Đợi chờ
Đợi Chờ
Cây im, sông lắng đợi xuân về.
(Thế Lữ)
Linh cho ngựa phi nước kiệu lớn, qua dặng đồi cỏ tranh, hấp tấp,
vội vàng như người đi đâu có việc gì cần kíp.
Tới chỗ sông Thương lượn khúc chảy ven đường Bố Hạ, quanh một
quả đồi rộng trồng cam, Linh kìm cương, nhẹ nhàng nhảy xuống đất, buộc ngựa vào
một cây trẩu trụi gần hết lá. Đã một tuần nay, từ khi cam bắt đầu rám đỏ, sáng
sáng, dùng xong bữa điểm tâm sơ sài, Linh lên ngựa đi thăm lấy lệ mấy nơi vừa
phá hoang trồng chè, rồi phi thẳng tới đây ngồi đợi.
Chàng đợi người năm ấy. Sự mong mỏi làm rạo rực lòng chàng và
như man mác cả linh hồn vạn vật.
Vì có lúc ngắm cảnh quanh mình, chàng thấy những khóm cây yên
lặng nghiêng mình trên bờ cao, soi bóng xuống mặt nước xanh rêu không động, những
bụi lá sắc và nhọn với hàng bông trắng đứng im tăm tắp và loáng thoáng lẩn
trong không. Cả những làn mây nhạt đương lững thững trôi trên ngọn đồi xa cũng
ngập ngừng dừng lại. Hình như cùng chàng mong ngóng người xưa, cỏ cây, mây, nước
cũng trầm ngâm mong ngóng xuân về.
Tiếng chim sơn ca hót trong cỏ rậm. Linh giật mình quay nhìn
theo con đường đỏ, và cảm thấy tất cả nỗi thất vọng của một tấm lòng vơ vẩn đợi
chờ...
Nhưng qua giậu nứa đan mắt cáo, màu vỏ cam mới rám hồng vẫn
nhắc nhỏm gợi nhớ nhung.
Cách đây hai năm, và cũng trong tháng chạp. Một hôm cưỡi ngựa
đến bên sông thăm vườn cam sắp trẩy, Linh gặp một chiếc ô-tô đỗ cạnh đồi. Tưởng
đó là xe khách đến chơi và tài xế không biết lối vào trong ấp, Linh cho ngựa lại
gần, nghiêng mình nhòm qua cửa xe. Trong xe, một bà ngót năm mươi tuổi và một
thiếu nữ đầy đặn nở nang, nước da hồng hào rám nắng, mà thoạt trông chàng ví
ngay với màu da cam bắt đầu rám chín dưới luồng gió heo may.
Chàng ngồi thẳng người lên, lễ phép nói:
- Xin cụ tha lỗi cho, tôi tưởng bạn đến chơi.
Nhưng thiếu nữ rất lịch thiệp đã thò đầu ra ngoài mỉm cười
đáp lại:
- Thưa ông, me tôi không dám. Vả lầm thì ai chả có khi lầm.
Câu trả lời, Linh cho là vô vị. Song nụ cười tình tứ điểm
theo, chàng ngắm thấy ngọt như mật ong, thơm như hoa cam sành mới nở, và có
mãnh lực làm cho chàng lúng túng mất vài giây. Sự lúng túng ấy chàng che đậy bằng
một câu hỏi, giọng run run:
- Thưa cô, xe liệt máy?
Nụ cười càng tình tứ hơn, tuy đôi lông mày bán nguyệt tô thêm
chỉ hơi díu lại một cách rất nũng nịu, dễ yêu.
- Thưa ông, xe không chết máy, nhưng hết dầu xăng.
- Vậy ý hẳn bác tài đi mua dầu xăng?
- Không, anh ấy đến hàng nước kia hỏi xem có thể mua lại ở
đâu được vài lít xăng để đủ chạy từ đây đi Kép. Vậy thưa ông, ông có biết thì
xin ông làm ơn bảo giùm cho.
Linh mỉm cười:
- Ồ! Tưởng hỏng máy, chứ nếu chỉ hết dầu xăng, thì tôi xin biếu
cụ và cô.
Bà cụ sung sướng vội hỏi.
- Thưa ông, nhà ông ở gần đây?
- Thưa cụ, cũng không xa. Đây là đồn điền của tôi.
Thiếu nữ vẻ mặt ngạc nhiên.
- Đồn điền của ông? Chắc là rộng lắm!
- Thưa cô, cũng không rộng lắm, độ hai nghìn mẫu thôi.
Thiếu nữ mở cửa xe bước xuống, gọi:
- Anh tài!
Tức thì một người vận âu phục màu vàng từ trong hàng nước cạnh
bến phà đi lại. Linh xuống ngựa, nói:
- Bác cưỡi ngựa theo con đường này vào ấp bảo người nhà tôi
đưa cho một bi đông ét xăng, rồi cầm ngay ra đây...
- Thưa ông, cháu không cưỡi ngựa bao giờ.
- Chà, khó gì!
Linh ngẫm nghĩ một giây rồi chép miệng nói tiếp:
- Thôi được, để tôi đi lấy cho.
Thiếu nữ vội gạt:
- Chết thế thì phiền ông quá!
Nhưng Linh đã nhảy lên lưng ngựa, dựt cương ra về, và nháy mắt,
chàng đã biến vào trong cỏ tranh cao, rậm.
Lúc trở lại, Linh chỉ thấy người tài xế nằm ngủ trên nệm xe.
Chàng dừng lại ngồi thở, trời rét, cái áo lót của chàng ướt đẫm mồ hôi, vì
chàng đã cho ngựa phi mau quá.
Bỗng có tiếng cười nói trong vườn cam. Linh vội vàng cởi bỏ
vào trong xe cái bi-đông dầu xăng buộc sau yên, rồi cho ngựa thong thả lên đồi.
Tiếng thiếu nữ nói qua hàng giậu:
- Chúng tôi đương đợi ông ra để xin ông một quả cam.
Linh hấp tấp rẽ cương qua cửa vườn.
- Thưa cụ, cam ở đây còn chua lắm, chưa ăn được. ở trong ấp
có một ít đã thực chín rồi và ngọt lắm, xin mời cụ và cô quá bộ vào chơi.
Bà cụ từ tạ:
- Xin cảm ơn ông, chúng tôi xin về... Ông đã cho chúng tôi
vay dầu xăng?
Linh buồn rầu đưa mắt nhìn thiếu nữ:
- Thưa cụ, có dầu xăng rồi.
- Ồ! Thế thì may quá. Cảm ơn ông quá. Không có ông giúp thì mẹ
con tôi chẳng biết làm thế nào mà về được đến nhà.
- Thưa cụ, ấp cách đây có hơn hai cây số, xin mời cụ quá bộ
vào chơi. Thưa cụ, tôi ở nơi hẻo lánh này chẳng mấy khi được hân hạnh đón tiếp
khách quý.
Thiếu nữ nể lời ân cần mời mọc của chủ ấp, áy náy nhìn mẹ:
- Thưa me, hay là me vào chơi một lát cho ông chủ bằng lòng.
Vào ăn quả cam Bố Hạ rồi lại đi ngay.
Quay về phía Linh, nàng mỉm cười, láu lỉnh nói tiếp:
- Rồi ông để chúng tôi đi ngay nhé?
Linh, trên mặt lộ đầy vẻ biết ơn:
- Xin vâng.
- Vậy vào nhé, me nhé?
Bà mẹ mắng yêu con
- Ừ thì vào. Gớm chết! Cô Phụng đi đâu cô cũng la cà hết ngày
hết buổi.
Linh sung sướng chạy vội ra cửa vườn gọi tài xế.
Một giờ sau, Linh đưa Phụng đi xem khắp vườn cam, quýt, trong
khi bà mẹ ngồi nghỉ bên lò sưởi, vì đứng ở ngoài lâu chân tay bà rét buốt.
Nhờ có một nền giáo dục lịch thiệp nhận được ở trường học và ở
một gia đình theo lối mới Phụng đối với ông chủ ấp không chút ngượng ngùng, e lệ.
Nàng cười nói dễ dàng, hỏi nhiều câu mà Linh phải lấy làm kinh ngạc, tưởng các
cô thiếu nữ không bao giờ dám nghĩ tới.
Đến một gốc quít cỗi, nàng ngắt một quả rồi vờ quay đi ăn vụng.
Nhưng nàng quay lại ngay, phá lên cười và kêu:
- Bắt lấy con ăn cắp quýt cho tôi!
Linh cũng cười, nói một câu mà vừa buột miệng thốt ra, chàng
cho là rất sáo:
- Nó được hân hạnh cô chiếu cố là may cho nó.
- Vậy tôi lại muốn chiếu cố đến nó nữa.
Vừa nói Phụng vừa với một quả ở cành cao nhưng không tới.
- Cô để tôi lấy giúp.
Linh phải nhảy lên mới với được cả cành quít chĩu chịt gần chục
quả.
- Ồ phí quá, ông nhỉ?
Linh toan ngắt ra từng quả nhưng Phụng vội gạt.
- Ấy, ông cho xin cả để tôi mang về giữ làm kỷ niệm.
Hai tiếng kỷ niệm ở miệng mỹ nhân nói ra, Linh nhận thấy âu yếm,
thấm thía tâm hồn. Chàng toan đáp lại một câu tình tứ, nhưng không tìm ra được,
đành chỉ lặng lẽ mỉm cười nhìn thiếu nữ. Giữa phút thần tiên ấy, có tiếng gọi:
- Phụng, xin phép ông về thôi!
Lần đầu tiên trong đời, Linh cảm thấy tất cả cái ý nghĩa buồn
rầu, sầu thảm của chữ “về”.
- Phụng, đi về!
- Vâng, con đây.
Nàng bỏ cả nửa quả quít vào mồm nhai ngốn ngấu. Còn một nửa
có lẽ vì đãng trí, nàng đưa cho Linh:
- Trời ơi! Quít ngọt quá! Ông nếm thử mà xem.
Rồi nàng chạy vội lại chỗ mẹ.
Linh thở dài, lững thững theo sau...
Lúc xe mở máy. Linh mới chợt nhớ ra rằng chưa hỏi địa chỉ của
Phụng.
Trong một giờ được một mình ở bên người đẹp, Linh chỉ mê man
nghĩ đến hiện tại mà chàng biết rằng ngắn ngủi. Và chàng chỉ cảm thấy từng phút
từng giây đương lạnh lùng rơi vào quãng không.
Kẻ ở người đi rồi hiện tại sẽ thành dĩ vãng sẽ thành một kỷ
niệm như cành quít mà Phụng đã đem về nhà để giữ làm kỷ niệm.
Nhưng cái kỷ niệm giây phút ấy đối với Linh đã thành vĩnh viễn,
thiêng liêng.
Năm, năm, cứ đến tháng chạp khi cam ngoài vườn bắt đầu rám đỏ
dưới luồng gió heo may, Linh lại cảm thấy thân thể và tâm hồn rung chuyển. Rồi
trong vườn hiện ra hình ảnh một thiếu nữ tươi tốt, hồng hào thướt tha bên gốc
cam, gốc quít.
Linh chờ đợi, mong ngóng.
Chàng chờ đợi, mong ngóng cho tới hết mùa cam. Vì Phụng có hứa
với chàng rằng mỗi năm cứ đến mùa cam nàng sẽ lại cùng mẹ một lần lên thăm ấp của
Linh. Lời hứa ấy có lẽ Phụng đã thốt ra theo cách xã giao trong câu truyện thù ứng.
Nhưng Linh tin là lời hứa thành thực. Chàng cũng không hiểu sao chàng lại tin
như thế nhưng chàng cũng không thể không tin được.
Đã hai năm chàng chờ đợi...
Và trên bờ sông cao khóm cây vẫn yên lặng nghiêng mình soi
bóng xuống mặt nước xanh rêu không động, những bụi lau lá sắc và nhọn vẫn đứng
thẳng hàng, bông trắng loáng thoáng lẫn trong không. Và trên ngọn đồi xa, làn
mây bạc vẫn ngập ngừng dừng lại.
Cùng chàng mong ngóng người năm ấy, vạn vật trầm ngâm mong
ngóng xuân về.
Bến Hongay
Bến Hongay chìm đắm trong đêm tối.
Phía trước mặt, những cù lao đủ các hình quái dị cắt lên nền
trời đông sắc xám. Những con vật khổng lồ ấy, những con gấu, sư tử, phượng
hoàng, cá sấu ấy như vừa từ dưới nước nhô lên và nhe nanh, quắp mỏ, hùng hổ bơi
sấn vào bến mà nuốt chửng dàn thuyền gỗ nhỏ nối nhau nằm chúc đầu vào bờ, xòe
ra như cái đuôi công xòe múa.
Trên phố, trong dãy nhà tranh lụp xụp, lấp ló những ánh lửa mờ.
Riêng một hàng cơm nổi bật lên, sáng trưng, ngọn đèn bập bùng trên cái ống đồng
cao, thẳng. Cạnh cái bàn phản, và sau cái lao màn treo lủng lẳng những miếng thịt
bò, thịt trâu, những bộ lòng lợn, lòng chó, một người đứng băm xương ròn rã.
Bỗng một người đàn bà không biết ẩn ở chỗ nào lớn tiếng gào
thét rồi kể lể trách móc và luôn luôn phân vua với mọi người: “Đấy các ông các
bà coi, thế thì có tệ không?”
Bên địch cố nhịn nhưng lâu lâu lại phát cáu chửi lên mấy câu
tục tằn, văng ra đủ các thứ bẩn thỉu, hay ngộ nghĩnh khiến từng dịp cười, đáp lại
liền. Người đàn bà im rồi lại nói, rồi lại im, chừng để tìm những lời mỉa mai,
độc địa, những câu phương ngôn, tục ngữ chua cay.
Về sau, người đàn ông phẫn uất vùng vằng ra đường. Tôi đương
ngồi chờ tầu ở trong một chiếc thuyền thuê buổi sáng để đi thăm vịnh Hạ Long.
Anh lái thuyền trẻ tuổi có tính đùa nghịch cười bảo tôi:
- Thưa ông, anh chồng đấy.
Anh chồng chạy sầm sầm xuống một chiếc thuyền con, chở vội ra
xa. Tôi lo lắng, tưởng anh ta đi tự tử. Bỗng anh ta cất tiếng gọi:
- Vịt vịt, vịt vịt!
Thì ra anh chồng đi tìm vịt và vợ chồng anh ta cãi nhau vì
con vịt. Lúc bấy giờ, người vợ cũng đã tiến ra gần bờ, như để ném câu mắng nhiếc
xuống biển, đuổi theo chồng:
- Ai lại mình bận cho con đi ngủ, bảo xua mấy con vịt về, thế
mà lười chảy thây chảy xác ra, để lạc mất hai con... Thôi, nó ăn thịt rồi còn
đâu mà tìm... Rõ làm cỗ sẵn cho người ta ăn, khổ sở quá, chồng với con!...
Tiếng người chồng trả lời:
- Vịt! Vịt vịt vịt! Vịt vịt vịt.
Người vợ gào theo:
- Còn tìm à! Tìm mớ lông!
Theo liền, tiếng sào đập mặt nước và tiếng quàng quạc của hai
con vịt. Tôi bật cười, mừng cho anh chồng thoát cái nạn vợ mắng. Quả thực khi
biết tìm được hai vịt rồi, người đàn bà im hẳn. Nhưng một lát sau, thấy chồng
loanh quanh mãi vẫn không sao lừa nổi hai con vịt vào bờ, chị vợ lại lên tiếng:
- Giời ơi! Có hai con vịt ranh mà đuổi mãi không được.
Người chồng cáu hẳn:
- Mày giỏi xuống đây mà săn này!...
- Chả phải thách!
- Thấy người ta nhịn lại cứ lên nước mãi!
Ở các thuyền tiếng cười càng phá lên.
Cứ thế, trong khoảng một giờ đồng hồ, tiếng gọi vịt khi ở
phía trên, khi ở phía dưới, khi ra ngoài xa, khi vào gần bờ. Bọn người ngồi
trong thuyền vui thích coi như được xem một trò khôi hài trên sân khấu, mải miết
đến nỗi không ai để ý đến đám đánh nhau ở trong một hàng cơm.
- Bác Bê ơi, vụt cho nó chết quách rồi làm thịt ăn, tội gì mà
săn mãi.
- Phải đấy, anh Bê ạ.
- Rồi cho tôi đánh chén với nhé!
Tức thì người vợ the thé:
- Vụt chết thì sống mà ở với tôi.
Người chồng cũng chẳng vừa.
- Tao đánh chết thì phỏng mày làm gì tao, hử con Đông?
Người ngoài xui vào:
- Phải thì làm gì bác!
- Đến ăn thịt là cùng, thôi chứ gì!
Lần này tôi trông rõ hai con vịt hơi gần thuyền tôi, hai con
vịt mà từ nãy tôi cố tìm nhưng không nhìn thấy đâu tuy vẫn nghe tiếng kêu quạc
quạc. Tôi hết lòng mong mỏi cho nó lên bờ, vì tấn hài kịch kéo đã khá dài... Bỗng
từ ngoài biển săm săm đi tới một cái thuyền bồng đèn thắp sáng trưng. Tức thì
hai con vịt lại vừa kêu vừa vỗ cánh bơi ra xa.
Tôi không cười được nữa, vì tôi thương hại người chồng quá.
Nhưng trên chiếc thuyền mới tới, người ta lại không nghĩ như tôi. Nghe tiếng cười
trong trẻo, tôi nhìn sang. Ngồi ở đằng mũi hai thiếu nữ mặc quê nhưng rất gọn
gàng dễ coi và lịch sự nữa, đang hơ tay sưởi trên lửa đóm. Ánh hồng chiếu hai
gương mặt khá xinh. Tôi hỏi khẽ anh lái:
- Thuyền ai đấy?
Anh ta thì thầm đáp:
- Thuyền cụ chánh đi tuần.
- Đi tuần mà mang cả gia đình đi theo?
- Vâng. Kìa là hai cô con gái cụ chánh. Đi đông thế cho vui.
Cái thuyền của cụ chứa nổi ba mươi người mà vẫn rộng rãi.
Lúc bấy giờ, chừng thấy tôi đứng tò mò ngắm nghía, hai người
thiếu nữ dập tắt lửa, lui vào trong khoang. Tôi khen:
- Đẹp đấy chứ, anh nhỉ, hoa khôi Hồng Gai đấy phải không?
- Thưa ông bảo gì?
- Tôi bảo hai cô ấy chừng đẹp nhất Hồng Gai.
- Thưa ông thấm vào đâu! Ông chưa nhìn thấy chị Bê đây. Cái
chị mắng nhiếc chồng ấy mà. Chị mới đẹp nhất Hồng Gai.
Một tiếng còi tàu ở đằng xa. Trên bến dưới thuyền, hành khách
nhao nhao, kẻ gồng gánh, người xách đội. Nhưng ngọn đèn bảo nhấp nhô ven bờ. Tiếng
gọi nhau xuống thuyền.
Năm phút sau, chiếc tầu từ trong đêm tối hiện ra, lừ lừ đi tới,
ngọn đèn báo hiệu trên nóc, lấp lánh như ngôi sao. Thuyền xô đẩy nhau, tranh
giành ra đón khách, vì tàu đỗ tận ngoài xa.
* * * * *
Lách giữa hai bì gạo, len qua một đám người, tôi lên được từng
trên tàu. Trong phòng, cái phòng độc nhất, bốn hàng ghế đều chật ních hành
khách. Tôi xách va-li ra mũi tàu, ngồi trước buồng lái. Thấy người mại bản bấm
đèn điện chiếu xuống bến, tôi lại gần. Vẫn còn nghe thấy tiếng gọi vịt, tôi bảo
người ấy thử chiếu đèn xem hai con vật bơi ở chỗ nào. Nhưng tàu đã huýt còi
quay mũi.
Một lúc sau chỉ còn tiếng máy đều đều và tiếng kẽo kẹt của
cái khung mái tàu đã cũ.
Gió lạnh thổi dữ quá. Tôi kéo cổ áo tơi dạ cho kín tai, xụy
mũi xuống gần mắt vẫn không thấy đỡ rét, liền đứng dậy xách va-li vào phía
trong, ngồi trên ghế dài, tựa lưng vào bức bàn phong tàu. Một người đứng tuổi
trong ba người đàn bà ngồi cạnh, hỏi tôi:
- Thưa ông, ở ngoài ấy rét lắm?
- Phải, rét lắm.
- Chị em chúng tôi cũng lên ở bến Hòn Gai như ông.
Tôi vui vẻ đáp:
- Thế à?
- Có phải sáng nay ông thuê thuyền của chú Bốn đi chơi Hạ
Long không?
- Chính thế. Nếu các bà ở Hòn Gai lên thì hẳn biết chuyện đuổi
vịt nhỉ.
Cả ba cùng cười. Một người nói:
- Vợ chồng anh Bê thì ngày nào cũng phải cãi nhau một trận.
Anh ấy thương chị ấy lắm. Họ người làng tôi đấy. Chính nhà tôi rủ họ lên đây...
Cũng là một sự bất đắc dĩ...
Tôi đoán câu truyện hẳn có nhiều ủy khúc ở trong, nhất ban
nãy tôi lại được nghe anh lái Bốn cho biết rằng chị Bê là một người có nhan sắc.
Tôi liền gợi:
- Sao lại là một sự bất đắc dĩ?
- Vì không ra đây cũng không xong.
Tôi sung sướng sắp được nghe một câu truyện trên tàu. Những
truyện người ta kể trên tàu bao giờ cũng lý thú. Tôi toan hỏi thì người đàn bà
như không để ý đến tôi nữa, quay sang phía hai bạn, kể:
- “Hai bà ạ, chị Đông ấy mà? Chị ta đẹp nhất làng tôi đấy.
Năm chị ấy mười hai tuổi, ông lý cựu làng tôi hỏi chị ấy cho con. Ấy chính anh
Bê đấy.
Giá cứ cưới ngay đi thì cũng xong: hỏi vợ thì cưới liền tay,
chớ để lâu ngày lắm kẻ dèm pha. Đây thì không có kẻ dèm pha, nhưng có kẻ cuỗm mất”.
Tôi mỉm cười:
- Cuỗm mất?
- Thưa ông vâng. Năm ấy chị ta mười sáu, nhà giai vẫn chưa
xin cưới. Rồi sau chị ấy phải lòng cái ông giáo ở làng bên. Hai người mê nhau
quá đi mất cơ. Ông kia cũng nhất định đòi lấy chị Đông, nhưng nhà không cho lấy.
Mà chị Đông, chị ấy giữ gìn cũng khéo, hai bà ạ. Hai bà tính có nghén đến bốn
tháng...
- Có nghén với ông giáo?
- “Vâng. Có nghén đến bốn tháng mà chị ấy thắt bụng khéo quá,
chả ai biết sốt. Mà từ khi chị ấy có nghén, chị ấy càng chăm chỉ làm lụng cắt cỏ,
tát nước, vớt bèo, xay lúa, giã gạo, cả ngày, chẳng lúc nào ngơi. Làm thế để
người ta khỏi ngờ vực, hai bà ạ, khỏi ngờ vực rằng mình có nghén.
Thấy hơi khác ý, nhà giai xin cưới, nhưng chị ấy nằng nặc
không bằng lòng. Hai bà tính mê tít cậu giáo đi rồi còn gì. Cậu kia lại khéo
tán tỉnh, nên chị ấy vẫn cố chờ.
Mãi sau ông giáo đổi lên tỉnh, không đi lại thăm nom chị ấy nữa,
chị ấy mới ngã ngửa người ra, ngày đêm than khóc. Thế mà hai bà ạ, chị ấy vẫn
giữ kín, chẳng tiếng tai gì cả. Đến ngày mãn nguyệt khai hoa, ra đẻ giấu vào ruộng
lúa chín, rồi lại đứng lên đi về như ta đi đồng thôi ấy mà...”
Cả hai người đàn bà và tôi cùng cười ồ.
- “Hai bà ạ, thế mới biết giời sinh giời dưỡng. Người ta sống
chết có số cả. Nửa giờ sau bác xã Vọng đi chợ qua đấy trông thấy thằng bé mới đẻ
liền bế về nuôi. Thực giời cho bác ta, hai bà ạ. Bác ta chưa có con giai lại vừa
ở cữ một đứa con gái.
Thằng bé kháu quá đi mất thôi hai bà ạ, mà nó giống ông giáo
như hệt, từ cái miệng, cái mắt, cho chí cái tai. Ai thoạt trông thấy cũng nhận
ra ngay. Bác Vọng đặt tên cho nó là thằng ‘Ruộng lúa’. Thế mà, hai bà ạ, năm nó
lên ba đã biết bảo bác ta: Thầy bu đừng gọi con là thằng ‘Ruộng lúa’ gọi con là
thằng Được cơ.
Hai bà ạ, những của đẻ rơi gớm lắm cơ đấy, giời để sống thì
không biết sau này làm nên đến gì...”
Tôi tò mò hỏi:
- Nhưng sao chị Đông lại lấy anh Bê và đưa nhau lên đây?
- “Ấy hai người lấy nhau ngay. Anh Bê cũng biết vợ chẳng ra
gì, nhưng say mê lắm. Cứ kể thì cũng chả đến nỗi phải bỏ đi, tuy trong làng nhiều
người biết truyện. Nhưng vì cái cậu giáo kia cứ nhì nhằng về làng đòi bắt đứa
con. Hai bà ngẫm xem, làm hại một đời người ta chưa đủ, lại còn bêu xấu bêu nhuốc
người ta nữa. Hai bà tính, cậu ta dám há mồm ra nói trước mặt mọi người, trước
mặt cả hội đồng rằng cậu ta là bố thằng bé mà mẹ nó là chị Đông.
Đã đến nước ấy thì còn mặt mũi nào ở làng nữa. Hồi ấy nhà tôi
nghỉ phép về thăm nhà, thương tình anh chị ấy liền rủ ra ngoài này rồi đưa vào
sở xin việc cho. Anh chị ấy ngày nay nhờ giời cũng khá. Anh Bê anh cứ bảo tôi rằng
cố để dành ít vốn chuộc lấy thằng bé, vì hai bà ạ anh chị ấy cũng chưa có con
giai”.
- Vậy ra thằng bé vẫn ở với bác xã Vọng?
- Phải. Nó hay quá cơ hai bà ạ.
Mười hai giờ đêm tôi lên bến Quảng Yên đến thuê phòng ngủ ở một
khách sạn. Tới nơi tôi gặp một thiếu niên âu phục sánh vai cùng một cô gái quê
đương hấp tấp bước lên thang gác. Tôi mỉm cười nghĩ thầm:
- Biết đâu lại sẽ không có một thằng “Khách sạn” ra đời?
Biến đổi
Lực và Đoàn rời làng Yên Phụ đi theo liền cô gánh hoa thuê
cho mình. Tới hàng bực gạch lên đê, và nghe có tiếng cười khúc khích sau lưng,
hai chàng quay lại. Một thiếu nữ nhanh nhẹn vượt lên trước và nói một câu bâng
quơ:
- Mọi lần ra chợ mình mời mọc khẩn khoản chẳng thèm mua cho,
thế mà nay đi khiêng một gánh nặng về nhà.
Hai chàng còn đương nhìn nhau mỉm cười thì thiếu nữ đã lên xe
về phố. Lực hỏi Đoàn:
- Cô hàng hoa đấy à?
Đoàn cười:
- Hàng hoa ban đêm!
- Dẫu sao đó cũng là bông hoa đẹp ở một làng đầy hoa.
- Trí nhớ anh kém lắm nhỉ! Anh không nhận ra ai?
Lực soát ký ức lại một lượt vẫn không thấy dấu vết hình ảnh
cô thiếu nữ y phục tân thời rẻ tiền với cái khăn lụa trắng thắt hoa bên vai với
đôi giày cao gót buộc vụng về vào hai bàn chân hơi thô, với hàm răng trắng bệch
hé ra một cách ngượng ngùng giữa cặp môi vẽ son hình trái tim với hai con mắt
sáng đẹp và hiền lành đóng trong hai cái quầng đen than chì.
- Ai thế anh?
- Cô gái Keo, mà anh đã quên rồi?
- Thế à?
Lực vụt thấy cô tân thời biến ra một cô gái ngây thơ trong bộ
sống áo quê mùa cũ kỹ.
Mùa xuân năm ấy, Lực và Đoàn cùng Miễn, một người bạn đi xem
hội Keo, vì nghe nói quanh vùng ấy có nhiều con gái đánh đu rất ngộ.
Xuống xe hỏa ở ga Phú Thụy, ba chàng chỉ gặp mỗi một cái xe
tay nát, đành phải đi bộ vào Keo. Nhưng không ai lấy thế làm buồn, vì trời xuân
mát mẻ, phong cảnh xanh tươi, dưới làn mưa bay thoáng điểm. Rặng xoan mềm mại
lá non lấm chấm lưa thưa. Trên những ruộng cải, hoa vàng phấp phới như đàn bướm
bay dài hai bên con đường đất đỏ ngòng nghèo.
Ba chàng quên đường xa, vừa đi vừa đùa bỡn truyện trò. Và hai
giờ sau, khi tới chợ Keo trước một quang cảnh buồn tẻ, vắng ngắt, ba chàng
không hề tưởng đến thất vọng, chỉ nhìn nhau mỉm ra cười rồi đưa mắt ngắm những
cây đu không người im lặng đứng giơ bộ xương tre, đọng hàng giọt nước mưa lấp
lánh.
Ai nấy bụng đói như cào, Lực ngồi xuống ghế dài trong một cái
quán, cặp mắt thèm muốn nhìn tròng trọc rổ búng trắng hung:
- Giá chúng ta ăn bát bún riêu rồi hãy ra ga.
Đoàn thở dài:
- Không biết các anh nghĩ sao, chớ tôi thì khó lòng còn cuốc
bộ nổi gần mười cây số từ đây ra Phú Thụy.
Lực chau mày:
- Anh định ngủ lại đây chăng?
- Anh Miễn đã khoe khoang mãi hội Keo thì bây giờ làm thế nào
có xe cho chúng tôi về thì làm. Nếu không, tôi nhất định ở lại.
Lực cười:
- Thì anh ở lại. Anh Miễn với tôi về vậy.
Đoàn hỏi đùa bà hàng nước:
- Tôi ngủ trọ hàng bà có được không?
Bà lão chậm rãi đáp:
- Các thầy cứ nói thế chứ hàng tôi chật chội, khi nào các thầy
thèm trọ. Ở trong làng thiếu gì nhà các cô đầu.
- Thế à? Ở đây có cô đầu.
Bà lão, giọng tự phụ:
- Chán, làng tôi có chán cô đầu. Các thầy có muốn hát một chầu,
tôi đưa vào giúp tôi sắp dọn hàng về đây.
- Còn nói gì nữa!
Nửa giờ sau, Lực, Đoàn, Miễn cùng bà hàng nước vào làng, qua
một cái cổng gạch đổ nát, theo một con đường quanh co hai bên có giậu khúc tần,
và xương rồng, phủ đầy tơ hồng vàng tươi như tơ kén mới kéo.
Đến một cái cổng chống, bà hàng đứng lại, gọi:
- Chị Nguyệt! Chị Nguyệt!
Tiếng trong nhà hỏi:
- Ai?
- Có khách đấy!
Một thiếu phụ vào trạc ba mươi chạy vội ra đon đả mời chào:
- Lạy các quan ạ, xin rước các quan vào chơi.
Một nếp nhà gỗ lợp ngói, ba gian hai chái, một cái nhà ngang
bằng tre một cái sân ngăn đôi bằng chiếc phên đan mắt cáo, nửa ngoài trồng cải
và các thứ rau thơm, đó là tòa lầu hồng nơi thôn dã.
Thấy ba chàng ăn chơi Hà Nội đến, mấy người đương ngồi uống
nước ở gian bên cúi chào, rồi chụp khăn lên đầu đứng dậy ra sân. Lực hỏi Nguyệt:
- Nhà có khách?
Nguyệt tươi cười thì thầm:
- Không ạ. Các ông ấy ở quê ngoại sang cúng giỗ.
Nàng quay ra bảo những người kia:
-Vậy các anh lại nhà nhé.
Rồi tiễn bọn họ ra tận cổng.
Tối hôm ấy, mãi gần chín giờ mới có cơm. Ba người cùng đói cực
điểm, tuy đã lót dạ bằng mấy quả chuối tiêu bày trên bàn thờ ở gian giữa. Vì thế
họ ăn rất ngon miệng, dầu tiệc chỉ có thịt gà luộc, thịt gà rán, thịt gà nướng
chả, lòng gà sào miến với một chai rượu con hổ hả men. Được một điều, tiệc có vẻ
“cô đầu” lắm. Cũng mời, cũng hãm, cũng lả lơi, đùa bỡn, cũng lóng cũng liếc,
cũng phạt rượu phạt riếc. Rồi ăn xong cũng kẻ ngã bàn đèn, kẻ lên roi chầu nghe
những bài hát nói “Duy giang thượng chi thanh phong” hay “Thấy lão đá lạ lùng
muốn hỏi” của hai chị em Nguyệt - vì Nguyệt có một em bé tuổi chừng mười ba, mười
bốn, giọng ca dờn dợt và ngọng lịu.
Lực tưởng như mình đi hát Khâm thiên, hạch sách hết thứ nọ thứ
kia, nào thuốc phiện nhạt, nào trống kêu.
Lúc đã nghe hết những tiếng bồng mạc, sa mạc, chèo, tuồng mọi
người đều uể oải, chán nản. Đoàn luôn luôn cau có, thì thầm trách Miễn: “Chỉ lại
anh nên chúng tôi mới phải chui vào cái xó nhà cô đầu khổ này. Muỗi như trấu mà
không có màn thì ngủ sao được?”
Chừng Nguyệt cũng hiểu rằng cái nhan sắc hết duyên của mình,
và cái miệng còn hơi sữa của cô em gái không làm vừa lòng mấy ông khách quý. Vì
thế, đáp lại một cái ngáp dài của Lực, nàng cười rúc rích và cố lấy giọng nũng
nịu bảo ba chàng:
- Nếu các anh ngoan ngoãn, em sẽ gọi Hiên sang tiêm thuốc cho
mà hút.
Đoàn đương lim dim ngủ gà, ngủ vịt, bên khay đèn, mở choàng mắt
ngồi dậy hỏi:
- Hiên nào thế?
- Hiên con ông Nhì ở bên cạnh.
- Nhì là nhị trường, phải không?
- Chính!
- Còn phải nói!
- Gọi được à?
- Được chứ?
- Ồ! Thích nhỉ! Vậy em gọi ngay cho, em ngoan lắm!
Nguyệt xuống nhà ngang bảo mẹ đi giúp. Nhưng chỉ mười lăm
phút sau, bà lão đã trở về nói ông Nhì còn thức. Lực cau có hỏi:
- Ông ấy thức thì sao lại không đi được?
Nguyện cười:
- Chuyện! Người ta nền nếp nhà nho!
Mãi gần một giờ sáng và sau ba lần triệu, Hiên mới sang. Cử tọa
chào nàng bằng một tiếng: “À” khoan khoái.
Ánh sáng lờ mờ chiếc đèn ba dây treo trên xà cũng đủ chiếu rõ
vẻ đậm đà, óng ả của một cô gái quê mặc áo nâu non và chít khăn vuông the mỏ quạ.
- Lại đây, em Hiên!
Hiên thong thả, bẽn lẽn đến gần.
- Ngồi xuống đây, em Hiên.
Hiên rón rén ghé cạnh giường, Lực và Đoàn sán lại bên, rồi
nhìn nhau gật gù. Biết rằng hai ông khách đã ưng thưởng thức món quà đầy hương
vị thôn dã, Nguyệt liếc mắt đưa tình:
- Đấy đã bảo! Khâm thiên của các anh dễ ăn đứt chưa?
- Ăn đứt sao được Hiên, phải không Hiên?
Hiên đỏ bừng mặt, thì thào:
- Em không biết ạ!
- Hiên không biết mà Hiên lại làm cao thế? Mời mọc hai ba lần
mới thèm sang.
- Thưa các quan, không phải em dám làm cao, nhưng thầy em ốm.
Đoàn cười:
- Đừng tôn các anh là quan, các anh giận. Em cứ gọi các anh,
nghe chưa?
- Xin vâng.
Ba ông khách bắt đầu lục vấn đủ mọi câu từ câu rất bâng quơ
cho đến câu rất thân mật. Và một giờ sau chắp nối các mẫu chuyện lại, họ đã biết
rõ “lý lịch” của cô bé ngây thơ.
Hiên mười tám tuổi. Cha nàng đã hai khoa vào đệ tam. Mẹ nàng
mất từ năm nàng mới chập chững biết đi. Nhà nàng một ngày một nghèo thêm, cha
nàng trước kia có nhiều môn sinh thì một năm nhờ mấy cái tết còn đủ ăn tiêu.
Nhưng nay theo nghị định mới, số học trò không được quá năm người, nên sinh kế
rất eo hẹp.
Ông đồ đã xoay xở làm và viết câu đối thuê, nhưng chẳng kiếm
được mấy đồng. Giá ông cho con trai tập các công việc chân tay ngay từ thuở nhỏ,
thì có lẽ ngày nay cũng giúp ông được đôi chút, nhưng ông chỉ một mực đem đạo
thánh hiền ra dạy con, thành thử khi anh lớn lên, vai không vác nổi cái cầy, mà
chữ nghĩa dở dang cũng chẳng dùng được việc gì. Túng đói quá, Giáp - tên người
con trai - liền theo đám phu mộ lần sang Tân Thế Giới, rồi vì sức yếu đuối, bỏ
mạng ở đó.
May cho ông đồ, Hiên học lành nghề dệt vải, hằng ngày ít ra
cũng kiếm nổi một hào bạc. Nhưng đã sáu tháng nay, ông bị bệnh tê liệt. Hiên
không những không sao chạy được tiền thuốc cho cha mà đến tiền ăn cũng chật vật
khó xoay đủ.
Một hôm sang bên chị Nguyệt dựt tạm lưng gạo, Hiên gặp mấy
ông khách nhìn nàng mỉm cười. Một người cầm lấy tay nàng hỏi truyện. Chị Nguyệt
giữ nàng lại, rồi ông khách cho nàng một đồng bạc và dặn nàng, tối sang chơi.
Nàng mừng quá...
Từ đó, chị Nguyệt thường cho tìm nàng. Một khách chơi chỉ bảo
nàng cách tiêm thuốc phiện. Chị Nguyệt lại dạy nàng, hát một vài câu hãm rượu,
kể một vài câu Kiều lẩy.
Cha nàng nghiêm khắc lắm, nếu biết nàng lảng vảng bên chị
Nguyệt thì chắc sẽ mắng chửi nàng. Vì thế, nhiều lần mãi khuya và chờ cho cha
yên giấc, nàng mới dám trốn đi. Mà chính nàng cũng biết rằng con gái đêm hôm mò
mẫm đến một nơi như nhà chị Nguyệt là rất không phải, nhưng cha ốm nằm kia, lấy
tiền đâu cân thuốc
Biết chuyện Hiên, ba ông khách Hà Nội buồn rầu ngao ngán, chẳng
ai còn tưởng tới hương phấn quyền lợi của mình. Nhưng Nguyệt vẫn cười khanh
khách, hết ngâm Cung oán lại nói bông đùa:
- Hiên tiêm cho mỗi anh một điếu thuốc nào!
Miễn nói gạt:
- Thôi, ngồi chuyện gẫu thú hơn, thuốc của chị nhạt nước ốc,
hút chẳng mùi mằn gì.
- Thuốc ngang nhạt, nhưng mát, anh ạ. Hút thuốc cống chỉ tổ
chóng nghiện. Nhưng các anh cứ để Hiên tiêm cho mà xem. Hiên khéo lắm kia, các
anh phải biết.
- Đã bảo không hút nữa mà lại.
Hiên đưa mắt nhìn ba người rồi rụt rè thỏ thẻ.
- Ba ông không dùng nữa?
- Không.
- Vậy cho em xin chỗ thuốc thừa nhé?
- Em lấy làm gì?
- Để em gián thái dương cho thầy em, thầy em rức đầu luôn.
Lực cảm động, ngầm mở ví lấy tờ giấy bạc một đồng dúi vào tay
Hiên, và ghé tận tai nàng thì thầm:
- Em mua mà dùng, chẳng chị Nguyệt, chị ấy không bằng lòng.
Câu truyện càng có vẻ thân mật, khi Nguyệt đã kín đáo tắt phụt
cây đèn treo. Đặt trên cái khay cũ, nhem nhuốc, dây dầu, ngọn đèn tù mù trong
chụp pha lê nứt rạn, chiếu chút ánh vàng vào năm khuôn mặt mệt mỏi.
Giữa phút yên lặng hoàn toàn, bỗng Nguyệt cất giọng khàn
khàn, ngái ngủ, ngâm dài:
Ở đây đường xá xa xôi,
Mà ta bất động nữa người sinh nghi.
Rồi nàng phá lên cười, và vỗ mạnh vào vai Đoàn. Lực buồn rầu
ngẫm nghĩ:
“Trong sáu tháng nay, đã mấy người giữ được bất động!”
Mùa xuân sau, Lực và Đoàn lại đi xem hội Keo. Hai chàng nhìn
nhau mỉm cười, vì cùng hiểu ngầm rằng đến Keo chỉ có một mục đích: thăm Hiên.
Nhưng khi tới nhà Nguyệt, hai chàng được tin ông đồ đã mất,
và đã Hiên bỏ làng đi đâu không ai hay.
Câu truyện ông Nhì qua đời, Nguyệt thuật lại bằng một giọng lạnh
lùng:
- Hôm ấy, một người tìm đến nhà Hiên, nghiễm nhiên âu yếm
Hiên và cho Hiên tiền ở ngay trước mặt ông Nhì. Ông ta tức uất lên, luôn mồm chửi
mắng con, rồi vài giờ sau, tắt nghỉ.
Hai năm qua, Lực và Đoàn không về xem hội Keo. Mà hình ảnh cô
gái quê con ông đồ nho đạo đức cũng không còn phảng phất trong trí nhớ hai
chàng.
Bỗng hôm nay, trên đường Yên Phụ, hai chàng gặp Hiên nhởn nhơ
trong bộ y phục tân thời: Cả một quãng đời phóng đãng như in sâu dấu vết lên bộ
mặt dạn dầy mưa gió...
Lực thở dài bảo Đoàn:
- Nếu quả thực người chết vẫn quanh quất chốn dương gian, thì
biết bao linh hồn sẽ đau đớn vì những sự biến đổi của người sống!
Chùa Hương
Ngày nay người ta đi chùa Hương hoặc vì lòng tò mò muốn thăm
một nơi mà trừ mình ra ai ai cũng biết, hoặc vì cái thú được nhập bọn với một
đoàn du lịch trong đó có vài thiếu nữ xinh tươi.
Nhưng đối với tôi, chùa Hương sẽ mãi mãi là một cảnh bồng lai
huyền ảo, mịt mùng trong tưởng tượng dễ dàng của tuổi thơ, và âm thầm trong đêm
trăng, trên sông Đáy, lẫn với kỷ niệm tươi đẹp của thời sấp sỉ hai mươi.
Đã nhiều lần vui đùa anh em tôi trở lại chùa xưa. Những đám
người hôi hám, ồn ào, những tiếng cười đùa thô lỗ, cái thực vô vị ấy vẫn không
xóa nhòa được cảnh thần tiên đã in sâu vào tâm hồn tôi cùng với những cảm tưởng
không bao giờ thay đổi.
Năm tôi chín tuổi, vì cụ cử thầy học của anh em chúng tôi nghỉ
về nhà dưỡng lão, cha tôi bèn bảo một người anh họ chúng tôi dạy tạm. Anh khóa
Ngoạn - tên người anh họ - vừa lạc đệ trường Nam lần thứ ba và lần cuối cùng vì
anh đã thề không dự thi nữa, để phản đối cái lối thi cử “O tròn, A méo” kèm những
phép tính “trẻ con” mà anh khinh không thèm học. Năm ấy, trong khi ở nhà, ông
thân sinh của anh ném hết các pho Bắc sử và Tư thư, Ngũ kinh vào vại nước, để rồi
lại giải ra nia mà hong, thì anh khóa đến chôn vùi cái hận trường ốc ở chốn
Hương sơn.
Mãi ba tháng sau, anh mới trở về, lòng chản nản, nhưng trí thảnh
thơi. Anh đem những cảnh thần tiên thuật lại cho chúng tôi nghe, thuật bằng những
lời văn đầy thơ mộng, khiến óc ngây thơ của tôi tưởng tượng chùa Hương ra một
nơi xa xăm, mờ mịt, mà chỉ những người cực kỳ mạo hiểm mới tới được.
Lại thêm chiều chiều anh kể những truyện Liễu Trai, những
truyện xảy ra trong những cảnh thực thực hư hư với những nhân vật khác hẳn bọn
người thường sống chung quanh ta. Bởi vậy, tôi yên trí rằng chùa Hương chỉ là một
cảnh Liễu Trai trong đó người và tiên và vật chung sống trong sự hòa hợp thân
thiết, và anh khóa Ngoạn lì sì ít nói chỉ là cái anh do gan góc lạ lùng lạc vào
nơi núi sâu, rừng rậm, một đêm trăng sáng, rồi ở đó với bầy tiên nhảy múa, hát
xướng nô đùa, cái anh chàng bắt chước tiếng yểng để bảo các nàng tiên:
“chàng ta say rồi, đưa chàng ta về thôi!”
... Thế rồi các nàng tiên cười rú, đứng chồng lên vai nhau
làm một cây người cao ngất trời xanh. Cây người đổ xuống thành một con đường
quang đãng. Anh đồ theo con đường ấy về được đến nhà. Hôm sau, anh muốn trở lại
thăm chốn cũ thì con đường không còn nữa, chỉ thấy dầy cỏ lau mọc...
Đối với tôi, đó chỉ là nơi mà anh khóa Ngoạn đã rời bỏ để về
dạy anh em chúng tôi học.
Bao năm mơ ước cảnh chùa Hương.
Một hôm - năm ấy tôi mươi tám - một hôm bắt đầu nghỉ lễ Phục
Sinh, bỗng tôi nhận được điện tín từ Phủ Lý gửi tới: “Về ngay đi Hương Tích”.
Và tôi về ngay.
Em tôi cùng hai người bạn, anh Ruật và anh Đạt ra đón tôi ở
ga, đưa tôi thẳng xuống thuyền.
Cái đêm mười tư tháng ba An Nam ấy ngày nay chỉ còn để lại
trong tâm hồn tôi một cảm giác mơ hồ mà tôi nhớ tới như nhớ một giấc mộng
thoáng qua. Nhưng giấc mộng ngày nay vẫn còn thoáng qua trong ký ức tôi; mỗi
khi tôi ngắm cảnh sông trăng, nghe tiếng tiêu lanh lảnh buổi chiều tàn, hay
ngâm thầm những câu thơ “Tỳ bà” của cổ nhân:
Tiếng tỳ nghe vẳng trên sông
Chủ khuây khỏa lại, khách dùng dằng xuôi...
Thuyền mấy lá, đông, tây lặng ngắt,
Một bóng trăng trong vắt lòng sông.
Trăng, nước và âm nhạc, nhan nhản tả trong thơ Tầu không bao
giờ tôi cảm thấy có liên lạc nhịp nhàng với nhau bằng cái đêm trăng trên sông
Đáy.
Anh Đạt, một tài tử, thổi chiếc ống tiêu mà anh đã mang theo.
Đêm khuya, trăng ngã về tây, lượn chung quanh thuyền trên con sông khuất khuỷu,
khi ở đang mũi, khi ở đằng lái, khi sang bên tả, khi sang bên hữu, như múa khúc
nghê thường theo điệu tiếng trúc véo von, giải lụa vàng thướt tha bay trong
sương, dịu dàng lướt trên mặt nước. Tiếng bổng cất cao tận đỉnh trời xanh. Tiếng
trầm rơi trên làn sóng tan trong nhịp chèo. Âm nhạc ngừng, tiếng ngân nhưng còn
kéo dài trong êm lặng của ban đêm, lưu luyến với luồng ngấn trắng chuyển động
chạy sau thuyền.
Cả một đêm trong sáng chung đúc lại chỉ còn có cảm giác thần
tiên ấy: cái đẹp đã như kết tinh trong tư tưởng, và không bao giờ nhạt phai
trong trí nhớ. Ngoài ra mọi vật, mọi ý, mọi sự, đều mờ dần cho đến khi biến đi
không còn vết tích.
Trong giấc ngủ, tiếng tiêu vẫn réo rắt...
Cảnh sáng trăng vẫn huyền ảo... Một tia ánh thái dương lọt
qua khe mui thuyền. Tôi tung chăn ngồi dậy. Tiếng ồn ào chung quanh.
Bến Đục!
Từ đó vào tới chùa ngoài, cái suối nước phẳng lặng đưa chiếc
tam bản mỏng mảnh của chúng tôi, cùng với hàng chục chiếc tam bản đầy chật
khách lễ chùa, lượn quanh những quả núi nhỏ và xinh như những non bộ bày trong
bể cạn.
Cảnh ấy, tôi mới được trông thấy lần đầu nhưng tôi không lạ mắt:
Hình như tôi đã gặp nó ở một xứ quen thuộc nào đó, hình như trải một đời tiền
sinh, tôi đã sống trong rặng núi kia bên sườn non kia. Thì ra trong tâm não
tôi, trong trí tưởng tượng của tôi, nhưng cảnh Liễu Trai đã từ lâu biến thành cảnh
thực.
Sự ngẫu nhiên, một câu truyện xảy ra cho chúng tôi cũng vẻ
“liễu trai” nữa:
Lúc mới tới suối thấy những thuyền đưa khách vào chùa, cái
nào cũng xếp chật ních, chúng tôi đành phải thuê riêng một chiếc. Như thế, có lẽ
chúng tôi không được hưởng cái thú chen vai thích cánh với khách thập phương
bên phái đẹp, nhưng chắc chắn chúng tôi sẽ tránh được cái nạn uống nước suối chẳng
trong sạch gì.
Thuyền chúng tôi sắp đi, bỗng một nhà sư, khăn gói nâu vắt
vai, hớt hơ hớt hải nhảy vọt xuống, khiến chiếc tam bảo chồng chềnh và anh Ruật
đứng ở đằng mũi suýt ngã. Chúng tôi lễ phép nói với nhà tu hành rằng chiếc thuyền
chúng tôi đã thuê riêng, và giá chỉ có một mình sư ông thì chúng tôi cũng không
dám tiếc, nhưng chúng tôi đã trót từ chối nhiều người vậy xin mời sư ông sang
thuyền khác cho. Chúng tôi tưởng nhà sư điếc, vì chúng tôi nhắc đi nhắc lại câu
nói, người ấy vẫn nghiễm nhiên, yên lặng ngồi nhìn trời. Mãi sau, chúng tôi mới
nghe thấy một câu trả lời, một câu trả lời vắn tắt, nhưng rất xược:
- Cửa từ bi không hẹp một ai.
Tôi, thì tôi chỉ nhận thấy sự bí mật, nhất tôi lại đã ngắm kỹ
gương mặt sáng tươi, cặp mắt thanh và sắc, cái miệng cười rất có duyên của con
người kỳ dị.
Anh Ruật, tính nóng như lửa, sức khỏe như báo, tiến đến trước
mặt nhà sư, sừng sộ:
- Nói tử tế không nghe, có muốn xuống suối không?
Và anh toan ôm lấy người tu hành. Tôi lo ngại: Tấm thân nở
nang, đều đặn của sư ông khiến tôi mơ màng nghĩ tới những miếng võ bí hiểm, những
phép thuật kỳ quái của các nhà đạo sĩ đời xưa. Vì thế, tôi vội vàng đến can:
- Thôi anh ạ, cứ để sư ông đi với chúng ta cho vui.
Anh Ruật quay lại, gắt:
- Nhưng mọi người khác cũng kéo xuống bây giờ đây này!
Tôi không đáp, giục cô lái đẩy mau thuyền ra xa.
Một lát, chúng tôi đã hầu quên người khách lạ, mải miết ngắm
nghía những hòn núi chon von, hay vui vẻ “nam vô” để chào những cô thiếu nữ
trên những chiếc thuyền nặng chĩu bấp bênh như sắp đắm. Bỗng có tiếng ai sang sảng
như tiếng chuông vàng, nhịp nhàng trầm bổng như điệu hát nhịp nhàng của một cô
danh ca. Chúng tôi kinh ngạc quay nhìn về phía lái: nhà sư của chúng tôi đương
tâm niệm, mắt ngước mình trời, hai bàn tay chắp ngực mà cao tiếng tụng kinh: Thực
hoàn toàn là sự Tín ngưỡng, một bức tranh đức Phật hiện thân.
Và chúng tôi hối hận. Người hối hận nhất là anh Ruật. Anh buồn
rầu nhìn nhà sư; và tôi đoán anh đương băn khoăn chờ dịp để xin lỗi “người
thánh đức”. Nhưng từ lúc ấy cho tới chùa ngoài, không một giây nào, người tu
hành, ngừng lời, giọng mỗi lúc một trong hơn, một thiết tha, nồng nàn hơn.
Thuyền tới bến, sư ông mắt lim dim, đứng dậy kính cẩn ngả đầu
chào chúng tôi: “Nam mô a di đà Phật!” Anh Ruật vội đáp lễ:
- A di đà Phật: Xin sư ông tha thứ cho đệ tử cái tội đã dám
xúc phạm tới sư ông.
Sư ông sẵn lòng tha thứ và hứa sẽ đưa chúng tôi vào bái yết
sư tổ để xin sư tổ ban riêng cho chúng tôi (và... sư ông, cố nhiên) một gian
phòng quan cư. Quả sư tổ không những ban cho phòng, mà còn cắt một chú tiểu hầu
trà nữa. Điều đó không khỏi làm chúng tôi kinh dị và khâm phục nhà sư mà chúng
tôi đoán là một người có thế lực trong tăng giới.
Chúng tôi càng kinh dị khi ở chùa trong trở ra, tối hôm ấy,
chúng tôi ngồi nghe nhà sư thuyết pháp, và ngắm nhà sư múa hai bàn tay mềm mại,
trắng trẻo để bắt quyết. “Thưa các thầy, lúc em lên đàn...”
Không để sư ông nói rứt câu, anh Ruật tiếp luôn:
-... thì chắc các tín nữ phải yêu lắm.
Tôi tưởng sư ông tức giận, nhưng trái hẳn; “ngài” chỉ mỉm cười
rất có duyên, và đưa hai con mắt tình tứ.
Rồi sư ông ngâm thơ của sư ông cho chúng tôi nghe. Tôi còn nhớ
hai câu trong một bài thơ mà sư ông khoe khoang đã ứng khẩu đọc ra để đáp lại
những lời diễu cợt của một ông tú:
Mực tàu giấy bản bút lông mèo,
Tha hồ ông tú vẽ ngoăn ngoeo.
Đêm đã khuya chúng tôi vẫn không ngủ được, liền rủ nhau lên
chùa trên. Trong chùa tiếng ồn ào như một ngày phiên chợ. Tiếng mõ đều đều một
nhịp. Tiếng niệm Phật chìm trong huyên náo, thỉnh thoảng lại cất cao lên một
gióng rồi lại chìm vào trong huyên náo.
Không khí ngạt ngào và nồng nực khó thở, Những cây sáp lớn
chiếu một thứ ánh sáng lờ mờ và rung động trong làn khói hương bay. Trên nền
chùa, thiện nam tín nữ nằm xếp đầy từng tốp, gối đầu, gác chân lên ngực, lên
đùi nhau mà ngủ, tâm có lẽ vẫn thanh khiết, trí có lẽ vẫn quang minh. Bọn họ
không còn là trai, là gái nữa, chỉ là những con người sùng tín mà thôi.
Quá nửa đêm, xuống phòng quan cư, và không thấy sư ông, chúng
tôi chắc rằng nhà tu hành đi dự lễ Ngũ bách bái.
Ánh trăng tà chiếu chếch ngoài hiên có chiều quyến rũ...
Chúng tôi liền cùng nhau lên núi... Tiếng ồn ào một lúc một xa, một nhỏ. Lâu dần
chỉ còn như tiếng vo ve của đoàn ruồi nhặng.
Bỗng rầm rập nhiều người chạy ở dưới chân núi. Chúng tôi quay
xuống xem... Một cái bóng đen vụt qua rồi lẫn vào trong đám lau cao và rậm. Anh
Đạt toan đuổi theo, nhưng chúng tôi giữ lại, sợ người kia có khí giới. Riêng
tôi, tôi vơ vẩn tới nhưng truyện Liễu Trai của tôi, và tôi tần ngần đứng nhìn
hàng bông lau lấp loáng trong ánh trăng.
Sau hỏi ra thì không những chẳng có gì đáng để cho chúng tôi
tức bực, mà đó là một câu truyện làm chúng tôi tức cười: Một nhà sư... chòng ghẹo
một cô gái quê đương ngủ ở dưới mắt từ bi đức Phật Như Lai. Tôi nghĩ đến nhà sư
xinh trai... Nhưng tôi nhận ngay thấy sự sai lầm: người từ bi ấy đương ngồi
trong phòng quan cư đun nước để chờ chúng tôi về...
Vào khoảng ba giờ sáng, tiếng cười đùa ầm ĩ lại đánh thức tôi
dậy. Nhà sư nằm bên cạnh tôi đã biến đâu mất.
Tôi mặc quần áo, lên chùa. Ở đây người ta đương thi nhau kể
cho ai muốn nghe thì nghe: một cô gái quê ngủ say quá bị ai lột truồng và đặt
lên bụng một cái đĩa trên có thắp cây nến dài.
Nhà sư bí mật có phải là người chủ động trong hai truyện nghịch
ngợm kia không? Tôi không dám mười phần tin chắc cả mười. Nhưng mà tôi ngờ vực
lắm, nhất chiều hôm ấy, lúc sắp sửa ra thuyền, tôi lại được nghe chú tiểu hầu
trà hỏi một câu rất đột ngột.
- Thưa, trong ba ngài, ngài nào là rể cụ lớn, ạ?
Tôi ngẩn mặt nhìn mọi người, không hiểu. Nhưng anh Ruật hiểu,
nên chẳng ngần ngại, anh trỏ tôi đáp liền:
- Đấy, ông này là rể cụ lớn.
Rồi ghé tai chúng tôi, anh thì thầm:
- Chắc hôm qua lão sư giới thiệu với sư tổ rằng một người
trong bọn mình là rể cự thượng Hà Đông. Chẳng lẽ vô cớ sư tổ lại cho phòng ngủ
và cho ăn tươm tất thế?
Chúng tôi cùng phá lên cười, khiến chú tiểu ngơ ngác trố mắt
đứng nhìn.
Ra gần tới đền Trình, thuyền chúng tôi gặp một chiếc thuyền
vào chùa, trong thuyền có tiếng sang sảng tụng kinh. Chúng tôi kinh ngạc nhìn,
tìm: Ngồi đằng lái, nhà sư xinh trai của chúng tôi đương ôn lại cái việc làm
hai hôm trước.
Bí mật quá! Mà “liễu trai” thực!
Nhưng đã hết đâu! Đêm hôm ấy, trên sông Đáy chúng tôi còn gặp
một sự lạ lùng nữa, làm cho cuộc đi chơi chùa Hương của chúng tôi càng thêm vẻ
liễu trai.
Thuyền đương khó nhọc ngược giòng nước, bỗng chúng tôi lưu ý
đến một cái đài ánh sáng từ đâu hiện ra ở phía trước mặt. Tới gần thì đó là chiếc
tầu thủy bị giắt cạn. Anh Đạt trỏ lên tầu hỏi đùa:
- Có cô nào muốn đi thuyền không?
Một tiếng trong trẻo yểu điệu đáp lại liền:
- Có!
Anh Ruật cười nói:
- Cho xuống! Bằng lòng cả nhé?
Cố nhiên chúng tôi bằng lòng. Tức thì thuyền ghé vào mạn tầu
để hai thiếu nữ đỡ một bà cụ già bước sang. Phải chăng đó là hai con cáo chín
đuôi, hai con hồ tinh trong dãy núi Hương Tích hiện thành hình người để trêu ghẹo
khách trên sông? Tôi xin thú thực rằng tôi cũng hơi rờn rợn, nhất khi thắp đèn
lên tôi lại nhận thấy hai thiếu nữ đều có một thứ nhan sắc huyền ảo, với hai
con mắt lẳng lơ.
Đêm hôm ấy chúng tôi thức cho tới Phủ Lý để nghe hát, vì một
cô hồ tinh, cô em, biết đủ các giọng ca Trung, Nam, Bắc. Anh Đạt thổi ống tiêu
họa theo.
Nằm ở khoang trên, bà cụ, mẹ hai cô hồ tinh, ngủ một giấc
ngon lành và bình tĩnh phó mặc hai con cho chúng tôi bảo họ. Riêng về phần tôi
thì đêm hôm ấy tôi chỉ có những tính tình trong sạch sáng tươi...
Truyện Liễu Trai chép rằng hai thiếu nữ yêu và lấy hai người
trong bọn chúng tôi.
Nhưng sự thực lại khác hẳn, sự thực thì hai chị em thiếu phụ
là vợ cả và vợ lẽ một người mà chúng tôi đều biết tiếng.
Sự thực! Nhưng tưởng tượng cũng vẫn là sự thực.
Bến đò năm xưa
Nguyên dừng lại trên đê cao, nhìn xuống con sông sâu. Và
chàng mang máng nhận thấy rằng mười lăm, mười sáu năm về trước chàng đã đến đó
một lần.
Giòng nước về mùa đông cũng cạn, cũng chảy lờ đờ. Bụi lau mọc
ven bờ, lá vẫn xơ sác như xưa, hàng bông trắng vẫn se sẽ lao đao trước gió. Nhất
là cây gạo thân thẳng và cao, ngạo nghễ đứng bên sườn đê rướn ngọn chọc trời,
thì chàng không thể nào lầm nó với một cây gạo khác được. Gốc nó phía trên tựa
da trăn đầy những khoanh mốc trắng, phía dưới nổi lên những bướu tròn hùng
tráng như những bắp thịt rắn chắc của nhà lực sĩ.
Nguyên đương tỉ mỉ nhận xét điều ấy, thì đưa chàng đi sâu
thêm vào thời ký vãng, một làn khói lam tỏa ra ôm ấp lấy cái mái rạ rồi từ từ
bay tản mạn trong đám lá xanh. Bấy giờ chàng mới kịp để ý đến túp liều bé nhỏ,
xiêu vẹo, túp lều mà mười lăm năm về trước chàng đã thấy nằm núp dưới gốc cây gạo.
Cho đến cả mảnh lưới nâu vắt phơi trên cái lao sặt, vại nước đặt trên khóm mía ở
đầu nhà, mọi vật đối với ký ức chàng như đối với con mắt nhà mỹ thuật, một bức
tranh sơn bỏ quên lâu năm trong xó tủ, bây giờ bỗng đem ra lau sạch bụi và treo
lên tường.
Chiếc xe sắt đã trèo hết cái giốc đê và phăng phăng xuống bến
để khiêng vào thuyền sang sông. Nguyên lững thững theo xuống. Nghe tiếng gầm gừ,
chàng quay lại và giật mình kinh ngạc: Con chó trắng bông dương cặp mắt thao
láo, dữ tợn nhìn chàng đi qua. Chàng nhớ lần trước chàng cũng thấy con chó bông
trắng như hệt thế nằm bên khóm chuối kia gần đàn gà con đương bới đống rác bẩn
tìm sâu. Chàng chau mày tự nhủ thầm: “Hình như ta đã để ở nơi này một kỷ niệm
trong giây phút”.
Ý nghĩ ấy làm cho chàng bật cười. Nào phải bây giờ chàng mới
có cái cảm tưởng, cái cảm giác như thế về dĩ vãng. Nhiều khi lần đầu bước chân
vào một phòng khách lạ, chàng chẳng thấy bàn ghế, đồ đạc bày ở đó có chiều quen
thuộc, thân mật với chàng là gì?
- Mời ông xuống đò cho thuyền sang ngang. Chúng tôi ngồi chờ
tê cả chân.
Đương tò mò ngắm những xác vờ rải trắng trên làn cát ướt,
nghe lời thúc giục. Nguyên quay lại: Trong chiếc thuyền nan, ngồi bên cái xe
kéo, hai người đàn bà và một người đàn ông khoác áo tơi lá, gió thổi kêu lạt sạt.
Và đứng ở đang lái, lả lơi vịn vào con sào, một thiếu nữ óng ả, thon thon, tấm
áo nâu đổi vai, hai vạt trước buộc gọn gàng ra phía sau lưng.
Nguyên bước lên thuyền trân trân nhìn cô lái, khiến cô bẽn lẽn
cúi gằm mặt xuống, cắm sào xoay mũi, “Lạ! Người này nữa! Ta cũng đã gặp rồi, mà
gặp ở đây. Ở bến đò này!”
Buột miệng, chàng hỏi:
- Cô vẫn chở đò ở đây?
Cô lái cho đó là một câu trêu ghẹo, bỡn cợt, yên lặng ngảnh
trông đi, không đáp.
- Tôi nhớ mang máng lần trước tôi gặp cô cũng ở bến đò này,
nhưng đã lâu lắm, đến hơn mười lăm năm rồi.
Tiếng cười rộ của bọn sang ngang làm cho Nguyên ngơ ngác:
- Mười lăm năm trước mà ông gặp chị Thà thì chị ấy đương chập
chững tập đi.
- Ờ nhỉ!
Nguyên ngây người suy nghĩ “Ồ! Mình lẩn thẩn quá thực. Hồi
đó, cô ta mới độ lên hai, lên ba!” Rồi chàng cũng cười theo. Nhưng chàng vẫn ngờ
vực: “Chẳng lẽ mình mơ mộng đến thế được?” Một câu nói tiếp của một người đàn
bà khiến chàng tỉnh ngộ:
- Mười lăm năm về trước thì họa chăng ông gặp bu chị Thà.
Người ấy quay ra nói chuyện với người ngồi bên:
- Chị Thà chị ấy giống bu chị ấy như đúc.
Nguyên mỉm cười: “Phải, bu chị ấy. Có thế chứ, ta lầm sao được”.
Chàng lấy làm tự phụ về trí nhớ của mình. Rồi, chàng lại đăm đăm ngắm nghía cô
lái đò: “Xinh xắn thế kia thảo hèn ta nhớ lâu, nếu quả thực người mẹ ngày xưa
cũng đẹp như cô con ngày nay”.
Giữa lúc ấy anh sẩm cất tiếng hát. Cái giọng khàn khàn, đùng
đục, Nguyên nhận thấy như đã rầu rãi nắng mưa, chẳng khác thanh sắt vứt lay vứt
lắt, bị rỉ ăn luỗng từng chỗ. Nhưng cái giọng ấy, cũng vẫn cái giọng lần trước.
“Hừ! Chẳng lẽ anh sẩm này lại cũng là con anh sẩm ngày xưa”.
Anh mù ngửa mặt như nhìn trời qua đôi kính dâm, đầu lắc lư,
tay kéo nhị, há hóc miệng gào:
“Công cha như núi Thái Sơn, sữa mẹ như nước trong nguồn chảy
ra”.
Người đàn ông chừng một ngày mấy lần qua sông nên đã thuộc
lòng câu sẩm chợ, ngồi đập chân xuống sàn thuyền gõ nhịp, môi mấp máy lẩm bẩm
hát theo. Còn hai người đàn bà thì thản nhiên như chỉ có bọn họ trong thuyền,
oang oang nói truyện:
- Sợi nhà bà ngâm được mấy buổi?
- Sợi nhà tôi ngâm được bốn đêm.
- Ồ! Khó đấy! Nhà bà tràng vốn nên ngâm được lâu.
Nguyên kinh ngạc. Mấy mẫu truyện, lần trước chàng đã nghe thấy
không thiếu, không thừa, không sai một tiếng. “Thì ra dưới trời này mọi vật
không bao giờ thay đổi”.
Anh sẩm hát: “Ba năm bú mớm...”
Nguyên ném một xu vào cái thau sắt tây thủng, rồi cúi xuống
ngắm bóng mây trắng lướt theo con thuyền êm lặng, trên giòng nước trong xanh.
Bài Lưu thủy của anh sẩm nhắc Nguyên biết rằng thuyền đã tới
bến. Chàng mỉm cười vơ vẩn, lấy làm lạ rằng mình đã lắng tai nghe hết bài hát.
Mọi lần ở các bến phà, hễ anh sẩm cất tiếng, là Nguyên vội đãi anh một, hai xu
để xin anh ngồi im cho. Nhưng lần này, bài ca tầm thường đã gợi trong lòng
chàng một mối cảm hoài man mác, và đưa chàng trở lại với thời xưa. Vì thế chàng
đã im lặng để những câu hát vô vị chạy lướt qua trí nhớ như bóng mây lướt trên
mặt nước im trong.
Nguyên trả cô lái năm xu, rồi toan nhảy lên bờ.
- Ấy, ông để cháu giữ thuyền cho chắc chắn đã, chẳng ngã.
Nguyên đứng dốn lại hỏi:
- Bến đò này ở nơi hiu quạnh lắm nhỉ?
- Vâng, ở đây buồn lắm. Nhưng được cái cách phố phủ có sáu, bảy
cây số.
Lúc ấy có một người đứng trên đường gọi:
- Thà ơi, mày đi hộ tao, để tao chở thuyền cho. Tiền đây này!
Người đàn ông quẩy gánh củ cải nặng, bước xuống nước, bảo
Nguyên:
- Bu chị Thà đấy. Có phải người thầy gặp lần trước không?
Nguyên ngửng đầu lên nhìn: “Ừ bu, con giống nhau thực!”
Cô lái đò nghe nói, mủm mỉm cười, gọi mẹ:
- Bu ơi, tiền đò đây này, bu giữ lấy. Ông cho năm xu đấy.
Người đàn bà quần áo lôi thôi nhem nhuốc chạy vội lại:
- Cám ơn thầy.
Bác gánh củ cải bảo bà ta:
- Này bà, bà có nhận được ông này không?
Nguyên cười, cho câu hỏi ấy vô lý hết sức. Nhưng chàng kinh
ngạc xiết bao khi thấy người đàn bà đăm đăm nhìn mình rồi vui vẻ chào:
- Ồ, chào thầy! Trông thầy vẫn thế nhỉ. Không già đi mấy.
Nguyên còn ngơ ngác cố nhớ lại thì người đàn bà đã nói tiếp:
- Ngày ấy thầy mặc áo tơi dạ, chứ không phải cái áo sơn này.
Với lại cái “bao ly” của thầy có quai mà to hơn nhiều, tôi xách lên bờ nặng sái
cả cánh tay. Mà thầy vui tính lắm, nói đùa luôn mồm.
Nguyên đáp:
- Bây giờ già rồi, nên mất cả vui tính.
Thế rồi Nguyên lên xe. Cái xe gỗ lạch cạch, lắc lư, nhảy trên
con đường đất gồ ghề, lồi lõm, không mấy khi được hân hạnh có chiếc ô-tô qua lại.
Nhưng Nguyên không thấy khó chịu như lúc ở quãng đường bên kia sông. Còn văng vẳng
bên tai chàng câu nói của người đàn bà chở đò: “Thầy mặc cái áo tơi dạ... cái
bao-ly của thầy có quai”. Và chàng nghĩ thầm: “Sau mười lăm, mười sáu năm, người
ấy còn nhớ mình mặc áo tơi dạ và cái va-li của mình có quai! Người ấy lại nhớ cả
mình vui tính nữa”.
Chàng tưởng tượng - tưởng tượng chứ không phải nhớ vì chàng
không còn nhớ - chàng tưởng tượng ngay ra một cảnh gặp gỡ ở bến đò, cuộc gặp gỡ
giữa cô lái xinh tươi với ông khách có duyên qua bến và như nghe thấy tiếng cười
ròn tan trong luồng gió lạnh, như nhìn thấy cái liếc mắt lẳng lơ đưa theo dịp
chèo đập nước.
Rồi kẻ đi người ở. Tình vẫn man mác phảng phất như chút hương
nhạt trong hai tâm hồn có lẽ không bao giờ gặp nhau.
“Cái áo tơi dạ của thầy... cái bao-ly có quai của thầy...”
Cùng với cảnh chuyến đò gặp gỡ, một cảnh khác hiện ra trong
tưởng tượng. Cảnh chờ đợi, nhớ mong. Nguyên như được ngắm cô lái, một đêm trăng
ngồi tựa gốc cây gạo nhìn xuống giòng nước mà gửi hồn ruổi theo người khách lạ.
Qua khóm lan thưa, lấp ló ngọn lửa, con thuyền đánh cá. Xa xa, tiếng chó sủa
trong lũy tre âm u.
Rồi hình ảnh người qua đò một ngày một phai cho đến khi mười
lăm năm sau, một hôm người ấy trở lại...
Trên đường đất gồ ghề, lồi lõm, chiếc xe sắt hục hặc nhảy chồm
như con ngựa bất kham... Nhưng Nguyên vẫn yên lặng bình tĩnh theo giấc mộng
liên miên...
Cháu nhà quan
Tôi đương ngồi nói chuyện với Tuấn ở phòng khách của anh, bỗng
có tiếng gõ cửa khe khẽ, dụt dè. Sau câu “cứ vào” khô khan của bạn tôi, cánh cửa
từ từ mở. Một người im lặng bước tới gần chỗ chúng tôi, hé cái cặp da cũ nát,
rút ra một tờ giấy biên lai, Tuấn nói ngay:
- Tiền nhà phải không? Mai ông lại.
Chẳng đáp nửa câu, người đi thu tiền lại bỏ tờ biên lai vào cặp,
quay trở ra. Tôi nhìn anh ta từ chiếc khăn lượt bạc, cái áo the dài với ống tay
rộng, cho chí cái quần màu cháo lòng và đôi giầy da láng mòn gót. Cái bộ mặt,
cái hình dáng quen quen ấy mang máng nhắc tôi nhớ tới một thời kỳ quá khứ. Tôi
liền hỏi bạn:
- Ai thế, anh?
Tuấn trả lời một cách lơ đãng:
- Cháu chủ nhà.
- Thế chủ nhà là ai?
- Là một ông cử ông kiếc gì ấy, vì thường nghe người thu tiền
xưng “quan cử tôi”. Với lại tôi mới thuê cái nhà này được vài tháng, nên cũng
không rõ lắm.
Im một lát, Tuấn lại nói:
- Tên người ấy là Niệm, vì một hôm anh xe của người ấy đến hỏi:
“Ông Niệm tôi có lại đây không?”
Tôi nhớ ngay. Anh Niệm học trường Bảo hộ hai mươi năm về trước
cùng lớp với anh tôi và thường đến chơi nhà tôi. Người học trò tuấn tú, có nhan
sắc kiều diễm của phụ nữ, người học trò giỏi Pháp văn nhất lớp mà anh tôi thường
đưa các bài luận cho tôi xem, người ấy ngày nay đã trở nên bác đi thu tiền nhà,
lù dù trong tấm áo lương cũ, kéo lệt xệt đôi giầy dúm dó. Còn đâu cặp mắt phượng
sáng trong, còn đâu cái miệng cười tươi như hoa hé nở? Vẫn biết khi người ta bốn
mươi tuổi thì người ta không còn trẻ nữa, không còn nhanh nhẹn như khi người ta
mười bảy mười tám. Nhưng cái lưng gù, đôi mắt mờ xạm, cái trán dăn deo không hẳn
phải là kết quả của bốn mươi năm đã sống.
Ngồi nghĩ lại tôi chỉ nhớ giữa niên khóa thứ ba anh Niệm tự
nhiên bỏ học về nhà. Rồi bẵng đi hơn hai chục năm, tôi không nghe thấy nói đến
anh nữa. Hình như một lần anh tôi bảo tôi rằng anh Niệm về làm thư ký riêng cho
cậu là một ông quan đại thần ai ai cũng biết tiếng.
Đời riêng anh Niệm tôi không biết. Tôi không rõ anh ấy sống bằng
cách gì, anh ấy giàu, hay nghèo, khổ sở hay sung sướng. Chẳng qua nhận thấy cái
buồn vô hạn trong con mắt anh, và ngắm cái dáng điệu rụt rè của bước đi chầm chậm,
tôi đoán hiểu một đời khúm núm, nhút nhát trong một gia đình quyền quý. Thế
thôi.
Nhưng hôm đó về nhà, tôi lại nhớ đến một người khác, một người
nghèo đói hơn anh Niệm nhiều. Người ấy hiện là một bác nho xác, nghiện ngập ở một
huyện kia mà mấy tháng trước đây tôi đã gặp mặt và được nghe thuật lại tiểu sử.
Người ấy ngày nay trông tiều tụy quá, na ná như một nhân vật trong tiệm thuốc
nâu: nước da đen xạm, môi vếu ra vì má hóp xuống sâu quá. Hai con ngươi, dưới cặp
mí hum húp, mờ như đôi kính bám đầy bụi và lờ đờ, lười biếng, không buồn đưa đi
đưa lại nữa; khi muốn nhìn phía nào, cái đầu to phải quay hẳn về phía ấy, cái đầu
như vặn chốt quá chặt vào cổ, cử động rất thong thả, khó khăn.
Con người ấy, con người hầu không còn tinh thần ấy, đã một thời
oanh liệt. Nói oanh liệt thì có lẽ hơi quá, nhưng người ấy đã khiến cả một tỉnh
biết đến tên, và đã làm cho cái tuổi thơ ấu của tôi phải kính phục là một bực
thiên tài, như kính phục của một ông trạng nguyên trong tiểu thuyết Tàu vậy...
Năm ấy tôi theo học lớp dự bị trường H.Đ. Cái tiếng tăm lừng
lẫy về học vấn, về thông minh của anh Thư - tên người nho - luôn luôn vang động
trong tai tôi - Anh Thư có đủ mọi tài.
Một lần anh quên không học một bài sử ký dài, thế mà sáng hôm
sau đi từ nhà đến trường, anh thuộc trơn tru. Lại một lần đến lớp anh mới nhớ
là ngày phải nộp bài luận Pháp văn mà anh chưa làm. Tức thì anh cầm bút ngoáy một
mạch kín hai trang. Đó là nhũng truyện người ta thường kháo với nhau. Người ta
còn đồn lắm điều lạ lùng về anh nữa, chẳng khác những sự xảy ra trong thời thơ ấu
và thiếu niên của các ông trạng Hiền, Mạc Đĩnh Chi vậy.
Trước kia, trường H.Đ chỉ có từ lớp trung đẳng trở xuống. Năm
ấy vì anh Thư, ông đốc Khoát mở thêm lớp cao đẳng, lớp nhất. Nhưng nói là lớp
nhất cho long trọng thôi, kỳ thực vẫn chỉ có một lớp. Hơn được cái biển sơn
đóng trên khung cửa với hàng chữ: “Cours Supérieur et Moyen”. Và lớp nhất
cũng chỉ có một cậu học trò: anh Thư.
Rồi anh Thư đi thi “xéc-ti-phi-ca” và đỗ cao được “buốc”. Thời
ấy, học trò trường H.Đ đọc đến hai chữ “xét-ti-phi-ca” và “buốc” bằng một giọng
kính cẩn, khiếp phục.
Hôm anh Thư đỗ trở về trường chào thầy thăm bạn, chúng tôi cảm
động quá, coi như một ngày vẻ vang không những cho đời anh Thư mà cho cả đời
chúng tôi nữa.
Kể thì cũng đáng cảm động thực. Anh Thư là người đi thi bằng
tiểu học trước nhất trong tỉnh, lại là người được liệt tên trên bảng vàng trước
nhất. Có khác gì hai ông Lý Cẩm, Lý Tiến của nước Nam thời xưa khi người mình mới
bắt đầu học chữ Hán!
Để mừng một cách long trọng và xứng đáng cái tài cao, học rộng
của anh Thư, chúng tôi góp nhau mỗi người một xu, mua một hòm pháo thực to, rồi
nhờ bác loong toong treo lên cái sào dài mà đốt, tiếng kêu ròn rã lâu tới năm
phút đồng hồ.
Chúng tôi sung sướng vỗ tay reo cười. Người sung sướng nhất
là ông đốc Khoát, ông diễn thuyết khuyên chúng tôi theo gương anh Thư, chăm học
để sau này làm vẻ vang cho trường, cho thầy, cho chúng bạn. Chúng tôi cho đó là
những lời mỉa mai chúng tôi, vì tưởng như không bao giờ chúng tôi dám hy vọng
theo được cái gương sáng láng của anh Thư.
Buổi tối, ông Khoát đặt tiệc linh đình, mời các ông giáo và
chọn mỗi lớp hai người giỏi nhất đến dự. Ông đốc nâng cốc rượu tiết dê, đọc một
bài diễn văn nữa, dài hơn và hay hơn ầm ỹ hơn bài đọc buổi sáng nhiều, vì có lẽ
về nhà ông đã sửa sang lời nói cho được trơn tru và sang trọng.
Hai năm sau, tôi theo được gương anh Thư. Nhưng sự đắc thắng
của tôi chẳng ai biết đến, chẳng ai để ý tới. Vì năm ấy những bảy người thi đậu
mà năm trước lại đã có ba người trúng tuyển rồi.
Tôi vào trường Bảo hộ được một tháng, thì anh Thư bỏ học: cái
tài cao, cái chí lớn của anh mà ông đốc Khoát đã nhiệt liệt ca tụng, chỉ cao,
chỉ lớn có đến thế.
Bẵng đi hơn hai mươi năm. Mãi mấy tháng trước đây qua huyện
B... tôi mới lại gặp anh Thư. Nếu anh không chào tôi và xưng tên cùng kể lại
lai lịch thì tôi cũng không nhận ra được anh. Anh bảo tôi:
- Trông cậu vẫn thế nhỉ!
Anh quen cái lối xưng hô ngày trước. Bặt tin nhau lâu năm, ta
thường không kể tới cái thời cách biệt, và ta tưởng “cậu” bạn nhỏ của ta vẫn
còn nhỏ như khi xưa. Rồi anh hỏi luôn:
- Bây giờ cậu làm gì?
Nghe tôi nói tôi làm báo, anh cũng chẳng buồn hỏi để biết tên
tờ báo của tôi.
- Lâu nay tôi không đọc báo chí gì hết. Chán lắm cậu ạ... Tôi
chẳng để tâm đến việc gì... Chỉ sống cho qua ngày tháng.
Tôi an ủi anh mấy câu, nhắc lại để làm vui lòng anh cái thời
oanh liệt của anh. Anh cười rất buồn, hầu như mếu:
- “Chẳng qua là tại số phận cả. Ngày ấy tôi học hết năm thứ
hai trường Bảo hộ. Nghỉ hè tôi vào chơi ông chú làm Tổng đốc Nghệ An, dịch giúp
ông những giấy tờ ở bên tòa gửi sang, làm thông ngôn cho ông khi có các quan
tây đến chơi. Chú tôi yêu tôi quá. Mà tôi cũng mến chú tôi lắm, nhất thỉnh thoảng
xin cho ai việc gì lại được chú tôi ưng chuẩn ngay. Vì thế, trong có mấy tháng
hè, tôi kiếm được tới ba trăm bạc bổng.
Và vì thế, hết hè tôi lưu luyến không muốn đi học nữa. Chú
tôi cũng muốn giữ tôi ở lại giúp việc tuy không ngỏ ý với tôi.
Tôi từ biệt chú tôi ra đi, lòng do dự, trí chán nản. Và chẳng
bao lâu, tôi tìm cớ cãi nhau với ông giáo, rồi vùng vằng bỏ học, về xin làm thư
ký riêng cho chú tôi. Chú tôi vui mừng lắm, trả ngay cho tôi một số lương tháng
ba chục bạc. Ngày ấy còn hiếm người biết chữ Pháp.
Rồi tôi lấy vợ, sống một đời phong lưu cùng các ông phán bên
tòa chơi bời, hát xướng, tiệc tùng.
Song, tuy tôi kiếm tiền cũng khá, nhưng được bao nhiêu, tôi
tiêu hết bấy nhiêu, không bao giờ nghĩ tới tương lai...
Năm năm sau, chú tôi về hưu. Tôi cũng chẳng kịp lo lắng, sợ
hãi cho sự sinh hoạt của tôi. Và chú tôi đã hứa cấp cho ruộng ở nhà quê.
Về quê được hai năm, chú tôi qua đời. Không thể chịu nổi cái
tính hà khắc của các thím tôi, tôi bỏ ra đi...
Tôi đã theo đủ các nghề, từ nghề làm công ở các nhà buôn, đến
nghề phát vé ô-tô cho tới ngày nay ốm yếu phải làm nho, làm cái nghề không
lương này”.
Anh Thư kết luận bằng một cái mỉm cười đau đớn. Giữa lúc ấy
có tiếng gọi:
- Anh Thư, thảo xong tờ bẩm chưa?
Anh Thư vội vàng bắt tay tôi, rồi ho khàn khàn bước vào phòng
giấy.
Sín-Sáng
Ông ta là người Tàu.
Tôi cũng không hỏi để biết tên ông ta. Gặp ông ta ở nhà một
người bạn, thấy trong câu chuyện tiếng Việt Nam, cũng như trong câu chuyện tiếng
Quảng Đông bạn bè đều xưng ông ta là “Sín-Sáng”, nên mấy hôm sau, ông ta đến
thăm tôi, tôi cũng chào ông ta là Sín-Sáng. Rồi từ đấy cái tên Sín-Sáng như
thành hẳn tên ông ta, đến nỗi mỗi lần ông ta đến chơi, người nhà tôi đều bảo với
tôi: “Có ông Sín-Sáng”.
Sín-Sáng là một người bé nhỏ, da mặt xanh vàng. Y phục lúc
nào cũng chững chạc, lịch sự nữa: mùa nực một bộ gai sáng màu, mùa rét thay đổi
hai bộ dạ nâu và dạ tím kẻ dọc trắng. Cái mũ đã cũ nhưng chải chuốt rất sạch sẽ.
Còn đôi giầy vàng thì thường bóng nhoáng, có thể soi gương được.
Bạn tôi có kể cho tôi nghe cái đời phong trần của Sín-Sáng.
Trước kia Sín-Sáng giàu có lắm làm chủ mấy lớp nhà ở phố hàng Ngang. Nhưng vì
quá chơi bời phong lưu, nhất vì tính hay giúp đỡ bạn nghèo, nên nay ông cũng
hơi túng, có khi đã phải dạy tiếng Quảng Đông để sống.
Trước kia, một tuần lễ ông chỉ đến chơi tôi có một lần, vào
ngày Chủ nhật hay thứ Năm vì ông biết ngày thứ Năm là ngày tôi nhàn rỗi nhất.
Sau mấy câu hỏi thăm, và không chờ tôi mời ông ngồi ngay vào bàn đàn dương cầm
đánh chơi vài bài. Ông là một người tài hoa lỗi lạc, cờ cao, đàn hay và yêu văn
thơ, cả văn thơ Việt Nam. Nhưng bạn tôi cho tiếng đàn réo rắc, nhịp nhàng của
ông có ngụ một vẻ buồn êm đềm man mác nhưng tôi đoán rằng sự nhận xét ấy chỉ
căn cứ vào cái đời quá khứ của ông. Không rõ lúc mê man trong những âm điệu trầm
bổng, tâm hồn ông có sống trở lại, có nhớ tiếc cái thời phóng lảng thủa xưa
không? Tôi chỉ thấy một vẻ mặt thản nhiên và bình tĩnh, không vui, không buồn,
không bao giờ tỏ nỗi băn khoăn về cái đời thực tế eo hẹp. Hai con mắt sau đôi
kính sáng gọng vàng mềm bọc nhựa, cũng như cặp môi mỏng ngậm điếu thuốc lá thơm
mà ông để cho từ từ cháy, tôi không thấy lúc nào khác lúc nào. Có lẽ ông đã dày
dạn với trăm hình vạn trạng của cuộc đời đầy biến đổi, nên không một thứ gì còn
làm cho ông cảm động nữa.
Bẵng đi ba bốn tháng, Sín-Sáng không đến chơi, Chủ nhật hay
thứ Năm ngồi một mình xem sách, và nhấm nháp chén trà mạn sen nóng bốc khói
thơm, tôi lại nhớ đến người tri kỷ. (Sín-Sáng thường tự nhận là tri kỷ của
tôi).
Một buổi, giữa lúc tôi đang bận việc, cửa phòng giấy bỗng mở
mạnh ra sau mấy tiếng gõ kín đáo nhưng vội vàng.
- À! Sín-Sáng!
Tôi không giữ nổi cái mừng đột nhiên được gặp mặt người bạn
cách biệt đã lâu ngày.
- Ông bận làm việc phải không?
- Không... Cũng không bận lắm...
Chừng Sìn-Sáng biết tôi nói dối, nên tiếp luôn:
- Xin ông cứ làm việc. Tôi chỉ đến xem nhờ ông mấy tờ nhật
trình.
Tôi đưa cho ông ba tờ báo hàng ngày, rồi để tỏ ra rằng tôi có
thể tiếp chuyện ông được, tôi xếp giấy lại bỏ vào cặp và hỏi:
- Sao lâu nay Sín-Sáng không lại chơi?
- Tôi ốm. Ấy cái bệnh hen tôi mắc phải từ khi tôi ở Thượng Hải
khỏi hẳn được đến mười mấy năm nay, bây giờ nó lại phát ra.
Tôi ngắm Sín-Sáng quả thấy có gầy đi nhiều, hai con mắt sâu
hoắm, gò má đã cao càng gồ lên, nước da đã vàng sẵn càng xạm, càng dăn hơn trước.
Ông yên lặng ngồi xem báo, thỉnh thoảng lại húng hắng ho. Bỗng
ông cười ầm lên.
- Sín-Sáng có điều gì vui thế?
Chèn vào giữa dịp cười, một tiếng, một tên:
- Lư Cầu kiều.
Thì ra Sín-Sáng thích chí về việc Lư Cầu kiều. Và ông như vụt
khỏi hết các bệnh, không ho nữa tuy hút luôn hai điếu thuốc lá. Mắt sáng quắc,
hai má ửng đỏ, miệng cười rất tươi. Và tính tình ông mọi ngày điềm đạm, trầm mặc,
nay trái hẳn, đã trở nên bồng bột với sự vui sướng ầm ĩ.
Trong hai giờ chúng tôi chỉ nói toàn chuyện Trung-Nhật.
Sín-Sáng tin chắc rằng nước Trung Hoa ngày nay không còn là nước Trung Hoa của
bà Từ Hi dâm đãng nữa, nước Trung Hoa ngày nay là nước Trung Hoa của bốn trăm
năm mươi triệu dân Trung Hoa dưới quyền chỉ huy của một bậc thế giới anh hùng:
Tổng thống Tưởng Giới Thạch.
Rồi ông kể cho tôi nghe những mưu cao, những tài dụng binh
“Nã Phá Luân” của Tưởng Trung Chính. Nghe ông nói, người ta có thể ngờ rằng ông
đã một phen giữ chức thư ký riêng ở phòng giấy Tổng thống vì ông biết hết những
công việc đã làm và định làm, những sự nghiệp vĩ đại về quân lược, về kinh tế,
về chính trị của Tưởng. Và ông quả quyết rằng Tưởng không lầm lỡ bao giờ cả. Tưởng
tiễu cộng, đó là mưu của Tưởng để mua khí giới thực nhiều khí giới, Tưởng bị bắt
cóc tại Tây An, đó là mưu của Tưởng: Tưởng muốn thân cộng để lo toan việc chống
Nhật, nên ngầm ra lệnh cho Trương Học Lương bắt giam mình.
Đúng bốn giờ hôm sau, Sín-Sáng lại đến, tay xách một bọc gói
giấy màu nâu.
- Ông bảo đun nước pha trà man sen đi. Bánh ngọt đây!
Tôi cười:
- Thế thì còn ngôn gì nữa!... Chừng Sín-Sáng ăn mừng quân Tàu
thắng trận?
- Chính thế!
Sín-Sáng cười hè hè rồi nhìn tôi, hỏi:
- Ông có biết nhờ về thứ khí giới gì mà quân Tàu đại thắng
không?
Tôi mỉm cười, đáp:
- Chắc nhờ về đội pháo thủ chứ gì!
- Không.
- Hay phi cơ?
- Cũng không. Chỉ nhờ đại đao.
Ông đứng chao hai cánh tay gầy về bên phải một cái, về bên
trái một cái và nói tiếp:
- Một nhát đưa đi, một nhát đưa lại là rơi hai cái đầu.
Sín-sáng sung sướng quá, không lần nào nói nhiều bằng.
Tiếng đàn của Sín-Sáng cũng ríu rít reo mừng như tiếng cười
thích hoan hô thắng trận. Dứt một bài, Sín-Sáng lại ngừng để nói chuyện rồi lại
đánh sang bài khác.
Cứ nghe Sín-Sáng thì đại đao ghê gớm lắm, mà người Nhật hình
như cũng hiểu thế nên mỗi khi đánh nhau “giáp lá cà” họ thường dùng đến luồng
khói đen, khiến bên địch không trông thấy mình. Quân Tàu cũng tinh quái lắm, họ
cởi phăng quần ra rồi nằm bò xuống mà tiến: Lúc hỗn đả trong đêm tối, họ sờ soạng
vớ trúng người mặc quần là “xả” liền chẳng sai một nhát.
Cách đó mấy hôm - hai nước Trung, Nhật vẫn giữ nhau ở Lưu Cầu
kiều - Sín-Sáng mua hộ tôi một bản địa đồ nước Tàu và tự tay đóng ghim lên tường.
Từ đó, mỗi khi nói chuyện chiến tranh, ông không ngồi nữa, đứng luôn bên địa đồ
mà trỏ từng tỉnh, từng con đường, từng con sông, từng đoạn thiết lộ. Ông như đã
trở nên một bậc tướng súy thông thạo võ lược nhìn trận địa mà điều khiển việc
hành binh.
Sín-Sáng không còn một chút nhu mì của nhà nghệ thuật nữa.
Đàn không nhớ tới, và truyện chỉ quanh quẩn trong việc Trung-Nhật chiến tranh.
Và, vì thế, tôi xin thú thực, ông đã mất một ít cảm tình của tôi: Ngắm ông, tôi
thấy ông trái ngược với cái chí khí to tát kia quá! Nhiều lần tôi không khỏi mỉm
cười, cái mỉm cười mà tôi không dám chắc không nhiễm chua chát, mỉm mai. Khi
Sin-Sáng về rồi, tôi chợt nghĩ lại và rất lấy làm hối hận.
Thế rồi, hết thời kỳ oanh liệt đến thời kỳ thất bại, khốn đốn,
thời kỳ mất Bắc Bình, mất Thiên Tân, mất Bảo Định... Sín-Sáng sút trông thấy.
Người đã gầy yếu sẵn, Sín-Sáng càng gầy yếu thêm, như không còn đứng vững được.
Nhưng lòng Sín-Sáng vẫn vững. Sín-Sáng chưa chịu thua. Hy vọng
của Sín-Sáng còn nhiều. Bốn trăm năm mươi triệu dân Trung Hoa cùng một lòng
kháng địch thì lo gì không chống chọi nổi sáu mươi triệu người Nhật! Ngoài ra,
lại còn nước Anh, nước Nga, nước Mỹ giúp tiền, giúp khí giới. Không, Tàu chưa
thua, Tàu sẽ được. Cái thắng cuối cùng mới thực là cái thắng, mà cuối cùng Tàu
sẽ thắng Nhật. Sín-Sáng hy vọng như thế, tin chắc như thế.
Kế đến hồi Nhật bắt đầu đánh Thượng Hải Sín-Sáng cũng bắt đầu
đánh những khúc anh hùng ca. Một tháng ròng, mỗi ngày các báo lại đem đến những
tin tức làm phấn khởi lòng yêu nước của Sín-Sáng. Quân Tàu kháng cự hẳn hòi,
can đảm một cách lạ lùng.
Trên tường phòng giấy của tôi lại thêm được bức địa đồ Thượng
Hải mà Sín-Sáng đã mua giúp.
Về sau, tôi sinh chán truyện chiến tranh. Những tên Miến, tên
Trang, tên Trường, tên Hưng, tên Áp rối loạn cả trong đầu tôi. Hơn thế, những
tin trái ngược hẳn nhau đăng trên các báo làm tôi bực mình, không hứng đọc tới
mục Trung-Nhật chiến tranh nữa.
Chừng Sín-Sáng hiểu rõ, nên chỉ cặm cụi ngồi xem báo, yên lặng
mỉm cười nếu được tin Tàu thắng.
Song những ngày đến chơi của Sín-Sáng dần dần thưa, rồi bẵng
hẳn. Có lẽ Thượng Hải đã hoàn toàn vào tay người Nhật rồi nên Sín-Sáng không
xem báo nữa chăng? Phải, xem báo để đọc những tin thắng trận của người thì xem
làm gì?
Cách đấy mấy hôm, tôi gặp Sín-Sáng đi thất thểu ở một phố vắng.
Tôi chào hỏi, mời về nhà chơi. Sín-Sáng từ tạ rồi bảo tôi:
- Hão huyền cả, ông ạ. Anh, Nga, Mỹ, đều hão huyền cả. Còn hội
nghị Bruxelles thì trẻ con quá.
Đứng trước dáng điệu buồn nản, thân hình ốm yếu của Sín-Sáng,
tôi cố giữ mới khỏi bật cười, tuy tôi nhận thấy hết cả ý nghĩa hài hước của cái
hội nghị Bruxelles mà Sín-Sáng đã hy vọng nhiều quá.
Dưới ánh trăng
cùng viết với trần tiêu
Văn mướt mồ hôi, đọc đi đọc lại bức thư, lời lẽ quê kệch, vụng
về, chữ viết nguệch ngoạc, ngòng ngoèo trên trang giấy học sinh kẻ chì.
Ông Văn,
Thưa ông, em khổ sở lắm, em chỉ muốn chết thôi. Nhưng em chả
biết làm thế nào để chết được bây giờ. Từ khi thầy em biết em có tội thì ngày
nào cũng uống rượu say rồi lôi em ra đánh, vừa đánh vừa nhiếc. Còn bu em thời
chỉ khóc. Bu em bảo em viết thư cho ông. Em chả biết ông còn thương em nữa
không mà em viết, nhưng bu em bảo em cứ viết, nên em cũng viết, chứ em chả muốn
viết tí nào cả. Em đã bảo ông, em đã lạy van ông rằng ông chả lấy được em đâu,
thế mà ông không nghe ông cứ dỗ dành em, làm khổ thân em thế này, bây giờ em
còn mặt mũi nào dám nhìn thầy bu em nữa. Ông có còn thương em tí nào nữa thì
ông định liệu cho em phận nào, em được nhờ phận ấy. Thầy em mà bị làng bắt vạ
thì thực em làm cho nhà em xấu để đời. Vì vậy bu em bảo viết thơ cho ông để ông
cho tiền em với lại đưa em đi đâu cho qua kỳ sinh nở. Em bé dại chả biết gì,
nên em tin nhời ông, nhưng bu em chửi em, bảo em rằng ông lấy sao được em, ông
là con quan mà thầy em thì chỉ làm trương tuần, khi nào ông thèm lấy em, khi
nào cụ lớn lại để ông lấy em. Bu em nói thế thì em hiểu ra ngay, rồi em chỉ
khóc cả ngày cả đêm. Hôm xưa đứng ở bờ ao em đã toan đâm đầu xuống nước tự tử
cho xong đời nhưng em lại thương đứa bé ở trong bụng nó chả làm gì nên tội, nên
em lại thôi, nên không sao em chết được. Ông xem thư này xin ông nghĩ lại cho
em được nhờ.
Tẹo ký.
Văn hai tay ôm đầu ngồi suy nghĩ. Chàng không ngờ đâu lại xảy
ra tai hại đến thế. Ngọn đèn hiện trong chiếc bóng mờ tỏa xuống bàn giấy làn
ánh sáng dịu khiến chàng hồi tưởng tới đêm trăng ấy, cái đêm đã làm chàng trở
nên điên rồ.
Và chàng như thấy hiện ra cái sân rộng lát gạch bát tràng với
hai, ba chục người nhà quê vừa đàn ông, vừa đàn bà, con trai con gái quây quần
chung quanh những đống lá thuốc tươi.
Dạo ấy, Văn về thăm quê hương sau hơn bốn năm xa vắng. Chàng
theo học tại Hà Nội, mà cha mẹ chàng là ngành thư lại ở luôn chỗ làm quan, nên
ít khi chàng có dịp về làng. Lần này, chàng vừa đậu xong bằng tứ tài, cha mẹ
chàng thưởng chàng trăm bạc và cho phép muốn đi nghỉ mát ở đâu tùy ý. Chàng tưởng
ngay đến nơi đã sống với bà cả một thời kỳ thơ ấu.
Xế chiều, Văn về tới đầu làng. Những cảm tưởng man mác làm rạo
rực lòng chàng. Mỗi vật chàng gặp như một người bạn cũ hiện ra: Cái lạch nhỏ nước
vẫn đỏ, cái cầu bằng tre vẫn chênh vênh, vẫn lảo đảo mỗi khi có người sang, cái
cầu mà ngày còn nhỏ mỗi khi theo bác đi viếng mộ chàng phải để người ta cõng
qua. Trên lối tắt rẽ vào làng giữa nhưng bãi tha ma những thửa ruộng nước,
chàng vui mừng nhận ra từng cái khuỷu, từng quãng vòng, từng khóm chuối, từng bụi
tre. Nhất cánh đồng thuốc xanh rì, chàng thấy vẫn y nguyên như ngày xưa, với những
luống đất vuông vắn, cao ráo, với những cây thuốc bẻ ngọn đầy lá, to bản, với
những người con gái mặc áo vải nâu non hay áo lụa màu cánh kiến đổi vai the
thâm, ngoài thắt chặt chiếc dây lưng hoa lý.
Văn đương mê mải ngắm người và vật thì ở một vườn thuốc có ai
nói:
- Kìa! Hình như anh Văn?
Văn quay lại vui vẻ đáp:
- Phải? Văn đây!
- Ồ! Độ này trông anh ấy to nhớn nhỉ?
- Bốn, năm năm không về, làm gì mà chả đổi khác.
Văn vừa trả lời vừa trố mắt nhìn người đàn bà đứng dưới rãnh
vườn.
- Nhưng bà là ai mà nhận ra được tôi.
Có tiếng cười trong trẻo ở sau luống thuốc. Văn kiễng chân,
rướn cổ, nghiêng đầu nhòm, nhưng chỉ trông thấy cái nón ba tầm, và hai cánh tay
áo nâu:
- Ai mà cười ròn thế?
Người đàn bà cũng nhăn nhở cười theo.
- Cái Tẹo đây, anh còn nhớ cái Tẹo không nhỉ?
Cái Tẹo? Không, chàng không nhớ. Thấy Văn đứng ngây người suy
nghĩ, Tẹo bỏ nón, lại gần nói với người đàn bà:
- Đến bu, anh ấy còn chả nhận được nữa là con.
- À phải rồi, cô Tẹo, thế mà suýt nữa tôi quên.
Kỳ thực Văn vẫn chẳng biết Tẹo là ai, nhưng vì thấy cô bé
xinh xắn, hay hay, chàng nói liều thế để làm thân. Còn lạ gì cái tuổi ngoài hai
mươi đương bồng bột tình yêu!
Tẹo đắc chí lại cười:
- Ừ, có thế chứ. Tưởng nay anh đỗ ông phán ông tham anh quên
cả em.
Văn lo lắng nghĩ thầm: “Chết chưa! Em kia! Chẳng hiểu họ hàng
ra sao đây?” Rồi chàng đứng vơ vẩn nhìn Tẹo.
- Cô hái thuốc đấy à?
- Vâng, hái thuốc. Sáng mai anh sang nhà dì ăn cỗ mừng nắng
nhé?
Văn càng kinh hoảng: “Lại dì nữa! Dì mình hẳn là bu Tẹo”? Muốn
được chắc chắn, chàng hỏi:
- Thưa dì vẫn được mạnh?
Người kia vừa xếp lá thuốc lại thành chồng vừa đáp:
- Cũng khá thôi, anh ạ. Độ đầu năm tôi giã gạo, hụt chân xuống
hố, đau mất đến một tháng đã tưởng què, nhưng sau nhờ được bà cử Thuận cho ít
rượu... rượu gì, Tẹo nhỉ?
Tẹo cười:
- Rượu chổi!
- Ừ, rượu chổi. Tôi bóp có năm sáu hôm đã khỏi hẳn may quá,
anh ạ.
Văn vẫn chưa rõ người đàn bà, nhất là Tẹo với mình có họ xa
hay gần. Liền đánh bạo hỏi:
- Theo dì, tôi hỏi thế này khi không phải, dì bỏ qua đi cho,
dì với tôi có họ thế nào nhỉ?
- Ừ phải đấy, hỏi cho biết chẳng cứ gọi là dì mà chẳng hiểu
dì ra sao. Thế này này: bà với tôi là đôi con dì.
- À, đôi con dì!
Thực ra Văn cũng chỉ rõ bà kia với mẹ mình có họ mà hình như
lại họ xa.
- Quan lớn bà lớn có về chơi không anh?
Văn đăm đăm ngắm nghía hai bàn tay mềm mại thoăn thoắt tỉa lá
thuốc, chẳng để ý vào một sự gì khác, khiến người đàn bà đã nhắc lại câu hỏi một
lần nữa mà chàng vẫn không nghe tiếng.
Thấy vậy, Tẹo mò nhìn chàng, mỉm cười ngây thơ nói:
- Anh Văn điếc đấy, bu ạ.
Văn cũng cười, chẳng hiểu sao Tẹo lại bảo mình điếc. Nhưng
xách va-li đứng giữa đường nói chuyện, Văn chợt nhận thấy hơi khó coi, nhất những
người hái thuốc ở các thửa vườn lân cận lại cứ luôn luôn đưa mắt về phía mình
và khúc khích cười.
Chàng liền ngả đầu chào:
- Thôi, dì hái thuốc, tôi xin về.
- Anh về đấy à? Mai mời anh sang ăn cỗ mừng nắng nhé?... Hay
lại khinh nhà dì nghèo không thèm đến.
- Dì cứ nói thế!
Văn lững thững trở về nhà. Một lát quay lại nhìn: Bọn người
hái thuốc đã khuất trong lớp lá to bản.
Cha mẹ Văn giao cho một người em họ ở trông nhà. Nghe có tiếng
chó sủa người ấy vội chạy ra cổng thì vừa gặp Văn:
- Ồ! Cậu đã về. Quý hóa nhỉ. Quan lớn bà lớn có về không?
- Không, chú ạ.
- Cậu đưa va-li tôi xách. Sao cậu không bảo anh xe anh ấy
mang vào cho.
- Anh ấy gặp khách ngược, nên tôi để anh ấy kéo, chẳng nhỡ mất
của anh ấy một chuyến xe. Với lại cái va-li của tôi cũng chẳng nặng gì.
Rồi Văn hỏi luôn:
- À này, chú Vinh, cái Tẹo là con cái nhà ai thế nhỉ?
Ông lão cười:
- Sao cậu lại biết cái Tẹo? Nó là con chú trương Mẫn.
- Thế bà trương Mẫn có họ thế nào với nhà ta nhỉ?
- À, họ xa. Bà ấy với bà lớn nhà là đôi cháu dì.
- Sao bà ấy bảo là đôi con dì? Nhưng đôi cháu dì thế nào?
- Là thế này: bà ấy với bà lớn nhà là chị em con chú con bác.
- Thế thì xa thật!
Văn nghĩ đến Tẹo nên thốt ra câu ấy. Rồi sợ ông Vinh ngờ vực,
lại hỏi lảng:
- Có chỗ cho tôi ngủ không đấy?
- Có chứ.
Ông Vinh quay ra gọi:
- Bé ơi!
- Cái gì đấy, thầy?
Một người trẻ tuổi, to lớn, lực lưỡng ở dưới bếp chạy lên.
- Mày mở cửa gác quét dọn, lau chùi rồi lấy màn tây ra mắc
nhé. Chìa khóa tao treo ở đầu giường ấy. Để tao đi bảo bu mày vo gạo thổi cơm.
Mà kìa, thằng bé lạ chưa! Không chắp tay chào cậu à? Dễ nó quên cậu tú Văn rồi
đấy.
- Ồ! Cậu Văn! Bây giờ cậu nhớn nhỉ?
- Tôi hăm mốt tuổi lại chả nhớn!
- Thế thì hơn con hai tuổi.
Văn mơ màng ngước nhìn mấy ngọn cau, trồng bên tường hoa:
- Con gái làng ta đẹp lắm, chú Vinh ạ.
Ông Vinh cười:
- Ở xóm ngoài kia, chứ khu ta có quái ai?
- Thế cái Tẹo chả đẹp là gì?
- Ờ nhỉ! Cái Tẹo! Nó mới nhớn lên. Trông cũng khá... Tối nay ở
nhà chú trương Mẫn rọc thuốc đây.
- Thế à?
Kỳ thực, Văn chẳng hiểu rọc thuốc nghĩa là gì.
Cơm chiều xong, Văn ra sân lững thững đi đi lại lại quanh mấy
bồn hoa, tay lẩn mẩn ngắt những quả hồng khô, và những lá hồng bị sâu ăn lỗ chỗ.
Trời dần dần tối. Một lát sau, trên nóc nhà ngang, trăng tròn
đã mọc, lấp ló trong những cành trúc đào thưa lá. Dáng cây mềm mại, nhẹ nhàng,
Văn ví với dáng một cô gái quê yểu điệu thắt dây lưng ong. Và chàng nhớ ngay đến
Tẹo.
Bé qua sân Văn gọi, định hỏi thăm nhà bà trương Mẫn. Nhưng
khi Bé đến bên, chàng ngượng ngùng lại nói lảng sang chuyện khác:
- Bé ạ... cây trúc đào này... giồng từ bao giờ thế nhỉ?
- Thưa cậu, mới giồng được ba năm nay. Câu coi nó chóng nhớn
thế!
- Bé giồng đấy à?
- Thưa cậu không, mợ huyện giồng đấy chứ.
Mợ huyện là chị dâu Văn.
- À chị huyện có hay về không?
- Thưa cậu, mợ ấy về luôn đấy, về để mua thuốc, mỗi năm mợ ấy
mua có hàng vạn.
- Hàng vạn bạc?
- Không, hàng vạn bánh thuốc ấy chứ.
- Thế chị ấy không giồng thuốc?
- Không. Giồng làm gì. Bận chết đi ấy. Thường thường chỉ những
người nghèo mới giồng, người giàu chỉ việc bỏ tiền ra buôn, còn vườn thì cho
thuê.
Văn mỉm cười:
- Thế bà trương Man cũng nghèo? Vì bà ta cũng làm lấy vườn,
chứ không cho thuê.
- Bà ấy cũng chả nghèo. Nhà bà ấy nhiều người làm lấy được
thì tội gì mà cho thuê. Làm lấy được lãi lắm cơ, cậu. Có khi giồng một sào được
lời đến hơn chục bạc.
- Thế kia?
Văn chỉ cốt gợi chuyện để hỏi thăm Tẹo. Còn trồng một sào vườn
thuốc được lãi bao nhiêu, chàng có cần gì biết.
- À, này Bé, rọc thuốc thế nào nhỉ?
Bé cười:
- Cậu không biết rọc thuốc thế nào? Rọc thuốc là rọc lấy lá để
thái, còn cọng thì bỏ đi.
- Mày nói thế, tao còn hiểu sao được? Giá ở đây có rọc thuốc
mày đưa tao đến xem thì hay quá.
Bé ngẫm nghĩ:
- Tối nay nhà bà trương Mẫn rọc thuốc đấy, chắc vui lắm, vì
hôm nay bà ấy hái những ba sào.
- Nhà bà ấy có ở gần đây không?
- Gần, cậu muốn xem, con đưa đến. Giá con không phải ở nhà hầu
cậu, thì con cũng đã lại làm giúp rồi.
- Việc gì phải hầu tao. Cứ lại mà làm giúp. Đi, tao cũng đi!
Văn cố tránh, không đọc đến tên Tẹo để Bé khỏi ngờ vực, nhưng
tâm trí chàng chứa đầy hình ảnh và giọng nói, tiếng cười của cô hái thuốc gặp
lúc ban chiều. Đi bên cạnh Bé, chàng mơ mộng lẩm bẩm nói một mình: Đôi con dì,
đôi cháu dì.
- Thưa cậu bảo gì ạ?
- Không. À đôi cháu dì thì họ xa lắm, Bé nhỉ?
- Vâng, xa đến mấy ki-lô-mếch. Cứ kể con với cậu tuy chỉ là đồng
tông cũng còn gần hơn đôi cháu dì vì đồng tông thì cùng họ chứ đôi cháu dì thì
khác họ. Đấy nhé, cậu họ Hoàng. Còn bà trương Mẫn thì cùng họ Bùi với bà lớn,
nghĩa là đã họ ngoại rồi, đến như cái Tẹo lại họ Lê, còn dính dáng gì đến cậu nữa!
Có lẽ vô tình Bé đem Tẹo ra thí dụ, nhưng Văn cho là hữu ý.
Chàng lảng sang chuyện khác và hỏi Bé về công việc trồng hái, cách thức làm và
buôn, bán thuốc. Bé đem những tiếng nghề ra nói với Văn khiến chàng không hiểu
một tí gì. Chàng cũng chẳng cần Bé giảng rõ nghĩa. Mắt mơ màng, chàng còn mải
nhìn bóng trăng lướt trong cành tre lả ngọn giao nhau trên đỉnh đầu. Đường xóm
nhỏ, hẹp, quanh co, cây đèn dầu thấp thoáng qua khe giậu, tiếng khung cửi đều đều
một dịp, giọng hát ru em rời rạc buồn tẻ, cái cảnh thôn dã nên thơ ấy gợi trong
lòng gã thanh niên một mối tình man mác.
- Đêm trăng đẹp quá. Bé nhỉ?
- Vâng, trăng sáng quá. Mai thế nào cũng nắng to tha hồ mà mừng
nắng.
Văn nhớ ngay đến bữa cỗ mừng nắng mà bà trương Mẫn và Tẹo đã
ân cần mời chàng đến dự.
- À, cỗ mừng nắng là thế nào, Bé nhỉ?
- Là cỗ mừng nắng. Thái thuốc được nắng thì làm cỗ ăn mừng.
- À, ra thế? Ngày mai nhà bà trương Mẫn có cỗ mừng nắng đấy,
Bé có sang ăn cỗ không?
- Có chứ!
Ra tới đường làng và nghe có tiếng mõ, Văn chưa kịp hỏi đó là
mõ gì, Bé đã nói:
- Cỗ mai thế nào cũng có cá bể.
- Sao mày biết?
- Mõ bán cá đấy, cậu không nghe thấy à?
Văn cười:
- Mõ bán cá, hay nhỉ? Chẳng khác hàng sực tắc ở Hà Nội!
Mỗi vật trông thấy, mỗi tiếng nghe thấy, Văn đều cho là mới lạ.
Chàng có cảm tưởng đương sống trong một thế giới đầy tình yêu, đầy mộng ảo.
- Rẽ vào ngõ này, cậu.
- Tẹo ở xóm này?
- Vâng, bà trương Mẫn ở xóm này?
- Ừ, bà trương Mẫn.
* * * * *
Bé đưa Văn đi sâu mãi vào trong ngõ hẻm tối.
- Đây rồi, cậu a. Khéo cậu bước thụt xuống rãnh nhé.
Rồi đứng gọi:
- Chị Tẹo ơi! Mở cổng cho tôi mấy.
Tiếng ồn ào trong sân bỗng ngừng lại.
- Ai?
- Tôi đây mà.
Văn nghe rõ tiếng Tẹo ở phía trong cổng.
- Tôi là ai?
- Tôi là Bé.
- À, anh Bé! Sao không ở nhà hầu cậu Văn?
- Cậu tôi cũng đến đấy.
- Ồ, cậu Văn cũng đến!
Cổng mở tung ra. Tẹo chào Văn bằng một dịp cười ròn như tiếng
nhạc, rồi quay vào gọi:
- Bu ơi, anh Văn đến chơi đấy, bu ạ!
- Thế à?
Bà trương Mẫn đứng dậy chạy vội ra.
- Anh Văn đến chơi nhà dì đấy à? Quý hóa quá.
Văn nghe tiếng dì chả thuận tai một tí nào nữa. Nhưng chàng
cũng đáp:
- Vâng, tôi đến làm giúp dì đây.
- Thế nữa cơ à? Vậy mời anh vào.
Hơn hai chục người, vừa đàn ông, vừa đàn bà, con trai, con
gái cùng chào:
- Cậu Văn mới về đấy à?
- Chào cậu lại chơi.
- Không dám, chào các ông, các bà.
- Nghe nói cậu đỗ ông tham, ông tú, ông cử gì, vậy có ăn mừng
không?
- Có chứ! Tôi sẽ mừng một tiệc thuốc lào.
Tiếng cười phá lên, đủ các giọng cao thấp.
- Tưởng mừng cỗ bàn, rượu chè cơ chứ mừng thuốc lào thì chúng
tôi say chết.
Tẹo đã vào trong nhà bê ra một cái ghế lim lưng có hàng con
tiện, đặt ở bên thềm. Nàng bảo Văn:
- Mời ông tham ngồi chơi.
- Mời ông tú thôi!
Tẹo cười vui sướng:
- Vậy mời ông tú ngồi chơi... Nào ông tú, nào ông cử, nào ông
tham, còn ai nhớ được nữa?
- Cô cứ gọi tôi là anh Văn, dễ nhớ hơn...
Chàng ghé vào tai Tẹo thì thầm nói tiếp:
- Mà anh thích hơn.
Không hiểu đó là lời âu yếm, Tẹo lại cười:
- Vậy mời anh Văn ngồi chơi.
- Cám ơn cô nhé. Cô để mặc tôi.
Rồi Văn đi lại gần chỗ mọi người đương ngồi xổm rọc lá thuốc
với cái “móc” làm bằng sợi cước buộc vào đầu hai cái đũa tre. Họ làm việc rất
mau, hai bàn tay lanh lẹ đưa lên đưa xuống. Khắp sân tiếng rọc nghe xoèn xoẹt
như tiếng giấy, liền liền không ngớt.
Bà lý Bá tính vui vẻ nói bông đùa luôn miệng, làm cho chốc chốc
tiếng cười lại phát lên từng dịp. Bà ta hỏi Văn:
- Ông tú có biết rọc thuốc không?
Văn mãi ngắm nghía mái tóc lòa xòa và cái mũi dọc dừa của Tẹo,
nên lơ đãng trả lời:
- Biết chứ!
- Ừ, thế thì khá. Ở làng ta mà không biết rọc thuốc, cuộn thuốc
thì giai ế vợ, gái ế chồng!
- Thế kia à? Vậy chắc cô Tẹo thì đắt chồng lắm nhỉ?
Tẹo ngước mắt nhìn Văn, có vẻ giận dỗi. Bà lý nhìn nàng nói:
- Nó sắp sửa có chồng rồi đấy. Bao giờ tao được ăn giầu, hử Tẹo?
Tẹo vênh mặt, hất hàm tỏ hết vẻ đanh đá:
- Bà cứ, nói thế, chứ người ta thèm vào.
Văn tò mò hỏi:
- Cô ấy thèm vào ai thế, bà lý?
- Phải, nó thèm vào, chứ nó có thèm ra đâu! Con gái đứa nào
chả thế. Nói đến lấy chồng thì thích chết đi nhưng lại cứ...
Tẹo cau có:
- Cháu van bà đi...
- Nhao ôi! Rồi lúc thằng Nghĩa nó xỏ mũi nó lôi về, mới...
Vần như nói một mình:
- Cô Tẹo là vị hôn thê của anh Nghĩa...
Và chàng căm tức đứng nhìn Tẹo...
Ánh trăng giải xuống sân gạch bóng cây mít rườm rà đứng bên hồi
nhà ngói. Tiếng sáo diều trên không, ngân nga một điệu... Văn lặng lẽ cảm thấy
buồn mênh mông.
Rồi trong bọn người làm việc, những mẩu chuyện, những tiếng
cười rời rạc, thưa dần, tuy không lúc nào khác hẳn. Bà lý Bá bàn:
- Giá ai hát hay, hát nghe cho đỡ buồn ngủ.
Một người:
- Lại còn ai nữa? Chị Tẹo hát hay nhất làng đấy!
- Vậy chị Tẹo hát cho chúng tôi nghe một câu nào?
Không đợi mời đến hai lần, Tẹo đặt que móc trên đống lá thuốc
rọc rồi, mắt ngước nhìn trời, cất lời ca theo điệu trống quân:
Thân em như tấm lụa đào,
Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai?
Em ngồi cành trúc em tựa cành mai,
Đông đào, tây liễu biết ai bạn cùng?
Văn đứng phía trước, ngây người đăm đăm nhìn Tẹo. Và chàng ví
giọng Tẹo với ánh trăng rằm trong sáng, với mùa lúa chín thơm tho.
Trèo lên cây bưởi hái hoa,
Bước xuống ruộng cà hái nụ tầm xuân.
Bỗng nàng cúi xuống cười ngất:
- Hát cho tử tế! Cợt nhả thế không được!
Tẹo vừa cười vừa trả lời bà lý Bá.
- Khốn nhưng mà... anh Văn anh ấy... cứ nhìn chòng chọc vào mồm...
xấu hổ chết đi, ai hát được?
Văn cũng cười, rồi mê mẩn, ngây ngất đáp lại:
- Khốn, nhưng mà miệng cô hát xinh lắm cơ, cấm người ta nhìn
thế nào được?
Và Văn ao ước rằng Tẹo hiểu thấu ý nghĩa bóng bẩy của câu ấy,
vì chàng chỉ muốn nói: “Em đẹp quá, anh yêu em quá, nhìn miệng em hát anh chỉ
muốn hôn em một cái”.
Chẳng rõ Tẹo có hiểu như thế không, nhưng bà trurơng Mẫn thì
có lẽ hiểu như thế, vì bà bảo Văn:
- Anh cứ chế diễu em làm gì vậy. Nó quê mùa, xấu xí, lại đần
độn nữa, chả biết cái gì.
Tẹo nhìn Văn, mỉm cười rất thẳng thắn. Nhưng Văn tưởng như
cái mỉm cười ấy thì thầm bên tai chàng: “Em biết cái gì lắm chứ!”
Trăng càng lên cao càng trong. Và sân gạch mỗi lúc một thêm
sáng, vì bóng cây, bóng nhà, bóng người dần dần thu ngắn mãi lại. Hơi ở lá thuốc
lào nồng nàn bốc lên làm cho Văn nóng bừng mặt như say rượu: dưới ánh trăng
chàng ngắm thấy người, vật như đẹp hơn lên bội phần và trong đó, Tẹo như một
nàng tiên từ trên cung Nga là là bay xuống.
- Ô hay! Hát đi chứ! Sao lại cứ ngồi mà cười thế kia?
- Tôi chịu thôi.
Rồi Tẹo ngây thơ liếc Văn mỉm cười như có ý bảo:
“Tại anh đấy mà!”
Trong bọn có người nói:
- Cậu Văn làm chị Tẹo không hát nữa thì cậu hát đi!
- Phải đấy! Phải đấy! Cậu Văn hát đi cho chúng tôi nghe với!
Văn đứng mỉm cười mơ màng nhìn Tẹo. Ông trương Mẫn, người ít
lời, từ nãy vẫn ngồi im ở một góc sân, mãi bây giờ mới lên tiếng và thủ thỉ như
nói một mình:
- Cậu ấy học chữ tây thì biết hát xướng ra làm sao mà bắt cậu
ấy hát?
- Thì hát tiếng tây chứ sao?
- Ừ phải, hát tiếng tây. Cậu Văn hát đi!
Tẹo cũng nói:
- Anh Văn hát tiếng tây cho em nghe với nào!
Văn như mê mẩn, như điên cuồng, như quên rằng trong sân có
bao người đương để mắt vào mình. Dưới đất chàng chỉ trông thấy có một Tẹo và
trên trời một mảnh trăng trong.
Tẹo nhắc lại:
- Thế nào? Anh nhất định không hát?
Văn cươi:
- Ừ hát nhé? Hát cho cô Tẹo nghe, nhé?
Tẹo cúi gầm mặt xuống, chẳng hiểu vì thẹn hay vì sung sướng:
- Anh hát thì tất cả mọi người nghe, chứ một mình gì em.
Văn hắng dặng rồi hát một mạch hết bài Serenata, mặc tiếng
lao xao, mặc tiếng cười khúc khích chung quanh. Khi Văn ngừng lại thì tiếng cười
phá lên rầm rầm như lúc đê vỡ, nước sông réo chảy vào trong ruộng thấp.
- Hát tây buồn cười nhỉ!
- Hát như khóc ấy nhỉ?
Chờ cho tiếng cười im hẳn. Tẹo khen lấy lòng Văn một câu, vì
nàng tưởng Văn bị chế diễu thì xấu hổ:
- Anh Văn hát tây hay đấy chứ.
- Nghĩa là gì, anh giảng ra tiếng ta cho chúng tôi nghe với.
Văn cười:
- Nghĩa cũng đại khái như bài hát của cô.
Tẹo tưởng thực, kinh ngạc kêu:
- Ồ, lạ nhỉ! Tây mà cũng có những:
“Thân em như tấm lụa đào,
Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai?”
Văn càng cười to:
- Có lắm chứ!
Có lẽ Tẹo vờ ngơ ngác để được nói chuyện
tay đôi nữa với Văn:
- Có cả: “Em ngồi cành trúc, em tựa cành mai.
Đông đào, tây liễu biết ai bạn cùng?”
Bà lý Bá chừng đã chướng tai về những câu chuyện hình như kéo
dài vào chỗ buồn tẻ giữa đám người đã rời rạc, vì buồn ngủ, vì làm việc luôn
trong bốn, năm giờ không một phút nghỉ tay.
Trong yên lặng, người ta nghe xoèn xoẹt tiếng rọc lá thuốc và
tiếng sáo diều y-ô y-ô một điệu trên không. Thỉnh thoảng một cái ngáp lớn như
tiếng kêu cất lên ở một xó, tức thì ai nấy ngáp theo, trong đủ các giọng cao,
thấp, ngắn dài.
Làn không khí chán nản lan rộng mãi ra. Và sự mỏi mệt như đè
nặng lên những bàn tay uể oải. Văn chợt hiểu rằng mình ở xem đã khá lâu, liền
chào mọi người để về nhà.
Tẹo vội đứng dậy, cuống quít hỏi:
- Anh về à? Ồ sao lại về?
Bà trương Mẫn cười bảo con:
- Con này nó ăn nói ngớ ngẩn nhỉ? Sao lại về? Anh ấy chẳng về
thì dễ ngủ đỗ lại ở nhà mày à?
Câu nói vô tình, thật thà của bà trương làm cho Văn mỉm cười
sung sướng. Chàng thì thầm bảo Tẹo, khi nàng theo hàng ra cổng để cài then:
- Anh ngủ đỗ nhà em một tối có được không nhỉ?
Nhưng Tẹo cũng thật thà như mẹ, đáp lại liền:
- Được chứ! Anh cứ ngủ đỗ, nhà em cũng có màn, anh không sợ
muỗi đâu.
Thấy Bé đi sau Tẹo, Văn ngượng ngùng nói:
- Sao mày không ở làm giúp bà trương?
- Con phải về hầu cậu.
Văn gắt:
- Tao không cần mày hầu. Cứ ở lại.
Chàng mỉm cười gật chào Tẹo một lần chót, rồi theo ngõ hẻm ra
đường.
Về nhà, Văn không sao ngủ được, lòng băn khoăn, rạo rực về những
sự êm đềm nơi thôn dã mà chàng như mới được làm quen lần đầu.
Tỳ tay thành cửa sổ thấp trong căn gác nhỏ, Văn ngắm trăng
không chán. Chàng tưởng tượng chị Hằng gửi xuống tặng chàng một nụ cười thân mật
và khuyến khích. Bất giác, chàng lẩm bẩm hát:
Thân em như tấm lụa đào,
Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai?
Và mơ màng nghe văng vẳng tiếng cười ròn của Tẹo theo gió biển
bay đến bên tai. Lúc ấy, những hình ảnh các cô gái Hà thành, dù có hiện ra
trong trí nhớ chàng, chàng cũng chỉ thấy mờ xạm, kém tươi, không đáng chú ý.
Sáng hôm sau, Văn thức giấc, thì mặt trời mọc đã cao, chiếu
qua những khe cửa sổ ghép vụng và lâu ngày phơi nắng phơi mưa, đã hở mộng. Văn
ngơ ngác nhìn trần nhà, nhìn những đôi câu đối treo ở tường, nhìn những đồ đạc
sơ sài, một cái bàn và bốn cái ghế lim, một cái gương đứng mờ và mốc loang lổ,
một cái tủ gỗ để mộc, một bộ ghế ngựa làm bằng hai gụ đặt ghép lại nhau. Và
chàng quên hẳn không biết mình nằm ở đâu. Mãi lúc nhớ giấc mộng đương dở dang,
chàng mới sực tỉnh. Thì ra hôm qua chàng đã về làng, đã gặp Tẹo, mà cái gác
chàng đương ở là nhà chàng.
Văn mỉm cười, mắt lim dim, ước ao rằng giấc mộng lại nối.
Giữa lúc ấy, chàng nghe có tiếng động, và biết Văn đã dậy, Bé
ẩy cửa bưng vào một cái chậu thau vừa đánh vàng bóng, nước đầy quá, sánh cả ra
ván gác:
- Mời cậu rửa mặt rồi xuống nhà xơi cơm.
Văn chau mày, gắt:
- Cơm nươc gì bây giờ? Mấy giờ rồi?
- Con không biết, nhưng mặt giời lên đã cao lắm.
Văn với áo vắt ở ghế, rút đồng hồ ra xem:
- Ồ! Thế mà trưa thực! Gần mười giờ rồi đấy.
- Đấy nhé!
- Vậy sắp cơm mau.
Văn ăn rất vội vàng, rồi rủ Bé cùng đi sang nhà bà trương Mẫn
xem thái thuốc.
Tẹo đương bận làm cơm ở nhà dưới, nên Văn không gặp mặt.
Chàng ngơ ngác đứng đưa mắt tìm khắp mọi nơi.
- Cậu ạ, hôm nay nắng to thuốc nhà chú trương tha hồ tốt.
Bé nhắc, Văn mới kịp để ý đến cái sân gạch tối hôm trước, hôm
nay lại bị che kín dưới những xảo thuốc sợi còn xanh. Ánh nắng gay gắt. Hơi thuốc
nồng nực bốc lên. Văn, nước mắt ứa ra, đứng hắt hơi liền liền.
- Anh Văn sang mừng nắng nhà dì thực đấy à? Quý hóa quá nhỉ!
Văn chào được một câu rồi lại cúi xuống hắt hơi.
- Thôi, anh không quen thuốc lào rồi. Vậy mời anh lên nhà.
Văn theo bà trương đi vòng qua ba gian nhà ngang. Ở đây trên
hai đống thuốc vừa thái, ba người đàn ông và bốn đứa trẻ con đương đạp cho sợi
nhàu ra, những giòng nước thuốc đen chảy xuống sân và gặp sức nóng khô lại từng
đám.
Gần đấy và cả ở hiên nhà trên, những đá thái thuốc dài trông
như hình những con bò cạp khổng lồ đứng xếp hàng và rướn cong đuôi lên. Ngồi
trước đá, những người thợ thái thuốc tay phải cầm vào giữa sống một con dao dài
không chuôi và mềm mại nhịp nhàng đưa lên đưa xuống. Tay trái họ đẩy dần dần cuốn
thuốc đặt trên đá và quấn lại như bó giò. Thỉnh thoảng người ta lại dừng tay hoặc
để cởi dây lạt, hoặc để liếc lưỡi dao lên viên đá màu lớn.
Bà trương trỏ một người bảo Văn:
- Chú Anh giỏi nhất khu đấy. Anh trông tay chú ấy thái có nhẹ
nhàng không? Mà đây này...
Bà ta cúi xuống bốc một nắm thuốc xanh, nói tiếp:
- Một trăm sợi như cả một trăm, chẳng sợi nào to, sợi nào nhỏ.
Người thợ được khen, không chút mừng rỡ hay cảm động mặt vẫn
lì lì và đỏ bóng như mặt ông tượng ở ngoài chùa, tay vẫn đều đều như cái máy
đưa lên đưa xuống.
- Ồ! Anh Văn sang ăn cỗ mừng nắng nhà dì?
Văn sung sướng quay đầu lại: Tẹo và hai người đàn bà nữa, mỗi
người bưng đặt lên ghế ngựa và phản kê ở hai gian bên, một mâm gỗ sơn đầy thức
ăn. Rồi lại đon đả, chạy vội xuống nhà để bưng mâm khác.
Văn đứng ngây nhìn Tẹo bước đi lượn lại và cười khúc khích mỗi
lần đến gần chàng.
- Cỗ to, cô Tẹo nhỉ?
- Gớm! Anh cứ chế nhà em làm gì thế?
- Ô hay, tôi chế đâu? Tôi khen đấy chứ!
- Cỗ nhà quan có gì mà to. Bì thế nào được với nhà quan lớn,
bà lớn?
Lúc ấy một ông cụ già chống gậy trúc từ cổng đi vào.
- Kìa chào cụ xã. Cụ sang mừng nắng cho nhà cháu.
Cụ xã trừng mắt nhìn Văn:
- Cậu tú Văn đấy, phải không?
- Vâng thưa cụ, tôi sang mừng nắng.
Ông lão giọng cười yếu đuối xen lẫn tiếng ho xù xụ.
- Thế nào? Đã xem thuốc chưa?
- Đã, tôi xem rồi.
Bà trương bảo Văn:
- Cụ xã Nhân hỏi anh đã xem thuốc của các ông phó để định thưởng
cơ.
Văn ngơ ngác:
- Định thưởng?
- Ừ định thưởng. Thế này này: Mỗi ông phó thái xong một cuốn
thuốc mình lại bốc lấy một nắm sợi, rồi khi thái xong tất cả, xem người nào
thái khéo nhất, mà nhanh nhất thì cho thưởng.
Văn mỉm cười:
- Ồ hay nhỉ! Thì ra tôi cũng được làm một khảo quan kia đấy!
Bà trương chẳng hiểu khảo quan nghĩa là gì, cũng trả lời liều:
- Ấy, chính thế.
Rồi bà quay ra bảo bọn thợ:
- Thôi, các ông phó nghỉ tay xơi rượu đã.
Văn được mời lên cỗ cao nhất, cùng mâm với ba ông cụ già, râu
bạc lưa thưa. Nhìn sang phản bên kia, chàng thấy Tẹo và năm người đàn bà vừa ăn
vừa chuyện trò huyên thiên. Chàng chỉ muốn nhập bọn với họ, vì ba ông lão ở mâm
chàng như câm như điếc, chỉ nghĩ đến có ba việc: gắp, nhai và uống rượu.
Văn vừa ăn cơm ở nhà nên hãy còn no, ngồi đưa đà nhắp chén và
nhỏ nhẻ ăn vài sợi miến trong bát thịt lợn ninh.
- Anh tú làm khách quá!
- Không đâu, dì ạ. Tôi ăn khỏe lắm.
Rồi chàng đứng dậy vươn vai, vì mặc tây và ngồi xếp bằng,
chàng thay mỏi chân quá.
- Bà có đôi guốc cho tôi mượn!
- Thế nào? Thôi à? Anh xơi cơm đã chứ.
- Tôi đứng dậy một tí cho dãn xương dãn thịt.
Bà trương cúi xuống gầm bàn thờ kéo ra đôi guốc da trâu của
chồng, rồi lấy vạt áo lau bụi cho bóng:
- Anh đi tạm đôi giầy của thầy nó nhé.
- Còn gì nữa!
Văn vờ ra đằng sau nhà một lát rồi lúc trở vào, đứng lại gần
chỗ Tẹo.
- Cỗ to quá, cô Tẹo nhỉ?
Tẹo cười:
- Thôi đi anh! To đâu?
- Lại chả to? Bốn bát nấu với đầy những đĩa lại có cả cá bể,
tôm bể, còn chả to thì thế nào mới to? Các bà không xơi rượu?
Cả bọn cùng phá lên cười, Tẹo nói:
- Chúng tôi đàn bà, con gái, ai lại uống rượu?
Văn vơ vẩn nhìn trời, bảo Tẹo:
- Chẳng biết tối nay trăng có sáng như tối hôm qua không nhỉ?
- Sao lại chả sáng. Tối hôm nay tôi sang làm giúp bên bác
khán Thảo.
Văn sung sướng nhìn Tẹo, cho đó là một câu hẹn hò. Nhưng Tẹo
thẳng thắn hỏi:
- Anh có đến làm giúp bác khán không?
Rồi cười khanh khách nói tiếp:
- Đến em hát cho mà nghe.
Văn đứng lặng nhìn Tẹo. Bỗng chàng rút đồng hồ ra xem. Tẹo tưởng
chàng coi giờ để về nhà:
- Thì anh hãy ở đây chơi đã. Về làm gì vội?
Nhưng Văn thản nhiên như nói một mình:
- Mới ba giờ, còn những bốn năm giờ nữa mới có trăng.
Luôn mấy tối, Văn lần mò đến các nhà trong xóm xem rọc lá thuốc.
Sự thực, chàng tới đó chỉ cốt để được gặp mặt Tẹo, để được nghe Tẹo hát, và cười
và âu yếm gọi mình là anh Văn.
Tẹo thì mỗi ngày một xinh đẹp hơn, vui tươi hơn, chăm chú điểm
trang hơn: vành khăn vấn rất tròn, mái tóc chải rất mượt, đường ngôi dẽ rất thẳng
và chùm hoa mộc tối nào cũng thay mới phảng phất đưa hương thơm mát.
Có tối, hai người gặp nhau ở đầu ngõ hẻm. Văn bảo Tẹo rằng
hãy còn sớm và rủ nàng đi dạo mát ngắm trăng. Tẹo chỉ đùa nghịch liến thoắng ở
chỗ đông người. Một mình đi bên cạnh Văn, nàng bẽn lẽn, thẹn thùng, cười nói nhỏ
nhẻ. Sự yên lặng của Tẹo dưới ánh trăng yên lặng càng làm cho Văn say sưa ngây
ngất tình yêu...
Thế rồi, một đêm, Văn dỗ dành đưa Tẹo về nhà...
Đêm hôm ấy, ngồi bên người yêu nằm ngủ thiếp trong giường,
chàng cảm thấy hết cả cái vô lý của việc chàng làm, của cái cử chỉ, cái hành vi
điên cuồng, khốn nạn. Buồn rầu, chán nản, chàng ra cửa đứng ngắm trăng: trăng
đã khuyết buông xuống cảnh vật một làn ánh sáng lạnh lẽo, không linh hồn. Những
ngọn cau như hàng phất trần lơ láo, ngớ ngẩn đứng im chờ gió. Chung quanh những
nóc nhà lợp cói, lợp rạ, màu xạm, co ro, chen chúc, đứng sát nhau bên những mẫu
tường đất cắm mảnh nồi vỡ, hay cành xương rồng bên những ao bèo, ao rau muống bẩn
thỉu. Và chàng tự nhủ: “Trời ơi, cảnh này mà mình cho là đẹp được, thì mình thực
trẻ con!”
Tiếng dệt vải trong đêm khuya đều đều một dịp mà mấy hôm trước
chàng nghe rất cảm động, rất nên thơ, nay chàng chỉ thấy buồn tẻ, khó chịu. Cố
nhớ lại những nét mặt các cô gái quê ngồi dệt trên khung cửi chàng như tưởng hiện
ra trước mắt một bọn xấu xí, nhem nhuốc luộm thuộm.
Văn rón rén đến bên giường, vén màn đứng ngắm Tẹo. Cái đẹp mơ
màng, ngây thơ đã biến mất. Chàng chỉ thấy Tẹo giống hệt các cô gái quê khác,
thô lỗ, đần độn, ngu ngốc. Cặp mắt mở, trắng dã, như nhìn thẳng vào mắt chàng,
cái miệng há hốc thở phì phò, một giòng nước bọt chảy từ một bên mép xuống khăn
giải giường. Chàng cáu tiết gọi:
- Tẹo?
Tẹo vẫn ngủ thiếp, ngủ mê mệt. Văn cầm đầu lay mạnh, Tẹo ú ớ
hỏi:
- Cái gì thế bu?
Văn phì cười.
- Dậy bu bảo.
Tẹo ngồi nhổm dậy bước xuống ván gác.
- Tôi ở đâu thế này, nhỉ?
- Tẹo ơi, anh Văn đây mà!
Tẹo mới chợt nhớ ra, mếu máo bảo Văn.
- Thầy bu em mà biết thì em chết mất.
Văn động lòng thương hại:
- Nhưng thầy bu em biết thế nào được? Vậy em về nhé, chẳng nhỡ
thầy bu biết.
Vừa nói, Văn vừa dúi vào tay Tẹo một tờ giấy bạc năm đồng:
- Năm đồng đấy chớ không phải một đồng đâu. Cất kỹ chẳng rơi
mất nhé.
Tẹo thật thà, ngây thơ buộc tờ giấy bạc vào giải yếm, rồi lẳng
lặng ra cầu thang gác.
- Thôi em về, anh Văn nhé?
- Ừ em về.
Và Văn bĩu môi ghê tởm nghĩ thầm “Nó chỉ thích tiền!”
Sáng hôm sau, Văn đi Hà Nội sớm. Chàng vội vàng hấp tấp như
đi trốn.
Và ngày hôm sau chàng quên hết, quên hẳn cảnh và người đã làm
cho chàng, trong mấy đêm, có cái ảo mộng của tình yêu.
Nhưng hôm nay đọc bức thư quê kệch, thực thà của Tẹo, Văn lại
thấy hiện rõ ra những cảnh đêm trăng ấy, hiện rõ với hết thảy những vẻ đẹp đã mờ.
Và chàng mê man, say sưa với những kỷ niệm êm đềm đến nỗi mai sau, nghĩ tới cái
tai hại của cuộc ái tình lãng mạn, ngắn ngủi, chàng mới biết hối hận về cái
thái độ cái hành vi không quân tử của mình.
Văn thở dài, đọc lại bức thư không biết lần thứ mấy.
Tâm trí rối loạn chàng đọc luôn miệng lại quên hết, những lời
trong thư. Nhưng một hình ảnh hiện ra trước mắt chàng: Tẹo với cái bụng chửa. Tẩn
mẩn và như làm một việc vô giác, chàng vừa đọc thư vừa cầm bút chì ghi vào mảnh
giấy mấy câu tóm tắt: “Tẹo có thai, Tẹo xin tiền, Tẹo toan tự tử”.
Một nụ cười ích kỷ. Văn tự nhủ thầm “Tự tử! Tự tử thế quái
nào được!” Cái ý nghĩ xúi con xin tiền của người mẹ làm cho Văn đỡ hối hận:
“Cho nó dăm chục bạc thế là xong. Việc gì mình phải loay hoay suy tính thêm bận
trí? Danh dự, thì làm gì có danh? Những việc như thế này xảy ra hàng ngày, nào
người ta có hối hận bao giờ đâu?”
Văn vò nhàu bức thư nhét vào túi quần, đứng dậy thản nhiên
đánh diêm hút thuốc lá: “Được! Mai ta gửi cho nó năm chục bạc, rồi xếp câu chuyện
vào một xó”.
Kim đồng hồ nhỏ để trên bàn chỉ mười hai giờ, Văn thay quần
áo rồi lên giường tắt đèn ngủ.
Bóng hàng chấn song sắt in lên màn ren, in lên chăn trắng. Bấy
giờ Văn mới kịp nhớ ra rằng đêm có trăng. Bao sự êm đềm ngây thơ nơi thôn dã nhẹ
nhàng thức dậy trong tâm hồn chàng, làm cho chàng rạo rực, không nằm yên được.
Chàng liền tung chăn, khoác áo tơi dạ đứng tì cửa sổ nhìn ra đường.
Một cái xe cao su buông mui kín mít chạy vụt qua. Văn tưởng
tượng đó là xe đưa gái đi ăn sương. Và chàng so sánh ngay Tẹo với một cô gái
giang hồ: “Hừ! Nếu Tẹo lảng vảng ra Hà Nội thì tránh thoát sao cái đời làm đĩ.
Một cô gái quê nhí nhảnh như thế mà ham tiền như thế, nhất lại có chút nhan sắc
như thế! Công tử bột nó chỉ tán qua một câu là mắc”.
Nhưng Văn thấy mình là một công tử bột. Chàng ôn lại những
câu đường mật chàng đã nói với Tẹo dưới ánh trăng trong. Và chàng nhận rõ những
tội ác của mình: “Người ta đương sống với cái đời giản dị bình thường của người
ta, tự nhiên mình về quyến rũ người ta. Rồi khi mãn nguyện lại bỏ mặc người ta,
như thế không gọi là khốn nạn thì gọi là gì?”
Văn cố tìm những cớ, những hoàn cảnh làm giảm tội cho mình.
Chàng nghĩ: “Nếu không xảy ra việc này, thì Tẹo cũng đến lấy thằng Nghĩa. Mà thằng
Nghĩa, mình đã gặp. Sống trọn đời với một thằng ngu ngốc, bẩn thỉu như thằng
Nghĩa thì Tẹo cũng chẳng sung sướng. Ta chẳng nghe thấy Tẹo chê bai, nguyền rủa
thằng chồng tương lai của Tẹo là gì! Phải, biết đâu làm tình nhân mình trong mấy
ngày, Tẹo lại không thích hơn làm vợ chánh thức một thằng đần độn, suốt đời dài
dằng dặc sống với nó trong gian nhà tranh tối tăm bên vũng bùn hôi hám”. Và Văn
nhớ lại câu ca dao mà Tẹo được chàng âu yếm đã thì thầm đọc bên tai chàng: “Một
đêm quân tử nằm kề”. Vế dưới Văn nghĩ mãi không ra, thành thử chàng cứ nhẩm đọc
đi, dọc lại mãi vế trên.
Chàng bỗng chợt cảm thấy hết cả ý nghĩa mỉa mai đau đớn của
chữ quân tử: “Quân tử mình còn quân tử với ai được nữa?... Mình tiểu nhân, mình
tiểu nhân!”
Văn thở dài đóng cửa sổ, lên giường nằm cố ngủ. Bức thư mà
chàng đã đọc đến gần chục lần và tưởng không thể nhớ được, bây giờ hiện rõ ra
trước mắt, hiện rõ ra với những nét chữ ngòng ngoèo, lệch lạc.
Sáng hôm sau, mãi hơn chín giờ, Văn mới thức dậy. Thân thể
chàng mỏi mệt nhưng tâm trí chàng bình tĩnh hơn. Việc thứ nhất chàng nghĩ đến
là bức thư ở phủ Thống sứ mà chàng nhận được cùng với thư của Tẹo. Chàng có đệ
đơn xin bổ tham tá, nên người ta đã trả lời thiếu bản sao cái bằng tú tài.
Cả buổi chiều hôm ấy, Văn bận việc đến nha học chánh, nên
quên nhãng được Tẹo. Nhưng buổi tối, khi ngắm trăng lên chàng lại nhớ.
Bực mình, chàng ra thuê xe đến chơi nhà một người bạn và cùng
bạn đánh luôn bốn năm ván cờ cho mãi tới một giờ khuya mới về ngủ. Song có ngủ
được đâu!
Luôn mấy hôm như thế, Văn hết đi đánh cờ lại đi đánh tổ tôm,
mạt chược. Nếu không thì chàng vào thư viện xem sách, xem tranh, nhất là xem
tranh. Thực chàng chẳng khác con đà điểu đứng trước tai nạn chúi đầu xuống cát
để khỏi trông thấy.
Cáu tiết, Văn liều: “Thì lỗi gì ở mình? Mà nếu có lỗi ở mình
thì cũng ở nó một nửa. Hay chẳng lỗi ở ai cả, thủ phạm chỉ là tại tuổi thanh
niên”.
Và chàng hiểu rằng muốn tâm hồn được bình tĩnh, chỉ có một
cách là quả quyết.
“Tình thế này không thể để lơ lửng được”. Rồi theo phép khấu
trừ trong toán pháp, Văn đem hết các lẽ ra so sánh:
“Trước hết, lấy Tẹo chăng?”
Văn mỉm cười không nghĩ tiếp nữa. Không thể lấy Tẹo được. Văn
cho là một sự dĩ nhiên không cần suy tính lôi thôi nữa. Người vị hôn thê của
chàng, tuy chàng không yêu, nhưng chàng cho là một người vợ tương lai rồi, chỉ
việc cưới thôi. Mà cho dẫu chàng nhất định không bằng lòng lấy người ấy, Tẹo
cũng không thể kế chân được. Vì sao? Vì một người như chàng không thể lấy một
người như Tẹo được.
Vậy chỉ còn hai đường một là giấu Tẹo một nơi để nàng đẻ
xong, rồi cho nàng ít tiền làm vốn, mặc nàng xoay sở lấy mà sống thế nào tùy ý.
Hai là gửi ngay cho Tẹo năm chục bạc.
Giấu Tẹo một nơi, Văn thấy điều đó không ổn một tí nào. Con
người há phải con mèo, con chó mà dễ giấu như thế. Ở làng bưng bít sao cho êm.
Vả muốn thuê nhà cho Tẹo ở Hà Nội thì tốn kém lắm, ít ra cũng phải có vài trăm
bạc. Tiền ấy đào ở đâu ra? Xin nhà chắc là không được rồi. Đi vay thì vay ở
đâu? Sau hết, rồi đời Tẹo sẽ ra sao? Tẹo làm nghề gì để nuôi sống thân mình và
đứa bé? Văn chỉ trông thấy một lối ra: làm đĩ.
Chàng cố xua đuổi cái ý tưởng hắc ám ấy đi nhưng nó vẫn bám lấy
trí nghĩ. Chàng như trông thấy đứa con chàng nay ở với người tình này của Tẹo,
mai ở với người tình kia của Tẹo. Rồi lớn lên, không nghề nghiệp, không nhà cửa,
nó sẽ trở nên một thằng ăn cắp, một thằng ăn mày ngồi la liếm đầu đường xó chợ.
Văn vội nghĩ tiếp xuống cái ý định thứ ba: gửi cho Tẹo năm chục
bạc và nói khéo với Tẹo rằng hãy chờ đợi ít lâu khi nào được bổ tham tá, sẽ đón
lên cùng ở với chàng.
Văn sung sướng đánh diêm hút điếu thuốc lá khác, tự cho rằng
công việc xếp đặt được như thế là ổn thỏa lắm rồi, là hoàn toàn lắm rồi. Chàng
mỉm cười: “Bà trương Mẫn tha hồ tấp tểnh mừng thầm rằng nay mai con được lên
làm bà tham... Nhưng rồi sao?...” Văn đương sung sướng, nên cái ý nghĩ về tương
lai ấy chàng có kể vào đâu! “Hãy biết bây giờ gửi tiền về cho Tẹo, để Tẹo qua kỳ
sinh nở, rồi sau muốn ra sao thì ra... Cùng lắm lấy nó làm lẽ, rồi bỏ lửng đấy
cũng chẳng chết ai!”
Văn lạc quan đến nỗi cái vấn đề làng bắt vạ chàng cũng giải
quyết rất dễ dàng: chàng sẽ về nói với hội đồng hương tộc rằng Tẹo là vợ lẽ của
mình. Nếu khó khăn quá thì đưa Tẹo sang làng bên ở trọ nhà một người tá điền của
nhà chàng.
Văn thích quá cười thầm: “Có thế mà mình loay hoay bốn năm
hôm nay không tìm ra”. Rồi cất tiếng hát vang nhà.
Đêm ấy Văn đánh một giấc ngon lành từ bảy giờ tối cho tới bảy
giờ sáng hôm sau.
Nhưng số tiền năm chục Văn xoay mãi không sao có. Vả lại cái
quả quyết của chàng một ngày một yếu đuối dần. Đến nỗi chẳng bao lâu chàng trở
nên bình tĩnh hẳn, bình tĩnh thản nhiên vì quá nhẹ dạ, chứ không phải cái bình
tĩnh giải quyết được ổn thỏa một vấn đề gay go.
Hơn tháng sau được tin bổ tham tá ở một tòa sứ, chàng về xin
nhà được mấy trăm bạc để sắm sửa đồ đạc. Có tiền trong tay, chàng nhớ đến Tẹo,
liền đi về làng.
Nhưng vừa tới đầu làng, Văn rụng rời kinh hoảng: người ta bảo
cho chàng biết rằng Tẹo bị đòn mãi và sợ làng bắt vạ cha mẹ, nên đã đâm đầu xuống
ao tự tử rồi.
Bất giác Văn nức lên khóc, khiến một đám đông xúm lại tò mò đứng
xem. Rồi chàng đi thẳng đến nhà bà trương Mẫn. Thấy bà ta vẫn vui vẻ như thường,
Văn hiểu ngay rằng cái chết của Tẹo chỉ làm cho bà sung sướng được thoát cái nạn
bị bắt vạ.
Văn ân cần xin lỗi bà trương, kể lể các điều dự định để lấy Tẹo
rồi đưa bà ta một trăm bạc. Mãi lúc ấy, bà trương mới rỏ được một giọt nước mắt
thương con.
Từ đó năm năm đến thời rọc thuốc, ở các sân gạch bát tràng,
dưới ánh trăng trong người ta thường kể câu chuyện tình của Văn và Tẹo. Và người
ta lại hát những câu Tẹo đã hát:
Thân em như tấm lụa đào,
Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai?
Em ngồi cành trúc, em tựa cành mai,
Đông đào tây liễu biết ai bạn cùng?...
Khái Hưng
Theo http://vietnamthuquan.eu/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét