Thứ Năm, 3 tháng 10, 2024

Dây tơ đồng

Dây tơ đồng

1. Cún
Ngày mới chào đời, tôi cũng có tên Tây tên Mỹ như ai, nếu tôi nhớ không lầm tên tôi là “Cool”, thế mà từ ngày ông chủ Mít mang tôi về đây, ổng gọi riết, tên tôi bị đổi thành ” Cún” hồi nào không hay!
Chủ tôi dạo này đổi tánh hơi kỳ cục, lúc trước buổi sáng tôi đòi đi dạo mát ở công viên gần nhà, ông Mít lười dẫn tôi đi lắm. Nhưng dạo sau này chủ tôi siêng hơn, nhất là hai ngày cuối tuần. Mà nghĩ cũng lạ, đã bảo là đi tập thể dục mà cứ ra đến công viên là ông Mít kiếm ghế đá ngồi phịch xuống, rồi ôm cái điện thoại cầm tay nói miết! Tôi phải đứng đợi hoặc chỉ được đi loanh quanh đó thôi, nhìn các bạn tôi đi ngang với vẻ mặt kênh kiệu thật là dễ ghét! Có hôm tức mình, tôi quay lưng bỏ chạy, chủ tôi đâm hoảng, gọi giật ngược lại, lúc ấy mới chịu dắt cho tôi đi thêm một lúc rồi thả bộ về nhà.
Thỉnh thoảng tôi hay chuồn ra ngoài cho khuây khỏa, lần này lợi dụng sự sơ hở của chủ nhà, tính chạy ra ngoài hóng gió chút xíu rồi về, nhưng bị tổ trác! Đúng như người xưa có câu:”Ra đường gặp gái!”, mới ra cửa gặp một em, trông cũng được mắt, cứ nhìn thấy cái tướng đi ngoe nguẩy, nhí nha nhí nhảnh là tôi chịu hết nỗi, lẽo đẽo theo làm quen, ham tán tỉnh quên cả làm dấu lối về, thế là tôi đi lạc hồi nào không hay! Trên đường mò về nhà, đã bị lạc lung tung, đói bụng gần xỉu, thì lại gặp bà già Mỹ trắng thiệt kỳ thị, cứ xua đuổi tôi như đuổi tà, tôi chỉ tính gầm gừ cho bà ấy sợ chơi thôi, thấy bà ấy dụ khị tôi lại gần bằng miếng thịt thơm phức, tưởng chuyến này được cưng chiều, ai dè bà ấy chụp lấy tôi rồi bỏ lên xe chạy lòng vòng thiệt lâu. Tôi ăn no lại buồn ngủ, gió hiu hiu mát, lim dim được một lúc, thấy xe ngừng, giật mình tỉnh giấc ngó ra thấy chỗ lạ hoắc, đâu phải nhà của tôi đâu:” Điệu này là hết đường gặp lại chủ Mít của tôi rồi”.
Bà già bỏ tôi lên quầy, giao cho một cô gái trẻ:
” Tôi bắt được nó chạy rong ngoài đường và rất hung dữ, nó tính cắn tôi nữa đấy!”
“Bà an tâm, cứ giao cho chúng tôi, ở đây chúng tôi sẽ lo tất cả.”
Thôi rồi! Đây là trại tù chung thân của các đồng bạn như tôi. Thảo nào vừa đến nơi, tôi đã đánh hơi được nhiều mùi quen thuộc và ồn ào quá! Chủ tôi cưng tôi lắm, ở nhà một mình một cõi, cả một cái sân trước, sân sau rộng mênh mông, chiều chiều mát trời ra hóng gió, yên tĩnh. Buổi sáng, buổi tối có người dọn cơm nước cho ăn, chả bù lại chỗ này sao mà xô bồ, nhức đầu quá!
Giấy tờ làm xong, họ nhốt tôi vào tù, cái phòng bé tí có đến 5, 7 đứa đã ở trước tôi hồi nào rồi! Có đứa mặt rầu rĩ, chả thèm chào một tiếng khi tôi bước vào, có đứa thì gầm gừ, kênh kiệu kiểu ” dằn mặt”, làm như sợ bị chiếm mất phần ăn hay chỗ ngủ của nó không bằng, thật là khó ưa! Lúc này tôi mới thấy hối hận, nhớ chủ, nhớ nhà quá xá! Mặc dù đôi lúc cũng bực bội chủ Mít lắm, cứ đến các dịp lễ là bắt tôi trùm quần áo đủ kiểu không để cho tôi yên chút nào, cứ lôi tôi ra chụp hình, hết tấm này đến tấm khác! Vào đây rảnh quá hay sao không biết, đêm nào cũng thao thức nằm nhớ lung tung. Nhớ có một lần chủ Mít dẫn tôi đến nhà bạn, thả tôi ra sau vườn chơi, Trời! cái nhà gì thiệt là sang trọng, quý phái, tiếp khách nồng hậu thế không biết nữa. Tôi thích ở đầy, tha hồ chạy nhảy tung tăng, lại có kẹo ngọt rải đầy sân! Nhưng hơi lạ, mới nuốt có hai viên thôi mà sao nghe khó chịu trong người quá đi mất, sao chóng mặt thế này? Hay là tôi bị say nắng? Cảm hay trúng gió rồi chăng? Tôi chỉ kịp vào đến chân ông Mít là té lăn đùng, sùi bọt mép không còn biết trời trăng mây nước gì nữa hết. Ông Mít lập tức chở tôi vào nhà thương cấp cứu. Họ phải súc ruột tôi và giữ tôi nằm lại đêm đó. Té ra những viên kẹo ngọt đó là thuốc giết ốc! ” Lỗi tại tôi mọi đàng”, tôi hối hận quá, nhất là khi đón tôi ra khỏi nhà thương, nhìn cái mặt méo xẹo lúc nghe nói tiền phòng $200 đô một đêm chưa kể tiền Bác sĩ, tiền khám khẩn cấp, tôi thương ông Mít thiệt tình. Hình như lúc nào người ta cũng hối hận khi chuyện đã rồi cả!
Đã hai ngày trôi qua, tôi bị họ mang ra hết rút máu thử nghiệm đến nghe tim gan phèo phổi. Tôi muốn hét lên cho họ biết là:”Tôi rất khoẻ mạnh và chưa có điên đâu”! Chỉ mới có hai ngày mà tôi tưởng chừng như đã mấy tháng, tôi biết mình bị xuống ký lô vì biếng ăn. Một phần cũng tại vì phải ăn chung chạ, tụi đồng phòng bộ đói sao mà ăn mau quá, tật của tôi là phải ăn chậm nên hôm nào cũng đói meo.
Chiều qua nghe lão chủ trại tù nói chuyện với ai qua điện thoại hình như có nhắc đến tên tôi. Lão còn cả gan gọi thử tên tôi nữa, sao mà đúng phong phóc, tôi mừng ngoe nguẩy đuôi, mừng chẩy nước mắt, thiệt là cảm động khi có người “biết” tôi.
Sáng nay vừa thức dậy đã nghe có giọng nói quen thuộc phía trước phòng tiếp khách, nhìn trộm qua khe cửa, tôi mừng hết lớn luôn. Ai như chủ tôi đang đứng nói chuyện với lão cai tù. Chút sau tôi được mời ra nhận diện rồi lại bị mang vào phòng trở lại:” Ơ hay, tôi muốn theo chủ tôi về nhà, tôi chán ở đây lắm rồi! Trời đất ơi, thử nghiệm rút của tôi bao nhiêu ống máu rồi chưa đủ sao mà thử hoài vậy? Tôi chưa có điên đâu, sao chích thuốc hoài vậy?”
Thêm hai ngày kinh hoàng nữa tôi mới được ra khỏi tù. Chủ Mít đến đón tôi thật sớm, sau khi đóng tiền phạt để lãnh tôi ra, ông Mít tròng vào cổ tôi sợi dây chuyền mới toanh, khắc tên tôi và số điện thoại nhà. Tôi như kẻ chết đi vừa sống lại. Chuyến này tôi xin chừa cái tật đi hoang của tôi. Tôi đã biết ăn năn hối lỗi, trên xe, nghe những lời trách móc, rầy rà ” đáng yêu” của ông Mít mà tôi thấy vui gì đâu.
Nhưng rồi ngày lại ngày, trong vòng tay ấp yêu cuả chủ, cuộc sống quá an lành thanh nhàn, tôi lại thấy hình như thiếu vắng.
Tôi thường lén thả tâm hồn mơ đến “cái ngày ấy”. Cái ngày gặp “em” lần đầu tiên.
Cái ngày “Ra đường gặp gái!”, mới ra cửa gặp một em, trông cũng được mắt, cứ nhìn thấy cái tướng đi ngoe nguẩy, nhí nha nhí nhảnh là tôi chịu hết nỗi, lẽo đẽo theo làm quen, ham tán tỉnh quên cả làm dấu lối về, thế là tôi đi lạc hồi nào không hay…
Chỉ tiếc rằng không được như Lưu Nguyễn nhập Thiên Thai mà lịch sử cũng không thể nào trùng diễn. Cún tôi đành giữ mối tình câm cho riêng mình.
11/2003
2. Chiếc áo cuối cùng
kính tặng cô linh bảo,
nhân dịp hai cô cháu mình bàn về “chiếc áo cuối cùng”.
(04-14-2003)
Trong buổi mạn đàm với một số bạn vong niên, có người đặt câu hỏi ở Mỹ bằng cấp gì quan trọng nhất. Ai cũng kể tên một số bằng cấp dài lê thê và oai vang kinh hồn. Đợi mọi người khai thác hết bằng cấp sang trọng quí giá, một bà bạn già từ lâu ngồi khiêm nhượng trong góc phòng mới lên tiếng:
-Theo ý tôi, ở Mỹ cái bằng quan trọng nhất là bằng lái xe. “Thượng vàng” thì không nói làm gì, mà cũng không nhiều. Còn “hạ cám” mới là hằng hà sa số, không có bằng lái xe thì không còn làm ăn gì được!
Không biết có phải vì “kính lão đắc thọ” không, mà đến đây mọi người ngừng tranh cãi và chưng bằng cấp, quay ra bàn tán thêm về cái bằng lái xe. Ai cũng đồng ý nó quan trọng và đáng yêu vô cùng, không có giống như què tay què chân. Vắng người yêu một tháng không sao, vắng bằng lái một tháng thì dám mất việc lắm!
Tâng bốc vốn không phải là “nghề của nàng” nhưng tôi rất đồng ý với bà già gân này, cái bằng lái thực đáng vinh danh là đệ nhất quan trọng. Này nhé, khi ta đang lái xe phom phom dù trên đường thiên lý hay ở một xó góc tối hù nào trong ngõ hẻm, mà bị “bạn dân” chận xe, thì bạn dân này đâu có cần biết ta là ai. Kỹ Sư, Luật sư, Bác sĩ, hay anh chàng khố rách áo ôm. Xe ta lái là xe 100 ngàn hay xe cà khổ rách nát tơi bời, cũng đều nhận được một chào kính, tiếp đến là câu: “Xin cho tôi xem bằng lái!” Lại còn khi ta đi mua bán món gì, nếu trả bằng thẻ tín dụng, dù ít chục, vài trăm hay bạc ngàn, không có cái bằng lái xe trình diện thì món hàng sẽ không thể nào ra khỏi cửa. Lần đầu tiên trong đời phát biểu của tôi được mọi người đồng ý
Bắt đầu từ tuổi 16, các cô cậu choai choai đã mong thi lấy được cái bằng lái, người lớn tuổi thì thôi khỏi nói, được rồi phải o bế kỷ, giữ giới luật giao thông cẩn thận, không uống rượu lái xe, nhớ đóng thuế lưu hành, mua bảo hiểm đều đều hàng năm, có thế ta với mình mới sống chung hòa thuận đến nửa thế kỷ được.
Nhưng không phải chuyện một lần là trăm năm, khi các em tuổi 18 đã thành Ông thành Bà rồi. Các Cụ đã lên thượng thọ “ Thất thập cổ lai hy” rồi, mà vẫn còn muốn tự lái xe vì con cháu lập gia đình xong, chúng đều “ Nước non ngàn dặm …” mất tiêu hết, không còn ai chở đi Bác Sĩ, đi chơ…... Các cụ phải thi lại, chứ không được phây phây đợi bằng gia hạn gởi đến tận nhà như thời xuân còn xanh. Các cụ phải khám mắt xem có còn đọc dấu hiệu từ xa được không, tai còn thính, cảm giác còn bén nhạy, phản ứng có chớp nhoáng………?…. Lại còn cái mục thi viết mới toát mồ hôi hột! Bài thi từ 30 (?) câu trở lên tùy theo quá trình lái xe tốt lành hay bê bối, có bị giấy phạt nhiều, có đụng xe, có say rượu đấu võ với ai không để được lãnh bài thi dài hay ngắn. Trả lời sai 5 lỗi là rớt và nếu rớt luôn 3 keo, sẽ bị thi lái xe lại, chân tay lạng quạng rớt cả mục thi lái thì đành phải học cách thức đi xe Công Cộng có tài xế mở cửa lên xuống hầu vậy.
Điều tôi muốn nói đây không phải mục thi viết, thi lái hay khám tai, khám mắt, mà là cái tấm thiếp hứa hiến tặng thân xác được gửi kèm theo bằng lái xe sau khi thi đậu. Tấm thiếp nhỏ, đại khái hỏi xem nếu lỡ không may mình lăn đùng ngã ngựa, chết bất cứ vì lý do gì thì có muốn “phát bồ đề tâm” hy sinh hiến tặng thể xác cho khoa học không. Có cho phép xử dụng phần nào trong thân thể: Tim, gan,thận, phổi, mắt, da…. một thứ, vài thứ, tất cả các thứ linh tinh, hay toàn thân cho những người đang cần những bộ phận này, hoặc cho trường đại học để sinh viên thực tập mổ xẻ nghiên cứu. Ngoài tấm thiếp ký cho phép ghi chú rõ ràng, còn có một mảnh giấy con nhỏ như hạt tiêu, có in chữ “donor” ( hiến tặng) để dán vào bằng lái xe. Đấy là dấu hiệu chứng cớ mình đã vui lòng “bút sa gà chết”. Mặc dầu danh sách những người chờ đợi được thay mắt, tim, gan, thận v.v….dài dằng dặc. Nhưng biết đâu “Hữu cầu tất ứng“ mà!
Tôi còn nhớ ở Việt Nam, không có nghề chào hàng bán đất, bán hòm, ai cần thì tự tìm đến. Hồi mới tới Mỹ, nghe các hãng mời mua đất mua hòm đặt trước để dành, hàng tháng chỉ việc trả góp, nhiều người không thích vì thấy quá lo xa, hoặc sợ xúi quẩy. Có khi họ còn bị chửi cho một trận là ” tại sao dám trù ẻo”. Nhưng lâu ngày bạn bè thân quen có khi còn đem chuyện đặt trước Sanh Phần ra đùa giỡn, dặn dò mua đất gần nhau hoặc chọn vùng đồi núi để còn được ngắm cảnh lúc về bên kia thế giới! Cố nhiên là nghĩa địa Mỹ cũng giống như nhà ở Mỹ chia lô ra sẵn cả rồi, không còn chọn lựa phương hướng Long Chầu Hổ Phục gì được. Miễn có một chút xíu phong cảnh hữu tình là đã may mắn lắm rồi. Các lô đất nằm sát rạt nhau và chôn lì xuống dưới đất để mỗi cuối tuần xe cắt cỏ chạy làm việc cho dễ! Có khi đi ngang một nghĩa trang, nhìn thấy đồi cỏ xanh với nhiều chỗ có hoa nhìn thật mát mắt, chỉ muốn dừng chân nghỉ, thì ra đó là đồi cỏ với trăm nghìn nấm mộ.
Một lần tôi đi theo bà bạn thân, chồng vừa mất, đến viếng văn phòng chuyên lo “Hậu sự”. Thật là một kinh nghiệm quý giá nên định trước để khỏi phiền những người ở lại, nhỡ mình thình lình theo ông bà lên ngồi “trên nóc tủ”.
Thấy bạn có vẻ ”tang gia bối rối” tôi lãnh phần gọi điện thoại tìm dịch vụ chôn cất dùm. Mở tờ báo Việt Nam ra đọc, tìm không khó gì mấy vì vỏn vẹn chỉ có một văn phòng thôi, nên cũng đỡ mất nhiều thì giờ tìm kiếm. Hình như chỉ có nghề này ít ai dành giật muốn nhào vào làm. Mừng vớ được khách hàng, chủ nhân hẹn gặp chúng tôi càng sớm càng tốt. Trưa hôm ấy, tôi lái xe đến đón bà bạn tới văn phòng Hậu Sự, nơi đây cũng là nhà quàn và nghĩa địa luôn. Hai chị em chúng tôi ngồi chờ ngoài phòng đợi thật lâu mới thấy cô chủ tiệm xuất hiện. Cô bước vào vội vã, không một lời xin lỗi đã để khách hàng chờ đợi quá lâu. Cô mời chúng tôi vào văn phòng, và bắt đầu đưa ra danh sách đã liệt kê sẵn, kiểu mẫu bộ này, bộ nọ, bao gồm những gì trong đó, giá cả bao nhiêu, hòm loại nào, gỗ tốt xấu, tiền chôn cất, tiền phòng, tiền linh tinh đủ thứ. Ngoài ra còn cho chúng tôi xem những cái hòm mẫu bé tí như đồ chơi.
Dĩ nhiên giá hỏa thiêu rẻ hơn, vì chôn cất cần hòm đựng xác gọi là Quan, luật còn bắt buộc phải có hòm đậy gọi là Quách, lại còn đất chôn, mộ bia, nghi lễ tôn giáo, hóa trang, móc ruột gan, hoa chưng bày, giờ thăm viếng …. Muốn chết cho yên thân thực không dễ! Bà bạn tôi chọn hỏa thiêu theo ý nguyện của chồng. Từ lâu tôi vẫn nghe nói thiêu rẻ lắm, chỉ trong vòng trên dưới 600 đô, nhưng tôi lầm to. Đó là giá của hãng bốc xác trực tiếp ngay từ trong nhà thương, ho sẽ bao lo cả thủ tục khai tử. Hãng lãnh xác về thiêu xong sẽ giao lại cho khổ chủ một bình tro. Công tác hoàn tất. Trường hợp của bạn tôi không đơn giản như thế nên cần phải đặc biệt thương lượng.
Cô bán hòm có vẻ mặt nghiêm trang như chia buồn cùng tang gia. Thỉnh thoảng chuông điện thoại cầm tay reo, cô nói chuyện thì thầm to nhỏ, mặt vui tươi hẳn lên. Cô cuời khúc khích một cách sung sướng, quên rằng khách hàng đang chờ đợi.
Sau cuộc điện đàm thú vị. Cô trở lại với thực tế, thay đổi vẻ lạnh lùng nãy giờ tiếp chúng tôi. Cô ngọt ngào trình bày:
• Hòm này gỗ thường giá $2,900, còn cái kia là gỗ thông chỉ mắc hơn có $1000 thôi, nhưng tốt hơn nhiều. Người ta hay chọn loại gỗ thông này, dù sao Áo Quan cũng là “chiếc áo cuối cùng” của người quá cố.
• Cái liễn này giá $500, sau khi đốt xong, sẽ bỏ tro vào đây cho chị mang về. Chị nên chọn cái liễn bằng gỗ thông này cho hợp với cái hòm gỗ thông chị đã chọn.(!)
• Phòng để cho anh nằm 1 ngày $250, chị định thiêu vào chủ nhật, vì là ngày cuối tuần nên mình phải trả “ giờ phụ trội” thêm $100 đô cho nhân viên…
Cô ta nói thao thao bất tuyệt như cái máy phát thanh, tôi nghĩ thầm: “ Họ đang lợi dụng lúc tang gia bối rối để đánh đòn tâm lý đây! Cái liễn này mà dám cứa $500! Đến mấy tiệm bán hoa, bình, hũ lọ, những cái hộp đủ hình dáng, mạ vàng, bạc láng cóng, nhiều lắm cũng chỉ mười mấy đô! Đã vậy còn bày đặt xúi người ta mua cái liễn bằng gỗ thông cho hòa hợp với cái hòm, thiêu xong thì hòm cũng cháy rụi và mình thì cháy túi. Nhìn những cái hòm làm bằng gỗ thường, mặt ngoài như dán giấy hình gỗ giả, bên trong chắc chỉ là ván ép ” mạt cưa” thôi chớ đâu phải là gỗ thật, thế mà cũng chặt đẹp gần $3000. Ngoài ra còn có nhiều giá khác từ rẻ nhất là loại gỗ thường cho đến những cái mắc hơn, giá khoảng $8000! Bên trong bọc nệm êm và lót ” xa-tanh” mát rượi. Mắc kiểu này thì nên mua trước mang về nhà làm giường ngủ, nằm cho đã lưng, mai mốt chết chôn hoặc thiêu luôn cũng đỡ đau bao tử.
Cô nàng còn hỏi tiếp nhiều lắm mà tôi không nhớ hết, nào là:
– Chị muốn đặt sẵn ba vòng hoa để trên nắp hòm không? Một vòng của chị tặng ảnh, một của con tặng cha, một của bạn bè tặng ảnh lần cuối. Ba vòng hoa cộng thuế chỉ có $350 thôi à.
Không hiểu bà bạn chuyến này về có bầm chân hay không, vì bị tôi cứ ngồi đá chân bà ấy dưới gầm bàn để ngăn chận sự tiêu tiền vô lý. Mấy cái vòng kết hoa cúc và cẩm chướng, nhỏ khoảng bằng chiếc nón lá mà tính bằng giá 1 lượng vàng y. Mình tự làm lấy cũng được. Hoặc bạn bè đến thăm viếng, phúng điếu là hoa đã chật phòng rồi, đâu đến nỗi gia đình phải tự tặng!
Chưa hết đâu, nhà trước là nơi để quan tài cho bạn bè thân nhân tới viếng thăm trong một thời gian hạn định. Lúc đẩy quan tài vòng ra phía sau khu vực nhà quàn là tới phòng hỏa thiêu, có lẽ đếm được chừng mười mấy bước. Giá tiền cũng được tính gọn thêm khoảng một trăm mấy. Tôi ngồi tính nhẩm trong bụng, như thế một bước đi của mình cũng đáng giá tới mười mấy đô!
Cô bán hòm còn lịch sự hỏi thêm:
– Chị theo đạo Công Giáo hay đạo Phật? Nếu chưa mời Cha hay Thầy thì đây tôi cũng có.
– Thiêu xong muốn mang tro ra biển rải, dịch vụ này ở đây cũng có luôn.
– Tôi tính giá “đặc biệt“ cho chị, tôi sẽ ghi lùi lại ngày chị đến gặp tôi, như thể chị gặp tôi trước ngày anh ấy mất, bởi vì mua sớm hơn, nghĩa là trước ngày qua đời thì giá rẻ hơn. Cộng thêm chi phí trả cho dịch vụ của văn phòng chúng tôi $4000 nữa, tổng cộng là $10,984.27 đã bao gồm thuế má rồi. Nhưng nhờ giá đặc biệt, chị được trừ bớt $1230.00. Thỉnh thoảng cô bán hòm lại nhắc:
– Áo Quan là “ Cái áo cuối cùng” của một đời người. Mình phải cố làm cho thực sang trọng để đẹp mặt anh ấy. Phải không chị? 
Bà bạn tôi quả thật bị động lòng vì ngón đòn tâm lý “đẹp mặt”, nên dưới sự hướng dẫn nhà nghề của cô chủ tiệm, bà đã chọn toàn thứ “sang trọng”, kết quả gần mười ngàn đồng bay cái vèo, nhưng đây chỉ mới là dịch vụ đốt xác thôi, nếu là chôn cất thì chao ôi! Còn hàng nghìn thứ cần phải hạ hồi phân giải …. Tổng số chi phí an táng sẽ không phải chỉ có thế. Lại còn khoản nghi thức hành lễ tôn giáo cũng chưa bàn đến….
Sẵn dịp tôi hỏi vài điều thắc mắc với cô bán hòm:
-Nếu như người chết không có tiền đốt hay không có thân nhân còn sống để lo cho mình thì sao cô?
Đổi sang giọng nghiêm trang, lạnh lùng, cô ta nói:
– Õ đây chúng tôi cũng có “cho mướn” quan tài, cho người chết mướn nằm ít hôm, đến chừng đốt chúng tôi lấy lại. Nhưng ai làm như thế bao giờ! Cái Áo cuối cùng của một đời người phải làm sao coi cho được chớ!
Hình như cô ấy không trả lời câu hỏi của tôi. Nghe có vẻ trống đánh xuôi, kèn thổi ngược quá. Đã chết không có thân nhân lo liệu, cũng không có tiền đốt, mà cô đòi “cho mướn” quan tài, để rồi hồn ma nào trả tiền mướn đây!
Cuối cùng cô còn quảng cáo thêm:
– Nếu người chết có ước nguyện muốn được chôn cất bên Việt Nam, chúng tôi cũng có thể lo từ đầu tới cuối, mang xác về Việt Nam cho họ. 
Sau màn thủ tục lựa chọn trên giấy tờ và nhìn mấy cái quan tài mẫu nhỏ tí như đồ chơi, cô ta dẫn chúng tôi đến xem tận mắt “ đồ thật “, tôi cũng hơi rờn rợn khi bước vào căn phòng đầy quan tài được xếp thành hàng dài. Thấy người ra vào khá tấp nập, không ngờ thiên hạ chết cũng dữ ta!
Xem đến phòng thiêu xác thấy nó bé tí như cái lò nướng bánh mì không đủ chỗ cho thân nhân đứng. Nhưng tôi biết phòng ấy không phải để cho ai đứng cả. Xác được di chuyển đến rồi là mọi người lập tức ‘’đi chơi chỗ khác”. Có lần tôi viếng đám tang một người bạn, tới cái màn hỏa thiêu khi hòm được đẩy vào rồi thì cửa phòng đóng mất tiêu, không ai được trông thấy gì hết. Thiêu hay không? Thiêu cả hòm hay bị lột hết ra, lấy lại vật liệu vừa tiết kiệm vừa đỡ tốn lửa? Thiêu chung hay riêng từng đám? Không ai biết! Chỉ biết vài hôm sau, gia đình bạn nhận được một cái bình đựng tro mang về thờ phụng.
Đã nhiều lần tôi đọc báo thấy tin tức về những dịch vụ hỏa thiêu bị điều tra. Nào là công ty nhận xác rồi không đốt, hoặc một lần đốt nhiều xác cho đỡ tốn tiền “ lửa củi”. Hoặc là đưa cho tang gia một bình tro gì không biết…
Ngày xưa, lúc còn ở trong nước, thỉnh thoảng có dịp theo cha mẹ đi thăm các bậc trưởng thượng, tôi thường thấy trong nhà hay để một cỗ quan tài. Tôi sợ hãi tưởng có người chết nhưng Bà nội tôi cắt nghĩa cho tôi biết là các cụ có niềm tin cỗ quan tài là chiếc áo cuối cùng của cuộc đời. Các cụ muốn ăn chắc. Nghĩa là được chính mắt trông thấy “Chiếc áo cuối cùng” gọi là “Thọ đường” ấy. Thọ đường thường sơn đỏ, Gỗ phải là thứ gỗ tốt, cứng chắc không dễ bị mối mọt. Ngoài ra nếu nhà giàu còn chạm trổ Long Ly Quy Phượng rất đẹp. Về phần miếng đất chôn, gọi là Sanh Phần cũng phải nhờ thầy Phong Thủy chọn lựa công phu. Có được Sanh Phần và Thọ Đường rồi, các cụ mới cảm thấy thoải mái sung sướng, yên trí là một mai khi mình “nằm xuống” mọi sự đều như ý.
Trên đường lái xe chở bà bạn về, cả hai đều yên lặng. Riêng tôi, đầu óc suy nghĩ miên man. Con cái mình quanh năm bận bịu công việc, chồng con, bổn phận, công danh, sự nghiệp của nó, thường không rảnh dù chỉ để thăm thôi, chứ không hề mơ đến sự “quạt nồng ấp lạnh”. Mẹ nó còn sống sờ sờ mà chưa chắc Xuân Thu nhị kỳ nó đã có chút thì giờ nào cho mẹ, Ngoài tấm thiệp bán sẵn có những giòng chữ đầy thương yêu cũng đã in sẵn, huống hồ nghĩa lý gì sau khi chết. Tại sao lại còn phải lái xe hàng trăm dặm để nhìn nấm đất vô tri vài phút giây. Bạn bè thì quanh năm cũng ai lo phận nấy, bận rộn vô cùng, tại sao lại làm người ta cảm thấy có bổn phận phải bỏ công việc đến nhìn cái xác trong hòm của mình, cái xác mà họ chưa chắc thích gặp khi còn sống!
Tôi chợt nhớ đến câu chuyện Bà già tự tổ chức đám ma cho mình làm tôi bật cười. Có một cụ cao niên nọ, một hôm bỗng gởi thiệp mời tất cả bà con bạn hữu đến nhà vui chơi. Cơm no rượu say rồi, chủ nhân mới cho biết lý do buổi họp mặt. Bà nói: Tất cả quý vị đều là bà con, bạn bè thân thiết của tôi đã lâu năm. Tôi biết tôi sắp từ giã các bạn vĩnh viễn. Vậy có ai thương tôi, hay ai có lời hay ý đẹp gì về tôi, xin phát biểu ngay bây giờ. Đừng đợi đến khi tôi chết rồi mới mua hoa, làm chay cúng giỗ linh đình, nói nhiều lời ca tụng thân ái. Lúc ấy tôi đã nằm trong hòm chết rồi, đâu có nghe để cảm ơn quý vị, và trên đời cũng không còn gì quan trọng đối với tôi nữa!.
Tôi chắc Bà cụ đã nghe nghìn lời thân yêu, và được con cháu ôm hôn tới tấp như mưa ngay lúc ấy. Bà già này khôn thật!
Còn tôi và đám bạn thì có khi còn đùa nhau:
– Mai mốt tao chết, mày đi phúng bao nhiêu? Đưa tao trước tao xài, tao còn mang ơn và mày nhìn thấy tao biết ơn chúng mày.
Chết là hết! Linh hồn đã lìa khỏi xác bay mất, nhục thân chẳng còn nghĩa lý gì cả, lại trả về với cát bụi. Tang lễ to lớn, mồ yên mả đẹp rồi cũng dầm sương dãi nắng với thời gian, còn hỏa thiêu thì hũ tro này hay là tro gì khác cũng chỉ là tro bụi, thêm choán chật chỗ trên nóc tủ của gia đình các con, hay xó góc, bàn vong của một Chùa Đền nào đó thôi. Bạn tôi phản đối:
-Ơ hay, thế còn những vụ có người không có cả tiền đốt mà làm di chúc ước ao được chôn cất ở quê nhà. Mấy cụ này làm đồng bào quyên góp phờ người ra mới đủ tiền thỏa mãn xác chết được thối nát trên đất quê hương.
Tôi nghĩ thầm rằng nếu các xác chết chở về mà làm cho nước mạnh dân giàu được thì dù có phải bán nhà để đóng góp tôi cũng vui lòng. Tôi lại nhớ đến cái rừng vòng hoa trong những đám táng tôi đã từng dự…. Hoa ơi là hoa! Sao mà nhiều thế, từ sân trước ra sân sau chen chân không lọt. Giá mấy chục ngàn tiền vòng hoa ấy được dùng vào việc khác thì... Chao ôi... Sự anh hùng...
Năm nay một tháng trước ngày sinh nhật, cũng là ngày bằng lái của tôi hết hạn, Nha Lộ Vận không quên nhắc nhở tôi đóng thuế lưu hành xe, kèm theo giấy tờ bảo hiểm cần thiết để được gia hạn sớm cho tiện việc sổ sách của cả hai bên. Thật là chu đáo làm sao! Nhân dịp giúp bà bạn lo việc hậu sự, tôi đã học thêm được một ít kinh nghiệm về chôn cất trên xứ người, và cũng giác ngộ được với cảm nghĩ của cuộc sống phù du. Nhờ vậy hôm nay, nhìn cái bằng lái xe mới tinh vừa nhận được, kèm theo những văn kiện phải ký kết, tôi không ngần ngại điền ngay vào mục “ hiến tặng toàn thân xác” (donate my entire body) cho nghiên cứu khoa học.
Mai đây, may ra một thiên tài sẽ khám phá được điều gì mới lạ bổ ích cho đời! Hay Lục phủ Ngũ tạng của tôi có thể giúp được ai đó chút hy vọng kéo dài thêm cuộc sống còn tràn đầy yêu thương.
3. Một sàng khôn
Để tưởng niệm chú Võ Tá Bá
(1 tháng 11, 2004)
Lúc viết truyện Chiếc Áo Cuối Cùng, tôi không nghĩ rằng mình sẽ “nhiều chuyện” và có truyện thứ hai chào đời, nhưng không ngờ hôm nay lại ngồi viết những dòng chữ này.
Chuyện “Chiếc Áo Cuối Cùng” viết lần đầu khi nghe người bạn kể về chuyện đi mua hòm “khẩn”, khi gia đình có thân nhân qua đời bất ngờ. Lần này chẳng cần phải nghe qua ai cả, đích thân hai Cô cháu tôi là “đương sự “. Và đã học được “Một sàng Khôn”.
Nhà có người bệnh thập tử nhất sinh, màn đầu tiên của người biết lo xa là gọi lòng vòng khảo giá, làm hẹn và tìm gặp các cơ quan chuyên lo việc hậu sự.
Hai Cô cháu tôi chắc có duyên nợ gì từ kiếp trước hay sao mà cứ được dịp là kiếm chuyện đi chung, làm việc chung với nhau luôn, từ công việc cho đến chuyện ăn chơi.
Chú tôi bị bệnh nằm trong nhà Dưỡng lão đã lâu, mà thân nhân chỉ còn là các Anh Chị của Chú,và các Cháu là Anh Em chúng tôi lui tới thăm nom. Cả nhà đồng ý quyết định phải lo trước việc hậu sự cho Chú.
Tôi gọi một vài nơi hỏi giá, sau đó chọn ra hai chỗ, gọi làm hẹn để đến xem và nói chuyện tận mặt như vậy mới dễ dàng hỏi được những thắc mắc của riêng mình.
Chỗ đầu tiên, Nghĩa Trang ở khu vực thị tứ, tiện cho thân nhân đến thăm, và lẽ dĩ nhiên giá tiền cũng cao ngất tận nóc nhà.
Ngoài tiền Quan, Quách, thủ tục giấy tờ, nhận di hài, nhập quan, tiền bia, còn thêm tiền phòng, tiền sửa sang, chỉnh hình, tiền ra vào phòng lạnh, bao nhiêu ngày để đó cho thân nhân bạn bè đến thăm viếng, tính tới tính lui cũng trên chục ngàn.
Sang đến chỗ thứ hai, dù không hề nghe quảng cáo trên radio, nhưng được bạn bè giới thiệu, giá cả cũng phải chăng, rất hợp cho những người không đủ khả năng tài chánh và không còn vợ con như Chú tôi. Phần Quan, Quách, mộ bia và thủ tục giấy tờ xong, chúng tôi phải đến một văn phòng khác để mua đất.
Tại Văn Phòng bán đất, người bán cho biết thủ tục và giá cả xong xuôi, chỉ cho chúng tôi một bản đồ vị trí khu chôn cất, với các lô đất có đánh số. Bản đồ được vẽ to, treo trên vách tường.Lô nào đã có người mua rồi, lô nào còn lại.
Sau khi xem bản đồ treo trong văn phòng, muốn xem tận nơi cho biết, chúng tôi theo địa chỉ, tự đi tìm tới nghĩa trang. Thật đúng là tiền nào của nấy, nếu mua đất ở các nghĩa trang mắc tiền khác, họ còn có xe chở bạn đi một vòng thăm nghĩa trang. Ðến ngay lô đất bạn muốn, nếu bạn là người cần phải xem hướng. Còn văn phòng này chỉ có một nhân viên ngồi, và là một tổ chức của một cơ quan thiện nguyện, vì thế nên giá tiền cũng gần như nửa giá.
Sau khi nghe trình bày, điền giấy tờ và đóng một số tiền cọc, chúng tôi “an tâm” ra về. Ở đây có chương trình trả góp thấy cũng dễ chịu, có thể trả làm hai hay ba kỳ là xong.
Một giờ sáng, mùng 1 tháng 11, 2004, đươc gọi báo tin Chú tôi mất, em tôi có mặt ngay. Theo thủ tục của nhà Dưỡng Lão thì họ chỉ giữ xác bốn tiếng đồng hồ trong khi chờ đợi người nhà vào nhìn mặt lần chót và chờ nhân viên nhà quàn đến lãnh thi thể.
Trong vòng bốn tiếng đồng hồ, không cách nào Viện liên lạc được với chỗ chúng tôi đã đặt mua hậu sự. Họ định nếu không bắt được liên lạc thì phải dùng nhà Quàn khác.
Ðiều không vui là trên giấy tờ thì ghi rõ ràng là phục vụ 24/24, nhưng khi khẩn cấp gọi, cần chuyên chở đến Nhà Quàn thì chỉ nghe máy trả lời bảo xin để lời nhắn tin sẽ có người gọi lại!
Có lẽ người canh giữ điện thoại ngủ gục, hay đi dạo loanh quanh cho khỏi buồn ngủ. Làm sao biết được giờ nào có người chết, người trực đêm ôm điện thoại chờ mỏi mòn. Chờ đêm này sang đêm khác, không thấy ai gọi cả, chán quá, đi chơi một lúc cho giãn gân cốt chăng!!!!
Chờ nhà quàn đến mang xác Chú tôi đi xong, em tôi mới về nhà nghỉ ngơi. Tôi chờ sáng, đến giờ các công sở làm việc, mới liên lạc để hỏi thủ tục chôn cất. Cứ chừng nửa tiếng, tôi lại gọi đến văn phòng hậu sự nhưng chả có ai nhắc điện thoại ngoài cái lời nhắn trong máy lập đi lập lại đến phát thuộc. Cô tôi sốt ruột, lái xe chạy đến tận văn phòng thì mới biết 11 giờ sáng họ mới mở cửa. Cuối cùng rồi cũng gọi được nói chuyện với “một người thật”.
Sau khi hỏi xem ngày nào Chú tôi được chôn cất, chúng tôi mới phác giác thêm rằng cái chương trình hậu sự chúng tôi đã mua sẵn từ trước, cả nhà đinh ninh là mình quá chu đáo, đã lo xong xuôi mọi chuyện, đã không bao gồm tiền đào và lấp đất. Một khi chưa trả khoảng tiền này thì nhân viên của Nghĩa Trang không đào lỗ làm sao mà chôn!
Chúng tôi thật là chưng hửng! Lúc mua chẳng ai nói cho biết điều này. Họ bảo văn phòng này chỉ lo kim tĩnh, văn phòng khác lo về đất đai! Không hề nhắc đến việc đào đất, lấp đất, vì công việc này là bổn phận của Nghĩa Trang.
Nghĩa Trang là một tổ chức khác. Mặc dầu bạn đã làm xong thủ tục nhập quan, và cũng đã có chủ quyền lô đất; nhưng đào và lấp đất là quyền của Nghĩa Trang. Khoảng chi phí này không thể đặt cọc, mua trước, vì giá sinh hoạt mỗi tháng, mỗi năm một khác.
Chúng tôi lại dắt díu nhau đến Văn Phòng của Nghĩa Trang để làm giấy tờ, thủ tục để người “ra đi” được mồ yên mả đẹp.
Cộng trừ nhân chia xong, tiền đào, lấp đất, cắt cỏ quanh năm, và công chôn tấm bia giá gấp rưỡi tiền lô đất.
Ðúng là “đoạn trường ai có qua cầu mới hay”! Sao không có ai chỉ dẫn rõ ràng cho mình từ trước nhỉ? Có thể là họ nghĩ: ” Không phải việc của tui, tui không xía vô!”.
Nghĩa địa chôn cất Chú tôi rất lớn, vào khu nghĩa địa có thể tìm ra được “quê hương” của người Việt Nam chúng ta ngay, lướt qua hàng ngàn bia mộ rải rác khắp nơi, cứ nhắm theo hướng cái cổng có mái chùa mà đi tới. Hỏi ra thì được biết công ty bán đất cho chúng tôi đã mua lại một khu đất nhỏ trong Nghĩa Trang, rồi chia lô ra bán lại làm một khu riêng biệt. Ðiều đặc biệt là giá tiền một lô đất của Nghĩa Trang đắt gần gấp đôi, giá bán của khu riêng biệt này, có thể là một Công Ty vô vị lợi. Tôi không rõ.
Theo kinh nghiệm bản thân, đừng tin tưởng như lời người xưa:
” Ði một bước đàng, học một sàng khôn “.
Thời buổi này, nếu sơ ý có thể như chúng tôi, phải đi cả dặm đàng, mới học được một chút xíu khôn!
Mỹ Ngọc
11/2004
4. “HẮN” Người lữ hành cô đơn
Chuyến bay từ San Diego đi Salt Lake City bị ngừng ở Phoenix, lẽ ra tôi chỉ việc ngồi lại trên phi cơ chờ hành khách lên, xuống rồi bay tiếp, nhưng chương trình bị thay đổi bất ngờ. Nhân viên hàng không thông báo tất cả hành khách đang ngồi chờ ở đây phải rời khỏi phi cơ, đến cổng số 31, đổi máy bay khác và sẽ được ưu tiên lên trước.
Thế là cả đám hành khách tức tốc lôi hành lý ra khỏi phi cơ, ai cũng vội vàng, kiểu vừa đi vừa chạy vì sợ trễ máy bay và nhất là khi thấy khoảng cách của hai cổng này thật là xa!
Vào phi cơ tôi lại gặp Hắn, Hắn đã vào ghế ngồi từ lúc nào rồi. Chuyến bay từ SD lên SLC, tôi đã thấy hắn, và không muốn chọn ghế ngồi gần. Thường tôi ít thích ngồi cạnh những người như hắn vì sợ bị quấy rầy, chuyến này không hiểu sao tôi lại đổi ý, ngồi cạnh thử xem sao.
Máy bay vừa chạy ra phi đạo, hắn đã quay sang hỏi:” Bao giờ cất cánh? Sao lâu quá vậy?”. Hắn hỏi lung tung quá! Chắc chuyến bay này tôi không được yên thân! Bắt đầu nhiều chuyện rồi đó!
Bay được một lúc, tôi lôi gói bánh trái ra tính nhâm nhi, hắn lại than đói bụng. Thấy tội nghiệp tôi chia cho hắn gói kẹo duy nhất mang theo. Hắn mở ra ăn ngon lành, gần hết gói kẹo, mới ” chợt nhớ” ra, hắn mời tôi một miếng, tôi lắc đầu, thế là hắn bỏ ngay luôn vào mồm.
Khi dấu hiệu gài dây an toàn vừa tắt, các nhân viên hàng không bắt đầu đi đến từng hàng ghế ngồi của hành khách, hỏi xem muốn dùng thức uống gì, đồng thời phát cho mỗi người 1 gói đậu phộng và một gói bánh. Lần này đặc biệt nhân dịp Lễ Tạ Ơn nên mọi người được thêm 1 thỏi kẹo Chocolat, bên ngoài miếng giấy bọc có ghi:”Cám ơn đã bay với chúng tôi nhân ngày Lễ Tạ Ơn”.
Hắn lại khều tôi nhờ mở giùm gói bánh, kẹo cho hắn. Tôi nghĩ thầm:” Sao yếu thế không biết!”
Ai cũng được phần ăn như nhau, nhưng hắn vẫn lịch sự, mời tôi miếng bánh, kẹo của hắn. Lần nào tôi cũng cười lắc đầu từ chối. Ăn hết phần coi bộ còn thèm, muốn xin thêm, tôi biết ý, giả vờ hỏi:” Mày muốn ăn nữa không?”. Hắn cười, gật đầu ngay, nhờ tôi xin dùm. Chờ cô nhân viên đi ngang, tôi xin cho hắn thêm thức ăn, thế là chuyến bay này hắn được gấp đôi phần ăn. Lần nào hắn cũng không quên mời tôi, và lần nào tôi cũng từ chối. Tôi nghĩ thầm:” Người đâu mà lịch sự quá vậy không biết nữa”. Hắn làm tôi cảm động!
Thói quen của tôi đi đâu cũng cầm theo giấy bút, Hắn thấy tôi hí hoáy viết, Hắn gạ:” Mày làm gì thế, khi nào xong cho tao mượn vẽ được không?”. Tôi giả lơ không trả lời, may quá hắn là người Mỹ nên không đọc được những dòng chữ tôi đang viết về hắn đây.
Hắn lại nhìn vào cái túi ni-lông tôi đang kẹp trước mặt ghế ngồi, hỏi:
” Cái gì trong đó vậy? Mở ra xem được không?”
“Không, đó là quà của bạn tao”.
Tôi nghĩ thầm trong bụng, mở ra mày sẽ chết giấc ngay, đó là lọ nước mắm tôi phải xách tay vì sợ đổ, tuy đã bọc đến 5, 6 túi ni lông rồi, lên máy bay vẫn còn nghe thoang thoảng hương vị quê hương, nên tôi đã cẩn thận xịt thêm chút dầu thơm cho mùi đừng bay xa. Mấy hộp bánh bột lọc cũng đã được gói kỹ cất trong xách tay và để trên nóc phi cơ, bảo đảm không sợ bay mùi.
Tôi quay sang hỏi hắn:” Lịch sự, thông minh như mày chắc Ba Má mày hãnh diện lắm nhỉ?”
“Ba Má tao không để ý đến tao”.
” Thế mày đi đâu lên đây?”
Hắn lắc đầu không nói. Suy nghĩ sao, một chút sau hắn bảo:” Tao kể chuyện bí mật cho mày nghe, tao lên đây gặp Joanna, Cô này có đông con lắm …”. Hắn nói đến đây rồi ngưng, tôi cũng hơi ấm ức, thắc mắc vô cùng nhưng không biết cách hỏi tiếp thành ra thôi...
Tiếng máy vừa loan báo sắp sửa đáp xuống, mọi người phải buộc dây an toàn, tôi lo cất lại giấy tờ, lôi hủ nước mắm ra để cạnh mình kẻo tí nữa sợ quên trên máy bay thì phiền. Hắn bận rộn nói chuyện với người hành khách ngồi cạnh cửa sổ nên để tôi yên. Máy bay đáp xuống an toàn, ai cũng vội vã, đứng lên, duỗi tay chân, lấy hành lý, mong mau ra khỏi phi cơ. Tôi và hắn cũng quên chào nhau và cũng quên hỏi tên nhau. Hắn vẫn còn ngồi đó chờ cô tiếp viên hàng không đến. Bước ra khỏi phi cơ, Cô tiếp viên hàng không quên cám ơn tôi đã giúp cô ấy ” tiếp chuyện” và lo cho hắn.
Phải ” phục” Hắn, thằng bé mới 6 tuổi bay từ SD qua SLC một mình, nói năng như người lớn. Lịch sự, đẹp trai, dễ thương, lớn lên chắc chết cả trăm ….Cô.
Trên chuyến bay về, máy bay dừng lại ở Las Vegas, tôi gặp một cô bé 6 tuổi rưỡi, cũng bay một mình, người hành khách ngồi sát cạnh cô bé hỏi, tôi nghe lóm được, mỗi tháng cô bé phải bay một lần, từ nhà Cha về Mẹ, hoặc ngược lại, chắc là Cha Mẹ các cô cậu bé này ly dị và con cái là nạn nhân, bị kẹt ở giữa hai lằn đạn.
Lại một người lữ hành cô đơn!
11/2004
5. Ði Ðâu Mà Vội Mà Vàng...
Ðã có lần tôi nêu câu hỏi với các bạn tôi:
– Bạn nghĩ gì mỗi khi lái xe hơi?
Có người bảo:
-Lên xe là mở nhạc to để nghe cho đã
Người thì:
– Mong mau chạy về nhà cho rồi …
Có bao giờ bạn “để ý” khi lái xe không? Nhất là những khi cần phải chạy đường dài, với thức ăn cầm tay đầy đủ và một đĩa nhạc hay, có lẽ đâu cũng tới nơi cả? Phải chi mỗi người chỉ ” để ý” nhau một chút, (không phải “để ý” là ” liếc mắt đưa tình” đâu bạn nhé), chắc “hiếm” khi tai nạn sẽ xảy ra.
Từ trong đường nhỏ ra xa lộ, xe bắt đầu chạy nườm nượp, hoặc đang chạy trên xa lộ, muốn đổi từ đường này qua đường khác, có khi bật đèn “xi nhan”, chả ai thèm nhường cho, bèn phải làm một màn “cao bồi”, lấn đại. Nghĩ cũng buồn cười, năn nỉ xin qua, nhất định không cho, tưởng sao, rồi cũng chỉ chạy trước mặt xe của mình, khi bị kẹt, quê thiệt.
Nhìn chung quanh sẽ thấy, người thì vừa lái vừa ôm cái điện thoại cầm tay, lái xe rất là lơ đãng, nguy hiểm vô cùng. Bực bội nhất là họ lại dùng đường dành cho xe chạy mau nhất, và chạy rề rề, vì bận nói chuyện điện thoại. Có nhiều hôm tôi còn gặp, người thì đánh răng, người thì kẻ lông mày, ăn uống, nhất là buổi sáng sớm, trên đường đến sở.
Lái xe sợ nhất là bị làm “miếng bánh mì kẹp thịt”. Xe mình bị lọt vào giữa hai chiếc xe hàng to tổ bố, mấy trường hợp này, tay lái không vững, có thể nguy hiểm đến tánh mạng như chơi. Nhiều xe hàng to, chạy ẩu, chạy mau, đi ngang qua cái vèo làm rung chuyển cả xe mình.
Tôi để ý thấy ở California, ngoài xa lộ, đôi khi có đến năm, bảy đường cho xe chạy, thiên hạ chạy tán loạn cả lên, đường ngoài cùng phía bên trái, dĩ nhiên để dành cho những người chạy mau, và để qua mặt các xe chạy chậm. Có nhiều xe “rùa” nhưng lại thích chạy đường mau nhất, và cứ rùa tiếp tục cản trở lưu thông, thiệt là rầu! Trong khi có vài lần lái xe trên các thành phố nhỏ, xa lộ chỉ có hai đường xe chạy lên, hai đường xe xuống, thiên hạ chạy thật là “lịch sự”, mỗi khi dùng đường chạy mau bên trái, qua mặt các xe chậm xong là họ đổi sang đường bên phải ngay, cứ thế mà chạy cho đến đích.
Nhiều đoạn đường thông suốt, nhưng cũng có nhiều đoạn bị ứ đọng. Tưởng sao, chỉ một tai nạn ở đường bên cạnh, mỗi người chạy ngang, chậm lại, liếc mắt nhìn một tí, cũng đủ làm nghẹt đường rồi!
Nhiều người chạy xe rất cẩu thả, đây là những “thứ” gây ra tại nạn oan mạng cho người khác. Phần đông là các cô cậu trẻ, mới học lái xe, hoặc muốn khoe xe xì po của mình, họ lách qua, lạng lại, có khi đua nhau trên xa lộ, nhìn họ mà lo ngại dùm, những lúc này trong bụng cầu mong sao có “bạn dân” đâu đó, “túm” dùm cho được việc. Nhưng hình như câu “Lúc cần không có, lúc có không cần” luôn luôn đúng. Mà lạ thật, người ta chạy ẩu như điên không sao, chắc là họ phải có số hên, còn mình mới “sơ ý” đạp ga, hoặc gặp đà đang xuống dốc, là “bạn dân” ở đâu đã lù lù “hộ tống “sau đuôi, còn “âu yếm” tặng cho cái thư tình, phạt nhẹ sơ sơ vài trăm đô. Chỉ tốn công đi học lớp dạy lái xe, nếu không muốn bảo hiểm bị tăng giá.
Tôi thường ví những dòng xe xuôi ngược (như dòng máu trong con người), thỉnh thoảng xe hư nhẹ (bệnh hoạn, cảm, ho hen), hoặc xảy ra tai nạn bất ngờ (đau tim), thế là làm nghẹt đường phố (mạch máu bị nghẽn), phải gọi cảnh sát đến giải tán (chờ bác sĩ cấp cứu), nếu là chuyện nhỏ thì tự giải quyết lấy (cảm xoàng, nốc vài viên thuốc mua ngoài chợ), nếu nặng phải kéo xe vào ụ chờ sửa (vào nhà thương nằm), bó tay thì xe vào nghĩa địa, mình cũng thế mà thôi, có thua gì những chiếc xe hơi đâu nhỉ, cũng già, cũ rồi bị đào thải.
Trước khi mỗi khi gặp những tay “anh chị” xa lộ, muốn lấn, lướt hoặc ghìm xe, tôi cũng thường nổi sùng, nóng máy lên, và lắm khi cũng “dàn mặt trận” cho biết tay. Nhưng sau này, có nhiều dịp chở cô tôi, một hôm gặp trường hợp ấy, cô tôi chỉ mỉm cười:
– Ðừng giận hắn em! Nhường đi! Anh chàng đang có việc gấp lắm. Quan hệ đến tính mạng!
– Sao cô biết?
– Biết chứ sao! Linh cảm mà! Không gấp thì sao lại quá vội vàng như…
Cô tôi ngừng, không biết vì câu ví quá nặng, hay vì muốn làm neo bắt tôi chờ đợi. Tôi làm nũng:
– Như... gì cô?
– Như.. gấp... phải đến cho đúng giờ...
– Giờ gì cô?
Cô tôi vẫn ngập ngừng:
– Thì... giờ... đầu thai chứ còn giờ gì quan trọng hơn nữa!
Trời! Bây giờ tôi mới hiểu tại sao cô ngập ngừng. Và tôi cũng lập tức giảm tốc độ, nhường cho “người có việc vội” qua mặt một các lễ phép, như trong đời chưa từng lễ phép với ai như thế bao giờ!
Dòng xe như dòng đời, một vòng luân hồi, chạy hoài không dứt.
Mỹ Ngọc
10/2004
6. Quảng cáo ơi là quảng cáo
Ai trong đời chắc cũng phải qua cái cảnh cầm đơn đi xin việc. Ít có người may mắn được nhận việc ngay, phần đông ai cũng được nghe cùng một ” âm điệu ” êm tai “Hồ sơ này khá lắm, …đừng gọi tôi, tôi sẽ gọi lại”. Nếu quá tin tưởng vào những lời mật ngọt này, bảo đảm sẽ thành ” cổ cò” vì ngóng đợi!
Bạn tôi là một hoạ sĩ đã tốt nghiệp bên VN, sang đây phải làm lại cuộc đời. Ðọc báo thấy đăng quảng cáo nghe “bùi” lỗ tai “cần một số họa sĩ, không cần kinh nghiệm, lương hậu”, thế là hắn vác đơn đi nộp. Ðúng theo ngày giờ hẹn, đến nơi thấy có khá nhiều thí sinh, bụng có hơi đánh lô tô, điệu này làm sao mà lọt vào vòng chung kết ta! Ðiền xong những thủ tục cần thiết, tất cả các thí sinh được mời sang một phòng lớn, bàn ghế sắp ngay ngắn, trên mỗi bàn có để sẵn màu, cọ, và một mớ các thỏi đá to nhỏ, một mặt đã được cắt, chà láng. Người hướng dẫn ra lệnh:
– Các bạn muốn ngồi đâu thì ngồi, nhớ ghi tên xuống giấy, để lại bàn, cứ tự nhiên, theo ý thích, sáng kiến của mình, vẽ vào các thỏi đá này, muốn vẽ bao nhiêu tranh cũng được, thời hạn là một tiếng đồng hồ.
Cả phòng im phăng phắc lo “sáng tác”, có những người xong sớm đã đứng dậy bỏ về. Ðúng một tiếng, chuông reng, người hướng dẫn bước vào phòng bảo mọi người dừng tay, dặn dò:
– Các tác phẩm xin để yên tại chỗ, cứ ra về, chủ sẽ liên lạc lại sau khi đã chấm điểm.
Hơn một tháng trôi qua, chả nghe động tĩnh, gọi lòng vòng hỏi những người cùng đi thi, họ cũng như mình, nóng lòng chờ đợi. Sau này kể cho các bạn người Mỹ, họ phá lên cười:
– Chúng mày bị gạt rồi, mày nghĩ xem, cứ “phỏng vấn” 10 thí sinh, mỗi người vẽ tệ lắm là hai, ba bức tranh. Chọn những bức khá nhất đem ra thị trường bán, rẽ lắm là $20 một bức, có phải là bỏ túi bộn bạc mà khỏi tốn công không?
Bạn tôi nghe ngẩn ngơ, té ra xứ được gọi là “Thiên Ðường” này cũng có ba cái kiểu lường gạt rẻ tiền như thế cơ à! Thì ra ở đâu cũng có nạn gạt gẫm, nếu không điêu ngoa lộ liễu, thì điêu ngoa kiểu âm thầm, “lịch sự”, theo đúng sách vở!
Không biết ở các xứ khác ra sao, chứ ai ở Mỹ chắc cũng đều “bị nạn” nhận được thư quảng cáo, điện thoại quảng cáo, hoặc “fax” quảng cáo. Tin mới nhất “Ðiện thoại cầm tay của bạn cũng có thể bị hãng quảng cáo gọi vào, làm hao tốn số phút dùng để nói chuyện.”
Nơi tôi làm việc, máy fax mở 24/24, không ngày nào mà không nhận được những thư quảng cáo vớ vẩn, làm tốn giấy, hao mực. Cái độc đáo là họ rất ư “lịch sự”. Cuối tờ quảng cáo còn ghi thòng ” Nếu bạn không muốn tiếp tục nhận quảng cáo này, xin vui lòng gọi cho chúng tôi, xác nhận số fax của bạn, chúng tôi sẽ bỏ tên bạn ra khỏi danh sách”.
Coi vậy mà không phải vậy đâu nghe bạn. Có một lần tôi đọc báo, mẫu tin nhỏ làm tôi chưng hửng “Khi bạn gọi xác nhận số điện thoại của mình để bảo họ đừng gửi quảng cáo đến mình nữa, chính là bạn đang xác nhận số điện thoại của mình là số đúng rồi đấy”. Cứ y như là “lạy ông con ở bụi này” thôi.
Ngoại trừ các cơ quan chính phủ, kín cổng cao tường, làm việc cho một hãng tư nhân, hoặc khi bạn có cửa tiệm do chính bạn làm chủ, bảo đảm ít nhất là một vài tuần, bạn sẽ “được” các bạn hàng bán dạo thăm viếng, nhất là vào các dịp lễ lớn, như Giáng Sinh. Gặp những tên có “máu dai” hay “dòng họ lì”, nếu bạn “yếu lòng” là “tiêu đời” rồi đấy. Thể nào bạn cũng phải mua một vài món đồ “không” có trong danh sách chi tiêu của bạn, và chỉ để thêm chật tủ!
Có lần tôi đến thăm cô bạn thân, hắn mở tủ lôi hết món này đến món khác ra khoe:
– Mi xem món ni có rẻ không, giá có được không?
Từ những món nho nhỏ như hộp đèn cầy có mùi thơm, bộ cắt móng tay, cho đến vật dụng lớn như tấm thảm trải nhà.
– Mi xem tấm thảm này ngoài tiệm bán cũng vài trăm đô, ta không tính mua nhưng nó cứ tụt giá, còn có $40, thấy cũng được, nghe cũng bùi tai, đuổi mãi không đi, thôi mua đại cho rồi.
Lần nào tôi ghé tiệm thăm, vẫn thấy tấm thảm cuộn tròn để ở xó góc, chưa hề được xử dụng! Tôi chỉ có nước kêu trời và cười cho cái tánh hay thương người của cô bạn yêu dấu, tôi nghĩ thầm, định bụng sẽ có ngày hỏi hắn “chắc tên nào đến năn nỉ xin tình yêu, đuổi mãi không đi, thôi mi yêu rồi lấy đại cho rồi hả nhỏ”.
Nói đến “Người” cũng nên nhắc đến “Ta”, dân ta ở xứ người cũng không thua gì, mở tờ báo VN ra xem sẽ thấy, một rừng quảng cáo, biết ai thật, ai giả đây?
Bạn tôi cần sửa nhà, xem báo, chọn đại một công ty, sau khi thỏa thuận giá cả, họ bắt chồng tiền hết một lúc, viện cớ phải mua vật dụng. Bạn tôi sao tin người thế không biết! Nộp tiền đầy đủ. Sau đó thì công ty và tiền cũng “nghìn trùng xa cách”, không cánh mà bay luôn!
Muốn có người kèm dạy lái xe ư? Dễ ẹt, lại mở báo ra, nào là chú Tư, anh Bảy... dạy lái xe cho đến khi bạn thi đậu, giá phải chăng. Nhưng than ôi, mới được nửa đường, “Thầy” cũng biến mất, khi tiền đã đóng trọn! Thưa ai bây giờ, khi sự thỏa thuận bằng miệng, không có giấy tờ làm bằng chứng, đành phải chịu mất vài trăm bạc, nội cái lôi nhau ra tòa thưa gởi, mất thì giờ và tốn kém thêm. Vả lại mình thắng kiện là một chuyện, chưa chắc mình thu được lại số tiền đã mất đâu, thế mới lạ! Luật nào cũng có “khe hở” cả!
Cậu tôi mới từ Việt Nam về lại Mỹ, mang một hành lý, toàn là thuốc Bắc. Cậu khoe về bên ấy, qua sự giới thiệu, quảng cáo, cậu đã gặp được một thầy Lang nổi tiếng, bệnh gì chữa trị cũng hết. Hôm ở Sài Gòn, cậu còn dẫn anh Hoàng, con bác Tư của tôi đến cho thầy xem mạch và cho thuốc. Anh Hoàng bị bệnh ung thư nằm liệt giường liệt chiếu mấy năm nay, cậu thấy vậy thuyết phục người nhà mang anh Hoàng theo cậu đến gặp thầy. Y như rằng, thầy mát tay, hốt thuốc cho uống, anh Hoàng về lại nhà bỗng tỉnh táo, ngồi dậy, nói chuyện, cả nhà mừng rỡ, nhất là má anh Hoàng ở Mỹ nghe tin này mừng lắm. Dĩ nhiên là lúc cậu tôi trở về lại Mỹ, má anh Hoàng và các bà con cô bác gọi điện thoại đến cám ơn rối rít. Chỉ một tuần sau, tôi nghe tin anh Hoàng đã ngủ giấc ngàn thu mà chả ai hiểu lý do tại sao? Và cậu tôi, từ sau hôm ấy, cũng hết màn “hãnh diện” đi đâu cũng khoe thầy Lang “của mình” luôn.
Buồn buồn mở tờ báo ra xem thì biết, nhiều trang quảng cáo lớn, nghe thật “kêu” về các loại “thần” dược có thể trị bá bệnh. Các bệnh nan y như ung thư, bác sĩ đã bó tay cũng chữa được tuốt luốt, mới thật tài tình, hình như khi con người đi đến chỗ tuyệt vọng thì niềm tin của họ càng mãnh liệt, vô bờ bến, ai mách thầy, mách thuốc gì họ cũng tin, cũng thử. Có khi chỉ một loại thuốc mà chữa được nhiều thứ bệnh một lúc, trong khi đã bao năm qua, biết bao nhiêu người vẫn còn tìm tòi nghiên cứu để tìm cách trị bệnh ung thư, nhưng cho đến nay vẫn chưa thấy chút tia sáng hy vọng nào loé lên cả!
“Ai muốn cười nhăn răng
Mở tờ báo Việt Nam
Ðọc mấy mục quảng cáo
Bảo đảm cười té lăn
Muốn trẻ mãi không già
Mau mau gởi đô la
Tôi đây sẽ chỉ cách
Thuốc dưỡng sinh: uống, thoa
Phòng Bác sĩ ghé hoài
rĩ khó chịu lắm thay
Mổ xẻ nào có hết
Uống thuốc này rụng ngay
Tiệm đông khách quá trời
Chủ tiệm cần nghỉ ngơi
Sức khoẻ không cho phép
Bán gấp tiệm... rẻ thôi
Xem tướng tá chỉ tay
Ðoán trước vận tương lai
Cho bùa hên mở tiệm
Tiền vào đếm mỏi tay”
Ngộ ghê hả các bạn?
Ai cũng có nghề riêng
Thuốc mấy đời gia truyền
Sao không thành triệu phú
Bạc cắc ráng kiếm thêm
Qua đến chuyện khai thuế, bạn đừng nên tin vào các lời quảng cáo “lấy tiền về nhiều” cho các bạn, có những nơi khai thuế xong, bạn ra về tay không, thơ thới, không cần phải gửi giấy thuế đi, và lòng thì vui vẻ lắm, vì sắp nhận được khoảng tiền nhờ đóng thuế “dư” sau một năm làm việc. Văn phòng khai thuế đã lịch sự gửi giúp cho bạn, dĩ nhiên cũng cho bạn một hồ sơ lưu trữ mang về. Lúc giao giấy tờ khai thuế, họ chỉ đưa bạn hai mẫu thuế chính, còn phần khai thêm, họ không đưa, hoặc nếu có đưa cho bạn mà không giải thích, nhìn vào một “rừng” giấy tờ, trông khiếp thật, bạn có biết giấy tờ đó nói gì đâu. Nhưng vài năm sau, một ngày đẹp trời, bạn nhận được giấy mời của sở thuế hỏi thăm sức khỏe, cần những giấy tờ chứng minh lời khai trong đơn thuế là đúng. Tìm lại văn phòng khai thuế cũ, một là văn phòng đã biến mất, hai là họ đuổi khéo bạn. Ðành phải xách lá thư tình của sở thuế đi đến văn phòng khác nhờ xem hộ, lúc ấy mới biết là văn phòng trước kia khai thuế cho bạn, đã thêm nhiều “mắm muối” và không hề cho bạn biết, nay sở thuế hỏi “bằng chứng” về những chi phí “mắm muối” này, thì đào đâu ra giấy tờ mà nộp! Thế là bạn chịu khó nộp theo khoản tiền thiếu vì “vô tình” khai gian, cộng thêm mớ tiền lời, tiền phạt, tính từ ngày phải khai thuế cho đến hiện tại, cũng may là chưa bị vào tù “gỡ” lịch là may lắm rồi.
Nhiều văn phòng quảng cáo hay tuyệt, đăng lệ phí rất là hấp dẫn, nhưng khi đến nơi bạn sẽ phải trả một chi phí cao hơn, bù lại lỗ tai bạn sẽ được nghe những lời “du dương” lắm, ai nghe sắp được lấy lại tiền thuế nhiều mà không thích đâu nhỉ? Bạn ra về, mừng rối rít, bắt đầu tính đến chuyện mua sắm rồi đó. Có nhiều người còn khoe với bạn bè, giới thiệu tới văn phòng “mát tay” để khai thuế, họ đâu biết rằng, hên lắm thì qua lọt, xui thì khoảng độ trên một năm là biết ngay, vì mình có đến “ba năm” để “sống hồi hộp” cơ mà, nguyên một “băng” bạn bè của mình và chính mình, ai cũng được “thư tình” từ sở thuế gửi đến cả.
Quảng cáo ơi là quảng cáo! Chuyện dài kể hoài không dứt, nói mỏi miệng, gõ … mỏi cả tay!
11/2004
7. Tính lại sổ đời
Ngày xưa tôi hay nghe các cụ nhắc về chuyện tuổi tác như: ”Canh Cô Mồ Quả”, “Thân Tí Thìn, tam hạp”, “Dần Thân Tị Hợi, tứ hành xung”…, lung tung beng …Nghe hoài cũng đâm ra “hơi’ tin!
Tôi tuổi Canh Ngọ, là con út trong gia đình nên được cưng lắm, lớn lên đi du học ở Pháp, ra trường với bằng Bác Sĩ, sau đó lập gia đình. Có lẽ mọi người đều nghĩ vừa thành danh lại vừa thành công, như vậy là cuộc đời ưu đãi tôi lắm phải không?
Sự thực không phải như thế. Tuổi trẻ làm việc như điên …..Tuổi già ……
Gia đình tôi có sáu anh chị em ruột, vì loạn lạc, mỗi người mỗi ngả, trôi dạt qua Mỹ chỉ còn anh Cả, chị Ba, chị Năm và tôi, Sau gần ba chục năm tha hương, ai cũng thành trên “bảy bó”, trừ anh Cả tôi, năm nay đã 82 cái xuân xanh.
Tháng Tư 1975, gia đình tôi cùng gia đình anh Cả. Đi cùng lúc, đến cùng nơi, nhưng sau đó mỗi gia đình định cư ở thành phố khác nhau, ít có dịp gặp lại. Tôi an cư lạc nghiệp được mươi năm thì vợ tôi đòi ly dị, lý do giản đơn, vợ tôi muốn tôi mở phòng mạch riêng như những vị bác sĩ khác, tôi nhất định làm việc nhà thương, với số lương cố định.

Ngày lại ngày, cứ thế mà đưa đến chuyện đổ vỡ. Không hiểu nàng ” đầu độc” kiểu gì mà hai đứa con không muốn gặp tôi nữa! Tôi ở với chị Năm được vài ba năm sau đó thì sanh bệnh, chị tôi không trông chừng nổi nên gửi tôi vào Viện Dưỡng Lão. Những năm mới vào Viện, cô cháu gái tôi cố gắng liên lạc, gửi thư từ hình ảnh, báo cho các con tôi biết tình trạng của tôi, cô cháu còn cẩn thận gửi bằng thư bảo đảm, để chắc ăn là chúng sẽ nhận được tận tay, nhưng hoàn toàn vô vọng. Tôi không hề nhận được một lời thăm hỏi của những đứa con tôi đã săn sóc yêu thương từ thuở chưa lọt lòng!
Lúc mới nhập viện, tôi còn tỉnh táo, nhìn chung quanh phần đông là người bệnh, tôi phát nản! Thỉnh thoảng tôi lững thững ra ngoài đường chơi, đi loanh quanh một hồi lạc lối, thiên hạ thấy tôi lang thang tưởng là người điên, nên gọi cảnh sát đến chở về lại Viện, chắc cũng nhờ cái vòng nhựa đeo nơi cổ tay của tôi, nên họ biết tên tuổi và nơi cư trú. Vài lần như thế thì Viện chuyển tôi qua nơi dành cho dân ” đặc biệt”, thứ hay ngao du lạc bước như tôi, mỗi lần muốn đi ra cửa phải bấm số vào máy, nếu không thì chuông reo inh ỏi, mà tôi có thấy tôi gây nguy hiểm cho ai đâu! À, phải rồi, họ sợ nguy hiểm cho tôi và phiền cho Viện. Đi lạng quạng xe đụng nhẳm thì Viện chịu trách nhiệm!!!
Ở đây lâu không nói chuyện, tôi cảm thấy lưỡi hình như cứng đờ, cô cháu gái ở xa thỉnh thoảng lái xe vào thăm, tôi mừng đến ứa nước mắt, tôi muốn nói nhiều lắm, nhưng sao không ra lời! Cứ thấy cô cháu dí lỗ tai sát vào tôi để lắng nghe, là tôi biết tôi “có vấn đề” rồi đó! Thằng cháu trai vào thăm, mang giấy bút tặng cho tôi, sao đúng ý tôi thế không biết, ngày xưa tôi hay tìm mua, cất giữ đủ thứ loại bút viết.
Nhưng từ ngày vào đây thì thôi, quà cáp các anh chị hay các cháu tặng, chỉ giữ được vài hôm, rồi không cánh mà bay cả. Chỗ công cộng mà, bao nhiêu người ra vào tự do suốt ngày, bao nhiêu là “quý khách” như tôi, nhưng còn tỉnh táo hơn tôi ….. ai biết ai là ai, trong lúc mình nửa mê nửa tỉnh, mà phần nhiều mê nhiều hơn tỉnh.....
Chị Ba tôi ở gần nên mỗi tuần đều ghé thăm vài lần, chị ngồi cả giờ, và mỗi lần gặp, chị thường hay xoa bóp tay, vai cho tôi, tôi thích lắm, tuy ban đầu cũng hơi đau đau, khó chịu nhưng tôi vẫn để yên. Chị là người phụ trách giấy tờ và việc phúc lợi của tôi, hội họp, liên lạc với Viện hàng ngày, hàng tháng, để nghe báo cáo tình hình, thuốc men, chữa trị và theo dõi sức khỏe của tôi.
Có hôm chị Ba dẫn theo chị Năm, nhưng tôi không thích mấy, chị Năm mới vào ngồi chưa nóng chỗ đã đòi về, hình như chị Năm không chịu được “không khí” nơi đây! Mà dị ứng cũng phải, vừa bước vào cửa, trước khi đến phòng của tôi, phải đi ngang qua mấy dãy hành lang dài, nhìn vào các phòng thấy quí cụ nằm, hay ngồi xe lăn, nếu không rên rỉ thì gục đầu, vẹo cổ, im lìm bất động, trông nản lắm!
Người ngồi, kẻ nằm ngoẹo đầu ngủ, có người thì khóc la, hét nghe phát sợ, ở đây lâu ngày e tôi cũng sẽ phát điên hồi nào không hay. Nhìn chung quanh toàn người già bệnh, một số không đi đứng được, một số khác thì không còn biết trời trăng mây nước gì nữa cả. Tỉnh táo như tôi, ở trong hoàn cảnh này, không sớm thì muộn cũng xuống tinh thần theo là cái chắc! Dần dần thấy có thêm một số các cụ VN nhập viện, nên viện bắt đầu mướn thêm nhân viên người VN làm việc.
Mỗi lần cô cháu gái vào thăm thường hay chở các anh chị tôi theo, ai cũng già cả, lụm khụm, dắt díu nhau đến thăm tôi, tôi cảm động lắm! Mà nhỏ cháu tôi cũng khôn thiệt, đợi đến lúc tôi được đẩy ngồi vào bàn ăn rồi mới từ từ “chuồn êm” từng người. Tôi ngồi cùng bàn với ba người bạn nữa, ai cũng tự mình ăn uống được, nên không cần nhân viên giúp đỡ, chả bù với bàn bên cạnh, phần nhiều đều có người đút cho ăn, ông Hải cũng có cô y tá xinh đẹp ngồi cạnh chăm sóc!
Bên góc phải là chỗ ngồi của Bà Lan, lúc nào cũng thấy bà ta khóc thút thít, chắc là có tâm sự buồn gì đây! Đầu bàn là bà Smith, mặt lúc nào cũng rầu rầu, bữa kia tôi nghe lóm các cô y tá nói chuyện với nhau về hoàn cảnh bà Smith, thằng con trai bận làm ăn, không trông nom nỗi, đành phải gửi mẹ vào viện, thăm được hai lần, thì phải đi làm ăn ở tiểu bang khác, thế là từ đó biệt tăm. Ngày nào bà Smith cũng xin đẩy ra cửa trước để ngồi đợi cậu con trai. Thấy người rồi lại nghĩ đến mình, cũng không thua gì bà Smith, con tôi cũng biền biệt từ lâu.
Tuần rồi có một bệnh nhân mới nhập viện, thấy cũng vui tánh, tôi lân la làm quen, ông Hoàng bị tê liệt, phải ngồi xe lăn, nhưng đầu óc thì còn tỉnh táo, nên chúng tôi thông cảm nhau lắm. Tôi đi đứng tạm gọi là khá, mỗi khi ông Hoàng được tôi đẩy đi lòng vòng trong viện, ông ta mừng ra mặt, vui cười hớn hở. Mỗi lần như vậy tôi chợt nhớ câu:”Lá rách đùm lá tả tơi” vì tôi và ông Hoàng cũng như nhau, cả hai kẻ trước người sau, đều là “quí khách” nơi đây.
Càng ngày tôi càng hay quên, chân tay cũng yếu đi, cho đến khi không thể tự ăn uống một mình được nên các y tá phải săn sóc kỹ hơn. Tôi chỉ thích cô Lan thôi, mỗi lần ngồi bên cạnh đút tôi ăn, tôi phải ăn thật chậm rãi để nghe cô nói chuyện. Tôi không thích ông Tom chút nào, cứ hối thúc tôi, nhai nhai nuốt nuốt, ăn lẹ để cho kịp với mọi người! Ăn xong họ đẩy xe lăn cho tôi ra sân ngồi hóng gió rồi đẩy vào phòng ngủ trưa, bây giờ tôi hết đi nổi rồi, lên xuống giường cũng phải có người dìu. Nhiều lúc tôi muốn chết quách cho xong, sao cuộc đời con người khổ quá vậy? Nhớ ngày nào mình là người chăm sóc bệnh nhân, mỗi sáng đi một vòng trong nhà thương, thăm hỏi, xem biểu đồ từng giường bệnh nhân một, ra đơn cho thuốc. Bây giờ mình mới hiểu được tâm trạng của họ đây! Họ quên quên, nhớ nhớ, thậm chí có nhiều người quên cả thở luôn nữa là đằng khác! Có ai vào đây mà vui vẻ được đâu nhỉ?
Thấm thoát mà cũng đã bốn năm, tôi biết tôi không còn sống bao lâu nữa, ăn uống cũng hết nổi, họ bắt đầu thông ống vào bụng, để cho thức ăn vào. Trước tôi đã ký giấy, nếu đến bước đường cùng, xin hãy để cho tôi được “tự nhiên”, không cần ống thở, hoặc cấp cứu hồi sinh, đeo dây nhợ chằng chịt, cố giữ chút hơi tàn trong khi linh hồn cũng như trí não đều đã không hiện diện nữa.
Tôi không muốn làm phiền thân nhân và người chung quanh của tôi. Nghĩ lại cuộc đời cũng buồn cười, có nhiều cụ được con cái lo cho đầy đủ, nhất định không gửi các cụ vào đây sống, nếm mùi đời cho biết, thì các cụ lại làm eo, làm xách, đày đọa con cái, nổi cơn “chướng ách”. Hay là phải “thấy quan tài mới đổ lệ”, Tôi nghĩ nên mời các cụ vào đây thăm viếng để cho biết cái cảnh Lão – Bệnh của chúng sanh, và cảm nghiệm cái phong vị cô đơn lúc một mình “xuống núi”! Nhìn thấy để biết trân quí hơn khi bên mình có những đứa con hiếu thảo thương yêu.
Một giờ sáng, ngày một tháng mười một, hai ngàn lẻ tư, (1-11-2004) tôi trút hơi thở cuối cùng, giả biệt trần gian!
Sáng hôm qua thằng cháu tôi còn chạy vào thăm tôi nhưng không ai biết đó là lần cuối. Khuya nay, chết rồi lại thấy thằng cháu chạy vào. Nhất định là Viện đã gọi điện thoại báo tin. Lúc một giờ sáng họ phải gọi một thanh niên trai trẻ, chứ không gọi mấy bà chị già, sợ lái xe đêm khuya sinh thêm vấn đề, hay tai nạn.
Hồn tôi bay bổng trên cao, xác tôi được đậy kín trùm lên đầu bằng tấm vải trắng, cháu tôi vẫn ngồi bên cạnh lẩm nhẩm niệm kinh cho tôi. Ban đầu tôi mừng quá, ngỡ là con trai tôi đã hồi tâm quay về thăm tôi vào phút cuối! Nhưng nhìn kỹ lại, thì ra con trai của anh Cả đã ở bên tôi cho đến gần sáng, khi nhân viên nhà quàn mang băng ca tới đẩy xác tôi rời Viện.
Hành lang buổi sáng sớm yên tĩnh, cũng giống như những giờ có thân nhân vào thăm, mặc dầu nhân viên lui tới, những bước chân nơi hành lang vẫn lặng lẽ nhẹ nhàng như không muốn phá tan cảnh êm đềm tĩnh mịch của những người đang chờ sang thế giới bên kia.
Vâng, tôi biết tôi tuổi “Canh ngọ”, “canh cô mồ quả “, như các cụ ngày xưa thường nói, về già tôi sống cô đơn, không con cái viếng thăm, nhưng ít ra tôi còn được chút may mắn, các anh chị và các cháu tôi đã ở bên tôi, đã thăm nom và tiễn đưa tôi đến nơi an nghỉ cuối cùng.
Ai rồi cũng qua ngưỡng cửa:” Sanh, Lão, Bệnh, Tử”, tôi đã trả sạch nợ trần. Bây giờ tôi đã được về quê cha đất tổ, hồn lâng lâng muốn đi đâu cũng tới trong chớp mắt, không còn hạn chế nào của không gian hay thời gian.
Giờ đây ở cõi hư vô, tính lại sổ đời, tôi muốn tìm hiểu tại sao tôi xuất thế và với sứ mệnh gì. Ra đời, đi học, đỗ đạt, đi làm nuôi vợ nuôi con. Một cuộc sống bình thường, tận lực làm việc trong khả năng của mình, cũng như tất cả những ai lương thiện trên đời.
Tôi không phải là một người thông minh xuất chúng, cũng không phải là “anh hùng hào kiệt”, không làm gì “cứu nhân độ thế ”. Nhưng cũng không hề làm chuyện ác, nói lời ác, hay dù suy nghĩ đến chuyện ác cũng không dám.... Mẹ đã dặn ý nghiệp tội còn nặng hơn cả khẩu nghiệp mà!.
Tôi từ giả cõi đời ở tuổi 75, nếu muốn tìm lại quá khứ, tôi phải lùi lại hơn 80 năm trước. Cha mẹ tôi đã ở tuổi thành nhân, nghĩa là các cụ đã sinh ra từ thế kỷ trước, cái thời phong kiến với những đạo lý Khổng Mạnh xa xưa mượn của nước láng giềng rồi giữ luôn quên trả lại.
Ấy là thời theo thuyết “nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô“. Một con trai là có một con, 10 con gái có cũng như không, ý nói sẽ theo chồng về lo gia đạo người khác. Cha mẹ tôi sinh trưởng trong cái văn hóa ấy. Cũng như mọi gia đình phong kiến khác, phải có vài đứa con trai để “nối dõi tông đường”. Mặc dầu tôi đã có một anh trai đầu “làm vốn” rồi, nhưng vẫn chưa chắc. Vì cái câu “nhất nam viết hữu....” ấy, có một địch thủ là câu:
“Anh khoe anh có 5 con trai à? Nó là cái thá gì, nếu chưa có đứa nào lên đậu “!!!
Câu ấy phải phát minh ra từ cái thời chưa có thuốc chủng đậu mùa, thảo nào người ta chưa chắc là phải!
Ấy thế mà dù khi thuốc chủng đã phát minh, người ta vẫn muốn có vài đứa con trai để “nắm dao đằng chuôi” cho chắc ăn.
Trong tình hình cả dòng họ mơ tưởng thêm vài đứa con trai ấy, mẹ tôi lại liền bốn năm, mỗi năm cho ra đời một tiểu thư!!!!!!!!!!!! Một thất vọng cho cả nhà, một tủi thân cho mẹ tôi. Làm mẹ một bầy con gái, mẹ tôi không được trọng vọng lắm, địa vị Nhất phẩm Phu nhân cũng bấp bênh, nếu chẳng may có một cô “gái ngoan” nào sinh ra được vài thằng nhóc để làm giống cho cha tôi!

À, Tôi thấy rồi! Đây là nhiệm vụ vì sao tôi đã sinh ra đời: Tôi là thằng Con Trai Út, là trung tâm của vũ trụ tí hon này. Tôi đem lại hạnh phúc cho gia đình đã chờ đợi tôi mòn mỏi. Tôi đem lại vinh dự cho mẹ tôi. Tôi làm cho địa vị trong gia đình của mẹ tôi thêm vững chắc.
Tôi đã là Út, Bé Út, Em Út, Thằng Út, Cậu Út!!!!!!!!!!
Tôi được cưng chiều từ thuở mới lọt lòng, cho đến khi khôn lớn.
Thế nhưng những năm cuối cùng mới thê thảm làm sao!!!!!!!!
Mẹ tôi, cuộc sống cũng không ngọt ngào lắm trong thời kỳ đổi đời: Ông thành thằng, thằng hóa ra Ông. Một bầy con bị bắn tung ra khắp bốn phương trời. Những năm về già mẹ cũng sống cô đơn trong một ngôi chùa trên núi.
Mẹ ơi! Con đã ra đời vì mẹ, Con đã được mẹ thương yêu vô cùng. Giờ đây con sẽ tìm mẹ bất kỳ ở cõi Ta Bà nào. Con sẽ được mẹ ôm vào lòng như thuở sơ sinh, những ngày hạnh phúc sung sướng nhất đời của mẹ con mình. Con muốn nói con thương mẹ cũng vô cùng! Dù ở thế giới này hay thế giới U Linh nào bên kia!
Mỹ Ngọc
11/1/2004
8. TDK – Hay là Chiếc gối…Gối chiếc
Không phải TDK là chữ viết tắt của tên hiệu của đĩa nhạc mà ta thường thấy ở các hiệu nhạc đâu nhé các bạn. TDK là gì, xin mời theo dõi sẽ rõ.
Đã sanh ra làm thân “yểu điệu thục nữ“, ai cũng sẽ có một lần “BỊ“ trải qua giai đoạn này! Phải dùng chữ “ BỊ” ở đây thay vì “ĐƯỢC“, vì giai đoạn này chả “phê“ chút nào.
Tùy vào cấu tạo cơ thể của mỗi người, cũng như tùy vào thời dậy thì, lúc bắt đầu có đường kinh, sách vở hay nói “có sớm hết sớm” chả thấy cơ thể bị hành hạ gì cả mà còn làm cho người con gái xinh đẹp nẩy nở ra. Thời gian huyền diệu bắt đầu vào khoảng tuổi, 13 tới 15. Trái lại thời kỳ TĐK này mới là ngầu, đọc bao nhiêu sách vở, cũng như lấy kinh nghiệm của bao nhiêu người đàn chị đi trước, ôi thôi là sợ!
Tôi sắp sửa vào giai đoạn TĐK, nên cũng đang và sẽ nếm được nhiều mùi vị, đủ viết lên những dòng chữ này gọi là cảm nghĩ, để chia sẻ với bạn cùng hội cùng thuyền cho vui.
Thời trẻ, bạn gái gặp nhau thì kể chuyện trường lớp, bài vở rồi qua chuyện bồ bịch, thơ thẩn, hoặc các mode quần áo mới ra. Đến khi lấy chồng, có con, gặp nhau lại hỏi về chuyện chồng con, công việc. Người có số may mắn thì kể chuyện vui, tha hồ khoe, còn người kém may mắn thì than thở, thở than chuyện chồng con hoặc công việc buôn bán làm ăn. Già thêm chút nữa, vào khoảng gần bước qua tuổi 50, bạn bè gặp nhau là hỏi thăm sức khỏe, ở tuổi này bắt đầu xì ra đủ thứ bệnh, mà có khi ngày xưa không có, như là tiểu đường, tim nghẹt, gan yếu, ngay đến cả bệnh ung thư v.v….... riêng các bà, ngoài các thứ nêu trên, còn có màn hỏi thăm xem đứa nào còn …. đường kinh, đứa nào đã TĐK??? Thậm chí mỗi năm đi khám Bác sĩ (ở xứ Mỹ, theo thông lệ thì mỗi năm các bà PHẢI đi khám ngực và tử cung), đến gần tuổi 50 vào khám Bác sĩ, câu đầu tiên Bác sĩ thường hay hỏi: “ Cô còn đường kinh không?”
Nếu còn ở Việt Nam mà nhắc đến những đề tài này thì chắc là ngại ngùng và mắc cở lắm, nhưng đã lỡ làm kẻ lưu vong sống trên xứ người nhiều năm nên rồi cũng quen với “ tự do phát biểu ý kiến, tự do ngôn luận” với các bạn gái thân thương để trao đổi kinh nghiệm. Đây cũng là điều hay, nhờ vậy để biết trước được những điều gì có thể xảy ra cho mình mà chuẩn bị tinh thần.
Khi hỏi về vấn đề này, mỗi người bạn gái của tôi có mỗi vấn đề khác nhau. Người thì cơ thể bị hành hạ, đau quá đem cắt quách cái buồng trứng, thế là giải quyết xong cái đau, nhưng hậu quả về sau sẽ xì tiếp ra bịnh gì thì chưa ai đoán ra được. Có người thì cơ thể mệt mỏi dài dài, đau mỏi nhức xương, chân tay, đầu mình khắp cùng mọi nơi hoặc thêm cả bịnh mất ngủ.
Thời gian sắp TĐK, kinh nguyệt ra chẳng đều, vui thì có buồn thì tịt ngòi, có khi kéo dài năm, ba hôm mà cũng có khi kéo dài mấy tháng, hoặc có khi tịt luôn mấy tháng không có, tưởng đâu là TĐK rồi chớ, ai dè sau đó lại thấy “ Trời hồng hồng, sáng mang băng “.
Một cô bạn thân của tôi, “ bị mang tả” liền tù tì năm, sáu tháng chả chịu đi bác sĩ, nói quá cô ấy mới chịu đi và bác sĩ phải cho uống thuốc ngừa thai để điều hòa kinh nguyệt lại. Nghĩ buồn cười, cả cuộc đời lấy chồng chưa hề dùng thuốc ngừa thai, vì cứ nghe hoặc đọc những nghiên cứu nói về hậu quả khi dùng thuốc ngừa thai lâu năm, sẽ xì ra bệnh này bệnh nọ, có khi bị ung thư nữa là đằng khác, đã sợ gần chết, nay gần hết đường kinh lại phải dùng thuốc ngừa thai, thế mới đau!
Nếu theo dõi báo chí nghiên cứu về vấn đề TĐK này chúng ta sẽ lo lắng nhiều hơn. Cũng một thứ thuốc Bác Sĩ cho dùng ngày xưa bảo rằng là tốt, vô hại, có khi ngày nay họ la ầm lên là không tốt, sẽ gây Ung Thư cho những ai dùng loại thuốc này, đó là dùng Hormone sau khi TĐK. Chả biết đường đâu mà mò!
Nhiều khi nghĩ lại đã sanh ra làm người, lại làm thân gái, thật là tội nghiệp, sang sống xứ người, đâu còn cái cảnh người đàn bà chỉ ở nhà nội trợ lo cơm nước cho chồng con, trong nhà thì có thêm người giúp việc. Sang đây phải lăn lưng ra ngoài xã hội, đi làm, có khi còn lảnh nhiều công việc nặng nhọc không thua gì các ông. Về nhà kiêm luôn việc bếp núc, trông nom nhà cửa, dạy dỗ con cái.
Trông thấy người đàn bà của thế kỷ 21 coi bộ khổ cực hơn đàn bà xưa nhiều, nhưng bù lại, nhiều vị có đồng lương cao, đi làm cực hơn nên ông chồng phải chăm nom việc nhà, dĩ nhiên là hết cái màn “ chồng chúa vợ tôi” của những ngày xưa thân ái. Họ được “tự do” hơn, quyền thế hơn, nên lơ tơ mơ dễ sanh ra chuyện “.... anh đi đường anh...tôi đường tôi...”. Thống kê cho thấy tỉ số đàn bà ly dị chồng ở Mỹ tăng khá cao.
Tội nghiệp cho thân phận đàn bà, sau khi có con, về già còn bị bệnh về xương, nhức mỏi, lục phủ ngũ tạng cũng yếu đi vì cơ thể phải chia bớt lại để nuôi dưỡng đứa con 9 tháng 10 ngày khi người Mẹ mang thai.
Sau khi TĐK sẽ có nhiều cơ hội xì ra bệnh khác, các bạn gái cần phải đi khám bác sĩ hàng năm để theo dõi sự thay đổi trong cơ thể mình, đó là điều tốt nhất nên làm. Hãy Yêu mình hơn Yêu người trong vấn đề này.
Nói tới nói lui, nói qua nói lại cũng không bằng nói về mình, tôi đang ở trong thời kỳ TĐK: mỏi đây, nhức đó, có những lúc nghe trong người mỏi mệt, đau chỗ này, chỗ nọ, biết cơ thể mình đang trong tình trạng thay đổi từ....lá xanh đến …lá vàng....
Có ai qua khỏi luật sinh hóa cũng như Sinh Lão Bịnh Tử đâu, tôi mỉm cười  chấp nhận và thương cho các BÀ hơn bao giờ hết, nhất là Me tôi.
Đã sắp vào làng “Tri Thiên Mạng”, hai con tôi đã đến tuổi thành nhân. Đứa nào cũng có bồ Nhí. Tôi có thể sắp thành Bà rồi. Nhưng dù sắp thành Nội hay Ngoại, tôi vẫn không quên những ngày Dậy Thì với những xúc động nồng nàn của thuở xa xưa....
Tôi vẫn cảm thấy tình yêu tâm linh vẫn còn nguyên vẹn không hề hao hớt chút nào. Cái cảm giác dào dạt say sưa vẫn còn nồng nàn chế ngự tâm hồn...
Nhìn lui, dù bao nhiêu nước đã hờ hững vô tình chảy dưới cầu, nhưng cầu vẫn vững bền, vững như một tình yêu bất diệt.
Mỗi ngày sau khi mặt trời lặn, đóng cửa văn phòng ra về là tôi bỏ hết những chuyện hồ sơ, văn kiện phiền phức sau lưng. Đêm đến, dù bốn mùa thay đổi phơi trải ngoài vườn, dù có trăng hay không, giờ hết phận sự dưới ánh mặt trời, vẫn là giờ sung sướng nhất trong ngày. Tôi có thể quên hết mọi sự, TĐK hay là Sanh Lão Bệnh Tử, đều không thể làm vướng bận tâm hồn. Tôi tìm giấc ngủ say sưa với chiếc gối ôm chặt, và mông lung hồi tưởng...
Dù rằng đêm đêm quấn chặt chiếc gối trong vòng tay, chứ không phải lồng ngực có hơi thở phập phồng của …… người xưa.
Tôi không cô đơn vì tôi có chiếc gối, và chiếc gối cũng không cô đơn vì đã có tôi.
Ôi tuyệt vời làm sao! Cái phần tâm linh thầm kín vẫn được giữ riêng cho tôi nguyên vẹn như một báu vật thiêng liêng. Tôi có chiếc gối để tâm tình. Chiếc gối giữ bí mật của tôi, và dù tôi không căn dặn, chiếc gối cũng sẽ sống để bụng, chết mang đi như một người yêu chung thủy.
11/2004
9. Ngàn dê… nghề gian
Từ lúc chào đời cho đến khi nhắm mắt lìa trần gian, mỗi người ai cũng được ban cho một con “SỐ”, từ số khai sanh, cho đến số thẻ căn cước, thẻ học sinh, số bằng lái xe, thẻ bài…qua đến Mỹ còn có thêm số an sinh xã hội. Nhớ thuộc lòng hết các số này chắc bộ óc ta cũng nổ tung mất!
Công việc thường ngày của tôi phải giao thiệp nhiều với mọi người, đủ thứ các sắc tộc, mỗi khi thấy họ mang tất cả các giấy tờ quan trọng theo trong mình cùng một lúc, tôi bỗng ái ngại dùm cho họ, dĩ nhiên là phải dặn dò họ làm ơn cất vào chỗ nào an toàn ở nhà.
Ở Mỹ, chỉ cần biết được số bằng lái và số an sinh xã hội của bạn là kể như “tiêu đời” nếu nhằm ngày xui tháng rủi, gặp người có máu gian. Không hiểu “gian manh” là một nghề “bẩm sanh” có từ trong máu hay từ lúc nào, dễ bị lây không? Lớn lên ra đời, làm việc, để ý rồi mới thấy, nghề này đầy rẫy chung quanh mình, đôi khi cũng do sự sơ hở của mình, tạo lòng tham cho kẻ khác? Kẻ gian chỉ cần biết HAI số an sinh xã hội và số bằng lái xe của bạn là họ có thể dùng tiền bạn xài chơi, dễ như ăn cơm! Có lẽ bạn đang cười tôi, “làm gì có chuyện đó”.
Những người sống trên đất Mỹ chắc chắn không nhiều thì ít, thể nào cũng đã nhận được những lá thơ mời “ngọt ngào”, của những hãng cho vay tiền với điều kiện dễ dàng, bạn chỉ việc điền vào mẫu đơn đính kèm, tên tuổi, số an sinh xã hội của bạn, gửi lại cho họ là xong ngay. Thuận buồm xuôi gió thì chừng vài tuần bạn sẽ nhận được một thẻ Tín Dụng ngay, tha hồ mua sắm nhưng với số tiền giới hạn là bao nhiêu đó. Các công ty cho vay tiền này biết ý bạn lắm, họ cứ đợi các dịp lễ lượt là gửi thư mời đến nhà.
Bạn tôi có cậu em vợ “quý”, trước đó đã làm “áp phe” chung, lại ở chung một nhà “đầm ấm” với nhau nên chàng ta biết hết các số “bộ đời” của anh rể mình. Một ngày đẹp trời, chắc là “ngứa nghề”, cậu em vợ trổ tài chôm chỉa, hay đến độ nợ mượn lên đến hơn vài chục ngàn, sau đó gia đình dọn ra riêng, mà anh rể ngu ngơ vẫn chẳng biết!
Ðến một hôm nhận được cú điện thoại từ chỗ cấp phát thẻ tín dụng gọi tới nhà, gặp đúng ngay ông bạn tôi. Họ hỏi tại sao không trả nợ hai tháng nay, ông bạn như từ cung trăng mới rớt xuống trái đất, chả hiểu ất giáp gì cả! Cuối cùng mới biết được cậu em vợ yêu quý đã “thay thế” mình, đứng ra xin thẻ và “chà láng”, cái hay của cậu em là ban đầu xin một thẻ, gửi về tận nhà dưới tên ông anh, sau khi được rồi thì xin thêm một thẻ nữa với tên mình. Nói theo kiểu ca dao của dân An Nam ta là “Trước ngoài sân, sau lần vào bếp”, dùng quen rồi, không có thì “ray rứt” lắm, đi mua sắm “kéo thẻ” tha hồ chả thấy tiền ra, chỉ là những tờ biên nhận, thật thoải mái làm sao đâu. Sau một thời gian, cậu em dọn nhà, chỉ việc thông báo cho cơ quan tín dụng biết, thế là giấy nợ gửi về địa chỉ mới theo gia đình cậu em. Ban đầu ít nợ, còn “cầm cự” nổi, trả đúng hạn, đều đặn, cho đến khi ngập lụt thì tức nước vỡ bờ, “xù” luôn!
Kết cuộc bạn tôi phải khai “phá sản”! Ðơn giản như cậu em vợ “đang giỡn” với mình thế đấy. Trường hợp phá sản của bạn tôi là trường hợp “vô ý” do người khác tạo ra, đành phải làm mà thôi, đúng là “ai ăn sò bắt tôi hốt vỏ”! Ngoài ra còn vô số trường hợp “cố ý khai phá sản”. Cũng chỉ vì các cơ quan cho vay tiền quá dễ dãi, có nhiều sơ hở, nên nhiều người lợi dụng, cứ xin thẻ, xin càng nhiều càng tốt, chà đã, đụng tới giới hạn số tiền cho đồng ý cho mượn rồi tính sau. Thử tưởng tượng có chừng chục cái thẻ như thế, mỗi cái cho xài tối đa chục ngàn, thế là có cả trăm ngàn trong tay, tội gì không đi mua sắm cho sướng nhỉ? Trả không hết thì cười trừ, khai phá sản, cùng lắm là chịu 7 năm, 10 năm, hồ sơ sẽ bị xóa, tắt đèn làm lại, chả bị đi “gở lịch”, chỉ tốn công, tốn thời gian…nhưng có Của Chùa!
Nhiều người tính trước chuyện phá sản, họ đi mua sắm cho đã, mua thật nhiều, trả tiền hàng tháng thật ít, kéo dài thật lâu rồi đùng một cái, giật chạy, kiểu này “tạm an toàn” hơn nhưng người vừa dùng xong, một, hai tháng sau đã khai phá sản, các công ty cho vay có thể kiện ngược lại, nếu chứng minh được sự cố ý của bạn. Có nhiều người còn sắm xe hơi mới, một sáng đẹp trời, ngủ dậy thấy xe đẹp của mình bị kéo đi mất! Té ra chỉ tại mình không trả tiền hàng tháng cho họ. Thậm chí đến ngôi nhà đang ở, cứ đem cầm nhà vay tiền, rút sạch sẽ tiền trong ngôi nhà ra, ở vài tháng không trả tiền, ban đầu chủ nợ gửi giấy nhắc, rồi hăm dọa thưa ra tòa, cho đến lúc thật sự mời bạn ra khỏi nhà, ít nhất cũng mất cả hơn nửa năm, thế là cũng đủ lời chán rồi!
Thỉnh thoảng chắc các bạn thể nào cũng nhận được một chi phiếu của các hãng cho vay gửi đến nhà? Có khi thì bạc ngàn, nhưng cũng có lúc chỉ vài trăm thôi. Chỉ việc ký vào mặt sau tấm chi phiếu dùng số tiền đó là xem như mình đồng ý nhận dịch vụ của họ rồi. Một người bạn khác của tôi có cửa tiệm bán quần áo, một buổi trưa vắng khách, ông bố ngồi trông cửa tiệm dùm, có chàng thanh niên bảnh bao vào ngắm nghía mua hàng, đến lúc trả tiền, cậu chìa ra tấm chi phiếu từ một hãng cho vay tiền, trên chi phiếu ghi rõ ràng “không được dùng quá $300.00”. Cậu ta bảo ông cụ:
– Cháu có tấm chi phiếu này, bây giờ cháu mua áo quần ở đây, cháu trả cho bác, còn thừa bao nhiêu bác thối lại tiền mặt cho cháu nhé? Cháu ở xa không có sẵn tiền trong túi, hôm nay cháu lại mua nhiều nữa, trước lạ sau quen, cháu sẽ trở lại mua thêm.

Gặp ông cụ ngây thơ, thấy có khách sộp đến mua nhiều cũng mừng, chả hiểu mô tê, tưởng trúng mối, ông cụ chịu ngay. Sau khi bán và giao tiền thối, cất cái ngân phiếu vào trong tủ sắt. Buổi chiều đến giờ đóng cửa, khi cậu con trai về tính sổ sách tiền bạc, nhìn thấy cái chi phiếu “quái đản”, bèn hỏi ông cụ nguyên do, thì hỡi ơi, đã muộn rồi. Người khách sộp đã cao bay xa chạy! Xem kỹ lại chỉ là tấm chi phiếu các công ty cho vay hay gửi đến nhà để quảng cáo.
Tôi đã thấy bao nhiêu trường hợp xảy ra cho thiên hạ, ngay cả bạn bè và chính tôi cũng đã và đang là nạn nhân đây này các bạn ơi! Gặp trường hợp này bạn nên thông báo ngay, để cơ quan điều tra tìm thủ phạm, bắt được hay không chẳng biết, nhưng ít ra tên mình không bị ghi vào sổ đen, oan mạng!.
01/2000
10. Thứ sáu mười ba
Ðã từ lâu tôi có ý định viết bài về đề tài này, hỏi ý kiến nhỏ bạn thân của tôi, cô ta bảo không nên, vì sẽ bị đụng chạm nhiều người, nhưng theo tôi, đây chỉ là cảm nghĩ riêng của mình, những điều tai nghe mắt thấy rõ ràng như ban ngày cơ mà, viết ra cho bạn bè đọc cho vui, biết đâu chừng các bạn còn gặp nhiều chuyện khác ly kỳ, cười ra nước mắt hơn cũng có thể.
Dưới con mắt tôi, hình như ai cũng có chút tin dị đoan, không nhiều thì ít, người Á Ðông coi bộ hay tin dị đoan hơn người Tây Phương. Từ hồi còn bé, tôi đã nghe và thấy nhiều chuyện rất ngoạn mục lắm, họ tin đến độ lâu ngày thành ca dao tục ngữ truyền từ đời này qua đời khác luôn. Người Mỹ chắc cũng có tin, bởi vậy thỉnh thoảng đụng vào ngày thứ sáu 13, tôi vẫn nghe trên đài radio họ nhắc đến đó chứ.
Một hôm trên đường bước vào văn phòng tôi làm việc, có một con chim bồ câu chắc là bị xe cán chết, nằm gần trước cửa, gặp lúc bạn tôi đến thăm, hắn chỉ ngay vào xác con chim chết và bảo tôi “Chim sa cá lặn”, xui lắm! Mèn ơi, từ thuở cha sanh mẹ đẻ đến giờ, tôi nghe câu này hoài, chỉ nghĩ đến những người đẹp sắc nước nghiêng thùng, chứ đâu có biết là xui đâu, chờ hoài cả tuần chả thấy chuyện gì xảy ra cả, hú vía.
Má cô bạn thân của tôi ngầu lắm, thấy con gái bà ấy cắm những cành mai giả bán vào ngày tết chạy quá, bà chẳng mừng lại còn mắng cho “bán đi cái may mắn của mình à, không được làm nữa”, thế là cô con gái phải dẹp tiệm! Mua quà tặng ai thì bà dặn dò không được tặng nhau những cái khăn, bất cứ khăn gì, khăn tay, khăn mặt, khăn tắm, cũng chỉ tại vì “khăn là…khó khăn” tặng cho người ta cái khó khăn, xui lắm! Không cho ly, là ly tách uống nước đấy nhé, vì ly là ly tán. Một hôm đi tiệc tùng đâu về, nghe ai nói trồng cây phát tài, hoặc trồng cây xương rồng (một loại giống cây nở hoa Quỳnh) trong nhà là xui, thế là bao nhiêu chậu cây đó được lần lượt đi vào sọt rác. 
Cũng vì quá tin như thế nên mỗi khi được ai tặng những món quà thuộc vào “tự điển xui” riêng mà bà đặt ra là nguy, bà cứ nghĩ là họ cố ý trù ẻo bà. Những hôm nào có cúng kiến, nhất là vào dịp tết nhất, hoa quả thể nào bà cũng phải có đủ bốn thứ trái cây “mãng cầu, đu đủ, dừa và xoài”, tượng trưng cho “cầu dzừa đủ xài”. Càng nhiều người đặt niềm tin như thế, giá tiền mua các trái cây có mang những tên nêu trên cũng tăng vọt, nhất là trái mãng cầu, mắc ơi là mắc!
Tôi có người cô họ, gốc Huế chính tông, một hôm đến thăm nhà ba mẹ tôi, ra sân sau thấy có trồng nhiều bụi trúc trong chậu. Cô ấy bảo dẹp cả chỉ tại vì người Huế hay dùng chữ trúc là đổ, chắc là sợ đổ vỡ (theo tôi đoán), thế là các chậu trúc lần lượt được mang cho những ai (không tin dị đoan) lấy về nhà trồng. Cũng may là trồng trong chậu, thử tưởng tượng trúc trồng ngoài đất, loại này lan rộng và mạnh lắm, chắc chúng tôi phải đào nguyên cả khu vườn chung quanh nhà để bứng trúc quá!
Thuở nhỏ đi học, có nhiều người tin đến độ đến ngày đi thi thì phải ăn nhiều chè đậu, với hy vọng sẽ đổ đạt, và nhất định tránh ăn chuối, vì sợ trượt vỏ chuối! Trong khi bài vở thì chẳng học, cho dù có ăn chục nồi chè đậu thì làm sao mà đậu được nhỉ? Như thế, chắc là phải kiêng ăn Bí, kẻo đi thi mà bí thì nguy to.
Lớn lên sau này tôi không dám đến thăm nhà ai vào mấy ngày tết cả, chỉ sợ gặp lúc năm xui tháng rủi, gặp chủ nhà hay tin dị đoan, họ suy ngược ra xem ai là người đạp đất “đầu tiên” vào nhà họ năm ấy, rồi rủa thầm trong bụng cả năm, thì thiệt là “đại” xui!
Cho tới bây giờ cũng còn nhiều điều tôi không hiểu tại sao, nhưng thấy thiên hạ làm thì mình cũng bắt chước, chẳng hạn như mỗi khi trao nhau cây tăm xỉa răng, không được đưa tận tay mà phải để xuống bàn cho người ta lấy, có tặng quà thì chớ đừng mua dao kéo mà tặng nhau. Cứ nghe dặn không được làm thì mình không làm nhưng chả biết tại sao, và cứ thế lâu ngày đâm ra cũng kiêng cử theo, có lỡ mua tặng dao kéo cho ai, thì cũng phải xin họ đưa lại cho mình ít xu, như chuyện mua bán, vui thiệt!
Cũng tội nghiệp cho phận nữ nhi chúng tôi, có làm điều gì nên tội đâu, mà ngày xưa các cụ lại hay nhắc câu “ra đường gặp gái…”, đúng là trọng nam khi nữ, kỳ thị nặng thiệt! Ngay cả chính cha mẹ trong nhà từ ngàn xưa vẫn cưng chiều con trai hơn con gái, trong khi nhìn lại mà xem, các cậu con trai mình đi lấy vợ rồi đi tuốt luốt, có khi bỏ bê luôn cha mẹ già của mình, trong khi mọi chuyện các cô con gái “bị hắt hủi” là người gần gũi chăm sóc cho cha mẹ, kể cả khi con gái mình đã theo chồng. Cuộc đời thật là tréo cẳng ngỗng thiệt!
Không biết ai ra sao chớ tôi thì tin nhất vào mục tử vi, nên cũng học hỏi nghiên cứu khá nhiều, tuy nhiên có những điều thắc mắc xem chừng chưa ai giải thích nghe cho lọt lỗ tai cả. Nhớ các cụ ngày xưa mỗi lần dựng vợ gả chồng đều nhờ các thầy xem tuổi tác số mệnh, xem có hạp hay khắc, có ăn đời ở kiếp với nhau hay không, nào là tam hạp chẳng hạn như Thân Tí Thìn, hoặc tứ hành xung Dần Thân Tị Hợi … cứ nghe nhắc đến hoài cũng đâm ra thuộc. Ðiều buồn cười mà tôi đã chứng kiến, và nhiều lần hỏi ba mẹ tôi, mà các cụ vẫn không giải thích được, đó là chuyện xem tuổi, xem ngày giờ tốt cho các cô cậu lấy nhau, nhưng sao cứ được vài ba năm, hoặc mươi năm là cô cậu hát bài “thôi là hết anh đi đường anh, tình duyên mình chỉ bấy nhiêu thôi”…Tuổi có hạp, ngày giờ có tốt, sao vẫn bỏ nhau như điên?
Tôi thích đi chợ vào buổi sáng thật sớm, vừa khỏi bị cảnh chen chúc, nhất là khi ra trả tiền, nhưng cũng có lúc đi lang thang trong chợ mà không mua gì cả, nhiều khi ngẫm nghĩ lại, nếu ở vào thời buổi xa xưa nơi quê nhà, với cái điệu vào chợ rồi đi ra tay không lúc sáng sớm, chắc tôi sẽ bị chủ chợ mắng cho một trận, nếu tôi nhớ không lầm thì các hàng quán ở Sài Gòn, buổi sáng vào ngó mà không mua, họ bảo là mình trù ẻo cho họ bán ế cả ngày!
Con người ta sanh ra, theo đạo Phật, mỗi người đã mang vào cái nghiệp mình tạo ra từ bao kiếp trước rồi tùy cách ăn ở, tu thân tích đức của kiếp này để sẽ phải trả giá cho cuộc đời mình, không lý nào chỉ vác một cái cây về trồng mà có thể “hại” cả cuộc đời mình được sao? Tôi thắc mắc ghê gớm lắm! Hỏi nhầm những người bạn có máu không tin gì cả thì họ cười, bảo ngay “tin quá chỉ giúp cho các ông thầy bói và các tiệm nhang đèn bán chạy thêm mà thôi”.
Ðúng thật là niềm tin…dị đoan không bến bờ, cứ tin theo kiểu này thì mình ngồi chơi xơi nước, khỏi phải làm gì cả. Tuy nhiên đôi lúc cũng có những điều xảy ra trúng như niềm tin tưởng của mình, thành ra cũng tùy trường hợp, tin hay không tùy bạn, miễn sao đừng quá độ chắc là được? Và cũng nhờ niềm tin vô bến bờ này, nên các nghề Thầy…mới mọc lên như nấm đó chứ. “Quyền” tin hay không là tùy ở mỗi người, thôi kệ, đừng thắc mắc, cứ để lơ lửng con cá vàng, cứ sống cho phải đạo rồi mọi chuyện cũng xong.
2/2005
11. Dây tơ “đồng”
Thập niên bốn mươi, Ba tôi gia nhập Thanh Niên Tiền Tuyến, giỏi về máy móc, thích phát minh, sáng tạo, nên được giữ một chân làm việc ở phòng Tham mưu. Nhân một hôm ngồi trực văn phòng, bỗng có một cú điện thoại gọi vào xin nói chuyện với cấp Chỉ Huy Trưởng, bị “ám ảnh” bởi giọng nói dễ thương êm tai của cô Tổng Ðài, ba tôi nào muốn ngừng, cứ kiếm chuyện nói mãi, vừa nói vừa suy nghĩ tìm cách làm sao quen và gặp được tận mặt cô nàng, thời may sao khi nghe ba tôi làm ở Bộ Chỉ Huy, cô nàng bèn hỏi:
– Tôi nghe nói các anh ở Bộ Chỉ Huy có rất nhiều sợi dây dù của đồng minh thả xuống phải không?
– Ðúng thế, chị cần dùng thứ ấy làm gì?
– Dạ để buộc vào “xắc” tay cho đẹp.
– Giây ấy bền chắc vô cùng. Nhưng người ta kiêng không bao giờ dám tặng nhau.
– Sao vậy anh?
– Thì tại vì nó bền chắc hơn dây tơ hồng nên người ta sợ cho thì buộc chặt lấy nhau!
– Anh không cho thì thôi, chưa gì đã bịa chuyện.
– Nói đùa thế chị cần bao nhiêu, tôi gởi cho.
Trong trí ba tôi đã sắp đặt kế hoạch dò xét trước khi tấn công.
– Ngày mai tôi không rảnh, nhưng sẽ cho tùy phái mang đến cho chị.
Ngày hôm sau, dĩ nhiên tùy phái và ba tôi cũng là một, ba tôi đích thân mang gói dây dù đến cho cô Tổng đài, vừa trao gói quà, vừa cố vận dụng hết thính giác, thị giác để thu thập tất cả chi tiết về người đối diện. Muốn kéo dài phút gặp gỡ ngộ nghĩnh nhưng đành phải từ giã vì sợ kế hoạch bị gãy vỡ.
Ngày xưa con gái cha mẹ đặt đâu ngồi đó, nhưng nếu là con trai thì môn đăng hộ đối cũng quan trọng hàng đầu. Là con của “quan lớn”, từ chuyện ba tôi quen me tôi rồi sau đó đi đến chuyện hôn nhân, cũng phải tranh đấu dữ lắm. Năm 1946, ba me tôi lấy nhau, bắt đầu xây dựng tổ ấm bằng một cuộc sống chung với với đại gia đình đúng theo với nề nếp của thời tàn phong kiến!
Thế mà đời vẫn chưa yên.Hạnh phúc lứa đôi chưa được hưởng bao lâu…Nhật hạ Pháp…VM hạ Nhật… Ðổi chánh phủ, đổi chính thể, đổi màu cờ, đổi qua đổi lại…Chỉ những thanh niên của thời đại là… lãnh đủ.
Vì là trưởng ban của một xưởng làm vũ khí chống Pháp, ba tôi còn phải bị ngồi tù Tây bao nhiêu năm, me tôi vừa lo nuôi con thơ dại, vừa phải đi bới xách thăm nuôi!
Khi được dọn ra riêng, từ căn nhà lá “thơ mộng” đầu tiên ở Khe Trò, phải bỏ tiền ra mua từng tấm tranh, sợi lạt, cây tre, tự xây cất từ đầu đến cuối, thật đúng nghĩa với câu “Một mái nhà tranh, Hai quả tim vàng”. Cho đến căn nhà ở Tân Kiểng, với bốn bức tường xiêu vẹo, hai mái tranh mục nát, để lộ trăng sao trên trời. Nhưng cũng là những ngày hạnh phúc tuyệt vời bên nhau.
Lắm lúc cao hứng ba tôi hay đọc bài thơ ông nội tôi làm riêng cho ba tôi, làm tôi cũng thuộc lúc nào không hay:
“Sum ơi nghe cậu dặn đôi lời
Gắng lấy học hành bớt chuyện chơi
Thấm thoát mỗi năm thêm mỗi tuổi
Làm sao cho xứng ở trên đời
Ở đời chỉ lấy phúc mà đong
Ăn ở thủy chung cứ một lòng
Xảo trá ngược xuôi đừng học lấy
Làm sao cho xứng chữ con giòng.

Những bài thơ dạy dỗ từ thuở bé thơ như đã nhập vào trong máu, mặc dù thế sự thăng trầm, trải qua những ngã rẽ bất ngờ, tản cư, lên bưng, chế thuốc súng kháng chiến…Vào tù ra khám vì tội đã là một thanh niên, và đã muốn làm gì cho đất nước…
Dần dà rồi cũng tìm ra được con đường chính. Ba tôi vào trường huấn luyện sĩ quan, thành một quân nhân…cứ theo ánh đuốc trước mặt mà đi…
Tháng Tư, 1975, mất nước, cả gia đình trôi dạt qua Mỹ, bỡ ngỡ nơi xứ lạ quê người, may nhờ có cô tôi đã lập nghiệp ở đây lâu rồi, tận tình giúp đỡ, gia đình tôi phải làm lại từ đầu. Không còn cái cảnh ông chồng đi làm nuôi hết cả nhà như ở VN, không còn người giúp việc hay chú tài xế, mọi việc tất cả mọi người trong gia đình phải tự sắp xếp, lo liệu. Me tôi cũng phải học lái xe, đi xin việc như bao nhiêu người khác. Con cái ngoài giờ học phải đi tìm việc làm thêm để phụ giúp cho gia đình.
Rồi cũng “nhập gia tùy tục” đàn con như bầy chim non đã đủ lông cánh, sau khi lập tiểu gia đình thì lập tức bay đi xây tổ ấm tản mác khắp nơi! Không phải như bên VN, một ngôi nhà chứa cả đại gia đình, vợ chồng, con cháu chắc, gì cũng ở chung dưới một mái nhà. Lối sống ở đây, người Mỹ họ theo thuyết “cá nhân”, biệt lập, mỗi người một cái xe riêng, con đến 18 tuổi cũng dọn ra riêng, Phải tự lập không thể ỷ lại vào người khác!
Tháng Ba, 1985, một buổi chiều sau khi đi làm về, ba tôi ra vườn, đào đào xới xới, vì quá sức, đã tự ý gây ra tai biến mạch máu não. Ông vào nằm nhà thương mất một tháng, và mất thêm hai tháng tập luyện cơ thể. Cũng may là mạch máu não chỉ sưng chứ không bể, thế mà cũng hại đến trí óc không kém. Ba tôi chẳng nhớ gì cả, cử động cũng không được, một nửa phần cơ thể như tê liệt.
Sau khi ra khỏi nhà thương, mỗi ngày vẫn phải chở ba tôi vào lại phòng tập để tập đi, tập viết, tập nói, như một đứa con nít phải tập lại từ đầu. Trong vụ này me tôi vẫn là người khổ cực nhất, lúc ấy phải vừa đi làm, vừa chăm sóc cho ba tôi. Nhất là sau khi về lại nhà, không đi đứng mà phải ngồi xe lăn, không ăn uống một mình được, con cái đã lập gia đình đi xa cả, chỉ còn lại thằng em út thay thế các anh chị lo phụ me tôi. Thế mà mấy năm sau, nhờ sự chăm sóc cẩn thận nghiêm túc của me tôi, ba tôi khoẻ mạnh gần như bình thường để tiếp tục làm việc thêm vài năm trước khi về hưu trí.
Thật cám ơn Trời thương gia đình tôi, năm ấy ba tôi đã 64 tuổi, ở tuổi này mà bị tai biến mạch máu não thường khó lòng qua khỏi, các bạn của ba tôi bị trường hợp này, phần đông đều đi về cõi vĩnh hằng, hẹn nhau bên kia thế giới cả! Duy chỉ có ba tôi, có lẽ nhờ sự tập luyện bền chí cũng như sự săn sóc kỹ lưỡng của me tôi bên cạnh, nên ba tôi mới còn “thọ” được tới ngày nay.
Tôi nhìn ba me tôi ngoài cặp mắt “kính trọng”, phải nói còn có sự “khâm phục” nữa thì đúng hơn. Cả một cuộc đời me tôi hy sinh cho chồng con, từ ngày đầu về làm dâu nhà chồng cho tới nay, trải qua biết bao nhiêu thăng trầm, lúc nào me tôi cũng có bên cạnh ba tôi, trừ những năm xưa, ba tôi bị tù đày, và khi còn trong Hải quân, phải đi cắm trại hoặc đi công tác xa, me tôi ở nhà lo chăm nom con cái.
Năm 1987, lần đầu tiên trong đời me tôi đi du lịch một mình, anh chị Cả tôi ở Singapore, mời me tôi đi chơi một chuyến, sẵn dịp qua thăm cháu nội luôn. Lúc ấy ba tôi còn đi làm, bận rộn với công việc nên có nhớ me tôi, chắc cũng để “trong lòng”?
Năm nay ba tôi đã 82 cái xuân xanh, hai ông bà cụ đã về hưu, quanh quẩn bên nhau, me tôi là “tài xế thường trực” của ba tôi. Mùa lễ Tạ Ơn 2004, sẵn nghe tin mộ bà ngoại tôi ở ngoài Huế sắp bị dời đổi, me tôi bàn qua tính lại thế nào mà cuối cùng anh chị Cả ra lệnh:
– Các em bên Mỹ sắp xếp lo cho ba, anh chị mời Me đi nghỉ hè, xả hơi một chuyến.
Thường thì lúc nào ba me tôi cũng đi đủ đôi đủ cặp, nhưng bây giờ sức khỏe ba tôi yếu lắm, không cho phép đi xa, thế là ông cụ “đành” phải chịu cho bà cụ đi xa mười hai hôm! Các anh chị em ở Mỹ, sắp xếp, chia ngày giờ để trông nom ba tôi, cho me tôi được yên lòng đi nghỉ phép! Thật ra đường bay từ Mỹ về Á Châu quá dài, chỉ việc ngồi trên máy bay cũng đã mất cả ngày đường, thành ra đi có mươi ngày chả đủ vào đâu!
Chắc các bạn biết đến bản nhạc “Bảy ngày đợi mong” của nhạc sĩ Trần Thiện Thanh chứ nhỉ? Chuyến này ba me tôi phải hát bài “Mười Hai ngày đợi mong”, nghe thì đâu có bao lâu, nhưng tôi đoán chắc là ba tôi thấy lâu lắm! Chở me tôi lên phi trường Los Angeles, chờ me tôi vào trong phòng đợi, anh và em trai tôi mới quay về, hai ngày đầu ở nhà em trai tôi, có mấy đứa cháu nội lăng xăng, chắc cũng làm ba tôi quên “đợi mong” một tí tẹo! Cuối tuần, em Út chở ba tôi về lại nhà, đổi phiên gác qua chị Tư, và tôi, chiều hôm ấy mới lái xe đến tiếp tay chị tôi. Mới bước vào nhà, đã nghe ba tôi hỏi:
– Me đang ở mô? Răng lâu về rứa? Khi mô me về? …
Ngày hôm sau, chị Tư vác đơn đi xin việc, cũng chở ba tôi theo, buổi trưa về lại nhà, tôi từ trong sở gọi hỏi thăm chị xem có gì lạ không, đang nói chuyện với chị Tư, nghe điện thoại trong phòng nhấc lên, chị tôi chạy vào xem, thấy ba tôi đang cầm điện thoại mở lên nghe, lệ thường khi có me tôi ở nhà, ba tôi không hề bao giờ nghe điện thoại, dù có “nhờ” ba tôi nhắc lên nghe dùm. Hình như ba tôi tưởng me tôi gọi về, nên hể điện thoại gọi tới nhà là ba tôi nhắc lên ngay, trong điện thoại, tôi nghe giọng ba tôi cười mà như Khóc!
Có một buổi sáng, mới 5 giờ mấy, thấy cửa phòng ngủ ba tôi đóng nhưng ánh đèn bên trong hắt ra, chị Tư tôi đến gõ cửa hỏi thăm, mở cửa ra đã thấy ba tôi thay đồ đàng hoàng, ngồi nơi bàn làm việc của me tôi, tay còn cầm tờ giấy me tôi ghi ngày giờ nào sẽ đi đến những đâu, tay kia còn đang cầm tấm hình me tôi ….ngắm nghía! Trên bàn, bộ máy cạo râu để sẵn.
– Ba làm chi dậy sớm rứa?
– Ba cạo râu, thay đồ để chút đón me.
– Hôm nay me chưa về, mới có mấy ngày ba à!
Chị Tư trông nom ba tôi ba ngày, đến phiên tôi ghé lại đổi ca trực, cứ mỗi lần vừa vào đến cửa là ba tôi lại hỏi:
– Khi mô me về? Răng lâu rứa!
Hôm nay tôi chở ba tôi lên “tiểu Sài Gòn” thăm cô tôi, ở lại dùng trưa xong, chở ba tôi qua nhà em Út, sẽ gửi ba tôi lại đó, và cuối tuần em tôi chở về lại cho tôi trông hai ngày cuối tuần. Mười hai ngày me tôi đi không lâu, nhưng nghe ba tôi nhắc hoài khiến tôi cũng sốt ruột, thấy sao mà lâu thiệt! Buổi chiều cuối tuần, hai chị em tôi ngồi ăn cơm tối với ba tôi, ba tôi dặn:
– Nì, Ba không theo Út về trên nớ nữa mô nghe, ba chỉ thích ở nhà thôi!
Hai chị em tôi nháy nhau cười quá xá. Nghe em Út tôi kể hôm qua gọi điện thoại về Sài Gòn cho ba tôi thăm me tôi, mà có nói đựơc gì đâu, cả hai cùng xúc động, nói không nên lời, chỉ có khóc là nhiều nhất.
Còn hai ngày nữa me tôi về, ai cũng trông dữ, nhất là ba tôi, hôm nay chị Tư hỏi ba tôi xem muốn đi đâu chơi không, ba tôi bảo:
– Không, không đi đâu cả, phải ở nhà để me về, có người mở cửa.
Hôm nay me tôi về, tôi hỏi xem ba tôi có hồi hộp không, ba tôi bảo:
– Hồi hộp từ đêm qua.
Sáng nay ba tôi dậy thật sớm, tắm rửa, thay quần áo, chả hiểu đi đâu vào 5 giờ sáng thế không biết! Em Út tôi sẽ đón me tôi từ phi trường Los Angeles chở thẳng về San Diego, máy bay đến là 8 giờ sáng, nhưng chuyến bay quốc tế vào Mỹ, phải bị khám xét hành lý, thêm mấy tiếng lái xe từ đó về đây, phải đến trưa mới tới nhà.
Chị Tư chuẩn bị thức ăn trưa và tối rồi đi làm, tôi ở nhà cũng sốt ruột, nên chở ba tôi đến văn phòng tôi cho qua giờ, trên đường về, ghé chợ mua một bó hoa cho “cụ ông” tặng “cụ bà”. Gần đến giờ, em Út xi-nhan gọi điện thoại cầm tay cho hay, tôi mang cái ghế ra để đàng trước cửa cho ông cụ ngồi ôm bó hoa chờ. Xe đến nơi, me tôi vừa bước vào, ba tôi đứng bật dậy, mắt sáng rỡ, ba tôi cười ra tiếng …KHÓC! Hai cụ ôm nhau mừng, nghẹn ngào, tôi lo chụp hình, em Út quay phim, ráng thu hết giây phút “thiêng liêng” cảm động vô ngần này. Hai cụ dắt díu nhau vào phòng khách, ngồi xuống, ba tôi, chắc là quá “xúc động” lại …khóc tiếp! Trời đất ơi, tôi chưa thấy ai mùi như ba me tôi, khóc tới khóc lui, đến ba bốn bận mới ngưng, me tôi đùa:
– Chắc mai mốt đi chuyến nữa.
– Ði mô cho anh theo với.
Bây giờ đi đâu ba tôi cũng theo me tôi cả, thậm chí lên nhà em Út chơi, buổi trưa ba tôi đi nằm nghỉ, cũng dặn me tôi:
– Ði về nhớ gọi anh nghe em.
Cả nhà ai cũng cười chọc quê ba tôi, ba tôi cũng cười theo mà thôi. Tôi cười nhưng nghĩ lại cũng nguy hiểm, rủi mà ba tôi quá xúc động, có chuyện gì chắc nguy to!
Bây giờ ba tôi đã ngoài 80, đi đâu cũng phải chống gậy, cả hai ông bà cụ tai nghe yếu, nhiều khi ông nói gà, bà nói vịt, có những chuyện kể nghe mà cười bể bụng. Ba tôi có tài ăn nói có duyên “tán” me tôi hay lắm, những lần đi ăn ngoài mừng sinh nhật, hay kỷ niệm cưới, tôi hay dặn nhỏ ba tôi “nhớ hôn me nghe”. Thế là vào tiệm, vừa ngồi vào bàn là ba tôi hỏi ngay “hôn chưa, hôn chưa”.
Ngày tôi còn nhỏ, tôi nhớ có thấy ba tôi chế ra một cuộn băng, cho chạy hoài tới khi nào mình chán, phải tắt máy mới chịu ngưng, cái băng cassette chỉ nói có mỗi một câu:”Anh vẫn yêu em như hai mươi năm về trước”. Ba tôi nghịch lắm, lại có máu tếu trong người, ngược lại me tôi là gái “đất Thần Kinh”mà, tánh tình rất kín đáo, cổ kính và rất “xưa”.
Người xưa thường dùng danh từ “Dây Tơ Hồng” để nối kết cho các cặp trai gái nên duyên vợ chồng. Từ ngày sang Mỹ, tôi thấy dây tơ hồng coi bộ thật mong manh, nhiều cặp vợ chồng lấy nhau đã hai mươi, ba mươi năm, thậm chí các ông già bà cả, gần đất xa trời, vẫn còn đâm đơn ly dị nhau! Có nhiều cặp, tưởng sẽ ăn đời ở kiếp, yêu nhau từ thuở xa xưa, cùng khổ cực tạo dựng nên cơ nghiệp, con cái ngoan ngoãn, thành danh, thế mà không hiểu vì lý do gì, hai vợ chồng lại đùng một cái, chia tay nhau, bà con, bạn bè cứ ngẩn ngơ thắc mắc? Ngày xưa còn nói đến câu “tình nghĩa”, vợ chồng ăn ở với nhau hết tình, còn nghĩa, sang đây không còn có cái màn đó đâu nữa. Hết tình, thì nghĩa cũng “tung cánh bay đi tìm tổ … mới”! Có khi thì cũng còn yêu nhau, nhưng tại tham lam, muốn vừa có vợ, vừa có “sơ cua” thêm người yêu, thế là “dứt đường tơ” thôi!
Riêng ba me tôi, “dây Tơ Ðồng” đã buộc chặt đến tuổi suốt gần một thế kỷ, mong rằng các con cháu trong gia đình, cũng như mọi người đều nắm chặt được dây Tơ Ðồng ấy, như chuyện tình của ba me tôi thì lý tưởng biết bao!
Tôi không như ai khác, đợi các cụ ngồi trên nóc tủ bàn thờ, rồi mới “tung hô vạn tuế” nói thương, nói nhớ cha mẹ. Tôi tin rằng chúng đã tận lực của kẻ làm con, và riêng tôi luôn cầu mong ba me tôi sẽ đi bên nhau, ngoài vui vẻ, hạnh phúc, dồi dào sức khỏe, còn mãi mãi thương quý nhau, tình mãi mãi vẫn nồng nàn như thuở ban đầu, để không thấy bơ vơ lúc còn được sống chút đoạn cuối đời bên con cháu.
Giờ đây nhìn hai đấng sinh thành, tuổi trời đang đếm tháng, đếm ngày, dắt díu nhau tản bộ quanh vườn, tôi như người tỉnh ngủ, cảm thấy thấm thía sâu xa: Tình Già đúng thật là một mối tình quý giá nhất trên đời!!!
Thương Yêu về Ba Me nhân dịp kỷ niệm 59 năm cưới
2005
12. Những “chiếc xe” qua đời … Tôi
Năm 18 tuổi, chiếc xe đầu tiên tôi được dùng để tập lái là chiếc xe Jeep nhà binh của Ba tôị phải sang số tay, và có đến hai cần số tay, chứ không phải chỉ có một! Sau khi đậu bằng lái xe, thỉnh thoảng, ba tôi cũng cho lái “ké” chiếc xe nhà, lại cũng là xe sang số. Hình như ở VN phần đông là xe sang số, ít có xe tự động lắm.
Cả nhà tôi chỉ có một chiếc xe hơi, vài tháng trước ngày mất nước, một buổi tối trời hơi mưa mưa, Ba tôi cho mượn xe lái đi party, vừa mới ra ngõ, tôi còn tông chiếc xe hơi yêu quí của Ba tôi vào cột đèn! May là hai chị em tôi không hề hấn gì, chỉ có cái xe là bị thiệt hại nặng, số tiền sửa khoảng hơn nửa triệu đồng VN, một số tiền khá lớn chớ có ít oi gì đâu, nếu biết trước có vụ “mất nước” lưu vong chắc khỏi mang xe đi sửa làm chi!
Sang đến Mỹ, cả gia đình tôi sắm được chiếc xe đầu tiên, chiếc Ford của Mỹ, đúng như lời thiên hạ gán chọ Ford tiếng Mỹ có nghĩa là: F (Fix) O (or) R (Repair) D (Daily), dịch theo tiếng Việt là ” Sửa chữa mỗi ngày”. Mà thật vậy, chiếc xe mua $700 đô la, thời đó $700 cũng mắc lắm đối với dân tỵ nạn chúng tôi.  Giá vừa túi tiền, tuổi đời cao, xe hay ho hen, bệnh lặt vặt, cứ móc tiền túi ra trả lai rai, cũng đủ để sắm chiếc xe mới.  Khi vui nó chạy, buồn thì đứng ì giữa đường, giữa xa lộ, bất cứ lúc nào nó muốn. Ngoài ra nó còn có thêm chứng bịnh xịt khói, vậy cũng hay, vì chạy ngoài đường, ai cũng tránh xa. Ở xa lộ thì không sao, nhiều hôm chạy vào các đường nhỏ, hai bên nhà cửa, dân cư đông đúc, mỗi lần đạp ga là khói tuôn mù mịt, có khi dân chúng còn chạy ra hỏi han, xem mình có cần “nước” hay không, vì tưởng xe mình sắp “bốc hỏa”. Ba mẹ tôi chở sau lưng đàn con, chúng tôi ngồi trên xe nhiều khi muốn “độn thổ” luôn!
Thêm một chứng bệnh “nan y” nữa là nó có tật hay rống, nhất là sáng sớm tinh sương, ba tôi lái xe đi làm, y như rằng đánh thức cả xóm dậy, xe “hâm nóng” một hồi mới chịu hạ giọng, bớt rống. Nhất là vào mùa lạnh, rồ ga rồi phải ngồi đạp chân ga giữ đó, cứ thả chân ga ra là máy tắt ngúm!
Không được bao lâu thì xe cũng chết, ba tôi đổi ý, không đi xe Mỹ nữa, đổi sang xe ngoại quốc đi cho bền, thế chiếc Ford vào, đẩy chiếc “Rùa” VW. Xe cũng khá bền nhưng mấy anh em tôi không thích vì nhìn cái tướng xe giống mu con Rùa thiệt! Một hôm đến thăm nhà bạn, rõ ràng mình đậu trước sân nhà, lúc ra về, chả thấy xe đâu cả, hoảng hồn, cả nhà túa ra đường tìm, nhìn thấy xe mình đậu gọn gàng trong sân nhà trước mặt. Hình như ba tôi quên gài thắng tay, xe tuột dốc, chạy tọt vào nhà đối diện! Cũng may là không xảy ra tai nạn hoặc gây thương tích cho ai!
Chiếc xe đầu tiên tôi được làm chủ rất là le lói, số rằng thì là hai vợ chồng chị tôi sắm xe mới bèn cho tôi chiếc xe “xì po” Camaro cũ, tám máy, uống xăng như uống nước lạnh. Rồi Pinto, Vega … nhiều hiệu xe nói đến chắc không còn ai biết tên, vì đã bị “đi vào quên lãng”. Nhưng thôi, có còn hơn không, ở xứ Mỹ này, xe như “đôi chân” của chính mình, mỗi người trong nhà phải có một chiếc xe riêng để đi học, đi làm, còn không thì chịu khó đi xe công cộng, có tài xế đưa rước (xe buýt). Nghĩ đến buổi sáng mùa đông, phải cuốc bộ ra bến xe buýt, canh giờ giấc đàng hoàng, kẻo hôm nào nhỡ chuyến, thì trễ hết cả công việc, cũng đủ ớn lạnh!
Ở Mỹ một thời gian, sau khi ra trường, đi làm khấm khá, lại đổi xe khác. Dân VN ta, xem vậy mà đổi xe không bằng dân Mỹ đâu, họ đổi xe, đổi nhà, thường xuyên lắm! Kinh nghiệm ở đây cho thấy trước khi mua xe nên hỏi thăm, hoặc đọc qua sách nói về xe mình muốn muạ Ở Mỹ có cuốn “Consumer Report” hay lắm, đây là một tờ báo ra hàng tháng, họ làm thống kê những thứ cần dùng, từ xe cộ đến tủ lạnh, điện thoại, TV … máy móc xử dụng trong nhà, hiệu nào tốt xấu, khá chính xác.
Nào là Toyota Supra hay bị cháy máy, MBZ thì hay bị hư máy lạnh, v.v… xe nào tôi cũng đã thử qua, và y như rằng, những bịnh liệt kê theo “Consumer Report” đúng lắm. Kinh nghiệm cho thấy các chiếc xe Nhật vẫn bền và tốt hơn hết, thuở ấy tôi còn có chiếc Toyota cũ, chạy gần 150,000 dặm, chạy vẫn ngon lành như thường, lên xe mở máy lạnh mát tuyệt vờị Chả bù lại mấy chiếc xe khác, máy lạnh cứ hư lên hư xuống, cứ vài tháng phải vác xe ra tiệm cho họ bơm “chất lạnh” (freon??) vào xe, chán mớ đời!
Dân VN ta lại khoái đi Mercedes, nhờ có tiếng từ bên VN, xe này ít bị hư vặt, nhưng khi có chuyện cần sửa thì phải biết, đồ phụ tùng mắc kinh hồn! Riêng theo ý tôi, só với chiếc Lexus của Nhật thì tiện nghi xử dụng ăn đứt xe Mercedes
Nhiều người muốn đi xe tốt, đời mới toanh, nhưng không mua nỗi, nhất là nếu xe quá mắc, họ chỉ việc ký giao kèo, 5 năm, 7 năm, trả tiền mướn xe hàng tháng, bỏ xuống ít tiền cọc là tha hồ được lái xe mới, cứ hết giao kèo muốn xe mới khác lại ký giao kèo mới, thế là đi xe mới dài dàị
Ðôi lúc chạy sau lưng các xe gìa ho hen, khạc khói cùng đường, tôi cũng thông cảm, nhớ lại ngày xưa mình cũng đã từng đi xe đồng bệnh như thế! Cũng may xứ Mỹ không có luật lệ cấm đi xe cũ như ở Tân Gia Ba, trên đường phố không hề có chiếc xe cũ nào, vì luật lệ ở đây bắt buộc xe đến bao nhiêu tuổi phải phải bỏ, mua xe mới đỡ bị ô nhiễm không khí và “làm đẹp mắt thành phố”. Thấy cũng có lý, tuy nhiên chỉ tội nghiệp cho những người không đủ khả năng sắm xe mới thì sao ta?
Những chuyến xe qua đời tôi có đủ loại cả, ở VN từ xe đạp, tới Honda, cho đến đủ thứ loại xe hơi của riêng chính mình làm chủ, hoặc có dịp ngồi xe ké với bạn bè, như xe “có nhà”, trên có giường ngủ, cả phòng vệ sinh, phòng tắm và nhà bếp, đúng nghĩa một cái nhà di động. Rồi xe bông, xe hoa … chỉ còn xe tang, cũng sẽ có một lần nằm trên ấy, chưa nếm mùi nên không viết được cảm giác mà thôi!
Nghĩ đến đề tựa trên, tôi đã mỉm cười rồi, cái tựa gì mà cải lương quá! Tôi biết chắc các bạn đọc cũng sẽ lầm to, cứ tưởng như các nhà văn thường dùng danh từ những “chuyến xe” hay ” dòng sông” để diễn tả những “cuộc tình” qua đời mình. Riêng tôi không dài dòng văn tự đâu, có sao nói vậy, chuyện xe cộ thật trăm phần trăm như bạn vừa đọc đấỵ
1/2005
13. Bị Luộc
Vy nhớ Sài Gòn lắm, mỗi khi nghe tin bạn bè hay thân nhân từ Sài Gòn về, Vy thường tìm cách hỏi thăm và xin xem hình cho đỡ ghiền. Ðã trên hai mươi năm rồi, Vy chưa về thăm nhà, hè này là năm cuối đại học của thằng Huy, mai mốt ra trường có việc làm hết chu du đây đó. Nghĩ lại đây cũng là lần đầu tiên Vy dẫn con về trình diện với hai bên nội, ngoại, Vy quyết định mua vé cho hai mẹ con.
Vy dự định đi từ Bắc vào Nam, đại diện cho bố mẹ và chồng, thăm hết tất cả gia đình. Máy bay đáp xuống phi trường ở Hà Nội, có gia đình cậu Hoàng ra đón, cậu tự ý sắp xếp chương trình, bắt buộc hai mẹ con Vy phải ở nhà cậu, đi đâu cũng kéo cả bầu đoàn thê tử, không được đi một mình, như thế vừa vui, vừa an toàn, vừa tiết kiệm tiền bạc. Về đến nhà, cậu đã dọn sẵn căn phòng nhỏ, hình như hai tấm nệm lúc trước chồng lên nhau, nay được lôi xuống để nằm cạnh. Tấm dưới chỉ là một cái khung ván cây, sau đêm đầu tiên đặt lưng, thằng Huy nhất định đòi đổi chỗ ngủ với mẹ, Vy phải nằm lên thử mới biết, thảo nào mà con nàng than đau lưng. Căn phòng nhỏ bụi bặm, quên chưa được lau chùi, không có máy lạnh, thiếu thốn mọi tiện nghi, may là hai mẹ con chỉ bị chịu trận ít hôm, vì theo chương trình, Vy sẽ dẫn con đi Vịnh Hạ Long, tưởng được yên thân, không ngờ cả nhà “thương mến” quá, cũng đòi tháp tùng theo!
Nhớ trước hôm đi, mẹ đã dặn phải liên lạc với Hoa, cô em bạn dì của Vy, Hoa làm cho hãng du lịch, chắc chắn sẽ có nhiều mục đặc biệt cho người nhà. Ðúng như lời mẹ nói, Hoa sắp đặt chương trình nghe thật êm tai, mướn xe chở cả nhà từ Hà Nội ra Vịnh Hạ Long, sau đó sẽ lên tàu đi xem thắng cảnh, ngủ lại khách sạn một đêm, hôm sau về, giá cả không có là bao. Lúc nào câu cuối cùng Hoa cũng lập đi lập lại “giá cả không có là bao”, với giọng ngọt ngào của người Hà Nội, nghe thật là hấp dẫn. Nhưng nói là vậy, đến chừng buổi tối về, Hoa đưa tờ biên lai tính tiền, Vy muốn choáng váng mặt mày! Tiền mướn xe ban đầu Hoa bảo chỉ có $20 một ngày, nhưng khi trả tiền thì giá ghi là $100, Hoa còn sang trọng, mướn riêng một chiếc tàu tư nhân, không chở thêm ai ngoài gia đình cậu Hoàng và hai mẹ con Vy, nên giá cũng mắc gấp đôi, dĩ nhiên là khách sạn và tiệm ăn, Hoa cũng chọn thứ sang nhất, đặc biệt cho “việt kiều”! Vy nghĩ thầm trong bụng, chắc Hoa tưởng Vy là cái ngân hàng biết đi chắc?
Hai mẹ con Vy định sau khi rời Hà Nội, sẽ bay vào Hội An, từ đây thuê xe đi Ðà Nẵng, Huế. Hoa lại năn nỉ xin đi theo, viện cớ chưa đến Huế bao giờ, Hoa còn lịch sự “tình nguyện đóng góp” chi phí, Hoa bảo Vy chỉ cần trả tiền vé máy bay và khách sạn, để phần mướn xe và ăn uống cho Hoa lo. Nghe Hoa nói tội nghiệp, Vy cũng xiêu lòng, vào đến nơi, cứ khi tới phiên Hoa phải trả tiền thì cô nàng cho đi xe “công cộng”, mỗi đầu người không tốn đến 4 mỹ kim! Ăn uống thì kéo nhau vào những quán cóc.
Qua hai ngày ở miền Trung, chia tay với Hoa, hai mẹ con Vy “tạm” thoát nạn, bay vào Sài Gòn. Tại phi trường Tân Sơn Nhất, có hai bà chị chồng ra đón tiếp, chở về nhà, lại thêm một màn “mất tự do”, không ai cho hai mẹ con Vy đi đâu cả, họ viện cớ là rất tốn kém! Hết bị chị hai mời ở lại, đến bị chị ba bắt cóc, thằng Huy chịu hết nổi, bắt đầu tỏ thái độ, làm “cách mạng”, hắn tuyệt thực, không thèm ăn cơm nguyên cả ngày, cô hai, cô ba sợ quá, lúc ấy mới chịu buông tha.Tuy nhiên Vy cũng đã bị mang tiếng là “không biết dạy con” rồi! Vy liên lạc với mấy đứa bạn học cũ, tìm chỗ cho hai mẹ con Vy dọn ra, được tự do đi ăn, chơi, thoải mái theo ý thích. Vy mua vé cho hai mẹ con bay đi mũi Né, chuyến đi chỉ mất có hai ngày, nhưng phải thưa với hai bà chị rằng sẽ đi năm ngày, cho họ đừng đến tìm.
Trước năm 1975, chị hai đã là giáo sư, chị ba là dược sĩ, cả hai đều có công ăn việc làm ngon lành, chả hiểu hai chị kén quá hay sao mà đều thờ chủ nghĩa độc thân. Hai năm sau ngày mất nước, Vy và chồng được chị Vy bảo lãnh qua Gia Nã Ðại, vừa sanh bé Huy chưa được đầy năm thì chồng mất, Vy tự nhủ lòng sẽ đại diện chồng, tiếp tục viện trợ đều đặn cho gia đình chồng. Bỗng một ngày đẹp trời, cả hai bà chị tự dưng “thất nghiệp” không đi làm nữa, viện cớ đủ thứ lý do, Vy nào biết!
Ðây là lần đầu tiên Vy về thăm và thấy tận mắt cảnh sinh hoạt “bận rộn” của hai bà chị. Buổi sáng thức dậy, chờ các gánh hàng rong ngang qua, để dùng điểm tâm, ăn xong thong thả sửa soạn ra chợ để lo cho buổi trưa, về lại nhà nấu nướng, ăn trưa rồi đi ngủ, đánh một giấc dậy đã thấy gần chiều, loay hoay sửa soạn cơm chiều, ăn uống xong là trời đã tối. Cứ thế là qua một ngày, Nhìn thấy cảnh nhàn vi của hai chị, Vy cảm thấy nhói tim, nghĩ lại ở nước ngoài mình làm việc hồng hộc như trâu, để gửi tiền về nuôi họ. Hai mẹ con Vy sáng phải dậy thật sớm, lo bới xách, kẻ đi học người đi làm, đến tối mịt mới về nhà, có khi ra khỏi sở phải tạt ngang chợ, về đến nhà phải chui vào nấu nướng, lo cơm nước, ăn uống, nghỉ ngơi để mai lại cày tiếp, một ngày như mọi ngày!
Nhớ lại năm ngoái chị Vy về Sài Gòn, Vy chỉ viết ít dòng gửi thư thăm hai bà chị chồng, thư hỏi thăm mà không kèm tiền thì chả ai rảnh để trả lời lại! Vy lại còn lỡ dại chỉ cách cho chị hai, chị ba dùng “email” (điện thư) để gửi thư mau lẹ và tiện việc liên lạc. Tiện đâu không thấy, Vy chỉ thấy mình lại phải tốn thêm tiền để các chị đi đánh điện thư và sau đó sắm máy vi tính riêng ở nhà, đỡ tốn tiền đi ra dùng ngoài chỗ công cộng!
Mấy mươi năm không về, nhìn lại chỗ ở nghèo nàn, vật dụng cũ kỹ của hai chị, Vy thấy thật là tội nghiệp, trong nhà thiếu món gì Vy lo sắm sửa, thay thế lại đồ khá hơn. Mới đề nghị sẽ cho chị cái máy giặt quần áo, Vy đã đi khảo giá, từ cái rẻ nhất khoảng vài trăm mỹ kim cho đến cả bạc ngàn, Vy mới đưa ra ý kiến ngày trước, ngày sau chị hai đã chọn và vác về ngay cái máy mắc tiền nhất!
Nhiều lần Vy tự hỏi, không hiểu đến một ngày nào đó khi bị cúp viện trợ thì các thân nhân bên ấy sẽ sống ra sao nhỉ? Có lần Vy nêu vấn đề ra với anh Vy, ông anh cười bảo:”Bây giờ họ dùng “miệng” để nuôi thân, mai mốt phải dùng thân để nuôi miệng, có thế thôi”….Câu nói nghe thiệt là chí lý, bây giờ họ dùng miệng lưỡi, vận hết tài năng, để “ca” làm sao cho động lòng thân nhân nước ngoài, gửi tiền về giúp đỡ càng nhiều càng tốt, cho đến ngày nào bị cúp viện trợ vì lý do nào đó, thì lúc ấy mới dùng tấm thân mình, đi làm việc để nuôi miệng, chuyện ấy tính sau. Ở xứ ngoài, Vy đã nghe bạn bè nói nhiều về “chuyện dài viện trợ” cho gia đình bên Việt Nam rồi, chuyến này Vy mới thấy thấm thía làm sao đâu!
Về lại đây, khi tường thuật cho mẹ và các anh chị em trong gia đình nghe, ai cũng bảo Vy bị “LUỘC”! Kể cho bạn bè nghe thì tụi nó bảo Vy bị “xơi tái”! Có lần hỏi đùa xem Huy muốn đi nữa không, ban đầu hắn lắc đầu ngoầy ngoậy, nhưng sau đó hắn cười, bảo lần tới có đi nữa, hai mẹ con sẽ “âm thầm” về thăm quê nhà, nhưng không báo tin, không thăm hỏi ai cả, để mẹ khỏi bị “luộc”. Mỗi lần nghĩ đến, hoặc nghe ai hỏi thăm về chuyến đi Việt Nam vừa qua, Vy vẫn còn thấy ấm ức, không biết đến bao giờ mới hết!
11/2005
14. Niềm Tin
Tiễn người khách cuối cùng ra cửa, tôi khóa cửa, tắt đèn rồi đi lên lầu. Thằng em út hẹn sẽ đến tối nay vẫn chưa thấy đâu. Thằng con trai bị ốm vừa uống thuốc xong, chắc thuốc làm buồn ngủ nên đã tắt đèn đi ngủ. Chỉ còn lại phòng chúng tôi và con gái là còn lên đèn, hai phòng cách xa nhau bằng khoảng cách dài của một hành lang.
 
8 rưỡi, chuông cửa reo inh ỏi, đèn tự động bật sáng khi có người bước vào, tôi nghĩ chắc thằng em trai đã đến nên chạy vội xuống, tay vừa mở cửa, miệng vừa hỏi:”Ai đó?”, mắt cũng không quên nhìn qua “con mắt” gắn ở cửa xem thử ai. Một khuôn mặt lạ hoắc:”Có Linh ở nhà không?”
Lệ thường ai bấm chuông, hoặc hỏi thăm con cái, tôi đều gọi các con ra nhận diện. Nếu là người lạ thì bên trong cứ “lặng” luôn, họ gõ cửa, bấm chuông mãi không có, cũng phải bỏ đi thôi. Chắc tôi đang ” vui xuân” hay sao mà lần này tôi lại vừa hỏi vừa mở cửa.
Cửa vừa mở, đã thấy ngay một tên đứng trước, một tên nữa đứng núp bên hông hàng rào, tay cầm súng, mặt bịt miếng khăn đen. Biết ngay là Cướp viếng nhà, tôi vội đóng cửa lại. Xui là cánh cửa cây, gặp mùa mưa, gỗ nở ra nên đóng lại hơi khó khăn, cánh cửa bị kẹt! Quá muộn, hai tên cướp cùng một lúc tông vào, đá cánh cửa, dội vào bờ tường gây tiếng động mạnh, kèm theo tiếng thét của tôi, có lẽ đã gây sự chú ý cho con gái và ông chồng trên lầu.
Hai tên cướp đã vào bên trong nhà, chúng hét:”Nằm xuống”, miệng gọi thêm một tên ở ngoài chạy vào. Chồng tôi nghe tiếng, chạy ra hành lang ngó xuống, dưới nhà tối om, ngoại trừ ánh đèn hắt vào từ ngoài sân trước, chả thấy gì rõ ngoài vài ba người lố nhố nơi phòng khách. Phản ứng tự nhiên là chồng tôi chạy xuống, chỉ để gặp một thằng cướp đang chạy lên lầu, chĩa súng ngay trán:
“Tao có súng đây, câm miệng không tao bắn”.
Một tên đang đứng canh tôi ở phòng khách ra lệnh:
“Mang nó xuống đây”.
Hắn kề súng bên hông chồng tôi, dẫn xuống, bắt nằm dài cạnh tôi, rồi quơ cái áo lạnh vắt nơi ghế quăng trùm lên đầu chúng tôi. Chúng nói chuyện với nhau nửa tiếng Việt, nửa tiếng Mỹ, phần đông là dùng nhiều tiếng lóng.
Lúc đầu sợ quá, tôi nói luôn miệng:” Lấy gì lấy đi, lấy gì lấy đi.”
Chúng hét: “Shut up”.
Một lúc sau, giữ được bình tĩnh, bắt đầu để ý xem chúng làm gì, hé mắt nhìn chỉ thấy và nghe những bàn chân chạy qua chạy lại rần rật cùng nhà.
Chúng lấy áo trùm đầu chúng tôi, bắt nằm tại chỗ ngay phòng khách, dưới chân bàn thờ Phật.
Biết là hết hy vọng, lúc này mới sực nhớ ra, miệng bắt đầu lẩm rẩm niệm Phật lia lịa:”Nam mô Cứu Khổ Cứu Nạn Quan Thế Âm Bồ Tát”. “Nam mô Cứu Khổ Cứu Nạn Quan Thế Âm Bồ Tát”.
Trời, Chúa, Phật, Ðức Quan Âm hay Ðức Mẹ… Bất cứ một vị nào cũng có thể cho tôi hy vọng trong hoàn cảnh hôm nay…Không biết chuyện gì sẽ xảy ra …Bọn du đãng cướp xong sẽ ra đi, hay sẽ bắn chúng tôi cho mất nhân chứng…Giờ phút này không biết ai sẽ sống ai sẽ chết…Không biết con gái tôi trên lầu ra sao…Tôi chỉ còn đặt hết niềm tin cầu nguyện vào đấng thiêng liêng.
Một tên, chắc là “lính mới” nói vọng từ hành lang trên lầu xuống tên đứng canh chúng tôi, chắc là tên “sếp sòng”:
“She is on the phone”.
Chỉ nghe có bao nhiêu thôi, sau đó lại là những tiếng chân chạy và tiếng lóng, nói gì chả hiểu! Một lúc sau sao nghe thật yên tĩnh, chúng tôi ngồi dậy, nhìn quanh, cũng chưa biết chuyện gì, nhưng chả còn thấy ai, chúng tôi khóa cửa, chạy cùng nhà xem xét con cái, đồ đạc. Không đến 10 phút sau, lại nghe tiếng chuông cửa, nhìn ra đã thấy cảnh sát đến. Chúng tôi mở cửa, mời họ vào, nhân viên cảnh sát lăng xăng lấy dấu tay ở những chỗ mà bọn cướp đụng đến, đồng thời hỏi khẩu cung vợ chồng và con gái tôi. Họ đi lòng vòng quanh nhà, tìm được một chiếc dép cao su còn rớt lại trước cửa, có lẽ chúng chạy vội đến rớt cả chiếc dép nhật. Hình như có một tên ngồi ngoài xe chờ 3 tên vào trong ” làm ăn”, biết không xong là chúng dzọt ngay.
Ngay khi vừa vào trong nhà, đầu tiên bọn cướp tìm chỗ để điện thoại, quăng ống nghe ra khỏi ổ điện thoại, chạy vào các phòng đóng hết màn cửa lại, có lẽ cũng là để xét xem có bao nhiêu người trong nhà.
Khi cảnh sát hỏi cung cô con gái, chúng tôi mới biết rằng một tên cướp chạy vào phòng con gái tôi, thấy cháu núp trong xó kẹt, tay còn cầm điện thoại đang nói chuyện. Hắn ra lệnh cho con gái tôi cấm nhìn hắn, rồi lấy cái áo quăng trùm lên đầu, đồng thời giật điện thoại quăng ra xa, xong chạy ra khỏi phòng và báo động với tên ở dưới lầu. Có lẽ bọn chúng đoán rằng đã “động ổ “nên mới kéo nhau bỏ chạy.
Ðúng y như rằng, con gái tôi đang nói chuyện điện thoại với bạn, ngay sau nghe tiếng thét ” rất lạ” của tôi, và tiếng dộng vào cửa, cháu đã cúp điện thoại bạn và gọi ngay cho 911. Cũng rất may là nhà chúng tôi có hai đường dây điện thoại, chứ không có lẽ giờ phút này đã có nhiều chuyện rủi hơn xảy đến cho gia đình chúng tôi rồi.
Vài tháng sau, các nhân viên điều tra vụ cướp có ghé đến nhà, cho chúng tôi xem một cuốn hình, khoảng đâu gần 30 tên bị tình nghi, phần đông là các cậu trẻ tuổi, Á đông. Khi xem hình, con gái tôi nhận diện được ít khuôn mặt của những tên học chung trường. Theo lời nhân viên cảnh sát thì trường học nào cũng có một nhóm băng đảng, chúng rải “cò mồi” bằng những tên mặt mày “sạch sẽ”, chuyên đi làm quen các học trò cùng trường, theo dõi chỗ ở, phần đông chỉ “làm ăn” với các nhà Á đông, có lẽ đó cũng là lý do dẫn cướp đến viếng nhà tôi.
Sau này chúng tôi có được giấy mời đi dự phiên tòa, nhưng không cần phải ra làm nhân chứng, vì bọn cướp này tái phạm nhiều lần, có quá đủ bằng chứng và bị bắt cả đám rồi. Tôi nghe cũng mừng thầm trong bụng. Những thứ này mà không diệt sạch, chắc sẽ làm thối xã hội, và nhục lây cho dân Á đông tỵ nạn của mình!
Tết năm nay đọc báo và nghe bạn bè kể có nhiều vụ cướp xảy ra, y như trường hợp của gia đình tôi. Có nhiều gia đình không được may mắn, đã bị chúng đánh đập, phải vào nhà thương, chưa kể đến chuyện mất một số của cải. Phần đông chúng nhắm vào các gia đình có cửa tiệm buôn bán, hoặc “ăn Trợ Cấp” của chính phủ, những người này có nhiều tiền mặt cất giữ ở nhà. Cướp mà viếng nhà tôi thì chỉ có việc rinh ba cái máy móc hoặc TV mà thôi, làm công chức, làm gì có dư tiền mặt mà để ở nhà. Một số bạn bè còn “dặn dò” truyền miệng nhau:” Phải nên để ít tiền mặt ở nhà, để rủi cướp viếng, có tiền cho chúng, không thôi chúng giết mất!”.
Nghĩ cũng buồn và xấu hổ cho các đấng cha mẹ nào đã lỡ sanh ra những đứa con “đặc biệt” như thế, có lẽ họ đâu muốn! Buồn thay!
Thật là may mắn cho gia đình chúng tôi. Bạn có tin vào Phép Lạ không nhỉ? Mỗi khi nghĩ tới tôi vẫn còn hồi hộp kinh sợ như chuyện mới xảy ra ngày hôm qua. Cám ơn Trời Phật đã cứu gia đình chúng tôi, cám ơn con gái cưng đã lanh tay lẹ chân. Nếu hôm đó cô con gái đi chơi không có nhà thì chuyện gì đã xảy ra rồi nhỉ?
Nhưng tôi riêng thâm cảm “Niềm Tin” thiêng liêng đã giúp chúng tôi vượt qua cảnh ngộ quá kinh sợ, có thể làm một người yếu bóng vía phát khùng.
Dù là tin Chúa, Phật, Ðức Quan Âm hay Ðức Mẹ, miễn có một niềm tin, là ta có thể níu lấy như cái phao để qua cơn sóng gió.
Hỏi ai chẳng có những mất mát trong đời!
Mất nhỏ, mất lớn, kể cả mất tình yêu và lời thề “For better and for worse” trong ngày cưới. Riêng tôi, dù đã mất những thứ mà “thế nhân” thường quí trọng ấy, tôi chỉ cầu xin vĩnh viễn đừng bao giờ mất Niềm tin.
Mùng hai tết 1995
15. Nhảy Dù…
Tôi biết mình có tánh thỏ đế. Những trò chơi đứng tim của Disneyland hay Roller Coaster của Magic Mountain là không tham dự bao giờ. Thế mà sáng hôm nay trên đường lái xe chở Mỹ Linh, cô con gái cưng và Michelle, bạn của ML, đi đến điểm hẹn “ Nhảy Dù “. Tôi thấy lòng mình vẫn bình tỉnh chi lạ! Có lẽ vì “ Chưa thấy quan tài, chưa đổ lệ” chăng?
Gần 45 phút lái xe về hướng Mexico. Ra khỏi xa lộ chính, chạy loanh quanh vào đường làng, qua một con sông khá lớn chung quanh toàn là núi, rẽ vào một con đường đất có lưa thưa vài nhà mái tôn, được dựng lên làm văn phòng cũng như phòng dạy học cho những người muốn nhảy dù chuyên nghiệp. Sau khi vào ghi danh điền, nộp giấy tờ, xem video và đóng tiền, họ dẫn cả nhóm qua phòng kế bên để lấy áo quần, nón, mắt kính và một bộ dây nhợ lòng thòng để mang vào người. Họ không quên “nói sơ” qua thủ tục phải nhảy cách nào, lúc đáp xuống phải ra sao. Sở dĩ họ chỉ “nói sơ” qua thôi vì chúng tôi thuộc loại thỏ đế, nên ghi tên nhảy chung với người chuyên nghiệp. Những người muốn nhảy dù một mình phải qua nhiều khóa huấn luyện lâu dài hơn.
Sau khi đã trang bị đầy đủ, tất cả mọi người được dẫn ra bãi sau, nơi những người nhóm trước mình vừa lên máy bay, để chờ đến phiên mình. Chỉ độ chừng 5, 7 phút sau, ai ai cũng ngóng nhìn lên bầu trời xanh, bao nhiêu là chiếc dù màu đang lơ lửng trông thật đẹp mắt. Họ đáp thật hay, ai cũng về lại đúng ngay vào bãi đáp!!!!
Trong lúc chờ đợi tới phiên mình, mỗi hướng dẫn viên gọi tên từng người mà họ sẽ bay chung ra để chỉ dẫn thêm. Những ai có đặt mua bộ video và chụp hình thì lại có thêm 1 người chụp hình và quay video theo cùng một lúc với mình.
Ðến phiên nhóm chúng tôi được gọi tên để sửa soạn lên phi cơ. Cả đoàn người đi bộ ra sân, cho tới giờ phút này tôi vẫn chưa thấy run gì mấy mà chỉ thấy có một cảm giác lạ lạ không diễn tả nỗi. Người hướng dẫn viên xem xét lại những dây nịt gài trên áo lần chót trước khi bước vào trong phi cơ.
Chiếc “Cesna” ngoài 2 người lái ngồi phía trước, chở khoảng 18 người ngồi phía sau. Máy bay lên cao chừng 13,000 feet quay vòng đầu lại. Lúc ấy 1 người ngồi phía sau mở cửa hông phi cơ ra, gió bên ngoài ùa mạnh vào. Mọi người bắt đầu đội nón và đeo kính lên. Những người “thỏ đế “ như chúng tôi, được gắn các móc khóa liền lại với người hướng dẫn viên. Hai móc trên vai và hai móc dưới. Lúc này tôi mới bắt đầu thấy hồi hộp, tim đập hơi mạnh hơn bình thường. Những người ngồi gần cửa phi cơ là những học trò kinh nghiệm, đã nhảy dù nhiều lần, họ nhảy ra khỏi phi cơ một mình và nhảy trước nhất. Có người chỉ mặc vỏn vẹn có cái quần đùi và áo thun, tròng vào người cái bao dù sau lưng mà thôi. Không phải như chúng tôi, trang bị nguyên bộ đồ bay bằng loại vải chống lạnh.
Chàng quay video nhảy ra khỏi phi cơ trước, kế đến là tôi và người hướng dẫn viên. Ông ta bảo tôi nhích ra gần cửa phi cơ, tay vịn vào thanh cây sắt trên trần, lúc tới sát cửa hai tay nắm vào hai dây đeo áo của mình, mặt ngước lên trời, hai chân co lại trong thế nhún, họ sợ lúc vừa nhảy ra khỏi phi cơ, tay chân mình quờ quạng đụng vào phi cơ. Ðến phút này thì tôi chả nhớ mình làm gì nữa, hình như người hướng dẫn của tôi đã đẩy tôi ra ngoài không trung dùm. Tôi rơi xuống rất mau, theo như người hướng dẫn đã nói trước là mình sẽ rơi với vận tốc 120mph. Gió tạt lạnh buốt cả da mặt. Phải chi có cái gì che luôn da mặt thay vì chỉ che cặp mắt thì chắc đỡ hơn. Hai lỗ tai lùng bùng khó chịu mặc dù đội cái nón bay che đầu và che bít luôn hai lỗ tai rồi. Sau này khi xem video lại mới thấy cái lão hướng dẫn viên quên dặn mình 1 điều quan trọng là phải ngậm miệng lại, đàng này mình cứ nhe răng cười toe toét, thảo nào lạnh buốt cả cái hàm răng ….... giả.
Cảm giác sợ thứ nhất là khi mình đứng trước cửa phi cơ để chuẩn bị nhảy.
Cảm giác sợ thứ nhì sau khi nhảy ra khỏi phi cơ là mình rơi từ trên Trời xuống đất khi dù chưa mở, vừa mau vừa bị xoáy nhiều vòng, tôi tưởng ruột gan phèo phổi tôi văng ra hết rồi chớ! Mà kể cũng lạ, cái ông chụp hình không hẹn mà gặp, đã có mặt từ đó bao giờ rồi, vừa quay vừa chụp hình cho tôi có chút kỷ niệm để đời có một không hai này.
Tôi để ý thấy người hướng dẫn có đeo một cái đồng hồ to nơi tay, để canh đến độ bao cao, bao nhiêu phút thì phải làm gì kế tiếp. Ít phút sau, người hướng dẫn bật nút dù cho bung ra, tôi bị giật ngược từ dưới lên trở lại trên trời và từ đó trở đi mới thật sự thấy được cảm giác thú vị của nhảy dù. Ðược ngồi nơi cái đai ngang, bay lơ lửng trên không trung, người hướng dẫn tháo kính bảo vệ mắt tôi ra, lúc này mới có thời giờ ngắm nhìn trời mây nước và cả những chiếc dù đủ màu của các bạn chung quanh.
Một kỷ niệm đúng là khó quên và nếu ai có hỏi tôi muốn thử lại lần thứ hai nữa hay không, chắc câu trả lời của tôi sẽ là KHÔNG.
8/25/2001
16. Làm Dâu Trăm Họ
Nhớ lại thuở ban đầu, còn làm công chức, nghề khai thuế chỉ là việc phụ, kiếm thêm tiền lẻ đi chơi. Lúc ấy không có văn phòng, phải chạy đến nhà khách lấy giấy tờ mang về, xong xuôi phải mang trở lại, đúng là phục vụ hết mình. Kế đến là màn “chia sẻ” văn phòng với người bạn, chỉ trả tiền chỗ tượng trưng. Ông bạn cho mướn cái bàn để ngồi tiếp khách, cứ việc hẹn khách mang giấy tờ đến văn phòng gặp mình, đỡ phải chạy lui tới. Ông bạn ngồi đó lâu ngày nghe hoài đâm ra thuộc bài, biết cách khai thuế và sau này….đã mở văn phòng khai thuế riêng?
Ðến khi hãng xưởng đóng cửa, dọn ra khỏi tiểu bang, ai không muốn đi theo thì mất việc, từ đấy mới chịu mở văn phòng riêng cho chính mình. Chả hiểu chọn chi cái nghề thật là khô khan, toàn là số, số và số, phải chi chọn trúng sáu số cũng đỡ, đàng này tối ngày cứ phải ngồi tính toán, giữ tiền bạc sổ sách dùm cho thiên hạ, nhiều lúc đầu óc cũng căng thẳng dữ lắm, nhất là vào những mùa “cao điểm”.
Những năm đầu tiên mới mở cửa tiệm, quảng cáo tùm lum trên các báo chí, đến mùa thuế phải đăng quảng cáo thật to, trước cửa tiệm còn giăng các tấm biểu ngữ lớn cho khách chạy xe ngoài đường dễ thấy. Năm nay đúng vừa vặn mười năm mở tiệm, đến mùa thuế quảng cáo cũng không đăng, biểu ngữ cũng chả treo, thế mà khách đâu kéo đến nườm nượp phát sợ, điện thoại cứ reo inh ỏi, nhiều lúc chỉ muốn …trốn!
Khách quen lâu năm, quá tin cậy đến độ chỉ tạt ngang, giao cho mớ giấy tờ rồi bỏ đi, hẹn ít hôm trở lại, cứ nhìn cái thùng hồ sơ thuế phải làm mà muốn bịnh, nhiều buổi sáng thức dậy, trong chăn êm nệm ấm, tính “nướng” tiếp, nhưng chợt nghĩ đến công việc sở, là phát rét, phải ngồi dậy ngay, lo sửa soạn xuống sở làm việc cho rồi!
Nhiều người khách ghé ngang, thấy văn phòng chỉ có nhân viên đang ngồi làm việc, chả thấy bóng người khách nào cả, họ “thương hại” còn giúp chỉ mánh:
– Mùa này phải giăng cái bảng “nhận khai thuế” treo to trước cửa tiệm
– Phải quảng cáo thêm.
– Ðưa tờ quảng cáo của tiệm, tôi đi phân phát giới thiệu dùm cho
… Họ đâu biết rằng nhân viên đang làm việc không kịp nghỉ xả hơi, và họ cũng đâu biết, giờ này khách mới gọi tới, văn phòng đã từ chối không nhận thêm nữa, trừ khi khách chịu làm “gia hạn”, sau mùa thuế rồi hẳn tính.
Giá cả ở đây cũng “nhẹ nhàng” so với các chỗ khai thuế của người Mỹ nên được chiếu cố khá đông. Dĩ nhiên là giá cả đã được định sẵn, theo từng mẫu đơn dài hay ngắn, dễ dàng hay rắc rối. Phần đông khách cũ vẫn được trả theo giá cũ, cả mấy năm liền không bị tăng giá, trừ khi có thay đổi thêm phức tạp. Thế mà nhiều người với cái máu “trả giá” trong người, lúc nào làm xong thuế họ cũng kỳ kèo bớt xuống cho đuợc năm, mười đồng mới chịu. Chả bù lại có những người trả tiền rất hậu hỉ, còn tặng thêm cả “buộc boa”.
Khách hàng thì đủ các loại, từ chủ nhà hàng, tiệm sửa xe, hớt tóc, cho đến nghề làm móng tay, bán rong, bỏ báo v.v… gì cũng có. Có nhiều người ban đầu ở ngay tại thành phố, sau đó vì công việc, dọn đi tiểu bang khác, đến mùa thuế, họ vẫn gửi giấy tờ về để làm. Mùa này trả tiền điện thoại viễn liên và trả tiền tem mệt nghỉ, nhưng bù lại cũng thu vào mệt nghỉ luôn, nên tôi hay đùa với bạn bè, cứ đến mùa thuế là đổi thành tên THU.
Cứ nhìn cách sắp xếp giấy tờ của khách là biết tánh tình của họ ngay. Có nhiều người tánh tình quá cẩn thận nhưng bù lại cũng có những người rất cẩu thả. Giấy tờ cả năm họ dồn vào một cái bao như bao đựng rác, và cũng vì thế họ kể lại, chính con của họ đã lầm và quẳng những giấy tờ đó vào thùng rác mất tiêu luôn!
Nhiều lúc đang bày hồ sơ ra đầy bàn để làm thì khách bước vào, thế là phải dẹp tất cả giấy tờ của hồ sơ dang dở vào để lo cho người khách mới, một hôm, có vị khách bước vào, làm thuế xong ông ta ôm nhầm hồ sơ người khác theo. Khách ra về, mình tìm hồ sơ dang dở để làm tiếp, tìm mãi chẳng thấy đâu, phải suy nghĩ ngược lại từ sáng đến giờ đã làm thuế cho những ai, hồ sơ biến đi đàng nào? Sau đó gọi lòng vòng các thân chủ hỏi xem có ai “cầm nhầm” hồ sơ về nhà không, ai cũng trả lời không có. Hôm ấy thật là “đổ mồ hôi hột” vì tất cả giấy tờ chính, khách đã tin tưởng giao cho mình cả, bây giờ không cánh mà bay, tìm khắp nơi không thấy, cứ ngỡ rằng chắc mình lú lẫn, cần “về hưu” là vừa! Vài hôm sau vị khách quen này gọi đến báo tin cho hay đã tìm thấy hồ sơ thất lạc, nằm chung với hồ sơ của ông ta. Thật là hú vía! Từ đó về sau, mỗi khi tiếp khách là trên mặt bàn phải trống trơn, đúng là một kinh nghiệm xương máu!
Có nhiều vị khách khai thuế từ thuở còn là học trò, đạp xe đạp đến văn phòng khai thuế, cho đến khi học ra trường, đi làm, lấy vợ sanh con, mỗi năm mỗi gặp, đùm đề tay bồng tay dắt. Và cũng có nhiều vị khách quen khai thuế vài năm thì biến mất, sau này mới được biết là họ bị bạo bệnh và đã qua đời. Ngoài ra còn có nhiều người khách ở tiểu bang xa, cũng qua sự giới thiệu, gửi giấy tờ về khai thuế, chỉ nói chuyện qua điện thoại mà chưa hề gặp mặt, đủ biết họ tin tưởng vào văn phòng mình như thế nào, đó cũng là những niềm vui làm cho mình lên tinh thần để tiếp tục công việc cho đến ngày nay. Nhiều người lâu ngày từ khách lạ trở thành người bạn thân quen, có hôm ghé văn phòng còn bới cho cơm nước, vui nhất là vào dịp Tết, Tết năm nào cũng rơi ngay vào tháng thuế, lúc ấy tối tăm mặt mày, đâu còn biết đến Tết nhất, cứ thấy khách mang bánh mứt đến biếu, mới biết là Tết sắp đến.
Nếu mọi chuyện suông sẻ cả thì có chuyện gì nữa đâu mà nói, mỗi năm hình như có mỗi câu chuyện buồn vui khác nhau. Cứ như là dịch “nuôi chim Cút” ở VN ngày xưa, có năm thì toàn là “stocks” bà con mua bán stocks như điên, năm ấy ai cũng lời, đóng thuế đến “méo mặt”, và chỉ một năm mà thôi, năm sau đó thì dịch này biến mất, đến lượt bà con tán gia bại sản vì đầu tư vào Stocks! Cái hay của sở thuế là khi lời thì chặt thuế đẹp, chặt liền tay, và đóng thuế nguyên số tiền lời ngay tức khắc, nhưng khi lỗ thì chỉ được trừ tối đa có $3,000.00, có nhiều người lỗ vài trăm ngàn, cứ nhắm theo cái đà này thì trừ cả đời cũng chưa cấn hết số tiền lỗ của mình.
Có một ông khách Mỹ già, nghe bạn bè giới thiệu, mang hồ sơ đến văn phòng tôi, ông cẩn thận mang theo hồ sơ cũ để tiện bề theo dõi, xem có những chi tiết gì của năm cũ có thể dùng được qua năm mới hay không. Sau khi làm xong hồ sơ, tôi hỏi xem ông ta muốn gửi bằng hệ thống điện toán để tiền bồi hoàn nhận được sẽ mau hơn gửi bằng bưu điện thường, ông ta đồng ý ngay. Dĩ nhiên khi làm việc này, thì khách hàng phải đưa số trương mục ngân hàng của họ, thấy trong hồ sơ cũ đã có ghi sẵn số trương mục, tôi hỏi phải số này đúng là số ngân hàng của ông không, ông ta gật đầu. Hai, ba, bốn tuần trôi qua, ông già chờ đợi mòn mỏi chả thấy tiền đâu, gọi sở thuế thì tiền đã vào thẳng ngân hàng của khách rồi. Thật lạ lùng, khi đọc lại số trương mục mới biết là không phải. Ðó là số trương mục của văn phòng làm thuế cũ của ông ấy. Thế là tôi phải chở ông ta đi tìm chỗ làm thuế cũ để đòi lại tiền dùm. Kỷ niệm này tôi sẽ nhớ mãi, và mới ngày hôm qua, ông cụ trở lại làm thuế vẫn còn nhắc đến cái hôm tôi chở cụ đi tìm văn phòng khai thuế cũ, cụ chỉ có địa chỉ văn phòng mà không biết nó nằm ở đâu, văn phòng thật là xa, tôi chở cụ đi lạc, vòng tới lượn lui nguyên cả buổi sáng, cuối cùng cũng tìm ra được. Phải xin gặp xếp lớn chứ các nhân viên làm việc ở đó chả có quyền hành gì cả, ngồi chờ thật lâu mới có người tiếp. Dĩ nhiên là làm sao họ tiếp đón nồng hậu cho được khi cụ không còn là khách hàng nữa, nêu vấn đề, trình bày giấy tờ cho họ xem xong, họ hẹn phải đợi họ xét lại trong trương mục ngân hàng của họ có số tiền cụ trong đó không đã, mới gửi tiền trả cho cụ. Chuyến đó thay vì lãnh tiền thật mau, cụ phải đợi hơn cả tháng! Tôi thầm nghĩ trong bụng, một là tại Anh văn của mình giỏi quá nên cụ không hiểu, hai là tại cụ già nên lẩm cẩm. Năm nay cụ 79 tuổi, đã bán cái nhà riêng để vào ở nhà dưỡng lão. Xứ Mỹ này ngộ thiệt, về già ăn tiền hưu cao cũng phải khai thuế và trả thuế cho đến chết mới thôi, có khi chết rồi mà sở thuế còn gửi giấy đến nhà đòi nợ!
Chỉ còn hai tuần nữa là chấm dứt mùa khai thuế, lúc này là “cao điểm” của mùa thuế, những khách đến làm thuế cuối mùa thường là những hồ sơ khó khăn, rắc rối, hoặc bị trả tiền lại, nên khách cứ thế mà thong thả. Năm nay tôi bị sao quả tạ chiếu, mấy hôm nay “cửa sổ của linh hồn” đang bị đóng,(người ta hay nói đôi mắt là cửa sổ của linh hồn mà), con mắt bị đỏ, sưng húp lên, ngồi khai thuế mà cứ lấy khăn chậm mắt mãi, cứ như là vừa từ giã với người yêu, khóc đến sưng mắt không bằng! Cứ chúi mắt vào màn ảnh máy vi tính và phải tiếp chuyện với khách cả ngày thì bịnh nào cho hết! Thế mới biết sức khỏe là quan trọng như thế nào.
Ðịnh tạm ngưng câu chuyện nhưng lại có một truyện tức cười khác, phải kể ngay kẻo quên, chiều qua có một cụ già Mỹ, lom khom đi vào văn phòng, hỏi:
– Mày có cuốn điện thoại niên giám cho tao mượn?
Ðưa cuốn điện thoại niên giám cho cụ, cụ lẩm nhẩm:
– Tao kiếm văn phòng khai thuế H&R…!?!?
Ông cụ tìm xong, còn hỏi đường xá, cụ chào cám ơn, từ giã, tôi và những bạn đồng nghiệp trong văn phòng cười ngất cho sự ngớ ngẩn của cụ. Chắc cụ già cả không thấy đường nên vào ngay văn phòng khai thuế để hỏi đường đến văn phòng khai thuế khác, đúng là chuyện chỉ xảy ra ở xứ Mỹ!
Năm nào cũng thế, định bụng xong mùa thuế sẽ viết những cảm nghĩ của mình để dành mai mốt về hưu kể cho con cháu nghe … mua vui, vậy mà đã hơn 20 năm qua tôi vẫn chưa hề bắt đầu. Năm nay mùa thuế sắp hết, tôi nhất quyết phải viết cho xong mới thôi, thảo nào mà trời mưa mãi! Làm trong nghề lâu năm, tiếp xúc với đủ mọi tầng cấp và sắc tộc, có nhiều điều vui nhưng lắm lúc cũng có khá nhiều bực mình, chuyện dài viết hoài chắc sẽ không bao giờ ngừng được nếu như còn tiếp tục làm công việc này.
Có lẽ tôi phải tạm dừng ở đây, tưởng gì, viết về mấy con số chán chết, chỉ đoán trúng được “sáu số” cho mình hay cho người ta sẽ là vui nhất thôi? Ngao ngán thay cái nghề “làm dâu trăm họ” này.
Ðầu tháng Tư, 2005
17. Đi sắm áo…quan
Sau truyện “Chiếc Áo Cuối Cùng”, viết từ cảm nghĩ sau khi nghe cô bạn kể chuyện đi sắm “áo quan”, đến truyện ” ” qua kinh nghiệm đi khảo giá cùng với người cô. Chuyến này đích thân tôi làm hẹn đi gặp người đại diện lo chuyện hậu sự cho ba mẹ tôi.
Cũng may là Ba Mẹ tôi chu đáo đã lo chọn mua sẵn đất đai, và bảo hiểm nhân thọ, nhưng chỉ có bấy nhiêu đó chưa đủ. Ngoài chuyện đất đai, còn lắm thứ khác cũng quan trọng không kém, nào là mua “giường ngủ” (hòm), kim tĩnh, mướn phòng, bao nhiêu ngày để cho bà con đến viếng thăm, dịch vụ trả cho công ty lo chôn cất, giấy khai tử … nhiều lắm kể ra không hết!
Lần này tôi gặp hên, người lo công việc này lại là cô bạn cũ, nên không bị như trường hợp bạn tôi đi sắm áo quan trong chuyện Chiếc Áo Cuối Cùng. Cô bạn giúp đỡ rất tận tình, sau khi điền một số giấy tờ, cô ta dẫn tôi qua căn phòng khác, nơi đây chưng bày đủ thứ kiểu mẫu, tha hồ chọn lựa, tùy túi tiền. Nào là chọn bia, chọn kim tĩnh, chọn hòm v.v… Giá đi từ rẽ cho đến mắc, một cái hòm rẽ nhất cũng đã hơn $2,000, hỏi ra thì được biết làm bằng gỗ thường, rồi loại gỗ tốt, cẫm lai, cho đến bằng sắt cứng, chắc chắn, thứ này mắc nhất. Kim tĩnh cũng thế, từ xi măng loại thường, không sơn, để màu trắng, chỉ việc tô thêm chút hồng, cho các cô, các bà, hoặc xanh, xám cho các ông là đã thấy mắc thêm vài trăm bạc!
Nghĩ cũng lạ, đã chết là thân xác sẽ tiêu tan cùng cát bụi, mà sao phải chôn trong hòm sắt thật kiên cố lâu ngày làm gì thế nhỉ? Ðiều này chắc tôi phải tìm các cụ để hỏi cho ra lẽ mới được?
Ðúng là nhập gia tùy tục, ở Mỹ lâu ngày đâm ra quen, thấy việc lo trước chuyện hậu sự là điều rất cần thiết, nhất là với vật giá gia tăng mỗi năm, bây giờ mới đi lo chuyện hậu sự cho ông bà cụ tôi, cũng có hơi muộn màng rồi đấy, giá cả mắc gấp đôi thấy phát sợ! Chưa kể đến những giá để trả cho công đào lấp đất sẽ thay đổi tùy thời gian mình chết, thành ra khoản này đợi khi nào thành người thiên cổ, mua cũng chưa muộn. Cũng hay là các công ty lo chuyện hậu sự họ có chương trình cho vay trả góp không lấy lời, nên cũng dễ thở.
Viết đôi dòng ghi lại chút kinh nghiệm, hy vọng bạn bè cũng nên lo đi hỏi thăm chỗ nào mình muốn “nghỉ lưng dài hạn”, để lo trước việc tương lai cho chính bản thân mình, chứ đợi đến lúc “tang gia bối rối” quả thật là bối rối tang gia thiệt! Riêng tôi, sau khi bàn với các anh chị em trong gia đình lo cho ba me tôi, tôi quyết định nếu tôi có chết thì lăn vào lò lửa cho mau, cho xong và ….cho rẻ.
Ngồi đây viết những dòng chữ này, nghĩ lại hôm nọ mình quên chụp hình cho bà con xem các mặt hàng! Ðịnh bụng sẽ trở lại chụp hình cho bà con xem cho ….vui.
Tháng bảy, 2005
18. Những Dòng Chữ Nhỏ
Hai con mắt bé Lan sáng rỡ, nụ cười tươi rói, khi mở tấm thiệp mừng sinh nhật của chú Vĩnh gửi tặng. Bên trong là một thẻ quà tặng trị giá $25. Có thể dùng để mua sắm ở bất cứ tiệm nào, chấp nhận trả tiền bằng thẻ tín dụng.
Cả năm sau, gần đến ngày đáo hạn, Châu mới rảnh để chở con bé đi mua sắm. Ra đến quầy tính tiền, cả hai mẹ con mới chưng hửng, khi nghe người bán hàng “phán” cho một câu ” Thẻ này giá trị chỉ có $10 thôi“!
Phải mất vài tuần chờ đợi, sau khi gửi thư than phiền đi khắp nơi, chỗ này “đá” qua chỗ nọ, Châu học được nhiều bài học quý giá và hiểu rõ hơn. Ngân hàng nơi phát hành tấm thẻ quà tặng, đã tính chi phí “tiền công giữ thẻ” mỗi tháng $2.50, bắt đầu sau sáu tháng, kể từ ngày tấm thẻ được mua. Châu nhận được thư hồi âm với câu trả lời thật là mỉa mai:” …tại không chịu đọc kỹ những dòng chữ in NHỎ….”. Những dòng chữ bé li ti in nơi tấm thẻ hoặc bức thư đính kèm, thế mà có giá trị lớn lắm, coi chừng đấy các bạn!
Mùa lễ lại sắp đến, biết tặng nhau gì đây, mua quà thì phải cho đúng ý người nhận, chi bằng cho tấm thẻ quà tặng, người thân muốn mua gì tuỳ ý, mình khỏi tốn thì giờ đi mua sắm. Nếu bạn dự định cho quà theo kiểu này, hoặc nhận được thẻ quà tặng, nhớ cẩn thận. Phần nhiều những tấm thẻ này đều có ngày “đáo hạn”, ngoài ra mỗi nơi ấn định những kiểu “moi tiền nhẹ nhàng” khác nhau, dưới nhiều hình thức như “chi phí hành chánh, lệ phí, tiền công giữ thẻ ….”. Có nhiều nơi “đập” ngay những chi phí này, một tháng ngay sau khi được mua, có nơi khác thì sáu tháng sau đó mới bắt đầu ra tay. Mỗi tháng cứ trừ sơ sơ vài đồng bạc, chừng một năm sau, tấm thẻ quà tặng chả còn giá trị gì cả!
Con buôn rất thích bán các món hàng “thẻ quà tặng” như thế này, có nhiều thẻ bán đi, nhưng không được xử dụng vì người nhận làm thất lạc, hoặc quên dùng, để quá ngày đáo hạn, thế là chủ nhân phát hành được lời to.
Ôi những dòng chữ nhỏ mà giá trị to lớn vô cùng, nhất là khi đi mua sắm những món nợ lớn, phải ký giấy nợ, giấy tờ đưa ra để ký nhiều lắm, nhớ để ý các dòng chữ in nhỏ ở phía dưới, kẻo “bút sa gà chết”.
Mỹ Ngọc
11/11/2005
19. Số Con Rệp
Mạt chẳng nhớ rõ nó từ chốn nào đến đây cư ngụ, hay có thể nơi này là chỗ chôn nhau cắt rốn của Mạt cũng không chừng. Sau ngày chào đời, Mạt còn nhớ mình có đủ gia đình, cha mẹ, anh chị em, đông đúc, ấm cúng, vui vẻ, sống chung dưới một mái nhà, tuy nhà của Mạt không sang trọng gì lắm. Cho đến một hôm Mạt nhìn thấy tận mắt cảnh gia đình Mạt bị đè bẹp dí, Mạt nhờ bị cảm không ra ngoài kiếm ăn, nên thoát chết.
Mạt đành phải an phận, chọn nơi này làm quê hương vậy. Ở đây cũng tạm đủ sống qua ngày, thức ăn không phải tìm kiếm mà vài ba hôm lại được thay đổi, thế thì còn gì cho bằng. Có mấy ai được cái diễm phúc như Mạt đâu nhỉ, được nếm đủ hết các món “cao lương mỹ vị” trên thế giới, tuy nhiên, có nhiều món nuốt thật khó trôi, từ Mỹ qua Mễ, Trung Ðông, qua đến các nước Á Châu, Ðại Hàn, Nhật Bổn, Tàu, Phi Luật Tân và cả Việt Nam nữa. Rốt cuộc nó vẫn mê mùi vị mặn mà, đậm đà của dân da vàng mà thôi.
Ngày xưa còn có mẹ dạy, nhưng từ ngày sống cô độc một mình, thân tự lập thân, Mạt càng có kinh nghiệm nhiều hơn. Mạt thích những người béo phì và dễ ngủ, những người này Mạt không cần phải ý tứ, cẩn thận làm chi, chả bù những người “nhạy cảm” hoặc ốm nhom, gặp những người này là Mạt đói meo, và có khi dễ bỏ xác tại trận! Chưa kể những hôm xui xẻo gặp dân Trung Ðông, họ xức cái mùi gì mà từ đàng xa Mạt đã muốn ngất xỉu, huống hồ gì bò lại gần kiếm ăn.
Lâu ngày rồi cũng thành thói quen, Mạt biết cả giờ giấc của mọi người, phần đông Mạt ăn uống không giờ giấc, chỉ những lúc thiên hạ ngủ Mạt mới được no nê. Cả ngày Mạt chả phải lo lắng gì cả, cứ việc nghỉ ngơi nằm suy nghĩ chuyện đời, có nhiều hôm Mạt nhớ gia đình lắm, cũng tại cha mẹ chết nơi đây mà Mạt không đành lòng bỏ nhà ra đi.
Một hôm, Mạt nghe lén câu chuyện của các cô bồi phòng bàn tán với nhau. Chủ nhân tính bán chỗ này, không biết khi đổi chủ, số phận họ sẽ ra sao? Thật tội nghiệp cho họ quá, nhưng nhìn lại “số con Rệp” của mình, thật là đúng với cái tên cha mẹ đặt chẳng sai, “Mạt Rệp”, ngao ngán thay. Chỉ nghe đến đó Mạt đã thấy trời đất như quay cuồng, muốn sụp đổ! Mạt tính chuyến này phải dọn đi chỗ khác trước khi có cuộc đổi đời. Một buổi sáng thức dậy muộn, nhìn ra ngoài thấy trời còn tối om, chung quanh nghe tiếng cười nói ồn ào của một đám người mặc đồng phục, Mạt chạy vội ra cửa nhìn, cả tòa nhà từ nóc trở xuống đã bị trùm vải dầu kín mít, nó vội trở vào tìm chỗ an toàn để trốn.
Mạt cảm thấy ngột ngạt, khó thở, nó ngủ thiếp đi lúc nào không hay, trong giấc mơ, Mạt thấy, từ thế giới bên kia, cả gia đình, cha mẹ anh chị em nó đang tươi cười đứng đợi chờ đón.
Vài hôm sau, bảng tên mới được gắn lên. Cờ xí treo đầy chung quanh tấm bảng “Mừng Khai Trương” khách sạn mới.
11/10/2005
20. Món Quà Không Mong Ðợi
Nhìn vào gia đình Minh và Mai, ai cũng thèm thuồng cả. Ngôi nhà to lớn, có đến ba gia đình, vợ chồng con cái Mai ở cùng với cha mẹ và gia đình Hùng và Liên, em trai nàng. Như vậy trong nhà có đầy đủ giai cấp nam phụ lão ấu, từ đứa cháu sắp lên ba, cho đến cụ già trên tám mươi, nên nhộn nhịp lắm.
Mai đã từng đọc được ở đâu đó, những bài viết so sánh giữa người già và em bé, bây giờ nàng mới thấy rõ, có nhiều điểm (ngược) giống nhau lắm. Này nhé, em bé lúc mơí chập chững, phải dùng đồ tập đi một thời gian mới đi đứng vững vàng, người già thì ngược lại, càng về già, không có gậy chống nên dễ té! Già rồi, răng cỏ rụng hết, chỉ còn đưa nướu, thức ăn càng mềm, càng nhuyễn càng tốt, rồi thì càng gần đất xa trời cặp mắt không thấy, tai chẳng nghe rõ nữa, tóc còn loe ngoe vài sợi, có khi rụng sói đầu cả! Không thua gì em bé mới chào đời.
Mỗi ngày hộp thơ ở nhà đầy ắp, đôi lúc không còn chỗ chứa. Một ít là thư đòi nợ, còn lại phần nhiều là “thư rác”, nhất là từ ngày Liên, vợ Hùng, sanh thêm bé Vy. Những hàng mẫu, báo chí, sách dạy nuôi con, học làm cha mẹ, được gửi đến tới tấp. Các hảng quảng cáo thật là tài tình, họ gửi đến chúc mừng bằng những thư mời, cho tặng phẩm, giới thiệu mua tả, sửa, quần áo, giày dép, thức ăn, nhiều món hàng hấp dẫn vô cùng. Các tiệm chụp hình cũng gởi cho những phiếu chụp hình, được tiệm chuyên nghiệp cho ảnh miễn phí, ai mà chả ham. Họ chỉ cần làm sao cho mình ghé đến tiệm họ một lần là đủ. Bởi vì sau khi nhận tấm ảnh đầu tiên “biếu” không, đâu ai nỡ lòng nào quay lưng, không “mua” luôn cả bộ ảnh đã được chụp rồi! Con bạn xinh đẹp đáo để, không lý nào lại cho họ vứt hình con mình vào xọt rác! Thế là ra về với cả chục tấm ảnh trên tay, trong lòng thơ thới, nhẹ nhàng, vì túi tiền vơi đi!
Bé Hà, con gái giữa của Hùng Liên, sửa soạn lên 13, vài năm trước các hãng quảng cáo còn hay gửi thư mời mua đồ chơi, hết các kiểu búp bế, qua đến son chảo, đồ nấu ăn cho con nít, xe đạp, xe hơi chạy bằng điện, nhà nấu bếp, xích đu, bao gối, tấm khăn trải giường in hình các nhân vật của Disney…. Nay lại gửi những sách báo với các kiểu áo quần, giày dép, đồ nữ trang. Hết quần ống túm sang ống loe, áo đầm ngắn rồi lại dài lê thê, cứ quanh đi quẩn lại đủ để moi tiền các cô!
Thằng Huy, con trai lớn của Hùng Liên đang ở năm cuối bậc trung học, Huy giao thiệp rộng nên có nhiều bạn bè lắm, nhất là các cô gọi điện thoại đến nhà hỏi thăm hoài. Ði học về sau khi lo bài vở là chúi đầu vào máy vi tính, hoặc ôm điện thoại. Tuần nào cũng thấy những tờ quảng cáo đại hạ giá các máy móc, những kiểu hàng mới ra nhất. Mùa hè sắp đến, thông lệ của các trường học ở đây là tổ chức dạ tiệc cuối năm, mỗi cậu phải có một cô bạn gái, để mời đi vào dịp này. Nếu chỉ là một buổi dạ tiệc thường, thì không còn chuyện gì để nói, đàng này phải mướn xe loại đặc biệt có tài xế chở đến đón nàng, tặng cho nàng hoa cài tay, cài áo. Sau khi đón được người đẹp ra khỏi nhà cha mẹ nàng, phải mời nàng ghé vào một nhà hàng sang trọng, làm một bụng no nê, rồi mới đến chỗ dạ vũ. Cứ thế mà quảng cáo và phiếu bớt tiền được gửi tới ào ào, nào là những chiếc áo dạ hội cho các cô, những kiểu hoa đeo tay, riêng các cậu có khi còn cần phải mướn các bộ đồ vía nữa, lắm lúc Mai cứ tưởng như chúng đang sửa soạn làm đám cưới không bằng!
Cũng may cho vợ chồng Mai, con cái đã đến tuổi trưởng thành, nhìn đám cháu đang tuổi mới lớn, Mai nhớ lại mình cũng trải qua giai đoạn này rồi. Thời đó có được những con búp bê, hay những thằng lính nhựa là bọn nhỏ mừng lắm rồi, thời buổi tân tiến này tốn tiền hơn, vì búp bê biết nói, hoặc người máy biết đi, đều phải dùng pin. Bây giờ những thư quảng cáo của con Mai thuộc loại “cao cấp” hơn, bởi vì chúng đã đi làm và có người yêu. Thỉnh thoảng lại được thư mời mua xe với phân lời nhẹ nhàng, cuối tuần đi nghe nhạc, nhảy đầm, có chương trình đặc biệt, cầm tờ quảng cáo này, vào cửa được bớt 20%, hay là được uống nước miễn phí. Phố xá đang đại hạ giá các món mỹ phẩm, dầu thơm, áo quần. Mua một tặng một vé bay đi nghỉ mát cuối tuần. Mùa đông đi trượt tuyết, mùa hè đi biển, cuối tuần đi phố, một năm phải có đi xa nghỉ xả hơi. Các con Mai sanh ra và lớn lên ở xứ người, nên lối sống cũng không khác gì người dân ở đây!
Vợ chồng Mai cũng có khác gì mọi người đâu, mới tuần rồi nhận được thư mời mua bảo hiểm nhân thọ, họ liệt kê giá tiền theo tuổi tác. Không quên nhắc khéo Mai mua ngay kẻo sau ngày sinh nhật là hết có giá đặc biệt! Minh không những được những tập quảng cáo giới thiệu mua máy đấm bóp chân tay, lưng, vai, còn thêm những báo trưng bày máy cắt cỏ, thổi lá, thỉnh thoảng lại được tặng cho một gói hàng nhỏ, với vài viên sỏi làm mẫu. Trong nhà Minh là người bao thầu sân cỏ, dĩ nhiên là cắt cỏ xong, vào sẽ đau lưng, nhức mỏi lắm, nhiều lần Mai bàn với Minh dẹp sân cỏ, để đổ sạn cho khoẻ. Hay thật, hãng quảng cáo đã đi guốc trong bụng vợ chồng Mai!
Gần đến mùa lễ lớn, các hãng quảng cáo càng bận rộn hơn, những tờ báo quảng cáo, hàng mẫu được thân ái gửi đến liền liền. Như mọi năm, cây Noel được mang ra chưng bày vào cuối tháng 11, khi vừa ăn mừng lễ Tạ Ơn xong. Nhà đông người nên dĩ nhiên quà cũng đầy ắp dưới gốc cây, những gói buộc nơ, xanh xanh đỏ đỏ, những ngọn đèn to nhỏ, chớp tắt trên cây, trông thật là ấm cúng.
Buổi sáng sau đêm ăn mừng lễ Giáng Sinh, đám con cháu dậy thật sớm, làm ồn ào nhà cửa, chắc cả nhà ngủ không được vì nôn nao mở quà. Mai không cần phải đánh thức ai dậy, mọi người đã có mặt đầy đủ, cha Mai run rẩy chống gậy ra chiếc ghế quen thuộc ngồi xuống, mẹ lăng xăng trong bếp một lúc cũng ghé ngồi cạnh bên, năm nay đặc biệt có một hộp quà to nhất, chẳng để tên người tặng là ai, nhưng gói gắm bên ngoài trông rất hấp dẫn.
Mọi người nhận và mở quà vui vẻ, thỉnh thoảng lại nghe rú lên mừng rỡ. Các tờ giấy gói quà bị xé tung, vất đầy nhà. Cái thùng to không đề tên người gửi, thì ra là của cha mẹ, lúc nào cũng thế, trước khi xem món quà, mẹ cẩn thận mở ra và xếp những giấy gói quà, giây nơ buộc xinh đẹp, cất sang một bên, để dành còn dùng lại. Bên trong thùng, một rừng giấy quảng cáo, nào là phiếu bớt tiền mua: răng giả, tóc giả, mắt kính lão, gậy một chân, bốn chân, gậy thường đi trong nhà, gậy sang trọng dùng đi ra ngoài, xe lăn bằng tay, bằng pin, bằng điện, “tả” dùng cho người lớn, mua đất, mua hòm, lo nhà quàn ….đại hạ giá. Cứ cầm cái phiếu bớt tiền này đi sắm hàng, bảo đảm, bớt 20% cho đến 50%, có khi mua một, biếu một.
Ðặc biệt ngoài mớ giấy quảng cáo, trong thùng còn có một số hộp quà mẫu, nào là miếng keo dán vào nướu, cho khỏi sút răng giả, ít miếng băng dán “Salonpas”, khi bị đau lưng, nhức mỏi, lọ dầu nóng “Ben Gay”, vài viên thuốc dùng mỗi đêm, để ngâm bộ răng giả cho trắng, thuốc nhức đầu, thuốc bổ!
Nhiều hôm mẹ Mai còn nhận được những phiếu giới thiệu mời dọn vào ở các chung cư dành riêng cho người già, hoặc các nhà dưỡng lão có y tá chăm sóc ngày đêm. Một người bạn của cha mẹ Mai, sau khi đã mua đất lo phần hậu sự, mỗi năm đều nhận được thiệp chúc tết, chúc mừng sinh nhật, chu đáo hơn thế nữa, gia đình họ vẫn còn nhận được thiệp chúc, mặc dù thân nhân đã qua đời một, hai năm trước rồi! Gần đây nhất, cha mẹ Mai còn được thư mời xem bảng so sánh giá cả, khi chết muốn tiết kiệm tiền, đốt xác rẻ hơn đem chôn! Mai chợt nghĩ đến nếu còn ở quê nhà, được những lá thư “tử tế” như thế này, chắc chắn sẽ bị “dũa” bạo, vì các cụ sẽ bảo rằng “trù” các cụ hay sao?
Có lần Mai buộc miệng khen xứ Mỹ tài tình, cứ như là con ma xó, lý lịch mỗi người, tình trạng, hoàn cảnh ra sao, họ đều biết hết! Cứ nhìn những mẫu quảng cáo gửi đến nhà là đoán được ngay mình đang thuộc giai đoạn nào, còn ở lứa tuổi ô mai, sồn sồn, hay tuổi đã xế chiều. Minh cười:” Ði phố gặp các quày hàng biếu không tặng phẩm, bảo mình điền phiếu thăm dò ý kiến, đừng có dại dột mà khai vào cho nhiều, chúng nó bán tin tức ấy cho các hãng quảng cáo chứ có tử tế gì đâu!”
Ừ nhỉ, mỗi lần đi phố, cứ thấy họ cho quà tặng, có khi còn bày nguyên chiếc xe hơi, và cạnh đó là một thùng đựng đầy phiếu bốc thăm, bà con đang chăm chú viết, lo cung cấp đầy đủ lý lịch, bỏ vào thùng phiếu, hy vọng may ra mình có trúng số? Mai còn nhớ lại những lần mua các vật dụng lớn dùng trong nhà như máy giặc, máy xấy, truyền hình, tủ lạnh … thể nào Mai cũng cẩn thận gửi tờ khai báo cho hãng sản xuất, để ghi danh máy móc mình đã mua, và bảo đảm thời hạn dùng máy, rủi máy có hư, còn được sửa miễn phí. Nhưng khi xem kỹ lại, tờ khai báo hỏi thêm nhiều câu ngoài đề lắm: trong nhà có bao nhiêu người, lứa tuổi nào, nhà dùng máy móc hiệu gì, đi xe hiệu gì, thể thao thích môn gì, tương lai dự định sẽ mua món gì. Cứ thành thật khai báo đi rồi thì biết!!!!
Cứ thế mà nhận được những món quà không mong đợi dài dài!
11/2005
21. Về… Ðâu
Tết 1994 vừa qua, vợ chồng con cái dắt díu nhau về thăm quê nhà, con cái sanh ra và lớn lên ở Mỹ, chúng xem như một cuộc đi nghỉ hè. Riêng tôi sau 19 năm xa xứ, trong bụng cũng nôn nao, hồi hộp lắm. Dự định sẽ đi thăm đây đó, người thân, bạn bè, trường cũ và nhất là trở về căn nhà mình ở, ngày xưa còn bé, mong tìm lại chút gì để nhớ để thương.
Tôi sanh ra và lớn lên tại Sài Gòn, nên có rất nhiều kỷ niệm. Tuy nhiên tôi kém may mắn hơn nhiều người, vì từ ngày bỏ nước ra đi với hai bàn tay trắng, nay trở về thăm lại, quê hương đã bị đổi chủ; nhà ở cũng thế, có còn là của mình nữa đâu mà thăm!
Xưa kia gia đình tôi ở trong cư xá Hải Quân, gần hai mươi năm sống tại đây, có biết bao nhiêu là kỷ niệm, không những với ngôi nhà, mà còn nguyên cả cư xá. Bây giờ khu vực này dành riêng cho các cán bộ cao cấp, có những căn nhà được sơn sửa lại, trông rất mới, nằm cạnh bên những căn nhà cũ kỷ, còn để mốc meo! Nghe nói là dành cho cán bộ cao cấp ở, thế mà nhiều ngôi nhà lại treo bảng hiệu, biến thành tiệm ăn!
Con đường dẫn về cư xá tuy có rất nhiều thay đổi, nhưng tôi vẫn nhận diện ra được ngay, rất xúc động khi vào lại con ngõ xưa, chỉ buồn là mình không được vào bên trong nhà để thăm lại từng phòng, nơi ăn, chốn ở ngày xưa! Chỉ đứng trước cỗng nhà chụp hình, rồi quyến luyến, tần ngần, bỏ đi, có thế thôi!
Cũng vì cả khu vực cư xá này “được” trưng dụng, nếu hàng xóm láng giềng có còn ở lại, cũng sẽ bị mời đi chỗ khác chơi, về vùng kinh tế mới mà ở, nên không tìm lại được bóng dáng một người thân quen nào cả!
Riêng tôi, nhắm mắt lại, vẫn còn hình dung ra được từng chi tiết, bạn bè chung quanh, cả những người bán hàng rong mỗi ngày. Buổi tối với tiếng rao của O bán chè đậu đen, buổi trưa với tiếng chuông rung của ông bán cà rem, tiếng gõ lóc cóc của xe mì, tiếng đám con nít dành nhau chờ xem “xi nê thùng”. Nhắc đến xi nê thùng mới nhớ, mỗi chiều hay có ông già đạp xe vào cư xá, phía sau lưng xe là cái thùng to với nhiều lỗ mắt nhìn. Ai trả tiền thì hai lỗ mắt được mở ra, cứ thế mà đứng lom khom xem phim. Có lần tôi cũng thắc mắc không biết chiếu phim gì, xin bạn bè cho xem ké, ghé con mắt vào nhìn một tí xíu, rồi phải trả lại ngay, để chúng xem tiếp, phần đông là phim đen trắng, cao bồi, tạc dzăng. Rồi những mùa sắp tết, đám con gái lăng xăng mở tiệc Tất Niên. Cư xá thường nhộn nhịp sau giờ học, cuối tuần, hoặc những ngày lễ, đám con trai, con gái xúm lại, chơi tạc lon, chơi u. Hình như tôi ở ngoài đường nhiều hơn ở nhà, nghĩ lại ngày xưa còn bé, chao ơi là nhớ!
Giờ đây bạn bè lạc nhau tứ xứ. Kẻ góc bể, người chân trời. Biết có ngày nào gặp lại…người xưa không! Sài Gòn thân thương! nhớ ơi là nhớ! Muốn về lắm, nhưng về…đâu!
Tết 1994
22. Qua Sông Ðắm Ðò
Trên đời này ai cũng mơ lấy được người mình yêu, họ vẽ ra nhiều bức tranh tình tứ lãng mạng vô cùng: mơ một đàn con xinh, sẽ ghép tên họ hai vợ chồng đặt cho con cái, mơ một túp lều tranh hai trái tim vàng…
Nhưng mà có mấy ai được may mắn, sống hạnh phúc bên nhau suốt đời, như những câu chúc tụng tuyệt vời của ngày tân hôn đâu nhỉ? Chúng ta thường được nghe các ca sĩ hát đi hát lại hoài: “Anh ơi nếu mộng không thành thì sao?”, nghe thì tha thiết lắm đấy, nhưng sự thật thì ôi thôi, phũ phàng!
Ngày mới đến Mỹ, mỗi lần nghe tin bạn bè ly dị, tôi ngạc nhiên vô cùng, ở đây lâu ngày rồi chẳng lấy gì làm lạ nữa. Nhất là ở xứ người, với những luật lệ ” nam nữ bình đẳng”, phụ nữ cũng phải ra ngoài xã hội đi làm việc, nhiều lúc còn lãnh trách nhiệm quan trọng, nặng nề hơn các đấng nam nhi. Hiếm có cảnh vợ ở nhà nuôi con, lo nấu nướng, cơm nước, tất cả đều lệ thuộc vào chồng, nên khi cơm không lành canh không ngọt, dứt áo ra đi là chuyện thường tình.
Người ta thường ví các đôi uyên ương lấy nhau như đi cùng một chuyến đò, có duyên nợ, thì đi chung tới đích, không duyên nợ thì đắm đò. Dĩ nhiên phải yêu nhau tha thiết, thật tình, mới tính đến chuyện hôn nhân, mong muốn ăn đời ở kiếp bên nhau, chớ có ai nghĩ đến chuyện tạm bợ, sống với nhau giai đoạn ngắn thôi đâu. Tổ chức cái đám cưới linh đình rất tốn kém, chớ nào phải trò đùa, thế mà vài năm sau bỗng nghe tin chia tay! Thậm chí nhiều gia đình đã có với nhau một đàn con nheo nhóc, chưa kịp trưởng thành thì cha mẹ đã ly dị.
Ở xứ Mỹ người ta tôn trọng tự do cá nhân, chỉ nghĩ đến cái tôi của mình, nên chả ai nhịn ai. Ông bà ngày xưa có dạy, đeo cái nhẫn cưới vào tay là để nhắc nhớ, nhẫn là nhẫn nhịn, vợ chồng phải biết nhường nhịn lẫn nhau, thế mà ngày vui qua mau, người ta chóng quên, khi có chuyện xảy ra thì ôi thôi, ai cũng nghĩ phần đúng về mình, mặc anh nói anh nghe, hoặc em nói em nghe. Bởi vậy mới có những chuyện cười ra nước mắt: mới lấy nhau về hai vợ chồng thủ thỉ thì thầm cho nhau nghe, vài năm sau chồng nói chồng nghe, vợ nói vợ nghe, và lâu hơn tí nữa, vợ chồng nói…hàng xóm láng giềng nghe.
Từ khi chào đời đến lúc trưởng thành, lập gia đình sớm nhất cũng phải trên 18 tuổi, không kể các trường hợp xa xưa… lấy chồng từ thuở 13, đến năm 18 …em đà năm con…., càng về sau này người ta lại có khuynh hướng lập gia đình muộn. Mỗi cá nhân được sự giáo dục, ảnh hưởng riêng của gia đình mình, khi thành gia thất, từ hai người với hai cá tánh khác nhau, nhập chung, tạo thành một gia đình mới. Không nhiều thì ít, thể nào cũng có những “đụng chạm” có thể ban đầu không thấy được “những điều không hạp”, vì …còn đang trong thời kỳ yêu đương nóng bỏng, giai đoạn này có mắt như mù, trái tim có nhiều lý lẻ khó hiểu lắm, hoặc có sự “nhịn”, chịu đựng trong đó. Yêu nhau muôn sự chẳng nề, một trăm chỗ lệch cũng kê cho vừa!!! Dần dà ăn ở chung lâu ngày, tật xấu mới xì ra, hết chịu nhau nổi, những dồn nén biến thành những quả bom nổ chậm, chờ ngày tung chưởng!
Thông thường các cô cậu nước Âu Mỹ khi yêu nhau, có khuynh hướng dọn vào ở chung ngay, chưa cần phải cưới hỏi gì cả, đôi khi đây cũng là điều hay, dò xét tìm hiểu kỹ càng trước khi tốn tiền làm đám cưới linh đình. Tuy nhiên, thống kê cho thấy tỉ số ly dị trên xứ Mỹ cao nhất! Riêng đối với người Việt Nam ta, khi nghe cô cậu chưa lấy nhau mà ở chung, thể nào cũng bị dèm pha, nhất là bên phía phụ nữ, cha mẹ sẽ bị mang tiếng có con “mất nết, hư thân”, xấu hổ lắm!
Người ta thường ví lập gia đình như đánh một canh bạc? Không biết trước tương lai ra sao, có thì dễ, giữ được cho lâu dài mới khó. Nói ra thì nghe thật bi quan, nhưng sự thật là thế đấy. Tôi đã nghe và thấy biết bao nhiêu trường hợp, gia đình, bạn bè, người quen chung quanh, yêu nhau tha thiết thuở ban đầu, tưởng có thể chết vì nhau được, ở với nhau vài ba năm, chục năm, có khi hai mươi năm sau, bỗng một hôm đi phố gặp chàng hay nàng cặp tay dung dăng dung dẻ với người mới. Vì sao? Chẳng ai giải thích được! Nếu hỏi, mỗi người sẽ trả lời mỗi ý, ai cũng có phần đúng cả. Thảo nào mà người xưa có quá nhiều câu ca dao để lại cho hậu thế: Thương nhau quả ấu cũng tròn, ghét nhau trái bồ hòn cũng méo! Yêu nhau xé lụa may quần, ghét nhau kể nợ kể nần nhau ra!!!
Tôi có cô bạn, thời mới yêu nhau da diết, cha mẹ ngăn cản, cấm không cho đi chơi với người yêu, cô ta tức mình tính tự tử…thế mà hơn hai mươi năm sau, chính cô ta là người…bỏ chồng theo tình yêu mới. Nhiều gia đình thuở hàn vi sống cơ cực bên nhau, vợ lo quán xuyến mọi việc trong ngoài, cho chồng có thời gian… ăn học, để lấy bằng cấp cao, khi tạo dựng nên sự nghiệp vững vàng rồi thì chàng quên hết mọi chuyện xưa và cũng rũ áo ra đi. Tôi thắc mắc mãi, không biết “thỉnh thoảng” họ có nhớ lại những kỹ niệm đẹp xưa cũ không nhỉ? Rõ là ngớ ngẩn, nếu họ “biết” nhớ, thì làm gì có chuyện chia tay!
Nhiều cặp vợ chồng đứng núi này trông núi nọ, tưởng sẽ tìm được “mối ngon” hơn cái hiện tại mình đang có, ai dè …”hụt cẳng”, hết đường quay về, thế là xong một chuyện tình. “Ðơn giản” như “đang giỡn”, đùa với tình yêu là thế đấy! Gia đình vợ chồng con cái được ví như đang cùng đi chung một chuyến đò, mưa gió bão bùng, sóng vỗ chập chùng như những gai góc của cuộc đời luôn chực chờ tìm đến, hai vợ chồng biết cách lèo lái, con thuyền sẽ êm xuôi, được cơ hội thuận buồm xuôi gió, thêm chút may mắn, hy vọng sẽ tới bến, còn không biết cách điều khiển thì đắm đò, thuyền lật úp, tiêu tán cả gia đình.
Ðề tài này nói hoài chắc không bao giờ hết, có thắc mắc cũng không ai giải thích được tại sao, thôi đành đổ thừa cho số mệnh, hết mắc nợ nhau thì chia tay, nhưng mà bạn ráng giải quyết sao cho đẹp đẹp một tí, đừng lôi con cái vào làm bia chắn đạn, chúng vẫn là người vô tội! Có ai muốn sanh ra trong gia đình “cơm không lành canh không ngọt” đâu!
10/2004
23. Mộng bình thường
Bông bắt đầu thấy khó chịu, nó gầm gừ khi Liên banh miệng, hết lấy tay chọt cổ họng, rồi lại còn đổ muối vào miệng nó. Bông lắc đầu ngoay ngoảy làm muối văng đầy mắt. Nó chạy vội tới chậu nước, uống vài hớp cho bớt mặn miệng! Chỉ mới nửa tiếng trước, bà Lan ẳm nó lên phòng, nghe được mùi thơm của kẹo Chocolat quanh đây, nó hỉnh mũi đi tìm. Mắt sáng rỡ khi thấy vài viên kẹo Kisses dưới đất, nó chịu hết nổi, lén ngậm liền một viên, ngọt lịm, ngon gì đâu! Thế mà hai mẹ con bà Lan cấm nó ăn Chocolat, bảo là nó bị dị ứng. Chẳng may thay bà Lan bắt gặp quả tang, khi nhìn thấy mớ giấy gói nằm rải cùng dưới đất, nó nghe bà Lan hét ầm nhà:
– Liên ơi, con Bông ăn chocolat!
Ở phòng kế bên, nghe mẹ gọi, Liên hốt hoảng:
– Ðể con lên máy, tìm xem nếu ăn Chocolat phải làm sao, giờ này mà chở đi bác sĩ thì mắc lắm!
Bà Lan vội vàng mang con Bông xuống bếp, mắt ngó quanh, coi có gì cho con Bông ăn để nó có thể ói ra. Bà hỏi vọng:
– Mẹ cho nó ăn táo nguyên vỏ được không con?
– Dạ mẹ cứ thử đi, nhưng con Bông cần phải ói ra, chứ không phải ăn thêm để tiêu hoá thức ăn!
Bà vừa nói, tay vừa cắt táo ra từng miếng nhỏ, bỏ vào tô, vuốt ve dỗ dành:
– Ăn vào rồi ráng ói ra đi con.
Con Bông được ăn, thích chí chộp ngay một miếng, chạy tới góc khác ngồi, như sợ bị lấy lại thức ăn. Liên ở trên lầu, mắt chăm chú vào máy vi tính, sốt ruột:
– Nó có ói chưa mẹ?
– Chưa con ơi!
Liên chạy xuống, một tay đã mang găng:
– Mẹ giữ nó lại, để con chọt tay vào họng nó thử xem. Ðiệu này, nó mà không ói thì phải đổ muối vào cuống họng nó.
– Có sao không đó con?
– Bông, ói ra mau, Bông! Mẹ coi chừng nó nghe, để con chạy lên “lưới” coi tiếp.
Bà Lan mắt không rời con Bông, chả biết phải làm gì bây giờ! Ðầu óc suy nghĩ lung tung, nhớ lại 5 năm trước, con Bông cũng vì tật tham ăn mà phải vào bệnh viện khẩn cấp giữa đêm khuya. Lần đó Liên tốn hết mấy trăm, đưa con Bông đi súc ruột. Nội một đêm nằm bệnh viện sơ sơ mất $200, chưa kể tiền bác sĩ khám bệnh, thuốc men! Chuyến ấy, tưởng con Bông đi luôn rồi chứ! Hôm đầu tiên khi Liên mang con Bông về nhà, tuy trong bụng không thích, nhưng nhìn thấy Bông là bà có cảm tình ngay, Bông như nàng công chúa, dáng dấp nhỏ nhắn, xinh xắn, rất là dễ thương và coi bộ cũng dễ dạy. Bà Lan và Liên cưng con Bông lắm, nhưng cũng cực thân vì con Bông không kém! Mỗi khi có công việc cần đi xa, hai mẹ con bà Lan phải chia nhau trông chừng con Bông! Nhiều lúc bà ngẫm nghĩ, không biết kiếp trước có nợ nần gì với con Bông mà sao cực quá!
Liên từ trên lầu chạy xuống, tay cầm chai Peroxide, hỏi:
– Cái đồ nhỏ thuốc của con Bông đâu rồi mẹ?
Bà Lan lục loại trong tủ, lấy ra đưa cho Liên:
– Thuốc gì vậy con? Có sao không đó con, đừng cho uống thuốc tầm bậy à nghe.
– Không sao đâu mẹ, bây giờ con banh miệng nó, mẹ bơm thuốc này vào thẳng cuống họng nó nghe. Con đọc trên lưới họ nói độc nhất là ăn thứ Chocolat đậm, loại để nấu, nhẹ nhất là uống sữa Chocolat, còn kẹo Kisses này thì trung bình thôi. Nhưng tại con Bông nhỏ con, ốm yếu, nên một viên cũng đủ ngất ngư, phải đợi 24 tiếng sau, khi Chocolat ngấm rồi nó mới làm hại bao tử, ruột gan trong cơ thể.
Con Bông bị bà Lan giữ chặt, Liên thì cứ tìm cách banh miệng nó ra, bà Lan bơm mạnh chất nước Peroxide vào miệng thật nhanh. Nó bắt đầu thấy khó chịu, vùng vẫy! Bà Lan và Liên theo dõi từng cử động của nó, miệng cứ dỗ ngọt:
– Ngoan nào, không sao, không sao, ói đi con.
Bông chịu hết nổi, nó ói liền tù tì 5, 6 bận, bao nhiêu thức ăn tối, kẹo bánh, trái cây gì ra hết ráo!
Bà Lan và Liên mừng rỡ, lăng xăng đi dọn dẹp, đồng thời đền bù lại cho nó tô cơm mới. Nó nghe loáng thoáng, hai mẹ con bà Lan đang nhắc chuyện cũ, đã lâu rồi nó quên khuấy. Ngày xưa nó lỡ dại, ăn có hai viên thuốc giết ốc ngoài vườn, lần ấy nó xém toi mạng. Làm thân con chó ở xứ Mỹ cũng sướng, nó được xếp vào hàng thứ ba, sau đàn bà và con nít đấy chứ. Cả ngày đâu phải làm việc, cứ quanh quẩn trong nhà, ăn, ngủ và chờ chủ dẫn đi chơi, có thế thôi. Tuy nhiên làm thân chó nhỏ thật khổ, thôi thì mộng bình thường, kiếp sau nó chỉ xin đầu thai làm con chó lớn hơn, cỡ Bẹc-giê cũng được, dù sao chó lớn ít bịnh vặt, mạnh hơn, có ăn bậy gì cũng không sao, khỏi làm phiền chủ nhà! Và điều quan trọng nhất là phải sanh sống trên xứ Mỹ để được bênh vực quyền lợi. Nghĩ đến điều này, Bông muốn toát mồ hôi, nếu như ở quê nhà bà Lan, chắc nó chẳng dám ra khỏi cửa, rủi bị bắt cóc, giờ này có thể nó đã bị treo lủng lẳng ngoài quán nhậu!
12/29/2005
24. Gì cũng kiện
Ngày mới đến Mỹ, cô tôi là người đứng ra bảo lãnh cho gia đình tôi, trong lúc mới chân ướt chân ráo, thì cô tôi đã ở Mỹ 15 năm rồi, dĩ nhiên kinh nghiệm sống trên xứ người phải “đầy mình” hơn.
Mấy tháng đầu ở chung nhà, tôi phải học hỏi nhiều điều lắm, tất cả mọi thứ đều mới lạ đối với gia đình tôi. Cô tôi thường hay kể về đời sống ở đây cho nghe, có những câu chuyện làm tôi ngạc nhiên và thắc mắc vô cùng. Bây giờ gần 30 năm sống trên xứ người, nhớ lại lời cô nói, như mới ngày hôm qua, nghe thật là chí lý “Ở đây thể nào cũng bị kiện ít nhất là một lần trong đời”…, “Ðừng mời bạn bè tới, họ té ngã trong nhà, kiện mình…trọc đầu”…
Những câu nghe như “thiếu tình người” nhưng quả thật là như vậy, càng ngày càng thấm, nói cho văn chương, cải lương một tí là “đoạn trường ai có qua cầu mới hay”, “chưa thấy quan tài chưa đổ lệ”…
Dân An Nam ta ngày xưa có câu “Gì Cũng Cười”, sang Mỹ tôi hay đùa với bạn bè, đổi thành “Gì cũng kiện” cho hợp tình hợp cảnh. Tôi nghĩ có nhiều người sanh ra chuyên về nghề “Ði kiện”. Khác với nghề “Thầy Cãi” (Luật Sư) nhé các bạn.
Công việc tôi đang làm, phải tiếp xúc với thế giới bên ngoài nhiều, đủ cả các bạn hàng thương mại, từ tiệm ăn, cho đến tiệm sửa xe, cắt tóc, chợ búa, giữ em, chùi dọn….thỉnh thoảng khách hàng lại mang đến cho xem những lá thư họ “bị kiện”. Nào là vào chợ bị té, ăn nhà hàng bị trúng độc, làm móng tay không kỹ bị sút móng, bị làm độc, tiệm ăn không có lối đi hoặc nhà vệ sinh cho người tàn tật v.v…Có lúc thì khách hàng kiện chủ, lúc khác thì nhân viên thưa chủ, đằng nào chủ nhân cũng là người bị “nắm áo”, thiệt thòi cả!
Nhìn kỹ lại, thật ra những người chuyên môn kiện này, cũng được ít nhiều “khuyến khích” từ các “Thầy cãi”. Họ cứ nhắm ai “có tóc” là nắm hết cả! Chưa kể có nhiều người “cố ý” làm lớn chuyện để vác đơn đi kiện, chỉ chịu khó mất công, mất thì giờ, nhưng nếu kết quả tốt, thắng kiện là hốt mớ bạc, thầy trò gì cũng có tiền, tội gì không làm!
Có lần xem truyền hình tường thuật về một trường hợp “cười ra nước mắt”! Một thanh niên được xem là “anh hùng” khi cứu một phụ nữ ra khỏi tai nạn xe cộ, trước khi xe bùng cháy. Báo chí đăng rùm beng, “tuyên dương” vị anh hùng này, nhưng niềm vui chưa trọn, chỉ vài tháng sau, chàng ta lại nhận được một lá thư từ Luật sư. Người đứng đơn kiện chẳng ai xa lạ hơn là thiếu nữ mà người hùng đã cứu mạng! Sau khi cô nàng nghe nhà thương đưa ra lý do:”Chấn thương nặng vì người kéo bạn ra khỏi xe lúc bị thương, không đúng cách”.
Ðài truyền hình đã đến tận nhà người thiếu nữ xin phỏng vấn, nhưng không được tiếp đón. Tôi chỉ nghe được câu hỏi của đài truyền hình:
– Tại sao bà lại đi kiện “người hùng” đã cứu bà trong tai nạn hiểm nghèo vừa qua?
Cánh cửa đóng sập lại thay thế cho câu trả lời. Sau đó tôi không có dịp theo dõi, chẳng biết “người hùng” có thoát nạn hay không? Với sự xử sự như thế, có lẽ sẽ chẳng bao giờ người ta dám giúp đỡ ai cả, chắc là đành phải “làm ngơ” thôi!
Khoảng giữa thập niên 80, “dịch” tai nạn xe cộ “nóng bỏng” lắm. Người bị thương tích vì tai nạn xe cộ do đối phương gây ra, nhờ văn phòng luật sư đại diện, kiện hãng bảo hiểm, sau khi đã chữa trị xong, luật sư dựa vào hồ sơ bác sĩ, tùy trường hợp nặng nhẹ mà đòi tiền bồi thường thiệt hại. Thuở ấy, tiền bồi thường rất cao, nhưng càng về sau, quá nhiều người “lợi dụng”, đụng nặng, nhẹ gì cũng kiện, nhỏ xé to, xe bị đụng hư hại có tí xíu, cũng nằm vạ, đi bác sĩ ào ào, kê khai đủ bệnh. Thấy dễ ăn, thế là mọc thêm “nghề đụng xe”, có khi họ còn xếp đặt cho đụng xe để moi tiền hãng bảo hiểm.
Luật tự nhiên, khi bị lạm dụng quá lố, nước dâng lên có ngày phải rút xuống, hãng bảo hiểm ngày càng làm khó, xét gắt gao hơn, họ đưa ra khoản tiền bồi thường rẻ mạt, không chịu thì cứ việc lôi nhau ra toà, có khi một hồ sơ kéo dài vài năm, làm cho mọi người nản chí.
Cũng có nhiều trường hợp đáng thương, cười ra nước mắt, khi nạn nhân, rõ ràng không có lỗi, nhưng vì không nói được tiếng xứ người rành rọt, lại thêm màn “kỳ thị”, nhân chứng, hoặc cảnh sát đến, bênh nhau, đổ lỗi ngược lại cho mình, chỉ có biết than Trời!
Văn phòng đại diện luật sư mọc lên như nấm, nhờ vào “Gì Cũng Kiện”, có lần tôi đánh bạo hỏi người quen:
– Tại sao phải kiện?
và được giải thích như sau:
– Bạn ở hồ tắm lên, đang bị ướt, gặp mưa cho ướt luôn, chứ lấy dù che mưa à? Kiện hãng bảo hiểm, chứ có kiện riêng tư gì bạn đâu. Ðóng “hụi” chết cho hãng bảo hiểm bao nhiêu năm nay rồi …..
Câu trả lời nghe “chí lý” quá nhỉ? Ðây là trường hợp một người lái xe “có lỗi”, trên xe có chở bạn bè, bà con, sau khi đụng xe đối phương, người ta đi kiện mình, hãng bảo hiểm của chính mình đã phải đền tiền cho đối phương rồi, nếu những người thân ngồi trong xe mình cũng đâm đơn kiện, thì cứ việc, chả có luật lệ nào cấm. Nhưng là người VN ta, nghe như “thiếu tình người” thì phải! Cái gì mà bạn bè, bà con mình lại kiện mình, trừ khi có thù hằn với nhau? Nhưng mà thế đấy các bạn ạ!
Thôi thì “nhập gia phải tùy tục” đã lỡ phải làm kẻ lưu vong, sống trên xứ người, nếu có lần nào đó nhận được lá thư “tình” từ một văn phòng luật sư, hay giấy tòa cho mời ra gặp mặt, hy vọng mọi sự suông sẻ, tìm ra được giải đáp tốt đẹp thì còn mong gì hơn.
1/2002
25. Bà Phù Thủy
Con đang viết về me (Linh Bảo)
và 22 tháng 4 năm 2024 me đã vĩnh viễn ra đi
Ngày xửa ngày xưa, có một bà… già về tuổi tác, nhưng nhìn bề ngoài, không ai ngờ bà đã tám bó.
Bà sống trong một ngôi nhà lớn, có bốn phòng ngủ, cộng thêm một phòng rất rộng dành làm phòng vẽ. Bà có hai đứa con gái ruột và hai đứa con gái nuôi, nhưng đứa nào cũng ở xa lắm, thỉnh thoảng mới gọi điện thoại về thăm hỏi. Cả ngày bà loay hoay ở khu vườn sau, bà chỉ tưới cây, ngắm cây cảnh không thôi, cũng đủ hết giờ. Bà trồng đủ thứ cây ăn trái, hoa quả, phần đông những thứ bà trồng đều phải làm được việc gì ích lợi, mới “được phép” chen chân vào khu vườn sau của bà.
Khách thân lắm đến thăm, mới được mang ra vườn giới thiệu với từng tên cây cỏ của bà trồng. Cây thì phải ra hoa quả, lá ít nhất phải là một vị thuốc, có thể bỏ vào làm trà, hoặc ăn như rau sống.
Nhắc đến trà, khách quí đến chơi sẽ được mời uống chén trà “có một không hai”, còn có tên gọi rất kêu: “Bách bệnh tiêu tán, vạn bệnh tiêu trừ”. Sở dĩ được đặt tên như thế, vì trong bình trà có đủ thứ vị thuốc, do chính tay bà phơi, sắc, chế lấy, từ các lá cây... ngoài vườn. Nào là vỏ quít, Rosemary, quế, tì bà, liên tiền thảo, mint, v...v. Bởi thế cho nên mùi vị của bình trà này chẳng bao giờ tìm mua được ngoài tiệm, ai thắc mắc hỏi, sẽ nghe được cùng một lời giải thích, kèm theo giọng cười thú vị:
– Nếu em uống vào mà bệnh chưa tiêu tán, thì chỉ tại vì em chưa đủ “bách bệnh”.
Ngày bà dọn đến đây, chung quanh có ít người Việt Nam lắm, bà sống âm thầm trong ngôi nhà to, chung quanh cửa đóng then gài, với các song sắt. Ít khi bà ra sân trước, mỗi khi đi đâu, hàng xóm chỉ thấy chiếc xe chạy lù lù từ trong nhà xe ra, rồi biến dạng. Lúc về, cánh cửa nhà xe tự động mở, chiếc xe cũ kỹ chui vào đóng ập xuống, thế là xong!
Với cuộc sống đầy bí mật, và hiếm khi giao thiệp với làng xóm, khiến mọi người chung quanh xầm xì, tặng cho bà biệt danh là “Bà Phù Thủy!” Nhất là từ ngày khu phố bà ở bỗng trở nên sầm uất, người Việt Nam tụ tập đông, nhiều hàng quán được dựng lên, nổi tiếng cùng thế giới với tên gọi: “Tiểu Sài Gòn”. Mặc dù ở ngay chỗ “động”, ngôi nhà bà vẫn “tĩnh”, vẫn cửa đóng then gài. Bà chỉ đi ra ngoài khi cần thiết, còn thì hiếm ai thấy mặt bà.
Cô con gái nuôi ở xa, thỉnh thoảng đến thăm ở lại qua đêm, thường được thưởng thức tất cả các thức ăn, đủ ngày ba bữa, kèm theo món ăn dặm, ăn chơi, toàn do chính tay bà chế biến.
Buổi sáng thức dậy, nhâm nhi điểm tâm, bằng những món “tự chế biến”, chẳng hạn như bánh mì quẹt mứt. Mứt làm từ các thứ trái cây trong vườn hái được, tùy mùa. Uống kèm với một chén trà nóng “bách bệnh tiêu tán, vạn bệnh tiêu trừ”. Hoặc nếm thử ly cà phê do đích thân bà làm, nhìn chẳng giống ly cà phê ngoài tiệm, nhưng uống vào bảo đảm là đầy đủ chất bổ. Cũng chút đường, nước sôi, chút cà phê, chút này, chút nọ, kèm theo vài hạt dẻ của Mỹ, hoặc đôi khi chút “mè giã nhuyễn”. Người không quen, uống vào sẽ “nhăn mặt” vì mùi vị lạ lùng, nhưng bà uống ly cà phê của bà một cách thích chí, vì những “gia vị” trong cà phê, toàn là chất bổ, bỏ vào một lúc, uống cho... tiện!
Trên bàn ăn, lúc nào cũng có rổ trái cây, tùy vào mùa nào. Ðến mùa trái gần chín, bà hái những trái vừa tầm tay, chừa lại những trái trên cao cho những chú chim! Ðủ thứ loại trái cây như hồng, quít, cam, sung, mãng cầu, tắc, táo tầu. Bà hái mang vào sắp đầy rổ, khách tới thăm, ra về thể nào cũng được quà xách mang theo. Còn dư lại, tùy thứ trái cây, bà chế biến thành nhiều món khác, có khi thì sấy khô để dành, như trái hồng, hoặc cam quít thì vắt lấy nước, nửa uống, nửa nấu. Vỏ quít được sắp trải ra khay, mang qua phòng vẽ. Phòng này có nhiều cửa sổ, và đầy nắng ấm buổi sáng, những khay vỏ quít, hoặc hoa quỳnh, hoa hồng phơi khô, để dành bỏ vào bình trà.
Ðã nói rồi, không có thứ nào “lọt” ra khỏi tay bà, để phí phạm cả! Từ thức ăn, cho đến các đồ đựng thực phẩm, hộp giấy, hủ, lọ, chai nhựa, cần gì cũng tìm thấy được tại đây. Cô con gái đến thăm, nhiều hôm thấy các loại giấy, báo chí, bà lưu trữ hàng hàng lớp lớp khắp nơi, năn nỉ xin cho dọn dẹp, bà cười mỉm chi:
– Chúng có mở miệng than phiền, đòi ăn, đòi uống, làm rộn ràng gì ai đâu. Chúng nằm đâu, yên đó, tại sao phải vất đi?
Bảo đảm, những vị khảo cổ có thể tìm đọc được những tờ báo của thập niên bốn mươi, năm mươi, sáu mươi, bảy mươi... cho đến thế kỷ hai ngàn, tại đây. Những tạp chí, giấy tờ, may mắn lắm khi lọt vào tay bà, chúng được bà bảo vệ tối đa, nằm yên ổn khắp nơi trong nhà. Tệ lắm thì cũng vào thùng rác “giấy xài lại” của chính phủ, cứ hai tuần một lần, có xe đến tận nhà, lấy mang đi.
Có lẽ ai vào nhà bà sẽ nghĩ rằng ngôi nhà này bừa bộn, nhưng một người cháu đến thăm bà đã nói:
– Chẳng hiểu có một cái gì đó cuốn hút con vô cùng, đồ đạc trong nhà bày biện không thứ tự, nhưng hình như có một “trật tự” trong sự “vô trật tự” của Dì.
Buổi cơm trưa hay cơm chiều, thể nào cũng phải có một chén nước chấm, dĩ nhiên cũng do chính tay bà làm. Mỗi mùa trái cây vừa xong, sau khi cho, biếu, tặng, trái cây còn dư, được bà chế biến thành nhiều món khác nhau. Có năm quít được mùa, bà vắt quít cho vào nồi, trộn với nước mắm, ớt, đem kho lửa riu riu, cho đến lúc kẹo lại, bỏ vào hủ, để nguội, cất vào tủ lạnh, ăn dần. Thiên hạ đến ăn, khen rối rít, thể nào cũng được sớt bớt mang về.
Buổi cơm tối, có thể nhâm nhi tí rượu thuốc, dĩ nhiên do bàn tay bà pha trộn, uống vào là khoẻ ngay. Nhờ biết đọc tiếng Tàu, bà nghiên cứu các vị thuốc bắc, mua về ngâm rượu, để dành khi có khách quí đến ăn cơm, dùng chút cho ấm bụng.
Chưa kể đến phần ăn chơi, ăn dặm thêm giữa các bữa, khi thì bà mời những lát mứt khô, từ trái cây bà cắt, sấy. Hoặc những miếng cà rem, từ những trái chuối chín, ăn không kịp, bà pha trộn bỏ vào khuôn đá, để lên ngăn lạnh. Những món ăn dư qua tay bà, đều trở thành những món ăn bổ dưỡng, hữu dụng. Bà khoe:
– Trong đây không bỏ các “độc dược” đâu nhé, toàn thứ nguyên chất, bảo đảm.
Có một lần, bà đã trở thành bà chủ phố, khi một căn phòng được cho mướn bởi cô bạn thân của con gái bà, từ xa xuống núi đi làm việc. Ngôi nhà có thêm người tưởng sẽ rộn rịp hơn, nhưng không! Cô bé sáng sớm dậy đi làm, lúc bà còn ngủ nướng thêm ít phút trong phòng, và trở về nhà khi trời tối mịt, lúc bà đã vào phòng nghỉ. Ngày cô bé dọn đến, thỉnh thoảng có giờ rảnh, cô cũng trổ tài nấu nướng, mời bà dùng. Cô có cái tánh nấu ăn rất kỹ lưỡng, phải đúng điệu, món gì phải ăn với món đó, đầy đủ gia vị. Thế mà ngày cô xong công việc, dọn lại về quê, cô học được thêm một món khó tìm ở đâu ra, từ bà phù thủy, với cái tên gọi nghe rất kêu: “món tùy cơ ứng biến”.
Nhiều lần bà cho cô dùng thử những món này, cô khen ngon rối rít, xin bà chỉ dẫn cách làm. Bà cười cười bảo lấy giấy bút ra ghi:
– Em ăn thừa các thức ăn, không biết làm sao cho hết, đừng vất, tội chết, em chỉ việc bỏ tất cả vào từng hộp, cất trên ngăn đá, mỗi khi cần, lấy ra chế biến lại, thành món mới.
Con cháu, láng giềng nhìn vào, ai cũng lo sợ cho bà, với cái tuổi đời chồng chất, sống cô đơn, họ cứ sợ bà buồn! Ðâu ai biết được bà bận rộn, và vui như thế nào. Bà cảm thấy một ngày hai mươi bốn tiếng không đủ vào đâu! Con cháu sợ bà chết già, chết khô, mỗi lần hỏi thăm, bà cười, dặn dò:
– Yên chí, cứ ba ngày ông phát thơ thấy không mang thơ vào, nghe từ trong nhà bốc mùi là biết bà “tiêu diêu miền Cực Lạc” rồi đó.
Bà chẳng có nỗi sợ giống như con cháu, bà chỉ sợ không đủ giờ cho bà học hỏi. Thời còn trẻ bận rộn con dại, công việc, kéo cày ngày hai bữa, bà chỉ viết lách lai rai. Ðến lúc con cái mọc đủ lông, đủ cánh, bay xa, bà bắt đầu ghi danh đi học. Học xong lớp vẽ, qua đến lớp điêu khắc, học võ, học đàn, cái gì học được, sắp xếp tiện giờ giấc, lái xe đi được là bà đều tham gia một cách mê say.
Lối sống của bà thật thoải mái, vì bà theo thuyết “ở bầu thì tròn, ở ống thì dài”. Sao cũng được. Những người ở cạnh, kể cả những đồ vật chung quanh, đều thích bà. Vì con cháu ở xa, bà ngại nhờ vả chúng, nên bà tự sáng chế, biến hoá các thứ. Cái mắt kính sút cán gãy gọng, chỉ việc lấy băng keo, quấn dán, miễn dính liền với nhau, đeo vào còn thấy đường là được. Cánh cửa tủ bị sút, không làm sao gắn vào được, cũng lại dán miếng băng keo, cho dính vào nhau, rồi cũng xong.
Theo đà tiến triển của khoa học hiện đại, bà cũng bắt đầu biết “leo lưới”, bà bỏ nhiều thì giờ thiện nguyện, đánh bài vở cho thư viện “trên trời”, giữ một chân trong mục trả lời thư tín, và bỗng dưng càng ngày bà càng có đông con cháu…”trên trời”.
Láng giềng ngạc nhiên vì từ xưa đến giờ, ngôi nhà bà vắng lặng, sân trước im lìm. Nay thỉnh thoảng lại có năm, bảy chiếc xe đậu tràn đầy ngoài sân, dọc theo lề đường, vì đám con cháu “trên trời” ghé thăm.
Có khi chúng tự động mở tiệc, sắp xếp chương trình với nhau, xong mới hỏi xin phép, mỗi đứa mang đến một món, vào bếp tự do lôi nồi niêu xoong chảo, xào nấu. Ra phòng khách sắp xếp bàn ghế, gắn máy nhạc hát hò ầm ỉ. Cỡ nào bà cũng theo kịp, bọn nhỏ mang cái ghế thượng hạng để giữa sân khấu, bắt bà ngồi tham dự, bà “bị”nghe những bản nhạc chúng mới sáng tác. Cái phòng khách nhỏ đầy người, lại còn gắn thêm “microphone” cho thật to, xe cộ đậu đầy trước sân, bọn nhỏ còn lôi nhau ra trước sân, chụp hình, nói cười to tiếng. Chắc chắn phải làm hàng xóm láng giềng ngạc nhiên không ít. Tiệc tàn, chúng tự động mỗi người một tay dọn dẹp sạch sẽ, ra về, trả lại vẻ âm thầm, bí ẩn cho ngôi nhà!
Cuộc đời làm gì có thuyết tuyệt đối, nếu đường đời bằng phẳng thì còn chuyện gì để kể. Cũng như bao nhiêu người khác, hên thì gặp bạn tốt, xui thì gặp người cho…. “leo cây”. Những lần như thế bà đều cười xính xái, tự an ủi:
– Cứ xem như kiếp trước mắc nợ họ, kiếp này phải trả cho vui vẻ, để đừng gặp họ kiếp sau!
Bà vẽ cuộc đời cô đơn của bà bằng những tảng màu tươi sáng, nên thu hút rất nhiều nhóm bạn trẻ. Cứ nghe cách xưng hô, người ta có thể đoán biết được nhóm bạn này từ đâu ra. Này nhé, nếu từ nhóm bạn trên trời, họ sẽ gọi bà bằng Chị, cho dù bà đáng tuổi cô dì, chú bác, cha mẹ chúng. Nếu nhóm bạn từ cô con gái nuôi, họ thường gọi bà bằng Cô. Bà chẳng kỳ thị tuổi tác, bạn của bà đủ mọi tầng lớp, từ mười mấy, hai mươi mấy, cho đến sáu, bảy mươi mấy, cũng có.
Biết bà ít khi đi đâu, nhiều người hay ghé ngang thăm bất ngờ. Lúc nào họ cũng đến với đủ các món thức ăn vặt, cà phê, bánh trái. Họ bày ra ăn uống tại chỗ, nói chuyện trên trời dưới đất rồi từ giã.
Biết bà chẳng ngại, nên ai có chuyện lòng muốn tâm sự, cũng tìm đến bà “vấn kế”. Trăm lần như một, họ sẽ ra về với lòng thơ thới, vì được nghe những lời bàn rất “có hậu” từ bà.
Tôi vừa kể cho các bạn nghe một chuyện giả tưởng, chuyện của bà Phù Thủy ở thế kỷ hai ngàn. Từ xưa đến nay, các bà phù thủy đều xấu xí từ trong ra ngoài. Tánh tình độc ác, cho đến hình dạng… nhìn là phải bỏ chạy, làm gì tìm được bà Phù Thủy... đáng yêu, có duyên, dễ thương như thế chứ!
Ðọc xong truyện bà phù thủy, không biết có ai như tôi? Tôi vừa tìm ra được bí quyết trẻ mãi không già của bà, không phải vì những lọ thuốc: thức ăn pha chế của bà, mà là vì với lối sống, cách suy nghĩ luôn tự tin, yêu đời, dù cuộc đời đôi lúc chán ngấy!
Chuyện viết lai rai đã từ lâu, cho đến đầu năm 2006 mới tạm chấm dứt. Tôi nhất quyết phải đi tìm cho ra bà để học hỏi, trước khi bà “hô biến”, mất trên cõi đời này. Cầu cho tôi có chút duyên may, tìm gặp được bà.
Nếu mong ước thành sự thật, tôi muốn nhìn mặt trái của đồng tiền. Bộ mặt dấu kỹ sau nụ cười và những nét tươi vui bất di bất dịch, hằng mấy chục năm. Tôi muốn gõ cánh cửa tâm linh u uất sâu xa, xưa nay vẫn ẩn dấu, đóng chặt! Tôi muốn tìm lại nhân vật trong chuyện “Con Ngựa Chết” [1] để hỏi xem vết thương đã liền da chưa?
1/2006
Chú thích:
[1] “Con Ngựa Chết” là 1 câu chuyện của nhà văn Linh Bảo, bạn có thể tìm đọc trong tuyển tập Mây Tần
26. Đất lành
Mỗi sáng ra cửa hoặc đi làm về, ngang sân trước, cứ thấy con chim “Humming bird” từ trong bụi cây vụt bay lên cao, cũng chả để ý gì cả, tưởng là chim đến hút mật hoa. Thường thì loại chim này hay hút mật những nhụy hoa màu đỏ, chim nhỏ nhưng bay rất mau, hai cánh lúc bay, quay như chong chóng, không giống như các loại chim khác. Bụi cây Camellia ra đầy hoa trắng, chả có gì để thu hút con Humming bird, thế thì tại sao???
Cả tuần lễ đều như vậy, hôm nay để ý kỹ mới thấy có một ổ chim trên thân cây, hơi lạ là vì cây hoa này thấp vừa tầm tay người, thường thì các loài chim làm tổ trên cao, để tránh bị động ổ, và chúng hay tha những nhánh cây về làm tổ, riêng ổ chim này như cái chén nhỏ bằng đất sét, hai con chim con mới đẻ cũng chả giống các con chim lúc mới chào đời, nhìn giống hệt hai con sâu thì đúng hơn.
Đi làm về thấy vậy mừng quá, vội lấy máy chụp hình ra làm vài “bô”, con chim mẹ nghe động đã vụt bay đi, nhưng vẫn luẩn quẩn loanh quanh đó thôi. Gọi điện thoại khoe với nhỏ bạn, hắn dặn đừng sờ mó, đừng làm con chim mẹ sợ, nó bỏ ổ, bỏ con đi mất, tội nghiệp.
Mấy hôm nay mắc chứng gì ra vào nhà mình mà cứ đi rón rén như ăn trộm. Vui quá, thời xưa có câu: “Đất lành chim đậu”, thời nay tôi vừa đặt ra câu: “Chủ nhà hiền… chim làm tổ”.
Mỹ Ngọc
Mùa xuân 2005
Tưởng đã viết xong câu chuyện Đất Lành Chim làm ổ rồi, ai dè mình cũng bị lôi cuốn vào tổ ấm này! Hàng ngày tôi vẫn thường theo dõi xem tình hình biến đổi ra sao. Hai con chim lớn lên như thổi, lúc còn bé như hai con sâu, chim mẹ còn phải nằm ấp, nay cái tổ chim hình như quá chật chội cho cả hai con nằm chung, và hiếm khi tôi thấy được con chim mẹ. Nhìn bãi chiến lợi phẩm vương vãi chung quanh cây, tôi đoán chắc là chim mẹ vẫn mang mồi về mớm con ăn mỗi ngày. Mới hôm qua, buổi sáng ra cửa đi làm, thấy một con Anh hay Chị đã nhảy ra khỏi tổ, đứng trên cành cây, con em vẫn còn nằm ì trong ổ, giương đôi mắt to, ngó qua liếc lại. Buổi chiều đi làm về vẫn thế: “một trong tổ ấm, một ngoài nhành cây”!
Sáng nay vác máy chụp hình ra sân, tính chụp thêm vài tấm ảnh nữa, con chim hôm qua đậu trên cành, bây giờ đang đứng trên bờ tường cao, may là cô nàng hay anh chàng còn chịu đứng yên, cho tôi chụp thêm tấm ảnh cuối cùng, trước khi nó cất cánh bay tuốt lên đầu ngọn cây. Buổi chiều về xem lại cái tổ, chim em cũng đã bay đi mất từ lúc nào! Nhìn cái tổ trống không cũng buồn!
Như những đứa con tôi, mỗi ngày một khôn lớn, hai con chim con đủ lông đủ cánh, rời tổ ra đi, đó là luật tự nhiên của Trời Đất. Có điều lạ lùng, tại sao hai con chim cũng biết chọn đúng ngày buồn của tôi để rời tổ ấm thế nhỉ!
Hôm nay kỷ niệm 30 năm ngày mất nước của tôi nói riêng, dân Việt Nam mình nói chung, mất quê hương, mất tổ ấm. Nỗi buồn này đến chết cũng đành phải ngậm ngùi mang theo. Ba mươi năm ngỡ như mới hôm qua, nghe nhắc đến hoặc nhìn những hình ảnh đau thương, mắt vẫn cay cay!
30 tháng Tư, 2005
27. Sơn Son Thếp Vàng
Những năm sau này ngành làm móng tay rất thịnh hành, tiền học tương đối rẽ, thời gian học mau hơn ngành tóc, ra trường tìm việc cũng dễ, nên phe ta nghiêng về ngành “neo” (Nails) rất đông. Nhiều người còn chịu khó đi các tiểu bang xa trên khắp nước Mỹ để mở tiệm, một năm lợi tức thu vào vài trăm ngàn như chơi. Cứ đi đại vào một tiệm “Neo” nào đó trên khắp nước Mỹ, bảo đảm 95% chủ nhân sẽ là người Việt Nam.
Bà chị họ tôi nghe đồn cũng ham, ghi danh học, sắp đến ngày đi thi, thiếu người mẫu, kiêm tài xế nên nhờ đến tôi. Thời gian thi là trọn ngày, buổi sáng thi viết, buổi chiều thực hành. Những ai thi rớt phần nào, chỉ việc đóng tiền, nộp đơn xin thi lại môn mình bị đánh rớt.
Ðịa điểm thi hơi xa nhà, lái xe sơ sơ cũng phải mất khoảng 3 tiếng. Hai chị em tôi bàn tính và quyết định lái xe lên ngủ lại nhà ông anh ở khu Tiểu Sài Gòn, sáng hôm sau chỉ lái thêm nửa chặng đường nữa cho tiện. Ðịa điểm nơi thi ngay trung tâm thành phố Los Angeles, nghe nhắc đến thành phố này là đã sợ, vừa đông xe, vừa chật chội, không kể những con đường dưới phố, thường hay có nạn “đường một chiều”!
Thức dậy thật sớm, lái xe tìm đường đi, đến nơi, chúng tôi là người đầu tiên, cỗng trường chưa mở cửa, ngồi trong xe đợi, sắp tới giờ mới thấy các thí sinh lục tục kéo về. Bắt đầu vào phòng ghi danh, đóng lệ phí rồi sang phòng đợi. Trong phòng mỗi lúc một ồn ào như cái chợ, phần đông là phe ta, ai cũng đi có đôi, có cặp: một thí sinh và một người mẫu, nam nữ không thành vấn đề. Họ ngồi trong phòng trao đổi ý kiến, vài người cắm cúi vào trang sách, vớt vát thêm chút đỉnh, ráng dò lại bài thi lần cuối, một số người đã thi qua một, hai lần, bị đánh rớt, nên kinh nghiệm đầy mình, bắt đầu “nổ”: Gặp giám khảo Việt Nam là chết toi đấy nhé, hết 90% thi rớt, giám khảo Mỹ đen coi thế mà dễ chịu, nhớ coi chừng, những thí sinh làm xuất sắc, khéo léo, lại dễ bị đánh rớt, bởi vì giám khảo cho rằng những thí sinh này chưa có bằng đã ra đi làm “lậu”, vì thế cho nên mài, dũa, sơn rất nhuyễn… “.
Ðiểm danh xong, mọi người được mời vào phòng xem phim chỉ dẫn cách thức, phe ta đông đến độ phim trình chiếu luôn bằng Việt ngữ. Sau đó những người mẫu được mời ra, các thí sinh ở lại để dự buổi thi viết. Tôi bỏ ra ngoài, rảo bộ lòng vòng mấy căn phố chung quanh, rồi trở lại ngồi trong xe. Biết sẽ bị chờ rất lâu, nên trước khi lên đường, tôi đã thủ sẵn giấy bút, sách báo, để viết lách, thơ thẩn, hoặc đọc sách. Bà chị họ thi viết xong, ra xe tìm tôi, hai chị em đi ăn trưa, nghỉ tí xíu, rồi cả hai trở lại lớp để dự cuộc thi thực hành vào buổi chiều.
Mỗi thí sinh phải đến phòng lãnh đồ nghề, chuẩn bị cho màn thực hành. Thí sinh và người mẫu được mời vào một phòng lớn, nơi đây có một vị giám khảo đứng trên bục cao, dặn dò thủ tục, điền thêm ít giấy tờ và bắt đầu gọi tên. Bà con cứ theo thứ tự tên mình mà vào phòng thi, nơi đây, các giám khảo đã đứng chào đón sẵn trước cửa. Không khí có vẻ hơi nặng nề, thí sinh xếp hàng đi vào phòng, chọn chỗ ngồi. Buổi sáng đã nghe đồn về tên tuổi của những vị giám khảo khó và dễ, nên trong bụng các thí sinh chắc cũng lo âu, vui buồn, khi nghe tên gọi vào phòng!
Các thí sinh đã ngồi yên đâu vào đó, giám khảo phát mỗi người một bài, dựa theo đó mà thí sinh sẽ làm móng tay hay chân, trong thời hạn ấn định. Mỗi phòng thi chỉ khoảng độ 6 đến 8 thí sinh, giám khảo đi tới đi lui canh chừng. Ðiểm chấm theo cách thí sinh giữ vệ sinh cho các đồ nghề sau khi dùng, và cách dủa, cắt, mài, sơn, làm đẹp móng tay, chân. Tôi là người mẫu, chỉ việc xoè móng tay cho bà chị làm đẹp, thấy rõ ràng chị “hơi” luống cuống, trong bụng tôi cũng run dùm theo! Có nhiều người mẫu lên tiếng “nhắc” thí sinh, là bị giám khảo đến “cảnh cáo” ngay.
Ðến giờ chuông reng, mọi người phải ngừng tay ngay tức khắc, giám khảo đi từng bàn, nhìn vào hai bàn tay, hay bàn chân người mẫu, rồi ghi chép. Sau đó người mẫu có quyền ra về thơ thới. Các thí sinh ngồi lại để chờ đợi kết quả. Tôi thả bộ ra xe, chờ trong xe rồi chờ ngoài xe, trở lại đứng trước cửa trường thi, thiên hạ lục tục bắt đầu ra, kẻ cười to mừng vừa thi đậu, người thì mặt mày nhăn nhó vì rớt! Chờ hoài chả thấy chị tôi đâu, thì ra họ gọi theo thứ tự tên họ, nên tên chị được gọi gần áp chót. Chị nửa cười, nửa mếu, vì thi đậu phần viết nhưng lại rớt phần thực hành! Tôi có hơi ngạc nhiên vì nhìn mấy cuốn sách học chữ, với những danh từ chuyên môn, kể cả những bịnh về da, có thể xảy ra cho các móng tay, chân, tôi thấy khó nuốt. Phần thực hành, theo tôi thì dễ đậu, chỉ việc sơn màu lên móng tay là xong. Xem vậy mà không phải vậy.
Gặp giờ cao điểm, tan sở, hai chị em đèo nhau lái về lại, đến nhà cũng mất hơn ba giờ đồng hồ lái xe. Thôi thì thua keo này ta bày keo khác, chị về phải lo nộp giấy tờ đi thi lại phần mình rớt. Riêng tôi, tuy mệt mà vui, đi cho biết đó biết đây, mở mang thêm trí tuệ, dù không phải là nghề của mình!.
1/2001
Mỹ Ngọc
Theo http://vietnamthuquan.eu/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Dây tơ đồng

Dây tơ đồng 1. Cún Ngày mới chào đời, tôi cũng có tên Tây tên Mỹ như ai, nếu tôi nhớ không lầm tên tôi là “Cool”, thế mà từ ngày ông chủ M...