Thứ Ba, 10 tháng 9, 2024

Còn đó bóng hình

Còn đó bóng hình

1. Còn đó bóng hình
Nhã đã có vẻ bồn chồn không yên. Nàng rướn người lên quay qua quay lại liên hồi đôi mắt xao xác tìm kiếm. Chung quanh người nào cũng nhấp nhỏm láo liên nhìn ngược nhìn xuôi. Ai cũng muốn bắt cho được khuôn mặt người thân nổi trôi trong đám đông lổn nhổn phía dưới. Tôi kiễng chân ghé cặp mắt qua những chiếc đầu phía trước nhìn muốn xuyên thủng tấm kính trước mặt. Phía dưới xa những con người tất tả đổ xô từ hàng chục chiếc cửa được mở ra cùng một lúc dành giật một chỗ đứng xếp hàng trước những chiếc hộp kiếng vuông vứt nhốt một nhân viên Sở Di Trú ở trong. Sau những chiếc hộp này là những chiếc vòng tròn di động đội từng hàng va ly diễu hành trước những cặp mắt căng cứng của đám hành khách đang chờ lấy hành lý. Vài ông nhân viên quan thuế dẫn những chú chó đánh hơi quanh đám va ly đang chờ chủ. Tôi đảo mắt nhìn quanh một cách vô vọng. Làm sao lôi được khuôn mặt của cô cháu chưa bao giờ gặp ra khỏi đám nhân gian lố nhỏ bên dưới. Nhã ném cặp mắt lo lắng qua phía tôi:
- Làm sao mà kiếm được nó đây anh?
Tôi nhún vai chẳng biết phải làm sao. Cả chục cánh cửa phía dưới lại mở ra. Từng đoàn người lại vội vã tiến vào. Chắc chịu thua rồi. Những thân người lúc nhúc bên dưới giỡn cợt với đôi mắt đã có chiều thất vọng của tôi.
Tôi lầm bầm bên tai vợ:
- Bực mình cái con nhỏ này thiệt!
Tính tôi vốn cẩn thận. Đã năm lần bảy lượt tôi phôn hỏi Catherine mặc áo màu gì khi xuống phi trường để dễ nhận ra, con nhỏ cứ nửa đùa nửa thật ỡm ờ:
- Cậu không nhận ra cháu thì cháu cũng nhận ra cậu chứ lạc đi đâu mà sợ.
Cậu chỉ có tấm hình cô cháu chụp từ năm năm trước. Giữa cái tuổi mười một và mười sáu có gì bảo đảm mặt mũi không làm một bước nhảy vọt. Cháu chỉ có bức hình cậu đang toe toét cười lúc làm chú rể đã chục năm có lẻ. Ông cậu chú rể nay còn giữ được bao nhiêu phần trăm khuôn mặt ngày tân hôn. Cơ mấy nào cho cậu cháu còn tưởng tượng ra được Nhãu. Catherine đã dọa tôi:
- Cháu còn có thêm tấm hình cậu chụp với măng hồi cậu vừa dứt sữa nữa chứ bộ!
Dứt câu con nhỏ cười khanh khách. Tiếng cười vọng qua đường điện thoại viễn liên như những mũi kim châm chích trong tai tôi. Chẳng là bức hình chụp lúc tôi bé chút xíu e thẹn ôm bên hông chị tôi chỉ ló ra đôi mắt đen lay láy. Chắc con nhỏ thích thú khi thấy hình ảnh ông cậu trong vị thế chẳng lấy gì làm nam nhi cho lắm. Tiếng con nhỏ lắp bắp trong tiếng cười:
- Cháu sẽ mang tấm hình này qua tặng mợ cho mợ cưng cậu hơn!
Nhã vẫn chong mắt vào đám đông phía dưới cố tìm ra con nhỏ rắn mắt chỉ mới thấy trõng hình chụp từ hồi còn nhỏ. Đám đông như những đợt sóng xô đẩy Nhãu. Hết đợt này tới đợt khác vượt qua hàng rào nhân viên di trú, lấy hành lý chất lên xe đẩy ra. Bụng tôi thót lại vì lo lắng. Dám con nhỏ ra tới cửa mà mình không biết rõi lắm. Thiệt tức mình! Ngày hôm qua tôi còn điện thoại dọa:
- Phi trường bên này tấp nập lắm. Cậu sợ lỡ ra mình không nhận ra Nhãu thì cháu dám phải ngủ ngoài đường chứ không phải giỡn đâu.
Giọng con nhỏ nghe ra chẳng có chút sợ sệt nào:
- Cháu ở bên Pháp qua xứ nói tiếng Pháp thì sợ chi. Đường xá trong miệng mình hơi đâu mà lo. Mà chắc thế nào cậu cũng nhận ra cháu.
Rõ chán! Con nhỏ này thật hết nước. Tôi thở dài vớt vát:
- Tiếng Pháp ở cái xứ Québec này nó không giống tiếng Pháp của cháu đâu. Cậu cam đoan cháu sẽ nghệt mặt ra khi nghe các ông tài xế tắc xi phát ngôn.
Con nhỏ vẫn cứ khanh khách vừa cười vừa nói:
- Cậu khỏi phải dọa! Cháu nói tiếng quốc tế bằng tay cũng thuộc vào loại khá. Nói vậy chứ làm chi mà cậu không nhận ra cháu.
Con nhỏ giống mẹ ở cái tính bướng bỉnh thích gì làm đó chẳng ai cản được. Hồi nhỏ Bố mẹ tôi luôn luôn lầu bầu khó chịu về cái nết trái khoáy của chị tôi. Tôi nhỏ hơn chị tôi đúng một giáp nên khi chị tôi trưởng thành tôi vẫn còn là một đứa nhỏ hay vòi vĩnh. Những lần Bố mẹ tôi la mắng chị Mai, tôi chỉ biết nép mình vào kẹt cửa chong mắt nhìn ra. Sao những lúc đó tôi thấy thương chị tôi quá đỗi. Có lẽ vì những chiếc kẹo chị cho vẫn chưa tan hết chất ngọt trong miệng. Chị cưng chiều tôi như mẹ cưng con. Miếng ăn miếng uống, manh quần tấm áo, tắm rửa lau chùi một tay chị lo. Tôi ham chơi từ nhỏ. Mà chơi toàn những trõ đẫm mồ hôi. Quần áo tôi chẳng mấy khi khô ráo. Lúc khô thì lại hôi rình. Một ngày không biết bao nhiêu lần chị đè ra thay áo quần. Vậy mà chẳng lúc nào quần áo tôi tử tế được cả. Không xốc xếch nhăn nhúm thì cũng rách chỗ này xoạc chỗ kia. Chị la mắng thì tôi chỉ cần toét miệng cười phô mấy chiếc răng sún ra thì thế nào cũng hái được nụ cười trên môi chị.
Chị Mai có khuôn mặt cứng cỏi nhiều góc cạnh. Cái trán hơi nhô ra hợp cùng chiếc cằm sắc lẻm làm mặt chị như đưa ra phía trước. Đôi gò má xương xẩu và đôi tai hơi vểnh ra mang vẻ ngang ngạnh bất cần. May mà có chiếc mũi thanh thanh và môi miệng tươi tắn xóa bớt những nét thô kệch vụng về niền kín khuôn mặt chị. Mái tóc chị tôi vốn đã không được mềm mại lại lúc nào cũng được vuốt thẳng ra phía sau cột túm lại khi thì bằng chiếc kẹp to bản khi thì bằng chiếc nơ màu sắc chìm lĩm buồn bã chẳng giúp chị lấy lại được chút mặn mà của một thiếu nữ đương thì.
Vẻ cứng cỏi trên khuôn mặt chị tôi không dừng lại nơi chị tôi mà còn được chia chác cho bốn cô con gái mỗi người một chút đường nét mạnh bạo. Cô gái út Catherine hình như nhận lãnh hậu hĩnh hơn cả. Nhìn hình con dễ bắt được khuôn mặt mẹ.
Cái dáng người mảnh dẻ cao cao khoác trên người bộ quần áo hai mảnh màu đất vừa đặt chiếc xách tay xuống xếp hàng trước chiếc hộp kính ở tuốt phía xa bên kia làm tôi giật mình. Khuôn mặt không nhìn rõ nhưng mái tóc vuốt ra phía sau níu lấy nhịp tim của tôi. Tôi kéo vai Nhã:
- Con nhỏ kia kìa!
Ngón tay tôi rung rung trước giọng hỏi dồn dập của vợ:
- Chỗ nào đâu? Sao em không thấy? Nó mặc áo màu gì? Có đúng không đây? Người đông như thế sao anh nhìn ra được?
Nhã vẫn có tính láu táu như vậy. Tôi vội vã chỉ:
- Bộ áo lẫn váy màu đất đó! Trước cái ông mập mập có bộ râu rậm rạp hung hung gần sát tường đó!
Tiếng Nhã reo vui:
- Em thấy rồi. Trông con nhỏ già trước tuổi chẳng giống trong hình bao nhiêu mà sao anh nhận ra? Vậy là yên cái bụng.
Làm sao tôi nhận ra Catherine? Chắc nhờ khuôn mặt và dáng người hao hao giống chị tôi. Nhưng rõ nhất là mái tóc vuốt ra phía sau. Đúng là mái tóc mà tôi chẳng bao giờ quên được. Catherine đã cố ý bới mái tóc như vậy. Thảo nào nó cứ quả quyết trong điện thoại là thế nào tôi cũng nhận ra nó.
Catherine nhích dần lên gần tới đầu hàng. Chiếc xách tay được đỡ lên theo đôi chân chậm chạp mệt mỏi. Nhã dựa sát vào tôi dõi mắt vào cô cháu chưa một lần gặp gỡ. Tôi ôm ngang bụng Nhã thẫn thờ trước hình ảnh trước mặt. Cái bóng của chị tôi vực dậy trong tôi nỗi nhớ thương ngằn ngặt. Cảm giác hụt hẫng lúc ngủ dậy vào sáng ngày hôm đó nén chặt hơi thở tôi. Tôi bấu víu vào Nhã tìm chút nương tựa. Hình ảnh quái ác ngày xưa ào tới vây bủa tôi hung hãn. Bố tôi lầm lì ngồi bất động trước chén trà nguội ngắt. Không ai hiểu đằng sau đôi mắt hóa đá kia đang chộn rộn những suy nghĩ gì. Mẹ tôi nước mắt lưng tròng tay quét lia lịa chiếc chổi lông gà lên những mặt bàn mặt tủ chẳng còn hạt bụi nào bám nổi. Bà như không phải đang lau chùi nhà cửa như thường lệ mỗi buổi sáng mà đang đổ thốc đổ tháo những thương yêu, dằn vặt lẫn lộn ra đầu chiếc chổi đang nhặm lẹ quét đi quét lại một chỗ. Tủ quần áo của chị tôi trống rỗng mở toang. Chị tôi đã bỏ đi trong đêm khuya. Tôi muốn khóc mà không dám. Không khí trong nhà nặng nề như có một xác chết nằm đâu đây. Tôi lẳng lặng đội mũ xách cặp đi học. Ra tới ngoài đường nước mắt nước mũi tôi mới cuộn cuộn thoát ra. Tôi kéo vạt áo lên chùi trong cảm giác tủi thân tủi phận khôn cùng. Chị tôi thương yêu tôi là thế mà nỡ lòng nào dứt áo ra đi bỏ tôi lại như quăng một miếng giẻ rách không thương tiếc. Tôi vừa giận chị vừa bẽ bàng thân mình. Chân tôi đã mạnh vào một cục đá bên đường đau điếng. Nỗi đau làm tôi hả hê như trả được cơn thù hận chính mình.
Chị tôi đã từ lâu ngỏ ý với bố mẹ tôi muốn lấy một người Pháp làm chung sở. Bố mẹ tôi nghe mà như bị dội cả thùng nước lạnh trên người. Ông bà chẳng thể chịu đựng được nỗi ê chề của người có con gái muốn lấy chồng tây. Bố tôi giận dữ mắng nhiếc. Mẹ tôi chỉ chiết than thân trách phận bạc bẽo. Chị tôi vốn tính bướng bỉnh ngang ngược nên cứ lì lì nhất quyết làm theo ý mình. Trong nhà thoang thoảng mùi lạnh lẽo của một bãi tha ma. Mỗi người là một ngôi mộ câm nín. Có bậc cha mẹ nào lại có thể vui vẻ chấp nhận được cuộc hôn nhân dị chủng của con cái. Nó như một trái đắng. Có phải ăn thì cũng cố nghẹn ngào nuốt cho trôi qua cổ. Bố mẹ tôi không nuốt được vị đắng nên chị tôi ôm quần áo ra đi chia đều sự đắng cay cho mọi người. Chị tôi cay đắng từ bỏ gia đình. Bố mẹ tôi cay đắng ôm lấy những chuỗi ngày ê chề rã rượi.
Nhát dao chị tôi hạ xuống là một nhát dao phay tàn nhẫn. Nó chém đứt lìa cả thịt lẫn xương. Từ khi ra đi chị tôi không bao giờ liên lạc lại với gia đình. Chị như mất hút vào khoảng không. Thời gian đã vùi xóa hình bóng chị trong gia đình. Còn chăng là thỉnh thoảng chị vẫn nói cười trong những giấc mơ tuổi thơ của tôi.
Catherine lủi thủi rời quầy thủ tục nhập cảnh xách túi đi kiếm chiếc xe để hành lý. Nó ngó quanh ngó quất nét mặt bối rối bơ phờ. Người đông xe hiếm. Nhã thấy một chiếc xe bỏ phía xa sau lưng con nhỏ vội chỉ tay nhún người muốn nhảy lên mách nước:
- Cái con nhỏ này ngơ ngơ phiền quá. Quay người lại là thấy liền mà không chịu quay. Thằng cha kia nó lấy bây giờ.
Người đàn ông như nghe thấy tiếng Nhã nói rảo bước như muốn chạy về phía chiếc xe. Nhã tiếc hùi hụi:
- Đó, thằng chả lấy mất rồi! Uổng chưa!
Tôi phì cười trước sự mau mắn của Nhã. Vợ tôi vẫn như ngày chưa cưới. Hồn nhiên giản dị lúc nào tưởng cũng có thể bẻ được cuộc sống chung quanh theo ý mình. Tôi buột miệng hỏi:
- Sao em không nhảy xuống tranh giùm nó?
Cái liếc xéo dài dằng dặc chỉ chịu chấm dứt với câu nói mát mẻ:
- Chỉ sợ nhảy xuống lại có người cuống quít nhảy theo.
Tôi ôm chặt Nhã, cười. Chẳng cần Nhã nhảy xuống Catherine cũng có chiếc xe. Nó có mặt trong một đoàn người chạy ùa tới hàng xe vừa được một công nhân đẩy vào. Lấy xong hai chiếc va li kềnh càng, Catherine mất hút trong phòng quan thuế. Nhã và tôi vội chạy xuống chờ ở cửa ra.
Hàng người đông đảo đứng chờ chiếc cửa nhả ra từng khuôn mặt người thân. Tôi cố len lỏi dành được một chỗ ở hàng đầu ngay sát hàng rào cản. Catherine vừa bước ra đã nhìn tôi miệng cười chúm chím tự tin. Nó chẳng khó khăn gì nhận ra ông cậu đang há hốc miệng chằm chặp nhìn cô cháu. Catherine chạy lại ôm hôn tôi tới tấp. Buông tôi ra nó đứng thẳng người hai tay giang rộng nói:
- Cháu biết thế nào cậu cũng nhận ra cháu ngay mà!
Tôi nhìn thấy rõ ràng những nét gợi nhớ khuôn mặt chị Mai. Mái tóc vuốt ngược của Catherine rõ ràng mách bảo tôi nhận ra hòn máu của chị tôi. Con nhỏ với hai tay ra phía sau gỡ chiếc kẹp tóc. Mái tóc đổ xuống làm trẻ khuôn mặt của cháu tôi. Nó hếch mặt nói:
- Bây giờ Cát Tiên mới trình diện ông cậu.
- Cát Tiên?
- Đó là tên măng vẫn gọi cháu. Sang chơi với cậu cháu lại là Cát Tiên của măng.
Nhã tươi cười đứng nhìn cuộc trùng phùng của hai cậu cháu. Cát Tiên tinh ý quay sang Nhã:
- Mợ phải không? Trông mợ vẫn trẻ đẹp như trong tấm hình cưới. Nghe cậu nói mợ nấu ăn giỏi lắm phải không?
Nó ôm hôn Nhã. Nàng bằng lòng ra mặt. Cô cháu khen có một câu mà lộ ra được cả tài lẫn sắc của bà mợ. Hai tay nắm vai Nhã, Cát Tiên thân mật:
- Hôm nay mợ cho cháu ăn món gì đây?
Nó nhún vai le lưỡi, tay để lên cằm:
- Chắc mợ tưởng cháu tham ăn lắm phải không? Nếu mợ nghĩ như vậy thì chẳng trật vào đâu được!
Cát Tiên cười rất tự nhiên. Tôi nghe thấy tiếng cười của chị tôi. Tiếng cười đã hầu như biến mất từ ngày chị tôi ngỏ ý lấy chồng với bố mẹ tôi. Mắt tôi mờ đi. Bố mẹ tôi trong cùng một năm đã dắt díu Nhãu kẻ trước người sau ra người thiên cổ. Chị tôi cũng đã mất sau cơn bạo bệnh. Ba người đã thực sự là ba nấm mồ. Chỉ có điều là không ở cùng trong một nghĩa trang. Cuộc chia ly thật rốt ráo. Ba người trong cuộc đã ra đi. Chỉ còn những người vô can đang tìm về với Nhãu.
Bé Hưng te tái chạy vào phòng giật giật chéo áo mẹ:
- Mẹ, chị Cát nói khỉ khô.
Nó nhún nhún chiếc mông cười dòn giã. Chưa dứt cơn cười nó lại la lên:
- Tức cười quá! Chị Cát nói khỉ khô mẹ ơi!
Nhã vẫn thường cấm con nói những chữ thô nhảm nhưng con nít càng cấm khi có dịp thì lại càng nói cho đã cái miệng. Bé Hưng vẫn ngả nghiêng cười thú vị. Nhã tuy tức cười nhưng làm mặt nghiêm:
- Mẹ cấm con không được nói những chữ như vậy cơ mà!
Bé Hưng bặt tiếng cười, liếc nhìn mẹ chống chế:
- Chị Cát nói chứ con có nói đâu. Để con kêu chị Cát vô cho mẹ hỏi coi có đúng không.
Cát Tiên chạy vô đứng sững nhìn bé Hưng đang gân cổ cãi lý. Cái mặt ngây ngô thế kia thì chắc cô nàng chẳng hiểu chi. Bé Hưng được dịp nắm tay chị hỏi:
- Có phải chị Cát nói khỉ khô không?
Nhã toan nạt con nhưng chưa mở được miệng thì bé Hưng đã mau mắn hỏi trước. Cát Tiên gật đãu:
- Có gì vui không? Măng vẫn nói vậy mà!
Tôi cười thầm trong bụng. Chị Mai thiệt tình! Ngày xưa mỗi lần tôi đòi thứ gì mà chị không cho chị vừa chạy trước cho tôi đuổi theo vừa nói: cho cái khỉ khô này! Qua Pháp chị vẫn giữ nguyên cái cung cách đó với con cái sao? Tôi ghé tai nói nhỏ với Nhã:
- Ngày xưa anh đã được thưởng thức khỉ khô hàng ngày.
Nhã cố nín cười:
- Cho đáng kiếp anh! Chắc hồi nhỏ vòi vĩnh dữ. Thảo nào tới giờ vẫn còn vòi vĩnh vợ!
Tôi giở mặt lì:
- Thì có còn ai để vòi vĩnh nữa đâu!
Nhã háy mắt quay mặt đi. Tôi kéo vai nàng hỏi:
- Như vậy là chị Mai có nói tiếng Việt với con sao?
Nhã quay qua hỏi Cát Tiên:
- Măng có thường nói tiếng Việt với các cháu không?
Cát Tiên đang chạy lòng vòng thọc lét bé Hưng, nghe Nhã hỏi vội dừng chân tới trước mặt Nhã vừa thở gấp vừa trả lời:
- Có chứ. Măng nói tiếng Việt nhiều lắm.
- Nghe cậu mợ nói tiếng Việt với bé Hưng cháu có hiểu không?
Cát Tiên kẹp ngón tay cái và ngón trỏ gần sát Nhãu nói:
- Hiểu chút chút cỡ này. Từ ngày măng chết cháu quên nhiều rồi.
Tôi lặng người. Hóa ra chị tôi ra đi mà vẫn nặng lòng với chốn phải rời xa. Chị tôi có toan tính gì khi dạy con cái nói thứ tiếng mà chúng chẳng dùng tới. Chị tôi nói tiếng Việt cho đã miệng hay muốn sau này sẽ có dịp mang con cái trở về. Dứt áo ra đi nhưng chị tôi vẫn để hồn ở lại. Tôi nhìn Cát Tiên lòng bỗng dưng bồi hồi. Một nửa máu Việt trong nó có còn đó không? Tôi thấy thương cháu quá đỗi, đứa cháu chẳng phải chỉ mồ côi mẹ mà còn mồ côi cả cội nguồn gốc gác.
Bé Hưng đã chạy về phòng với đống đồ chơi. Cát Tiên đang mải mê lật xem những tờ lịch trên tường. Cuốn lịch khổ lớn in hình các thắng cảnh Việt Nam Nhã lấy ở một tiệm ăn. Tôi cất tiếng dò hỏi:
- Cháu thấy cảnh Việt Nam có đẹp không?
- Đẹp! Ba cháu bảo Việt Nam đẹp lắm. Hồi măng mới đau ba dỗ dành măng chịu khó đi chạy điện ở nhà thương cho khỏi rồi ba sẽ đưa cả nhà về Việt Nam chơi. Măng chỉ ngồi khóc.
Bệnh của chị Mai là bệnh ung thư. Chữa trị cho có chữa trị chứ chẳng bao giờ khỏi. Chắc chị cũng biết vậy. Tiếng khóc của chị là tiếng khóc cho cuộc chia ly vĩnh viễn hay niềm mong ước về quê cha đất tổ chẳng bao giờ thành tựu. Ông anh rể tôi không biết mặt là một người nặng tình cảm. Sau khi chị tôi mất ông đã về Việt Nam thay cho chị tôi. Ông đã thắp hương khấu đầu trước mộ bố mẹ tôi. Ông đã đi thăm họ hàng ruột thịt của chị tôi. Khi trở lại Pháp ông đã dặn các con là mỗi đứa phải một lần về thăm Việt Nam, nơi măng đã được sinh ra và là nơi các con phải thuộc về.
Cát Tiên rầu rầu giọng nói:
- Ba thương măng lắm. Ba bảo măng đã hy sinh tất cả cuộc đời cho ba. Khi măng chết ba như mất đi một nửa người. Cháu nghĩ còn hơn thế nữa. Ba đã thả hồn thất lạc theo măng. Cả năm sau đó ba còn ngẩn ngơ biếng ăn biếng nói. Đi làm về ba ngồi rầu rĩ trong phòng. Mà cậu mợ biết không, trong phòng thì chật kín hình của măng. Hình lớn hình nhỏ, hình cũ hình mới, ba giăng đầy tường, bày khắp mặt bàn mặt tủ không có chỗ thở.
Mắt Cát Tiên long lanh ướt. Tôi biết cháu tôi đang dấu những giọt nước mắt cho mẹ. Ngày xưa khi chị tôi bố đi tôi cũng đã để dành những giọt nước mắt ra tới ngoài đường mới chịu nhỏ ra. Cát Tiên lúng túng rót một ly nước lạnh, vội vàng uống mấy hớp, nói bằng giọng rạn nứt:
- Ba vẫn bảo chúng cháu may mắn có được hai quê hương, thừa hưởng được hai nền văn hóa khác biệt. Cháu lại nghĩ khác. Cháu chẳng thuộc về nơi nào cả. Ngày nhỏ đi học chị em thỉnh thoảng nói vài chữ tiếng Việt với Nhãu bị tụi bạn cười là Chinoises riết rồi không dám nói luôn. Cháu chưa về Việt Nam nhưng cháu nghĩ là chắc chẳng ai chấp nhận cháu là người Việt Nam. Nội việc sang đây được cậu mợ là người trong gia đình thương yêu quí mến mà cháu vẫn cảm thấy vướng mắc vì không nói được tiếng Việt.
Cát Tiên là đứa nhỏ ưa suy nghĩ. Ở tuổi mười sáu nó phân tích sự việc như một bà già. Tôi tìm đủ cách để gỡ cháu tôi ra khỏi cái mặc cảm bị ở bên lề hai xã hội nhưng chẳng ăn thua gì. Có cá tính mạnh giống mẹ, Cát Tiên đâu có dễ chấp nhận sự an ủi của người khác.
Cái mà Cát Tiên chấp nhận một trăm phần trăm là những món ăn Việt Nam. Nhã nấu món nào nó cũng la lên là giống măng nấu. Tôi không hiểu nó thích vì tìm lại được hương vị của món ăn ngày thơ hay là gợi nhớ tới người mẹ vắn số. Tôi nghĩ những món ăn chỉ là cái cớ để Cát Tiên tìm về những ngày ngọt bùi đầu đời có mẹ. Con nhỏ đã ôm cả cuốn tập dày ghi tỉ mỉ cách làm từng món mỗi khi cùng Nhã lăn vào bếp. Bé Hưng không ưa cái trò học nấu ăn của chị Cát. Cu cậu khóc nhèo nhẹo phản đối mỗi khi chị Cát ôm tập đi học trường mẹ. Vợ chồng tôi chỉ có bé Hưng nên ở nhà nó chỉ có thể đánh bạn với những người chơi dở là bố mẹ. Nay tự nhiên có thêm một bà chị mà nó kêu là chị máy bay chứ không phải chị ruột nó thấy cuộc đời bỗng hào hứng hẳn ra. Vừa có người chơi đùa, vừa có người chiều chuộng, buồn tình lại vừa có thể khóc vừa hé mắt chờ người dỗ dành, làm gì cu cậu chẳng quấn quít Cát Tiên. Nhưng khi chị Cát đã đi học trường mẹ thì bé Hưng bị tuột xuống hạng nhì. Chẳng có cách nào cậy chị Cát ra khỏi bếp được.
Nhã có sự thú vị của một người được ngưỡng mộ. Nàng tận lực chỉ vẽ cho Cát Tiên hết bếp chiêu này tới bếp chiêu khác. Những trang giấy trong cuốn tập hầu như đã đông nghẹt những con chữ khi Cát Tiên rụt rè hỏi Nhã:
- Có một món mà măng chỉ làm vào ngày tết. Cháu nói tết Việt Nam đấy. Mỗi lần nấu món này là măng khóc.
Nhã ngơ ngác trước câu hỏi của Cát Tiên. Nàng dọ dẫm:
- Ngày tết người Việt Nam hay nấu nhiều món lắm, mợ đâu có biết cháu muốn nói món gì. Cháu cho mợ biết món đó ra sao nào.
Cát Tiên nheo mắt lựa lời:
- Món đó khi dọn lên bàn ăn cháu thấy nhiều màu sắc đẹp lắm. Xanh, vàng, đỏ, trắng lẫn lộn. Măng bảo ở Việt Nam bà ngoại chỉ nấu món này vào dịp tết để cúng tổ tiên. Măng cũng nấu để nhớ lại gia đình.
Thấy được chút ánh sáng có thể tìm ra được món ăn bí hiểm này, Nhã lên tiếng gọi tôi. Thường thì khi Nhã làm bếp tôi được coi ngang hàng với bé Hưng: không được lẩn quẩn trong bếp vướng chân vướng cẳng nàng. Nhã luôn luôn bảo tôi chẳng được việc gì cả. Khi Nhã kêu tôi thì tôi đang có nhiệm vụ chơi với bé Hưng ngoài phòng khách. Nhã vừa nói hết câu thì tôi đã biết ngay đó là món gì nhưng nhìn cặp mắt căng lên của Nhã tôi muốn làm ra vẻ quan trọng. Tôi hậm hừ như một anh quan quận khó tính:
- Món đó có thịt heo xắt từng sợi nhỏ phải không?
Cát Tiên mau mắn:
- Dạ, đúng rồi.
- Có trứng phải không?
Mắt Cát Tiên nheo nheo:
- Cháu không biết nhưng có màu vàng.
- Thì trứng đó. Trứng tráng mỏng cắt thành từng sợi nhỏ chứ còn gì nữa. Có tôm nữa phải không?
- Cháu không thấy tôm.
- Cháu làm sao thấy được. Tôm đã bị giã nát bét ra rồi cháu đâu có nhận ra.
Lòng kiên nhẫn của Nhã đã bị thử thách một cách sỗ sàng. Tôi đang tiếp tục trò đố vui để học thì Nhã giật giọng nói trống không:
- Biết thì nói đại ra cho rồi!
Mặt tôi đỏ lên như bị bắt quả tang đang ăn vụng. Tôi cười giả lả:
- Món bún thang ấy mà!
Nhã quay qua Cát Tiên:
- Món này thì mợ không biết nấu rồi. Cát Tiên buồn ra mặt. Nó cúi đầu mân mê cuốn tập, thả giọng hững hờ:
- Cháu định nấu món này vào dịp giỗ măng. Chắc măng thích lắm.
Lòng tôi trùng xuống. Trong đầu tôi hiển hiện món ăn ngày nhỏ dính liền với tiệc tùng tết nhất. Tô bún thang sao mà thanh tao sang cả lúc nào cũng bắt tôi thèm nhỏ dãi. Mẹ tôi có tài nấu bún thang. Tô bún của bà ngọt ngào đằm thắm ai ăn qua một lần cũng phải nức nở khen ngon. Ngón nghề đó mẹ tôi có truyền cho chị Mai. Điều tôi không ngờ là nơi chốn chị tức tưởi bỏ đi lại được kéo tới gần vào ngày đầu năm bằng tô bún mẹ tôi dạy chị nấu. Ngày nay, cũng với tô bún đó, cháu tôi lại định kéo bóng hình mẹ về mỗi năm vào ngày húy nhật của chị tôi.
Nhã là người nhiều tình cảm. Nàng như đọc được nỗi thất vọng của Cát Tiên. Ánh mắt nàng ái ngại hết nhìn cháu lại nhìn tôi. Cát Tiên hồn nhiên hỏi:
- Cậu có biết nấu món đó không?
Nhã nhặm lẹ chẳng bỏ lỡ dịp may:
- Cậu cháu mà nấu nướng gì! Chỉ biết ăn thôi! Nhưng mợ sẽ hỏi mấy người bạn, thế nào cũng có người biết. Hai mợ cháu mình sẽ cùng học. Trước sau gì mợ cũng phải biết làm món này kẻo có người đang thèm chết đi được.
Tôi chỉ biết cười trừ. Quả thật tôi đã len lén nuốt nước miếng khi nghĩ tới vị ngon ngọt của bún thang. Nhã là người tinh ý. Thoáng một cái nàng đã đi guốc trong bụng tôi. Cát Tiên nhìn tôi cười:
- Cậu đừng có mắc cỡ. Cháu cũng đang thèm muốn chết. Măng vẫn bảo cháu giống tính cậu. Ngày xưa măng cưng cậu lắm phải không? Cứ mỗi lần kể chuyện Việt Nam cho tụi cháu nghe là thế nào cũng có cậu chen vào. Cậu đứng chật kín trong đầu măng. Hình cậu được măng trưng trên bàn. Một tấm cậu nhỏ xíu, một tấm hình cưới cậu mợ. Tấm hình cưới măng xin được của bà cô nào đó ở Paris. Măng nói vậy. Lúc mới mang về măng say mê ngồi ngắm. Mắt măng vời vợi xa xôi lúc vui lúc buồn.
Tôi ngồi thừ người nghĩ ngợi. Khi lớn tôi đã vô tâm chẳng nghĩ tới chị Mai. Chị đã mất hút trong tuổi thơ của tôi. Vậy mà chị vẫn vọng về những ngày cũ như một hệ lụy chẳng bao giờ dứt ra được. Ngày cưới tôi bóng hình chị xa lắc xa lơ có lúc nào lởn vởn trong đãu tôi đâu. Chị như một phần đời đã được xếp lại, khóa kín trong tận cùng ký ức.
Cát Tiên mang hai tấm hình ra đưa cho Nhã:
- Tấm hình măng và cậu hồi nhỏ cháu tặng mợ để mợ thấy cậu lúc nào cũng dễ thương. Tấm hình cưới cậu mợ cháu xin lại về để ở chỗ cũ. Cho măng và cho cháu. Cháu biết khi về cháu sẽ nhớ cậu mợ vô cùng.
Nhã ôm Cát Tiên, vùi mặt vào mái tóc nâu, đôi mắt mờ ướt.
Giọng Cát Tiên liến xáo trong điện thoại viễn liên: " Cuối tuần nào cháu cũng nấu cơm Việt Nam. Cả nhà ai cũng thích. Ba cháu cảm động lắm. Làm như cháu đưa măng về cho ba vậy! Cậu vẫn khỏe chứ? Mợ chắc cũng vậy. Cậu nói giùm với mợ là học trò của mợ không phụ công mợ chỉ bảo nhé. Bé Hưng có còn khóc nhè không cậu? Cháu nhớ nó lắm. Không biết sao cháu thương nó như vậy không biết nữa. Chắc ngày xưa măng thương cậu cũng chỉ bằng cháu thương nó là cùng. Cậu hôn nó giùm cháu. Hôn mạnh mạnh nghe cậu! Giá có nó bên cháu bây giờ chắc cháu sẽ cắn nó cho đã. A, cậu biết không? Cả nhà phục tài nấu nướng của cháu giống măng quá nên ai cũng gọi cháu là măng. Cả ba cháu cũng kêu bằng măng mới đã chứ! Mai mốt cháu qua chơi lại cháu sẽ nấu ăn để cho mợ nghỉ hè dài ngày. Lúc đó cậu có kêu cháu bằng măng không?"
Tiếng cười của Cát Tiên dòn. Chị tôi chẳng bao giờ có tiếng cười như vậy.
2. Cũng đành
Tự dưng mắt trái Tụng đỏ rực lên. Cả một bên tròng trắng phía sát mũi như có một cục máu dính vào. Mỗi lần soi gương Tụng lại thấy cục máu đỏ thêm. Thuốc Visine chuyên trị chứng đỏ mắt nhỏ mỗi ngày ba lần chẳng ăn thua gì. Cục máu bướng bỉnh đứng ỳ đó không chịu nhúc nhích. Tới ngày thứ ba thì quá lắm. Tụng có cảm tưởng mắt mình ngầu máu giống như một tên ăn thịt người. Giulio, tên bạn Ý đồng sở điển trai với hàng ria mép được tỉa khá kỹ, lên tiếng:
- Mắt mày như vậy là thiệt hại bạc triệu đấy. Mày nhìn đàn bà chỉ thấy có một bên. Coi chừng lại vớ được một em có cái bớt đen mọc lông như da heo ở một bên má mà không thấy đó.
Cả chục cái đầu chưa vợ chưa con nhìn Tụng ngoác miệng ra cười thú vị. Hãn, tên bạn đồng hương duy nhất trong sở, chẳng coi tình đồng bào ra gì ngứa miệng bồi thêm:
- Ai bảo nhìn cái gì cũng ghé sát mắt vào nhìn cho rõ. Đáng kiếp!
Tụng trơ mặt ra cười trừ. Chấp chi may cái miệng đói chuyện. Vớ được dịp may nóng hổi chúng đâu có tha. Em Lisa cao như một con hươu cao cổ thường ngày ít nói hôm nay cũng xía vào:
- Tụng, trông toa dễ sợ quá. Cứ như mắt của ma cà rồng ấy!
Tới nước này thì phải tìm thầy tìm thuốc cho rồi. Mở niên giám điện thoại tìm đại một bác sĩ nhãn khoa ở gần nhà, Tụng lấy cái hẹn vào buổi chiều.
Tưởng thầy phải kính cận dày cộm mặt khó đăm đăm ai ngờ lại là một cô gái trẻ măng, thân hình mảnh dẻ, mặt mũi nhẹ nhõm, phải nói là đẹp, một vẻ đẹp hiền dịu hiếm có. Phòng khám ngay trong tiệm kính, nàng đứng sau quầy, tra sổ hẹn, hỏi tên tuổi, cả thẻ sức khỏe. Mới đầu Tụng tưởng là cô thư ký kiêm nhân viên bán kính cho tới khi nàng chìa tay ra cho Tụng bắt và tự giới thiệu:
- Tôi là Sophie, mời ông vào phòng khám.
Tụng đi theo cái dáng ẻo lả ngoan hiền trước mặt. Một chút hương dìu dịu phảng phất theo sau nàng lén lút chui vào mũi Tụng thân tình. Cánh cửa phòng khám khép lại. Ngọn đèn đứng ở góc phòng tỏa nhẹ xuống chút ánh sáng yếu ớt. Nàng cười. Khuôn mặt tươi tắn. Hàm răng trắng đều ánh lên mát rượi.
- Ông cởi áo veste ra cho thoải mái.
Tụng nhanh nhẹn cởi áo treo lên mắc.
- Ông ngồi xuống đây, dựa cằm vào chỗ tựa này. Vậy được rồi.
Ánh sáng mờ ảo rọi vào khuôn mặt nàng thân mật. Tụng say mê nhìn bức tượng bán thân diễm ảo trước mắt.
- Ông nhìn thẳng vào mắt tôi.
Hai vì sao lạc lõng trước mắt Tụng.
- Ông nhìn sang trái.
Ngón tay thon thả như một đọt dừa non mát dịu chỉ sang phía trái.
- Ông nhìn sang phải.
Ngón tay trườn về phía phải mềm oặt ẻo lả.
- Ông nhìn lên trên.
Đôi môi hồng dìu dịu một nét son nhạt phả ra chút hương thơm quí phái. Đôi môi phác ra một nụ cươi e dè.
- Ông nhìn lên trên cơ mà!
Mắt Tụng tiếc nuối leo lên một cách khó nhọc.
- Ông nhìn xuống dưới.
Phập phồng trong làn áo trắng gò ngực nhấp nhô theo hơi thở. Mắt Tụng lơ mơ ngã vào chốn hạnh phúc mênh mang.
- Xong rồi!
Cần cổ thanh thanh no đầy trắng bệch trong vũng ánh sáng hắt hiu ấm cúng. Bàn tay bột lọc gạt chiếc máy khám mắt qua một bên. Khuôn mặt tươi mát hiện ra đầy đặn.
- Ông bị xuất huyết trong mắt. Cứ để vậy tự nhiên sẽ hết. Không cần nhỏ thuốc gì cả. Thuốc không ăn thua gì đâu. Thông thường thì khoảng bốn ngày nữa sẽ hết hẳn. Nếu không hết ông trở lại tái khám. Nhưng tôi nghĩ là sẽ hết. Ông đừng lo lắng gì. Mong ông không phải gặp tôi nữa. Chào ông!
Hãn là người lên tiếng trước tiên khi Tụng vừa bước vào phòng:
- Mắt mũi ra sao ông nội? Bác sĩ có phải lấy muỗng múc mắt ra cho chó ăn không?
Tụng lừ đừ như ông từ vào đền không nói không rằng ngồi vào bàn làm việc. Giulio mò tới vỗ vai:
- Lão đốc tơ dọa nạt gì mà mày câm như hến vậy?
Tụng cười thầm trong bụng. Nếu thằng này nhìn thấy "lão đốc tơ"! Cả đêm qua Tụng ngủ lơ mơ. Hình ảnh Sophie lởn vởn trong đầu. Sáng ngủ dậy soi gương thay mắt vẫn đỏ au anh mừng trong bụng. Cứ như thế này thì bốn ngày nữa anh lại hân hoan đưa thẻ bảo hiểm sức khỏe cho Sophie rẹt. Những con chữ trên màn ảnh lộn xộn vô nghĩa. Tụng đăm đăm nhìn vào mặt computer. Nụ cười của Sophie rạng rỡ bình minh. Anh muốn ngồi im lặng lơ mơ tơ tưởng tới cô bác sĩ duyên dáng. Giulio vẫn làn càn đứng bên cạnh nhếch hàng ria mép vẽ ra một nụ cười chế giễu. Phải đuổi thằng này đi mới được. Tụng lấy giọng nói lớn cốt cho cả phòng nghe:
- Lão đốc tơ bảo mắt này lây dữ lắm. Đứa nào nhìn vào là lãnh đủ!
Giulio len lén nhìn Tụng vội lủi về chỗ ngồi. Căn phòng im phăng phắc. Người nào cũng cắm cúi vào công việc. Giờ này mà sếp lớn bước vào phòng chắc chẳng tìm thấy được một điểm nào để nhăn mặt cả. Tụng thấy nhột sau lưng. Chắc cả chục cặp mắt đang đốt vào gáy anh.
- Anh Tụng còn ngày nghỉ bệnh sao không lấy vài ngày nghỉ cho khỏe. Việc để tụi này làm giùm, cam đoan không lầu bầu gì hết.
Giọng Rita, con nhỏ chết nhát nhất phòng mới nhức đầu sơ sơ đã sợ bị bệnh Aids. Tụng hứng chí dọa nạt con nhỏ khôn lỏi:
- Ở nhà thì bao giờ khỏi bệnh được. Bệnh này phải để lây qua cho người khác thì mắt mình mới hết được.
Anh đứng dậy tới bàn Rita nhìn chằm chặp vào mắt con nhỏ hỏi:
- Rita có muốn nghỉ ở nhà cho khỏe không?
Rita sợ hết hồn hết vía cúi gầm mặt xuống bàn lại còn xòe hai bàn tay ra bịt kín đôi mắt cho chắc ăn, miệng la bai bải:
- Làm ơn đi chỗ khác đi!
Hãn dùng tiếng Việt xỉ vả:
- Đừng có làm tây nó tưởng dân Việt Nam anh hùng chỉ biết hãm hại gái vị thành niên mà nhục quốc thể chứ!
Tụng thấy chẳng nên đùa dai hơn nữa. Cả phe ta lẫn phe tây đều đã lên tới cổ cả rồi. Kéo thêm chút nữa dám đứt lắm. Anh hóa giải tình thế bằng giọng kẻ cả:
-Tụi bay chết nhát hết. Mắt mũi thế này mà lây cái gì. Bác sĩ bảo chỉ bốn ngày nữa tự nhiên mắt tao sẽ trắng như hạnh nhân tụi bay trông thấy phát mê luôn.
Bốn ngày sau mắt Tụng khỏi thật. Sáng ngủ dậy soi gương Tụng thấy như mất mát chút gì. Tụi bạn trong sở thở phào nhẹ nhõm như trút được một gánh nặng. Bốn bữa trước Tụng nói thì chúng nghe vậy nhưng tin thì không. Cái miệng Tụng chẳng phải là cái miệng tu hành. Anh vẫn có thói quen nói giỡn như thiệt mà thiệt như giỡn. Chuyện gì anh nói ra tụi bạn chỉ nghe bằng một tai, còn một tai để xem chừng. Khờ khạo chi mà đầu tư hết ráo vào một cửa.
Rita vẫn là đứa thật thà nhanh nhẩu nhất. Nàng mừng Tụng mà như mừng chính mình:
- Mừng anh thoát kiếp ma cà rồng!
Tụng giở giọng liền:
- Tôi đang rầu muốn chết. Có chút đỏ trong mắt trông cool hơn chứ!
Giulio ngứa miệng xía vô liền:
- Ừ, chẳng có gì hơn người vớ được cục máu trong mắt mừng muốn chết. Tưởng chơi nổi ai ngờ cục máu cũng chuồn đi mất. Buồn là phải!
Tụng nhe răng cười. Kể thì cũng buồn thiệt. Hy vọng được đi bác sĩ tái khám thế là tiêu tan. Vậy mà buổi chiều đi làm về tay lái xe hơi vùng vằng chẳng muốn theo đường cũ. Tụng chặt lưỡi. Kiếm cái gì ăn bậy cho xong bữa về nhà khỏi nấu. Anh nghĩ tới một tô phở nóng nhưng xe lại rề vào bãi đậu xe của McDonald's gần phòng mạch của Sophie. Ăn xong anh thả bộ ngang qua tiệm kính. Sophie đang ngồi chuyện vãn với cô bán hàng. Anh rảo bước như sợ có một bàn tay thò ra lôi tuột anh vào. Vội vượt qua tiệm kính, anh suýt đụng vào một bà già kềnh càng đi trước mặt. Nuốt xong ánh mắt dai nhách của bà già anh bỗng thấy mình trẻ dại. Anh bước vào tiệm bán hoa mua một bông hồng đỏ bầm màu máu bọc trong dấy bóng kính thắt nơ cẩn thận rồi quay trở lại. Ngực anh như có tới hai con tim.
Anh ngắm bóng mình trong tủ kính của một tiệm kim hoàn, giơ tay vuốt tóc, dấu bông hồng phía sau lưng, tiến tới chỗ Sophie. Nàng nhận ngay ra anh làm anh sướng mê tơi.
- Mắt ông hết đỏ rồi chứ?
Nàng nghiêng ngươi nhìn thẳng vào mắt Tụng. Chiếc cà vạt cong lên theo cơn gió nhân tạo từ chiếc quạt nhỏ trên quầy hàng. Anh nặn ra một nụ cười:
- Hình như vết đỏ loang lớn thành đóa hoa này.
Sophie ôm ngực khẽ kêu:
- Ồ!
Có hai thứ mà người đàn bà được tặng luôn luôn kêu lên thích thú: hoa và nữ trang. Tiếng kêu dành cho nữ trang thường săn giòn hơn. Nhưng tiếng kêu của Sophie lúc này cũng đủ làm cho Tụng ngầy ngật. Giọng anh phả ra như hơi rượu:
- Bông hoa tự nó đã biết nói lời cám ơn.
Sophie áp bông hoa vào ngực. Đôi mắt màu đồng như vừa được chùi sáng bóng.
- Tôi vẫn quý cái tình nghĩa của ngươi Á đông và luôn luôn muốn học hỏi nơi đời sống trọng tinh thần, thiên về nội tâm của các anh. Chắc anh người Trung Hoa?
Tụng thấy nhói nơi đầu. Hai anh con trời ép nhau quá! Đánh nhau cùi cụi ròng rã cả ngàn năm mà đi đâu cũng bị nhìn lầm thành người bên kia chiến tuyến hỏi có ức lòng không? Tụng nhanh nhẹn phủ nhận:
- Không, tôi người Việt Nam.
- Việt Nam?
Sophie ngạc nhiên hỏi lại. Tụng nhìn nàng thương hại:
- Cô có biết Việt Nam ở đâu không?
Mặt mũi ngây ngô như thế kia chắc chẳng biết cái hang của rồng tiên ở đâu. Trước đây anh em xoay vần ra đánh nhau thì cả thế giới biết mặt biết tên, hơn hai chục năm nay chẳng chịu đánh đấm gì thì cô nhỏ hơn hai chục tuổi này không biết là phải. Có giảng giải cũng vô ích, Tụng nói đại khái:
- Việt Nam là một nước nhỏ ở phía nam Trung Hoa.
Sophie mau mắn:
- Thì cũng đại khái là Trung Hoa cả chứ gì!
Tụng chẳng buồn cãi. Chuyện gì không vui thì bỏ đi. Chuyện vui thì giữ lại. Có Sophie trước mặt là vui. Anh ba hoa thiên địa tán đủ chuyện trời trăng mây nước. Sophie từng lúc ôm bụng cười rũ rượi với lối khôi hài mặt tỉnh bơ của Tụng. Đấu láo lòng vòng một hồi thì cái tức tối trong bụng lại lồm cồm bò dậy. Tụng không hiểu tại sao cứ bị làn càn như vậy. Chẳng lẽ bốn ngàn năm văn hiến hành nhau dữ vậy sao? Đầu anh bỗng như được rọi sáng. Văn hóa nằm trong bụng chứ đâu. Anh rủ Sophie cuối tuần đi ăn tiệm Việt Nam. Tiếp cận với văn hóa một cách thực tiễn như vậy chắc ăn như bắp. Sophie gật đầu liền.
Ngồi trên xe Sophie cứ tưởng Tụng sẽ chạy xuống phố Tàu. Thấy không đúng hướng nàng hỏi:
- Anh chở em đi đâu vậy?
- Đi ăn.
- Sao không xuống phố Tàu?
- Mình đi ăn tiệm Việt Nam mà.
- Không phải ở phố Tàu à?
- Em không biết ở thành phố này có khu Việt Nam à?
Tiệm phở bây giờ chẳng còn là nơi chốn riêng của người Việt. Khi Tụng dắt Sophie vào một tiệm phở tương đối sạch sẽ và ăn được thì tiệm đã đông đặc thực khách. Đứng xếp hàng một hồi thì cũng tới lượt có được chiếc bàn nhỏ cho hai người. Anh nhìn quanh. Trắng có, đen có, ngăm ngăm đen cũng có. Vàng lưa thưa như mấy chiếc bông làm cảnh trong vườn. Sophie ngỡ ngàng trước khung cảnh mới. Nàng tưởng Tụng sẽ đưa nàng vào một nơi toàn ngươi Việt ai ngờ nàng lại lạc vào một góc của tòa nhà Liên Hiệp Quốc như thế này. Nàng hỏi nhỏ Tụng:
- Sao nhiều người ngoại quốc tới ăn tiệm Việt Nam như thế này vậy?
Tụng làm như không có gì quan trọng:
- Tiệm này chuyên bán phở, một món ăn Việt Nam đã trở thành quốc tế rồi. Người Phi Luật Tân, người Nam Mỹ và dân Quebec của em là những người sớm khám phá ra hương vị của phở.
- Sao em không biết gì cả?
- Tại vì em chưa gặp anh!
Sophie nhếch miệng cươi. Tụng gắn chặt đôi mắt vào khuôn mặt hiền dịu như một tượng thánh nữ trước mặt. Nếu là họa sĩ chắc anh cũng chịu chẳng thêm thắt được chút gì vào khuôn mặt hài hòa đang hồng lên trước cặp mắt sỗ sàng của anh. Trong anh đang có hai Tụng. Một Tụng lãng mạn muốn đặt khuôn mặt này lên chiếc bệ cẩm thạch đốt nến chiêm ngưỡng từng sợi lông măng e ấp. Một Tụng đam mê muốn ngấu nghiến hôn nát bờ môi hơ hớ mời gọi. Sophie cảm thấy như lửa trong mắt Tụng đang đốt nàng mềm nhũn. Nàng nhón một cọng giá trên đĩa hững hờ bỏ vào miệng. Tụng bừng tỉnh lắc đầu:
- Đừng làm như những đồng bào của em ở bàn bên cạnh, ăn khai vị hết một đĩa giá rồi mới ăn phở. Cũng đừng làm như mấy ông Phi Luật Tân ngồi kia, đổ nguyên cả đĩa giá lẫn các thứ rau vào tô. Cũng đừng bắt chước mấy bà Nam Mỹ trong góc phòng, trút cả đống tương đen lẫn tương đỏ loang lổ tô phở. Người biết ăn phở phải biết quý trọng chất phở. Đừng hành hạ tô phở bằng những thứ phàm phu trông đau lòng lắm.
Tụng là dân theo đạo phở đang say sưa thuyết pháp. Sophie là dân ngoại đạo chẳng hiểu mô tê chi. Nàng sắc mắc:
- Thế ngươi ta bày những thứ này trên bàn để làm chi vậy?
Sophie vừa châm một que diêm đốt vào tai Tụng. Đám cháy nho nhỏ từ tai leo ra khắp mặt Tụng đốt đỏ hết mọi thứ trên đường đi. Chỉ có đôi mắt chẳng thể nào đỏ bằng một bên mắt anh đã vác đến cho Sophie khám ngày nào. Đôi mắt đó đang lúng túng trước đôi mắt rộng mở chờ đợi của Sophie. Đầu óc quyền biến của Tụng cho chàng câu trả lời:
- Thì dân buôn bán họ chiều khách ấy mà!
Sophie hờ hững với câu trả lời quây quả của Tụng. Nàng đang suy tính làm thế nào có thể đưa được thức ăn lên miệng bằng đôi tay cầm đũa vụng về của nàng. Vị lạ của phở, khung cảnh tuệch toạng nhưng thân mật của một loại tiệm ăn lần đầu tiên nàng đặt chân tới và lòng háo hức với trò chơi cầm đũa mới mẻ đã cho nàng một buổi tối hài lòng.
Nhiều buổi tối sau Tụng dắt nàng đi vào rừng thức ăn Việt Nam. Chả giò, bánh cuốn, các loại bún, các loại cơm, các loại bánh, thậm chí cả các loại chè từ một màu tới bảy màu đều được cái miệng của Tụng xưng tụng. Thứ nào như cũng có thần linh đứng sau. Sophie đã quen độ lương thức ăn bằng calorie và cholesterol nên rất bỡ ngỡ trước lối đánh giá thức ăn của Tụng. Hình như trong mỗi món ăn Việt Nam đều ẩn núp một hoài niệm, một quá khứ, một tâm tình, một tiếc nuối. Nó không hẳn chỉ là một món ăn mà như còn là quê hương mà những di dân như Tụng đã tức tưởi bỏ lại.
Đôi tay Sophie thoăn thoắt thu dọn những đồ nghề lỉnh kỉnh trong phòng. Tụng ngồi trên chiếc ghế khám bệnh của Sylvie thích thú nhìn nàng lăng xăng. Một thoáng hạnh phúc dậy lên trong lòng anh. Sophie mải miết với đủ thứ phải xếp dọn vẫn không quên thỉnh thoảng liếc nhìn Tụng mỉm cười. Nụ cười nàng trông thật no đủ. Tụng ngả người trên ghế hỏi:
- Em có cần kiếm job không? Bữa nào lại phòng anh tha hồ mà xếp dọn.
Sophie nghếch mặt:
- Anh trả em bao nhiêu tiền một giờ?
Tụng chỉ chiếc ghế dành cho bệnh nhân mặt nghiêm như một ông chủ đang mướn người:
- Cô ngồi xuống đó mình thương lượng.
Sylvie thích thú tham dự vào trò chơi mướn người dọn dẹp của Tụng. Nàng thả người xuống ghế:
- Xong rồi ông chủ.
Tụng kéo ghế vào sát bàn:
- Mắt cô có tốt không?
- Tôi không rõ.
- Cô kê cằm vào đây.
Sophie dựa cằm vào chiếc máy khám mắt, đôi mắt rộng mở cho đợi:
- Cô nhìn sang trái. Nhìn sang phải. Lên trên. Xuống dưới.
Mắt Sophie đảo quanh. Khuôn mặt làm bộ nghiêm trang cộng với bộ điệu cứng cỏi của ông bác sĩ dỏm làm nàng cố nén tiếng cười. Tụng vẫn nghiêm trang ra lệnh:
- Cô nhắm mắt lại.
Sophie khựng ngươi. Mục này không có trong sách vở. Nàng chỉnh:
- Khám mắt mà bắt nhắm mắt làm sao khám?
Tụng tỉnh bơ:
- Bác sĩ đang khám mi mắt!
Sophie tì mạnh cằm xuống ngăn tiếng cười. Nàng nhắm mắt thật chặt làm bắp thịt má kéo cong môi trên lên. Tụng chồm ngươi nhẹ nâng chiếc cằm xinh xắn khẽ đẩy ra khỏi miếng nhựa. Anh kéo chiếc máy qua một bên, run run đặt chiếc hôn lên đôi môi hé mở. Môi Sophie như một nụ hoa được mùa xuân đánh thức bằng những vạt nắng ấm áp nhoài lên dâng hiến. Môi Tụng ngậm kín một nụ hoa nhưng nghe như đẫm hương thơm của muôn hồng ngàn tía.
Dư vị nồng nàn còn lẩn khuất theo Tụng về đến nhà. Chiếc đèn đỏ nhỏ như hạt gạo trên máy trả lời điện thoại nhấp nháy dồn dập như một đứa trẻ lẻo mép đang có điều chi muốn mách. Anh ấn vào chiếc nút trắng. Tiếng mẹ anh vang lên như ngươi bị nghẹt mũi:
- Khi nào về anh gọi lại cho mẹ liền!
Thường thì mẹ Tụng hay gọi cho anh vào những ngày cuối tuần khi ông điện thoại Bell xả láng bớt sáu chục phần trăm. Từ Toronto cách chỗ Tụng ở tới sáu trăm cây số mà bà vẫn muốn kẹp cậu con trai út vào lòng bằng tiếng chuông điện thoại reng lên mỗi sáng chủ nhật khi Tụng còn đang ưỡn ẹo nướng người trên giường. Vậy mà hôm nay sao bà lại gấp gáp gọi cho anh. Chắc có chuyện gì quan trọng. Tụng chặt lưỡi mở tủ lạnh lấy chai la ve tu một hơi rồi mới ngả người trên sô pha quay số điện thoại của mẹ.
- Thưa mẹ! Con vừa về nghe mẹ nhắn trong máy. Có chuyện gì không mẹ? Mẹ vẫn khỏe chứ?
- Có chuyện không được khỏe mới vội gọi cho anh chứ. Mẹ nghe nói hồi này anh hay đi chơi với cô đầm nào đó phải không?
Chết cha rồi! Cứ lảng vảng tới mấy tiệm ăn Việt Nam làm gì chẳng gặp điệp viên của mẹ. Tụng quanh co:
- Ai nói với mẹ vậy?
- Quan trọng gì chuyện ai nói. Cái quan trọng là có đúng như vậy không?
Tụng ngập ngừng:
- Dạ đúng! Nhưng đó là một cô bạn thích tìm hiểu Việt Nam ấy mà. Mẹ để tâm làm chi.
- Không để tâm sao được! Anh giỡn với lửa mà! Coi chừng cháy cả anh lẫn mẹ đấy. Anh lớn rồi làm gì phải suy nghĩ hơn thiệt đàng hoàng. Đừng để cho mẹ khó ăn khó nói với gia đình con bé Hạnh. Anh có còn nhớ viết thư cho nó không?
- Dạ có.
- Mẹ nhắc chừng anh như vậy thôi. Anh mà để xảy ra chuyện gì chắc mẹ khó sống lắm đấy. Anh có thương mẹ thì nhớ lấy lời mẹ.
- Dạ. Lúc nào con cũng thương mẹ lo cho con. Chúc mẹ ngủ ngon!
Tụng thẩn thơ buông điện thoại. Lúc nào mẹ cũng như chiếc bảng stop ở ngã tư đường. Khi cần là dí vào mắt không thấy cũng không được. Từ ngày quen Sophie anh đã hầu như quên Hạnh. Anh là con người của cảm giác. Vui đâu chầu đấy. Mọi sự khác hạ hồi phân giải. Tấm hình anh chụp với Hạnh vẫn ở trên bàn ngủ của anh nhưng Hạnh bằng xương bằng thịt xa anh vời vợi. Năm ngoái anh đã theo mẹ về Việt Nam làm lễ đính hôn với cô hàng xóm thuở nhỏ. Mọi chuyện đều do mẹ anh xếp đặt nhưng chính anh, anh cũng đã bị Hạnh hớp hồn ngay từ lúc bước chân ra khỏi phi cảng. Hạnh như một thiếu nữ lịch lãm xa lạ nhưng Hạnh cũng là cô bé dễ thương ngày xưa khăng khăng một mực lớn lên sẽ lấy anh Tụng. Hồi đó hai bà mẹ hàng xóm mà thân cận như ruột thịt đã cười híp cả mắt nhìn nhau sung sướng. Ngày gia đình Tụng được bảo lãnh ra đi tình hàng xóm vẫn không dứt. Thư từ qua lại đều đặn lại thỉnh thoảng điểm thêm ít quà mẹ Tụng gửi về, rồi mỗi năm một lần tấm ảnh chụp gia đình Hạnh ngày tết gửi qua. Tuy xa mà Tụng vẫn thấy Hạnh lớn dần. Ngày ôm Hạnh trong lòng Tụng thấy tất cả cái kỳ diệu của thời gian. Nó dúi vào tay Tụng một Hạnh xuân sắc nhưng vẫn không xóa đi trong anh cô bé mươi tuổi áp sát ngực vào lưng anh cầu trời cho ngực mau lớn.
Sophie đến với anh như một cơn gió nhẹ mát lòng mát ruột. Anh nhắm mắt tận hưởng làn gió mát mà quên đi những hệ lụy với Hạnh. Cơn gió đó một buổi chiều đã bất thần mở cửa phòng anh. Tụng đứng sững trước khuôn mặt tươi rói của Sophie.
- Em muốn làm người nhà trời rớt xuống phòng anh hay sao mà đến không báo trước?
- Báo trước thì làm sao biết cái ổ chuột nó ra làm sao.
Tụng ghì chặt Sophie cươi ngất. Cô bé thật hóm! Có lần vui miệng Tụng đã khai cái tuổi con chuột của anh ra với Sophie. Nụ hôn chưa dứt Sophie đã đẩy Tụng ra lên giọng như một bà già sắc mắc:
- Trời ơi! Phòng anh giống như một tiệm bán đồ cũ. Chỗ nào cũng quần cũng áo, cũng giày cũng dép, lại còn sách vở, báo chí, túi dấy, túi nhựa dăng dăng ra. Anh trông vậy có được mắt không?
Tụng khật khừ:
- Không được mắt nhưng quen mắt rồi. Có sao đâu!
Sophie tát nhẹ lên má Tụng:
-Đã hư mà còn cãi tầm bậy!
Sophie chống nạnh làm bộ tạo ra dáng điệu đầy quyền uy đi qua đi lại săm soi xét nét vào cõi xô bồ của Tụng. Tụng ngồi khểnh trên ghế nệm nhìn Sophie loay hoay chẳng biết nên bắt đầu cuộc càn quét từ đâu. Chất nồng của la ve làm anh cảm thấy rõ hơn nỗi thích thú của ngươi được săn sóc. Làm thân con út được mẹ nuông chiều từ nhỏ anh đã quen thói làm nũng. Ra trường kiếm được việc làm ở Montreal xa mẹ năm giờ lái xe, anh như thấy mình lớn hẳn lên không cần tới bàn tay của mẹ nữa. Nhưng chất làm nũng đã ăn vào xương vào tủy nay được dịp bùng ra khiến Tụng ngồi lim dim hưởng thụ sự ân cần của Sophie. Anh nhắm mắt cho thân thể bềnh bồng sảng khoái. Chai la de trong tay anh đã nhẹ tênh. Anh đứng dậy đi tới tủ lạnh định lay chai khác. Đi qua cửa phòng ngủ anh thấy Sophie đang ngồi lặng câm trên giường nhìn chằm chặp vào tấm hình trên bàn ngủ. Tụng tái mặt. Anh lê nhẹ tới bên Sophie. Nàng như bị đóng đinh cứng ngắc trên giường. Tụng choàng tay qua vai Sophie. Nàng không rời mắt khỏi tấm hình, nói:
- Xin lỗi anh. Em không có ý tò mò. Định vào dọn phòng cho anh thì thấy tấm hình. Vợ anh phải không?
- Không.
- Có gì đâu mà anh phải chối.
- Anh đâu có chối. Đã cưới đâu mà gọi là vợ.
- Vậy là vợ chưa cưới?
Tụng ngồi im không nhận mà cũng không chối. Giọng Sophie gãy gọn như giọng quan tòa hỏi cung:
- Cô ấy có ở đây không?
- Không. Cô ấy hiện ở Việt Nam.
- Chừng nào cưới?
- Anh không biết. Cô ấy là hàng xóm với anh từ nhỏ. Anh đã làm giấy tờ bảo lãnh cho cô ấy qua.
- Chồng bảo lãnh vợ?
- Không. Vị hôn thê.
- Cô ấy trông đẹp và hiền đấy chứ.
Tụng ngồi ủ rũ như một tội nhân đang chờ tòa kêu án. Sophie cầm tay Tụng nói bằng giọng cố làm ra vẻ tự nhiên:
- Mừng cho anh. Chừng nào cưới đừng quên mời em nghe. Có một điều vì quí anh em mới dặn. Đừng bao giờ bỏ rơi người đàn bà đã tin và phó thác cuộc đời cho anh. Đừng bao giờ nghe anh! Em đã có kinh nghiệm về chuyện này. Anh không bao giờ hiểu được nỗi đau khổ và lòng thù hận của người đàn bà bị ruồng bỏ đâu. Thôi, em về!
Sophie đi như chạy ra cửa. Trước khi lên xe nàng kiễng chân áp sát ngươi hôn Tụng. Trên má!
3. Âm vang ngàn sóng
Tôi xăm xoi nhìn những bậc thang bằng đá quấn quít nhau chạy lên cao theo đường vòng trôn ốc. Mỗi bậc đá đều bị vẹt mòn ở giữa thành dáng một chiếc đáy thuyền. Chiếc đáy thuyền của thời gian tạo nên bởi những bước chân con người. Ngọn đèn bóng tròn đỏ quạch treo lủng lẳng trên tường hắt xuống một thứ ánh sáng bệnh hoạn thoi thóp. Tôi lặng nghĩ tới những khoảng thời gian dài gấp chục lần kiếp người. Phải bao nhiêu bàn chân, bao nhiêu đế giầy theo năm tháng mới bào mòn được những khối đá như vậy. Ánh đèn hắt hiu làm tôi chìm đắm trong cái tôi bọt bèo. Dòng người túa lên đẩy tôi leo cao. Tôi nhìn xuống bước chân mình chếnh choáng theo từng bậc đá lồi lõm. Đôi chân nuốt mấy trăm bậc thang mỏi nhừ mà chưa thấy quả chuông cổ kính nổi tiếng của Nhà Thờ Đức Bà đâu. Tôi bước ra ngoài hành lang đứng xếp hàng cho vào tháp chuông. Hàng người dài ngoằng phát nản. Tôi nhìn quanh. Khung cảnh nhắc nhở tôi những thước phim của mấy chục năm trước với thằng gù Quasimodo lê tấm thân tàn phế tới lui. Những bức tượng nứt nẻ ôm rong rêu đứng mấp mé trên những bờ tường đen đúa được bao phủ bằng lưới sắt cho khỏi ngã nhào xuống. Tôi nhoài người nhìn xuống dưới sâu thăm thẳm. Trước cửa nhà thờ tấp nập lui tới những hình người lúp xúp nhỏ bé.
Độ cao chỗ tôi đứng làm thốn chiếc bụng đã tiêu hết cặp bánh croissant với ly cà phê sữa điểm tâm buổi sáng. Tôi phóng tầm mắt ra phía xa. Một vạt cỏ xanh nho nhỏ bao quanh bức tượng cổ. Chiếc ghế đá trước bức tượng vẫn chỉ có một người ngồi. Dì của Tụng. Trông bà như một con búp bê lười biếng bất động trong manh áo nâu đậm, chiếc quần đen rộng rãi và chiếc khăn choàng sậm màu trải trên vai. Thời gian đối với bà như đứng lại. Không phải thứ thời gian ngắn ngủi của một ngày mà là thứ thời gian thênh thang của từng thập niên. Bãi cỏ nào cũng đưa bà về những dải xanh ngút ngàn của Đà lạt. Được ngồi trên bãi cỏ mặc cho thân xác bồng bềnh trôi về những ngày cũ là bà cảm thấy được sống. Tôi nhìn sang bên cạnh. Tụng cũng đang ơ hờ nhìn chiếc ghế đá chỏng chơ một người ngồi.
Vai tôi chạm vào vai Tụng. Tôi hích nhẹ, nói:
- Tao ít thấy có ngươi chung tình như bà dì mày.
Tụng lặng thinh một chập mới ừ hử theo:
- Ờ, ít có ngươi như bà ấy.
Một lúc sau, tôi vẫn nhìn về phía trước, tiếp:
- Thời gian đúng là một anh chàng bất lực chẳng lung lay gì được bà dì mày.
- Ờ, bà ấy sống chỉ một thời, sau đó chỉ là cái bóng kéo dài.
Cái bóng trước mắt tôi vẫn ngồi bất động. Như nhập thiền. Cuộc sống chung quanh chẳng có gì đáng bận tâm, chỉ có quá khứ vẫn tươi trong tim. Trời xám xịt mọng nước. Paris đang đi vào mùa đông. Tụng vẫn bảo tôi qua điện thoại là có sang chơi thì cố gắng sang vào mùa hè trời đất phởn phơ mới thấy hết vẻ đẹp của kinh thành ánh sáng. Vậy mà tôi lại vác xác sang vào lúc lập đông. Chẳng tính toán được gì trong cuộc sống tất bật này. Cái lạnh nhè nhẹ mơn man da thịt tôi. Cây cối đã bắt đầu thu mình lại co ro. Sông Seine như một con lạch nhỏ bên cạnh nhà thờ đã uể oải biếng nhác. Những cơn gió dật dờ bắt đầu làm khổ những chàng họa sĩ nghèo bày tranh trên những chiếc cầu nhỏ ghếch qua dòng nước chật hẹp.
Ngay lần đầu gặp bà dì của Tụng, bà đã bảo tôi:
- Cháu qua chơi vào lúc này thật hay. Mùa này Paris mới lộ hết vẻ buồn. Thấm lắm cháu ạ!
Tụng cười khẩy:
- Dì thật hay! Nó đi chơi để tìm vui mà dì lại bắt nó thấm buồn. Thật chán hết chỗ nói.
Cặp mắt bà dì lạnh lùng:
- Có anh nói mới hay! Cái vui thoáng qua lạt lẽo, cái buồn mới thâm thái đậm đà. Người ta nắm cái miên viễn chứ ai lại níu cái phù du. Phải không cậu Đồng?
Tôi ậm ừ cho qua chuyện:
- Dạ! Cái buồn thương là những vết khắc sâu trong tâm hồn con người.
Bà dì như tìm được tri kỷ:
- Đúng thế! Cậu nói như vậy nghe thuận tai biết mấy. Ông cháu tôi rõ ra là một thứ giếng cạn, lòng giếng phơi cả lên mặt.
Bộ mặt của Tụng như vừa bị sát ớt. Hắn nhìn qua tôi nhún vai hệt như một ông tây chính hiệu. Hai dì cháu có vẻ khắc khẩu. Nhưng cả cái thành phố nhộn nhịp này chỉ có hai dì cháu là ruột thịt nên chẳng rời được nhau.
Dì đã nuôi Tụng ăn học từ hồi còn ở Đà Lạt. Dì là người có khiếu buôn bán. Tay đặt tới đâu tiền vô tới đó. Thời lên nhất dì có một cửa hàng vàng khá lớn ở gần chợ. Khi cuộc chiến đã tàn dì nhìn thấy rõ con đường phải đi. Dì đã không do dự mang Tụng vượt biên. Lúc đầu hai dì cháu ở chung nhưng khi Tụng phải đi học xa, dì đã dọn vào sống trong một nhà dành cho người già. Trở về Paris làm việc, Tụng cũng thuê phòng riêng. Tuy không gần nhau, Tụng vẫn săn sóc dì từng ly từng chút. Dì hắn muốn gì là hắn chiều ngay. Thực ra dì cũng chẳng muốn gì nhiều. Mỗi cuối tuần tới đưa bà đi vãn cảnh là được rồi. Có điều cảnh phải là cảnh thiên nhiên khoảng khoát nên thường phải ra ngoại ô. Bà có thể ngồi hàng giờ mắt bất động trước thiên nhiên hồn thả về những ngày tháng cũ, pha nhiều tiếc nuối:
- Này cậu Đồng, chẳng có nơi nào bằng Đà Lạt của mình cậu nhỉ? Tôi yêu những gốc thông già tỏa ra cái mùi đặc biệt Đà Lạt, những cụm hoa ngàn sắc xôn xao, những con đường dốc trườn mình dưới bóng cây. Nhưng thích nhất là những thảm cỏ xanh rì khoảng khoát. Ngồi trên Thung Lũng Tình Yêu phóng tầm mắt lên những vạt mầu xanh thênh thang sao mà thấy yêu cuộc sống lạ lùng.
Dì ngồi lặng người như đang nuốt những miếng kỷ niệm êm ả. Tụng đặt một ngón tay lên miệng nháy mắt với tôi. Tôi giơ hai tay làm điệu bộ không hiểu hắn nói gì. Hắn chỉ tay vào dì nhếch mép lắc đầu cười. Dì chậm rải nói tiếp:
- Hồi đó vợ chồng dì thường hay lên ngồi trên Thung Lũng Tình Yêu. Dì dựa người vào gốc cây nghe chú đánh đàn. Chú có ngón tay tài hoa búng ra những âm thanh làm chết lòng ngươi. Tiếng đàn chất ngất xôn xao nhưng vẫn nghe ra như thủ thỉ riêng tư. Dì không thể diễn tả tiếng đàn của chú bằng lời được. Phải chi cháu được nghe một lần.
Dĩ nhiên tôi chẳng thể nghe được tiếng đàn vàng ngọc đó dù cây đàn vẫn còn nằm trước mắt tôi. Bàn thờ thật giản dị. Một bát nhang bằng đá đen, một khung hình gỗ mun lên nước bóng loáng, một gốc thông bonsai dáng cằn cỗi và một cây đàn kỷ niệm. Tôi chăm chú vào tấm hình người đã khuất mà như vẫn còn quanh quất bên dì. Ông chú của Tụng khá đẹp. Cái đẹp tròn trịa mềm mại. Khuôn mặt thanh tú nhẹ nhàng như một bức tượng của ông thợ nắn khéo tay. Đôi mắt nhiều lòng đen dịu dàng. Chiếc miệng như có thể cươi bất cứ lúc nào.
Dì đứng dậy lê dép tới bên tôi thầm thì:
- Chú người nho nhã hiền lành chẳng bao giờ hại tới con sâu cái kiến. Vậy mà trời không cho hưởng phúc. Dì chẳng dám nghĩ trời cao lại mượn tay thần chết để cưỡng đoạt cái tài của chú. Chú đi mà vẫn để lại tiếng đàn cho dì. Mỗi tối dì đứng thắp cho chú nén nhang, khi làn khói cuộn quanh cây đàn tai dì lại nghe văng vẳng những âm thanh mê muội một thời.
Cây đàn nằm ngửa bóng loáng không một chút bụi. Cần đàn vươn về phía khung hình. Những đầu dây quăn queo níu kéo. Tôi khẽ búng vào một sợi dây. Một nốt nhạc vang lên chính xác. Chút âm thanh xôn xao làm mặt dì nở ra ấm áp. Đôi mắt dì mềm oặt dán chặt vào đôi mắt trong hình. Giọng dì nhỏ nhẹ:
- Dì vừa xin phép chú để cháu đàn cho dì nghe. Đàn đi cháu. Dây đàn dì mới lên hồi hôm.
- Dì lên dây đàn?
- Ờ! Bao nhiêu năm nay dì vẫn lên dây đàn cho chú. Mà lạ lắm cháu ạ. Đêm nào thắp nhang mà dì không nghe thấy tiếng đàn là y như rằng dây đàn bị lỗi.
Ngọn đèn vàng cạch hắt chút ánh sáng mỏi mệt lên mặt dì. Mặt dì ngơ ngẩn xa xôi. Như không hẳn là đang ở thế giới này. Tôi nhìn xéo qua góc phòng. Tụng chôn mặt vào tờ báo mở rộng như bức tượng người ngồi lặng thinh. Không khí thiếu vắng sự sống làm ngươi tôi rờn rợn. Da thịt tôi rời rã bồn chồn. Người trong hình chưa hẳn đã bỏ cõi sống, người đứng bên tôi như đã đặt chân vào cõi chết. Bầu u minh vây chặt quanh tôi ngột ngạt.
Tôi cố trườn mình ra khỏi đám mây đen:
- Chắc hẳn dì và chú có một cuộc sống lứa đôi hạnh phúc lắm?
Mớ tóc bạc được vuốt gọn ra phía sau gật gù trước mắt tôi:
- No tròn hạnh phúc cháu ạ. Những tháng ngày đó như một kho tàng vô giá dì đã chắt chiu được để gậm nhắm sống dần từ ngày chú ra đi. Chú đi là đi đối với mọi người chứ đối với dì chú vẫn luôn luôn bên cạnh dì.
Sống lưng tôi nhột nhạt giá lạnh. Tôi mường tượng thấy ông chú của Tụng đứng chen chân giữa dì và tôi. Tôi vội cầm tay dì:
- Dì ra ghế ngồi kẻo mỏi chân.
Tờ báo vẫn che kín mặt Tụng. Tôi đá vào chân hắn:
- Ngồi xích vào một chút được không?
Tụng lầu bầu trong miệng nhấc người lê vào một bên ghế. Mũi hắn vẫn dính vào trang báo rộng mở. Tôi mở to mắt nhìn hắn. Tiếng bà dì nửa trách móc nửa mỉa mai:
- Mặc kệ cái thằng cám hấp đó cháu!
Mắt Tụng rời tờ báo quay sang liếc xéo dì hắn rồi thản nhiên đọc báo tiếp. Dì bĩu môi quay phắt người sang phía tôi. Tôi kéo dì ra khỏi cơn hờn giận:
- Thời của dì có những mối tình thật thơ mộng. Tình yêu, thế thôi, không cần gì khác. Tụi cháu bây giờ lúc nào cũng có cái máy tính ở trong đầu. Yêu nhau mà cứ lách ca lách cách với những con số. Lật bên này, lật bên kia cho vừa với cuộc sống phiền toái vây quanh.
- Thời này các cô các cậu toan tính đã đành, mà tình yêu cũng như chiếc áo của thiên thần đã bị lấm bùn. Lê lết trên mặt đất chứ chẳng cất cánh bay lên được.
Tôi đưa đẩy:
- Dạ, dì nói không sai chút nào. Bây giờ tụi cháu chú ý tới những cái có thể nắm được trong tay chứ không màng tới những thứ lơ lửng trên trời.
Dì chắc chẳng may khi vớ được ngươi hầu chuyện vừa ý như tôi nên bằng lòng ra mặt. Dì đon đả chỉ đĩa bánh đậu xanh trên bàn:
- Cháu ăn bánh đi. Có người mới đi Việt Nam về cho dì đấy. Bánh Hải Dương chính cống ngon lắm. Nói thiệt với cháu, ngon thì có ngon, nhưng sao vẫn chẳng được như thứ bánh dì vẫn ăn hồi nhỏ. Có lần tham ăn quá, sợ mất phần, dì vun cả đống bánh vô miệng mắc nghẹn xuýt chết!
Dì bưng miệng cười lớn tiếng, hai má đỏ nhừ, mắt đẫm nước. Dứt tiếng cười, dì lấy giấy chặm nước mắt, giọng vỡ ra:
- Nghĩ thấy hư thiệt. Cũng thế, dì thấy các cô các cậu bây giờ yêu nhau như muốn ham hố nuốt chửng nhau. Chẳng còn cái thanh tao của tiếng đàn câu ca. Dường như tình yêu đã di tản từ tim xuống bụng!
Dì cười ngặt nghẽo thú vị vì hình ảnh ngộ nghĩnh dì vừa vẽ ra. Tiếng cười của dì làm rơi tờ báo ra khỏi mặt Tụng. Mặt hắn nặng trình trịch.
Hắn nhoài người vớ chùm chìa khóa trên bàn bảo tôi:
- Thôi mình về cho dì đi nghỉ. Chuyện tình yêu thì nói tới bao giờ cho hết. Thời nào nó cũng loạng quạng như anh say rượu. Vá chỗ này, vấp chỗ kia, có khi quay mòng mòng chẳng biết đâu mà lường!
Mặt dì xám lại lạnh tanh khi chúng tôi cáo từ ra về.
Gió chạy ào ào tạt những hạt nước li ti châm chích mặt mũi tôi. Mũi tầu vẫn nhẩn nha trườn lên mặt nước lăn tăn gợn sóng. Tiếng cô hướng dẫn viên được khuếch đại trên chiếc loa gắn cao trên boong tầu nghe loáng thoáng khi được khi mất. Sông Seine ở khúc này trông mới ra dáng một dòng sông tuy chỉ là khúc sông tội nghiệp nằm co quắp giữa những tòa nhà búng ra cái mầu xám đen của thời gian. Cứ cách ít chục thước dòng sông lại bị đè xuống bởi những chiếc cầu vắt vẻo nằm ngang làm chiếc bateau mouche phải khổ sở nép mình chui qua. Tôi đứng trước mũi tầu lặng lẽ chiêm ngưỡng những cây cầu đặc biệt Paris. Những thành cầu chạm trổ trân mình với qua hai bên bờ, những cây đèn chỏng trơ ngắm trời, những pho tượng trăm năm đứng không biết mỏi. Tôi chui dưới những cặp tình nhân đang lặng lẽ ôm hôn nhau dựa người vào thành cầu, những dòng xe cộ từ tốn băng ngang sông, những du khách đang nhoài mình ra mắt dán vào chiếc máy chụp hình. Tôi ngột ngạt dưới những gầm cầu rêu phong ôm cả sức nặng thời gian đè trên người tôi nhỏ nhít.
Tụng bên cạnh tôi biến mất từ lúc nào tôi chẳng hay. Rời khỏi chiếc lan can tầu bằng sắt sơn đỏ, tôi chập choạng len giữa những thân người chong mắt tìm Tụng. Tầu lắc lư làm khó tôi dữ. Thấy một chồng phao xếp ngay ngắn vào một chiếc cột trên boong tầu, tôi dựa người vào ngắm Tụng đang lom khom chụp hình cho một cô bé có khuôn mặt mũm mĩm đứng dựa vào thành tầu. Đôi mắt ti hí một mí kia đánh chết cũng phải là một em Nhật Bổn hay Đại Hàn. Ánh chớp lóe lên soi sáng nụ cười phô ra hàm răng trắng bóng đều đặn. Tụng chưa kịp vươn ngươi đứng lên thì bàn tay trắng muốt từ xa đã giơ ra đè hắn xuống. Một ngón tay thon thon vẽ ra một khung vuông tưởng tượng chỉ về phía tháp Eiffel nằm ở phía sau. Tụng lại lom khom cục cựa chụp. Tầu cứ chạy, hắn cứ lom khom, khung cảnh ở phía sau cô bé cứ thay đổi. Cảnh nào cũng vừa ý cô bé. Chắc Tụng đã phải bấm nguyên một cuộn phim. Hắn giơ tay chỉ máy hình báo động hết phim. Cô bé cười nhận lại máy hình hì hục ngồi thay phim. Tôi lảng vảng phía trước cho Tụng nhìn thấy.
Hẳn là mặt tôi phải có chút uy nào đó mới khiến hắn vội vàng chạy lại bên tôi. Giọng tôi cố lấy vẻ thương hại:
- Có mỏi lưng lắm không?
Tụng nghênh mặt:
- Sư mày, định giở trò ghen tuông đấy hả?
Tôi cười xòa:
- Con bé trông kháu khỉnh đấy chứ. Sao không bỏ túi mang về trình diện bà dì mày? Mẹ kiếp, nhà mày vô phước mới sanh ra mày. Già đầu rồi mà không biết làm sao cho có vợ. Sắp hai thứ tóc trên đầu rồi đó con ạ!
Những lời xỉ vả của tôi như nước đổ đầu vịt. Chẳng ăn thua gì. Mặt Tụng trước sao sau vẫn vậy. Hắn lầm bầm:
- Không biết con nhỏ người gì?
Tôi cười khẩy:
- Mày ngắm nó chán chê mà không biết người gì à? Sao không đè nó ra hôn thì ngửi thấy mùi gì ngay chứ khó khăn chi. Đánh chết con nhỏ này không có mùi kim chi thì cũng có mùi sushi. Mà chắc gì mày có cái mũi tinh đời. Cứ chịu khó cất tiếng hỏi nó một câu xem nó có ăn thịt mày không?
Tụng bĩu môi nhìn tôi bằng con mắt khinh khi ra mặt:
- Mày tưởng mày hay lắm! Hỏi tiếng tây cũng lắc đầu, tiếng Anh cũng ngơ mặt ra. Chẳng biết một chữ nào cả. Chỉ nhe miệng cười. Khốn nỗi nụ cươi nó đẹp mới chết cha tao chứ. Hay là cứ ôm đại em bé về. Cầm bằng như lay một người vợ câm. Tình yêu cứ tay chân diễn tả cũng được.
Tôi làm bộ suy nghĩ:
- Vất vả nhỉ?
Tụng cũng đăm chiêu:
- Ừ, kể cũng vất vả đấy. Chưa chi đã thấy mỏi lưng. Hay là thôi quách đi cho rồi. Chỉ sợ em bé thất tình nhảy xuống sông Seine thì cực lương tâm tao lắm.
Tôi lên giọng mắng mỏ:
- Còn lâu mới có đứa vì mày mà chơi trò Lý Bạch mò trăng. Đừng có tưởng bở con ạ! Mày tưởng thân mày ngàn vàng lắm đấy hả? Mang vứt vào thùng rác chắc chẳng có ma nào thèm lượm. Mày có trần xì một bà dì ở xứ lạ quê ngươi mà coi bộ bà ấy cũng chẳng chịu nổi cái tính khật khùng của mày. Mà sao tao cũng không hiểu được mày. Bà ấy bảo bọc mày từ nhỏ, tốn tiền tốn của mang mày sang bên này rồi còn lo cho mày học hành nên người. Vậy mà mày nói năng với bà dì mày như gậy thọc bánh xe. Tao nghe mà thấy bất nhẫn. Sao vậy?
Mặt Tụng nhăn lại khó chịu, giọng hắn giấm dẳn:
- Mày là bạn tao hay là bố tao vậy?
Chơi với bạn lâu ngày biết tính bạn, tôi hiểu là Tụng đang giận. Hắn đã giận thì đừng nên chọc hắn. Tôi ngó lơ lên hai bên bờ sông. Thành phố đã lên đèn. Những ngọn đèn của kinh thành văn hóa này cũng có vẻ e dè nhỏ nhẹ. Từng vũng ánh sáng nằm co quắp như không muốn khuấy động bầu không khí cổ kính trang nghiêm. Tôi bắt được chất Paris mà tôi đã cảm thấy trong những bản nhạc một điệu lững thững mềm mại. Tôi thả hồn bềnh bồng theo những ngọn gió đêm đang khép nép thu mình lại muốn ngủ.
Tới một khúc sông rộng tàu quay mũi trở về bến. Tiếng hướng dẫn viên không còn oang oang trên loa phóng thanh. Con tàu lủi thủi quay về chốn cũ. Du khách đã rút gần hết vào trong khoang tàu có những hàng ghế đã chật kín ngươi. Những bộ mặt uể oải ơ thờ nhìn qua những bức tường kính trong vắt. Một hai người còn nán lại bên ngoài lặng lẽ kéo cao cổ áo đứng nhìn bâng quơ. Tụng rút bao thuốc chìa ra trước mặt tôi. Tia lửa nhảy lên trong bàn tay khum khum kéo hai cái đầu chụm xuống châm thuốc. Hơi thuốc như thấm vẻ tịch mịch trở nên đậm đà bất ngờ. Giọng Tụng nhừa nhựa trong màn đêm đang nhanh chóng buông xuống:
- Đôi lúc tao cảm thấy có lỗi với dì tao nhưng mỗi lần nghe dì nhắc tới chuyện xưa là tao thấy bực mình.
Tôi mở to mắt xoi bói xem cái đầu của tên này có chỗ nào lỏng mối hàn không, miệng tôi lên giọng:
- Sao khắt khe quá vậy? Mày thừa biết là người già thương sống với quá khứ. Dì mày có một mối tình bay bướm, bà ấy luôn luôn nghĩ về nó là chuyện dĩ nhiên. Chẳng lẽ mày táo bón ái tình rồi đâm ra ghen với dì mày à?
Tụng vung tay vứt mẫu thuốc lá xuống mặt nước gằn giọng:
- Mày biết đếch gì mà nói!
Tôi rít hơi thuốc chót, thong thả:
- Tao biết hai người có một mối tình thơ mộng, tao biết dì mày mê mẩn với tiếng đàn của ông chú mày, tao biết ông chú mày là một người nho nhã đáng yêu, tao biết dì mày vẫn còn sống với mối tình của đời bà, tao
biết dì mày...
Tụng nạt ngang:
- Mày câm cái miệng lại! Thế mà cũng đòi biết. Mày chỉ cần biết một điều: những gì dì tao nói ra là một bức màn mỏng che dấu những sự thật ở bên trong.
Chắc thằng này khật khùng thiệt. Dì nói không sai. Thoáng qua đầu tôi khuôn mặt thật thà hiền hậu của ngươi đàn bà đã quá tuổi làm dáng. Có chút mắc mấu gì đâu sau vầng trán xếp nếp được ủ dưới mái tóc đã chịu thua thời gian. Tiếng Tụng vẫn chưa hết tức tối:
- Chẳng thà dì tao cứ im lặng thì đã đi một lẽ. Đằng này cứ lúc nào cũng mang ông chú tài hoa ra, lúc nào cũng lôi mối tình thanh cao ra. Không phải chỉ nói với mày. Gặp bất cứ ai, thân sơ gì không cần biết, dì tao
cũng vẫn cái giọng như vậy. Tao nghe mãi phải bực mình chứ.
Tôi ngạc nhiên thực sự:
- Thì có gì đâu mà mày phải bực mình. Ai già mà chẳng vậy!
Tụng quắc mắt nhìn tôi:
- Nhưng đó là những điều tao muốn quên đi.
Đôi mắt Tụng bất động nhìn về phía trước. Dòng sông đã bị nhuộm đen phản chiếu những ánh đèn loáng thoáng khi ẩn khi hiện. Tiếng máy tàu xộc xệch rã rời. Tiếng Tụng cũng rời rã vô hồn:
- Khi người gọi là ông chú tao chết, lúc khâm liệm ngươi ta mới phát giác ra đó là một người đàn bà!
Tôi lặng ngươi nhìn xuống khoảng đen chấp chóa phía trước. Thân hình tôi như muốn đổ xuống dòng nước. Tụng như một bức tượng ngàn năm bên cạnh. Câm nín.
4. Khúc đoạn trường
Bốn chiếc chén vây quanh tô súp chua ngọt. Ba chiếc chén cái. Một chiếc chén đực. Chén đực là của Tịnh. Ba chén cái là của ba thế hệ bà, mẹ và tôi. Mỗi thế hệ chỉ có một chữ âm nghe cọc cạch lạnh lẽo. Người bồi bàn vén khéo chất súp nâu nâu rền rền vào từng chiếc chén đều nhau tăm tắp. Chiếc muỗng lớn lượn lên lượn xuống nghiêng chỗ này một chút ngả chỗ kia một chút. Như một cánh chim quảng giao rối rít thăm hỏi chung quanh. Khi cánh chim đã bay về nằm gọn trong lòng tô súp mới vơi đi phân nửa, người bồi bàn xòe bàn tay điệu nghệ kịch cỡm. Xin mời!
Tôi chia bốn chén súp nóng hổi cho bốn người. Mùi chua ngọt bay theo khói làm tôi nuốt nước miếng mới nói được:
- Mừng anh Tịnh có xe mới.
Tịnh luống cuống bất ngờ. Anh nhắp vội hớp la ve liếc mắt nhìn tôi trách móc. Tôi cố ý trêu chọc:
- Cảm tưởng của anh Tịnh khi lái xe mới ra sao hè?
Mặt Tịnh đỏ lên. Anh vốn ít nói. Gặp tôi hay bép xép nhiều lời. Trời cũng khéo se. Người nói cứ nói. Người im cứ im. Tôi làm tới:
- Nghĩ sao nói vậy đi người ơi!
Tịnh trừng mắt nhìn tôi. Tôi le lưỡi châm chọc. Tịnh cầm muỗng mời:
- Mời bà, mời bác. Súp này ăn nóng mới ngon.
Tôi đổ giận. Người tôi tròn lẳn mát rượi. Năm chục kí có dư chứ ít ỏi gì. Vậy mà Tịnh coi tôi chẳng có kí lô nào cả. Tôi dở bài lì:
- Anh Tịnh khinh em không thèm trả lời. Em chẳng thèm ăn!
Tịnh thở dài khó chịu:
- Em lắm chuyện quá. Ăn đi không nguội hết bây giờ!
Mùi súp bốc lên mũi vướng víu. Khổ cái đây là món tủ của tôi. Bụng tôi chới với thúc dục. Cứ ăn cái đã, chút nữa giận tiếp cũng chẳng sao. Mà can chi phải giận cho già người. Để tội anh chàng đó. Những muỗng súp thấm vào cổ họng tôi mê lịm. Tôi mê mải tới khi lòng chén phô ra lớp men trắng bóng. Tạm bằng lòng với cái bụng đã bắt đầu êm ả, tôi dở giọng:
- Bà ơi, bà có biết là anh Tịnh mua xe của một ông già gân hết xảy không?
Tịnh đá vào chân tôi lia lịa. Mắt anh nhìn tôi van lơn. Tôi giương đôi mắt làm bộ ngây thơ hết cỡ. Có gì mà ầm ĩ lên thế. Làm như trời đang dở chứng sập xuống ngay trước mặt không bằng. Người gì mà chẳng chịu khó chiều chuộng vợ sắp cưới chút nào cả. Tôi cứ phăng phăng tiến tới:
- Ông già chắc cỡ hơn bảy chục. Mặt mũi đã sụp hết cả. Da dẻ nhăn nheo tàn nhang đồi mồi dày đặc. Vậy mà ăn diện hết cỡ, bộ điệu thẳng thớm làm như còn thanh niên ngon lành lắm. Trên tường cạnh bàn làm việc ông treo đầy hình ảnh giấy tờ. Cháu tò mò nhìn tờ giấy có tiêu đề của báo Playgirl. Bà có biết báo Playgirl không?
Tôi ngước nhìn bà. Bà cười. Bà cưng tôi nên chuyện gì của tôi nói ra bà cũng thú vị hết. Bà say mê cái miệng tía lia của tôi từ hồi tôi còn nhỏ tới bây giờ tôi lớn xộn sắp có chồng bà cũng chưa vơi niềm đắm đuối. Nhưng nụ cười ngơ ngác của bà làm tôi biết bà chẳng hề nghe tới tên tờ báo quái quỉ này. Mẹ tôi nạt ngang:
- Cái con này! Bà già rồi làm sao bà biết được.
Mẹ tôi có độc nhất một mụn con nên chiều tôi hết cỡ. Tôi muốn nói gì thì nói chẳng bao giờ mẹ la. Miệng tôi trơn tuột:
- Thế thì chắc mẹ biết. Chỉ có bà không biết. Tội bà! Để cháu nói cho bà nghe.
Chân Tịnh hất chân tôi lia lịa. Chắc rồi đời đôi giầy tôi mới mua ưng ý bằng chết. Tôi lấy hết gân cốt đạp cho Tịnh một cái. Anh chàng hiểu ngay bức tối hậu thư của tôi kéo chân về im thin thít. Tôi nhìn bà:
- Báo Playgirl là báo in hình đàn ông con trai không mặc quần áo ấy mà bà.
Tịnh đỏ mặt nhìn tôi hậm hực. Mẹ tôi cúi xuống húp một muỗng súp để khỏi nhìn ai. Bà tôi bĩu môi:
- Rõ nỡm!
Phản ứng của bà tôi thật dễ chịu. Đó là công trình của tôi. Bà cháu tôi quấn quít nhau từ hồi tôi còn nhỏ nên chuyện gì tôi cũng hay thủ thỉ với bà. Tôi càng lớn thì bà tôi càng biết nhiều chuyện chung quanh. Hầu như chẳng có chuyện gì tôi không nói. Mẹ tôi bận đi làm lại còn nhận hàng về nhà làm thêm nên ngoài giờ tôi đi học chỉ có hai bà cháu ra vào với nhau. Bà tôi là người thông minh lại không hay chấp nhất nên rất dễ thông cảm với những chuyện kể của tôi. Mà tôi thì thoải mái hết sức. Nhiều khi tôi châm chọc bà như đối với bạn ở trường. Vậy mà bà chỉ cười độ lượng. Tôi cười với bà:
- Chuyện tức cười là ông già này chịu chơi hết cỡ. Theo như bức thư ông dán cho mọi người đọc thì ông có gửi hình cho báo Playgirl và họ trả lời là rất tiếc không thể đăng hình của ông được vì hình không được ban tuyển chọn gồm các bà các cô chấp thuận.
Mẹ tôi xen vào:
- Thế thì mắc cở chết chứ có gì đáng khoe đâu mà dán lên tường vậy. Bên này họ tức cười thiệt.
Bà tôi nói góp theo:
- Người bên này họ như vậy đó. Chẳng biết mắc cở là gì. Giá như bên mình muốn làm gì mà không xong thì dấu nhẹm đi chứ ai lại trưng bầy cho thiên hạ biết như vậy. Thật đúng là tây!
Cái thế giới của tây đối với bà là một thế giới lạ lẫm không hiểu nổi. Nó trái khoáy không giống mình. Bà tôi, mẹ tôi như người chỉ gửi cái xác bên này. Phần hồn của họ bay tuốt về ẩn nấp trong cái thế giới quen thuộc cũ tận nơi nảo nơi nao. Nơi đó đối với tôi thật lạ lùng.
Khi Tịnh hỏi cưới tôi, tôi nói với bà:
- Bà thấy anh Tịnh ra sao? Bà cho mấy điểm? Cháu ghét cái tính anh ay nhiều khi làm bộ kẻ cả coi thường cháu. Cháu trừ đi một điểm. Cháu không ưa cái bụng la ve thây lẩy chướng mắt. Cháu trừ đi một điểm nữa. Còn tám điểm. Cháu trừ thêm một điểm để đó lỡ cháu có tìm thêm được điều gì đáng ghét nữa thì khỏi phải mất công tính lại. Vậy còn bẩy điểm. Bẩy điểm cưới được không bà?
Bà nhìn tôi cười. Rõ ràng bà vẫn coi tôi như đứa con nít. Tôi hết tuổi teen rồi chứ bộ. Tịnh nhiều lúc cũng có nụ cười khinh mạn tôi như vậy. Tôi gây với Tịnh chứ làm sao gây được với bà. Chắc tôi mãi mãi là đứa cháu bé bỏng dễ thương của bà. Tắt nụ cười bà bảo tôi giọng như đùa cợt:
- Được. Bẩy điểm cũng khá rồi.
Tôi biết bà vẫn có cảm tình với Tịnh. Anh chàng lễ phép, ngọt ngào được lòng cả bà lẫn mẹ. Chắc bà thiên vị đứng về phe Tịnh rồi đây. Tôi đâu có chịu thua:
- Hồi xưa, khi ông ngoại hỏi cưới bà, bà cho ông mấy điểm?
Mặt bà chùng xuống. Chắc tôi nhắc tới ông ngoại làm bà nhớ. Bà cũng tình gớm! Chỉ thoáng một chút bà lại lấy giọng dịu dàng đùa cợt với tôi:
- Chẳng có điểm nào cả!
Tôi sửng sốt lớn giọng:
- Trời ơi! Sao không có điểm nào mà bà cũng chịu cưới?
Bà tôi chép miệng:
- Bà có thấy mặt ông đâu mà cho điểm!
Tôi ngẩn người ra. Không thấy mặt mà cưới. Tôi ôm lấy bà tỉ tê đòi bà kể chuyện bà lấy ông. Hóa ra bà nói thiệt. Bà chẳng hề thấy mặt ông trước khi cưới. Ông bà cố chọn con trai của bạn cho bà ở tận đâu đâu. Bảo bà thì bà dạ. Giọng bà nhỏ nhẹ:
- Thời đó cha mẹ bảo sao con cái phải vâng lời không được cãi. Cãi lại là bất hiếu. Ai cũng vậy thôi nên đó là chuyện thường chẳng có chi phải thắc mắc. Rồi cũng xong tất. Cũng con đàn cháu đống cả.
Tôi tròn mắt nhìn bà. Trước mắt tôi bà như một người xa lạ. Sao bà có thể chấp nhận một cuộc sống vô lý như vậy được nhỉ? Tôi thấy như không hề có liên hệ gì tới cái xã hội mà bà đã sống. Vậy mà tôi lại mang giòng máu của bà. Tôi được sản sinh ra từ những người có cuộc sống chồng vợ giản dị như vậy. Tôi quen Tịnh từ ba năm nay, tìm hiểu nhau phát mệt mà bây giờ còn phân vân trước lời hỏi cưới của Tịnh. Chắc bà thấy cô cháu rắc rối quá sức. Tôi đem chuyện bà ra kể với Tịnh thì Tịnh bảo đó là thời bà chứ bây giờ ai lại dễ dãi như vậy. Tôi đã mù tịt về đất nước mà bà thì lại chỉ kể những chuyện xưa rích xưa rang của bà. Thành ra Việt Nam đối với tôi như một vùng đất huyền thoại xa lạ.
Tôi rời xứ sở lúc bốn tuổi nên chỉ còn mấy trái soài trái cóc ngâm cùng với những thanh kẹo kéo thơm mùi va ni bám víu được vào cái trí nhớ cỏn con của tôi. Còn những thứ khác rơi tuột hết trơn theo chiều cao mỗi ngày mỗi nhích lên thêm. Mẹ tôi thường thuê những cuốn video quay cảnh thành phố Saigon, nơi tôi sinh trưởng, và bắt tôi ngồi coi với cả nhà. Bà và mẹ chỉ trỏ những con đường, những dãy phố, những tòa nhà quen thuộc bằng những ngón tay rối rít quýnh quáng, trong khi tôi chán ngay trước quang cảnh nhếch nhác lầy lụa trước mặt. Khuôn mặt Việt Nam của tôi dửng dưng trước cảnh vật đất nước. Tôi không cảm thấy chút ràng buộc nào với nơi chôn nhau cắt rốn của tôi. Đó chẳng phải là nơi tôi rời xa và cũng chẳng phải là nơi tôi muốn về.
Cả cuộc đời trường lớp của tôi là ở bên này. Tôi được dạy đối xử, suy nghĩ như một công dân của nơi tôi sinh sống. Tôi đồng hóa với chúng bạn, hòa tan vào những vui buồn chung quanh. Cái hình hài Việt Nam luôn luôn bị đẽo gọt cho vừa với cuộc sống có thật trước mắt tôi.
Ra khỏi nhà tôi là một dân bản xứ. Về với bà và mẹ tôi lại được dạy bảo như một người một chân đứng ở chốn này một chân dang rộng ra cả chục ngàn cây số. Nhiều lúc tôi chẳng biết tôi là ai. Nhà trường dạy khác, bà và mẹ tôi lại bảo khác. Mỗi bên là một chiếc cột bướng bỉnh vững chãi và tôi như một đoạn dây bất hạnh bị kéo căng ra ở giữa. Đấy là tôi nhiều lúc cũng đã phải tự hạn chế lời ăn tiếng nói của mình trước mặt bà và mẹ. Tuy nói ra thì cũng chỉ nhận vài câu mắng nhẹ nhàng cho có lệ nhưng không nói vẫn hơn. Chẳng hạn tôi đâu có mách bà và mẹ hết chuyện ông già bán xe đâu. Bữa đó nhìn ông già thấy tức cười quá tôi nổi máu đùa dai bảo Tịnh hỏi ông cho coi tấm hình ông gửi cho báo Playgirl. Tịnh ngồi im không nói không rằng, đôi mắt gườm gườm nhìn tôi như dọa dẫm làm tôi cụt hứng. Tôi ngậm miệng không thèm nói với Tịnh cho tới lúc Tịnh làm lành rủ tôi đi ăn kem.
Miệng tôi ít khi ngậm được lâu lắm. Tính tôi hay nói. Tiếng Việt tôi lại nói rất rành. Đó là công lao uốn nắn của bà tôi. Ngay từ nhỏ bà dã dạy tôi nói tiếng Việt và hai bà cháu suốt ngày chơi với nhau làm gì tôi nói không giỏi. Nhưng tuổi tác của bà cũng chỉ cho phép bà làm được tới vậy thôi. Cái miệng tôi chót chét nhưng trong bụng không có một chữ tiếng Việt. Muốn biết đọc và viết tôi phải đi theo học các lớp Việt ngữ. Đưa tôi đi học thì bà tôi chịu thua. Mẹ tối ngày ôm cái máy may nuôi tới ba thế hệ nên cũng dễ dàng bỏ qua luôn.
Nghe tôi nói tiếng Việt ai cũng tưởng tôi phải ôm một bụng chữ. Tịnh cũng nghĩ như vậy. Anh là người ham đọc sách báo Việt. Thấy tôi nói năng ngon lành tưởng gặp người đồng điệu. Đưa sách báo cho tôi về nhà đọc tôi cũng cầm. Chẳng lẽ lại tự khai là mù chữ! Vứt một đống ở nhà chán chê rồi mang trả. Tịnh hỏi thì tôi cứ ừ hử cho qua lúc. Được cái mặt mũi tôi tươi tắn dễ nhìn, mồm miệng lại tía lia duyên dáng nên hồn Tịnh lơ mơ ngơ ngẩn. Phải một thời gian dài cái bụng tôi mới bị phơi ra trống rỗng chẳng có một chữ nào. Lúc đó thì hồn Tịnh đã bị tôi hớp mất tiêu cần chi chữ với nghĩa.
Bà giao việc cho Tịnh:
- Này cậu Tịnh, cậu làm ơn dạy cho con nhỏ đọc sách tiếng Việt dùm tôi. Lớn sầm đầu mà chẳng biết gì tới quê hương xứ sở. Cái mặt thì Việt chay mà cái lòng thì toàn những thứ tây tà gì đâu!
Học tiếng Việt thì cũng được đi. Người ta bảo tới tuổi trưởng thành con người thường tìm về cội nguồn của mình. Nhưng để Tịnh dạy học thì còn khuya. Anh chàng lên mặt phải biết. Tịnh giỏi giang, hiền lành lại thêm được cái tính nhẫn nhục chiều chuộng tôi. Có phục Tịnh thì cũng phải thôi. Nhưng tôi vẫn cứ ngang ngạnh không chịu để Tịnh dạy tôi. Làm như tôi có cảm giác bị lép vế. Tôi đời nào chịu. Tôi giả lả một cách kẻ cả:
- Để em sanh cho anh Tịnh một đứa con gái cho anh dễ dạy nghe!
Bà như dẫm phải cục than hồng:
- Phỉ phui cái miệng con nhỏ này!
Bà kiêng. Con gái chưa chồng mà nói tới chuyện sanh đẻ là không hay. Tôi chẳng hiểu tại sao lại không hay. Bụng tôi nối thẳng với miệng nên nghĩ sao là nói ra vậy. Bà vẫn gắt yêu tôi là con gái vô ý vô tứ không chịu giữ gìn lời ăn tiếng nói. Bà bảo trên vai lúc nào cũng có quỉ thần chứng giám. Tôi nhìn qua vai tôi, chỉ thay trắng muốt nõn nà. Mùa hè tôi treo hai giải áo toòng teng trên hai vai trần làm Tịnh chết mê chết mệt. Chắc chẳng có quỉ thần nào dám đứng trên vai tôi đâu. Từ thế hệ bà qua thế hệ tôi chỗ của quỉ thần teo tắt chật chội hẳn lại. Dù sao có kiêng có lành. Bà nói thế. Nghe bà nói riết tôi cũng nhiều lúc phải lắng tai nghe ngóng qua thế giới bên kia.
Tôi có đôi tai giống bà. Vành tai nhỏ và mỏng hơi xếch vào phía trong. Tôi ngắm nhìn tấm hình chụp bà lúc còn trẻ. Bà vấn tóc khoe đôi tai có hai hột xoàn lóng lánh. Những sợi tóc mai mềm mại thả xuống bên cạnh đôi vành tai nhỏ nhắn. Khuôn mặt bà thanh thoát nhẹ nhàng. Bà ôm mẹ lúc đó mới được có mấy tháng nằm ló đôi mắt đen láy dưới chiếc mũ len bịt sát đầu ôm kín đôi tai. Hạnh phúc như một đám mây mỏng bao phủ hai mẹ con. Tấm hình đen trắng nằm trên bàn ngủ của bà làm mặt bà rạng rỡ mỗi khi nhìn vào kể chuyện đời xưa cho tôi nghe. Chuyện của bà chẳng phải chuyện vui. Ông ngoại tôi mất khi mẹ tôi chưa tròn năm. Trúng giờ. Tôi chẳng hiểu trúng giờ là sao nhưng có cảm tưởng ngày xưa người ta chết dễ dàng quá. Bà tôi trở thành góa bụa lúc vẫn còn ở tuổi teen. Miệng tôi nhanh nhẩu:
- Sao bà không lấy chồng khác?
Bà tôi đỏ mặt:
- Thời bà ai lại làm thế.
Thế ra cái xã hội bà sống đã ép bà sát sạt làm bà không dám nghĩ tới chuyện ghê gớm là lấy một người đàn ông khác. Gái chính chuyên chỉ có một chồng. Bà bảo vậy. Nhưng sao bà phải chính chuyên với cả người chết. Tôi nhìn lên tấm hình người đàn ông tốt số là ông ngoại tôi trên bàn thờ. Chiếc khăn đống và tấm áo dài đen làm ông già trước tuổi. Bà bảo ông là người tốt bụng và vui tính. Bà đưa cho tôi coi vài tấm hình đã vàng úa bà cất kỹ trong chiếc hộp bánh bằng sắt. Ông ngoại trông hiền từ và thông minh với mớ tóc chải rẽ ở giữa. Tôi cười với bà:
- Thời đó mà ông ngoại đã để tóc như thanh niên thời nay.
Bà cười buồn:
- Chắc thời đó với thời nay chỉ giống được có mái tóc.
Tôi ngửi thay vị lạ trong câu nói của bà. Tính tò mò bấm nút cho cái miệng luông tuồng chót chét của tôi:
- Mà trong bụng thực ra bà có muốn đi bước nữa không hả bà?
Bà đập nhẹ lên đầu tôi:
- Mẹ mày! Chỉ hỏi vớ vẩn.
Mẹ tôi cũng quấn khăn tang khi tôi mới chập chững biết đi. Cái chết của ba tôi xem ra có vẻ rõ ràng hơn. Ông tử trận. Đạn đâu có mắt. Nó chúi vào ai người đó chịu. Ba tôi người cao lớn giềnh giàng nên có lẽ là một nơi chốn tốt cho đạn tìm đến. Mẹ thì nói ba là một sĩ quan can trường tin tưởng vào việc mình làm. Ba đã hy sinh cho lý tưởng và nhiệm vụ của ba. Mẹ và ba có một mối tình đẹp từ thuở còn đi học. Yêu nhau rồi lấy nhau. Sống với nhau được vài năm cóc nhảy - ba thường đi hành quân vắng nhà - thì ba bỏ mẹ đi luôn. Mẹ vật vã cho cuộc đời lỡ dở nhưng cắn răng chịu đựng như một định mệnh oan khiên. Mẹ bình thản bảo tôi:
- Mẹ không nghĩ tới chuyện tái giá vì mẹ yêu ba. Đời mẹ chỉ có ba. Ba đi trước thì mẹ vẫn là của ba cho tới khi mẹ đi theo ba. Mà cũng nhờ có con an ủi cuộc sống của mẹ. Ba con đã hy sinh mạng sống, mẹ có hy sinh cuộc đời thì đâu có gì là ghê gớm lắm đâu.
Bà tôi sanh con gái rồi góa bụa. Mẹ tôi cũng vậy. Quỉ thần nhịp nhịp trên vai tôi. Tôi bất giác rùng mình. Lòng tôi tơi tả. Tôi rầu rầu nói với Tịnh:
- Chắc em không lấy Tịnh được đâu.
Tịnh tưởng tôi giận dỗi chuyện chi, ấp úng:
- Sao vậy?
Tôi ướt rượt giọng nói:
- Tại vì em yêu Tịnh.
Tịnh ôm kín tôi nhỏ nhẹ:
- Yêu anh thì phải lấy anh chứ!
Đầu tôi lắc nhẹ:
- Em sợ Tịnh chết.
Tịnh hoảng hốt:
- Sao lại sợ anh chết?
Tôi nuốt sâu giọt nước mắt sắp ứa ra:
- Bà lấy chồng sanh con gái rồi ông ngoại chết. Mẹ lấy ba sanh ra em rồi ba cũng chết. Em sợ lấy Tịnh sanh cho Tịnh một đứa con gái rồi Tịnh cũng chết.
Tịnh xiết chặt người tôi, day day cặp môi ấm áp lên má tôi:
- Rồi con gái mình lấy chồng sanh ra một bé gái rồi chồng cũng lăn ra chết. Em tưởng ông trời có một kiểu chơi cứ làm hoài sao? Đừng nghĩ vớ vẩn hại người.
Tôi có tin dị đoan không? Sao mà Tịnh tỉnh bơ như vậy? Dù sao tôi vẫn sợ. Quỉ thần đang giơ nanh giơ vuốt dọa tôi. Tôi yếu đuối nằm chết dí dưới sức mạnh vô hình. Người tôi rã rượi. Tôi ôm cánh tay Tịnh:
- Tịnh ơi, em sợ.
Người tôi nép sát vào Tịnh. Hơi ấm m của Tịnh thấm vào tôi. Tịnh rót vào tai tôi:
- Có gì đâu mà em sợ! Em đừng thèm sanh con gái cho anh nữa. Chúng mình sẽ sanh con trai đầu lòng là xong ngay chứ gì.
Giọng Tịnh vững chãi truyền vào người tôi một luồng sinh khí mới. Tôi thở phào nhẹ nhõm. Quỉ thần hãy xê ra khỏi đời tôi. Chưa gì mà tôi đã thấy thương đứa con trai đầu lòng quá đỗi.
5. Mặn bờ môi
Chẳng con vật nào có một cái đuôi dài đến như vậy. Đan đã mất gần hai tiếng đồng hồ để nhích từ đuôi lên đến đầu. Hàng người uốn éo theo hình chữ chi khởi đầu từ ngoài trời nắng chói chang. Cái nóng giữa hạ hừng hực bao quanh người rít rát. Những ống nước có lỗ nhỏ li ti phun những hạt nước mỏng như sương xuống đám người lúc nhúc bên dưới chẳng xua bớt được bao nhiêu nỗi khó chịu. Xàng xê theo những thanh gỗ làm hàng rào đan kín mít cả hơn nửa tiếng mới chui vào được trong nhà. Cũng vẫn con đường độc đạo quanh co bắt di chuyển theo hàng ngang. Đụng vách tường bên này đi theo kiểu con rùa qua vách tường bên kia. Vòng đi vòng lại, có hai cái vách tường cứ cụng tới cụng lui cả chục lần mới leo lên tới cửa. Hành lang hun hút lù mù tiếp sau đó cũng mất toi thời gian của chiếc kim chạy nửa vòng mặt đồng hồ.
Nhìn thấy được người hướng dẫn đứng ở cánh cửa bọc da màu nâu sậm Đan mừng hết lớn. Bên kia cửa là một bí mật thích thú. Vòng chơi "Back ToThe Future" là một món không thể thiếu được khi vào chơi Universal Studios. Người hướng dẫn hạ thấp sợi dây chắn ngang cửa, những người đứng ở đầu hàng nhanh nhẹn bước vô. Cửa đóng. Sợi dây căng lên cắt đứt những bước chân hùng hổ chen lấn. Cô hướng dẫn viên lách ra khỏi cửa giơ một ngón tay ngang mặt hỏi đám đông. Đan nhìn thấy những cái đầu ở phía trên lắc lắc nhộn nhạo. Đi chơi ai đi một mình. Đám thì dắt díu nhau cả gia đình già trẻ lớn bé, đám thì một lũ choai choai bè bạn, chí ít ra thì cũng một đôi vợ chồng trẻ hoặc một cặp tình nhân nhìn nhau nhiều hơn nhìn mọi người. Đan giơ cao tay. Chắc chỉ có mình anh cu ki. Anh vượt qua hàng người tiến lên phía trước theo bàn tay vẫy của cô gái.
Chiếc xe không mui trống hốc trống hác có hai hàng ghế. Trước bốn chỗ, sau bốn chỗ. Đan ngồi vào chỗ trống duy nhất bên thành xe. Căn phòng vuông vức nhỏ xíu lù mù nhem nhuốc. Chỉ thấy mấy cái đầu nhấp nhô. Đèn vụt tắt tối thui. Chiếc xe chuyển động. Bầu trời hiện ra trước mặt. Xe dốc đứng lao thẳng lên trời. Âm thanh chát chúa dồn dập kéo nhịp tim phát mệt. Xe lao vun vút với tốc độ kinh hồn trong không gian bao la đày đe dọa. Núi lửa. Quái vật. Đá tảng. Tất cả chụp xuống chiếc xe mui trần đang gầm rú luồn lách. Đan nghe thấy những tiếng hét thất thanh chung quanh. Người anh treo lên run sợ. Xe vùn vụt lao thẳng xuống dưới. Chân anh ngứa ngáy co quắp bấu víu. Người đàn bà bên cạnh đổ nhào sang anh. Vai anh đau nhói dưới những ngón tay xiết chặt. Tiếng la hét càng lúc càng dữ dội.
Thoáng trong đầu anh ý nghĩ chắc chết mất. Tai anh lùng bùng văng vẳng nghe thấy tiếng gọi tên anh. Anh định thần lại. Xe lao vào một đám mây mù tối tăm mặt mũi. Đan nhắm mắt. Anh Đan. Tiếng la đập vào tai trái anh. Anh vội quay đầu sang phía trái. Mái tóc dài đổ vào mặt anh. Mũi anh nghe được mùi thơm thoang thoảng nhẹ nhàng. Những sợi tóc vướng víu mỏng manh níu kéo. Anh nhắm mắt lại thừ người mặc cho chiếc xe hung hãn dằn vặt. Đã lâu lắm anh mới được chôn mặt trong một mái tóc ấm áp nồng nàn. Hồn anh như lơ lửng trên những đám mây hồng. Xe bềnh bồng trôi nổi đường về.
Đèn bật sáng. Anh ngơ ngác ngồi thẳng người. Ánh mắt tìm kiếm nhìn thẳng vào mắt anh. Khuôn mặt phác ra nụ cười tinh quái:
- Quên em rồi hả?
Bộ mặt ngây ngô của Đan làm Diễm muốn phát khóc. Anh quên em thật rồi sao? Thì người em có đẫy đà hơn, mặt mũi có già dặn hơn, cử chỉ có chững chạc hơn, ăn nói có chậm rãi hơn nhưng bộ em không còn là em nữa hay sao? Diễm của anh đây mà! Khuôn mặt trước mắt Đan sượng trân. Đôi gò má đỏ lên tức tối. Cặp mắt nặng trĩu thất vọng. Đan vỗ trán tới hai ba lần mà khuôn mặt người đàn bà trước mặt vẫn trốn khỏi ký ức. Bậy thật. Đầu óc đổ đốn từ ngày học tập về chẳng có cách gì liên hệ được khuôn mặt này với một cái tên. Đôi môi run run e dè nhắc nhở:
- Diễm đây mà, anh Đan!
Cái tên như một lằn chớp soi sáng đầu óc Đan. Diễm! Em đấy sao? Anh thật tệ quá. Nét Diễm thân thương ẩn nấp hững hờ trên khuôn mặt trước mắt mà sao anh không nhận ra. Ờ, mắt này đây, môi này đây, chất nồng nàn, nét thơ ngây, vẻ hờn dỗi, chút tình tứ ngày xưa đang gượng dậy trên mặt em đó. Anh nghẹn ngào cầm tay người xưa:
- Diễm!
Môi anh run run gượng gạo. Anh mừng muốn khóc. Anh định lôi cái mừng rỡ ra tỏ bầy nhưng miệng anh cứ giật giật không thốt nên lời. Đám đông đang vội vã túa ra cửa kéo theo hai người ra khỏi khu trò chơi.
Mãi tới khi có ly cà phê đặt trên chiếc bàn nhỏ dưới chiếc dù xanh vun gọn bóng mát trên hai người nơi một quán cà phê lộ thiên trong phim trường Đan mới lấy lại được bình tĩnh. Mắt anh thương yêu phủ xuống khuôn mặt vẫn giữ được mái tóc dài ngày xưa:
- Đáng lẽ anh phải nhận ra em ngay mới phải chứ. Em có giận anh không?
Diễm phì cười. Mừng muốn chết mà giận dữ cái gì! Đàn ông là một sinh vật đã hình thành ít thay đổi. Đàn bà là một sinh vật đang hình thành nên mỗi năm mỗi biến dạng. Thời gian chấm phá là một chuyện, con người cũng vọc tay vào là một chuyện khác. Diễm có nâng thêm một chút mũi, cắt chút mi mắt, xẻ chút cằm, Đan không nhìn ra liền cũng phải. Còn nàng, mặc kệ bóng tối, liếc ngang một cái cũng đủ bắt được khuôn mặt người xưa. Nụ cười chưa tắt được nối thêm bằng cái liếc mắt tình tứ:
- Ở đó mà giận!
Đan trước mắt Diễm như một giấc mơ có thật. Bao nhiêu năm xa cách ai ngờ bỗng chốc mà lại ngồi trước mặt nhau. Nàng đau đáu nhìn vào khuôn mặt chưa bao giờ mờ phai trong tim. Mắt Đan cũng gắn chặt vào mắt Diễm. Niềm vui bề bộn trong lòng không biết cách nào bày tỏ ra ngoài. Anh riu ríu nắm lấy tay Diễm đang ơ hờ nằm trên bàn. Anh bóp nhẹ thăm dò. Tay Diễm như một miếng thạch. Mềm và mát. Bàn tay này ngày xưa đã ngàn lần nằm ngoan trong tay anh. Nghĩ tới những tháng ngày tình tự anh bất giác bóp mạnh tay Diễm. Người anh đắm đuối trùng xuống. Một đời Diễm, một đời anh không bên nhau. Anh vuốt bàn tay nuột nà hỏi:
- Diễm có hạnh phúc không?
Mắt Diễm rũ xuống, gò môi chán chường:
- Nói chi tới chữ đó!
Đan muốn ôm Diễm vào lòng, vỗ về bờ lưng ẻo lả, xiết chặt vòng tay an ủi. Anh nắm hụt đời em để em cơ cực nổi trôi. Mặt Đan gục xuống bàn tay Diễm. Anh muốn nuốt tất cả oan trái vào lòng. Hương xưa còn thoang thoảng đâu đây. Đan tưởng chừng như vẫn ngày nào tay Diễm trong tay anh. Tiếng Diễm kéo anh ra khỏi bờ mộng:
- Xa anh, em làm sao có hạnh phúc!
Môi Diễm khẽ nhếch lên với nụ cười nhạt. Đan nghe như một lời trách móc. Anh lúng túng buông bàn tay Diễm. Ngày xưa anh cũng đã thập phần lúng túng khi Diễm ngỏ ý muốn bỏ nhà theo anh. Đời sinh viên thân mình chưa lo nổi lòng nào dám đèo bòng. Bỏ học phá ngang đi xây tổ ấm với Diễm chắc chắn anh chẳng thể nào mang lại cuộc sống mong ước cho người yêu. Anh không phải là người xốc vác, cũng không dễ gì lao vào một cuộc phiêu lưu. Anh yêu Diễm nên không muốn Diễm phải vất vả chật vật. Anh đã dối lòng bảo Diễm ráng đợi anh học xong. Nhưng Diễm đâu có cuộc đời của nàng. Đời nàng nép kín dưới chiếc bóng cao lớn của bà mẹ không bao giờ biết khoan nhượng. Bà muốn sao phải theo ý bà. Ý bà rất thực tế và giản dị. Có tiền thì gì mà chẳng có. Muốn hạnh phúc có hạnh phúc. Muốn sung sướng có sung sướng. Muốn làm ông hoàng bà chúa cũng được. Và bà đã chọn cho Diễm một thương gia. Tiền thì có. Nhiều tiền là khác. Nhưng phải cái hơi già, hơi quê mùa và khá vô duyên. Mẹ Diễm dễ dàng bỏ qua những điểm mà bà cho là lặt vặt đó. Và bà đẩy Diễm về nhà chồng. Diễm không dám cãi lời mẹ nhưng nàng đã lén lút tới cầu cứu Đan. Nàng tưởng sẽ có được một lối thoát nhưng không ngờ nàng chỉ tìm thấy một Đan ngờ nghệch vụng về.
Diễm thu hai tay về chống lên cằm nhìn thẳng vào Đan:
- Anh có biết hồi đó em đã định tự tử cho xong nợ không? Nhưng không phải tự tử một mình đâu mà rủ anh cùng tự tử cho có đôi. Chẳng ngờ anh chết nhát như vậy nên cũng chẳng thèm nói. Cắn răng về nhà chồng như một cách tự tử dần dần vậy.
Đan tránh ánh mắt soi bói của Diễm. Anh thở dài như muốn ném tất cả nỗi hối hận ra ngoài. Nếu hồi đó anh chững chạc hơn một chút chắc cuộc đời của hai người đã khác đi nhiều. Anh giận mình. Tuổi con chuột thì gan mật được bao lăm. Anh cúi mặt không dám nhìn Diễm:
- Em vẫn sống với Định?
Diễm quày quả đứng lên. Tay với ly nước ngọt uống vội một hớp Diễm dục:
- Mình đi chơi tiếp chứ. Vô đây ngồi hoài uổng thời giờ quá.
Những chiếc thang cuốn có mái che bằng kính nhìn thấu troi xanh nối tiếp nhau đưa du khách lên đồi. Đan nhìn lên phía trên. Đầu người lố nhố từ thấp lên cao như một vách kim tự tháp di động. Tiếng nói chuyện lao xao chung quanh anh. Ngôn ngữ nọ chồng lên ngôn ngữ kia. Niềm vui lộ liễu nằm trên từng khuôn mặt. Anh cũng có niềm vui riêng. Tay Diễm ngoan hiền trong tay anh. Như ngày xưa. Anh bóp nhẹ như muốn nặn ra những mật ngọt một thời tình nhân. Diễm nhìn anh cười. Nụ cười vẫn nguyên vẹn nét Diễm tình đầu. Bờ môi mỏng hé mở phô ra hàm răng trắng tăm tắp bóng ngời. Diễm bên anh có phải Diễm của anh không? Anh vẫn treo người với câu hỏi khi nãy chưa được Diễm trả lời.
Diễm dõi theo ánh mắt nhìn của Đan và bắt gặp một cặp tình nhân trẻ đang gắn chặt nụ hôn. Nụ hôn dài bằng vài chục bậc thang đang cuốn lên cao. Người con trai xục xạo trong khuôn mặt được mái tóc vàng ánh che kín. Như một bức màn canh giữ chốn riêng tư. Hết một đoạn thang cuốn họ cột chặt nhau bằng đôi tay bắt chéo vào bờ eo chậm chạp thả bước trên mặt phẳng gối đầu vào đoạn thang kế tiếp. Đôi môi lại bấu víu nhau cuốn lên cao. Diễm mỉm cười nhìn qua Đan. Ánh mắt Đan trả lại bằng nụ cười tinh quái. Mình hôn nhau lần đầu tiên hồi nào nhỉ? Diễm dò hỏi trong mắt Đan nhưng câu trả lời đã nằm sẵn trong đầu nàng. Nàng làm sao quên được buổi tối phong phanh một tấm áo bà ba lụa ngà nằm mượt mà trên chiếc quần sa tanh đen trơn ướt cầm chiếc tô đi mua cháo huyết ở đầu ngõ. Đan đã cố ý mà làm như vô tình gặp nàng nơi bóng tối dưới một tàn trứng cá rậm rạp. Anh đã ghì nàng vào gốc cây đặt lên đôi môi run rẩy của nàng nụ hôn vụng dại. Nàng như lịm chết rũ liệt đôi tay sém làm rớt chiếc tô xuống đất. Sau phút thất thần Diễm mới đẩy được Đan ra mắt láo liên nhìn quanh xem có ai bắt gặp không. Nàng bỏ chạy sau khi yếu ớt ném lại hai chữ ghét anh.
Hồi tưởng làm long lanh cặp mắt nghịch ngợm của Diễm. Nàng bấm ngón tay vào lòng bàn tay Đan. Đôi mắt anh ấp ủ khuôn mặt Diễm. Câu hỏi nằm trong đầu nàng. Có dám hôn em giữa thanh thiên bạch nhật như đôi tình nhân da trắng kia không? Đan cúi mặt trên đỉnh đầu Diễm. Hương tóc người yêu ru anh dìu dịu.
Đoàn tầu nhỏ gồm khoảng chục toa hai bên trống hốc đưa du khách đi vòng quanh phim trưong vừa chui qua cửa vào một sàn quay phim. Bóng tối mịt mù kéo người Đan sát vào bên Diễm. Nàng chong mắt nhìn chỉ thấy Đan mờ ảo bên cạnh. Một tiếng gầm vang làm nàng hoảng hốt ôm chặt Đan. Trong ánh sáng xanh đỏ ma quái chớp tắt lia lịa con đười ươi King Kong dềnh dàng đầu cao tới gần trần nhà bất thần nhảy ra ghé khuôn mặt nhăn nhở dữ dằn vào sát đoàn tầu. Hai tay lông lá dài như hai chiếc cần cẩu quơ quào như muốn móc từng người đang thất thần co rúm trong toa ra. Diễm chôn mặt vào cổ Đan. Tay Đan ghì chặt người Diễm chở che. Anh rúc mặt hòa nhịp thở dồn dập vào hơi thở đứt quãng của Diễm. Nàng bất thần vít mạnh đầu anh xuống. Hai bờ môi gắn chặt vào nhau. Đan cảm thay thân mình bềnh bồng trôi dạt về những nụ hôn ngày cũ. Miệng Diễm nóng bỏng lịm ngọt. Anh uống môi Diễm bây giờ mà chật kín môi Diễm thanh tân. Diễm rướn người tham lam. Nước mắt nàng trào ra. Em ôm anh như ôm một điều không có thật. Có anh trong tay mà đã nghe ra mất anh. Một đời em chỉ có anh ảo ảnh. Sao anh trốn em tội nghiệp? Có thật môi anh đây không? Diễm cắn mạnh vào môi Đan. Làm sao em giữ được anh? Nước mắt nàng ràn rụa lăn xuống bờ môi mặn chát.
Đôi cánh cửa gỗ nặng nề tự động mở nhả đoàn tầu ra ngoài ánh sáng chói chang. Diễm rời Đan. Mắt nàng nhắm lại. Môi vẫn tiếc môi. Đoàn tầu tiếp tục chạy qua những nơi chốn phơi bày bộ mặt thật của xảo thuật điện ảnh. Dòng sông tẽ ra làm hai rồi hòa nhập lại như cũ. Chiếc cầu đổ sập xuống lại ngóc lên gắn liền lại. Động đất long trời lở đất rồi đâu lại hoàn đó. Bão lụt đổ cây đổ cối rồi cây cối lại bình thản đứng lên. Diễm ôm cánh tay Đan nhỏ nhẹ:
- Cuộc đời mà cũng xóa đi làm lại được như vậy thì hạnh phúc biết mấy anh nhỉ?
Đan nâng cằm Diễm cười buồn:
- Em tôi ngây thơ quá! Sỏi đá bao giờ cũng sỏi đá em ạ.
Diễm sững sờ nhìn trân ra phía trước. Đời anh cũng sỏi đá lắm sao? Em tưởng chỉ có em truân chuyên hóa ra anh cũng thả giọng đắng cay chất ngất như vậy. Cực quá anh ơi!
*
* *
Diễm liếc thấy chiếc bình pha cà phê tự động trên bàn cạnh tủ lạnh, nàng rời ghế vừa đi vừa nói, giọng nàng ngã ra bể nát:
- Để em pha cà phê cho anh uống nghe. Đã có bao giờ em được pha cà phê cho anh đâu!
Đan ngồi nhìn đôi tay Diễm thoăn thoắt làm việc. Chưa bao giờ anh thấy Diễm gần gũi thân mật như bây giờ. Như một người vợ. Mà tại sao số anh không có được người vợ như Diễm. Anh nghĩ tới cuộc đời anh. Vợ nửa đường đứt gánh, con xa xôi ngàn dặm. Nếu ngày xưa anh lấy được Diễm chắc cuộc đời anh đã ngập tràn hạnh phúc. Mùi cà phê tỏa ra thơm lừng. Diễm trở lại ngồi cạnh anh. Anh nhìn như muốn nuốt chửng Diễm. Tại sao em không phải là vợ anh? Đan làm bộ như vô tình hỏi:
- Mẹ em bây giờ ra sao?
Diễm cảm thấy ngột ngạt khó thở. Em thừa biết anh đang nghĩ gì trong đầu rồi. Đâu có trách gì được anh. Giọng nàng buồn rầu:
- Anh còn giận mẹ em lắm hả?
Đan không biết trả lời sao. Anh nghĩ tới người đàn bà đã rẽ chia anh và Diễm. Anh còn như cảm thấy tê dại vì những ngọn roi từ tay bà quất lên người Diễm mỗi lần Diễm lén đi gặp anh. Nhà anh và nhà Diễm sát vách nhau. Thứ vách ván bào sơ mỏng dính chỉ dày hơn một phân nhám xì nhám xịt, bên này làm gì thì bên kia nghe thấy hết. Mỗi lần đánh Diễm bà lên giọng đe nẹt chì chiết chửi xéo gia đình anh. Được cái ba mẹ anh là người tốt nhịn nên hai bên hàng xóm vẫn sống yên lành. Anh chẳng bao giờ quên được ánh mắt vừa như thương hại vừa như trách móc của mẹ anh kín đáo nhìn anh. Mẹ anh thương Diễm nên cố nhịn nhục cho vui lòng đứa con trai út mà bà yêu mến. Càng thấy nỗi khổ tâm của mẹ anh càng căm giận mẹ Diễm. Chính mẹ Diễm đã mượn tiền của ông con rể tương lai mua một ngôi nhà khang trang cách xa khu xóm nghèo cũ. Liên lạc giữa anh và Diễm hầu như bị cắt đứt. Thỉnh thoảng Diễm mới tìm cách thoát ra khỏi nhà tới khóc lóc với Đan.
Ngày cưới Diễm Đan như người mất hồn. Người anh hụt hẫng khô khốc. Anh không muốn tin là anh đã hoàn toàn mất Diễm. Rồi làm sao Diễm sống được với người chồng không tình yêu. Anh thương Diễm vô vàn. Anh tự trách mình quá cẩn thận đến hèn yếu. Phải chi anh cứ trốn đi với Diễm rau cháo có nhau có phải hơn không. Anh tự dằn vặt chán rồi đâm ra oán trách mẹ Diễm. Người chi mà tâm địa rắn rết.
Mặt Đan sưng lên lầm lì cứng ngắc. Diễm lén nhìn anh thương cảm. Ừ thì cũng tại mẹ em nhưng chắc cũng tại số nữa anh ạ. Hai đứa mình chắc không có số vợ chồng. Đành chịu thôi chứ biết làm sao. Mà cũng ngoài hai mươi lăm năm rồi còn gì nữa. Diễm ôm cánh tay Đan nhỏ nhẹ:
- Mình gặp lại được nhau như thế này là quí lắm rồi. Chuyện đã qua cho qua luôn đi anh. Đàn ông phải quảng đại và khoan hồng nghe anh. Vả lại - giọng nàng ngằn ngặt trì xuống - mẹ em cũng đã mất rồi!
Mặt Đan không một chút xúc động. Anh vẫn thừ người bỏ hồn tận đâu đâu. Cuộc tình lỡ vướng víu đèn sách làm anh mất toi mấy năm học. Tờ giấy hoãn dịch vì lý do học vấn trở thành tấm giấy lộn. Anh khăn gói vào quân trường Thủ Đức. Ra trường anh trở thành lính tác chiến đưa đầu vào súng đạn tìm quên. Lỡ có nằm xuống cũng chẳng còn gì tiếc nuối. Đạn có thăm hỏi anh nhưng chúng toàn tìm những chỗ vô can mà chui vào. Chẳng có viên nào chiều anh chui dùm vào tim vào phổi cả.
Diễm bưng hai ly cà phê đặt trên chiếc bàn thấp trước ghế. Mùi cà phê ngạt ngào thơm khắp căn phòng nhỏ. Ánh đèn vàng quạch từ chiếc chụp đèn treo ở góc phòng nghiêng xuống thân mật. Diễm ngả người vào vai Đan châm chọc:
- Nhớ vợ hay sao mà ngồi thừ người ra như vậy?
Giọng Đan khinh khỉnh:
- Có vợ đâu mà nhớ.
Diễm nghiến răng bẹo cằm Đan:
- Nói dóc! Cái mặt dễ thương thế này mà không có vợ sao?
Đan phì cười:
- Mặt nào mà chẳng có vợ được. Nhưng kiếm được vợ như em mới khó.
Máu chạy rần rần lên má Diễm. Nàng ngả đầu lên ngực Đan, với tay nhéo vành tai anh:
- Khéo nịnh! Ngày xưa mà cũng lanh như vậy thì được vợ từ lâu rồi!
Đan ôm sát Diễm vào lòng. Anh kê miệng vào tai Diễm:
- Vậy mới lỡ dở cả đời. Vậy em mới thành vợ người ta. Diễm! Làm sao em sống được với người chồng mà em không yêu?
Đan vùi mặt vào mái tóc xổ tung của Diễm. Mũi anh xục xạo trong hương tóc người yêu. Chút hương cặn vẫn ngây ngất hồn anh. Diễm vẫn Diễm xưa. Anh vẫn xôn xao ngày cũ. Da thịt Diễm vẫn nồng nàn trinh nữ. Tay anh vẫn mang mang xuân thì. Anh chưa mất em phải không Diễm? Chúng mình vẫn tình nhân tươi mát mà! Mặt anh mê man kiếm mặt Diễm. Môi anh mặn nước mắt ràn rụa trên má nàng. Giọng Diễm héo hắt:
- Em trân mình sống cuộc sống không có thật. Chắc cũng như anh sống trong trại cải tạo vậy. Có điều từ khi qua đây cuộc sống của em rẽ qua một lối khác. Em thấy hình như em đã thoát vòng tù tội.
Diễm nhoài người lấy ly cà phê. Nàng nhấp một hớp rồi đưa cho Đan. Môi Diễm như còn trên vành ly. Đan nuốt cả vị cà phê lẫn vị Diễm nồng nàn. Đầu Diễm nằm ngoan trên ngực anh tỉ tê tâm sự:
- Định qua đây như trở thành một người khác. Ngơ ngơ ngẩn ngẩn chẳng thiết gì tới cuộc sống. Anh ấy tiếc cái gia tài một đời cày cục phải bỏ lại trong nước. Chừng nửa năm sau anh ấy đứt mạch máu. Không chết nhưng thành phế nhân. Đi thì chỉ lết bết dò dẫm trong nhà. Tính tình thì như con nít, khóc cười vô lối. Em trở thành góa phụ khi chồng chưa chết!
Đan lặng người xiết chặt bờ vai Diễm. Em tội nghiệp như con chim nhỏ gặp bão. Bờ vai ngờ nghệch ngày xưa anh thương đứt ruột làm sao có thể chống đỡ được từng ấy bt hạnh của cuộcời. Diễm thu người ấm áp trong tay anh như kiếm tìm chở che. Anh gục mặt vào mặt Diễm. Diễm ngước lên anh mắt đẫm lệ. Anh đọc trong mắt Diễm long lanh tình xưa. Xót xa tràn ngập trong anh. Anh nhẹ lăn ngón tay trên má Diễm nhạt nhòa. Tay anh rơi xuống đôi môi thơm mềm gọi mời. Diễm nhắm mắt thả mặc khuôn mặt đang được thương yêu ve vuốt. Anh lúc nào cũng gượng nhẹ ân cần trên môi em. Bờ môi nay níu kéo bờ môi xưa. Đan cúi xuống hôn nhẹ lên đôi môi chờ đón của Diễm. Nàng vùng lên níu cổ anh xuống khít khao. Đan ghì chặt Diễm. Hai xác thân quấn lấy nhau mê mải. Nước mắt Diễm ràn rụa. Em khổ lắm anh ơi! Đan như lạc mất mình. Lấy gì đếm được thương yêu đây!
Ngực Diễm nhấp nhô hổn hển. Đan cảm thấy ấm áp thân mật. Chiếc cổ áo trễ tràng phô ra gò ngực trắng đầy. Anh run run đặt bàn tay nóng hổi trên khuôn ngực mềm mại đang phập phồng rướn lên. Hơi thở Diễm hắt ra dồn dập. Em có còn là em nữa không đây? Đầu ngực Diễm nứt ra. Như nụ hoa đày ắp nhựa sống bừng bừng vươn vai đứng dậy. Tay Đan sững sờ dừng lại nghe ngóng. Em đang mặc khải hồn anh, Diễm ơi! Đầu óc Đan trống rỗng. Anh đang trên đỉnh an bình diễm tuyệt. Người anh trải ra bềnh bồng. Chiếc giường phẳng phiu trôi nổi trước mặt. Người Diễm mềm oặt trên tay Đan.
Đan nhẹ dìu Diễm tới bên giường. Môi vẫn quấn quít môi. Tay Đan vẫn mê đắm trên ngực Diễm. Người Diễm trải dài trên giừng phó mặc cho đôi tay Đan đang run rảy tỉa từng chiếc khuy áo. Đan áp mặt trên đôi núm nâu hồng tấy lên nóng bỏng. Thân hình Diễm như một đài thủy tiên nở rộ trắng muốt. Đan lạc thần ngồi sững như pho tượng có đôi mắt tinh anh. Diễm nhột nhạt nhẹ khép cặp đùi lại. Chỉ mình anh được ngắm thân hình em. Ngay chồng em cũng chẳng bao giờ được. Cũng gọi là còn chút nguyên vẹn cho người em yêu. Đan đờ đẫn phủ lên người Diễm. Ngàn sợi dây đàn rung lên trong anh.
Em một đời anh kiếm tìm đang xôn xao nức nở rúc rỉa anh. Diễm vỡ người xiết chặt lưng Đan. Đây mới là tân hôn đời em. Em thất thân với chồng trong đầu vẫn đầy hình ảnh anh. Anh đã được em tinh thần. Anh đang có em thể xác. Em tế lễ em cho anh. Hãy chìm sâu trong em trọn vẹn của anh. Diễm rùng mình ghì sát lưng Đan. Đan vỡ ra ngàn mảnh rã rời. Chẳng còn anh. Chẳng còn em. Chỉ còn nỗi tuyệt vời tình nhân.
Tiếng máy điều hòa không khí ầm ừ một khúc đơn điệu. Chiếc tủ lạnh nhỏ nơi góc phòng từng lúc rung lên như người sốt rét kinh niên. Diễm gối đầu lên cánh tay Đan mắt nhắm hờ bắt từng tiếng động chung quanh. Nhịp thở của Đan thân mật bên cạnh. Hạnh phúc kề sát bên nàng nhẹ như một hơi thở nhưng cũng sương khói như một cụm mây lãng đãng trôi. Có nhau lúc này nhưng nghe như đã vướng víu lúc xa nhau. Đan như chưa hết nỗi đam mê:
- Chúng mình nên vợ nên chồng từ hôm nay nghe em! Mai anh về, em đi với anh!
Diễm ngơ ngác nhìn Đan. Anh dụ dỗ em hay ra lệnh cho em vậy? Em vẫn ngoan như thuở nào nhưng làm sao em và anh dứt bỏ được tất cả hệ lụy để tìm về với nhau. Chắc chẳng được đâu, anh ạ! Diễm ném hòn đá dọ dẫm:
- Em về cho vợ anh xé xác thành trăm mảnh à?
Đan dính mắt lên trần nhà chậm rãi buông từng tiếng:
- Vợ anh bỏ anh rồi!
Diễm xoa bàn tay mướt dịu lên ngực Đan:
- Tội anh quá! Mà từ bao giờ vậy?
- Anh đâu có biết từ bao giờ! Khi anh đi tù về, vừa bước chân tới đầu ngõ thì bà hàng xóm kéo anh trở ra nói nhỏ là vợ anh đã ở với tên công an khu vực, anh vội bỏ đi tá túc nơi nhà bạn bè rồi gặp dịp là vượt biên liền. Anh bây giờ cu ki một mình, sống hay chết chắc cũng chẳng ai thèm biết đến.
Diễm hôn tới tấp lên môi Đan. Tội anh của em quá! Anh đâu có một mình trên đời này. Giọng Diễm dịu dàng:
- Anh còn có em đây chứ bộ!
Đan trút cả người lên thân Diễm ghì chặt như sợ Diễm có thể tan thành khói ngay tức khắc:
- Anh chỉ còn có em. Về với anh nghe Diễm!
Diễm ấm áp trong Đan. Đầu óc nàng mông lung bập bềnh những con nước cuồn cuộn trôi. Nàng lười biếng nhắm mắt buông thả. Đan mê man uống hương thơm trên cổ Diễm thủ thỉ:
- Chỉ có anh với em mới tạo được hạnh phúc cho nhau. Anh chắc chẳng thể nào sống không có em. Đi với anh nghe!
Diễm đắm mình trong cơn mộng dữ. Nàng như cánh diều đang phó mặc cho gió đẩy đưa. Dật dờ hướng sang đông. Ngả nghiêng tạt về đoài. Nàng buông tay cho định mệnh nổi trôi. Anh như bến đỗ một đời em tìm kiếm. Sợi tơ hồng nào anh tung ra thắt chặt đời em. Diễm nhẹ gật đầu. Đan mở hội trong lòng. Anh tung tăng bồng Diễm bước vào phòng tắm.
Diễm ngồi thẫn thờ giữa đám áo quần bề bộn đầy giường. Biết mang gì bỏ gì bây giờ? Chiếc túi du lịch bụng rỗng tuyếch vẫn mở miệng chờ đón. Cuộc hành trình như viên đá tảng đè nặng ngực nàng. Nỗi hân hoan có Đan như chưa khỏa lấp được nỗi ngại ngùng bỏ chồng bỏ con ra đi. Bên kia cánh cửa phòng khép kín tiếng hai đứa con đang kèn cựa nhau trong bếp. Lớn sầm đầu đi làm đi ăn rồi mà còn cãi vã nhau tối ngày. Hai chị em gái cách nhau năm một đụng vào việc thì như mặt trăng mặt trời nhưng rong chơi với nhau thì chị em trửng giỡn phải biết. Chúng thương mẹ vất vả một phần thì thương cha tật nguyền mười phần. Cơm bưng nước rót vỗ về an ủi như dỗ dành một đứa trẻ lên ba. Định lúc nào như cũng lạc hồn vào một cõi hỗn mang nào đó với những xúc động không ai hiểu nổi. Chợt cười đó rồi chợt khóc đó. Tiếng cười cũng vô nghĩa như tiếng khóc. Thoảng qua như gió, vội vã như một trận mưa rào.
Diễm nghe tiếng chân nặng nhọc của chồng lết ra phòng ăn. Hai đứa con bao giờ cũng chịu khó dỗ Định ăn uống trước khi ba mẹ con ngồi vào bàn ăn. Diễm chạy vạy nơi này nơi kia chẳng có giờ giấc. Những bữa cơm tối nhiều khi vắng nàng. Hai đứa con bao giờ cũng dành phần cho nàng cẩn thận.
Cuộc sống gia đình khập khiễng nhưng an lành. Có nàng hay không có nàng chắc cũng chẳng thay đổi bao nhiêu. Vậy mà lòng Diễm vẫn cứ như mớ bòng bong. Diễm phút này khác Diễm phút sau. Diễm ở lại tiếp nối Diễm ra đi. Rồi Diễm ra đi theo sau Diễm ở lại. Đống quần áo nằm bất động chung quanh một Diễm cũng bất động nhưng lòng dạ xôn xao nghiêng ngả. Nàng chỉ còn ít giờ nữa trong căn nhà này. Tảng sáng nàng sẽ lặng lẽ lách mình ra khỏi cửa dấn mình vào một cuộc sống khác. Nàng sẽ là một Diễm nồng nàn bên Đan nhưng cũng là một Diễm vỡ vụn dưới mắt hai đứa con.
Ngọn đèn ở đầu giường chong mắt suốt đêm cùng Diễm. Những thoáng ngủ chập chờn chật kín những mảnh vụn đời nàng. Cơ cực tiếp nối cơ cực. Ngằn ngặt một kiếp dở dang. Đầu óc Diễm rời rã quay cuồng như chiếc đèn kéo quân ngày nhỏ.
Tiếng chuông đồng hồ báo thức hốt hoảng kéo Diễm ra khỏi cơn mộng mị mệt mỏi. Diễm ngơ ngác như vừa trở về từ một thế giới khác. Nàng với tay ấn nút tắt chuông. Mênh mông một cõi tịch mịch quay cuồng. Diễm bỗng thấy căn phòng như một nhà tù. Chiếc giường như một xà lim bó chặt đời nàng không cựa quậy gì nổi. Nàng gục đầu xuống gối khóc vùi.
6. Ru tôi mộng lành
Một chút hồng lên má. Một chút thôi. Nhiều quá giống như mấy bà lên đồng thì quê lắm. Tôi mơn man những hạt phấn mịn màng lên gò má. Phấn lan ra cho da tôi tươi mát. Quay qua quay lại trước gương. Đều chưa? Tạm được. Mấy sợi lông măng cũng hồng lên. Hơi dài đấy nhé. Mấy con bạn dục tôi đi se lông mặt cho láng nhưng tôi ngại chưa đi. Se một lần là phải se hoài. Phiền lắm. Ngày làm tám tiếng, năm ngày một tuần, cách một tuần lại phải làm overtime nửa ngày sáng thứ bẩy, giờ giấc của tôi quá chật chội. Cuối tuần thì lại phải hò hẹn với Hoài. Mà hò hẹn thì biết thế nào là đủ.
Son đâu rồi? Tay tôi xào xáo chiếc hộp ngổn ngang đủ thứ đồ trang sức kéo ra cây son vàng chóe. Tôi chìa môi ra trước gương. Môi tôi hơi dày. Hoài nịnh bảo là giống môi tài tử xi nê. Phải vuốt đường chỉ son cho gọn đôi môi lại. Tay tôi run run kéo rê cục son. Miệng tôi chúm lại như một nụ hoa vừa hé nở. Hoài vẫn ví von môi tôi như một đóa hoa đậm đà thơm tho. Có điều là Hoài không nói hoa gì. Tôi thay đổi son như cơm bữa làm Hoài luống cuống đâu có biết mùi thơm của hoa nào mà nói. Mà bày vẽ chi anh ơi. Chẳng hoa nào bằng hoa môi tôi thơm mùi con gái.
Tiếng bà Hiền vọng lên nghe rõ mồn một:
- Tao không hiểu tại sao có người lại thích đi ăn tiệm được. Vừa đắt vừa mất vệ sinh. Ăn ở tiệm mười đồng thì nấu ở nhà chỉ một hai đồng. Kê cổ vào cho chúng chém. Chẳng cái dại nào bằng.
Bà Hậu phụ họa thêm:
- Còn lâu mấy tiệm ăn mới lấy được tiền của tôi. Người khôn cũng có khác chứ. Như ông chủ của tôi đó. Giầu nứt đố đổ vách mà có bao giờ thèm đi ăn tiệm đâu. Tội gì cho chúng ăn trên đầu trên cổ mình.
Lỗ tai tôi ngứa dữ dội. Hai bà chị quí hóa của tôi đang xa gần tấn công tôi. Lỗi tại mẹ tôi. Đã sanh ra hai bà sát nhau năm một, bà nào cũng chiếu kính lúp vào đồng tiền cho đồng tiền nó nở to hơn con mắt, vậy mà sáu năm sau còn buồn tình sanh ra tôi làm cho tôi cu ki đứng một mình một phe. Hồi mẹ còn sống tôi còn được mẹ thương tôi út ít đỡ đần cho ít câu. Giờ chỉ có ba chị em ở với nhau tôi trơ khấc với cái bóng của mình.
Tiếng hai bà chị tung hứng vẫn len lỏi qua cửa phòng tôi làm rày rà cái bụng tôi dữ. Phải lẹ tay lên rồi rút ra khỏi nhà cho rồi. Chiếc khăn quàng một mặt màu rượu chát một mặt màu xanh xậm đâu rồi. Cứ lúc vội là cái gì mình cần đều biến mất. Tay tôi lanh lẹ lật lật những chiếc mắc áo nằm xúm xít trong tủ. Rõ ràng tôi đã lồng vào một cái mắc áo nào đó mà sao không thấy. Lúc nào rảnh phải sắp xếp lại tủ áo cho ngăn nắp mới được. Định trong bụng đã lâu mà có lúc nào rảnh đâu. Mẹ ơi, mày nằm ở đây hả? Làm tao tìm muốn chết. Quấn chiếc khăn quanh cổ tôi lại góc phòng soi mình trong gương. Được chưa? Tôi cười nháp một cái để chút nữa thả điệu với Hoài. Chiếc răng khểnh e ấp làm tôi hài lòng dữ. Chụp chiếc mũ màu rượu chát hợp với chiếc khăn quàng lên đầu, tôi kéo vài sợi tóc phủ trước trán làm duyên. Trán tôi hơi cao. Hoài bảo cái trán này không hiền đâu đấy nhé. Xấu xa thì đậy lại, tôi kéo chiếc mũ xuống thấp chút nữa. Tay tôi quơ chiếc áo choàng lạnh màu xanh đậm khoác lên người. Đi lẹ cho rồi kẻo Hoài đợi. Anh chàng dám hóa thành đá ở ngoài phòng khách rồi lắm. Tôi xoay một vòng trước gương. Cười thêm một cái cho chắc ăn trước khi mở cửa ra phòng khách.
Hoài đứng bật dậy như một chiếc lò so hạng tốt. Tôi cười:
- Chờ em lâu không?
Hoài vơ vội chiếc áo lạnh vắt bên thành ghế:
- Đâu có lâu gì. Mới đọc hết tờ báo, đang định đọc qua các quảng cáo thì em ra.
Tôi thấy miệng Hoài như cái móc câu. Tờ báo hàng tuần dày hai trăm trang khổ lớn chữ nhỏ chứ ít ỏi gì! Tôi muốn nhéo anh chàng thợ móc này một cái cho đã tức. Ngặt cái là chiếc áo lạnh Hoài mới khoác vào vừa dày vừa cứng. Tôi hích ngang người Hoài. Chẳng nhằm nhò gì. Hoài vững như chiếc cột đình biết nói:
- Em định diễn tuồng trứng chọi đá hả?
Cái trứng toét miệng cười hòa, cúi xuống tra chân vào đôi bốt.
Tuyết trắng xóa trời đat. Tôi vốn thích tuyết từ ngày còn ở Việt Nam. Tuyết trên màn ảnh. Tuyết trong sách. Tuyết trên các tấm thiệp Giáng Sinh. Sang đây đã qua mấy mùa tuyết mà tôi vẫn chưa chán. Mỗi lần tuyết rơi trẻ con vui mừng tôi cũng mừng theo. Tuyết rơi muôn mặt. Mặt nào tôi cũng ưa. Tuyết bụi lất phất nằm trắng vai áo, tuyết ướt bay nhọc nhằn lưng trời chân vừa chấm đất đã ứa thành nước, tuyết mảnh mai xàng xê nghịch ngợm không chịu nằm xuống, tuyết vẩy lớn hùng hổ đâm xuống ngổn ngang đất troi. Tuyết đang rơi xuống tôi là thứ tuyết ào ạt như có ai ngồi trên cao thả từng vốc cánh cúc trắng xuống. Tôi ngẩng mặt há miệng đón những cánh tuyết lạnh ngắt. Tuyết trắng trong tan trên lưỡi tôi ngọt lịm. Tôi nhắm mắt tận hưởng. Lời mẹ dặn trước ngày xuôi tay văng vẳng trong tôi. Rồi con sẽ thấy đời có nhiều cạm bẫy, làm thân con gái quí nhất là giữ được trong trắng, trong trắng từ thể xác tới tâm hồn. Tuyết nhởn nhơ lượn lờ quanh tôi bát ngát trắng như tôi trắng trong.
Hoài theo tuyết ngậm kín môi tôi. Tôi đẩy Hoài ra cúi xuống nắm một vốc tuyết ném thẳng vào lưng anh. Tuyết bung ra bám đầy người Hoài. Anh lượm một nắm tuyết nặng trình trịch giang tay dọa ném qua tôi. Tôi giơ tay lên trời đầu hàng. Nắm tuyết trên tay Hoài tiến dần đến tôi. Hoài buông tuyết ôm chầm lấy tôi vội vã, khóa miệng tôi bằng cái hôn tham lam kín mít. Tôi ngẩng mặt lên đón nụ hôn nóng bỏng. Tuyết sà xuống châm chích mặt tôi buốt lạnh. Tôi đưa tôi bay bổng lên cao. Hạnh phúc như một luồng nước ấm len lỏi trong tôi. Cánh tay rắn chắc của hạnh phúc ôm xiết tôi ngột ngạt. Cái bóng cao lớn của Hoài vững chắc chở che cho tôi. Tôi an tâm co rút tìm hơi ấm trong anh. Hoài là một người yêu biết điều. Anh chẳng bao giờ đòi hỏi những điều mà anh biết tôi chẳng thể chiều chuộng anh được. Lời mẹ dậy lúc nào cũng lao xao nhắc nhở trong tôi thân phận con gái. Hoài không đẩy tôi lên cao, không đè tôi sát sạt, mà đặt tôi thân tình trong vòng ôm ân cần.
Hoài đưa lưng đẩy cánh cửa vào trạm métro bị gió chặn cứng ngắc cho tôi luồn vào trước. Chiếc thang cuốn dài thậm thượt nhìn xuống bắt chóng mặt. Tôi dựa sát vào Hoài mặc cho chiếc thang lục cục đưa xuống hầm. Tiếng động cơ ầm ầm đuổi nhau trong đưong hầm đen ngòm hun hút. Đoàn xe như một con trăn no mồi uể oải ngừng lại. Những cánh cửa lao chao bật mở cùng lúc nhả ra từng đoàn người vội vàng hấp tấp rồi táp vào những thân người chen chúc nhau dồn cục thành một tảng mồi khó nuốt.
Hoài nhanh chân chiếm được một ghế hai chỗ. Tôi khoan thai chờ cho Hoài nhấc chiếc túi xí chỗ của anh lên rồi mới ghé ngồi xuống. Con gái lúc nào cũng phải từ tốn dịu dàng. Tôi kẹp lời mẹ dậy trong tâm để điệu nghệ dù sống trong một xã hội thích cánh nhau mà chạy. Chiếc máy sưởi tròn to như một đĩa thu tín hiệu vệ tinh gắn trên trần toa xe hối hả thổi hơi nóng xuống ào ạt. Tôi mở mũ, tháo khăn choàng ra cho bớt nóng. Tay tôi vướng víu những thân người vây quanh. Hoài lăng xăng giúp tôi. Anh lúc nào cũng chu đáo. Bụng tôi nở ra thích thú mỗi khi được chiều chuộng. Làm thân con gái thiệt thòi đủ chuyện cũng phải có lúc được đền bù chút chút chứ. Hoài ôm chiếc khăn choàng và chiếc mũ dạ của tôi trên người. Chắc bụng anh đang mừng dữ. Kể công nuông chiều tôi cũng xứng đáng cho anh được lô trúng an ủi như vậy. Tôi nhìn ngang xem bản mặt một anh chàng đang cảm thấy hạnh phúc nó ra sao. Hoài thả tay ra sau ôm kín vai tôi hỏi:
- Công nương đã cảm thấy dễ chịu chưa?
Quen nhau đã vài năm, Hoài như chiếc hàn thử biểu trên người tôi. Lạnh tôi kêu. Nóng tôi than. Hiếm khi tôi bằng lòng với thời tiết của cái xứ sở này. Mà cái mảnh đất leo tuốt lên gần tới Bắc Cực này quá đỏng đảnh khó chịu đi. Lạnh thì lạnh cóng. Nóng thì như thiêu như đốt. Chịu chi nổi. May mà có những trận tuyết đổ tôi thích muốn chết. Nghĩ tới tuyết tôi mỉm cười vu vơ. Hoài bắt lấy nụ cười của tôi:
- Công nương vừa ý rồi phải không?
Khi muốn châm chọc, Hoài kêu tôi bằng công nương vì anh bảo tôi khó tính như con vua cháu chúa. Tôi ghét cái giọng nói sặc mùi sân khấu khi anh phát âm chữ công nương nhưng trong bụng vẫn thấy thú vị khi anh đảy tôi nhập vào hoàng phái. Hoài nheo mắt bỏ nhỏ vào tai tôi:
- Hôm nay công nương muốn kê cổ vào cái máy chém nào đây?
Mấy ngón tay tôi cong vòng lên gân guốc như chiếc càng cua sẵn sàng xáp chiến. Quần áo kín mít thế này thì biết nhéo vào đâu. Tôi điểm khắp người Hoài. Chỉ có cái tai đang hớ hênh trước mắt tôi khả dĩ có thể là một mục tiêu ngon lành. Chiếc càng cua sà xuống. Tôi mím môi nghiến răng phụ họa cho thêm phần rùng rợn. Trình diễn cho xôm trò vậy chứ tôi nỡ lòng nào mà bóp nát vành tai trang điểm cho khuôn mặt dễ ghét của Hoài. Mấy ngón tay tôi kẹp nhẹ hều nhưng miệng mồm tôi rít rạt:
- Cho anh chừa cái tội nghe lén chuyện của hai bà chị tôi. Lần này cảnh cáo nhè nhẹ thôi, lần sau cắt tai luôn cho khỏi nghe.
Hoài nhăn mặt cười:
- Có bỏ tay ra không anh la lên thì cả trăm cặp mắt sẽ đổ dồn vào chiêm ngưỡng cái mặt của bà la sát bây giờ.
Bà la sát đời nào muốn chường mặt ra giữa công chúng. Tôi len lén rút tay về. Trận chiến như que diêm vụt bùng lên rồi vụt tàn lụi. Cái mặt nhởn nhơ đắc thắng của Hoài trông chỉ muốn nhéo cho cái nữa. Tôi quày quả quay mặt đi. Hoài kéo cằm tôi trở lại:
- Để anh nói cho em nghe. Hai bà chị em nói oang oang cốt cho anh nghe thì làm sao lời nói dừng lại ở ngoài tai anh được. Mà thây kệ mấy bà ấy muốn nói gì thì nói. Đường ta ta cứ đi.
Tôi thừ người sau câu nói của Hoài. Chẳng biết nên giận hay nên thương hai bà chị nhiều lời. Tôi hiểu hai chị tôi. Cố gắng tiện tặn nhưng hơi quá đà nên mang tiếng. Không ăn tiêu, không vui chơi, rat kỵ những chuyện phải nặn đồng tiền ra khỏi túi, hai bà phe lờ tất cả các đám cưới và các đám hội họp kỵ giỗ. Không mặn nồng với thiên hạ thì thiên hạ cũng coi hai bà như không có mặt trong cuộc sống của họ. Mặc cảm lẻ loi dễ làm hai chị tôi ghen tức. Tôi ở ngay trong nhà nên lãnh đủ. Hoài ngày một ngày hai tới với tôi, làm như mỗi ngày không nhìn thấy cái mặt tôi anh thiếu hụt đi một ngày sống. Sự săn đón lăng xăng làm chướng mắt các chị tôi. Hai bà không ưa nhưng chẳng nói ra được. Cái ấm ức không có lối đi thẳng bèn rẽ ngang. Hai bà nói cạnh nói khóe. Làm như trò chuyện với nhau nhưng đua nhau phóng những mũi tên nhọn hoắt vào Hoài và tôi. Khó chịu thì quả có khó chịu nhưng Hoài vốn tính tình dễ dãi nên anh chẳng thèm để bụng. Còn tôi, tôi thấy thương hai bà chị tôi.
Ba chị em chúng tôi được anh Tín bảo lãnh qua sau khi mẹ mất. Anh Tín là anh đầu, được học bổng đi du học ngay sau khi đậu Tú Tài. Học xong anh trốn ở lại và cưới chị Micheline. Bữa ba chị em chúng tôi đặt chân xuống phi trường, hai vợ chồng ôm hoa ra đón rất thân tình. Chúng tôi mừng mừng tủi tủi tái ngộ với người anh đã nhiều năm xa cách. Chị Micheline ôm hôn từng đứa, dịu dàng thăm hỏi như đã từ lâu thân thiết. Xuống máy bay rồi mà hồn tôi vẫn lơ lửng trên trời. Niềm vui trong tôi rạng rỡ trước những ân cần của anh chị. Tôi ôm hôn chị Micheline cảm thấy như chị là một phần tử trong gia đình đã từ lâu lắm rồi. Mái tóc lúa chín, cặp mắt biển cả, đôi má ngà ngọc, hàng mi liễu rủ, bờ môi mộng mị tưởng là xa lạ bỗng thấy gần gũi gang tấc. Những ngày đầu nơi xứ người chúng tôi được chị Micheline lái xe đưa đi làm giấy to, mua sắm, chợ búa, ăn uống. Mỗi nơi mỗi chỗ chị chỉ vẽ cặn kẽ tỉ mỉ như một cô giáo tận tâm dẫn đám học trò đi thực tập. Mỗi ngày chúng tôi bớt ngơ ngác đi một chút. Mươi ngày trôi qua, một buổi tối, cơm nước xong xuôi, anh chị Tín kêu chúng tôi ra phòng khách nhỏ nhẹ nói về lối sống tự lập bên này. Mỗi người phải tự lo cho mình, không ai nuôi ai, không ai làm phiền ai, không ai nhờ vả ai. Câu kết luận của chị Micheline làm tôi sững sờ. Anh chị lo cho các em như vậy là đã xong phần của anh chị, ngày mai chị sẽ dẫn các em đi kiếm việc làm rồi sau đó các em sẽ thuê nhà ở riêng. Chị Hiền chị Hậu mặt tái mét giận dữ. Tôi cúi gằm mặt xuống cố nuốt ngược những giọt nước mắt. Mặt anh Tín, mặt chị Micheline trôi nổi trước cặp mắt thẫn thờ của tôi. Tôi bỗng rùng mình. Trước mắt tôi thăm thẳm con đường vô định.
Ba chị em được chị Micheline nhét vào một xưởng may với đồng lương tối thiểu. Chúng tôi đi về như những chiếc bóng câm nín buồn bã. Ngôi nhà sang trọng trống rỗng như một nhà mồ. Mỗi người một thế giới. Mỗi cái đầu một bận rộn riêng. Chúng tôi như những mảnh vụn rã rời. Anh Tín, chị Micheline có cái thản nhiên riêng của những người coi mình như đã cư xử sòng phẳng. Ba chị em tôi đắng ngắt như bị tình phụ. Ngày cầm được tấm chi phiếu tiền lương đầu tiên, ba chị em quyết định thuê nhà. Khi rời khỏi nhà anh chị Tín, chị Hiền chị Hậu thề sẽ mua nhà cho anh chị biết mặt. Căn nhà đành hanh treo trong đầu hai bà chị tôi khiến các bà chỉ chi ra những đồng tiền không thể nào không phải chi. Phần lớn số tiền kiếm được hai chị chất đống trong nhà băng. Bao nhiêu cũng là chưa đủ. Hai chị lao vào môn thể thao kiếm tiền như hai lực sĩ giàu can trưong. Nhảy từ hãng này qua hãng khác. Căng người làm nhanh làm nhiều bất kể giờ nghỉ. Từ làm lương giờ leo lên làm ăn khoán. Lại còn mua máy đêm đêm may thêm ở nhà. Đồng tiền kiếm được càng ngày càng khá hơn như những chiếc huy chương khuyến khích các chị tôi đổ mồ hôi leo mãi leo hoài không mệt mỏi.
Tôi thì đâu có thiết gì nhà cửa. Làm gì mà phải vất vả nhịn ăn nhịn mặc bo bo bòn mót như vậy! Tôi chỉ có mộng học. Sách vở có cái thần làm tôi mải mê quên hết giờ giấc. Vừa xong trung học là rời Saigon, chất học trò trong tôi còn nóng hôi hổi. Đời tôi chỉ mong được tiếp tục học tại ngoại quốc. Vậy mà chân đã đứng trên đất học tôi vẫn chẳng có cơ may cắp sách tới trường. Thấy anh chị Tín đối xử sòng phẳng như vậy tôi chẳng còn mảy may hy vọng anh chị nuôi cho đi học. Chị Hiền chị Hậu càng chẳng nước non gì. Cái nhà chắc chắn là lớn hơn mảnh bằng. Tôi đi lạc ra khỏi con đường mòn của hai chị nên bơ vơ một mình. Chúi đầu chúi mũi vào chiếc máy may chạy nhanh như bị ma đuổi được vài tháng, tôi chịu không nổi bỏ đi kiếm được một chân bán hàng. Đồng lương không khá hơn nhưng được cái nhàn nhã dễ thở. Còn thấy được trời được trăng. Còn có lúc thả được chút hồn theo gió theo mưa. Phải mỗi cái tội cứ phải toét mồm cười hoài đau cả miệng.
Một thời gian sau, nhờ bạn bè giới thiệu, tôi an phận với công việc xếp giấy tờ trong một xưởng dệt. Giờ giấc có chật chội nhưng lương hướng không đến nỗi nào. Tôi thong dong trong cuộc sống mặc cho hai chị tôi quay quắt với những con tính hụt hẫng. Nhà thuê có hai phòng ngủ, tôi chiếm một phòng, hai chị tôi chung một phòng. Hai cái đầu chi li buộc tôi phải trả tiền gấp rưỡi mỗi người tôi cũng dễ dãi gật đầu. Còn kiếm được tiền thì việc chi phải lụy đồng tiền.
Tôi còn một bà chị có chồng con ở Việt Nam. Thỉnh thoảng tôi vẫn lặng lẽ gởi tiền về cho chị Hà. Tôi thương những mảnh ruột thịt còn lại nơi quê nhà. Dù cuộc sống của tôi ở đây có vất vả thật nhưng cuộc sống của anh chị và các cháu tôi chắc cơ cực bội phần. Mỗi lần chị Hà viết thư qua xin tiền là hai bà chị tôi chu chéo lên:
- Bộ chị ấy tưởng bên này tiền từ trên trời rơi xuống lượm không kịp chắc! Đi làm mửa mật mới đủ nuôi thân chứ đâu có tối ngày nhàn nhã ngồi ngóng tiền gửi về như ở Việt Nam.
Mặt tôi đanh lại. Tôi cảm thay bất nhẫn. Bụng tôi như một thùng nước sôi nhưng giọng tôi vẫn nhỏ nhẹ:
- Thì chị ấy túng thiếu mới viết thư xin chứ đâu có biết bên này cực nhọc vất vả phải chắt chiu từng đồng để mua nhà!
Ông Trương Phi khi nổi giận mặt ghê gớm đến như thế nào thì tôi không biết chứ hai cái mặt của hai bà chị tôi dựng đứng lên đến lạnh người. Chị Hậu tay chống nạnh, người chồm ra phía trước, môi bĩu dài ra lên giọng:
- Ai mua nhà thì thây kệ người ta! Việc chi phải xía cái miệng vào. Nhỏ mà hỗn! Có ngon thì gửi tiền về cho bà ấy đi!
Đồng tiền của tôi có dầu có mỡ dễ chui ra khỏi túi lắm. Gửi tiền cho chị Hà tôi đâu có ngại ngùng gì. Tôi tỉnh bơ nhìn thẳng vào mắt chị Hậu:
- Hai chị không muốn gửi thì thôi. Để đó cuối tuần tôi sẽ đi gửi. Làm giàu làm có gì được với trăm bạc.
Cuối cùng thì hai chị tôi sợ mất mặt nên cũng phải bóp bụng móc hầu bao qua một cái khe hẹp. Hai người một trăm. Tôi một trăm. Tôi nghĩ là mình chẳng thiệt thòi gì. Năm chục từ túi mỗi chị tôi ra cũng nặng bằng một trăm của tôi.
Một năm rút ruột ra vài lần như vậy làm cho hai chị tôi bồn chồn nuối tiếc. Đồng tiền chẳng phải là thứ dễ để hao hụt. Nhưng hao hụt tiền lại làm cho cái đầu của chị tôi trở nên thông minh bất ngờ.
- Này Hằng! Tao thấy tụi mình gửi tiền cho chị Hà kiểu này cũng giống như be bờ nước vậy. Chặn được chỗ này thì bể chỗ khác. Chi bằng làm sao kiếm cho chị ấy được một số tiền kha khá làm vốn buôn bán thì chị ấy có thể tự nuôi gia đình được chẳng cần tới tụi mình giúp đỡ. Mày thấy sao?
Tôi nhìn lên trời. Bộ ông trời đi vắng rồi sao? Vô lẽ đã tới lúc chị tôi xuề xòa với đồng tiền như thế này. Đừng hy vọng hão Hằng ơi! Khúc ruột của bà chị mày lúc nào cũng có đủ chỗ cho đồng tiền dính liền vào. Đầu óc tôi đăm chiêu nghĩ ngợi. Hay chị tôi định khai thác ông anh tôi? Tôi tung một câu dò hỏi bâng quơ:
- Chị nghĩ tới anh Tín phải không?
Như một cô gái nhà lành bị vu oan giá họa, chị tôi đỏ mặt tía tai lồng lộn lên:
- Bộ điên hay sao mà chờ đợi ở cha đó! Mày tưởng tao ngu đến như vậy sao? Dẹp cha đó đi mày. Ruột thịt gì!
Ông anh tôi đã bị loại ra ngoài. Còn ai nữa ngoài tôi. Tôi muốn biết xem những con tính trong đầu chị tôi đang xoay trở ra sao. Cái dấu trừ cho hai chị tôi là bao nhiêu và cái dấu cộng cho tôi là bao nhiêu. Tôi vốn không có nhiều ảo tưởng về sự rộng rãi của hai bà chị. Đôi mắt chị Hậu mở lớn nhìn tôi. Như đôi mắt của một chủ nợ đánh giá khả năng của con nợ. Tôi bình thản như không, hỏi:
- Vậy chị tính sao?
Chị Hậu như chỉ cho chiếc đèn xanh của tôi bật mở là nhấn ga tiến tới:
- Tao tính tụi mình phải bảo lãnh cho chị Hà qua du lịch.
Cặp mắt mở trừng trừng tưởng có thể rách mí mắt của tôi chắc làm chị Hậu thích thú lắm. Tôi muốn té xỉu vì ngạc nhiên. Lại còn mời chị Hà qua du lịch. Sao khi không bà chị tôi lại có cái ý tưởng quí phái như vậy! Nếu mây trên trời có đua nhau kéo xuống đất và cát bụi dưới đất bỗng bay bổng lên kín bàu trời chắc cũng không làm tôi ngỡ ngàng đến như vậy. Đầu óc tôi luống cuống bất định khiến tôi chỉ hỏi được một câu chẳng thành một câu hỏi:
- Bảo lãnh chị Hà qua du lịch?
Chị Hậu cười. Chiếc đầu mải lo tính toán đã làm chị ít khi dùng đến cái miệng để cười. Nụ cười của chị bò rộng ra thêm một chút:
- Làm gì mà như trời sập vậy? Tao tính kỹ rồi. Tụi mình không mất gì hết.
Chị Hậu hiểu lầm tôi. Tôi đâu có nghĩ tới tiền nong. Tôi sững sờ vì chẳng biết hai bà chị ma mãnh của tôi đang toan tính những gì. Như không muốn làm tổn thương thêm trái tim của tôi, chị vội giải thích:
- Chị Hà sẽ qua du lịch sáu tháng. Nhà có sẵn máy may, chị may cật lực thì bỏ rẻ ra cũng được bảy, tám ngàn. Trừ tiền máy bay, tiền ăn ở thì cũng ôm về được ba, bốn ngàn đồng làm vốn. Tụi mình chỉ ứng trước tiền máy bay cho chị. Chẳng mất đi đâu đồng bạc nào mà lại giúp chị có một số vốn lớn. Mày thay tao tính có thần sầu không?
Mắt chị Hậu nở ra long lanh cho đợi lời khen ngợi của tôi. Đầu óc tôi như một sợi giây căng thẳng bỗng bị một nhát kéo cắt ngang. Tôi chẳng còn muốn nghĩ ngợi gì hết. Những ý nghĩ trong đầu tôi lả tả rụng xuống. Cảm giác chán chưong ôm kín tôi. Tôi thầm thì như nói riêng với mình:
- Thế mà cũng gọi là đi du lịch!
Chị Hậu quắc mắt nhìn tôi. Nếu tôi là một chiếc bánh chắc chị đã lủm gọn một miếng là hết sạch ngay rồi. Giọng chị kéo dài nửa như chế nhạo nửa như mắng mỏ:
- Sời! Nghèo mà ham! Ở đó mà nói chuyện sang trọng! Thứ con nhà lính tính nhà quan!
Tôi ngậm câm cho xong chuyện. Mà đâu có xong. Miệng ngậm kín nên nó leo lên đầu nằm cấn cái khó chịu. Tôi trút cái khó chịu cho Hoài. Hoài nghe tôi kể chuyện chị Hậu cho chị Hà đi du lịch xong cứ mỉm cười hoài. Tôi chẳng hiểu anh cười gì chỉ mường tượng thay có chút giễu cợt bên trong. Sức mấy mà anh dấu được tôi. Tôi xắn tay áo bắt đầu cuộc chiến:
- Cười gì vậy?
- Thấy tức cười thì cười.
Cái mặt tỉnh bơ của Hoài trông dễ giận. Tôi nghe thấy mạch máu chạy rần rần trên mặt. Hạch nước mắt của tôi đang phình ra. Hoài ơi, em khóc cho mà coi.
Hoài là một tay cờ lão luyện biết tấn thối đúng lúc. Thấy khuôn mặt tôi đang bày ra trận thế mưa sa bão táp, anh vội nhích một nước cờ:
- Anh thấy ít có người biết kính cẩn đồng tiền như hai bà chị của em.
Tôi vốn không ưa gì hai bà chị xi măng cốt sắt của tôi nhưng sẵn đang tức Hoài nên gây chiến liền:
- Rồi sao?
Hoài nhởn nhơ như không, gảy thêm nước cờ thứ hai:
- Đâu có sao! Anh đang tính đề nghị với chính phủ in hình hai bà chị em lên đồng tiền Canada. Chắc thế nào họ cũng chấp thuận vì cho họ kiếm đỏ mắt cũng chẳng tìm được ai kề cận với đồng tiền bằng hai bà ấy.
Tôi cố làm mặt nghiêm nhưng cái giọng bơ bơ khôi hài kiểu móc lò mà không thèm nhếch miệng cười của Hoài làm tôi bật cười. Nụ cười của tôi như những mảnh pha lê vung vãi trên mặt đất kéo theo tiếng cười của Hoài. Chẳng biết chiếc kim đồng hồ nhích được bao xa hai đứa mới hãm được tiếng cười. Hoài ôm vai tôi nhỏ nhẹ:
- Chắc anh phải mau mau kéo em ra khỏi nhà chứ không em bị ô nhiễm thì đời anh chắc sẽ được ăn mắm quẹt dài dài.
Hoài vẫn vẽ cho tôi một tương lai hết sức rõ ràng ngăn nắp. Hè này Hoài sẽ ra trường. Chắc chắn anh sẽ kiếm được việc làm ngay vì đã có nhiều nơi phỏng vấn muốn nhận anh làm. Chúng tôi sẽ làm đám cưới sớm. Cưới xong anh sẽ để cho tôi đi học lại như tôi vẫn hằng mong ước.
Hoài nhẹ nắm tay tôi dưới bàn ăn. Tay tôi mềm mại trắng muốt. Hoài vẫn khen như vậy trước khi đặt môi hôn lên tay tôi. Người tôi dựa sát vào anh. Tôi cảm thay an tâm vững chãi. Mảnh tương lai Hoài tặng cho tôi là một món quà vô giá. Chúng tôi sẽ mãi mãi có nhau trong những tháng ngày lóng lánh hạnh phúc của cuộc sống vợ chồng đẫm ướt ân tình. Tôi đỏ mặt thỏ thẻ:
- Em nói trước rồi nghe! Anh làm sao thì làm, đừng để cho em ôm cái bụng đi học thì quê lắm đấy.
Hoài thủng thẳng thả giọng bài bây:
- Ai quê người ấy ráng chịu. Biết sao mà nói trước được!
Cái mặt trơ trẽn dễ ghét! Tôi muốn nhéo cho vài cái thật ngọt.
7. Đội mũ
Không biết tại sao Luân lại có thể thân được với già Tom. Một đôi khi ngồi căng mắt nhìn cỗ máy rì rà rì rầm anh vẫn thường băn khoăn tự hỏi như vậy. Có lẽ vì lần đầu gặp gỡ đã tạo cho anh một ấn tượng đặc biệt có cái đuôi lê thê tới tận ngày nay.
Chân ướt chân ráo tới Montréal được có mấy ngày, đầu óc vẫn còn lửng lơ chưa điều chỉnh kịp cặp mắt nhìn một thành phố lớn lao đẹp đẽ đang có trước mặt, Luân tới Sở Di Trú làm tiếp thủ tục xin thường trú còn dở dang ở phi trường. Bà thư ký phục phịch nhưng nhanh nhẹn, cổ toòng teng một chuỗi hạt nặng nề màu sắc tươi sáng, tay một chiếc vòng nhìn hoa cả mắt, ngón tay sát sạt những chiếc nhẫn kềnh càng vướng víu, bỗng nhìn thẳng vào mắt anh hỏi bằng một giọng ân cần hiếm có:
- Ông đã có việc làm chưa?
Luân khựng người ngẫm nghĩ. Chỉ có việc cố làm thân với cái thành phố dễ sợ như một con quái vật khổng lồ đã đủ mệt rồi, hơi sức đâu mà nghĩ tới chuyện làm việc thiết thân với nó. Nghe câu hỏi của bà thư ký luống tuổi mặt no nê son phấn Luân bỗng rùng mình sợ hãi. Bằng cấp chừ như giấy lộn, lon lá chừ như đồ mã, chức phận chừ gió thoảng mây bay, con người trần trụi thấy rét run. Biết làm được cái chi!
Anh đánh bạo trả lời bằng một câu hỏi thăm dò:
- Tôi muốn đi học lại có được không?
Bà thư ký cố nén tiếng thở dài, dán cặp mắt thương hại vào bộ mặt bối rối của Luân, giọng như dỗ dành:
- Tôi hiểu tâm trạng của ông. Người tỵ nạn Việt Nam nào cũng giống nhau. Cố vươn lên để làm lại cuộc đời. Nhưng tôi rất lấy làm tiếc để báo cho ông hay rằng ông phải đi làm ít nhất là một năm rồi muốn tính gì mới tính được. Ông có bằng lòng đi làm không?
Luân đành phải gật đầu. Nỗi thất vọng cộng với lo lắng luẩn quẩn trong đầu kéo cặp mắt anh hạ thấp xuống. Đôi giày đóng ở Việt Nam trước ngày đi gặp trời lạnh teo tắt lại bóp chặt chân anh nhức nhối. Anh mím môi ngẩng đầu lên khi nghe tiếng nói:
- Để tôi liên lạc kiếm cho ông một việc làm ngay.
Cây viết nhanh nhẹn chọc vào những con số trên máy điện thoại. Luân hồi hộp ngó quanh. Phòng làm việc được quây bằng những tấm chắn bằng nỉ xám cao ngang đầu. Tiếng điện thoại reo, tiếng nói chuyện từ các phòng khác lao xao vọng lại chen lẫn với tiếng bà thư ký cười cười nói nói với cái ống điện thoại. Bà nháy mắt với Luân, giơ ngón tay cái lên, miệng vẫn không ngớt ào ào tuôn ra thứ tiếng Pháp mà tai Luân không bắt kịp. Tiếng chiếc ống điện thoại đặt xuống bàn khô khốc kéo theo tiếng nói lanh chanh vui vẻ của bà thư ký:
- Tốt quá! Chỗ này họ đang cần người. Ông tới ngay cho họ phỏng vấn.Ông đừng ngại gì cả. Họ sẽ chỉ hỏi qua loa. Ông nói được tiếng Pháp như vậy chắc chẳng có vấn đề gì đâu.
Tim Luân bỗng như chạy đua. Sao bên này họ làm ăn chóng vánh như vậy. Tưởng cũng được dăm bảy ngày sửa soạn cho bớt hồi hộp chứ. Anh rụt rè:
- Vài ba bữa nữa tôi tới có được không?
Bà thư ký lắc đầu cười:
- Không được. Ông phải đi liền chứ không người ta mượn người khác thì hỏng việc hết. Tôi chỉ đường métro cho ông tới đó.
Bà rút tấm bản đồ métro ra vừa chỉ cho Luân vừa ghi vào một miếng giấy. Luân nhìn những vạch xanh đỏ rối nùi trên bản đồ bằng đôi mắt của đứa trẻ sơ sinh. Có biết mô tê gì đâu. Anh cầm miếng giấy mà chân như muốn chôn chặt xuống đất. Bà thư ký đứng dậy giơ tay ra cho Luân bắt:
- Chúc ông may mắn. Ông có tiền đi métro chưa?
Tay bà định với chiếc xách tay nằm chênh vênh trên chiếc bàn nhỏ bên cạnh ghế ngồi. Mặt Luân đỏ bừng như bị xúc phạm. Anh vội xua tay:
- Cám ơn bà. Tôi có tiền đây rồi.
Bàn tay bà thư ký nhanh nhẹn đổi hướng nhảy lên vai Luân thân mật:
- Ông có điều gì muốn hỏi nữa không?
- Tôi sẽ làm gì vậy?
- Làm máy móc ấy mà.
Mồ hôi đâu mà nhiều thế. Luân nói như muốn xỉu:
- Tôi đâu có biết làm máy móc bao giờ đâu!
Bàn tay trên vai Luân nhẹ nhàng thổ thổ:
- Ông đừng lo. Dễ lắm. Người ta sẽ chỉ cho ông làm. Thôi ông đi đi kẻo người ta đợi.
Người đợi Luân giữa tiếng máy rầm rầm điếc tai là già Tom. Chiếc bàn nhỏ kê ở góc xưởng máy ôm trên mặt bề bộn đủ thứ lặt vặt. Già Tom ngồi trên một chiếc ghế cũ xì giơ tay ra cho Luân bắt. Bộ mặt nhăn nheo của ông phác ra một nụ cười hiền lành. Đôi mắt cá ươn màu biển nhìn chằm chặp vào mặt Luân. Ông cất tiếng hỏi trống:
- Biết đọc biết viết không?
Luân méo xệch miệng cười. Anh ngao ngán chẳng thể nào thốt ra lời. Bao nhiêu công lao đèn sách bỗng chốc như quay lưng lại với anh. Miệng anh khô khốc đắng ngắt. Anh gật đầu. Cần cổ anh cứng ngắc như muốn giữ cái đầu anh đừng lôi thôi nghĩ ngợi. Anh định nói chữ "có" cho ra vẻ lịch sự nhưng miệng anh như bị dán kín.
Già Tom nghiêng đầu hỏi tiếp:
- Tại sao lại đi làm?
Ờ, tại sao lại đến chôn người trên một chiếc ghế ọp ẹp ngồi nghe một ông già hỏi han lẩm cẩm. Máu lính trong người anh vẫn còn đặc sệt. Anh ngang ngạnh:
- Không đi làm có được không?
Nụ cười của ông già khục khục trong cuống họng. Đôi mắt như bắt được một chút tinh anh dựng đứng lên:
- Dầu gì cũng phải đi làm chứ. Khỏe mạnh như vậy nằm nhà ăn xã hội coi sao được. Ghét nhất là những đứa ngồi không ăn tiền mồ hôi nước mắt của người khác. Mà qua đây lâu mau rồi?
Luân thờ ơ trả lời:
- Mới ba ngày.
Già Tom nhoài người đãy khuôn mặt héo hắt sát vào mặt Luân buông gọn:
- Thế thì có muốn ăn xã hội cũng chẳng ai cho. Thôi, thứ hai tới làm nghe! Để tôi dẫn cậu ra văn phòng làm hồ sơ.
Thứ hai Luân tới sớm trước giờ làm gần cả tiếng đồng hồ. Anh tưởng hai chuyến métro và một chuyến buýt ít ra cũng phải tiếng rưỡi. Ai ngờ chỉ mất có nửa tiếng. Già Tom đã ngồi sẵn đó đang gặm mẫu bánh mì có kẹp một lát pho mát. Giọng ông xăng xái:
- Chà! Ngày đầu đi làm có khác. Tới sớm dữ. Cậu ra ngồi đợi ở góc kia tới giờ làm mình sẽ bắt đầu.
Tiếng chuông điện đổ rền làm Luân giật mình. Người nào vào việc nấy. Tiếng máy ồn ào như một đoàn chiến xa đang xăm xăm tiến tới. Già Tom đưa Luân tới cỗ máy kềnh càng như một chiếc tăng nằm bất động chỉ cho anh cách điều khiển máy. Chiếc máy rú lên chuyển động. Chỉ hơn một tiếng đồng hồ sau đó anh đã được già Tom vỗ vai giao cho anh một mình trông máy. Mắt Luân có lúc nhòa đi trông những cỗ máy như những chiếc tăng của anh hồi nào. Có điều bây giờ anh phải ngồi ngoài những chiếc tăng trong trí tưởng đang ào ào như sửa soạn xông ra trận mạc. Đầu anh như trĩu nặng dưới chiếc nón sắt ngụy trang, mắt anh mơ hồ nhìn thấy ba bông mai đen nằm trước ngực, chân anh cảm thấy nằng nặng đôi giày trận thô tháp phủ bụi đỏ lòm. Anh nuốt tiếng thở dài. Chiếc buggy ba bánh của già Tom lao tới dừng lại bên cạnh anh. Ông chìa ra trước mặt anh thỏi kẹo hất hàm ra dấu mời. Anh vốn không thích kẹo vậy mà vẫn phải làm bộ vui vẻ nhanh nhẹn đưa tay ra cầm viên kẹo nhỏ xíu cho vào miệng. Già Tom nhăn răng cười hài lòng. Miệng ông xanh lè. Viên kẹo anh vừa bỏ vào miệng màu đỏ. Chẳng có gương soi mà anh biết chắc miệng anh đang loang đỏ.
Giờ nghỉ giải lao anh ra bồn rửa mặt le lưỡi trước gương. Một tên da đen có đôi mắt láo liên vừa chải mớ tóc quăn bằng chiếc lược lưa thưa khoảng chục chiếc răng lớn và dài như chiếc đinh ba vừa mở miệng hỏi:
- Mới ăn kẹo của già Tom phải không?
Anh nhếch miệng cười đau khổ:
- Sao biết hay quá vậy?
Tay vẫn thành thạo chọc chọc chiếc lược hất mớ tóc ngắn quăn tít lên, tên da đen chẳng rời mắt khỏi gương:
- Miệng đỏ như miệng ma cà rồng thế kia thì dấu được ai. Mà này, kẹo rẻ tiền vậy mà dễ được mời ăn à. Quí lắm mới được ăn kẹo của già Tom đấy. Giàu bạc triệu mà ăn toàn những thứ mạt hạng!
Cặp môi dày xám ngắt bĩu ra trước mắt Luân. Anh cười nhạt. Cái cười chẳng có ý nghĩa gì. Thấy hắn nói đúng nhưng dù sao cũng mới chân ướt chân ráo vào làm chẳng nên dây dưa những chuyện phiền phức với xếp. Kinh nghiệm trong quân đội, kinh nghiệm tù đày cải tạo và thân phận ngơ ngác nơi đồng đất xứ người đã dạy anh cái tính nhũn nhặn được việc.
Buổi trưa gặm xong ổ bánh mì thịt Luân kiếm chỗ ngồi giở sách ra đọc. Vừa liếc được vài giòng già Tom lê chiếc buggy tới. Chiếc đầu bạc gật gù hỏi:
- Ngồi đọc sách sướng quá hả?
Luân buông sách xuống nói đùa:
- Đọc cho qua giờ ấy mà.
Già Tom buông giọng:
- Tao cũng muốn đọc sách lắm mà đọc không nổi. Hồi nhỏ tao đâu có được đi học nhiều!
Chưa dứt câu nói, già Tom quay đầu xe lọc cọc đi mất. Chỉ vài phút sau Luân lại nghe thấy tiếng xe rè rè xông tới bên anh. Già Tom nheo cặp mắt ươn toét miệng nói:
- Tao chỉ đọc được sách này.
Cuốn tạp chí kẹp bên nách được trao cho Luân. Chữ Playboy đen đậm đập vào mắt anh. Mặt anh sượng trân trước tấm hình bìa. Ngày trước thỉnh thoảng anh cũng được bạn bè đi tu nghiệp bên Mỹ về cho liếc qua tạp chí này. Nhưng đâu có suồng sa như bây giờ. Nàng kiều nữ chẳng một mảnh vải che thân nhoẻn miệng cười vào bộ mặt ngơ ngẩn của Luân. Nụ cười của già Tom phá ra thành tiếng:
- Mày thích không?
Luân luống cuống chẳng biết trả lời ra sao. Chẳng lẽ bảo không thích. Anh gật đầu cho ông già hài lòng. Già Tom hài lòng thật. Miệng ông gang ra hết cỡ:
- Tưởng mày không thích. Đứa nào không thích không phải là đàn ông!
Từ đó thỉnh thoảng già Tom lại bê đến cho Luân một vài người đẹp hí hửng phô ra cái nõn nường. Luân bắt buộc phải coi một cách thú vị.
Một bữa Luân đang đánh vật với chiếc máy giở chứng, tiếng xe của già Tom lệt xệt lê tới. Người anh đổ mồ hôi rít kịt. Tay anh quờ quạng sờ chỗ này nắn chỗ kia ra điều thành thạo máy móc. Tiếng già Tom khoan thai:
- Máy hư à?
Luân quay lại mặt mũi tê rần luống cuống nặn ra một nụ cười cầu tài. Già Tom nhấc chiếc mông lép kẹp ra khỏi xe, xốc lưng quần, tay chống nạnh nhìn lũ đèn xanh đèn đỏ bu kín tấm bảng điều khiển máy. Một chiếc đèn đỏ chớp chớp liên hồi như chế nhạo khuôn mặt ngây ngô của Luân. Già Tom bấm đi bấm lại vài cái nút. Máy chạy lại. Luân thở phào nhẹ nhom. Già Tom nhe răng cười:
- Cái máy này cũng lão như tao, đôi khi giở chứng. Này, chiều nay tan sở chờ tao ngoài cổng, tao chở đi chơi chỗ này hay lắm.
Luân ngơ ngáo theo già Tom lòng vòng trong một khu bán hàng bóng lộn. Người mua kẻ bán tấp nập trong những gian hàng sáng trưng sang trọng. Ngoài lối đi những quầy hàng nho nhỏ đầy ắp phấn son, khăn mũ, xách tay chặn cặp mắt Luân từng chập. Những quầy hàng ăn nho nhỏ phả vào mũi Luân những mùi vị thơm tho xa lạ. Tới một chiếc bàn dài kê ngay giữa đường trên để đầy sách già Tom ngừng lại. Luân ngạc nhiên nhìn già Tom ngắm nghía những cuốn sách dày cộm. Ông già này cũng thích sách nữa sao? Một ông Do Thái râu ria kín mít, đầu chụp chiếc mũ nhỏ xíu bằng miệng chén ăn cơm, đứng trước tấm bảng dán kín hình những nạn nhân của Đức Quốc Xa đang trần truồng trong phòng hơi ngạt. Trên cùng là một tấm vải giăng ngang với hàng chữ đỏ như máu: " Thế giới phải ghi nhớ bài học này". Mặt già Tom như trĩu xuống trước những tấm hình đen trắng khổ lớn. Ông nhìn Luân giọng buồn bã:
- Mỗi lần nhìn những hình này tao cảm thấy lạnh cả người. Mày có thấy xúc động trước những hình ảnh này không?
Luân nghĩ tới những chết chóc hoang tàn anh đã gặp trong đời lính tác chiến. Chiến tranh tự nó là man rợ nhưng hận thù như một thứ cứu rỗi cho lương tâm. Ngoài trận tiền người ta giết nhau như một bổn phận, chẳng kịp cho một chút vấn vương suy nghĩ. Người ta tranh giành mạng sống cho mình bằng cách tiêu diệt đời sống của người khác. Thời Đức Quốc Xa hận thù được nâng cao thành một thứ tôn giáo đẩy những con người mê muội tới chỗ nhiệt tình trong tội ác. Bây giờ đứng trong khung cảnh tráng lệ của một đất nước thanh bình, nhìn lại những tấm hình anh thấy kinh tởm. Luân gật gù nói với già Tom:
- Man rợ quá. Nhưng tôi thấy người Do Thái cũng phải học bài học này.
Chỗ anh ở là một khu nhà tồi tệ cũ kỹ. Cũng như tất cả những tòa nhà khác trong khu, chủ nhân đều là người Do Thái. Chiếc bếp ga rỉ sét, cái bồn cầu hay giở chứng, những khung cửa gỗ vênh váo mặc cho gió qua lại đã đôi phen làm khổ anh. Vậy mà mỗi lần kêu sửa là một lần vất vả như kẻ ăn xin. Đồng tiền một khi đã chui vào túi những anh quạ đen này rất khó có dịp nhảy ra ngoài. Sống kèn cựa với những con người khép kín và hãnh tiến này, Luân đã mặc nhiên chẳng chút cảm tình với những anh đầu đội chiếc mũ toen hoẻn không phủ kín đầu.
Cũng đã nhiều lần Luân đã muốn văng tục trước những chiếc xe hơi kềnh càng chẳng chịu ngừng lại nhường lối cho người đi bộ hoặc tỉnh bơ đậu song song trên đường nói chuyện với nhau mặc cho những chiếc xe khác phải len lỏi đi qua. Những anh Do Thái quanh Luân đều mang vẻ ngạo mạn giống nhau. Họ như quên đi bài học Đức Quốc Xa năm xưa. Họ vẫn chất tiền leo lên cao tự cho mình là một loại người đứng trên đứng trước những người khác.
Già Tom to mắt nhìn Luân:
- Mày nói sao? Chính người Do Thái phải học bài học này hả? Mày đã thấy tao học được bài học này chưa?
Luân ngượng ngùng nhìn già Tom dò hỏi. Nụ cười lệch lạc trên đôi môi khô héo của già Tom vẽ ra cùng với bàn tay đập đập trên vai Luân:
- Có gì ngạc nhiên đâu! Tao cũng là Do Thái đây.
Luân thấy mình như vừa phạm phải một lỗi lầm muốn đỏ mặt. Sao lại có một người Do Thái lạ lùng đứng bên cạnh anh như thế này. Anh lúng túng:
- Xin lỗi ông!
- Có gì mà mày phải xin lỗi. Mày suy nghĩ đúng.
Luân cười gượng:
- Ông nói thế chứ! Mà sao không bao giờ thấy ông đội mũ vậy?
- Đội làm cái gì! Tao ghét hình thức.
Mặt già Tom đầy nét hóm hỉnh:
- Vả lại mua mũ tốn tiền. Mày có tiền trong túi không?
Luân sững sờ chẳng biết trả lời sao. Cái anh già này như một chú sóc non, nhảy từ ý nghĩ này qua ý nghĩ khác làm Luân chẳng biết đường nào mà lần. Anh căng mặt lên:
- Có chứ! Mà sao ông hỏi như vậy?
Già Tom giả lả:
- Tao định rủ mày đi ăn rồi đi chơi. Tiền người nào người nấy trả. Đó chẳng phải vì tao là Do Thái mà vì tụi mình đang sống ở Bắc Mỹ. Cái xã hội này nó sòng phẳng trơ tráo như vậy đó. Sống lâu ở đây mày sẽ phải quen với nếp sống như vậy.
Chỗ chơi mà già Tom kéo Luân tới là một hộp đêm có vũ khOa thân. Mắt già Tom dính sát vào những tấm thân non nà chuyển động trên sàn nhảy. Luân ngồi bên cạnh u mê lạc vào một thế giới lạ lẫm thích thú. Già Tom từng lúc nhìn sang Luân như đo lường độ mê say của anh. Ông có cái thú vị của một đứa trẻ dẫn dắt một đứa bạn vào một cuộc chơi hấp dẫn. Ông nghiêng người hỏi:
- Mày thích con nhỏ đứng ở góc kia không?
Đứa con gái tóc vàng có bộ mặt con nít trên một cơ thể lớn xộn đong đưa trên chiếc ghế cao, hớ hênh bày ra cặp đùi tròn trịa mượt mà, quét những tia nhìn ướt rượt trên đám khách lố nhố trước những chai la ve ngổn ngang trên bàn. Luân chú mục vào bộ ngực no tròn mờ ảo dưới chiếc nịt nhiều màu nhỏ xíu. Già Tom nháy mắt:
- Thích thì nói đại ra cho rồi! Tao chấm con nhỏ đó đấy.
Luân cười xuề xòa:
- Ông tinh mắt thật!
Già Tom thích chí:
- Muốn kêu nó tới bàn mình nhảy không? Tốn năm đồng thôi.
Bụng Luân thú vị nhưng giọng nói làm ra lững lờ:
- Thì kêu nó đi.
- Tao kêu mày trả tiền nghe!
Luân thấy tức cười. Anh Do Thái không có mũ vẫn là anh Do Thái. Anh bỗng thấy thương hại già Tom:
- O.K! Để tôi trả cho.
Già Tom xiêu vẹo ra ghé vào tai con nhỏ. Con nhỏ điệu hạnh giơ bàn tay cho già Tom đỡ xuống ghế, nhẹ nhàng vớ chiếc bóp nhỏ xíu cắp vào nách, nhún nhảy đi theo già Tom. Nét sung sướng lộ ra hết trên khuôn mặt xộc xệch, già Tom chỉ tay vào Luân giới thiệu:
- Bạn tao. Tên nó là Luân.
Con nhỏ đưa bàn tay mát lạnh cho Luân:
-Chào anh. Em là Lisa.
- Chào Lisa. Cô là ngôi sao xinh đẹp nhất đêm nay.
Lisa nhoẻn miệng cười. Già Tom hoạnh họe:
- Thằng này cũng đía gớm nhỉ! Lisa, em cho nó coi cái ngôi sao của em đi.
Lisa leo lên chiếc bục gỗ chỉ vừa đặt đủ đôi chân. Loa phóng thanh vang lên tiếng xướng ngôn viên giới thiệu bản nhạc kế tiếp bằng cái giọng rổn rảng hấp dẫn. Nhạc trỗi lên, Lisa gỡ từng mảnh vải trên người trước hai cặp mắt đờ đẫn của một già một trẻ. Con nhỏ tự vuốt ve trên người, ưỡn ẹo những điệu bộ buông thả, đôi mắt to tình tứ ban phát dục vọng đồng đều cho già Tom và Luân. Bản nhạc chấm dứt. Lisa vội vơ mớ quần áo nhẹ tênh che hờ trên người, đỡ tờ giấy bạc trên tay Luân, chúm miệng hôn gió, vội vã biến đi như một làn sương mỏng manh.
Luân tưởng mình cũng đã biến khỏi cuộc đời của già Tom khi anh tìm được việc làm khác tốt hơn. Ngày cuối, già Tom mặt buồn rười rượi vấp váp nói lời giã từ:
- Chúc mày may mắn. Mày đi tao tiếc lắm. Ở đây chẳng có đứa nào được như mày. Tao lại đành không có bạn. Đừng quên tao nghe. Cho tao số điện thoại của mày. Cố giữ liên lạc với tao nghe!
Dặn thì dặn như vậy nhưng người giữ liên lạc chính là già Tom. Thỉnh thoảng ông lại gọi cho Luân cà kê dăm điều ba chuyện. Mười chuyện thì tới chín có dính tới đàn bà con gái. Dĩ nhiên là những bóng hồng ở ngoài đường. Luân biết ông sống với bà vợ già yếu đuối bệnh hoạn. Vậy mà chẳng bao giờ ông nói một câu tới cái gia đình nhỏ nhoi chỉ có hai người của ông. Cũng như chẳng bao giờ ông nói tới số bạc triệu có trong tay như người chung quanh ông đồn đại. Có một điều Luân biết chắc là ông có cổ phần trong công ty. Một thứ chủ trông không có vẻ là chủ. Quần áo ông xộc xệch lập dập như hàng chục năm ông chẳng hề bước chân vào một tiệm bán áo quần. Đồ dùng thì lôi thôi lếch thếch, cũ kỹ như con người ông. Thứ mà ông ham đọc, ngoài những sách báo toàn hình ảnh mát rượi, là những tờ quảng cáo của các chợ. Ông nghiền ngẫm những ô vuông nho nhỏ có hình các món thực phẩm với giá tiền được in đậm màu đậm nét như một nhà bác học cặm cụi với những dữ kiện hấp dẫn. Ông so sánh giá cả của từng chợ, dùng chiếc kéo cùn đen đúa chậm rãi cắt từng tấm phiếu hạ giá bỏ vào một cái bao thư nhàu nát không biết ông dùng từ bao giờ. Mấy cuốn sổ ngân hàng cũng cong queo nhàu nát chẳng kém được trói chặt bằng một sợi dây thun. Một ngày không biết bao nhiêu lần ông ngồi trên chiếc buggy, quay mặt vào tường, hé mở từng cuốn chôn mắt nhìn thành khẩn như một tín đ? chiêm ngưỡng thánh tích.
Thỉnh thoảng nhân lúc rỗi rảnh Luân gọi nói chuyện với già Tom. Giọng ông mừng rỡ huyên thuyên hết chuyện này tới chuyện khác. Chuyện nào cũng vướng víu bóng dáng đàn bà. Giọng ông hạ thấp như tiết lộ một việc hết sức
quan trọng:
- Ê Luân! Mày biết không? Tao mới trấn một con nhỏ làm nó đứt hơi luôn.
Luân cười thầm trong bụng. Già Tom càng ngày càng giàu óc tưởng tượng. Với mớ tuổi đáng lẽ phải về hưu từ cả chục năm trước, với cái tính chắt chiu hiếm có đã quen thói, già Tom chẳng thể nào ngon lành như vậy. Không thấy Luân nói gì, giọng già Tom bực dọc trong điện thoại:
- Mày tưởng tao nói dóc sao? Bữa nào tao kêu mày đi với tao cho biết!
Già Tom chẳng có dịp kêu Luân đi để chứng minh cái chí khí nam nhi của ông. Lần điện thoại sau đó, Luân nghe thấy giọng đàn bà mệt mỏi trả lời:
- Ông ấy nằm trong bệnh viện rồi.
- Bệnh viện nào vậy, thưa bà?
- Chẳng biết nữa!
Giọng nói ráo hoảnh chẳng mang một chút xúc động nào. Luân đành quanh quẩn hỏi thăm chỗ già Tom nằm. Anh tức tốc tới nơi.
Có chút rạng rỡ gắng gượng trên mặt già Tom khi Luân vừa bước vào phòng. Già Tom sọm hẳn đi. Già nua là một thứ mối mọt của cuộc đời. Nó có quyền uy của một mụ phù thủy. Chỉ một cây gậy vung ra là cái xác thân còm cõi thoắt sụp đổ gẫy vụn. Chẳng còn chút sinh khí nào trên khuôn mặt già Tom. Luân thấy vừa mủi lòng vừa sợ hãi trước một thân xác hầu như bất động dưới những sợi dây dọc ngang chằng chịt trên tay trên ngực người bạn già.
Miệng Luân máy móc hỏi:
- Ông khỏe không?
Chiếc đầu như một trái dừa khô nhẹ lắc trên chiếc gối lớn che kín cả đầu giường. Chẳng còn một già Tom hăm hở đuổi theo những bóng hồng. Định mệnh đã chụp bắt vây kín ông như một con ruồi nằm trong mạng nhện. Già Tom hổn hển:
- Chắc tao không qua khỏi trận này.
Luân cảm thấy nhói đau trước sự đầu hàng chát chúa của già Tom.
- Trông ông vẫn còn khỏe mà! Nằm ít ngày rồi về. Mình sẽ lại đi chơi. Lần này tôi sẽ bao ông hết.
Luân vỗ về bàn tay khô đét vêu vao như một khúc củi quá nắng. Già Tom khó nhọc nhếch miệng cười:
- Chắc mày chẳng còn tốn tiền cho tao được nữa đâu. Nằm đây nhiều lúc tao nghĩ thấy cuộc đời chẳng ra sao cả. Thuở nhỏ sớm mồ côi tao sống vất vưởng bữa đói bữa no tưởng có tiền là sướng. Tới khi có tiền, nghĩ tới cái cực cái nhục của thời nhỏ, lại bo bo giữ rịt chẳng dám tiêu pha. Bây giờ thì nghĩ tới đống tiền trong tay mà khổ sở tiếc nuối. Vô nghĩa tất cả Luân ạ! Đời tao, tao chẳng bao giờ có một cuộc sống. Bạc triệu trong tay mà làm gì!
Luân thấy rõ nét trong anh lẽ vô thường của cuộc sống. Có cũng thế mà không cũng thế. Anh gạt đi những ý tưởng yếm thế, cố tạo ra tiếng cười giỡn với già Tom:
- Ông chán tiền thì đưa tôi tiêu giùm cho.
Già Tom cười buồn:
- Tao cho mày để làm hư mày à? Phù du hết Luân ơi. Tao đã cho các hội thiện hết rồi. May ra...
Già Tom chống chỏi với cơn nấc đang nâng ngực ông lên khiến câu nói bị bỏ lửng. Lồng ngực lép kẹp nhấp nhô dưới lớp vải trắng như những con sóng yếu ớt cố bám víu lấy bờ cát. Già Tom ho dồn dập rồi nằm thở mệt nhọc. Đôi mắt nhắm nghiền nhưng cái miệng ọp ẹp vẫn cố níu kéo câu chuyện với Luân:
- Đêm qua tao nằm thấy một vùng cỏ xanh bát ngát tới tận chân trời.
Giữa cái màu xanh hoan lạc là một tòa lâu đài trắng bao quanh bởi những luống hoa muôn màu muôn sắc. Tao cố vươn mình chạy tới nhưng đôi chân tê cứng như bị đóng chắc trên mặt đất không cho tao nhấc lên nổi. Mày biết không, khi một người Do Thái nhìn thấy cảnh đó là lúc phải buông tất cả để ra đi rồi đó.
Vốn là một người tôn trọng lời nói của mình, già Tom nói đi là ông đi. Khi Luân gọi điện thoại cho ông, nhân viên bệnh viện cho biết là ông mới chết. Luân gọi về nhà ông, giọng người vợ già nua của ông lập đi lập lại như một cuốn băng nhão:
- Ông ấy nằm trong bệnh viện rồi!
Luân vội liên lạc với chỗ làm cũ để biết ngày giờ tang lễ của già Tom. Anh mặc bộ đồ đen tới một nhà thờ Do Thái nhỏ tiễn già Tom lần cuối. Quan tài đóng kín mít nhốt già Tom vào một cảnh đời khác. Tiếng ê a cầu kinh bằng một nhịp điệu rên xiết làm anh buồn ngủ. Anh ngồi nhắm mắt gục đầu trên đôi tay chống lên hai đầu gối. Anh giật mình chợt đưa tay rờ trên đầu. Chiếc mũ nhỏ xíu người ta gắn cho anh khi vào nhà thờ vẫn nằm yên trên tóc. Anh thầm nói với già Tom. Suốt đời ông không chịu đội mũ đến lúc chết ông quẳng chiếc mũ lên đầu tôi. Ông chơi gác tôi quá, ông già ơi!
8. Tết trước tết
Tự truyện
Tết được nhắc tới từ lễ Giáng Sinh. Đêm Giáng Sinh chúng tôi khoảng chục người tụ họp nhau bên gốc ổi ngoài sân ngay trước cửa phòng. Mấy gốc ổi thấp lè tè được chúng tôi bứng về trồng theo đồ án thiết kế của Kiến Trúc Sư Ngô Viết Thụ. Từ đồ án Dinh Độc Lập đến đồ án sân trước của Nhà 2 trại Cải Tạo Làng Cô Nhi Long Thành, Kiến Trúc Sư giải Khôi Nguyên La Mã đang trượt dốc. Chúng tôi cũng đang cùng xuống dốc với ông. Suốt ngày lũ chúng tôi giang nắng kẻ khẩu hiệu trên tường, trồng cây ngoài sân, rãy cỏ quanh hiên nhà, vẽ cờ trước đầu nhà... Chúng tôi đây là Tổng Bộ Trưởng, công chức cao cấp, dân biểu, nghị sĩ, thẩm phán, giám sát viên, đô trưởng... mới được gọi chung dưới cái tên ngụy quyền. Sát cánh với chúng tôi là các tên tuổi như Trần Trung Dung, La Thành Nghệ, Trần Văn Tuyên, Nguyễn Xuân Phong, Nguyễn Bá Lương, Trần Minh Tiết, Bùi Tường Huân, Văn Văn Của...Phía bên kia nhà chúng tôi là Khối Cảnh Sát gồm các sĩ quan Cảnh Sát cap Tá. Cạnh Khối Cảnh Sát là Khối Đảng Phái có mặt từ Ông Vũ Hồng Khanh đến các đảng viên của các Đảng hoạt động dưới thời Việt Nam Cộng Hòa. Và sau chót là Khối Tình Báo gồm tat cả cấp chỉ huy và nhân viên tình báo chậm chân.
Chúng tôi từ các điểm trình diện học tập được di chuyển về đây với đoàn bộ đội hộ tống trang bị tới răng, mũi súng lúc nào cũng chăm chăm muốn nhả đạn. Trong đêm tối, ngồi trong xe bít bùng bốn bề kín mít, chúng tôi thi nhau đoán mò địa điểm được chở tới dựa theo những vòng quẹo của xe. Chẳng ai đoán đúng cả. Chỉ khi bước chân xuống xe vào lúc hai giờ sáng, nhìn quanh quất, nhóm Bộ Xã Hội mới nhận ra Làng Cô Nhi Long Thành, một địa điểm quen thuộc của họ. Sáng hôm sau, mở mắt dậy, chung quanh toàn những tai to mặt lớn quần xà lỏn áo may ô ngồi thừ người trên chiếu cá nhân, tôi bỗng có cảm tưởng như mình đang ở hậu trường sân khấu. Mới Tổng Bộ Trưởng, Dân Biểu, Nghị Sĩ, Tổng Giám Đốc, Giám Đốc... đó mà giờ đây ngồi giơ xương ra với nhau chẳng rằng chẳng nói.
Hơn sáu tháng đã trôi qua kể từ ngày chúng tôi đi trình diện để học tập cải tạo một tháng. Đúng thời gian một tháng quả là có những dấu hiệu lạ. Nhà thầu dọn dẹp bếp núc, thu vén nồi niêu soong chảo trong nỗi mừng khấp khởi của chúng tôi. Ai cũng chong mắt nhìn ra cửa trước cho xe đò tới rước về. Một đám bụi mù tung ngoài đường đất cũng bóp nghẹt được cả ngàn con tim. Rồi xe cũng xuất hiện bon bon chạy vào trong trại. Chỉ có hai xe. Làm sao đủ? Nhưng những chiếc cổ mà bây giờ có cho cài khuy cổ thắt cà vạt chắc nút cà vạt sẽ lỏng le, vẫn cứ nghểnh lên chăm chú quan sát. Xe dừng lại trước vuông đất trống gần nhà bếp. Quản giáo te te tái tái tập trung một đội tù dắt ra xe. Từng bao gạo được khiêng xuống. Gạo sao mà nặng thế! Từ đó chúng tôi có thói quen nhìn gạo trong kho nhà bếp để đoán ngày về giống như mấy ông thày bói nhìn chân gà khô để đoán vận mạng con người. Lấy chân gà mà đoán số cho người cũng như lấy gạo để đoán thời gian ở tù dĩ nhiên là sai bét. Nhưng chúng tôi chẳng biết bấu víu vào đâu cứ nhè lấy mấy bao gạo làm phao hy vọng. Chìm là cái chắc!
Chán gạo chúng tôi đi tìm ngày về ở thế giới siêu hình. Hai pho tượng Đức Mẹ và Phật Bà Quan Âm lớn bằng người thật do Làng Cô Nhi lập ở ngoài sân được chúng tôi thành tâm hỏi han nhiều nhất. Rồi đoán mộng, cầu cơ, tử vi, bấm độn, coi chỉ tay, bói dịch, coi lá... Chẳng thứ nào chúng tôi chê cả. Mọi khả năng để mở cửa trại ra về được chúng tôi phát huy triệt để. Nói chuyện với quản giáo, chúng tôi cố gài những câu hỏi xa gần để xem có khai thác được tí ánh sáng nào không. Mỗi nhà có một quản giáo, tính tình và trình độ học vấn khác nhau. Quản giáo nào cũng như thần thánh. Mỗi câu nói được chúng tôi suy đoán, tán hươu tán vượn ra rồi đồn nhau. Từ nhà này qua nhà kia lời đồn đãi mỗi lúc mỗi phồng lên. Mà chúng tôi có tới 8 nhà tất cả. Đủ khả năng để từ một trái banh quần vợt phồng lên thành trái bóng chuyền! Lời đồn nào cũng đầy hồ hởi được chúng tôi ôm trong lòng làm thức ăn nuôi hy vọng. Không hy vọng làm sao mà sống!
Lời đồn đắt giá nhất được mọi người vểnh tai nghe và căng người ra cho đợi phát ra từ Khối Đảng Phái. Một ông bạn của Nguyễn Hữu Thọ, đã từng nuôi con của Nguyễn Hữu Thọ khi ông này vào bưng làm Chủ Tịch Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, đang nằm trong khối này. Một bữa có một phái đoàn báo chí Saigon gồm các ký giả đội nón cối tới thăm trại. Con trai của Nguyễn Hữu Thọ có mặt trong phái đoàn này tới gặp riêng người đã nuôi mình. Anh hỏi ông có cần gì để anh mang vào. Tao chỉ cần thuốc suyễn thôi! Bác cần bao nhiêu viên? Về hỏi bố mày xem muốn giam tao bao nhiêu ngày thì mang vào từng đó viên.
Không biết anh ký giả này có mang thuốc vào không và mang bao nhiêu viên nhưng ngày lễ Độc Lập 2 tháng 9 ông này được ra về cùng với khoảng chục người đa số là các chị ở nhà nữ. Chúng tôi tái tê trước một sự thực đơn giản mà chẳng ai nghĩ ra: vào cùng ngày nhưng không phải về cùng ngày. Tái tê hơn nữa khi báo Nhân Dân đăng tin người học viên cải tạo cuối cùng của Trung Quốc vừa được thả về sau hai mươi lăm năm học tập. Chúng tôi xìu như bánh tráng gặp mưa. Nhưng chỉ ít ngày sau lại đồn đãi, lại hy vọng. Chúng tôi ở cái thế không hy vọng không được. Gặp nhau chào hỏi bằng câu:
" Có tin gì không?". Rồi thì thầm bơm hơi cho nhau sống.
Hy vọng của chúng tôi đặt vào lễ Giáng Sinh. Nhưng lễ Giáng Sinh cứ lừng lững tiến tới mà chẳng có chuyển động gì. Chúng tôi lại bé cái lầm lần nữa. Cộng Sản đâu có mừng lễ Giáng Sinh! Không những không mừng mà còn cấm chúng tôi mừng lễ nữa. Chúng tôi có xin phép cử hành thánh lễ. Câu trả lời dứt khoát là không được. Thêm một lệnh cấm trước ngày lễ: không được hát thánh ca. Chúng tôi cảm thấy hụt hẫng. Dù theo Thiên Chúa Giáo hay không, dân miền Nam vẫn coi lễ Giáng Sinh như một ngày vui tỏ bày sự thân ái và an bình giữa gia đình và bằng hữu. Chúng tôi tự động từng nhóm một quây quần nhau trong đêm thánh này để sưởi ấm cho nhau.
Nhóm chúng tôi khoảng chục người tụ họp nhau bên cạnh gốc ổi. Vài anh có sáng kiến cắm đèn cày vào hũ đựng chao treo toòng teng trên những cành ổi. Trên tấm ván nhỏ dùng làm bàn chúng tôi gom góp lại được ít viên kẹo, vài thanh đường tán, lon gô trà và chiếc điếu thuốc lào. Chúng tôi kể cho nhau nghe những lễ Giáng Sinh trong đời mình. Dưới ánh đèn cày lung linh và những vệt sáng đỏ bập bùng từ chiếc điếu thuốc lào chuyền tay nhau, tôi nhìn quanh những khuôn mặt đồng cảnh chung quanh. Nửa năm tù đã đẽo gọt mặt mũi bạn bè tôi thành những góc cạnh cứng cỏi vêu vao. Chúng tôi có chung những đôi mắt buồn bã vô hồn. Nỗi chán chưong hằn rõ trên từng khuôn mặt. Vài anh bạn trẻ, bất chấp lệnh cấm, hát nho nhỏ những bài thánh ca quen thuộc. Chúng tôi ngồi chết lặng. Nước mắt chực hờ chỉ muốn chảy ra. Đại Sứ Phạm Trọng Nhân tóc lơ thơ bạc trắng, hàm răng nhấp nhổm chỉ muốn nhào ra khỏi miệng, rít một hơi thuốc ròn rã, thở ra một chùm khói và một câu than:
- Buồn bỏ mẹ, các cậu nhỉ!
Một anh bạn trẻ đưa tay đỡ chiếc điếu cày, tay vê vê bi thuốc, cười buồn:
- Sắp tết rồi còn buồn kỹ hơn nữa, bố ơi!
Chữ tết thốt ra như một mũi kim chích đau nhói. Tôi chưa có thể tưởng tượng ra một cái tết trong tù, nhưng chắc phải lạnh tanh và buồn tủi lắm. Tôi hoảng hốt ném ra một câu thăm dò:
- Chắc tết thế nào cũng có đợt về!
Hòn đá tôi ném ra khá nặng ký. Mọi người ào ào tranh cãi. Nói tới về thì có là thánh cũng chẳng thờ ơ được. Tán đi tán lại một hồi bao giờ mọi người cũng thú vị với những lời tán lạc quan nhất.
Tết như trái bóng sặc sỡ treo lơ lửng trong đầu chúng tôi. Các hãng tin đồn hoạt động mạnh mẽ xoay quanh con số người sẽ được thả. Nhà bếp đã bắt đầu mua heo về vỗ thịt. Bao nhiêu con heo? Bao nhiêu người chia nhau một con heo? Lấy tổng số tù trừ đi số người sẽ ở lại ăn thịt heo thì ra số người được thả về. Dĩ nhiên toàn là đoán mò không. Anh nào cũng lắc đầu quầy quậy chẳng thèm ăn thịt heo tuy cả mấy tháng nay có trông thấy miếng thịt heo nó ra làm sao đâu.
Rồi tíu tít thông báo thi đua thể thao, lập ban văn nghệ, làm bích báo, tranh giải cờ tướng nhân dịp tết. Nghe mà phát nản. Nhưng rồi cũng phải tham gia. Sống với mấy anh quản giáo tích cực quá cũng có ngày sanh chuyện mà lè phè quá thì bị điểm mặt thường xuyên. Tôi nghĩ làm cho mình chìm đi trong đám đông là thượng sách. Phải nín thở qua sông. Tôi tham gia vào ban hợp ca toàn trại vừa ra cái điều không lè phè vừa được miễn lao động ở nhà tập dượt. Trưởng ban văn nghệ là nhạc sĩ Vũ Thành An, rất tích cực được quản giáo biết mặt, cán bộ biết tên. Từ ngày vào trại, chỉ với một đề tài " học tập tốt, lao động tốt " mà anh đã sáng tác được tới năm bảy bản nhạc được cán bộ phụ trách văn nghệ duyệt y để cho cả trại gân cổ tập hát mờ người. Trong một buổi tập dượt của ban văn nghệ, nhạc sĩ họ Vũ đã ôm đàn đứng hát cho anh em nghe chơi một bài anh vừa sáng tác, bài Giao Thừa phổ thơ của Lưu Trưong Khương cũng là một cải tạo viên trong trại. Trước khi hát anh giáo đầu là với bản nhạc này, anh đã trở lại dòng nhạc của anh. Thắp nến hồng lên em. Giao thừa về rồi đó. Ánh sáng ngoi trong đêm. Như bình minh đã lên. Ngoài kia xuân đang tới. Thơm ngát... Bao cành non lộc mới. Lòng thương em bấy nhiêu. Nôi con thơm giấc ngủ. Giấc thiên thần... Hãy ru con nho nhỏ... Bản nhạc nói đúng tâm trạng thương con nhớ vợ của chúng tôi trong những ngày cận tết nên được chuyền tay nhau chép lại để ngâm nga cho vơi niềm thương nhớ. Hai mươi mốt năm đã qua lời nhạc tôi chỉ nhớ lỗ mỗ phần đầu. Phần kết còn có hẹn hò ngày về coi đó mới là xuân thật. Xuân trong lòng xuân tươi.
Bích báo được diễn nôm là báo tường thì bắt buộc mỗi Nhà phải có một tờ. Đại Sứ Phạm Trọng Nhân ở cùng tổ với tôi bò lăn bò càng ra chiếu làm thơ. Dĩ nhiên là thơ xuân. Bài thơ khá dài tán nàng xuân ráo riết rồi kết bằng hai câu:
Xuân nay đoàn kết xuân đoàn tụ
Sao mãi thằng Nhân chửa thấy về!
Sứ Thần Ngoại Giao Nguyễn Cao Quyền nằm sát tôi và cụ Nhân vội can. Con xin cụ, cụ đưa bài thơ này ra thì tụi nó hành cụ nhỏ xác! Cụ cười nhạt. Moa đếch sợ, tỏi là cùng chứ gì! Bài thơ được treo trên tường. May phước chẳng sao cả. Anh em tủm tỉm thú vị. Cụ cười khoái chí. Nhưng cứ mỗi lần cụ lên cơn buồn cụ lại phán. Các toa ạ, chắc moa tỏi mất! Vật đổi sao dời, sau đó cụ cũng bảy tám năm lê bước chân cải tạo khắp đất Bắc, rồi cụ về, cụ qua Pháp đoàn tụ gia đình, cụ qua Montréal diễn thuyết về thơ Bàng Bá Lân. Tôi gặp cụ tại thành phố tuyết này. Bá vai bá cổ nhau, vỗ lưng nhau bồm bộp, cả hai cười toe toét. Này cụ! Khó tỏi gớm nhỉ? Mặt cụ căng lên. Tỏi thế chó nào được!
Trông cụ cổ cồn cà vạt lại nhớ ngày cụ may ô xà lỏn. Bữa ăn thì đâu có gì. Một tô cơm và một chén canh lõng bõng toàn nước. Vậy mà bữa nào cụ cũng trải chiếc khăn trắng, xếp muỗng xếp đũa thẳng thớm trước khi đi lãnh cơm. Rõ ra là một ông Đại Sứ. Nhiều lần nhìn cụ bày biện tôi nghĩ tới khóa học ngắn hạn Nghi Lễ và Ngoại Giao được tổ chức tại Bộ Ngoại Giao dành cho viên chức các Phủ Bộ lo về nghi lễ hai năm trước. Trong khóa này cụ là giảng viên chính và tôi là một học viên. Trong bài dậy về tổ chức tiệc ngoại giao cụ đã chỉ cặn kẽ cách bày bàn tiệc, xếp chỗ ngồi, nghi thức dự tiệc, nghi thức đón khách.... Từ bàn tiệc tráng lệ dọn làm mẫu tại Bộ Ngoại Giao tới vuông vải trắng trên chiếc chiếu cá nhân và dáng ngồi ăn lom khom của cụ, tôi thấy như mình vừa hụt chân hụt cẳng.
Giữa ba chúng tôi, cụ luôn luôn cười phô răng ra chống đỡ những châm chọc của Quyền và tôi. Một hôm Quyền liếc mắt về phía cụ lớn giọng nói với tôi cốt cho cụ nghe. Đáng lẽ cụ tếch được đấy chứ nhưng vướng em út nên cụ kẹt, giờ cụ nằm đây kỹ quá chắc các em cho cụ dze từ khuya rồi! Cụ cười hì hì. Tôi chẳng hiểu nụ cười của cụ. Có thật hay không? Nhưng buổi tối họp sinh hoạt Nhà tập hát bài Trường Sơn Đông Trường Sơn Tây tôi bỗng nổi máu đùa dai ngồi nghĩ đổi lời bài hát để chọc cụ. Qua một đêm tôi cải biên xong lời ca. Ngày hôm sau tôi ghé tai hát nhỏ cho Quyền nghe. Anh phá ra cười rồi tìm cụ mách. Thằng này nó chọc cụ, cụ ơi! Cụ đòi nghe. Ra chỗ vắng vẻ tôi hát. Cùng đứng ngắm chung một vầng trăng, hai đứa ở hai đầu xa thẳm. Đường ra về mùa này đẹp lắm. Người bên đông nhớ người bên tây. Ở bên đông anh ăn, anh ăn khoai sắn hơi nhiều, con đường cải tạo khó khăn gập ghềnh cho đời anh nát. Hết rắn rồi anh bắt cóc anh ăn. Còn bên tây em sống vẫn phây phây, hết ăn rồi lấy xe đi tìm kép, biết rằng em bắt được kép lạ, chắc em quên đời có anh rồi... Nghe xong cụ lại cười hì hì.
Quyền dặn tôi đừng hát cho ai nghe không lại khốn cái thân. Dĩ nhiên tôi ngu gì mà trình diễn ca nhạc miễn phí. Ăng ten loe ngoe trong nhà, biết ai thật biết ai không. Cán bộ quản giáo bao giờ cũng ca cái điệp khúc cũ rích. Ở hay về là tùy ở các anh, cứ học tập tốt lao động tốt là ra về thôi. Trong mục học tập tốt dĩ nhiên có khoản báo cáo với cán bộ những hành vi của anh em. Một số người cam tâm làm ăng ten để mong sớm được về. Cỏ đuôi chó chỗ nào mà chẳng mọc được. Một ông làm tới Tổng Giám Đốc đã làm một bài thơ ca tụng họ Hồ nhân ngày lễ Độc Lập. Trong một buổi họp Nhà nhân ngày lễ lớn, viên quản giáo vắt vẻo ngồi trên ghế, ông khúm núm đứng đọc bài thơ, đọc xong lại khúm núm dâng bài thơ cho cán bộ bằng cả hai tay. Mắt ông chẳng quên nhỏ chút nước mắt cho thêm phần đậm đà. Chúng tôi chỉ cười thầm với nhau và tránh xa những tên khả nghi.
Chiều chiều cơm nước xong ( cơm nước có gì đâu mà không xong! ), chúng tôi thường kéo nhau đi bách bộ trên con lộ chính trong trại, hành động được gọi là bát phố Catinat! Người đi lên đi xuống kìn kịt. Rặt một thứ may ô quần đùi. Tất cả các Nhà đều túa ra ngoài. Gặp bạn quen là hỏi nhau có tin gì mới không. Chỉ có một thứ tin được chú ý. Về! Ngày nào cũng hàng đống tin. Toàn những diễn giải lạc quan tếu. Nghe cho vui rồi cứ ôm ảo ảnh mà hy vọng.
Quyền là một người lúc nào cũng lạc quan yêu đời. Ít khi vắng nụ cười trên chiếc miệng rộng nằm trên bộ mặt dài. Anh có nhiều tài. Hát. Vẽ. Chẳng gì cũng là anh của họa sĩ Ngy Cao Uyên. Anh vẽ chân dung khá đạt. Tôi nằm bên cạnh được anh lôi ra vẽ chân dung đến mòn da mặt. Nói chuyện tếu cũng là cái tài của anh. Dép nhựa được chúng tôi mang theo chỉ vài tháng là đứt quai lung tung. Chúng tôi khắc phục bằng cách dùi lỗ lấy dây ni lông cột lại. Dây thì vớ được mẩu dây là quí xá chi cái chuyện màu sắc lặt vặt.
Lệnh của cán bộ là cấm đi dép vào trong nhà lát gạch bông nên dép xếp đầy ngoài cửa. Quyền nhìn đống dép cột dây mầu loạn xạ, phán. Cứ y như đồng bóng, điệu này thì vợ nó bỏ hết cả lũ!
Khi cán bộ loan báo cho phép gửi thư về nhà báo tin nhân dịp tết nhà nước khoan hồng cho mỗi người nhận 5 kí đồ gửi qua bưu điện, người nào người nay buồn muốn khóc. Hy vọng gì vào đợt về tết nữa! Quyền cười toe. Moa sẽ viết một đơn đặt hàng thật khẳm, ít ra cũng phải một kí giò lụa cắn cho ngập răng.
Bác sĩ Thăng, một cây chịu chơi, đồng ý ngay. Thăng có bộ mặt rất ngổ ngáo được Quyền đặt cho hỗn danh là Đốc Tơ Django. Một bữa buồn tình tôi lê tới chiếu của Thăng đấu:
- Này cậu, ở trong này đi khám bác sĩ tiện thật. Cứ xà lỏn thoải mái lại chẳng phải chi xu nào cả.
Thăng trợn mắt nạt:
- Ăn nói hay nhỉ! Có bệnh gì thì khai đại ra đi.
- Bệnh đau bụng.
- Có mỗi một cái bụng mà cũng bày đặt đau. Mà cơm canh có mẹ gì đâu mà đau bụng!
- Bị hôm qua có thằng bạn không biết xoay đâu ra mà cho một miếng cháy có phết chút mỡ. Vừa đút vào miệng là nó trôi tuột xuống bụng cấp kỳ.
- Đúng rồi! Lâu ngày không ăn thịt ăn mỡ, ăn vào đau là phải. Lần sau bạn có cho thì đưa tớ ăn cho!
Chúng tôi cứ chia nhau những niềm vui nho nhỏ như vậy cho qua ngày tháng. Ngày tháng cứ tấp tểnh nhảy bước một tới cái tết. Mỗi ngày trôi đi là niềm hy vọng ngày về của chúng tôi hụt mất một mảnh. Mãi tới khi ông Táo về trời xong xuôi rồi tin đồn mới nở rộ lên. Mấy ông thày địa lý, thày bói dịch, thày xem lá... cũng xác định là sẽ có chuyển động. Mặt tên nào tên nay nở thêm ra một chút. Đêm nằm ngủ tôi cứ vơ vẩn với ý nghĩ được ra về. Thư của vợ gửi vào cho biết là bây giờ dạy học chẳng có giờ giấc gì. Dạy một, họp hành và học chính trị tới mười. Nhiều đêm phải ở lại trường khuya lắc khuya lơ. Hai đứa con một phải gửi bà nội, một gửi bà ngoại. Gia đình có bốn người chia làm bốn mảnh. Càng nghĩ càng thấy nẫu lòng.
Sáng dậy tỉ tê với Quyền:
- Mùa này ra về chắc đẹp lắm toa nhỉ?
Quyền toác miệng ra gọi cụ Nhân:
- Này cụ, thằng này nó đòi về đấy cụ ạ.
Cụ Nhân buồn ra mặt, chậm rãi:
- Thì ai về được mừng cho người đó. Chắc tớ còn lâu lắm.
Tối 25 tết có hiện tượng lạ. Quản giáo kêu ba người lên làm việc. Gặp quản giáo về, ba anh mặt hớt hơ hớt hải im thin thít không nói tiếng nào. Anh em rề rề theo hỏi các đương sự cứ lơ đi. Nhiều anh nổi cáu chửi thề um sùm cũng chẳng có kết quả gì. Miệng nào miệng nấy như được đóng khằng năm lần bảy lượt. Rất khuya, đợi cho anh em chui vào mùng ngủ hết, các đương sự mới lò mò thắp đèn cầy trong mùng ngồi viết. Quyền vạch mùng nói nhỏ với tôi:
- Tụi nó viết cảm tưởng. Chắc chắn mai sẽ có đợt về.
Mặt tôi giật giật tê điếng. Lạy trời cho có tên tôi. Người tôi như có nguyên một ngọn núi lửa đang phun xối xả. Lật qua lật lại chán mà chẳng ngủ được, tôi mò dậy đi tiểu. Vừa quơ được đôi dép bước ra cửa tôi giật mình nhìn ra bụi cây trước nhà. Một bóng trắng đầu phủ khăn cũng trắng toát ngồi bất động giữa lùm cây. Tôi tính quay vào kêu Quyền thì bóng trắng nghe thay tiếng động quay người lại. Tôi lên tiếng:
- Ai đó?
- Hướng đây.
- Cậu ngồi làm gì đó?
Tôi tiến sát tới bên Hướng. Giọng anh nặng nề:
- Hồi hộp quá ngủ không được ra ngồi cầu nguyện.
Tôi ngồi chồm hổm bên cạnh Hướng. Mặt anh đẫm nước mắt. Tay anh nắm chặt chuỗi tràng hạt. Anh thều thào:
- Mai mà không được về chắc tôi chết mất cậu ạ!
Tôi định an ủi anh nhưng miệng nói không nên lời. Lòng tôi cũng đang tơi bời còn an ủi được ai. Tôi không muốn dối mình dối người. Tôi lẳng lặng bỏ đi. Mai mà không được về tôi sẽ ra sao? Tôi rùng mình. Trời đêm cuối năm thật lạnh.
Sáng hôm sau, 26 tết, cán bộ tất tưởi tay cầm cuộn giấy lên kêu họp nhà. Mọi người vội vàng vào hàng ngũ. Chưa bao gio anh em lại tập họp nhanh nhẹn đến như vậy. Tôi nhìn quanh. Mọi khuôn mặt đều căng lên hồi hộp. Bụng tôi đánh lô tô. Đang ngồi tôi đứng lên nói với đám bạn quen ngồi cạnh:
- Đứng lên một cái lấy hên!
Chẳng ai cười. Người nào cũng còn đang bận đội một thúng chì trên đầu. Mọi cặp mắt đều dồn vào tờ giay trên tay cán bộ. Tôi thấy trang giấy đen kịt chữ. Chắc cũng phải vài chục tên. Có tên tôi trong đó không? Tôi nhấp nhổm như muốn soi thủng những con chữ trên tờ giấy.
Cán bộ lên tiếng yêu cầu im lặng. Căn phòng lặng ngắt tức thì. Cán bộ giáo đầu cà kê về chính sách khoan hồng của nhà nước. Tim tôi nhảy loạn xạ. Được về hay ở lại? Hai tình huống xa nhau như Thiên Đàng Địa Ngục. Tai tôi hững hờ với những sáo ngữ rỗng tuyếch đang phát ra từ cái miệng bôi mỡ. Rồi giây phút định mệnh cũng đến. Tên người đầu tiên được xướng lên. Kẻ diễm phúc đứng phắt dậy mặt mũi ngơ ngác tái mét. Tôi bấm đốt ngón tay đếm từng tên. Ngón tay cái chạy gần hết bốn ngón tay kia thì tên tôi được đọc lên. Tôi đứng phắt dậy. Có phải chân tôi đang chạm đất đây không? Đầu tôi lỏng le như chẳng có gì ở trong. Mặt mũi tôi tê rần. Tai tôi lùng bùng nghe tiếng quản giáo hỏi:
- Anh ở nhà này à? Sao tôi ít thấy mặt anh?
Lạy trời đừng có gì trục trặc. Môi tôi như gắn hàm thiếc không nói năng được gì. Tai tôi lại lùng bùng nghe:
- Anh ngồi xuống.
Tôi ngồi phịch xuống. Chiều nay mình sẽ ở nhà mình. Tôi cố làm quen với ý nghĩ mới mẻ này. Những khuôn mặt quanh tôi nhũn ra khi cán bộ gấp tờ giấy lại. Tôi nhìn thấy nét bàng hoàng hoảng hốt, tôi nhìn thấy những giọt nước mắt vội vã, tôi nhìn thấy những khuôn mặt nặng nề cố nuốt nỗi thất vọng. Và tôi cũng nhìn thấy nỗi mừng vui cố dấu kín của những người có tên. Hướng nhìn tôi cười. Anh cũng được về. Một anh mới bị cảnh cáo vì tội trộm rau ngoài vườn cũng có tên trong số những người...học tập tốt! Chúng tôi về chỗ thu xếp đồ đạc để lên hội trường. Một vài người bám lấy quản giáo hỏi han. Bỗng quản giáo lớn tiếng kêu:
- Anh nào là Đào Văn Hướng?
Hướng vội chạy lại đáp:
- Thưa cán bộ, tôi.
- Anh sinh năm nào?
- Thưa cán bộ, năm 1937.
- Lộn rồi. Anh không có tên. Tên trong danh sách là Đào Văn Hưởng, sanh năm 1927, là anh này đây.
Người Hướng đổ nhào xuống. Nỗi tuyệt vọng đã đánh gục anh. Mắt anh như đôi mắt giả vô hồn ngơ ngáo nhìn quản giáo. Mọi người xúm lại quanh anh.
Tôi ngồi thừ trên chiếu. Bạn bè tôi túa đến. Người dặn dò tôi ghé qua nhà, người xin các vật dụng cá nhân, người dúi vội mẩu giấy nhắn tin về nhà... Tôi bỏ lại hết đồ đạc lèo tèo của mình cho anh em, nhẹ tênh ra sắp hàng lên hội trường. Quyền chạy theo tôi. Nhớ ghé nhà moa nghe! Tôi đảo mắt tìm cụ Nhân. Bóng cụ ủ rũ ngồi dựa tường. Tôi nhìn hàng người lố nhố đứng nhìn những con người may mắn bước ra khỏi cổng trại. Bên kia hàng rào có chòi gác là hội trường. Tiếng máy phóng thanh thúc dục ra lệnh làm thủ tục ra về. Mỗi người được phát một ổ bánh mì thịt. Tôi đứng gặm bánh mì nhìn vào trại. Trời giữa ngọ nắng gắt chói chang. Những bóng người lụm cụm lui tới. Phải mất bao nhiêu thời gian để các bạn tôi tiêu hóa được nỗi bất hạnh ngày hôm nay. Thăng đứng cạnh tôi đã lủm gần hết ổ bánh mì. Tôi nhìn bụng anh, anh nhìn bụng tôi. Hai đứa toét miệng cười. Cái bụng có đau thì kệ thây nó!
Đoàn xe bộ đội đưa chúng tôi về bò ra khỏi con đường đất bụi mịt mù gặp Quốc lộ 15 quẹo mặt. Đường về Saigon. Nỗi bàng hoàng chưa rời khỏi chúng tôi. Ôm nỗi vui mừng quá lớn lao mà chúng tôi ngồi im thin thít không dám nói năng gì. Gió lồng lộng tung hồn tôi lên cao. Tôi nhắm mắt tận hưởng nỗi sung sướng tưởng chừng như nổ tung người ra. Cầu Xa Lộ. Ngã tư Hàng Xanh. Saigon đây rồi. Đoàn xe chạy vào vườn Tao Đàn. Dân chúng đổ xô chạy theo. Khi xe ngừng cho chúng tôi xuống thì con đường nhựa giữa vườn nối liền hai cổng đường Nguyễn Du và đường Hồng Thập Tự đã đầy nhóc người. Những câu hỏi tíu tít trả lời không kịp. Mọi người, nhất là các bà có chồng đi học tập, muốn níu chúng tôi lại hỏi chuyện. Chúng tôi thì muốn bay về nhà ngay. Tôi vất vả luồn lách ra được tới đường Hồng Thập Tự. Một anh xe ôm trờ tới:
- Thày lên xe em chở về.
Tôi leo lên xe. Anh xe ôm vui tính bắt chuyện suốt đoạn đường về tới Thị Nghè. Tới nhà tôi bước xuống bảo chờ tôi vào lấy tiền ra trả. Anh khoát tay:
- Tiền nong gì thày! Em là lính cũ. Các thày về là mừng rồi. Thôi, chào thày em đi.
Tôi ngẩn ngơ đứng nhìn chiếc xe rú ga lao đi. Cạnh tôi, một nhóm người tụ tập quanh chiếc xe ba bánh trên có một thùng phuy và chiếc bơm. Một hàng can nhựa cáu bẩn xếp hàng ngoằn ngoèo trên vỉa hè. Mặt mũi người nào cũng thấy căng thẳng nhìn vào mực dầu hôi trong chiếc bơm. Chắc là dầu tiêu chuẩn ngày tết. Tôi quay bước vào đường hẻm. Đứng trước cửa nhà tim tôi đập loạn xạ. Tôi đã về tới nhà. Chúa ơi, sao lại có lúc sung sướng đến như thế này! Bên trong cửa sắt tiếng cười nói ồn ào. Tôi thò tay vào mở cửa. Con chó vàng sủa inh ỏi. Mày không nhận ra tao sao kiki? Bố mẹ tôi, anh chị tôi, vợ tôi, các em tôi há hốc miệng ra nhìn. Mấy can dầu, dăm ba gói nhu yếu phẩm trong những bao nhựa đen đúa nằm ngổn ngang dưới đất, những thứ vừa mang lại tiếng cười nói vui vẻ ồn ào của gia đình tôi, bỗng bị bỏ quên. Mọi người tái mặt chạy ra ôm lấy tôi nắn nắn xem có thực là tôi không. Chắc chẳng ai ngờ tôi lại hiện ra vào những ngày giáp tết như thế này.
Tôi cúi xuống ôm đứa con gái đầu lòng. Nó te tái chạy vào phòng, núp sau cánh cửa ló đôi mắt đen nhánh ra nhìn. Nó chẳng nhớ tôi là ai. Phải vài ngày sau con tôi mới ôm tôi thỏ thẻ với giọng ân hận: Con lạ ba! Tôi ôm chặt lấy con. Làm sao có thể nói cho đứa con ba tuổi hiểu được rằng chính tôi cũng chẳng còn là tôi. Mất đi gần chục kí thịt có nhằm nhò gì so với khoảng mù mịt trước mặt, khoảng mù mờ sau lưng. Tôi trắng tay quá khứ và què quặt tương lai.
Tôi cố xua đi mọi phiền muộn. Dù sao tôi cũng lê được cái thân xác xơ về với gia đình vào một ngày cận tết. Chẳng phải cận tết. Năm đó tôi chỉ có một cái tết. Vào ngày 26 tháng chạp!.
Song Thao
Theo http://vietnamthuquan.eu/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

  Hoài Vũ - Đau đáu về một ‘miền xanh’ Nói đến nhà thơ Hoài Vũ, có thể ít người biết, nhưng nói đến bài hát Vàm Cỏ Đông thì ngược lại. Vàm...