Thứ Ba, 19 tháng 11, 2024

Hoài niệm một thời ca dao

Hoài niệm một thời ca dao

Nói về ca dao là nói về thơ lục bát. Chín mươi lăm phần trăm ca dao đều làm bằng thơ lục bát. Nếu ca dao là thân hình thì lục bát là đôi tay ôm chặt lấy. Gắn bó. Thơ lục bát rất dễ và rất khó làm. Người làm thơ lục bát hay thì đó là thơ lục bát. Người làm thơ lục bát dở thì đó là vè. Lục bát dễ biến thành vè lắm. Nguyễn Du đẩy thơ lục bát đến chỗ cao sang quí phái. Huy Cận đã đưa thơ lục bát vào cổ kính. Hai người làm thơ lục bát hay nhất. Sau hai người tài tử, chưa một thi sĩ nào làm thơ lục bát khiến ta khâm phục. Chúng ta đem Truyện Kiều ra so sánh với Lục Vân Tiên. Thấy ngay cái cao sang của Nguyễn Du và chất vè của Nguyễn Đình Chiểu. Ca dao khác hẳn, chỉ là lục bát, không bao giờ là vè cả. Vì ca dao ngắn, 2 câu đến 10 câu là dài.
Qua đình ngả nón trông đình
Ðình bao nhiêu ngói thương mình bấy nhiêu.
(Hai câu)
Con cò lặn lội bờ sông
Gánh gạo đưa chồng tiếng khóc nỉ non
Nàng về nuôi cái cùng con
Ðể anh trấn thủ nước non Cao Bằng
(Bốn câu)
Ba cô đội gạo lên chùa
Một cô yếm thắm bỏ bùa cho sư
Cô về, sư ốm tuơng tư
Ốm lăn ốm lóc cho sư trọc đầu
Muốn ăn đậu phụ tương dầu
Mài dao đánh kéo gọt đầu đi tu
(Sáu câu)
Văn chương phú lục chẳng hay
Trở về làng cũ học cày cho xong
Sáng ngày vác cuốc chăm đồng
Hết nước thì lấy gầu sồng tát lên
Hết mạ ta lại quẩy thêm
Hết thóc ta lại mang tiền đi đong
Nữa mai lúa tốt đầy đồng
Gặt về đập xẩy bõ công cấy cầy.
(Tám câu)
Tháng giêng ăn Tết ở nhà
Tháng hai cờ bạc tháng ba hội hè
Tháng tư đong đậu nấu chè
Ăn Tết Ðoan Ngọ trở về tháng năm
Tháng sáu buôn nhãn bán trăm
Tháng bẩy ngày rằm xá tội vong nhân
Tháng tám chơi đèn kéo quân
Bước sang tháng chín chung chân buôn hồng
Tháng mười buôn bấc bán bông
Tháng một tháng chạp nên công hoàn toàn
(Mười câu)
Ca dao nó trữ tình không thể tả nổi. Cái tình tự của nó ôm gọn dân tộc trong lòng. Từ tình yêu, nỗi khổ cực, niềm lo lắng đến giáo dục về sự thật thà, chế nhạo tật xấu, bài xích nhẹ nhàng kẻ ác, khôi hài thống trị..., đều có trong ca dao. Nó là Việt Nam đôn hậu, chất phác. Ngày xưa, chúng ta sinh ra và lớn lên bằng hơi thở của ca dao, chúng ta yêu nước chúng ta lắm. Ðiệu ru nào đã ru ta ngủ, vẫn không ngoài ca dao.
Cái ngủ mày ngủ cho lâu
Mẹ mày đi cấy đồng sâu chưa về
Ngày nay, chúng ta sinh ra và lớn lên bằng thứ khác. Không phải ca dao. Chúng ta rời bỏ làng quê – một miền ruộng - tìm chỗ thị thành mà ở, sống theo đuổi văn minh, vật chất tây phương. Chúng ta quên dần, quên hết ca dao. Một ngày nào đó, trong suy nghĩ và nhận thức của các thế hệ sau, ca dao sẽ là cái gì rất xa lạ và họ không thèm biết đến. Nếu chúng ta là nhà văn, nhà thi sĩ thì ca dao sẽ thành lạc hậu. Cái trữ tình hôm qua đâu bằng cái trữ tình hôm nay! Chúng ta đọc tiểu thuyết Anh Mỹ, tiểu thuyết Pháp và, nếu cần, ta mượn cốt truyện của ngoại quốc làm cốt truyện của mình, có phải ta nghìn lần lãng mạn hơn ca dao vớ vẩn. Bây giờ, chúng ta mới, mới, mới và mới; chúng ta dứt khoát với quá khứ nó ràng buộc ta với quê hương ta. Tình tự dân tộc nó nhỏ bé quá, chúng ta tiến lên hàng vĩ đại tình tự với con người. Chúng ta định tình tự với thế giới, với con người bằng cái gì? Ở những cuốn tiểu thuyết gầy ốm, cóp nhặt tư tưởng của thiên hạ bừa bãi à? Cũng đuợc, con người khó tính lắm, muốn đọc sách của chúng ta dịch sang tiếng nước ngoài thì họ mới hiểu chúng ta tình tự với họ với con người. Không, chúng ta không dại thế. Chúng ta chỉ thích mới, mới, mới và mới thôi. Chúng ta ra khỏi hàng ngũ những người lạc hậu và tình tự dân tộc. Mới mà không biết mới về đâu, đó là cuộc phiêu lưu không tưởng. Chúng ta chẳng hiểu đi tới bờ bến mới nào, có điều đường về những làng quê với cây đa, giếng nước, với lũy tre làng đã trở thành một kỷ niệm xa xưa!
Ngày xưa lũ chúng tôi có “ý đồ tán gái” vẫn cứ hay nghêu ngao mấy câu ca dao… ruột
Hôm qua tát nước dầu đình,
Bỏ quên cái áo trên cành hoa sen.
Em được cho chúng anh xin,
Hay là em để làm tin trong nhà
Áo anh sứt chỉ đường tà
Vợ anh không có mẹ già chưa khâu.
Và với bốn câu ca dao lãng mạn, người nông dân lạy trời nắng mưa hòa thuận để cày bừa cho dễ dàng. Công lao không lâu đâu! Cứ hy vọng "ngày nay nước bạc ngày sau cơm vàng." Thi sĩ ca dao mới lãng mạn biết chừng nào: Nước bạc ngày nay, cơm vàng ngày sau. Tuyệt vời cách ví von như thế. Chắc rằng thi sĩ bác học có nghĩ cả đời cũng không làm nổi câu thơ thứ tư của thi sĩ ca dao.
Lạy trời mưa nắng phải thì
Nơi thì cày rộng nơi thì bừa sâu
Công lao chẳng quản lâu đâu
Ngày nay nước bạc ngày sau cơm vàng
Nỗi đau khổ của nông dân kể lể đau lòng quá. Từ trong nỗi khổ vẫn bùng lên cơn mơ mộng "Trông cho chân cứng đá mềm" Chắc rằng, trên thế giới, không có đại thi hào nào mơ mộng như người nông dân Việt Nam. "Trông cho chân cứng đá mềm" là giòng suối mơ mộng của thi sĩ ca dao. Dòng suối róc rách chảy đến vô tận.
Người ta đi cấy lấy công
Tôi nay đi cấy còn trông nhiều bề
Trông trời trông đất trông mây
Trông mưa trông gió trông ngày trông đêm
Trông cho chân cứng đá mềm
Tròi yên biển lặng mới yên tấm lòng.
Cảnh bắt lính trấn thủ lưu đồn ngày xưa được miêu tả một cách xúc động trong cảnh biệt ly:
Một tay thì cắp hoả mai
Một tay xách giáo quan sai xuống thuyền
Thùng thùng trống đánh ngũ liên
Bước chân xuống thuyền nước mắt như mưa
Người quân dịch trấn thủ phương xa. Chúng ta tuởng tượng sự cô đơn và nỗi thống khổ của người lính quân dịch hết có thể viết hết một cuốn tiểu thuyết. Còn ca dao chỉ có bảy câu, bát ngát cô đơn.
Ba năm trấn thủ lưu đồn
Ngày thì canh điếm tối dồn việc quan
Chém tre đẳn gỗ trên ngàn
Hữu thân hữu khổ phàn nàn cùng ai
Miệng ăn măng trúc măng mai
Nhũng giang cùng nứa lấy ai bạn cùng
Nuớc giếng trong con cá nó vẫy vùng
Những đại văn hào, đại thi hào không thèm nghe ca dao nữa. Trong cuốn Anthologie de la littérature populaire du Viet Nam, tác giả đã dịch một số ca dao. Chúng ta cùng thử thưởng ngoạn ca dao... Pháp văn:
Trâu ơi ta bảo trâu này
Trâu ra ngoài ruộng trâu cày với ta
Cấy cày vồn nghiệp nông gia
Ta đây trâu đấy ai mà quản công
Bao giờ cây lúa còn bông
Thì còn ngọn cỏ ngoài đồng trâu ăn
Ô mon buffle! Viens dans la rixière et labourons
Labourons et repiquons
Comme nos ancêtres paysans
Ni toi, ni moi
N'épargnons notre peine
Tant que les pallntes ne portent les épis
Il y aura toujours
Quelques brins d'herbe dans le champ
Pour que tu les manges, ô mon buffles!
Lỗ mũi em tám gánh lông,
Chồng yêu chồng bảo râu rồng trời cho
Ðêm nằm thì ngáy o o
Chồng yêu chồng bảo ngáy cho vui nhà
Ði chợ thì hay ăn quà
Chồng yêu chồng bảo ăn quà đỡ cơm
Trên đầu những rác cùng rơm
Chồng yêu chồng bảo hoa thơm rắc đầu
Dis huit poils rugueux
Lui sortent des narines
Le mari l'aime
Il dit:
- "C'est un présent du Ciel:
La barbe du dragon"!
Un ronflement, la nuit,
Morte avec son sommeil
Le mari l'aime
Il dit"
Pourquoi s'en plaindre"?
S'en va-t-elle au marché
Elled grignote sans arrêt
Le mari l'aime
Il dit:
-"Qu'importe! A la maison
Elle mangera moins de riz".
Ses cheveus ne sont plus
Sue paille desséchée
Le mari l'aime
Il dit:
-"Sa tête est couronnée De fleurs au doux parfum!"
Mới trích hai bài thôi ở trong sách Anthologie de la littérature du Viet Nam không có bài ca dao tiếng Việt in kèm với bản dịch Pháp ngữ, thành ra, người Việt Nam không hề biết ca dao mà đọc ca dao dịch sẽ chẳng thấy một hình ảnh nào lạ trong ca dao. Họ sẽ thất vọng ngay. Người ngoại quốc cũng thế. Nước ta ở một tình trạng nan giải. Quê hương nghèo nàn, nô lệ nhiều năm, mới thoát ra khỏi cuộc chiến tranh hơn ba mươi năm và với một đất nước nhỏ bé, ngôn ngữ ngoài phạm vi nước mình thì có mấy ai thèm biết tới, cho nên, những cáí hay đẹp của ta như ca dao, Nguyễn Trãi, Nguyễn Du..., dịch sang ngoại ngữ găp nhiều trở ngại. Mà chính ra ca dao không thể dịch, không nên dịch. Văn hóa là một sự giao thoa và có phần vay mượn nếu bản ngữ không thể thay thế. Tôi vẫn nhớ câu chuyện ngày xưa ông Thầy dạy Pháp văn khi giảng một bài văn Việt ra tiếng Pháp, giải thích rằng chính người Pháp “văn minh” là thế mà khi dịch từ nhà quê hoặc nước mắm cũng bí đành phải thêm vào vốn từ vựng Pháp ngữ của họ là le Nhaque, le Nuocmam …nữa kia!
Ca dao đã mất hút từ hơn 100 năm nay. Không phải các thi sĩ giết chết ca dao bằng những tập thơ ấn loát đẹp và phổ biến về tận làng mạc xa xôi. Chẳng ai giết nổi ca dao khi nó còn sống và cần sống. Chẳng ai cứu nổi ca dao khi nó muốn chết và cần chết. Ði một chu kỳ ngót bốn ngàn năm, ca dao đã sáng tác thừa thải cho dân tộc sử dụng. Ðã đến lúc ca dao chấm dứt bổn phận của nó. Văn học dân gian cũng thế. Cái tối cần thiết hôm nay là tìm tòi ca dao còn ẩn mặt tại nông thôn. Bây giờ, nếu bỏ ra năm sáu năm, tung những người yêu ca dao đi khắp ba miền đất nước thu thập, sưu tầm, tìm kiếm ca dao, chúng ta tin rằng mỗi miền sẽ đóng góp cho đất nước hàng chục pho sách. Bấy giờ, chúng ta giàu có ca dao. Bấy giờ, không cần ai làm ca dao nữa. Tất cả đều có trong ca dao. Nói thêm nữa bằng thừa. Ca dao tự nó biến thành nền móng và khi nó cảm thấy nền móng vững chắc rồi, ta cứ việc xây văn chương bác học. Và tiểu thuyết, thi ca cứ vất lên cái nền móng đó. Hay thì ở lại. Dở thì ném đi. Ca dao đã biết trước chúng ta, đã ly biệt hơn 100 năm nay.
Cứ dở hết ca dao ra mà coi, 1000 năm phương Bắc, có câu nào nói về Tàu, nói về quân xâm lược tàn ác nhất loài người không? Bảo là 1000 năm ấy không có kháng chiến ư? Hai bà Trưng, bà Triệu, Lý Nam Ðế, Triệu Quang Phục, Mai Hắc Ðế, Bố Cái Ðại vương... đã khởi nghĩa đánh đuổi quân Hán phương Bắc đấy. Sử gia Lê Văn Hưu viết: "Trưng Trắc, Trưng Nhị là đàn bà nổi lên đánh lấy được 65 thành trì, lập quốc xưng vương dễ như trở bàn tay. Thế mà từ cuối đời nhà Triệu cho dến đời nhà Ngô hơn một nghìn năm, người mình cứ cúi đầu bó tay làm tôi tớ người Tàu, mà không biết xấu hổ với hai người đàn bà họ Trưng"! Ðến 100 năm nô lệ Tây, ca dao cũng chẳng viết câu nào về quân xâm lược dã man. Bảo là 100 năm ấy không có kháng chiến ư? Chuyện 100 Tây đô hộ, ai cũng biét có kháng chiến hay không kháng chiến.
Tôi nói ca dao đã biệt ly hơn 100 năm, kể từ khi thời đại đánh mốc bằng hai câu chua xót:
Ngày xưa ta cũng có vua
Bây giờ mất nước, bonjour Toàn Quyền
Nhưng không có gì tuyệt đối cả, cũng còn vài người tương tư ca dao, thỉnh thoảng thốt lên lời cay đắng. Ca dao nói về tình ái, nói về hạnh phúc, nói về đau khổ, nói về thương yêu, nói về cười cợt, nói về nhân nghĩa... Ca dao không nói về thù hận. Những kẻ cướp nước ta đã có người đuổi chúng và diệt chúng. Ca dao không để ý việc này. Ca dao sống tự nhiên với hạnh phúc và đau khổ. Ca dao cao thượng vô cùng, không oán ghét cả kẻ thù của mình. Ca dao không khen ngợi ai. Không ai có quyền hành bắt ca dao khen mình, Thỉnh thoảng, ca dao mới lên tiếng về thống trị đi quá đà.
Tháng tám có chiếu vua ra
Cấm quần không đáy người ta hãi hùng
Không đi thì chợ không đông
Ði thì ăn cướp quần chồng sao đang
Dân miền Bắc vốn không ưa gì Tự Đức, cảm tình đã trao tặng Quang Trung rồi. Nghĩ đến chuyện đào mả Quang Trung, lấy đầu lâu đái vào, dân đã khinh bỉ Gia Long. Mà việc Tự Ðức cấm đàn bà mặc váy, ca dao chỉ nói nhẹ nhàng. Ca dao không tàn tệ với ai cả.
Kết thúc bài này, chúng ta cùng nghe lại những đoạn ca dao miêu tả các tình huống mang tính nhân hóa sau để mà cùng …hoài niệm về ca dao Việt Nam một thời đã xa….
- Kiến tại sao mày kiện củ khoai?
- Vì nó còn sống, lại kềnh càng, cháu ăn không nổi tha về tổ không xong. Cháu tức quá đi kiện nó chơi.
- Củ khoai có nói gì không?
- Nó cứ ì ra. Cháu kiện hoài hủy.
- Mày đem việc không dáng gì đi kiện tụng. Mày ăn nó, nhưng không ăn nổi, lại bày trò kiện nó. Ðáng lẽ, nó phải kiện mày.
Con kiến mà kiện củ khoai
Kiện đi kiện lại đã hai năm tròn
Bây giờ kiến đã có con
Củ khoai mọc mậm vẫn còn kiện nhau
- Ngựa, sao mày chăm làm vậy?
- Trời sinh cháu ra, bắt cháu làm việc, bác ạ.
- Mèo, sao mày lười thế?
- Trời sinh cháu ra, muốn cháu làm biếng đấy mà, bác ơi!
Con ngựa đi Bắc về Nam
Hay ăn hay ngủ hay làm hay lo
Con mèo nằm bếp co ro
Biếng ăn, biếng ngủ, biếng lo biếng làm
- Mèo kia, mày muốn dò xét chuột, chứ mày đâu tử tế gì mà hỏi thăm nó có nhà hay không?
- Bác đi guốc trong bụng cháu.
- Rồi sao?
- Nó giả vờ giọng ai rồi xỏ xiên bảo đi mua mắm, mua muối về giỗ cha cháu.
Con mèo trèo lên cây cau
Hỏi thăm chú chuột đi đâu vắng nhà
Chú chuột đi chợ đường xa
Mua mắm mua muối giỗ cha chú mèo
- Bống này, mày khỏi củ hành đuợc không?
- Ồ tôm có hành thì cháu cũng có hành nó mới dậy mùi.
- Còn cua thì sao?
- Nó phải giã bằng chày, bác ạ!
Cá bông đi chợ cầu Canh
Con tôm đi trước củ hành theo sau
Con cua lật đật theo hầu
Cái chày rơi xuống vỡ đầu con cua.
- Gà, sao mày khoái lá chanh thế?
- Người sắp giết cháu, bác à. Cháu yêu cầu luộc cháu và cắt lá lá chanh thật nhỏ rắc lên
- Lợn, mày đòi hành chi vậy?
- Kho cháu mà có thiếu hành thì có ra gì! Thịt không hành, canh không mắm mờ lại!
- Chó, mày dặn dò gì không?
- Riềng là căn bản đã, bác ạ! Rồi mắm tôm sẽ tính sau. Hu, hu, hu...
Con gà cục tác lá chanh
Con lợn ủn ỉn mua hành cho tôi
Con chó khóc đứng khóc ngồi
Mẹ ơi đi chợ mua tôi đồng riềng
Và cuối cùng ca dao “cười nụ ” một bà già … đỏng đảnh.
Bà già đi chợ cầu Đông
Bói xem một quẻ lấy chồng lợi chăng?
Thầy bói gieo quẻ đoán rằng.
Lợi thì… có lợi, nhưng răng… không… còn.
Hoài Nguyễn
Theo http://vietnamthuquan.eu/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Về Nhà văn Khái Hưng

Về Nhà văn Khái Hưng Khái Hưng tên thật là Trần Giư, nhưng ông thêm chữ Khánh thành Trần Khánh Giư để giống vị tướng Trần Khánh Dư đời Trầ...