Nợ tình
CHƯƠNG 1 - SAO LẠI TỪ HÔN
Con người có khi buồn mà cũng có khi vui, chẳng khác nào Trời
có bữa mưa mà cũng có bữa nắng. Cây cỏ nhờ có mưa rồi có nắng mới sởn sơ tươi tốt
mà kết quả đơm hoa. Con người có buồn rồi có vui thay đổi mới ẩn nhẫn mà sống
lâu, chớ bắt buồn luôn luôn hoài, Trời lại sợ người ta say mê dâm dật mà chết yểu,
rồi thành ma thành quỉ càng hại hơn nữa.
Có lẽ vì định luật như vậy nên một lúc nọ bầu Trời đương
thanh bạch tình cờ mây đen giăng mù mịt, mặt biển đương lặng trang thình lình nổi
sóng gió ồ ào.
Con người dầu buồn dầu vui mà thấy quang cảnh đổi thay bất ngờ
thì ai cũng giựt mình, ngơ ngẩn, rồi phần nhiều chộn rộn lăng xăng, đầu nầy tìm
chỗ đặng ẩn thân, đầu nọ vạch đường cho tiện bước. Hạng thanh niên tân tiến khắp
trên địa cầu đều bị hoàn cảnh lôi cuốn, nên tinh thần rộn rực, tâm chí lung
lay, bởi vậy nhiều người ở chung trong một nhà mà cũng hết đồng ý đồng tình, huống
chi sống khắp nơi ngoài bốn biển làm sao mà được nhứt tâm nhứt đức.
Giữa lúc xôn xao chen lấn, dầu hay dầu dở nào ai có chịu nhịn
chịu thua. Mỗi người đều lo vạch đường vạch lối mà đi cho hạp với chí hướng của
mình, từ Đông qua Tây đâu đó đều chăm nom bươi móc sách xưa truyện mới mà dọ
xem ý tứ của tiền nhơn đặng noi theo, bởi vậy nhiều học thuyết lạ lùng, nhiều
chủ nghĩa kỳ quái mới phát hiện ra lổ xổ như nấm mọc trong rừng, như mạ gieo
ngoài ruộng.
Đọc tiểu thuyết TỪ HÔN (viết và xuất bản năm 1937, nhà xuất bản
LỬA HỒNG tái bản năm 1952) nhiều bạn đã thấy lúc đó ở Sàigòn gần chợ Thái Bình,
có ba cậu thanh niên học thức ở chung một nhà, mà một cậu thì thờ chủ nghĩa
"Vô vi vô tự ", một cậu lại bày chủ nghĩa "Tự trọng tự
cao", còn một cậu giản dị nên theo chủ nghĩa "Vô khả vô bất khả".
Ở chỗ khác còn có nhiều chủ nghĩa khác nữa, nào là "Xã hội nhơn
sanh", nào là "Gia đình dân tộc", nào là "Túng dục tự tứ",
nào là "An mạng lạc thiên ", nào là "Bác ái từ bi", nào là
"Xá sanh thủ nghĩa"có đủ thứ hết, không thể kể cho xiết.
Hôm nay chúng tôi tọc mạch giới thiệu với các bạn một cậu
thanh niên trí thức khác. Cậu nầy cũng sống đồng thời với ba cậu trong quyển tiểu
thuyết TỪ HÔN. Cậu nầy cũng ở gần đó, ở bên phía Vĩnh Hội, ngang chợ Cầu Kho.
Vì bổn tánh lạc quan nhưng khiêm nhượng nên cậu lấy hai chữ "Thứ
Tiên" mà đặt bút hiệu.
Cậu Thứ Tiên nghe người ta tuyên bố chủ nghĩa nầy chủ nghĩa nọ
lăng xăng, cậu trề môi mà nói thiên hạ khéo bày đặt cho rộn ràng, họ cải trời,
họ vong bổn, nên họ mới đi sái đường lạc lối. Theo ý cậu thì trên đời chẳng có
chủ nghĩa nào cao quí, đáng phụng thờ cho bằng chủ nghĩa "Ái Tình".
Chủ nghĩa Ái tình là một chủ nghĩa thiên nhiên kỳ cựu, chủ nghĩa của tạo hóa đặt
ra từ khi mới có loài người phát hiện trong thế gian. Sở dĩ tạo hóa đặt ra chủ
nghĩa ấy là vì tạo hóa phân định có âm có dương, có đàn bà có đàn ông, có cái
có đực, có mái có trống, trên mặt địa cầu tức thị phải có ái tình để cho muôn
loài thương yêu nhau đặng sống chung cho êm ấm, đặng sanh sản thêm cho đông đảo
mà giúp đỡ cậy nhờ nhau. Cậu cảm thấy cái chủ nghĩa thiêng liêng của tạo hóa đó
là chủ nghĩa cần thiết của loài người hơn các chủ nghĩa khác hết thảy.
Tại con người có tánh hẩng hờ, thứ gì mà được thưởng thức hằng
ngày thì hay khinh thường, rồi lại thêm nhàm chán. Hơn nữa cái đẹp mà trải qua
nhiều đời, lớp thì bị nhơn tâm biến chuyển, lớp thì tấn hoá đẩy đưa, vẻ đẹp lần
lần phải lợt phai. Bởi vậy Ái tình là cây trụ cốt thiên nhiên của xã hội loài
người, là cơ động lực mạnh mẽ của nhơn sanh chủng tộc mà bị người ta quên lửng,
không được người phụng thờ quí trọng nữa, nó mới lạc mất chánh nghĩa thiêng
liêng của nó. Mãi đến thế kỹ hai mươi nầy người ta lại còn khinh thị Ái tình đến
nỗi xem Ái tình là một thứ tình tồi tệ là một chứng bịnh hiểm nguy. Người ta dẫn
tích vua Kiệt, vua Trụ, vua U, vua Lệ, mà dạy con em phải xa lánh Ái tình, nói
rằng nó sẽ làm cho người ta mất nước, sập nhà, nhơ danh, táng mạng. Bây giờ còn
có mấy người nhảm nhí hoặc tham lam họ cậy Ái tình mà lừa gạt để họ thỏa mãn nhục
dục hay là họ mưu lợi cầu danh mà thôi.
Tại như vậy mà Ái tình là một mối tình cao cả, đáng tôn sùng,
bị người đời làm lạc nghĩa nó hóa ra thấp hèn, rồi chịu khinh bỉ. Đã biết con
người đến tuổi nào và thuộc bực nào cũng có mang Ái tình ngấm ngầm trong thâm
tâm, nhưng vì thiên hạ cho Ái tình là tật xấu xa, hoặc bịnh nguy hiểm, bởi vậy
ai cũng giấu diếm, nhiều khi lửa Ái tình hừng hực trong lòng mà cũng không dám
hở môi hay mở miệng.
Cậu Thứ Tiên không phải có óc thủ cựu hay là ý muốn lập dị,
nên trái với thiên hạ, cậu xướng lên làm tông đồ cho chủ nghĩa Ái tình không
đúng nghĩa, làm cho tình cao thượng hoá ra tình thấp hèn nên cậu cương quyết phải
định nghĩa Ái tình lại cho chánh đáng cho hạp với ý của Tạo hóa. Cậu hăng hái
hiến thân để phá tan thành kiến tồi tệ làm cho Ái tình lem luốc thấp hèn và
nâng đở Ái tình mà đặt lên lại địa vị tối cao, dầu phải thất công tốn của bao
nhiêu cậu cũng không nệ.
Muốn đuổi theo chủ nghĩa phụng sự Ái tình cho đắc lực, cậu Thứ
Tiên lãnh viết bài phóng sự cho một tờ nhựt báo lớn ở Sài gòn đặng thừa chức vụ
ấy cậu điều tra chỗ hiểu lầm, cậu giảng giải chánh nghĩa cao quí cho già trẻ
hay gái trai đều sáng suốt mà nhận định Ái tình, nếu biết nuôi cho thành thiệt
chơn chánh với ý trí thanh tao thì nó giúp cho con người quảng đại tâm chí,
vuông tròn nghĩa vụ giúp cho thế giới an lạc hòa bình, giúp cho gia đình êm ấm
mà hưởng mùi hạnh phước nực nồng, nếm tình thân yêu lai láng không hờn giận oán
thù, không hiểm nguy đau khổ.
Thiệt trót mấy tháng cậu Thứ Tiên hoạt động rất mạnh mẽ. Cậu
viết bài mà đăng báo để tán dương đức tánh cao thượng của Ái tình. Cậu đi từng
xóm mà tuyên bố chủ nghĩa Ái tình là chủ nghĩa cần ích cho nhơn sanh. Đã mấy lần
rồi cậu có lên diễn đàn mà giảng giải tâm lý của Ái tình, cậu khuyên nam nữ đồng
bào chẳng nên khinh thường Ái tình, phải dùng nó mà xây dựng gia đình trăm năm,
chớ đừng cậy nó mà giúp vui trong một lúc. Nghe cặp tình duyên nào yêu nhau rồi
lại lẳng lơ muốn rời rã, hoặc hăng hái toan phối hiệp mà bị thân tộc cản ngăn,
thì cậu chịu khó giúp kế giúp lời để phá tan trở ngại. Hay nhà nào sắp đăng lời
cáo phó lên mặt báo cho thân tộc xa gần hay biết rồi cậu còn thí công đến dự tiệc
cưới đặng tán tụng Ái tình là nền tảng thiên nhiên của gia đình và chúc mừng
cho hai họ trăm năm vững bền tơ tóc.
Tuy cậu tận tâm nỗ lực phụng sự và đắp bồi Ái tình không kể mệt
mỏi, song một tay khó vỗ cho kêu, lời nói hay mà nói ra giữa bãi sa mạc mênh
mông làm sao mà có tiếng dội. Bởi vậy mặc dầu hoạt động ráo riết mà bồi đắp Ái
tình, lượn sóng phá hoại cứ tràn tới như nước bể bờ, cậu chận cản đầu nầy, nó
tràn vào đầu nọ, cậu chạy chọt lăng xăng mà coi lại không có hiệu quả gì hết.
Trong khoảng vài ba bữa, có khi mỗi ngày, các tờ báo cũng vẫn còn đăng tin cặp
vợ chồng nầy đã nộp đơn xin phân ly, cặp vợ chồng kia đã được án phá ôn thú. Chị
đàn bà nầy vì ghen tương nên tự tử, hoặc chế dầu mà đốt chồng hoặc tra thuốc độc
mà giết chồng. Anh đàn ông kia vì yểm cựu nghinh tân nên bỏ vợ con bơ vơ nghèo
khổ. Cậu trai nầy gạt gái gieo tình, làm cho lem luốc tiết trinh, rồi ngảnh mặt
đi tìm chỗ khác mà gây tai hại nữa. Cô gái nọ đã nặng lời nguyền ước với chung
tình rồi thấy người khác giàu sang hơn thì phụ tình cũ mà gầy duyên mới. Cậu Thứ
Tiên đứng trước những tình cảnh trái ngược với chủ nghĩa của cậu như vậy thì cậu
bực tức hết sức, bực tức nhưng không chán nản. Trái lại cậu càng hăng hái mà đi
tới, cậu cương quyết làm hoài, làm cho thiên hạ thấu hiểu chánh nghĩa của Ái
tình đặng tôn sùng Ái tình mà đem lại mỹ tục thuần phong cho an nhà lợi nước.
Cậu hăng hái đuổi theo chủ nghĩa đến nỗi ngày thiên hạ nghỉ
ngơi mà cậu cũng không nằm nhà.
Sáng chúa nhựt cậu Thứ Tiên thay đồ tử tế rồi xuống ghe đò đi
qua chợ Cầu Kho kiếm xe xích lô ra Bến Thành đặng chung chạ với nữ tú nam thanh
mà giải bày chủ nghĩa. Đi ngang qua trường "Nữ Lưu học hiệu" cậu thấy
cô Cẩm Hương là Hiệu trưởng đương đứng ngoài cửa trường mà ngó thiên hạ lại
qua, cậu chào cô và hỏi:
- Cô mạnh khỏe hả cô Đốc?
- Cám ơn. Mạnh luôn, mạnh nên mới ra đứng đây mà chơi được chớ.
- Thấy cô đứng đó tự nhiên tôi biết cô mạnh. Nhưng theo điệu
xã giao lịch sự hễ gặp nhau phải hỏi thăm sức khỏe vậy mà. Thế cô đã chọn chủ
nghĩa "trớ trêu" mà thờ hay sao nên cô trả lời trặc trẹo như vậy hử?
- Còn nói chủ nghĩa nữa! Thiệt mấy ông nầy sanh chứng bày đặt
nhiều chuyện quá!
- Không phải sanh chứng. Đời nầy phải chọn một chủ nghĩa để
có dẫn đường lối mà đi cho hạp với tâm chí của mình. Tôi phải làm theo người
ta, tôi chọn chủ nghĩa phụng sự Ái tình, là chủ nghĩa thiên nhiên, kỳ cựu, hữu
ích cho đời hơn các chủ nghĩa khác. Tôi tưởng cô cũng phải có chủ nghĩa rồi chớ.
- Tôi do lương tâm, do lẽ phải mà làm, không cần chủ nghĩa gì
hết.
- Vậy chớ không phải cô thờ chung một chủ nghĩa với tôi hay sao?
- Chủ nghĩa gì mà thờ chung?
- Chủ nghĩa Ái tình.
- Cha chả! Bây giờ ông thả dê ăn tới sân của tôi nữa hay sao?
- Không. Tôi nói thiệt chớ đâu phải chọc ghẹo. Tôi có vợ mà.
Lại cô tuổi lớn đáng chị tôi. Tôi thờ chủ nghĩa Ái tình. Tôi là tông đồ của chủ
nghĩa đó. Có lẽ nào tôi gây Ái tình bậy bạ như họ hay sao mà cô nghi. Tôi tưởng
cô thờ chung một chủ nghĩa với tôi, là vì hôm trước cô gặp tôi, cô cho tôi hay
sắp có đám cưới và cô hứa cô sẽ gởi hồng thiệp mời tôi. Chừng nào mới cưới? Hổm
nay tôi có ý trông, sao chưa thấy thiệp? Còn chờ gì nữa? Hễ gây Ái tình thì cưới
phứt cho rồi? Ngày nào cũng là ngày trời, có ngày nào tốt hơn ngày nào đâu mà
chọn lựa.
- Ạ! Đám cưới tôi nói với ông hôm trước đó hư rồi.
- Sao vậy?
- Họ từ hôn rồi.
- Ai từ hôn? Cô từ hay là đàng trai từ?
- Không phải đám cưới của tôi. Đám cưới tôi nói đó là đám cưới
cô bạn học trò của tôi. Tôi đứng làm mai mà thôi.
- Làm mai gì dở vậy? Sao lại để hỏng đi? Mà đàng gái từ hôn
hay là đàng trai?
- Đàng trai.
- Ủa! Trai gì mà khờ vậy? Gái không chạy sao trai lại chạy
đi? Thế khi chàng không yêu nàng mà tại cô dụ dổ nên chàng chịu, rồi chàng nghe
lại hoặc tánh hạnh nàng không tốt hoặc cha mẹ nàng không xứng đáng, nên chàng
tháo trúc chớ gì.
- Không phải vậy. Nàng có sắc đẹp, lại con bà Huyện giàu có nữa.
Nàng yêu chàng đắm đuối. Chàng cũng yêu nàng hết sức nữa. Nhưng chàng viết thơ
mà nói tại hai đàng thành thiệt yêu nhau đó nên chàng hổ thẹn mà từ hôn.
- Cái gì kỳ vậy? Yêu nhau thì cưới, có chỗ nào quấy đâu mà hổ
thẹn nên từ hôn?
- Mời ông vô nhà chơi, vô ngồi đặng tôi nói hết công việc cho
ông nghe. Tôi sẽ cho ông đọc bức thơ từ hôn nữa.
Cậu Thứ Tiên theo cô Cẩm Hương vô phòng khách. Cô Cẩm Hương mời
khách ngồi, kêu người nhà biểu rót bưng ra hai tách trà rồi cô ngồi ngang mặt
thứ Tiên mà nói:
- Việc nầy làm cho tôi bực tức ba bốn bữa rồi ăn ngủ không được.
- Tôi chưa hiểu duyên cớ, mà vừa nghe sơ qua tôi cũng giận.
Yêu nhau sao lại không chịu cưới?
- Vậy mới trái đời. Ngược ngạo quá! Tôi làm mai tôi thất công
gần cả tháng, mà tôi lại còn phải xuất tiền nhà mà cho mượn đặng may áo quần, sắm
giày vớ, mua lễ vật, trả tiền xe, tốn hao tôi gần bạc ngàn chớ ít sao. Chừng
đàng gái người ta biểu chọn ngày cưới thì viết thơ lén gởi mà từ hôn rồi trốn
đi mất, không cho tôi hay biết gì hết! Ông nghĩ coi đáng tức hay không?
- Cô bị điếm gạt cô đặng sắm vi kiến đủ rồi nó dông chớ gì.
- Có phải điếm đâu. Điếm gì mà khờ quá vậy. Thiệt ban đầu mới
hay tin tôi cũng nghĩ như vậy. Nhưng tôi xét kỹ lại, vợ yêu mà mẹ vợ cũng cưng
quá, nếu điếm thì làm đám cưới riết đặng về đó nằm chổng cẳng mà ăn, sướng như
tiên, dại gì lại từ hôn bỏ mà trốn.
- Mà ai ở đâu kỳ cục vậy. Cô nói thiệt cho tôi biết đặng tôi
kiếm mà điều tra coi tại duyên cớ nào mà trốn. Tôi đem chủ nghĩa của tôi ra tôi
giảng cho cậu ta nghe, rồi tôi dắt cậu ta về đặng làm đám cưới.
- Cha chả! Ông làm được như vậy con Bạch Yến nó mang ơn ông lắm.
Tội nghiệp hổm nay nó thương nhớ, nó khóc không ráo nước mắt. Mà tôi đây cũng
cám ơn ông nữa. Chớ tôi tốn bạc ngàn mà vô lối thiệt tôi tức tôi quá.
- Mà ai đâu xin cô nói cho rành rẽ đặng tôi biên rồi tôi đi
kiếm dùm cho.
Cậu Thứ Tiên lấy cuốn sổ tay với cây viết máy ra mà chờ nghe
đặng biên.
Cô Cẩm Hương mới nói: "Tôi có quen với cậu Châu Tất Đắc
là con của ông Phủ Đào hồi trước ở dưới Long Xuyên! Hồi nhỏ cậu học tại Sài gòn
đây được mấy năm cha mẹ gởi ở nhà tôi, vì vậy nên tôi coi cậu cũng như em
cháu". Lúc đó ông Phủ có tiền mới cho cậu qua Tây mà học cho mau. Cậu đi
được năm sáu năm gì đó thì ông Phủ mất, bà Phủ đánh giây thép kêu cậu về. Cậu
có bằng Tú Tài kỳ nhứt qua kỳ nhì cậu thi rớt nên phải tiếp học lại đặng có thi
nữa. Té ra chưa kịp thi mà cha mẹ kêu về, nên cậu phải bỏ mà về. Vì không có
anh em, lại lúc ấy gia đạo khiếm khuyết không thể ở học thêm nữa được. Về ở nhà
chừng vài năm thì bà già cậu mất nữa. Còn trơ trọi một mình, cậu buồn, nên bán
hết đồ đạc mà trả nợ cho mẹ, còn dư chút đỉnh cậu bỏ túi đi lên Sài gòn. Tuy
chưa có đủ bằng Tú Tài toàn phần, song theo học lực của cậu thì cậu đi làm việc
mà nuôi sống có lẽ không khó. Ngặt tâm trí với đầu óc của cậu không giống người
ta. Với bằng Tú Tài phần thứ nhứt tự nhiên làm việc lương bổng ít hơn người có
bằng toàn phần. Cậu bất bình, cậu nói cậu có học toán gần hai năm, cậu không chịu
ăn lương thua mấy người may mà thi đậu. Câụ không thèm làm việc sở nào hết. Cậu
làm quen với hai thầy ở gần chợ Thái Bình rồi hai thầy mời cậu ở chung trong một
căn phố chật hẹp, thiếu vệ sinh, thiếu tiện nghi, vật gì cũng thiếu cả. Hai thầy
đó một thầy làm giáo sư trong một trường tư thục, còn một thầy làm việc cho một
hãng buôn mà lại ham tập viết văn. Ông Giáo sư thì kiếm mấy học sanh giàu mà muốn
học riêng toán pháp cho cậu Tất Đắc dạy. Còn thầy làm việc hãng buôn thì xúi cậu
viết bài rồi thầy đem cho mấy nhà báo đăng, họ trả tiền bút phí cho cậu xài. Cả
ba người không có vợ con, không có bồi bếp, mà chung sống với nhau như vậy coi
bộ cũng vui. Lúc có tiền nhiều thì dắt nhau lại tiệm lại quán mà ăn cơm. Bữa
nào thiếu tiền mua bánh mì lạp xưởng về nhà ăn với nhau rồi uống nước lạnh cũng
được, đồ đạc thì không có gì lắm đã đành, mà áo quần thì cũng lôi thôi chỉ có một
bộ đồ nỉ, để trong ba người mà người nào cần phải đi đám tiệc thì lấy mà bận.
Đó ba người chung sống cảnh đời kỳ cục như vậy đó, mà ai cũng vui, chớ không biết
buồn. Tuy họ đồng tâm chí với nhau, song đầu óc họ lại khác hẳn. Mỗi người có một
chủ nghĩa riêng, ai thờ chủ nghĩa nấy, không ai chịu phục ai".
Cậu Thứ Tiên bèn chận cô Cẩm Hương lại mà nói: "Ạ! Có chủ
nghĩa riêng! Xin cô chậm chậm mà nói tên họ với chủ nghĩa của mỗi người cho tôi
biên đặng tôi nhớ."
Cô Cẩm Hương nói:
- Cậu Châu Tất Đắc quen với tôi, cậu thờ chủ nghĩa "Vô
vi " bởi vậy cậu không chịu cực xác, không ưa mệt trí.
- Cha chả. Nhiễm học thuyết của Lão Tử, Trang Tử chớ gì. Còn
hai cậu kia?
- Có việc làm mai cho cậu Tất Đắc cưới vợ tôi tới lui tôi mới
quen với hai cậu kia. Cậu Giáo sư tên Võ Lộ, cậu thờ chủ nghĩa "Vô khả vô
bất khả".
- Muốn làm "Thánh chi hoà", nên bắt chước cụ Liêu Hạ
Huệ hồi đời xưa.
- Còn cậu làm việc hãng buôn tên Nguyễn Tự Cao cậu theo chủ
nghĩa "Tự cao tự trọng".
- Chọn chủ nghĩa như vậy cho hạp với tên của cha mẹ đặt, mà
có lẽ ý cũng muốn làm "Thánh chi thanh" như Bá Di Thúc Tề không thèm
ăn thóc của nhà Châu. Nếu ba cậu đều thành thật mà chết sống với chủ nghĩa thì
tôi không dám chê mặc dầu cả ba chủ nghĩa đó thấp hơn chủ nghĩa Ái tình của
tôi, thấp hơn nhiều. Mà thôi, cô nói tiếp cho tôi nghe coi tại sao có việc làm
mai rồi lại có việc từ hôn nữa.
Cô Cẩm Hương nói:
- Hôm Sài gòn tổ chức cuộc hội chợ, tôi có dọn một gian hàng
trong đó mà chưng bánh mứt. Một buổi tối tôi gặp cậu Tất Đắc vô xem hội chợ.
Tôi mời cậu tại gian hàng của tôi mà uống trà. Bà Huyện Hớn, là một góa phụ
giàu sang ở trên Tân Định, có biệt thự, có phố xá, có ruộng đất, mà chỉ có một
đứa con gái tên là Bạch Yến, vốn học trò cũ của tôi. Cô Bạch Yến mới hơn hai
mươi tuổi, có nết na, có sắc đẹp, mà chưa có chồng; hai mẹ con mặc quần áo thiệt
đẹp. Bạch Yến đeo xoàn thiệt lớn, mẹ con cũng đắt nhau đi xem hội chợ, rồi cũng
ghé gian hàng tôi mà chơi. Tôi giới thiệu cậu Tất Đắc bữa đó bận bộ đồ nỉ xám
coi cũng thiệt sang trọng. Tôi chưng cậu là Bác Vật, chưng nhầu cho cậu oai.
Hai đàng làm quen với nhau rồi ngồi ăn bánh uống trà mà luận thế tục. Cậu Tất Đắc
xổ ra những lý luận nghiêng trời động đất theo chủ nghĩa vô vi, vô tư lự của cậu,
làm cho mẹ con cô Bạch Yến cười ngất nga ngất nghẻo, vui lại khen cậu nói nhằm
lý, chớ không phải khinh ngạo chê cậu nói điên nói khùng. Bạch Yến cứ đeo theo
chọc cho cậu nói rồi biểu tôi dắt đi xem cho đủ các gian hàng đặng có dịp mà
nghe cậu nói chuyện thêm nữa. Đi chơi với nhau khắp hết, thấy đã khuya nên bà
Huyện mới tính từ biệt mà về, nhưng bộ mẹ con còn tiếc nên mời tôi với cậu Tất
Đắc bữa nào có dịp đi lên phía Tân Định thì ghé mà uống trà nói chuyện chơi nữa.
Tôi hiểu biết mẹ con bà Huyện có thiện cảm với cậu Tất Đắc rồi, bởi vậy chừng mẹ
con bà đi xa, tôi mới uốm thử bụng cậu, tôi hỏi cậu như muốn cưới Bạch Yến thì
tôi làm mai giùm cho. Cậu trề môi lắc đầu mà nói cưới vợ rồi có con lòng thòng
phải làm mệt nhọc mà nuôi. Việc đó trái với chủ nghĩa của cậu nên không bao giờ
cậu có nghĩ tới việc cưới vợ. Cậu nói rồi cậu từ tôi mà đi liền. Sáng bữa sau Bạch
Yến xuống trường thăm tôi mà nói bà Huyện biểu hỏi coi cậu Tất Đắc hồi hôm đó
là con của ai ở đâu, cậu có bà con với tôi hay không. Tình thiệt tôi nói cậu là
con của ông Phủ Đào hồi trước ở Long xuyên. Lúc cậu còn nhỏ cha mẹ gởi ở nhà
tôi mà đi học nên tôi thương cũng như em cháu chớ không có bà con. Sau cậu có
qua Pháo mà học năm sáu năm, vì cha mẹ lần lượt chết hết nên cậu phải trở về xứ.
"
Cậu Thứ Tiên nghe nói tới đó thì cậu cười mà nói:
- Cậu Tất Đắc tuyên truyền chủ nghĩa đã có hiệu quả rồi. Nhờ
chủ nghĩa mà cậu sống khỏi cự nhọc, bây giờ sắp có vợ đẹp và giàu nữa, hèn chi
cậu thờ chủ nghĩa của cậu là phải lắm.
- Vậy mà cậu không chịu mới kỳ chớ! Mẹ con bà Huyện có cảm
tình với cậu đã thấy rõ ràng. Vả quan phủ hồi trước thanh liêm nên ông qua đời
không có để sự sản gì cho vợ con hết. Thấy cậu Tất Đắc vất vả tôi thương, bởi vậy
bữa sau tôi qua chợ Thái Bình kiếm cậu tôi hỏi gắt lại như cậu bằng lòng cưới
cô Bạch Yến thì tôi làm mai giùm cho cậu có chỗ nương dựa khỏi cực khổ tấm
thân. Tôi gặp đủ ba cậu ở nhà hết. Nghe tôi nói chuyện làm mai thì cậu Tất Đắc
liền chưng chủ nghĩa mà bắt bẻ, không chịu có vợ mà phải làm cực khổ đặng nuôi
vợ con. Tôi nói người ta giàu có, người ta sẽ nuôi cậu, chớ ai cầu cậu nuôi. Cậu
Tự cao mới bài chủ nghĩa cậu mà cãi với tôi, cậu nói làm trai phải giữ nhơn phẩm,
ai đành mong đàn bà nuôi mà nói chuyện vợ giàu. Nếu húng hính ra vô để cho vợ
nuôi, như nó nuôi mèo nuôi chó trong nhà thì còn mặt mũi nào mà ngó thiên hạ.
May có cậu Võ Lộ đem chủ nghĩa "Vô khả vô bất khả" của cậu mà tiếp
tôi. Cậu cắt nghĩa chịu cưới vợ hay là không chịu hai lẽ ấy, muốn lẽ nào tự ý,
lẽ nào cũng có cái hay lộn với cái dở. Chớ còn mình phải nuôi vợ hay là vợ sẵn
lòng nuôi mình, việc đó không thành vấn đề. Vợ chồng thì nuôi nhau. Vợ có tiền
còn mình không có thì nó nuôi mình. Chừng mình có tiền còn nó không có thì mình
nuôi nó lại. Nếu vợ giàu nó có tiền nhiều nó biểu mình đừng làm gì hết cứ ăn no
rồi nằm chơi để cho nó nuôi có phải nó dại nó chịu lỗ đâu. Nó nuôi cơm nước tốn
hao có bao nhiêu. Mình đút cơm cho nó cái đó mới quí giá chớ. Nếu nó không biết
sanh con thì lỗi về phần nó, lỗ nó phải chịu, nó có trách mình được đâu.
- Võ Lộ cắt nghĩa như vậy thì đúng theo chủ nghĩa của cậu thiệt.
- Ừ, nhờ cắt nghĩa kỳ cục như vậy cậu Tất Đắc mới chịu cưới
cô Bạch Yến. Nhưng cậu than nếu người ta hỏi cậu làm sở nào, cậu không có làm
gì hết sợ người ta chê họ không gả thì cậu mất thể diện. Tôi nói tôi bảo lãnh
việc đó đừng lo họ chê. Vì đêm trong hội chợ tôi đã giới thiệu cậu là Bác Vật.
Vậy cậu cứ khoe cậu có bằng cấp Bác Vật thuộc về hầm mỏ, có hội đi tìm mỏ vàng
mỏ bạc trên Lèo năn nỉ cậu giúp sức. Cậu đã hứa lời. Người thay mặt cho hội đã
viết thơ về trụ sở bên Pháp rồi chỉ còn đợi ban Quản trị của hội trả lời thì cậu
đi lên Lèo tìm mỏ.
- Dùng chước như vậy mà cưới vợ giàu thì hợp lý lắm. Sau có đổ
bể thì thiệt là đào mỏ chớ đâu phải dối.
- Vậy chớ sao. Có vậy mới trúng theo trong kinh nói:
"Cái giả đó là thiệt, cái thiệt lại là giả". Nhưng có đổ bể đâu mà
lo. Tôi biết bà Huyện giàu có, mà bà có một đứa con. Hễ bà chịu gả thì bà có
cho đi lên Lèo đâu mà sợ, mỗi tháng có lương bạc muôn bà cũng không ham. Cậu Tất
Đắc lại than không có áo quần cho tốt, mà cũng không có tiền bạc làm sao cưới vợ
cho được. Tôi hứa tôi bao cho cậu hết thảy, dầu tốn mấy ngàn tôi cũng xuất cho.
Nhưng tôi giao chừng cưới Bạch Yến được rồi thì òn ỷ với vợ kiếm trả lại cho
tôi hai ngàn mà thôi. Cậu chịu, nhưng cậu buộc tôi lại, nếu cưới không được thì
huề, cậu khỏi trả gì hết. Cậu viết tờ giao kết cho tôi cầm. Tôi mới dắt cậu đi
may mấy bộ đồ Tây thiệt bảnh, sắm giày nón đủ bộ vận hết, rồi tôi lên nói với
bà Huyện. Bà sẵn lòng chịu gả, nhưng cương quyết bắt rể ở với bà, không chịu
cho đi Lèo.
- Vậy thì trúng kế rồi.
- Trúng ngay. Bà Huyện chọn ngày với tôi rồi dắt cậu lên ăn
cơm. Bà có mời khách ít người như đi lễ cầu thân. Chủ khách đều quí trọng cậu Tất
Đắc, ai cũng gọi cậu là Bác Vật ngon lành. Giữa đám đông bà Huyện lại nói công
khai bà không cho cậu lên Lèo mà tìm mỏ tìm mồng gì hết. Bà biểu viết thơ mà
rút lời hứa lại. Ăn cơm tối rồi khách đàn ông về hết, còn mấy bà ở lại đánh bài
chơi với tôi. Tất Đắc với Bạch Yến dắt nhau ra vườn hoa mà trò chuyện coi bộ
mùi lắm. Hai người hẹn hò với nhau rồi tới chủ nhật hai người xuống nhà tôi mà
nói chuyện đặng định ngày cưới. Tôi tính chước đi Sài gòn để cho hai người nói
chuyện thong thả cả một buổi sớm mơi. Vậy mà về rồi bữa sau Tất Đắc viết thơ gởi
cho Bạch Yến mà từ hôn, thiệt không biết sao mà nói được. Bạch Yến tiếp được
thơ lật đật lên xe đem xuống cho tôi đọc. Cô khóc tức tủi thiệt tội nghiệp hết
sức. Tôi giận quá, tôi dắt Bạch Yến lên chợ Thái Bình mà kiếm, thì hai cậu Tự
Cao với Võ Lộ nói Tất Đắt tom góp áo quần vô hoa ly mà đi hồi khuya, không cho
biết đi đâu chỉ nói không thèm ở đất Sài gòn nữa, mà đến chết cũng không trở về
đây. Bạch Yến nghe như vậy cô tối tăm mày mặt muốn xỉu. Tôi phải đỡ cô lên xe
dìu dắt cô về trường đặng an ủi cô. Cô nằm khóc hoài, cô nói nếu có ai chịu đi
kiếm Tất Đắc mà đem về cho cô thì tốn hao bao nhiêu cô cũng chịu. Tôi cũng phiền
quá. Tôi đã tốn gần bạc ngàn chẳng nói làm chi. Cậu Tất Đắc báo hại cho tôi mất
lòng tin cậy mẹ con bà Huyện, cái đó mới khổ cho tôi lung lắm. Tôi an ủi rồi
đưa Bạch Yến về đặng tôi xin lỗi với bà Huyện. Tôi phải hứa tôi kiếm. Ngặt tôi
làm sao bỏ trường mà đi kiếm cho được.
- Trong bức thơ viết để lại mà đi, Cậu Tất Đắc có nói rõ tại
cớ nào mà cậu từ hôn hay không?
- Có chớ. Cậu thú thiệt cậu là thằng điếm cậu dùng chước giả
dối gạt tôi mà cậy tôi làm mai đặng cưới Bạch Yến, chớ thiệt cậu không có bằng
Bác Vật, mà cũng không ai cậy lên Lèo mà tìm mỏ gì hết; chớ chi mẹ con bà Huyện
là người háo danh háo lợi thì cậu gạt luôn để "đào mỏ" như thiên hạ
cho có vợ đẹp mà âu yếm, cho có mẹ vợ giàu mà cậy nhờ. Chẳng dè được gần gủi mấy
lần, cậu nhận thấy bà Huyện là người đúng đắn thành thật thương yêu cậu. Còn Bạch
Yến lãng mạn đa tình, say mê lời dụ dỗ mà yêu cậu một cách mù quáng, tại vậy
nên cậu hồi tâm bất nhẫn, không nỡ mang mặt nạ mà thực hành chước giả dối được.
Tại Bạch Yến yêu cậu mê mẩn, mà bây giờ cậu cũng yêu cô đắm đuối nữa, nên cậu
kính trọng tình yêu rồi cậu hổ thẹn về cách giả dối, cậu phải dứt tình mà từ
hôn đặng xa lánh cho khỏi thẹn với người yêu.
- Nếu vậy thì cậu nầy biết nâng cao Ái tình, cậu cũng thờ một
chủ nghĩa với tôi mà. Tôi phải tìm cho được cậu đặng tôi nói chuyện rồi lập thế
biến tình giả ra tình thiệt cho hai đàng sum hiệp trăm năm mà vui thú gia đình.
Chớ chi tôi được xem bức thơ từ hôn, tôi xem xét ý tứ châu đáo, thì tìm gặp tôi
nói chuyện mới dễ.
- Tôi có chép một bổn tôi cất đây. Để tôi lấy cho ông xem. Bổn
chánh cô Bạch Yến giữ.
Cô Cẩm Hương mở tủ lấy bổn sao trao cho Thứ Tiên. Cậu xem sơ
qua rồi cậu xin cho mượn đem về cậu chép một bổn nữa, hứa bữa sau cậu sẽ trả bổn
nầy lại cho cô. Cô Cẩm Hương thấy ý Thứ Tiên sốt sắng muốn kiếm giùm Tất Đắc
thì cô tính làm vui lòng khách nên cô nói:
- Ông cất luôn bổn đó mà đi kiếm dùm luôn cũng được, khỏi
chép thất công. Để tôi biểu Bạch Yến chép một bổn khác cho tôi. Mấy bữa rày tôi
tức quá nên đọc đi đọc lại hoài nên gần thuộc lòng. Ông kiếm được Tất Đắc thì
tôi cám ơn ông lắm.
- Tôi phải kiếm cho được tôi mới nghe. Ngay bây giờ tôi phải
đi qua chợ Thái Bình đặng làm quen với hai cậu Tự Cao với Võ Lộ mà nói chuyện.
Với cô thì họ giấu, còn với tôi chắc có lẽ họ nói thiệt. Mà tôi có cách nói
chuyện tôi dụ họ lần lần làm cho họ tin rồi việc gì kín cho mấy đi nữa họ cũng
nói hết.
- Ừ, ông rán nói giùm. Ông muốn gặp cô Bạch Yến hay không?
- Nếu tôi được nói chuyện với cô Bạch Yến và bà Huyện Hớn thì
càng hay. Tôi dọ tình ý hai mẹ con đặng tôi đìều tra cho dễ.
- Bữa nay chúa nhựt tôi rảnh. Tôi muốn mời ông chiều nay lối
4 giờ, trời mát ông đi với tôi lên Tân Định đặng thăm hai mẹ con bà Huyện.
- Được, đúng 4 giờ tôi sẽ qua đây. Bây giờ tôi phải đi qua chợ
Thái Bình.
Cậu Thứ Tiên cáo từ mà đi. Cô Cẩm Hương đưa khách ra cửa,
trong lòng mừng thầm, mừng có người sốt sắng giúp mình mà tìm Tất Đắc.
CHƯƠNG 2 - DỄ GÌ TÌM KIẾM
N
gười đi ban đêm tăm tối, may có trời chớp hay là gặp vài con
đôm đốm cũng đỡ khổ ít nhiều.
Tất Đắc đi mất. Cô Cẩm Hương bối rối, không biết cậu đi ngã
nào mà tìm. Tình cờ có người vì chủ nghĩa, vì nhiệm vụ, quyết đi kiếm Tất Đắc đặng
dụ dỗ trở về cưới Bạch Yến, không đợi cô cậy mượn, Cẩm Hương mừng quá, mừng chắc
cuộc tình duyên của Bạch Yến khỏi hư hỏng, mình khỏi hổ ngươi với mẹ con bà Huyện,
mà số tiền mình đã ra rồi cũng sẽ đòi lại được, bởi vậy cô hân hoan vô cùng.
Thứ Tiên đi rồi thì Cẩm Hương thay áo và lên xe đi Tân Định đặng
thông tin cho mẹ con bà Huyện Hớn hay liền, hay có người sốt sắng lãnh đi kiếm
Tất Đắc giùm cho, lại hay chiều nay người ấy sẽ đến nhà nói chuyện cho hiểu rõ
tình ý đặng tìm gặp Tất Đắc thì dễ phân trần với cậu mà đem cậu trở về cho loan
phụng đủ đôi, cho sắc cầm hòa nhịp.
Mẹ con cô Bạch Yến đương buồn rầu, con thất tình cứ nằm trong
phòng mà khóc thầm, khóc vì duyên phận lỡ làng, mà cũng vì lửa tình vừa mới
cháy phừng rồi lại tắt mất. Còn mẹ lại nằm chèo queo ngoài ván, phiền vì cái mơ
mộng gả con cho người tử tế, khôn ngoan, học rộng, đã tan vỡ, lại còn buồn
không biết phải ăn nói làm sao với bà con quyến thuộc bây giờ.
Thình lình cô Cẩm Hương xăng xốm bước vô, thấy bà Huyện nằm
dàu dàu, cô liền nói: "Thưa bà có người thờ chủ nghĩa Ái Tình, hay chuyện
cậu Tất Đắc từ hôn thì bất bình, nên hăng hái chịu lãnh đi kiếm mà dắt cậu về.
"
Bà Huyện nghe như vậy thì lồm cồm ngồi dậy, cô Bạch Yến nghe
tiếng cô Cẩm Hương nghi có tin tức về Tất Đắc nên cô cũng lật đật bước ra.
Bà Huyện hỏi cô Cẩm Hương:
- Họ lãnh đi kiếm Tất Đắc họ có định tiền thưởng là bao nhiêu
hay không vậy cô Đốc?
- Không, không. Ông nầy là một nhà văn lãnh mục khảo cứu đặng
viết bài phóng sự cho nhà báo. Vì ông thờ chủ nghĩa "nâng cao Ái
tình" cố gắng kết tóc xe tơ cho nam thanh nữ tú. Ông hay Tất Đắc với Bạch
Yến đã yêu nhau mà vì một chuyện giễu cợt mà chơi không đáng kể, lại lấy đó làm
hổ thẹn mà rã rời. Ông tức giận ông quyết hàn gắn lại không cho gương bể, chớ
không phải là người làm mướn mà tính tiền công. Ông vì chủ nghĩa chớ không phải
vì tiền bạc.
- Chủ nghĩa! Chủ nghĩa! Tại sao bây giờ ai cũng bày chủ nghĩa
như vậy không biết. Cậu Tất Đắc cũng vì chủ nghĩa nên sanh chuyện rắc rối đó.
Như ông nầy vì chủ nghĩa ông không tính tiền công thì tôi cũng phải chịu tiền
xe cho ổng đi kiếm chớ. Cô Đốc nói với ổng rán kiếm cho được Tất Đắc mà đem về
đây đặng tôi nói ba điều bốn chuyện cho cậu nghe rồi cậu sẽ đi chớ sao lại trốn
mà đi mất, không kèn không trống chi hết vậy.
Cô Bạch Yến nói:
- Thôi má à! Nếu người ta trở về thì thôi, chớ má còn bắt lỗi
bắt phải cho sanh chuyện nữa làm chi.
- Bà Huyện nói:
- Con đừng có nói dại như vậy. Đời nay bị chủ nghĩa lộn xộn
làm rối loạn đầu óc của cậu Tất Đắc. Cậu lính quýnh đi bậy bạ nên lầm lỡ rồi cậu
hổ thẹn. Má làm mẹ má lớn tuổi, má có kinh nghiệm về đường đời. Má phải làm cho
cậu định trí yên lòng đặng cậu bớt hổ ngươi, rồi cậu mới bình tĩnh mà sống theo
đời được chớ. Nếu má lặng thinh thì cậu cứ ái ngại trong lòng, sống mà không
vui thì sống làm sao được.
Cô Cẩm Hương nói:
- Lời bà Huyện nói rất phải lắm. Em Bạch Yến chẳng nên cãi với
bà. Em phải bình tĩnh để cho bà với cô lo cho. Chừng kiếm được cậu Tất Đắc đem
về đây em cũng đừng nói gì hết. Bà với cô đủ lời mà nói chuyện phải quấy với cậu
mà.
Bạch Yến nói:
- Chuyện sập trời mà bình tỉnh sao được cô. Em muốn gặp ông
nào lãnh đi kiếm anh Tất Đắc đó, đặng em nhắn ít lời.
Cô Cẩm Hương cười mà hỏi:
- Ạ, em muốn gặp ông Thứ Tiên hả? Chiều nay em sẽ gặp. Hiện
giờ ổng đương đi thăm hai cậu Tự Cao với Võ Lộ đặng dọ hỏi coi cậu Tất Đắc đi
ngã nào đặng ổng theo. Ổng tỏ ý cũng muốn đi thăm bà với em đặng dọ tình ý mà
nói chuyện với cậu Tất Đắc cho dễ. Cô có hẹn với ổng 4 giờ chiều nay ổng lại
nhà cô rồi cô đưa ổng lên đây đặng ổng nói chuyện. Chừng 4 giờ một khắc thì cô
với ổng sẽ lên tới.
Bà Huyện nói:
- Được chiều ổng lên thì tôi sẽ tỏ ý của tôi cho ổng hiểu.
Còn con Bạch Yến, con nói con muốn nhắn với ổng ít lời, nhắn sao đó con?
Bạch Yến nói:
- Con sẽ dặn ổng nếu kiếm gặp anh Tất Đắc mà ảnh cự nự không
chịu trở về, thì ổng phải nói cho ảnh biết rằng má đã định gả con cho ảnh rồi
thì con chỉ biết ảnh là chồng mà thôi. Nếu ảnh không về thì con ở độc thân mà
chờ ảnh mãn đời, con thề không lấy chồng nào khác.
Cô Cẩm Hương ngó bà Huyện mà cười. Bà Huyện nói
- Hổm nay nó cứ nói như vậy hoài. Phải làm sao mà kiếm cho được
chớ.
Cô Cẩm Hương nói:
- Tôi sẽ cậy ông Thứ Tiên cố gắng tìm cho được. Để chiều tôi
đưa ổng lên đây rồi bà nói thêm nữa cho ổng vui lòng mà giúp mình.
Cô Cẩm Hương biểu Bạch Yến chép bức thơ của Tất Đắc mà cho cô
một bổn khác vì bổn đưa hôm nọ cô đã giao cho ông Thứ Tiên rồi. Bạch Yến hứa
chiều cô sẽ đưa cho. Cô Cẩm Hương cáo từ mà về.
Mới ba giờ rưỡi chiều mà cô Cẩm Hương đã sửa soạn rồi hết, chờ
cậu Thứ Tiên qua tới thì đi liền, kẻo mẹ con bà Huyện trông. Tuy hồi sớm mơi bà
Huyện nói kín đáo mà cô hiểu, bà mong cho Tất Đắc trở về đặng bà nói cho cậu biết
bà xoá bỏ chuyện Bác Vật giả là chuyện giễu cợt không kể làm chi, nói rõ cho cậu
yên lòng mà cưới Bạch Yến cho cô hết buồn, bà đã giao kết hủy bỏ việc đi lên
Lèo mà kiếm hầm mỏ, bao nhiêu đó không đủ thấy bà kể con người chớ không kể bằng
cấp hay sao mà sợ, hổ thẹn nên bỏ đi mất.
Đúng giờ hẹn, cậu Thứ Tiên qua tới. Không đợi cô Cẩm Hương hỏi,
vừa bước vô thì cậu nói hồi sớm mơi cậu kiếm được chỗ ở của Tự Cao và Võ Lộ rồi,
nhưng chúa nhựt hai cậu khóa cửa đi mất, nên chưa gặp được. Vậy tối nay hoặc tối
mai cậu sẽ qua Thái Bình mà kiếm nữa.
Cô Cẩm Hương bèn biểu người nhà kêu hai chiếc xích lô rồi mời
khách ra đi liền.
Bà Huyện Hớn hay trước nên sắp đặt sẵn sàng, bà sai người đi
chợ mua bánh ngọt và biểu chị bếp nấu trước một ấm nước sôi bà dặn Bạch Yến
bình tĩnh và dè dặt để cho bà liệu mà đối đãi với khách, bởi vậy cô Cẩm Hương
bước vô giới thiệu ông Thứ Tiên là nhà văn khảo cứu phong tục để nâng cao Ái
tình thì bà Huyện với cô Bạch Yến vui vẻ tiếp chào, mời khách ngồi tại sa lông,
ông Thứ Tiên ngồi một bên, cô Cẩm Hương ngồi một bên, bà Huyện ngồi ghế dài
phía trong, còn Bạch Yến thì ra vô thôi thúc và chỉ biểu cho gia dịch bưng nước
bưng bánh.
Cô Cẩm Hương khởi đầu nói:
- Thưa bà Huyện, ông Thứ Tiên đây là người sùng bái Ái tình.
Ông hay cậu Tất Đắc là con của một ông Phủ quá cố, sắp thành hôn em Bạch Yến là
con của một ông Huyện cũng quá cố, vậy là đương môn hộ đối, vừa lứa xứng đôi,
mà rồi ông lại nghe cậu Tất Đắc thối thoát từ hôn bỏ đi mất, ông lấy làm bất
mãn. Ông mới cậy tôi tiến dẫn đặng ông hầu chuyện với bà Huyện, tìm hiểu nguyên
do sự thối thóat đó ngỏ hầu ông theo dấu cậu Tất Đắc mà khuyên giải cho cậu hồi
tâm trở về tác thành cuộc nhơn duyên khởi đầu đã tốt đẹp, ai nghe cũng khen ngợi.
Cậu Thứ Tiên tiếp nối liền:
- Cháu xin lỗi với bà Huyện việc nhà của bà Huyện mà cháu xen
vô bàn luận hoặc hỏi han thì thiệt cháu vô lễ lắm vậy. Sở dĩ cháu bạo gan đến
đây không phải cháu có ý tọc mạch, chánh là vì thuở nay cầm cây viết cháu cứ
thành tâm nâng cao Ái tình là một mối tình thiên nhiên kỳ cựu, do Tạo Hóa đặt ra
từ khi mới có loài người. Tại trải qua muôn ngàn đời, con người hẩng hờ để phai
lợt tình thiêng liêng cao cả đó đi, tình cần phải cũng cố muôn loài mới phát
triển. Mãi đến mấy đời sau nầy ái tình lạc mất chánh nghĩa hóa ra mối tình nhảm
nhí, nguy hiểm, thấp hèn. Cháu thấy vậy, bực tức chịu không được, nên mấy năm
nay cháu hiến thân phụng sự ái tình, quyết nâng cao tình ấy, quyết làm cho
thiên hạ hiểu chánh nghĩa cao cả của nó, đặng nhờ nó mà tạo an vui cho gia
đình, xây phú cường cho đất nước. Hay bà Huyện đã định cuộc hôn nhơn tốt đẹp
cho cô em, mà tại cậu Tất Đắc vì cái liêm sỉ lỗi thời cậu để ý hiềm nghi hóa ra
trắc trở. Vậy cháu quyết tìm cho được cậu đặng cuộc tình duyên có thủy có
chung, chớ không nên bỏ dở cho kẻ buồn người đợi. Nhưng trước khi đi kiếm, cháu
muốn hiểu ý của bà Huyện với cô em đối với cậu Tất Đắc, đặng gặp cậu cháu nói
chuyện với cậu mới mạnh miệng. Tại như vậy nên cháu mới cậy cô Đốc dắt cháu đến
đây, chớ cháu không có ý gì khác.
Bà Huyện chúm chím cười. Bà mời ông Thứ Tiên ăn bánh uống
trà. Cô Bạch Yến bưng dĩa bánh mà mời khách rồi cô ngồi một bên mẹ mà nghe nói
chuyện.
Bà Huyện mới nói:
- Ông lo là lo việc lớn, lo chấn hưng mỹ tục cho xã hội.
Nhưng việc đó nó lại liên hệ đến việc nhà của tôi bây giờ. Vậy mẹ con tôi cám
ơn ông hết sức. Để tôi tỏ gia đạo của tôi cho ông hiểu. Tôi góa bụa, lại không
có con trai, chỉ có một chút gái đây mà thôi. Từ ngày cha nó qua đời thì mẹ con
tôi hủ hỉ với nhau. Tôi chăm nom cho con học chữ đủ viết vậy thôi, rồi tập cho
nó biết nữ công nữ hạnh đặng sau nó hiểu phận sự của người nội trợ. Tôi không
có cái tham vọng trật vọc như người ta. Năm nay con tôi lớn rồi. Tôi tính kiếm
người côi cút tôi gả nó đặng vợ chồng nó ở với tôi, chớ gả cho người có cha mẹ
thì nó phải về nhà chồng ở làm dâu, tôi sống hiu quạnh chịu sao được. Cô Đốc học
đây là thầy cũ của con nhỏ tôi. Cô hiểu ý tôi, cô mới làm mai con nhỏ tôi cho cậu
Tất Đắc. Cậu đúng với điều kiện của tôi muốn: câụ mồ côi cả cha mẹ, lại không
có anh em chi hết. Hơn nữa cậu vốn là con nhà quan, tự nhiên có gia đình giáo dục.
Cậu có qua Pháp mà học năm sáu năm, tự nhiên kiến thức rộng rãi, học lực đủ
dùng. Có gặp cậu được vài lần tôi nhận thấy tánh tình vui vẻ bặt thiệp, tuy ưa
pha lững giễu cợt, song lời nói nho nhã dễ thương. Tôi nghĩ nhà tôi không phải
giàu sang gì. Trời cho mẹ con tôi có đủ cơm ăn vậy thôi. Con nhỏ tôi không có
tài nghề, cũng không có nhan sắc. Nó làm bạn như cậu Tất Đắc vậy thì vừa, mong
gả nó cho Bác Vật hay Bác Sĩ làm chi. Tôi lấy chi mà nạp của hồi môn nên mong gả
cho bực cao thượng. Tại như vầy nên tôi chịu gả con Bạch Yến cho cậu Tất Đắc.
Nghĩ vì cậu côi cút mà con tôi cũng vậy, tôi muốn tính với cô Đốc lễ cưới gả
không nên làm rình rang. Tôi định ngày rồi mời bà con ít người tới ăn cơm chơi
cho cậu Tất Đắc làm lễ ra mắt thân tộc, tục gọi là lễ cầu thân hoặc lễ Sơ Vấn,
để thế cho đám hỏi, rồi chọn ngày tháng tốt sẽ làm lễ cưới. Mà lễ cưới tôi cũng
tính làm cho giản tiện. Cậu ở chung chạ với anh em bạn chật hẹp không nên nhóm
họ rước dâu rình rang. Họ đàng trai tới làm lễ rồi nhập phòng đàng gái cũng được.
Tôi với cô Đốc tính dễ lắm. Đã thương nên mới gả, còn tính làm khó nổi gì. Hôm
nọ con nhỏ tôi đi chợ, sẵn dịp nó đi luôn vô Cầu Kho, mà thăm cô Đốc. Tình cờ
nó gặp cậu Tất Đắc cũng xuống đó chơi. Hai đàng nói chuyện với nhau, bàn tính ngày
cưới. Cậu có tánh ưa giễu cợt, lời qua tiếng lại có lẽ con nhỏ tôi thiệt thà khờ
khạo, nó nói trống trải sao đó, làm đụng chạm lòng tự ái của cậu mà nó không
dè. Cậu buồn nên bửa sau cậu mới gởi thơ từ hôn rồi bỏ đi mất. Tôi xem thơ rồi
tôi rầy con nhỏ tôi. Tôi hỏi nó có khinh ngạo cậu, hay giễu cợt cậu đào mỏ đào
mồng gì hay sao mà cậu phiền. Nó nói nó không có nói chuyện kỳ cục như vậy hồi
nào hết. Tôi đọc thơ kỹ lại thì cậu không có ý phiền mẹ con tôi. Trái lại, cậu
nói cậu kính tôi, cậu yêu con Bạch Yến, nhưng vì kính vì yêu đó nên cậu hổ thẹn
về sự giả dối, không có bằng cấp mà cậu xưng là Bác Vật hầm mỏ, bởi vậy cậu mắc
cỡ không muốn cho Bạch Yến thấy mặt cậu nữa. Cuộc hôn nhơn sắp thành, mà tại vì
chút đó, tại hiểu lầm, nên phải tan vỡ, chớ không có gì hết.
Cậu Thứ Tiên nói:
- Thưa bà, cô Đốc có trao bổn sao bức thơ từ hôn đó cho cháu
xem. Cháu đọc đi đọc lại rất kỹ, thì chỉ có cái điểm đó mà cậu Tất Đắc, vì cậu
giữ liêm sĩ thái quá, nên cậu ái ngại, chớ không phải cậu phiền bà hay là chê
cô em về chỗ nào hết.
Trái lại, cậu tự xét phận cậu mà cậu từ hôn, chớ không có
trách ai. Thế thì cũng dễ cắt nghĩa cho cậu hiểu. Nhưng trước khi gặp cậu, cháu
muốn biết coi ý bà với cô em có chấp trách cái việc mà cậu gọi là "tội giả
dối" và "mưu điếm đàng" đó hay không, rồi cháu sẽ đi kiếm mà giải
hoà cho tóc tơ khỏi phân rẽ.
Bà Huyện bựt cười lớn và nói:
- Trời Phật ơi! Lời nói giễu cợt với nhau để nghe chơi cho
vui, bữa mới gặp nhau lần đầu trong hội chợ, có ai lưu ý làm chi mà chấp trách.
Việc đó như vầy để tôi thuật lại cho ông nghe. Lúc hội chợ tôi với con nhỏ tôi
vô xem chơi. Đến gian hàng bánh mứt của cô Đốc đây hai mẹ con tôi gặp cậu Tất Đắc.
Cô Đốc giới thiệu đặng làm quen rồi cô mời hết ăn bánh uống trà nói chuyện
chơi. Cậu Tất Đắc có tánh vui vẻ nên cậu kiếm chuyện chọc cô Đốc đặng cười
chơi. Cô Đốc cũng vui miệng cô nói giễu lại. Cô kêu ông là Bác Vật, Bác Vật đào
mỏ, nói chơi cho vui chớ có gì đâu. Tôi cũng như con Bạch Yến, mẹ con tôi không
để ý. Cách ít bữa cô Đốc lên thăm tôi. Cô nói chuyện làm mai. Tôi hỏi thăm gia
đình gốc gác của cậu. Tôi hỏi ý con tôi. Tôi nhận thấy cậu có đủ mấy điều kiện
kén rể mà tôi mong ước theo như lời tôi nói với ông hồi nãy đó, vì vậy nên tôi
chịu gả chớ nào phải mẹ con tôi lầm tưởng cậu có bằng Bác Vật nên mới ham gả đó
hay sao mà cậu hổ thẹn. Cậu nghĩ tôi lầm té ra cậu khinh rẻ tôi quá, khi tôi mê
chức Bác Vật chớ không biết nhơn nghĩa chi hết. Tuy tôi đàn bà dốt nát song tôi
cũng biết giá trị con người cao hay thấp đều tùy tâm chí, tùy giáo dục, tùy
phong độ, chớ phải tùy học nhiều hay ít, tùy bằng cấp lớn hay nhỏ đâu. Cậu Tất
Đắc nói cậu hổ thẹn mà cậu không dè nói như vậy là cậu khi tôi, cậu làm cho tôi
phiền. Thiệt hổm nay tôi phiền cậu lung lắm, phiền về chỗ đó, chớ không phải
phiền cậu gạt gẫm.
Thứ Tiên nói:
- Bà nói như vầy cháu mới hiểu. Lời nói chơi mà cậu Tất Đắc
nhẹ tánh cậu dễ cảm dễ sầu quá nên sanh ái ngại rồi hổ thẹn, để cháu kiếm đặng
cháu cắt nghĩa cho cậu hiểu.
- Ừ, ông có gặp cậu ông làm ơn nói giùm cho cậu biết mẹ con
tôi không có tưởng cậu là Bác Vật hồi nào đâu mà cậu nói gạt rồi cậu mắc cở.
Trái lại đọc thơ của cậu tôi phiền nhiều, phiền cậu khinh khi tôi, cậu đã cho
tôi mù quáng, mà từ hôn, cậu cũng không thèm đến nói trước mặt tôi. Cậu bỏ đi mất
làm cho bà con người ta tưởng con Bạch Yến hư hèn, hoặc họ tưởng tôi khắc bạc,
nên gả thiên hạ hay hết, mà gần cưới cậu chê nên cậu bỏ, không thèm cưới. Cậu
làm như vậy mẹ con tôi xấu hổ với bà con chòm xóm chớ, phải hôn ông?
- Thưa phải, bà nói đúng lắm. Để cháu kiếm cháu nói hết cho cậu
biết, rồi cháu ép cậu phải trở về mà chịu lỗi với bà. Cậu trẻ tuổi nên vụt chạc,
làm việc chi cứ do tình cảm mà làm đùa, không thèm ngó ảnh hưởng việc mình làm.
- Mà ví dầu cậu có óc điếm đàng, cậy chức Bác Vật mà gạt tôi
đi nữa, bây giờ cậu biết ăn năn hối hận thì tôi cũng hỉ xả.
- Bà quảng đại quá! Được bà nhạc mẫu như bà thì quí biết chừng
nào.
- Làm mẹ gả con lấy chồng thì mong cho chàng rể biết thương
con mình chớ muốn sự gì nữa. Cậu Tất Đắc một hai nói cậu yêu con Bạch Yến, yêu
nó thì đủ rồi. Tôi có đòi hỏi điều chi nữa đâu. Nào phải người có bằng Bác Vật
mới biết yêu vợ còn người không có thì không yêu hay sao. Cậu không có bằng Bác
Vật mà cậu có bằng liêm sỉ. Bức thơ cậu viết đó là bằng liêm sỉ của cậu, theo
tôi thì nó quí giá hơn các văn bằng khác hết.
- Thưa bà nói rất đúng. Nếu điếm đàng thì có liêm sỉ đâu nên
hổ thẹn mà viết thơ từ hôn.
- Ấy cũng là cậu gốc con nhà quan, có gia đình giáo dục đầy đủ,
nên cậu mới biết liêm sỉ.
- Phải lắm. Cháu rất cám ơn bà. Nhờ được hầu chuyện với bà,
cháu mở trí thêm nhiều lắm. Bây giờ cháu có đủ lời lẽ mà thuyết phục cậu Tất Đắc
dễ dàng. Thôi cháu xin phép cháu về đặng kiếm hai ông bạn Võ Lộ và Tự Cao ở
chung một nhà với cậu Tất Đắc mà dọ hỏi cho biết cậu đi ngã nào đặng cháu theo
mà bắt trở lại.
- Thưa khoan, xin ông ngồi thêm một chút đặng tôi hiến chút đỉnh
tiền lộ phí cho ông đi xe mà kiếm.
- Thưa khỏi. Cháu vì chủ nghĩa, vì công ích mà làm việc chớ
không phải vì tiền bạc mà thọ tiền của bà.
- Mà việc ông làm đó nó liên hệ đến việc riêng của tôi, thì
tôi phải góp sức với ông chớ.
Bà Huyện biểu Bạch Yến vô buồng mở tủ lấy cái bóp tay đem ra
cho bà. Bà lấy ba tấm giấy săng trao cho Thứ Tiên xin cậu thâu nhận để mướn xe
đi kiếm Tất Đắc. Thứ Tiên cứ từ chối không chịu lấy. Cô Cẩm Hương cảm phục cách
nói chuyện khôn ngoan của bà Huyện quá, nhưng muốn biết ý Thứ Tiên và tính hối
thúc cậu bắt tay vào việc liền, nên cô cũng từ giã mẹ con bà Huyện mà về với Thứ
Tiên.
Cô Bạch Yến đưa khách ra tới cửa rào, cô trao một bổn sao bức
thơ từ hôn cho Cẩm Hương rồi cô nói với Thứ Tiên:
- Hổm nay má em buồn lắm. Ông rán kiếm giùm mà đem về cho má
em hết phiền. Ông đem được anh Tất Đắc trở về đây em mang ơn ông lắm. Em sẽ đền
ơn xứng đáng.
Thứ Tiên nói:
- Tôi làm thì phải được. Cô em cứ bình an ăn ngủ cho khỏe.
Lâu lắm là vài tuần nữa sẽ làm đám cưới. Tôi được dự lễ cưới thì đủ cho tôi vui
lòng rồi. Cô khỏi đền ơn chi nữa.
Nói dứt lời rồi, đủ hai xe đem lại. Thứ Tiên đi với cô Cẩm
Hương.
Về dọc đường cô Cẩm Hương nhớ tư cách đàng hoàng của bà Huyện
hồi nãy, nhứt là nhớ lời nói khôn khéo, khoan hồng, ôn hoà, giản dị, mà ý nghĩa
sâu xa, thì cô chúm chím cười hoài.
Còn cậu Thứ Tiên gặp bà Huyện khác hẳn với người cậu tưởng tượng
trong trí từ hồi sớm mơi, sau khi nghe câu chuyện từ hôn, bởi vậy hồi nãy thì cậu
ngạc nhiên, kính nể rồi bây giờ cậu lo ngại; bâng khuâng, liệu coi phải làm sao
mà tìm cho được Tất Đắc đem về, trước cho xứng với lòng tín nhiệm của người
đúng đắn, sau khỏi hổ với chủ nghĩa mình đã khoe khoang cao cả nên mình tận tâm
phục vụ.
Vì cậu quá lo nên về tới Cầu Kho cậu từ biệt cô Cẩm Hương xuống
đò mà về luôn bên Vĩnh Hội, nói về nghỉ ngơi đặng tối đi thăm Võ Lộ với Tự Cao.
Về đến nhà cậu Thứ Tiên nằm không yên. Hình dáng của mẹ con
bà Huyện cứ vẩn vơ trước mặt, lời bà Huyện nói cứ văng vẳng bên tai, lại thêm mấy
trăm đồng bạc xe cậu lãnh lấy của người ta nó cứ nhắc nhở cậu phải sốt sắng
không được phép dãi đãi, bởi vậy ăn cơm tối rồi cậu thay đồ đi liền, đi qua chợ
Thái Bình.
Đến căn phố cô Cẩm Hương đã chỉ cho cậu mà hồi sớm mơi cậu thấy
cửa đóng bì bịt, lại có ống khóa, khóa ngoài, bây giờ cửa mở bét có đốt ngọn
đèn dầu loe lét để trên bàn. Một thầy, ngồi trên cái ghế ngoài cửa khảy cây đờn
guy-ta, còn một thầy ngồi gần ngọn đèn trong nhà mà đọc sách.
Thứ Tiên bước vô chào. Người khảy đờn bèn ngưng đờn đứng dậy
hỏi:
- Ông muốn kiếm ai?
- Xin ông tha lỗi cho tôi hỏi thăm một chút. Phải ông Châu Tất
Đắc ở đây hay không?
- Phải. Mà ảnh không còn ở đây nữa. Ảnh đã đi chỗ khác bốn năm
bữa rồi.
- Tôi không hay. Mà ổng đi song hai ông bạn của ổng là ông Tự
Cao với ông Võ Lộ còn ở đây chớ?
- Phải, còn ở đây. Tự Cao là tôi, còn anh Võ Lộ đương đọc
sách kia. Ông biết hai anh em tôi hay sao?
- Tôi có nghe danh hai ông, nhưng chưa có hân hạnh được gặp mặt.
Hôm nay được rảnh tôi đến xin phép mà hầu chuyện với hai ông, không biết hai
ông có vui lòng mà tiếp tôi chăng?
- Được. Chúng tôi lấy làm vinh hạnh mà được ông chiếu cố mới
đến tệ xá của chúng tôi. Vậy tôi mời ông vô.
Tự Cao đưa Thứ Tiên vô cửa, vừa đi vừa kêu Võ Lộ ngồi trong
mà nói: "Anh Võ Lộ, có ông khách muốn thăm anh em mình đây ".
Võ Lộ bỏ sách đứng dậy cúi đầu chào khách.
Thứ Tiên đứng ngó hai cậu chủ nhà mà nói:
- Tôi xin phép mà giới thiệu tôi với hai ông. Tôi là Thứ
Tiên, tập viết phóng sự để đăng báo. Tôi có nghe danh ba ông ở chung với nhau
trong căn nhà nầy, tuy mỗi ông thờ một chủ nghĩa riêng song cũng được vui trong
cảnh thân yêu đầm ấm. Tôi xin thú thiệt, tôi cũng có chủ nghĩa mà cũng ở chung
với nhau được thì tôi ngạc nhiên chút đỉnh. Vì vậy nên tôi đến đây khảo cứu coi
ba ông nuôi trí cao thượng thế nào mà chí hướng khác nhau lại không mích nhau
như vầy được.
Tực Cao với Võ Lộ cười. Tự Cao vui vẻ kéo ghế mời Thứ Tiên ngồi,
còn Võ Lộ thì dọn dẹp đồ để lộn xộn trên bàn đủ thứ, rồi hai người chủ nhà ngồi
một bên, đối diện với khách hàng đặng dễ nói chuyện.
Võ Lộ mới nói:
- Theo thế tình thì ông bạn nghe ba anh em tôi khác ý mà ở
chung một nhà được, ông bạn ngạc nhiên phải lắm. Nhưng nếu ông bạn được biết
tâm trí của chúng tôi thì ông bạn sẽ nhìn nhận cách cư xử của chúng tôi không cậy
pháp thuật huyền bí nào hết, chỉ căn cứ trên hai nguyên tắc nầy: một là thành
tâm dung thứ cho nhau, hai là sùng bái tự do của người. Ông bạn nghĩ mà coi. Tạo
hóa sanh loài người hiện theo nhơn số trên mặt địa cầu kể đến số tỷ, vì phải
phân tán ở khắp nơi, tốp ở nhằm chỗ lạnh, tốp ở nhằm chỗ nóng, bởi vậy bị phong
thổ ảnh hưởng nên màu da có vàng, có trắng, có đỏ, có đen. Nhưng người màu nào
cũng đều có mặt, có tay, có chưn, cũng đi, cũng đứng, cũng ngủ, cũng ăn, như
nhau cả thảy. Mà tạo hóa lại trớ trêu, không cho lòng dạ giống nhau, bởi vậy
người thì ham muốn thế nầy, kẻ thì ưa thích cách khác, thậm chí cha con hay anh
em trong nhà mà tánh ý cũng không đồng nhau. Nếu chống với lý thiên nhiên, cha ép
con hay anh ép em phải theo ý mình thì mất niềm hòa khí, dầu con em ngoài mặt
phải vưng, song trong lòng cũng buồn cũng tức. Vậy ở đời phải nhường nhịn nhau,
phải dung chế cho nhau, thì mới vui mà sống, chớ khác ý thì cứ cãi cọ, rầy rà với
nhau hoài, mất hết ý nghĩa của sự sống. Huống chi từ đầu thế kỷ hai mươi nầy khắp
cả hoàn cầu đâu đâu cũng thờ thần Tự do. Mình phải làm như người ta chớ. Mà
mình thờ theo phận mình, thì cũng nên để bạn mình thờ theo phận bạn, cãi lẩy
làm chi. Có một điều cần yếu là mình hưởng tự do của phần mình thì chẳng nên phạm
tự do đến phần bạn. Ví như tôi với anh Tự Cao ở chung một nhà tôi buồn ngủ tôi
muốn được an tịnh mà ngủ, còn anh Tự Cao cảm hứng ảnh muốn ca hát cho vui, đã
biết ảnh có quyền tự do ca hát, tôi không được phép cản. Song tôi có quyền tự
do ngủ yên, ảnh hát om sòm ảnh phạm quyền tự do ngủ của tôi, vậy phải nhịn nhượng
nhau, hoặc tôi phải bỏ ngủ giấc ngủ mà đi chơi, hoặc anh Tự Cao phải đi chỗ
khác mà ca hát, để êm cho tôi ngủ. Nhờ ba anh em tôi biết rộng dung nhịn nhượng
và biết tôn kính tự do riêng của mỗi người nên tuy khác ý song cũng thuận hoà
mà ở chung với nhau mấy năm nay, không biết xích mích.
Thứ Tiên sợ người ta nghi rồi giấu diếm nên cậu chưa dám hỏi
gấp việc Tất Đắc, đã nghe Võ Lộ đàm luận rồi. Cậu muốn gây cho Tự Cao nói chuyện
nên cậu ngó Tự Cao mà hỏi:
- Tôi muốn biết chủ nghĩa riêng của hai ông, vậy chớ hai ông
có vui lòng nói cho tôi hiểu hay không?
Võ Lộ phải đáp:
- Chủ nghĩa của anh em tôi chẳng có chi cao kỳ mà không dám
giải. Anh Tự Cao thì chí quyết ăn ở cho hạp với tên của cha mẹ đặt cho anh, đặng
khỏi mang hư danh; còn tôi gốc gác ở Bạc Liêu, tôi quen cách ăn ở xính xái nên
tôi lập chủ nghĩa "Vô khả vô bất khả" mà ở đời.
Thứ Tiên cười mà nói:
- Hai chủ nghĩa dường như trái ngược với nhau quá.
- Không. Theo tôi thì dầu thế nào cũng được, bởi vậy tôi có
nghịch với ai đâu, anh bạn tôi đây muốn tự cao thì mặc ảnh. Còn nếu ai muốn tự
thấp, thì cũng tùy thích, tôi không cản. Tôi không cãi với ai, thì ai lấy cớ gì
mà cãi với tôi được, nên nói trái ngược.
- Còn ông Tất Đắc ở đây ổng thờ chủ nghĩa nào?
- Ạ! Anh Tất Đắc! Chủ nghĩa của ảnh khác, song cũng không
trái với chủ nghĩa của tôi.
Tôi rất tiếc không gặp anh Tất Đắc ở nhà đặng tôi phỏng vấn
luôn mà biết chủ nghĩa của ông nữa.
- Anh Tất Đắc thờ chủ nghĩa "Vô vi, vô tư lự ". Ba
chủ nghĩa của ba anh em tôi tuy hình thức và danh từ khác nhau song cả ba đều
căn cứ theo học thuyết của Lão Tử, chớ không lập dị, không cầu kỳ chi hết.
- Tôi xin thú thiệt với hai ông, tôi chưa biết học thuyết của
Lão Tử.
- Ông bạn muốn làm phóng sự viên cho đúng đắn, ông bạn cần phải
biết Tam Giáo đặng xét tâm lý của sự của vật để hiểu việc nầy bởi đâu mà sanh
ra vậy, người nọ tại sao mà làm như vậy. Ông bạn chưa biết học thuyết của Lão Tử
thì chịu khó khảo cứu thì tự nhiên sẽ biết.
- Cám ơn ông, tôi sẽ khảo cứu. Nhưng tôi muốn hiểu trước điều
nầy. Ông nói ông Tất Đắc thờ chủ nghĩa "Vô vi" nghĩa là không thèm
làm gì hết. Vả ở đời phải làm mới có mà ăn. Ông Tất Đắc không chịu làm rồi ông
mới lấy chi ăn mà sống?
Bây giờ Tự Cao mới cười mà nói:
- Tại ông chưa khảo cứu học thuyết của Lão Tử nên ông hiểu lầm.
Xin ông tha lỗi, tôi không dám giảng giải học thuyết Lão Tử với ông. Phải bực
thượng trí có học thức cao siêu mới giảng nổi. Tôi nói ông hiểu lầm là vì ngày
tôi mới gặp anh bạn Tất Đắc, tôi nghe ảnh nói ảnh thờ chủ nghĩa "Vô
vi", tôi cũng bát bẻ như ông mới nói đó vậy. Anh Tất Đắc cũng nói tôi hiểu
lầm, rồi ảnh cắt nghĩa cho tôi nghe. Theo lời ảnh nói thì trời đất sanh vạn vật
thứ gì cũng có nguyên nhơn, có lẽ tự nhiên của nó hết. Nó biến chuyển tự nhiên
mà đâu đó đều hoàn bị, không cần ai sai khiến hay giúp đỡ. Nó tự làm lấy mà mọi
việc đều hoàn hảo công bình. Nếu mình chen vô mà thúc đẩy hay sửa đổi, làm mất
lẽ tự nhiên thì phải hư hại. Bởi vậy hai chữ "Vô vi"của Lão Tử nghĩa
là đừng làm sái lẽ tự nhiên của Tạo Hóa chớ không phải đừng làm gì hết. Việc gì
cũng phải làm hết chớ. Nhưng phải làm khi việc còn nhỏ chớ đừng chờ nó lớn. Phải
làm khi việc còn dễ chớ đừng chờ nó khó. Đợi nó lớn nó khó rồi mới làm thì tức
nhiên làm không nổi phải hư hỏng.
Thứ Tiên nói:
- Thắc mắc khó hiểu quá. Chờ có ông Tất Đắc đặng tôi cậy ổng
giảng giải rành chủ nghĩa của ổng cho tôi hiểu. Không biết ông vào giờ nào ổng
mới về?
Tự Cao liếc mắt ngó Võ Lộ mà đáp:
- Ảnh đi ảnh không nói đi đâu mà cũng không hẹn ngày về. Anh
chỉ nói không thèm ở đất Sài gòn nầy nữa mà từ rày cho đến chết ảnh cũng không
trở về đây.
- Thứ Tiên ngạc nhiên hỏi:
- Ủa! Sao lạ vậy. Hai ông có biết tại sao mà ổng quyết định bỏ
biệt đất Sài gòn hay không?
Võ Lộ cười mà đáp rằng:
- Hồi nãy tôi có nói với ông bạn rằng, ba anh em tôi kỉnh quyền
tự do của mỗi người, bởi vậy ai làm việc chi hay ai muốn đi đâu, chúng tôi
không xúi, không cản, không hỏi, sợ xâm phạm tự do của người ta.
- Ở chung với nhau rồi một người rứt ra mà đi, có lẽ mình
cũng phải hỏi tại duyên cớ nào mà đi, đi đâu, đi chừng nào rồi về chớ.
- Chúng tôi sống với chủ nghĩa, chớ không phải sống với thế
tình. Mà ông bạn có việc chi nên muốn gặp anh Tất Đắc hay sao?
- Có. Người ta cậy nói một chút chuyện với ổng. Hai ông biết ổng
đi đâu xin làm ơn chỉ giùm cho tôi đặng tôi đi kiếm ổng.
- Cái đó thiệt chúng tôi không biết.
Tự Cao đứng dậy mà ngâm:
"Nghĩ điều trời thẩm vực sâu,
"Bóng chim, tăm cá, biết đâu mà nhìn"
Thứ Tiên cười mà nói với Võ Lộ:
- Tôi có nghe ông Tất Đắc gốc gác ở Long Xuyên, không biết ổng
có về đó hay không.
Võ Lộ nói:
- Hồi trước ông thân bà thân ảnh ở Long Xuyên. Nhưng hai ông
bà khuất hết, ảnh mới bán nhà cửa lên đây mấy năm rồi, không hiểu ảnh có bà con
ở dưới hay không. Nếu có việc cần thì ông chịu khó xuống Long Xuyên kiếm thử
coi.
Tự Cao nói:
- Ông nói ông viết bài phóng sự cho mấy tờ báo, tự nhiên ông
quen với mấy ông chủ nhiệm. Vậy ông viết ít hàng cậy báo đăng giùm mà kiếm anh
Tất Đắc. Anh thấy tự nhiên ảnh về, Ông khỏi mất công đi tới Long Xuyên xa quá.
Võ Lộ lại nói:
- Ông có thể cậy đài Phát thanh kêu gọi anh Tất Đắc giùm cho
và biểu ảnh trở về, kêu hoài mỗi bữa có lẽ thấu tới tai ảnh.
Tự Cao nói:
- Hay là ông xin xâm, hoặc cậy thầy bói chỉ coi ảnh đi hướng
nào mới biết mà đi kiếm chớ.
Võ Lộ nói:
- Còn cách nầy hay nhứt mà lại mau lẹ nữa là ông đến bót cáo
anh Tất Đắc về tội gì đó, bội tín, hoặc sang đoạt, hoặc trộm cắp, thì nhà chức
trách sẽ kiếm mà giải về.
- Thứ Tiên vội vã nói:
- Ý! làm cách đó không được. Mích lòng lắm;
Tự Cao nói:
- Còn một cách nầy nữa, ông viết quảng cáo mà đăng báo, hứa
ai biết anh Tất Đắc ở đâu thông tin cho ông biết, ông sẽ thưởng một số tiền lớn.
- Thứ Tiên nói:
- Cách đó có lẽ làm được.
Thứ Tiên biết hai cậu nầy giấu diếm không chịu nói thiệt, ngồi
lâu nữa vô ích, nên cậu đứng dậy cáo từ mà về.
Bước ra đường cậu thấy kẻ lên người xuống cậu lơ lững không
biết đi tới đâu. Một chiếc xe xích lô chậm chạp đạp rề một bên mà cậu không
thèm ngó. Hồi nãy đến đây cậu thấy căn nhà mở cửa cậu mang đầy một bụng hy vọng
mà bước vào, tin chắc rằng cô Cẩm Hương là đàn bà không quen nói chuyện với nam
nhi lãng mạn nên bị họ pha lững rồi rối trí không tìm ra lời mà dọ dẫm, chớ cậu
là trai tân tiến, cậu từng tiếp xúc với các giai cấp, từng lên diễn đàn mà nói
chuyện trước năm bảy trăm cặp mắt chong nhìn cậu mà cậu không khiếp sợ, cậu có
đủ lanh lợi, đủ khôn ngoan mà tráo trở đặng xỏ mũi người ta mà dắt đi. Cậu sẽ
biết chỗ Tất Đắc ẩn trú dễ dàng trong vài bữa, hoặc sáng mai đây, cậu sẽ nắm
tay Tất Đắc mà dắt về cho cô Cẩm Hương kinh hồn, không biết chừng đưa luôn lên
nhà bà Huyện mà đòi cô Bạch Yến phải đãi một bữa cơm tạ ơn Ông Tơ sốt sắng. Hồi
nãy bước vào hy vọng bao nhiêu, bây giờ trở ra cũng thất vọng bấy nhiêu. Cậu
phú cho hai chưn cậu muốn đưa cậu đi ngã nào tự ý, cậu không thèm kể, cứ cúi mặt
xuống đất thủng thẳng lần bước mà suy nghĩ.
Thứ Tiên đi một hồi lâu rồi cậu ngước lên, té ra cậu đi gần tới
đường Galliéni, nhờ nước nhà độc lập nên mới được đổi tên mà gọi là Đại lộ Trần
Hưng Đạo. Thấy tiện đường đi xuống Cầu kho, cậu mới tính ghé nói chuyện với cô
Cẩm Hương.
Nhà cô Cẩm Hương còn mở cửa, đèn điện cháy sáng trưng. Thứ
Tiên bước vô gỏ cửa. Cô Cẩm Hương ở trong đi ra. Thứ Tiên không đợi mời xông vô
kéo ghế ngồi liền, ngồi thở một cái khì, bộ như người mệt mỏi nên cần ngồi mà
nghỉ.
Cô Cẩm Hương ngạc nhiên, không hiểu tại sao hồi chiều đi thăm
mẹ con bà Huyện về thì bộ cậu lạc quan nên hăng hái, mà bây giờ cậu lại bí sị uể
oải buồn hiu. Cô mới hỏi cậu ở bên nhà qua chơi hay là đi đâu về ghé.
Thứ Tiên nói:
- Tôi đi qua chợ Thái Bình rồi về đây. Cô biểu người nhà đi
mua cho tôi một ly cà phê đậm đặng tôi uống rồi tôi sẽ nói chuyện cho cô nghe.
Cô Cẩm Hương kêu chị bếp đưa tiền mà biểu chị lấy ly đi mua
cà phê dặn chế cho thiệt đậm rồi ngồi mà hỏi Thứ Tiên:
- Ông qua Thái Bình có gặp Tự Cao hay Võ Lộ hay không?
- Gặp đủ hai người hết.
- Sao? Ông hỏi có ra manh mối cậu nọ đi đâu hay không?
- Không ra khỉ gì hết. Tôi tưởng hai người đó đàng hoàng tử tế,
tôi chắc họ sẽ nói thiệt cậu Tất Đắc đi đâu đặng tôi theo mà giảng điều hư sự
thiệt rồi tôi đem về. Té ra tôi gặp tụi trời ơi đất hỡi gì đâu, họ bày chuyện
nói minh mông mà không chịu chỉ, họ làm cho tôi thất vọng cực điểm. Tôi có hứa
với bà Huyện và cô Bạch Yến trong ít bữa tôi sẽ đem cậu Tất Đắc về. Bây giờ
công việc mù mịt như vầy tôi làm sao mà giữ lời hứa cho được, bởi vậy tôi buồn
quá.
- Tôi đã nói với ông, hai cha đó trớ trêu khó chịu lắm mà, chớ
có phải như người ta đâu.
- Khó chịu thiệt. Họ bày chủ nghĩa rồi giảng giải học thuyết
của Lão Tử, nói trên trời dưới đất minh mông, làm cho tôi rối trí muốn điên, chớ
không hiểu gì hết.
Chị bếp bưng ly cà phê về. Cô Cẩm Hương biểu chị bếp lấy bình
đường và mời khách uống thử như không được ngọt thì thêm đường. Cô đợi khách uống
ít hớp cà phê đậm và nóng đặng định thần lại rồi cô mới hỏi:
- Ông có than phiền với hai người đó về sự Tất Đắc báo hại
người ta cả đám hay không? Cậy mai mối nói vợ, người ta chịu gả, rồi lại viết
thơ từ hôn và bỏ trốn mất làm kỳ quá.
- Không, không, tôi biết cách nói chuyện lắm mà. Ở chung một
nhà, Tất Đắc nói vợ có lẽ nào hai người đó không hay, rồi bỏ mà trốn, có lẽ nào
lại không biết. Tôi muốn để cho hai người đem chuyện đó ra mà nói, chớ tôi nói
trước họ nghi tôi là người của cô hoặc của bà Huyện cậy đi kiếm, rồi họ nói dối
tôi tìm sao ra. Tôi làm bộ không hay biết chuyện hôn nhơn của Tất Đắc. Tôi xưng
tôi là phóng viên của nhà báo chí, tôi nghe ba cậu thờ ba chủ nghĩa khác nhau lại
ở chung một nhà, tôi đến phỏng vấn. Võ Lộ với Tự Cao chụp giải luôn chủ nghĩa của
hai cậu cho tôi nghe, rồi giải luôn chủ nghĩa "Vô vi "của Tất Đắc nữa,
nói minh mông về đạo Lão Tử. Tôi làm bộ không hiểu tôi muốn gặp Tất Đắc đặng
xin cậu giải cho rành. Hai người mới nói Tất Đắc đi mất không trở về Sàigòn nữa
đâu mà trông. Tôi biết họ giấu nên tôi dọ hỏi coi đi đâu đặng tôi theo mà kiếm.
Họ cứ nói không biết. Tôi liệu hỏi không ra nên tôi về.
- Tôi có hỏi rồi, họ không chịu nói mà.
- Họ muốn giấu thì để cho họ giấu. Tôi với cô góp sức mà kiếm
cũng được, đừng thèm cầu ai hết. Tôi xin hỏi cô điều nầy, cô biết Tất Đắc có tiền
bạc nhiều hay không?
- Không có nhiều. Áo quần quần đặt may thì tôi trả tiền. Bữa
lên nhà Bạch Yến ăn cơm, làm như lễ cầu thân đó, thì tôi có đưa cho cậu 100 mà
bỏ túi vậy thôi. Tôi chắc cậu ra đi, trong mình cậu không có tới hai trăm đồng
bạc. Hai người kia có giúp cho cậu bất quá thêm vài trăm nữa mà thôi.
- Vậy thì cậu không thể đi xa được. Bây giờ tôi tính như vầy,
tôi bắt đầu lục kiếm vùng Sàigòn, Chợ lớn, Gia định trước. Như không có tôi sẽ
lần ra mấy tỉnh chung quanh đây như Biên hoà, Thủ Dầu Một, Gò công, Tân an, Mỹ
tho. Trong lúc tôi rảo đi kiếm đó, tôi cậy cô chịu khó vô Lăng Ông Thượng trong
Bà Chiểu cô đem tên họ và tuổi của Tất Đắc mà vái đặng xin một cây xâm coi cậu
coi cậu đi hướng nào và mình có thể tìm được cậu hay không. Nếu cô nghe thầy
bói hoặc xác đồng nào nói giỏi thì cô làm ơn đến coi thử cho biết đặng mình trì
trí mà kiếm. Ví như xâm với xác đều không thể tìm đưọc, thôi thì mình chịu lỗi
với bà Huyện mà bỏ, khuyên bà chọn người khác mà gả cô Bạch Yến, chớ tìm kiếm
làm chi nữa cho thất công;
- Được. Ông đi dọ kiếm đi. Tôi lãnh phần xin xâm và coi bói
cho. Tôi muốn làm ơn mà báo cho tôi tốn cả ngàn rồi bỏ đi mất thiệt tức tôi
quá.
- Cô có gặp bà Huyện hay cô Bạch Yến cô nói cách chị em mình
sắp đặt như vậy cho mẹ con bà Huyện hay đặng khỏi trách mình nói dóc rồi bỏ
qua. Cô làm liên lạc giùm một chút chớ kiếm chưa được tôi ngỡ ngàng quá, tôi
không muốn gặp mẹ con bà Huyện.
Hai người thỏa thuận với nhau như vầy rồi Thứ Tiên mới đi về.
Từ đó vì danh dự, vì lời hứa, vì chủ nghĩa mà cũng vì bạc tiền
nữa, nên cậu Thứ Tiên với cô Cẩm Hương mỗi người một ngả, hễ rảnh thì lo làm phần
việc của mình. Cô Cẩm Hương xin xâm thì xâm nói về phần số khiến Ngưu Lang phải
lìa Chức Nữ, kẻ bên Tây bôn ba, người bên Đông chờ đợi, nhưng đến năm Ất Mùi mới
nghe tin tức, rồi qua tháng Dậu tháng Hợi sẽ được hiệp hòa một cửa vui vầy. Cẩm
Hương cho Thứ Tiên hay tin ấy. Mặc dầu xâm nói rành rẽ như vậy, Thứ Tiên cho là
chuyện xa vời không thể tin được nên cậu cũng nổ lực tìm kiếm.
Cách ít bữa cô Cẩm Hương lên thăm mẹ con bà Huyện, thuật cách
sắp đặt tìm kiếm cho mẹ con bà nghe rồi đưa lá xâm ra mà đọc lại lời của người
bàn giùm. Cô Bạch Yến nói chị bếp có dắt cô đi coi xác đồng trên Phú nhuận, người
ta đồn xác nói hay lắm. Xác hỏi tuổi rồi nói hai tuổi có duyên nợ với nhau
không thể gì bỏ nhau được. Tuy mạng số khiến nhơn duyên ban đầu phải trắc trở
nhưng trong ít năm rồi sẽ sum hiệp, trai tài phỉ chí, gái sắc phỉ tình. Bạch Yến
đương vui vẻ lại nghe lời xâm cũng nói như vậy nữa thì cô càng thêm hớn hở, nên
cô nói trước mặt bà Huyện với cô Cẩm Hương rằng dầu phải chờ đến già răng rụng
tóc bạc cô cũng chờ, chớ cô không ưng chồng nào khác dầu giàu sang đến bực nào
cô cũng không ham.
Trong mấy tháng Thứ Tiên rảo khắp Sài gòn, Chợ lớn, Bà Chiểu
và đủ mấy tỉnh chung quanh nữa, mà dọ hỏi hết sức cũng không ai biết Tất Đắc ở
đâu mà chỉ. Cậu cậy hai tờ báo đăng giùm lời rao xin Tất Đắc ở chỗ nào thì viết
thơ về toà soạn cho cậu biết đặng cậu đến thương lượng về cuộc làm ăn. Lời rao
đăng ở mỗi tờ báo nữa tháng mà không có hiệu quả gì hết. Cậu tỏ ý muốn xuống
Long xuyên mà kiếm.
Cô Cẩm Hương lên thuật công phu của Thứ Tiên như vậy cho bà
Huyện nghe. Bà Huyện cảm ơn hết sức và bà đưa thêm cho Cẩm Hương 200 đồng bạc nữa,
cậy trao cho Thứ Tiên mà giúp tiền xe. Thứ Tiên được tiền thêm cậu tính bà Huyện
muốn cho cậu đi Long xuyên, bởi vậy cậu đi xuống ở hai bữa rồi cũng vô ích.
Nghe người ta đồn bên đường Hàng Sanh có cô xác coi hay lắm,
cô Cẩm Hương tìm qua cậy coi, tuổi Tất Đắc với tuổi Bạch Yến có thể sum hiệp được
hay không. Cô xác nầy cũng nói hai tuổi có duyên nợ, vì yêu nhau một cách cao
thượng nên xa nhau, chớ không phải chê hay ghét. Không sớm thì muộn thế nào
cũng được sum hiệp.
Thứ Tiên cùng đường rồi cậu trở lại thăm Tự Cao với Võ Lộ nữa
mà hỏi Tất Đắc có về hay là có cho biết bây giờ ở đâu hay không. Hai cậu nầy
cũng nói không có tin tức gì hết, rồi lại nói nếu kiếm Tất Đắc không gặp thôi
thì để hai cậu giải sơ giùm học thuyết của Lão Tử cho mà nghe đỡ, Thứ Tiên đã
chán rồi nên lật đật đứng dậy từ chối:
- Tôi rất cảm thạnh tình của hai ông. Bữa nay tôi nhức đầu lại
còn có hẹn lỡ với một ông bạn khác, nên ngồi lâu không được. Vậy xin để bữa
khác rảnh rồi tôi sẽ hầu chuyện và bày tỏ chủ nghĩa thiên nhiên của tôi cho hai
ông nghe.
Võ Lộ nói:
- Chủ nghĩa thiên nhiên đó cũng thuộc về học thuyết của Lão Tử
đa. Nếu vậy chúng ta đều chung một phái hết mà.
Thứ Tiên không muốn gây chuyện ra dài, nên cậu cười rồi cáo
biệt mà đi liền.
Thứ Tiên nghĩ đã cùng đường rồi, không còn biết ngã nào mà đi
nữa, nên một bữa chúa nhựt cậu rủ cô Cẩm Hương đi thăm bà Huyện Hớn đặng cậu
cáo lỗi về sự cậu bất tài nên tìm không ra Tất Đắc.
Bà Huyện niềm nở tiếp rước. Bà thành thiệt tỏ lời cám ơn Thứ
Tiên đã dày công bền chí mà lo giùm việc trăm năm cho con bà. Dầu tìm được hay
không được ấy là do lẽ trời, chớ bà biết công ơn của cậu thiệt là nhiều, không
bao giờ mẹ con bà quên được.
Cô Bạch Yến cũng tiếp mà cám ơn Thứ Tiên với cô Cẩm Hương. Và
một lần nữa cô cương quyết mà nói rằng dầu Bác vật hay không Bác vật, Châu Tất
Đắc cũng là chồng của cô mà thôi. Vậy cô chờ Tất Đắc cho tới mãn đời cũng được.
Chừng đi về dọc đường cậu Thứ Tiên mới nói với cô Cẩm Hương:
- Tình của cô Bạch Yến đó mới gọi là Ái tình. Sấm sét không vỡ,
mưa nắng không phai. Vậy mới đáng cho người đời kính thờ chớ.
CHƯƠNG 3 - TÌNH CỜ MÀ GẶP
B
ốn năm sau.
Nước Việt nam được hoàn toàn độc lập với chánh thể Cộng Hoà.
Ngày 26 tháng 10 năm ấy là năm 1955, nhằm năm Ất Mùi, Đô
thành Sài gòn trần thiết lễ tuyên bố Việt nam Cộng Hoà Độc lập tưng bừng. Nhà
phố đều thượng quốc kỳ rực rỡ tốt tươi, để mừng non nước Việt nam trở về với
dân tộc Việt nam, sau một thời gian dài đến 96 năm đau khổ dưới ách ngoại bang
đô hộ. Trót ngày ấy nhơn dân nam nữ trẻ già hớn hở kéo nhau đi đầy đường, chào
mừng độc lập quốc gia hoan hô Tổng Thống sáng suốt.
Đến 3 giờ chiều mà thiên hạ cũng còn đi chơi chật đường chật
phố, xe phải đi rề rề chớ không thể chạy mau như ngày thường.
Cậu Thứ Tiên làm phóng sự viên nên từ hồi tảng sáng cậu rảo
bước khắp nẻo đường. Đến giờ nầy cậu còn đương lẩn thẩn trên lề đường Gia long,
theo lượn sóng người đưa đẩy. Dưới lòng tàu lộ thì xe hơi chiếc lại chiếc qua
không ngớt.
Tình cờ một chiếc xe hơi đương rề rề đi gần tới Thứ Tiên, rồi
một thiếu phụ ngồi trong xe miệng kêu tên cậu, tay lại đưa ra mà ngoắc cậu. Thứ
Tiên thấy thiếu phụ giống Bạch Yến, lại có một cậu trai lạ ngồi một bên không
biết là ai. Chiếc xe ngừng sát lề đường và cửa mở ra. Thứ Tiên tránh kẻ qua người
lại mà đi lại đó coi ai kêu và muốn nói chuyện chi. Thiệt quả cô Bạch Yến xuống
xe, rồi tiếp theo cô có một thanh niên mặc bộ đồ nỉ đen, cũng xuống xe nữa. Thứ
Tiên đi tới, cậu cúi đầu chào cô Bạch Yến.
Bạch Yến cũng cúi đầu đáp lễ rồi cô đưa tay chỉ người đi với
cô vừa cười vừa nói:
- Em xin phép giới thiệu cho ông biết người đi với em đây là
vị hôn phu của em, tên là Châu Tất Đắc ở bên Pháp đi máy bay mới về tới hồi 11
giờ rưỡi trưa nầy.
Thứ Tiên ngạc nhiên đứng ngơ ngáo.
Bạch Yến day lại nói với Tất Đắc:
- Em cũng xin giới thiệu cho anh biết ông đây là một phóng sự
viên của báo chí, với bút hiệu Thứ Tiên. Nhờ ngòi viết cứng cỏi nhưng thanh tao
nên ông có tên tuổi trong làng văn tân tiến. Ông thờ chủ nghĩa "nâng cao
Ái tình" nên ông ra công trót bảy tám tháng và dùng đủ cách mà tìm kiếm
anh đặng khuyên giải cho anh trở về. Ông là người ân của mình. Má cũng quí trọng
ông lắm.
Tất Đắc bước tới đưa tay ra nắm tay Thứ Tiên siết chặt mà
nói:
- Tôi ra đi tôi tưởng để buồn cho em Bạch Yến và để phiền cho
chị Cẩm Hương mà thôi. Tôi không dè tôi còn làm thất công và nhọc trí cho ông bạn
nữa. Tôi xin ông bạn tha tội cho tôi, vì ông bạn mong ước nâng cao Ái tình, vậy
tôi sẽ gắng sức tiếp tay ông bạn cho ông bạn khỏi thất vọng mà tôi cũng trọn ân
đức.
Thứ Tiên hỏi:
- Té ra ông đi qua bên Pháp lận hay sao?
- Phải. Tôi đi qua bên Pháp.
- Hai ông Tự Cao và Võ Lộ biết hay không?
- Không. Khi ra đi tôi có nói cho hai bạn tôi biết tôi đi
đâu. Mà thiệt ngày đó tôi cũng không biết tôi phải đi đâu mà nói.
Nếu vậy thì hai ông đó nói thiệt mà, vậy mà tôi tưởng hai ổng
muốn phá tôi nên cứ giấu mà nói không biết ông đi đâu. Ông về đây mà hai ông đó
hay rồi chưa?
- Chưa. Bây giờ đi thăm hai ảnh đây.
- Còn cô Cẩm Hương cổ hay chưa?
- Chị Cẩm Hương hay rồi. Tôi về tới thì bà già tôi sai người
xuống cho chị hay. Chị lên liền. Chị gặp tôi rồi.
- Chắc cổ mừng dữ hả?
- Người mắc nợ trốn mấy năm. Tình cờ gặp lại, tự nhiên chủ nợ
mừng lắm. Đó là lẽ thường.
Cô Bạch Yến nói:
- Hồi gần 2 giờ cô Cẩm Hương về trước dưới nhà cô, nói về đặng
cho ông hay và dọn tiệc trà đặng chừng 4 giờ chúng tôi đi thăm anh Võ Lộ với
anh Tự Cao rồi rước hết xuống nhà cô Cẩm Hương uống trà nói chuyện chơi. May gặp
ông đây em xin mời ông đây lên xe đi gom anh em xuống Cầu Kho rồi sẽ nói chuyện.
- Thứ Tiên hăng hái lên xe, không từ chối. Cô Bạch Yến dặn
anh sớp phơ chạy vô chợ Thái Bình.
Thứ Tiên nói:
- Đi kiếm mà hỏi thăm chuyện ông Tất Đắc, tôi gặp ông Tự Cao
với ông Võ Lộ thiệt tôi chạy ngay. Hai ông nói chuyện gì đâu không thèm nói
chuyện mình muốn biết, giải chủ nghĩa thì phải rồi, mà còn bắt qua giảng học
thuyết của Lão Tử nữa, làm cho tôi muốn điên đầu loạn óc. Cách mấy tháng sau
tôi trở lại hỏi coi có nghe tin tức ông Tất Đắc ở đâu hay không. Hai ông nói
không nghe rồi bắt tôi ngồi đặng giảng giải đạo Lão Tử. Tôi chạy, tôi kiếm cớ
cáo từ mà đi liền.
Tất Đắc cười mà nói:
- Tại ông chưa quen nên ông khó chịu. Hai ông đó vui lắm. Nếu
ông tới lui thường, ông quen tánh ý rồi, ông sẽ thấy lời nghị luận của hai ổng
có nhiều thú vị lạ lùng. Vì vậy nên hồi trước ba anh em tôi mới vui mà ở chung
một nhà với nhau chớ.
Xe vô tới Thái Bình. Tất Đắc chỉ chỗ cho anh sớp phơ ngừng.
Trong nhà Võ Lộ với Tự Cao bận đồ đàng hoàng dường như sửa soạn đi chơi. Hai cậu
nghe xe ngừng ngừng thì ngó ra, thấy Tất Đắc đương mở cửa xe bước ra thì la lớn:
- Ê! Anh Tất Đắc trở về kia kìa!... Vậy mà nói đến chết cũng
không trở về Sàigòn chớ!.
Tất Đắc vừa xăng xớm đi vô vừa nói:
- Phải tôi về đây. Hai anh mạnh giỏi hả?
Võ Lộ với Tự Cao đi ra cửa mà tiếp bạn. Võ Lộ thấy có hai người
đi theo sau Tất Đắc thì nói:
- Ủa! Có cô Bạch Yến với ông Thứ Tiên nữa mà. Kiếm ở đâu mà
giỏi vậy?
Thứ Tiên cười mà nói:
- Hai ông thấy nghề của tôi hay chưa hử? Hai ông cứ giấu tôi
mà tôi cũng tìm được vậy.
Tự Cao nói:
- Thiệt chúng tôi không biết đi đâu mà chỉ chớ giấu làm chi.
Tự Cao lại vỗ vai Tất Đắc mà hỏi:
- Khi ra đi anh nói anh không thèm ở đất Sài gòn nữa, mà đến
chết anh cũng không trở về đây. Sao bây giờ anh trở về? Tại anh không thờ chủ
nghĩa "Tự cao" nên anh không biết tự trọng.
Tất Đắc cười mà nói:
- Tôi trở về đây là tại nợ tình, biết hôn?... Đêm nào cũng vậy
tôi nằm nghe nợ tình kêu réo chèo chẹo, đòi phải trả cho dứt. Tôi chịu không nổi
nên phải trở về chớ sao; Tôi nhớ lời cụ Nguyễn Du nói:
"Nợ tình chưa trả cho ai,
Khối tình mang xuống Tuyền đài chưa tan."
Tôi nhớ hai câu đó thì tôi giựt mình. Mắc nợ tình không lo trả
cho dứt, để chết phải mang theo xuống âm phủ một túi kè kè. Mấy cha Quỉ sứ gác
cửa Diêm chúa họ xét gặp, họ sần sượng, rồi họ phạt nặng chớ phải chơi sao.
Thứ Tiên cười mà nói:
- Anh nầy ảnh thờ chung một chủ nghĩa với tôi mà. Vậy mà anh
Võ Lộ với anh Tự Cao bày chuyện nói ảnh thờ chủ nghĩa "Vô vi". Anh hữu
vi quá, chớ đâu phải vô vi, ảnh tư lự quá, chớ đâu phải vô tư lự.
Bạch Yến vịnh vai Tất Đắc mà nói:
- Đúng 4 giờ rồi, vậy mời hết mấy anh xuống nhà cô Cẩm Hương
rồi sẽ nói chuyện tiếp. Bày cãi chủ nghĩa rồi xuống trễ cô Cẩm Hương trông.
Tất Đắc biểu Võ Lộ với Tự Cao khoá cửa đặng lên xe đi xuống
nhà cô Cẩm Hương ăn bánh uống trà rồi sẽ nói chuyện tiếp.
Võ Lộ khép cửa đặng khóa lại.
Tự Cao nói:
- Cô Cẩm Hương không có mời, mà tôi đến nhà cô thì trái với
chủ nghĩa của tôi quá.
Bạch Yến nói:
- Em mời đây. Em thay mặt cho cô Cẩm Hương đem xe mời và rước
khách chớ phải khi không mà anh đến hay sao nên ái ngại.
- Tự Cao nói:
- Cô mời thì được. Tôi khỏi trái với chủ nghĩa.
Võ Lộ khóa cửa rồi mấy người lên xe đi hết xuống Cầu Kho.
Cô Cẩm Hương tổ chức tiệc trà mà tiếp khách đã xong lâu rồi.
Cô biết số chủ khách cả thảy là 6 người; hai cô ngồi ghế canabê ở trong, còn bốn
cậu thì ngồi bốn ghế phô tơi, chẳng cần phải kiếm thêm ghế nhỏ. Trên cái bàn
chính giữa thì để hai dĩa bánh mặn, hai dĩa bánh ngọt với 6 cái ly. Còn nước
cam, la ve, cỏ nhác, sô đa thì để trên cái bàn riêng dựa vách, ai muốn dùng thứ
gì nào thì lại đó lấy mà rót.
Cô dặn chị bếp hễ thấy khách ngồi thì chị chặt nước đá bưng
ra, mà phải nấu nước sôi cho sẳn đặng ai có đòi uống trà thì chế bình trà đem
ra mà đãi.
Cô rửa mặt thay đồ cũng rồi. Nghe đồng hồ gõ 4 giờ mà khách
chưa đến nên cô ra vô mà ngó chừng. Hồi ở trên Tân Định mới về cô có sai đứa nhỏ
qua Vĩnh hội mời Thứ Tiên mà người nhà nói cậu đi từ tảng sáng chưa về, nên cô
chắc thiếu cậu, cô tính để tối rồi sẽ cho người qua nữa mà báo tin Tất Đắc về
cho cậu hay.
Cô vừa nghĩ tới khỏan đó thì xe ngừng. Thứ Tiên ngồi trên xe
kêu cô om sòm mà khoe đã rước được anh Tất Đắc về cho cô đây. Cô Cẩm Hương thấy
có đủ mặt hết thì cô vui mừng nên cô cười ngất.
Khách mở cửa xe bước ra, rồi mạnh ai nấy nói om sòm, làm cho
quang cảnh náo nhiệt, tiếng cười pha lộn với lời giễu. Thiệt là vui.
Bạch Yến vui nhiều hơn hết, cô vui đến nỗi đeo theo một bên Tất
Đắc luôn luôn không chịu rời xa mà lại khi nắm tay khi níu áo chàng, dường như
sợ chàng vuột đi mất nữa. Phận gái mà đối với người trai chưa cưới lại từ hôn bỏ
đi biệt mấy năm, nhưng vừa mới tái ngộ cô biểu lộ cái cử chỉ dan díu gần như lả
lơi mà cô không thẹn thùa ái ngại chút nào hết, thiệt là kỳ.
Mà cô Cẩm Hương cũng như bốn cậu trai ai cũng mắc vui mừng,
ai cũng lo kiếm lời pha lửng, nên không ai để ý bình phẩm thái độ của ai, ai
cũng quên cả dè dặt, quên cả hiềm nghi, cũng như Bạch Yến quên thói ảm đạm của
Võ Lộ và Tự Cao đối với cô, khi cô hay Tất Đắc trốn đi, cô đến nhà khóc mà hỏi
đặng tìm kiếm, bây giờ cô lại thân thiện, không phiền không giận.
Giữa lúc tưng bừng chộn rộn đó, may có cô Cẩm Hương lớn tuổi
hơn hết, nên cô bình tĩnh lại mau hơn, cô nói lớn:
- Thôi chớ, tôi mời dự tiệc trà thì phải ngồi lại ăn uống mà
nói chuyện chớ đừng giễu cợt hoài bánh nó thiu, rượu nó lạt hết còn gì.
Ai nấy mới rà lại bàn mà ngồi. Bạch Yến kéo Tất Đắc biểu ngồi
chung cái ghế ca na bê phía trong với cô đặng day mặt ra nói chuyện với mọi người
cho tiện. Bạch Yến làm xáo trộn chương trình của cô Cẩm Hương đã sắp trước,
nhưng cô Cẩm Hương liền lẹ trí cô liền sắp lại cô mời Võ Lộ với Tự Cao ngồi một
bên còn bên nầy cô ngồi với Thứ Tiên thành thử cô cũng ngồi gần Tất Đắc được.
Cô Cẩm Hương kêu chị bếp biểu đem nước đá. Cô nói có bánh mặn
bánh ngọt, có cỏ-nhác mạnh có nước cam nhẹ, khách muốn dùng thứ nào thì tự ý mà
tự liệu, cô không dám ép.
Võ Lộ nói:
- Tôi trung thành với chủ nghĩa của tôi, tôi vô khả vô bất khả,
nên thứ nào cũng được hết.
Cậu nói vậy rồi bưng ly lại bàn dựa vách mà rót cỏ nhác và
pha sô đa;
Thứ Tiên nói:
- Theo chủ nghĩa của tôi thì làm việc gì cũng phải giữ trật tự,
xa rồi mới gần, quen rồi mới yêu, yêu rồi phải hiệp. Người ta nói "ăn uống
" chớ không ai nói "uống ăn ". Vậy tôi ăn trước rồi uống sau. Huống
chi tôi đi xem lễ từ hồi tảng sáng đến giờ, hồi trưa tiệm nào quán nào người ta
cũng ăn uống chật nứt, đông không có chỗ trống. Tôi phải ngồi trên lề đường nít
đỡ một tô hủ tiếu dằn bao tử vậy thôi. Bây giờ gặp săn uých với ba tê đây, tôi
phải lo cho cái bao tử êm rồi sẽ uống. Cậu vừa nói vừa ăn săn uých.
Cô Cẩm Hương thấy Tự Cao ngồi tỉnh queo, cô bèn hỏi:
- Cậu muốn dùng rượu nào?
- Tự Cao tề chỉnh đáp:
- Chủ nhà muốn đãi rượu nào thì tuỳ ý chủ nhà, chớ tôi muốn
sao được. Nếu tôi muốn uống sâm banh hay uých ki mà chủ nhà không có rồi làm
sao.
Tất Đắc cười mà nói:
- Anh Tự Cao cứ đeo chặt chủ nghĩa nên ảnh khó lắm. Anh đợi mời.
Thôi tôi mời anh uống la ve với tôi.
Cậu cậy Bạch Yến đưa giùm một chai la ve. Cẩm Hương bưng một
dĩa bánh mời Tự Cao, cậu mới chịu lấy một cái mà ăn, chớ không phải như Võ Lộ
ăn uống tha hồ, không đợi mời ép.
Bạch Yến khui một chai la ve đem lại, cô rót một ly mà mời Tự
Cao rồi mới rót cho Tất Đắc.
Thứ Tiên ăn hai ba cái săn uých, chêm thêm một cái ba tê nữa,
rồi vuốt bụng mà nói:
- Bao tử thỏa mãn rồi, bây giờ phải đổ nước cam vô cho mát đặng
dễ tiêu.
Cậu lấy một chai nước cam khui mà uống.
Bạch Yến cũng rót nước cam cho Cẩm Hương với cô.
Bây giờ Cẩm Hương mới hỏi Thứ Tiên gặp Tất Đắc ở đâu mà lên
xe đi lại đây.
Thứ Tiên nói:
- Nhờ thần Ái tình mách bảo cho tôi hay bữa nay nhơn lễ Độc lập
anh Tất Đắc sẽ về đặng phu thê sum hiệp nên tôi mới biết mà đón chớ.
Ai nấy đều cười.
Cẩm Hương nói:
- Năm trước tôi xin xâm trong Lăng Ông Thượng, xâm nói năm Ất
Mùi sẽ có tin tức, rồi trong tháng Dậu, tháng Hợi sẽ hiệp hoà. Năm nay là năm Ất
Mùi tháng 10 đây là tháng Hợi, vậy thì xâm nói trúng ngay thấy hôn các cậu?
Bạch Yến nói:
- Năm đó em đi coi một cô xác trên Phú nhuận, rồi sau có coi
một cô xác khác ở đâu bên Thị Nghè. Mà hai cô xác cũng nói như nhau, nói em là
duyên nợ của anh Tất Đắc, tuy ban đầu phân rẽ, người ở Đông chờ đợi, người ở
Tây bôn ba, nhưng thế nào ngày sau cũng phải hòa hiệp. Lúc đó em không dám nói
ra, nhưng em nghi ảnh đi qua Pháp mà học thêm nữa. Vì vậy nên em cương quyết chờ
ảnh, thiệt quả không sai.
Tất Đắc nói:
- Tôi cũng bị nợ tình đó nên tôi mới đi qua Pháp. Hôm tháng 8
tôi thi đậu rồi, tôi muốn về liền. Bị ông Đại sứ Việt nam cầm tôi ở lại đặng
bàn tính công việc kiến thiết quốc gia, nên tới tháng 10 đây tôi mới về được;
Cô Cẩm Hương nói:
- Tháng 8 là tháng Dậu còn tháng 10 là tháng Hợi. Hồi tháng Dậu
cậu đã tính về, rõ ràng xâm đã nói trúng quá, thấy hôn?
Võ Lộ hỏi Tất Đắc:
- Hồi nãy bạn nói hôm tháng 8 bạn thi đậu về ngành nào?
Tất Đắc nói:
- Đậu Bác vật về khoán sản.
Tự Cao hỏi:
- Thiệt hay chơi? Nầy, anh gạt phụ nữ lên ruột một lần rồi, đừng
có báo hại lên ruột một lần nữa, hết vui đa.
Tất Đắc nói:
- Lần nầy Bác vật thiệt chớ không phải Bác vật giả nữa đâu.
Có văn bằng hẳn hòi. Tôi để trong hoa ly lớn. Để mai tôi ra trụ sở của hãng máy
bay tôi lãnh hoa ly rồi tôi trình văn bằng Bác vật cho mà coi.
Bạch Yến nói:
- Bác vậy hay không Bác vật cũng vậy. Em không cần.
Cô Cẩm Hương nói:
- Hồi trưa ăn cơm, bà Huyện cũng nói như em vậy. Cậu Tất Đắc
nói vì cậu lỡ xưng là Bác vật, nên cậu hổ thẹn, cậu phải từ hôn mà trốn. Vì nợ
tình lôi kéo; lại cũng vì mạng trời xui khiến, nên cậu phải trở qua Pháp mà lấy
cho được bằng cấp Bác vật hầm mỏ thiệt cậu mới chịu trở về. Cậu nói như vậy mà
coi bộ bà Huyện không vui gì lắm. Bà chỉ mừng cậu về đặng cưới em Bạch Yến cho
em hết trông hết đợi mà thôi. Mà có điều nầy ngộ quá, là hồi cậu Tất Đắc giả
xưng Bác vật lại bày nói hội bên Tây mướn đi Lèo mà tìm mỏ vàng mỏ bạc, thì bà
Huyện không bằng lòng, bà cứ biểu viết thơ mà xin hủy lời hứa, đừng có đi Lèo
làm chi. Bây giờ cậu Tất Đắc có bằng Bác vật chánh thức chớ không phải giả dối
như hồi trước. Cậu nói thi đậu rồi có hội của người Pháp cậy cậu giúp đi xuống
Phi Châu mà tìm mỏ dầu lửa, hứa chịu cho lương bổng rất hậu, mà cậu từ chối,
quyết trở về đặng nếu Bạch Yến chưa lấy chồng khác thì cậu xin cưới em cho vẹn
thỉ chung. Lại thêm Đại sứ Việt nam mời cậu đến mà bàn về cuộc kiến thiết quốc
gia, về sự khuyếch trương kinh tế cho nước nhà đã được độc lập, vì vậy nên cậu
sốt sắng trở về, trước cho thỏa tình, sau có giúp nước. Cậu nói hễ cưới vợ rồi
cậu phải đi ra miệt Trung phần Việt nam nhứt là lên vùng Cao nguyên mà tìm hầm
mỏ cho nhà nước. Cậu Tất Đắc nói cậu sẽ đi xa, mà bà Huyện coi bộ không buồn rồi
em Bạch Yến nói cậu đi em sẽ đi theo đặng biết đất nước thì bà Huyện cũng không
cản. Cái đó mới lạ kỳ chớ.
Bạch Yến nói:
- Má em không buồn không cản nữa, là vì hồi trước dưới chế độ
thực dân, mình làm tay sai cho họ, phải xông pha trong rừng trong núi chịu hiểm
nguy cực khổ cho họ hốt tiền bạc mà làm triệu phú, nên má em không bằng lòng.
Má em nói bây giờ Việt nam đã độc lập rồi, con dân nam nữ trẻ già đều phải nổ lực
mà phụng sự quốc gia, không được thối thoát.
Võ Lộ nói:
- Bà Huyện có lòng ái quốc, nhà có cơm tiền nó đủ, lại có một
chút gái, mà bà sẵn sàng hy sinh sự vui sướng riêng để giúp cho cuộc lợi ích
chung, lợi ích cho nước cho dân. Tuy tôi mang chủ nghĩa "Vô khả vô bất khả",
song tôi cũng phải kính phục ý chí của bà. Có lẽ chúng ta là bọn thanh niên tân
tiến, chúng ta phải rửa gội đầu óc lại, phải bỏ các chủ nghĩa mơ mộng, lãng mạn
vu vơ, kỳ quái, mà thờ một chủ nghĩa chung là chủ nghĩa "Phụng sự quốc
gia, thương yêu chủng tộc" mới khỏi lỗi thời, mới xứng danh phận tu mi nam
tử.
Tự Cao nói:
- Dầu đổi chủ nghĩa cũng đừng quên tập tánh tự trọng tự cao,
chớ muốn giúp nước giúp dân mà cứ mang cái thói hèn hạ, bợ đỡ ở trên, bóc lột ở
dưới, như chế độ thực dân hồi trước, thì hại chớ không phải giúp.
Thứ Tiên mới nói:
- Nãy giờ tôi ngồi lóng nghe nói chuyện, nghe người nầy nói
qua, người kia nói lại, tôi nhận cuộc tình duyên của anh Tất Đắc với cô Bạch Yến
nó hàm xúc lắm việc ly kỳ, nó biến chuyển một cách bất ngờ quá. Việc quấy hoá
ra phải, việc hư hoá ra nên, việc buồn hóa ra vui, việc giễu cợt hóa ra thành
thiệt. Cuộc tình duyên nầy nó còn gây nhiều ảnh hưởng lạ lùng khác nữa. Nó đổi
tâm hồn mơ mộng vu vơ ra tâm hồn thực tế hạp thời. Mà nó con chỉ cho chúng ta
thấy mình làm trai gặp đời hư hỏng rồi, nếu mình biết kiên tâm trì chí, mình
cũng có thể biến đổi đời sống mục thúi ra đời sống thanh cao, đổi hư hỏng ra đắc
dụng được. Năm trước tôi nhờ cô Cẩm Hương than phiền với tôi về sự anh Tất Đắc
từ hôn mà đi mất, anh để thất vọng cho cô Bạch Yến, anh gây buồn tức cho bà Huyện
với cô Đốc. Tôi vì chủ nghĩa "Nâng cao Ái tình" nên lãnh đi tìm anh Tất
Đắc đem về đặng tròn chủ nghĩa thiên nhiên kỳ cựu của Tạo hoá. Tôi cực nhọc đi
kiếm đến bảy tám tháng, mà không có hiệu quả gì hết.
Hôm nay tình cờ mà lại gặp gỡ, lại sum hiệp, gặp gỡ ly kỳ, mà
hoà hiệp cũng ly kỳ. Tôi hết tiếc công tôi tìm kiếm khắp nơi hồi năm trước mà
tôi lại mừng có dịp lượm lặt được nhiều tài liệu quí giá để dùng mà viết thành
một thiên phóng sự ấy được đầy đủ, tôi cần còn phỏng vấn anh Tất Đắc cho biết
rõ năm trước thiệt tại lý do nào mà anh từ hôn, gởi thơ cho cô Bạch Yến mà trần
tình rồi anh đi đâu mất kiếm không được, ra đi sao anh không chịu nói cho anh
em trong nhà biết, đã lặn hụp trong đời sống vất vả, không có nghiệp nghệ,
không có bạc tiền, anh làm thế nào mà đi qua Pháp được và làm sao có cơm ăn mà
học tiếp đặng lấy bằng Bác vật khoáng sản cho được, lúc ở Pháp mà học đó anh có
cho cô Bạch Yến biết hay không, sao khi học thành công rồi anh không cho anh Võ
Lộ với anh Tự Cao hay, nhứt là sao không cho cô Cẩm Hương biết và dọ hỏi coi cô
Bạch Yến còn thủ tiết mà chờ anh hay không, tại sao anh biết cô Bạch Yến không
chịu bỏ anh mà đi lấy chồng khác nên về tới Sài gòn anh đi ngay vô nhà bà Huyện?
Đó là những điểm tôi cần phải hỏi anh Tất Đắc.
Tôi viết tốc ký lẹ làng. Anh cứ nói cho tôi biên đặng tôi
chép ngay lời lẽ do miệng anh thốt ra mà ghi vào thiên phóng sự. Hỏi anh rồi
tôi sẽ xin phép mà phỏng vấn luôn cô Bạch Yến nữa đặng tôi biết coi, tại sao cô
với bà Huyện biết anh Tất Đắc dùng chước điếm đàng giả danh Bác vật mà đào mỏ,
nhưng bà với cô cũng vẫn còn yêu ảnh, tại sao ảnh viết thơ nói dứt khoát mà từ
hôn, nhưng cô cũng vẫn nong nã tìm kiếm, mà tìm không được, cô còn cương quyết
chờ đợi mặc dầu anh Võ Lộ với anh Tự Cao có cho biết anh Tất Đắc nói đến chết
anh cũng không trở về Sài gòn nữa, tại sao hồi trước bà Huyện không chịu cho
anh lên Lèo, mà bây giờ bà lại bằng lòng cho anh đi ra vùng rừng núi Trung phần
Việt nam và cô Bạch Yến đòi đi theo bà cũng không cấm cản. Đó là những điểm tôi
sẽ cậy cô Bạch Yến nói cho tôi biên nữa. Phải có hai bài phỏng vấn do những
đương sự nói ngay cho tôi chép thì thiên phóng sự của tôi mới có giá trị tốt đẹp.
Tất Đắc nói:
- Tôi về tới tôi ghé thăm bà gia tôi với em Bạch Yến một chút
rồi tôi muốn xin đi Cầu kho thăm chị Đốc học và trở lên Thái bình thăm hai anh
bạn tôi. Còn bề ăn ở tôi cần phải có chỗ ở yên mà làm việc liền. Tôi tính hoặc
về Thái Bình mà ở nữa hoặc xin với chị Đốc mà ở đậu đỡ ít ngày. Bà gia tôi
không cho, bà nói đi máy bay mấy ngày đã mệt tôi cần ở đó mà nghĩ ít giờ. Bà
sai người xuống rước chị Đốc lên đặng chị em mừng nhau. Ăn cơm trưa rồi chị Đốc
về trước mà lo dọn tiệc trà. Tôi nghỉ đến 3 giờ rồi hai đứa tôi kêu xe lô đi xuống
chợ Thái Bình, rước hai bạn tôi xuống đây hội hiệp với nhau cho vui. Đi dọc đường
em Bạch Yến may gặp anh Thứ Tiên nên ngừng mời anh đi luôn. Còn bề ăn ở thì bà
gia tôi dạy như vầy, nếu tôi cần làm việc liền thì nhà ở trên Tân định rộng rãi
lại yên tịnh. Tôi nên ở luôn trên đó mà làm việc, có người lo áo quần cơm nước
cho. Bà để riêng cho tôi một cái phòng êm lắm. Đã biết vợ chồng chưa cưới mà ở
chung một nhà thì trái mắt thiên hạ. Nhưng mình sống cho mình chớ không phải sống
cho thiên hạ. Huống chi bà gia tôi đã biết tâm chí tôi nên bà không ái ngại đâu
mà lo. Rồi đây hai đứa tôi phải rước bà mai trở lên Tân định ăn cơm với bà gia
tôi và vài người trong thân tộc đặng bàn tính lễ cưới cho xong. Mới về tới công
việc của tôi còn bận rộn lắm. Sáng mai tôi phải đi lãnh hành lý và giấy tờ.
Buổi chiều tôi phải tiếp xúc với những nhà chức trách có thẩm
quyền về ngành khai thác hầm mỏ đặng lãnh hồ sơ về nhà mà nghiên cứu. Vậy tôi sẵn
lòng để cho anh Thứ Tiên phỏng vấn tôi, nhưng tôi xin anh chờ vài bữa cho tôi rảnh
và anh lên Tân Định lúc ban đêm tôi mới có thì giờ mà tiếp chuyện với anh được.
Bạch Yến nói:
- Em cũng vui lòng để cho anh Thứ Tiên phỏng vấn. Hễ anh hỏi
xong anh Tất Đắc rồi, anh muốn hỏi em điều chi em sẽ nói ngay cho anh biên, ý
em thể nào em sẽ nói y cho anh viết, em không giấu giếm chi hết.
Thứ Tiên cám ơn và hẹn trong 3 ngày nữa buổi tối cậu sẽ bắt đầu
lên Tân Định mà phỏng vấn.
Tiệc trà đã mãn. Cuộc vui tái hội cũng đã vừa rồi. Trời sẫm tối,
đèn điện ngoài đường đều bựt cháy. Thứ Tiên nói ngày nay đi mệt mỏi nên cáo từ
về trước. Tất Đắc mời Võ Lộ với Tự Cao chờ cô Cẩm Hương sửa soạn đặng sẵn có xe
hơi đưa hai bạn về chợ Thái Bình rồi xe sẽ rẽ về Tân Định.
Thứ Tiên, suy nghĩ mà viết trước mấy câu hỏi sẵn, rồi cách ba
đêm sau cậu mới lên phỏng vấn Tất Đắc với Bạch Yến mà biên, hỏi riêng từng người
và biên y theo lời đáp, không sửa đổi một câu hoặc một chữ nào hết.
CHƯƠNG 4 - LỜI ĐÁP CỦA TẤT ĐẮC
H
ỏi: Năm trước vì đạo nhà bối rối, cha mẹ khuất hét, bạc tiền
không có, cái mộng học đặng lập thân của anh phải tan vỡ. Anh thất chí không muốn
làm việc chi hết, thà thả trôi tấm thân vất vả theo phong trần cho qua ngày, chớ
không chịu làm tay sai cho những kẻ không xứng đáng. May gặp bà Huyện giàu sang
mà có một ái nữ bà đem lòng quí trọng anh, lại cô Bạch Yến không phải xấu xa
hay hư hèn gì, cô cũng thương yêu anh nữa. Anh vào nhà đó, anh cưới vợ đó, với
học thức đủ dùng và với tính tình khéo xử của anh, chắc chắn anh khỏi lo gì hết,
mà thân anh cũng được sung sướng trọn đời. Tại sao gần ngày cưới vợ, lễ cưới
người ta lo cho anh hết, mà anh lại viết thơ từ hôn rồi trốn đi mất biệt?
Đáp: Tại tôi cầu vui, tôi nghe lời chị Cẩm Hương khuyến dụ,
tôi giả danh Bác vật hầm mỏ. Chừng tôi được biết rõ nhà bà Huyện rồi, biết bà
là người chơn chất đúng đắn thành thiệt yêu quí tôi, lại biết em Bạch Yến thiệt
thà trong sạch tha thiết trìu mến tôi nên tôi hồi tâm, tôi bất nhẫn, tôi ăn năn
cái tội giả dối mà gạt người, bởi vậy tôi phải từ hôn mà trốn lánh cho khỏi hổ,
chớ có chi đâu.
Hỏi: Bà Huyện với cô Bạch Yến đều ép buộc anh đừng lên Lèo mà
tìm hầm mỏ, nếu anh cưới vợ rồi anh húng hính ở nhà, anh cứ nói tại bà mẹ vợ
không muốn cho anh đi làm việc mà phải tuông rừng leo núi cực khổ tấm thân, thì
ai biết anh Bác vật thiệt hay Bác vật giả gì đâu mà anh hổ thẹn?
Ðáp: Mình là người có giáo dục, nếu mình gian xảo giả dối
mình hổ với lương tâm của mình thì chịu không nổi rồi, đợi tới người ta vạch mặt
mà chê cười khinh rẻ thì còn gì mà kể. Huống chi em Bạch Yến khêu gợi làm lửa
tình phừng dậy trong lòng tôi nữa. Tôi nói chuyện với em lần chót tại nhà chị Cẩm
Hương, tôi có hỏi thử em vậy chớ em yêu tôi có phải tại chức Bác vật hay không.
Ví như tôi là một người vô gia trụ, vô nghiệp nghệ, không phải Bác vật gì hết,
thì em yêu tôi hay không. Em trả lời em thương anh Tất Đắc chớ không thèm kể
anh Tất Đắc nào hết. Một câu trả lời đó đủ cho tôi phải bỏ đất Sàigòn mà trốn
đi mất. Vì tôi yêu quí em Bạch Yến, tôi đem giả dối của tôi mà đáp với thành
thiệt của em, thì tôi hổ thẹn quá, phải từ hôn chớ không thể làm chồng em được.
Khi em Bạch Yến về rồi tôi cò than thở nỗi lòng của tôi đối với chị Cẩm Hương.
Chị không hiểu đầu óc của tôi, bởi vậy tôi phải viết thơ ngay cho em Bạch Yến
mà từ biệt.
Hỏi: Ra đi anh có nói cho anh Võ Lộ với anh Tự Cao biết tại cớ
nào mà anh phải bỏ đất Sài gòn và có nói anh đi đâu hay không?
Đáp: Không. Nói ra chắc hai ảnh cũng không hiểu nỗi lòng của
tôi, chẳng khác nào chị Cẩm Hương, mà còn sợ hai ảnh đem chủ nghĩa ra mà lý luận
dông dài làm nhọc lòng thêm nữa chớ ích gì, lại tôi quyết bỏ biệt đất Sài gòn đến
chết cũng không trở về đó nữa, thì nói cho hai ảnh biết làm chi. Tôi đã tính
lánh em Bạch Yến nếu nói đi chỗ nào cho người ta biết té ra tôi muốn cho em Bạch
yến hỏi thăm rồi đi theo đặng yêu cầu tôi trở về hay sao.
Hỏi: Rồi anh đi tỉnh nào mà tôi tìm không ra?
Đáp: Khi ở trong kêu xích lô chở hoa ly ra đi, thì tôi quyết
tránh Sài gòn chớ thiệt tôi chưa tính coi phải đi đâu, bởi vậy ra tới bến xe đò
tôi bước xuống xe mấy anh lơ bắt mối áp lại giành xách hoa ly và hỏi tôi đi
đâu. Tôi nắm chặt hoa ly không cho lấy và nói chưa biết đi đâu. Mấy ảnh ngơ
ngáo ngó nhau mà cười, bộ họ tưởng tôi khùng. Tôi mới xách hoa ly lại quán mà
ngồi, biểu anh bán quán làm cho tôi ly cà phê nóng, tính ngồi uống đặng quyết định
phương hướng. Trước hết trí tôi nghĩ mãi xuất dương đi ra ngoại quốc, có cách
đó mới khỏi sợ gặp Bạch Yến. Lại vùi thân nơi cảnh lạ quê người, dầu vất vả
cũng không ai biết. Ngặt trong lúc không có tới ba trăm đồng bạc, làm sao mà xuất
dương đi xa. Đi mấy tỉnh chung quanh Sài gòn thì gần quá, té ra còn giả dối nữa,
giả trốn đặng người ta kiếm đem về hay sao. Tôi biết Bạch Yến giận thế nào em
cũng tiền bạc bộn với tôi có lẽ nào chị chịu bỏ. Long Xuyên là chỗ cha mẹ tôi ở
hồi trước, ở đến mười mấy năm nên tôi có quen biết nhiều người. Ngặt chị cẩm
Hương biết gốc gác tôi ở đó, thế nào chị cũng xuống đó mà tìm kiếm trước hết,
thì làm sao mà ẩn giúp cho yên được. Hơn nữa nhơn tình dầu ở xứ nào cũng vậy hễ
giàu sang thì người ta ân cần bợ đỡ, còn nghèo hèn thì người ta bỉ bạc khinh
khi. Chớ chi tôi về cố hương mà trong túi có bạc muôn ngồi xe huê kỳ lộng lẫy,
có kẻ hầu người hạ rần rần thì vui lắm, chớ về xứ mà lang thang kiếm chỗ trốn
tránh như kẻ phạm tội thì ai thèm chứa, ai vị tình. Nghĩ tới tình cảnh đó thì
tôi lạnh ngắt trong lòng, đầu óc mới sanh chán nản. Trong lúc ấy có một hành
khách vô quán thấy có vài anh sớp phơ đương ăn hủ tiếu, người mới hỏi thăm bến
xe đi Nam Vang ở chỗ nào. Một anh sớp phơ nói tại Chợ lớn mới. Tôi chiếp trong
bụng muốn đi Nam Vang, vì xứ Cao Miên bấy giờ cũng là ngoại quốc, tiền xe lên
đó không tốn hao bao nhiêu đường sá cách trở ít ai đi, lại người Việt kiều cứ ở
đó không ai biết gốc gác tôi, chớ trở về Long Xuyên mà lang bang thì tôi gieo
tiếng không tốt cho vong linh của cha mẹ tôi, thiệt chắc tôi phải đau đớn lắm.
Tôi bèn làm quen với người hành khách đó, hỏi ra mới biết người là chủ tiệm Tân
Việt bán hàng vải tại chợ Mỹ Tho, người lên Nam Vang dọ giá lãnh đặng mua sỉ
đem về mà bán. Tôi bèn hiệp với người ra đại lộ Trần Hưng Đạo đón xe lô vô Chợ
lớn mới, rồi lên xe đờ đi Nam Vang với nhau. Đi dọc đường chủ tiệm Tân Việt hỏi
tôi lên Nam Vang chơi hay có việc chi. Tôi cũng còn phải giả dối nữa. Tôi nói
tôi thất nghiệp, ở Sài gòn xin không được sở làm, nên lên Nam Vang kiếm chỗ dạy
học riêng, đặng có cơm mà nuôi sống. Người nghe tôi nói thất nghiệp thì đem
lòng thương tôi, nên mời tôi nếu lên tới mà kiếm chưa được chỗ ngụ thì ở chung
một phòng trong khách sạn với người đặng anh em có bạn cho vui. Người lại nói
người phải ở cả tuần đặng quan sát coi có thứ gì mua về bán được thì người mua
rồi chở tàu đem về mà bán. Xe chạy vo vo gió phất mát mát, tôi ngồi nhắm mắt
lim dim, nghĩ cảnh đời mà cười thầm. Giả dối thì được lòng mọi người hèn chi
thiên hạ mới đua nhau mà giả dối. Lên tới Nam Vang, chủ tiệm Tân Việt cứ theo
nài nỉ, nên tôi phải theo người lại khách sạn ở chung một phòng với người. Bữa
đầu anh em dắt nhau đi chơi cho biết đường sá. Đến bữa cơm thì kiếm tiệm mà ăn.
Ăn uống thứ gì người cũng giành trả tiền, cương quyết không chịu để tôi trả,
người nói tôi thất nghiệp mà đãi khách nỗi gì, chớ người đi mua bán đi sanh lợi,
tự nhiên phải tốn sở phí. Người khuyên tôi đừng ái ngại chi hết. Bữa sau hai
anh em tôi làm quen với một người Việt có tiệm buôn bán tại chợ Nam Vang. Người
ấy lãnh dắt bạn tôi đi dọ giá hàng, tôi khỏi theo nữa. Tôi thả đi chơi một
mình, kiếm xem mấy xóm Việt kiều, chiều mát ra cầu tàu ngồi ngó sông lớn. Nhằm
mùa nước nổi nên giọt nước đổ xuống cuồn cuộn, mặt nước tràn trề gần tới lề đường.
Người trí thảnh thơi được thưởng thức quang cảnh như vầy chắc ai cũng vui lắm.
Hồi nhỏ tôi ở Long xuyên tôi ưa nước nổi, bởi vậy ngồi ngó mông tôi cảm xúc vô
cùng. Tôi nhớ khoảng đời dĩ vãng thì tôi phơi phới trong lòng, mà rồi nhớ tới
cha mẹ thì tôi ứa nước mắt. Nghĩ dĩ vãng đã bâng khuâng, mà nhìn hiện tại lại
thêm bứt rứt khó chịu. Tôi biết hiện nay ở dưới Sài gòn có hai người phiền tôi
lung lắm. Một là chị Cẩm Hương bị tôi gạt làm cho chị tốn hao gần bạc ngàn, hai
là cô Bạch Yến bị tôi dứt tình yêu làm cho cô đổi thương ra giận. Nhưng chị Cẩm
Hương có tiền dư nhiều dầu mất một ngàn không đến đỗi chị khổ. Còn Bạch Yến có
giận thì trong một thời gian rồi em sẽ quên mà lấy chồng khác. Người có địa vị
như em thiếu gì kẻ muốn cưới mà lo ế chồng. Mà nghĩ tới Bạch Yến có chồng khác,
thì trong lòng tôi nao nao khó chịu. Tôi nhớ gặp nhau lần chót, Bạch Yến nói em
yêu Tất Đắc chớ em không kể Bác vật, thì tôi chảy nước mắt ròng ròng. Tôi muốn
xách hoa ly trở về tỏ thiệt nỗi lòng của tôi cho bà Huyện nghe, rồi tôi xin bà
tha hết tội lỗi mà cho tôi cưới Bạch Yến đặng cho tôi hết đau khổ vì tôi đã yêu
Bạch Yến lắm rồi, nếu xa em thì tôi không thể nào vui mà sống được. Nhưng mà tối
tôi nằm im lìm mà suy nghĩ lại. Tôi tự hỏi trong trí vậy chớ bà Huyện tử tế mà
bà đành quên cái tội giả dối đặng gả con cho thằng điếm hay sao? Bạch Yến
thương yêu đến hiến thân cho bợm bải lận sao? Không chắc. Tôi đã thú thiệt tội
lỗi rồi, bây giờ tôi ló mặt về, người ta xô tôi ra đường chớ ai cho vô nhà mà
mong tha lỗi. Nghĩ tới tình cảnh ấy tôi càng buồn hơn nữa. Tấn thối lưỡng nan.
Tôi ăn năn sự tôi dại nên gởi thơ mà từ hôn. Tôi khóc ngay.
Hỏi: Lỡ giả dối bây giờ thiệt Bạch Yến yêu anh mà cũng thiệt
anh yêu Bạch Yến nữa, hai đàng thành thiệt thiết tha yêu nhau đắm đuối mà bị
cái thầy Bác vật ma nó nằm cản ngang không cho phối hiệp với nhau được, dầu vẹt
nó qua một bên mà phối hiệp, anh cứ ngó thấy nó đó hoài, thì anh cũng không được
hưởng hạnh phúc hoàn toàn; Nghĩ tới trường hợp đó anh bực tức. Vậy mà có giờ
phút nào anh nản chí thất tình đến muốn quyên sinh cho hết đau khổ hay không?
Đáp: Không, không. Thất trí thất tình mà tự tử đó là thói
quen của đám đàn bà non trí, hoặc của hạng đàn ông thiếu học. Con người nuôi
trí dõng đầy đủ, rèn tâm chí vững vàng, gặp giông gió không lung lay, thấy hoạn
nạn không sợ sệt, dầu còn một tấc hơi cũng tranh đấu, dầu té quị cũng đứng dậy
mà cười rồi lấy hơi sức lại mà tranh đấu nữa, chớ có biết sợ đâu nên cậy cái chết
để khỏa lấp thất bại hay là che đậy tội lỗi. Nếu tôi biết nhìn nhận tội giả dối
của tôi, thì tôi phải sống mà đền cái tội ấy cho xong chớ. Nếu tôi thành thiệt
yêu Bạch Yến thì tôi phải sống mà vui với tình yêu ấy chớ chết đâu cho uổng. Nếu
tội giả dối ngăn cản không cho phối hiệp làm vợ chồng, thì tôi tưởng hình dung,
tôi nhớ giọng nói, tôi vui với tình yêu trong giấc mộng cũng được, có cần gì phải
chung chăn gối mới gọi là yêu. Cái yêu ôm ấp là cái yêu thường tình, cái yêu
tinh thần mới là cái yêu của tình cao thượng, cái yêu đó mới bền dai, mới quí
giá, mới đáng phụng sự.
Hỏi: Nếu vậy thì anh cũng thờ một chủ nghĩa với tôi, nên anh
mới biết nạng cao Ái tình. Mà không được thương theo thường tình thì anh yêu
theo tình cao thượng, thoảng như cô Bạch Yến phiền anh cô lây chồng khác thì
anh làm sao?
Đáp: Nếu em Bạch Yến giận mà lấy chồng khác thì tình yêu của
em tầm thường quá, có quí giá gì đâu mà đáng kể. Tôi đã có viết trong bức thơ từ
hôn và cáo biệt, tôi mong ước em quên tôi mà lấy chồng khác. Chỉ có cách đó mới
phá tan ái tình của tôi được. Mà bao giờ tôi không hay em cải giá, thì ái tình
của tôi nó còn triều triệu trong lòng hoài, trí tôi tưởng nhớ em không có gì cản
được, mà sự tưởng nhớ đó không tội lỗi, bởi vậy tôi không lo. Tôi chỉ lo sợ có
một điều là sợ em non trí, mà em không giận em bỏ tôi đặng lấy chồng khác, em lại
dùng độc dược mà quyên sinh như nhiều cô gái khác cái đó mới gieo đau khổ cho
tôi mãn đời, hễ tưởng nhớ thì than khóc, chớ không phải vui sướng.
Hỏi: Rồi tại sao anh qua đất Pháp mà học tiếp? Anh làm sao có
tiền bạc mà đi?
Đáp: Đó là việc tình cờ. Có lẽ vì tôi có duyên nợ với em Bạch
Yến nên trời không cho em lấy chồng khác mà cũng không xui khiến em tự tử, rồi
Trời sắp đặt mà đổi cái giả dối của tôi ra thiệt sự đặng tôi hết hổ thẹn mà trốn
tránh người yêu của tôi nữa. Chuyện nầy có tánh cách ly kỳ như tiểu thuyết. Để
tôi thuật hết cho anh biên. Tôi ở khách sạn với ông chủ tiệm Tân Việt được ba bữa.
Qua ngày thứ ba ông bạn ăn cơm chiều với tôi rồi ông than đi xem xưởng dệt lãnh
cả ngày mệt mỏi nên ông tính đi nghỉ sớm đặng sang bữa sau người ta đưa ông đi
xem hải khẩu đương tổ chức tại Vũng Som. Ở Nam Vang cũng như ở mấy tỉnh miền Hậu
Giang ta gọi là nực nước, khó ngủ lắm. Tôi mới để cho ông bạn tôi nghỉ, tôi bận
áo ra cầu tàu ngồi đặng có gió mát một chút. Đã có vài người ra ngồi đó trước rồi.
Tôi ngồi ngó trời ngó nước mà suy nghĩ việc tôi đã làm. Tôi nhớ cụ Lão Tử có dạy
rằng mọi việc trong đời đều do Tạo hoá sắp đặt sẵn hết. Mỗi việc đều biến chuyển
tự nhiên theo định luật của nó, chẳng khác nào guồng máy tự động nó quay tự nhiên,
chẳng cần phải ai xô đẩy. Nếu con người làm khôn mó tay vào mà chế sửa thì tánh
cách thiên nhiên sai lạc, guồng máy quay bậy rồi công việc hư hỏng. Đó là học
thuyết "vô vi" của Lão Tử, tôi lấy đó làm chủ nghĩa mà có người không
hiểu họ tưởng tôi không làm gì hết, rồi họ cho tôi biếng nhác không chịu cần
lao. Vô vi là không nên làm sai cãi thiên nhiên, chớ cái gì cũng phải làm,
nhưng phải làm hồi việc còn nhỏ, còn dễ, chớ việc đã lớn, đã khó, rồi lại mó
tay vào mà làm thì tự nhiên phải thất bại. Nếu tôi có duyên nợ với em Bạch Yến
tôi để tự nhiên cho tình yêu cầu kết, tôi đừng dùng chước giả dối mà khuyến dụ
thì sớm muộn gì Bạch Yến cũng sẽ là người vợ thân yêu của tôi, mà tôi khỏi hổ
thẹn như vầy. Tại tôi ham vui quên lửng lời của cụ Lão Tử dạy, mó tay vào guồng
máy thiên nhiên, nên việc hư hỏng mà còn đổ nợ lung tung, nợ tôi gạt chị Cẩm
Hương mà làm cho chị tốn hao lại mang tiếng. Mà nợ tiền bạc có lẽ một ngày kia
tôi đắc lộ tôi sẽ trả được, dầu không trả chị cũng không đói khát gì. Khó là
khó mối nợ tình tôi gây ra với em Bạch Yến, tôi không biết làm sao mà trả được.
Tôi đương thả trí bình bồng mà nghĩ ngợi, thình lình có một bà ngồi hứng gió
chung một băng với tôi, song ngồi đầu kia, bà cất tiếng hỏi tôi ở xóm nào và
làm việc sở nào. Tôi day lại, nhờ mấy ngọn đèn trên cầu tàu cháy sáng, nên tôi
thấy bà mặc đồ đen, tai đeo đôi bông xoàn nhấp nhoáng, tuổi lối 45 hoặc 50, lại
có một cậu trai mặc quần sọt xám, áo sơ mi xanh, cỡ 15 hoặc 16 tuổi, ngồi một
bên.
Tôi trả lời với bà rằng tôi không phải ở đây. Tôi ở Sài gòn
lên đây kiếm sở xin làm hoặc dạy học, ngặt chưa quen với ai, nên không biết chỗ
nào cần dùng người giúp việc mà xin. Bà hỏi tôi lên bao giờ, ngụ tại nhà ai và
có đem vợ con hay không. Tôi nói tôi lên đã được 3 bữa rồi, tôi mướn phòng ở
khách sạn một mình, vì tôi chưa có vợ con chi hết. Bà vui vẻ nói chuyện với tôi
một chút thì tôi biết bà là goá phụ, cha mẹ gốc ở Hà tiên lên đây buôn bán làm
ăn, sanh bà tại đây. Bà chỉ có một người con. Con trai lớn của bà đã co vợ có
con, hiện đương quản lý hãng xuất nhập cảng của chồng bà để lại tại chợ Nam
Vang. Đứa con gái thì bà đã gả lấy chồng thuộc con nhà phú thương ở trong Bắt
Tâm Băng. Hiện giờ bà ở trong một biệt thự, bà mua năm trước ngang xóm Chui
chàn Hoa, mà ở cho thanh tịnh với đứa con trai út đi chơi với bà đó. Bà nghe
tôi kiếm chỗ dạy học coi bộ bà mừng. Bà hỏi tôi học lực tới bực nào. Tôi nói
tôi đã có bằng tú tài kỳ nhứt ở bên xứ Pháp và chưa kịp thi kỳ nhì thì cha mất
nên tôi phải bỏ mà về, rồi kế mẹ tôi mất nữa nên tôi phải bỏ luôn. Bà suy nghĩ
một chút rồi bà nói bà có hãng xuất nhập cảng để cho con trai lớn bà coi, mà nó
biết chữ việt và nói tiếng thổ giỏi, song không biết chữ Pháp và chữ Anh nên
giao dịch nhiều khi bất tiện. Con bà thường nói phải cho thằng em nó học chữ
Anh chữ Pháp rành đặng sau anh em chung nhau mà mở rộng ngành xuất nhập cảng mới
có lợi lớn. Vì vâỵ nên bà cho con út của bà tên Khai 15 tuổi, học trường trung
học Nam Vang năm nầy đương ngồi lớp tư. Vì nghe tôi muốn kiếm chỗ dạy học bà muốn
rước tôi về nuôi đặng ban đêm và chúa nhựt dạy riêng cậu Khai học cho mau tinh
tấn, chớ nhà trường không đủ Giáo sư nên sự dạy dỗ không được cần mẫn lắm. Tôi
đương kiếm nơi nương náu cho qua ngày, nghe bà nói như vậy tự nhiên tôi mừng
nên tôi chịu liền. Bà mới mời tôi lên xe đặng bà đem về cho tôi biết nhà bà rồi
sẽ tính. Tôi theo mẹ con bà vô mé sông thì có chiếc xe hơi lộng lẫy đậu đó mà
chờ bà. Bà mời tôi lên xe rồi dạy sốp phơ, người thổ, chạy vô hãng. Xe ngừng bà
dắt tôi vô hãng chiếm hai căn lầu trước có gắn bảng hiệu:
THIỆN CHÍ
Xuất nhập cảng
Bà giới thiệu tôi với con trai lớn của bà là chủ hảng, tên
Hai Quảng tuổi lối 25-26, vui vẻ bặt thiệp. Cậu Hai Quảng nghe mẹ nói tôi có ở
học bên Pháp năm sáu năm, đậu bằng Tú tài nên tính cậy tôi về ở đặng dạy riêng
Khai thì cậu bằng lòng lắm. Cậu lại tính như vầy: ban ngày Khai mắc tới trường
mà học, tôi rảnh rang thì giúp cho hãng. Nếu có thơ từ bằng chữ Pháp thì cắt
nghĩa cho cậu với nhơn viên trong hãng hiểu. Sớm mơi xe hơi đưa Khai đi học thì
tôi theo xe ra hãng ở chơi, như có giấy tờ thì coi giùm. Trưa xe rước Khai thì
tôi theo mà về; Buổi chiều tôi ở trong nhà mà nghỉ. Nếu có thơ từ chi gấp thì sẽ
cho xe vô rước tôi hoặc sai người đem vô cho tôi coi. Cậu Hai Quảng hỏi tôi vừa
dạy em cậu học vừa giúp cho hãng như vậy tôi muốn số lương tháng bao nhiêu. Tôi
khiêm nhượng nói rằng tôi là người mồ côi lưu lạc đương kiếm chỗ an toàn mà
dung thân. Tôi không biết uống rượu, không biết hút thuốc, cũng không ham vui
chơi. Bởi vậy bà với cậu nếu tin cậy mà xin tôi giúp thì miễn bao cơm nước áo
quần cho tôi no ấm thì đủ, còn lương bổng thì trả bao nhiêu cũng được, tôi
không có vợ có con, lại không phải việc mua bán nên tôi đòi hay chê ít mà ngại.
Mẹ con cậu nghe tôi nói dễ dãi như vậy thì rất vui lòng, nên nói mẹ con cậu làm
ăn lớn biết công ơn của người giúp sức, bà khuyên tôi yên lòng mà phụ giúp, mẹ
con bà biết xử phải quấy chớ không phải hạng bạc ơn bội nghĩa đâu. Rồi đó bà chở
tôi về biệt thự cho biết chỗ bà ở đặng sáng bữa sau đem hành lý vô liền.
Bà chủ nhà cùng cậu Khai đưa tôi đi xem hết các phòng trong
biệt thự, tới cái phòng lớn, chỗ Khai ngủ, bà nói sáng bữa sau bà sẽ dọn dẹp lại
mà để hai cái giường, hai cái tủ, một bàn viết cho thầy trò ở chung đặng thầy dạy
trò học cho tiện. Chung quanh biệt thự có cây mát mẻ, phía trước có đường lộ nằm
dọc theo mé rạch lớn, đứng ngoài cửa thấy sông Cửu Long. Ấy là một chỗ ở dưỡng
nhàn dưỡng trí êm ấm thần tiên không có chỗ chê được.
Tôi nghĩ Trời thương tôi lắm nên mới sắp đặt có người hảo tâm
cứu vớt tôi và có chỗ an ổn cho tôi nương náu. Tôi cám ơn bà chủ và xin phép vô
khách sạn thâu xếp hành lý rồi bữa sau tôi sẽ vô mà ở. Bà biểu sốp phơ đem xe
ra đưa tôi cho biết chỗ ngụ. Bà dặn tôi bữa sau cứ ở khách sạn mà chờ, xe đưa
Khai đi học rồi sẽ trở lại đó rước tôi.
Đi về dọc đường tôi hỏi anh sốp phơ tôi mới biết bà chủ nầy
là Ba Hòa, người Việt giàu nhứt nhì ở đất Chùa Tháp, bà nhơn đức, tử tế, rộng
rãi, biết thương kẻ thất thời suy sụp.
Về tới khách sạn tôi thuật chuyện gặp gỡ may mắn của tôi cho
ông chủ tiệm Tân Việt nghe đặng sáng bữa sau tôi từ biệt ông. Ông mừng giùm cho
tôi có chỗ dung thân. Ông tỏ ý muốn giúp tôi một số tiền để ăn xài cho tới cuối
tháng rồi mới lãnh lương. Tôi cám ơn thạnh tình của ông và nói tôi còn tiền đủ
dùng, hổm nay tôi làm hao tốn của ông nhiều rồi, tôi không dám thọ ơn thêm nữa.
Thế là từ đó đã an thân rồi. Tôi quyết để cho guồng máy thiên
nhiên tự động, tôi lo làm phận sự của tôi cho vuông tròn mà thôi, không dám mó
tay mà chế sửa gì nữa. Vô ở hồi sớm mai thì tôi bắt đầu dạy cậu Khai học liền.
Tôi sắp đặt chương trình làm việc. Buổi sớm mai tôi theo xe
ra hãng Thiện Chí mà coi chừng cho nhơn viên làm sổ sách và nếu có thơ từ chữ
Pháp thì tôi viết hoặc đọc cho cậu Hai Quảng. Buổi chiều tôi soạn bài vở để dạy
cậu Khai. Bữa nào trời tốt cậu Khai đi học về tôi dắt cậu đi bộ chơi đặng giải
trí. Sáu giờ rưỡi về ăn cơm. Bảy giờ cắt nghĩa bài của trường ra cho cậu hiểu
và chỉ cách cho cậu làm rồi tiếp dạy bài riêng của tôi thêm nữa cho tới 9 giờ sẽ
để cho cậu nghỉ.
Đêm đầu thì bà Ba Hòa đưa cho tôi 200 đồng bạc, biểu tôi cất
để muốn mua vật chi thì sẵn có tiền mà mua. Tôi nói tôi còn tiền tôi không chịu
thâu nhận. Bà nài ép quá tôi không dám từ chối nữa.
Cách ít bữa sau ông bạn của tôi là chủ tiệm Tân Việt lại hãng
Thiện Chí kiếm tôi mà từ giã đặng về Mỹ Tho. Tôi giới thiệu ông với cậu Hai Quảng
chủ hãng. Hai đàng nói chuyện buôn bán với nhau, rồi thỏa thuận cùng nhau trao
đổi hàng hóa, như Mỹ Tho thì cần phải có cá khô, đậu khấu, tiêu sọ, hàng lụa
Nam Vang, còn Nam Vang cần dùng muối hột, chén dĩa, lu mái của Nam Việt thì hỏi
nhau mà chịu giá.
Vì mỗi buổi chiều tôi thuờng đi chơi với cậu Khai, khi đi xe
khi đi bộ, nên trong vài tuần những người giàu có ở trong vùng họ hay bà Ba Hòa
nuôi tôi trong nhà đặng dạy riêng con bà lúc ban đêm. Ông Lái Hiền người Việt với
ông Kim Sung người Thổ làm quan trong Hoàng cung, cả hai đều giàu có ở gần đó
và có con học một lớp với Khai, hai ông đến cậy bà Ba Hòa nói với tôi dạy luôn
giùm con của hai ông đồng một tuổi với Khai, con ông Hiền tên Lương, còn con
ông Kim Sung tên Kim Yum. Bà Ba chịu cho tôi dạy giúp thì tôi dạy luôn 3 trò
cũng như một nên không có gì mà từ chối. Bà Ba nói mỗi tháng bà đền ơn cho tôi
200. Hai ông kia hứa sẽ làm y như bà và lãnh chịu quần áo cho tôi bận.
Tôi ở đây trong 3 tháng bà Ba Hòa yêu tôi cũng như em cháu ruột
thịt trong nhà, cậu Hai Quảng nhờ có tôi nên cậu mua bán mạnh mẽ dễ dàng, còn 3
em nhỏ nhờ tôi dạy riêng nên trong lớp 3 em vượt lên học giỏi hơn chúng bạn hết
thảy. Tôi cứ cặm cụi làm phận sự, ban đêm nằm tưởng nhớ tới Bạch Yến đặng may
có gặp em trong giấc mộng vậy thôi, tôi để cho thời gian trôi chảy tự do, mà
cũng để cho máy thiên nhiên mặc dầu tự động, tôi không muốn toan tính hay sửa đổi
gì hết. Thế mà mọi người ở gần ai cũng vui lòng nên ai cũng yêu quí tôi, nên
người chăm nom lo cho tôi mặc đàng hoàng. Còn người xa tôi không hiểu họ thương
ghét lẽ nào, chỉ thầm vái cho người ta quên cái thói điếm đàng giả dối của tôi
lầm lỗi.
Qua năm sau phong trào quốc gia độc lập tiến triển khắp trong
nước Cao Miên. Những người Thổ có cơm tiền đều đua nhau cho con trai xuất dương
du học đặng un đúc tài nghề mà giúp nước. Phần nhiều thì qua nước Pháp đã quen
biết rồi. Ba cậu nhỏ học trò của tôi rộn rực đòi đi, sợ lục đục học trong nước
ngày sau thua sút chúng bạn về mặt tài trí.
Bà Ba Hòa thương lượng với hai ông kia rồi cả ba người hiệp ý
nhau mà cậy tôi dìu dắt ba cậu nhỏ qua Pháp ở chăm nom chỉ biểu cho chúng nó ăn
học. Tiền ăn học của ba cậu nhỏ thì con của ai nấy chịu riêng. Còn tôi ăn ở mà
dìu dắt trông nom thì mỗi người chịu cho tôi mỗi tháng một ngàn cộng chung là
ba ngàn đồng bạc Cao Miên tính ra 30 chục ngàn quan tiền Pháp, tiền máy bay bận
đi cũng như bận về thì ba người chung đậu mà chịu cho tôi. Mỗi năm bãi trường
ba người cũng chung đậu số tiền mà gởi cho tôi đặng dắt ba cậu nhỏ đi nghỉ hè,
hoặc đi du lịch.
Thiên cơ tự động biến chuyển qua thế nầy tôi cứ để cho nó
quay luôn, tôi không dám thò tay mà chận lại. Vì vậy nên không tính trước mà
tôi phải trở qua Paris với ba cậu Khai, Lương và Yum. Tôi mướn hai phòng ở với
ba cậu, đem ba cậu vào trường Trung học mà học tiếp lớp ba, ban đêm tôi dạy ba
cậu học riêng, ban ngày tôi rảnh tôi học toán pháp. Cuối niên khóa đó ba cậu
thi đậu bằng Trung học đệ nhứt cấp hết cả ba. Cha mẹ vui lòng gởi tiềm thêm mà
thưởng công tôi. Tôi cũng thi đậu Tú tài toàn phần về môn toán nữa. Cũng nhắm mắt
mà để thiên cơ tự động, chừng khai trường tôi đem ba cậu nhỏ học lớp nhì. Còn
tôi thì tôi thi đậu được học trường đại học về ngành khoáng sản, tôi nhờ tội cũ
nên tôi nổ lực mà học hoặc may có trúng câu lộng giả thành chơn mà đổi Bác vật
giả ra Bác vật thiệt hay chăng.
Thiệt nhờ có kinh nghiệm, tôi cứ lo nhiệm vụ không dám mó tay
vào cái máy thiên nhiên của Tạo hóa nữa, bởi vậy ba năm sau ba học trò của tôi
đều lấy được bằng Tú tài toàn phần cả ba. Còn tôi cũng lấy được bằng Bác vật hầm
mỏ nên trở về đây. Ba trò của tôi đã lớn tuổi và lịch lãm đường đi nước bước rồi
không cần tôi dìu dắt nữa. Lương với Yum thì ở luôn bên Pháp chờ khai trường
vào trường đại học mà học tiếp. Còn Khai thì mẹ nhớ nên cậu về thăm mẹ vài
tháng rồi gần khai trường cậu sẽ trở qua. Tới sân máy bay có mẹ với anh chực rước
cậu đi luôn về Nam Vang tôi mới rẽ mà về đây.
Hỏi: Trong lúc anh qua Pháp ở học mấy năm đó anh có gởi thơ
cho cô Bạch Yến biết hay không?
Đáp: Không dám. Khi ra đi tôi chưa có Tú tài toàn phần, tôi
đâu dám mong học trường khoáng sản được mà gởi thơ. Chừng được vào học trường ấy
tôi cũng không dám mong chắc thi đậu Bác vật hầm mỏ mà khoe khoang. Tôi thất
kinh một lần rồi, không dám lợi dụng chủ nghĩa "vô vi " nữa, để cho
máy thiên nhiên tự động thế nào thì thế.
Hỏi: Sao thi đậu bằng Bác vật rồi, anh không viết thơ cho cô
Bạch Yến hoặc cho anh Võ Lộ hay Tự Cao mà hỏi thăm coi cô Bạch Yến đã lấy chồng
khác hay không, mà về tới Sài gòn anh dám đi ngay vô nhà cô.
Đáp: Có hại gì đâu mà ngại việc đó. Vì trước kia tôi dối với
bà Huyện và em Bạch Yến, bây giờ hết dối rồi, tôi phải ghé mà cho hay và xin
tha lỗi cũ. Dầu em Bạch Yến có chồng tôi cũng được phép thăm em vậy chớ.
Hỏi: Anh làm như vậy, anh không sợ cô Bạch Yến, nếu cô có chồng
khác, thì cô buồn cô hổ thẹn hay sao?
Đáp: Tôi không có ác ý đến chọc cho em Bạch Yến buồn hay hổ
thẹn đặng cười em. Tôi không có đầu óc tiểu nhơn như vậy được. Vì trước kia tôi
yêu em quá, tôi mới ăn năn cái tội giả dối mà viết thơ từ hôn. Tôi tha thiết
yêu cầu em quên tôi, giận tôi là thằng điếm mà lấy chồng khác, ưng người thẳng
ngay trong sạch cho xứng với tình yêu nồng nhiệt của em. Trót mấy năm tôi thầm
mong ước em có chồng khác đặng tôi dứt mối nợ tình. Tôi đã có nói tình yêu ôm ấp
là tình yêu tầm thường, tình yêu tưởng nhớ là tình yêu cao thượng. Nếu tôi biết
em đã có chồng khác thì tôi giữ tình yêu cao thượng càng quí, cần gì có bằng
Bác vật thiệt rồi tôi còn lết tới với cái ý trêu bẹo đặng hoặc làm cho em
thương tiếc hoặc phá cho em lỗi đạo cang thường của em. Sỡ dĩ tôi về tới tôi
nhơn tiện đường tôi ghé nhà em trước hết mà thăm bà Huyện và em đặng tôi xin
tha thứ tội giả dối trước của tôi, là vì tôi hay em Bạch Yến kiên tâm thủ tiết
mà chờ tôi, em không lấy chồng khác. Tôi kính mến ái tình của em mà thâu ngắn
thời giờ chờ đợi của em càng sớm càng hay.
Hỏi: Té ra anh có dọ hỏi trước nên anh biết cô Bạch Yến chờ
anh hay sao?
Đáp: Đó là việc tình cờ mà tôi biết chớ không phải tôi dọ hỏi.
Số là lúc tôi gần thi ra trường, một bữa cậu Khai là học trò của tôi và ngụ
chung một phòng với tôi cậu dắt về một người bạn học chung một lớp với cậu mà
tiến dẫn cho tôi bết. Cậu nói bạn cậu tên là Thường người Sài gòn, vì năm nay cậu
qua Pháp học toán lại mà thi. Cậu Thường muốn cậy tôi dạy toán cho cậu ít bữa đặng
cậu vào thi cho chắc ý. Tôi hỏi cậu Thường là con của ai, ở Sài gòn mà ở mé
nào; Cậu Thường nói cậu là con ông Phán Qui ở Tân Định, cậu mới qua đây học tiếp
lớp toán mấy tháng nay.
Tôi nhớ năm trước bữa làm lễ cầu thân tại nhà bà Huyện thì có
đủ vợ chồng ông Phán Qui dự tiệc. Tôi hỏi thăm bà Huyện Hớn. Cậu Thường nói
chuyện với tôi một hồi thì không cần phải hỏi tự nhiên tôi được biết con gái của
bà Huyện đã hứa hôn rồi, nhưng chưa cưới mà người chồng lại từ hôn nên cô giận
cô thề ở vậy mà nuôi mẹ, cô không thèm ưng ai nữa. Rõ ràng đó là cái máy thiên
nhiên Tạo hóa sắp đặt cho nó quậy như vậy. Tôi để cho nó quay, tôi không dám đụng
chạm tới nó nữa.
Hỏi: Hôm nọ anh nói bằng Bác vật khoáng sản, rồi đây anh lên
vùng cao nguyên Trung phần mà tìm mỏ. Cưới vợ rồi anh lại vui lòng mà đi và bà
Huyện cũng bằng lòng mà để cho anh đi hay sao?
Đáp: Phụng sự quốc gia là một nghĩa vụ không ai được phép thối
thoát. Dầu tùng quân làm binh nhì mà xông tên lướt đạn cũng không từ, chẳng luận
mà đi tìm hầm mỏ để giúp cho nhà nước kiến thiết nền kinh tế. Lo việc chung cho
nước có ai mà không vui lòng.
Hỏi: Tôi hỏi đủ rồi. Tôi cám ơn anh. Khuya rồi để tôi về cho
anh nghỉ. Buổi chiều mai sẽ trở lên mà phỏng vấn cô Bạch Yến.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét