Dọc đường gió bụi
Dọc Đường Gió Bụi
Gánh hát tất cả mười người. Tất cả mười người đã mấy tháng
nay, bắt đầu từ khi mới sang xuân, đi lang thang trên con đường cát trắng, hành
lý chứa chặt trong bốn chiếc hòm vuông quang dầu, cũ kỹ.
Họ đi, đi mãi, đi đã hàng trăm dặm chỉ thỉnh thoảng dừng chân
một đêm hoặc hai, ba ngày trong một xóm, một làng, một huyện lỵ.
Rồi họ lại đi.
Một buổi chiều cuối xuân, một buổi chiều ngây ngất oi ả khiến
ai đã luôn luôn sống gần cảnh thiên nhiên phải tiếc thời xuân qua khi ngắm lại
cỏ, cây mây nước.
Bao ngày tốt đẹp hầu tàn.
Mặt trời đã sắp lặn mà phường bạn còn lang thang giữa quãng
đường Thái Nguyên, Đa Phúc, phân vân chưa biết đi đâu. Một cô đào hát chậm chạp,
uể oải lê bước theo sau, bỗng cất tiếng gọi:
- Bác Hai ơi! Nghỉ chân ăn lót dạ đã, kẻo đói lắm.
Bác Hai, một người quắc thước, giọng dịu dàng, âu yếm gắt
yêu:
- Mơ đói rồi à? Chả được việc gì. Chỉ ăn cả ngày thôi!
Xuống giọng, tiếng cười khanh khách của cô đào hát làm rung động
làn không khí yên lặng một thung lũng hoang vu. Rồi theo Mơ, cả bọn cùng cười,
cười một cách vô ý nghĩa, vì họ biết rằng cười Mơ như thế không bao giờ họ bị
bác Hai giận hay mắng.
Mơ, năm nay vừa mười tám tuổi, mười năm trước, nàng theo cha
mẹ hát xẩm ở bến phà Tân Đệ. Một hôm đó, bác Hai ngắm nghía thấy con bé hát
hay, lại có giọng trong trẻo, nhẹ nhàng, liền bỏ tiền ra mua đem về nuôi, dạy
nghề xướng ca.
Năm năm học tập, Mơ thành tài múa hát có nhịp nhàng điệu bộ.
Hai đặc điểm của Mơ là cái giọng véo von bổng trầm đúng bậc và tấm nhan sắc diễm
lệ. Không phải là cái nhan sắc chín chắn, thùy mị, kín đáo của phần nhiều các
cô gái quê, nhưng cái nhan sắc long lanh với đôi mắt hơi sếch, với cặp môi tươi
thắm luôn nhếch một nụ cười lẳng lơ, nồng nàn.
Vì thế Mơ là người cốt yếu trong gánh hát bác Hai Truyện, là
linh hồn một ban chèo dù khi Mơ đóng các vai rất hoạt động như Thị Mầu, Vân Dại,
Châu Long, hay khi Mơ chỉ sắm một vai hoạt tượng như Phật Bà trong bản Quan Âm
Thị Kính suốt nửa giờ ngồi im không nhúc nhích. Lúc đó mặt xinh xắn, và cặp mắt,
cặp môi của Mơ thu hết tinh thần khán giả.
Thực vậy, người ta đến coi chèo chỉ vì Mơ. Chẳng thế mà phường
của bác Hai Truyện đã nổi danh khắp các vùng là "phường Mơ".
- Mơ! Đừng cười thế đó!
Mơ càng cười to rồi nũng nịu:
- Khốn nhưng cháu đói lắm. Cháu vừa mỏi, vừa đói.
Bác Hai Truyện cũng gật cười theo:
- Đói mà cười no được ư?
- Không bác ạ, cười không no được, nhưng ăn thì no ngay. Còn
mười nắm cơm buổi sáng mang đi, để làm gì nữa cho nặng khăn gói, thưa bác?
Trong phường có tài tử Tư Thiệp vào trạc tuổi Mơ. Bao giờ
chàng cũng làm theo ý Mơ, bao giờ chàng cũng ân cần săn sóc đến Mơ. Chàng liền
vì Mơ năn nỉ:
- Thưa bác chúng ta nên nghe lời chị Mơ, hãy dừng chân trên
ngọn đồi để ăn lót dạ nắm cơm và tiện nhìn xem vùng quanh đây có làng nào trù
phú, ta đến xin hát.
Cất giọng tự phụ, bác Hai quay lại bảo anh em phường bạn:
- Các chú mới theo nghề được năm ba năm nay, chứ tôi, tôi đã
già một đời khắp trên các con đường trong nước. Tôi cần gì trèo lên ngọn đồi mới
biết đâu có làng trù phú. Anh em cứ đi, chỉ nửa thôi nữa là đến ấp Đông Hà, thế
nào cũng có cơm ăn chiếu ngủ.
Mơ vẫn thích trêu ghẹo cha nuôi, ỡm ờ hỏi:
- Bác thông thuộc thế thì sao từ sáng đến giờ tới bao nhiêu
nơi xin hát đều không đắt?
Câu hỏi của Mơ làm cho bác Hai phải buồn rầu nghĩ ngợi. Nay
đã gần hết tháng ba hội hè ở các làng đã gần tàn đám, hèn chi mà phường bác đi
từ sáng đến giờ không gặp một nơi giữ hát.
Kể thì cái nhan sắc của Mơ cũng đã khiến họ mời mọc ân cần.
Song bọn kỳ mục hủ lậu, biển lận kia còn bao giờ biết ngắm nghía cái đẹp, biết
thưởng thức cái tài.
Bác Hai lẩm bẩm:
- Phải rồi! Chính phải rồi! Chỉ vì thế.
Rồi bác quay lại bảo anh em bạn hát. Lời dõng dạc quả quyết
như hô binh của một ông tướng có oai quyền:
- Chúng ta lên đồi!
Mơ thích chí cười như nắc nẻ. Bỗng thoáng nhìn thấy cặp mắt
nghiêm khắc của bác Hai, Mơ im bặt, lặng lẽ đi theo.
Tới ngọn đồi, mọi người nghỉ chân, ai nấy mở lấy cơm nắm, muối
vừng ra ăn.
Bác Hai thầm bảo Mơ:
- Ăn ít chứ, con ạ.
Mơ cười:
- Nhưng cháu đói, mà ở đây có gió mát, cháu ăn càng ngon miệng.
- Tùy ý, nhưng để bụng chốc nữa ăn cơm nóng, canh ngọt vẫn
hơn. Bây giờ Mơ nên nghe lời bác, mở hòm lấy phấn sáp, lược gương ra điểm trang
cho thực đẹp.
Mơ ngơ ngác ngây thơ nhìn chủ:
- Đã hát đâu mà bác bảo sắm vai trò.
Bác Hai vẫn giữ vẻ mặt nghiêm nghị:
- Không, bác không bảo cháu đóng trò. Bác chỉ bảo cháu trang
sức mà thôi. Cả chị Liên cũng vậy.
Ngoan ngoãn, Mơ vâng lời, lấy gương lược phấn sáp ra chải chuốt
tô điểm. Trông vào gương thấy dung nhan mình tiều tụy, Mơ giật mình vì cùng một
cảm tưởng như cha nuôi. Dầm mưa, dãi nắng, cái nước da trắng mát tự nhiên của
nàng đã xám đen với gió bụi dọc đường. Mơ ngẫm nghĩ: "Thảo nào! Mà ta có
ngờ đâu!".
Mười phút sau, mọi người xúm xít chung quanh cô đào hát, khen
ngợi không dứt lời. Vì trang điểm xong, Mơ vẫn còn giữ được cái nhan sắc mọi
khi, với tấm thân uốn lượn nhịp nhàng trong chiếc quần lĩnh và chiếc áo the mùa
vỏ xó. Cảm động hơn hết là chàng Tư Thiệp. Chàng ngây người, đứng ngắm không chớp
mắt.
Gánh hát của bác Hai Truyện nấn ná ở lại ấp Đông Hà đã gần một
tuần lễ.
Chủ ấp là một trang thiếu niên lỗi lạc, ưa chơi các thứ thi,
họa, cầm ca. Mà cái thú coi diễn chèo hình như chàng lại thích hơn. Chầu chàng
đánh rất xinh, các điệu hát chàng rất thành thạo.
Vì thế đôi bên có chiều lưu luyến lẫn nhau. Chủ ấp muốn được
nghe đủ các điệu hay, trùm phường được người sành nghề thưởng thức, cũng không
vội ngỏ lời từ biệt xin đi.
Song dẫu sao cái cớ hiển nhiên rõ rệt mà không ai muốn thú nhận...
là đào Mơ.
Ngay hôm theo ban hát tới ấp Đông Hà, nàng đã được khách đa
tình chú ý. Tối hôm ấy phường hát bắt đầu diễn tích Kim Nham, và Mơ sắm vai Vân
Dại.
Dưới ánh đèn măng xông, đôi mắt long lang hoạt động, cặp môi
đỏ thẫm nhoẻn nụ cười ngây thơ, bàn tay mềm mại xòe mạnh cái quạt tầu xương trắng,
tay vờ rung rung tháo đường chỉ viền tà áo, hai chân thoăn thoắt khi tiến khi
lui, khi bắt chước con gái bơi nước té bèo, bao điệu bộ, bao ám hiệu khuôn sáo
để tả một cô gái điên đã khiến Mơ trở nên muôn phần diễm lệ.
Thế là lửa ái tình nhóm liền, bùng bùng ngùn ngụt. Hai người
như đã hẹn hò nhau từ kiếp trước, để kiếp này gặp nhau.
Một người trai trẻ chơi bời, một người đang tuổi đào thơ đã từng
yêu vờ thương hão những phường tục tử vô tri cùng mình thủ những vai tình
chính. Nay thì không phải ái tình giả dối chốn sân khấu nữa, nhưng là ái tình nồng
nàn, thành thực trong gian phòng ấm cúng thơm tho.
Hôm nay bác trùm Hai Truyện lên chào ông chủ ấp để xin rời
phường đi nơi khác.
Tới giờ lên đường tìm đâu cũng không thấy Mơ. Đồng ý với chủ ấp
nàng đã trốn núp ở nhà một điền hộ quanh vùng. Mọi người trong gánh hát còn
đương lo sợ, ngơ ngác nhìn nhau thì một tên điền tốt đến đưa cho bác Hai một
phong thư. Mở vội ra xem, bác chỉ thấy có năm chục bạc và mấy lời vắn tắt
"Chúc anh em lên đường may mắn. Còn Mơ thì nay đã là vợ tôi rồi". Buồn
rầu gánh hát ra đi.
Gánh hát mất Mơ khác nào người mất linh hồn.
Gánh hát mất Mơ? Không bao giờ bác Hai Truyện tưởng đến một sự
vô lý như thế. Người ta chiếm mất Mơ của bác? Người ta cướp Mơ của bác? Cố nén
sự đau đớn, bác bỏ số tiền vào túi. Bỗng như điên cuồng, bác cười nói huyên
thuyên rồi nghêu ngao cất tiếng hát vang trời trên con đường cát trắng.
Bạn bè thấy bác vui vẻ thì tưởng rằng có lẽ bác mừng cho con
nuôi đã lấy được chồng giàu có. Nhưng cặp mắt ướt mờ kia chứa bao nhiêu nỗi bi
ai.
Hôm ấy, đêm đã khuya. ở một làng bên hãy còn tiếng trống chèo
phường bác Hai Truyện. Trong khi bác cùng gánh hát uể oải, chậm chạp lang thang
trên con đường chưa biết đi đâu thì, làng ấy đã khẩn khoản ra đón mời.
Thức giấc Mơ lắng tai nghe. Cái thời kỳ đằng đẵng Mơ lăn lóc
với nghề đã cùng hồi trống đến làm rối loạn lòng nàng. Trước mắt Mơ lộn xộn hiện
lên các vai chèo nhẩy múa trên con đường trắng mịt mù xa tắp.
Tiếng trống chèo đổ hồi càng thúc giục.
Tiếng trống chầu điểm thì thùng như mắng trách, gắt gỏng, đe
nạt.
Lẳng lặng, se sẽ Mơ ngồi dậy. Tình nhân của Mơ ngủ vẫn mê
man. Khoác vội tấm áo vào mình, quấn vội cái khăn lên mái tóc, Mơ nhẹ nhàng lướt
như cái bóng, lẻn bước ra đi.
Cảnh sáng trăng suông, các vật lờ mờ, Mơ tưởng tới tấm thân
cô độc.
Khi đến gần gánh hát Mơ thở dài, dừng bước đứng lại. Giữa lúc
ấy, Tư Thiệp thổi khúc địch sầu thảm trong bản chèo Hạng Vũ bị vây nơi Cai Hạ.
Tiếng địch véo von, rền rĩ làm rung động lòng Mơ, làm tiêu
tan cả ái tình mới mẻ. Ngồi xệp xuống đất Mơ bưng mặt khóc hối hận.
Tiếng địch vẫn sang sảng, khi lên bổng lúc xuống trầm như mỉa
mai, như chế giễu kẻ lìa phường phản bạn. Mơ đứng phắt dậy lau nước mắt hốt hoảng
chạy một mạch vào trong rạp.
Bản chèo vừa tan, gánh hát bác Hai đã vội vã lên đường, tuy bấy
giờ mới gà gáy sáng.
Rồi mặt trời mọc trên đỉnh đồi lại chiếu ánh nắng xuống mười
người lang thang trên con đường cát trắng, hành lý chứa chất trong bốn chiếc
hòm vuông quang dầu, cũ kỹ.
Họ đi. Rồi họ lại đi.
Và Mơ, Mơ sẽ già đời là một tấm linh hồn phiêu lưu nay đây
mai đó, như bị cái nghề lãng mạn tự do ác nghiệt, mọi rợ nó cám dỗ, nó chiếm đoạt,
nó cưỡng bách, cái nghề mà hạnh phúc của ái tình, mãnh lực của kim tiền đều
không thắng nổi.
Tận tụy với nghề, họ đi mãi trên con đường.
Tiếng Dương Cầm
Năm giờ hơn, xe lửa dừng lại ở một ga xép, trên đường Hà Nội
- Lạng Sơn.
Minh thò đầu ra cửa sổ rồi hấp tấp đứng dậy xách valy lẩm bẩm:
- Chết chửa! Suýt nữa thì nhỡ to.
Ra khỏi ga. Minh đưa mắt nhìn khắp mọi nơi đều không thấy bạn
đâu. Chàng vừa cau mày tỏ ý thất vọng, thì một người tài xế rời chiếc ôtô đỗ
bên đường đi lại gần chàng cất mũ chào và lễ phép hỏi:
- Thưa ngài, cháu hỏi không phải, ngài có phải là ông giáo
Minh không?
Minh vui mừng đáp:
- Phải chính tôi. Ông Ðoàn có nhà đấy chứ?
- Bẩm có, nhưng ông chủ con bận đi bắn để có gà gô ăn bữa chiều
nay, nên không thân đón ông được.
Minh xua tay tỏ vẻ khoái lạc, nghĩ đến tài thiện xạ của bạn
và đĩa gà gô quay khói thơm nghi ngút.
Khi tới bộ phận đồn điền, Minh nghe có tiếng súng nổ, liền bảo
tài xế đỗ xe lại trên một ngọn đồi gần đấy. Cái bóng đen của Ðoàn đội mũ rộng
vành rõ ràng in cắt trên nền trời xanh nhạt.
Minh khom hai bàn tay đặt vào mồm gọi bạn:
- Anh Ðoàn!
Tức thì một dịp cười xa xa đáp lại và khoảng khắc Ðoàn đã
theo sau con chó săn chạy thực mau xuống chân đồi, vừa thở vừa giơ cho bạn coi
hai con gà gô béo lốm đốm chấm nâu. Minh khen:
- Giỏi nhỉ! Tôi đã biết ngay rằng thế nào chiều nay cũng được
chén gà gô.
Ðoàn đáp lại bằng một nhịp cười tự phụ rồi cùng bạn bước lên
xe trở về ấp.
Ba năm xa cách, nay anh em mới lại gần nhau. Minh ngắm qua diện
mạo bạn cũng đoán rằng bạn sung sướng: da thịt hồng hào, sức vóc vạm vỡ, nhất
là lời nói to và dõng dạc, tiếng cười ròn mà thẳng thắn, tỏ ra rằng bạn đương sống
một cuộc đời đầy đủ, vô tư lự.
Mải trả lời những câu hỏi ân cần, xoắn xuýt, Minh chưa kịp hỏi
lại một điều, thì ôtô đã vượt qua cổng lớn và tiến vào trong sân, một cái sân cỏ
xén bằng chằn chặn kế tiếp với cái nền lót gạch, ý chừng để phơi thóc.
Rửa mặt xong, chủ khách đi xem các phòng và các nhà phụ thuộc
như nhà kéo mật, nhà làm đường nhà chứa thóc... Minh luôn luôn khen:
- Ðẹp quá nhỉ! Mà chuyến trước tôi lên chơi nhà cửa còn ít
hơn nhiều.
- Vâng chính thế.
- Ngày nay, ấp anh mở rộng thêm, lại ngăn nắp hơn, gọn gàng sạch
sẽ hơn nhiều lắm.
Ðoàn mỉm cười sung sướng. Minh nói tiếp.
- Anh vốn là một người bề bộn. Ngày xưa còn đi học và trọ
chung một nhà với nhau, tôi đã nhiều lần phải khó chịu về tính bề bộn của anh.
Thực tôi lấy làm lạ rằng anh đổi tính nết được chóng thế.
Ðoàn đáp:
- Ở đời không có gì lạ hết.
Khi đã xem xong các phòng dưới - nào phòng tiếp khách với
cách trang hoàng nhã nhặn, nào phòng ăn với bàn ghế và tủ đánh xi bóng nhoáng,
nào phòng sách sáng sủa có cửa sổ tròn trông ra một cái vườn, cảnh sửa sang rất
có mỹ thuật - khách theo chủ bước lên thang gác, đến phòng ngủ riêng của mình để
thay quần áo.
Ði qua hiên gác, Minh vô tình thoáng nhìn vào một gian buồng.
Một người thiếu phụ xinh đẹp dịu dàng ngồi bên một cái giường trẻ con. Thấy
Minh nàng đứng dậy chắp tay ngả đầu chào. Ðoàn giới thiệu:
- Nhà tôi.
Rồi quay vào phía trong bảo vợ:
- Anh Minh, bạn thân của tôi.
Hai người lại ngả đầu chào nhau một lần nữa, rồi Ðoàn đưa
Minh vào phòng. Ngắm nhìn mọi vật xếp đặt đâu vào đấy, Minh cảm động vì tấm
lòng chu đáo của bạn.
Thực vậy, từ cái màn ren mới mắc, tấm dạ giải nệm mới giặt
cho đến chậu thau mới đánh, bánh xà phòng, cái khăn mặt, cái bàn chải răng chưa
dùng nhất nhất đến sạch sẽ, mới mẻ, bóng lộn và tỏ rằng có bàn tay âu yếm của một
người nội trợ đảm đang chăm chỉ chạm qua.
Ðúng bảy giờ, một đứa ở gái lên gác mời Minh xuống ăn cơm.
Tuy cơm Việt Nam nhưng các món đựng trong đĩa lớn cùng một hạng và bày trên bàn
vuông phủ khăn trắng xanh, dưới ánh sáng rực rỡ một cây đèn măng sông, đặt trên
giá cao. Khách ăn qua món gì cũng khen ngon và chàng nói luôn:
- Anh có người bếp khá lắm.
Ðoàn đưa mắt liếc vợ, mỉm cười âu yếm:
- Các món này tự tay nhà tôi làm cả.
Minh quay lại phía vợ bạn:
- Thưa bà, tôi xin có lời trân trọng thành thực tặng khen bà.
Bà chủ, như cho rằng lời khen hơi quá đáng, cúi mặt xuống
nhìn bát cơm, hai má hây hây đỏ. Cái tính rụt rè bẽn lẽn ấy của một người thiếu
phụ có chồng khiến cho Minh lấy làm lạ. Thực một người thiếu nữ mười lăm, mười
sáu cũng không nhút nhát, e lệ quá như thế. Lại một điều nữa, là suốt bữa cơm,
vợ bạn không bàn, không nói nửa câu. Từ bát cơm ăn hết cho đến chén nước mắm cạn,
bà chủ cũng chỉ khẽ đưa mắt ra hiệu cho người nhà lấy thêm mà thôi. Minh tịnh
không nghe một tiếng thì thầm nho nhỏ ở cái miệng xinh xắn kia thốt ra, cả đến
nụ cười rất tươi tắn của nàng cũng chỉ giống như cái cười rất yên lặng chiếu
trên màn ảnh không lời. Thỉnh thoảng nàng lại đứng dậy, rón rén đi xuống bếp,
chừng để bảo đem món ăn lên hay trông qua cháo gà gô xem đã chín tới chưa. Nàng
đi nhẹ nhàng như con rắn lướt trên đám cỏ đến nỗi Minh nhìn về phía nàng ngồi
không thấy mới biết rằng nàng vừa xuống nhà.
Ðến món tráng miệng, Ðoàn trỏ đĩa đựng cam và chuối tiêu hảo
hạng.
- Mời anh xơi, đây là quả vườn nhà, cả hoa cắm lọ kia cũng vậy.
Sáng mai, tôi sẽ đưa anh ra xem vườn.
Một lát Ðoàn lại hỏi Minh:
- Anh có lạnh không?
- Không anh ạ.
- Vậy ra sân uống càphê nhé.
- Xin vâng.
Hai anh em đứng dậy. Tức thì bà chủ đưa mắt bảo người nhà
chuyển cái bàn con và hai cái ghế ra sân, đặt dưới dàn hoa tiên thoang thoảng
hương đưa.
Ðoàn quay lại bảo:
- Thôi mình ở trong nhà chẳng lạnh.
Ngoan ngoãn, nàng cất đĩa hoa quả vào tủ ăn, lật khăn bàn và
những chiếc khăn ăn đưa cho một người nhà, rồi thong thả sang phòng bên.
Vạn vật cũng hớn hở ví như đón chào khách. Vừng trăng nửa
vành đã treo lửng trên một trái đồi trước mặt. Hai người như cùng cảm động vì một
sự dịu dàng âu yếm, chưa ai cất tiếng hỏi ai chỉ yên lặng ngồi hút thuốc lá và
nghe tiếng tí tách của nước càphê chảy từng giọt từ cái lọc xuống cốc.
Bỗng Minh giật mình nhớn nhác trông quanh. Tiếng đàn dương cầm
vừa ở đâu bay lại lanh lảnh, trong trong, khi mau, khi chậm, khi ríu rít như tiếng
chim họa mi hót đổ hồi, khi lanh lảnh như hạt mưa vàng gieo trên làn nước bạc.
Chàng tưởng tượng ngay ra một dòng suối trong chảy bên sườn non đâu đó. Hết một
bài, đàn ngừng tiếng. Minh thở khoan khoái, hỏi bạn:
- Ai đánh đàn thế, anh?
- Nhà tôi.
Nhưng bài khác đã kế tiếp theo. Tiếng đàn càng réo rắt, như
vui mừng, như cười nói, như mơn trớn ôm lấy trái tim ta.
Minh cười thầm ngẫm nghĩ: "Có lẽ vợ bạn ta không nói bằng
tiếng người, mà chỉ nói bằng tiếng đàn chăng?".
Ðoàn thì cặp mắt vơ vẩn nhìn trăng, tâm hồn như phiêu phiêu
đang cùng điệu âm nhạc du dương bay bổng trên từng mây bạc.
Tiếng đàn im bặt, Ðoàn se sẽ bảo bạn:
- Nhà tôi lên gác, vì đến giờ cho con bú, mời anh xơi càphê kẻo
nguội.
Minh cười:
- Giá chị cho nghe vài bài đàn nữa thì càphê đến lạnh!
Rồi chàng hỏi luôn:
Anh cưới vợ tự bao giờ?
- Ðược mười sáu tháng rưỡi anh ạ.
Câu trả lời tính từng tháng từng ngày, đủ tỏ cho Minh biết rõ
tính tình đằm thắm, nồng nàn của bạn. Thốt nhiên chàng buột miệng như nói một
mình:
- Sung sướng thật! Hạnh phúc gia đình!
Ánh trăng chênh chếch chiếu rãi mặt hai người. Minh thoáng thấy
giọt lệ lóng lánh trong cặp mắt Ðoàn. Anh ngờ vực nói:
- Anh có sung sướng không?
Ðoàn đăm đăm nhìn Minh như lấy làm lạ:
- Sung sướng? Hạnh phúc? Hạnh phúc thì ai cũng có, cũng được
hưởng, nhưng phải mất công tìm.
Câu trả lời nhiễm đầy ý nghĩa huyền bí.
Minh ngồi im ngẫm nghĩ. Bạn lại nói tiếp:
- Như nhà tôi là một người đàn bà hoàn toàn, hoàn toàn theo ý
tôi, thế mà vì một sự cỏn con suýt làm tôi mang khổ suốt đời. Tôi có ngờ đâu chỉ
người ấy là hạnh phúc của tôi, là hào quang rực rỡ chiếu rõi tâm hồn tôi...
Những ý tưởng lãng mạn của bạn khiến Minh không thể nhếch một
nụ cười thương hại. Ðoàn nói luôn:
Hai năm trước, một buổi tối đến chơi một người bạn cũ. Thoáng
thấy bóng em gái bạn, nhà tôi ngày nay, tôi đem lòng yêu ngay. Rồi tôi thân đến
xin cưới làm vợ. Tôi tuy mồ côi cha mẹ, nhưng song thân bạn tôi thấy tôi có học
thức chút đỉnh và có nghề nghiệp chắc chắn nên cũng thuận gả. Nhưng bạn tôi gạt
đi, và bảo cho biết rằng em gái có bệnh nặng. Tôi thì tự cảm thấy tôi yêu đến cực
điểm rồi, khó lòng mà lui được nữa, liền trả lời quả quyết: "Bệnh nặng tôi
cũng xin lấy".
Tưởng tôi biết em gái mắc bệnh gì rồi, bạn tôi cảm động ứa nước
mắt nắm chặt lấy tay tôi thì thầm:
"- Anh đã nhất định thương em tôi, tôi xin đa tạ tấm
lòng quý hóa của anh".
Cưới về được ba hôm tôi mới rõ "nhà tôi" câm.
- Câm?
- Nàng câm. Nhưng ngày nay, tôi thường tự hỏi giá nhà tôi
không câm thì liệu tôi có thể được hưởng hạnh phúc đầy đủ như thế này không?
Ðoàn đứng dậy nói tiếp:
- Anh tha lỗi cho tôi: Tôi lên gác bảo nhà tôi ngủ trước, rồi
tôi lại xin xuống ngay hầu chuyện anh.
Minh ngước mắt nhìn trời. Trăng thượng tuần buông xuống cảnh
yên lặng một nụ cười yên lặng. Chàng lẩm bẩm nói một mình:
- Hạnh phúc chỉ ở trong sự yên lặng.
Bên Đường Dừng Chân
Sáng hôm ấy khi Bằng ở ấp Ðoan Dương ra đi trời hưng hửng nắng,
khiến Bằng cảm thấy tâm hồn khoan khoái và thân thể nhẹ nhàng, như được tắm
trong bầu không khí khoáng đãng, trong luồng gió lạnh đầy hương phấn buổi đầu
xuân, và chiếc xe đạp của Bằng tự sức nó đi vùn vụt khi xuống đồi, khi lên giốc:
chân Bằng cử động mà Bằng không thấy mỏi.
Là vì Bằng vui mừng được xa lánh một nơi mà ở đó Bằng không
yêu mến ai và cũng không ai yêu mến mình. Hai ngày Tết vừa qua, trong gia đình
một ông chú họ, Bằng đã sống giữa đám người thờ ơ lãnh đạm, nhưng không từng
bao giờ quen biết, từ ông chú, bà thím cho chí mấy người em họ. Nhất cô Thu,
thì lại khe khắt với Bằng lắm, tuy cái tên có vẻ êm đềm, hòa nhã. Hình như đối
với Bằng, ai ai cũng chỉ có một lòng khinh miệt mà xót thân mồ côi cha mẹ, Bằng
càng thấy rõ rệt nh vẽ trên nét mặt từng người.
Bằng đã tưởng sẽ đem theo trong trí về Hà Nội mấy cái hình ảnh
đáng ghét. Nhưng mà trai trẻ vẫn là tuổi dễ quên. Phong cảnh hữu tình đằm thắm
tất tơi trong một sáng mùa xuân lại như vỗ về, như an ủi, như vì ai trút sạch
những ý tưởng chán nản, hắc ám, nó vẩn đục tâm hồn. Và Bằng hiểu thấy cái gia
đình chân thật của con người là vạn vật, là vũ trụ bao la.
Kìa vạn vật đương đón tiếp và thương mến người
Người hãy dấn thân vào lòng vạn vật...
Bằng lẩm nhẩm đọc hai câu thơ của Lamartine và mỉm cười đưa mắt
ngắm cảnh. Những đồi trồng chè, trồng sắn liên tiếp nhau, chỗ xanh nhạt, chỗ
xanh đen, vạch lên da trời màu nguyệt bạch một nét uốn éo mềm mại như thân con
rồng lượn khúc.
Thỉnh thoảng xe đạp của Bằng lại lăn trên một quãng đường hẻm.
Hai bên, trong đám rừng rậm đen um, thấp thoáng hiện ra những gốc trắng mà thắng
vút của cây lim và cây trám.
Nhưng khi đến trại Kim Lăng giẫy nhà lá san sát xếp hàng ở
ven đồi, trong một nơi thung lũng nhỏ bỗng nhắc lại Bằng nhớ tới quang cảnh Tết
ở ấp Ðoan Dương với những cây nêu có chùm khánh sành, đống xác pháo lòe loẹt
trước phên nứa dán giấy đỏ.
Bằng cấm đầu chạy thật mau để được khuất mặt cái hình ảnh mà
chàng cho là hắc ám, buồn tẻ. Ðối với chàng cái vui chỉ núp ở áng mây hồng, ở
trái đồi xanh, ở giòng nước bạc, ở cơn gió may, ở trong sự rung động của cành
lá, sự phất phơ của ngọn cỏ, ở trong làn không khí bao bọc mình ta.
Bằng loay hoay với tư tưởng và trời ma từ bao giờ, chàng
không biết. Mãi lúc giọt nước lạnh theo vành mũ chảy xuống má, chàng mới chượt
tỉnh. Ða mắt nhìn ra xa, phong cảnh tất đẹp quan minh buổi sáng đã chìm đắm vào
trong một làng mờ mịt. Những chòm lá gồi cao chót vót như bơi trên mặt đám
sương dày, thân cây sắc trắng nhạt đã lẫn vào trong màu hung hung của màn ma bụi.
Thỉnh thoảng, lơ lửng giữa sờn đồi thoai thoải xuống đường, một
chiếc nhà sàn lợp lá. Ðứng sát bên cạnh, chòm lá xanh thẫm của mấy cây dọc điểm
những chấm đen lên nền trời bạc mờ.
Bằng vui vẻ so sánh cảnh bình minh buổi sáng với cảnh ma phùn
bây giờ? Mỗi cảnh có một vẻ đẹp riêng. Chàng dừng xe lại ngắm, tưởng tượng nh đứng
trước một bức tranh sương mờ khói tỏa.
Nhưng mưa một lúc một nặng hột, gió một lúc một lạnh thêm, nước
ở vành mũ chảy xuống nh giọt mái tranh. Bộ quần áo dạ tím của Bằng ướt đầm và nặng
chịu.
Leo một cái dốc dài, đường thì cây và trơn, gió thì ngược và
mạnh, Bằng phải nằm rạp xuống, hai tay nắm ghì lấy tay lái mới khiến được xe đi
từ từ như con ốc nặng nề bò lên thành chậu. Ðến lưng chừng dốc, Bằng hết sức dấn.
Bỗng sau một tiếng "cách", xe lùi lại làm cho Bằng suýt ngã văng ra.
Chàng cúi xuống xem thì xích xe đã đứt và rơi ra đường lẫn trong bùn đất đồi
vàng xám. Chàng nhặt lên, chắp nó lại, rồi lắc đầu, thở dài lẩm bẩm: - Thôi
đành cuốc bộ, để chờ xe ô tô hàng đi qua.
Nhưng Bằng thất vọng biết chừng nào khi chượt nhớ ra rằng mồng
hai tết, xe hàng cha chạy. Chàng đã toan quay xe về nhà chú. Từ đó cách ấp Ðoan
Dương chỉ độ mời mấy cây số mà xa tỉnh lỵ Phú Thọ những hơn hai mơi cây. Song
tưởng tới cái bộ mặt khinh khỉnh của mấy người em họ, chàng lại thôi.
Rồi Bằng chẳng thấy rét nữa, vui vẻ dắt xe đạp đi lên dốc, mặc
cho bùn cây lấm lem ống quần, mặc cho hột mưa sắc như mũi tên đâm xả vào mặt,
vào tai.
Vượt qua một trái đồi và đi hết một quãng rừng nhỏ, Bằng
trông sang bên tả thấy xa xa có làn khói lam nhạt ẩn hiện trong đám mờ mờ. Ðoán
chừng đó là một nơi dân cư đông đúc chàng tìm lối rẽ vào. Chàng liền tất tả tiến
bước. Quả nhiên vừa khỏi một chỗ đường vòng, chàng thấy hiện ra một túp lều
tranh lẩn vào giữa hai cây gạo lớn.
Lại gần, Bằng nhận thấy nếp nhà có ba gian. Cái gian bên trái
vách mới quét vôi trắng. Còn gian giữa thì chiếc phên nứa che kín cả hai cái cột
tre, có bốn miếng giấy đỏ vuông không chữ dán trước bức phên.
Thoáng nghe ở trong nhà có ai cười nói, Bằng mừng quýnh lại đập
phên.
- Ai?
- Tôi.
Trong nhà có tiếng hai người thì thầm bàn.
Bằng nói một cách tha thiết:
- Tôi qua đây gặp mưa gió, rét mướt, nhờ ông bà cho tôi trú
chân nghỉ một lát và chữa lại xe đạp đứt xích.
Chủ nhà tháo chất, tháo róng, lách phên tiếp khách vào.
Trong nhà lờ mờ tối, nhất là đối với mắt Bằng vừa ở ánh sáng
mặt trời vào.
Gian bên hữu bày một cái bàn thờ con con dưới ánh đèn lù mù
hai cây đèn dầu nam; Sát bàn là một cái phản thấp giải chiếc chiếu mới.
- Mình chống cái phản lên một tí cho sáng sủa.
Nghe rõ giọng trong trẻo của một người thiếu phụ. Bằng định
thần nhìn kỹ thì thấy sau hai cái ống bễ cao, thấp thoáng hiện ra cái đầu chít
khăn vuông và hai bàn tay im lặng cầm cán bễ. Bấy giờ chàng mới nhận ra rằng
mình vừa vào nhà một người thợ rèn.
Bác phó sửa soạn chống phên, Bằng vội gạt:
- Thôi, cứ để thế này cho ấm.
Người kia hỏi:
- Thưa ông lạnh lắm phải không?
- Phải, tôi lạnh lắm.
- Vậy mời ông sưởi cho ấm.
Rồi bảo vợ:
- Mình kéo đi.
Tức thì tiếng phì phào bắt đầu. Chủ đặt một cái thùng gỗ thấp
bên đống than hồng, mời khách ngồi. Bằng nói cảm ơn nhận lời rồi đưa hai bàn
tay rét buốt hơ lên hơi nóng. Ðối diện chàng, ngồi trên nền đá ong xếp chồng,
và phủ tầu lá gồi khô, chủ nhà hỏi:
- Thưa ông ở đâu về?
- Tôi ở ấp Ðoan Dương tới.
- Thưa ông ấp Ðoan Dương tận đâu cơ?
- Ở gần phủ Ðoan Hùng.
- Thế thì chắc xa lắm. ông bỏ áo ngoài ra chằng ướt thấm vào
nhỡ cảm.
Theo lời, Bằng cởi áo. Chàng đã quen với ánh sáng lờ mờ trong
gian nhà tối và hơi nóng dịu dàng của than hồng bốc ra đã làm cho chàng dễ chịu,
Bằng khoan khoái tươi cười đưa mắt nhìn quanh.
Trên đôi ống bễ, mặt người thiếu phụ phản chiếu ánh lửa hây
hây dưới chiếc khăn vuông đồng tiền, và lắc lư theo nhịp tay kéo bễ. Bằng tơ mơ
ngắm nghía, khiến người thiếu phụ thẹn thùng cúi gầm xuống.
Bằng mỉm cời:
- Thôi cám ơn bác, tôi đã hết rét rồi. Không làm gì mà kéo bễ
mãi phí than vô ích.
- Thu*a ông được, cả một năm có ba ngày tết tốn là mấy, ở đây
gần rừng có lò đất than nên rất rẻ.
- Nhưng để thế này cũng đủ ấm rồi. Tôi xin ngồi nghỉ một tý nữa,
rồi phải đi ngay cho kịp xe hỏa hai giờ về Hà Nội.
Dừng tay, đứng lắng tai nghe hai người nói chuyện, vợ bác phó
rèn cũng góp một câu: - Nhưng ban nãy ông nói giây xích đứt cơ mà.
Bằng sực nhớ ra:
- Ồ nhỉ! Suýt nữa tôi quên bẵng.
Chàng đứng dậy ra đường. Bác phó cũng theo ra đỡ phên. Bằng
đem xe vào trong nhà để tựa bên vách rồi cầm xích xe đa cho bác phó xem:
- Ðứt mất một mắt.
Người vợ đến gần cúi nhìn bảo chồng:
- Ðứt một mắt thì đánh mắt khác vào cũng được chứ gì.
Chồng cười:
- Mình tưởng dễ lắm đấy. Phải làm bằng máy làm bằng tay sao
được.
Thấy hai vợ chồng bác phó rèn loay hoay mỗi người cầm một đầu
dây xích, Bằng bàn:
- Cái xích này dài và lỏng quá nên thường vẫn rơi, vậy nếu
bác cho cài chốt vào mà giọt hai mắt xích với nhau cũng được.
Người vợ đã hết bẽn lẽn, vui vẻ bảo Bằng:
- Ồ! thế thì dễ lắm nhỉ.
Khi đã rửa xích sạch bùn trong chậu nước đen vàng những bụi
than, nàng cười bảo chồng:
- Ừ phải đấy.
Bằng không nghĩ đến cái giây xích xe đứt mà chỉ đăm đăm ngồi
ngắm người thiếu phụ nhanh nhẹn, vui vẻ, luôn mồm cười nói. Bằng trông như con
chim vành khuyên nhẹ nhàng hót trên cành cây.
Than đổ đầy lò nàng lại đến kéo bễ. Sau tiếng phì phèo, tiếng
nổ lách tách. Lò một lúc một nóng thêm, ngọn lửa xanh liếm đến đâu than đen trở
nên đỏ đến đấy. Rồi một đám bụi vàng lớn tung tóe ra từ phía như kết thành một
bó hoa cải lấm tấm hoạt động thực mau dưới ánh mặt trời trước một cơn gió lạnh.
Bằng giật mình né người về phía sau, khiến chị phó rèn cất tiếng
cười khanh khách. Bằng ngước mắt nhìn nàng, mỉm cười. Trong khi ấy thì chồng
nàng đương cúi đầu xuống gầm phản lục trong cái hòm gỗ lớn để tìm một cái chất
sắt. Chẳng biết nói gì, Bằng hỏi cho có chuyện:
- Hôm nào bác mở cửa hiệu?
Chị phó rèn lại cười:
- Ông tính làm gì có hiệu mà mở cửa. Nghĩa là bắt đầu làm việc
thì chúng tôi làm việc từ hôm qua cơ.
- Thế không ăn tết à?
- Vẫn ăn tết chứ.
Nghe giọng nói có duyên và ngắm đôi mắt nhanh nhẹn hòa nhịp
cùng cặp môi cắn chỉ luôn luôn nhách một nụ cười tươi tắn, Bằng lại nghĩ đến những
cô gái Lim láu lỉnh và nhớ một lần có người bảo chàng phần nhiều người Phú Thọ
đều là dân quê vùng Bắc Ninh di c lên.
- Còn ông, ông ăn tết ở đâu vậy?
Câu hỏi ấy khiến Bằng nhớ tới người chú họ. Ngồi chống gối,
hai bàn tay ôm đầu, chàng ngẫm nghĩ thở dài.
Người chồng cầm xích xe đi xuống nhà chừng để rửa lại, vợ
cũng theo xuống, thì thầm:
- Ông này hình như có việc gì buồn.
Chồng gật, đáp:
- Ừ mà sao mới mồng hai tết, ông ta đã xa nhà cửa để đi đâu một
mình vội vàng như thế nhỉ?
- Hay ông ta không có nhà cửa, không có bà con thân thích.
- Không đâu! Ban nãy ông ta bảo ông ấy ở nhà người chú về cơ
mà.
- Ồ phải! này có nhẽ ông ấy đói lắm nhỉ?
- Thôi mình kéo bễ để tôi hành lại cái xích cho ông ấy, rồi
ta còn ăn cơm chứ.
Vợ có ý e ngại, bảo chồng:
- Hay ta thử mời ông ấy ăn cơm xem, có nhẽ ông ấy vừa rét, vừa
đói.
Chồng cười:
- Bậy! Khi nào ông ấy lại thèm ngồi ăn cơm chung với mình.
Hai người lên nhà, Bằng hỏi:
- Thế nào, bác liệu có chữa được không?
- Chưa ông, tôi sắp sửa chữa đây. Mời ông ngồi sởi một tí nữa
cho ấm. Ðể cái áo này ráo đã chứ!
Bằng cười:
- Ráo mà làm gì? Ráo rồi chốc nữa ra mưa lại ướt.
Người vợ nhìn chồng, lắc đầu phàn nàn:
- Thương hại!
Hai tiếng nói se sẽ khiến Bằng phải chú ý đến cô gái quê xinh
xắn. Nàng đẹp, Bằng đã nhận thấy ngay từ lúc nãy.
Nhưng tình nhân loại đã làm tăng vẻ đẹp của nàng lên bội phần,
tình nhân loại đối với một kẻ mà nàng phỏng đoán không được sung sướng, một kẻ
xông pha ma gió giữa hôm ai ai cũng được thư thả an nhàn. Tự nhiên Bằng cảm thấy
Bằng yêu nàng, yêu kẻ tỏ lòng thương hại mình, mà mình cũng tự biết ở vào tình
cảnh đáng thương.
Chữa xong, bác phó đa xích xe cho Bằng mà bảo rằng:
- Thưa ông, ông thử tra vào xem có vừa không?
Thấy ông khách lỡ đãng không đáp lại, người vợ đỡ lời:
- Thì mình cứ thử tra vào xem.
Bấy giờ Bằng mới biết cái xích đã chữa xong, quay lại nói:
- Cám ơn bác, bác đưa tôi xin.
Khi tra xích vào đĩa xe thấy vừa vặn, chàng lẩn thẩn: Giá ngắn
quá thì có phải...
Chàng không dám nghĩ trọn câu, mình tự thẹn rồi cầm ba hào ngần
ngừ nói:
- Năm mới tôi mở hàng.
Bác phó gạt phắt:
- Tôi làm giúp ông đấy, chứ vật thử là bao, mà tiền nong.
- Nhưng năm mới bác...
Người vợ cười:
- Không đâu, chúng tôi khai lò từ hôm qua rồi đó, vì hôm qua
chúng tôi đã làm cho ông bà ở trong làng một cái róng sắt.
- Vậy tôi xin cảm ơn hai bác nhé, hai bác tử tế quá.
Bằng dắt xe cáo từ xin đi, vẻ mặt buồn rầu, ngao ngán. Người
chồng đứng nhìn ra sân nói:
- Giời mưa vẫn nặng hạt mà gió thổi vẫn dữ. Hay ông hãy đến
ngồi để sưởi một lúc nữa cho ấm.
- Thôi, cám ơn bác, tôi phải đi cho kịp chuyến xe lửa hai giờ.
Người vợ đã đến ngồi bên lò ngước mắt nhìn, hỏi Bằng:
- Vậy bây giờ mấy giờ thưa ông?
Bằng rút đồng hồ túi ra xem:
- Hơn mười một giờ. Trời mưa, gió lại ngược thì đạp cố cũng
phải một giờ rưỡi mới đến Phú Thọ. Người thiếu phụ nghĩ đến cảnh mưa gió ướt át
lầy lội mà lấy làm ái ngại cho ông khách. Nàng hỏi:
- Vậy sau chuyến tàu hai giờ không còn chuyến nào nữa?
Bằng trù trừ, nửa muốn đi nửa muốn ở, nên trả lời vơ vẩn:
- Còn chuyến bốn giờ nữa.
- Thế thì ông đi chuyến ấy có hơn không? Mấy hôm nay, hôm nào
cũng gần về chiều thì giời mới hửng nắng. Vậy ông chờ một tí nữa xem.
Bằng yên lặng, nàng lại nói luôn:
- Thôi ông hãy ở lại lát nữa.
Bằng ngẫm nghĩ, rồi chép miệng nhìn nàng mỉm cời:
- Thì ở lại.
Cô phó rèn vui mừng nói một cách ngây thơ:
- Vâng, có thế chứ!
Người chồng đưa mắt liếc vợ, rồi nhìn vào mâm cơm cúng, ý muốn
nói bụng đã đói mà ăn cơm nguội. Nàng như quả quyết làm một dự định từ lâu,
quay thẳng lại nới với Bằng:
- Thưa ông, thế này thì thực không phải... Năm mới, vợ chồng
chúng tôi mời ông xơi với chúng tôi một bữa cơm rau.
Nói xong, nàng đăm đăm chờ câu trả lời. Bằng cảm lòng thành
thực của nàng, nhận lời ngay, nàng liền giục chồng:
- Mình bóc bánh chưng ra, tôi đi rán lại khúc cá, hâm lại
niêu tôm.
Bằng ngồi chờ bên lò lửa, thẫn thờ nhìn qua cửa vách ra sân
sau.
Mưa phùn vẫn lấm tấm. Một cái giậu nứa đã nát vây mẩu sân
vuông nhỏ và bóng nhoáng, như mỡ. Mái tranh tí tách nhỏ giọt theo miếng mo buộc
vào thân cây cau, một giòng nước manh mảnh chảy lanh tanh vào một cái vại sành.
Bên vại, một con gà mái ướt sướt mướt đứng ủ rũ thỉnh thoảng
lại rùng mình khàn khàn kêu se sẽ. Sát giậu mấy bông hoa hồng quế đỏ thắm rung
rinh ở đầu cành mảnh khảnh; đó là những nét chấm sắt tươi trong một cảnh toàn mầu
nâu sẫm. Ngoài ra, phong cảnh ẩn sau cái màn bụi trắng của ma bay, mịt mờ.
Một lát, cô phó rèn bưng cái mâm gỗ quang dầu, trên có đĩa cá
khô rán, đĩa cá diếc kho, đĩa tôm, đĩa dưa hành, đĩa xôi gấc, bát canh khói
thơm bay ngào ngạt. Nàng đặt mâm xuống phản mời khách:
- Rước ông lại xơi rượu.
Bằng đứng dậy nhìn mâm nói:
- Ồ! cỗ to nhỉ?
Chị phó bẽn lẽn:
- Ông cứ chế riễu. Quê mùa chúng tôi chỉ có thế.
- Không, to thực đấy chứ. Nhưng kìa, sao chỉ có một đôi đũa?
- Xin mời ông xơi trước, vợ chồng chúng tôi ăn sau.
- Ai lại thế! Nếu hai bác không cùng ngồi ăn thì tôi chả dám
nhận lời hai bác mời đâu?
Người chồng vội vã xuống bếp lấy thêm đũa bát, rồi lại cùng
ngồi lên phản. Vợ bảo chồng:
- Có rượu cúng sao mình không lấy ra thế khách?
- Ừ phải đấy, suýt nữa thì quên.
Bụng đói, trời rét, Bằng ăn ngon miệng lắm.
Thấy Bằng vì tay dính bùn cha kịp rữa cầm đũa gắp xôi, người
vợ đa mắt nhìn chồng tủm tỉm cười; nhưng lúc Bằng nhăn mặt nhắm rượu thì nàng
không thể giữ gìn được nữa, bật cười lên tiếng. Nàng chữa thẹn ngay, chữa thẹn
cho mình mà chữa thẹn cả ông khách, và nàng tìm chuyện để nói lảng một lúc lâu.
Sau một dịp cười trong trẻo nàng vờ bảo chồng:
- Hoài của mình nhỉ, còn mỗi một bánh pháo, sáng nay lại đốt
mất, không có bây giờ đem đốt mừng ông thì vui biết bao!
Bằng thì cho là chẳng có tiếng pháo nào ròn bằng tiếng cời của
nàng. Người chồng, thấy vợ cười mãi sinh ngượng, tạ lỗi cùng khách:
- Xin ông tha thứ cho, nhà tôi tính trẻ con lắm, thực là vô
phép với ông quá! Bằng nhìn người thiếu phụ, nói:
- Phải vui chứ lỵ, giữ lễ phép thì buồn chết.
Rồi ba người lại nói huyên thiên, lại cười như nắc nẻ, người
nọ đem truyện riêng ra kể với người kia, vì thế mà Bằng biết tên bác phó là Lợi,
hai mươi sáu tuổi, vợ bác là Ty, hai mươi mốt tuổi. Bác làm nghề thợ rèn đã năm
năm nay, và trước có theo lớp sơ đắng trường hàng tổng. Cướp lời chồng, Ty liến
thoắng thuật cho Bằng nghe vì sao nàng lấy anh Lợi, vừa kể nàng vừa luôn luôn
thêm những dịp cười giòn tan.
Bằng liếc ngắm đôi má hồng vì men rợi, cặp mắt nheo đuôi dài
và cái mồm hoạt động xinh xinh. Như lây cái vui giản dị, hồn nhiên của hai vợ
chồng quê, Bằng cũng đem chuyện mình ra kể: chàng đã đổ tú tài bản xứ, nhưng
chưa tìm được việc làm. Vì mồ côi cha mẹ, chàng đến ăn tết ở nhà một người chú
họ để hưởng chút lạc thú gia đình, nhưng cậy giàu chú thím và các em họ nhạt nhẽo
với chàng, nên chàng bỏ đi ngay sáng mồng hai tết.
Tâm hồn chàng là tâm hồn thi sĩ, dễ cảm động, dễ tưởng tượng,
dễ thương yêu vơ vẩn, vì đó câu chuyện của chàng như có nhiễm vẻ huyền bí đối với
bộ óc chất phát của vợ chồng bác phó.
Cơm nước xong, ba người lại ra ngồi bên lò. Thấy lửa đã tàn,
Lợi đứng dậy cầm rỏ xuống nhà lấy thêm than.
Bằng nhìn ra sân bảo Ty:
- Kìa! Trời hửng nắng thực rồi.
- Ờ nhỉ?
Hai người đều có vẻ buồn rầu, cúi nhìn than đầy tro trắng, và
cùng nghĩ đến giờ ly biệt. Kẻ đi sẽ để lại bên đường chút kỷ niệm êm đềm, người
ở sẽ thương ai trơ trọi, không thân không thích.
Lợi đem than lên, cầm cái bát mẻ xúc đổ vào lò, rồi quay lại
bảo vợ kéo bễ. Bằng đỡ lời:
- Ðể tôi kéo giúp.
Ty cười:
- Chết! Ai lại thế!
Nhanh nhẹn, nàng đã đến đứng sau ống bễ. Lợi thò tay vào gầm
phản với cái ấm sắt, bỏ chè tươi vào rồi ra vại nước. Bằng hỏi Ty:
- Ở giữa nơi đồng không, mông quạnh thế này, bác không sợ?
Ty đáp:
- Ông tính còn sợ gì? Làm chỉ đủ ăn, có của cải đâu mà lo trộm
cướp.
- Ðủ ăn thì cũng khá rồi. Vậy công việc có nhiều không bác?
- Thưa cũng đủ. Ðường này có xe ô tô hàng, các bác tài vẫn
giao công việc cho chúng tôi luôn, nay cái "doành ", cái
"láp", mai cái "bù loong ', cái "rông đền".
Bằng mỉm cời:
- Bác biết nhiều nhỉ?
- Ấy lâu ngày quen đi đấy ông ạ.
Bằng ngắm Ty, nghĩ thầm: "Hẳn là nhờ cái nhan sắc của vợ
mà bác phó rèn được các bác tài đem công lại cho".
Lợi móc quai ấm vào cái giây thép buộc từ trên cái kèo nhà rủ
xuống ngay lò than rồi quay bảo vợ:
- Kìa! mình không kéo bễ đi.
Than soạn nổ lách tách liên thanh, Bằng lấy đồng hồ ra coi. Bằng
hoảng hất kêu lên:
- Chết chửa! Gần hai giờ rồi, tôi phải về... Thôi kính chào
hai bác và cám ơn các bác đã tiếp đãi tôi quá hậu.
Người chồng nhũn nhặn:
- Thưa ông, có gì đâu mà hậu. Chúng tôi ơn ông thì có, năm
nay ông xông nhà thì chắc may mắn quanh năm.
Người vợ hỏi:
- Ông về mãi tận Hà Nội phải không?
- Phải.
- Xa xôi mà rét mớt lắm nhỉ! Nước sắp được ông thong thả một
tý, chúng tôi biếu ông một chai chè tươi nóng để đi đường uống cho ấm.
Lợi nói:
- Ông đi xe đạp thì mang làm sao được?
- Buộc vào xe chứ lỵ.
Rồi nàng ra sức kéo bễ. Chẳng bao lâu nước sôi rào xuống lò
than và hơi chè bốc lên thơm phức. Ty róc nước vào chai và lấy giây thép buộc
chắc chắn dưới yên xe đạp. Mời phút sau Bằng đã đương lủi thủi trên con đường về
tỉnh lỵ.
Trời xuân rọi xuống cảnh đồi một làn ánh sáng trong. Trên những
lá cây sim dại mọc bên vệ đường nước mưa còn đọng lại lấp lánh nh thủy tinh. Những
khóm hoa đơn lè sè mặt cỏ khoe sắc đỏ tươi, bên những cây phượng vĩ lá đều như
gọt tỉa và những khóm thanh hao lá lấm tấm điểm trên cành dài và cứng, trông tựa
cụm dương liễu tý hon.
Cảnh vẫn cảnh buổi sớm khi Bằng rời ấp Ðoan Dương ra đi,
nhưng Bằng chằng hiểu vì sao vẻ đẹp buổi sớm đã trở nên ủ rũ?
Leo một cái dốc đến giữa chừng, Bằng thấy chân chồn và lòng
chán nản, xuống xe chàng lại thở dài. Chai nước chè tơi buộc sau yên lại nhắc
chàng tới vợ chồng người thợ rèn, nhất người vợ nhanh nhẹn, xin xắn, vui cời mà
chàng còn mang hình ảnh trong tâm trí
Ðứng trên cao Bằng quay nhìn trở lại. Mấy trái đồi che khuất
túp lều tranh. Thất nhiên chàng nghĩ ngợi, chàng lên xe, đạp ngược về đường cũ.
Qua hai quãng đường vòng, chàng đã lại trông thấy nhà người
thợ rèn, thấp thoáng giữa hai gốc gạo trắng và cao. Mơ màng chàng tưởng tượng
có hai cái bóng vợ chồng ai đứng vẫy Chàng chép miệng, mỉm cười giơ tay chào lần
cuối cùng và lẩm bẩm nói:
- Chà! trên đường đời còn nhiều phen dừng bước!
Rồi chàng quay xe ra sức đạp thật mau về Phú Thọ để kịp giờ
xe hỏa, trong lòng lại vui sướng như buổi sớm, khi ở nhà người chú họ ra đi.
Là vì quên hắn mình, Bằng chỉ nghĩ tới những nguồn hạnh phúc
của nhân loại. Túp nhà tranh kia, với lò than lửa, với trái tim vàng, chàng cho
phải là một sự an ủi dịu dàng đối với hết thảy những người như chàng, lẽo đẽo
trên con đường dây lội, gió ma và khao khác được dừng bước đâu đó mà ngắm trong
chốc lát một cảnh vui tơi êm ấm khó tả.
Cô Hàng Nước
Một ngày trong những ngày đông ma phùn gió lạnh.
Ban đi xe tay từ phủ về thăm người bạn ở một làng ven bể.
Trên con đường đất ngòng ngoèo bò giữa một vùng bằng phẳng,
anh phu xe mập mạp, lực lưỡng phải nằm rạp xuống càng xe mới khiến được đôi
bánh cao su, nặng nề, lép bép lăn trong đất bùn xám cây lội.
Hai bên những ruộng còn gốc rạ thẳng tắp chạy dài về nơi chân
trười trắng đục. Như những cù lao trong biển đầy sương mù buổi sáng, lô nhô nổi
lên những lũy tre bao bọc các làng lớn nhỏ. Vượt hẳn lên cao, những ngọn cau mầu
đen phạt treo lơ lửng trên không, vì thân cây chìm lẫn trong màn ma phùn mờ
sám.
- Ði đã gần đến nơi chưa?
Anh phu xe trỏ phía trước mặt, đáp:
- Kia rồi.
Ban trông theo chỉ thấy ở giữa khoảng đồng xanh lúp ló trong
khóm chuối um tùm, một túp nhà tre lợp cói đứng xây lưng con sông, bên cạnh một
cái cầu gạch đổ nát.
Bên cầu, một cụm tre già, với những thân cây khô xác lá vàng,
nghiêng soi hình trên giòng nước.
Ban bật buồn cười:
- Có một cái quán tranh kia mà anh bảo làng Hàm đó?
- Ấy thưa thầy xe phải đổ đây, rồi thầy đi bộ vào làng chứ.
- Ði bộ vào làng? Xa hay gần?
- Thưa thầy chỉ độ hơn một thôi.
Ban nhăn nhó, khó chịu vì nỗi sắp phải đi bộ qua những bờ ruộng
nhỏ, ướt át, qua những mồ mả, gò đống rải rác khắp đồng. Khó chịu về câu trả lời
lờ mờ của anh xe: một thôi? Còn biết một thôi là bao nhiêu?
Càng xe vừa đặt lên nền nhà, dưới cái mái phên liếp chống để
che mưa, nắng, thì một câu mời, giọng trong trẻo, khiến Ban thò vội đầu nhìn
vào hàng.
Trên cái chõng tre cao dùng làm bàn, úp đầy những bát sành lỏng
chỏng. Sau chõng, một người đàn bà y phục kiểu quê, nhưng rất gọn gàng, dễ
coi, không lôi thôi hay cộc lốc như phần nhiều các bà, các cô mà Ban vừa gặp
trên đường. Ban còn đương mải ngắm nghía đôi mắt long lanh hơi xếch trong khổ
mặt trái soạn da bánh mật, thì cô hàng đã nhách đôi mắt cắn chỉ, phô hai hàm
răng đen, đều đặn, nhắc lại câu mời:
- Thưa ông hãy vào xơi chén trà nóng cho ấm bụng?
Lời nói kiểu cách của cô hàng khiến ông khách không giữ nổi
cái mỉm cười chế nhạo.
Chàng nghĩ thầm "Nếu những bát kia, cô gọi là chén thì
chắc hẳn đó là chén uống nước của Trương Phi".
Vui vẻ với cái ý so sánh vừa tìm ra được, Ban nhanh nhẹn xuống
xe, bước vào hàng.
Cái nụ cười hãy còn đứng ở cặp môi cô hàng trong khi cô tò
mò nhìn Ban phủi những hạt nước mưa bám vào áo tơi da màu cỏ úa.
Anh phu xe đã ngồi xuống cái ghế dài làm bằng gỗ có đóng bốn
chân tre vừa thở hổn hển vừa ngửa bát bảo cô hàng múc nước trà. Rồi hai tay bưng
bát nước đầy khói nóng bốc lên nghi ngút, anh ta uống sùm sụp rất kêu nghe
ngon lành lắm.
Ban muốn tìm một chỗ để ngồi: Mấy cái ghế đều ướt và lấm. Cô
hàng rất nhanh trí, đoán ngay được ý muốn của ông khách quý, đứng dậy kéo vội
chiếc chiếu ở buồng trong rồi vừa giải lên cái bệ đất gian bên, vừa đon đả mời
chào?...
- Rước ông ngồi nghỉ.
- Cám ơn cô.
Giữa lúc ấy, một bọn năm người đàn bà, vào hàng, đặt phịch gồng
gánh xuống đất rồi huyên thuyên cùng nhau trò chuyện. Tiếng nói vùng bể giọng rất
nặng và đầy những chữ vần ngang, khiến Ban phải mỉm cười. Rồi chàng ưđa mắt
so sánh mấy người ấy với cô hàng. Từ dáng điệu cho chí y phục, Ban đều thấy
khác nhau xa lắm.
Ai nấy uống cạn bát nước, năm người đàn bà lại cất gánh ra
đi. Cả đến anh phu xe, khi đã nhận được tiền trả cũng kéo xe không, đi ngược
về phía Phủ Lý.
Lúc đó, Ban thấy nụ cười không còn nở trên môi cô hàng nữa.
Chẳng biết cô đăm đăm ngồi suy nghĩ điều gì viển vông mà mắt cô ban nãy rất sắc
sảo, nhanh nhẹn, bây giờ bỗng trở nên lờ đờ, mơ mộng, xa xăm.
Lặng lẽ, Ban ra đường nhìn trời. Mưa phùn vẫn lờ mờ bao phủ,
gió lạnh vẫn thổi lạt sạt trong đám lá chuối rách, kẽo kẹt trong khóm thân tre
già, đường vắng ngắt, không người qua lại.
- Mời ông hãy ngồi nghỉ, đợi ngớt mưa đã.
Ban quay vào trong hàng:
- Từ đây vào làng Hàm, đường đất bao xa cô nhỉ?
- Ðộ ba cây số, ông vào làng Hàm làm gì vậy?
- Tôi đến thăm một người bạn.
Nụ cười ở môi cô hàng lại bắt đầu tơi nở:
- Bạn trai hay bạn gái thế, thưa ông?
Ban kinh ngạc: con gái quê cũng biết bỡn cợt đàn ông như thế,
chàng chưa từng gặp.
- Bạn trai.
Ban càng để ý nhận xét cô hàng, và thấy cô ta có vẻ mặt rất
linh hoạt, thông minh, chàng nghĩ thầm: Nếu ta đoán không sai thì hẳn cô không
phải người vùng này. Liền hỏi:
- Cô người ở đâu về đây bán hàng?
Cô hàng láu lỉnh, bắt chước tiếng mấy người đàn bà này, đáp
lại:
- Thưa ông, tôi sinh trưởng ở đây "đấy rì à".
Ban không nhịn được cười. Cô hàng nói luôn:
- Ðàn bà nhà quê vùng này hẳn chẳng bao giờ đòi bình quyền,
giải phóng.
Ban trố mắt nhìn, thì cô hàng nước lại tiếp:
- Họ chẳng có một chút học vấn gì. Trừ những người hoặc theo
cha mẹ, hoặc đi làm, đi buôn xa không kể, còn rặt một loại dốt nát, dễ đến quốc
ngữ cũng không đánh vần thông chứ đừng nói học thức nữa.
Ban vội hỏi:
- Cô thì chắc là thông quốc ngữ?
- Thưa ông, cũng đủ dùng... Kìa, chào ông Lý.
Một người đàn ông vào trạc bốn mơi tuổi, nách cắp cái ô đen
và đôi giầy da cứng, đứng ở hiên giậm mạnh chân cho đất bùn trôi đi.
- Mời ông vào xơi nước.
- Tôi chả dám, chào cô Tú. Tôi có giấy đòi lên phủ đây, ma
gió thế này mà phải lên phủ có cực không? Xe cáng lại chẳng có.
Cô hàng đa mắt sẽ nháy Ban:
- Ấy vừa có cái xe kéo ông này về, anh xe mới dắt xe đi được
vài phút, có lẽ chưa xa đâu ông Lý ạ.
Ông Lý vội vã chạy ra đường:
- Thế thì may quá, vậy để tôi đuổi theo ngay mới kịp. Xe hồi
chắc rẻ lắm đấy.
Rồi ông ta vừa rảo bước, vừa ngoái cổ lại cười nói:
- Thôi, chào cô Tú nhé!
Ban nhìn cô hàng, thấy cô đang vuốt lại món tóc mai và sửa lại
cái khăn vuông thêu hoa.
- Cô Tú lấy ông Tú?
Ðiềm nhiên cô hàng đáp:
- Nếu thế thì phải gọi là bà Tú chứ?
- Hay cô... đỗ?
- Ðỗ "bắc"?
Sự kinh ngạc của Ban lên tột điểm. Mơ màng, vì chàng có một
tâm hồn lãng mạn. Ban tưởng tượng sống trong cảnh huyền ảo thần tiên như
nhân vật trong truyện Liễu Trai Chí Dị. Một cô hàng nước có học thức? Một cô
gái quê có Tây học?
Lúc đó chàng ngắm cô Hàng, sắc đẹp tăng bội phần, nước da
bánh mật đã hây hây nhuốm màu hồng và cặp mắt, cặp môi cho chí hai đồng tiền
bên má, chàng cảm thấy đều có giấu cái thông minh kín đáo mà tinh quái ở trong.
Nhưng cô hàng đã nói tiếp:
- Ðỗ "bắc" thì quả không; ở đây, họ cho tôi là một
con chim lạ, vì tôi biết quốc ngữ, nên họ gọi đùa tôi là cô Tú đó đấy thôi. Nhưng
ông thì chắc là... ông Tú?
- Sao cô biết?
- Ðoán có đúng không, thưa ông?
- Ðúng lắm, thưa cô Tú.
Cô hàng vờ nghiêm trang:
- Ấy chết! Ai lại thế!
Một lát sau, hai người đã đem chuyện riêng kể cho nhau nghe.
Ban nói cho cô hàng biết mình đương học trường sư phạm, cô
hàng thuật với Ban rằng tên cô là Tuất, cô mồ côi cha mẹ đã hai năm nay ở đây
bán hàng nước. Giúp việc trong nhà duy có một bà lão góa với đứa cháu gái bà
ta, nhưng hai bà cháu vừa vào làng cúng giỗ.
- Cô ở đây giữa cánh đồng không mông quạnh mà cô không sợ?
- Chà! Ông tính tôi thì còn sợ ai nữa?
Lời nói cứng cáp khiến Ban đăm đăm nhìn cô hàng và càng lấy
làm lạ không hiểu cô là hạng người gì.
Ngồi lâu cũng ngượng. Ban buồn rầu hỏi thăm đường rồi từ giã
cô hàng ra đi. Cô ái ngại bảo chàng:
- Trời mưa gió thế này mà ông cũng đi ?
- Phải đi chứ?
Câu trả lời hình như gợi trong trí óc cô hàng bỗng trở nên
quả quyết, có thể cho là dữ tợn đợc.
- Phải, khi đã định làm một việc thì phải mạnh bạo mà tiến
hành, có nề gì mưa gió.
* * * * *
Buổi chiều, Ban lại trở về hàng nước. Cô Tuất vui cười bảo
chàng:
- Tôi đã biết ngay rằng thế nào cũng phải thế mà!
- Sao vậy?
- Vì tôi muốn thế. Lúc ông hỏi đường tôi đã toan trả lời: Ðường
nào cũng sẽ đưa ông tới thành La Mã.
Câu nói vừa có ý nghĩa huyền bí vừa là lời bỡn cợt của một cô
tân học. Ban lo sợ vẩn vơ. Chàng coi cô hàng như một con yêu tinh hiện lên để
trêu ghẹo khách qua đường.
Lẩn thẩn chàng đứng nói một mình: Rõ chán quá có một ông bạn
thì đi vắng, trời gần tối rồi mà ở đây không quen một ai?
- Không quen một ai? Chả tôi là gì?
- Nhưng ở đây không tiện tý nào, cô có một mình.
- Tiện lắm chứ!
Cô hàng đứng dậy dọn cơm thết bạn.
Ban mỉm cười:
- Sao cô biết tôi trở lại?
- Biết lắm, biết một cách chắn chắn. Tôi đã bảo ông rằng tôi
muốn thế.
Ðêm hôm ấy bà lão và người cháu gái vẫn không trở về hàng.
Mấy tháng sau: Ban và Tuất thuê một căn phòng ở Hà Nội. Hai
người đã tự do lấy nhau. Tình lãng mạn của Ban rất hợp với tính ngộ nghĩnh và
đời huyền bí của Tuất.
Hai Cảnh Trụy Lạc
Hải cùng một người làng đã hai lợt đi suốt phố Hậu Giang mà
không sao tìm thấy nhà em. Tìm nhà người quen ở một tỉnh nhỏ vẫn là một sự khó
khăn. Ngờ là chủ đi lùng bắt con nợ, những người bị hỏi thăm chỉ có một câu trả
lời vắn tắt "không biết" dù họ biết mười mươi mặc lòng.
Chán nản, mỏi mệt, hai người ngồi nghỉ chân ở một hàng nước
bên hè, định bụng sẽ cố tìm một lần cuối cùng nữa.
- Bác Giác ạ, hay chú nó dọn nhà đi phố khác?
Người nhà quê mình bao giờ cũng tưởng như người khác,
nghĩa là chẳng tưởng gì hết.Trí thức lười biếng không nghĩ ngợi để có một ý
kiến riêng.
- Chẳng nhẽ lại chịu trở về làng.
Bà hàng nước đon đả mời chào, rồi hỏi:
- Thưa, các ông ra tỉnh có việc quan?
- Không, chúng tôi ra tìm người em.
Giác đỡ lời, hỏi:
- À bà có biết ông Hai ở đâu không?
Bà hàng ngửa mặt, đôi mắt nhăn nheo hấp háy như cố tìm trong
trí nhớ. Giác lại tiếp luôn:
- Ông hai Bản, ông ấm Bản... ông ấm Hai... Tên tục ông là Hai
Niu ấy mà... Bà có biết không?
Hai người nhìn chòng chọc vào cặp môi cắn chỉ của bà hàng nước
để chờ câu trả lời.
- Bà làm ơn bảo giùm.
- Ông Hai Niu? Ông ấm...
- Phải, ông Hai Niu, ông ấm Bản, ông Hai Bản.
- Thưa hai ông, thế thì tôi không biết.
Giữa lúc ấy ở đằng xa trên con đường nắng rát, loang loáng
trong bóng lá nhẹ nhàng rung động của cây soạn tây mới thấp thoáng điểm hoa tơi
đỏ, một người đàn ông kéo cái xe bò đang đi lại. Trên xe một người đàn bà ngồi
bên đống thuổng, cuốc, quang, thúng, nghêu ngao ngâm kiều:
Lơ thơ tơ liễu buông mành
Con oanh học nói trên cành mỉa mai
Người kéo xe luôn luôn quay lại hỏi chuyện, không nghĩ gì đến
cái nóng một buổi trưa hè im gió, oi ả, nặng nề khó thở.
Giác phe phẩy chiếc quạt rách trỏ xe bò bảo Hải:
- Ông ấm ạ, ai như...
- Ờ... ờ ai như...
Cả hai cùng không dám nói đến tên người kéo xe. Nhưng Hải
không sao giữ nổi lời cảm động buột miệng gọi:
- Hai!... chú Hai Bản!
Bản dừng lại:
- Ai gọi tôi?
Hải buồn rầu nhìn Giác. Chàng không ngờ em chàng đương sống
trong cảnh trụy lạc ấy.
Nhưng Bản nhận ra được thì vui mừng đặt vội càng xe bò xuống
hè:
- Ồ quý hóa quá! Bác ra chơi... Sao bác không lại đằng nhà?
Hải bẽn lẽn không đáp. Giác mỉm cười ngợng nghịu:
- Ấy chúng tôi đi tìm nhà ông mãi mà không thấy. Ông ở phố Hậu
Giang?
- Vâng, phố này chính là phố Hậu Giang.
Người đàn bà chắp tay chào:
- Lạy bác ạ.
- Không dám, chào thím.
- Mời bác về nhà chơi.
Hải và Giác đứng dậy ngần ngại, do dự, nhìn nhau một ìần nữa.
Bà hàng nhắc khéo tiền trầu nước:
- Bác phó hãy để hai ông ngồi chơi. Hai ông vừa sơi được mỗi
người một miếng trầu, một bát nước.
Bản cười vui vẻ:
- Thôi, bà để bác cháu về nhà nghỉ chẳng bác cháu mệt, đây tiền
trầu nước.
Bản xỉa ba trinh vào thành chõng nhà hàng, rồi thản nhiên ra
nâng càng xe bò, và giục:
- Mời bác đi.
Hải ngắm nghía em: cái áo cộc màu xanh bạc, cái quần vải thô
màu cháo lòng, hai bàn chân vôi cát bám đầy trong đôi guốc quai cao su gót mòn
gần hết. Ðối với Hải đó là những biểu hiệu trụy lạc của một đời người, và Hải
nghĩ thầm "Ta tuy cũng nghèo kiết, nhưng chẳng bao giờ chịu tự hạ như thế
kia. Vả con quan, ai lại tự hạ đi kéo xe bò... Hừ! Thà chết đói còn
hơn..."
Hải vụt nhớ đến tình cảnh nheo nhóc của mình. Vợ chàng ngược
xuôi nhì nhằng, dệt vải làm gạo, chơi ống, chơi phường để cố nuôi sống một gia
đình bảy tám miệng ăn, nhưng dầu sau, chàng cũng không đến nỗi bê tha, lụi xui
quá như em. Dầu sao chàng cũng chân giấy chân dép, khi ra đình, khi đến nhà
đám, nhà chay, chàng không để ai có thể khinh nhờn được; "Chà, thằng Bản,
tưởng nó bỏ làng ra tỉnh làm vương làm tướng gì? Thật là bêu diếu ông cha Bản
ạ!"
Cái tên Bản bỗng nhắc Hải nhớ lại cả một thời kỳ giàu có sang
trọng. Em chàng tên là Bản vì ra đời ở huyện Vụ Bản, cũng như cha mẹ chàng đặt
tên chàng là Hải, vì sinh chàng ở huyện Tiền Hải...
Mấy năm sau, vì việc rượu, cha chàng bị cách, rồi buồn quá mắc
bệnh mà chết. Từ đó, ba mẹ con vẫn sống trong cảnh phong lưu như xưa, vẫn kẻ
hầu, người hạ, vẫn ăn tiêu phung phí và chẳng thèm nghĩ tìm kế sinh nhai. Chỉ
có một việc là bán. Trước còn bán ruộng vườn, sau bán đến đồ đạc. Làm ma cho
mẹ xong, gia tài hai anh em khánh kiệt.
Gia tài khánh kiệt, nhưng Hải vẫn sống theo cảnh cũ. Tuy chẳng
còn tiền của đâu mà tiêu rộng rãi, song cái tính đài các chững chạc, Hải vẫn giữ
được. Ðến nỗi trong làng chẳng ai dám tưởng rằng chàng xơ xác.
Nào ai biết đâu rằng nhiều bữa vợ chồng con cái xúm nhau vào
nồi cơm ngô khoai và đĩa muối. Nào ai biết đâu rằng mấy con đi nhặt rau xam rau
dền về luộc cho cả nhà ăn. Người ta chỉ trông thấy ông ấm vận quần áo lành sạch,
mỗi khi ông ra đình hay đến chơi nhà ai, người ta chỉ trông thấy ông ngồi chễm
chệ trên sập, ung dung xoay ván bài tổ tôm, hay gật gù nhấp giọng chén chè tàu
liên tâm, người ta chỉ trông thấy bà ấm đem bát đĩa con phượng và các mâm đồng
ra rửa ở đầu cầu ao mỗi khi có khách quý đến chơi nhà, và những người láng giềng
tỏ ý thèm muốn khi đứng ngắm nghía con chim họa mi của ông ấm nhảy, hót trong
cái ông cao, quang dầu, treo bên bụi hồng đầy hoa.
Giấu giếm che đậy, nhẫn nại, chịu khổ, chịu đói để giữ thanh
danh, lúc nào Hải cũng không nhãng nghĩ đến điều đó, và năm trước, chẳng dung
được, chàng đã nhận chức đại bái và tiêu vào việc ấy hết nửa bát ống của vợ.
Những ý tưởng phức tạp lộn xộn, rối tung trong óc Hải lại đương bực về nỗi em
chàng làm cho chàng mất thể diện ở trước mặt một người làng, câu hỏi của em
dâu càng làm cho chàng bực tức thêm:
- Các cháu vẫn chơi đấy chứ, bác?
Lạnh lùng, chàng đáp:
- Phải?
° ° °
Một lát sau, mấy người về tới nhà Bản, căn nhà gạch một gian
ngăn đôi bởi bức phên liếp dán giấy nhật trình. Vợ chồng Bản mời anh và ông
khách ngồi chơi, rồi đi theo một cái cổng chung cho cả dãy nhà để cất xe bò vào
sân.
Hải đã đỡ ngượng với người làng, vì nhà em cũng sáng sủa và
bài trí cũng dễ coi: Một cái ghế ngựa quang dầu, trên tường mấy tờ tranh quảng
cáo của hiệu dầu hỏa. Hải đương ngắm nghía cái đồng hồ rỉ để trên bàn tre, và
thầm ao ước kiếm được vài đồng mua một chiếc, thì Bản đã rửa mặt rửa chân tay
và thay quần áo sạch sẽ, từ trong nhà bước ra:
- Bác đi chân hay đi xe đấy?
- Tôi đi xe chú ạ, có ba hào.
- Ờ rẻ nhỉ.
Kỳ thực, hai người đã kéo bộ ra tỉnh, nhưng quen tính giữ
gìn, Hải đã nói dối, nói dối với cả em và tuy có người làng làm chứng cho sự
nói dối ấy đứng ngay bên cạnh.
- Cái nhà này chú thuê bao nhiêu tiền?
- Thưa bác ba đồng. Chả nói giấu gì bác, trước kia tôi thuê
một gian nhà và ở chung với ba người nữa, thành thử chỉ mất có bảy hào thôi. Về
sau, nhà tôi tìm được mấy cậu học sinh ăn cơm trọ mới thuê cái nhà này. Kể
cũng kiếm được đủ ăn. Tôi thì đi làm, để cháu ở nhà nấu bếp, nhưng đã hơn
tháng nay, các cậu ấy về nghỉ hè cả, thành thử cái nhà này rộng quá. ấy chả nói
giấu gì bác...
Bản ngừng lại, quay ra bảo Giác:
- Mời bác vào rửa mặt mũi chân tay cho mát rồi xơi cơm.
Giác biết rằng anh em Hải muốn nói câu chuyện riêng, liệng lảng
ra sân sau. Bản hạ giọng nói tiếp:
- Chả nói dấu gì bác, tôi không muốn để nhà tôi ăn không ngồi
rồi, nên đã đi xin tạm cho một chân phu hồ ở chỗ tôi làm việc.
Hải trợn mắt:
- Phu hồ! Chú để thận là phu hồ?
- Vâng, bác tính chẳng gì cũng kiếm được hào rưỡi hào tám mỗi
ngày, mà công việc có khó nhọc là bao.
Hải chép miệng lắc đầu:
- Giá ở xa tận đâu thì chả nói làm gì nhưng ở ngay tỉnh nhà,
mà chú thím luộm thuộm thế, bê tha thế, tôi e lắm.
Bản cười nhưng không đáp. Chàng chẳng lạ gì tình cảnh của
anh và tánh nết anh, chàng cũng thừa biết. Chàng nghĩ thầm, cầm hết thứ nọ đến
thứ kia, hết vườn ruộng đến đồ đạc nhặt từng cái dĩa, cả ba chén trà đem đi
bán để chạy bữa ăn, như thế anh mình không cho là luộm thuộm, bê tha. Còn vợ
chồng mình, chỉ làm việc, làm việc bằng tay chân...
Hải thở dài ứa lệ bảo em:
- Chú ạ, nhà ta sa sút chóng đến thế! Lúc thầy còn làm quan,
thì chúng ta sung sướng biết bao, mà bây giờ, bây giờ.
Bản cười:
- Bác nghĩ thế, chứ tôi, tôi lại nghĩ khác. Chúng ta sinh trưởng
ở nơi giầu sang thì thuở bé mới được ăn, mặc, chơi bời sung sướng. Nếu là con
nhà khó thì chúng ta cũng đã nghèo đói khát. Ngày nay chúng ta không còn ở cảnh
giàu sang thì chúng ta đừng thiết nhớ đến thời xa nữa có hơn không.
- Ðành thế, nhưng chú bê tha quá.
Bản ngắt lời:
- Ở đời chỉ có sự lười biếng, sự ỷ lại là bê tha. Còn như
em, em không làm việc bằng trí thức, mà em làm việc bằng tay chân, thế thôi. Có
gì là bê tha đâu? Không biết bác thế nào, chứ em thì không sự gì làm cho em đau
lòng bằng ngắm cảnh một người không còn sung túc mà cứ muốn có cái hào nhoáng của
một người sung túc. Sự giả dối ấy...
- Nhưng thanh danh nhà mình?
- Nghèo khác, thanh danh khác. Yên phận nghèo làm việc để sống,
sao thanh danh ông cha ta lại vì thế mà mất hay bị tổn hại được? Em nhận ra điều
ấy ngay hôm em quả quyết bán một ít vườn ruộng, phần gia tài của em, kiếm ngót
lấy trăm bạc vốn rồi đưa vợ con ra đây, theo anh em đi làm thợ. Ngày nay phong
bao giờ phàn nàn một điều gì nữa. Vì em đã vui lòng nhận mình là một người thợ
nề chính thức sống bằng công việc chân tay, cái đời cậu ấm của em chỉ còn phảng
phất trong giấc mộng xưa. Nếu may ra, nay mai em trúng độc đắc vì em có mua số
thì em lại sống theo cái đười người có hàng vạn, chứ sao! Phải không bác?
Hải cười gợng, giọng mỉa mai:
- Phải!
Lúc đó, vợ Bạn bưng ra một mâm gỗ trên có bát canh, khói
thơm bốc lên ngào ngạt, Bản hỏi:
- Ðẻ thằng Ðá có mua thêm cái gì ăn không?
- Thầy thằng Ðá ạ, tôi đã mua thêm ba xu đậu với ba xu xáo bò
rồi đây.
Bản phá lên cười:
- Bác coi, chúng em có hoàn toàn là một cặp vợ chồng thợ thuyền
không?
Bãi Sậy Vườn Cam
Chiếc thuyền nan nhỏ đến quãng sông Thương ấy thời trời vừa
sáng. Hùng nhướn nhác trông trưước trông sau, tìm nơi trốn tránh. Vả vết thương
ở bắp chân đau trội lên làm cho Hùng đuối sức không sao cầm chắc mái chèo mà
bơi được nữa.
Ở ven hữu ngạn, một làn sậy cao và rậm lạt sạt đầy gió lạnh mọt
buổi sáng mùa đông.
Hùng lách thuyền ẩn vào đó rồi cởi áo tơi ra dùng làm chăn
trùm kín đầu nàm ngủ.
Suốt đêm chạy trốn nên thân thể chàng mỏi mệt nhừ dần. Chàng
vừa đặt mình là ngủ liền tuy chiếc thuyền nan tròng trành mỗi khi luồng gió thổi
bạt thân cây sậy, tuy vết thương chàng buộc sơ sài bằng mảnh áo lót càng nhức
tê tái hơn lên, vì máu đọng ở vai đã khô cọ vào thịt đã sưng phồng làm cho buốt
như bị đâm bởi trăm ngàn mũi dùi nhọn hoắt.
Lúc Hùng mở mắt nhìn lên hai bờ sông cao và thẳng như hai bức
tường thì mặt trời đã đứng ở ngọn một khu rừng rậm trên đồi. Hùng ngồi dậy; một
sự thống khổ mạnh hơn làm cho chàng quên hẳn chỗ đau ở bắp chân. Chàng vừa đói
vừa khát, nhất là khát.
Nưước sông Thương xanh như rêu và đục lờ lờ nhưng Hùng cũng
cúi xuống toan dùng bàn tay vốc uống. Bỗng mắt chàng đăm đăm nhìn mấy miếng vỏ
cam trôi giạt bên gốc sậy. Chàng chợt nhướ ra, khi sắp chở thuyền rẽ vào nơi ẩn
núp, chàng đã thoáng trông thấy ở phía trên một vườn trồng toàn cam.
Quanh vùng vắng ngắt. Hùng không nghe thấy một tiếng người, một
tiếng vật. Chàng lẩm bẩm nói một mình: "Lìều"! Liền kéo từng cây sậy
lần lần cho thuyền vào sát bờ. Một con đường dốc hẹp lẩn trong đám cỏ tranh um
tùm. Chừng đó trưước kia là một bến đò ngang, mà người ta đã thuyên đi nơi
khác.
Hùng lom khom cố bò lên bờ. Nhưng vết thương quá nặng chàng lại
quá dùng sức để trèo dốc, nên khi tưới đỉnh con đường khấp khểnh chàng ngất đi
nằm phục mê man bất tỉnh ở ngay bên hàng giậu nứa đan mắt cáo có rào những cành
tre gai...
Tiếng chó sủa, Hùng nghe qua giấc mộng.
Bỗng chàng thấy lành lạnh ở trán và ngửi phảng phất có mùi dầu
bạc hà. Chàng mở bừng mắt nhìn lên. Ðứng bên cạnh chàng, một thiếu nữ làn tóc vấn
sơ sài rối lòa xòa hai bên tai; và chân không tất đi đôi dép Nhật bản chéo
quai. Ðương băn khoăn mong đợi, thấy Hùng tỉnh dậy, nàng bất giác mỉm cười:
- Ông còn đau lắm không?
Hùng lim dim cặp mắt đáp lại bằng một cái gật se sẽ.
- Sao ông lại đến đây?
Không thấy người lạ trả lời, thiếu nữ yên lặng đứng bóc một
quả cam Bố hạ đa cho chàng.
- Ông ăn cho đỡ khát.
Hùng ngưước nhìn lên, đôi mắt long lanh, cặp môi nhếch một nụ
cười sung sưướng. Rồi chàng đỡ lấy những múi cam bỏ vào miệng nhai vội vàng. Ăn
như thế một lúc hết ba quả, Hùng đã thấy tỉnh táo, dễ chịu. Chàng ngồi dậy thở
khoan khoái thì thầm:
- Cám ơn cô.
- Ông ở đâu đến đây?
Hùng cúi nhìn sông, nhìn khóm sậy:
- Cô làm phúc dắt hộ tôi xuống thuyền.
- Nhưng tôi không thể để ông đi như thế này được. Bổn phận
tôi phải cứu giúp người gặp tai nạn.
Hùng lại ngưước mắt ngắm thiếu nữ. Hai giọt lệ cảm động từ từ
rơi trên gò má.
- Cô để tôi đi thôi... Tôi không thể ở lại nhà cô được.
Thiếu nữ chau mày ngẫm nghĩ:
- Sao vậy?
Hùng không đáp, đứng dậy toan đi, nhưng lại ngã gục xuống ôm
chân rên rỉ. Thiếu nữ lắc đầu:
- Ðấy ông coi, ông đau nặng lắm. ông nên ở lại ấp tôi, rồi
ngày mai hay ngày kia, bệnh ông thuyên giảm, ông sẽ đi cũng được chứ sao.
Dứt lời, nàng toan chạy gọi người nhà đỡ Hùng vào trong trại.
Nhưng Hùng vội gạt đi, vẻ mặt lo lắng, buồn bã. Thiếu nữ như đoán hiểu chàng
thuộc vào hạng người nào:
- Nếu ông không muốn để ai biết, thì cũng dễ. Tôi xin thân
đưa ông qua cổng sau vào nằm nghỉ trong nhà thóc. Ở đó sẵn có cái ổ rơm. Chìa
khóa thì riêng tôi giữ... Xin nhắc lại rằng đối vưới tôi ông chỉ là một người
khổ sở gặp tai nạn, mà bổn phận tôi bắt phải cứu giúp.
Hùng sung sướng vịn tay thiếu nữ lần từng bưước đi vào trong
vườn.
Ba hôm sau, nhờ về sự săn sóc chăm nom của Trang - tên thiếu
nữ - vết thương ở chân Hùng đã đỡ nhiều.
Căn cứ những mẩu chuyện giữa hai người, Hùng biết rằng cha mẹ
Trang, chủ cái ấp này, cùng về chơi Hà Nội, để một mình nàng ở lại coi nhà, rằng
nàng đã học hai năm ở trường sư phạm, nhưng nàng chỉ thích nghề làm vườn ruộng,
nên đã bỏ học về giúp cha mẹ.
Không khí nơi khoáng dã đã nhuộm nước da Trang một màu hồng
hào, sự cử động chân tay đã làm cho thân thể Trang trở nên đều đặn và nở nang,
nhan sắc Trang là thứ nhan sắc quê mùa rắn rỏi.
Chính nàng đã thú thật vưới Hùng rằng nàng chỉ muốn là một cô
gái quê, sống cái đời đồng áng, vườn tược, rồi nếu có thể đem chút kiến văn, học
vấn của mình ra truyền bá cho các bạn gái nơi thôn dã.
Sáng hôm nay, Hùng ngồi trong nhà thóc nhìn qua khe cửa ra vườn,
cái ý kiến viển vông lãng mạn của Trang còn làm cho chàng phi mỉm cười.
Giữa lúc ấy, bóng Trang đi đi lại lại bên những cành cam mềm
mại, nặng trĩu quả, màu áo nhung đen thấp thoáng lẫn trong sắc da cam đỏ thắm.
Có lẽ Trang biết Hùng đang ngắm nghía mình, nên dáng đi, điệu đứng nàng cố giữ
dịu dàng uyển chuyển, nên cái cười tươi và kín đáo như bông hoa đào luôn hé nở
trên cặp môi nàng. Sau cùng Hùng thấy nàng chọn cắt mấy quả cam, rồi thong thả
đi lại phía mình. Chàng vội vàng lại ổ rơm nằm, mở quyển tiểu thuyết Trang cho
mượn ra đọc, làm như là không để ý nhìn trộm nàng trong khi nàng nhởn nhơ ngoài
vườn.
Trang gõ cửa rồi mở khóa bước vào ngả đầu chào. Hùng ngồi nhỏm
dậy:
- Cô lại cho cam?
- Thưa ông, ông đã hết đau chưa?
- Thưa cô, đỡ nhiều lắm rồi. Tôi đã đi được như thường.
- Phòng chứa chật chội quá, chỉ sợ ông cuồng cẳng.
Hùng mỉm cười:
- Tôi là tù nhân của một nàng tiên.
Trang vẻ mặt nghiêm nghị, bảo chàng:
- Tôi cũng đoán rằng ông bực bội khó chịu nên đây tôi đưa chiếc
chìa khóa để phòng những khi ông muốn ra vườn dạo chơi.
- Cám ơn cô, nhưng tôi cũng sắp phải từ biệt cô để đi.
Trang buồn rầu hỏi:
- Thưa ông, ông đi đâu?
- Thưa cô, tôi cũng chưa biết đi đâu nhưng thế nào cũng phải
đi ngay.
Trang ái ngại nhìn Hùng!
- Thưa ông, có bao giờ ông lại nghĩ tới một cuộc đời yên lặng...
kín đáo không?
Câu hỏi của Trang có sức mạnh phác họa ra trước mắt Hùng một
cảnh tượng êm đềm, bằng phẳng: một khu vườn rộng trên hàng nghìn gốc cam, gốc
quít, đỏ ối những quả, một nếp nhà gạch, không nguy nga đồ sộ, nhưng sáng sủa,
rộng rãi và trong nhà một người vợ xinh đẹp, âu yếm săn sóc đến sự ăn ở của
mình, dùng hết lòng thương yêu để gây nên một cuộc hạnh phúc chung chắc chắn, vững
vàng...
Một luồng gió mạnh lọt qua khe cửa đa vào tâm hồn chàng hương
vị của cả cuộc đời phiêu bạt giang hồ.
Nàng mỉm cười tiếp:
- Chắc ông cho câu hỏi của tôi tò mò, mà hơi lạ lùng nữa?
Hùng đăm đăm nhìn Trang trả lời vơ vẩn:
- Thưa cô, không.
Thực ra, Trang đã rọi một tia do dự vào tâm hồn chàng.
Nhưng đêm hôm ấy, Hùng bỏ ra đi.
Chàng vội vàng xa lánh một cảnh êm đềm, cũng như chàng đã vội
vàng lánh một xã hội, mà ở trong lúc quá điên cuồng chàng đã trót phạm tội sát
nhân.
Con Chim Vành Khuyên
Ngày nay ngắm chim vàng khuyên tự do nhảy ngót trên cành, tôi
không khỏi bùi ngùi hối hận. Là vì tôi nhớ tới một sự thê thảm đã xảy ra.
Hôm ấy, một buổi sáng cuối thu, trời vừa bắt đầu lạnh lại
thêm có mưa phùn gió bấc trông như cảnh tháng chạp về gần tết vậy.
Chẳng biết làm gì, táy máy tôi lấy củi đốt lò sưởi ngồi nhìn
lửa cháy và nghe than nổ rắc rắc cho vui.
Sự sung sướng - cái sung sướng êm đềm, lười biếng - như cùng
khí nóng tiết ở các thớ củi ra mà theo hơi thở thấm vào trí não, tâm hồn tôi.
Ngồi gác chân lên bàn giấy, tôi mỉm cười nhìn khói thuốc lá từ từ tản man bay
lên trần, và tôi cảm thấy lòng tôi khoan khoái nhẹ nhàng.
Tôi vẫn định hút hết điếu thuốc là đi làm việc liền vì cuốn
tiểu thuyết của tôi đã mấy hôm ròng không hơn một chữ. Nhưng gần hết điếu thuốc
ấy thì lơ mơ nhưng không tưởng tới tôi đã đánh diêm hút điếu thuốc khác.
Tờ báo hôm trước, ai xem xong để mở trên bàn. Tôi uể oải đưa
tay ra với lấy. Ðọc hết trang đầu nhưng bởi tâm trí tôi đầy những sung sướng
không đâu, nên những tư tưởng ở ngoài không có lối lách vào được nữa...
Ðể mắt tới hàng chữ lớn "Có bão ở Vịnh Bắc Kỳ", thốt
nhiên, tôi nhìn cảnh mưa phùn, gió bấc, lá rơi đập vào cửa kính đóng, tiếng kêu
tý tách, và tôi tìm hiểu vì đâu trong những chuỗi ngày bình tĩnh lại bỗng xảy
ra một ngày mưa gió như kia! Há chẳng phải trận bão rớt đó chăng?
Rồi tôi nghĩ tới những người bị nạn, khổ sở; những cảnh nhà đổ
trước mắt tưởng tượng của tôi, rõ ràng hoạt động.
Bên ngoài gió thổi vù vù, màn mưa thướt tha che mờ cửa kính.
Lá vàng bay tựa những chiếc thuyền trôi giạt trên làn sóng thảm.
Trong lò lửa than âm ỉ...
Bỗng thấy tiếng chíp chíp nho nhỏ dưới chân ghế, tôi cúi nhìn
xuống: Một con chim non ướt lướt thướt đương xù lông, run lập cập.
Trong lúc mơ màng thương xót những kẻ bị khốn trong cơn giông
tố ở chốn xa xăm, lòng trắc ẩn của tôi tưởng tượng con chim ra một người thoát
nạn vào đây ẩn núp.
Tôi rón rén đưa tay ra bắt, con chim chỉ chiêm chiếp kêu mà
không bay không nhảy. Có lẽ nó sợ hãi quá, có lẽ ban nãy một cơn gió mạnh đã
phá tan ổ nó, và nó đã rơi xuống cùng với cái nệm êm ấm của mẹ nó đã làm.
Nằm trong lòng bàn tay tôi, con chim vàng khuyên, vì kẻ bị nạn
là một con chim vàng khuyên, vẫn run lẩy bẩy, vẫn kêu chiêm chiếp. Lương tâm
tôi thì thầm bảo tôi rằng tiếng kêu ấy là tiếng cám ơn của con vật ngây thơ.
Tôi lấy tờ báo gập lại dùng làm cái mền, xúc ít tro ấm trong
lò, rồi tôi đặt kẻ chịu ơn tôi nằm lên trên. Bấy giờ con chim được sưởi đã hoàn
hồn, nó không chịu nằm yên một chỗ, vừa kêu vừa nhảy dưới gầm bàn, gầm ghế.
Vì nhà có mèo, tôi sợ con chim xinh xắn kia gặp nạn một lần
thứ hai, tôi liền đứng dậy săn nó khắp trong phòng, bắt kỳ được mới nghe. Tôi
chỉ muốn nó được sống, được thoát nạn, dầu nó tưởng nhầm rằng tôi dữ tợn đuổi bắt
nó, tôi há cần chi? Thi một điếu thiện với ai, ta có e gì kẻ kia không ưa,
không muốn?
Tôi lấy cái lồng bàn nhỏ úp lên con chim, định bụng khi nào tạnh
mưa im gió, tôi sẽ thả nó lên cây. Sự làm ơn của tôi thực đã chu đáo.
Vào buổi trưa, khi trời quang đãng, khi ánh sáng một ngày thu
tốt đẹp đã trở lại rực rỡ, trong trẻo tiếng chim trưa hót, nhảy nhót trên cành,
khiến tôi nhớ tới sự giải phóng con chim vàng khuyên của tôi, chưa đủ lông đủ
cánh, chỉ biết kêu, biết nhảy, mà chẳng biết bay. Lòng sính làm phúc của tôi
nghĩ đến tìm con chim mẹ mà giao trả lại con. Song trong trí tôi hiểu ngay là
vô lý, và làm tôi phải tức cười.
Tôi liền mua một cái lồng nhỏ, thả con chim của tôi vào, chờ
vài hôm, nửa tháng, khi nó đủ sức biết bay tôi sẽ trả tự do cho nó. Thiết tưởng
cũng chẳng muộn gì...
Ở đời người làm ơn bao giờ cũng sung sướng hơn người chịu ơn.
Ðó là do lòng tự phụ của ta hay đó là một bản năng thiên nhiên của loài người để
giúp đỡ nhau trong sự bảo thủ Tôi không biết, mà tôi cũng không biết cái tính tự
phụ trong sự thi ân và cái tính tự coi mình bị khuất phục trong sự thi ân có sẵn
trong loài chim vàng khuyên chăng. Tôi chỉ biết rằng từ hôm tôi tưởng cứu sống
được một con vật yếu ớt thì tôi lấy làm sung sướng lạ lùng, còn trái lại, con
chim vàng khuyên, kẻ chịu ơn tôi, thì ra chiều tức tối giận dữ tôi lắm. Không một
lần nào, khi tôi lại gần để cho nó ăn, nó thân chào tôi bằng tiếng chiêm chiếp
ngây thơ buổi đầu gặp gỡ, nó bay nhảy huyên thuyên, đạp phá then công để tìm lối
trốn ra.
Mà tôi, thì nào tôi có vẻ dữ tợn cho cam. Tôi vẫn tươi cười,
se sẽ hút sáo, để khiến cho con chim yêu quý lầm tôi là đồng loại với nó. Thật
ra, tôi rất mến nó, tôi thương nó, tôi ân cần săn sóc nó. Tôi nghĩ hết cách,
làm hết mọi việc dù là cỏn con mà tôi đoán là sẽ làm cho nó vui lòng. Cái công
nó ở bao giờ tôi cũng lau chùi cho được sáng sủa.
Trong cái nắp hộp kem tí hon, bao giờ nước uống cũng trong sạch.
Trước kia bất cứ thứ hoa quả hay bánh mứt gì tôi đang làm thức tráng miệng cũng
được: Tôi vẫn có tính dễ dãi. Ngày nay vì con chim của tôi, tôi bảo bếp bữa cơm
nào cũng phải có chuối tiêu là thứ quà mà loài chim khuyên rất ưa, rất thích,
vì thế con chim yêu quý của tôi mỗi bữa được ăn một mẩu chuối mới, vừa thơm vừa
sạch.
Một sự lạ, nghĩa là lạ cho tôi? Tôi càng ân cần săn sóc tới
con chim bao nhiêu, nó càng tỏ lòng căm tức tôi bấy nhiêu. Buổi đầu, lúc tỳ tay
lên lan can tôi đứng sát công, tò mò ngắm nghía, nó mới đạp, nhảy, phá phách. Một
tuần sau, hễ thoáng thấy bóng tôi trong nhà bước ra hiên ra nó bắt đầu công lộn
rồi. Ðến lúc về sau tôi sinh sợ hãi nó. Lòng sợ hãi ở lòng thương kia mà ra:
Tôi không muốn vì tôi mà kẻ chịu ơn bị xây chân, rụng lông, sứt mẻ. Buổi sáng,
bắt buộc phải ra thay nước, thay chuối cho nó, tôi làm các công việc ấy rất
mau, rồi lại chạy vội vào trong nhà đứng nấp sau bức rèm ren nhìn ra.
Con chim đưa mắt nhìn quanh mình tưởng thấy bóng đêm bấy giờ
nó mới chịu ăn chịu uống.
Một tính tình trái ngược nẩy ra trong lòng tôi. Con chim xinh
đẹp càng ghét tôi, tôi lại càng yêu nó. Nửa tháng sau, tôi tưởng chừng hai
chúng tôi không thể rời nhau ra được. Tôi nhớ lời hứa của tôi, tôi nghĩ tới
ngày tôi sẽ giải phóng cho nó mà tôi buồn rầu lo lắng.
Tôi đã quen đứng sau bức rèm ren, nghe tiếng chiêm chiếp ngây
thơ của nó, thì nó nhẹ nhàng nhảy nhót trên cái cầu tre bắc trong công. Khi nó
biết bay, và giữ lời hứa tôi thả nó ra thì sao khỏi có một chỗ trống trong đời
tôi. Sáng nào cũng vậy, vừa ngủ dậy, ở trên giường bước xuống dép là tôi chạy
ra ngắm con chim của tôi trọn gần nửa giờ, vậy khi nó xa cáchtôi thì trong mẩu
đời ấy của một ngày dài đằng đẵng tôi sẽ làm cái gì?
Một buổi sáng, mở mắt thức giấc, tôi nhận thấy một sự phi thường
mới xảy ra. Mọi khi, tôi có đến gần nó mới phá phách, thế mà sáng hôm ấy, con
chim nhu mì bỗng dưng làm ầm y như điên như cuồng. Thì ra trên cây sấu, lá xanh
rũ bên hiên, có hai con chim vàng khuyên đang vui vẻ tí tách chuyền cành, nên
con chim của tôi muốn sổ công ra với bạn.
Tôi tức giận, nên đuổi hai con vật ranh đến làm mất sự bình
tĩnh và có lẽ sự sung sướng của kẻ mà tôi sẵn lòng yêu thương, săn sóc.
Trong khi ngắm cành lá um tùm, tươi tốt, rung động trong bầu
không khí trong trẻo lênh láng ánh sáng quanh minh, tôi lại quay nhìn cái lồng
trơ trọi chật hẹp không một chút mỹ thuật, mà tôi nhốt con vàng khuyên. Tôi là
kẻ xưa nay vẫn thích cảnh đồi, cảnh núi,cảnh nước chảy mây bay, cớ sao tôi lại
nhẫn tâm nhốt một con vật xinh xắn, nhanh nhẹn vào trong cái nhà tù kia được?
Tôi vụt nhớ tới, và quả quyết mở cửa công giải phóng con
chim. Thốt nhiên, tôi buông một tiếng thở dài; tôi tiếc cái thời kỳ xum họp của
chúng tôi. Thực tôi nói ra, có lẽ không ai tin, nhưng tôi đã quen coi con chim
vàng khuyên của tôi như một người bạn tôi, tôi đã làm đủ thứ để mua chuộc lòng
bạn tôi, để mong bạn tôi, không bao giờ muốn tự ý rời tôi ra, nhưng mà! mà,
than ôi! Tôi còn biết làm những gì để được bạn nhớ tới lưu luyến?
Tôi buồn rầu rút cửa công lên, rồi tôi lại vội sập cửa công
xuống. Rồi tôi thì thầm thành thật nói với con chim: "Thôi ta khất đến tuần
lễ sau."
Buổi trưa, tôi loay hoay lấy cành sấu mềm xuống, buộc vào
thân cây cọ đã sẵn có một cành khô mộc rất đẹp mà tôi cho leo từ xưa. Tôi treo
lồng chim ở đó, cho lá khô mộc rũ lòng thòng qua then tre, như thế, dẫu bị nhốt,
con chim của tôi vẫn được sống tron cảnh thiên nhiên. Ấy là vì tôi tưởng thế và
tôi tưởng chắc "bạn tôi" sẽ được vui lòng.
° ° °
Ðau đớn biết bao! Tôi hối hận biết bao! Một buổi sáng, ra
hiên coi, tôi thấy con chim vàng khuyên của tôi đã chết nằm trên những nan tre,
hai chân màu nâu thẫm giơ lên và co quắp như chân con chim quay, cái đầu tý hon
nghiêng về một bên, cặp mỏ vẫn ngậm khít và có một tia máu đen chảy ra mép. Hai
cánh nó rã rời xõa ra. Có lẽ nó mới biết bay và trong khi nó thử sức bộ cánh của
nó, nó đã quá văng mạnh mình vào then lồng đến hộc máu tươi ra đằng mồm mà chết.
Trời ơi! Có thể như thế chăng? Có thể cái vỗ cánh thứ nhất tập
bay chuyền trong lồng là nguyên nhân cái chết kia?
Trời ơi! Có thể như thế được chăng? Có thể cái ngày tôi hy vọng
được cùng con chim nhỏ của tôi mãi mãi gần nhau lại là ngày nó cùng tôi vĩnh biệt.
Phải, chiều hôm trước một người bạn chơi chim đã đến cho tôi một cách thần hiệu
để giữ con chim ở mãi với tôi mà không cần đến lồng, đến dây buộc. Tôi cứ cho
nó ăn bánh đậuxanh và dầu có thả nó ra, đến bữa nó cũng phải mò về. Thành thử
tuy được tự do bay nhảy trên cây mà với mình nó vẫn còn có tình lưu luyến.
Tôi mừng quýnh, và buổi tối, tôi đã vội ra phố hàng Bạc mua một
phong bánh đậu mùi va ni sức nức thấm qua lần giấy áo bọc ngoài.
Thế mà nó chết nó chẳng sống mà ăn bánh đậu của tôi.
Hay có tâm linh báo cho nó trước, nên nó không muốn để tôi lừa
dối?
Thế là hết, thế là từ nay mỗi sáng tôi chẳng còn núp sau cái
rèm ren, ngắm nghía nó nhảy trong lồng. Ðứng trước tử thi con chim tôi buồn rầu
bồi hồi và tôi hối hận.
Tiếng chiêm chiếp của đàn chim sâu, chim sẻ ở trên cành cây sấu
càng làm tăng tình thương xót trong lòng tôi. Sự xum họp của chúng tôi vừa được
ba tuần lễ.
Từ hôm ấy, mỗi khi ngồi bên lò sưởi, tôi lại nhớ tới buổi
sáng cuối thu, u ám gió bấc mưa phùn cái buổi bão rơi đã gợi lòng trắc ẩn của
tôi đối với nhân loại, đối với vạn vật.
Ngồi nhìn lửa cháy trong lò, nghe tiếng nổ rắc rắc tôi liên
miên nghĩ tới những sự thiện, ác của loài người.
Tôi tin rằng con người vốn sẵn có lòng tốt.
Song chỉ có lòng tốt liệu đã đủ chưa? Có khi vì bản tâm tôi tốt,
vì tôi sốt sắng làm điều thiện quá mà tôi gây nên toàn những sự tai hại, cũng
chưa biết chừng.
Ðối với con chim vàng khuyên, bản tâm tôi chỉ muốn cứu sống.
Khi lòng trắc ẩn hiện ra trong tâm hồn tôi, tôi có ngờ đâu một ngày kia nó sẽ đổi
ra tình lưu luyến. Tình lưu luyến ấy chỉ là lòng ích kỷ, nhưng nào có nghĩ tới.
Lòng tốt của tôi khiến tôi ân cần săn sóc đến sự ở sự ăn, sự
uống của con chim, tưởng như nó không còn thiếu một thứ gì. Tôi có ngờ đâu rằng
đời con chim không phải chỉ có sự ở, sự ăn, sự uống. Trời đã sinh ra nó có đôi
cánh, thì nó phải dùng để bay. Không được bay thì nó chết.
Cho hay ta muốn thi ân cùng ai mà ta không xét tới nguyện vọng,
tới lòng sở thích của người ta thì sự thi ân của ta chỉ gây nên oán, nào có ích
gì.
Nhìn lửa cháy trong lò, nghe tiếng nổ rắc rắc, tôi buồn rầu
ngẫm nghĩ
Trong Nhà Thương
Thong thả, rời rạc, buồn tẻ, rơi vào trong mưa phùn u ám hai
tiếng "Bung Boong", rơi theo những giọt nước đọng lại trên cánh đồng
khẳng kheo gần trụi.
- Năm rưỡi rồi?
- Năm rưỡi rồi.
- Hết giờ vào thăm?
- Hết giờ vào thăm.
Mấy câu hỏi và trả lời của hai người phu, một người đứng lau
sàn hiên và một người đương tưới luống vườn hoa khiến Lực buông hơi thở yếu đuối
nghĩ thầm:
- Có lẽ phải tiếng chuông nhà thờ cuối cùng trong đời ta?
Là vì Lực biết bệnh mình bắt đầu từ sáng hôm nay trở nên trầm
trọng, cảm thấy những thớ thịt dần dần tiêu như viên đường phèn lặng lẽ tan
trong cốc nước nóng.
Có lúc chàng đã phải cố gắng hết sức mới khỏi thiêm thiếp ngất
đi. Chàng yên trí rằng hễ ngất đi, hễ nhãng sống trong giây phút là chết, là hết
đời.
- Ðời!
Lực mỉm một nụ cười âm thầm, nghĩa là cặp môi chàng sẽ động đậy
và hơi há ra, cặp môi thâm tím trên bộ mặt xám xanh, với hai gò má dô cao, và
hai con mắt hết tinh thần chôn trong hai quầng đen sâu hoắm.
- Ðời!
Lực nghĩ đến những sự nhỏ nhen, khốn nạn của đời người, để khỏi
tiếc, để khỏi tiếc sống, để khỏi sự chết.
Phải, cái chết của chàng chỉ có một nghĩa thoát ly, cái sống
của chàng chỉ có một nghĩa đầy đọa. Ðời chàng có vui thú gì, còn có thể vui thú
sao được mà chàng lưu luyến nó.
Trong mấy phút, hai, ba mươi năm hiện ra trong ký ức chàng, tự
chia ra mấy thời kỳ rõ rệt.
Chàng nhớ nhất dăm năm sau cùng mà chàng đã cố quên đi, cố
xua đuổi đi, cố xóa hẳn đi. Tựa đàn ruồi bâu vào đĩa mật, quãng đời ngắn ngủi ấy
vẫn ám ảnh bám chặt lấy ý nghĩa chàng và sống lại với những mầu rực rỡ, với những
tiếng nói, câu cười, với những tính tình vui buồn, mừng lo, tức giận: những bức
hoạt động và biến đổi như treo trước mắt chàng.
Chàng thấy chàng sống trong một tòa nhà yên lặng, ở một thành
phố nhỏ yên lặng, với một người thiếu phụ xinh đẹp mà chàng yêu nồng nàn tha
thiết, yêu đắm đuối say mê như muốn trao cả linh hồn.
Người thiếu phụ ấy là con một ông bạn già làm cùng sở.
Một hôm chàng đến chơi nhà, bắt gặp đang bổ cau phơi...
Thế là chàng yêu ngay. Rồi hỏi, rồi cưới... Trời ơi hạnh phúc
của người ta phải cầu kỳ tìm ở đâu xa? Bao giờ nó cũng ở ngay trước mắt, mình
chỉ việc lưu ý đến nó, chỉ việc muốn nó là được.
Hạnh phúc dễ dãi, giản dị. Lực hưởng một cách đầy đủ hoàn
toàn, có lẽ còn sẽ hưởng mãi nếu một ngày kia chàng không ngẫu nhiên bắt được bức
thư của bạn gởi cho vợ...
Hai tiếng - Nói một ý nghĩ thì đúng hơn:
- Khốn nạn!
Thế rồi, sau nhiều trận cãi nhau, chửi nhau, đánh nhau om
xòm, người đàn bà bỏ về nhà ở với cha mẹ đẻ.
Từ đó đến nay, Lực không một cân nhắc đến, không một lần hỏi
đến vợ, mà cũng không kiện đòi ly dị. Mỗi một người ở một nơi như không ai quen
biết ai nữa.
Từ đó đến nay đã hơn ba năm nay. Hơn ba năm. Lực sống trơ trọi,
sống với một sự nhớ nhung thương tiếc, vì Lực vẫn còn yêu Minh. Có lẽ sự xa
cách làm cho tình yêu của Lực càng nồng nàn, tha thiết hơn xưa...
Và nhiều lần Lực viết cho Minh những bức thư rất dài để gọi
Minh về, nhưng mỗi lần viết xong thư, chàng lại xé vụn vất đi. Tha thứ thì vẫn
dễ. Sự khó khăn chỉ ở cách tha thứ. Phải tha thứ bằng cách nào, cho mình khỏi bị
mỉa mai, chê cười, cho lòng tha thứ của mình không bị coi như tính hèn nhát.
Nếu Minh tự ý về nhà, ăn năn chịu tội, thì không những chàng
tha tội, mà chàng còn cám ơn Minh nữa.
Nhưng biết đâu Minh không nghĩ xa xôi như Lực!
Biết đâu Minh không bị người đời mỉa mai, chê cười rằng đã khốn
nạn có ngoại tình, còn dám vác mặt về nhà chồng?
Lực nghĩ thầm: "Biết đâu hai người không cùng một tâm trạng".
Và ý nghĩ ấy làm cho chàng cảm thấy chàng yêu Minh.
Trên cái bàn con bên cạnh giường ngủ, một bông hồng hàm tiếu
cánh tươi còn đọng giọt mưa làm chàng cố hết sức lắp bắp một câu hỏi khẽ:
"Hoa hồng ngoài sân đẹp lắm?"
Tức thì người khán hộ thương hại ngắt cho chàng một bông và cắm
vào một cái lọ không.
Lực đau đớn nghiêng đầu trên gối để được ngắm nghía bông hoa.
Bông hoa vẫn tươi, sắc mịn và mát như cặp má hồng cô thiếu nữ...
Hiệu bán máy hát ở phố hàng Bông vừa cho chạy một điệu âm nhạc
du dương, êm ái...
Và lờ mờ Lực thấy hiện ra khuôn mặt Minh, vợ chàng... Chàng
sung sướng thổn thức. Hình ảnh kia một lúc một xa, một phai nhạt...
Rồi Lực ngất đi... Rồi lịm đi... Sau cái nghĩ cuối cùng:
"Thế là hết!"
° ° °
Khi Lực sống lại thì trời đã tối hẳn. Ở ngoài, gió từng cơn
rít lên và tạt mạnh những hạt mưa sắc vào cửa kính. Chàng tưởng vừa ngủ một giấc
dài.
Nghe có tiếng khóc rưng rức ở bên giường. Lực muốn ngồi dậy
xem ai, nhưng đau quá không sao nhúc nhích được mình mẩy nữa.
Ngọn đèn điện trên đỉnh màn chiếu thẳng xuống bông hoa hồng một
luồng ánh sáng chói lòe. Lực định thần nhìn kỹ mấy cánh hoa hơi rung động... Rồi
một con sâu sắc xám ngoi đầu vươn cao thân lên rướn nhìn chung quanh mình.
Lực kinh hoàng vì chàng nghe như có nhung nhúc một đàn dòi
đương đục gậm phổi chàng.
Chàng kêu ú ớ mấy tiếng. Tức thì người đầy tớ đương ngồi khóc
thúc thít ở chân giường đứng phắt dậy như có cái máy bật thẳng lên:
- Cậu ơi! cậu ơi cậu tỉnh đấy à?
Một nụ cười thoáng qua trên môi Lực. Người đầy tớ nắm chặt lấy
tay chủ vừa khóc vừa nói:
- Cậu đừng bỏ con... ở lại một mình... cậu đi.
Thấy tay chủ sẽ nắm lấy tay mình, người đầy tớ hiểu ngay, ghé
sát vào miệng Lực.
- Bật.
- Bẩm cậu, con đánh giây thép về Nghệ An rồi. Thế nào sáng
mai ông Phán cũng ra tới nơi.
- Ðược
Bật sụt sịt đưa tay lên dụi mắt rồi nhớ đến lời dặn của người
khán hộ, cầm cốc nước suối lấy thìa đổ cho chủ uống.
Giữa lúc ấy, được tin báo có người chết, ông thầy thuốc bước
vào phòng, hỏi Bật qua quít mấy câu. Rồi ông xoa đầu Lực mà bảo:
- Cố ngủ đi nhé. Sáng mai tôi tiêm cho ông một ống long não nữa
thì không việc gì hết.
Cặp mắt sắp chết đăm đăm nhìn người cứu mệnh, tỏ sự cám ơn.
- Còn phổi yếu thì đã có thuốc A B. Không lo gì hết.
Dứt lời, ông ta mỉm cười gật đầu chào rồi lặng lẽ bước ra
hiên.
Lực vẫn thừa hiểu rằng mình chết. Nhưng câu nói của thầy thuốc
bỗng có mãnh lực thổi luồng hy vọng ấm áp vào linh hồn giá lạnh của chàng.
Chàng cảm thấy gióng máu chạy mau hơn ở trong các huyết quản và chàng cố nuốt
những thìa nước suối trôi qua cuống họng bị thương.
Nhưng nhác để mắt tới bông hồng với con sâu nằm vắt ngang,
chàng lại kinh sợ, để nước suối ứa ra cả cằm.
Bật lấy khăn, cúi xuống lau cổ chủ. Lực thì thào:
- Vứt hoa đi.
Chàng phải nhắc lại một lần nữa, Bật mới hiểu mà rút bông hồng
vứt vào bồ.
Một lát sau, trong khi Bật loay hoay sắp sửa đỡ chủ trở mình
vào phía trong, thì một thiếu phụ bù lu bù loa tiến vào phòng:
- Anh Lực ơi, sao thế anh? Sao lại ra nông nỗi thế, anh.
Lực ú ớ gọi:
- Minh!
Nhưng Minh không nghe rõ.
- Anh Lực ơi, sao lúc mới ốm, anh không báo tin em biết, để
em đến hầu hạ, trông nom anh?... Khổ em chưa! Anh ốm nặng thế này mà chả có ai ở
bên cạnh săn sóc thuốc thang cho anh. Anh Lực hơi, anh có biết em là ai không,
anh có nhận được em không?
Lực sẽ gật.
- Anh Lực ơi, tội em to quá... Anh có tha thứ cho em không?
Lần thứ hai, Lực sẽ gật.
- Vâng, em vẫn biết... Anh tốt lắm, anh quân tử lắm... Thế
nào anh cũng tha tội cho em... Từ nay em ở luôn bên mình anh... Em chăm nom thuốc
thang cho anh... rồi vài hôm nữa anh khỏe, em sẽ đưa anh về nhà, nhá anh nhá?
Anh yêu em nhá? Anh đừng giận em, tội nghiệp, nhá?
Lực mỉm một nụ cười - nụ cười chết trên cặp môi chỉ còn hơi
nhúc nhích. Minh ngừng lại vài giây đặt bàn tay thơm tho, mát rượi lên trán chồng,
rồi lại nói tiếp, giọng đầy vẻ thành thực âu yếm:
- Anh Lực ạ... em Minh của anh yêu anh, thương anh, mến anh.
Em Minh của anh không thể nào sống xa anh được... Anh đừng bỏ Minh của anh...
anh đi nhá. Anh Lực nhá, anh để em góa bụa thì em cũng đến chết mất thôi, anh Lực
ạ... Vắng anh thì em sống làm gì? Ban nãy em nghe thầy em bảo anh ốm nặng, điều
trị ở nhà thương Bảo Hộ, mà em xuýt chết đi đấy anh Lực ạ. Rồi em tất tả vào hỏi
thăm anh... Em phải năn nỉ van lạy mãi người ta mới cho phép em vào thăm anh đấy,
anh Lực ạ... Sao người ta lại ác thế, anh Lực nhỉ! Sao người ta lại định ngăn cản
không cho vợ thăm chồng như thế nhỉ!
Chuông nhà thờ thong thả buông bốn tiếng... "Bung
boong", rồi kế tiếp mười hai tiếng "keng" chậm chạp, rạc rời. Một
cơn gió mạnh hét lên. Mấy chiếc lá bàng khô, có lẽ những lá cuối cùng, văng mạnh
vào cửa kính.
Lực rùng mình tưởng tượng ra tiếng gõ cửa của thần chết đến
lôi chàng đi.
Một tiếng nấc! Linh hồn chàng rời xác thịt. Nhưng nụ cười vẫn
còn lưu luyến trên cặp môi xám ngắt.
Rồi ánh sáng yếu đuối một buổi sớm mưa phùn lạnh lẽo, lạnh lẽo
rơi qua cửa kính xuống ba người: Một người chết nằm trên giường và hai người sống
quỳ dưới đất...
Có ai mở hé cửa lớn tiếng gọi:
- Ði thôi Minh!
Minh ngơ ngác nhìn.
Ðó là tình nhân của Minh đã y lời hẹn, đến đón Minh.
Thưa Chị
Ngồi nhìn các món ăn nguội lạnh, Nga buồn rầu, bực tức đợi chồng.
Đã bao lần nàng ngước mắt nhìn đồng hồ treo và lẩm bẩm tự hỏi:
- Không biết sao hôm nay về muộn thế?
Sau khoảng hai giờ, một cái ô tô rít lên, đỗ ngay trước nhà,
Nga chưa kịp hỏi xem ai thì Địch, chồng nàng, đã như một luồng gió mạnh, đẩy cửa
và bước vào trong phòng:
- Mợ bảo nó sắp va li cho tôi, mau!
Nga lạnh lùng:
- Cậu đi đâu?
Địch cau có:
- Mợ đừng hỏi tôi nữa. Vội lắm, vội lắm.
Nga vốn yêu và chiều chồng. Thấy chồng gắt thì tươi cười đứng
dậy gọi đầy tớ, rồi cùng nó xếp quần áo vào va li.
- Cậu đi bao lâu?
Địch hai tay ôm đầu ngồi lơ đãng trông qua cửa sổ. Nga ôn tồn
nhắc lại câu hỏi. Địch giật mình quay lại:
- Cái gì thế mợ?
- Cậu đi lâu hay chóng?
- Tôi đã xin mợ đừng hỏi tới tôi nữa, tôi cũng chưa biết đi
lâu hay chóng.
Nga chau mày đăm đăm nhìn Địch:
- Cậu chỉ biết có một việc là gắt. Thì cũng phải xem cậu đi
lâu hay chóng để mà xếp nhiều hay ít quần áo thay chớ.
Địch giọng hối hận:
- Tôi xin lỗi mợ, anh xin lỗi em, anh chẳng còn biết cái gì nữa...
Anh mất hết cả trí nghĩ.
Nga thoáng thấy mắt chàng đỏ ngầu và ướt lệ; nàng vừa thương
hại vừa ngờ vực:
- Cậu đi việc quan?
- Phải, phải... vâng, việc rất cần.
- Thì can chi cậu cuống cuồng lên thế? Hãy ăn cơm đã.
Địch yên lặng, không đáp, tâm trí để ở tận đâu đâu. Nga nghĩ
thầm: "Chẳng lẽ việc quan gì mà vội vàng, lo sợ, buồn phiền đến thế!... Và
làm tham tá ở buồng giấy, sao lại có việc quan phải đi xa? Chắc chồng ta giấu
ta điều gì đây".
Xếp xong hành lý... Nga bảo Địch:
- Bây giờ thì anh ăn cơm đã.
- Thôi em ăn đi, anh no lắm.
- Đã ăn gì mà no... Hay anh có điều gì phiền muộn?
Vừa nói Nga vừa vuốt ve chồng. Bỗng vô tình nàng thò tay vào
túi áo Địch lôi ra một bức điện tín. Địch toan giựt lại, Nga đã nhẩy một bước
ra và tò mò đọc:
"Lan mệt nặng, mong đợi. Lên ngay"
Một phút im lặng, hai vợ chồng nhìn nhau.
- Lan? Lan... Ai thế cậu?
Địch ngập ngừng:
- Một người...
- Một người con gái, một người tình nhân của cậu, phải không?
Phải không?
Địch cố ôn tồn lãnh đạm:
- Làm gì mà mợ hét lên thế?
Nga gào càng to:
- à, cậu đi thăm đĩ! Thế mà cậu nói dối tôi đi việc quan...!
Địch tức đỏ bừng mặt, đến gần vợ thì thầm:
- Mợ sẽ mồm chứ. Đầy tớ nó cười cho.
Nga bơ phờ, suy nghĩ. Rồi nàng bưng mặt khóc. Nàng vẫn tưởng
Địch chỉ yêu một mình nàng cũng như nàng coi Địch là người yêu độc nhất ở đời,
không phút nào để tình ái, để tư tưởng mơn trớn qua tới kẻ khác.
Địch dỗ dành, thề thốt. Nga lau nước mắt nức nở:
- Không, anh đã nói dối em một lần rồi, vì anh bảo anh đi việc
quan. Vậy chỉ có một cách khiến em tha thứ anh được là anh đem chuyện thực, đem
hết chuyện thực ra kể cho em nghe. Em cam đoan với anh rằng em sẽ không giận và
sẽ để anh đi, dù câu chuyện làm đau khổ lòng em đến đâu, em cũng xin chịu.
Địch cảm động vì những lời kính cẩn ôn tồn, nhưng chàng còn
ngần ngừ, băn khoăn nhìn vợ: trên gương mặt, lộ một vẻ buồn, hoàn toàn thành thực.
Chàng liền thở dài thuật lại đoạn tình sử:
Cách đây hơn một năm. Địch xin phép nghỉ dài hạn lên chơi Lạng
Sơn. Chàng trọ ở khách sạn. Một người bạn học cũ làm giáo sư thường rủ chàng đi
xem xét các vùng quê dân thổ.
Về sau ông giáo mời Địch đến ở nhà mình cho vui và đỡ tốn tiền
vô ích.
Gần đấy có một hiệu buôn lớn. Cô Lan, con gái chủ hiệu, có
chút nhan sắc, thứ nhan sắc mảnh khảnh, yếu đuối, sầu mộng, mơ màng. Cố nhiên,
chiều chiều qua cửa, hai anh em bạn thường liếc mắt mỉm cười. Thấy gái đẹp, ai
nỡ không ngắm nghía và khen thầm...
Ngờ đâu sự ngắm nghía khen thầm và những cái liếc mắt mỉm cười
chẳng bao lâu đã trở nên tình ái. Lan yêu Địch, yêu say mê, đắm đuối. Trước còn
thư đi thư lại, sau hẹn hò ở những nơi vắng vẻ, trên núi Tam Thanh, trên đường
Kỳ Lừa, Địch dối rằng mình là Nguyễn Văn Siêu, sinh viên năm thứ ba trường thuốc.
Nguyễn Văn Siêu không phải là một tên bịa đặt, chính là tên bạn Địch mà lúc vội
đáp lại câu hỏi của tình nhân chàng đã thốt đọc ra. Anh chị chỉ non thề biển
trong mấy tuần lễ, đinh ninh rồi sẽ lấy nhau.
Địch vẫn tưởng đùa giỡn cho đỡ buồn, trong thời kỳ đi nghỉ
mát, nhưng khi về Hà Nội chàng mới hiểu rằng "Không nên đùa với ái
tình". Câu ngạn ngữ Tây phương ấy, chàng phải mỉm cười nghĩ đến, một lần
tiếp được thư Lan gởi cho chàng qua tay người bạn học trường thuốc. Trong vòng
một năm, chàng nhận được hơn năm chục cái bức thư, nghĩa là đổ đồng tuần lễ một
bức. Chàng thì một tháng mới phúc đáp một lần, và chàng cố gọt dũa câu văn cho
cảm động cho âu yếm, xứng với những lời thành thực, nồng nàn tha thiết của Lan.
Bẩy tám tháng sau, Địch cảm động thật vì chàng thấy Lan khổ sở,
đau đớn, nhớ thương quá đỗi, nhất là chàng đã được tin Lan ốm, chẳng hạn ốm
tương tư. Từ đó, thư của Lan một ngắn một thưa, tuy lời thư càng nồng nàn, âu yếm
hơn trước.
Địch cũng toan lên Lạng thăm Lan, nhưng nấn ná mãi cho đến
hôm nay nhận được tin Lan mệt nặng, có lẽ sắp từ trần.
Địch cố lấy giọng thản nhiên, lạnh lùng kể cho vợ nghe, thêm
bớt sự thực đi đôi chút cho câu chuyện đỡ sống sượng mà khỏi làm phiền lòng
Nga, người vợ mà chàng vừa yêu, vừa kính...
Nga yên lặng, ngồi đăm đăm nhìn qua cửa sổ ra đường, tưởng
như câu chuyện tình kia không lọt vào tai nàng.
Đồng hồ đánh ba tiếng, Nga không quay lại.
- Vậy mợ ở nhà nhé, vậy em ở nhà, anh đi thăm người ta một tí
chẳng không kịp, tội nghiệp, nghĩa tử là nghĩa tận, em tha thứ cho anh vì đã
trót dại dột.
Nga vẫn ngồi im không nói, không động đậy.
Địch ghé mặt định hôn Nga, Nga se sẽ ẩy ra.
Địch đứng ngắm vợ vài giây, trong lòng do dự... Bỗng chàng thở
dài, xách va li chạy tuột ra xe, bảo tài xế mở máy.
Nghe tiếng còi ô tô, Nga giật mình nhớn nhác nhìn quanh như
người mất trí nghĩ. Vú già đến nói:
- Mời bà xơi cơm.
Nga nghiễm nhiên đứng dậy, cầm khăn bàn giật mạnh, bát canh đổ
hoen màu trắng, và mấy đĩa món ăn rơi xuống đất vỡ loảng xoảng.
Rồi nàng vào buồng, trong khi vú già, người đầy tớ trai thu dọn,
lau chùi. Một lát sau nàng đi ra xách ví, mặt hầm hầm tức giận.
° ° °
Gần bẩy giờ chiều, ô tô thuê của Địch đỗ ở trước cửa nhà Lan.
Giữa lúc ấy, một cái ô tô cũng từ từ hãm máy ngay phía sau.
Nhưng Địch không lưu ý gì hết, vội vàng mở cửa xe, nhẩy bổ ra
ngoài. Cửa xe sau cũng mở, một người thong thả bước xuống. Trời mùa đông đã tối
hẳn, hai người theo nhau như hai cái bóng đen, dưới ánh đèn điện lờ mờ, lần bực
thang gạch bước lên gác.
Đến hiên gác, gặp y sĩ, Địch giữ lại hỏi:
- Thế nào, thưa ông?
Ông kia lắc đầu.
- Hết hy vọng. Khéo lắm được đến nửa đêm.
Rồi ngắm nghía nét mặt lo lắng của người mới tới, nói tiếp;
- Ông là ông Nguyễn Văn Siêu sinh viên năm thứ tư trường thuốc.
- Vâng.
- Vậy ông vào ngay. Cô Lan mong ông từng giây từng phút.
Địch bắt tay thầy thuốc, rồi rón rén mở cửa phòng, nhưng vừa
đóng, cửa phòng lại mở ra liền. Địch quay nhìn. Nga, vợ chàng đứng ngay sau
lưng. Chàng hoảng hốt kêu:
- Trời!
Rồi đánh rơi cái va li xuống sàn gác.
Lan nằm trên giường bệnh, sẽ hỏi người mẹ ngồi bên:
- Ai đấy, mẹ?... Có phải anh Siêu đã lên không?
Nga vẫn đứng yên đó không dám tiến, không dám lùi, nhưng ngây
đờ ngắm người sắp chết, gầy xẹp như bộ xương dưới cái chăn chiên trắng, và bao
nhiêu sự ghen tuông, tức tối, thù ghét đã biến đi để nhường chỗ cho một lòng trắc
ẩn, cho một lòng nhân đạo. Thong thả Nga tiến đến bên giường. Địch sợ hãi suýt
ngã ngất. Vội vàng Nga đã lên tiếng giọng cảm động, thành thực.
- Vâng, thưa chị, anh em đã lên, anh em đã lên với chị. Em là
Nga, là em gái anh Siêu. Em sợ anh em đau đớn quá ngất đi ở giữa đường chăng,
nên em theo kèm để giữ gìn, để khuyên can.
Nga vừa nói vừa cầm lấy tay người ốm. Thấy chồng vẫn đứng sững
giữa nhà, nàng quay lại gọi:
- Kìa anh, sao không lại với chị?
Ngoan ngoãn, thong thả, Địch đến gần chào người mẹ khốn nạn,
rồi ngồi xuống một cái ghế đặt bên cạnh giường.
Lan ứa nước mắt nhìn tình nhân. Bà lão mếu máo, kể lể:
- Khổ quá, nó yêu thầy mà nó giấu tôi, mãi hôm qua nó mới thú
thực cả với tôi. Nó bảo thầy chờ thi xong rồi cưới nó làm vợ. Có thế không?
Địch lo lắng nhìn vợ. Nhưng Nga đã đổi lời, thẳng thắn đáp lại:
- Thưa cụ vâng, có thế, anh cháu đã xin được phép thầy mẹ
cháu rồi. Thầy mẹ cháu vẫn định ra giêng sẽ cùng cháu lên hỏi xin chị... Xin chị
Lan cho anh cháu...
Rồi quay nói với Lan:
- Này chị Lan, chị cố uống thuốc cho chóng khỏi để em chóng
được làm em dâu chị nhé, em nghe anh khen ngợi chị, mà em yêu chị quá, cả thầy
lẫn mẹ em cũng thế, chị ạ.
Một nụ cười yên lặng hơi hé cặp môi nhợt nhạt của người sắp từ
trần, và bàn tay Lan nắm chặt lấy tay Nga.
Nhưng Nga đã đứng dậy và thì thầm với người mẹ: "Cụ làm
ơn đưa cháu sang buồng bên nằm nghỉ một lát". Bà kia hiểu ngay rằng cô em
muốn để anh được tự tình mấy câu với con gái mình, liền cùng Nga xuống nhà dưới.
Ba ngày sau, Lan tắt nghỉ, đem theo trong giấc ngủ ngàn năm một
nụ cười sung sướng.
Chén Trà Mạn Sen
Nguyên ngồi xuống ghế tựa, đưa mắt nhìn một lượt các vật bầy
trong gian phòng ấm cúng, thân mật.
Lần đầu, chàng nhận lời đến nhà thăm cô bạn gái quen biết ở một
buổi họp nói chuyện văn chương. Nhưng gian phòng, chàng tưởng như đã bước tới
nhiều lần rồi, tuy không nhớ vào hồi nào.
Người hầu gái bưng đặt trên kỷ hai chén trà mạn sen và nói cô
chủ nàng sắp ra.
Hương trà thơm ngát càng phảng phất gợi trong ký ức những kỷ
niệm lờ mờ xa xa.
- Anh Nguyên!
Nguyên vội đứng dậy, ngả đầu chào, và đỡ bàn tay nhỏ nhắn để
bắt.
- Anh tha lỗi cho em, em để anh đợi lâu quá... mời anh xơi nước.
Nguyên cười một nụ cười vơ vẩn, ngồi xuống ghế. Giọng nói ấy,
tiếng cười ấy, chàng cũng đã nghe thấy từ mười mấy năm về trước.
Bỗng chàng chú ý đến bức hình một thiếu nữ đặt trên lò sưởi.
- Thưa cô, ảnh ai, tôi trông quen quen.
Thiếu nữ phá lên cười.
- Anh không nhận ra? ảnh ma man đấy, chụp đã gần hai mươi năm
nay, giống em thế mà anh không nhận ra được?
Nguyên lần lượt nhìn thiếu nữ và người trong ảnh.
- Nàng giống thật, giống lắm... Nhưng mà...
- Nhưng mà sao, thưa anh!
- Không.
Nguyên bưng chén trà uống cạn, rồi đứng dậy cáo biệt.
- Anh vội vàng thế! Hãy ngồi chơi đã. Ðẻ em vừa về Hà Thành
thăm em. Mẹ em biết tiếng anh nên chỉ muốn được gặp anh.
- Thưa cô, quả thực hôm nay tôi bận lắm, xin để khi khác.
- Vâng, thì anh về, nhưng xin anh một chữ ký vào tập thi này.
Thiếu nữ ra tủ rút một quyển sách vừa mua đưa cho Nguyên.
Chàng mỉm cười tự phụ của tác giả ngắm tác phẩm của mình ở trong tay cô gái đẹp.
- Cô mua? Rõ tôi vô tâm quá, chưa gửi tặng cô.
- Mua cũng thế. Nhưng anh cứ đề tặng đấy nhé, để một câu gì
thật thân mật... Mà xin anh ký tên thật cho chứ đừng ký tên biệt hiệu.
Nguyên đỡ lấy quyển sách suy nghĩ một lát rồi viết:
"Kính tặng cô Ý Lan.
Người bạn già của cô".
Ý Lan có ý không bằng lòng, lạnh lùng đưa tay bắt tay Nguyên.
Về nhà, Nguyên buồn rầu chống tay ngồi nghĩ. Trời! Thảo nào
mà chẳng ngờ ngợ. Thì ra Ý Lan là con Anh Tú.
Mười tám mười chín năm trước chàng cùng học với Tú trường cao
đẳng sư phạm. Tình bè bạn của hai người tuy rất thân mật song chỉ là tình bè bạn
và không bao giờ vượt ra ngoài giới hạn tình bè bạn.
Anh Tú là thế, mà Nguyên cũng tưởng là thế.
Mãi lúc Anh Tú lấy chồng, Nguyên mới kịp nhận ra rằng tình
yêu đã ngầm nhóm từ lâu trong tim chàng.
Rồi mỗi người đi một ngả trên đường đời. Nguyên cố quên và cố
xa lánh người bạn gái đã vô tình làm cho chàng mang một vết thương lòng.
Nhưng vết thương ấy hàn kín ngay. Ðối với người dễ quên, dễ
sướng như Nguyên, chẳng một sự thống khổ nào có thể ăn sâu vào tâm hồn được. Vì
thế, nay chàng vui với cô Tuyết, mai chàng thân với cô Lan, kia chàng chung sống
với cô Hồng. Về những bài thơ của chàng vì chàng vẫn thích chơi văn, mỗi khi gặp
duyên mới, lại hay, lại vui tươi, lại mới mẻ như hồi quen Anh Tú. Ngày nay thời
gian đã điểm bạc đầu chàng, mà lời cùng ý trong thơ của chàng vẫn trẻ, mà trái
tim của chàng vẫn không già. Ðến nỗi đứng trước các cô thiếu nữ, chàng quên hẳn
tuổi mình, và tưởng mới mười bảy mười tám như bọn họ, tựa một bầy học sinh nghịch
ngợm.
Ban nãy, chén chè mạn sen hương ngát đã nhắc chàng nhớ tới biết
bao chén trà mạn sen trong quãng đời dĩ vãng, từ chén thứ nhất ở phòng khách
nhà Anh Tú, một buổi chiều xuân đôi bạn tri kỷ ngồi nói chuyện tương lai.
Mấy hôm sau, Ý Lan viết thư khẩn khoản mời Nguyên đến chơi
ngay.
Nguyên vừa bước vào phòng khách, Ý Lan đã vội vàng giới thiệu
chàng với khắp mọi người, với bầy trẻ của nàng và cả với Anh Tú, thân mẫu nàng
nữa...
Anh Tú kinh ngạc đăm đăm nhìn Nguyên:
- Trời! Tưởng ông bạn của Ý Lan là ai té ra anh Nguyên.
Ý Lan thích chí, cười khanh khách:
- Ồ! Mẹ biết anh Nguyên?
- Lại chẳng biết!
Mặt Nguyên nóng bừng, Nguyên ấp úng chào:
- Thưa bà...
Thấy người bạn xưa ngơ ngác, Anh Tú hỏi:
- Anh quên tôi rồi?
Nguyên mỉm cười:
- Thưa bà, tôi quên thế nào được.
Anh Tú ngắm nghía bạn:
- Vẫn trẻ nhỉ?
- Thưa bà, ở đời vẫn có hạng không bao giờ già.
- Dễ thường hạng người ấy uống thuốc tiên.
- Chính thế. Thuốc tiên của họ là lòng vô tư lự.
Ý Lan cướp lời của mẹ:
- Thưa mẹ, anh Nguyên đã nhiều tuổi rồi, sao con trông còn trẻ
thế?
Nguyên mỉm cười:
- Thưa cô, cũng khá nhiều tuổi, nghĩa là gấp đôi tuổi cô.
Ý Lan kinh ngạc, kêu:
- Băm sáu?
Nguyên thản nhiên:
- Băm bảy.
Ý Lan buồn rầu, lặng lẻ nhìn Nguyên.
Rồi mấy tháng sau, Ý Lan lấy chồng.
Nguyên buồn, vì Nguyên đã bắt đầu yêu Ý Lan thắm thía, yêu đậm
đà.
Nhưng cũng như thời Anh Tú lấy chồng, cũng như thời cô Lý, cô
Liên, cô Phụng đi lấy chồng, cái buồn ấy chẳng thể mọc rễ trong trái tim chàng
được: nó cũng mau bị chàng quên, như mùa xuân tới, người ta quên mùa xuân qua.
Rồi trên con đường vô gia đình của chàng, biết đâu một ngày
kia chàng không gặp, không yêu các cô bạn gái khác, các cô Hương, cô Lý, cô
Liên, cô Phụng?
Chàng yêu, sẽ yêu cho đến ngày vĩnh biệt cõi trần, yêu cái
xinh đẹp, yêu cái dịu dàng, mềm mại lộng lẫy, rực rỡ, kiều diễm, vì tâm hồn thi
sĩ.
Rồi cũng cây hồng gặp mùa xuân nảy nở ra những bông hoa thơm,
mỗi ân ái tình hoặc tha thiết hoặc nồng nàn lại làm nảy nở dưới ngọn bút chàng
những áng thơ lời văn xinh đẹp ý tứ âu yếm, dịu dàng như chén trà mạn thoang
thoảng hương sen.
Nghĩa Cái Cười
Thanh Vân ở tòa án về trong lòng hớn hở: vui mừng; cái án ly
dị tòa xử cho nàng hoàn toàn đắc thắng: nàng được kiện; được nhà, được con...
Ðược nhà, nàng cũng chẳng cần, vì nàng giàu. Ðược nuôi con,
nàng cũng không thích, vì nàng có yêu gì thằng con mang tên họ người cha mà
nàng ghét. Nhưng nàng sung sướng, vì đã làm cho người chồng khốn nạn kia khổ sở
về đường vật chất vì nỗi khánh kiệt gia tài, khổ sở về đường tinh thần và bản
án ly dị đã phải xa lìa đứa con yêu.
Ðó là cách trả thù kẻ đã không biết làm cho nàng được hưởng hạnh
phúc vật chất của thế kỷ vật chất này. Hai năm trước, nàng lập kế biệt cư để lệnh
nửa tháng lương của chồng cũng chỉ có mục đích trả thù. Chồng nàng cáu tiết đã
xin từ chức tham tá để khỏi nộp vợ mỗi tháng chín chục đồng. Chồng nàng xin từ
chức, tức xin ly dị.
Trên con đường từ tòa án về nhà, Thanh Vân mủm mỉm cười thầm,
tưởng tới cái cảnh nghèo nàn của người chồng đáng ghét.
Về tới nhà, Thanh Vân vào phòng ngủ, khóa trái cửa lại rồi nằm
vật trên giường, cười lăn lộn, cười sặc sụa, rồi cười điên rồ, cười chảy nước mắt
nước mũi. Bỗng nàng im bặt. Nàng vừa thoáng thấy mình trong gương cái mặt dữ tợn,
bộ răng nhe ra như ác thú, cặp mắt sáng quắc, long sòng sọc như cặp mắt con diều
hâu đứng rình bắt con chim.
Nàng giật mình nghĩ thầm: "cái cười của sự sung sướng,
tàn nhẫn đến thế ư?... Hay đó chỉ là lạc thú của sự báo thù?" nét mặt bỗng
đổi ra rầu rầu, rồi nàng ngắm trong gương thấy mình xấu, thấy mình già, thấy
mình hết cả kiều mỹ của thanh niên năm nay mới hăm ba hăm bốn.
Nàng vừa sợ hãi, vừa xấu hổ đứng trang điểm rồi ung dung mở cửa
bước ra phòng ngoài.
Thốt nhiên Thanh Vân mỉm cười, vì vừa trông thấy đặt trên bàn
một tờ báo mà nàng thích đọc, tờ tuần báo. Mở tới mục "tiếng cười" ra
đọc, nàng ôm bụng cười, cười như nắc nẻ, cười ngặt nghẹo. Cái cười này khác hẳn
cái cười ban nãy, không liên lạc đến sự đau đớn của kẻ khác, không giấu một tư
tưởng châm biếm, không ngụ một ý nghĩ sâu xa, cái cười thẳng thắn của loài người.
Ðã hơn một năm nay, từ ngày bắt đầu có mục "tiếng cười"
dưới ký tên Bích Ðộng, Thanh Vân không thứ bảy nào là không đọc và không vân
nào đọc mà không cười ngất.
Những khi nhàn rỗi, ngồi buồn, nàng lại mở mục "tiếng cười"
ra đọc lại. Rồi dần dần trong lòng sinh mối cảm tình đối với tác giả. Trước còn
yêu văn, sau yêu người, chỉ ao ước được gặp mặt người đã viết lên những áng văn
vui, tình tứ ấy. Ðiều đó có lạ chi đối với những khối óc trẻ, ham yêu. Một việc
không quan hệ, một câu nói pha trò, một nụ cười ngớ ngẩn, một mảy may cũng có
thể gợi mối cảm tình trong giây phút.
Nhiều lần đọc xong, nàng gặp tờ báo lại, ngồi nghĩ vơ, nghĩ vẩn,
nghĩ tới tính nết khó chịu, dung mạo kín đáo, thái độ nghiêm khắc của chồng. Những
lúc ấy nàng cảm thấy nàng yêu nhà văn có trí thức cao sâu bao nhiêu thì nàng lại
ghét anh "chồng gàn" của nàng bấy nhiêu, cái anh chồng cả ngày chỉ cặm
cụi trên quyển sách dầy, không tưởng gì đến lạc thú.
Nhưng Bích Ðộng là ai? Thanh Vân đã làm đủ cách vẫn không biết
tên thực và hình dáng tác giả, nào hỏi dò chị em bạn, nào vờ lên tòa soạn trả
tiền. Song không bao giờ nàng gặp mặt, vì nghe như tác giả chỉ gửi bài lại nhà
báo chứ không đến đó làm việc.
Vậy Bích Ðộng là ai?
Nào phải ai? Bích Ðộng chỉ là một biệt hiệu của Văn Lâm, người
chồng ly dị của Thanh Vân.
Văn Lâm lấy Thanh Vân được một năm thì tấn bi kịch gia đình
luôn luôn khai diễn. Không phải vì thiếu tiền đâu. Có lẽ tại vì nhiều tiền quá.
Văn Lâm thấy vợ giễu và hay khoe của nên lấy làm khó chịu.
Chàng lại có tính hay nghĩ ngợi, cứ tưởng người ta cho mình
vì ham của mà lấy Thanh Vân. Rồi đối với vợ chàng sinh ra lãnh đạm, để tỏ rằng
mình không thiết tiền.
Từ lãnh đạm tới ác cảm con đường thực không xa.
Trong gia đình mà đã có sự ác cảm, chồng ác cảm vợ, vợ ác cảm
chồng, thì chỉ còn một cách là bỏ nhau.
Kể ra, Văn Lâm cũng muốn bỏ vợ cho xong chuyện đi.
Không yêu vợ nữa, chàng không nỡ để một người đàn bà kia vì
chàng mà không được hưởng hạnh phúc gia đình.
Chàng chỉ muốn buông tha người ta ra cho người ta được tự do
muốn lấy ai thì lấy. Ðã không ưa nhau thì ở với nhau làm gì?
Người vợ thì không nghĩ thế. Bỏ thì nàng vẫn quả quyết bỏ.
Nhưng nàng có ý báo thù kẻ đã tiêu diệt một đời thanh xuân của nàng. Nàng lập
tâm làm cho chồng nàng đau đớn, khổ sở khốn nạn, nàng mới hả giận.
Một sự lạ xảy ra trong đời Văn Lâm.
Từ khi vợ làm khốn đốn, chàng bỗng trở nên một người vui
tính. Mỗi tin buồn - bất cứ xa con, mất nhà - như một xúc động làm một đóa hoa
trong trí thức, trong tâm hồn chàng. Chàng vui thật chứ không phải giả dối.
Anh em bạn thân thấy chàng nô đùa luôn mồm, khôi hài luôn mồm,
chơi bời phóng đãng, thì lấy làm lo buồn, cho rằng chàng chôn sầu muộn vào
trong lạc thú cho qua thời khắc.
Rồi chàng bị quẫn bách: không công việc làm, hết tiền nuôi
thân, hết tiền trả học phí cho cháu, đứa cháu mồ côi cha mẹ.
Một hôm, bụng đói, không nhà, lang thang trên đường phố vắng,
chàng nghĩ chuyện đời mà cười tức bụng.
Bỗng một ý kiến mở ra trong trí...
Từ đầu tuần lễ ấy, trên tờ báo Thọ Hà, mỗi chiều thứ bảy, độc
giả đua nhau coi mục "tiếng cười" của chàng Bích Ðộng.
Cái cười tự tim ra chàng đăng in lên mặt báo để cùng anh em
cùng cười.
Ðó chẳng phải cách trả lời có nghĩa lý sâu xa, êm đềm đối với
sự báo thù nhỏ nhen của người vợ chăng?
Viết báo nay đối với Văn Lâm đã thành một sự cần thiết.
Mỗi một nụ cười chàng moi ở trong tim ra, ở cái đời éo le, khốn
nạn của chàng ra, chàng đem đổi lấy cơm áo cho chàng, lấy học phí cho cháu.
Nhưng sự rất lạ, rất quý, mà nụ cười ấy đã mua được, mà chàng
không ngờ tới, là ái tình của người vợ ly dị, là cái cảm tình để thù oán chàng.
Còn Thanh Vân, nàng cũng không ngờ đâu, rằng người đã làm cho
nàng vui, người đã được nàng yêu, lại chính là kẻ mà nàng ghét, mà nàng đã cố
làm cho khổ sở.
Điên
Tôi đổi về Thái Bình đã hơn hai năm, mà chưa có dịp nào trở lại
thăm nơi làm việc cũ.
Lễ Phục sinh mới rồi, nhân được nghỉ bắc cầu thêm một ngày,
tôi lên chơi Hà Nội, tình cờ gặp anh Thanh, người bạn trước cùng làm buồng giấy
với tôi ở Vĩnh Yên. Anh em mừng ôn lại chuyện cũ, những cuộc chơi xưa.
Hỏi thăm những người quen biết, khi tôi nhắc đến tên anh Mã,
anh tham Mã, thì bạn thở dài bảo tôi:
- Tội nghiệp! Nó điên đã sáu tháng nay.
Tôi kinh ngạc:
- Điên? Anh Mã điên?
Bạn tôi vẫn điềm tĩnh, nói tiếp:
- Từ ngày người bạn thân của anh ấy chết đi và anh ấy định tự
tử chết theo không được là bệnh điên phát ra liền. Hình như vì trông thấy máu
chảy, nên anh ấy bị một định kiến ám ảnh: anh ấy mơ màng thấy mình đã giết bạn,
gặp ai cũng kể việc ám sát tưởng tượng một cách rất có thứ tự, nghe như thực vậy.
May mà người ta biết anh ấy điên, nếu không có lẽ anh ấy ngồi tù.
Tôi sửng sốt hỏi:
- Lạ nhỉ? Nhưng người chết là ai thế?
- Anh Hùng. Anh Hùng chủ đồn điền mà chúng mình đã cùng anh
Mã về chơi mấy lần, anh có nhớ không?
- Tôi nhớ lắm, tôi nhớ cái tính tình hào phóng của anh Hùng;
nhớ cả người vợ rất đẹp của anh, một thiếu phụ trẻ tuổi, có học vấn, có nền
giáo dục thức thời.
Nghe bạn nhắc đến tên Hùng; thốt nhiên tôi thấy hiện ngay ra
hình ảnh tươi cười và dáng điệu nhanh nhẹn của người đàn bà ấy. Tôi hỏi:
- Anh Hùng, người khỏe mạnh, sung sướng như thế mà chết. Chết
về bệnh gì?
- Tự tử.
- Tự tử! Vô lý!
- Chẳng một mình anh cho là vô lý, mà ông thầy thuốc khám tử
thi cũng nói như vậy. Cho đến cả các báo cũng nhao lên về cái chết khả nghi ấy.
Nhưng may mà anh ấy tự tử thật, chứng cớ hiển nhiên còn đó...
Rồi anh Thanh lại đem kể cho tôi nghe đầu đuôi câu chuyện:
- Cách đây sáu tháng, một hôm vào buổi giữa trưa, bỗng nghe
có tiếng súng nổ ở nhà Hùng. Người ta chạy đến coi thấy anh Hùng nằm trên giường
ngủ, áo lót mình và khăn giải nệm hơi vấy máu, bên cạnh có một cây súng bắn
chim. Bên giường, vợ Hùng gục đầu xuống khóc. Ngồi ở một cái ghế gần đấy, Mã,
người bạn rất thân của Hùng, hai bàn tay ôm đầu có vẻ buồn rầu đau đớn.
Tài xế của Hùng lên ngay tỉnh lỵ báo tin và gọi điện thoại
cho thân phụ người chết.
Hai giờ sau ông thầy thuốc cùng ông án sát ở tỉnh về khám xét
tử thi. Thì lạ quá, cứ theo đường đi của viên đạn, người chết bị giết chớ không
phải tự tử; không phải tự tay người chết bóp cò được, phát súng phải ở tay người
khác bắn và đứng cách xa một quãng ít ra là vài thước. Ông án tạm xướng lên cái
thuyết: người chết để súng nằm trên bụng và dùng ngón chân cái ấn cò, rồi tiếng
nổ giựt mạnh quá văng súng ra một bên.
Hỏi người vợ xem có lấy cây súng ở trên thây người chết ra
không, thì nàng nói nghe tiếng nổ, mới hoảng hốt ở buồng bên chạy sang, và vẫn
thấy các vật y nguyên như thế.
Còn Mã, người bạn chí thân của Hùng, chàng chỉ ngồi khóc và ấp
úng trả lời viên thẩm phán rằng chẳng biết vì lẽ gì Hùng lại tự tử.
Hình như chàng buồn quá nên quẫn cả trí nghĩ. Đến lượt người
tài xế và người bếp, họ đều khai như nhau rằng khi tới buồng chủ, thấy chủ ngắc
ngoải sắp chết, đương thì thầm dặn dò bà Hùng và ông Mã những gì mà họ không
nghe rõ.
Người vợ có nhận là đúng, và khai thêm rằng người sắp chết
xin lỗi họ, và một mảnh giấy người chết cầm trong tay trái cũng chứng thực điều
đó. Mảnh giấy có mấy hàng ngòng ngoèo sau đây:
"Tôi xin cha tôi, vợ tôi và bạn tôi thân nhất trên đời của
tôi tha lỗi cho tôi. Vì mắc bệnh đau tim, tôi đã hèn nhát trốn nợ đời — Hùng
"
Chữ viết chính là chữ Hùng, tuy lệch lạc, dòng lên dòng xuống
như chữ người ốm nặng. Nhưng có thể cho rằng người ta lúc sắp tự tử, cảm động
quá không có can đảm để trấn tĩnh mà viết được như thường. Chữ tên ký thì thực
là nét chữ Hùng. Các nhà giám định đã thẩm tra kỹ lưỡng và đều công nhận như thế.
Chiều hôm ấy, thân phụ người chết ở Hà Nội đi ô tô lên. Bấy
giờ ông án và ông thầy thuốc sắp sửa mổ tử thi khám nghiệm, nhưng ông cụ không
muốn người ta phạm đến xác thịt con mình, cố nài xin thôi để khâm liệm, mai
táng. Ông nói cứ tin ở bức thư tuyệt mệnh của người chết cũng đủ.
Thế rồi sáng hôm sau cất đám. Trong bọn đi đưa, người ta lưu
ý nhất đến Mã. Chàng khóc lóc thảm thiết. Không ai ngờ tình bằng hữu lại thân mật
được đến như thế.
Khi chôn xong, Mã thì thầm khấn khứa rất lâu rồi vì thương
quá, ngất đi ở trên mộ. Người nhà Hùng phải khiêng về ấp. Thế là Mã lên cơn sốt,
bất tỉnh nhân sự. Ba hôm sau bệnh Mã lui thì bỗng người ta lại nghe có tiếng
súng nổ. Tiếng súng thứ hai này cách tiếng súng trước đúng bốn ngày. Có lẽ Mã
lên cơn sốt làm mê mẩn, nên đã vớ lấy súng bắn chim tự chĩa vào ngực bóp cò.
May mà tay người ốm còn yếu, cầm súng không được vững, nên viên đạn đi lệch, chỉ
sượt trái tim.
Từ đó, Mã mắc bệnh điên.
Tôi nghe câu chuyện, đăm đăm ngẫm nghĩ, trong lòng nẩy mối ngờ
vực vẩn vơ. Tôi hỏi:
- Thế bây giờ anh Mã ở đâu?
- Tôi vừa đến thăm. Anh ấy xin phép sáu tháng ăn nửa lương về
nghỉ tại Hà Nội. Nhà ở phố B... Số tám.
Tính tò mò của tôi đã lên tới cực điểm. Tôi giơ tay bắt tay
Thanh rồi vội vã lại phố B... thăm bạn cũ.
Tôi tuy làm cùng sở với Mã trong mấy năm, chúng tôi lại hợp
tính nhau lắm, nhưng tôi vẫn không biết gia thế anh ấy ra sao, mãi khi đến nhà,
tôi mới rõ anh ấy là con nhà giầu có và hình như được cha mẹ chiều chuộng lắm
thì phải.
Lúc bấy giờ, ông thân Mã đi chơi vắng. Tôi chỉ gặp có một
mình bà mẹ. Bà cụ ôn tồn mời tôi ngồi chơi rồi buồn rầu bảo tôi:
- Đã năm, sáu hôm nay, em nó không hé răng nói một lời, suốt
ngày chỉ ngồi nhìn qua cửa sổ như mơ mộng điều gì. Rõ khổ quá! Nhà tôi xưa nay
có ai mắc bệnh điên như thế bao giờ đâu?
Sau khi thuật lại một cách rất tường tận bệnh trạng của con
trong mấy tháng, bà cụ lại tiếp:
- Người ta mách tôi rằng ông lục sự Thanh Oai có bài thuốc
chuyên môn chữa bệnh điên. Tôi đã mời đến chữa cho em; ông ta bảo điên mà hay
nói thì rất nhẹ, chỉ sợ ngồi lì cả ngày không nói câu nào mà thôi. Vì thế, ít bữa
nay tôi thấy em nó bỗng như câm bặt, không chuyện trò lảm nhảm nữa mà tôi lo.
Tôi xin phép đến buồng bệnh nhân. Bà cụ bảo người nhà đưa tôi
lên một gian phòng ở trên gác.
Mã đang ngồi xem quyển tiểu thuyết chữ Pháp, thấy tôi bước
vào ngước mắt đăm nhìn.
Tôi đứng dừng lại, không vội tiến. Mã hất hàm như để hỏi tôi
việc gì. Tôi ngả đầu chào và xưng tên. Anh liền mỉm cười, đứng dậy ra bắt tay
tôi, rồi kéo tôi ngồi xuống ghế mà bảo tôi rằng:
- Được tiếp một người bạn ở Vĩnh Yên về chơi, tôi lấy làm
sung sướng quá.
Tôi đương ngờ vực câu ấy có vẻ điên vì thấy Mã quên rằng tôi
đã đổi về Thái Bình từ lâu rồi, thì anh lại tiếp luôn:
- ở đây, thấy mọi người họ đều cho tôi là điên, tôi nói gì họ
cũng không tin, nên tức mình tôi giả câm, đã năm sáu hôm nay. Rồi anh sẽ rõ tôi
điên hay lành.
Dứt lời, Mã dõng dạc cất tiếng gọi người nhà bảo pha nước,
dáng điệu khoan thai, giọng nói của một người không mất trí khôn.
Tôi đưa mắt ngắm quanh cái buồng có cửa sổ rào chấn song sắt
và so sánh với một phòng nhốt người điên ở nhà thương Phủ Doãn. Khi ta đã có định
kiến ấy, nó gợi ra trong trí ta biết bao ý tưởng giống loại với nó. Đến nỗi quyển
tiểu thuyết bạn tôi đương cầm ở tay, tôi cũng cho là phải điên rồ mới thích đọc
được.
Tôi còn mải mơ màng với những ý nghĩ viển vông thì một câu hỏi
của Mã làm tôi giật mình như người tỉnh ngủ:
- Anh còn nhớ anh Hùng không?
Tôi vờ:
- Anh Hùng nào?
- Anh Hùng chết năm, sáu tháng trước ấy mà!... Anh không xem
nhật trình hay sao mà không biết chuyện anh Hùng tự tử ở một cái đồn điền thuộc
tỉnh Vĩnh Yên? Thực ra anh ấy không tự tử đâu. Chính anh ấy bị ám sát mà kẻ ám
sát chính là tôi.
- Không, đâu phải.
- Cả anh nữa, anh cũng không tin tôi nốt! Nhưng được, dù anh
tin hay không tin tôi cũng xin anh hãy lắng tai nghe những lời tôi kể sau đây.
Rồi hình như vì thuật đi thuật lại nhiều lần, nên đã thuộc
lòng câu chuyện, Mã nói trơn tru, lời văn gọn gàng và bóng bẩy (có lẽ đó là triệu
chứng của bệnh điên chăng?):
"- Tôi là một người trọng danh dự như thế nào, anh và
các anh em bạn tôi đã biết, nhất khi danh dự lại có dính líu đến một người đàn
bà. Mà các anh cũng chẳng lạ rằng đối với bằng hữu tôi là một người rất tốt, rất
trung thành, tận tâm tận lực. Anh đừng vội cười mà cho là tôi khoe khoang, muốn
phô những nết tốt của mình ra. Không cần gì tôi phải khoe khoang, và tôi cũng
không còn được phép khoe khoang nữa kia mà, vì tôi là một kẻ sát nhân.
"Vâng, tôi không khoe khoang. Tôi phô những đức tính kia
ra nếu đó có thể gọi được là đức tính (Mã điểm một nụ cười chua chát) là chỉ cốt
để tỏ cho anh hay rằng một người như thế mà khi mê muội, khi bị ái tình nhục thể
huyền hoặc, mờ ám, cũng trở nên được một tên giết người tầm thường, đê tiện,
hèn mạt.
"Trời ơi! Có thể như thế được không? Có thể yêu vợ bạn rồi
giết chết bạn được không? Đó là ái tình ư? Không, đó là một tính cách cầm thú của
bản năng con vật ẩn núp, lẩn quất trong linh hồn con người... Khốn nạn! Đồ khốn
nạn! Sao không nhốt nó vào nhà pha! Mau! Tống cổ nó vào ngục thất mau!".
Mã lớn tiếng thét rồi hình như mất hết nghị lực, đưa hai bàn
tay lên bưng mặt khóc rưng rức, lẩm bẩm nói những gì, tôi không rõ. Tôi đứng dậy,
khép cái cửa ra cầu thang gác, sợ ở nhà ngoài, bà mẹ nghe tiếng kêu gào mà lên,
thì tôi sẽ không được nghe chuyện.
Tiếng giầy đi trên ván khiến Mã ngửng mặt lên, có lẽ tưởng
tôi bỏ ra đi. Anh vội vàng chạy theo níu tôi ngồi xuống ghế, và mỉm cười - cái
cười đầy nước mắt - bảo tôi:
- Anh phải nghe hết câu chuyện đã.
- Nhưng anh đừng hét nữa kia. Anh hét thế tôi sợ lắm, không
dám ngồi gần anh đâu.
Mã lại mỉm cười:
- Oan khổ, anh coi tôi như một thằng bé con lên ba, lên bốn.
Hoặc giả anh cho tôi là thằng điên thực. Nếu tôi điên sao không nhốt tôi vào
nhà điên, lại để tôi tự do sống như một thằng lừa dối, một thằng phản bạn, một
thằng giết người sống cái đời tự do, yên lặng của nó? Anh ạ, có lần tôi đã có
làm cho điên thực, để họ nhốt vào nhà điên vì họ không muốn bỏ tù tôi, họ không
muốn làm tội. Không những họ không tố giác tôi, họ lại còn không để tôi tự tố
cáo tôi nữa. Đã mấy lần tôi định đến sở cẩm, đến tòa án, tự đưa tay vào xích, tự
lăn mình vào lưới pháp luật, nhưng lần nào cũng bị người ta tóm được. Rồi người
ta nhốt tôi vào cái buồng kín mít này nó cũng chẳng kém gì cái nhà tù. Họ còn dọa
hễ tôi phá phách quá lắm để tìm lối trốn thoát, thì họ sẽ bỏ tôi vào cái cũi sắt
nữa kia. ấy vì thế ít khi thả lỏng tôi thế này và cho tôi được phép tiếp bạn bè
trong chốc lát. Rồi anh coi, họ sắp lên đuổi anh ra ngay bây giờ.
Tôi lo lắng nhìn cái cửa ra thang gác, nóng ruột muốn biết
câu chuyện giết người của Mã, câu chuyện có lẽ chỉ những người ngu ngốc, đần độn,
hay điên cuồng mới không tin là có thực.
"- Anh đã làm việc ở Vĩnh Yên, chắc anh cũng có biết anh
Hùng. Một người hào hiệp, thẳng thắn như anh Hùng, ai mà không quen, ai mà
không muốn gần gũi chơi bời.
"Tôi thì khác. Tôi thương mến anh Hùng ngay từ khi còn
cùng nhau theo học lớp ba trường Hàng Vôi. Tình bằng hữu một ngày một thêm
khăng khít. Rồi hai người cùng thi đậu bằng thành chung. Anh Hùng kế nghiệp
cha, ra làm đồn điền, còn tôi theo đuổi việc học tại trường Pháp Chính. Chúng
tôi mến nhau chẳng khác anh em ruột thịt. Hơn nữa, chúng tôi yêu nhau như một cặp
tình nhân vậy.
"Nhưng khổ cho chúng tôi, không may cho tình bằng hữu
thiêng liêng (anh ngừng lại một giây và gạch hai chữ thiêng liêng bằng một cái
nhếch mép độc địa, cái nhếch mép nửa giống như cười, nửa giống như mếu), không
may cho tình bằng hữu thiêng liêng của chúng tôi, anh Hùng lấy vợ. Không may nữa,
vợ anh là người... bậy bạ... lẳng lơ...
"- Trời ơi! Con thiếu phụ! Con ác phụ! Sao tôi không giết
nó? Sao tôi lại giết bạn tôi?".
Tôi nhìn ra cửa ngắt lời:
- Nếu anh còn gào thét thì tôi xin về.
Mã dịu lời:
- "Nhiều lần đến thăm anh Hùng, tôi đã nhận thấy cặp mắt
đa tình, cặp môi đa dục của nó. Tôi đoán chừng đối với anh Hùng, anh em đến
chơi đông, một phần vì anh có lòng mến khách thực, nhưng một phần cũng vì con mụ
đàn bà kia. Cái dung nhan rực rỡ, cái cười tình đằm thắm của nó, cái thân thể nở
nang, uốn éo của nó đã quyến rũ người ta, đã thôi miên người ta, đã mê hoặc người
ta.
"Anh Hùng vẫn chẳng biết gì hết. Anh yêu thương vợ anh.
Anh mê mẩn vợ anh đến nỗi chẳng nhìn thấy gì hết.
"Nhưng tôi nhìn thấy. Tôi chỉ là bạn chồng nó chứ không
phải là chồng nó. Tôi không nỡ để một người tốt như bạn tôi bị lừa dối. Tìm
cách mở mắt cho người mù vì ái tình vẫn là một việc khó, khó hơn lấy lại ánh
sáng cho một người mù thực, nhưng khó, tôi cũng không từ, không lui.
"Năm ngoái, nhân một dịp nghỉ lễ, tôi về chơi đồn điền
anh Hùng. Cố nhiên tôi gặp một lũ bạn giả dối, và trong số đó có thằng tình
nhân khốn nạn của con đàn bà khốn nạn.
"Trời ơi! Sao tôi không bắn chết hai đứa thất phu, thất
phụ ngay hôm chúng nó tư tình với nhau ở sau một đống rạ sau đồng? Sao tôi lại
để cho chúng nó thoát? Trời ơi! Nhưng tôi cũng chỉ là một thằng khốn nạn".
Lần thứ hai, tôi ngắt lời bạn:
- Kìa! Anh lại thét. Thôi tôi không nghe nữa.
- "Xin lỗi anh, nhưng tôi khốn nạn lắm kia, Con dâm phụ
thấy tôi biết chuyện bậy bạ của nó, thấy tôi rình mò, do thám nó, thì nó nghĩ
ngay ra một quỷ kế, một kế mỹ nhân.
"Nó than, nó khóc, nó kể lể, nó phàn nàn nhiều điều về
anh Hùng, nào anh ác nghiệt, cay độc, tình phụ nó, ruồng rẫy nó, hàng tháng,
hàng năm không yêu thương nó, mà nó thì nó rất thèm khát sự yêu thương...
"Rồi không biết nó nói thực hay nói dối - còn ai hiểu được
bụng nó - nó bảo ở trên này nó chỉ yêu có một người, nhưng nó không dám, nó
không thể nói cho người ấy biết được. Nó đành chôn sâu trong trái tim, trong
linh hồn khối tình tuyệt vọng.
"Thế là bắt đầu sự đê hèn của tôi! Vì tôi đã hơi tin nó.
Trời ơi! Anh Hùng ơi! Sao tôi còn vác được cái mặt dầy mà sống ở đời?"
Mã bưng mặt khóc, khóc nức nở...
Tôi chờ Mã, không thấy anh kể nốt, liền nhắc:
- Câu chuyện chỉ có thế?
Anh Mã vội vàng ngửng đầu lên, lau nước mắt trả lời:
- Nếu chỉ có thế thì còn nói gì? Nhưng nào chỉ có thế.
"Ngày tôi bắt đầu thương hại vợ bạn là ngày tôi sa chân
xuống địa ngục. Vì từ thương hại cho tới thương yêu chỉ có một bước...
"Mà bước ấy, tôi đã... qua. Anh Hùng ơi! Sao tôi khổ sở
thế này?...
"Trời ơi! Cái sắc đẹp! Cái sắc đẹp giết người!"
Tôi chau mày bảo Mã:
- Nếu anh không tĩnh tâm mà kể thì tôi hiểu sao được?
"- Phải. Tôi mê man trong ái tình, trong dục tình.
"Chiều thứ bẩy nào tôi cũng phải mò về đồn điền bạn để
tình tự với vợ bạn. Chúng tôi yêu nhau điên cuồng đến nỗi dám định cùng nhau đi
trốn. Mà bạn tôi vẫn thẳng thắn, vẫn không ngờ vực mảy may.
"Thế rồi một buổi trưa chủ nhật..."
Mã như nghẹn lời không nói được nữa. Hai hàng nước mắt chảy
ròng. Tôi rùng mình ghê sợ, toan bỏ ra về nhưng không sao đứng dậy được. Còn Mã
thì ngồi đấy không hề ngó thẳng mắt tôi nữa, buồn rầu cúi gầm xuống mà kể tiếp:
"Một buổi trưa chủ nhật, ăn cơm sáng xong, Hùng rủ tôi
đi săn. Tôi vờ nhức đầu ở lại nhà. Anh tất cũng hiểu tôi ở nhà để làm gì...
"Bỗng một nửa giờ sau, bạn tôi hình như bỏ quên vật gì,
trở về vào buồng giữa lúc bọn gian phu dâm phụ sắp phạm tội nhục thể...
"Trời ơi! Tôi làm thế nào mà xóa bỏ trong trí nhớ cái cảnh
tượng xấu xa, nhơ nhuốc ấy?
"Bạn tôi, xưa nay tính vẫn nóng nẩy, chĩa súng về phía vợ
ngồi, định bắn. Tôi nhẩy phắt ngăn lại giật lấy súng; Hùng liền vớ ngay hai con
dao treo bài trí trên tường, sấn lại chém vợ. Người vợ hình như mất hết cả can
đảm, ngồi im để chờ chết. Hai lưỡi dao sáng loáng sắp bổ xuống đầu người thiếu
phụ, thì đứng trước mặt, tôi chẳng kịp nghĩ ngợi, giương súng... bóp cò... Bạn
lăn ra đất.
"Nhưng độ mấy giây sau, bạn tôi lại ngồi dậy. Tôi tưởng
anh không việc gì, vì thấy anh men lại giường, rồi bước lên nằm duỗi thẳng cẳng
trên nệm. Tôi nhìn cái áo lót của anh có vết máu ở ngực. Anh sẽ gật, ra hiệu bảo
tôi ghé lại gần. Lúc bấy giờ tôi, một người không hồn, làm theo những lời sai
khiến của bạn như cái máy theo người vặn. Anh Hùng thì thầm:
- Lấy mảnh giấy và cái bút chì mau!
"Rồi đặt lên trên một quyển sách có bìa cứng, anh viết mấy
dòng sau này:
Tôi xin cha tôi, vợ tôi và bạn thân nhất trên đời tôi (Mã đọc
đến đây, nấc lên một tiếng, và phải ngừng lại mấy giây) tha lỗi cho tôi, vì mắc
bệnh đau tim, tôi đã hèn nhát trốn nợ đời...
"Nằm nghĩ ngợi một lát, anh lại bảo tôi nhặt hai con dao
rơi ở mặt đất treo bên giường ngay bên cạnh mình.
"Người vợ, con đàn bà khốn nạn, từ nãy vẫn gục quỳ ngay
bên cạnh và luôn luôn van lạy xin lỗi. Lúc đó có người nhà chạy lên, nhưng tôi
chẳng hề để ý tới ai hết.
"Bạn tôi hiểu rằng mình còn sống trong giây phút, cố hết
sức tàn se sẽ bảo tôi.
"Thế rồi bạn tôi tắt nghỉ...".
Có lẽ Mã đã ghi hết nghị lực để lấy giọng bình tĩnh kể đoạn
chuyện sau cùng, vừa dứt lời, anh rú lên, văng từ ghế xuống gác, kêu rầm một tiếng.
Bà mẹ ở dưới nhà tất tả chạy lên, hoảng hốt khóc lóc mếu máo:
- Khổ quá! Con tôi đã lên cơn điên rồi!
Tôi cùng một người đầy tớ khiêng Mã lên giường rồi cáo từ bà
cụ ra về, trong trí còn phảng phất lời nói mỉa mai của Mã:
"Chỉ những người ngu dốt, đần độn hay điên cuồng mới
không tin là câu chuyện có thực".
Khái Hưng
Theo http://vietnamthuquan.eu/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét