm ơn viết giùm cho
tôi một bức thơ đặng tôi gởi về thăm vợ tôi và hỏi coi nó nằm chỗ hay chưa
nghe”. Ông Cử gặc đầu đáp: “Ðược, tối em lại qua viết cho”.
Con Cưởng bưng mâm cơm ra, ông Cử với Ba Sang ngồi ăn nói
chuyện vui-vẻ lắm. Ba Sang nói với ông Cử rằng:
- Bữa nay nghỉ mà trời tốt, chú có đi chơi đâu hay không?
- Không.
- Thôi ăn cơm rồi, hai chú cháu mình thả xưống chợ Bến Thành
chơi.
- Ði chơi thì chú ưa đi lên vườn, lên rẫy chớ chú ít xuống chợ
lắm.
- Lên trên rẫy mà chơi giống gì ?
- Coi họ trồng-tỉa ngộ chớ!
- Chú đi trên rẫy hoài, bữa nay đi với cháu xuống chợ chơi một
bữa mà. Nếu chú không đi, cháu buồn lắm .
- Nếu cháu muổn thì chú đi với, song chú nói trước, đi coi vườn
thú thì được, chớ chú không chịu xuống Bến Thành.
- Ðược. Thôi đi xuống vườn thú chơi.
Ăn cơm rồi hai người dắt nhau đi, Tuy đã nhứt định đi coi Vườn
thú rồi về, xong xuống tới đó coi cùng vườn rồi, Ba Sang theo nài-nỉ hoài, ông
Cử phải đi luôn ra đường Catinat. Ðến trước rạp hát Tây thấy có một cái băng trống
hai người mới ngồi lại mà nghỉ chơn.
Lối 2 giờ rưỡi chiều, lại nhằm mùa mưa, nên mặt trời ui-ui,
khí trời mát-mẻ. Hai người ngồi coi đoàn xe hơi qua lại, cái thì chở khách mặt-mày
hớn-hở, cái thì chở khách bộ-tịch buồn hiu, nghe bọn kéo xe luận-đàm, đứa thì có
tiền no đủ, nói nói cười cười, đứa thì kiếm chưa đủ tiền xe nên than phiền số-phận.
Cách một lát có một đứa nhỏ ở phía dưới mé sông đi lên, tay lắc
chuông kêu leng-keng, vai vác một tấm bảng đỏ lói, đi tới cái băng chỗ ông Cử
và Ba Sang ngồi, đứa nhỏ ấy dựng tấm bản một bên, rồi ngồi gần Ba Sang mà nghỉ
chơn. Ba Sang không biết chữ, không hiểu tờ giấy đỏ dán trên tấm bảng ấy nói
chuyện gì, nên vỗ vai thằng nhỏ mà hỏi: „Em rao bán giống gì vậy em ?”
Thằng nhỏ cười đáp „Trời ơi, anh nầy quê quá” Bảng rao hát cải
lương chớ bán giống gì.” Anh không thấy hình đó sao? Hình đó là hình cô đào nhứt
trong gánh, tối nay thủ vai Bàng Quí-Phi cụp lắm .”
Ba Sang vói lấy tẩm bản, cầm coi cái hình, khen cô đào xinh-đẹp,
rồi kêu ông Cử mượn đọc, coi những hàng chữ in ở trên cái hình đó nói giống gì
vậy.
Ông Cử không nỡ tiếc công lại cũng muốn biết cái bảng rao hát
tuồng gì, nên ông liền cầm tấm bảng mà đọc như vầy.
“Hát tại nhà hát thành-phố Saigon
Tối chúa-nhựt l6 Aout 19. . .
Ban hát cải-lương Sắc-Thinh đi Lục tỉnh mới về
Sẽ diễn tuồng „Xử tội Bàng Quí-Phi“
Cô Sáu Hảo thủ vai Bàng Quí-Phi xuất-sắc
Hay lắm! Hay lắm!
Ông Cử đọc tới câu: “Cô Sáu Hảo thủ vai Bàng Quí-Phi xuất-sắc”,
thì bộ ông ngần-ngại, ông đọc nho-nhỏ, mặt chăm chỉ ngó phía dưới.
Ba Sang hỏi: „Cô đào thiệt là lịch-sự, chú hả?”. Ông Cử không
trả lời, ông cứ nhìn cái hình hồi lâu, rồi ông trả tấm bảng cho thằng nhỏ và ngồi
thở ra.
Thằng nhỏ vác tấm bảng mà đi tay lắc chuông leng-keng. Ba
Sang ngó theo, vừa cười vừa nói: „Cô đào đó thật là đep, chớ chi cho tôi được gần
cô một đêm, rồi ở đợ tới già tôi cũng chịu nữa.
Ông Cử ngó xuống đất, bộ buồn lắm. Chừng ông nghe Ba Sang mơ
ước như vậy, ông ngước mặt lên mà nói rằng: „Cháu còn nhỏ, chưa từng trải việc
đời nên cháu mơ ước việc kỳ quá. Ở đời việc gì cững vậy hễ có tốt thì tự nhiên
có xấu. Cháu nghĩ đó mà coi, loài người hễ có sanh thì có tử. Cái bông hễ nó đẹp
thì ở trong hay có sâu. Cái bánh hễ muốn làm coi cho tốt thì lại ăn không được.
Còn việc đời cũng vậy, hễ mình vui quá đi rồi thì sao cũng có khi buồn. Ấy vây,
mọi việc gì mình cũng nên đề phòng. Cháu thấy hình đào hát cải-lương đó cháu
khen đẹp. Cô đẹp thiệt, mà cách mười năm trước cô còn đẹp hơn nhiều nữa đa cháu
; một trận cười của cô phải tốn một hai ngàn đồng, người ta cũng không tiếc. Ngặc
vì cái đẹp đó có giấu một cái hại ở trong, cái hại lớn vô cùng, cái hại khốn-nạn
là tại nó trà-trộn với cái đẹp làm cho mình không thấy nó được, đến chừng ngó
thấy thì đã trễ rồi, không thể trốn-tránh cho khỏi. Chú nói đây là do chỗ chú
đã kinh-nghiệm rồi mà chú nói, chớ không phải chú ăn cắp những câu luân-!ý
trong sách đặng đem ra mà khuyên-răn hay hăm dọa cháu đâu. Chú có gần cô đào
Sáu Hảo đó hết mấy tháng. Tại chú thấy cô, chú mơ ước như cháu, nên chú gần cô,
mà ngày nay thân chú mới ra nỗi nầy … ”.
Ông Cử luôn trớn, nói lỡ việc riêng của ông ra rồi coi bộ ông
ăn-năn, nên ông ngừng lại không nói nữa, mà cặp mắt ông ướt rượt.
Ba Sang không rõ tâm-sự của ông, bởi vậy nghe ông nói câu sau
thì anh ta chưng hửng, ngồi ngó sững ông rồi nói rằng : “Té ra chú biết cô đào
nầy à ?”.
Ông Cử ngồi lặng thinh một hồi rồi ngước mặt lên nói rằng :
“Cháu tưởng chú là một tên thợ sơn từ hồi mới lớn lên cho tới bây giờ hay sao?
Việc nhà của chú không vui, nên mấy năm nay chú giấu-giếm không chịu nói ra làm
chi, chớ ngày trước thân chú sung-sướng lắm, có phải như vầy đâu. Hồi trước chú
có vợ, có con, có vườn, có ruộng, có ghe hầu ca-nô, có nhà ngói nhà nghê, chú
là một tay giàu sang không thua ai hết. Chú có một chút lỗi nhỏ, là gần với cô
Sáu Hảo, mà việc nhà chú hư hết rồi thân chú mới hoá ra một anh thợ sơn như vầy
đây. Nói cho công-bình, chú gần cô Sáu Hảo mấy tháng, chú tốn hao với cô chừng
mấy ngàn đồng bạc là nhiều, bởi vậy không nên nói cô làm tán gia bại sản của
chú. Chú phiền là phiền người khác, không thương chú, nên thừa cái dịp đó mà xô
gia-đình chú rời rã, phá sự-nghiệp chú tan-tành, làm cho cha con chú phân-ly,
làm cho thân-danh chú hèn-hạ …” Ông Cử nói tới đó rồi nước mắt dầm dề.
Ba Sang thấy ông đau-đớn về việc nhà cũ quá, anh ta không dám
khêu-gợi thêm ra nữa, nên đứng dậy rủ ông về. Ông Cử lau nước mắt đi theo Ba
Sang, thủng-thẳng trở về nhà, không nói tiếng chi nữa hết.
Chú thích:
(1-) Nói qua nói lại, cãi lộn
(2-) lối hớt tóc ngắn nhưng mái tóc phía trước vẫn để dài,
ngày nay có lối hớt tóc của giới thanh niên ăn chơi cũng tương tự
(3-) (paletot), áo ngắn như áo veste ngày nay, thích hợp cho
đàn ông lẫn đàn bà.
(4-) gom lại
CHƯƠNG 2 -
M
ột buổi chiều kia, cách ngày náo-nức trong quán chị Năm Tiền
đó chừng năm-sáu bữa, có một cái xe-hơi ở phía dưới Cầu Kiệu chạy lên gần tới
chợ Xả Tài, rồi ngừng ngay một dãy phố cũ dựa bên đường. Trên xe bước xuống một
người An-nam, một người chừng 24, 25 tuổỉ, mình mặc một bộ đồ Tây trắng may kiểu
thiệt kim-thời, cổ thắt nơ đen, đầu đội nón nỉ xám, và một người nữa tuổi lối
40, mặt rỗ hoa mè râu hàm trên lún-thún, mặc một cái áo bành-tô vàng bâu đứng với
cái quần lãnh đen mới tinh, chân mang giày sú-đê trắng, đầu đội nón cũng trắng.
Hai người tẽ hai ra, mỗi người đi dọc theo một mép đường mà hỏi thăm nhà ông Cai-Tổng
cựu, tên là Ngô-Minh-Tâm.
Hai người ghé từ nhà mà hỏi, cái xe hơi thủng-thẳng đi theo
sau, trên xe lại còn có một người Tây ngồi với tên sốp-phơ nữa.
Lúc ấy chánh là lúc mãn giờ làm việc nên thầy thợ đi về,
ngoài đường thiên-hạ đông đầy, ai thấy xe hơi có người Tây ngồi, lại có hai người
An-nam kiếm nhà Cai-Tổng Tâm nào đó, thì cũng tưởng là sở mặt-thám kiếm bắt người
phạm tội. Hai người hỏi thăm trong nhà ngoài đường rất kỹ-lưỡng, song chẳng có
một người biết cựu Cai-Tổng Ngô-Minh-Tâm nào mà chỉ.
Lên tới chợ Xã Tài xe hơi ngừng ngay chợ, rồi người Tây leo
xuống hiệp với hai người An-nam mà hỏi thăm. Ba người dòm vô phía hông chợ thấy
trong cái quán của chị Năm Tiền người ta đang ăn uống lăng-xăng bèn men vô đó
mà hỏi.
Khi bước vô gặp Ba Sang đang ngồi ăn cơm tại cái bàn dựa cửa,
người nhỏ mặc đồ tây trắng đó, bèn hỏi: „Nầy anh, người ta nói chắc có thầy
Cai-Tổng cựu tên là Ngô-Minh-Tâm, ở lối chung-quanh chợ Xã Tài nầy đây, sao từ
hồi chiều tới giờ tôi hỏi cùng hết, mà không ai biết. Nếu anh có biết, xin anh
làm ơn chỉ giùm“.
Ba Sang thuở nay không có nghe cái tên người ta hỏi đó song
cũng muốn déo-dắt chơi nên tính hỏi coi người gốc ở đâu, có chuyện gì nhưng anh
ta vừa muốn hỏi, lại thấy có một người Tây với mốt người bận áo bành-tô vàng bước
vô, trong lòng phát nghi nên lắc đầu rồi nói cụt ngủn : „không biết“.
Những người trong quán muốn hiểu coi chuyện gì nên áp lại đứng
vây chung-quanh Ba Sang. Chị Năm Tiền hỏi người bận đồ Tây:
- Thầy hỏi chuyện chi vậy thầy?
- Tôi hỏi thăm nhà ông cựu Cai - Tổng Ngô-Minh-Tâm.
- Ở đây có ông Tổng, ông Xã nào đâu. Nhỏ lớn tôi ở chợ nầy
nhưng tôi không có nghe tên ấy.
- Có mà, người ta nói chắc lắm. Ông Ngô-Minh-Tâm làm Cai-Tổng
hồi trước kia, chớ bây giờ ổng nghèo, ổng vô ở đây không làm Cai-Tổng nữa.
- Thầy kiếm người ấy chi vậy?
- Quan Chưởng-Khế đây, ngài kiếm ổng đặng nói việc nhà của ổng
cho ổng biết, rồi xin ký tên giấy tờ chớ không có chuyện chi lạ.
- Chợ nầy dân lao-động ở, có ông Tổng Tâm nào đâu. Nếu có thì
tôi biết liền.
Ba Sang suy nghĩ rồi hỏi:
- Ông Cai-Tổng Tâm đó chừng bao nhiêu tuổi, gốc-gác ở đâu,
hình dạng ra thế nào?
Người bận đồ Tây trắng day lại ngó người mặc áo bành-tô vàng
và nói:
- Ông ra sao đâu thầy biết thầy nói cho người ta hiểu, chớ
tôi có biết ổng đâu.
Người mặc áo bành-tô vàng bước tới nói rằng:
- Tôi với ông Cai-Tổng Tâm không gặp nhau cũng đã hơn 10 năm
rồi, nên hình dạng tôi biết hồi trước đó chắc là bây giờ đổi khác nhiều. Ông
vóc-vạc cao lớn, nước da trắng-trẻo, hồi trước ổng thường để râu mép chuốt ngạnh
trê, tướng-mạo phương-phi, ăn nói nghiêm-chỉnh lắm. Ồng người gốc Mỹ-tho, chữ
nghĩa giỏi, biết nói tiếng Tây, lại biết nghề võ nữa. Anh em có biết ở đây có
người nào giống hình-dạng như vậy hay không? Người ta nói chắc ông ở gần chọ
đây, làm thợ gì đó không biết.
Hai Cao đứng sau lưng Ba Sang, vùng cười lớn va hỏi rằng:
- Làm thơ sơn phải hôn? Trời ơi! Anh nầy ảnh trạng hình coi
giống ông Cử của mình quá.
Ba Sang day lại trợn mắt ngó Hai Cao. Chị Năm Tiền cũng vọt
miệng mắng:
- Thằng đó không biết gì hết, mà xem vô nói bậy hoài. Ông Cử
gì mà kỳ vậy!
Hai Cao bị trợn, rồi còn bị mắng nữa hội-ý biết mình nói sai
đề, bèn bước dang ra xa, kéo ghế mà ngồi. Ba Sang liếc chị Năm Tiền rồi nói với
mấy người lạ đó rằng: „Theo hình dáng của ông Tổng Tâm mà hai thầy mới nói đó,
thì tôi biết dường như phía dưới kia in là(#1) có một người giống-giống một
chút. Mà hai thầy kiếm ông Tổng Tâm có việc chi, hãy nói thiệt cho tôi nghe rồi
tôi giúp tôi kiếm giùm cho, chớ nếu nói giấu thì tôi có biết sao đâu mà tôi kiếm“.
Người mặc áo tây trắng bước ra ngoài đứng nói chuyện với người
Tây ít câu rồi trở vô nói với Ba Sang rằng: „Quan-Chưởng-Khế biểu tôi nói với
anh đừng có nghi-ngại gì hết, chúng tôi không phải cò lính gì đâu mà sợ. Quan
Chưởng-Khế đó, An-nam mình kêu là Nô-Te, anh biết hôn? Tôi đây là thông-ngôn của
Ngài. Còn thầy đi với tôi đây là người hồi trước làm biện cho ông Tổng Tâm, dắt
chúng tôi đi kiếm ổng đặng chỉ ổng cho chúng tôi biết mặt thôi. Số là ông Cai-Tổng
Tâm hồi trước có vợ sanh được một người con gái, khi vợ chồng để bỏ nhau, Tòa
giao con cho người vợ ông nuôi. Bây giờ con ông lớn khôn, chồng đi nói, song luật
buộc phải có ông đứng gả mới được. Quan Nô-Te đi kiếm ông đặng nói chuyện đó với
ông và xin ông ký tên giấy tờ đặng làm đám cưới, chớ không phải bắt buộc ông về
chuyện gì. Xin anh em đừng ngại, biết ông ở đâu cứ chỉ ngay ra làm ơn giùm cho
ông“.
Chị Năm Tiền nói : „Tưởng chuyện gì kìa, chớ chuyện đó thì kiếm
có lẽ được mà“.
Ba Sang trợn mà ngó chị Năm Tiền, rồi nói với thầy thông-ngôn
rằng: “Xin thầy bẩm lại với quan Chưởng-Khế tôi có quen một người hình-dạng giống
ông Cai-Tổng Tâm đó lắm, ngặt vì
bữa nay người ấy đi khỏi. Vậy xin chiều mai, lối 6 giờ hoặc 6
giờ rưỡi, thầy với quan Chưởng-Khế trở lại đây, tôi sẽ kiếm người ấy dắt lại
cho giáp mặt coi có phải hay không?”
Thầy thông-ngôn bước ra trả lời với quan Chưởng-Khế rồi trở
vô nói rằng : “Quan Chưởng-Khế cám ơn anh tắm, và xin anh làm ơn kiếm giùm người
ấy rồi chiều mai dắt lại quán nầy mà chờ ngài, đúng 6 giờ rưỡi sẽ có ngài lên
không sai”. Thầy thông từ-giã rồi hiệp với người mặc áo vàng đi theo quan Chưởng-Khế
ra xe hơi mà về.
Ba Sang kêu thằng Cu biểu rót cho một chén nước trà uống rồi
đứng dậy muốn đi về.
Khách đi xa rồi, Ba Sang mới nói rằng: “Anh Hai Cao dại quá!
Mình không biết chuyện gì, vụt hô “ông Cử” om-sòm, chúng bắt ổng, rồi làm
sao?“.
Hai Cao nói: “Tụi nó nói hình dạng nghe giống ông Cử của mình
quá, ta chẳng nói ông Cử”.
Ba Sang đáp : “Tôi với chị Năm cũng biết vậy song để gạn đi gạn
lại coi đã chớ, nói bậy mang họa chớ chơi sao. Nó nói đám cưới đám hỏi gì đó,
mà tôi cũng không dám tin. Tuy có ông Cử nằm đằng nhà, mà tôi còn nói với nó đặng
nó về cho tôi hỏi lại ông Cử coi đã. Nếu chuyện nó nói hồi nãy mà thiệt có như
vậy thì mai mình cho ông Cử ra cho nó nói chuyện. Còn như nó sắp mưu mà thộp
ông Cử, thì mình kiếm thế giấu ông luôn cho yên. Ở đời mình phải cho khôn mới
được chớ”.
Chị Năm Tiền cười va nói: “Thằng Ba mầy lanh thiệt. Tao khen
mầy lắm. Thôi về nói chuyện cho ông Cử nghe coi phải họ kiếm ông đó có hại gì
hay không?”
Chiều bữa nay ông Cử không ăn cơm tại quán chị Năm Tiền là vì
có anh em trong sở rủ ông ăn dưới Sài-gòn rồi. Ông nằm trên võng đương đưa
tòn-ten mà nghỉ lưng. Ba Sang ở đằng quán lơn-tơn về, vừa bước vô liền nói với
ông Cử:
- Có Nô-Te kiếm chú.
- Nô-Te nào? Kiếm làm chi?
- Họ nói kiếm chú đặng ký tên giấy tờ mà gả con lấy chồng.
- Họ nói làm sao mà cháu biết họ kiếm chú?
- Họ hỏi thăm ông cựu Cai-Tổng Ngô-Minh-Tâm, gốc ở Mỹ-tho . .
. Phải họ hỏi chú hay không?
Ông Cử nghe nói mấy lời, vùng ngồi dậy ngó Ba Sang trân-trân.
Ba Sang cũng ngó ông, rồi anh ta gãi đầu, miệng chúm-chím cười, trong ý chắc đã
trúng lồi, ông Cử nín một hồi rồi lại hỏi Ba Sang:
- Họ hỏi tlăm cựu Cai-Tổng Ngô-Minh-Tâm ở Mỹ-tho, mà sao cháu
biết họ hỏi chú?
- Họ vẽ hình-trạng ông Tổng Tâm, cháu nghe sao giống hệt chú
nên cháu đoán chắc là họ kiếm chú chớ gì.
Ông Cử lặng thính một hồi nữa rồi châu mày, sắc mặt coi lo-lắng
lắm. Thình-lình ông vùng đứng dậy mà hỏi:
- Nô-Te kiếm ông Cai-Tổng Tâm đó bây gờ ở đâu?
- Ba Sang cười mà đáp rằng:
- Về rồi . . .
Ông Cử trợn mắt hỏi lớn tiếng rằng:
- Người ta kiếm sao không chịu chỉ lại đây, để cho người ta về
đi ?
Ba Sang thấy ông Cử giận, anh ta cười nữa và nói rằng:
- Mà cựu Cai-Tổng Ngô-Minh-Tâm đó phải là chú hay không? Chú
trả lời đi, rồi cháu sẽ nói hết cho chú nghe.
Ông Cử xụ mặt, đứng suy-nghĩ một chút nữa rồi chậm-rãi đáp rằng:
- Phải, Cai-Tổng Tâm là chú đây. Vì cháu đã biết rồi, nên chú
phải nói thiệt, song chú xin cháu đừng có nói đi nói lại cho thiên-hạ biết làm
chi nghé. Chẳng phải chú có tội lỗ gì nên sợ pháp-luật mà giấu tên giấu họ. Mấy
năm nay chú không muốn cho thiên hạ biết chú là ai, ấy là vì cái thân của chú
không đáng mang cáí tên đó nữa mà thôi. Lại nhắc tới cái tên đó như khêu việc buồn-rầu
của chú ngày xưa ra, nên chú không muốn nghe kêu tới cái tên ấy nữa.
Ba Sang thấy ông Cử đau-đớn quá, anh ta hết cười lại ngồi
trên ghế, mời ông Cử ngồi một bên, rồi nói rằng:
- Ðể cháu thuật công chuyện cho chú nghe, chú đừng nóng. Họ hỏi
chú mà cháu không chịu dắt họ về nhà là vì cháu không hiểu việc lành dữ lẽ nào,
nên cháu dè-dặt, chớ không phải cháu có ý chi khác. Hồi nãy cháu đương ngồi
trong quán chị Năm Tiền mà ăn cơm, cháu thấy có một ông Tây đi từ nhà hỏi thăm
việc gì đó không biết. Một lát họ đi tới quán, họ bước vô thấy cháu ngồi phía
ngoài, họ bèn hỏi cháu có biết nhà cựu Cai-Tổng Ngô-Minh-Tâm ở đâu thì làm ơn
chỉ giùm cho họ. Thiệt ban đầu cháu không dè họ kiếm chú, nên cháu lắc đầu nói
không biết. Chị Năm Tiền với anh em trong quán cũng trả lời như cháu vậy. Họ quả-quyết
nói nghe chắc ông Tổng Tâm ở gần chợ Xã Tài. Họ lại nói rõ hình-trạng của ông
ra nữa. Hết thảy trong quán ai cũng nghi họ kiếm chú. Cháu cũng nghi lắm, song
cháu không biết họ là ai, đi kiếm chú có việc gì nên cháu hỏi gạn lại họ, họ
nói ông Tây đó là quan Nô-Te đi kiếm chú đặng ký tên giấy-tờ gì mà gả con lấy
chồng gì đó không biết. Cháu không dám tin, cháu mới lập chước nói gạt họ rằng
cháu có biết một người hình-dạng giống ông Tổng Tâm đó lắm, song bữa nay người ấy
đi chơi. Cháu khuyện họ đợi chiều mai, lối 6 giờ rưỡi, trở lên quán chị Năm Tiền
rồi cháu đắt người ấy lại cho giáp mặt coi có phải ông Tổng Tâm hay không. Họ
chịu, và họ hứa chiều mai sẽ trở lên. Cháu làm như vậy là ý cháu dè-dặt, cháu
muốn về bàn-tính lại với chú, nếu có vỉệc gì không tốt thì chú ẩn mặt luôn, còn
như không có việc gì phải sợ thì chiều mai chú sẽ ra nói chuyện với họ, nghĩ chẳng
muộn gì“.
Ông Cử gặc đầu nói rằng:
- Cháu kỹ-lưỡng như vậy thì được lắm. Ở đời phải dè-dặt mới
khỏi lầm người ta. Nhưng mà bình-sanh chú chẳng bao giờ có làm một việc gì trái
với lương-tâm, hay là phạm đến pháp-luật, mà cháu phải lo sợ cho chú. Xưa nay
chú không muốn thiên-hạ biết tên thiệt của chú là vì chú buồn việc nhà, chớ
không phải chú sợ ai mà giấu tên. Thôi, để chiều mai chú lại quán chị Năm Tiền
mà đón mấy người đó coi họ kiếm chú có việc gì. Mà chuyện chú tỏ thiệt với cháu
nãy giờ đó, cháu phải kín miệng đừng có cho ai biết chú là cựu Cai-Tổng Tâm đa
nghe hôn, nói cho họ biết chú thêm xấu-hổ chớ không ích gì.”
Ba Sang đáp :
- Chuyện riêng của chú ai đi học cho thiên-hạ nghe làm chi mà
chú phải dặn. Té ra chú có con hay sao chú?
- Ừ.
- Mấy Người ?
- Có một đứa con gái thôi.
- Sao hồi nào tới giờ không thấy tới lui thăm chú?
- Chú có cho nó biết chú ở đâu mà thăm.
- Vậy chớ hồi nào tới giờ nó ở với ai?
- Ở với mẹ nó.
- Thiếm còn hay sao?
- Còn chớ. Mẹ nó có chồng khác ở đâu trong Chợ-lớn.
- Con gái chú năm nay được bao lớn?
- Lối chừng 19, 20 tuổi.
- Nếu vậy thì mấy người kiếm chú đó họ nói thiệt rồi. Nè, có
một anh bận áo bành-tô vàng, ảnh nói hồi trước ảnh làm biện cho chú.
- Có thằng biện đi đó nữa sao?
- Có … Chuyện khó hiểu quá! Làm Cai-Tổng, có vợ con, tại sao
không ở nhà lại đi như vậy chú?
- Tâm- sự của chú dài lắm, lại nhắc đến càng thêm buồn, nên
chú không thể nói ra. Vậy để thủng-thẳng rồi cháu biết.
Ba Sang muốn biết mà ông Cử không chịu nói, bởi vậy anh ta đi
bán buổi sớm mơi, rồi buổi chiều trẫn(#2) ở nhà có ý đợi No-Te lên gặp ông Cử
coi hai đàng nói chuyện gì với nhau.
Gần 6 giờ tối, ôg Cử đi làm về, thấy Ba Sang nằm chờ ở nhà.
Ông tắm rửa, thay áo quần sạch-sẽ, rồi đi với Ba Sang lại trước chợ Xã Tài, đi
lên đi xuống thơ-thẩn mà chờ Nô-Te. Cách chẳng bao lâu thiệt quả có một cái xe
hơi ở phía Sài-gòn chạy lên ngừng ngay chợ. Ba Sang kêu ông Cử chỉ mà nói: „Cái
xe hôm qua đó chú.”
Một ông Tây với hai người Víệt-Nam hôm qua đó leo xuống xe, mắt
ngó chừng vô phía cái quán chị Năm Tiền. Ba Sang thôi-thúc ông Cử đi lại gần.
Người mặc áo bành-tô vàng ngó tkấy ông Cử thì chỉ mà nói với hai người kia rồi
xâm-xâm đi riết tới, lột nón cúi đầu mà chào khư vầy : “Bẩm Ngài, Ngài mạnh giỏi
?”
Ông Cử gặc đầu đáp lễ và hỏi : “Ủa! Em Biện! Em kiếm qua có
chuyện gì ?”
Thiệt người nầy là Biện Hưỡn hồi trước làm Biện cho thầy
Cai-Tổng Ngô-Minh-Tâm.
Biện Hưỡn nói : „Bà biểu tôi dắt ông Nô-Te đây đi kiếm Ngài đặng
nói chuyện nhà với Ngài“. Ông Cử cúi đầu chào ông Nô-Te với thầy thông-ngôn.
Hai người đáp lễ rồi thầy thông-ngôn mới hỏi : „Ông phải là cựu Cai-Tổng
Ngô-Minh-Tâm hồi trước ở Mỹ-tho chăng?”
Ông Cử gặc đầu đáp : „Phải, tôi tên Ngô-Minh-Tâm”. Ba Sang
xen vô nói : “Hôm qua thầy vẽ hình- trạng tôi biết muốn kiếm chú tôi đây chắc cứng
như vậy. Nay tôi dắt ra đó…”
Thấy thông cười và nói : „Cám ơn anh lắm. Nhờ có anh, chớ
không thì biết đâu mà kiếm. Ở đây thiệt không ai biết tên ông Tổng hết“. Ông Cử
nói : „ Phải Người ở chợ nầy họ kêu tôi là ông Cử, chớ họ không biết tên thiệt
của tôi đâu“.
Ông Nô-Te nói tiếng Tây với thầy thông-ngôn, rồi thầy
thông-ngôn nói lại với ông Cử rằng: “Quan Nô-Te hỏi nhà ông ở đâu. Ngài muốn lại
nhà ông đặng nói chuyện với ông, ông dắt về nhà được hay không?“. Ông Cử nói được
rồi mời hết về nhà, Ði dọc đường, ông hỏi Biện Huỡn rằng :
- Sao em biết qua ở đây nên lên đây mà kiếm?
- Thưa, hồi năm ngoái có người ở Mỹ-tho gặp ngài ở đây, về
nói chuyện lại, tôi nhớ, nên mới lên đây mà kiếm.
- Mấy năm nay em làm việc gì ở đâu?
- Thưa, từ ngày ngài thôi làm việc, thì bà biểu tôi coi ruộng
đất cho bà. Tôi ở dưới Mỹ-tho coi góp lúa ruộng, góp tiền vườn, lâu lâu lên
đóng lại cho bà. Chuyến nầy tôi lên, bà biểu tôi ở lại đặng đi kiếm giùm ngài.
- Nghe nói em đi kiếm qua đặng nói chuyện gả con Minh-Nguyệt
lấy chồng phải hôn?
- Thưa, phải.
- Gả cho ai ở đâu?
- Thưa, để về nhà rồi ông Nô-Te sẽ nói rõ công việc cho ngài
hiểu
Ông Cử dắt khách về tới nhà thì đã tối rồi. Ba Sang lấy chìa
khóa mở cửa rồi quẹt hộp quẹt mà đốt đèn. Khách dòm trong nhà thấy một căn phố
lá chật hẹp, đất không lót gạch, phía trước chỉ để có một cái bàn bằng cây dầu
với hai cái ghế đẩu và có giăng một cái võng mà thồi.
Lối xóm họ thấy có người lạ nhứt là có một ông Tây, tới nhà
ông Cử, họ không hiểu chuyện gì nên xúm nhau đứng ngoài cửa mà coi. Ông Cử cậy
Ba Sang ra biểu họ đi chơi để ông thong-thả mà nói chuyện riêng của ông. Ông mời
ông Nô-Te ngồi đỡ trên một cái ghế đẩu, còn ông đứng một bên mà hỏi rằng: “Quan
lớn kiếm tôi muốn nói chuyện chi, xin quan lớn cho tôi biết thử coi”.
Ông Nô-Te mở cập da ra, lấy giấy tờ để trên bàn, nói tiếng
Tây với thầy thông-ngôn một hồi, rồi thầy thông cắt nghĩa lại như vầy: „Ông là
Ngô-Minh-Tâm hồi trước ông làm bạn với bà Lý-Thị-Phượng. Vợ chồng cưới có
hôn-thú bực nhứt, ăn ở với nhau có sanh được một người con gái đặt tên là
Ngô-thị Minh-Nguyệt, có khai-sanh đủ phép. Khi người con gái ấy được 9, 10 tuổi,
thì ông bà có việc chi bất-hòa với nhau đó không biết mà bà vào đơn tại Tòa xin
phá hôn-thú. Tòa sơ Mỹ-tho lên án cho để bỏ, cái án có tại tay quan Chưởng-Khế
làm đây. Theo cái án ấy thì Tòa cho để mà nói lỗi về phần ông nên Tòa định giao
người con gái là cô Minh-Nguyệt cho bà nuôi. Ông nhớ lại coi chuyện nhà của ông
có phải như lời tôi nói đó lay không ?” Ông Cử gặc đầu nói : “Phải, trúng lắm“.
Thầy thông-ngôn lại nói tiếp : “Cô Minh-Nguyệt năm nay được 20 tuổi, cô học đã
thi đậu Brevet Elémentaire rồi. Bây giờ có ông Thái-Duy-Càng là một vị học sinh
ở bên Pháp mới về, ông nhập-tịch theo dân Lang-sa(#3), ông có bằng-cấp Luật-khoa
Tấn-sĩ, ông thấy cô Minh-Nguyệt ông phải lòng nên ông xin cưới. Cô Minh-Nguyệt
đã ưng ông Thái-Duy-Càng mà bà thân của cô cũng chịu nữa. Có điều nầy làm khó một
chút: ông Thái-Duy-Càng thuộc dân Lang-sa nên việc cưới xin gả rồi phải làm
theo luật Lang-sa, Cô Minh-Nguyệt 20 tuổi, luật buộc cô phải lại tới Xã Tây lập
tờ hôn-thú mới đuợc. Về phần bà thì đã ký tên rồi hết. Bây giờ còn phần ông nữa,
hễ ông ký tên cho phép con lấy chồng thì xong việc, xin ông vui lòng ký tên vô,
đặng cho con gái ông lấy chồng cho khỏi sái-luật“.
Thầy thông-ngôn nói dứt lời, bèn lấy một tờ giấy tín-chỉ, có
chữ đánh máy một mặt mà đưa cho Ồng Cử, lại rút trong túi lấy cây viết ra mà
đưa cho ông ký tên.
Ông Cử cầm tờ giấy đọc từ đầu chí cuối rồi nói rằng : „Xin thầy
làm ơn thưa lại với quan Chưởng-Khế, tôi nghe con gái tôi có chồng thì tôi mừng
lắm. Nhưng mà sự-nghiệp của tôi đã hư rồi, bây giờ cái tôi quí trọng chỉ còn có
đứa con ấy mà thôi. Cái tờ nầy bề nào tôi cũng ký tên vào, song trước khi ký
tên tôi muốn biết mặt chàng rể tôi mới ký được”.
Thầy thông-ngôn cười mà nói rằng : „Ông làm khó chi vây! Ông
Thái-Duy-Càng là một đứng anh-tài của Việt-nam. Ông mồ-côi cha mẹ song ông có một
cái gia-tài lớn ở Bạc-liêu, nghe nói mỗi năm số lúa ruộng tới năm bảy chục ngàn
giạ. Xưa nay ông Hộỉ-đồng Quản-hạt Thái-Duy-Cư là chú của ông, thủ-hộ cái
gia-tài ấy lấy huê-lợi mà nuôi ông ăn học. Ông Hội-đồng Quản-hạt Thái-Duy-Cư
cũng là một nhơn-vật giàu có ở Sai-Gòn, ai ai cũng đều nghe danh. Ông
Thái-Duy-Càng đó học giỏi, lại giàu lớn, vô dân Lang-sa, lại nghe nói ít tháng
nữa đây sẽ được Chánh-Phủ cấp bằng cho làm quan Tòa nữa. Ông được một người rể
như vậy thì có phước quá, tại sao ông còn dục-dặc“.
Ống Cử lắc đầu đáp : “Thầy không hiểu ý của tôi. Con gái của
tôi sanh ra, tôi không có công dưỡng nuôi dạy-dỗ nó. Nay nó lấy chồng, tôi có
gan dạ nào mà ngăn trở. Nhưng mà nó là máu thịt của tôi, tôi đã có nói với thầy,
chỗ quí trọng của tôi chỉ còn có bao nhiều đó mà thôi, cái nghĩa về sự sống của
tôi cũng chỉ có lao nhiêu đó mà thôi. Nếu nó lấy chồng mà nó không cho tôi hay
thì chẳng nói làm chi, chớ lấy chồng mà tôi phải cho phép, thì dầu tôi ngu dốt
thế nào đi nữa tôi cũng phải biết chàng rể coi ra sao rồi tôi mới ký tên cho
phép được chớ. Thiệt bây gìờ tôi làm một tên thợ sơn hèn-hạ, không có danh-giá
gì nhưng mà theo ý riêng của tôi, cái hạnh-phúc của con người chẳng phải ở nơi
gia-tài lớn, hay là bằng-cấp to đâu. Học giỏi, danh cao, giàu to, chức lớn mà
thiếu tư-cách làm người phải, thì có quí gì đâu. Xin thầy thưa lại với quan Chưởng-Khế,
tôi xin ngài tha-thứ cái lỗi tôi làm thất công ngài. Ngài làm ơn cho tôi gặp
chàng rể đặng tôi coi người ra thế nào rồi tôi sẽ ký tên tờ nầy“.
Ông Cử trả lời lại cho thầy thông-ngôn, thầy thông-ngôn nói lại
với quan Chưởng-Khế một hồi rồi thầy hỏi ông Cử rằng: “Quan Chưởng-Khế hỏi ông
nếu muốn đòi một hai trăm đồng bạc đặng ký tên, thì xin ông nói ngay ra, ngài sẽ
nói giùm lại với bà đặng bà cho mà ký tên cho rồi”.
Ông Cử nghe mấy lời, ông nổi giận đỏ mặt, nên ông đáp: “Xin
thầy nói với ổng, ổng không được phép thấy tôi nghèo mà khinh-khi tôi như vậy.
Tuy nhà tôi nghèo, nghề tôi hèn, song phẩm tôi cao, trí tôi sạch, chớ không phải
tôi đê tiện như người ta vậy đâu. Nếu ổng còn dùng cái giọng đó mà nói chuyện với
tôi nữa, thì tôi phải ép mình mà mời ngài ra khỏi nhà tôi lập tức, dẫu mích
lòng thì tôi chịu, chớ không thể nào tôi nói chuyện với ổng nữa”.
Thầy thông-ngôn cắt-nghĩa lại cho ông Nô-Te nghe, ổng cười rồi
đứng dậy, bỏ giẩy tờ vô cập và nói rằng: „Thôi, để tôi về tôi nói chuyện lại với
bà Lý-Thị-Phương coi bà tính lẽ nào rồi sẽ hay“.
Ông Cử gặc đầu, đưa khách ra cửa.
Chú thích:
(1-) như là
(2-) lẫn trốn
(3-)(France) Pháp
CHƯƠNG 3 -
B
à Lý-Thị-Phương là nguyên-phối của ông Cai-Tổng Ngô-Minh-Tâm
hồi trước ở Mỹ-tho, Khi bà được án Tòa cho bà để chồng bắt con được rồi, bà mới
dắt con trở về quê-quán tại Bến-lức cất nhà mà ở. Bà ở đó được vài năm kế có một
người ở Chợ-lớn, tên là Cao-Xuân-Quỳnh, nhà giàu lớn, nửa chừng gãy gánh
cang-thường, nên cậy mai nói mà cưới bà. Bà vẫn có ruộng đất, có bạc tiền, có nữ-trang,
nên khi mới để chồng bà tính ở một mình mà nuôi con đặng khỏi ai động tới sự-nghiệp
của là được.
Nay ông Cao-Xuân-Quỳnh nhỏ hơn bà đến 5 tuổi, ông theo quyến-luyến
hoài, lại bà thấy ông giàu có lớn, có nhà máy xay gạo tại Bình-đông, có nhà lầu
ở Lò Gốm, có mấy dãy phố lầu tại Ðèn Năm Ngọn, ở với vợ trước không có con, bà
nhắm làm bạn với ông nầy không lổ, bởi vậy bà mới ưng ông Cao-Xuân-Quỳnh rồi dắt
con về ở với chồng mới tại cái nhà lầu rất đẹp ở Lò Gốm. Nhờ cái hoàn-cảnh ấy,
bà mới có thế mà cho cô Minh-Nguyệt vào học tại trường đầm ngoài Sài Gòn, nên
cô mới thi đậu Brevêt Elémentaire đó. Bà lại muốn có danh-dự với người ta, nên
năm trước bà xúi ông Cao-Xuân-Quỳnh ra tranh-cử Nghị-viên Thành-phố, tuy tốn tiền
nhiều, song may đắc cử, bởi vậy hơn một năm nay thiên hạ mới kêu bà là „bà Hội-đồng
Quỳnh”.
Ông Hội-đồng Cao-Xuân-Quỳnh lúc nầy trong mình không đặng mạnh,
nên vưng lời thầy thuổc ra mé biển Long-hải ở mà hứng gió dưỡng bịnh.
Bà Hội-đồng Quỳnh ở nhà một mình, bà lo sắp-đặt việc gả con lấy
chồng. Bà năm nay đã 45 tuổi rồi, mà da chưa dùn, vóc chưa ốm, răng còn chắc,
tóc còn đen. Bà cũng làm y theo cách trang điểm của mấy bà sang-trọng đồng-thời,
tối ngày mặt giồi phấn môi thoa son, tóc chải láng-nhuốt, dầu ở trong nhà cũng
mặc áo màu như sửa-soạn đi chợ.
Buổi chiều mà ông Nô-Te với Biện Hưỡn đi kiếm nói chuyện với
ông Cử đó thì bà Hội-đồng Quỳnh ở nhà, trong lòng không yên, không chắc có kiếm
được ông hay không, lại không biết như kiếm được mà ông ký tên hay là ông làm
khó.
Bà đương đi vô đi ra mà tư-lự, còn cô Minh-Nguyệt thì ngồi
thêu trên lầu. Tối một lát, xe hơi về ông Nô-te biểu thầy thông-ngôn thuật chuyện
lại cho bà Hội-đồng Quỳnh hay rằng, mình đã kiếm được ông Ngô-Minh-Tâm, song
ông nài cho ông nói chuyện với chàng rể rồi ông mới chịu ký tên cho phép con
ông lấy chồng.
Bà Hội-đồng Quỳnh cám ơn ông Nô-Te, bà nói để thủng-thẳng bà
tính, va bà xin ông về nghỉ, chừng nào ký tên được rồi bà sẽ cho ông hay.
Ông Nô-Te về rồi, bà Hội-đồng kêu Biện Hưỡn vào phong giấy,
bà biểu ngồi trước mặt bà rồi bà hỏi nhỏ-nhỏ rằng:
- Thiệt em có gặp ổng hay không ?
- Thưa, gặp thiệt chớ Ngài có nói chuyện với tôi nữa mà.
- Nói nhỏ-nhỏ vậy, đừng có nói lớn con Minh-Nuyệt nó nghe. Ổng
có nói tại sao mà ổng không chịu ký tên hôn?
- Thưa, có chớ. Ngài nói không phải ngài không chịu ký tên.
Ngài nghe cô Hai có chồng, ngài mừng lắm. Song cô Hai là máu thịt của ngài, bây
giờ suy-sụp, sự quí-báu của ngài chỉ còn có bao nhiêu đó mà thôi. Ví như cô Hai
lấy chồng mà không cho ngài hay thì thôi, còn như lấy chồng mà buộc ngài phải
ký tên cho phép thì ngài nài phải cho ngài gặp mặt chàng rể đặng ngài coi người
ra sao, ngài nói chuyện một chút, rồi ngài sẽ ký tên.
- Sao em không nói cho ổng nghe, sao em không cắt-nghĩa cho ổng
hiểu chàng rể xứng-đáng lắm, dân Tây học có bằng Tấn-sĩ luật-khoa, mồ-côi mà
làm chủ một cái gia-tài lớn, lại là cháu một ông Hộ-đồng Quản-hạt có danh-giá nữa?
- Thưa, ông Nô-Te có cắt-nghĩa rành-rẽ hết. Ông còn nói chàng
rể nay mai sẽ được nhà-nước cấp bằng làm tới chức quan Tòa. Mà nói giống gì
ngài cũng không nghe, ngài nài cho gặp mặt chàng rể rồi ngài mới chịu ký tên.
- Gặp mặt sao được! Sợ gặp mặt rồi ông nói chuyện bậy-bạ nghe
kỳ lắm. Ổng ở chỗ nào đâu ?
- Thưa, ở gần chợ Xã Tài, tại nhà chợ đi lên chừng 50 thước.
- Ở làm giống gì đó? Nhà cửa tử-tế hay không? Bộ ổng có tiền
hay là nghèo?
- Úy! Nghèo lắm bà ơi. Nghe nói ngài làm thợ sơn.
- Làm thợ sơn! Trờỉ ơi! Vậy mà đòi gặp mặt rể chớ!
- Ngài ở một căn phố lá chật-hẹp dơ-dáy lắm, tiền phố mỗi
tháng chừng một hai đồng, trong nhà không có gì hết.
- Trời ơi! Vậy mà muốn sanh chuyện chớ! Ðể sáng mai em lên
nói với ổng mà cho ổng ít chục đồng bạc rồi biểu ổng ký tên chớ gì.
- Úy! Cha chả! Không được đâu. Hồi nãy ông Nô-Te nói thôi để
về xin bà cho ngài một vài trăm đồng bạc đặng ngài ký tên thì ngài giận đỏ mặt,
ngài hỏi ông Nô-Te sao đám khinh-bỉ ngài, ngài đòi đuổi ông ra khỏi cửa. Nói tiền
bạc không được đâu.
- Mạt rồi mà cũng còn làm-phách! Bộ ổng giận qua hay không? Ổng
có nhắc chuyện cũ, có nói tiếng gì động tới qua hay không?
- Thưa, không. Ngài gặp tôi ngài mừng quá. Ngài nói chuyện
nghe hòa-hưõn, không nhắc chuyện cũ, mà cũng không hỏi tới bà.
Bà Hội-đồng Quỳnh ngồi suy-nghĩ một hồi rồi bà nói:
- Thân ổng bây giờ hèn-hạ nhà ổng thì như chòi ăn mày, cho ổng
gặp ông Tấn-sĩ sao tiện. Ông Tấn-sĩ ổng thấy cha vợ như vậy, chắc ổng hồi hôn
đi còn gì! Khổ quá! Mà ổng buộc như vậy nếu mình không cho gặp thì ổng không chịu
ký tên rồi làm sao mà lập hôn-thú cho được”
Biện Hưỡn đáp:
- Tôi tưởng làm như vầy có lẽ được.
- Làm sao?
- Bà may áo quần tử-tế cho ngài mặc, rồi bà mời ngài với ông
Tấn-sĩ lại đây mà cho giáp mặt nhau.
- Không được. Ổng tới nhà qua sao được. Ông Hội-đồng tử-tế
thiệt, nhưng mà qua có phép nào mời chồng trước của qua tới nhà ổng. Làm như vậy
coi kỳ lắm chớ.
- Ông Hội-đồng ở ngoài Long-hải mà. . .
- Ổng về ổng hay ổng phiền qua chớ.
- Thôi, biết làm sao ? Chớ biểu ông Tấn-sĩ lên chợ Xã Tài thì
khó coi quá.
- Lên trển sao được ... Khó quá!... Qua muốn gặp mặt ổng đặng
qua cắt nghĩa cho ổng nghe …
- Thưa, cái đó thì dễ. Bà muốn đi thì tôi dắt đi … Tôi biết rồi,
hễ chiều tối mình lên đó thì chắc gặp ngài.
- Qua lên nhà ổng cũng không tiện. Qua như vầy mà lết tới cái
chỗ như vậy thì còn gì thể-diện của qua. Ðã vậy mà qua tới nhà ổng, rủi ổng nói
bậy-bạ rồi bụm miệng ổng sao được.
- Thôi thì mời ngài xuống đây.
- Mời ổng tới nhà, lại sợ e ông Hội-đồng ổng hay rồi ổng phiền.
- Bà đừng cho trong nhà biết ngài là ai, thì ông Hội-đồng hay
sao được.
- Làm sao mà giấu người trong nhà cho nhẹm?
- Thưa, việc đó có khó gì đâu. Ví như bà cho ngài gặp ông Tấn-sĩ
tại đây, ngài phải ăn-mặc tử-tế phải ngồi nói chuyện đàng-hoàng, cái đó giấu
không được; chớ nếu bà mời ngài tới đây nói chuyện riêng với bà, ngài bận đồ
thường, bà cho vô phòng giấy nói chuyện như nói với tôi nãy giờ đây thì người
trong nhà biết sao cho nổi. Tôi dắt ngài vô nhà tôi nói với người trong nhà rằng
ngài là một người tá-điền dưới Mỹ-tho lên làm giấy mướn vườn, thì có ai mà
nghi.
- Em tính kế đó hay thiệt, Ðược đa. Thôi, để chiều mai em lên
mời ổng, coi ổng định giờ nào xuống thăm qua được, thì em lên rước ổng. Tới giờ
ổng lại, qua saì bầy trẻ trong nhà đi đầu nầy đầu nọ, còn con Minh-Nuyệt thì bắt
nó ở trên lầu hoặc qua cho nó đi thăm chị em bạn nó, tự-nhiên nó không gặp ổng.
Việc nầy qua cậy một mình em thôi. Em phải hết lòng đa, đừng có xì hơi cho họ
biết, nhứt là đừng có nói cho con Minh-Nguyệt hay đa nghé.
- Tôi làm tôi bà, tôi đâu đám không hết lòng. Xin bà an tâm,
để chiều mai tôi đi mời.
Chiều bữa sau, Biện Hưỡn đi xe lửa ra Sài Gòn rồi kêu xe kéo
lên chợ Xã Tài. Anh ta lên sớm một chút, ông Cử đi làm chưa về, nên nhà còn
khóa cửa kín mít. Anh ta ngồi dựa lề đường mà chờ, đến 6 giờ tối ông Cử mới
lơn-tơn về. Biện Hưỡn chào ông, thầy trò gặp nhau mừng-rỡ rồi dắt nhau vô nhà.
Ông Cử mời Biện Hưỡn ngồí rồi hỏi rằng:
- Em trở lên đây có chuyện chi hay không?
- Thưa ngài, hôm qua ngài không chịu ký tên, tôi về tôi nói
chuyện lại với bà, thì bà buồn lắm. Nếu ngài không chịu ký tên thì làm sao cô
Hai lấy chồng cho được.
- Không phải qua không chịu ký tên. Qua muốn biết chú rể là
người thế nào rồi qua sẽ ký tên chớ.
- Bà nói ngài nài việc đó khó quá. Làm sao mà cho ông Tấn-sĩ
gặp ngài cho được bây giờ.
- Sao vậy? Chú rể không có ở đây hay sao?
- Thưa có. Ở Sài Gòn đây chớ đâu.
- Nếu có ở Sài Gòn thì biểu lên đây, có gì đâu mà khó?
- Việc đó khó nói quá.
- Ờ, ờ. Em nói một chút đó đủ cho qua hiểu rồi. Trong thế mẹ
con Minh-Nguyệt thấy qua nghèo-nàn, còn chàng rể là người giàu có, sang-trọng,
nếu cho chàng rể gặp qua thì e mất thể-diện chàng rể đi há.
- Thưa. . .
- Qua biết hết. Cái óc của mẹ con Minh-Nguyệt là cái óc của kẻ
giàu-sang đời nay, không lạ gì. Hễ tiền nhiều, hễ làm chức lớn thì là quí; người
mà không được hai món đó, nó đều cho là đê-tiện hết thảy!
- Thưa, không lẽ bà dám khinh rẻ ngài. Bà không muốn cho ông
Tấn-sĩ gặp ngài đó, chắc là bà có ý gì riêng, tôi không rõ được. Bà nói để bà gặp
ngài rồi bà sẽ cắt nghĩa cho ngài hiểu.
- Bà muốn gặp qua?
- Thưa, phải. Bà sai tôi lên đây mời ngài chịu phiền vô nhà
bà ở trong Lò Gốm đặng bà nói chuyện cô Hai lấy chồng cho ngài nghe.
Ông Cử châu mày, suy-nghĩ, rồi ông lắc đầu nói rằng
- Qua thương con qua lắm. Nhưng mà tới nhà bả, qua tới sao được!
Việc nhà của qua có lẽ em đã biết rõ hết. Hồi qua cưới bả thì bả là người gì?
Qua vẫn biết vợ chồng đã để bỏ nhau rồi, nếu qua còn nói việc xấu của bả ra,
thì té ra qua chẳng phải là quân-tử. Nhưng mà ở đây không có ai, còn em là em
út trong nhà, vậy để qua nhắc chuyện cũ lại cho em nghe. Qua là con nhà giàu
có, lại là con một nữa. Hồi nhỏ đi học ít năm cho biết chút-đỉnh với thiên-hạ rồi
cha mẹ bắt về cưới vợ. Nhà bả suy-sụp rồi, nhưng mà bả có sắc nên đi coi thì
qua đành liền. Cha mẹ mới cậy mai nói. Gần ngày cưới qua được nhiều bức thơ rơi
nói chuyện bả nhơ-nhớp lắm. Qua vì cái thương, qua không thèm kể chi hết, nên
qua giấu cha mẹ để đi cưới cho rồi. Khi qua cưới về được ít năm, kế sanh con
Minh-Nguyệt. Cha mẹ qua lần-lần khuất hết, qua làm chủ một cái gia-tài cộng
trên 300 mẫu về ruộng, về vườn. Bả là người nội-trợ, tự-nhiên bả cai-quản việc
trong nhà cho qua. Bả thừa dịp ấy bả làm tư làm riêng, ý bả như muốn lập thêm một
cái gia-tài khác cho bả vậy. Bả mua vuờn, mua ruộng bả đứng bộ, bả cho vay đặt
nợ bả để riêng, Qua thấy hết, nhưng mà qua nghĩ tình vợ chồng, dầu của vợ hay
là của chồng đều là của chung, bởỉ vậy qua không thèm để ý tới. Khi qua ra lãnh
chức Cai-tổng thì qua phải giao-thiệp với người ta. Bả sanh tánh ghen, bả cứ rầy-rà
trong nhà hoài. Thiệt có một lúc nọ qua có gần-gũỉ chơi với cô Sáu Hảo là một
cô đào hát có danh. Qua chơi theo cái thú phong-lưu vậy thôi, chớ không phải
tính việc gì. Bả thừa cái dịp ấy bả hành-hung, nói qua mê đĩ-thõa, làm tiêu hết
sự-nghiệp, rồi ngày sau con không có cơm ăn, bả ép qua, nếu muốn cho bả tin qua
còn thuơng vợ con, thì qua phải làm tờ sang ruộng vườn cho bả đứng bộ mới được.
Qua không có lòng nghi bụng với con, vả lại qua cũng muốn tỏ cái chỗ thiệt của
qua ra, nên qua cứ làm tờ sang ruộng vườn cho bả đúng bộ, mười phần qua sang hết
tám. Chẳng dè khi bả được làm chủ gia-tài của qua rồi, bả liền vào đơn tại Tòa
mà xin phá hôn-thú. Ban đầu bả nói bả làm như vậy là vì bả thấy qua mắc nợ, bả
phá hôn-thú đặng cho chủ nợ thi-hành ruộng đất không được. Nào dè bả được án
Tòa cho để-bỏ rồi bả mới tom-góp tiền-bạc, đoạt hết ruộng vườn, dắt con về Bến-lức
cất nhà mà ở. Qua thấy nhơn-tình như vậy qua chán-ngán quá, qua mới xin từ chức
Cai-Tổng, qua bỏ phế việc nhà hư hết, nên ngày nay tấm thân qua mới ra như vầy
đây. . . Em nghĩ coi, con người ăn ở như vậy qua còn mặt-mũi nào mà gặp mặt nữa
cho được”.
Ông Cử nói tới đó, ông vừa tức giận, vừa buồn rầu, nên lai
làng nước mắt rưng-rưng. Biện Hưỡn biết chuyện ông nói đó là chuyện có thiệt
như vậy, nên không biết lấy lời chi mà khuyên giải. Anh ta bèn nói rằng: „Việc
Ngài phiền bà, tôi không dám đút miệng vô. Nhưng mà nếu ông bà phiền nhau. rồi
cuộc hôn-nhơn của cô Hai lỡ-dở thì tôi-nghiệp cho phận cô lắm”.
Ông Cử nghe nói tới con, thì động lòng, nên ông khóc, nước mắt
chảy ròng-ròng. Cách một hồi, ông mới nói với Biện Hưỡn: „Em về nói lại với bà
vì qua thương con qua lắm, nên qua nài cho biết mặt chàng rể. Tuy qua nghèo,
nhưng mà qua tiếp rể qua trong căn phố lá nầy qua không hổ-thẹn chút nào hết. Nếu
rể qua nó chê qua nghèo hèn, không đáng mặt cho nó thăm, thì nó không xứmg-đáng
làm rể của qua nữa. Còn việc bả mời qua tới nhà bả đó thì qua xin từ. Tuy bây
giờ qua nghèo cực, song cái nhơn-phẩm của qua vẫn còn vững-vàng luôn-luôn, chớ
không phải nghèo mà mất hết liêm-sĩ đâu“.
Biện Hưỡn về nói lại với bà Hội-đồng Quỳnh rằng: „Tôi nói hết
sức mà không được. Ngài đã không chịu xuống đây, mà ngài cứ nài cho gặp mặt ông
Tấn-sĩ rồi ngài mớ chịu ký tên”.
Bà Hội.đồng Quỳnh nhăn mặt châu mày, bà tính sao đó không biết
mà bà nói: “Thôi, vì con mà qua phải chịu sụt ổng một lần. Ổng không chịu tới
nhà qua, thôi để qua tới nhà ổng. Em đừng nói cho ai biết, để chiều mai em đắt
qua đi”.
Chiều bữa sau, bà Hộ-đồng Quỳnh nói dối với cô Minh-Nguyệt rằng
bà ra Chợ-lớn bà mua đồ. Bà biểu kêu hai cái xe kéo rồi bà đi với Biện Hưỡn. Ra
tới Chợ-lớn bà mướn một cái xe hơi đi chợ Xã Tài. Mấy bữa rày Ba Sang đi làm về
trễ luôn-luôn. Ông Cử về trước đương nằm trên võng mà đưa tòn-ten và nhìn vào
vách.
Xe hơi ngừng ngay cửa, Biện Hưỡn bước vô chào ông Cử và nói:
„Có bà ra, bà muốn nói chuyện với ngài“. Ông Cử đứng dậy nói: “Mời vô đây”. Biện
Hưỡn ra ngoài xe nói sao đó không biết mà bà Hộỉ-đồng leo xuống xe rồi thủng-thẳng
đi vô. Bà mặc áo màu cẩm-thạch, quần lụa trắng, đầu choàng khăn màu trứng gà,
chơn mang giày thêu cườm cao gót. Bà đi khoan-thai, bộ tự-đắc lắm. Khi bà bước
vô khỏi cửa rồi, hai ông bà đứng nhìn nhau, không ai chào ai hết. Ông Cử chỉ một
cái ghế đẩu, tỏ ý mời bà ngồi rồi ông ngồi trên cái võng giăng ngang đó. Bà ngó
cùng trong nhà, miệng chúm-chím cười. Ông đã phiền ngầm trong lòng, mà thấy bộ
bà kiêu-căng, thì ông lại càng thêm giận nên hỏi:
- Bà tới nhà tôi làm gì ? Nhà giàu không biết hổ-thẹn hay
sao?
Bà Hội-đồng Quỳnh ngó ngay ông mà đáp rằng:
- Tôi có ở quấy, tôi có làm bậy đâu mà hổ-then.
- Ðàn-bà có chồng đã không biết lo cho chồng, lại lập mưu
sang-đoạt sự-sản của chồng; rồi đạp đít mà lấy thằng khác, ăn ở như vây đó phải
lắm há ?
- Hứ! Tôi tưởng ngày nay ông đã có hai thứ tóc trên đầu, ông
biết khôn rồi, té ra ông cũng còn dại quá.
- Phải, tôi dại lắm. Bởi tôi dại, tôi mới bị người ta giựt hết
ruộng vườn, chớ phải tôi khôn thì người ta giựt sao được.
- Nói chuyện với tôi, ông cần gì phải nói những tiếng cay đắng
làm chi. Ông nghĩ thế nào thì ông cứ nói ngay ra được mà. Nói cho hết ý, thì ông
nên phiền ông chớ chẳng nên phiền ai hết. Ông nhớ lại chuyện xưa mà coi, có phải
là ông dại hay không? Có của không biết gìn-giữ mà hưởng, để cho tiêu hết, rồi
bây giờ trở lại oán người ta chớ. Ông xét lại mà coi, nếu ngày trước tôi không
giựt của ông, thì người khác họ cũng giựt, bề nào cũng tiêu hết vậy chớ thà là
tôi giựt trước còn hay hơn. Ở đời tôi không chịu dại hơn ai hết. Tôi ăn của người
ta không được thì thôi, chớ chẳng hề tôi mắc lận người ta bao giờ.
- Trời ơi! Nói như vậy thì còn nhơn-nghĩa gì nữa đâu!
- Ối! Ðời nầy mà nhơn-nghĩa gì. Ai nhơn-nghĩa với mình mà
mình nhơn-ngkĩa với họ kìa ? Ông ở với tôi lại nhơn-nghĩa gì đó? Vợ chồng ăn ở
với nhau có con rồi mà ông cứ mê đĩ-điếm hoài không coi vợ nhà ra chi hết, ở
như vậy đó có nhơn-nghĩa dữ há?
- Thiệt rõ ràng bà là người khôn-ngoan đúng bực, hèn chi ở đời
nầy bà được cái địa-vị sang-giàu là phải lắm.
- Tôi không khoe với ai rằng tôi khôn-ngoan, song tôi không
chịu dại hơn ai hết.
- Bởi bà khôn-ngoan quá, nên việc quấy mà nói nghe cũng phải,
việc hư bà nói nghe như nên. Bà giỏi thiệt, song bà nói rồi, bây giờ xin bà để
tôi nói lại cho bà nghe. Bà là một người tham tiền, chớ bà không biết
nhơn-nghĩa chi ráo. Ngày trước bà ưng tôi làm chồng, là vì bà thấy cha mẹ tôi
giàu lớn, lại sanh có một mình tôi, nên bà quyết nhảy vô mà giựt của, chớ không
phải vì tình vì nghĩa mà lấy chồng. Tôi nói có bằng cớ chớ không phải tôi cáo
gian cho bà. Khi lọt vô nhà tôi, bà liền lo làm tư làm riêng, lo đút nhét mua
ruộng vườn mà đứng bộ. Thiệt đến lúc tôi làm Tổng, tôi có chơi-bời chút đỉnh với
anh em, mà cách chơi-bời đó bất quá là chơi theo thú phong-lưu vậy thôi, chớ
không phải tôi chơi đến đỗi bỏ bê con vợ. Bà lại thừa dịp ấy mà trổ cái ngón độc-ác
của bà ra. Bà giả chước ghen mà làm nhọc lòng tôi đáo-để, rồi bày mưu rúng ép
tôi sang bộ vườn ruộng cho bà đứng. Ðoạt sự-nghiệp của tôi rồi bà đạp đít tôi
liền, cách làm như vậy đó thì đủ thấy, theo trí của bà, sự lấy chồng là một chước
để giựt của thiên-hạ, chớ không phải chủ-ý lập gia-thất mà.
- Ông chơi-bời, ông mắc nợ cùng hết, nếu tôi không giựt thì
chủ nợ cũng thi-hành phát mãi hết vậy. Tôi có con, tôi thương con tôi lắm, nên
tôi phải lo cho nó.
- Nếu thiệt bà thương con, bà sợ tôi phá hết sự-nghiệp nên bà
giựt đặng để dành cho con, thì khi ly-dị rồi bà ở vậy đặng dùng của ấy mà nuôi
con, chớ sao bà đạp đít tôi không bao lâu rồi bà lại lấy chồng khác?
Ông bắt tới khoản đó gắt quá, bà liệu trả lời không xuôi, nên
bà nói túng rằng:
- Tôi thương con tôi lắm. Phận tôí đàn bà tôi nuôi nó ăn-học
không được, nên tôi phải kiếm đôi bạn đặng nương dựa mà nuôi nó.
- Ông chúm-chím cười. Bà mắc-cỡ nên nói tiếp rằng:
- Mà ruộng vườn của ông sang cho tôi đứng bạ, tôi còn giữ y
nguyên cho con đó. Bây giờ nó lấy chồng thì nó hưỏng, tôi có thèm đâu.
Ông châu mày mà ngó bà. Bà hiểu ý ông không tin, nên bà nói
thêm rằng:
- Tôi biểu Nô-Te làm tờ giấy, họ đương làm đó, ông hỏi thử
coi phải có như vậy hay không. Con nó có chồng chỗ xứng-đáng hết sức, chồng nó
dân Tây thi đậu bằng cấp Tấn-sĩ, mồ-côi lại có gia tài lớn, mỗi năm góp huê-lợi
tới năm bảy chục ngàn giạ lúa. Con nó được như vậy là có phước lớn lắm, tại sao
ông lại còn làm khó dễ, không chịu ký tên một chút cho nó có chồng? Ông là một
người không có lương-tâm. Ông có con, ông không nuôỉ. Tôi nuôi, tôi cho nó ăn học
thi đậu Brevêt Elementaire bây giờ tôi kiếm được chỗ xứng-đáng tôi gả nó, hễ có
chồng rồi thì ngườỉ ta kêu nó là “cô Tấn-sĩ” mà nay mai đây chồng nó làm quan
Tòa, người ta kêu nó là “bà lớn Tòa” nữa. Ông có ký tên một chút, ông lấy cớ gì
mà không chịu ký, ông nỏi cho tôi nghe thử coi”.
Ông lắc đầu đáp rằng:
- Không phải tôi không chịu ký, tôi nài cho tôi biết chàng rể
rồi tôi sẽ ký cbớ.
- Hứ! Biết chàng rể mà làm gì? Ông muốn làm nhục cho con ông
hay sao? Ông muốn cho chồng nó hồi hôn, không thèm cưới nó, nên ông mới buộc
như vậy đó.
- Tôi xin cho biết chàng rể mà nói tôi muốn làm nhục cho con
là sao!
- Ông Tấn-sĩ là người giàu có sang trọng. Người ta nói mà cưới
con Minh-Nguyệt là người ta vì tôi, chớ người ta có biết ông đâu. Tôi nói dối với
người ta rằng ông thôi làm Cai-Tổng, ông lên khẩn đất làm ruộng trên
Battambang, ông mua thủy-lợi miệt Biển-Hồ, ông mắc làm ăn lớn, nên không về
Sàì-gòn được. Tôi nói cái tốt cho ông, bây giờ lòi ông ra, ông Tấn-sĩ thấy cha
vợ hèn-hạ quá, chắc ổng buồn ổng có thèm con Minh-Nguyệt đâu.
- Cưới vợ là vì ái-tình, vì nhơn-nghĩa, chớ không phải vì quyền-tước,
vì lạc tiền. Bà thuộc về hạng người dùng gian-xảo làm nấc thang mà bước lên địa-vị
giàu-sang, hễ bước lên được rồi thì khinh-khi hủy-bạc kẻ nghèo cực, rồi bà tưởng
thiên-hạ ai cũng như bà hết thảy. Sự giàu-sang của bà đó theo con mắt tôi coi,
thì không có nghĩa-lý gì hết. Bà có tiền nhiều, bà được chức tước, những kẻ
ngu-dốt, những người dua-bợ, họ theo bẩm dạ, họ tôn-trọng bà là thượng-lưu, mà
không phải thiên-hạ hết thảy đều ngu-dốt hay là dua-bợ; những người rõ việc
hành-tàng của bà; biết cái tâm để của bà, như tôi biết bà đây, thì họ coi bà chẳng
hơn gì họ, ở nấu ăn hay là giữ phòng cho bà đâu.
- Ống không đưọc phép mắng tôi đa.
- Không, tôi mắng bà mà có ích-lợi gì. Tại hồi nãy là khuyên
tôi đừng có nói cay-đắng, hễ nghĩ thế nào cứ nói ngay ra, nên tôi mới dám nói
cho bà nghe chớ.
- Ông làm thợ sơn, ông ở căn nhà như chòi ăn mày, tôi nói ông
không đáng gặp mặt ông Tấn-sĩ là bực sang-trọng, tôi nói thiệt tình, chớ nào
tôi có khinh-khi hủy-bạc ông đâu.
- Ông Tấn-sĩ là người có học-thức, biết nhơn-nghĩa. Có lẽ nào
ổng thấy cha vợ nghèo ổng mà ổng hồi hôn. Ví như ổng vì cái lẽ đó mà ổng không
chịu cưới con tôi, thì tôi không tiếc chút nào hết. Bà có sợ ổng thấy tôi ổng hồi
hôn, thôi thì bà cứ việc gả một mình, khỏi nài tôi dự vô làm chi?
- Ta nói ổng dân Tây, luật buộc phải có ông ký tên cho phep
thì làm hôn-thú mới được.
- Muốn tôi ký tên thì trước phải cho tôi biết chàng rể.
- Cho biết xấu-hổ quá, cho biết sao được.
- Vậy chớ tôi không biết chàng rể mà tôi ký tên cho phep con
lấy chồng, tôi lại không xấu-hổ hay sao?
- Thân ông đã như vậy mà xấu-hổ nỗi gì!
- Ủa! Sao vậy? Tôi nghèo chớ nhơn-phẩm của tôi còn cao lắm,
cái liêm-sĩ của tôi vẫn còn nguyên, Tôi có phải như họ, hễ gặp dịp thì bỏ
nhơn-phẩm, bỏ liêm-sĩ hết, mà cũng không biết xấu hổ vậy đâu.
- Bà đứng dậy trợn mắt hỏi rằng:
- Còn muốn nói xiên nói xẹo nữa sao? Tôi hỏi thiệt, bây giờ
chịu ký tên hay không? Nói dứt cho rồi”.
- Ông lắc đầu đáp lằng:
- Gặp chàng rể rồi sẽ ký tên.
Bà ngoe-ngoảy bước ra cửa, kêu Biện Hưỡn biểu đi về. Biện Hưỡn
bước vô xá ông, mặt buồn xo rồi theo bà lên xe hơi.
CHƯƠNG 4 -
C
huông đồng-hồ gõ bon … bon … bon…Cô Minh-Nguyệt đếm 8 tiếng. Ở
trên lầu đi xuống, cô dòm bàn ăn thấy chén đũa đặt sẵn-sàng, mà vắng tiếng bà Hội-đồng,
cô bèn hỏi mấy đứa ở trong nhà rằng: “Bà chưa về hay sao? Ði đâu mà từ hồi chiều
tới bây giờ vậy kìa?” Mấy đứa ở nói đồ ăn nguội hết, mà không biết tại sao bà
không về.
Cô Minh-Nguyệt châu-mày, bước ra cửa đứng ngó chừng, mặt có sắc
lo. Cách chẳng bao lâu, có một cái xe hơi ngừng ngay cửa, bà Hội-đồng Quỳnh leo
xuống, đưa tiền cho Biện Huỡn trả tiền xe, rồi bà xâm-xâm đi vô nhà. Cô
Minh-Nguyệt bước ra mừng mẹ, miệng cười và hỏi rằng: „Má đi chợ mua giống gì
đâu mà lâu dữ vậy, ở nhà con lo quá!“ Bà Hội-đồng đáp cụt-ngủn rằng: „Lo giống
gì? Ði có chuyện mà về mau sao được”.
Bà Hội đồng lột khăn thay áo, bộ bà quạu lắm, cô Minh-Nguyệt
không dám hỏi nữa, bèn lo biểu trẻ ở dọn cơm. Bà Hội-đồng ngồi ăn cơm với con,
má bà không thèm ngó con, lại cũng không nói chi hết. Cô Minh-Nguyệt tánh
hòa-huỡn, nói dịu-dàng, cô thấy mẹ cùn quằn không vui, thì cô lo trong lòng, một
lát cô liếc mắt dòm lén một cái mà thôỉ, chớ không dám nói.
Ăn cơm rồi, bà Hội-đồng lên lầu, ngồi trên bộ ván cẩm-lai têm
trầu mà ăn. Cô Minh-Nguyệt bước lên coi mẹ có sai-khiến việc gì không. Bà thấy
cô thì nói rằng: “Con Minh-Nguyệt lại đây biểu chút”.
Cô rón-rén bước lại đứng trước mặt mẹ chờ lịnh. Bà ngồi xỉa
thuốc long-mốt, mà ngó ngay ngoài cửa một hồi rất lâu, rồi tằng-hắng một tiếng
thật lớn mà nói rằng: “Việc chồng đi nói mầy đã hư rồi. Không làm đám cưới, đám
hỏi gì đâu, đừng có lo may áo nữa mà thất-công”.
Cô Minh-Nguyệt chưng-hửng, nghẹn-ngào nói không được. Cô ứa
nước mắt mà hỏi rằng : “Sao vậy má? Tại ai mà hư việc hôn-nhơn của con?”
Bà Hội-đồng ngó con mà đáp rằng:
- Tại thằng cha mầy chớ tại ai. Nó khốn-nạn lắm, nó không chịu
ký tên cho phép mầy lấy chồng thì làm sao mà lập hôn-thú cho được.
- Cha của con ở đâu bây giờ?
- Nó làm thợ sơn ở trên chợ Xã Tài.
- Cha của con nói làm sao mà không chịu ký tên?
- Nó nài phải cho nó gặp mặt ông Tấn-sĩ đặng nó biết ông, rồi
nó mới chịu ký. Ðồ ăn mày mà nhiều chuyện! Ông Tấn-sĩ thấy mặt nó thì mình mang
xấu cả đám hết thảy, cho thấy mặt sao được Tao nghĩ thiệt tao giận lắm. Không
biết ai khiến hồi trước tao đụng người đó mà sanh mầy ra làm chi, nên bây giờ
phải chịu nhọc lòng như vầy. Phải tao dè ngày sau khó dễ, thì hồi đẻ tao không
cho khai sanh hay hơn. Nó vịn cớ khai sanh, nó có quyền làm cha mầy, rồi nó nói
động óc chịu không nổi.
Cô Minh-Nguyệt nghe mẹ nói như vậy, cô đau-đớn trong lòng
quá, đau về nỗi hôn-nhân trắc-trở, mà lai đau về câu nặng nhẹ thân cha, bởi vậy
cô bước lại cái ghế để gần đó mà ngồi, lấy khăn đậy mặt mà khóc tấm-tứ tấm-tủi.
Cách một hồi lâu cô mới nói rằng:
- Tại cha con bỏ con hơn 10 năm rồi, cha con không nuôi dưỡng
con, nên cha con mới không biết thương con. Vậy con xin má cho phép con đi lên
chợ Xã Tài kiếm cha con mà nói phải quấy cho cha con hiểu. Ví như thiệt cha con
không thương con, muốn phá cuộc hôn-nhân của con, thì con chết phứt cho rồi,
cho trọn niềm cha con.
Bà Hội-đồng ngồi lặng thinh suy-nghĩ rồi hỏi rằng:
- Mầy muốn kiếm cha mầy đặng nói giống gì?
- Con muốn hỏi cha con có cái công nuôi dưỡng dạy dỗ con hồi
nào đâu, mà bây giờ lại sanh chuyện làm khó cho con như vậy?
- Mầy muốn đi thì mai tao biểu thằng Biện Huỡn nó dắt cho mà
đi. Nè, mà tao nói trước cho mà biết, cha mầy bây giờ nó nghèo rồi nó láo-xược,
gian-xảo, khốn-nạn lắm. Nó nói giống gì cũng đừng tin nó. Nó gặp mầy đây chắc
nó bày chuyện nói xấu cho tao, vì nó xin tiền không được nó oán tao lắm. Mầy phải
liệu nói sao cho nó mắc-cỡ đặng nó ký tên, chớ nếu nó không ký thì có làm đám
cưới được đâu. Mà tao lén tao cho mầy đi đây mầy phẩi kín miệng, chừng ba mầy ở
Long-hải về đừng có nói cho ổng hay. Lại ông Tấn-sĩ chưa biết cha mầy là ai ở
đâu. Xưa rày tao giấu, tao nói cha mầy cờn ở trên Battambang khẩn đất làm ruộng
và mua thủy-lợi Biển-Hồ. Mầy phải nói với ông Tấn-sĩ như vậy, chớ đừng có xì ra
thành tao nói láo với người ta.
- Thưa má, con biết. Chuyện xấu của mình, con dại gì mà khai
cho người ta hiểu.
- Ðược. Thôi, để mai rồi tao cho đi.
CHƯƠNG 5 -
B
ữa sau, bà Hội-đồng kêu Biện Huỡn vào phòng giấy, bà nói nhỏ
mà căn-dặn trót một giờ đồng-hồ rồi liệu gần đến giờ gặp ông Cử được, bà mới biểu
kêu xe hơi lô-ca-xông mướn cho cô Minh-Nguyệt với Biện Huõn đi lên chợ Xã Tài.
Từ ngày cô Minh-Nguyệt theo mẹ về Bến-Lức mà ở cho tới ngày
nay tính đã hơn 10 năm, cô không gặp mặt cha lần nào, mà cũng không nghe mẹ nóì
cha ở đâu, làm nghề gì. Hôm nay cô nghe nói cha làm thợ sơn ở chợ Xă Tài thì cô
lấy làm lạ. Tại sao mà làm thợ sơn? Tại sao mà lên ở chợ Xã Tài? Cô định trí mà
nhớ chuyện cũ lại. Cô nhớ mài-mại hồi cô còn nhỏ thì cha hay bồng-ẵm, nựng-nịu
cô, cha có râu, miệng hay cười nói dịu-ngọt. Cha ở một cái nhà lớn, trong nhà
có bàn ghế tốt, chung-quanh nhà có vườn trồng cau, dừa, mít, mận. Tại sao bây
giờ lại làm thợ sơn ở trên chợ Xã Tài. Cô Minh-Nguyệt ra đi mà trong lòng không
vui, nên mặt không tươi-tắn.
Cô mặc một bộ đồ lụa trắng, đầu choàng khăn cũng trắng, cô
đeo sơ một sợi dây chuyền nhận hột xoàn nhỏ, song tai cô đeo một đôi bông, và
tay cô đeo một chiếc vàng nhận hột xoàn thiệt lớn. Mặt cô cũng dồi phấn sơ-sài,
mà môi không thoa son, chơn mày không vẽ mực. Tuy vậy mà nước da cô trắng đỏ
gương mặt cô có duyên ngầm, bởi vậy tay xách bóp đầm, chơn mang dày thêu, bước
lên xe coi thiệt là đẹp.
Xe chạy khỏi Chợ Lớn, cô bèn hỏi Biện Huỡn rằng:
- Anh Biện, anh biết cha tôi nhiều hôn?
- Hồi trước tôi làm Biện cho ngài.
- Nghe nói hồi trước cha tôi làm Cai-Tổng phải hôn?
- Thưa phải.
- Tại sao bây giờ lại làm thợ sơn?
- Cái đó tôi không hiểu.
- Tại sao rná tôi thôi cha tôi mà lấy chồng khác?
- Cái đó tôi cũng không hiểu.
- Anh giấu, chớ hồi trước anh làm Biện cho cha tôi mà không
hiểu sao được.
- Thiệt chớ.
Cô Minh-Nguyệt cười gằn rồi hỏi rằng:
- Anh thương cha tôi hồn. Cha tôi nghèo lắm hả?
Biện Huỡn nghe hỏi tới mấy câu đó thì anh ta ứa nước mắt, nghẹo
cổ, day ngó cô Minh-Nguyệt rồi mới đáp rằng:
- Ngài bây giờ nghèo lắm. Tôi thấy tôi đứt ruột.
Cô Minh-Nguyệ mở bóp lấy khăn chặm nước mắt. Bữa nay ông Cử với
Ba Sang đi làm về một lượt, cất nón, rửa mặt rồi sửa-soạn dắt nhau lại quán chị
Năm Tiền mà ăn cơm.
Hai người mới bước ra cửa thì xe hơi của cô Minh-Nguyệt đã chạy
tới ngừng ngay đó. Biện Huỡn leo xuống xá ông Cử, cô Minh-Nguyệt biết người nầy
là cha mình, nên cô lật-đật xách bóp leo xuống xe. Ông Cử và Ba Sang đều đứng
ngó sững cô. Cô nói: “Cha, con đây, cha”, rồi cô đứng ngó ông, nước mắt tuôn dầm-dề.
Biện Hưỡn với Ba Sang đứng dan ra xa, thấy cảnh cha con gặp nhau như vậy, thì
hai người cũng động lòng. Ông Cử nói: „Con vô đây“ rồi ông Cử trở vô nhà. Cô
Minh-Nguyệt đi theo, lụy sa không dứt.
Ðèn dầu lửa lờ-mờ. Ông Cử ngồi trên một cái ghế đẩu, tay chống
trán, mắt ngó con mà nói rằng: “Con còn nhớ cha hay sao ? Cha con phân cách
nhau đã hơn 10 năm, mà con còn nhớ cha…”. Ông nói có mấy lời, rồi trong lòng cảm
quá, nói nữa không được, ông ngồi khóc, nước mắt nước mũi chàm-ngoàm. Cô
Minh-Nguyệt đứng một bên cha, cô cũng khóc.
Cách một hồi lâu, cô Minh-Nguyệt mới hỏi rằng:
- Tại sao mà cha không thương con, cha đành bỏ con?
Ông Cử khóc một hồi nũa rồi đáp rằng:
- Thú-vật còn biết thương con, huống chi loài người. Cha lìa
con, cha đau-đớn thế nào duy có Trời-Ðất biết cho cha mà thôi. Mà chuyện xưa
con chẳng cần biết làm gì. Cha khuyên con hãy tin rằng cha mà xa con, ấy là sư
bất đắc dĩ mà thôi chớ không phải ý cha muốn như vậy.
Cô Minh-Nguyệt hỏi tiếp rằng :
- Ðến cha mà cha cũng còn giấu con, thì con biết hỏi ai?
- Con hỏi làm chi ?
- Hỏi cho biết cái căn-nguyên của con chớ. Hay là tại mẹ con
có lỗi điều chi với cha, nên cha phiền mà bỏ hết mẹ con của con?
- Cha mẹ là đứng tạo-hoá của con. Làm con chẳng nên nghi cha
mẹ. Nhứt là mẹ con có công sanh thành, mang nặng đẻ đau, lại còn có công dưỡng
nuôi dạy-dỗ. Vậy con chẳng nên nghi mẹ con có lỗi, nếu con nghi thì là trái
thiên-luân lắm.
Hai cha con lặng-thinh một hồi nữa rồi ông Cử nói rằng:
- Cha biết mẹ con nó khứng cho con tới đây đặng con gặp mặt
cha là tại việc hôn-nhơn của con. Cha đã cắt nghĩa rồi mà coi bộ mẹ con không
hiểu. Chẳng phải cha làm khó không chịu ký tên cho phép con lấy chồng, đặng làm
ngăn-trở cuộc hôn-nhơn của con đâu. Vì con lấy chồng mà buộc cha phải ký tên
cho phép, nên cha nài xin cho biết chàng rể rồi sẽ ký tên chớ. Con nghĩ đó mà
coi, nếu không biết chàng rể mà nhắm mắt ký tên, thì còn gì thể-diện của cha.
Phận con làm con, há con đành để cha nhục hay sao?
Cô Minh-nguyệt đứng suy-nghĩ rồi đáp rằng :
- Cha nói con hiểu rồi, nếu cha không biết mặt chồng của con
mà cha ký tên cho phép thì ngày sau chồng của con biết cha đâu. Cha nài như vậy
phải lắm.
- Nghe nói người xin cưới con đó học giỏi mà lại giàu lớn lắm
phải hôn?
- Thưa phải. Nhưng mà con ưng người ấy, con hứa làm bạn trọn
đời, không phải là tại con ham học giỏi hay là ham giàu. Con ưng người là vì
con thấy tánh-tình được lắm, nên con mới ưng.
- Con biết chọn-lựa như vậy thì cha khen con lắm. Tánh con
như vậy thì mới thiệt giống cha. Vậy thôi con biểu người ấy đến thăm cha, cho
cha biết rồi cha ký tên liền cho con làm đám cưới.
Cô Minh-Nguyệt suy-nghĩ một hồi nữa rồi cô nói rằng:
- Việc nầy thiệt là khó tính. Ðời nầy thiên-hạ thường ham
giàu khinh nghèo. Hồi nãy con nói với cha rằng tánh-ý của ông Tấn-sĩ cũng được
lắm, là con thấy bề ngoài mà thôi, chớ con chưa gần-gũi người nên con không thấu
hiểu tâm-để của người được. Nếu con biểu người đến thăm cha thì chắc đi liền,
ngặt vì người thấy cha ở chỗ như vầy, dầu người không khinh-bỉ cha con mình, mà
con nghĩ cũng thẹn-thùa cho phận cha quá.
Ông Cử nói rằng :
- Người đó thương con hay không?
- Con chắc thưong con, mà lại trọng con lắm.
- Còn con thương người đó hay không?
Cô Minh-Nguyệt day mặt vô vách lấy khăn lau nước mắt và nói
nhỏ-nhỏ rằng:
- Con cũng thương nhiều, nếu con không thương thì con ưng sao
được.
Ống Cử ngồi ngó chăm-chỉ ngọn đèn rồi ông thở dài mà nói rằng:
- Thôi, cha vì con, cha không cần danh-giá, thể-diện gì nữa hết.
Bây giờ con muốn lẽ nào, cha cũng vui lòng làm y theo hết thảy miễn là hôn-nhơn
của con thành thì thôi, thân cha khồng kể gì”.
Cô Minh-Nguyệt day lại đáp rằng:
- Thưa, cha nói như vậy không được. Thà là con không lấy chồng,
chớ con đâu đành lo cho được việc của con mà để cho cha bị người ta khinh-bỉ. Bề
nào con cũng buộc người đi nói con phải giáp mặt cho biết cha rồi mới cưới con
được. Ngặt có một điều nầy là má con đã nói dối lỡ với người ta rằng cha ở trên
Battambang lo làm ruộng và mua thủy lợi, công việc đa-đoan không thể xuống Sài
Gòn được. Bây giờ nếu con cho người ta hay cha ở đây, lại ở chỗ như vầy, thì
lòi cái sự gian-dối, má con với con mắc cỡ chịu sao được.
Cô nín mà suy nghĩ rất lâu, rồi nói tiếp rằng:
- Con tính được rồi, song con xin cha phải chịu cực lòng mà
giả-dối một chút, thì mọi vệc đều xong.
- Giả-dối cách nào?
- Ðể con may áo quần tử-tế cho cha mặc, con mướn một căn
phòng nhà hàng dưới Sài Gòn cho cha ở, rồi con nói với ông Tấn-sĩ Càng rằng cha
ở trên Battambang mới xuống đặng ký tên tờ cho phép con lấy chồng. Ổng nghe nói
như vậy, tự-nhiên ổng tìm đến nhà hàng mà thăm cha. Cha gặp ổng rồi thì cha ký
tên. Cha chịu khó giả-dối một chút đó.
- Ví như chừng cưới rồi, người nài lên Battambang kiếm thăm
cha, rồi không có cha mới làm sao?
- Cái đó không lo gì. Con đủ lời biện-bạch được. Ví như đi kiếm
không được thì thôi, con có tới nhà cha lần nào đâu, mà biết chắc chỗ cha ở được.
- Cha nghèo, cha có tiền đâu mà sắm áo quần cho tử-tế nhứt là
trả tiền nhà hàng . . .
- Việc đó xin cha đừng nghĩ tới làm gì mệt bụng. Ðể một mình
con lo. Cha ở nhà hàng tới Tết con chịu cũng nổi, huống chi ở năm, mười bữa.
- Thôi, con muốn tính lẽ nào cũng được. Vì thương con nên cha
không kể chi hết.
- Mà cha phải nói dối rằng cha ở trên Battambang mới xuống
đa.
- Cũng được nữa.
- Ngày nay con mới hiểu cha thương con, chớ có phải phân-cách
nhau rồi cha không thương đâu. Thôi, sáng mai cha vô sở cha làm đó mà xin phép
nghỉ năm, mười ngày rồi về ở nhà chờ con. Hễ ăn cơm sớm mơi rồi thì con ra đây
rước cha đi xuống Bến Thành đặt áo quần, mua giày vớ và mướn nhà hàng cho cha ở.
Ông Cử gặc đầu, cô Minh-Nguyệt mừng quá, căn-dặn ngày mai lối
l l giờ, ông phải ở nhà chờ cô, rồi cô từ-giã ông, kêu Biện Hưỡn đi về.
Xe chạy rồi, ông Cử kêu Ba Sang mà hỏi rằng:
- Nãy giờ cháu ở đâu?
- Tôi ngồi ngoài lộ nói chuyện chơi với anh Biện. Nè, anh Biện
ảnh thương, mà ảnh phục chú lắm. Còn cô hai coi bộ cô tử-tế quá. Anh Biện nói
cô học giỏi, thi đậu bằng cấp Tài-Năng rồi phải hôn?
- Ừ.
- Cô sửa-soạn lấy chồng phải hôn?
- Ừ. Cháu nè, việc nhà của chú, chú không muốn cho ai biết hết.
Vậy cháu nghe lời chi, hay là thấy việc chi thì cháu để bụng, đừng có học lại
cho anh em ở chợ nầy họ biết làm chi.
- Chú tưởng tôi dại sao? Chuyện nhà của chú ai đi học cho
thiên-hạ hay làm gì.
Hai người khóa cửa dắt nhau lại quán ăn cơm.
Cồ Minh-Nguyệt về thuật lại cho mẹ hay chuyện mình đã tính với
cha. Bà Hội-đồng Quỳnh lấy làm mừng, mà nói rằng: “Con tính cái đó hay lắm. Làm
như vậy thì vẹn toàn, khỏi lòi cái dối của má, mà con cũng được xuôi việc nữa.
Con cứ làm đi, dầu tốn hao năm ba trăm má không tiếc, miễn là được việc thì
thôi“.
Sáng bữa sau, ông Cử vô sở xin phép nghỉ 10 ngày rồi trở về
nhà nằm chờ con; l l giờ trưa cô Minh-Nguyệt với Biện Hưỡn đi một cái xe kiếng
đến rước ông xuống chợ Bến-Thành. Cô Minh-Nguyệt dắt ông Củ vô tiệm may đặt may
cho ông một cái áo tố xanh thêu bông bạc, hai cái áo cổ giữa, hai cái áo dài trắng,
hai bộ áo mát bằng lụa trắng, một cái quần lãnh đen, dặn phải may cho mau, chiều
bữa sau phải cho rồi một bộ áo dài với một bộ đồ mát. Cô lại dắt ông đi lựa mua
một cái khăn đen, một đôi giày Tây da láng, một đôi giày hàm ếch, một cây dù, một
cái va-ly da, và mua vớ, mua khăn mu-soa đủ hết.
Ðặt áo quần, mua đồ-đạc xong rồi, cô đưa về chợ Xã Tài, hứa
chiêu bữa sau cô lấy áo quần đem lên cho ông mặc tử-tế rồi sẽ đem ông xuống Sài
Gòn mướn phòng cho ông ở.
Khi cô Minh-Nguyệt từ giã cha mà về cô mở bóp lấy ra một trăm
đồng bạc mà đưa cho cha và nói rằng: “Cha hãy cất cái nầy để mà xài vặt còn tiền
đặt áo quần và tiền phòng, tiền ăn để cho con trả riêng. Ông Cử từ chối, không
chịu lấy tiền, Cô bỏ đại trên bàn mà nói: „Tiền của con, cha đừng ngại chi hết.
Chừng con có chồng rồi, con còn tính việc khác nữa, chớ con không đành để cho
cha hèn-hạ cực-khổ như vầy đâu.”
Chiều bữa sau, cô cũng đi với Biện Hưỡn ra tiệm may lấy áo quần
đem lên cho ông Cử mặc tử-tế rồi rước ông xuống nhà hàng “Nam-Kỳ Palace” mướn một
cái phòng thượng-hạng cho ôngg ở xưng-đáng. Ông ở nhằm phòng số 2 trên lầu,
phòng rộng rãi, trong có chỗ ngủ, ngoài có chỗ rước khách. Tuy ông có áo quần tốt
song ông cũng còn đem một bộ đồ thợ sơn theo.
Minh-Nguyệt để Biện Huỡn ỏ tại đó mà phục-sự ông, và cô có
nói bữa nào Tấn-sĩ Càng đến thăm, thì cô sẽ cho hay trước, rồi từ-giã mà về. Cô
Minh-Nguyệt về rồi, ông Cử mặc áo tốt đi qua đi lại trong phòng, ông ngó Biện
Huỡn mà cười và nói rằng : “Từ ngày qua khôn-lớn cho tới bây giờ, dầu nguy-biến
đến thế nào, qua cũng chẳng hề chịu giả-dối. Bây giờ, qua vì thương con mà phải
mang lốt làm hề như vầy, em thấy hay không, Biện ?“
Biện Huỡn đáp:
- Ái tử chi tâm vô sở bất chí. Ngài vì thương con mà phải giả-dối,
tôi nghĩ có tội gì.
- Nhằm, nhằm lắm! Mà ai biết cho qua?
- Tôi biết.
Ông Cử gặc đầu mà cười rồi thay áo mát đỉ nghỉ.
Bà Hội-đồng Quỳnh nhờ sức con mà được mãn-nguyện, bởi vậy bà
vui-vẻ chớ không còn quạu-quọ với con nữa. Bà viết thơ sai người cầm ra Sài Gòn
mời ông Tấn-sĩ Càng vô cho bà nói chuyện.
Ông Tấn-sĩ Thái Duy Càng ở tại nhà chú, là ông Nghị-viên Quản-hạt
Thái Duy Cư gần Chỡ-Ðũi. Khi tiếp được thơ, ông lật-đật thay áo quần rồi kêu
sơp-phơ đem xe hơi ra cho ông đi Lò Gốm.
Bà Hội-đồng Quỳnh thấy ông Tấn-sĩ bước vô, bà chào hỏi vui-vẻ
và mời ông ngồi lăng-xăng. Cô Minh-Nguyệt là gái tân-học, lại mẹ rèn tập
tánh-tình theo gái kim-thời, bởi vậy cô cũng ra chào ông Tấn-sĩ rồi ngồi gần một
bên, không ké-né chút nào.
Bà Hội-đồng nói vớ ông Tấn-sĩ:
- Má kêu con vô đặng nóỉ cho con hay. Cha của con Minh-Nguyệt
ở trên Battambang mới xuống hồi hôm.
- May dữ hôn! Cha con ở đâu bây giờ má?
- Ở ngoài Sài Gòn. Hôm trước má nói với con rằng ổng mắc công
việc làm ăn bề-bộn lắm, ổng xuống không được, nên má biểu Nô-Te làm giấy tơ sẵn
đặng con Minh-Nguyệt gởi cho ổng ký tên. Hổm nay ổng không trả giấy tờ lại, té
ra ổng để ổng cầm xuống chớ ổng không chịu gởi. Ổng xuống tới, ổng mới nhắn cho
con Minh-Nguyệt hay đó.
- May lắm! Vậy thì đám cưới tính gắp được rồi, mà đám cưới có
cha dự nữa, thì con vui không biết chừng nào. Ðể con đi thăm cha và con năn-nỉ
đặng cha con ở mà làm chủ hôn luôn thể. Cha con ở ngoài Sài-gòn, mà ở nhà nào vậy
má^?
- Con hỏi con Minh-Nguyệt, chớ má có biết đâu.
Ông Tấn-Sĩ day qua mà cười; ông chưa kịp hỏi thì cô Minh-Nguyệt
đã nói trước: „Cha ở nhà hàng „Nam-Kỳ Palace” phòng số 2. Cha nhắn anh Biện Huỡn
ra, rồi cha bắt luôn ảnh ở ngoải“.
Ông Tấn-sĩ đứng dậy, mắt ngó vợ rất hữu tình, rồi thưa với bà
Hội-đồng: “Thưa má, nếu má không còn dạy con việc chi nữa, thì con xin phép má
cho con về đặng con đi thăm cha con một chút. Bề nào con cũng năn-nỉ xin cha
con ở luôn tới đám cưới. Con xin được hay không, tối con cũng trở vô mà cho má
hay“.
Bà Hội-đồng đáp :
- Má không có nói chuyện gì nữa. Con muốn về thì về song việc
đi thăm đó có gắp gì, chiều hay là mai con đi cũng được mà.
- Thưa, con phải đi liền, nếu để trễ thì con lỗi lắm. Còn ba
đi hứng gió ngoài Long-hải chừng nào ba về má há?
- Ổng có gởi thơ nói mai mốt gì đây ổng về. Phải về đặng lo
đám cưới, chớ một mình má lo sao cho nổi. Ổng lấy xe hơi ổng đi hổm nay, ở nhà
đi mua đồ không có xe, thiệt bất tiện hết sức.
- Thôi, má lấy xe của con đây mà đi.
- Lấy xe của con rồi con đi đâu con làm sao?
- Thưa, con có xe của chú con.
- Không được đâu. Thôi, để coi như mai mốt ổng chưa về rồi sẽ
hay. Nè mà con đi thăm cha con thì được, chớ mời ổng ở tới đám cưới sợ e không
được, vì công việc làm ăn của ổng đa-đoan lắm.
- Thưa, má để đó mặc con.
Ông Tấn-sĩ về rồi, bà Hội-đồng lo nếu ổng mời mà ông Cử chịu
dự đám cưới, thì cô Minh-Nguyệt có tới hai cha; khó coi lắm, Cô Minh-Nguyệt an-ủi,
khuyên mẹ đừng lo, cô đoán chắc dầu mời thế nào cha cô cũng không chịu ở.
Ông Tấn-sĩ Càng mặc y-phục rất tinh-khiết song ông mặc đồ trắng,
sợ đi thăm cha vợ như vậy thất lễ, bởi vậy ông về nhà mà thay đồ, ông mặc một một
bộ đồ nỉ đen thiệt mới, đổi bâu cứng, thắt nơ đen, rồi mới lên xe ra nhà hàng
“Nam-Kỳ Palace”.
Ông lên tới phòng số 2 thấy Biện Huỡn đứng ngoài cửa, ông đưa
ra môt miếng danh-thiếp và hỏi rằng :
- Anh Biện, tôi nghe nói có ông gia tôi xuống, nên tôi lật-đật
ra thăm. Có ông gia tôi ở trong phòng hay không?
- Thưa có. Ngài nằm trong phòng.
- Ông gia tôi thức hay ngủ?
- Thưa, thức.
- Anh làm ơn đưa danh-thiếp nầy cho ông gia tôi, và thưa có
tôi đến, xin phép vô thăm một chút.
Biện Huỡn bước vô phòng, ông Tấn-sĩ đi lại đứng dựa cửa sổ
ngó xuống đường chơi mà chờ. Ông Cử hay có rể lại thăm, thì ông liền mặc đồ dài
đàng-hoàng, rồi biếu Biện Hưỡn mời vô. Ông Tấn-sĩ Càng bước vô cửa phòng thấy
ông Cử ngồi nghiêm-chỉnh tại phòng rước khách thì ông đứng ngay lại, cúi đầu
chào theo lễ Tây. Ông Cử đứng dậy, bước ra nắm tay chào rồi dắt vô chỉ một cái
ghế mà mời ngồi. Ông liếc mắt ngó chàng rể thấy tuổi chừng 25, 26, nước da trắng-trẻo,
gương mặt thông-minh, tướng-mạo đoan-trang, hình-dạng dong-dảy, ông đã bằng
lòng.
Ông Tấn-sĩ ngồi ghé nửa cái ghế rồi nói rằng:
- Con mới hay tin cha xuống, nên con lật-đật ra đây mà mừng
cha. Theo như lời má con nói, thì hổm nay con tưởng đám cưới xong rồi, vợ chồng
con cũng dắt lên Battambang mà làm lễ lạy cha, nhưng nếu đám cưới mà thiếu cha,
thì sự vui-mừng của vợ chồng con đã mất một phân nửa.
Ống Cử gặc đầu đáp rằng :
- Phải. Việc nhà của cha đa-đoan lắm, hôm trước cha tưởng xuống
không được. Nay rảnh được nên cha phải nhơn vài bữa đi xuống đây, trưóc là cho
biết mặt con, sau nữa ký tên vào tờ giấy cho phép con Minh-Nguyệt lấy chồng
luôn thể.
- Con cám ơn cha lắm. Con xin cha vui lòng ở luôn tới đám cưới
đặng đứng chủ hôn cho bên vợ con luôn thể.
- Sợ e ở không được, công việc nhà của cha không có ai coi.
- Xin cha đánh dây-thép về cậy ai đó coi giùm, đặng cha ở lại
với con cho vui. Ðám cưới mà thiếu cha, thì vợ chồng con buồn lắm. Bên con thì
không có cha mẹ chi hết. Nếu bên vợ con mà cũng thiếu cha nữa, thì đám cưới lợt-lạt
quá đi, tội-nghiệp cho vợ chồng con lắm.
Ông Cử thấy ông Tấn-sĩ Càng lộ vẻ buồn, ông liền kiếm chuyện
khác mà nói. Ông hỏi:
- Con ở học bên Tây hết thảy là mấy năm ?
- Thưa, con đi hồi 15 tuổi, năm ngoái con về con 25 tuổi, con
ở học bên Tây 10 năm.
- Con đi Tây mà học thành danh như vậy thiệt đáng mừng, chớ
có nhiều người đi Tây tốn tiền mà học không ra cái gì hết, chừng về nước chỉ giỏi
cái nghề nhảy đầm, thì uổng công, uổng của biết chừng nào.
- Thưa, con học được thành công thì con không vui chút nào hết.
- Tại sao vậy?
- Thưa cha, đạo làm con người ai cũng vậy, lúc còn nhỏ xuất
thân đi học, ai cũng quyết cho giỏi, học cho thành công, trước là làm vẻ-vang
cho tổ-tông, sau nữa làm vui lòng cho cha me. Phận con đây, cha mẹ đều khuất sớm;
anh em cũng không có, ngày nay con học thành công rồi con vui với ai? Con thưa
thiệt với cha, con mà học được hoàn-toàn, ấy là cái may của con vì con không dè
được vây. Trong 10 năm con ở bên Tây có nhiều lúc con nghĩ tới thân-phận con,
con nhớ cha mẹ không có, thì làm con ngã lòng thối chí, con muốn bỏ mà về không
thèm học nữa làm gì. Cha nghĩ lại mà coi, làm việc chi cũng phải có mục-đích
thì mới phấn-chấn mà làm cho đến cùng được chớ. Con không có cha mẹ, con học đặng
làm vui lòng cho ai? Học không có mục-đích như vậy, thì có vui gì mà học?
- Sao con không lấy quốc-gia hay là xã-hội mà làm mục-đích?
- Thưa cha, có cái gì mà sánh với cha mẹ cho kịp.
Ông Tấn-sĩ Càng nhắc tới cha mẹ thì ông động lòng nên buồn
hiu. Ông Cử thấy rõ người đã học giỏi mà lại có hiếu, thì trong bụng khen thầm,
song ông muốn dọ tánh tình cho đáo-để nên ông lặng thinh, để cho người thong-thả
mà tỏ bày tâm-sự, ông Tấn-Sĩ nói tiếp rằng: “Con mà học được đó, ấy là nhờ cái
chí bền-bĩ của con, nhứt là con sợ mang tiếng “bán đồ nhi phế”. Việc học của
con thì vậy đó. Còn việc hôn-nhơn của con là việc tình-cờ. Con thưa thiệt với
cha, vì con đau-dớn cho phận côi-cút của con từ hồi nhỏ, nên cái tánh của con
thuở nay thường buồn-bực hoài hoài. Ai rủ chơi cuộc gì vui cho mấy đi nữa cũng
không biết vui. Lúc ở học bên Tây cũng vậy, mà từ năm ngoái đến bây giờ con về
bên nây cũng vậy con ưa chơi mấy chỗ thanh-vắng, con ưa nằm một mình mà suy
nghĩ việc đời. Bởi cái tánh của con như vậy nên con không muốn cưới vợ, nghĩ vì
con sợ cưới vợ rồi con làm cho một người đàn-bà ham vui-vẻ, ham bay nhảy phải
chịu cái thói buồn thảm của con đó trọn đời, thì tội-nghiệp cho người ta lắm.
Cách bốn tháng nay, con dự tiệc tại nhà của một viên quan trong Chợ-lớn, tình-cờ
con gặp cô Hai cũng đến dự tiệc ấy. Hai con làm quen nói chuyện với nhau, con hỏi
thăm cô Hai còn đủ cha mẹ hay không, cô nói rằng cô còn đủ cha mẹ, nhưng mà cha
một nơi, mẹ một ngả, mẹ lại lấy chồng khác, thành ra cô phải ở với mẹ và cha ghẻ,
cô nói với con như vậy rồi cô khóc. Con về nhà, con suy nghĩ, con biết cô
thân-phận thì khác con, mà tánh-tình lại giống với con lắm, Phận con đau-đớn vì
của mẹ khuất hết, phận cô tuy cha mẹ còn đủ, song không sum-hiệp, nên cũng buồn-rầu.
Hai con cũng đồng một bịnh bi-thảm về ơn sanh-thành. Cách ít ngày con gặp cô
Hai trong một tiệc khác nữa, hai con bày tỏ tánh-tình với nhau, con thấy rõ hai
con tâm đầu ý hiệp con mới thưa với chú con cậy mai đi nói, thiệt quả từ ngày hứa
hôn rồi, con tới lui nói chuyện với cô Hai, thì hai con tánh nết giống nhau lắm,
hễ nhắc tới cha thì cổ khóc liền. Con tưởng hai cái tánh buồn của hai con mà hiệp
lại thì chắc khắn-khít trọn đời, không chinh không mích, mà lại có lẽ đối với
nhau củng bớt buồn chút đỉnh được”.
Ông Cử mang lớp giả-dối là tưỏng làm bướng cho vui lòng con
mà thôi, miễn nó được kết tóc trăm năm với người nó yêu thương và nó khen
đúng-đán, còn phận ông thì ông chẳng kể gì. Nào dè làm giả-dối mà đưọc biết
tình con không quên mình, lại được biết chàng rể có hiếu nghĩa, ông vừa cảm, vừa
mừng, nên gục-gặc đầu mà nói rằng: “Con nói chuyện nãy giờ cha đã hiểu
tánh-tình con hết. Cha có rể như con, cha vui mừng, mà con Minh-Nguyệt có chồng
như con, nó cũng có phước lắm. Theo như lời con nói, thì con uất về phận
côi-cút, còn con Minh-Nguyệt thì nó uất về nỗi biệt-ly, thành ra hai con đều
mang cái thảm trong lòng, cái thảm ấy làm cho phải ngán đường đời, rồi không hưởng
hạnh-phúc gì hết. Cha mới gặp con có một lần đầu, nếu cha đem việc đời ra mà
đàm-luận thì e khiếm-nhã. Nhưng vì tại con đã khởi nói trước làm cho cha thấy
tánh con chán đời, nên cha không lẽ không tỏ ít lời mà khuyên con đưọc. Con hãy
ngó rộng ra ngoài, con hãy suy nghĩ cho xa, ắt con sẽ thấy Trời Ðất sanh ta làm
loài người đây là phạt ta, chớ không phải thưởng ta. Cái kiếp của con người là
cái kiếp khổ, trong mấy chục năm chúng ta sống mà làm người đây là sống đặng chịu
cái khổ hoặc khổ về ly-biệt, hoặc khổ về cơ-hàn, hoặc khổ về gia-dình, hoặc khổ
về xã-hội, hoặc khổ về vật-chất, hoặc khổ về tinh-thần, hoặc khổ về lợi danh,
hoặc khổ về bịnh-hoạn. Tuy Tạo-hoá chia loài người làm nhiều hạng, nhưng mà từ
sang chí hèn, tư giàu chí nghèo, hạng nào cũng phải dãi-dầu về sống gió bụi, hạng
nào cũng phải loi-nhoi trong biển trầm-luân. Ngày nào chúng ta chết thì cái kiếp
khổ của chúng ta mới tạm đình lại được. Phận con đây tuy con giàu lớn, tuy con
học nhiều, song con lại phải chịu cái khổ không có mẹ cha, phận con Minh-Nguyệt
tuy thân nó sung-sướng, song nó lại phải chịu cái khổ phân rẽ cha con. Phận người
khác thì chịu cái khổ hhác nữa, mỗi người đều chịu một cái khổ, nào có sót ai. Ấy
vậy con chẳng nên thấy cái khổ của con mà ngao-ngán. Con làm người thì con phải
tập cho có đủ can-đảm mà chịu các cái khổ của loài người, nếu con thấy khổ mà
thối chí ngã lòng thì ai cho con là người cứng-cỏi, Theo như lời con nói hồi
nãy, thì con buồn rầu là tại sự sống của con không có nghĩa, tại cái đời của
con không có mục-đích. Bây giờ nếu con muốn đổi cái tánh buồn mà làm thành tánh
vui, muốn hưởng chút đinh hạnh-phúc trong cõi dương-trần, thì con phải kiếm mục-đích
đặng làm chủ-hướng mà sấn bước trong đường đời. Mục-đích chẳng thiếu gì, duy phải
biết lựa cái cao mà theo, phải biết lọc cái thấp mà tránh. Con chẳng phảỉ là thầy
tu, con còn vướng nợ trần, theo ý cha thì con nên lấy quốc-gia mà làm mục-đích.
Con chủ tâm làm cho vẻ-vang nước nhà, làm lợi ích cho xã-hội. Hễ con vui với
cái chủ-nghĩa của con thì con quên cái khổ-não của loài người, rồi tự-nhiên con
hăng-hái mà bước trong đời, hết chán-ngán, hết ngã lòng nữa. Con là người có học-thức
rộng. Cha nói sơ ít lời thôi, để sau con chiêm-nghiệm rồi sẽ biết cha nói phải
hay là nói quấy”.
Ông Tấn-sĩ Càng ngồi chăm-chỉ nghe, chừng ông Cử dứt lời, ông
liền đáp: “Những lời cha dạy bảo con coi như vàng như ngọc. Tuy cha nói sơ, mà
con đã hiểu nhiều, con nghĩ chẳng khác nào như thuở nay con đi đường tối, bây
giờ cha rọi đèn sáng-sủa cho con bước cho dễ vậy. Từ rày về sau con sẽ ráng làm
theo lời cha dạy, đặng gỡ cái mối thương tâm, mà hưởng chút đỉnh hạnh-phúc với
đời”.
Ông Cử cười. Hai người mới gặp nhau, nói chuyện chưa bao
nhiêu, mà coi bộ tương-đắc lắm, cha vợ khen chàng rể, mà chàng rể cũng phục cha
vợ.
Ông Tấn-sĩ Càng đứng dậy thưa rằng: „Chú của con mắc đi Bạc-Liêu
nên chưa hay có cha xuống Sài-gòn. Mai chú của con về, chắc là chú sẽ ra thăm
cha. Bây giờ con xin cha một điều là cha ở luôn đặng chứng đám cưới củo hai
con. Nếu cha không nhận lời thì hai con buồn lắm”.
Ông Cử châu mày đáp rằng :
- Cha liệu khó ở cho tới đám cưới được.
- Thưa cha, phận con không còn cha mẹ. Con tính cưới cô Hai
thì cha mẹ của cô là cha mẹ của con. Mấy tháng nay tuy con chưa biết cha, song
con thường nói với cô Hai rằng con sẽ thương cha cũng như cha ruột con vậy. Nay
con gặp cha, con biết cha, thì con mừng quá, con muốn sao cha con đừng rời
nhau. Con xin cha đừng làm vỡ tan sự mừng của con tội-nghiệp.
- Con biết thương cha như vậy thì cha cảm tình lắm. Ngặt vì
cái phận của cha kỳ quá, xin con xét giùm. Cha không có nhà cửa ở đây. Ðám cưới
làm tại nhà má con mà cha không tới đó được. Như cha dự đám cưới thì cái địa-vị
của cha khó coi quá đi.
- Thưa cha, việc đó cha dừng ngại. Con hiểu cái địa-vị của
cha là khó thiệt. Bởi vậy con mời cha ở dự đám cưới, con đã tính cho cha bữa
cưói đó cha ở tại phòng quan Ðốc-Lý Thành-phố đặng chứng lễ hôn-thú rồi cha đi
thẳng lên nhà con mà dự tiệc, chẳng cần phải vô Lò Gốm làm chi nữa. Cha dự lễ
đám cưới như vậy thì có điều chi phạm đến danh-dự của cha đâu mà cha ái-ngại.
Xin cha vui lòng nhận lời con, ở lại mà chứng cuộc hôn-nhân của hai con, cho
hai con hưởng nhờ phước đức của cha với.
- Con đã nói hết lời, thôi để cha tính lại thử coi.
Ông Tấn-sĩ thấy cha muốn xiêu lòng thì mừng quá, nói chuyện một
hồi nữa rồi từ mà về, hẹn để mai rồi sẽ trở lại.
Ổng về rồi, Biện Huỡn bước vô phòng thấy ông Cử ngồi mặt
tươi-rói, mới hỏi:
- Bẩm ngài, ngài coi ông Tấn-sĩ tánh tình được hay không?
- Ðược lắm, được lắm! Người theo năn-nỉ quá nên chắc qua phải
ở luôn tới đám cưới.
- Nếu được như vậy thì càng tốt. Cô Hai cổ dặn riêng tôi, cô
nói ngài ở tới chừng nào tôi cũng ở theo đây mà phục-sự ngài luôn luôn. Cô có
giao tiền bạc cho tôi nhiều đặng trả tiền phòng tiền ăn và tiền xe, hễ hết về lấy
thêm, xin ngài đừng lo.
- Em biết Nô-Te ở đường nào, em dắt qua lên đó ký tên phứt
cho rồi.
- Tôi biết. Bây giờ còn sớm, thôi ngài sửa soạn đi với tôi.
Ông Cử đi với Biện Huỡn lên phòng Nô-Te mà xin ký tên. Ông
Nô-Te cười và hỏi ông đã gặp mặt rể rồi chưa. Ông Cử cũng cười mà đáp rằng: “Gặp
rồi nên tôi mới chịu ký tên đây chớ ».
Còn ông Tấn-sĩ Càng gặp được cha vợ và thấy cha vợ tỏ ý muốn
chịu ở tới đám cưới, thì ông mừng quýnh nên biểu sớp-phơ chạy thẳng vô Lò Gốm
mà nói cho mẹ vợ và vợ hay. Cô Minh-Nguyệt lộ sắc mừng, còn bà Hội-đồng Quỳnh
thì im-lìm, coi bộ không vui. Ông Tấn-sĩ hiểu ý mẹ vợ, nên nói : “Ban đầu cha từ
cha không chịu ở. Con năn-nỉ quá, cha động lòng nên cha mới chịu, song cha nói
cha không vô đây để chực đưa dâu đâu. Cha đón ngoài Xã Tây dự lễ hôn-thú rồi tiếp
với hai họ lên nhà con dự tiệc mà thôi. Má nghĩ coi làm như vậy có được hay không
?”
Bà Hội-đồng Quỳnh sợ là sợ chồng cũ tới nhà thì khó coi cho
bà, chớ đón ngoài Xã Tây rồi đi lên đàng trai thì chẳng can-hệ chi, nên bà đáp
: “Làm như vậy cũng được”.
Sáng bữa sau, ông Hội-đồng Thái Duy Cư đi Bạc-liêu về, nghe
nói ông Tổng Ngô Minh Tâm ở Battambang xuống, ông liền biểu cháu dắt ông ra nhà
hàng mà thăm. Hai người gặp nhau nói chuyện vui-vẻ lắm. Ông Hội-đồng Cư mời ông
Cai-Tổng Tâm chiều lên nhà ông ăn cơm.
Ông Cử không biết lấy cớ gì mà từ được, lại theo lễ hễ người
ta thăm mình thì mình phải thăm lại, bởi vậy ông phải ép bụng mà hứa lời.
Chiều bữa ấy ông Tấn-sĩ đem xe hơi ra nhà hàng mà rước cha vợ.
Trong lúc ăn cơm ông Hội-đồng Cư cho hay rằng ông Hội-đồng Quỳnh đi Long-Hải dưỡng
bịnh đã về rồi, và vợ chồng đã bàn tính rồi định ngày rằm, nhằm chúa nhựt,
nghĩa là còn 8 bữa nữa, thì cho làm lễ cưới. Ông Cử nghe nói như vậy thì ông
than còn xa ngày sợ ở không tiện. Ông Tấn-sĩ Càng theo năn-nỉ quá, mà ông Hội-đồng
Cư cũng ân-cần mời hoài, ông Cử không biết tính làm sao được, cùng thế ông phải
hứa lời chịu ở dự lễ cưới.
CHƯƠNG 6 -
Ô
ng Hội-đồng Cao-Xuân-Quỳnh ở Long-Hải về. Bà Hội-đồng tính lấy
lòng chơn-chánh mà đối đãi với chồng nên bà tỏ thiệt rằng có chồng trước của bà
ở Battambang xuống đặng ký tờ cho phép con gái lấy chồng, hiện ở nhà hàng ngoài
Sài Gòn, đàng trai mời quá nên hứa ở luôn tới đám cưới.
Ông Hội-đồng Quỳnh nghe nói như vậy đã không buồn, mà ông tỏ
ý muốn ra nhà hàng kiếm làm quen, đặng bữa cưới gặp nhau khỏi bợ-ngợ. Bà Hội-đồng
cản, bà nói gặp nhau không ích gì, nên ông Hội-đồng mới nghe lời mà dẹp việc ấy.
Ông Cử ở tại nhà hàng mà chờ ngày cưới, tuy mỗi bữa đều có rể
vô phòng thăm, hoặc đem xe hơi rước đi chơi, nhưng mà ông không có làm việc gì
hết, nằm trong phòng hoài bắt buồn trí, nên một buỗi sớm mơi kia ông mặc áo dài,
bịt khăn đen tử-tế, rồi xách dù đi dạo châu-thành chơi. Ông đi tới 10 giờ, trời
nắng nực, ông khát nước, nên ông vào một cái nhà hàng ở đường Kinh-lấp ngồi mà
uống la-ve(#1). Ông ngồi tại một cái bàn để sát lề đường đặng đón ngọn gió hứng
mát, vừa uống la-ve, vừa nhớ cái thú phong-lưu ngày xưa.
Thình-lình Ba Sang mang một giỏ hàng-hoá cành-cành, đi ngang
qua chỗ ông Cử ngồi, anh ta thấy ông thì chưng-hửng, đứng khựng lại mà la: “Ông
Cử”. Ông Cử cũng la: “Ba Sang” rồi đứng dậy nắm tay biểu ngồi uống rượu với
ông. Ba Sang thấy ông ăn mặc đàng-hoàng, áo bông bạc, khăn đen mới, chơn mang
giày Tây, nên anh ta ké-né không dám ngồi.
Hai người đương kéo níu nhau, kẻ ép người từ, kế có xe hơi
ông Tấn-sĩ Càng chạy ngang, ông Tấn-sĩ dòm thấy cha vợ, thì lật-đật biểu sớp-phơ
ngừng lại. Vì trớn xe chạy mau, sớp-phơ không dám thắng gắt, nên chừng xe ngừng
được thì đã khỏi nhà hàng gần 40 thước.
Ông Tấn-sĩ Càng mở cửa leo xuống xe, dặn sớp-phơ đậu đó chờ
ông trở lại nhà hàng chào cha vợ rồi sẽ đi. Ông đi dọc theo lề đường, còn đàng
xa mà ngó thấy cha vợ kéo một anh mang giỏ ăn mặc dơ-dáy, mà biểu ngồi ngang,
anh ấy để cái giỏ một bên, ngồi vỗ vai ông mà nói nới, cười cười như anh em đồng
bực. Ông tấn sĩ lấy làm lạ, ông đứng lại mà suy nghĩ nếu mình thấy mà không
chào thì sợ thất lễ, còn nếu người ta đang nói chuyện kín mà mình xen vô thì
mình không biết điều. Chỗ ông đứng đó cách cái bàn ông Cử ngồi không bao xa,
nhưng vì ông Cử ngồi day lưng về phía đó nên ông không thấy rể.
Ba Sang hỏi ông Cử:
- Việc chú gả con đó đã xong chưa?
- Xong rồi. Hổm nay chú vắng mặt, anh em trên chợ mình họ có
hỏi chú hôn?
- Họ hỏi dữ quá. Tôi giấu, tôi nói chú về thăm nhà. Chừng nào
chú trở về chợ Xã Tài?
- Ðám cưới rồi về.
- Chừng nào làm đám cưới?
- Bữa chúa nhựt tới đây.
- Bữa nay thứ tư rồi, té ra còn có năm bữa nữa. Hèn chi chú
diện đồ coi đúng quá. Hổm nay chú ở đâu?
- Chú ở nhà hàng Tây “ Nam-Kỳ Palace ”. Bữa nào cháu rảnh lại
đẳng chơi. Chú ở phòng số 2.
- Sướng quá, ở nhà hàng ăn đồ Tây!
- Ly rượu của cháu, bồi nó bưng nãy giờ đây. Cháu uống đi chớ.
- Uống rượu đây say chết.
- La-ve mà say giống gì.
Ba Sang bưng ly rượu ực một hơi cạn rốc, rồi đứng dậy nói rằng:
- Thôi để cháu đi, chớ ngồi lâu rủi có ai quen với chú họ thấy
thì kỳ cho chú lắm.
- Nè, bữa nào rảnh hay là tối cháu xuống phòng chú nói chuyện
chơi, nghé.
- Thôi, chú. Chú bây giờ sang-trọng, cháu lân-la như vậy coi
hèn cho chú quá. Ðể chú bình an mà gả con lấy chồng.
- Chú vì con nên chú phải mang lốt làm hề như vầy chớ chú mà
kể gì, nên cháu sợ. Chú coi thiên-hạ như đồ bỏ! Họ đua nhau mà khoe tiền đấu chức,
họ có biết nhơn-nghĩa là gì, cháu.
- Phải, thiên-hạ thì họ vậy đó, chớ phải như bọn mình đâu.
Cha chả, tôi đỏ mặt muốn say rồi đa. Thôi để tôi đi. Ðám cưới rồi về nghe hôn
chú? Chị Năm Tiền chỉ hỏi thăm chú hoài.
Ông Tấn-sĩ Càng đứng núp mấy chậu kiểng, ông nghe hai người
nói chuyện, tiếng đặng tiếng mất, song lúc sau hai người nói lớn nên ông nghe
rõ hết. Ông núp đó là có ý chờ Ba Sang đi rồi ông sẽ bước tới chào cha vợ. Chừng
ông nghe mấy câu chuyện thì ông lấy làm kỳ, tại sao cha vợ mình ở trên
Battambang mà lại quen với người như vậy, tại sao ổng vì con nên mang lốt làm hề,
tại sao Ba Sang nói chuyện với ổng mà lại sợ người quen ngó thấy?
Ông Tấn-sĩ đương đứng suy nghĩ thì Ba Sang tư-giã ông Cử rồi
mang giỏ bước ra, đi ngang trước mặt. Ông Tấn-sĩ không vô chào cha vợ, lại theo
Ba Sang, tính hỏi cho hết việc nhà của cha vợ chơi.
Tới ngã tư, Ba Sang quẹo qua đường khác, ông Tấn-sĩ kêu đứng
lại mà hỏi rằng:
- Nè anh, hồi nãy tôi thấy anh ngồi đằng nhà hàng mà uống rượu
nó chuyện với ông bận áo thêu bông bạc tốt quá, ông đó là ai vậy anh?
- Thầy hỏi chi vậy? Thầy ở sở Mật-Thám hả?
- Không mà. Tôi có một người bà con, tôi không gặp đã hơn mười
năm rồi. Tôi thấy ông nầy giống người bà con của tôi quá, song tôi không biết
phải hay không, nên tôi hỏi thăm vậy mà.
Ba Sang có tánh dè-dặt, nhưng bị một ly lớn la-ve cháng-váng,
không còn kể gì nữa, bởi vậy nghe hỏi thì anh ta liền đáp rằng:
- Ông đó là ông Cử, chú của tôi đa.
- Chú ruột hay là chú cách nào?
- Không mà. Tụi tôi ở chung một căn phố mấy năm nay. Ổng lớn
tuổi hơn tôi nhiều, nên tôi kêu bằng chú. Tuy không bà con song tôi thương ổng
hơn chú ruột tôi nữa.
- Phố ổng ở đâu? Xin anh làm ơn chỉ giùm đặng tôi kiếm tôi
thăm ổng. Phải rồi, ông Cử đó là người bà con của tôi đa.
- Ở trên chợ Xã Tài.
- Chợ Xã Tài chỗ nào?
- Trời ơi, ở Sài Gòn mà không biết chợ Xã Tài? Phú-Nhuận đó.
- Ở Phú-Nhuận thì tôi biết. Cha chả, mà lên đó nhà nhiều rồi
biết căn nào mà kiếm. Tôi muốn cậy anh làm ơn dắt tôi tới chỗ mà chỉ căn nhà
cho tôi biết đặng bữa nào tôi lên thăm khỏi thất công hỏi người ta.
- Tôi mắc đi bán.
- Không hại gì. Tôi bồi thường sự thất công của anh, tôi bồi
thường xứng đáng. Tôi có xe hơi chạy một chút chớ gì.
- Thầy có xe hơi hay sao?
- Có.
- Vậy thì được.
- Anh đứng đây chờ tôi kêu xe lại rước.
Ông Tấn-sĩ bước lại ngã tư, ngoắt sớp-phơ đem xe lại rồi biểu
Ba Sang để giỏ lên xe và leo lên ngồi phía sau với ông. Ông biểu sớp-phơ chạy
lên Phú-Nhuận rồi day lại hỏi Ba Sang rằng:
- Anh nói anh ở chung một căn nhà với ông Cử phải hôn?
- Phải. Nè, mà tôi nói lén cho thầy biết thầy đừng nói lại với
ai. Tụi tôi kêu ổng bằng ông Cử quen miệng, chớ thiệt ổng là một ông Cai-Tổng cựu
dưới Mỹ-tho. Tôi mới hay mấy bữa nay, chớ bảy tám năm nay ổng giấu lắm, có ai
biết đâu.
- Ổng ở Phú-Nhuận tới bảy tám năm nay lận sao?
- Chớ sao.
- Ở làm giống gì đó?
- Làm thợ sơn. Tôi mới hay ổng là cựu Cai-Tổng Tâm.
- Làm thợ sơn sao bận đồ tốt dữ vậy?
- Sửa soạn gả con gái lấy chồng. Ổng không chịu, ổng giận bả.
Có người con gái lên khóc quá, nên ổng mới chịu đó.
- Thuở nay con gái ổng tới thăm thường hay không?
- Có đâu. Mới lần thứ nhứt bữa hổm rồi dắt ổng đi đó.
- Anh có biết hồi trước ổng làm Cai-Tổng mà sao ổng bỏ đi làm
thợ sơn hay không?
- Việc đó tôi không hiểu. Ổng giấu không chịu nói, nên có ai
biết đâu. Hôm lên kiếm ổng đây có anh đó kêu là anh Biện, hồi trước làm Biện Tổng
cho ổng có lẽ ảnh biết.
- Còn anh tên gì?
- Tôi tên Ba Sang.
- Anh ở chung với ông Cử mấy năm nay mà anh thương ổng hay
không?
- Thầy hỏi kỳ quá. Không thương thì ở chung sao được. Mà chẳng
những là tôi, thầy hỏi thử hết thảy thiên-hạ ở chợ Xã Tài coi có người nào mà
không thương ông Cử. Thương mà kính phục nữa chớ.
- Tại sao vậy?
- Ổng đúng-đán lắm mà. Ổng ở tử-tế với mọi người hết thảy, ai
có chuyện gì ổng cũng chỉ bảo, binh-vực, giúp đỡ hết. Tụi tôi trọng ổng như cha
vậy.
- Anh mới nói người Biện nào hôm trước kiếm ổng đó, phải Biện
Hưỡn hay không?
- Phải a. Hôm trước tôi nghe kêu tên đó. Sao thầy biết?
- Tôi bà con với ông Cai-Tổng đó, sao lại không biết. Tại tôi
lâu gặp ổng quá, nên tôi nghi tôi mới hỏi anh chớ.
Xe chạy qua khỏi chợ Xã Tài, Ba Sang kêu sớp-phơ biểu ngừng lại.
Ba Sang chỉ một căn nhà lá mà nói: “Tôi với ông Cử ở đây”. Ông Tấn-sĩ xem cùng
sau trước rồi hỏi rằng: “Tôi biết rồi. Bây giờ anh Ba muốn ở luôn trên nầy hay
là trở xuống Sài Gòn? Ba Sang đáp: “Tôi xuống Sài Gòn đặng bán đồ chớ. Từ sớm
mơi tới giờ mới bán được có một cái bàn chải răng, ở nhà rồi tiền đâu mà ăn
cơm”.
Ông Tấn-sĩ cười rồi biểu Ba Sang lên xe trở xuống Sài Gòn. Ba
Sang nói muốn đi Chợ Ðũi mà bán; ông Tấn-sĩ biểu sớp-phơ chạy lên Chợ Ðũi. Chừng
xe ngừng, Ba Sang leo xuống, ông Tấn-sĩ móc bốp-phơi ra lấy một tấm giấy bạc 20
đưa cho Ba Sang mà nói rằng: “Tôi nhờ anh Ba nên tôi mới biết được chỗ ở của bà
con. Vậy xin anh Ba vui lòng lấy vài chục đồng bạc nầy mà xài, ấy là tiền tôi bồi-thường
thất công cho anh đó. Bây giờ chúng ta quen với nhau rồi, vậy có ngày chúng ta
còn gặp nhau nữa, mà chừng gặp nữa, chắc chúng ta vui lắm”.
Ba Sang thấy tấm giấy bạc 20 đồng thì chưng-hửng, đứng ngẩn-ngơ
rồi nói rằng: “Tôi có làm gì đâu mà thầy cho tiền nhiều dữ vậy? Không được. Tuy
tôi nghèo chớ tôi không ham tiền như vậy đâu. Chác là thầy muốn mưu việc chi
đây, nên thầy muốn mua lòng tôi chớ gì?”.
Ông Tấn-sĩ cười và lắc đầu đáp rằng: “Không phải vậy đâu. Xin
anh Ba đừng nghi. Tôi có bụng xấu Trời Ðất giết tôi đi. Tôi thấy anh nghèo tôi
thương, nên tôi giúp anh chút đỉnh làm vốn mà buôn-bán chớ“.
Ba Sang đứng ngẫm-nghĩ rồi nói: „Thầy thề thì tôi tin. Song lấy
tiền như vậy không được. Thầy bà con với ông Cử, chớ phải xa lạ gì hay sao. Cám
ơn thầy, thôi để tôi đi bán“. Anh ta mang cái giỏ đồ lên vai mà đi.
Ông Tấn-sĩ đứng ngó theo rồi kêu mà nói:
- Anh Ba, tôi cho tiền anh không chịu lấy, thôi anh bán vật
gì đó đem lại đây cho tôi mua.
- Á, như thầy mua đồ thì tôi bán.
- Anh bán giống gì đâu anh tính giá hết thảy đi. Tôi mua hết,
mua luôn cái giỏ nữa.
- Mua hết hay sao?
- Ừ, mua hết. Mua luôn cái giỏ, chớ không thì lấy gì mà đựng.
Ba Sang ngó ông Tấn-sĩ mà cười rồi ngồi dựa bên đường sắp ra
từ món tính tiền. Anh ta tính một hồi lâu rồi nói: „Hết thảy là bảy đồng rưỡi,
tính về cái giỏ nữa“.
Ông Tấn-sĩ móc túi lấy 8 đồng bạc mà đưa cho Ba Sang, biểu sớp-phơ
bưng giỏ lên xe, rồi từ giả Ba Sang mà đi. Ba Sang ngó theo xe mà cười, rồi trở
về Phú-Nhuận, đi dọc đường suy nghĩ hoài, không biết thầy cho mình tiền đó là
ai.
Chiều bữa đó anh ta lại quán chị Năm Tiền mà ăn cơm, gặp anh
em đủ mặt hết. Chị Năm Tiền thấy Ba Sang thì hỏi ông Cử đi đâu hổm nay, phải
ông về gả con lấy chồng hay không. Anh em ai nấy cũng xúm lại hỏi gả con cho
ai, gả về đâu, chừng nào làm đám cưới.
Ba Sang lập nghiêm mà nói rằng: „Hồi sớm mơi nầy tôi mới nghe
chắc sự đó. Ông Cử gả con gái cho một người đúng-đắn, song tôi không biết tên
gì, ở đâu. Bữa chúa-nhựt tới đây thì làm đám cưới. Từ hồi sớm mơi tới giờ tôi
ngẫm-nghĩ hoài; mấy năm nay ông Cử ở với tụi mình, ông tử-tế lắm. Nay ông gả
con lấy chồng, tụi mình tính sao, chớ lặng thinh coi sao được. Anh em tính sao
bây giờ ?“.
Chị Năm Tiền nói rằng: „Mình hùn tiền rồi mua lễ-vật đi cho ổng.
Ngặt bây giờ có biết ổng ở đâu mà đi mừng?“.
Ba Sang nói: „Tôi biết chỗ. Ổng ở dưới Bến-Thành. Chị nói phải,
đám cưới thì mình mua lễ-vật đi mừng, mà sợ hùn số tiền không được bao nhiêu, rồi
mua đồ không xứng-đáng chớ“. Ai nấy nói miễn có lễ mừng thì thôi, đồ tốt hay xấu
không ai trách; nói cho cùng mà nghe, nếu số tiền không đủ mua đồ, thì đi tiền
cũng được.
Ba Sang móc túi lấy 5 cắc bạc đưa cho chị Năm Tiền mà hùn. Những
người ăn uống trong quán, người 3 cắc, kẻ 5 cắc ai nấy cũng đều vui lòng hùn hết
thảy. Mới một lát mà chị Nam Tiền góp được 9 đồng. Chị nói để buổi chợ mai chị
nói cho chị em bạn hàng hay, ai hùn bao nhiêu, chị góp thêm rồi chiều mai sẽ hội
lại coi số tiền được bao nhiêu và phải mua vật gì.
Tối bữa sau, anh em tụ lại quán chị Năm Tiền đem tiền ra
tính, thì số hùn cọng được 22 đồng, trong ấy có có một đồng về phần của chị ta.
Ba Sang mừng quá, anh ta nói hồi chiều anh ta đi đường Catinat, thấy nhà hàng
có để một cặp bình bông bằng đồng, biên giá 22 đồng, có cắm bông sẵn, coi tốt
và khéo lắm, vậy anh ta khuyên hãy mua cặp bình bông đó mà đi lễ mừng. Cãi với
nhau một hồi rồi nhứt-định chiều mai phái Ba Sang với hai người nữa đi xuống
Sài Gòn coi lại như được thì mua rồi đem luôn cho ông Cử.
Chiều bữa sau, Ba Sang đứng trước nhà hàng mà chờ. Một lát có
chị Năm Tiền với Hai Cao xuống tới, ba người coi cặp bình bông, đồng cho là đẹp,
nên vô mua liền. Chủ nhà hàng hỏi muốn chạm tên vào hay không. Chị Năm Tiền nói
hơn 50 người hùn tiền, và hỏi chạm hết tên được hay không. Chủ nhà hàng nói chạm
một tên mà thôi, chớ chạm nhiều quá coi không tốt. Ba người bàn tính với nhau rồi,
nhứt định chạm như vầy: „Ba Sang và nội bọn đồng cung-hạ“.
Chạm chữ, trả tiền xong rồi, ba người mới ôm hai cái bình
bông dắt nhau đi lại „Nam-Kỳ Palace“. Hỏi thăm lên tới phòng số 2, Ba Sang gặp
Biện Hưỡn thì mừng-rỡ hỏi thăm ông Cử, mới hay rể ông đem xe hơi lại rước ông
đi chơi và ăn cơm tối trên Thủ-Ðức. Ba Sang liệu chờ không được, nên giao hai
bình bông cho Biện Hưỡn, mượn đưa giùm lại cho ông Cử và dặn nói của anh em đi
lễ mừng cho ông.
Thiệt buổi chiều đó ông Tấn-sĩ Càng đem xe hơi lại mời cha vợ
đi chơi rồi ăn cơm luôn trên Xuân-Trường đến 10 giờ tối mới về. Ông Tấn-sĩ thủ
lễ, nên ông đưa cha vợ lên tới phòng. Khi bước vô, ông Cử thấy cặp bình bông để
song-song trên bàn chỗ tiếp khách, ông lấy làm lạ, liền hỏi của ai. Biện Hưỡn
thấy có ông Tấn-sĩ, bèn nói trớ rằng: „Có một người đem lại nói của anh em trên
Nam-Vang gởi xuống đi hạ ngài“.
Ông Cử cầm một bình mà coi, thấy có chạm một hàng chữ thì ông
biến sắc.
Ông Tấn-sĩ cũng cầm lên coi, thấy mấy chữ chạm đó, ông ngó Biện
Hưỡn chúm-chím cười và nói: „Hai bình bông tốt quá. Ðám cưới mà đi đủ cặp như vầy
mới đúng lễ An-Nam. Con muốn xin cha cặp bình bông nầy, con đem về để trong
phòng của con, đặng bữa cưới, lúc nhập phòng, vợ chồng con thấy dấu-tích của
cha. Ông Cử không biết nói sao cho xuôi, túng quá, ông phải gặc đầu, để cho rể
ôm cặp bình bông mà về.
Chừng ông Tấn-sĩ đi rồi, ông Cử mới cười mà nói với Biện Hưỡn:
„Em lẹ trí thiệt, giỏi đa! Chớ phải em nói thiệt thì bể chuyện hết còn gì“.
Biện Hưỡn cười rồi đóng cửa phòng sửa soạn ngủ.
Ngày cưới đã đến. Ðúng 3 giờ chiều, ông Tấn-sĩ Càng cho một
cái xe hơi xuống tại „Nam-Kỳ Palace“ chực sẵn đặng 4 giờ rước cha vợ lên dinh Ðốc-lý
Thành-phố mà làm chứng lễ lập hôn-thú.
Gần tới giờ, ông Cử mặc y-phục đàng-hoàng rồi kêu Biện Hưỡn
mà nói rằng: „Vì qua đã có hứa với ông Hội-đồng Quản-hạt và hứa với rể qua, nên
lập hôn-thú rồi qua phải đi theo hai họ lên nhà ông Hội-đồng mà dự tiệc. Qua
nói trước cho em biết, hễ mãn tiệc rồi thì qua trở về đây liền. Vậy em phải chờ
qua đặng em lấy áo quần đồ-đạc của con Minh-Nguyệt sắm cho qua đó mà trả lại
cho mẹ con nó. Hễ về tới đây thì qua trả đồ mà về chợ Xã Tài liền, chớ qua
không ở nữa đâu“.
Ông dặn rồi mới lên xe đi lên dinh Ðốc-lý Thành-phố.
Hồi 2 giờ chiều, họ đàng trai đã vô Lò Gốm trình lễ cưới dâu,
ở uống rượu tới gần 4 giờ mới hiệp với họ đàng gái mà đưa dâu rể ra Xã Tây Sài
Gòn. Ông Cử đã đón sẵn trước cửa nên nhập vô mà chứng lễ lập hôn-thú. Ông thấy
vợ ông đi với một người đàn-ông mặc một bộ đồ Tây bằng nỉ đen mới tinh, vóc
lùn, bụng lớn, có mang cặp mắt kiếng đồi-mồi, tướng đi phục-phịch, tóc hớt trọc-lóc,
ông nghi người ấy là Cao-Xuân-Quỳnh, nên ông kiếm thế đứng xa, không muốn lại gần.
Lể lập hôn-thú xong rồi, ai lên xe nấy, kế xe chạy nói đuôi
nhau mà lên nhà Thái Duy Cư. Nhà chưng dọn trong ngoài đều rực-rỡ. Khi dâu rể
bước vô thì một bên nhạc Tây, một bên thì tài-tử An-Nam, đồng đánh lên chào mừng.
Làm lễ từ-đường(#2) xong rồi, ông Hội-đồng mời ông Cử, là suôi gái, ngồi ngang
với ông mà uống rượu còn hai họ thì xen nhau mà ngồi các bàn. Trong nhà chủ
khách vui cười, ngoài trước nhạc đua nhau mà đánh, nhạc Tây dứt rồi, thì đờn
tài-tử tiếp hòa, lại có ba cô ca-nhi có danh thay phiên nhau mà ca, giọng nghe
lảnh-lót.
Lúc chạng-vạng gần tới, ông Cử bước ra sân mà đứng hứng mát.
Tình-cờ có một cô ca-nhi lại gần cúi đầu chào ông. Ông coi lại thì cô Sáu Hảo,
đào nhứt trong gánh cải-lương „Sắc-Thinh“, người tình cũ của ông hồi ông làm
Cai-Tổng. Ông còn đương bợ-ngợ, thì cô Sáu Hảo đã nói:
- Mấy năm nay tôi hỏi dọ cùng hết mà không ai biết ông ở đâu.
Bây giờ ông ở đâu xin ông cho tôi biết với?
- Tôi ở trên Battambang.
- Cô dâu đó là con gái ông phải hôn?
- Phải.
- Ông xuống làm đám cưới rồi chừng nào ông về trển?
- Ðám cưới rồi tôi về liền.
- Xuống đây ông ở nhà ai?
- Tôi ở nhà hàng. Cô hỏi chi vậy?
- Tôi có một tâm-sự cần phải tỏ với ông. Ông ở nhà hàng nào?
- Nam-Kỳ Palace.
- Phòng số mấy?
- Số 2.
- Tôi xin ông cho phép tôi đến thăm ông đặng nói chuyện riêng
một chút.
- Thôi, thăm viếng mà làm gì?
- Việc cần lắm, xin ông vui lòng.
- Có hai ba người khách đi lại gần, ông Cử liệu nói dai không
tiện, nên ông ừ bướng rồi trở vô nhà, kế ông Hội-đồng Cư mời nhập tiệc.
Gần 10 giờ tối tiệc mới mãn. Họ đàng gái từ-giã ra về. Nhơn
cơ hội ấy, ông Cử cũng từ luôn ông Hội-đồng Cư và con rể đặng ra nhà hàng mà
nghỉ rồi khuya đi xe đò về Nam-vang. Ông Tấn-sĩ Càng và cô Minh-Nguyệt xin đưa
ông qua nhà hàng, ông Cử không cho, ông nói: „Khách-khứa còn đông. Hai con phải
ở nhà mà đãi khách, bỏ người ta mà đi như vậy thì thất lễ. Thôi, hai con ở lại
mạnh-giỏi, cha ra nhà hàng mà nghỉ rồi khuya cha về luôn. Cha khuyên hai con
hãy vui-vẻ hòa-thuận với nhau, hãy quên hết cái khổ trong cõi trần nầy, hãy tìm
một mục-đích cao-thượng mà làm chủ-hướng, nắm tay nhau mà bước tới trong đường
đời, đừng buồn-rầu, đùng nhút-nhát, dầu thấy cái khổ cũng đừng ngã lòng thối
chí“.
Cô Minh-Nguyệt với ông Tấn-sĩ Càng đều cảm-động, không nói được
tiếng chi hết, chỉ lấy khăn lau nước mắt.
Ông Cử lên xe mà đi, xe chạy rồi ông cũng rơi lụy. Về tới nhà
hàng thì Biện Hưỡn đi coi đám cưới chưa về. Ông cổi hết y-phục của con sắm đó
ra, ông bận bộ đồ vải của ông thuở nay vô, rồi ngồi chờ Biện Hưỡn đặng giao đồ
đạc mà về. Cách chẳng bao lâu có tiếng gõ cửa phòng. Ông mang guốc ra mở cửa
thì thấy cô Sáu Hảo.
Cô Sáu Hảo năm nay đã 35 tuổi rồi mà sắc cô còn xinh-đẹp, cô
trang-điểm sơ-sài mà coi rất hữu duyên. Cô bước vô, kéo ghế ngồi, tay chống
trên bàn, mắt nhìn ông Cử, mặt buồn hiu. Ông Cử ngồi ngang cô rồi hỏi rằng: „Cô
kiếm tôi đặng nói chuyện gì?“. Cô thở dài, chưa kịp trả lời, thì Biện Hưỡn ở
ngoài bước vô. Anh ta thấy cô Sáu Hảo thì vội muốn tháo trở ra. Ông Cử kêu mà
nói rằng: „Vô đây em, Biện. Vô ngồi chơi đợi qua một chút“.
Cô Sáu Hải hỏi ông:
- Anh nầy là Biện của ông hồi trước, phải hôn?
- Phải. Cô có việc gì thì cứ nói đi, không sao đâu. Nó là em
út của tôi.
- Tôi là một con lưu-lạc, hồi nhỏ cha khuất sớm, mẹ
nghèo-nàn, nên phải học nghề ca hát đặng kiếm nuôi thân. Lúc nọ may tôi gặp ông
đem lòng chiếu-cố, ông cho phép tôi hầu-hạ mấy tháng. Trong cái đời của tôi,
duy có lúc ấy là lúc tôi vui-vẻ hơn hết, vì tôi thấy rõ ông có tình thương tôi
mà tôi cũng biết chắc tôi phục cái tánh quân-tử của ông lắm. Chuyện đã xưa rồi,
bây giờ tôi tỏ thiệt, tưởng chẳng hại gì. Trong lúc ấy tôi chẳng có giây phút
nào mà dám mơ-ước làm bé mọn chi hết, chỉ vái thầm tôi được gần-gũi ông cho phỉ
tình vậy thôi. Chẳng dè hạnh-phúc là cái ngòi hoạn-họa, sum-hiệp là cái ngòi
phân-ly, ông thương tôi chẳng được bao lâu rồi ông lại bỏ tôi. Tôi nói thiệt,
ban đầu tôi tức, tôi phiền ông lắm. Té ra cách ít ngày tôi nghe việc nhà ông bối-rối,
vợ con ly-dị, nhà cửa tan-hoang, ông bỏ hết tước quyền rồi ông đi đâu mất. Ðến
chừng ấy tôi mới suy-nghĩ lại, có phải tại tôi mà gia-đình ông tan-rả, sự-nghiệp
ông tan-tành hay không? Nếu tại tôi thì cái tội của tôi lớn lắm. Tôi buồn hết sức,
muốn kiếm ông mà không biết ông ở đâu, hỏi thăm cũng không có một người nào biết.
Tôi xét lại, trong mấy tháng ông gần tôi, ông chẳng hề tính việc trăm năm bao
giờ, mà cũng không mê-sa bỏ nhà, bỏ cửa, nên vợ ghen mà xin để bỏ. Còn việc tiền
bạc thì lúc ấy ông cho tôi trước sau chừng lối một ngàn đồng, ông ăn xài với
tôi, sắm đồ, dắt đi chơi, tính chừng một ngàn nữa, ông tốn hao với tôi chừng
hai ngàn đồng bạc là nhiều, nghĩ không đến nỗi tán gia bại sản. Tuy tôi nghĩ
như vậy mà tôi cũng buồn hoài, thường vái Trời gặp mặt ông đặng tôi hỏi coi có
phải tại tôi mà ông mang hoạn-họa hay không?
- Cô nói nãy giờ đó thì thì tôi đủ thấy cô là một khách
giang-hồ song cô đối với tôi có thâm-tình, mà cô lại đủ nhơn-nghĩa nữa. Vì cô tỏ
thiệt với tôi nên tôi cũng lấy sự thiệt mà đáp lại. Chẳng phải tại cô hay tại
ai mà tôi hư nhà hại cửa, xa vợ lìa con. Tôi đã kinh-nghiệm cuộc đời nhiều, tôi
thấy rõ cuộc đời nên hư đều do Trời định, chớ không ai có tài gì mà làm được.
Xin cô hãy an lòng, cô đừng buồn lo cho phận tôi. Cuộc đời là đám hát, phú-quí
như phù-vân. Có cũng vậy, không cũng vậy, còn cũng vậy, mất cũng vậy, theo tôi
thì không nghĩa gì hết.
- Ông hết sự-nghiệp rồi, từ hồi đó tới giờ ông làm việc gì ở
đâu? Ông lên ở trên Battambang chi vậy?
Ông Cử lặng thinh suy-nghĩ một hồi lâu rồi đáp rằng:
- Tôi dối với thiên-hạ chớ không lẽ dối với cô. Mấy năm nay
tôi ở Sài Gòn đây, làm nghề thợ sơn mà nuôi thân, chớ không có ở Battambang lần
nào hết.
Cô Sáu Hảo chưng-hửng, ngó mặt mày, quần áo ông rồi hỏi rằng:
- Thiệt vậy hay sao?
- Thiệt như vậy.
- Vậy sao đàng trai, coi bộ sang trọng lắm, mà hồi nãy họ
kính-trọng ông dữ vậy?
- Tại đời giả-dối, tôi phải làm giả-dối chớ sao. Mà cũng tại
tôi thương con, nên cực chẳng đã tôi mới phải mang lốt mà làm hề cho xuôi việc
đó.
- Nếu vậy thì mấy năm nay ông nghèo-khổ lắm hay sao?
- Nghèo thì thiệt nghèo, nhưng mà khổ thì không khổ chi lắm.
- Bây giờ ra thân làm thợ sơn!!... Ông nói nghe đứt ruột.
Cô Sáu Hảo ứa nước mắt, cô lấy khăn mà lau rồi nói rằng:
- Tôi không dè thân ông cực-khổ đến thế. Nếu tôi hay, thì tôi
có để như vậy đâu… Thiệt Trời Phật không công bình.
- Không nên trách Trời Phật. Trời Phật công-bình lắm. Có lẽ
kiếp trước tôi có vay sao đó, nên kiếp nầy tôi phải trả sao đó a cô. Mà nay tôi
coi dường như nợ trần tôi đã trả xong rồi, nên trong trí tôi thơ-thới lắm, tôi
không phiền-não, không giận hờn chi nữa hết.
Cô Sáu Hảo suy nghĩ một hồi rất lâu rồi nói nữa rằng:
- Tôi muốn tỏ với ông một việc, không biết ông có bằng lòng
hay không?
- Cô muốn tỏ việc chi?
- Tôi xin thưa thiệt với ông, lúc tôi gần-gũi ông đó, ông
thương ông cho tiền bạc, tôi có mua một miếng vườn gần 8 công đặng cho bà già
tôi ở. Mấy năm nay bà già tôi ở nhờ huê-lợi trong vườn nên được no ấm, tôi
không phải lo nữa. Miếng vườn ấy ở về làng Thiền-Ðức, cách chợ Vĩnh-Long chừng
vài ngàn thước. Mỗi lần tôi về thì tôi thường nói với bà già tôi cái vườn ấy là
vườn của ông. Ngày nay ông nghèo rồi, vậy tôi xin trả miếng vườn ấy lại cho
ông. Tôi xin ông hãy về đó mà ở; huê-lợi mỗi năm được ba bốn trăm đồng bạc, có
lẽ đủ cho ông xây-xài. Nếu ông bằng lòng thì tôi cũng thôi cái nghề ca-xướng
hèn-hạ, tôi về đó ở mà hầu-hạ ông và nuôi bà già tôi luôn thể. Hiện bây giờ bà
già tôi ở một cái nhà lá nhỏ lôi-thôi, ông về đó ở coi không được. Tôi nói thiệt,
tôi có vốn-liếng chút-đỉnh. Nếu ông chịu về đó thì tôi sẽ cất một cái nhà nhỏ
ba căn-xông, cột cây, vách ván, lót gạch, lợp ngói, bây giờ chừng năm sáu trăm
đồng bạc thì cất được. Nếu ông bằng lòng thì tôi làm liền.
- Cô thương tôi, cô tính như vậy thì tôi cảm tình cô lung lắm.
Nhưng mà tôi chịu vậy sao được.
- Tôi biết ông ái-ngại, ông sợ thiên-hạ chê cười. Ôi, đời nầy
lo chi tiếng thị-phi. Thiên-hạ họ làm nhiều điều bất nghĩa, họ làm nhiều việc
nhục-nhã bằng trời, mà họ vinh mặt vinh mày, có ai chê cười gì đâu. Thiên-hạ họ
biết phải quấy là gì, mà mình kể họ. Miễn ông biết bụng tôi, tôi biết bụng ông,
mình yêu nhau, mình trọng nhau là đủ. Mình về đó, lo sửa-soạn miếng vườn, trồng
cây, nuôi cá, bồi liếp, đào mương, xa lánh thói phong-trần, vui-vẻ cùng trăng
gió, mỗi bữa tôi lo cơm nước cho ông dùng, khi buồn tôi ca ngâm cho ông nghe, dẫu
hẩm-hút mà mình vui với nhau, tôi nhắm thiên-đàng cũng không hơn cái cảnh ấy được.
- Cô nói mấy lời tôi nghe thiệt tôi cảm hết sức. Tôi cảm vì
tôi thấy rõ cô có tình với tôi nhiều, mà cái tình ấy trong sạch, cao-thượng,
khác hơn tình của thiên-hạ. Nếu cách 10 năm trước mà cô nói với tôi như vậy thì
có lẽ tôi chịu liền. Ngặt vì bây giờ tôi đã chán-ngán việc đời, cái chí của tôi
đã khô, cái tình của tôi đã cạn, tôi chẳng còn biết chi là ngọt bùi, tôi chỉ muốn
đi tu mà thôi, chớ không muốn biết tới việc thế-gian nữa, bởi vậy tôi gần cô
thì cũng như một cục đá, đã không làm vui cho cô được, mà sợ e làm buồn cho cô,
chớ không ích gì.
- Như ông muốn tu thì về đó rồi tôi tu với ông.
- Không được. Tôi sẽ kiếm một chỗ thâm-sơn cùng-cốc đặng ở một
mình mà thôi.
Cô Sáu Hảo khóc và nói:
- Tôi thương ông tuy phân-tách nhau 10 năm nay, song chẳng có
giây phút nào mà tôi quên ông. Tôi không dè ông không thương tôi chút nào hết!
Ông Cử châu mày ngó cô mà đáp rằng:
- Tôi muốn dứt nợ trần. Cô thương tôi thì cô giúp cho tôi
thoát khỏi vòng gió bụi mới phải, chớ sao cô thương mà cô muốn níu tôi lại?
Cô Sáu Hảo lắc đầu, thở ra, rồi đứng dậy nói rằng:
- Trót 10 năm nay, tôi mong gặp ông đặng xin hiệp với ông mà
gây một cuộc gia-thất, trước là chuộc cái tội tôi làm rời-rã gia đình của ông,
sau nữa tôi thoát cái vòng lưu-lạc; chẳng dè tôi vô duyên quá, nên sự mơ ước của
tôi không thành. Tôi xin ông một điều cuối cùng: ông hãy suy nghĩ lại, mùi đời
cũng nên chán, mà có chỗ cũng đáng hưởng lắm. Chẳng phải tôi cám-dỗ ông, song
tôi tỏ thiệt với ông, dầu đến chừng nào tôi vẫn còn thương, còn trọng ông hoài,
và vẫn sẵn lòng lo cho ông hưởng hạnh-phúc về gia-đình như thiên-hạ. Vậy ngày
nào ông muốn nếm thử hạnh-phúc thì ông cứ lên làng Thiền-đức, hạt Vỉnh-long mà
kiếm tôi, vì tôi được gặp ông rồi, nên tôi nhất định thôi hát nữa, tôi trở về
cái vườn của ông cho tôi đó, mà lo nuôi dưỡng mẹ già, và sắp đặt cái cảnh cho xứng
đáng để chờ ngày rước ông”.
Cô Sáu lau nước mắt rồi từ biệt mà xuống lầu. Cô đi rồi, ông
Cử rưng rưng nước mắt mà nói với Biện Huợn rằng: “Em thấy hay không, em Biện? Bọn
ca-nhi mà cũng có tình, có nghĩa … Còn người khác mà sao … Ối thôi, khen người
ta mà làm chi, phiền người ta mà làm chi! Tình giả-dối, nợ trần nặng-nề, mình
còn vương-vấn làm gì! Qua đã xét kỹ rồi, phải lo cho qua khỏi cái biển khổ là
hay hơn”.
Ông Cử bèn giao áo quần đồ đạc cho Biện Hưỡn, số bạc của cô
Minh-Nguyệt đưa cho ông hôm nọ ông cũng giao lại hết, dặn Biện Hưỡn lập thế trả
lại cho cô Minh-Nguyệt, rồi ông trở về chợ Xã Tài nội đêm đó.
Sáng bữa sau, ông Cử đi làm thợ sơn lại như cũ. Chiều ông về
quán chị Nam Tiền mà ăn cơm; ông gặp anh em trong chợ, ông tỏ lời cám ơn cái thạnh-tình
của anh em, tuy nghèo mà cũng rán hùn mua bình bông mừng cho ông gả con lấy chồng.
Có người hay đám cưới của cô Minh-Nguyệt long trọng, hay chồng của cô Minh-Nguyệt
là bực giàu sang, nên chắc nay mai đây ông Cử sẽ về ở với rể con mà hưởng
sung-sướng. Ông Cử nghe nói như vậy thì cười mà đáp rằng: “Anh em lầm rồi. Tôi
chẳng có tính như vậy bao giờ. Thiệt chắc ít bữa nữa tôi không ở đây nữa. Mà
tôi đi là đi lên núi kiếm chỗ ở cho thanh-tịnh mà tu-hành, chớ không phải đi ở
với rể con nào hết”.
Ai nấy nghe ông tính đi tu đều buồn. Ba Sang buồn nhiều hơn hết,
nên nói rằng: “Chú đành bỏ tôi mà đi hay sao? Thuở nay chú ở đây, anh em lớn nhỏ
thảy đều nhờ cậy. Chú cũng như cha mẹ của chúng tôi hết thảy. Anh em chúng tôi
có dám làm điều chi mích lòng chú đâu, mà chú phiền nên tính đi tu. Huống chi
bây giờ chú gặp lại con lại có rể, coi bộ rể con đều trọng chú quá, nếu chú đi
tu, rể con buồn chú. Anh em chúng tôi muốn thà chú bỏ anh em chúng tôi thì về ở
với rể con, chú đừng có bày đi tu. Tu làm chi? Mấy ông thầy chùa cạo đầu tụng
kinh đến già mà rồi có thành Tiên thành Phật gì đâu. Xin chú đừng có tính việc
đó”.
Ông Cử dòm thấy khách cả quán đều tỏ dấu mến ông, nên ông thở
ra mà đi về.
Trong mấy bữa sau ông Cử dụ-dự, chưa quyết-định nên cũng vô sở
mà làm như thường, ông thầm tính để Hưỡn việc đi tu lại một ít lâu, đặng dọ coi
thiệt tình đã thành-tâm lánh trần tìm đạo hay không.
Chú thích:
(1-) bia
(2-) tổ tiên
CHƯƠNG 7 -
C
òn ông Tấn-sĩ Thái-Duy Càng, vưng theo lời chú dạy, nên cưới
vợ bữa trước rồi bữa sáng sau vợ chồng ngồi xe hơi lên Ðà-lạt ở chơi cho
thong-thả trí. Tuy là nói đi chơi, song lên Ðà-lạt, cô Minh-Nguyệt trong trí mắc
lo nỗi cha, thương thân-phận cha cực khổ, còn ông Tấn-sĩ Càng muốn biết coi
nguyên do làm sao mà cha vợ mình ngày trước làm Cai-Tổng rồi bây giờ lại làm thợ
sơn. Ai cũng có chỗ lo riêng trong lòng, bởi vậy vợ chồng ngoài mặt thì giả cười,
còn trong trí thì bối rối hết sức.
Lên Ðà-lạt ở được ba bữa. Vì khí trời lạnh-lẽo, nên hễ ăn cơm
tối rồi một lát thì khách ở nhà hàng ai rút vô phòng nấy mà ngủ. Vợ chồng ông Tấn-sĩ
Càng cũng về phòng mình, song cô Minh-Nguyệt vô mùng liền, còn ông Tấn-sĩ thì cứ
đi qua đi lại trong phòng trót mấy giờ đồng-hồ. Ðến 12 giờ khuya, ông mới thay
đồ đi ngủ. Ông dở mùng lên, thấy vợ còn thức, ông lấy làm lạ, nên hỏi rằng:
- Từ hồi hôm đến giờ em chưa ngủ hay sao?
- Thưa chưa. Mấy đêm nay em nằm thao-thức hoài, ngủ không được.
- Tại sao vậy? Nghe trong mình có sao hay không? Sao hổm nay
không nói đặng qua rước Ðốc-tơ coi thử coi có bịnh hay không?
Cô Minh-Nguyệt cười, rồi cô chỗi dậy ra ca-na-pê ngồi. Ông Tấn-sĩ
Càng ngồi một bên, ông nắm tay vợ, kề sát mặt mà hỏi rằng:
- Tại em không quen lạnh, nên em bịnh hay sao? Nếu ở trên nầy
em ngủ không được, thôi sáng mai qua đem em về.
Cô Minh-Nguyệt lắc đầu đáp rằng:
- Em không có bịnh gì hết. Em ngủ không được là vì em lỡ nói
dối anh một việc, em buồn rầu, em ăn-năn quá.
- Em dối việc gì?
- Em nói ra không biết anh vui hay không?
- Chẳng có việc gì em nói mà qua không vui lòng. Em còn nghi
bụng qua hay sao?
Cô Minh-Nguyệt ngồi ngẫm-nghĩ dụ-dự. Ông Tấn-sĩ cười và
thôi-thúc rằng:
- Em có việc gì thì cứ nói ra, đừng ái-ngại chi hết. Vợ chồng
thương nhau thì cứ lấy thiệt tình mà đãi nhau.
- Việc em giấu anh là việc cha của em. Việc ấy mờ ám lắm, em
không biết sao mà tỏ cho anh hiểu được. Em chỉ thú thiệt với anh rằng hôm trước
em nói với anh cha em ở trên Battambang là lời dối. Cha em ở Sài-gòn, chớ không
có ở đâu hết.
- Tưởng việc gì, chớ việc đó qua hay rồi.
- Hay thế nào? Ai nói với anh?
- Qua biết cha ở trên chợ Xã Tài, ở một căn phố với anh Ba
Sang, ở làm nghề thợ sơn mà ăn, người quen biết trong chợ họ kêu là “Ông Cử”.
Qua có lên coi căn nhà của cha ở nữa.
- Anh hay hôm nào?
- Cách chừng ba bốn bữa rồi tới đám cưới đó.
- Ai thèo-lẻo cho anh biết đó? Chắc anh Biện Huỡn chớ ai.
- Vì việc tình cờ mà qua hay chớ không ai nói hết. Qua có việc
muốn hỏi anh Biện Huỡn mà chưa có dịp hỏi được. Cha ở Phú-nhuận sao không nói
thiệt lại bày nói ở Battambang chi vậy?
- Nói dối đó là tại má. Má thấy cha hèn-hạ quá, sợ nói thiệt
cho anh biết thì hổ-thẹn, nên phải bày nói như vậy mà che miệng thiên hạ.
- Má chưa biết bụng qua. Thân cha như vậy qua còn thương nhiều
hơn nữa, chớ qua chê cười gì mà sợ hổ-thẹn.
- Thuở nay em cũng không biết cha ở đâu, chừng cha nài cho gặp
anh rồi mới chịu cho phép em lấy chồng, má túng thế phải nói thiệt với em, em mới
gặp được cha đó.
- Té ra từ ngày cha mẹ ly-dị tới giờ em mới gặp mặt đó hay
sao?
- Chớ sao. Em nhớ trước khi anh đi nói em, thì em đã có tỏ việc
ấy cho anh biết mà.
- Ờ, phải.
Ông Tấn-sĩ Càng bèn thuật hết cho vợ nghe cái việc tình-cờ
ông gặp Ba Sang và được biết bề ăn ở của cha trên chợ Xã Tài. Cô Minh-Nguyệt
nghe rồi cô cũng thuật lại cho chồng nghe tại sao cô gặp được cha, những lời
cha nói với cô làm sao, tại sao cha chịu manh lốt giả-dối. Vợ chồng tỏ tâm-sự
nhau rồi, tình càng dan-díu, nghĩa càng mặn nồng, càng thương cha, càng trọng
cha nhiều hơn nữa.
Ông Tấn-sĩ Càng kề vai với vợ mà hỏi rằng:
- Em có biết tại sao hồi trước cha với má để bỏ nhau, rồi tại
sao cha làm Cai-Tổng mà bây giờ phải làm nghề thợ sơn như vậy?
- Khi cha với má xa nhau, em còn nhỏ quá, em không hiểu. Từ hồi
đó tới giờ má có nói với em chuyện gì đâu mà em biết. Hôm em gặp cha, em có hỏi,
mà cha không chịu nói. Cha nói việc xưa em không nên biết làm chi.
- Hôm anh Ba Sang thuật chuyện cha ăn ở trên chợ Xã Tài cho
qua nghe, thì qua có hỏi phăng ảnh tới chuyện đó. Ảnh cũng không hiểu. Ảnh lại
biểu qua hỏi anh Biện Huỡn, vì hồi trước anh Biện Huỡn làm Biện cho cha, nên có
lẽ anh biết. Hôm trước mắc lo đám cưới, qua chưa hỏi được.
- Em muốn xin anh làm ơn hỏi dọ giùm cho ra cái việc đó, kẻo
trong bụng em buồn-bực hoài.
- Em để đó cho qua. Qua muốn chơi ít bữa rồi về đặng kiếm anh
Biện Huỡn.
- Anh muốn về chừng nào cũng đặng.
- Nè, qua dặn em, hễ chừng về em phải đi kiếm cha mà an-ủi, đừng
để cha buồn. Cha không dè qua hiểu việc của cha. Vậy em phải giấu, đừng ló mòi
cho cha biết. Ðể qua liệu giờ nào qua nên ra mặt, thì qua sẽ nói trước cho em
biết.
Ông Hội-đồng Cư cho phép đi chơi một tháng mà lên Ðà-lạt ở có
một tuần-lễ rồi vợ chồng ông Tấn-sĩ Càng dắt nhau trở về Sài-gòn. Ông Hội-đồng
thấy cháu về ông bèn giao nhà cửa đặng ông xuống Bạc-liêu mà lo ruộng đất.
Ông Tấn-sĩ Càng nhắc-nhở, nên chiều lại cô Minh-Nguyệt vào
phòng sửa-soạn đặng đi thăm cha. Ông Tấn-sĩ đi theo vô phòng, ông chỉ cặp bình
bông có khắc chữ “Ba Sang và nội bọn” mà cắt nghĩa tại sao ông có cặp bình bông
đó cho vợ nghe.
Cô Minh-Nguyệt rõ tình kẻ nghèo đối với cha của cô như vậy
thì cô cảm hết sức. Trước khi lên xe mà đi thì ông Tấn-sĩ căn-dặn phải giấu
luôn, đừng cho cha biết rằng ông đã rõ bề ăn ở của cha rồi.
Cô Minh-Nguyệt lên gặp cha, thì cô khóc-lóc năn-nỉ xin cha đừng
đi làm thợ sơn nữa mà cực khổ tấm thân, để cô mướn phố sạch-sẽ dọn cho cha ở đỡ
ít ngày, rồi cô sẽ liệu bề nuôi dưỡng cha mà đền ơn sanh thành.
Ông Cử lắc đầu nói rằng:
- Chồng của con là một người đứng-đắn, tuy trí thức theo
tân-học, nhưng mà tâm tánh còn giữ theo phong-hoá nước nhà. Người như vậy không
phải dễ kiếm, con có chồng như vậy thì là có phước lắm. Vậy con phải hết lòng
lo thờ chồng, đừng có lo cho phận cha. Trót 10 năm nay cha phải dày bừa gió bụi
là vì cha thương con, chưa biết thân con ra thế nào, nên cha không đành dứt nợ
trần. Nay cha được thấy rõ ràng con có người bảo-bọc rồi, lại người ấy là người
rất xứng-đáng, nên cha vui lòng lắm, chẳng còn lo việc chi nữa. Bây giờ cha
cũng chẳng biết hờn giận ai, mà cũng chẳng muốn ham việc chi hết, mong lên núi ở
mà tu, tu đặng chuộc tội kiếp nầy, hoặc may kiếp sau qua khỏi biển khổ.
- Cha đừng có tính kỳ như vậy, cha.
- Cha tính như vậy hay đa con. Cha đi tu thì cha được an phận,
mà con cũng khỏi lo hổ-thẹn cùng thiên-hạ nữa.
Cô Minh-Nguyệt ngồi khóc. Ông Cử thấy tình con trìu-mến ông
thì ông cũng động lòng. Cách một hồi, ông hỏi rằng:
- Hổm nay chồng con có nghi chút gì về phận của cha hay
không?
- Thưa, hễ nhắc tới cha thì ảnh kính-phục thương yêu cha lắm,
chớ có nghi việc gì đâu. Nhưng mà rồi đây con sẽ nói thiệt, chớ nếu vợ chồng mà
giấu-giếm nhau thì thành giả-dối không tốt.
- Cái đó con phải suy nghĩ lại, chớ nên vội. Chồng của con
thì biết nhơn-nghĩa lắm, mà đời nầy là đời danh lợi … Cha nghĩ nếu cha đi tu
thì các việc vẹn toàn.
- Thưa cha, không được. Mười năm nay con không biết cha ở
đâu, lại con còn ở dưới quyền của má, nên con buồn-rầu, mà không biết làm sao
được. Bây giờ con có chồng, con thành-nhơn rồi, mà con lại được gặp cha. Vậy
con nhứt-định con phải nuôi dưỡng cha mà trả nợ sanh thành, ví dầu chồng con có
bỏ con thì bỏ, chớ con không thể bỏ cha được.
Ông Cử nghe lời hiếu-nghĩa thì ông ứa nước mắt, song ông gượng
mà khuyên con chẳng nên vì cha mà lỡ-dỡ căn-duyên, nhứt là chẳng nên tới lui nữa
mà mang tiếng. Cô Minh-Nguyệt cũng xin cha đừng đi đâu, để thủng-thẳng cho cô
tính. Bận-bịu gần 2 giờ đồng-hồ rồi mới từ mà về.
Cô Minh-Nguyệt về thuật lại cho chồng hay rằng cha muốn đi
tu, thì ông Tấn-sĩ lo lắm. Sáng bữa sau, vợ chồng lên xe hơi đi Mỹ-tho, tính kiếm
Biện Huỡn hỏi cho biết tại sao hồi trước cha mẹ phân-rẽ nhau. Cô Minh-Nguyệt có
đi với mẹ xuống Mỹ-tho một lần mà thăm vườn ruộng, cô biết nhà Biện Huỡn, ở bên
phía Chợ Cũ dựa đường đi Bến Tranh.
Sớm mơi Biện Huỡn đang bứng mấy cây cau con ương bên hè, đem
trồng ra phía sau vườn. Thình-lình anh ta thấy xe hơi vợ chồng ông Tấn-sĩ ngừng
ngay cửa thì anh ta chưng-hửng, lật-đật rửa tay, bận áo, chạy ra tiếp chào rồi
mời vô nhà. Vợ mắc đi chợ bán chuối, mít, mảng cầu, còn con thì mắc đi học hết,
anh ta ở nhà có một mình nên lính-quýnh, lấy chổi quét bàn ghế mời khách ngồi,
lấy bình trà với tách ra, tính đi lấy nước.
Ông Tấn-sĩ Càng kêu và nói rằng: “Anh Biện, xin anh đừng nấu
nước mất công. Vợ chồng tôi hồi khuya đã uống cà-phê ở nhà rồi mới đi đây. Anh
lại đây tôi hỏi thăm chuyện một chút”. Biện Huỡn bước lại; ông Tấn-sĩ biểu ngồi
trên bộ ván, gần chỗ ông ngồi đó, rồi ông nói rằng:
- Vợ chồng tôi xuống đây trước thăm anh cho biết nhà, sau nữa
có một việc kín muốn hỏi anh. Việc của ông gia tôi thì tôi biết hết, tôi biết
trước ngày đám cưới, mà chừng cưới rồi cô Hai cũng tỏ thiệt với tôi nữa. Có một
chỗ tôi với cô Hai không hiểu được, là không biết tại sao hồi trước ông gia với
bà gia tôi để bỏ nhau và tại sao ông gia tôi làm Cai-Tổng mà rồi bây giờ lại
làm thợ sơn. Xin anh nói thiệt cho vợ chồng tôi hiểu một chút.
- Chuyện của ngài hồi trước tôi có hiểu đâu. Thiệt tôi không
biết.
Cô Minh-Nguyệt thấy Biện Huỡn dụ-dự thì cô nói rằng:
- Ông Tấn-sĩ thương-yêu kính-trọng cha tôi cũng như tôi vậy.
Anh đừng ngại chi hết, anh Biện. Vợ chồng tôi muốn biết rõ việc xưa đặng lập thế
khuyên giải cha tôi, chớ có chi đâu mà anh phải giấu-giếm.
- Thiệt tôi không biết chớ.
- Anh làm Biện cho cha tôi, có lẽ nào anh không biết. Tôi cho
anh hay rằng, bây giờ cha tôi sòng-sòng đòi lên núi ở mà tu. Vợ chồng tôi năn-nỉ
hết sức mà coi bộ cha tôi không xiêu lòng. Xin anh làm ơn nói giùm việc nhà của
tôi cho tôi biết rồi bày biểu cách nào cho vợ chồng tôi cầm cha tôi lại. Anh
không thương cha tôi sao? Anh đành để vợ chồng tôi an-hưởng giàu-sang, còn cha
tôi thất chí buồn đời phải đi lên núi mà tu hay sao?
- Ngài mà tôi không thương vậy chớ tôi thương ai? Ngặt cái việc
cô hỏi đó tôi khó nói lắm.
- Tại sao vậy?
- Ngài thương tôi, mà thuở nay bà cũng tin cậy tôi. Bà thường
dặn tôi đừng có nói việc xưa cho cô biết.
- Hồi còn nhỏ, má tôi không muốn cho tôi biết thì phải. Bây
giờ tôi đã khôn lớn, tôi đã có chồng rồi, còn giấu tôi làm chi.
- Nếu ông với cô có lòng thương ngài Cai, thì tôi không nỡ giấu.
Mà nếu tôi nói ra, thì xin ông với cô thương tôi, đừng có học lại với bà đa.
Ông Tấn-sĩ cười mà đáp rằng:
- Xin anh đừng lo.
Biện Huỡn ngẫm-nghĩ một hời rồi nói rằng:
- Hồi trước bà với ngài Cai đối-đãi với nhau làm sao tôi
không hiểu. Chừng ngài làm Tổng, ngài kêu tôi làm Biện, thường ngày tôi ở trong
nhà, thì tôi dòm thấy ý ngài tin cậy bà lắm, mà bà lại không mấy gì thương
ngài. Bà ở nhà mà cứ lo làm tư làm riêng. Một lúc nọ ngài gần-gũi với một cô
ca-nhi, cô ấy khôn-ngoan đúng-đắn lắm. Bà ghen-tương rầy rà, bà nói ngài chơi-bời
đó khỏi làm hết sự-nghiệp rồi vợ con đói rách. Bà buộc ngài phải sang bộ ruộng,
vườn cho bà đứng bộ, bà mới tin. Ông bà để ruộng đất cho ngài trên 300 mẫu.
Ngài muốn lấy thiệt tình mà đãi bà, nên ngài làm tờ sang bộ ruộng đất 10 phần
sang hết 8, 9 phần cho bà đứng bộ. Ðóng bách-phần cầu chứng cải bộ xong rồi, bà
mới nói với ngài để bà vào đơn kiện xin phá hôn-thú, bởi vì ngài tranh Tổng và
chơi-bời mắc nợ, nếu sang ruộng vườn cho bà đứng mà không phá hôn-thú, thì chủ
nợ cũng thi-hành phát-mãi được vậy. Ngài tin bụng bà, nên để bà làm cho vừa
lòng. Té ra bà được án Tòa cho phá hôn-thú rồi bà dắt cô Hai về cất nhà ở trên
Bến Lức, bà không ngó-ngàng đến ngài nữa, tới mùa bà xuống giành thâu lúa ruộng
hết. Ngài thất chí, bỏ phế việc nhà, xin thôi chức Cai-Tổng. Chủ nợ có lên kiện
rồi thi-hành phát-mãi luôn tới nhà cửa nữa. Ngài buồn nên bỏ xứ mà đi từ hồi đó
tới bây giờ. Chuyện như vậy đó, tôi nói lén cho ông với cô Hai biết, xin đừng học
lại với bà, Nếu bà hay tôi thèo-lẻo, chắc chết tôi”.
Cô Minh-Nguyệt chăm-chỉ nghe rõ đầu đuôi rồi cô nói rằng:
- Nếu vậy thì má tôi ác quá!
- Thưa, không phải bà ác. Bà thương cô, bà sợ ngài Cai làm
tiêu sự-nghiệp, nên bà lập kế mà giữ của cho cô chớ.
- Thương tôi mà hại cha tôi, để cho cha tôi phải chịu xấu-hổ,
phải ra thân hèn-hạ, thương cái gì kỳ vậy? Thương tôi mà sao lấy chồng khác?
Nãy giờ ông Tấn-sĩ Càng ngồi lặng thinh mà nghe, chừng ông
nghe vợ nói mấy câu ấy thì ông can rằng: “Em không nên trách má. Ðạo làm con, dầu
cha mẹ có lỗi đi nữa, mình cũng không phép đút miệng vô mà bình-phẩm”. Ông lại
day qua mà hỏi Biện Huỡn rằng:
- Có lẽ anh cũng hay má tôi gả cô Hai cho tôi má tôi muốn làm
theo Phép người Pháp, nên có đến trước mặt Nô-Te mà làm tờ cho vợ chồng tôi 150
mẩu ruộng ở Mỹ-tho, sang bộ cho cô Hai đứng. Tôi có ruộng đất thiếu gì, tôi
không chịu như vậy, song má tôi nói hoài, nên tôi phải để cho má tôi làm cho vừa
ý. Có phải ruộng đó là ruộng của cha tôi hồi trước sang bộ cho má tôi ruộng đó
hay không ?
- Phải đa. Mà bà cho cô Hai lại đó có phân nửa. Còn phân nửa
nữa.
Cô Minh-Nguyệt châu mày xụ mặt mà nói rằng:
- Ruộng của cha tôi, chớ của ai đó mà cho!
Ông Tấn-sĩ ngồi suy nghĩ rồi hỏi Biện Huỡn nữa rằng:
- Cái nhà của cha tôi hồi trước đó Tòa phát-mãi rồi về ai
mua, anh biết hay hhông?
- Thưa biết chớ. Ông chủ Hùng mua, ổng mua về nhà về đất má
có 3.000 đồng, rẻ quá!
- Bây giờ cái nhà còn hay không?
- Còn chớ. Ông chủ Hùng mua rồi ổng ở tới bây giờ đó.
- Tôi muốn mua cái nhà và đất ấy lại, anh liệu coi họ bán hay
không?
- Mấy năm nay coi bộ ông chủ ổng suy, song không biết ổng bán
hay không? Mà dầu ổng bán, tôi sợ ổng bán mắc.
- Miễn là ổng bán thì tôi mua, mắc rẻ không cần. Anh làm ơn hỏi
giùm rồi mai mốt tôi xuống. Cái nhà ấy ở chỗ nào?
- Gần đây. Gần chùa Vĩnh-Tràng, đây bước lại đo một chút thì
tới.
- Anh dắt tôi lại coi đuợc hôn?
- Ðược, ông muốn coi thì tôi dắt đi.
Biện Huỡn cậy sớp-phơ ở ngoài xe coi chừng giùm nhà, rồi dắt
hai vợ chồng ông Tấn-sĩ đi bộ lại đó. Ba người đứng ngoài dòm sơ cái nhà với miếng
vườn rồi dắt nhau trở về. Ông Tấn-sĩ bèn nói với vợ, trước mặt Biện Huỡn rằng:
„Bổn Phận của vợ chồng mình bây giờ phải lo mua cái nhà đó lại cho được mà rước
cha về ở, rồi trả l50 mẫu ruộng của má cho đó lại cho cha, phải làm cho mau,
song phải giấu đừng có cho cha hay là má biết trước. Anh Biện làm ơn hỏi mua
nhà và đất giùm cho tôi, họ bán mắc cho mấy đi nữa cũng phải mua cho được. Vợ
chồng tôi cậy anh rán hết lòng. Xin anh hỏi liền coi như họ chịu bán thì hỏi
luôn giá cả rồi mai tội trở xuống”. Cô Minh-Nguyệt ngó chồng mà ứa nước mắt, rồi
vợ chồng lên xe trở về Sài-gòn.
Nội ngày hôm ấy Biện Huỡn lại nhà ông chủ Hùng nói chuyện vợ
chồng cô Minh-Nguyệt muốn nua nhà lại cho cha ở. Ông chủ Hùng già rồi mà lại có
nợ chút đỉnh, nên ông chịu bán, song nhà đã cũ, vườn bỏ u-tệ, mà ổng thị giá tới
4000 đồng. Bữa sau vợ chồng ông Tấn-sĩ Càng xuống nữa, Biện Huỡn dắt lại coi
nhà cửa vườn tược, trả giá lên xuống với ông chủ Hùng, rồi hai đàng thuận ưng
giá ba ngàn rưõi.
Làm giấy tờ, chồng tiền bạc xong rồi, ông chủ Hùng dọn đồ lên
Chợ Gạo, giao nhà liền. Ông Tẩn-sĩ Càng kêu thợ ở Sài-gòn xuống coi rồi mướn
tu-bổ từ trong đến ngoài, từ nhà lớn đến nhà bếp cho hẳn-hòi, đặng coi cho sạch-sẽ,
xinh-đẹp như nhà mới. Ông lại giao cho Biện Huỡn mướn người sửa soạn trước sân
sau vườn cho đàng-hoàng, trước sân thì làm đường xe vô và trồng bông hoa kiểng
vật coi cho đẹp mắt, còn sau vườn thì đào mương lên liếp, sửa cây trái cho phải
lối ngay hàng. Ông còn mua chở xuống những bàn, ghế, ván, tủ, đèn, không thiếu
vât gì hết, mà thứ nào cũng mới, cũng tốt.
Trong thì thợ, ngoài thì nhơn-công, làm rần-rần mỗi ngày, nên
trong một tháng thì thành một tòa nhà nguy-nga, ở ngoài coi vui, ở trong hực-hỡ.
Một đêm nọ, lối 8 giờ, ông Cử đang nằm trên võng mà nói chuyện
với Ba Sang. Thình-lình nghe xe hơi ngừng ngoài đường rồi có người bước vô gõ cửa
cộp côp. Ba Sang mở cửa thì thấy Biện Huỡn.
Ông Cử ngồi dậy hỏi Biện Hưỡn rằng :
- Em lên đây có việc chi nữa hay sao?
- Thưa ngài có ông chủ Hùng cậy tôi lên mời ngài xuống nhà đặng
ông nói chuyện riêng. Ổng cũng biết ổng mượn tôi đi mời như vầy thì ổng lỗi với
ngài, ngặt vì năm nay ổng già mà ổng lại có bịnh, ổng đi không đuợc, ổng hay
tôi biết nhà ngài ở, nên ổng cậy tôi đi thế cho ổng.
- Ổng muốn nói chuyện gì mà mời.
- Thưa, cái đó tôi không hiểu.
- Qua đi sao được. Em nghĩ coi, qua còn mặt mũi nào mà trở về
cố-hương nữa, nhứt là vô nhà ổng là nhà của qua hồi trưóc.
- Thưa, đi ban đêm có ai thấy đâu mà nghi-ngại. Có sẵn xe
hơi, ngài xuống đó một lát rồi xe đưa ngài về liền.
- Qua đi không đuợc. Qua không có chuyện gì mà nói với ông chủ
Hùng hết.
- Tôi xin thưa thiệt với ngài ông chủ có chuyện gì gấp lắm, ổng
mưốn tỏ gì với ngài đó, tôi không biết, mà ổng cậy tôi mướn xe hơi đi rước
ngài. Ổng có hứa như tôi rước đuợc thì ổng thưởng riêng tôi 10 đồng bạc. Xin
ngài đi chơi coi ổng nói chuyện gì mà cần dữ vậy. Ngài đi xe hứng gió chơi ít
giờ đồng-hồ. Tôi mời anh Ba đây đi theo chơi luôn thể.
Ba Sang nghe Biện Huỡn mời đi xe hơi chơi thì khoái chí, hỏi
ông chủ ở đâu, rồi đốc ông Cử đi. Ông Cử còn dục-dặc không chịu, Ba Sang nói rằng:
“Mình đi chơi một chút mà anh Biện có 10 đồng bạc thường, làm ơn giùm cho ảnh,
sao chú lại không chịu? Xuống coi người ta nói chuyện gì, như nói phải thì mình
nghe, còn không phải thì thôi, có sao đâu mà sợ. Có lẽ nào anh Biện ảnh gạt chú
hay sao? Nói cùng mà nghe, dầu ảnh muốn hại, có tôi đi theo, dễ gì ảnh hại được”.
Ông Cử thấy Ba Sang theo đốc, mà Biện Huõn lại năn-nỉ quá,
ông hhông nỡ từ hoài, nên biểu Ba Sang tắt đèn, khóa cửa, rồi dắt nhau ra đi.
Ra lộ Ba Sang thấy cái xe mới tinh-hảo thì càng hhoái chí lên ngồi một bên ông
Cử, còn Biện Huỡn thì ngồi trước với sớp-phơ.
Bỏ xứ mà đi trót 10 năm, nay trở về, xe đến Mỹ-tho, chạy qua
Chợ Cũ, thì ông Cử trong lòng thắt-thẻo cảm-động.
Xe tới cái chỗ ông ở ngày trước, quanh vô sân rồi ngừng. Ông
ngó vô nhà thấy đèn đốt sáng trưng, chưng dọn hực-hỡ, ông lấy làm lạ, Biện Hưõn
nhảy xuống mở của xe, ông vừa bước ra, ngó thấy ỏng Tấn-sĩ Càng với cô
Minh-Nguyệt đứng song-song mà xá ông, thì ông chưng-hửng. Biện Huõn nói rằng:
„Thua ngài, vì cô Hai mà tôi mang tội giả-dối với ngài, xin ngài tha-thứ cho
tôi”. Ông Tấn-sĩ Càng nói tiếp rằng: “Thưa cha, hai con sợ cha không đi nên bày
chước như vậy. Xin mời cha vô nhà rồi sẽ nói chuyện. Mời anh Ba vô nữa, anh nhớ
tôi hôn?”.
Vô nhà đèn sáng, Ba Sang thấy rõ mặt ông Tấn-sĩ Càng, vùng la
lên rằng: “Ủa! Thầy nầy mà!“ Tấn-sĩ Càng cười và nói rằng: “Phải, tôi đa anh
Ba. Hai vợ chồng tôi cậy anh Biện đi rước cha tôi với rước anh, mà vì sợ cha
tôi không chịu đi, nên phải dặn anh Biện nói dối như vậy đo, xin lỗi anh”.
Ông Tấn-sĩ liền mời ông Cử ngồi cái ghế dài để phía trong có
lót nệm, có gối dựa. Hai vợ chồng ông thì ngồi hai cái ghế nhỏ để hai bên gần
đó, lại mời Ba Sang cũng ngồi luôn cái ghế ngoài. Biện Huỡn thì đi vô phía sau
kêu gia-đinh biểu lo trà nưóc.
Ông Tấn-sĩ liết mắt ngó vợ một cái, cô Minh-Nguyệt liền đứng
dậy nói với cha rằng : “Thưa cha, việc nhà của mình hai vợ chồng con đều rõ hết.
Vì vậy nên hai con mới mua cho đuợc cái nhà nầy mà trả lại cho cha ở. Hôm má gả
con lấy chồng, má có làm tờ tại Nô-Te mà cho vợ chồng con 150 mẫu ruộng. Ruộng ấy
con cũng trả lại cho cha hưởng. Vậy hai con cúi xin cha vui lòng ở luôn cái nhà
nầy, thâu lúa ruộng đó mà dưỡng già”.
Cô Minh-Nguyệt mủi lòng quá, hhông nói được nữa.
Ông Cử rưng-rung nước mắt, day qua ngó rể mà nói rằng:
- Con ở với cha vợ như vầy, thiệt cổ-kim ít có. Người thường
họ thấy cái nầy họ tưởng cha vì lòng ngay hay là vì thương con, mà chịu nhục-nhã,
cực khổ đau-đón trót 10 năm nay, bây gìờ Trời Phật muốn thưởng cái lòng của cha
nên mới khiến cho cha được một người rể quí đặng sung-sướng lúc tuổi già. Còn
theo cha, thì cha thấy như vầy cha càng thêm lo, lo là lo nợ trần chưa dứt, nên
mới khiến cho hai con đã không khi-bạc cha, mà lại thương yêu cha, làm điều
nhơn-nghĩa mà buộc chơn cha, không muốn cho cha thoát qua biển khổ. Hai con biết
thương cha, biết trọng cha thì cha cảm tình lắm. Song từ ngày cha được thấy hai
con phối-hiệp với nhau rồi, thì trí của cha thơ-thới, cha hết ham muốn việc chi
mà cũng hết phiền giận ai nữa. Cái mục-đích của đời cha đã đạt được rồi, bây giờ
sự sống của cha ở thế-gian chẳng còn nghĩa-lý gì nữa. Cha tính vào thâm-sơn
cùng-cốc cạo đầu ăn chay mà tu-niệm hoặc may giải-thoát kiếp luân-hồi cho mau,
chớ cha không muốn điều chi nữa hết.
- Thưa cha, cho con xin phép con đáp lại với cha ít lời. Cha
nói vợ của con có chồng rồi, thì sự sống của cha ở thế-gian không còn mục-đích
gì nừa. Thưa cha: còn nhiều mục-đích nữa chớ hết sao được. Con xin cha nhớ lại
hôm nọ, ngoài nhà hàng, cha có chỉ cho con mấy cái mục-đích đó, là những mục-đích
chung của người đời nay. Sao hôm nọ cha khuyên con phải đuổi theo mấy mục-đích
đó, mà bữa nay cha đành bỏ, rồi gọí sự sống không còn nghĩa-lý gì nữa?
- Con còn trẻ tuổi, lòng danh-lợi con còn đầy, bước đường đời
con còn dài, nợ trần gian con còn nặng, nên cha mới chỉ mấy cái mục-đích cao
cho con làm chủ-hướng mà bước tới hăng-hái, chớ còn phận cha thì cha đã già rồi,
lòng danh lợi đã khô, bước đường đời đã vắn, nợ trần gian đã dứt, tự-nhiên lánh
tục, tầm đạo là chước hay, còn mục-đích nào cao hơa nữa đuợc.
Cô Minh-Nguyệt thấy cha nóng-nảy, muốn đi tu thì cô khóc và
nói rằng:
- Tư nhỏ chí lớn cha con cách biệt nhau. Nay cha con được gần
nhau mà cha lại tính bỏ con, cha không thương con hay sao?
Ông Tấn-sĩ Càng cũng khóc mà than rằng:
- Phận con côi-cút, tưởng cưới vợ đặng có một ông cha để chỉ-dẫn
đường cho con. Nào dè đâu tìm được cha rồi, mà cha không thương nên cứ toan bề
phân rẻ.
Ông Cử thấy tình con rể dường ấy, ông bắt động lòng, nên lắc
đầu thở ra, không biết nói sao nữa được. Ba Sang xen vô mà nói rằng: “Nãy giờ
tôi ngồi tôi nghe, thì hai vợ chồng ông Tấn-sĩ nói phải quá sao chú không
thương, lại đòi đi tu? Chú đi tu làm chi? Nếu chú có lòng từ-bi chú tu ở nhà
cũng được, cần gì phải đi đâu. Mấy ông thầy chùa cạo đầu coi láng-lẩy, tụng
kinh nghe giòn-giã mà họ lén ăn thịt, lén chọc gái, tu như vậy có nghĩa gì. Chú
ở nhà mà chú làm lành lánh dữ, chú cứu giúp cho kẻ bần-cùng, chú dạy-dỗ người
khờ dại, như chú làm mấy năm nay trên chợ Xã Tài đó vậy, thì được phưóc hơn là
mấy ông thầy chùa nhiều. Xin chú đừng có nói chuyện đi tu nữa, mà vợ chồng ông
Tấn-sĩ buồn tội-nghiệp“. Ông Cử thở dài mà than rằng: „Nợ trần chưa dứt!“.
Cô Minh-Nguyệt thấy cha đã xiêu lòng thì cô mừng, nên chạy vô
trong hối gia-đinh bưng bánh, bưng nước ra mà đãi cha. Cô đi lăng-xăng, ép cha
ăn thứ nầy thứ kia, mời Biện Huỡn, Ba Sang cùng ngồi chung mà đùng bánh uống nước.
Một nhà nói chuyện với nhau vui-vẻ, tha-thiết vô-cùng, chẳng còn giả-dối, giấu-giếm
gì nữa. Có một điều lạ hơn hết là chẳng hề nghe ai nhắc tới bà Hội-đồng
Cao-Xuân-Quỳnh.
Ðến gần sáng, ông Tấn-sĩ Càng mới thưa với cha rằng: “Con xin
thưa cho cha hay, nhà-nước mới cấp bằng cho con làm quan Tòa. Lẽ thì vợ chồng
con phải ở đây với nhau ít bữa đặng vui chơi với cha, ngặt vì mốt đây con phải
tựu chức nên chiều mai vợ chồng con phải về đặng sửa-soạn mà đi làm việc. Trong
nhà đây vợ chồng con đã có sắp-đặt người nấu ăn, người quét phòng, người làm vườn
sẵn-sàng rồi hết. Cái xe hơi đi rước cha hồi hôm đó là xe con mới mua cho cha
đi chơi, con cũng mướn sớp-phơ sẵn. Áo quần của cha mặc hôm trước, vợ chong con
cũng có đem đủ xuống đây rồi. Cha cứ ở đây mà hưởng chút thanh-nhàn cho khoẻ
trí, đừng lo chi hết. Huê-lợi 150 mẫu ruộng đó cha dùng mà cứu giúp kẻ nghèo,
cha muốn giứp cho ai tuỳ ý”.
Ông Tấn-sĩ lại qua chỗ Ba Sang với Biện Huỡn ngồi mà nói rằng:
“Em xin anh Ba ở luôn đây với cha em, chẳng cần phải mua hán làm chi cho nhọc.
Còn anh Biện ở gần, xin cũng tới lui chơi cho cha tôi vui lòng. Tuy vợ chồng
tôi ở Sài-gòn, song cũng lên xuống thường-thường, trước thăm cha tôi, sau chơi
với hai anh”.
Ba Sang hớn-hở đáp rằng: „Ông Cử tôi ở đâu thì tôi theo đó.
Tôi sẵn lòng lắm. Mà phải cho tôi về chợ Xã Tài đặng dọn đồ trả phố cho người
ta đã chớ”.
Ông Tấn-sĩ gặc đầu nói rằng: „Ðể sáng rồi tôi cho xe hơi đưa
anh về trả phố, và chở đồ-đạc xuống đây”. Cô Minh-Nguyệt xách cái hoa-ly áo quần
hôm trước đem ra và xin cha thay mà mặc cho sạch-sẽ.
Ông Tấn-sĩ Càng bưng giỏ đồ mua của Ba Sang hôm trước mà giao
lại cho anh ta. Sáng bữa sau, Ba Sang ngồi xe hơi về chợ Xã Tài, khiêng ghế
bàn, giường, chiếu mà cho chị Năm Tiền, trả Phố lại cho chủ, còn quần áo thì chở
xuống Mỹ-tho.
Ðến chiều, ăn cơm rồi, vợ chồng ông Tấn-sĩ mới từ-biệt cha mà
trở về Sài-gòn đặng sửa-soạn đi làm quan. Xe chạy một hồi, cô Minh-Nguyệt cảm
tình chồng quá, nên cô dựa đầu vô vai chồng mà nói nho-nhỏ rằng:„Cái nghĩa của
mình nặng quá, tôi biết lấy chi đền-đáp cho vừa!” Ông Tấn-sĩ cười rồi cũng đáp
nho-nhỏ rằng: „Mình thương tôi thì đủ rồi”.
Ông cựu Cai-Tổng Ngô-Minh-Tâm suy-sụp, bỏ xứ mà đi hơn 10 năm
nay, không ai biết ông đi đâu. Nay nghe ông nhờ rể hiền, con thảo gom sự-nghiệp
ngày xưa lại cho ông hưởng, thì những người ông quen biết nườm-nượp tới mà thăm
ông. Ông vui-vẻ mà tiếp rước mỗi người, song ông nói chuyện thì ông không tỏ ý
buồn việc trước, mà cững không lộ sắc mừng việc nay.
Thường-thường mỗi ngày nguời ta thấy ông sớm mơi thì đi dạo
trong vườn, trồng hoa sửa kiểng, buổi chiều thì ngồi xe hơi đi chơi, tối thì ngồi
bình-luận việc đời với Ba Sang, Biện Huỡn, coi thung-dung, an-nhan lắm. Ðã vậy
mà chúa-nhựt lại thấy vợ chồng quan Tòa Càng ở trên Sài-gòn xuống, chở những
trái ngon bánh lạ, rau Ðà-lạt, thịt trừu tươi, cha con ăn uống vui cười, ai
cũng cho là một nhà có Phước.
Ông Cai-Tổng Tâm được sung- sướng tấm thân, mà ông chẳng hề
quên cái hồi ông lao-khổ. Ông dặn Ba Sang, Biện Huỡn cùng hết thảy gia-đinh cứ
kêu ông là „Ông Cử”, chớ đừng có kêu là “Ông Tổng”. Ông nghe nhà nghèo nào có bịnh
mà không tiền uống thuốc, hoặc con đông không đủ lúa mà ăn, thì ông đi với Ba
Sang đến tận nơi mà an-ủi rồi cho tiền bạc, quần áo, gạo lúa, đặng giải bớt cái
khổ cho mỗi người. Vì bề cư-xử của ông như vậy nên kẻ giàu-sang thì cho là người
phong-lưu, còn hạng dân nghèo thì khen ông là người nhơn-đức.
Ông hưỏng thanh-nhàn được ba tháng, bề ngoài thì ông vui-vẻ
như thường, nhưng mà ban đêm lúc trong nhà ngủ hết, ngoài ngõ im-lìm, ông hay
thức dậy chong đèn ngồi một mình mà suy nghĩ. Ðờí người là kiếp khổ, phải chịu
khổ đáo-để đặng rửa sạch lòng trần, rồi mới mong về cực-lạc thế giới.
Mình còn mê-mết mùi phú-quí như vầy, thì làm sao gỡ được lục
trần mà qua khổ-hải?
Ðêm rằm tháng 7, ông vẫn ngôi bình-tĩnh một mình mà suy-nghĩ
cuộc đời. Thình-lình chùa Vĩnh-Tràng ở gần đó, dộng chuông tiếng nghe bon bon.
Ðêm khuya vắng-vẻ, tiếng chuông thường hay khêu động lòng nguời. Ông Cai-Tổng
Tâm ngao-ngán việc đời đương toan-tính lánh trần tìm đạo, thì những tiếng
chuông một lát nghe môt cái bon ấy nó càng châm-chích lòng ông, làm cho ông
càng xốn-xang trí não.
Bữa sau nhằm chúa-nhựt. Vợ chồng quan Tòa Càng ở trên Sài Gòn
cũng xuống mà vui bề sum-hiệp với cha.
Ăn uống xong rồi, cha con ngồi nói chuyện, ông ngó con nhìn rể
rồi nói rằng : “Cái ngày gia-đình tan rã, sự-nghiệp điêu-tàn, cha chắc Phật Trời
muốn độ mạng cha, nên mới khiến cho cha chịu khổ kiếp nầy đặng kiếp sau hưởng cực-lạc
thế-giới. Lúc ấy cha đã muốn lánh lục tìm đạo vào chùa mà tu-niệm cho rồi. Ngặt
vì cha có một chút con, nợ trần còn vấn-vít, cha không nỡ dứt đường đời, nên
cha phải nấn-ná chịu nhục, chịu khổ, đợi cho con lớn khôn, coi thân-phận con ra
thể nào rồi cha sẽ toan-tính. Nay con có chồng, lại gặp được người chồng tuy
thuộc bực giàu sang, song lòng đầy nhơn-nghĩa, cha thấy như vậy thì cha rất an
lòng, nên ngày cưới gả xong rồi thì chí quyết lên núi mà tu đặng lo kiếp khác.
Chẳng dè hai con tríu-mến, không muốn cho cha đi, lại còn lập cái cuộc an-nhàn
cho cha hưởng. Trong mấy tháng nay cha ở đây, thân thì là khoẻ thiệt, rnà còn
trí thì không an chút nào hết. Cha suy-xét đã kỹ-lưỡng rồi, theo phận cha bây
giờ thì chẳng có cái mục-đích nào cao cho bằng cái mục-đích lánh tục tìm đạo,
chịu khổ đặng rửa lục trần, mà giải-thoát cái vòng sanh, bịnh, lão, tử. Hôm nay
có đủ mặt hai con, vậy cha xin giao nhà cửa cho hai con đặng cha đi tu. Nếu hai
con thiệt thương cha, thì hai con hãy vui lòng để cho cha đi, đừng có
khuyên-lơn ngăn cản nữa, mà hư cái chí của cha“.
Cô Minh-Nguyệt nhìn cha, cô ứa nước mắt. Quan Tòa Càng thấy vậy
bèn hói rằng :
- Hai con muốn đền-đáp ơn sanh-thành, nghĩa tri-ngộ, nên hai
con lo tính hết sức đặng làm cho cha hưởng chút phú-quí thanh-nhàn với hai con.
Nay cha đã nói như vậy thì hai con đâu dám đút miệng vô mà can-gián nữa. Nhưng
mà con cúi xin cha nghĩ lại, cha đi tu dầu cha đắc-đạo thì cha hưởng phước
riêng có một mình cha mà thôi. Còn nếu cha ở thế-gian, mà cha thi-ân bố đức,
cha cứu giúp, an-ủi dạy-dỗ mọi người, thì thiên-hạ đều được phước. Vì vậy đó
nên con sợ e cha đi tu, cha phải mang tiếng „vị-kỷ” chăng ?
- Con luận như vậy thì sai lắm, ở thế-gian mà lo bố-thí thì
cũng tốt, nhưng mà làm như vậy bất quá mình cúu vớt ít chục, hoặc ít trăm người
ở chung-quanh mình đó mà thôi chớ làm sao mà cứu vớt hết thảy chúng-sanh cho được.
Còn xuất thân đi tu, hễ mình đắc-đạo, thì chẳng những là mình giải thoát cho phận
mình, mà mình còn phổ-độ cả và chúng-sanh nào phải “vị-kỷ” đâu.
- Con nghe nói xưa nay có nhiều vị cư-sĩ ở nhà tu cũng đắc-đạo,
chẳng cần phải vô chùa. Vậy cha tu như mấy vị cư-sĩ đó không được hay sao ?
- không được. Làm người phải chịu khổ-hạnh mới gỡ được lục trần.
Ở thế-gian, nhứt là cha đây, ăn ở sung-sướng quá, lục căn vun-quén, tự-nhiên lục
trần lẫy-lừng, dầu chí-quyết cũng khó đắc đạo. Ðã vậy mà tu thì phải luyện, có
tịnh tâm mới dịch, có luyện thì đạo mới thành, tịnh và luyện cho dày công thì mới
mong giác được. Cha đã suy xét rồi, nên cha khuyên hai con đừng ngăn-cản cha nữa.
Cha đã nhứt định sáng mai cha tháp tàu lên Châu đốc rồi vô núi ẩn thân mà tu.
Cha khuyên hai con ở lại thế-gian phải thương nhau, nhứt là phải nhớ ở đời màu
phú-quí là màu giả, kiếp con người là kiếp khổ, bởi vậy dầu được phú-quí cũng
chẳng nên mừng, dầu gặp khổ-não cũng chẳng nên buồn, vui hưởng phú-quí ắt đọa
thân mình, có chịu khổ-não mới giải-thoát được. Hai con lại cũng phải nhớ “sắc
tức thị không, không tức thị sắc”. Cha mà tính biệt-ly là ý cha muốn gây cái
sum-hiệp, chớ nếu bây giờ ham vui sum-hiệp thì sau ắt phải biệt-ly. Vậy hai con
phải vui mà để cho cha đi tu, chớ đừng có buồn.
Vợ chồng Quan Tòa Càng thấy cha thành-tâm quá, thì thương mà
lại kỉnh, nên không dám khuyên-giải nữa. Ba Sang với Biện Huỡn nghe ông giảng-dạy
hai người cũng cảm-động. Ba Sang vùng nói rằng: „Chú được như vậy mà chú không
thèm, chú còn bỏ đi tu. Phần tôi ra gì, mà tôi còn mê trần-tục. Vậy chú đi, xin
cho tôi theo mà tu vói chú”. Ông Cử gặc đầu, rồi biểu Ba Sang sửa-soạn hành-lý
đặng sáng mai hhởi-hành.
Vợ chồng Quan Tòa Càng ở lại vui chơi với cha cho đến giờ
chót. Sáng bữa sau, hai vợ chồng giao hết nhà cửa cho Biện Huỡn coi gìn-giữ, rồi
hiệp nhau đưa cha xuống tàu. Ðến giờ tàu xúp-lê rồi mở dây, hai vợ chồng không
thế dằn lòng được, nên ngó cha mà rơi lụy, tàu chạy đã xa rồi mà còn đứng chần-ngần
ngó theo.
Mới đây có người đi Thất Sơn về nói bây giờ ông Cử làm
Hòa-Thượng ở chùa Minh-tâm Tự, tại núi Ông Tô, có Ba Sang ở đó làm đệ-tử cho
ông. Vì ông tu đắc-đạo, nên chùa ông tín-đồ đông lắm.
Sài-gòn, Mai-Juin 1935
CHƯƠNG 1 - Ở TRẠI TẾ BẦN
Đ
ứa trẻ được sinh ra ở một Trại tế bần và mẹ nó, người mà
không ai biết tên là gì, chỉ có đủ thời gian để nhìn nó trước khi nhắm mắt.
Đứa trẻ tội nghiệp gào khóc hết cả hơi. Giá như nó có thể biết
được rằng nó chỉ có một mình ở trên đời, rằng nó mồ côi, rằng nó sẽ phải chịu
nhiều đau khổ và sẽ bị đối xử tồi tệ, chắc hẳn nó còn gào khóc to hơn nữa.
Đứa trẻ được đặt tên là Oliver Twist. Nó không ở lại lâu
trong Trại tế bần mà bị gửi đến nhà một bà già tên là Mann, người thường nhận
được một khoản tiền nhỏ cho mỗi đứa trẻ mà bà có trách nhiệm.
Oliver Twist vừa tròn chín tuổi. Đó là một cậu bé xanh xao, gầy
gò và nhỏ bé.
Mặc dù phải chịu nhiều thiếu thốn và bị đối xử tồi tệ trong
ngôi nhà người ta sắp xếp cho nó, cậu bé vẫn có một tính cách lanh lợi và cương
trực.
Hôm đó, em bị nhốt vào hầm than cùng với hai đứa bạn khác, do
đã dám liều lĩnh phàn nàn rằng mình đói.
Bỗng nhiên, bà Mann, chủ nhân khu nhà đó, ngạc nhiên bởi sự
xuất hiện đột ngột của viên thanh tra Trại tế bần, ông Bumble, đang cố mở cánh
cửa của khu vườn.
- Quý hóa quá! Ngài Bumble đấy à? - Bà Mann vừa nói vừa nhoài
người ra cửa sổ, vờ tỏ vẻ rất vui mừng. - Nhanh lên, Suzanne, cho ba thằng nhóc
ra khỏi hầm than và rửa ráy thật nhanh cho chúng.
Đừng để cho ông Bumble nhìn thấy chúng trong tình trạng thế
này. Thưa ngài Bumble, tôi thật lấy làm sung sướng được gặp ngài.
ông Bumble là một người dễ nổi nóng. ông bắt đầu lắc mạnh chốt
cửa và đập ầm ầm vào cánh cửa.
Trong thời gian đó, tụi trẻ được đưa ra khỏi hầm than và
nhanh chóng rửa ráy sạch sẽ.
- Tôi đây. - Bà Mann nói. - Mời ngài vào, thưa ngài Bumble.
Bà Mann dẫn ngài thanh tra Trại tế bần vào một căn buồng nhỏ
lát gạch. Bà ta mang đến cho ngài thanh tra một cái ghế tựa rồi nhanh nhảu cầm
mũ và gậy của ông đặt lên bàn. Ngài Bumble lau cái trán lấm tấm mồ hôi. Ngụm rượu
bà Mann mời khiến ông hết nhăn nhó..- Bà Mann, bà có cho lũ trẻ ăn cháo không đấy?
- ông Bumble hỏi.
- Có, tôi có cho chúng ăn. - Bà ta nói. - Mặc dù cháo cũng đắt
đấy. Nhưng tôi không thể nhìn những đứa trẻ thân thương ấy phải khổ sở. Ngài thấy
đấy, tôi không thể kìm lòng được.
- Tốt, - ông Bumble nói, - tốt lắm, bà là một phụ nữ trung hậu,
bà Mann ạ. Chúng tôi đã làm đúng khi giao những đứa trẻ cho bà. Nhưng tôi đến
đây để nói về công chuyện. - Ngài thanh tra vừa nói vừa rút từ túi quần ra một
cái ví da nhỏ. - Đứa trẻ được đặt tên thánh là Oliver Twist đến nay đã chín tuổi...
- Một đứa trẻ thật tử tế. - Bà Mann vừa nói vừa chùi mắt trái
bằng góc chiếc tạp dề của mình.
- Dù đã trao giải thưởng mười bảng Anh và những cố gắng to lớn
của Trại tế bần, - ông Bumble nói, - nhưng vẫn không thể tìm ra cha đứa trẻ
cũng như họ tên bà mẹ quá cố của nó.
Bà Mann rất ngạc nhiên, hỏi sau một hồi suy nghĩ:
- Nhưng làm thế nào mà nó lại có một họ được nhỉ?
- Chính tôi đã nghĩ ra đấy chứ. - Ngài thanh tra vừa nói vừa
vươn thẳng mình rất tự hào.
- ông ư, thưa ngài Bumble?
- Chính tôi đấy, bà Mann ạ. Tôi đặt họ cho lũ trẻ tìm thấy được
theo thứ tự chữ cái abc, đứa gần đây đến chữ S, tôi đặt cho nó họ Swubble, và đứa
này đến chữ T, tôi đặt là Twist. Những đứa tiếp theo là Unwin, Vilkent và tiếp
tục cho đến chữ Z. Khi đến chữ cái này, tôi làm lại từ đầu bảng chữ cái.
- ông đã nghĩ kỹ thật đấy. - Bà Mann nói.
- Đúng vậy, - ông thanh tra nói vẻ mãn nguyện về lời khen
này. Uống hết cốc rượu, ông ta tiếp lời.
- Bây giờ Oliver quá lớn để ở lại đây, hội đồng đã quyết định
cho nó quay về trại và tôi đến đây để tìm nó. Dẫn nó ra đây cho tôi!
- ông sẽ gặp nó ngay thôi. - Bà Mann nói và rời khỏi phòng. -
Trong lúc đó, Oliver đã được cọ rửa sạch lớp cáu ghét bám đầy mặt đầy tay, và
được đưa ngay vào gian phòng ông Bumble đang ngồi.
- Oliver, hãy chào ngài đây. - Bà Mann nói.
Oliver kính cẩn cúi rạp mình chào ông Bumble.
- Cháu có muốn đi cùng với ta không, Oliver?
- Bà Mann không đi cùng với cháu ạ? - Cậu bé Oliver tội nghiệp
hỏi.
- Không, không thể được, nhưng thỉnh thoảng bà ấy sẽ đến thăm
cháu..Oliver cảm thấy nhẹ nhõm khi rời xa bà Mann nhưng dù còn rất nhỏ, em cũng
đủ ý thức để giả vờ rất buồn rầu. Chẳng khó khăn lắm đối với đứa trẻ tội nghiệp
để làm rơi nước mắt. Cái đói cùng những đòn roi mới nhận được tỏ ra thật có ích
khi người ta muốn khóc và Oliver đã làm điều đó theo cách tự nhiên nhất.
Bà Mann hôn thằng bé và cho nó cái đáng giá hơn nụ hôn là một
lát bánh mì phết bơ để nó không có vẻ quá đói khát khi đến Trại tế bần. Oliver
được ông Bumble đưa ra khỏi nơi đáng sợ này, nơi mà không bao giờ có một lời
nói hay một ánh mắt yêu thương tô điểm cho những năm tháng ấu thơ buồn bã của
nó. Tuy nhiên, nó cũng nức nở khóc khi cánh cửa khép lại sau lưng, bởi vì dù những
người bạn đồng hành bé nhỏ bất hạnh mà nó rời xa có khốn khổ đến mấy, đó cũng
là những người bạn duy nhất nó từng quen biết. Lần đầu tiên nó cảm thấy thật
đơn độc trên thế giới này.
Oliver bước qua ngưỡng cửa Trại tế bần chưa đầy mười lăm
phút, và chỉ mới nuốt xong miếng bánh thứ hai thì ông Bumble quay lại bảo nó rằng
hôm đó là ngày họp hội đồng và nó phải đến đấy trình diện.
Oliver, người chưa từng có một ý tưởng cụ thể nào về cái được
gọi là hội đồng, rất đỗi ngạc nhiên về cái tin đó, không biết là mình nên cười
hay nên khóc. ông Bumble cầm gậy đập nhẹ lên đầu nó để nó chú ý và đập cái nữa
lên lưng để nó nhanh nhẹn lên. ông ta ra lệnh cho nó đi theo và đưa nó vào một
gian phòng quét vôi trắng có khoảng một chục ngài to béo đang ngồi quanh một
chiếc bàn. Một ông thân hình mập mạp béo tốt, có bộ mặt tròn và ửng đỏ, ngồi
trong một chiếc ghế bành được kê cao hơn những ghế khác.
- Chào hội đồng đi! - ông Bumble nói.
Oliver chùi hai ba giọt nước mắt và cúi chào.
- Cậu bé, họ của cháu là gì? - ông ngồi trong chiếc ghế bành
hỏi.
Oliver sợ hãi khi nhìn thấy nhiều ông đến như vậy nên cứ câm
lặng. ông Bumble lại nện lên lưng cậu bé một lần nữa khiến nó bật khóc, nó liền
trả lời rất khẽ bằng một giọng run rẩy. Thế là một ông mặc áo gilê trắng nói rằng
thằng bé này ngu ngốc, cần có biện pháp tuyệt vời để mang lại cho nó một chút tự
tin và để nó thoải mái!
- Hãy lắng nghe ta, cậu bé, - ngài chủ tịch nói.
- ta cho rằng cháu biết là mình mồ côi.
- Thế là thế nào ạ? - Thằng bé đáng thương hỏi.
- Thằng bé này quả là ngu ngốc, tôi dám chắc điều đó. - ông mặc
áo gilê trắng quả quyết nói..- Suỵt! - ông nói đầu tiên tiếp lời. - Cháu biết rằng
cháu không có cả bố lẫn mẹ và cháu được nuôi nấng bằng chi phí của giáo khu chứ?
- Vâng, thưa ngài. - Oliver trả lời và cay đắng nức nở.
- Tốt! - ông có gương mặt đỏ đắn nói. - Cháu ở đây để được
giáo dục và học một nghề có ích.
Kể từ ngày mai, cháu sẽ bắt tay vào làm việc.
Oliver quay lại Trại tế bần như vậy đó. Nó ngủ trên một chiếc
giường rất cứng trong căn phòng lớn của trại.
Phòng ăn của bọn trẻ là một phòng lớn lát gạch, phía cuối
phòng có đặt một cái chảo, nơi người phụ trách trại đeo tạp dề và được một bà
già phụ giúp phát cháo yến mạch vào giờ ăn.
Mỗi đứa trẻ được nhận một tô nhỏ yến mạch, không bao giờ hơn,
trừ những ngày lễ có thêm một mẩu bánh mì. Những cái bát này chẳng bao giờ cần
lau rửa, những đứa trẻ đã dùng thìa vét nhẵn nhụi bát của mình cho đến khi nó lại
sáng loáng lên.
Thường thường, trẻ con ăn rất ngon miệng, Oliver Twist và những
người bạn của em phải chịu đựng sự hành hạ của cái đói trong ba tháng. Rốt cục
thì cái đói này khiến một cậu bé lớn hơn so với tuổi của mình và không quen với
cảnh sống như vậy bị thác loạn đến mức em nói cho bạn bè hiểu rằng nếu không được
thêm một suất yến mạch mỗi ngày, e rằng một đêm nào đó em sẽ ăn sống nuốt tươi
cậu bé nằm chung giường với em, cậu này ít tuổi và yếu đuối. Sau đó, chúng thảo
luận, chúng bốc thăm để biết bữa tối nay ai phải đi xin trưởng trại thêm một khẩu
phần nữa. Cái thăm rơi vào Oliver Twist.
Tối đến, những đứa trẻ ngồi vào chỗ của mình, cuối bữa ăn,
Oliver tiến gần đến trưởng trại:
- Thưa ông, cháu muốn thêm chút nữa ạ.
Trưởng trại, một người đàn ông béo tốt, tái mặt đi sửng sốt.
ông ta nhìn nhiều lần thằng bé nổi loạn, sau đó ông dựa người vào chảo cho vững.
Bà già giúp việc ngẩn người kinh ngạc và bọn trẻ thì ngẩn người
vì kinh hãi.
- Thế nào? - Trưởng trại nói, giọng lạc hẳn đi.
- Thưa ông, cháu muốn thêm chút nữa ạ. -Oliver trả lời.
Trưởng trại vụt vào đầu Oliver một nhát muôi, siết chặt nó
trong tay và hét to gọi ông Bumble.
Hội đồng đang trong buổi họp long trọng, thì ông Bumble thở hổn
hển, chạy vội vào phòng, nói với ngài chủ tọa:
- Thưa ngài Limbkins, tôi xin lỗi ngài. Oliver lại xin thêm
cháo..Thật là sửng sốt. Sự ghê sợ hiện lên mọi gương mặt.
- Nó lại xin thêm nữa à? - Ngài Limbkins nói.
- Tôi phải hiểu rằng nó lại xin thêm thức ăn nữa ư?
- Vâng, thưa ngài. - ông Bumble trả lời.
- Đứa trẻ này rồi ra sẽ khiến người ta phải treo cổ nó. - ông
mặc áo gilê trắng nói. - Đúng vậy, đứa trẻ này rồi sẽ bị treo cổ.
Sau khi phạm cái tội không thể tha thứ được là xin thêm yến mạch,
Oliver bị giam tám ngày trong ngục tối chật hẹp, nơi mà lòng nhân từ và sự khôn
ngoan của hội đồng đưa nó vào. Em khóc cay đắng suốt nhiều ngày liền và khi đêm
đến, em đặt đôi bàn tay nhỏ bé của mình lên mắt để khỏi nhìn thấy bóng đêm và
thu mình trong một góc cố thiếp đi.
Một ngày kia, người ta quyết định giao em cho một thợ nạo ống
khói, người đã từng có tiếng làm chết nhiều cậu học việc của mình.
Mọi thủ tục đã làm xong thì viên pháp quan, người phải điền
chữ ký cuối cùng, cảm thấy ít nhiều băn khoăn khi nhìn thấy nét mặt hốc hác của
Oliver, em thực sự hãi hùng vì viễn cảnh phải sống dưới mệnh lệnh của ông thợ nạo
ống khói.
Oliver Twist được gửi trả lại Trại tế bần và ông Limbkins thốt
lên khi trông thấy em quay lại:
- Thằng bé sẽ bị treo cổ thôi, tôi đoán chắc điều đó.
- Chúng ta phải làm gì với thằng bé này đây?
- Mọi người trong hội đồng hỏi lẫn nhau. - Giá như chúng ta
có thể đuổi nó đi xa làm thủy thủ.
Nhưng chẳng có một viên thuyền trưởng nào muốn nhận nó.
Cuối cùng, Oliver Twist cũng được một ông bán quan tài chấp
nhận, ông Sowerberry, người muốn dạy nghề nghiệp cho nó.
Một lần nữa, Oliver đi cùng ông Bumble đến chỗ ở mới của
mình. Cậu bé tự đấm ngực, nức nở và nhìn ông Bumble với vẻ lo âu. ông này ngạc
nhiên nhìn vẻ mặt thảm hại và buồn bã của cậu bé, ông ho hai ba tiếng như một
người bị khan giọng, lầu bầu trong kẽ răng về chứng ho đáng bực mình, sau đó bảo
Oliver lau khô mắt và hãy ngoan ngoãn lên. Rồi cầm lấy tay em ông tiếp tục lặng
lẽ đi.
ông đóng áo quan vừa mới đóng cửa hàng và đang ngồi ghi chép
vài khoản thu nhập vào quyển sổ tính toán của mình, dưới ánh sáng mờ của ngọn nến
xấu thì ông Bumble bước vào.
- à, ông chính là ông Bumble đấy ư? - ông ta vừa nói vừa ngước
mắt nhìn lên và ngừng viết..- Không ai khác, ông Sowerberry này, tôi mang đến
cho ông đứa trẻ đấy. - Viên thanh tra trả lời.
Oliver cúi chào.
- à, đây là đứa trẻ đã được nói đến phải không.
- Người chuyên phụ trách ma chay cất tiếng và nhấc ngọn nến
lên để nhìn Oliver kỹ hơn.
Bà Sowerberry bước ra từ một phòng nhỏ sau cửa hiệu, đó là một
người đàn bà thấp bé, gầy còm, khô khan, một mụ đàn bà độc ác thật sự.
- Này em yêu, - ông Sowerberry nói với vẻ tôn kính. - đây là
đứa trẻ ở Trại tế bần mà tôi đã nói với mình.
Oliver lại cúi chào lần nữa.
- Chúa ơi! Sao mà nó gầy thế! - Bà vợ thốt lên.
- Quả đúng vậy, nó không khỏe. - ông Bumble trả lời và nghiêm
khắc nhìn Oliver như thể đấy là tội của em. - Phải thừa nhận rằng nó không khỏe
nhưng rồi nó sẽ lớn lên, thưa bà Sowerberry, nó sẽ lớn lên.
- Vâng, - bà ta nói với vẻ cau có, - nhờ vào đồ ăn thức uống
của chúng tôi chứ gì. Còn kiếm được gì hơn từ những đứa trẻ ở Trại tế bần? Bao
giờ chúng cũng gây tốn kém hơn giá trị thực của mình. Nào, bộ xương nhỏ, hãy xuống
đây!
Sau những lời nói trên, bà ta mở một cánh cửa, đẩy Oliver xuống
một cái cầu thang thẳng đứng, dẫn đến một căn hầm tối và ẩm ướt, sát cạnh chỗ để
củi mà người ta gọi là bếp, nơi có một con bé bẩn thỉu, đi đôi giày mòn gót, với
đôi tất thô màu xanh rách bươm.
- Charlotte, - bà Sowerberry đi theo sau Oliver nói, - hãy
cho cậu bé này vài thứ mà chúng ta cất phần Trip, nó đã không quay về nhà cả
ngày hôm nay, vậy nó sẽ không cần đến chỗ thức ăn đó. Ta cho rằng cậu sẽ không
cảnh vẻ chứ, nhóc con?
Oliver mắt sáng lên vì ý nghĩ sẽ được ăn thịt, có thể chết được
vì thèm muốn ngấu nghiến thức ăn đó, trả lời không ạ, và một đĩa thức ăn thừa tồi
tệ được đặt trước mặt em. Cậu bé lao đến ngốn ngấu đĩa thức ăn thừa mà con chó
đã chê không thèm ăn.
- Được rồi! - Bà ta nói khi Oliver ăn xong bữa tối của mình,
bà ta đã chứng kiến cảnh đó với sự ghê sợ lặng lẽ, kinh hoảng vì sự ngon miệng
của cậu bé.
- Đi với ta. - Bà nói tiếp.
Bà ta cầm một cây đèn bẩn, đầy khói và dẫn em lên cầu thang.
- Giường của cậu nằm phía dưới quầy hàng. Ta cho rằng cậu
không sợ khi phải nằm giữa những.chiếc áo quan chứ? Vả lại, dù cậu có thích điều
đó hay không, cậu cũng sẽ không ngủ nơi khác được.
Oliver không đáp lại và ngoan ngoãn theo sau bà chủ mới.
Còn lại một mình trong cửa hàng đóng áo quan, Oliver đặt cây
đèn lên một chiếc ghế dài, đưa mắt rụt rè nhìn xung quanh với một cảm giác hoảng
sợ.
Sớm hôm sau, cậu bé bị đánh thức bởi tiếng chân đạp mạnh giận
dữ lặp đi lặp lại hai mươi lăm lần phía ngoài cửa hiệu, trong khi cậu bé vội
vàng mặc áo quần. Chỉ khi cậu bắt đầu kéo chốt cửa thì tiếng chân mới ngừng đạp
và có tiếng nói vọng vào.
- Mày có mở cửa ra không? - Ai đó hét lên.
- Vâng, thưa ông, ngay lập tức. - Oliver vừa trả lời vừa kéo
chốt và xoay chìa trong ổ khóa.
- Mày là đứa học việc mới ở đây phải không?
- Tiếng nói vọng vào qua lỗ khóa.
- Vâng, thưa ông. - Oliver trả lời.
- Mày bao nhiêu tuổi?
- Mười bốn thưa ông.
- Thế thì tao phải quở trách mày mới được.
Oliver mở cửa, tay run run.
Cậu bé nhìn quanh phố, bên phải, bên trái, nghĩ rằng người
nói chuyện với mình qua lỗ khóa chắc đã đi loanh quanh vài bước cho ấm người. Bởi
vì em không thấy ai ngoài một cậu to xác của trường từ thiện, đang ngồi trên một
cột mốc trước nhà và đang bận ăn một miếng bánh mì quệt bơ.
- Xin lỗi anh, - cuối cùng Oliver cất lời khi không trông thấy
một người khách nào khác, -chính anh đã gõ cửa à?
- Tao đạp chân đấy chứ. - Anh kia trả lời.
- Anh cần một chiếc áo quan chăng? - Oliver hỏi rất ngây thơ.
Anh chàng tỏ ra bực bội.
- Chắc mày không biết ta là ai rồi, kẻ mồ côi đáng ghét kia?
- Không, thưa anh. - Oliver trả lời.
- Ta là ông Noé Claypole, - anh ta tiếp lời, -và mày là kẻ phụ
tá cho ta. Nào, xê ra.
Noé Claypole bồi cho Oliver một cú đá và bước vào cửa hiệu với
vẻ đàng hoàng trang nghiêm, cốt mang lại cho mình vẻ quan trọng.
- Này, Noé, lại gần lửa đi, - Charlotte nói, -tôi đã lấy cho
anh từ bữa trưa của ông chủ một miếng mỡ lá rồi đấy! Còn Oliver, hãy ăn mẩu
bánh mì này đi!
Cả hai liếc mắt khinh bỉ nhìn Oliver đáng thương đang ngồi
run lập cập trên một cái hòm và ăn phần bánh mì rắn câng còn lại mà mọi người đặc
biệt dành cho nó..Noé không phải là một đứa trẻ nhặt được.
Mẹ nó là thợ giặt còn bố nó, cựu chiến binh, nát rượu, ra khỏi
quân ngũ với một chân gỗ. Noé đã từng phải chịu đựng nhiều lời chửi rủa của những
cậu bé cửa hiệu kế bên. Giờ đây, sự may mắn đã đặt một kẻ mồ côi đáng thương,
không họ tên trên con đường của nó và nó sẽ đem cậu bé này ra trả hận.
Mặc dù bị đối xử tàn tệ và buộc phải tham dự vào nhiều cảnh
tang tóc, Oliver Twist vẫn tận tình phục vụ ông chủ của mình.
Em đi theo những đám tang và trong những dịp như vậy, em đội
một chiếc mũ gắn băng tang, tay cầm gậy đen. Tất cả mọi người đều mãn nguyện về
anh chàng phu đám trẻ tuổi này, tuy nhiên không ai biểu lộ chút đồng cảm nhỏ nhặt
nào đối với em.
Sau một tháng học việc, Oliver được xác định là thợ học nghề,
lúc đó là mùa những nạn dịch.
Và trong vài tuần lễ, Oliver đã học được nhiều kinh nghiệm.
Em vẫn tiếp tục chịu sự đàn áp của Noé Claypole, luôn ghen tị về bộ đồng phục của
Oliver.
Một hôm, Oliver và Noé cùng đi xuống bếp vào giờ ăn tối quen
thuộc để thưởng thức một miệng thịt cừu nhỏ. Charlotte đi ra ngoài và anh chàng
Noé Claypole cho rằng mình chẳng thể giết thời gian thú vị hơn ngoài cách giày
vò cậu bé Oliver.
- Mẹ của mày sao rồi? - Noé hỏi.
- Bà ta chết rồi. - Oliver trả lời. - Tôi xin anh đừng nhắc đến
chuyện ấy nữa.
Cậu bé đỏ mặt khi thốt lên những lời đó. Em thở gấp và Noé
cho rằng em sắp òa khóc, bởi vậy nó quay lại đề tài đó.
- Mẹ mày chết vì lý do gì? - Noé hỏi.
- Vì thất vọng, đó là những gì mọi người nói với em. - Oliver
trả lời.
- Dù sao thì mẹ mày chết đi là hơn. Chắc chắn mẹ mày là một
tên tội phạm. Mẹ mày đáng ra phải chịu một kết cục tù tội hay bị treo cổ.
Mặt đỏ rực lên, Oliver lao đến, hất đổ ghế và bàn, tóm lấy họng
Noé, lắc mạnh với vẻ giận dữ điên cuồng đến nỗi răng em đập vào nhau và thu mọi
sức lực, em đánh nó một cú mạnh đến nỗi khiến nó ngã nhào xuống đất.
Chỉ một lát trước đây, đứa trẻ này dù bị bao sự đối xử đè nặng
vẫn hết sức nhu mì nhưng cuối cùng thì lòng dũng cảm cũng trỗi dậy. Sự lăng nhục
xúc phạm đến linh hồn mẹ khiến em phát khùng, tim em đập mạnh. Trong em tất cả
đã thay đổi, giờ đây em nhìn kẻ hèn hạ vừa ngược đãi mình.đang nằm dài dưới
chân và thách thức nó với một nghị lực mà chính em chưa hề biết đến trước đây.
- Có kẻ giết người! - Noé la lên. - Charlotte ơi, bà ơi! Tên
học việc đang giết tôi! Cứu với! Oliver bị điên rồi!
Charlotte và bà Sowerberry lao đến đánh em một trận nhừ tử. Họ
nhốt Oliver đáng thương vào một căn hầm khiến em vô cùng hoảng sợ.
- Chúng ta sẽ làm gì với kẻ điên khùng này? -Bà Sowerberry hỏi.
- Gọi cảnh sát hay cận vệ? Hay có thể là ngài thanh tra Trại tế bần? Ta cho rằng
ý nghĩ này hay đấy. Noé, hãy chạy nhanh đến Trại.
Mắt của cháu không bị hỏng đấy chứ, và hãy dẫn ngài Bumble lại
đây. Nhanh lên!
Noé Claypole nhảy ba bước đến Trại và nó khích động tất cả mọi
người. Nó không ngừng la lên:
- Oliver Twist muốn giết tôi. Nó còn muốn giết bà chủ của
mình nữa. ôi, tôi đau biết bao!
Quyết định phải trừng trị Oliver được đưa ra ngay lập tức và
ông Bumble nhận được lệnh không được nương nhẹ cho tên nổi loạn trẻ tuổi này,
nó phải chịu một trận đòn nhừ tử.
ông ta đến nhà ông Sowerberry ngay lập tức.
Oliver vẫn chưa bình tâm được, em hét như một kẻ bị ma ám và
giận dữ đạp vào cánh cửa hầm.
- Thả tôi ra! Thả tôi ra!
- Cháu không nhận ra giọng ta ư Oliver? - ông Bumble hỏi.
- Không! - Oliver ương ngạnh khẳng định.
Một câu trả lời thật khác với những gì mình chờ đợi và quen
nhận khiến ông Bumble phần nào lúng túng. ông bước ra xa ổ khóa cửa, vươn thẳng
người, im lặng kinh ngạc và nhìn từng người đang có mặt.
- ồ ngài biết đấy, thưa ngài Bumble, nói với ngài như vậy chắc
hẳn nó bị điên rồi. - Bà Sower-berry nói.
- Đó không phải là sự điên rồ. - ông Bumble trả lời. - Đó là
do thức ăn.
- Gì cơ! - Bà Sowerberry la lên.
- Do thức ăn. - ông Bumble đáp với vẻ rất nghiêm túc. - Bà đã
cho nó ăn quá nhiều.
- Đó là kết cục của lòng quá nhân từ đấy. - Bà Sowerberry
nói.
ông Bumble thấy không nên thả ngay thằng quỷ con này ra, nó
có vẻ rất nguy hiểm.
Cuối cùng, cậu bé cũng bị lôi cổ ra giữa ban ngày. Mọi người
chửi mắng em, nguyền rủa linh hồn mẹ em và bắt đầu đánh tới tấp lên thân thể.nhỏ
bé đáng thương của em, sau đó người ta ra lệnh cho em quay lại giường.
Trong căn phòng nhỏ bé u ám và lạnh lẽo của mình, Oliver tha
hồ nghĩ ngợi về cuộc đời buồn khổ mình đang sống. Hôm nay, họ đã đối xử vượt
quá sức chịu đựng của em. Điều đó không thể kéo dài hơn nữa. Em sẽ bỏ ra đi!.
30/8/2017Hồ Biểu ChánhTheo https://isach.info/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét