Thứ Ba, 19 tháng 11, 2024

Lắng đọng một hồn thơ "Lan man cánh buồm"

Lắng đọng một hồn
thơ "Lan man cánh buồm"

Cầm tập thơ “Lan man cánh buồm” của Trần Tất Tiến tặng, tôi lại nhớ đến những năm thập kỷ 90 của thế kỷ XX anh đã có nhiều bài thơ đăng trên báo Văn Hóa Thông Tin thời bấy giờ. Đến nay anh đã có thâm niên làm thơ mấy chục năm. Hiện nay anh đã ra mắt 6 tập thơ khá chất lượng. Một số lượng chừng ấy, đủ để khẳng định anh là nhà thơ chính hiệu. Nhưng điều cốt lõi mà tôi bắt đầu khám phá, thơ anh mang đậm chất thi sĩ của một người biết chắt lọc ngôn từ, viết bằng bản năng sáng tạo có chất riêng và lạ.
Thơ Trần Tất Tiến quan tâm nhiều đến đời sống thực tại, mang đậm triết lý nhân sinh. Anh đã giải mã những con người đi qua số phận vui buồn qua bức tranh hiện thực đầy biến động để rồi đem về một hồn thơ trong trẻo, dư ba, khiến người đọc thích thú, bởi tính triết luận được hiểu sâu từ một trí tuệ cảm quan sâu sắc trong đời sống đương đại.
Thơ Trần Tất Tiến theo tôi hiểu đã có trong tiềm thức, tiềm tàng ở anh ngay từ thời kỳ học sinh phổ thông và thời sinh viên đại học, nên mới có sự dấn thân, sáng ngời chữ nghĩa như thế. Dường như, trong con mắt thơ của mọi người, anh đã hội nhập với dòng thơ đương đại không chậm phút nào. Điều tôi muốn nói, anh đã bước tới ngôi nhà thi ca bằng một nhãn quan có sự cách tân tìm tòi cái mới để tạo dựng cho mình một cá tính trong phong cách thơ riêng. Chà! người thế ấy thì phong vận thơ cứ tự nhiên mà đến như của trời cho. Anh viết thơ như cái nghiệp trả nợ cho đời. Thơ anh có giọng điệu riêng, thủ thỉ như với chính mình, vừa quyến rũ, vừa rạng ngời nét nghĩa, tạo nên thi cách Trần Tất Tiến, không lẫn với “bóng chữ” của cây đa, cây đề nào, trong làng thơ đất Việt.
Tập thơ “Lan man cánh buồm” càng đọc tôi càng yêu hơn, vì ở các tập thơ anh gần đây đã có bước chuyển về thi pháp. Đúng như cách hiểu của tôi ở trên, anh như con tằm nhã tơ cho thơ ngày càng óng mượt. Với 51 bài thơ trong tập là 21 lát cắt mở ra những trang mới cho đời, cho cuộc sống phồn sinh hiện hữu.
Nếu như trong tập thơ Giấc mơ lá đỏ ra sát liền kề với tập thơ hiện nay có không gian thi ca khá rộng, để lại cho đời với bao điều suy ngẫm thì đến tập thơ Lan man cánh buồm là một tâm sự ngổn ngang giăng mắc nhiều suy tư về thế sự, về quan niệm sống, về cách nhìn của quá khứ và tương lai được nâng cao hơn. Bên cạnh, chất lãng mạn có chiều sâu cảm xúc, khi anh viết về thiên nhiên, đất nước, tình yêu con người cũng dạt dào thi hứng. Mỗi bài mỗi vẻ, không đại ngôn nhưng cô đọng, tất cả đều toát lên những ý tưởng lớn lao mà cuộc sống khát vọng đang tìm đến.
Với tôi, khi nghiên cứu về thơ, thường đặt thi pháp học để soi chiếu, tìm ra điểm sáng thẩm mĩ. Ta biết thế giới nghệ thuật trong thơ là một phạm trù triết học, khi khai thác có thể đi từ cái chung đến cái riêng và ngược lại. Và tất yếu phải lấy ngôn ngữ, giọng điệu, hình tượng nghệ thuật, làm công cụ để tìm kiếm vẻ đẹp trong thơ, về các thao tác tư duy thơ, để khái quát được chủ đề và tư tưởng chủ đề, kể cả tìm các biện pháp nghệ thuật trong các lớp nghĩa làm thước đo giá trị thẩm mĩ. Từ cơ sở ấy, đặt thơ Trần Tất Tiến trong không gian nghệ thuật để tiếp cận, khám phá, mới thấy thơ anh không dễ đọc, mà phải đọc nhiều lần mới tìm ra “vị ngọt”, “vị đắng” của nó, mới tìm được tư tưởng tình cảm chứa đựng nhân bản hướng người đọc vào trường thẩm mĩ.
Mở đầu tập thơ với thi phẩm “Giấc mơ hoàng hôn”, hình như, anh có ý lấy hình ảnh hoàng hôn để nói về thời gian, nói về những suy nghĩ của mùa, của cuộc sống quanh ta mà anh đã từng bắt gặp, đi qua. “Ta vẫn gặp giấc mơ của mùa đi theo gió…/ Ta vẫn gặp giấc mơ lên trang sách của ngày…Nhưng có một điều ta không bao giờ quên/ Giấc mơ nào cũng hiện hữu khuôn mặt đêm/ Áp lên khuôn mặt ngày tình tự” (Giấc mơ hoàng hôn). Có lẽ, ở cái tuổi về chiều, qua bao sự chiêm nghiệm, anh muốn đưa ra một thông điệp: Dù bất cứ tuổi nào, làm bất cứ việc gì trong lĩnh vực nào cũng phải hướng về cái chân, thiện, mĩ. Vì thế khát vọng là định tính mà anh luôn vươn tới: “Em bình minh nắng hạ/ lại giao duyên trong buổi chiều về/ Để hóa thân muôn vàn tình yêu tuổi trẻ/ thít chặt vào giấc mộng mỗi hoàng hôn”.
Cách sử dụng cặp ý đối lập để hóa thân vào đam mê tuổi trẻ vẫn là thủ pháp mà trước đây các nhà thơ mới thường sử dụng. Song, ở Trần Tất Tiến không lùi xa trước cảnh sống hỗn tạp thời thế, mà anh đưa ra quan niệm: Giấc mơ nào hướng tới tình yêu đẹp chân chính là thước đo cho mỗi người hướng tới tương lai.
Thơ Trần Tất Tiến sáng tạo không nằm trong phạm vi hẹp mà còn chứa tạo trong phạm vi rộng dài, bởi tư duy thơ hiện đại. Nhiều bài anh viết được thấu cảm bằng tâm thức, bằng cái nhìn nhân văn da diết. Bài thơ “Lời hứa của con đường” đã dẫn nhà thơ đi rất xa để khai quật tìm ra những góc khuất của bóng tối mà có những người luôn tìm những điều giả dối trốn chạy.
Tập thơ “Lan man cánh buồm” của Trần Tất Tiến
Có phải chăng? Trong lòng anh luôn trăn trở về một cái gì đó rất xa xôi, mông lung đến ngỡ ngàng, nên một số bài thơ anh viết có âm dương đan cài, có hữu cực và vô cực, có vận động của biến thiên tạo hóa, có qui luật sinh hạn của loài người. Không phải ngẫu nhiên mà anh viết bài thơ “Lan man cánh buồm”; “Tia sáng hình mây biển”; “Đọc thơ người đã khuất”. Phải có một cái gì đó trong tâm tưởng, một ý niệm cao siêu, hiểu thấu đáo qui luật trong phạm trù triết học, anh mới có những bài thơ mang tính biểu cảm như thế! Trước thiên nhiên vũ trụ, thế giới của siêu nhiên, anh thả vào thơ một tuyên ngôn giản dị. “Nếu ta biết coi thân này là giả tạm/ Chỉ cần hai thước cỏ ven sông/ Đón mặt trời và một cánh buồm giong”-(Lan man cánh buồm).
Cái cách mà anh biểu lộ, hiện rõ tính cách của một nhà thơ có lòng tự trọng cao, sẵn sàng đón nhận “một cõi đi về” trong tư thế tri nhân của một thức giả trước mọi vận động qui luật đời sống. Ánh sáng và gió lộng, luôn tạo nghĩa để thơ anh chuyển động hướng về nghệ thuật tạo sinh. Và thế rồi những sắc mầu, những “Tia sáng hình mây biển” vẫn là món quà triệu năm đem lại cho ta “nuôi sống muôn loài”. Vì thế Trần Tất Tiến “Cứ mỗi lần trước biển mỗi bình minh/ ta nhận thấy con người may mắn quá/ Được thiên nhiên ban tặng món quà/ Những tia sáng mặt trời hình mây biển/ Xin cảm tạ người thiên nhiên bao la”.
Trước thiên nhiên anh độc thoại với thơ, có cả những dòng thơ nói với người đã khuất. Bằng những triết lý sâu xa qua cách độc thoại nội tâm, tự hỏi và trả lời, anh đã sử dụng ngôn ngữ thơ với giọng điệu nhẹ nhàng nhưng rất thấm, rất thành công, làm cho đối tượng được miêu tả phải tự vấn lương tâm:  “Ông tự hỏi/ Sao khuôn mặt thanh lịch vậy, mà tâm hồn nhỏ nhen, đố kị liên tài, vắng bóng lòng nhân ái, không đọc nổi những câu thơ giả dối, những câu thơ bay lên bầu trời, những tâm địa chìm trong vũng tối, nhà thơ già giở trang sách người xưa, thấy khuôn mặt họ, hiện theo số phận, những kiếp người trong hồn thơ đau đáu một thi nhân”. (Nói với người đã khuất). Một trong cách, nói xưa để hiểu gần, làm rõ ý ích kỷ hẹp hòi của bao kẻ tài năng thơ có hạn mà luôn nói chuyện chữ nghĩa, âu cũng là một cách nói hàm ngôn đầy thi vị trong thơ Trần Tất Tiến.
Cái duyên thơ anh đem đến cho bạn đọc, luôn đặt quan điểm nhân văn lên hàng đầu, vì thế mà thơ anh sáng lên một tấm lòng tinh khôi, gần gũi và tri âm với bạn đọc. Khi viết về cảnh quê, tình quê, bạn bè, anh sử dụng ngôn ngữ mượt mà, uyển chuyển, kể cả hình ảnh, nhịp điệu để trở về nguồn cội bằng tâm thức, bằng cái nhìn tư duy hiện đại. Bài thơ “Nói chuyện với nhà thơ” là một bức tranh đượm mầu thế sự, mang tính triết lý sâu sắc: “Chiều đông nói chuyện đồng quê, mấy quả táo xanh chấm ớt, thế là đủ để anh diễn thuyết…Trần Tất Tiến không quên ám chỉ chuyện đời và luôn coi trọng câu nói của nhà thơ Goeth người Đức: “Mọi lý thuyết là mầu xám, chỉ có cây đời mãi xanh tươi”.
Anh thường tâm sự, nhà thơ phải đi từ thực tế, không hảo huyền, mỗi câu thơ viết phải có giá trị thực tiễn, giúp ích cho đời, cho xã hội và ngược lại nếu nô lệ vật chất đánh đắm trí tuệ sẽ vô tình rơi vào vực thẳm. “…đang từ đỉnh cao văn chương, anh đột ngột nói về đồng tiền, với niềm khát khao nô lệ, những nếp nhăn biến mất. Và chiều ấy anh đã vô tình đưa người nghe rơi xuống chân thác/ Hãy khoan nói về điều cao siêu, hãy nhìn chiếc áo sờn anh mặc, không thể trách anh, không thể trách ai khác, chỉ còn một cách trách trời chiều”- (Trò chuyện với nhà thơ- Thơ Trần Tất Tiến). Thơ Trần Tất tiến còn có độ cao siêu triết lý, lồng ghép với những ý niệm tưởng như vô lý mà lại có lí đến tận cùng. Bài thơ “Ngày xuân lan man chuyện lão” của anh với gần một trăm câu thơ là một tự sự được hiểu như một trường ca thu nhỏ. Ở đó có việc đời, việc xã hội, những điều răn dạy đã trải dài qua nhiều sự việc, có tính đúc kết giàu tính nhân văn. Có những điều đã phủ lên lớp bụi thời gian, mà đọc lên vẫn mới. Đó là suy nghĩ của “Người già thảnh thơi đọc sách” vẫn không quên chia sẻ những niềm riêng. Đó là những câu chuyện ứng xử với đời nhưng vẫn không quên nhân tình thế thái, đến những vận động của các hiện tượng xã hội xoay vần.
Trần Tất Tiến là người giỏi tiếng Anh. Anh chịu khó đọc sách. Anh coi sự đọc là phép mầu để nâng cánh tri thức, để tầm hiểu biết của anh thêm mở rộng. Thơ cũng vậy, nhiều bài thơ anh viết, giàu suy tưởng, chiêm nghiệm cao. Hình như tất cả đều bắt nguồn từ những chuyến công tác trong và ngoài nước, nên thơ anh cứ lặng lẽ âm thầm ngấm vào lòng người đọc bằng những men say của chất thơ trữ tình sâu lắng. Ngoài bài thơ “Đọc sách; Số không; chuyện vặt…” thuộc loại hình thơ tự sự, Ta còn bắt gặp anh là người viết thơ trữ tình có nét rất duyên trong trường thơ mà anh sáng tác. Đây cũng là thế mạnh của anh. Với bài thơ “Mùa đi”, tôi xem nó như một khúc ca dạt dào thi tứ. “Tôi viết bài thơ mùa đi, khi mùa xuân mới bắt đầu bật nhựa, tiết lộc căng mình nhú trên kẽ lá, bời bời đêm sương phủ mặt non tơ”. Trần Tất Tiến đã sử dụng nhiều tính từ trong ngôn ngữ miêu tả trong thơ như: “náo nức, “tinh khôi”, “mãnh liệt”, “non tơ”, “khát khao” để diễn đạt cái ý, cái tình thật lôi cuốn.
“Mùa xuân nào con người cỏ cây không náo nức
Không huy hoàng một bứt phá tinh khôi
Những cái khát khao của hạt mầm đang chờ tách vỏ
Là mãnh liệt sống còn hơn cả mọi sinh linh”.
Trong cách miêu tả, bao giờ anh cũng sử dụng hình tượng ngôn ngữ đặc tả. Có khi là một âm thanh chuyển động với hình ảnh đàn chim bay về theo hai hướng Bắc Nam, báo hiệu khi thời tiết chuyển mùa. Và trong cái khoảnh khắc ấy, anh không quên nhớ tả về loài chim Hồng Hạc, dù bay về đâu vẫn nhớ về cố thổ đất phương Nam. Đó là một sáng tạo làm cho thơ anh có phong cách rất riêng.
“Đến mùa thu ta lại nghe tiếng hạc
Bay về Nam hưởng nắng ấm nồng nàn
Những chú chim di cư mùa mùa xuôi ngược
Đã cảm nhận chân lý sinh tồn”.
Trong dạng thơ trữ tình, anh không quên có những bài thơ viết về chủ đề tình yêu. Đây là một dạng thức mà trong nghề làm thơ từ cổ chí kim ai cũng sẽ có những bài thơ tình ghi dấu ấn của mình. Trần Tất Tiến là người không ngoại lệ. Với anh, thơ  tình, anh có cả hàng trăm bài thơ. Ngoài những phút giao cảm cùng thơ, anh còn có cả những khoảng lặng để nhớ về dĩ vãng. Phải chăng, thơ tình đã làm nên ngọn lửa để anh có được những vần thơ cháy bỏng thăng hoa: “Ngón non tơ vê ngực trần hoang cỏ/ Rơi vào đêm hun hút gió eo bờ/ Mỗi lần mơ về nơi xa vắng ấy/ Lại nhập nhòa áo trắng nét mi cong/ Cho ta xin đêm nay lần cuối/ Dĩ vãng trôi về hoa tím rực đời sông”. Thơ tình của Trần Tất tiến thường mượn sự vật thiên nhiên để ngụ tình. Bài thơ cỏ non 3 đi vào lòng người thật đáng yêu: “Ai năn nỉ mấy cỏ buông lời ước vọng/ Chút riêng mình phơi nhúm cọng mưa xuân/ Thân cỏ thế một đời em dâng tận/ Rồi lại chìm trong mặt bích nõn nường”. Trần Tất Tiến có nhiều phút giây xuất thần, chỉ nhìn em có đôi mắt mi cong quyến rũ, anh có ngay một tứ thơ hay đến ngỡ ngàng: Tả về em, anh phô nét mi đen/ Mẹ trao em hàng mi cong vút tận/ để mỗi chiều sau hoàng hôn lấn cấn/ Anh đợi chờ mi cong gọi tên…/ Rồi mỗi ngày, hàng mi ấy cong thêm/ Như ngọn lá đâm rách chiều ngột nắng/ Xin mi đừng cong, xin mi đừng thẳng. Gửi lại hồn ta, chớp mi nét không nhòa. (Hàng mi).
Ngoài thơ tình là thế mạnh của Trần Tất Tiến, anh còn một mảng thơ đấu tranh với hiện tượng tiêu cực rất diệu nghệ. Từ cái tâm thổn thức, trách nhiệm với đất nước, muốn đất nước ngày càng phát triển, Trần Tất Tiến có nhiều bài thơ hay, đọc lên không thể bỏ qua. Bài thơ Đêm rừng sâu (phần 2) là bài kết của tập thơ đã vọng lên tiếng chuông cảnh tỉnh của anh về thái độ sống vô trách nhiệm của một số người đối với môi trường. Họ đã phá rừng, phá thiên nhiên, phá tất cả những gì mà bao đời ông cha ta gây dựng. Chính trong “đêm rừng sâu” ấy, nhà thơ mới thấu hiểu; “Những doanh nhân ngồi đâu cùng bàn chuyện kiếm tiền/ Dù họ đã có rất nhiều tiền, tiêu mấy đời không hết/ Lòng ham muốn giàu sang, khiến con người kiệt sức/ Tranh giành nhau và giành giật với thiên nhiên, và để lại những khoảng trống của đất”. Đọc bài thơ này tôi càng trân quí với trách nhiệm của nhà thơ hơn lúc nào hết. Thơ viết về đề tài sinh thái, Trần Tất Tiến với sáng tạo nghệ thuật, xứng đáng là nhà thơ xứ Thanh tiêu biểu trong việc bảo vệ môi trường, một cây bút viết có chiều sâu, đem lại sắc thái biểu cảm chinh phục người đọc hết sức lớn lao. Yếu tố này, được đánh giá thế giới quan tinh nhạy của anh với thơ ca trong việc bám sát hiện thực đời sống, đã đem đến những thành công nhất định.
Về thể loại thơ, Trần Tất Tiến mạnh ở thơ tự do hơn so với thơ lục bát. Tuy nhiên, với cách sử dụng âm vần nhuần nhuyễn, ngôn từ trong sáng, tìm được tứ hay, anh đã có một số bài thơ lục bát khá. Bài thơ gửi thi sĩ Văn Đắc vừa có tứ hay ngôn từ giản dị, hiện lên một tấm lòng với bạn thơ ấm áp, bay bổng:
“Thi nhân bay bổng một thời/ Câu thơ tung tẩy với đời mây trôi/ Giá mà còn tuổi đôi mươi/ Thơ ông cởi yếm đất trời đêm không/ Bây giờ sóng lặng gió trong/ Dòng sông thì vẫn dòng sông Cát Lầm/ Đường xa hun hút cố nhân/ Non cao quăng gánh đi tìm Cỏ Thi/ sông xanh tận đáy xuân thì/ Biển xanh ăm ắp đương kỳ nước gieo/ Câu thơ lướt sóng ngọn triều/ Cho em lặn ngụp mấy chiều tương tư. (Thơ gửi nhà thơ). Có những lúc niềm thi hứng nổi lên, anh đã có bài thơ “vui một tý” mang âm hưởng ca dao: “Ngày xuân nâng chén rượu đào/ Men say lan tỏa ngấm vào hương xuân/ Tóc xanh đã bạc mấy phần/ mặc đời xì xụp canh cần cá khoai/ Mời em chén rượu ngang mày”.
Có thể nói tập thơ “Lan man cánh buồm”, nhiều bài thơ mang tính tự sự kết hợp trữ tình. Trong cấu trúc thơ mang tính hiện đại. Nhìn từ góc độ thi pháp, Trần Tất Tiến đã mang đến một giọng điệu thơ mới mẻ, gợi nhiều hơn tả. Ngôn ngữ giản dị tự nhiên. Nhưng trong cái tự nhiên ấy đã diễn ra nhiều cái lạ thường. Đằng sau những con đường kết nối, giữa thực và mộng, giữa hữu hạn và vô hạn, giữa động và tĩnh, giữa có và không là sự bổ sung của bề sâu tính triết lý. Hơn nữa, Tính biểu cảm, tính thẩm mĩ thông qua trực giác nghệ thuật gợi được bao điều ở tính tư tưởng. Càng đọc càng thấy hơi thở đời sống luôn chạm vào mạch cảm xúc ở nhiều cung đoạn thơ khác nhau. Chủ đề thơ được anh sử dụng đa dạng, phong phú, không thấy dấu vết dễ dãi mà thấy có một sự lao động nghệ thuật đầy trách nhiệm. Trần Tất Tiến xứng đáng là cây viết đáng được trân trọng trong làng thơ xứ Thanh!.
6/4/2023
Trịnh Vĩnh Đức
Theo https://vanvn.vn/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

  Véo Von Tiếng Địch Một buổi chiều êm đềm ấm áp, thoáng điểm mấy hạt mưa xuân. Công chúa Li Nương, con Ðức Hùng Vương thứ mười bốn, c...