Thứ Năm, 26 tháng 12, 2024

Thủ lĩnh Rừng Già 2

Thủ lĩnh Rừng Già 2

Chương IV. Núi rừng miền Tây Bắc
Hiệp thống Đại thần Nguyễn Quang Bích về đến đất Lai Châu, tiết trời đã cuối thu. Núi rừng Tây Bắc lần đầu tiên Ngài đặt chân đến, đẹp như bức tranh thủy mặc. Cây cổ thụ bạt ngàn, chim trời ríu ran, sương mây từng chỏm lảng bảng. Những triền núi gối nhau, lại gối nhau, đan chéo. Ngài dừng ngựa hỏi thổ dân đưa đường.
– Đây là núi gì?
– Thưa Ngài. Dân chúng con gọi là núi Hoàng Liên Sơn hay còn gọi là núi Rừng Già ạ.
– Núi Hoàng Liên, núi Rừng Già bắt nguồn từ đâu?
– Dạ, từ mạn Thanh Sơn, Yên Lập gì đấy, rồi lên đến Mường Lò Nghĩa Lộ, chạy theo đất Mù Cang, Than Uyên, lại sang Sơn La, Lai Châu, về Sa Pa. Thưa quan lớn.
Người dân đưa đường hào hứng nói vanh vách đường núi, đường đất, lại tỏ ra có thiện cảm với vị quan xa lạ vừa mới gặp mặt nơi giáp ranh biên giới Vân Nam và Lai Châu.
– Anh bạn là người dân tộc gì, làm gì?
– Dạ, con là người Thái trắng, tên chữ là Táy Khao. Con chỉ làm trưởng bản, gọi là Tạo bản.
Đội Hà, Vệ sỹ tháp tùng quan Đại thần tâu thêm:
– Thưa Ngài, anh ấy là Đèo Văn Toa, đi làm nương. Hạ vệ gặp được, nhờ đưa đường, Toa vui vẻ nhận lời đấy ạ.
– Ờ. Anh Toa, có làm phiền anh không? Ta đi sứ về, nhờ cậy trưởng bản cho ta gặp được Tri châu.
– Ồ ồ. Quan lớn đừng lo. Tri châu Cầm Văn Thanh vẫn hay về bản con mà. Được ngay thôi, được ngay thôi!
Đêm ấy Tri châu Cầm Văn Thanh giữ chân Quan sứ ở lại châu lị. Một bữa tiệc thú rừng, rồi các gái xòe mời rượu. Nhà sàn rập rình, réo rắt tiếng khèn bè, tiếng pí pặp. Hiệp thống Quân vụ đã từng nghe vùng đất Tây Bắc với những các cứ “Vua Mèo”, “Vua Thái”, “Chúa thổ”, “Chúa mường”…! Mỗi phần đất mỗi dân tộc có một vị thủ lĩnh riêng. Không dễ ai nghe ai, không dễ ai chịu khuất phục ai. Người Pháp đến được đất này, họ sẽ tìm cách chia rẽ các dân tộc, họ sẽ mua chuộc các thủ lĩnh người dân tộc như họ từng làm ở Hưng Hóa để rồi ta phải chịu mất thành phủ…
– Thưa quan lớn. Chén rượu mật gấu độc này là lòng thành của dân bản mừng cho quan lớn đường xa trở về, và là để nhớ ngày chúng con ở miền rừng núi được gặp gỡ đại quan sứ thần.
Nói rồi Cầm Văn Thanh vẫy hai nàng gái Thái lại dâng. Đội Hà đứng bên khoát tay.
– Tri châu. Nếu ngài trọng thị, đại quan cho phép ngài uống trước cùng chung chén rượu này. Thế mới là lòng thành!
Cầm Văn Thanh hiểu ý nhưng vẫn dùng dắng.
– Thưa đại quan. Thổ dân chúng con kính trọng khách xa nên mới dâng rượu theo lệ tục. Nếu đại quan cho phép, thì con và hạ quan đây xin cùng cạn chén rượu này.
Nói dứt Cầm Văn Thanh ngửa cổ uống hết nửa chén, đoạn quay sang Đội Hà (Võ tướng Nguyễn Quang Hoan), hộ vệ đi sứ.
– Hạ quan, ta là anh em, sống chết có nhau!
Đội Hà cũng ngửa mặt uống hết số rượu còn lại, rồi nắm chặt tay Tri châu, cùng cúi mình trước Hiệp thống Thủ lĩnh. Thấy đã đủ độ tin cậy. Đội Hà quay lại nói với Cầm Văn Hoan.
– Ngài Tri châu chưa biết đấy thôi. Đại quan đây không phải là sứ giả Hưng Hóa, mà Ngài là Sứ thần Triều đình Huế, là Đại thần Thượng thư Bộ lễ, kiêm Hiệp thống Quân vụ, Tổng chỉ huy Bắc kỳ.
Mới nghe Đội Hà nói như vậy Tri châu Cầm Văn Thanh đã run hết người, vội quỳ xuống cúi đầu lạy “Quan Đại thần Triều đình”. Hiệp thống đưa tay ra đỡ dậy nhẹ nhàng nói:
– Ta là quan Đại thần, nhưng mệnh Chiếu Cần Vương mà mưu việc bài Tây phục quốc. Các ngài cũng vậy thôi, hãy cùng ta làm nghĩa lớn. Nay ta cần dựa vào dân bản, dựa vào núi rừng để kháng chiến, ngài Tri châu Cầm Văn Thanh, cả trưởng bản Đèo Văn Toa nữa, vận động các thủ lĩnh vùng miền giúp Vua Hàm Nghi anh minh phục quốc, để tiếng đời sau.
Tri châu sụp xuống chân Hiệp thống lạy tạ. Đoạn sai người nhà đưa ra năm mươi lạng bạc trắng, mà nói:
– Xin dâng quan Đại thần chút của mọn gọi là lòng thành, nhớ ngày con về bên Thủ lĩnh.
Hiệp thống nhẹ nhàng:
– Ta cảm ơn. Một đồng bạc lúc này cũng quý. Tri châu biếu, thì ta cũng góp vào nguồn tài kháng chiến.
Cầm Văn Thanh lại cho chọn con ngựa mầu hung nâu to khỏe nhất, giống ngựa lai thồ của người Mèo đã được thuần hóa, đi lại dễ dàng trong mọi địa hình phức tạp. Tri châu Cầm Văn Thanh tự tay thắng hàm thiếc rồi mời quan Đại thần lên yên. Hai vệ binh người Thái, vừa dẫn đường, vừa dắt ngựa, đưa Hiệp thống Đại thần từ Lai Châu, qua châu Mù Cang, xuống đất Mường Lò[1].
Đêm qua, Hiệp thống gần như không ngủ. Phong cảnh Mường Lò hút mắt Ngài – vị Tướng công có tâm hồn thi sỹ. Ngư phong Hiệp thống chợt hình dung lại mấy ngày qua mà lòng xốn xang. Ngài cảm tác: Đầu non nhà ở rộng thênh thang/ Dân chúng quây quần cảnh vật an/ Ngoài ngõ hai khe quanh quất chảy/ Trước nhà cụm núi thấp cao dàn/ Tục xưa còn giữ không văn sức/ Đời sống tươi vui thật dễ dàng/ Nghe có quan Triều, vui đón tiếp/ quan Triều đến đấy, lệ tuôn tràn. Ngư phong Nguyễn Quang Bích mỉm cười tự tại với bài Hán tự tức cảnh, quay lại nói với võ tướng cận vệ Nguyễn Quang Hoan.
– Biết đâu nơi này sẽ lại là Hành dinh của ta (!?)
Võ Hoan có thời là hộ vệ ngoại giao của Bố chánh Nguyễn Văn Giáp từ ngày ngài làm Tuần phủ Sơn Tây, quen với suy nghĩ hai chiều, nên nhẹ nhàng đáp lại vị Thượng thư Bộ lễ:
– Đất này, anh em ông Tù trưởng Cầm Ngọc Hánh đã giao chiến với quân Cờ Vàng, khó giữ nổi thành. Nay người Tây đến, giao tranh với họ, tất phải dựa vào rừng núi, làng bản, mới mưu đạt việc lớn.
Hiệp thống gật đầu:
– Võ binh nói thế, cũng là phải.
Rồi Ngài giật cương, hai ngựa chiến thong dong đưa chủ tướng và đoàn tùy phái vượt dòng suối Thia, đi về phía Thu Cúc.
Trước mặt Hiệp thống Quân vụ lúc này là Bộ tướng Tiên Sơn, mấy tháng đi xa, Hành dinh không gì thay đổi, chỉ khuôn mặt các tướng lĩnh có vẻ như thiếu đi sự bình thản. Tham tán Hiệp đốc Bắc Kỳ Quân vụ Nguyễn Văn Giáp người được Hiệp thống ủy quyền bước lên.
– Thưa Đại thần Hiệp thống. Ngài trở về khỏe mạnh, Bộ tướng an lòng. Nay xin Ngài nhận lại sắc quyền.
Hiệp thống đưa tay, gật đầu. Hiệp đốc lùi bước cúi mình. Văn võ bá quan yên lặng chờ nghe những lời trút lá từ Thủ lĩnh. Quan Hiệp thống nhìn binh tướng khắp lượt rồi nhẹ nhàng:
– Ta cùng Tán tương Quân vụ Khê Ông Nguyễn Hội và Thiết Nhai Chu Lăng Thục chấp lệnh Đức Vua, hợp nhóm Đại thần Phụ chính Tôn Thất Thuyết đi Côn Minh thuyết chính. Đường xa muôn dặm, trăm điều cản trở. Nay trở về chỉ có mình ta. Thương thay cho Khê Ông và Thiết Nhai bạn hữu. Lại cảm thông với Phụ chính Đại thần bị giam chân nơi xứ người.
Ngừng giây lát, Thủ lĩnh Tướng công nói như chia sẻ trọng trách cùng tướng lĩnh đệ tử.
– Ta thắng trận ngòi Dành, tất làm cho người Pháp cay cú mà lập mưu mô. Tướng quân ta không tính hết được mưu mô ấy để cho tướng Pháp Gia mét từ hai phía đánh vào Thanh Mai chiếm đóng Gò Mai, cắt mặt Hưng Hóa, Hạ Hòa, khống chế Tiên Sơn với đường thủy, đường bộ, với cả thủ phủ Bắc Kỳ. Lại còn sai tuần phủ Lê Hoan viết thư dụ ta quy thuận, há chẳng phải quá lắm sao? Người Pháp đang buộc ta phải lấy núi rừng Tây Bắc làm bản doanh? Âu cũng là Trời định vậy!
Bộ tướng lòng dạ xốn xang. Bố chánh, Đề Kiều bước lên khoanh tay cúi mình trước Hiệp thống Đại thần. Nguyễn Quang Bích đưa bàn tay đỡ hai vị Phó tướng rồi nói.
– Nay ta định liệu việc bình Tây ngoài Tiên Động, nên cử võ tướng Nguyễn Quang Hoan làm Tả tướng, và văn quan cử nhân Trần Ngọc Dư làm Thủ túc. Bố chánh, Đề Kiều sẽ cùng ta sớm tính đường trường.
Bộ tướng lui khỏi hành dinh. Mặt trời vào giờ Thìn, nắng tỏa vàng rừng Tiên Động.
Cử nhân quan văn Thủ túc Trần Ngọc Dư đi đi lại lại dưới chân cột cờ nơi lá cờ Tụ Nghĩa vẫn bay phần phật. Phía xa xa trước mặt chếch về tay phải là đồi Hàm Rồng, bên ngoài là gò Thanh Mai. Xa nữa là bờ sông Thao. Dọc theo bờ sông Thao xuống Tứ Mỹ có đồn Cửa sông và đồn Cửa bộ của Nghĩa binh. Ngược lên trên là đồn Hạ Hòa. Quân Pháp chiếm được Gò Mai chúng lập ngay đồn Tây và lấy mỏm Hàm Rồng dựng đài quan sát. Hỏa lực đồn Gò Mai mạnh tương đương đồn Cửa phủ. Từ Gò Mai có thể bắn pháo dữ dội lên các đồi thuộc hành dinh Tiên Động.
Thủ túc Trần Ngọc Dư sai hầu vệ thắp ba nén nhang, ngài đọc chú xin đài. Cả ba lần, hai đồng “trinh căng” vẫn cứ ngửa mặt. Rời điểm xin đài sang tay phải mấy chục mét nơi phong thủy đắc địa nhất của ngọn đồi, “trinh căng” vẫn không chịu nhận âm dương. Thủ túc rời đồi “Cột cờ” về tư dinh.
Ngày thứ ba, Thủ túc văn quan lên hành dinh gặp Hiệp thống. Hai người đồng hương Thái Bình từng làm quan huyện, quan phủ, rồi đều treo ấn từ quan tìm về nơi Tiên Động dựng cờ “Quốc triệu” mà vẫn giữ được trong mình tâm hồn văn sỹ trong con người nghĩa sỹ.
– Ngài Quan Đại. Tiên Động không còn thuận cho ta nữa rồi. “Đài” không được, Thổ công không cho; là Trời đã báo phải sớm định liệu. Thủ túc văn nói.
Hiệp thống vuốt nhẹ chòm râu đen:
– Hơn hai năm trước, văn quan Khê Ông dâng lễ, thần linh mách bảo, Tiên Động là nơi nắng sớm tụ về. Chẳng nhẽ, Trời cho ta ngắn vậy thôi sao?
– Đất thiêng ở thế, nay thế không còn, ta định liệu cũng là hợp lòng Trời.
Thủ lĩnh Tướng công nghe văn thân Thủ túc nói, tỏ ý nghe theo, liền mời bộ tướng đến bàn.
Hiệp đốc Bắc Kỳ phó Tướng công Nguyễn Văn Giáp:
– Thưa Đại thần Hiệp thống. Sau Chiếu Vương, căn cứ Tiên Sơn ta vẫn đứng vững ngọn cờ Tụ Nghĩa, bởi thế mà ở Thanh Hóa tiến sỹ Tống Duy Tân đã khởi sự. Ở Nghệ Tĩnh Nguyễn Xuân Ôn cũng đã động binh. Tán tương Nguyễn Thiện Thuật đã lập được Sơn phòng Bãi Sậy, sẽ có ngày tuyên chiến với người Pháp vùng Hải Dương, Hưng Yên. Còn Phú Thọ, người Pháp lập đồn gò Thanh Mai, bất lợi cho Tiên Động, xin Hiệp thống Đại thần xem xét cho rời Bản doanh sâu vào rừng già, Yên Lập, để xây dựng đạo binh lớn mạnh.
Phó Tướng công Đề đốc Hoàng Văn Thúy đứng lên:
– Thưa Đại thần Thủ lĩnh Tướng công. Ngày Ngài lên đường công cán việc quốc gia, nhận thấy kháng chiến có thể lâu dài. Bộ tướng đã chủ động dò sát đường trường miền Tây, âu cũng là để có thêm rừng núi, có thêm dân bản làm chỗ dựa cho nghĩa binh.
– Ý tướng quân Lãnh Hoan thế nào? Hiệp thống bất ngờ hỏi
Thủ túc võ tướng Nguyễn Quang Hoan bộc bạch:
– Thưa quan Đại thần Thủ lĩnh. Tiểu tướng nghĩ nhiều. Hai mặt Tiên Sơn quân Pháp đã kiểm soát. Nếu chỉ lấy Rừng già mà cầm cự thì cũng khó lâu dài. Dân binh, dân phòng không có sẽ bất lợi cho ta. Bố chánh và Đề đốc đã tính toán kỹ lưỡng, xin quan Đại thần chuẩn chỉ.
Hiệp thống Quân vụ đưa tay nâng chòm râu ráp mặt cằm, tư lự. Ngài như nhìn về xa xăm, lại như đảo đi đảo lại vạn vật nơi Tiên Sơn trong bộ óc Đại thần nặng trọng trách Bắc Kỳ trước Triều đình chủ chiến. Nguyễn Quang Bích khẽ gật đầu.
– Ta nay vâng mệnh Triều thần mà hành động. Ý tưởng đưa Đức Vua ra Sơn phòng Tiên Sơn, đã bàn rập rạp với Đại thần Tôn Phụ chính ngày trên đường đi sứ. Nay vì lẽ, Phụ chính bị chặn đường về, Tham tán Quân vụ Nguyễn Cao lại sa vào tay giặc, ai người lo toan? Ta tạm lui về miền ngược để tạo thế chân kiềng cũng là phải. Việc lớn này giao cho Đề đốc và Phó Đề đốc lo liệu ở hướng cánh tây. Giao cho Bố chánh và Đề Cương lo ở hướng cánh bắc. Hạn đến tháng 11 Bính Tuất (1886) lập Bản doanh ở Mường Lò Nghĩa Lộ.
Trầm ngâm giây lát. Hiệp thống Thủ lĩnh nói tiếp. Giọng ngài ấm và chắc:
– Chiến khu Rừng Già, nay không chỉ Yên Lập, Thanh Sơn, mà bao gồm cả giải Hoàng Liên Sơn Tây Bắc.
Nhớ rằng, đến đâu, dựa vào rừng núi, thổ hào, tù trưởng và dân bản, các tướng quân tự chiêu hiền tướng, sỹ, mà lập cứ đánh giặc.
Đề phòng có kẻ do thám biết được kế hoạch. Bố chánh và Đề đốc giao cho Vương Văn Doãn lo ngay việc rời tư dinh Hiệp thống Đại thần về Hố Gia rồi sang Yên Lập; võ tướng Nguyễn Quang Hoan và văn thân thủ túc Trần Ngọc Dư luôn ở bên Ngài. Đạo binh đề Kiều cũng lặng lẽ rút khỏi Tiên Động. Bố chánh Nguyễn Văn Giáp chờ cho Thủ lĩnh về đến Khả Cửu Thanh Sơn, mới cho các tướng xuống làng xã động viên dân phòng, dân binh kháng chiến lâu dài và thuyết rằng Thủ lĩnh Tướng công quan đại tuy ở nơi rừng núi nhưng vẫn điều khiển dân binh, dân phòng đánh lại giặc Pháp giữ làng.
Phó tướng công Bố chánh lại giao cho tán tương Lê Đình Dật khảo sát, xây dựng căn cứ Đầm Đen – Lang Sơn, mặt tiền nhìn ra sông Thao, sau lưng là Ao Châu, ngược lên là Hạ Hòa. Từ Lâm Lợi, Hạ Hòa đi qua miếu Tổ Mẫu Âu Cơ, có thể ngược ngòi Lao đi về phía Tây hợp quân với Đề đốc. Nếu vượt sông Thao là sang Gia Điền, Tây Cốc (Bằng Doãn) lên Đoan Hùng, lên Tuyên Quang có thể mở rộng, căn cứ kháng chiến Cần Vương đến mạn sông Lô, Sông Chảy thuộc phía Bắc án ngữ quân Pháp, giữ thông cửa khẩu với Vân Nam, điều mà Hiệp thống Đại thần đã có ý định sau ngày đi sứ. Mặt trận quan trọng này Nguyễn Văn Giáp giao cho tướng quân Tổng Khảm Trịnh Bá Đanh chỉ huy; các tướng: Tán tương Lê Đình Dật, tán tương Áo Lộc Hà Công Cấn, làm phó chỉ huy căn cứ. Đầm Đen trở thành phòng tuyến chặn đường phía Bắc, bảo vệ cửa hậu Tiên Sơn hữu hiệu. Riêng mình, Hiệp đốc Bố chánh lựa chọn binh thuật lưu động chỉ huy, dài rộng, theo trục sông Hồng, tạo nên cánh cung miền Tây.
Dừng chân ở Hố Gia một ngày đêm để ổn định cuộc di chuyển, các trợ thủ, thủ túc được lãnh binh Hoàng Văn Liêng dẫn đường, đưa Hiệp thống Thủ lĩnh đi lách qua núi Lưỡi Hái. Bên kia khe núi là đất Yên Lập.
Lãnh Liêng, con trai Đề Kiều, rất thông thạo vùng đất Yên Lập, Thanh Sơn, Thu Cúc, lên Ba Khe, vào Mường Lò. Hai tháng trước được Bố chánh giao việc phụ giúp Đề đốc Hoàng Đình Cương đi khảo sát bản doanh dự phòng. Bây giờ lại là người đưa Hiệp thống Quân vụ Đại thần về với miền sơn cước Tây Bắc này.
– Quan Đại dừng chân ở tổng Đông Lỗ chúng con, là lấy làm may mắn cho người Mường lắm lắm. Chánh quản cơ Hoàng Văn Hội hoan hỉ.
Hiệp thống trìu mến nhìn những người dân địa phương rồi ngoảnh sang Trần Ngọc Dư và Nguyễn Quang Hoan.
– Hai thủ túc nghĩ sao?
Cử nhân văn khoát cánh tay:
– Người bản địa nói thật lòng, Hiệp thống chấp nhận cho dân làng được vui!
Nguyễn Quang Bích khẽ gật đầu rồi vỗ vai Hoàng Văn Hội.
– Ngày làm Tuần phủ, ta đã đến Đông Lỗ, ngài là người có công, ta cấp bằng Cửu phẩm và thăng chức Chánh Quản cơ. Nay người Đông Lỗ đã dựng cờ Đại, hướng về Chiếu Cần Vương, thế là đã cùng ta “bình Tây phục quốc”.
Chánh Quản cơ Hoàng Văn Hội và các tráng đinh chức sắc Hoàng Kim Tài, Hoàng Bá Trai, Hoàng Nghị Quyền, Đinh Văn Cảnh vội quỳ gối khoanh tay nhận lộc ngôn từ Quan Đại thần – Hiệp thống Quân vụ Triều đình chủ chiến.
Thiếu tướng Brielen từ Hà Nội lên công bố quyết định của Tham mưu trưởng Quân sự Bắc Bộ về việc cử thiếu tướng Boócbiông thay Đại tá Molanh làm Tổng chỉ huy đạo quân Pháp ở Tây Bắc – Sa Nô.
Cuộc họp của Sa Nô tại thành phủ Hưng Hóa có đủ mặt các sỹ quan Sa Nô và thành phủ: Đại tá Xáclăng, chánh thành phủ Hưng Hóa; Xanhtơni phó chánh Thành phủ; đại tá Jemmolanh, tham mưu trưởng Sa Nô; đại tá Bôrítx tham mưu phó Sa Nô; thiếu tá Bôxê trợ lý quân bộ; thiếu tá Đơbiêngđơ chỉ huy pháo binh; đại úy Bécbengghe tham mưu thành phủ. Duy nhất có một người Việt được quyền tham dự cuộc họp quan trọng của Sa Nô, đấy là Trương Đen, nay đã là đại úy mật thám.
Dù là họp tại thành phủ Hưng Hóa, nhưng vẫn có hai vòng lính gác nghiêm ngặt. Đến cả lễ tân tiếp nước cho buổi họp cũng là một cô gái người Pháp lai Việt, cô Vine Loan, y tá điều dưỡng.
Boócbiông với tay nhấc chiếc mũ nhà binh trên đầu, đặt xuống bàn để lộ khuôn trán dô, đôi mắt rậm và sâu, bộ râu quai nón chạy từ hai mai tóc ôm lấy cái cằm nhọn. Dù có cố tạo dáng dịu dàng trên nét mặt, nhưng ông ta vẫn không dấu được thần sắc tinh khôn của một thực dân già đời.
– Bộ chỉ huy Bắc Kỳ giao cho tôi, và các ngài, trong hai năm phải thống lĩnh được toàn bộ vùng Tây Bắc xa xôi này. Boócbiông nói, giọng viên tướng Pháp xít lại: Có nghĩa là, quét hết quân binh Tiên Sơn về lại thổ dân, lập được bộ máy Nhà nước bảo hộ. Ta sẽ cùng nhau trở về Pari hoa lệ trong vòng tay và tiếng nhạc sâm banh!
Tướng Boóc khoát hai bàn tay trước ngực, cười tủm tỉm.
Chánh thành phủ Xáclăng, từ ngày được thăng đại tá, bây giờ mới có dịp tỏ rõ mình là người có công trấn ải.
– Thưa các ngài. Tôi nghĩ, chúng tôi đã chiến đấu rất ngoan cường mới có được ngày hôm nay. Nghĩa là đã cắm cờ Pháp trên núi Hàm Rồng, lập được đồn Thanh Mai, án ngữ miền Tây cả thủy lẫn bộ. Quân Tiên Sơn hoặc là phải chui vào rừng chờ chết, hoặc là sẽ bị tiêu diệt ngay trước cửa đồn Gò Mai của SaNô – Thành phủ.
Xáclăng nói hừng hực, nói quả quyết. Đám sỹ quan được dịp ồn ã cười.
Xanhtơni nghĩ: “Công của ta, mà nó định trắng trợn nẫng trên tay mình? Chúa ơi. Thằng Xác, thằng Xáclăng!”. Máu từ đâu cứ như dồn lên, dồn lên đỉnh đầu. Xanhtơni “bật” lại.
– Phải. Ngài Xác. Ngài có biết những trận đánh giáp mặt với quân Tiên Động, thành phủ có bao nhiêu lê dương, khố xanh, khố đỏ bỏ mạng không? Đồn Chợ bờ, trại binh Cửa phủ, cả đồn Cửa bộ của quân Tiên Động, ta bị bọn thổ dân nghi binh dẫn đến thua chạy như chuột, sao ngài không kể ra?
– Thôi, thôi! Tướng Boocbi ông xua tay. SaNô ghi nhận chiến tích của đại tá chánh thành phủ, và trung tá tham mưu SaNô bây giờ là phó thành. Cầu Chúa phù hộ cho tất cả chúng ta!
Trương Đen nghe mà ngứa ngáy: “- Nếu không có “Chuột rừng” do thám thì chúng mày lấy đâu ra chiến tích, dễ chả nộp mạng cho súng thần công rồi à!?”. Nhưng là phận đánh thuê, không phải lúc giở lý với quân mắt xanh mũi lõ này, Trương Đen đại úy mật thám nuốt nước bọt, ngồi im.
– Bôrít. Bây giờ mời ngài trình bày trước các sỹ quan về kế hoạch mới. Boócbiông vung tay. Đôi mắt rậm sâu, khuôn trán dô hướng cả về các tướng tá SaNô.
Đại tá quan một Bôrítx đứng nhanh, dáng y cao dỏng, liếc mắt tò mò, khẽ gật đầu như chào, lại như cố ý tạo sự bình thản, chững chạc. Viên sỹ quan có nghề tham mưu từ lính lê dương, leo lên làm sỹ quan cao cấp bởi các mề đay tàn phá quân Triều đình Huế suốt từ vùng đất Đà Nẵng, lên Đà Lạt, ra Bắc Ninh, Hưng Hóa. Thằng Tây này không phải là tay vừa. Trương Đen thoáng nghĩ mà không dám coi thường.
– Thưa ngài thiếu tướng, thưa các ngài. Bôrítx hắng giọng. Việc khuất phục quân phiến loạn ở đồng bằng, ở thành thị, thật dễ dàng. Kinh nghiệm của tôi cho thấy, phiến loạn là thổ dân mà thủ lĩnh của họ lại là chiến binh Triều đình, khó khăn hơn nhiều.
– Bôrítx, ngài nói thẳng vào kế hoạch trước mắt và lâu dài. Boócbiông nhắc.
– Vâng, vâng! Thưa các ngài. Đường đất miền núi xa xôi, hiểm trở, lại lắm “giặc cỏ” thổ dân. Trước mắt, SaNô cần tăng cường cho đồn Thanh Mai, nhưng tính ngay việc lập đồn binh lực mạnh ở Phú Thọ và ở Yên Bái để chi viện cho hai bên tả hữu thượng nguồn sông Thao.
– Được! Rồi sao nữa? Tướng Boóc chen ngang câu hỏi.
Bôrítx:
– Ta giao việc cho ngài đại úy Đen, nắm thật chắc hướng đi của quân phiến loạn Tiên Sơn, để rồi truy lùng chúng đến tận gốc rễ!
– Hay, hay lắm. Tôi đồng tình với ngài tham mưu phó. Ý đại tá tham mưu trưởng SaNô, ngài Jenmolanh, thế nào nhỉ? Tướng Boóc bất ngờ hỏi.
– Thưa thiếu tướng. Kế hoạch mà ngài Bôrítx vừa nêu sơ qua, chỉ huy tham mưu đã bàn luận kỹ, xin trình ngài tư lệnh Sa Nô.
– Thế, ta nên gọi quân phiến loạn này là gì, là gì được ngài Jem?
Jemmolanh:
– Quân phiến loạn Triều đình, thưa ngài!
– Còn ngài Xáclăng?
– Thưa ngài Boóc. Đấy chỉ là “giặc cỏ” Hưng Hóa mà thôi.
Boócbiông cười to, rút tẩu thuốc cô – táp khỏi miệng. Tướng Boóc vừa giảng giải, vừa khích lệ.
– Hai ngài nói đều có lý cả. Nhưng… nhưng gọi là phiến loạn Triều đình, thì đấy phải là bọn Thuyết, Tường (Tôn Thất Thuyết, Nguyễn Văn Tường). Còn đây, đây đúng chỉ là quân “Giặc Cỏ”! Boócbiông lắc đầu. Giặc cỏ này không chỉ ở Hưng Hóa đâu, mà cả vùng Tây Bắc An Nam của các ngài. Boócbiông, tổng chỉ huy SaNô gõ gõ lưng ngón tay xuống mặt bàn, dằn giọng nói.
Đám sỹ quan im lặng. Cuộc họp giải tán. Mỗi người đã có một trọng trách, nhưng nặng nề hơn cả là chỉ huy phòng tham mưu SaNô. Trương Đen cảm thấy mình lép vế bởi không tạo được cơ hội phát biểu. “Được rồi, chỉ huy phòng Tham mưu sẽ phải nghe ta!”. Đại úy Đen tợp nốt ngụm rượu Tây còn đọng đáy ly rồi đứng dậy đi ra cửa.
– Anh, anh Đen!
Đại úy mật thám ngoảnh lại, người đẹp Vine Loan tình tứ cười. Trương Đen bất đắc dĩ tủm tỉm đáp lại, rồi bước xuống bậc thềm.
Tướng Boócbiông không chậm trễ, và tham mưu trưởng quân Pháp ở Bắc Kỳ cũng chấp nhận ngay đề nghị của tổng chỉ huy SaNô Tây Bắc. Chỉ nửa tháng sau, đồn phủ Phú Thọ được công báo bằng một lá cờ Pháp ngạo nghễ bay bên bờ sông Thao. Đồn phủ có nhiệm vụ chặn đứng quân Triều đình Huế đến từ các ngả sông Hồng, sông Chảy, sông Lô, kể cả quân tình nguyện Cờ Đen bên Vân Nam. Trung tá Xanhtơni được tướng Boóc giao kiêm chức đồn trưởng, và thiếu tá mới phong Becbengghe làm phó cho Xanh.
Mạn Yên Bái, thượng nguồn sông Thao, Boócbiông cho lập trạm binh lính cơ, loại khố đỏ, khố xanh, đặt tại làng Tuần Quán, nhằm lưu động kiểm soát trục đường mòn vào Nghĩa Lộ, và hộ tống đường thủy Sông Hồng. Trạm do thiếu tá Bôxê phụ trách. Mấy ngày sau, Thành phủ Hưng Hóa điều lên trạm Tuần Quán một sỹ quan khố đỏ người Việt, quê ở Sơn Tây, đại úy Ngô Tuân. Đại úy Tuân từ lính dõng giữ làng có công tích chỉ điểm, vào khố xanh, trở thành Đội, thành Cai. Rồi sỹ quan chỉ huy, Ngô Tuân có tài chống phá tổ chức yêu nước, phát hiện, lật đổ người đối lập chính kiến với mình. Bây giờ thì đại úy họ Ngô đĩnh đạc trên ghế phó chỉ huy trạm, điều hành năm sáu chục lính cơ, có cả tiểu đội lê dương cơ động, thật oách.
Từ ngày Ngô Tuân lên Tuần Quán, cả nhóm lính phục dịch. Trương Đen đã hai lần đến đây với danh nghĩa thám sát địa bàn. Mà đúng, đại úy Đen, đại úy Tuân đều có trọng việc nắm chắc đạo quân Tiên Sơn, bây giờ chưa rõ chúng ra sao sau vụ đồn cửa bộ, đồn cửa sông, cứ điểm gò Mai Hàm Rồng lọt vào tay người Pháp. Xem ra Trương Đen vẫn hậm hực vì chuyện không được quan Sa Nô nhận xét công tích.
– Này, cứ nói người Pháp thẳng tính, cao đạo, ấy vậy mà cũng biết quên công người Việt ta. Đen vừa nhấp rượu, vừa thổ lộ bức bối.
– Đúng rồi đại úy. Nhưng phận ta, làm sao được. Họ là đạo quân của Nhà nước bảo hộ. Tuân nâng li rượu, cười đáp.
– Bây giờ tôi và ngài cộng tác thăm dò xem quân Tiên Sơn đang ở đâu, mưu kế chúng thế nào. Trương Đen đề xuất.
– Tôi đồng ý với ngài chánh mật thám.
– Nhưng không phải thông tin nào cũng báo hết với quan Tây. Hai ta cũng phải có những bí mật riêng giành cho đất của người Việt. Ngài đồng ý chứ?
– Ô kê, ô ke! Tôi đồng tình với sáng kiến của đại úy Đen. Tuân đáp nhanh.
Hai sỹ quan mật thám đánh thuê sau cuộc nắm chặt tay nhau ở Tuần Quán, đã hành động ngay.
Trương Đen củng cố đội “Chuột rừng” mà y cho là sự lợi hại cả về hai phương diện, nhiệm vụ thám sát đối phương và cánh tay trong của chính đại úy chánh mật thám. Vậy nên, khi Trương Đen xin bổ nhiệm trung úy Quỵch làm phó cho mình, tham mưu phó Sa Nô Bôrítx ký quyết định ngay. Ngô Tuân cũng vậy, không lập đội, nhóm, nhưng trưởng trạm, đại úy Ngô Tuân chỉ định Phung làm tay chân riêng, chuyên việc dò xét.
Bây giờ thì Tuân, Quỵch, Phung đã có trong tay tài liệu mới nhất về “Đạo quân giặc cỏ Tây Bắc”, cái tên, mà chính nhóm “Chuột rừng” cố nghĩ ra, ghi rõ vào báo cáo, gửi tham mưu trưởng Sa Nô đại tá Jemmolanh.
Cầm tờ trình báo trên tay, Jem quay sang Trương Đen.
– Đại úy. Kẻ cầm đầu của đạo quân giặc cỏ Tây Bắc là những ai?
– Báo cáo chỉ huy tham mưu: Nguyễn Quang Bích, từng là tuần phủ Hưng Hóa bỏ chạy, ông ta được sùng ái gọi là Thủ lĩnh Tướng công. Sau Bích là Nguyễn Văn Giáp, còn gọi là Bố chánh Phó tướng. Ngoài hai cái tên ấy, còn có đề Kiều, phó đề Doãn, lãnh Hoan… Đạo quân giặc cỏ này đã làm loạn cả vùng Cẩm Khê mấy năm nay…
Trương Đen liếc nhìn thấy cả Jem mo lanh, Bôrítx, Xanhtơni điềm tĩnh lắng nghe nên tranh thủ cơ hội.
– Thưa… khi chúng tôi tham mưu cho Sa Nô và thành phủ đánh chiếm gò Rồng, lập được đồn Mai, thì bọn giặc cỏ này hoảng hốt bỏ trại chạy cả vào rừng rồi ạ.
Bôrítx cười khẩy:
– Thế nghĩa là đã phá được bọn chúng, không còn lo gì nữa chứ đại úy?
– Dạ, không không. Đấy chỉ là hiện tại. Chúng tôi sẽ do thám tiếp ạ. Đại úy Đen chống chế.
Jemmolanh nhả làn khói thuốc cô – táp khỏi chiếc tẩu trong miệng, khích lệ.
– Tham mưu Sa Nô khen ngợi các chiến binh đội do thám đã vì nước Mẹ Đại Pháp mà hành động cùng nhau chống lại người Việt khi chúng là giặc cỏ. Đại úy, hãy tiếp tục nhé! Molanh cười nhạt.
– Vâng. Thưa đại tá!
Trương Đen đứng dậy, bụng dạ xốn xang rời phòng tham mưu Sa Nô.
Sau khi tạo cơ sở hộ vệ Sơn Động cho Tổng Khảm Trịnh Bá Đanh với mục đích đánh lạc hướng quân do thám của Sa Nô và thành phủ, tạo thời gian càng ổn định càng tốt, càng lâu càng tốt, để Bản doanh của Thủ lĩnh Tướng công di chuyển qua đường Yên Lập được bí mật, phó Tướng công Nguyễn Văn Giáp và Đề đốc Hoàng Đình Cương quyết định mở mặt trận thượng nguồn sông Thao, vừa nhằm gây ảnh hưởng đến toàn vùng phía bắc, lại vừa nghi binh bản doanh quân Tiên Sơn di chuyển theo hướng ngược sông Hồng, buộc người Pháp phải chú ý mà dàn quân về hướng Bắc.
– Đề đốc! Địa bàn rộng, đường đất xa xôi, ta chưa nắm được dân làng, quân binh lại mỏng. Ngài nghĩ sao?
Đề Cương trầm ngâm. Quả thật, đã từ mấy ngày nay, tướng quân Hoàng Đình Cương suy nghĩ rất lung mà vẫn chưa có cách nào giải được câu tự hỏi, giờ lại là điều làm phó tướng băn khoăn mà Đề đốc phải là người nêu ý kiến tháo gỡ.
Trầm ngâm giây lát, đề Cương ngẩng nhìn phó Tướng công Bố chánh.
– Hạ tướng vội nghĩ, ta lập trận địa giả ở Tuần Quán hoặc Bách Lẫm thuộc phủ Trấn Yên. Quân Pháp tất thăm dò rồi đánh úp, ta bày binh ba mặt đánh ập lại. Thắng lớn, sẽ khích động dân binh và nghĩa sỹ. Pháp lo đối phó với hướng Bắc, là cơ hội tốt cho Thủ lĩnh Đại thần và Đề đốc tướng quân vượt qua Yên Lập lên Nghĩa Lộ.hánh gật đầu cho là hay liền gọi lãnh Hặc, lãnh Đa đến bàn. Hặc và Đa đều là người Hạ Hòa, thường xuyên đi mua tre nứa dọc sông Thao lên Trấn Yên, hai ông thạo nghề sơn tràng, nghề sông nước, hay ngủ tá túc nơi dân bản nên quen biết nhiều, thân hữu lắm. Từ ngày được lãnh binh Đào Văn Toát người Văn Lang, Hạ Hòa dẫn mối về Tiên Động, Hặc và Đa tham gia đánh trận đồn Cửa bộ, lập công, được Hiệp thống Thủ lĩnh phong Lãnh; Lãnh Hặc, Lãnh Đa thành chỉ huy Đội binh từ đấy.
Lãnh Hặc bàn:
– Đề đốc nên lập trại giả ở Tuần Quán để nhử giặc, còn ngài đặt sở chỉ huy ở Bách Lẫm. Trên đồi Bách Lẫm, nên đặt súng thần công bắn thẳng xuống trại dã chiến của Pháp cũng ở làng Tuần Quán. Lãnh tôi mai phục ở Hào Gia đánh lên; lãnh Đa mai phục ở bên kia sông Hồng, dùng thuyền dân mà chở đội binh đánh sang, quân Pháp chắc sẽ phải tranh nhau nhảy xuống sông mà trôi.
Đề Cương nắm tay Bố chánh thốt lên:
– Hay quá, hay quá phó Tướng công ơi.
Nguyễn Văn Giáp gật đầu.
– Được, được. Giao cho Đề đốc và hai Lãnh tướng lập bản kế hoạch. Đừng quên cho người phao tin Thủ lĩnh Tiên Sơn đang hạ trại ở Tuần Quán.
Bố chánh vừa giao việc vừa bật cười bởi màn nghi binh lừa đám “Chuột rừng” thành phủ.
Lãnh Hặc, lãnh Đa cúi mình chào Phó tướng và Đề đốc. Hai ông rời Bách Lẫm đi về bến miếu Am nơi dừng chân của khách buôn bè đường thủy. Không đợi khách hàng từ Việt trì lên; lãnh Hặc, lãnh Đa bán sang tay mấy bè tre gỗ cho thợ sơn tràng. Cuối buổi sáng hôm sau dưới sự chỉ huy của Đề đốc Hoàng Đình Cương, một “trại thủ lĩnh” được dựng lên bên sân miếu Tuần Quán. Lá cờ có chữ “bình Tây phục quốc” chỉ to bằng chiếc chiếu, nhưng cũng đủ cho người ngồi trong tầu thủy trân sông Hồng nhìn rõ. Ban ngày dăm bẩy lính canh khoác súng đi lại; ban đêm những ngọn nến nhựa trám cháy sáng cả trại. Cách trại Tuần Quán chỉ nửa cây số về thượng nguồn sông là sở chỉ huy của Đề đốc. Bên tả sông có lãnh Đa; bên hữu, lãnh Hặc. Mỗi nơi chỉ đủ một trung đội quân binh, tất cả bí mật tập luyện.
Nghe Đề Cương báo cáo lại, Bố chánh phó tướng khẽ gật đầu rồi đưa ngón tay vẽ vẽ trên mặt bàn.
– Sớm muộn ta cũng phải theo đường mòn Vân Hội mà hợp quân với Hiệp thống Tướng công; vậy nên, ta tính lập một trại binh mạnh ở phủ Đại Đồng nhằm ngăn chặn sông Lô, sông Chảy, và chi viện thượng nguồn sông Hồng khi cần thiết. Ý Tướng quân thế nào?
Đề đốc khẽ khum năm đầu ngón tay chụp xuống tấm phản gỗ đang ngồi, đoạn ngẩng nhìn Bố chánh.
– Phó Tướng công. Ngài xét đoán thật sâu rộng. Lợi thế của quân Pháp hiện nay là đường sông, tầu thủy và tầu pháo; việc hành quân bộ chúng chưa dám làm mạnh. Ta sớm lập đồn Đại Đồng cũng là phải.
Bố Chánh trầm ngâm.
– Đồn Đại Đồng, quân binh đâu, dân binh đâu? Vũ khí nữa. Nếu không làm nhanh, không làm kín, thành phủ Hưng Hóa biết được, chúng sẽ trấn áp ngay.
– Vâng, đúng!
Đề đốc hiểu ý Bố chánh, ai là người về Yên Bình xây dựng cơ sở ban đầu? Lướt trong đầu Đề Cương lúc này là những tướng quân đã từng có thời ngược xuôi vùng đất sông Lô sông Chảy: Đề Mạc, lãnh Khanh ở Hạ Hòa, đốc Kình, lãnh Mai ở Lâm Thao, đốc Thục ở Đoan Hùng, lãnh Toát, Văn Lang Hạ Hòa. Một tướng giỏi nữa là lãnh Vân – Ma Văn Vân, người làng Mè Phú Thọ có thể đảm đương việc này; nhưng tất cả các tướng đang ở mặt trận hậu Tiên Động cùng với Tổng Khảm Trịnh Bá Đanh, hai vị đang trên đường cùng đề Kiều tháp tùng Hiệp thống Đại thần sang Yên Lập đi Tây Bắc. Việc làm xáo trộn tướng lĩnh lúc này đã thật cần thiết chưa?
Nghĩ gay gắt trong đầu. Chợt khuôn mặt Đề đốc Hoàng Đình Cương trở nên tươi vui. Tướng quân nâng chén nước trà nhấp nhẹ rồi đặt xuống mặt phản.
– Thưa ngài Hiệp đốc Quân vụ, ta có thể phong “Lãnh” vượt cấp cho chánh tổng kiêm thổ hào phủ Yên Bình Nông Đình Tẩn được không? Nếu được, sẽ rất có lợi cho nghĩa binh Cần Vương ở Tây Bắc.
– Ông ấy là người thế nào? Bố chánh hỏi.
Thực ra đề Cương cũng chưa được gặp mặt thổ hào Tẩn, nhưng những người làng đi làm ăn ở Phủ Bình kể nhiều về Hoàng Đình Cương, cho rằng đó là một tù trưởng tài giỏi và tốt bụng. Nghĩ thế, Đề đốc vội thưa.
– Vâng, từ thổ hào trở thành tù trưởng, rồi mua được chức Chánh tổng, không có tiếng làm hại ai. Thế có nghĩa là được lòng dân, lại biết cách trừ loại kể xấu.
Phó Tướng công gật đầu rồi bất ngờ nói:
– Tướng quân. Ngài mau lên Phủ Bình, gặp tù trưởng, thuyết phục, rồi sớm định liệu bản trại lập đồn.
– Vâng, thưa quan Bố chánh! Đề Cương đáp gọn.
Ngay sáng hôm sau Đề đốc Hoàng Đình Cương và hầu vệ Tùng trong bộ quần áo tư thương vượt Hương Lý, theo ngòi Loan vào Đại Đồng nơi đặt phủ lỵ Yên Bình. Rồi lại từ phủ lỵ đi ngược lên Ngọc Chấn. Ngọc Chấn là xã ngọn nguồn sông Chảy của phủ Yên Bình. Ngày thứ hai mới gặp một người đàn bà mặc váy, đầu đội nón “tát”.
Đề đốc làm quen:
– Chào chị à! Chị là người dân tộc gì?
– Thổ quá. Thổ qu…á! Ở đây toàn là người Thổ mà!
– Chị có biết ông Nông Đình Tẩn, ông ấy là…
– Biết mà, ông Tẩn cũng người Thổ, nó làm tù trưởng mà!
– Tôi muốn gặp ông tù trưởng nói chuyện mua bán?
– Đi! Nhà nó kia, đang có đám giỗ. Nó là em tao mà!
– Ồ ồ, cám ơn chị. Cám ơn chị!
Đề đốc và hậu vệ đeo túi bước lên cầu thang nhà sàn. Người đàn bà đon đả gọi. Một trung niên tầm tuổi bốn mươi to cao, tươi tỉnh bước ra. Trước mặt anh ta là người khách lạ.
– Hầy. Ông tìm ta việc gì à?
Đề đốc cúi chào gia chủ, rồi cúi chào các khách họ ngồi la liệt dưới sàn nhà gỗ.
– Tù trưởng à. Có việc đấy, việc mua bán thôi. Tôi ở phủ Trấn Yên tìm đến đây mong được ông tù trưởng Ngọc Chấn giúp đấy.
– Hầy. Việc gì cũng giúp nhau được. Nhưng phải ngồi xuống đây làm một chén rượu núi đã mà.
Đề Cương nhẹ nhàng nhìn quanh, khách họ còn đang trò chuyện, thầy tào đến cúng chưa thấy đâu, mà gia chủ thì vui vẻ nên đành liều.
– Tù trưởng Nông Đình Tẩn này. Việc bán buôn cần trao đổi trước, ông sắp vào lễ họ, tôi không muốn làm phiền.
– Được, được mà, mời ông thương lái vào gian trong.
Đề Cương theo chân Đình Tẩn bước vào gian nhà giành riêng cho gia chủ. Gọi là gian, nhưng thực ra là một phòng khách, bốn bề lịa ván xoan già, những lớp vân xoan lâu ngày ánh lên rất đẹp. Tường nhà dựng đôi ngà voi, trên cột trụ đóng bộ gạc nai, góc nhà là bộ da gấu, da hổ nhồi trấu… tất cả được sắp đặt gọn, đẹp, mà cũng cảm giác rất uy lực.
Tù trưởng Tẩn đã rót xong hai bát rượu sành, cười cười bước lại.
– Ông là thương gia, lần đầu gặp mặt. Ta “kết tồng” được không ? Thấy khách có vẻ ngơ ngác, chưa hiểu. Tẩn nói tiếp. “Kết tồng”, là kết bạn, kết nghĩa anh em ấy mà. Tục của người Thổ tôi đấy.
Đề đốc hiểu ngay, cười to.
– Ha ha ha. Được thế thì còn gì bằng. Tôi xin uống trước, cạn hết bát rượu này.
Nói rồi đề Cương ngửa cổ làm một hơi, bát rượu cạn trơ. Đề đốc ngửa bàn tay trái, úp mặt bát đánh chụp. Đề đốc Cương làm thuần thục, gọn nhẹ đến nỗi tù trưởng người Thổ chưa kịp đặt bát lên môi. Cả hai, khách chủ, cùng úp bát lên mặt bàn tay. Cười ha hả.
Không để mất cơ hội, Đề đốc Hoàng Đình Cương đặt thẳng vấn đề.
– Ngài tù trưởng. Anh em với nhau rồi, tôi không giấu gì nữa. Tôi đây là Đề đốc Triều thần, được Đại thần Hiệp thống Nguyễn Quang Bích và phó Tướng công Nguyễn Văn Giáp phái lên Ngọc Chấn gặp tù trưởng người Thổ Nông Đình Tẩn bàn việc cơ binh Cần Vương… quan Đại thần Quân vụ ở xa, biết tin ngài nhận lời, hẳn Đại thần Tướng công sẽ mừng lắm.
Nghe dẫn tên tuổi và lời lẽ tin cậy về quan Đại thần Triều đình Huế chủ chiến, đến với một tù trưởng người dân tộc miền ngược như mình, Nông Đình Tẩn vội vàng quỳ xuống trước Đề đốc tướng quân.
– Thưa quan Đề đốc, con xin nhận tội thất lễ. Con và dân phủ có thể làm được điều gì bé nhỏ, xin đại quan cứ sai bảo.
Hoàng Đình Cương đưa hai tay đỡ tù trưởng thổ hào:
– Với ta, là anh em kết tồng rồi sống chết sẽ có nhau. Còn tù trưởng đã được Đại thần Hiệp thống Quân vụ Tướng công Nguyễn Quang Bích, và Phó Tướng công Bố chánh Nguyễn Văn Giáp nhất mực tin cậy, giao cho chức phụng Chiếu Cần Vương mà đứng ra xây dựng đồn Phủ Bình, quyết Bình Tây phục quốc vì nghĩa lớn. Kể từ giờ phút này tù trưởng Nông Đình Tẩn đã là tướng quân phủ Bình, phẩm hàm Đốc binh, thuộc đạo binh Cần Vương Tây Bắc. Tù trưởng nhận lấy tấm Bài phẩm này và lo hành động.
Nông Đình Tẩn chưa hết bàng hoàng bước tới trước mặt Đề đốc, đưa hai tay nhận tấm thẻ Bài phẩm rồi cúi hai cúi. Đốc binh run run.
– Quan, quan… Đề đốc. Anh… anh… quan… Đốc binh Đình Tẩn này… nguyện sống chết bên quan Đại thần Hiệp thống. Anh, anh… Đề đốc…
Đề Cương ôm chặt lấy người em kết nghĩa. Cả hai như cười, lại như muốn khóc.
Chưa đầy mười ngày sau, Đề Cương bất ngờ tháp tùng Bố Chánh Phó tướng công đi thị sát, đã thấy đồn phủ Bình dã chiến đặt tạm trong khu trang trại của tù trưởng. Ba mặt đồi nhìn xuống có thể quan sát cả đường thủy, đường bộ sông Chảy và vận động nhanh đến trạm sông Lô bằng đường bộ thành nhà Bầu. Bố chánh và Đề đốc, cùng đốc binh đồn trưởng Nông Đình Tẩn bày đặt trạm gác, điểm đặt súng thần công, khởi động luyện tập quân binh, dân binh. Lại tính cả việc sắp sẵn hàng chục giầm bè tre nứa để sẵn ven sông, nếu tầu Pháp kéo lên nhiều thì bao vây hai đầu sông, phóng hỏa. Phó Tướng công Bố chánh thật sự hài lòng với tính toán quân binh vừa nhanh gọn, vừa sáng tạo của Đề đốc Cương và đốc binh Đình Tẩn, ngài cầm quả ngô luộc bẻ làm ba, đưa mỗi người một mẩu.
– Hai tướng. Bắp ngô của dân làng, dân làng nuôi ta, ta lo trả ơn bằng việc giữ nước.
Tiễn Phó tướng công xuôi đường sông Chảy trở về Phủ Trấn Yên. Đề Cương và đốc binh Đình Tẩn lại vội lên ngựa đi kiểm tra tuyến sông Lô, ven thành Bầu và tính toán việc liên binh với quân Tổng Khảm Trịnh Bá Đanh để lập Trạm binh Đoan Hùng. Nông Đình Tần, con trai đốc binh Nông Đình Tẩn, là lang đạo sông Lô, được cử làm trưởng Trạm binh, đưa hai tướng quân đi kiểm tra, cười cười nói với Đề đốc Hoàng Đình Cương.
– Thưa quan Đề đốc. Đất này thời Trần oanh liệt lắm, Tả tướng quân Trần Nhật Duật đã chỉ huy đánh quân Nguyên Mông làm cho tướng giặc Na xa rút đin phải chui rừng chạy về Vân Nam.
– Hà, đúng! Nhưng phải nói thêm, Tả tướng quân chiến thắng quân Nguyên một phần là nhờ dân làng Thu Vật. Lại có các tướng lang đạo người dân tộc Hà Bổng, Hà Đặc, Hà Chương đánh vu hồi bên sông Thao. Binh pháp đánh giặc của cha ông, nay ta còn phải học nhiều con ạ.
Đề đốc vừa dứt lời, Trưởng trạm binh liền chắp tay phục xuống. Đề đốc Cương đỡ Đình Tần đứng dậy mà nói :
– Ta khen cháu, thổ hào giỏi, lại có đầu óc quân binh, thông hiểu sử chiến, trung thành với quan Hiệp thống Đại thần Thủ lĩnh và Hiệp đốc phó Tướng công. Hiệp đốc phong con làm đội binh, ta mong con giữ vững bản lĩnh người Thổ mình mà chỉ huy đánh giặc.
Nói đoạn Đề đốc sai hộ vệ Tính lấy thanh gươm đầu rồng trao cho Nông Đình Tần. Đội binh phủ Bình, trạm trưởng Sông Lô đỡ lấy “Gươm rồng” mà rơm rớm nước mắt. Tù trưởng Nông Đình Tẩn cũng không khỏi bùi ngùi.
– Con trai Tần của ta. Con nhận gươm báu, cũng như cha, được phó Tướng công Hiệp đốc tự tay trao kiếm Rồng. Đấy là lộc Trời ban, cũng là mệnh Trời chỉ. Cha con mình quyết không hổ thẹn với Tả tướng quân nhà Trần, với tướng quân Chúa Bầu, và với người Thổ Thu vật phủ Bình.
Đội binh trẻ Nông Đình Tần nâng gươm Rồng lên trước mặt, quay về ngọn núi Ngàng, vái ba vái; rồi cúi đầu trước hai tướng quân, Đề đốc Hoàng Đình Cương và đốc binh Nông Đình Tẩn. Vùng trời sông Lô bỗng bừng sáng. Đêm đó, ba cha con “bạn tồng” trò chuyện thâu đêm. Tù trưởng thổ hào Nông Đình Tẩn và lang đạo thổ hào Nông Đình Tần quyết định cung tiến Thủ lĩnh Hiệp thống và hai phó Tướng công Đạo quân Cần Vương Tây Bắc ba thớt voi chiến. Đội binh lang đạo sai người lên Lục Yên thuần voi và phong họ làm Quản tượng quân binh, chờ ngày đưa tượng chiến về Bản doanh Đạo binh ở Tây Bắc.
Hiệp đốc Bố Chánh Nguyễn Văn Giáp cùng đội Thái, quân binh liên lạc kiêm hậu vệ, đóng giả dân chài lưới thị sát dọc bờ sông Hồng. Đào Xuân Thái là người làng Bái phủ Trấn Yên quê  gốc Nam Định, gia đình cụ nội ngược sông đi làm ăn rồi hạ gánh tại làng Bái Yên đã bốn đời. Thái có sức khỏe, giỏi sông nước, giỏi xuyên sơn, lại bắn nỏ tài nghệ. Một lần vi hành Trấn Yên, Đề đốc Hoàng Đình Cương vô tình gặp chàng trai ngồi dưới bóng cây dùng nỏ bắn đài hái, quả đài hái to bằng cái bát ăn cơm, treo lơ lửng trên dây tít ngọn cây sồi. Thái dương nỏ bắn đúng cuống quả. Mười phát, rơi mười, và biếu vị khách buôn cả rổ đài hái tròn vo, chắc nặng. Chỉ sau mấy chặp hỏi han, gợi gợi, trai làng Đào Xuân Thái nhận lời về làm bảo vệ vị “thương gia” họ Hoàng mỗi lần đi xa.
– Này chú. Nếu tầu Pháp bất ngờ đổ quân ở bờ cát này rồi tràn lên đánh chiếm phủ, quân lãnh Hặc, lãnh Đa chống lại thế nào?
Câu hỏi bất ngờ của Tướng quân Bố chánh làm Đội Thái lúng túng, chỉ lát sau đã trấn tĩnh.
– Hiệp đốc phó Tướng công. Hai tướng xử sự thế nào, Đội binh chưa rõ. Nhưng theo ý Đội thì nhị Lãnh nắm quân binh, tri phủ nắm dân binh, tri phủ phải là người đồng lòng cùng nhị Lãnh thì mới chống lại được.
– Thế có nghĩa là ta và đề Cương phải là người nắm quyền chỉ huy?
– Vâng, đúng thế, thưa Tướng quân Bố chánh!
Phó Tướng công Hiệp đốc ngẩng nhìn mây trời, rồi lơ đãng nhìn ra mặt sông Hồng. Đất Bái Yên phủ Trấn này kéo đến tận Tuy Lộc, rồi mới lên Ngòi Hóp, Đông Cuông, Trái Hút, Phong Dụ, vào Văn Bàn. Nếu Pháp chiếm được giải đất sông Hồng này thì coi như lị phủ Lao Cai sớm muộn cũng sẽ rơi vào tay chúng, cánh cung Tây Bắc khó bề giữ nổi. Để mất sông Hồng, để mất Lao Cai, nghĩa là mất Lai Châu, mất Tây Bắc, tội ấy, đứng trước Đức Vua là tội chém đầu. Tham tán Hiệp đốc Quân vụ Tòng nhị phẩm Nguyễn Văn Giáp thoáng nghĩ mà rùng mình. Không, thân ta thà ngã trước mũi súng giặc Pháp chứ quyết không tự rơi đầu trước Đức Vương chủ chiến Hàm Nghi.
Tướng quân khẽ gật nhẹ, cười như vô cảm.
– Nhưng… nhưng ta chưa hiểu biết gì về Tri phủ Trấn Yên liệu ông ta có nghe theo?
– Việc này, Phó tướng công yên tâm, đội binh Thái xin lo trước.
Bố Chánh vỗ vai Đào Xuân Thái.
– Được, được. Ta cũng cùng lo liệu với chú Đội.
Hai kẻ “dân chài” nhảo bước trên vỉa cát đi về phía miếu Am rồi ngược lên bến Lâu, rẽ vào phủ lị.
Dinh Chánh phủ của phủ lị Trấn Yên Đặng Liễu là dãy nhà gỗ năm gian nằm lọt trong khu vườn rộng nhìn ra sông Hồng. Những cây cổ thụ trùm mát vườn đồi mà không um tùm rậm rạp, mấy cặp chim bồ câu bay đậu trên cành, trên mái nhà. Mùa tháng chín ta mà hoa phong lan vẫn cứ nở vàng, nở tím, có cả phớt hồng, ăn theo các mảng địa y bám vào thân cây. Một không gian vừa thoáng đãng, bắt mắt, lại vừa ấm áp sắc hương. Bỗng hai con chó béc giê xồ ra trong khuôn viên giành riêng cho chúng. Tướng quân Bố chánh tủm tỉm nói với vệ sỹ.
– Ở Hà Nội, chỉ có nhà giầu, mà chơi thân với Tây mới nuôi chó béc!
Đội Thái hiểu ngay ý tướng quân: Tìm cách lôi kéo ông Chánh phủ nhưng phải cảnh giác. Cả hai bước nhanh theo trục đường phủ lị. Mặt trời phía tây, xuống núi.
Đội Thái chơi với Đặng Lanh, đội trưởng điếm canh Bến Lâu. Ngày Đặng Liễu mua được chức Chánh phủ, bổ ngay người em họ là Đặng Lanh làm trưởng điếm. Điếm canh Bến Lâu nằm trên đồi quan sát ba mặt đường bộ phía đông, phía tây, phía bắc; lại giám sát thuyền bè, thương lái buôn tre gỗ qua cửa sông lên đường bộ. Điếm có tới năm sáu dõng binh trực suốt ngày đêm. Lái buôn muốn lọt qua cửa điếm nhanh gọn, cách tốt nhất là chạy lên trình diện trưởng phó điếm, rồi lót tay nửa lạng, vài lạng bạc trắng tùy theo lượng hàng hóa,thế là đi. Tất nhiên số bạc trắng, đá đỏ, ngà voi, cao hổ cốt và các thứ lót tay quý hiếm khác, chú em họ Đặng Lanh phải nộp lên anh trai chánh phủ phủ lị. Bởi thế nên mang tiếng được lót tay mà cả đội trưởng Đặng Lanh đến các lính dõng vẫn ở nhà tre liếp nứa. Vợ con đi làm thuê ngoài bến bãi hoặc trong đồn điền nhà Chánh thành phủ. Đội trưởng Lanh đã có lúc bất bình mà phàn nàn với Đào Xuân Thái: Ông anh ấy chỉ biết đến mình thôi, người khác, kệ!
Nghe cận vệ kể, Bố chánh thấy đây là điều kiện để lôi kéo đội trưởng Lanh, từ đó tranh thủ chánh lị Đặng Liễu.
– Chú Thái này.
– Dạ?
– Đặng Lanh đã quen với việc anh gác cửa sông, hay là ta…
Bố chánh định nói “hay là ta nhờ Lanh biếu chánh thành phủ trăm lạng bạc”, nhưng kịp dừng lại. Đội Thái không dám gặng hỏi mà chủ động thổ lộ ý mình.
– Hạ vệ sẽ tổ chức bữa rượu kết nghĩa anh em với Đặng Lanh, mời chánh thành phủ dự tiệc, nếu ông ta nhận lời thì tướng quân cho Đề đốc cùng có mặt làm quen để thăm dò ý tứ.
– Hay đấy, hay đấy! Ta bàn với Đề đốc rồi chú tiến hành ngay đi. Bố chánh Nguyễn Văn Giáp khuyến khích.
Đề đốc Hoàng Đình Cương và đội binh Đào Xuân Thái thật khéo. Chỉ hai tuần sau Chánh thành phủ phủ Trấn Yên Đặng Liễu đích thân cho người mang giấy đến mời Bố chánh Nguyễn Văn Giáp thăm dinh thành phủ với tư cách ngài là Tham tán Hiệp đốc Bắc Kỳ quân vụ Tòng nhị phẩm, tướng quân đạo binh Cần Vương Tây Bắc.
Thấy sự hồ hởi của ông Thành phủ giầu có, chơi đồ của Tây. Bố chánh quay sang hỏi Đề đốc.
– Ta nên thế nào?
– Tướng quân Hiệp đốc. Ngài đến, không đem theo khí giới, có Đề đốc tôi và đốc binh phủ Yên Bình tháp tùng.
Lưỡng lự giây lát đốc Cương nói tiếp:
– Cũng nên cho lãnh Hặc chỉ huy mấy chục quân binh giỏi võ đóng giả kẻ đi dạo chơi, dàn quanh dinh thự, nếu có bất trắc, leo tường rào mà ứng cứu.
Bố chánh gật đầu, rồi lại hỏi.
– Nên có quà gì biếu ông ta?
Đề đốc:
– Chánh Thành phủ Trấn Yên do người Pháp dựng lên, khác hẳn với tù trưởng thổ hào Yên Bình. Hiệp đốc tặng ông ta thanh gươm đầu Rồng có khắc chữ “Phục Quốc”. Đề đốc tôi sẽ nhắc đốc binh tù trưởng mang theo sản vật làm quà giao bang hai phủ.
Hiệp đốc Bố chánh nắm hai bàn tay đề Cương:
– Tướng quân. Nếu Hiệp thống Đại thần là một “Thần thiêng”, thì ngài là một bộ hạ giỏi!
Hoàng Đình Cương khoanh tay, cúi nhẹ.
– Cảm ơn Hiệp đốc phó Tướng công. Cảm ơn. Cảm ơn ngài!
Việc dàn xếp của hai đội sỹ, bước đầu đạt kết quả. Chánh thành phủ Trấn Yên Đặng Liễu đã từng nghe tăm tiếng chống lại người Pháp của Tuần phủ Hưng Hóa Nguyễn Quang Bích từ ngày ông ta còn là phó lý trưởng. Hai năm gần đây, lại nghe Tuần phủ bí mật lên ngựa, dựng cờ khởi nghĩa “Bình Tây phục quốc” ở rừng Tiên Động Cẩm Khê thì lấy làm ngờ vực, mà người Pháp lại thúc ép các hào lý địa phương lập bộ máy điều hành là người bản địa. Giờ thì rõ ràng rồi, Tuần phủ Hưng Hóa trước, nay đã là quan Đại thần Triều đình chủ chiến của Vua Hàm Nghi thống lĩnh toàn Bắc Kỳ. Ngả theo phe Cần Vương hay người Pháp? Day dứt mấy tháng trời, chánh phủ Liễu quyết định chuyện “phù thịnh chứ ai phù suy”, nghiêng về người Tây; nhưng lấy tiền của cung cống giữ chỗ, thay cho đem dõng đi đánh quân binh “giặc cỏ”. Bây giờ, chính Chánh phủ anh họ ngồi trong sập lim đợi đón các tướng quân của Đại thần Tuần phủ. Cả hai bên sẽ nói gì, làm gì, và thống nhất mọi việc làm ra sao, đội điếm Đặng Lanh cũng không thể rõ. Nhưng Lanh tin ở lời của Đào Xuân Thái, các ông ấy sẽ chỉ bàn việc giúp Vua cứu nước, chứ không ai làm hại ai.
Một chiếc ca nô xuất hiện phía đầu nguồn sông Thao, nghĩa là nơi giáp ranh đất Hạ Hòa với Trấn Yên ngang mặt sông Hồng. Từ trạm quan sát đồn Tuần Quán, lãnh Hặc cho liên lạc cấp báo đến Đề đốc Cương.
Chiếc tầu thủy chứ không phải ca nô, ca nô là của nhà buôn, còn tầu thủy thì phải người Pháp mới có, và chỉ có quân binh Pháp mới có quyền chạy dọc sông Thao, sông Hồng, sông Chảy, sông Lô, sông Đà trên dải đất Tây Bắc này. Sắc lệnh của Sa Nô chỉ định như vậy. Các chánh phủ, chánh tổng, lý trưởng, kể cả cánh phe buôn lậu đều phải biết, phải nhớ, khi thấy một hoặc vài ba tầu thủy cắm cờ Tây thì bất khả xâm phạm. Còn nếu tầu dừng lại ở đâu trên các trục sông, dừng lâu dừng chóng hay ở lại dăm bẩy ngày, là quyền của họ, chính quyền hào lý địa phương phải cử dõng binh ra bảo vệ. Với lại, nhà tầu đã cắm cờ Pháp đi đến đâu, người nhà tầu yêu cầu gì thì hào lý nơi ấy phải đáp ứng giả như lương thực thực phẩm, nơi nghỉ ngơi du hý…
Nghe Đề đốc nói, lãnh Hặc, lãnh Đa nhăn mặt làu bàu: “- Người Tây quá quắt với dân An Nam mình”.
– Đúng là tầu thủy chứ không phải ca nô thưa Đề đốc.
– Sao chỉ có một chiếc?
– Chúng đi tuần tra? Hặc phán đoán.
– Ừ, hoặc là tuần tra trên sông, ven sông, thăm dò phát hiện phản ứng của dân chúng, của nghĩa binh. Lãnh Đa đưa thêm ý kiến.
Đề đốc.
– Đó là một lý do. Cũng có thể đồn Hạ Hòa chúng đi khảo sát để nhanh chóng lập đồn Yên Bái, ép buộc ông chánh phủ phủ lị Trấn Yên đấy.
Tiếng động cơ mỗi lúc một gần. Đúng là tầu Pháp, lá cờ Tây, chỉ có một chiếc, đang áp dần vào bờ sông Văn Phú. Hơn nửa tiếng nữa là cập bến Âu Lâu. Chúng sẽ đi tiếp hay ở lại? Ai ra đón hay chỉ ghé lên bờ phủ dạo chơi? Đề Cương phán đoán.
– Chú Đa chỉ huy quân binh, không được khiêu khích đề phòng chúng nã thủy pháo. Chú Hặc theo tôi lên xin ý kiến Tướng quân.
– Vâng, Vâng! Hặc, Đa đáp gọn.
Thoắt cái, hai bóng tướng binh cùng hậu vệ khuất vào bờ soi ngô chuối, lên Bách Lẫm, lãnh Đa dàn quân bảo vệ đồn, nếu quân Pháp đổ lên thì mới bất ngờ đánh giáp mặt.
– Chẳng lẽ chúng biết kế hoạch gặp ông chánh phủ Liễu của ta chăng?
– Chắc là không, thưa Hiệp đốc. Đề Cương nói. Nhưng đây lại là lúc khó xử và chưa biết rõ ý đồ của người Pháp.
– Đúng là như vậy! Hiệp đốc cố trấn tĩnh
– Đội Thái tôi xin hiến kế.
– Chú nói đi. Bố chánh giục
– Đội hạ sẽ lên trạm gặp ngay Đặng Liễu, xin khất ông Chánh phủ cuộc gặp này vì…
Đội Thái chần chừ.
– Chú cứ nói đi. Đề Cương giục.
– Vì… ta cứ phao tin là tầu Pháp lên sẽ có chuyện đòi lập đồn, chiếm phủ, yêu cầu ông chánh Liễu xin lui lại trả lời chúng sau. Rồi ta sẽ liệu bàn với ông Chánh.
– Hay hay. Đội Thái sáng kiến. Chú Đội đi ngay, ta dặn này: Nếu tầu Pháp không cho người lên bờ vào gặp chánh phủ Liễu, thì coi như không có chuyện gì. Còn nếu diễn ra như chú Đội nói, thì, ông Liễu khất Pháp ít nhất một tuần, ta sẽ bàn với ông ấy tương kế tựu kế. Hiệp đốc Bố chánh huơ tay. Việc cấp bách chú đi đi.
Một mình đội binh Đào Xuân Thái, tay không, xuống đồi Bách Lẫm, rồi đi như chạy.
Đề phòng pháo địch tập kích từ tầu thủy, đề Cương giao lãnh Hặc chỉ huy đội binh Bách Lẫm, nếu gặp quân khố đỏ, khố xanh đánh bộ lên đồi, thì dùng dàn đá lăn dập xuống rồi mới giáp lá cà. Giao việc nhanh, Đề đốc đưa Hiệp đốc Bố chánh lánh tạm sang ngọn đồi đá vôi bên cạnh quan sát. Ngọn đồi đá vôi có hang rộng mà đã có lần đề Cương cùng mấy quân binh, dân phòng vào sâu lòng hang xem xét thế tiến, thủ.
Tầu thủy Pháp áp mặt bờ bến Lâu rồi bỗng ngoắt sang trái, quay đầu xuôi dòng sông Hồng. Không một người nào của nhà tầu bước lên bờ Bến hay bờ cát. Lãnh Hặc, lãnh Đa vẫn im lìm dưới lùm cây theo dõi. Tầu dừng giữa mặt sông khoảng mười lăm phút rồi từ từ chạy xuôi. Ba mươi phút sau khuất hẳn tầm nhìn của trạm quan sát Bách Lẫm. Tiếng động cơ cũng im ắng hoàn toàn. Đề Cương đưa Hiệp đốc trở lại Bách Lẫm. Nhóm tướng binh chụm đầu.
Lãnh Hặc:
– Lãnh tôi cho rằng tầu chở tướng Pháp đi xem xét địa bàn để lập mưu tính kế đô hộ ta.
Lãnh Đa:
– Đúng là như vậy, họ vẽ bản đồ địa hình, chụp ảnh, quan sát, thăm dò phản ứng của Chánh thành phủ phủ Trấn Yên và dân làng ven sông.
Đề Cương:
– Hai tướng xét đoán đều hợp lý. Nhưng hãy xem, chúng áp sát bờ cát Văn Phú, rồi lại dừng giữa dòng giáp Bến Lâu là cớ gì?
Lãnh Hặc:
– Có thể cũng chỉ để thăm dò, quan sát phát hiện đồn binh quân ta.
– Vì sao họ không lên thành phủ? Chẳng lẽ Sa Nô cho quân lê dương đi chơi sông Hồng sao? Đề Cương vẫn băn khoăn.
Hiệp đốc Bố chánh chưa kịp có lời lí giải với các tướng thì đội binh Đào Xuân Thái bước vào lán trạm.
– Quan Hiệp đốc, Đề đốc, Lãnh binh. Đội Thái và Đội điếm Đặng Lanh ở chòi gác thấy tầu Tây quay xuôi nên không đến gặp Chánh thành phủ nữa. Như vậy là kế hoạch buổi gặp ông Chánh vào chiều nay vẫn cứ diễn ra như dự định.
Đề Cương hỏi ngay.
– Thế hai anh Đội nghĩ sao khi tầu Tây không lên bờ mà lại quay xuôi?
Đội Thái lắc đầu.
– Chưa rõ ạ, chỉ nghe Đặng Lanh nói lộ ra, ông Chánh sẽ ra lệnh cấm dân buôn bè hạ trại từ miếu Am đến Bến Lâu, ông còn nói, sắp có quan Tây về thăm Thành phủ.
Hiệp đốc Bố chánh Nguyễn Văn Giáp đang chăm chú nghe, bỗng đứng dậy:
– Tin tức mà chú Đội nói có mối với việc chiếc tầu thủy của Pháp vừa đi. Bây giờ ta ban bố:
Đề Cương khoanh cánh tay:
– Xin Hiệp đốc chỉ định!
– Tướng quân đề Cương cùng lãnh Hặc lãnh Đa theo dõi quân Pháp cả trên đường thủy và đường bộ dọc sông Hồng, các đồn, các trạm binh vừa luyện quân, vừa sẵn đánh.
Đề Cương và hai lãnh:
– Xin tuân thủ lệnh Hiệp đốc Bố chánh.
Nguyễn Văn Giáp nhìn đội Thái.
– Việc vào thành phủ chiều nay, giao cho đội binh lo liệu. Tù trưởng Nông Đình Tẩn và ta, cùng gặp chánh thành phủ Đặng Liễu.
Đào Xuân Thái khoanh cánh tay khẽ cúi.
– Vâng, thưa ngài Hiệp đốc!
Trời vào đông se se lạnh. Ba giờ chiều. Bốn giờ chiều. Đã quá gần hai mươi phút mà vẫn không thấy Hiệp đốc Bố chánh và tù trưởng đốc binh trở ra. Lãnh Hặc bồn chồn đến bên Đề đốc.
– Lãnh tướng đừng lo. Hiệp đốc là người bản lĩnh và cao kiến, lại có đốc binh và đội vệ tháp tùng. Ta bình tĩnh đợi. Đề Cương nói.
Lãnh Hặc và tốp vệ sỹ mặc dân phục lang thang ngồi gốc cây, ngồi quán nước, mà tai mắt vẫn để ý phía tường rào chánh thành phủ, chỉ cần nhìn thấy đội Thái vung chiếc áo ra hiệu là nhóm “người nhện” này vượt tường nhảy vào sân ngay.
Có tiếng kẹt cổng. Kia rồi. Hiệp đốc Bố chánh, Đốc binh phủ Bình, rồi đến người đàn ông cao to, áo dài thâm, khăn xếp sóng bước. Sau cùng có lẽ là đội Thái. Đúng là đội Thái, đeo túi vải.
Đề đốc Cương vỗ vai lãnh Hặc:
– Chắc không có chuyện gì xảy ra!?
– Vâng. Có lẽ thế!
Người đàn ông mặc áo the dài nắm hai tay vào nhau đưa lên ngang mặt. Bố chánh ngoảnh lại, khẽ gật đầu, rồi ra khỏi cánh cổng sắt. Trời đất tự dưng tối lại. Cơn mưa dông trái mùa như đang sắp ập đến.
Chánh phủ phủ lị Trấn Yên Đặng Liễu nằm dài trên chiếc tràng kỷ đan bằng mây song rừng già, chiếc gối cũng được đan bằng những sợi mây chuốt mỏng như chiếc lặt giang, mây song già, lại phơi được nắng, dùng lâu ngày ngả mầu óng ánh. Chánh phủ không thiếu gì đồ ngủ nghỉ bằng da, bằng vải, bằng cả đệm mút do người bạn Pháp ở Hà Nội biếu tặng; nhưng ông vẫn thích dùng thứ mây tre đan, cũng như khuôn viên tư dinh rộng có tới hàng nghìn mét vuông có đủ các loại cây dân dã làm cảnh. Cây vam quả vàng suộm, cây dâu da quả hồng tươi, cây vải ngọt dầy đặc chùm quả, cây bứa cành tán xòe ngang, cây mít dai có từ thời ông bà đã trở thành cổ thụ… Trên các cây là các loại hoa phong lan. Mùa quả chín, chim rừng từ các nơi kéo về ríu ran suốt ngày. Những tưởng cuộc sống phủ lị miền rừng núi cái cảnh thú, có người phục dịch, cứ êm đềm đến tuổi già. Ai ngờ người Pháp đến, mọi thứ vẫn thế nhưng họ lại o ép thêm đủ thứ: cống nộp, sưu thuế, bắt phu, bắt lính, bây giờ lại thêm cái trát gửi từ Hà Nội, khoanh đất cho người Pháp lập tòa sứ, đất cho người Pháp xây nhà thờ, đất cho người Pháp lập đồn nhà binh. Hà Nội lại cử mấy ông Tây lên ăn nằm tại thành lị. Đội dõng phủ thêm việc bảo vệ vòng trong vòng ngoài. Ấy là chưa nói phần của quan tỉnh mà Triều đình chỉ dụ phải thi hành theo tháng theo ngày. Bây giờ, bây giờ, “Đạo quân binh Cần vương Tây Bắc” là cái gì nhỉ? Giúp Vua, bài Tây, phục quốc? Liệu có làm được không cơ chứ? Mà không khéo lại “đắm đò dập mẹt” cả lũ.
Đang miên man, bỗng con chim vẹt đầu nhà kêu to “có khách, có khách” làm chánh phủ Liễu giật mình tung chiếc chăn mỏng, bật khỏi tràng kỷ mây, bước ra cửa. Ngoài cổng, thằng hầu đang lần chiếc chìa khóa.
– Người Tây! Giữa trưa se lạnh, mày đến nhà làm gì(!?)
Chánh phủ Liễu cảm thấy khó chịu. Mà khó chịu thật. Người tây lịch sự ở đâu chả biết, chứ đến nhà riêng mà không báo trước thế này thì lịch sự cái gì(?). Chánh Liễu khoác vội chiếc áo the, bước ra cửa.
– Ngài! Chào ngài thanh sứ!
– Ố ồ. Tôi làm phiền ông Chánh phủ giữa trưa là vì có việc gấp, thế thôi!
– Không sao, không sao. Mời ngài sứ ngồi.
Chánh phủ, sứ Tây, cả hai đều đon đả; xem như thân mật gia đình.
Sứ tây Mécrăng:
– Tôi đến chào ngài Chánh thành phủ, tôi về Hà Nội mấy ngày.
Chánh Liễu xoa tay:
– Vâng. Thưa ngài!
Mécrăng.
– Nhưng có điều này, thanh sứ liếc ngang, cái việc đất đai, ngài lo đến đâu rồi, ngài Chánh?
– Dạ, cũng đã có ý nhưng chưa thành văn tự, có lẽ…
Méc răng:
– Không còn thời gian nữa, thưa ngài.
Nói rồi viên thanh sứ đứng dậy bước qua bước lại, đoạn đặt tay lên đầu bộ da hổ nhồi trấu đặt góc nhà.
– Nước Pháp ví như chúa sơn lâm này. Còn An Nam chỉ nhỏ bé như con chim chích ngoài vườn cây kia. Ngài Chánh phủ chưa kịp làm thì tôi làm thay ngài rồi đây.
Vừa nói, Mécrăng vừa luồn tay vào túi vét tông lôi ra tập giấy.
– Thưa ngài. Đây là bản vẽ quy hoạch đất đai tại làng Bái Yên thuộc thành phủ Trấn Yên, giành cho người Pháp.
Chánh Liễu giật mình, đưa ngón tay giở giở nhìn lướt vài ba trang: “- Ơ, ơ. Sao lại thế này?” Chợt nghĩ, chưa kịp lời nào, viên thanh sứ đã xen ngang.
– Có gì ngạc nhiên đâu ngài? Đến cả Triều đình Huế còn do Toàn quyền Đông Dương sắp đặt, huống hồ cái phủ của ngài chỉ to bằng con muỗi, Tổng đốc Hà Nội đã phê chuẩn rồi. Tôi hân hạnh thông báo cho ngài như vậy.
Thanh sứ Tây nhìn chằm chằm, cười nửa miệng rồi bất ngờ
– Ngài Chánh thành phủ. Nước Pháp đang chờ đón một người An Nam như ngài. Chào ngài.
Thanh sứ lại cười,quay mình bước ra cửa. Hầu phủ chạy trước mở cổng. Ngoài đường đất, hai ba khố xanh khố đỏ đứng chờ. Nhóm khách không mời đi nhanh về Nhà Sứ, căn nhà gỗ làm tạm đầu dốc bờ sông.
Chánh phủ lỵ Đặng Liễu không buồn nhìn tập giấy đặt trên bàn trà. Mà không nhìn lại, không đành. Lật từng trang, những khoanh chì đỏ to, nhỏ, nằm gọn trong vòng khoanh to như củ khoai lang, kéo suốt từ đồi Bách Lẫm, đi qua xóm Giếng, ôm chặt đồi Đục, chạy xuống bến Lâu. Vậy là trên có đồi, dưới có sông, phủ lị chỉ là một cái chấm bằng hột đỗ nằm trong cái vành khoanh mà người Tây tự ý vạch ra. Chánh thành phủ Trấn Yên Đặng Liễu thấy tức tức trong lồng ngực. Một cơn ho khan bật phát khiến ngài cựu Ttri phủ đứng đầu phủ lị, tối mắt, ngã vật xuống mặt giường.
– Nhục. Thật là nhục cho người Nam. Tưởng là Tuần phủ Hưng Hóa bổ chức Chánh phủ chỉ là để thay cho tri phủ, nào ngờ lại là cái chức của người Pháp ở Hà Nội.Nhục, thật nhục nhã.
Chánh Liễu tỉnh dần. Lại một cơn ho. Ông thấy người nặng chình chịch mà vẫn cố ngồi dậy vẫy hầu nhà, bảo đi gọi Đặng Lanh, ông cần gặp. Lanh đến, Chánh phủ Đặng Liễu chỉ hỏi “- Chú biết những gì về ông Hiệp đốc Nguyễn Văn Giáp, và biết những gì về Đạo binh Cần Vương Tây Bắc?”. Chánh Liễu còn khoe, ông được Hiệp đốc tặng thanh gươm đầu Rồng. Với ông, thế là lạ lắm.
Sự chuyện về chánh phủ Trấn Yên Đặng Liễu hai hôm trước là như thế, mà đội Lanh này cũng chỉ biết được có như thế thôi anh bạn đội Thái ạ!
– Biết được như vậy, lại chủ động tìm đến kể về sự việc. Đội trưởng điếm binh Đặng Lanh có công lớn “Cần Vương phục quốc” rồi đấy.
Đội Thái vỗ vai đứng dậy. Hai chàng đội binh cười ha hả.
Tin tức về chánh phủ Đặng Liễu đến với Hiệp đốc Bố chánh và Đề đốc Cương ngay sau đó.
Dù phán đoán nhiều hướng, nhiều tình huống xẩy ra, nhưng Bộ tướng cánh Bắc của Hiệp đốc Nguyễn Văn Giáp vẫn không tính hết được ý đồ người Pháp ở tuyến trục sông Hồng sông Chảy.
Sau khi nắm chắc được quân “giặc cỏ Cần Vương” đứng đầu là Nguyễn Quang Bích rời căn cứ Tiên Động di chuyển phân tán, phần vào rừng già, phần ngược tuyến sống Thao. SaNô Tây Bắc và thành phủ Hưng Hóa cho đây là thắng lợi và là cơ hội tốt nhất để phát triển đạo quân chiếm lĩnh các vùng đất trọng yếu nhất. Sa Nô nhận chỉ thị của tổng đốc Hà Nội, tập trung đương đầu với “đạo quân Cần Vương ở Tây Bắc”; Hà Nội sẽ cho xây dựng đồn Phú Thọ thành pháo đài quân sự, xây dựng thủ phủ Trấn Yên thành trung tâm dân sự có đồn binh phụ trợ. Chiếc tầu thủy cắm cờ Pháp lần đầu tiên xuất hiện trên Bến Lâu rồi rút xuôi về Phú Thọ là thăm dò, quan sát, chụp ảnh, dọ độ nước nông sâu, tìm bãi cập  ven bờ. Thành phủ Trấn Yên đặt trên đất làng Bái Yên, rồi khu Bách Lẫm, xóm Giếng, đồi Đục… đã lọt vào ống nhòm, lọt vào bản đồ do thám của đại đồn Phú Thọ. Cũng tầu thủy này, ghé vào ven Văn Phú, hai dân đánh cá “chẳng may”, thuyền lưới bị dạt xuống khúc nước Hạ Hòa, được tầu Tây cứu vớt, nay thả họ lên bờ “về quê”. Hai người “dân đánh cá” có cặp mắt lạ ấy là Phung, trung úy, đội trưởng đội do thám, và Phát, thành viên đội. Trung úy Phung là lính khố xanh trạm binh Tuần Quán của đại úy Ngô Tuân, sau mấy tháng học nghề do thám ở Hưng Hóa, được Trương Đen đưa về Sa Nô, cùng trung úy Quỵch, bí mật xâm nhập Tiên Động thủ phủ của Thủ lĩnh “bình Tây phục quốc” ngay sau ngày có tin báo đạo quân Tiên Động này đã phân chia làm hai hướng đi sông Hồng và đi Yên Lập. Quỵch và Phung cũng bất ngờ trước cảnh trống trơ của Tiên Động, dấu binh quân Tuần phủ Bích vẫn còn rõ mà cả đạo quân đi thoát vào rừng từ khi nào đến người dân Tiên Sơn, Tiên Động cũng không biết.
Báo cáo của Quỵch và Phung được đại úy Trương Đen trưởng phòng mật thám Sa Nô và trung tá Xanhtơni phó chánh thành phủ Hưng Hóa kiêm đồn trưởng Phú Thọ đánh giá công tích.
Bây giờ thì Quỵch và Phung là đội trưởng hai đội thám báo. Quỵch đi Yên Lập, còn Phung lên Trấn Yên. Làm rõ được tung tích của Hiệp thống Nguyễn Quang Bích, và Hiệp đốc Nguyễn Văn Giáp cùng đạo quân binh của họ, là mục tiêu lên hàm của hai viên trung úy mật thám người Việt chuyên đánh thuê cho giặc Pháp, nhưng dưới sự chỉ huy trực tiếp của đại úy Trương Đen ở Sa Nô.
Phung và Phát thay quần áo định bụng ghé qua trạm binh Tuần Quán, nơi hắn ở mấy tháng trước. Nhưng trạm binh đã tạm thời rút bớt quân số để tăng lượng cho đồn Phú Thọ chỉ còn vài ba lính vệ, Phung thành thạo vùng đất này nên khi biết tin Ngô Tuân đại úy trưởng trạm không có ở Trại, Phung nhắc Phát đảo bộ quần áo buôn trâu, rồi lên thẳng Xóm Giếng ngủ qua đêm chờ sáng mai, ngày rằm, ra nhà đền.
Xóm Tuần Quán có ba quả đồi cây cổ thụ dầy đặc, ban đêm lạnh lẽo, u tịch. Lãnh Hặc, Lãnh Đa bí mật chiếm cứ đồi Gò Cao gần với Bách Lẫm và lập trại binh, rồi được Bố chánh trang bị quân binh, súng thần công, trại trở thành đồn. Đồn Tuần Quán của đạo binh Cần Vương bắc sông Hồng, cách đồn hai cây số là Sở chỉ huy phía bắc của Đạo binh. Hiệp đốc, Đề đốc, và đốc binh Thái cùng đội hậu vệ ở đây. Cả hai cơ sở, vẫn rất bí mật, ngoài đội cận vệ đồn, và trại, không một ai biết.
Giáp mặt sông Hồng là đền Tuần. Đền thờ Mẫu Thượng ngàn có từ trăm năm trước, linh thiêng chưa rõ đến đâu nhưng chỉ biết rằng sau ngày chiếm được Tiên Động, rục rịch lập đồn Phú Thọ là người Pháp đưa tầu thủy lên ém sát đền Tuần. Chỉ mấy ngày, lá cờ Tây phần phật, cách cờ Đền chừng năm trăm mét. Dân đi đền tỏ ra thờ ơ với lá cờ Tây kia mà chỉ chăm chăm làm lễ, xong rồi về.
– Bà già này? Phung hỏi giật một khách đền. Bà có thích lá cờ Tây kia không?
– Chả thích, mà cũng chả ghét. Tôi chỉ biết có nhà Đền và nhà tôi thôi.
– Thế còn quan thành phủ, dõng binh? Phung hỏi bám.
– Việc của họ, họ làm, tôi biết được à. Kệ họ chứ!
– Nhưng tôi nghe nếu có quân Cần Vương gì đấy nổi lên ở Trên Yên này. Bà có sợ họ không?
Bà nhang đền vừa nhai trầu vừa lắc.
– Không, tôi không nghe. Mà tôi cũng việc gì đâu mà phải sợ họ. Thôi thôi, tôi đi đây.
Bà già quay ngoắt, ôm lễ vật bước lên đền.
Đêm tháng mười ta, dài dặc. Dò la dân phủ về đạo binh Cần vương mà người dân không ai biết đến, có thể họ đã đi về phía Tây. Trung úy Phung tự tìm  quyền do thám đối tượng. Hai kẻ thám sát ghé vào quán nước chè bến Lâu.
– Chú dõng, chú dõng binh, vào làm chén chè ngon đã.
– Em không uống nước chè.
– Thì cứ vào quán với các anh, lâu ngày…
Dõng Trình tháo chiếc nón dấu và khẩu hỏa mai khỏi vai, bước vào quán nước quen thuộc.
Sau vài ba câu hỏi han, do thám Phung chợt hỏi:
– Chú canh điếm mà chỉ để trông mấy bè tre nứa, làm sao phát hiện được quân giặc “cỏ” Tây Bắc?
– Giặc cỏ nào? Chánh thành phủ có giao việc ấy cho điếm canh đâu?
– Giặc cỏ Tây Bắc là quân phiến loạn Triều đình, chạy theo Hàm Nghi ấy. Đạo này có tên là “Cần Vương”, trú ngụ mấy năm nay ở Tiên Động Cẩm Khê, bị người Pháp đánh, bây giờ dạt lên Tây Bắc. Coi chừng chúng “làm tổ” ở phủ Trấn này cũng nên.
Phung cứ thao thao như thể người rõ chuyện. Dõng binh há hốc miệng nghe, rồi bỗng ngắc ngư đầu.
– Ờ, à. Hẳn nào, em nghe tin ông chánh Liễu mấy hôm nay phát ốm vì bị người Pháp ép lấy đất, lại phải đứng ra lập các đội dân binh bài Tây phục quốc gì đấy!
– Anh biết rồi. Cái việc lập các đội dân binh là do quân giặc cỏ xui bẩy đấy. Quân này do Tuần phủ Nguyễn Quang Bích, và Tuần phủ Nguyễn Văn Giáp, thất thủ ở Hưng Hóa, ở Sơn Tây chạy về đây làm loạn!
Do thám Phung cười to, rồi tỏ ra tự tin.
– Người Pháp sẽ dẹp chúng chỉ trong mấy tháng. Ai giúp người Tây sẽ được họ thưởng nhiều tiền, được đi chơi Hà Nội. Còn ai chống lại ấy à? Phung trợn mắt làm điệu, lên giàn thiêu, giàn thiêu!
Dõng Trình nghe run hết cả người, đứng dậy.
– Thôi, thôi. Em đi lên điếm canh đây.
Phung bước theo ra ngoài mặt đường.
– Này chú Trình, chú cầm ít tiền tiêu. Chỉ cần dò được tin về quân “Cần Vương”, và ý định của ông chánh Liễu với người Pháp thế nào, rồi tìm gặp anh, nói rõ, nói đúng. Thế là chú được người Tây trọng thưởng rồi. Nhưng nhớ rằng chỉ riêng chú biết việc này. Nhớ đấy!
Trình gật đầu, đúc mấy đồng bạc trắng vào túi, bước đi, miệng lẩm nhẩm: “anh Phu, nơi hẹn gặp, ký hiệu…”
Quả thật, nhóm thám báo Phung, Phát không uổng công, chỉ dăm sáu ngày nằm lại khu vực phủ lỵ Trấn Yên, Phung đã nắm được ít nhiều tin tức, đại úy trưởng phòng mật thám Trương Đen nhận xét “đều là tin mới, quan trọng, cần cho người Pháp biết ngay”.
Trương Đen còn đang đắn đo việc gửi báo cáo lên Sa Nô thì bất ngờ một đoàn ba chiếc tầu thủy cắm cờ Pháp từ Hà Nội ngược sông Hồng cập bến Lâu phủ Trấn Yên. Trưởng phòng mật thám hỏi tham mưu trưởng Xanh tơ ni thì được trả lời: “- Đó là việc của Toàn quyền và thống sứ!” Trương Đen im.
“Thế có nghĩa là người Pháp tự do đến nước phớt lờ cả phòng mật thám An Nam của chính họ”! Đại úy Đen thấy tức nghẹn cổ mà vẫn cố lặng yên vừa làm vừa theo dõi. Trung úy Phung được giao việc trở lại phủ thành Trấn Yên, nhưng lần này nhiệm vụ chính của anh ta lại là điều tra việc làm của người Pháp ở vùng đất thành thị.
Dõng Trình nghe đám dõng binh điếm Lâu bàn tán về việc người Pháp tự ý vẽ bản đồ khoanh đất lập đồn làng Bái Yên, làm cho ông chánh phủ thành Đặng Liễu bực tức. Ông chủ cho mời các hào lý khu vực đến họp bàn. Các ý kiến sôi sục cả gian nhà. Người phản đối, kẻ đồng tình.
Giáo học Văn vốn là đồ nho có tiếng, hàng lý dịch cũng phải nể mặt. Đồ Văn khăng khăng:
– Tôi nói không là không! Đất người Việt là của người Việt. Trên có Triều đình, có quan tuần phủ, quan tri huyện, chánh thành phủ, rồi chánh tổng, lý trưởng. Đất đai có thổ hào, điền chủ. Hàng binh an dân có đội lễ, dõng binh, dân binh… Trăm năm nay vẫn cứ sống, vẫn cứ hòa thuận đấy thôi.
Đồ Văn nói mạnh, nói có lý có tình, nửa gian nhà họp lao xao đồng tình việc làm Văn tự ký đơn tập thể gửi lên tuần phủ Hưng Hóa nhờ can thiệp.
Một giọng nói to, rõ cất lên :
– Tôi, tôi ủng hộ cụ Đồ Văn.
Mọi người ngoảnh nhìn, thì ra, dõng binh Trần Đình Khắc. Batizăng (dõng binh) Trần Đình Khắc từng là hầu cận của Đề Kiều Hoàng Văn Thúy ngày ông làm chánh tổng Cẩm Khê. Hoàng Văn Thúy về Hưng Hóa với Tuần phủ Nguyễn Quang Bích, Trần Đình Khắc xin về quê Minh Quân chăm sóc mẹ già rồi làm dõng binh Minh Quân đến khi chánh thành phủ Đặng Liễu biết mặt, vời về làm quản binh cụm Bách Lẫm xóm Giếng. Trần Đình Khắc rút trong người ra con dao găm giơ lên cao, nói sang sảng.
– Ai theo tôi ra làng Tuần Quán đánh người Pháp ?
– Ra Tuần Quán, đánh trại binh Pháp ? Mọi người nhìn nhau, lắc đầu.
– Ôi, ôi. Đừng đụng vào tổ ong !
– Không, ở Tuần Quán còn có quân binh Cần Vương nữa. Một người lên tiếng.
– Ai ? Cái gì “Cần Vương”??! Mấy người ngơ ngác.
Một thanh niên đứng hẳn lên.
– Quân Cần Vương bình Tây phục quốc chính là Hiệp Triệu chứ còn ai nữa? Thanh niên nói.
– Hiệp Triệu, Quản Triệu ấy à. Chỉ huy quân Cần Vương chống Pháp à? Thế thì ta theo. Hiệp Triệu giỏi, mà thương người. Ta theo Hiệp Triệu.
– Đồng ý. Đồng ý theo Quản Triệu. Cả phòng họp xôn xao.
Chánh thành phủ Đặng Liễu đứng dậy:
– Điền địa, làng quê là của ta. Tiên tổ ta thờ phụng cớ gì người Tây đến chiếm giữ đòi phải giao cho họ? Cớ gì? Tôi chỉ biết có Triều đình, biết có Tuần phủ. Tôi làm việc của dân tôi.
– Nhưng người Pháp không để cho ta yên đâu. Ta không cho, họ cũng vẫn chiếm đất, cũng vẫn xây đồn. Sức ta không có, nên cùng bàn với Quản Hiệp Triệu chống lại người Pháp. Ông Đồ Văn vẫn cố thuyết phục.
Chánh phủ Liễu xốc lại chiếc mũ xếp, vuốt vuốt tay áo triều phục, khẳng khái.
– Tôi đồng ý với các vị. Thành phủ ta sẽ phối hợp với Quản Triệu, lập dân binh chống người Pháp, ủng hộ đạo quân Cần vương Tây Bắc, bình Tây phục quốc.
– Hoan hô ông chánh phủ Liễu. Ghi vào, ghi vào văn tự đi.
Cuộc họp lại xôn xao, mấy thư nho hý húi ghi chép. Cụ đồ Văn nắm hai tay Chánh thành phủ.
– Cảm ơn ngài. Cảm ơn ông Chánh. Phải thế, dân tôi mới hả lòng hả dạ.
Đồ Văn cười, cái cười rất nho gia của một người đứng tuổi làm cho chánh thành phủ Đặng Liễu cảm thấy yên tâm hơn.
– Rồi sao nữa?
Do thám Phung hỏi tiếp dõng Trình.
Trình định nói “ngay sau cuộc họp bô lão ấy, chánh thành phủ cho đội Lanh lên Tuần Quán tìm gặp Hiệp Triệu để hẹn ngày bàn việc hiệp sức với quân Đề Cương”, chợt nghĩ thế nào, dõng Trình dừng lại, tìm cách nói lảng.
– Sao nữa? Phung giục.
– Dạ. Xem ra các cụ ấy lo chuyện người Pháp đến, sẽ mất quyền tự do.
Phung:
– Hừ. Chẳng những mất quyền mà còn phải cống nộp nữa chú mày ạ.
Dừng giây lát. Phung tự nói:
– Còn cái đoàn tầu thủy ba chiếc hôm qua, nó lên đến Lâu, rồi lại đảo về Hà Nội. Chú Trình nắm bắt thông tin xem người Pháp định làm gì, ông Chánh phản ứng thế nào. Vậy nhé. Này, chú cầm mấy đồng trước. Phung móc túi.
– Vâng. Trình đáp, cầm bạc trắng rồi bước đi.
Nhìn theo sau Trình, Phung nghĩ loáng thoáng: “Ông chánh thành phủ mà chống lại người Pháp thì phải dựa vào ai? Hay là quân binh Nguyễn Quang Bích ở quanh quẩn đâu đây? Hay là có kẻ xúi bẩy dân chúng tự phát bài Tây. Hay là…”. Do thám Phung trở về ngay đồn Phú Thọ nơi phòng mật thám Sa Nô mới chuyển đến đóng tạm tại đây nhằm kiểm soát cả vùng Tây – Tây Bắc.
Sau khi cơ bản dẹp được quân “giặc cỏ Tiên Động”, thiết lập xong các đồn to, nhỏ dọc giải sông Đà, sông Thao. Toàn quyền Đông Dương Đờlannétxăng chỉ thị cho Công sứ Bắc Kỳ tướng Muniedơ điều chỉnh tổ chức Sa Nô Tây Bắc thành Quân khu miền Tây do tướng Bricdlin làm thống quản, đồng thời lập ra các đạo binh trực thuộc công sứ. Hệ thống chính quyền dân sự từ trung ương (Triều đình Đồng Khánh) đến châu, tổng đang dần được thay thế nhân sự.
Thống quản Tây Bắc Bricdlin tiếp nhận quyền điều hành từ tay tướng Boócbi ông chỉ huy Sa Nô. Dưới quyền của Bricdlin một loạt sỹ quan được điều động: Xanhtơni thôi làm đồn trưởng Phú Thọ, đại tá Xáclăng không còn làm chánh thành phủ Hưng Hóa, ghế này giành cho dân sự. Đơbiêngđơ, thiếu tá đoàn trưởng pháo binh cũng nhường chỗ cho đại úy Breăngghê một sỹ quan thủy bộ chuyên nghiệp. Các sỹ quan có công trong trận đánh tập kích vào Yên Bái như Mibien, Gôdanh, Mốtxtiông… đều được phong chức chỉ huy đạo quân.
Nhóm sỹ quan người Việt: Trương Đen, Ngô Tuân, Phụng, Quỵch,… cũng được nhận “lộc”, mỗi người một chai sâm banh vào bao thuốc lá cô-táp.
Thống quản Miền tây, tướng Bricdlin, và tổng chỉ huy đạo quân “Nhị giang” (sông Hồng, sông Chảy)- tướng Gia mông, âm thầm  lên “kế hoạch quét sạch giặc cỏ phiến loạn”. Chiến dịch “Bình an Nhị giang” được trình lên toàn quyền Bắc Kỳ ở Hà Nội, chỉ một tuần sau phủ Toàn quyền ra lệnh thực thi.
Đại tá Jemmolanh tham mưu trưởng miền Tây đưa mắt trên trang báo cáo ngắn do phòng mật thám gửi đến: “Bản doanh Tiên Động đã bị triệt hạ, nơi này chỉ còn nhóm quân trung thành với Tuần phủ do Trịnh Bá Đanh cầm đầu, chủ yếu gây rối. Tuần phủ Bích và bộ tướng của ông ta đang ở đâu, chưa rõ. Tuyến Nhị giang xuất hiện quân tù trưởng địa phương chống lại người Pháp…”.
Jemmolanh đọc đi đọc lại. Ngôn ngữ An Nam phức tạp, một từ, một ngữ ghi trong từ điển lại có thể hiểu nhiều ý theo nghĩa khác nhau. Người Pháp muốn bảo hộ được dân An Nam, phải hiểu văn hóa, tiếng nói, chữ viết của cái dân xứ “na mít” này!
Đại tá Jem ngồi ghé xuống đi-văng hiên nhà, trầm ngâm: “Có thực Tiên Động đã bị triệt hạ hay chỉ là cách nghi binh của quân phiến loạn chủ chiến? Ông Tuần phủ Hưng Hóa thất thủ bây giờ đã là Đại thần Hiệp thống của Triều đình tự xưng Hàm Nghi, mối liên hệ giữa ông ta với các quan Triều này ra sao. Lại còn thành phủ Trấn Yên nữa, người Pháp muốn lập được đồn Làng Bái thì chánh thành phủ và các hào lý phải là người của nhà nước bảo hộ… ?!”
Bất chợt Jemmolanh gật gù: “Nhưng mà được, Trương Đen và nhóm “Chuột rừng” của ông ta, thế là được. Rất cần những người An Nam như họ!”
– Báo cáo đại tá.
Jem quay lại. Trung úy điện tín Joăng đã đứng kề bên.
– Mời ngài nghe vô tuyến điện, tướng Giamông đang chờ.
Joăng đưa máy rồi dập gót chân, lùi lại vài bước.
– Vâng. Vâng. Phương án 2, kế hoạch A. Vâng. Tôi nghe rõ. Tuân lệnh!
Đại tá tham mưu trưởng miền tây Jemmolanh đưa máy cho trợ lý điện tín, rồi buông nhẹ câu tiếng Tây: – Vậy là cuốn chiếu, chứ không đổ bộ! Nhưng “cuốn chiếu” theo hướng nào? Ngược sông Thao, có chắc chắn quân tướng Nguyễn Quang Bích dạt lên đây không? Bích giỏi rừng núi chứ không giỏi sông nước, nếu họ có ngược sông Thao, sông Chảy, rồi cũng lên lập cứ ở miền rừng chứ không thể là cánh đồng hay ven sông.
Điều Jem suy luận có lý, nhưng không được tướng Giamông đồng tình. Trợ lý riêng của Gia mông khăng khăng “Thủ lĩnh và tay chân của giặc cỏ Tiên Động” đã lên Hạ Hòa, rồi sẽ đi tiếp đến Văn Bàn, Bảo Hà cho gần với Lào Cai nhằm trông chờ vào Vân Nam.
“- Chậc! Phương án 2 của kế hoạch A! Vâng. Ngài quyết định, ngài Giamông!
Đại tá Jem bước vào phòng riêng.
Tướng Gia mông đích thân giao trọng trách cho đại tá Xáclăng làm chỉ huy trưởng và thiếu tá Đơbiêngđơ, đại úy Bécgăng người chỉ huy đánh chiếm Hàm Rồng mới được phong hàm, làm phó chỉ huy, mở cuộc đại càn vào chân núi Tiên Sơn, làng Tiên Động nơi là bản doanh của Hiệp thống.
Đạo quân của Xáclăng chia làm ba cánh cùng một lúc bất ngờ đổ bộ vào làng tiên Động.
Tiên Động trống chơ, chỉ có người dân làm ruộng, không thấy bóng dáng quân binh hay dân binh. Quanh chân dãy Tiên Sơn cũng vậy, đạo quân của Đơbiêngđơ không vấp phải sự kháng cự nào. Xáclăng ra lệnh cho quân khố đỏ, khố xanh, không được bắt bớ đánh đập người dân nếu họ không kháng cự.
Chỉ huy Xáclăng nhận tin đàm điện từ Jemmolanh tham mưu miền tây.
– “Quân phiến loạn đang co cụm về Đầm Đen, có thể thủ lĩnh của chúng đang ở đó, Ngài cho truy kích, bao vây bốn mặt đường đất.”
Jemmolanh nói thêm.
– Đây là lệnh của tướng Giamông!
Chỉ huy khu vực Đầm Đen là Tham tán Lê Đình Dật người làng Lang Sơn, Ấm Thượng và Lãnh binh Đào Văn Toát ở Văn Lang Hạ Hòa. Thông hiểu vùng đất, Tán Dật và Lãnh Toát cho binh quân đắp bờ cao rồi trồng tre gai làm rào tạo phòng tuyến chống giặc.
Công trình “bờ đắp” đang hoàn thiện thì được tin báo, Lê Đình Dật ra lệnh các tổ đội nghĩa quân vào vị trí mai phục chặn đánh từ bến mặt bờ đắp.
Đội trưởng quân Lê Bá nhận được lệnh vội chạy đến:
– Quan Tán, thế giặc mạnh lắm. Ngài nên cho nghĩa binh rút về Ao Châu để bảo toàn binh lực, chiến sự lâu dài?
Tán Dật khảng khái:
– Tôi với đội trưởng quân đã mấy lần đánh nhau với quân Pháp ở Đầm Đen này rồi, họ có làm gì được ta đâu? Người Pháp vào được bản doanh Cây Si tất bước qua xác ta.
Lê Bá khẩn khoản.
– Quan Tán. Việc bảo vệ bản doanh gò Cây Si là phần của đội tướng Lê Bá này. Đội tướng xin ngài và đội binh rút lui càng sớm càng tốt.
Lê Đình Dật trầm ngâm, tay nắm chặt đốc kiếm, nhìn Đội tướng Lê Bá, chầm chậm nói.
– Đầm Mực, gò Cây Si, gò Bồ Đề, đầm Vàng, bờ Đắp, gắn bó với ta và quân binh đã mấy năm nay. Những trận kịch chiến nơi này làm cho giặc Tây phải tháo chạy. Nay, nếu phải từ giã bản doanh mà lui binh, đội tướng cho ta về Bằng Doãn, đặt bản doanh ở gò Tràn. Bằng Doãn phát triển quân binh rộng ra Đoan Hùng và ngược cả sông Lô, sông Chảy; lại vẫn rẽ về Hạ Hòa mà ngược sông Thao. Thế chẳng hay sao?
Lê Bá chắp hai tay cúi mình rồi nắm đốc kiếm.
– Quan Tán. Ngài cứ sẵn theo hướng đã định, đội tướng sẽ quyết  chặn chân người Pháp tại Bản doanh Đầm Sen này. Chào Quan tham tán.
Lê Bá tay nâng đốc kiếm cúi đầu rồi vội vã rời dinh tham tán chạy đến lán Lãnh Toát tuyền lệnh Tán tương.
Bỗng có tiếng vó ngựa. Hậu vệ canh gác bản doanh bước nhanh tới trước mặt Lê Đình Dật.
– Tham tán chủ trại. Ngài có thư của Tổng khảm Trịnh Bá Đanh.
– Ngài Tán tương. Thám sát báo tin, đạo binh Pháp có đến ba mũi đang tiến vào vây Đầm Mực (Đầm Đen). Thủ lĩnh của ta đã qua ải Rừng Già. Khảm tôi và Tán Áo sẽ rút lên làng Âu Cơ rồi hướng về đầm Hội. Tán ngài chủ động đường trường. Mong ngày hợp lực.
Lê Đình Dật bần thần. “Mỗi người một phương rồi đây? Vừa đánh, vừa rút? Ta vừa đánh, vừa rút ngược theo sông Hồng, sông Chảy. Sẽ lại về được Tây Bắc với Thủ lĩnh Tướng công!”
Tham tán, Tán tương Lê Đình Dật khoác bao kiếm lên lưng theo chân hai hộ vệ , rời bản doanh Đầm Đen.
Lê Đình Dật và đoàn quân binh chỉ có mã tấu, gươm, súng kíp và cung nỏ lên đến bờ ngòi Lao trên đất Bằng Giã thì chạm nhau với đội quân Pháp. Đội quân Pháp do đại úy Becmăngmôngti chỉ huy đi bằng đường tầu thủy ngược sông Thao đổ bộ vào bờ đất dàn trận phục kích.
– Quân phiến loạn kia rồi. Quân phiến loạn!
Becmăngmôngti rời tay ống nhòm, cười thích chí, rồi bỗng nhăn bộ mặt đầy lông vàng quát lên.
– Tiến đánh. Bắt sống thủ lĩnh tuần phủ phiến loạn!
Quân binh Tán Dật vẫn chưa hề biết đạo quân mình bị một đại đội lính khố đỏ, khố xanh đang đón lõng nên vẫn cứ kéo nhau đi theo đường rút. Phía sau quân binh là tiếng súng hỏa mai, súng kíp, nghe tiếng, biết có cả súng bờranô của Tây. Quân của đội tướng Lê Bá đang kìm chân giặc ở bản doanh Cây Si! Tán Dật nghĩ, vừa thương Lê Bá, vừa lo việc rút lui.
– Đánh! Một tiếng thét to. Rồi loạt đạn bờ ra nô áp đảo.
– Bị phục kích. Bị quân Pháp phục kích rồi. Đánh trả, tử chiến. Tán tương Dật trại trưởng quân binh hét lên.
Quân Đầm Mực không chần chừ xông thẳng vào trận. Mạng giáp mạng người. Tiếng súng nổ xé tai, tiếng gươm giáo va vào súng Tây chan chát.
– Quan Tán. Ngài bơi qua sông Thao đi. Nghĩa binh tôi kìm chân giặc.
Tan tương Lê Đình Dật ngoảnh lại, năm sáu quân binh Đầm Đen có ý hộ tống. Bỗng một tên khố đỏ nhận ra dáng hình quắc thước vạm vỡ, lại xông xáo của Tán Dật, y cho rằng đó là Nguyễn Quang Bích nên kêu to.
– Đây rồi, tên Thủ lĩnh giặc cỏ Tiên Động đây rồi. Bắt, bắt sống, bắt sống!
Tên khố đỏ không bắn mà xô lại vung báng súng đập mạnh. Tán Dật né nhanh. Cú đập của tên khố đỏ bị hụt hẫng, hắn chới với. Trại trưởng Đầm Mực Lê Đình Dật xỉa ngang mã tấu. Tên khố đỏ ngã gục, giãy giãy trên vũng máu.
– Quan Tán. Nhảy xuống sông bơi sang Tây Cốc. Mau lên.
Tướng quân binh Đầm Mực Lê Đình Dật lúc này, như được lệnh cấp trên, liền vung mã tấu ra lòng sông rồi văng mình xuống bờ nước, mười mấy quân binh hộ vệ văng theo. Những con “trạch trấu” từng sống vùng sông trũng, bơi trên sóng mặt sông Thao. Đám khố đỏ khố xanh chạy đến bắn tới tấp xuống dòng sông đục phù sa. Phía tây Đầm Đen, Lãnh binh Đào Văn Toát chỉ huy đội binh vừa đánh vừa rút về Ao Châu, bỏ lại Đầm Đen mấy xác giặc. Chỉ sau một ngày đêm, quân Pháp chiếm được hậu cứ Tiên Động, Đầm Mực, toàn vùng Cẩm Khê, Hạ Hòa nằm trong sự kiểm soát của chúng. Tướng Pháp Gia mông nâng trên tay khẩu súng ngắn, tuyên bố.
– Không tìm thấy Thủ lĩnh quân giặc cỏ Nguyễn Quang Bích và binh tướng của ông ta!
Đại úy Ngô Tuân, cai mật thám đạo quân Nhị giang bước đến.
– Thưa ngài thiếu tướng, tôi đại úy Tuân, xin cung cấp tin tức mới nhất.
Mắt Ngô Tuân vừa như sáng lên, lại vừa như muốn thăm dò viên tướng Pháp.
– Đại úy. Ngài nói đi. Nhà nước bảo hộ luôn cần những người như ngài, ngài Tuân.
Ngô Tuân thấy hào hứng liền tâu ngay những gì  y dò xét được qua trung úy Phung mà chưa được Trương Đen đồng ý.
– Ông cựu Tuần phủ không đi theo hướng ngược sông Hồng, sông Chảy. Hậu cứ Đầm Mực chỉ là trại binh quân phiến loạn nhằm bảo vệ Tiên Động và cuộc rút lui của Nguyễn Quang Bích. Vệ tướng Đầm Đen này là Trịnh Bá Đanh, Hà Công Cấn, Lê Đình Dật vừa đã tháo chạy. Xin ngài cho truy kích ngay.
– Ồ. Được, được! Nhưng theo hướng nào, ngài có chắc chắn không?
– Tôi đảm bảo với ngài thiếu tướng là đúng.
Gia mông vỗ vai Ngô Tuân.
– Rất tốt, ngài xứng đáng được trọng thưởng.
Tướng Pháp Gia mông tổng chỉ huy mặt trận “Nhị giang” quay điện tín đàm thoại với cấp trên. Tướng Bricdlin Thống quản miền Tây khuyên ngăn.
– Ngài thiếu tướng. Thế là tốt, nhưng có phần vội vàng. Toàn bộ Cẩm Khê, Hạ Hòa, đã được kiểm soát, ta sẽ chuẩn bị kỹ hơn rồi quét vùng thượng nguồn sông Thao cũng chưa muộn.
Giamông bằng lòng vì mục tiêu cấp trên giao, đã được thực hiện.
Tán tương Lê Dình Dật cùng mười mấy quân binh nghĩa sỹ, lần thứ hai bơi vượt sông Thao sang thủ phủ Hạ Hòa. Thấy ở đây chưa ổn, Lê Đình Dật cùng các nghĩa binh tìm về Bằng Doãn quê hương của một vệ sỹ trung thành. Tại đây, thôn Cổ Tích Đoan Hùng, tham tán tương Lê Đình Dật quyết định xây dựng lại căn cứ chiến đấu mà ngài đã từng nhen nhóm và tuyên bố mạnh mẽ: Trung thành với quan Hiệp thống, bài Tây, phục quốc.
Tổng Khảm Trịnh Bá Đanh và Tán tương Hà Công Cấn đưa nhóm quân binh mấy chục người lên đến Tuần Quán, được phó tướng công Bố chánh và Đề đốc Hoàng Đình Cương thân chinh xuống chân đồi Trại chờ đón. Ai nấy mừng vui, mới gần tháng trời xa nhau mà cảm thấy dài dằng dặc. Không còn giữ được hậu cứ, nhưng đã đánh lạc hướng do thám của người Pháp để Thủ lĩnh Hiệp thống và bộ tướng rút lui về Tấy Bắc an toàn. Nắm được kế hoạch tiến đánh, truy đuổi của đạo binh Pháp, Bố chánh Nguyễn Văn Giáp bí mật tổ chức buổi họp bàn cách chống lại.
– Thành phủ Trấn Yên sẽ là nơi tranh chấp giữa ba thế quân mà quân binh ta không có lợi thế. Bố chánh Nguyễn Văn Giáp ngẩng nhìn, rồi nói tiếp: Người Pháp đang có ý đồ lập bộ chánh sứ và đồn chính, ông Chánh thành phủ và các hào lý ra sức giữ đất giữ dân. Chỉ riêng làng Bách Lẫm và Tuần Quán, vừa có đội quân ta, có đội quân Pháp, và Hiệp Triệu, đội quân thành phủ.
Đề Cương đứng lên:
– Thủ phủ Bách Lẫm là nơi khó giữ; đại binh Pháp sẽ đánh chiếm để lập Chánh sứ dân sự. Xin ngài Hiệp đốc phó tướng công giao việc trấn giữ này cho các tướng binh Hiệp Triệu, Lãnh Đa, Lãnh Hặc. Mặt sông Chảy phủ Bình giao cho đốc binh Nông Đình Tẩn và đội binh Nông Đình Tần. Hướng tây, giao cho Tổng Khảm và Tán Áo. Ngài Bố chánh và bộ sỹ phải gấp rút hợp binh với Thủ lĩnh Hiệp thống như kế hoạch đã định.
Lãnh Hặc (Hồ Văn Hặc) khép hai nắm tay đưa ngang mặt.
– Thưa quan Hiệp đốc Bố chánh. Đề đốc Hoàng Đình Cương nói thế là phải lắm. Quân Pháp sớm muộn sẽ đánh chiếm và lập đồn Làng Bái. Xin ngài Bố chánh và Đề đốc cùng Trịnh Bá Đanh Tổng Khảm và Hà Công Cấn tán tương rời đầm Vân Hội vào Văn Chấn hợp binh. Chúng tôi sẽ trụ lại Tuần dinh mà kìm chân giặc. Nhược bằng không nổi, ấy là do trời định vậy.
Lãnh Hặc nói, khiến Lãnh Đa, Hiệp Triệu, Đề Cương, Tổng Khảm như muốn ứa nước mắt.
Bố chánh lặng lẽ, tính ngài kiên nghị, bản lĩnh. Lòng dạt dào mà chí cứng như đá. Ngài đi đi lại lại trên nền lán trại Bách Lẫm rồi bất ngờ nói.
– Mấy tháng nay ta nương nhờ cửa chùa Bách Lẫm, cửa Phật Đại Am, nhờ Trời Phật phù hộ, mà ta kết anh em được với tù trưởng Nông Đình Tẩn ở Phủ Bình, lập đồn sông Chảy. Lại hòa hợp được với chánh thành phủ Trấn Yên Đặng Liễu, kết tình thân hữu được với Đặng Lanh, Hiệp Triệu, hai ông đã dấn thân Cần Vương bài Tây phục quốc. Thế là nhờ Đức Phật thiêng liêng nơi Bách Lẫm, Ngọc Am và thần thổ làng Bái Dương này. Nay thế giặc như sóng nước, ta lui về Tấy Bắc lo kháng chiến lâu dài cũng là phải lòng Trời Phật. Đội ơn Người phù hộ.
Dứt lời. Bố chánh tuốt gươm đầu rồng đặt lên đầu ngón tay cứa mạnh. Dòng máu đỏ tươi bật ra, Ngài ngửa cổ để những giọt máu đào tự rơi vào miệng. Đề Cương vội lao đến lấy khăn quấn chặt ngón tay đang nhỏ đỏ.
– Phó Tướng công. Ngài cắt máu thề, là đã không hổ thẹn với tổ tiên, với Đức Vua Hàm Nghi. Chúng tôi nguyện tử chiến với giặc Pháp mà phụng sự Cần Vương.
Đề Cương quỳ xuống. Tổng Khảm, Tán Áo, Lãnh Hặc, Lãnh Đa, Hiệp Triệu, Đặng Lanh, nắm tay, quỳ gối đồng thanh.
– Chúng tôi nguyện tử chiến với giặc Pháp mà phụng sự Cần Vương!
Ngày mùa đông. Trời sâm sẩm tối. Thành phủ Trấn Yên chìm dần trong làn sương mỏng. Tiếng sóng sông Hồng vỗ nhẹ vào bờ đá Bách Lẫm. Đề đốc Hoàng Đình Cương cho liên lạc đem chỉ lệnh của Hiệp đốc đến phủ Bình ngay trong đêm. Cũng trong đêm mờ sương tháng chạp ấy. Bố chánh Hiệp đốc, Đề đốc, Tổng Khảm, Tán Áo và đoàn binh lặng lẽ rời Bách Lẫm, đi về phía đầm Chín Ngách Vân Hội. Lãnh Hặc, Lãnh Đa, Hiệp Triệu, Đặng Lanh thắp nến, bàn việc rút vào rừng Nam Cường mà vẫn giữ nguyên lá cờ bình Tây phục quốc trên đồi cao, giáp với đền Tuần Quán.
Nhận được thư lệnh của Tướng quân Bố chánh, Đốc binh đồn trưởng Thu Vật đặt tại Đại Đồng giữa nguồn sông Chảy ra lệnh cho đội binh trạm trưởng sông Lô Nông Đình Tần cho quân canh suốt ngày đêm bám sát chòi gác, phát hiện tầu thủy hay quân bộ của khố đỏ khố xanh đều phải cấp báo.
Từ ngày làm lễ kết tồng với Đề đốc Hoàng Đình Cương, tù trưởng Nông Đình Tẩn nhớ nhung ngày đêm, những chỉ mong trời đất thanh bình, dân lành xuôi ngược chợ Ngà chợ Ngọc, anh em huynh đệ thường ngày gặp mặt, lúc chén chè xanh, khi trò chuyện về Cao Biền, về Chúa Bầu, về Thượng tướng Trần Nhật Duật; lại có lúc nhâm nhi những truyện cổ dân gian Thác Ông, Thác Bà, Thác Ô Đồ, hay sự tích núi Ngàng, sự tích Hoàng tử Gà bạc vừa li kỳ, vừa đời thực. Ôi sao mà mong có những ngày anh em bạn bè thân hữu gần xa hợp mặt ấy thế? Nghĩ ngợi lan man, Đốc binh tù trưởng người Tày Nông Đình Tẩn thiếp đi giữa trưa trời lạnh.
Đội binh Hoàng Lai bước vội lên tư dinh đồn trưởng.
– Tướng quân Thu vật. Ngài…
Hoàng Lai vẫn thân mật gọi đốc binh Tẩn là “Tướng quân Thu vật”. Thấy tiếng ngáy đều đều của Đốc binh, đội Lai quay ra. Nghĩ thế nào, liền mạnh bước trở lại, gọi to.
– Đốc binh tướng quân, có việc cấp báo.
Nghe câu gọi lọt tai, Nông Đình Tẩn choàng dậy.
Đội Lai nghiêm trang.
– Đốc binh. Đêm qua người Pháp đã bí mật đổ quân dựng trại khố đỏ ở làng Lạng rồi.
Đốc binh tỉnh táo.
– Có đúng không? Cụ thể thế nào?
Đội Hoàng Lai.
– Đúng ạ. Thám sát của ta còn vẽ được cả hình nhà trại, nói rằng có khoảng năm mươi khố đỏ khố xanh. Trưa nay họ phá đất xây đồn.
– Nông Đình Tần biết chưa?
– Cũng chưa rõ.
Đốc binh trầm ngâm, rồi quả quyết.
– Cho người báo ngay đến đội Tần, rạng sáng mai, lúc gà gáy ba, Tần chỉ huy quân đánh thẳng trại Lạng. Bên sông Chảy, đội Lai cùng ta đánh ập vào, tất phá tan trại giặc.
– Rõ. Đội Lai quay ra.
Đồn trưởng Thu Vật cho kéo khẩu súng Thần công đặt lên bệ rồi đích thân ngài thắp hương tế trời. Các hạ tướng đứng bên vung gươm giáo thề giết giặc Pháp.
Chỉ huy trại lính Phủ Bình là đại úy Mibien, vừa cho quân khố xanh dựng đồn, vừa cho nhóm khố đỏ phục quanh đề phòng dân binh địa phương quấy rồi.
Tướng Gia Mông cho quân Mibien hành quân bí mật chiếm một quả đồi sát với phủ Đại Đồng, dựng trại. Chỉ một ngày sau Gia Mông lại phái đại úy Brê ăng ghê dẫn một tiểu đoàn lính chiến tiến thẳng đến Đại Đồng để tuyên bố lập đồn phủ Bình Thu vật.
Đồn trưởng đốc binh Nông Đình Tẩn không hề hay biết quân Pháp đã bổ xung một tiểu đoàn khố đỏ nên vẫn đúng lệnh canh ba, một khối rơm to được tẩm dầu hỏa được đẩy tới trại lính rồi phóng lửa. Ba phía, quân binh do Nông Đình Tẩn, Hoàng Lai, và Nông Đình Tần chỉ huy hò hét vang trời xông vào trại khố xanh. Quân giặc bị đâm chém tới tấp, chết như giạ. Trại khố xanh ngùn ngụt cháy, đại úy Mibien vừa chạy ra khỏi lán dinh đã bị hai quân binh người Tày dùng miếng võ dân tộc quật ngã. Quan tư Pháp Mibien bị trói chặt trong đêm tối.
Rủi cho quân binh nghĩa sỹ. Vừa lúc tưởng như chiến thắng thì đạo quân Pháp do đại úy Breăngghê vô tình tiếp viện. Quân nghĩa binh bị kẹt giữa hai đội lính Tây. Quan tư Mibien được cứu thoát. Đốc binh Nông Đình Tẩn thấy tình thế nguy cấp liền ra lệnh mở đường máu, chọc thủng hàng rào lính Tây chạy ra ngoài.
Trời tang tảng sáng. Đội binh Nông Đình Tần, đội binh Hoàng Lai đều bị thương nặng, quân binh nhờ việc nhớ rõ đường đất nên đều chạy xuống sông Chảy trốn thoát. Đốc binh đồn trưởng Nông Đình Tẩn ra lệnh đốt ngòi nổ. Ba phát súng thần công từ đồi cao Đại Đồng nổ vang trời phá tung trại lính Tây vừa dựng.
Trời sáng hẳn. Quân nghĩa binh tản hết về các làng bản Đại Đồng châu Thu Vật[2]
Trịnh Bá Đanh và Hà Công Cấn vừa đưa Hiệp đốc Nguyễn Văn Giáp, Đề đốc Hoàng Đình Cương và nhóm nghĩa binh chừng trăm người lên bến Chanh, vượt bè tre nứa sang được bên kia sông Hồng, thì cũng là lúc quân Pháp ập đến Thành phủ Trấn Yên.
Theo lệnh của thống quản miền tây Brícdrin, tướng Giamông phải kiểm soát toàn bộ thành phủ trong hai ngày, sa thải chánh thành phủ Đặng Liễu và đội dõng binh địa phương. Lập xong đất bản doanh Chánh sứ và đất đồn làng Bái Dương. Từ Bái Dương sẽ tiến công Lao Cai và Tây Bắc.
– Ngài Lãnh Hặc. Quân Pháp đã tràn vào làng Bái Dương rồi, Cờ Tây đã treo lên ngọn cây ven đường. Hiệp Triệu vừa nói vừa như thăm dò chủ tướng Tuần Quán.
– Ý ngài thế nào?
– Thế giặc mạnh lắm, nhưng thế nào chúng cũng tập trung quân ở trại lính Tuần Quán. Ta nên mai phục ngay, rồi đánh một trận…
– Được. Được!
Lãnh Hặc giao cho Lãnh Đa, Hiệp Triệu rút hết quân Bách Lẫm, Nam Cường về bí mật phục quanh trại Pháp ở Tuần Quán. Lại cho Đặng Lanh, Đội Thích phục sẵn bên làng Hào Gia khi có lệnh đánh ập vào hoặc chặn đường quân giặc rút xuống Văn Phú.
Đúng như phán đoán của Hiệp Triệu, tướng Gia mông điều đạo quân Bre ăng ghê và Mốt xi ông từ phủ Bình đến, Mibien từ Đại Đồng sang thành phủ Trấn Yên, tất cả được tập kết về trại Tuần Quán.
Mới đặt chân đến Tuần Quán, đại úy do thám Ngô Tuân đã xum xoe.
– Ngài Bree ăng ghê. Chúc mừng ngài được lên lon thiếu tá!
– Cám ơn, cám ơn đại úy. Tuần Quán của ngài hiện nay ra sao?
Ngô Tuân chưa kịp đáp thì trung úy Phung cướp lời.
– Thưa các ngài quan Pháp. Thành phủ Trấn Yên đã được bình định thì làng Bái Dương, làng Tuần Quán cũng sẽ an lành trở lại!
Ngô Tuân:
– Xin ngài thiếu tá ra lệnh càn quét ngay các địa bàn nghi có quân phản loạn để yên ổn lâu dài.
Brêăngghe trợn mắt:
– Những nơi nào, nơi nào?
Ngô Tuân:
– Dạ. Làng Tuần Quán, làng Bách Lẫm, làng Nam Cường, xa nữa là làng Tuy Lộc.
Thiếu tá Brêăng ghe nói một tràng tiếng Tây với trợ lý điện tín. Phía bên kia, tướng Gia mông truyền lệnh đáp lại.
– Đồng ý. Ngài thiếu tá cho các mũi tiến công tiêu diệt quân phiến loạn bản xứ này ngay.
Chỉ mười phút, các sỹ quan Pháp và đại đội khố đỏ bảo vệ đã tụ tập tại Trại binh Pháp ở Tuần Quán.
Dõng Trình được Đặng Lanh lôi kéo, anh ta bỏ điếm canh, cùng Đặng Lanh về với Hiệp Triệu, được quản Hiệp giao việc thám sát. Biết rõ trại Tuần Quán mấy ngày trước vắng lặng, hôm nay lính thú canh gác bốn bề. Dõng Trình dò la, nắm chắc bọn Pháp đang có mặt vội vã chạy về đồn trại.
– Tướng quân Lãnh Hặc! Trại binh Tuần Quán đang có nhiều người Pháp và quân canh khố xanh.
– Chú Trình. Lãnh Hặc nói một cách thân mật. Nếu chú biết mặt biết tên một ai đang trong trại đồn ấy, chú đều có thể hỏi tội chúng.
Trình hiểu ngay câu nói của lãnh binh chỉ huy.
– Vâng, con sẽ…
– Chú sẽ là một lãnh binh, nghĩa sỹ Cần Vương, để tiếng lành tiếng tốt cho con cháu. Chỉ huy Lãnh Hặc nói.
– Vâng.
Dõng Trình quay ra, gặp Đặng Lanh bước vào.
– Lãnh binh! Đội quân tôi ở Hào Gia chờ lệnh tiếp sức.
– Tốt lắm. Ngài trở lại ngay, khi súng nổ dồn thì đánh ập tới.
Đặng Lanh kéo dõng Trình.
– Ta đi thôi!
Hoàng hôn. Mặt trời ngày đông mờ nhạt đang khuất dần vào cụm tre. Lãnh Đa được lệnh khai hỏa.
Khẩu thần công từ đồi cao Bách Lẫm nhả đạn liên tiếp vào Trại đồn Tây cổng làng Tuần Quán.
– Xông lên! Lãnh Hặc quát to.
Cả trăm quân binh Cần vương hét vang. Súng kíp, súng săn nổ đoành đoành vào đồn giặc. Bỗng chốc cổng đồn mở tung, quân khố xanh khố đỏ chạy túa ra. Súng Tây nổ loạn xạ.
Hiệp Triệu hét.
– Giết hết giặc Tây, giết hết giặc Tây!
Quân binh tay gươm, tay giáo mác ào ào xông tới, ba mặt giáp lá cà.
– Có thằng Tây, thằng Tây đang chạy trốn!
Đặng Lanh xô tới. Một nhát kiếm chém thẳng vào vai tên Pháp, máu chảy ròng ròng. Thằng Pháp giơ hai tay lên hàng. Đặng Lanh xông lại.
Bỗng có tiếng nổ “bọp bọp”, khô khốc. Đặng Lanh quỵ xuống. Tên sỹ quan Pháp, đại úy Mốt xi on được cứu thoát. Quân khố đỏ, lê dương thẳng tay bắn vào những bóng quân binh tóc đen.
Chợt một tiếng kêu:
– Trung úy Phung.
Phung nâng cánh tay bị thương ngoảnh lại nhận ra dõng Trình. Do thám Phung không hay biết Trình đã về với Hiệp Triệu, nên nói to.
– Dõng Trình, dõng Trình. Mày cứu đại úy Ngô Tuân. Rồi chạy vào vườn chuối.
Trình xoay ngang, Ngô Tuân mà Trình đã gặp, đang bị hai quân binh áp đảo. Không chần chừ, dõng Trình xông lại.
– Đại úy Ngô Tuân nhìn đây.
Tuân chỉ kịp đảo mắt.
“Pọp, pọp, pọp” ba viên đạn súng kíp của dõng Trình làm cho tên phản quốc – đại úy do thám Ngô Tuân ngã gục. Phía ngoài bọn lĩnh khố xanh, khố đỏ tháo chạy.
Trời xẩm tối. Làng Tuần Quán thưa dần tiếng súng.
Trận chiến Tuần Quán làm cho quân Pháp tổn thất nặng nề, đại úy Vốt xăng và năm lính lê dương trúng đạn súng thần công, đại úy do thám Ngô Tuân bị bắn tại chỗ; quan tư Pháp Mốtxiông, trung úy Phung, bị thương nặng. Quân khố đỏ, khố xanh chết đến vài chục. Tướng Giamông Tổng chỉ huy đạo binh Nhị giang nghe báo tin, tức điên đầu, liền ra lệnh san phẳng Trại quân “giặc cỏ” tại Tuần Quán, thay vào đó là một đồn Pháp đầy ắp quân lính và súng đạn.
Nắm được thông tin từ mấy nghĩa binh bị bắt, Giamông ra lệnh cho đại úy Gôđanh đang đóng trại tại Đức Quân, dẫn một đội lính khố xanh truy kích thủ lĩnh “quân phiến loạn bản địa” đang chạy theo hướng Vân Hội.
– Hiếp đốc, Đề đốc. Quân Pháp đã đuổi đến đầm Vân Hội rồi. Xin Hiệp đốc Bố chánh cho đánh?
Liên lạc, đội binh Đào Xuân Thái được người dân phi ngựa báo tin, sốt sắng hỏi.
Đề Cương, Bố chánh đang lưỡng lự. Tổng khảm Trịnh Bá Đanh đứng lên.
– Quân giặc đã đuổi theo, tất truy bắt Bộ tướng. Xin Hiệp đốc cho Tổng Khảm này ra chặn chúng?
Bỗng Tán áo Hà Công Cấn bước tới.
– Bố chánh, Đề đốc, Tổng Khảm. Các ngài đi mau đi. Lão Tán này già rồi nhưng đủ sức kìm chân giặc tại gò đầm này.
Nhìn Tán áo Hà Công Cấn, râu tóc đã bạc mà người rắn rỏi quả    quyết, Hiệp đốc nhớ đến ngày ông làm theo lời con rể Đề Kiều Hoàng Văn Thúy mà lặn lội lên Tây Bắc tìm nơi đặt Bản doanh dự phòng cho quan Hiệp thống. Nơi dự phòng ấy là đất Nghĩa Lộ, chỉ mấy tháng sau, đích thân Hiệp thống Thủ lĩnh Tướng công Nguyễn Quang Bích đã đưa Bộ tướng về đây lập căn cứ kháng chiến cho cả vùng Tấy Bắc. Bây giờ là lúc vận mạng treo sợi tóc, ai nỡ để nhạc phụ Đề đốc Kiều tướng quân ở lại chặn giặc giữa đường rừng núi?
– Phó Tướng công và Đề đốc Cương, cả Tổng Khảm nữa. Các ngài đi đi. Đi mau đi! Tán Áo tướng binh nói như ra lệnh.
Trước thái độ quả quyết của Hà Công Cấn. Bố chánh Nguyễn Văn Giáp rơm rớm nước mắt lấy thanh gươm và một lạng bạc, ngài cầm tay Tán Áo.
– Nhạc phụ tướng quân Đề Kiều. Chặn được giặc, mong ngài sớm trở về với Thủ lĩnh Tướng công Hiệp thống và Đề đốc tướng quân.
Đề Cương cũng chọn mười quân binh can đảm ở lại gò Đầm cùng Tán Áo.
Hà Công Cấn và đội quân binh nhanh chóng lên chân đèo Gỗ mai phục.
Đúng như dự đoán của Tán Áo. Chỉ  ba mươi phút sau, trung đội khố xanh do trung úy Lê Phú Tài đuổi tới. Đốc binh Tán Áo ra lệnh đánh gập mặt. Hai mươi phút giao chiến, Lê Phú Tài đang hò hét bắt sống “giặc cỏ”, một ngọn giáo lao trúng ngực trái, tên Đội lảo đảo rồi ngã gục. Đám khố xanh chạy tán loạn. Đốc binh Tán áo Hà Công Cấn bị đạn địch găm vào vai. Quân nghĩa sỹ Cần vương được lệnh rút ra đầm Vân Hội, xuôi về Âu Cơ đề phòng Pháp đổ quân tiếp viện.
Chú thích:
[1] Cụ Cầm Văn Thanh, Tri châu (Lai Châu, Sơn La) là cụ nội 4 đời của Nhà dân tộc học Cầm Trọng. Hậu duệ Cụ nay ở Mai Châu Sơn La (Tài liệu của Cầm Trọng Chủ tịch Hội Thái học Việt Nam)
[2] Những chuyện về đốc binh Nông Đình Tẩn là có thật, do ông Nông Khóa Tinh, cán bộ huyện Yên Bình, chắt nội của cụ Tẩn, cũng là cháu ba đời của ông Nông Đình Tần, kể lại với tác giả (Hà Lâm Kỳ) vào tháng 4 năm 1998. Con cháu đốc binh Nông Đình Tẩn, nay vẫn ở xã Ngọc Chấn huyện Yên Bình. Trong đoạn văn trên, nhân vật “Hoàng Lai”, ông Khóa Tinh không nhớ tên nên tác giả tạm đặt.
Vương Văn Doãn nhận được mẩu giấy của mật binh nằm vùng thành phủ Trấn Yên Đặng Lanh chuyển đến từ người nhà hào lý Trần Đình lên Đại Lịch “ăn giỗ”. Mẩu giấy viết: “Đoàn đi đón dâu có đến trăm người, đem theo nhiều gánh nặng, do ông quan lai Tây làm trưởng đoàn”. Cuối thư lại dặn: đốt thật nhiều pháo để cả làng ùa ra…
Chương V. Mường Lò.
Được một tráng niên người Thổ ở địa phương tên là Hoàng Thương Thân dẫn đường, Hiệp thống và Bộ tướng từ Yên Lập lên Thu Cúc rồi dừng chân tại Ba Khe, còn gọi là làng Khe Dịa.
– Từ đây, có đường đi đến những đâu? Chánh Sơn phòng Vương Văn Doãn hỏi.
Thương Thân chậm rãi nói:
– Sau lưng, sẽ sang châu Phù Yên của đất Sơn La, tay trái thì vào Mường Lò, tay phải ra Đại Lịch, Vân Hội. Còn nếu đi thẳng thì đến Mường Hồng, rồi ra Bến Lâu thuộc phủ Trấn Yên.
Đề Kiều quay lại phó Đề đốc.
– Ta lập trại ở đây để Thủ lĩnh Tướng công phát triển lực lượng; với lại quân Pháp cũng chưa đủ sức đánh lên thành phủ Trấn Yên, mà dấu vết Yên Lập đã được Chánh quản cơ Hoàng Văn Hội lo liệu. Cần tranh thủ vùng dân tộc thiểu số này.
Vương Văn Doãn, Thủ túc Trần Ngọc Dư, võ tướng Nguyễn Quang Hoan đều đồng tình, cho là phải.
Trại binh Bộ tướng Cần Vương Tây Bắc của Hiệp thống Quân vụ được thực thi ngay trong đêm ngày rằm. Trăng như sáng cả cánh rừng Mường Mẻng.
– Ta đã rời chiến khu Tiên Sơn được bao lâu rồi nhỉ. Quan Hiệp thống Đại thần bất ngờ hỏi.
Thủ túc Trần Ngọc Dư đặt trên lòng bàn tay chiếc la bàn mà võ tướng Quang Hoan thu được của người Pháp trong trận Thao Đà.
– Thưa Thủ lĩnh Tướng công. Từ trước ngày rằm, đến hôm nay, ngày rằm, là một tháng ba ngày ạ.
– Một tháng, ba ngày; là ba mươi ba ngày. Con số lẻ này nghĩa là thế nào?
Thủ túc quan văn:
– Thưa ngài, con số ba, ứng với cả phương Đông và phương Tây. Tây, Đông đều ưa chuộng. Nay dầu có đối mặt, đối đầu thì rồi cũng sẽ đến lúc nắm tay cùng đi.
Hiệp thống:
– Ta là người Nam. Tổ tiên đánh giặc thế nào, hành xử thế nào, con cháu theo đấy mà hành đạo cho phải.
Bộ tướng nắm hai bàn tay.
– Tuân chỉ quan Đại thần.
Thủ lĩnh đặt tay lên vai Đề Kiều.
– Tướng quân Đề đốc. Miền Tây rộng lớn, đường đất xa xôi có lẽ chỉ cần Đề đốc và Thủ túc ở bên ta cũng là đủ.
Hoàng Văn Thúy chắp tay thưa.
– Tướng công quân vụ. Chiểu ý ngài. Hiệp đốc Bố chánh và Đề Cương cùng Thổ hào là Trần Đình Thành (tự là Trần Đình) vẫn chắn giữ cửa phủ Trấn Yên. Tổng Khảm, Tán Áo, Tán Dật vẫn đang kìm chân giặc ở Đầm Đen. Chánh quản Hoàng văn Hội và các tráng đinh Mường giữ vững cửa hậu Yên Lập. Nay sắc chỉ. Phó Đề đốc Vương Văn Doãn sẽ đảm trách trục Châu lộ Văn Chấn, Đề đốc tướng binh tôi xin lo thủ phủ Mường Lò. Hộ vệ Tướng công sẽ là Thủ khoa võ tướng và Thủ túc văn quan. Các tướng quân ở đâu, lo việc thu phục tù trưởng, hào lý, thổ hào nơi đó và đạo binh mình. Theo ý Đề đốc tôi, Thủ lĩnh sớm chọn Mường Lò làm đại bản doanh đạo binh Cần Vương ở Tây Bắc.
Nói dứt lời. Đề đốc Hoàng Văn Thúy cúi đầu chờ phán.
Nghe Hữu tướng quân Đề đốc bày giải có lý, Hiệp thống Thủ lĩnh đưa hai tay đỡ Đề Kiều, rồi quay sang Thủ túc.
– Ta vừa lòng với ý Tướng quân Đề đốc. Thủ túc ghi vào văn tự đạo binh.
Trầm ngầm giây lát, chợt Hiệp thống quân vụ Đại thần, ngước nhìn lên ngọn núi đá vôi Thẩm Thóng sau làng Khe Dịa. Núi đá vôi trắng bạc, uy nghi khiến Nguyễn Quang Bích Ngư Phong liên tưởng đến Triều đình chủ chiến và Đức Vua Hàm Nghi, cùng các tôn tử của đại thần Tôn Thất Thuyết đang lặn lội nơi sơn phòng Quảng Trị tránh sự truy bức của ông vua Đồng Khánh kẻ đã rắp tâm làm tôi tớ cho người Pháp. Quân vụ Hiệp thống nói trong bâng quơ nhưng cũng đủ lọt tai làm Bộ tướng nghe mà xúc động.
– Những lo đưa được Vua tôi phục quốc về đến Tiên Động, đã không thành, nay liệu còn cơ hội Mường Lò chăng?
Nói đoạn, Thủ lĩnh Tướng công lặng lẽ xuống bậc thềm về dinh Phủ Trại.
Phó Đề đốc Vương Văn Doãn được Tướng công giao trọng trách nắm bắt dân cư vùng Văn Chấn. Thủ lĩnh nói:
– Người Pháp mà chiếm phủ Trấn Yên, tất sẽ mở đường vào Mường Lò – Nghĩa Lộ, thì Văn Chấn là phên dậu rào gai. Ở đó lại là đất thổ dân, ngài đến đây coi như nhà mình vậy.
Vương Văn Doãn cúi đầu nói lời tạ ơn rồi cùng Hoàng Thương Thân rời Trại dinh Ba Khe, ra Đại Lịch, rồi ra tận Minh Phú, Vân Hội của Mường Mẻng để thám sát tình hình.
Đứng trên đất Minh Phú, nhìn sang bên kia sông Hồng nơi đặt thủ phủ Trấn Yên. Tướng quân Vương Văn Doãn nói với Thương Thân: – Hiệp đốc Bố chánh của ta cũng đang ở khu sông Hồng này mà chưa bắt được tin tức. Ta ra đến tận nơi đây, cũng là việc để dò tin tức đó.
Hoàng Thương Thân khẽ lắc đầu:
– Việc lớn ấy, tiểu binh không thể biết.
– Thôi, ta trở lại Vân Hội.
Đêm đó, làng Vần thuộc Vân Hội, thổ hào Trần Đình Thành (Trần Đình) tổ chức đêm xòe mừng lên nhà mới. Dân bản kéo đến dự vui và xem hát đối. Các đôi thanh nam thanh nữ, từng đôi, từng nhóm, hát thách và đối lời.
Vương Văn Doãn trong bộ quần áo chàm đen ghé tai Thương Thân:
– Người thanh niên kia là ai mà xem ra hoạt bát, sắc sảo?
Thương Thân đáp:
– Đấy là Hà Đình Đặng người Thổ ở Đại Lịch. Thuận miệng, Thương Thân nói luôn. Còn cô gái hát giao duyên với Đặng là Trần Thị Gấm, em gái ông Thổ hào Trần Đình Thành[1].
Đêm xòe càng về khuya, càng nhiều thanh nam thanh nữ hát đúm hát đối, đàn tính tẩu tưng tưng lựa theo nhịp điệu hát. Có cả khèn bè của người Thái Đại Lịch, chiêng đồng, não bạt của người Dao Đồng Phú đến góp vui. Dân bản thật hào hứng, yên lành.
Thương Thân đưa Phó Đề đốc tướng quân ngược đèo Giang, đèo Din về Bằng Là vào thắp hương đình làng.
– Đình thờ ai? Vương Văn Doãn hỏi Thương Thân.
– Thưa Tướng quân, nơi đây thờ Phạm Đình Yên, ông là thần hoàng có công khai phá đất làng.
– Con cháu ngài thế nào?
– Con cháu từng đánh giặc Cờ Vàng mười năm trước, nay làm ăn chăm chỉ.
– Nếu kêu gọi họ theo Tướng công giúp Vua đánh Pháp, liệu có được không? Đốc Doãn hỏi.
– Chắc là Thần hoàng sẽ phù trợ, con cháu sẽ dấn thân.
Vương Văn Doãn lấy ngay bút mực trong túi viết mấy dòng Hán nôm gửi dòng tộc Phạm Đình. Rồi vội vàng theo chân Thương Thân về Thượng Bằng La.
Ba ngày sau. Trận mưa rào trái mùa, trời lạnh tê người, Phó Đề đốc Vương Văn Doãn đang đàm đạo việc binh cùng võ tướng Nguyễn Quang Hoan thì hộ vệ báo có nhóm thanh niên đến gặp. Đốc Vương thân hành ra sân đón.

– Con… Thưa quan! Một thanh niên tầm tuổi ba mươi khoanh tay rụt rè nói. Con là Phạm Đình Khải – thường gọi là Phạm Đình Tế. Còn đây là Phạm Đình Thọ hay Phạm Đình Năm, anh trên em dưới với nhau. Chúng con nhận thư quan mà tìm đến ra mắt.
Phó Đề đốc đưa tay ra đón.
– Cứ gọi ta là tướng binh. Vào trại, mau vào trại dinh. Ta muốn biết thêm về người dân địa phương.
Phạm Đình Khải đã bình tĩnh hơn.
– Vâng, thưa quan tướng binh. Dân bản Đại Lịch chúng con, mấy năm trước ai nấy đều hò nhau đánh giặc Cờ Vàng. Bây giờ Cờ Vàng về nước, thì lại đến lượt người Tây…
– Người Tây đã đến đây rồi sao? Phó Đề đốc chợt hỏi.
– Dạ chưa ạ. Nhưng quan phủ Trấn Yên đã đốc thúc cụ Chánh tổng tổng Đại Lịch bắt phu khai thông lộ địa từ Thượng Bằng La đến Hạ Bằng La để người Pháp đi lại. Người Pháp lại đòi Chánh tổng phải đưa thóc gạo, lợn gà về đồn Tây ở ngoài phủ. Thế là Pháp đã về rồi chứ ạ. Thường dân chúng con muốn chống lại.
Vương Văn Doãn không ngờ những thổ dân không chức sắc chăm chỉ ruộng vườn quần quật, mà lại am hiểu và lo lắng đến vận mệnh làng quê đến như vậy. Suy rộng ra, họ đang lo cho đất nước mình bị xâm lăng. Đây là lúc cần nhanh chóng vận động dân bản hướng về chiếu Cần Vương mà bình Tây phục quốc.
Phó Đề đốc nắm hai tay Phạm Đình Khải (Phạm Đình Tế), rồi nắm tay Phạm Đình Thọ (Phạm Đình Năm). Chậm rãi nói.
– Tổng Đại Lịch đã từng đánh giặc Cờ Vàng đến xâm chiếm, thì bây giờ phải theo Hiệp thống Đại thần Nguyễn Quang Bích mà đánh bọn giặc Tây. Ta giao cho Phạm Đình Khải đứng ra chiêu mộ, lập nên một đồn binh, làm thủ phủ cho Văn Chấn.
Phạm Đình Khải, Phạm Đình Thọ[2] cúi đầu:
– Chúng con nghe lời tướng binh! Rồi lui ra cửa sân trại.
Phó Đề đốc Vương Văn Doãn trở lại, câu chuyện việc binh với võ tưỡng Nguyễn Quang Hoan có việc chưa kịp nói.
Lãnh Hoan:
– Ngài Phó Đề đốc này. Ở Khe Dịa đã dăm ngày, tôi chưa hiểu sao Đề đốc Tướng quân và Thủ túc lại cho Tướng công hạ trại nơi đây? Phó Đề đốc nghĩ sao?
Câu hỏi của Lãnh võ tướng làm cho Vương Văn Doãn, người từng nhiều năm giữ chân Chánh Sơn phòng bản doanh chột dạ.
– Đúng là hôm trước, anh em mình chưa hiểu hết địa bàn Ba Khe. Nơi đây rất hợp với khi bình yên, nay người Pháp đã ra lệnh cho Chánh tổng tổng Đại Lịch khai thông lộ địa trong vòng hai tháng. Ba Khe là điểm có bốn năm tuyến lộ châu về, nếu ở đây sẽ là bất lợi.
Võ tướng gật gật:
– Đúng thế, đúng thế. Ba Khe thuận đường tiến, khó đường lùi. Ngài nói lại với Đề đốc Kiều và Thủ túc, rồi xin lệnh Thủ lĩnh Tướng công, nên di rời bản doanh vào vùng trong.
Đề đốc Hoàng Văn Thúy không chần chừ. Khi nghe Vương Văn Doãn thông tin Pháp đang đốc thúc dân dịa phương khai thông tuyến đường. Chẳng những Đề Kiều chấp thuận việc rời Bản doanh mà còn tính ngay việc bày binh ở các điểm tuyến để chặn giặc.
Thủ lĩnh Tướng công nắm tay Đề Kiều, Vương Văn Doãn, chỉ để Võ tướng và Thủ túc tháp tùng. Hiệp thống Quân vụ lên ngựa có Hoàng Thương Thân dẫn đường. Đêm ấy dừng lại Thượng Bằng La, rồi qua Đồng Khê, Sơn Thịnh, vào thủ phủ châu Văn Chấn.
Hiệp đốc Bố chánh Nguyễn Văn Giáp cùng Đề đốc Hoàng Đình Cương, Tổng khảm Trịnh Bá Đanh vào đến làng Vần thì nghe người dân đi chợ Hội về nói có trận đánh nhau to ở đèo Gỗ. Đề Cương dò hỏi thì biết rõ vụ trận, liền gặp Hiệp đốc.
– Thưa Phó Tướng công. Quân Pháp mà chủ yếu là khố xanh bị quân binh Tán áo Hà Công Cấn và dân binh của Trần Đình Thành Thổ hào phục đánh chân đèo, chỉ huy khố xanh chết trận, Tán Áo bị thương đã cùng nhóm nghĩa binh rút về bờ Ngòi Lao Âu Cơ.
– Ý Tướng quân thế nào?
– Hiệp đốc. Thua nặng, chỉ huy bị giết, thế nào trại Tuần Quán cũng trả thù. Xin ngài và Tổng Khảm cùng quân binh đi ngược về phủ tổng (Tổng Đại Lịch) mà hợp binh. Để tôi cùng mươi nghĩa sỹ rút sau đề phòng quân Pháp truy kích.
Tổng Khảm khoanh hai nắm tay.
– Thưa Hiệp đốc và Đề đốc. Ý Tướng quân Đề Cương là đúng lắm. Nhưng làng vẫn là cửa ngõ miền Tây việc chặn quân Pháp, hãy để hạ tướng họ Trịnh này lo liệu.
Bố chánh cảm kích, tay ngài đặt vào đốc kiếm.
– Đường đất Mường Mẻng vừa tắt ngang, vừa kín đáo, người Pháp sẽ chọn để truy đuổi. Việc chặn giữ ở cửa ngõ này ta giao cho Đề đốc, thích hợp hơn.
Hoàng Đình Cương cúi đầu nhận lệnh. Trịnh Bá Đanh khẽ nói:
– Đề đốc ở lại, về sau. Trịnh tôi hộ vệ Hiệp đốc, mong sớm gặp lại ngài.
Nói rồi, Tổng Khảm giật dây cương. Ngựa đồng hý vang, rồi bước nhanh theo dấu ngựa chiến của Hiệp đốc.
Không để trống thời gian, Đề đốc Hoàng Đình Cương tìm đến gặp thổ hào Trần Đình.
– Hà hà. Mấy hôm trước làm lễ lên nhà mới, quan phủ đến hội thì vui quá. Thổ hào Đình hoan hỉ mời khách bước lên nhà sàn.
Thấy chủ nhà vui vẻ, thật thà. Là tướng binh nhiều kinh nghiệm vùng đồng bào dân tộc thiểu số, Đề Cương vừa cười, vừa thăm dò.
– Cụ Thổ hào đã lo xong việc thông lộ chưa đấy?
– Ông chánh tổng tổng Đại Lịch cũng mới chỉ ban bố thế, các làng trong tổng đã nơi nào làm đâu. Người Pháp đốc thúc, kệ họ chứ. Ta uống rượu đã, uống rượu!
Đề Cương cười cười rồi nâng bát. Rượu gạo nếp thơm phức. Để giấu tung tích Đề Cương gợi.
– Người dân phủ thành, cả ông chánh phủ thành, đã theo Cần Vương đánh Pháp rồi. Ông Thổ hào có đi không?
– Đi tận đâu? Thổ hào Trần Đình như tỉnh lại.
Đề Cương.
– Không phải đi đâu xa, đánh Pháp khi chúng đến làng quê mình bắt phu, cướp của.
– Thế thì được chứ? Cả làng Vần này, làng Dọc này, đánh Tây như trận đèo Gỗ ấy.
– Vâng, vâng; đúng rồi. Bài Tây, phục quốc, ai chả mong muốn phải không ông Thổ hào.
– “Ừ”, đúng chứ! Ta theo cờ Cần Vương, làng ta sẽ theo cờ Cần Vương mà đánh Pháp. Nào, mời quan phủ.
Đề đốc Hoàng Đình Cương ngửa cổ uống ừng ực. Thoáng cái, bát rượu gạo nếp cạn trơ đáy bát.
Được dân binh làng Vần dẫn đường, Đề đốc và hộ vệ đi các làng bản, gặp già trẻ trai gái vận động đồng bào dân tộc nơi đây, ủng hộ đạo binh Cần Vương Tây Bắc đánh Pháp, ngày thứ ba, Đề đốc vừa đi Kháo về, vệ binh đã chờ báo.
– Đề đốc. Thám sát báo tin một trung đội khố đỏ khố xanh đang trên đường vào làng Vần.
– Chúng hành quân hay đi càn quét?
– Có thể chỉ hành quân, vì nhiều đồ khiêng vác kèm theo.
– Hay lắm. Báo ngay cho đội Duệ mật phục cửa Ngòi Vần, và nhờ ông thổ hào Trần Đình Thành cho dõng binh giúp sức.
Chỉ ba mươi phút sau, trận địa phục kích đã ém sát mặt cửa ngòi. Đội binh Trần Văn Duệ chỉ huy đánh vỗ mặt. Đội binh Lê Văn Nghìn chỉ huy đánh tập hậu. Đề Cương trực tiếp điều hành đội dõng binh của Thổ hào, bắn tên nỏ, lăn đá hộc, cây gỗ cứng xuống giữa đội hình địch.
Nhận thấy đèo dốc, đường đất hẹp, suối chảy xiết. Đề Cương cho để lộ đường xuôi, quân giặc tháo chạy sẽ xô nhau xuống đây, nghĩa binh giáp trận dễ dàng cướp vũ khí.
Trận địa mai phục của Phó Đề đốc im lìm. Người dân đi chợ Vân hội không hay biết ven bìa rừng có quân binh nghĩa sỹ Cần Vương đang chăm chú chờ quân giặc đến.
Đạo binh Pháp do đại tá Boxit thực hiện lệnh của tướng Gia mông, tiếp tục truy đuổi “quân phiến loạn”. Boritx hạ trại tại Vân Hội, giao cho đại úy Bec beng ghe chỉ huy, trung úy Phung đội trưởng do thám làm phó. Phung khôn ngoan chia thành hai tốp, cách xa nhau chừng mười lăm mét. Đội quân khố đỏ Becbengghe đã lọt vào giữa đội hình mai phục.
Rào rào rào… hàng chục cục đá và gỗ khúc từ ven rừng lăn xuống. Bọn giặc kinh hãi nhảy loạn xạ tránh né. Bỗng chốc một người mặc quần áo chàm đen, to cao, trông dữ tợn, từ trên ven rừng nhảy xuống mặt đường, giơ cao mã tấu hét.
– Quân giặc cướp kia, chúng mày sẽ chết; sẽ chết!
Một tiếng hét nữa to và đanh, vang lên.
– Giết!
Đội binh Trần Văn Duệ xô xuống vung kiếm chém túi bụi. Cả đội quân nghĩa binh từ các búi cây xổ ra. Trung úy Phung chỉ kịp bóp hai nấc cò súng đã bị đội binh Duệ chém xả vai. Phung – kẻ phản bội, tên giặc chỉ điểm giãy dụa. Nghe tiếng rào rào, hò hét inh ỏi, đại úy Bec beng ghe ra lệnh nổ súng về phía đang náo loạn rồi cùng mấy lê dương quay đầu chạy ngược đường. Đội binh Lê Văn Nghĩa phát hiện ra quân Pháp đi tốp sau, dương súng bắn. Khẩu hai nòng của đội binh nổ điểm xạ. Một tên lê dương da trắng loạng choạng ròi ngã vật xuống mặt đường, Bec beng ghe cùng lính hộ vệ chạy thoát.
Đề đốc Hoàng Đình Cương nhìn đám lính khố đỏ khố xanh bị bắt, có kẻ bị thương, bảo Trần Văn Duệ.
– Đội binh cho dõng làng băng bó cho chúng rồi thả về phủ. Bảo nó là nhớ đời đấy.
Đội Duệ nói.
– Quan phủ về tổng phủ đi. Tôi là người làng Vần, tôi ở lại, bổ xung thêm quân binh, cũng sẽ chặn đánh được quân giặc.
Đề Cương cầm tay.
– Đội binh Duệ chỉ huy giỏi, ở lại xây dựng đội quân Vân Hội cũng là phải. Đội binh Lê văn Nghĩa sẽ trở lại đây giúp đỡ. Đội binh nhớ dựa vào lý hào Trần Đình Thành và dân bản.
Nói rồi Đề đốc cùng Lê Văn Nghĩa lên ngựa vào Đại Lịch nơi đặt phủ tổng.
Nghe tin có “quan phủ” đi ngựa đến phủ tổng, lại có một đoàn quân binh tháp tùng. Chánh tổng Hoàng Hữu mặc đồng phục thân hành chống gậy ra tận đầu làng đón về nhà riêng.
Lê Văn Nghĩa là người Trấn Yên, đã được gặp chánh Hữu nên cùng Đề đốc vội vàng xuống ngựa giao cho quản mã rồi theo chân ông Chánh lên nhà sàn, tư dinh chánh tổng.
Hoàng Đình Cương đỡ chén nước chè nóng, mỉm cười nói với tổng Lâm:
– Tôi chỉ là đề binh ông ạ, không phải quan phủ lị. Giặc Pháp đã chiếm thành phủ Trấn Yên rồi, đang phong tỏa bốn bề. Tôi nhờ cậy ông Chánh lo liệu cho quân binh Cần Vương, giúp Đức Vua đánh Pháp.
Chánh tổng tổng Đại Lịch Hoàng Hữu ngẩng nhìn Đề Cương nhưng tỏ vẻ không ngạc nhiên.
– Thưa quan Đề binh. Hai hôm trước tôi cũng được gặp ông Đề đốc tên là Vương Văn Doãn. Ông ấy cũng nói như thế. Dân tổng Đại Lịch đã biết đến chiếu Cần Vương, ông Thương Thân bên Thượng Bằng La, ông Phạm Đình Khải, Phạm Đình Thọ ở Đại Lịch cũng đã theo cụ Nguyễn Quang Bích mà đánh Pháp, lập cứ gò Bằng Là. Tôi và các hào lý sẽ giúp các ông lập đồn binh.
Đề Cương chắp hai lòng bàn tay, ốp chặt, từ tốn nói.
– Cảm tạ ông Chánh tổng. Cảm tạ ông nhiều lắm.
Hoàng Đình Cương bước xuống cầu thang tư dinh chánh tổng, cố ý tìm gặp Vương Văn Doãn và dân binh Phạm Đình Khải, liền sai cận vệ đi dò hỏi.
Phạm Đình Khải và Phạm Đình Thọ đang bận rộn với việc xây dựng Đồn phủ tổng tại Lũng Gà thuộc làng Bằng là thì bất ngờ nhìn thấy Lê Văn Nghĩa. Sau Nghĩa là một người to cao vạm vỡ.
– Tướng quân Đề đốc Hoàng Đình Cương. Lê Văn Nghĩa giới thiệu.
Phạm Đình Khải nắm tay hai vị tướng:
– Thưa tướng quân. Hôm xưa, tôi được cùng Đề đốc Vương Văn Doãn tiếp kiến Bố chánh Nguyễn Văn Giáp ở làng Mỵ. Gặp rồi, Bố chánh và Đề đốc cùng nhóm quân binh theo đường Cát Thịnh vào Nghĩa Lộ ra mắt Thủ lĩnh Tướng công.
– Tình hình đội binh ra sao? Nếu quân Pháp đến đây có đánh chặn được không? Đề đốc hỏi.
– Đội binh Đại Lịch chia làm ba chi án ngữ theo thế chân kiềng. Giặc Pháp mà đến nhất định đánh chặn được. Đội binh Khải trả lời rành mạch, rắn rỏi.
Hoàng Đình Cương hào hứng khích lệ.
– Người miền núi, người dân tộc gan dạ lắm. Trận Phủ Bình trận Tuần Quán, rồi trận đèo Gỗ, ngòi Vần, bọn giặc Pháp thằng bỏ mạng, đứa tháo chạy. Đánh thế là giỏi lắm.
Đội binh Khải, đội binh Thọ chắp tay tỏ ý vừa cảm phục vừa hứa hẹn.
Đề đốc nóng lòng gặp Thủ lĩnh Tướng công nên bước ra cửa lên ngựa chiến cùng vệ sỹ nhằm đường vào Mường Lò.
Vượt qua bao nhiêu cửa ải, biết mấy gian nan, bộ tướng của Thủ lĩnh Tướng công cũng đã tụ họp gần như đủ mặt bên cạnh Đại thần Hiệp thống quân vụ Nguyễn Quang Bích: Đề Kiều Hoàng Văn Thúy, Hiệp đốc  Bố chánh Nguyễn Văn Giáp, phó Đề đốc Vương Văn Doãn, lãnh binh võ tướng Nguyễn Quang Hoan, thủ túc văn quan Trần Ngọc Dư, Đề đốc Hoàng Đình Cương, Tổng Khảm Trịnh Bá Đanh.
Đại bản doanh đạo binh Cần Vương miền Tây, Đề Kiều và thủ túc chọn đặt trên đồi Pu Chạng giữa lòng Mường Lò, sách Nghĩa Lộ. Gò đồi Pu Chạng chạy dài, tiếng địa phương đồng bào Thái có nghĩa là đồi Ông Voi. Bốn bề đồi Ông Voi là cánh đồng, hai mặt nhìn ra suối Thia và suối Nung. Đường lên đồi dốc đứng, rậm rạp, lắm cây cổ thụ, lại nhiều ngõ nhỏ vừa có lợi thế quan sát, vừa lợi thế bí mật. Quân binh đặt tại các trạm cửa ngõ của mấy chục địa lộ, nhằm bảo vệ bản doanh mà xuất binh cũng dễ bề. Tướng công chấp thuận việc chọn địa điểm bản doanh và cho xây dựng thành khu căn cứ kháng chiến Cần Vương của Đạo binh miền Tây.
Trở lại Mường Lò từ sau chuyến đi Vân Nam trở về ba tháng trước, Hiệp thống Tướng công có dịp tiếp cận gần hơn với địa hình, đường đất, con người vùng Văn Chấn trong đó có hạt Nghĩa Lộ. Bí mật kinh lý Mường Lò mấy ngày, về lại bản doanh, Quan Hiệp thống cho gọi Bộ tướng đến cùng bàn thảo. Nguyễn Quang Hoan, Vương Văn Doãn, Hoàng Đình Cương đều đồng thanh xin Hiệp thống Thủ lĩnh bổ tước cho một số hào lý, chủ trại, thổ hào, dân binh, đã tự tổ chức đội binh làng bản hướng theo chiếu Cần Vương mà phòng vệ, đánh Pháp. Ngay ngày hôm sau thủ túc văn quan Trần Ngọc Dư đệ trình soạn thảo, Đại thần quân vụ sắc ký chỉ sự. Bản lệnh được chuyển đến tay đương sự để chấp hành: Phủ tổng Đại Lịch địa hạt Văn Chấn, phong tước Lãnh binh cho Phạm Đình Khải, tục gọi Phạm Đình Tế, tham chức Tổng chỉ huy quân binh Đại Lịch. Phong tước Lãnh binh cho Phạm Đình Thọ, tục gọi Phạm Đình Năm, tham chức phó chỉ huy quân binh Đại Lịch. Phong tước Lãnh binh cho thổ hào Trần Đình Thành Tổng chỉ huy Thao – Đà thủy bộ, và Đốc binh cho các quân binh Hà Đình Đặng, Lý Hữu Kim, Đặng Phúc Thành, Hoàng Đình Sứ (tên tự: Hoàng Đình). Mỗi Đốc binh nắm giữ một đội quân binh nghĩa sỹ hạng làng, bản. Phong tước Đốc binh cho tùy phái Đào Chinh Lục tức Giảng Nủ Kư nâu bản Nậm Khắt địa hạt Văn Chấn. Phong Lãnh binh cho Hoàng Thương Thân bản địa Thượng Bằng La hạt Văn Chấn. Phong tước Lãnh binh cho Tri châu Sa Văn Nội, châu Mường Sang Sơn La. Phong tước Lãnh binh cho Lê Văn Nghìn bản phủ Trấn Yên. Phong tước Lãnh binh cho Tri châu Cầm Văn Thanh thuộc bản phủ Mai Sơn Sơn La. Phong tước Lãnh binh cho Nông Đình Tẩn bản phủ Đại Đồng phủ Yên Bình.
Bản lệnh được công bố, Bộ tướng vỗ tay rào rào biểu lộ sự đồng tình nhất mực với Thủ lĩnh Tướng công.
Hiệp thống Thủ lĩnh cũng ban lệnh đặc trách vùng đất cho các tướng quân. Đề đốc Hoàng Văn Thúy nội vùng Mường Lò tạm kiêm chức Chánh Sơn phòng, phó Đề đốc Vương Văn Doãn khu vực Tổng Đại Lịch và phủ Trấn Yên, Đề đốc Hoàng Đình Cương đảm trách miền Tây Văn Chấn. Lãnh tướng Nguyễn Quang Hoan và thủ túc Trần Ngọc Dư là tả hữu quan đại Tướng công Hiệp thống và Phó Tướng công Hiệp đốc. Vệ sỹ liên lạc là đội binh Đào Xuân Thái.
Chỉ lệnh ban rõ: Các Tướng quân phải gắn bó mình với các tù trưởng, tri châu, seo phải, tạo bản, lang đạo, thổ hào, chánh tổng, lý trưởng bản địa và dân bản Thổ, Mường, Mèo, Mán mà xây dựng đạo quân đánh Pháp. Bản lệnh còn nói: Thủ túc nắm chắc tin tức về các nghĩa sỹ văn thân xứ Bắc Kỳ, trung Kỳ để Hiệp thống quân vụ liên binh.
Tin lành đồn xa, cuối tháng chạp Bính Tuất, làng bản Tây Bắc rộn rực cho tết nguyên đán. Trời mùa đông giá lạnh, cây cối khẳng khiu mà dân chúng tam tổng Mường Lò vẫn cử hào lý đến Pu Chạng xin yết kiến Quan Đại thần. Võ tướng Lãnh Hoan lo ngại có kẻ lợi dụng dò xét tâu lên Công sứ, lên Thống quản, nên viện lý Thủ lĩnh đạo binh an tĩnh tại tư dinh bên ngoài Pu Chạng, có việc quân binh, vệ sỹ đưa đến Sơn phòng sẽ có người của Thủ lĩnh đón nhận. Hào lý các địa phương hỉ hả đem về gạo thịt nuôi quân, đem về quần áo chăn màn do người Thái, người Thổ tự dệt may. Lãnh binh Nông Đình Tẩn và đốc binh Nông Đình Tần tận phủ Bình cho người đưa đến hai thớt voi đã thuần hóa biếu Đạo tướng ra trận. Người Mèo ở Trạm Tấu, ở Mù Cang, người Dao ở Nậm Mười, Nậm Khắt gửi măng ớt, táo mèo chữa bệnh và gửi cả mật ong rừng, rượu củ sâm, gạo nếp Tú Lệ để các Tướng quân bồi bổ sức lực mà chỉ huy đánh giặc. Nghe những tin tức tức ấy Thủ lĩnh Tướng công cảm động lắm. Bất chợt ngài nghĩ tới cuộc hành binh. Những ngày ở Tiên Động tụ hội như Triều chiến. Về Yên Lập nương nhờ đồng bào Mường thân tình tựa anh em. Hạ trại Ba Khe mấy ngày cảm thấy đã thông thoáng mà khó ngờ bất lợi cho sự an toàn. Di binh đường rừng ngủ đêm bản nhỏ, rồi lại theo chân thổ dân Hoàng Thương Thân ăn cơm nắm muối vừng ở khe núi Tè đã càng phải nghĩ ngợi trăm điều. Hồi tưởng ngày qua, Nguyễn Quang Bích – Ngư phong Tướng công ngồi dậy, cầm bút. Ngọn bút lông rung rung những nét thi nôm.
Một căn nhà sàn ở ven rừng, cỏ cây rậm rạp
Quanh thềm, tiếng dế kêu hòa lẫn tiếng nước khe
Ngước mắt nhìn non sông, tất cả vẫn như ngày hôm qua
Mưa gió đau lòng, chỉ tự mình buồn lo.
Nâng chén, không thể ngồi tính lại những việc ngày trước
Đối người, luống thẹn thấy mình bạc đầu
Gần đây, hàng ngày chỉ ngồi ăn mà chẳng có chước gì lạ
Hướng về Phong Thành ngóng mãi kiếm khí xông lên sao Ngưu, sao Đẩu[3].
Đêm Mường Lò. Đã sắp giờ giao thừa Đinh Hợi (1887). Thủ lĩnh Nguyễn Quang Bích, vị Đại thần Hiệp thống miền Rừng Già Tây Bắc không ngủ. Ngài không ngủ được hay không muốn ngủ trong đêm xuân yên ả giữa miền sơn cước, giữa lòng dân với các hào lý, tù trưởng người dân tộc thiểu số? Ngọn đèn thắp bằng dầu thông trong căn phòng nhỏ tư dinh kia vẫn sáng, Ngài Hiệp thống quân vụ đang soạn thư binh, soạn lệnh binh, hay nhớ về quê nhà, hứng bút mà nên văn chương? Chắc không phải Tướng công làm thơ, có lần Thủ lĩnh Tướng công chẳng tâm sự đấy thôi: “Dư bất tri thi, hựu vô tác thi, thiên phận kỳ hà năng ngôn Độc ư binh biến lưu ly chi tế, hoặc xúc vật nhi hưng tư, hoặc nhân sự nhi ngẫu ký, diệu hoặc hành giao ngụ xá, thâm dạ tàn đăng, cùng muộn chi cực nhi bất năng dĩ giả, tùy cảm tùy tác, hậu hựu tùy bút tự vi điểm duyệt, Cái sở vi hậu trùng thần điểu, tự mình tự dĩ, liêu dĩ khiển hoài vân nhĩ, thi hồ tai”[4].
Một mình bước nhẹ bên thềm tư dinh, giành cho quan Hiệp thống Thủ lĩnh trong đêm giao thừa, vừa yên ắng, vừa xốn xang giữa giờ phút thiêng liêng khi đã làm xong tục lệ hương khói thần thổ. Thủ túc Trần Ngọc Dư mạnh bạo nhòm qua khe vách lán tre nứa. Người ngồi đó, quan Đại thần triều đình chủ chiến – Hiệp thống quân vụ Nguyễn Quang Bích trong bộ triều phục. Áo thâm đen, khăn chít chéo, đôi mắt quầng thâm mà sáng, chòm râu dài và thưa đã đóm bạc, bộ tóc mai vốn đã sâu xuống gò má, nay trùm bên chòm râu càng làm cho khuôn mặt Ngài trở nên quắc thước mà vẫn như tự tại, điềm tĩnh. Chỉ nhìn khuôn hình và dung nhan Tướng công cũng đã đủ thấy một vị quan Triều chính chủ chiến nhất mực vì nước Nam, nhất mực thủy chung với Đức Vua anh minh và hết lòng thân yêu nghĩa sỹ, thuận hòa đồng chí, đồng minh. Thoáng nhìn, thoáng nghĩ, thủ túc văn quan không muốn làm cho Tướng công phân tán tâm tư, liền nhẹ gót bước sang phòng võ tướng Nguyễn Quang Hoan.
– Tướng quân. Đêm giao thừa mà ở Mường Lò này, trời lại sáng như trăng mùa đông vậy.
Lãnh Hoan.
– Cũng là điều lạ. Nhưng có lẽ là điềm lành vì quan Đại thần về đây, nghĩa là Đức Vua đã khai tâm khai sáng, nên đất trời miền núi hiển linh.
Thủ túc gật đầu. Rồi lại nói
– Người Thái Mường Lò có tục cúng bản cúng mường và cúng rừng vào đầu xuân đấy, tôi có ý gặp Đề đốc Kiều xin ngài cho Sơn phòng ta góp lễ.
– Việc đó chưa cần phải hỏi Đề đốc, mà ngài Thủ túc cho người tìm đến già làng trưởng bản biết ngày lễ mường, rồi cùng Đề đốc tướng quân tới dâng lễ vật xin bậc linh thần mường bản là ổn.
Thủ túc cười.
– Không phải thổ dân mà sao tướng quân lại rõ được như vậy?
Võ tướng cũng cả cười nheo mắt:
– Chính là nhờ cụ Đề Kiều đấy. Ngày hộ giá Tướng công về đến Lai Châu, tri châu Cầm Văn Thanh, kể chuyện Lò Lạng Chượng và dặn, nếu đến Mường Lò vào ngày tết, phải nhập lễ cúng mường cho phải tâm. Tôi đem chuyện này ra đàm đạo, Đề đốc Kiều vỗ vai nói: Việc đấy ngày làm chánh tổng Cẩm Khê, thổ hào Thúy tôi đã thành quen gọi là “xên mương xên đông”, Mường Lò, Mường Thanh, Mường Than, Mường Tấc, người Thái Tây Bắc đều giữ gìn lễ tục này.
– Hà hà. Hẳn nào, hôm trước Đề đốc nói, rằm tháng giêng này ngài về khai xuân với bản làng Mường Lò.
– Đất có thổ công, các cụ dạy thế rồi. Đề đốc là người am hiểu văn hóa và tâm linh truyền thống, biết tự mình lo liệu, không để Thủ lĩnh phải bận tâm phiền lòng.
Cứ thế, Võ tướng và Văn quan trò chuyện, từ chuyện sơn phòng lan sang chuyện đất và người Tây Bắc, cho đến cả chuyện cổ, kim… Canh năm, gà bản te te gáy, thủ túc thay mặt Thủ lĩnh Tướng công bước ra am nhang đặt bên gốc cây long não cổ thụ, chỉnh trang lễ phục, thắp hương bái thiên lễ địa, chào đón ngày đầu tiên của một năm mới, năm Đinh hợi trên đất Mường Lò – chiến khu Cần Vương vùng Tấy Bắc. Khắp đồi Pu Chạng, một rừng hoa ban đang chớm nở.
Đề đốc Hoàng Đình Cương cùng Đặng Phúc Thành rời hành dinh đi xuôi ngòi Thia rồi ngược bản Tủ lên Nậm Khắt tìm Giàng Nủ Kư Nâu. Đề Cương biết Đặng Phúc Thành cũng là nhờ Phạm Đình Tế. Thành là người Dao quê gốc ở Nậm Lành, nhưng lấy vợ người Thổ ở Đại Lịch, vẫn thuộc châu Văn Chấn. Khi Thổ hào Phạm Đình Tế đứng lên lập đội quân binh bên cạnh đội dõng binh của Chánh tổng, tổng Đại Lịch, Đặng Phúc Thành rủ Lý Hữu Kim, hai tráng niên người dân tộc Dao ra nhập và được Phạm Đình Tế trọng dụng, cử làm trưởng tổ.  
Khó gặp Giàng Nủ Kư Nâu, Hoàng Đình Cương về Nậm Mười ăn tết với người Dao. Thấy có khách lạ, dáng phong độ, lại nói năng hiền lành, một thanh niên Dao đến chúc rượu.
– Bát này, “tao” mời khách quý đấy, “mày” uống hết đi!
Trước mặt đội binh Đặng Phúc Thành và các già bản, Đề đốc nhận rõ sự thật lòng của chàng trai, nên không chần chừ, nhận bát rượu uống một hơi, rồi “khà” một tiếng như thể hiện rượu ngon.
– Ồ, ồ! “Mày” uống giỏi, “tao” nhận làm anh cả thôi! Chàng trai nói.
Đề Cương, Đội Thành, già bản cùng đồng tình uống thêm một bát rượu chúc tụng.
Từ hôm đó, ngày mồng ba tết, chàng trai người Dao có tên là Bàn Hiệp, người bản Nậm Mười, theo chân Đề Cương và Đội Thành đến nhập đạo binh quân Cần Vương Tây Bắc.
Đề Cương bàn với Lãnh Hoan tả tướng quân của Thủ lĩnh, nên lập một đồn binh tại khu vực Nậm Lành để thu nạp các hào  lý, tù trưởng và quân binh người dân tộc, mở cửa lên Lai Châu, Điện Biên. Thủ lĩnh Tướng công và Bố chánh Hiệp đốc nghe xong, chấp thuận ngay. Đồn trại quân binh được đặt ở Nậm Mười do đội binh Đặng Phúc Thành chỉ huy. Đội binh Lỹ Hữu Kim ở Đại Lịch được Đề Cương đưa về làm Phó trại. Trại binh có hai đội quân do Kư Nâu Đào Chinh Lục và Bàn Hiệp làm các đội trưởng. Giàng Nủ Kư Nâu nói: “Tao” sẽ đi bảo người Mèo ở Mù Cang Chải, ở Nậm Khắt, ở Púng Luông, cũng theo vào đội binh của ông Đề Cương để đánh thằng giặc Pháp!([5])
Vùng ngoài tổng Đại Lịch (từ Thượng Bằng La đến Hạ Bằng La) phó Đề đốc Vương Văn Doãn cùng các đốc binh Trịnh Bá Đanh, Lê Văn Nghìn, Phạm Đình tế, Hoàng Thương Thân đến chung vui chén rượu tất niên, dự các đêm hát, đêm xòe với người Thổ người Nùng.
Đội binh Thương Thân:
– Ở Thượng, đã lập được đội binh. Đội này cùng với dõng binh của lý trưởng có thể đánh chặn quân Tây khi chúng ngược Thu Cúc hoặc đèo Đao (Đèo Lũng Lô)
Đề đốc Doãn:
– Thượng Bằng La quan trọng lắm đấy, nhiều trục lộ xuôi ngược liên hoàn với cả vùng, Đội binh cho quân luyện tập ngày đêm để khéo giáp trận.
Thương Thân cảm kích đáp lễ. Dân bản người Thổ kéo đến biếu quan Đề đốc và quân binh những túi bánh trưng tròn, bánh dậm quai, cả bánh chuối, bánh nẳng cho ngày rằm tháng giêng.
Ra phủ tổng, tổng Đại Lịch, chánh tổng Hoàng Hữu, lãnh Tế Phạm Đình Khải, lãnh Năm Phạm Đình Thọ, các đội binh Hà Đình Đặng, Lý Hữu Kim, Hoàng Đình Sứ và các già làng trưởng bản đón “quan” Đề đốc như người thân. Ai ai cũng cố nèo kéo mời mọc “quan” đến với nhà mình như thể đi trả ơn ân huệ cao dày của Đức Vua đối với dân bản.
Phó Đề đốc Vương Văn Doãn đứng lên mô đất nói thật to.
– Giã ơn bản dân Đại Lịch tốt bụng, tôi vị lệnh Thủ lĩnh Tướng công về làng bản chúc tết mọi người dân già trẻ gái trai, chúc tết các bậc cao niên, hào lý, chức dịch. Gặp nhau ở đây là mừng lắm, Thủ lĩnh và Bộ tướng xin có lời tạ lỗi việc thăm nhà, xin dân bản bằng lòng với Đề đốc tôi.
Tiếng vỗ tay ran lên. Vương Văn Doãn giơ hai bàn tay lên cao như thay vì lời chúc lời chào tốt lành ngày đầu năm mới.
Phó Đề đốc bước xuống, hộ vệ đưa nhanh theo chân lãnh Tế, lãnh Năm về Bằng Là. Tướng quân đi kiểm tra việc xây đồn trại ở gò Lũng Gà.
Chỉ trong nửa tháng trời, Chánh tổng Hoàng Hữu và các vị thổ hào địa phương đã vận động các gia đình trong tổng gửi biếu đội binh năm mươi khẩu kíp, súng hai nòng, hỏa mai, và có tới mấy trăm gươm, giáo, mã tấu. Nhìn kho khí giới và lương thảo trong đồn, Vương Văn Doãn mừng lắm viết thư cho hộ vệ về bản doanh Mường Lò báo tin đội binh Đại Lịch sắm được nhiều vũ khí tự tạo, lương thảo chất đầy bãi, đâu đâu quân sỹ cũng mải miết luyện tập. Các đội binh, đốc binh, lãnh binh nhất loạt hướng về Cần Vương Tây Bắc mà tu rèn…
Bước xuống chân đồi Lũng gà, phó Đề đốc vỗ vai lãnh binh, Phạm Đình Tế.
– Hiệp thống Thủ lĩnh Tướng công sẽ hài lòng với cánh binh Đại Lịch. Cửa tổng Đại Lịch giữ được thì Mường Lò Nghĩa Lộ sẽ vững chân.
Lãnh Tế, lãnh Năm, đội Đặng, đội Lý, đội Hoàng, đều khoanh hai nắm tay ra trước mặt cảm tạ.
Phó Đề đốc Vương Văn Doãn quay sang lãnh Năm phó đội:
– Cửa Vần Dọc đã có đội binh Lê Văn Nghìn và Tổng Khảm Trịnh Bá Đanh chắn chặn, mà quân Pháp cũng chưa thấy động tĩnh gì hơn. Lãnh binh cắt cử một phần quân số về các làng bản giúp dân gặt lúa chiêm xuân, đóng bịch lương thực phòng thủ lâu dài.
Lãnh Năm, lãnh Tế vâng lệnh.
Vương Văn Doãn lên ngựa ra kiểm tra cửa trận Vần, Dọc. Lãnh Tế cử đội binh Hà Đình Đặng tháp tùng Phó Đề đốc. Dọc đường tướng binh thân tình hỏi:
– Ta nghe Đề đốc Hoàng Đình Cương nói, đã gặp Đội binh trong đêm hát giao duyên hôm thổ hào làng Vần Trần Đình lên nhà mới, có phải chăng?
– Dạ, Đội binh có mặt hôm đấy và giao duyên với một cô gái làng Vần, nhưng, không hay biết Tướng quân cũng có ở đó ạ.
– Câu chuyện giao duyên thế nào đội binh có thể nhắc lại cho vui đường đất?
Bị Đề Doãn yêu cầu bất ngờ, Hà Đình Đặng lúng túng.
– Dạ! Chuyện là… [6]
Nghe xong, Tướng quân cả cười rồi vỗ nhẹ vào vai đội Đặng
– Cuộc sống nó đẹp như vậy đấy, mà người Pháp không để yên. Ta lo đánh giặc, giữ được làng quê này thì chẳng những đời ta mà đời đời con cháu mới có được hạnh phúc.
Tổng Khảm Trịnh Bá Đanh và lãnh binh Lê Văn Nghìn đang cho quân sỹ phối hợp với dân binh của thổ hào Trần Đình Thành tập luyện ở cánh đồng bậc thang làng Vần, được báo, cả hai vội vã chạy lên chân dốc đón Tướng quân Phó đề đốc.
Chứng kiến cảnh nghĩa binh và dân binh tập trận say sưa giữa mưa dầm tháng hai, Phó Đề đốc Vương Văn Doãn bằng lòng, ngài bước đến mô đất cao nhất, giang hai cánh tay khoát lại. Binh quân có tới trăm người quây quanh các tướng binh.
– Nghĩa sỹ Mường Mẻng (tên cũ của Tổng Đại Lịch), Phó Đề đốc nói: Giặc Pháp chiếm đất ta, cướp của cải gia đình họ mạc ta, trai tráng Mường Mẻng ta nhất thiết không cam chịu, mà đồng lòng theo cụ Hiệp thống, Thủ lĩnh đạo binh Cần Vương Tây Bắc đánh lại quân giặc. Nghĩa binh nào đồng lòng thì giơ tay thật cao?
Một “rừng” tay giơ lên, rồi súng, rồi gươm giáo, cũng giơ cao. Vương Văn Doãn đưa hai nắm tay lên ngang mặt, nắm chặt lại, khẽ cúi mình tỏ ý cám ơn các nghĩa binh. Mấy tướng đội binh, Trịnh Bá Đanh, Lê Văn Nghìn, Hà Đình Đặng làm theo.
Dảo bước trên cánh đồng ruộng bậc thang đang trổ bông xanh, Vương Văn Doãn ngước nhìn lên ngọn núi rồi quay sang Hà Đình Đặng, chợt hỏi:
– Ngọn núi kia có tên là gì, bốn mặt nhìn về đâu Đội binh?
– Thưa Tướng quân, Đặng đáp. Đó là núi Nả, phía bắc nhìn ngược sông Hồng, phía đông nhìn xuống đất Phong Châu sông Thao, hướng nam là về Thanh Sơn, Yên Lập, phía tây chân liền dãy núi Báng của phủ tổng Đại Lịch.
– Tổng phủ Đại Lịch có trại binh Lũng Gà của Lãnh tế đấy sao?
– Vâng thưa Tướng quân. Núi Nả là tên của nàng Na, con quan phủ Phong châu thời Tiền Lê, câu chuyện nàng Na hay còn gọi  là Bà Chúa Nả gắn liền với Thần hoàng đình Bằng Là Phạm Đình Yên mà Đề đốc đã nghe kể. Thần hoàng cũng chính là cụ Thủy tổ của Lãnh Tế Phạm Đình Khải và Lãnh Năm Phạm Thọ.
Đề đốc Vương Văn Doãn chắp hai tay, hướng lên ngọn núi Nả mà nói như lời niệm.
– Nam mô A dì đà Phật. Cầu xin nhân thần chúa Nả hiển linh phù hộ cho Đạo binh Cần Vương Tây Bắc chúng con do Hiệp thống quân vụ Tướng công Nguyễn Quang Bích làm Thủ lĩnh, nguyện đánh thắng quân Pháp, cứu nước Nam ta thoát khỏi vòng kiềm chế ô nhục.
Tướng quân dứt lời, ngài phục xuống mặt đất, hướng về núi Nả, lạy ba lạy.
Từ ngày quan Bố chánh, Đề đốc Cương, Lãnh binh Tổng Khảm rút vào miền Tây. Đội trưởng dõng binh Nam Cường Lê Văn Nghìn đi đâu mắt tăm. Lãnh Hặc, Lãnh Đa, Tán Áo rút lui về Hiền Quan, Động Lâm. Hiệp Triệu tuy chưa giải ngũ nhưng nhóm quân nhỏ, lại rời rạc, Quản Hiệp đang tổ chức lại đội binh. Trong khi đó người Pháp đã công khai thúc ép Chánh thành phủ Trấn Yên Đặng Liễu ký giấy khoanh đất để Pháp xây nhà công sứ lập đồn, và cấm địa. Tri phủ Liễu bất lực từ chức, người Pháp điều khiển Tuần phủ Hưng Hóa sa thải Chánh Liễu. Toàn bộ thành phủ Trấn Yên từ làng Hào Gia, Tuần Quán, kéo dài tới làng Bái Yên, làng Nam Cường bị người Pháp quản chế, họ đặt văn phòng đại diện tại Bách Lẫm, người có chức danh điều hành là quan Đốc sứ. Quan đốc sứ là một người Việt từ Hà Nội lên, thạo tiếng Tây hơn tiếng mẹ đẻ.
Nằm vắt tay lên trán, Đặng Lanh nhớ lời dặn thân tình của Đình Cương lúc chia tay: “- Chú ở lại thành phủ, nắm chắc tin tức, sẽ có người tìm đến. Đề anh sẽ luôn bên chú”. Ba đồng bạc trắng Đề đốc đặt vào tay vẫn còn đây, mà sao kẻ tìm đến vẫn chưa thấy? Đặng Lanh bần thần cả người, ngày tết cũng chẳng có gì làm vui. Các tướng binh và nghĩa sỹ theo cùng, đang ở chỗ nào nơi rừng núi miền Tây mênh mông, xa lắc? Ba tháng? Đã ba tháng trời! Đặng Lanh thiếp đi…
Rằm tháng giêng. Đang vui chén rượu xuân với bạn dõng binh giải nghề thì con gái đến gọi, nói rằng, về nhà có khách.
– Ô, Lê Văn Nghìn. Bạn đâu biệt tích…
Người khách ra hiệu:
– Nói nhỏ, nói nhỏ thôi. Mình về gặp Lanh, đưa thư, rồi đi ngay.
Như sợ có ai theo dõi, Lê Văn Nghìn nắm chặt bàn tay người bạn có thời cùng là dõng binh canh điếm thành phủ
– Chuyện dài lắm, sẽ kể sau. Còn đây là thư của Đề đốc, để khỏi bị lộ, nên thư chỉ như thế, còn nội dung mình sẽ truyền đạt yêu cầu của Đề đốc.
“- Chú Lanh vẫn khỏe chứ? Anh Hoàng đặt mùng, chú tìm được, gửi cho anh ngay nhé!”
“Ôi. Tướng quân xưng là anh. Thân mật đến thế”. Đặng Lanh chợt nghĩ.
Lê Văn Nghìn:
– Đặng Lanh tìm mọi cách nắm được ý đồ tiến quân của người Pháp ở Thành phủ, nhờ người tin cậy báo tin cho Văn, con trai thổ hào Trần Đình ở làng Vần. Tin tức sẽ đến với Đề đốc và quan Bố chánh. Đề đốc và Bố chánh luôn nhắc đến Lanh đấy. Thôi, đi nhé.
Lê Văn Nghìn quay người định bước ra cửa, nghĩ thế nào lại ngoảnh cổ.
– À, mà mấy tháng mới gặp. Ngày rằm, làm chén rượu chứ?!
Đặng lanh chỉ kịp rót đầy, chưa có lời chúc tụng đầu xuân Lê Văn Nghìn đã nâng cốc. Cười:
– Nào. Nhớ “mua hàng” cho Đề đốc!
Hai chén rượu cạn. Hai bàn tay bạn hữu nắm chặt rồi rời nhau. Đội binh Lê Văn Nghìn ra cổng. Hai hộ vệ đang đứng chờ mà Đặng Lanh không hay biết.
Thực ra Đề Cương dặn Lê Văn Nghìn từ trước khi ngài nhận lệnh Tướng công đi đặc trách cửa Tây Mường Lò, nhưng đến bây giờ Nghìn mới thực hiện được. Mấy ngày ở Vần, Đề Cương đã quen với Trần Văn Văn con trai thổ hào, Văn tỏ ra quý trọng nghĩa khí của Đề đốc bậc cha chú mà vui thích khi nhận việc Đề đốc giao. Văn cũng đã thân với Hà Đình Đặng chàng trai Đại Lịch hay về Vần hát giao duyên cùng cô ruột là Trần Thị Gấm mỗi khi có hội. Đường dây truyền tin từ thành phủ được thiết lập như vậy. Tin tức Đặng Lanh nắm được sẽ đến Văn, đến Đặng, rồi đến Vương Văn Doãn hoặc Bố chánh Nguyễn Văn Giáp.
Tháng năm. Lúa chiêm đang chín rộ. Quân binh các cánh đang về làng bản gặt lúa thì phó Đề đốc Vương Văn Doãn nhận được tin quân Pháp sẽ tiến đánh thọc sâu vào Đại Lịch, đồng thời cùng lúc, sẽ đổ bộ bằng tầu thủy lên bến Mậu A.
Nghe cấp báo Thủ lĩnh Tướng công cắt cử Hiệp đốc Bố chánh Nguyễn Văn Giáp đem quân đi tắt Ngòi Thia ra Mậu A phối hợp với dõng binh địa phương mai phục. Nhưng quân Pháp thay đổi địa điểm, mà tầu thủy ngược sông Hồng tiến thẳng, Bố chánh phán đoán rồi quyết định huy động ngựa của dân bản cho hai mươi chiến binh phi mã lên Trái Hút mật phục. Trận đánh quyết liệt diễn ra ngay bờ ven sông Hồng khi quân Pháp do thiếu tá Bôxe chỉ huy vừa bước lên bến Trái Hút. Đám quân khố đỏ khố xanh bị đòn phủ đầu, nháo nhào bên bờ sông. Bô xe lệnh rút nhanh lên tàu thủy bỏ lại mấy chục xác lính ngay bãi sông.
Trên tuyến vào tổng phủ tổng Đại Lịch. Vương Văn Doãn giao cho Lê Văn Nghìn dẫn một đội binh phục ở đèo Mát, đội thứ hai phục chân đèo Din do Trịnh Bá Đanh, Hà Đình Đặng chỉ huy. Đích thân Đề Doãn, cùng Lãnh Tế, Lãnh Năm dàn trận bao vây quân giặc nếu chúng lọt qua hai phòng tuyến phục kích.
Đại tá Bôrítx đặt sở chỉ huy dã chiến ở Vân Hội lệnh cho đại úy Ben dẫn một trung đội hành quân trong đêm trăng sáng, lặng lẽ ém quân dọc đường chờ canh năm bất ngờ đánh quấy phá tổng phủ rồi rút nhanh có đội quân thứ hai tiếp sức. Đại úy Ben không có thổ dân đưa đường nên ngay trong đêm trăng, cả trung đội khố xanh khố đỏ lọt vào ổ mai phục của Đội binh Lê Văn Nghìn. Lê Văn Nghìn, Hà Đình Đặng ra lệnh ném bùi nhùi sáng. Cả đoạn đèo rối loạn. Quân binh Lê Văn Nghìn, Hà Đình Đặng cứ nhằm kẻ mũ nón dấu áo đai mà đâm mà chém. Đám lính khố xanh người Việt chạy tán loạn lên rừng. Đại úy Ben trúng đạn vào cánh tay phải rơi cả súng lục, Ben hét quân thúc ngựa chạy một mạch về Vân Hội.
Cuộc hành quân quấy phá thủ phủ tổng Đại Lịch của quân Pháp thất bại, Bo rítx tức tối cho người mời Phòng do thám đến tham vấn.
Trương Đen – đại úy trưởng phòng, ngạo mạn lên giọng:
– Chỉ tôi mới có cách chọc thủng các tấm chắn, vào đến giữa phủ tổng, thưa ngài đại tá.
Bôrítx
– Ngài nói đi, ngài Đen. Nước Pháp sẽ luôn nhớ đến ngài!
Trương Đen đi đi lại lại, bỗng y búng ngón tay cái hất hất về phía sau gáy.
Bô rítx khẽ lắc đầu không hiểu.
Trương Đen cười nửa miệng rồi nói bằng tiếng Pháp
– Do thám của tôi nói, ở Đại Lịch có một tướng chỉ huy quân phiến loạn tên là Trịnh Bá Đanh, quê hắn ở Cẩm Khê. Ngài đại tá cho lính về làng bắt cóc người anh trai, đưa đi đầu đại binh kêu gọi Đanh ra hàng. Thừa lúc tướng quân phiến loạn đắn đo, ta thúc quân đánh tràn vào, tất sẽ bắt được các tướng phiến loạn, dẹp được đồn phủ.
Đại tá Bôrítx cười to:
– Hay lắm, hay lắm. Cảm ơn đại úy. Một sáng kiến tuyệt vời.
Mưu kế của Trương Đen được tướng Giamông tổng chỉ huy Mặt trận sông Thao, sông Chảy, và tướng Bricdlin thống quản miền Tây, biết đến; nhưng lại giao cho Bo rítx một việc khó dễ, là lừa được người anh, nhận lời đi tìm gọi em về chứ không phải do người Pháp bắt cóc dân chúng. Người luôn đi bên Trịnh Bá Hoàn, anh họ Tổng Khảm, là trung úy Quỵch, sỹ quan phòng do thám của Trương Đen.
Sau trận đánh chặn ở làng Dọc và ở Trái Hút thắng lợi. Hiệp thống Quân vụ Tướng công đích thân thị sát cửa Đại Lịch và Cửa Mỵ. Bố chánh Nguyễn Văn Giáp, phó Đề đốc Vương Văn Doãn và thủ túc Trần Ngọc Dư cùng lên ngựa hộ tống Thủ lĩnh.
Lãnh Tế Phạm Đình Khải và chánh tổng Hoàng Hữu cả các dân binh quân binh đón quan Đại thần, ai nấy thật háo hức. Nguyễn Quang Bích Tướng công đứng trên đỉnh đèo Bẳn ngắm nhìn thế núi, Ngài nói với Phạm Đình Khải:
– Đây là một đỉnh điểm chặn lợi thế!
Bố chánh, Phó đề đốc, Thủ túc đều gật đầu. Trần Ngọc Dư cảm xúc gợi mở:
– Ngư Phong Tướng công, Đại Lịch là một sách([7]) hội đủ thiên thời, địa lợi, nhân hòa.
Nguyễn Quang Bích nhìn toàn cảnh thung lũng lòng chảo, nói thêm:
– Đọc sách của Lê Quý Đôn, ta đã hay về Đại Lịch. Núi Din, núi Đáy, núi Ngủ, núi Báng, và đồng Lớn, nơi có ngòi Thé chảy qua ra ngòi Nặm. Thật là tiên cảnh thủy mặc.
Phó Tướng công Nguyễn Văn Giáp góp lời đàm đạo:
– Thiên cảnh đẹp mắt, người người làm ăn, giặc Tầu giặc Tây vào đây đều phải tháo chạy.
Bộ tướng cười ồ. Hào hứng kháng chiến, lao động và đánh giặc như đang tràn ngập trong lòng mọi người.
Lãnh Năm Phạm Đình Thọ dẫn đường đưa quan Hiệp thống và Bộ tướng về thắp hương nơi đình Bằng Là. Dân bản đứng kín dưới tán cây đa xanh bên bờ suối. Quan Đại thần cúi mình chào dân làng người Thổ, người Nùng, người Dao rồi giơ hai nắm tay chắp lại, tỏ lòng cảm ơn và hứa hẹn. Ngài theo chân Lãnh binh lên kiểm tra việc lập đồn phủ Tổng Đại Lịch ở gò Lũng Gà. Trở về nhà sàn Phạm Đình Khải, Tướng quân cho mời chánh tổng Hoàng Hữu, một số hào lý, già làng, trưởng bản và các đội binh đến gặp gỡ. Thủ túc Trần Ngọc Dư thừa hành công bố phong tước Đốc binh cho Lê Văn Nghìn và Hà Đình Đặng, hai đội binh có công trong trận Nước Mát làng Dọc phủ Trấn Yên. Ban thưởng cho đội binh Lý Hữu Kim trước khi điều Kim về Nậm Mười, cùng Đặng Phúc Thành và Bàn Hiệp xây dựng đồn trại cửa tây. Ba đội binh được phong thưởng khoanh vòng tay cảm tạ. Một cơn mưa rào giữa trời nắng. Mưa như trút nước, kéo dài đến nửa tiếng. Chỉ hai mươi phút, nước ngập tràn khối đá làng khe Văng. Ngòi Thé lênh láng nước. Đá đen, đá trắng lổng chổng là thế, giờ chẳng còn thấy đâu. Một mặt phẳng đồng ruộng, là nước và nước.
Đã từng ở rừng Tiên Sơn, đã chứng kiến nhiều trận mưa lũ, sông suối ngập tràn; nhưng đây là lần đầu tiên Tướng công Thủ lĩnh chứng kiến cảnh mưa xối xả lũ quét lũ ống khủng khiếp, khiến người người không thể sang suối, qua lại như tháng trời mưa dầm. Ngồi trên nhà sàn lợp cọ thật vững chãi, Ngư phong Tướng công sai thủ túc lấy giấy bút tức cảnh. Chỉ trong mươi phút dâng tràn cảm xúc, Ngư Phong đưa Trần Ngọc Dư. Dư đưa lại, đích thân Ngài đọc cùng Bộ tướng chiêm hưởng.
Đại Lịch đạo trung ngộ vũ
Tuấn tĩnh thiên trùng lập/ Nhiễu khê như thành hào/ Loạn thạch tích khê tâm/ Nhất vũ thành ba đào/ Quan giả câu hãi ngạc/ Bôn đằng cơ thiên thao/ Tài gian tễ sắc khai/ Thủy lạc sơn chính cao([8])
Bố Chánh, Phó Đề đốc, các lãnh binh, đốc binh tỏ vẻ thán phục. Ngư phong Tướng công cười độ lượng:
– Ta chỉ tức cảnh mà ghi lại thôi, chứ có làm thơ đâu!
Chánh tổng tổng Đại Lịch bước lại:
– Thưa quan. Ngài cho xin một chữ để tổng con còn lưu danh, thỉnh kính tiền nhân ạ.
Đại thần Hiệp thống.
– Được thôi, nhưng mà tích chữ “Nghĩa sỹ Đại Lịch phụng chiếu Cần Vương. Hàm Nghi năm thứ hai”
Chánh tổng Hoàng Hữu cúi mình nhận bút tích Hán tự cả mừng lui ra. Đoạn gọi người hầu đưa đến một chiếc tráp bọc giấy bạc. Chưa ai  hiểu ông Chánh có ý gì?
– Thưa quan Hiệp thống và các hạ đại quan. Dân bản Tổng Đại Lịch xin dâng quan Hiệp thống Thủ lĩnh ba trăm lạng bạc trắng và hai mươi thắng ngựa thồ, để đại quan dùng vào việc luyện tập đạo quân.
Chánh tổng Hoàng Hữu nói, rồi trao tận tay phó Tướng công Bố chánh tráp bạc và bộ hàm thiếc ngựa đã được thuần hóa đường trường.
Hiệp thống đã lên yên ngựa tía, vội nhảy xuống mặt đường.
– Giúp Vua là giúp Nước. Ta cảm kích lòng người thiểu số tam tổng Mường Lò. Đức Vua Hàm Nghi chủ chiến nơi Sơn phòng Quảng Trị sẽ biết đến dân bản Đại Lịch, biết đến Văn Chấn Mường Lò, cùng đồng cam cộng khổ với Ngài mà bình Tây phục quốc.
Nói rồi Ngài chắp hai bàn tay, hộ vệ nâng lên yên. Ngựa Thủ lĩnh Tướng công và đoàn tủy tùng kinh lý, ngược đường rừng đèo Bẳn. Sau trận mưa rào, trời dần tối.
Đêm hôm đó, Thủ lĩnh Tướng Công ngủ lại Trại binh đèo Khau É của Đề Kiều.
Đèo Khau É (đèo Ách) dài tới bốn năm cây số, Thủ lĩnh dặn Đề Kiều, đây là cánh cổng Mường Lò, phải được chốt chặt. Dựa theo ý chủ tướng, Đề đốc Hoàng Văn Thúy cho lập Trại lưng chừng Khau É nơi có khúc cua, tường đồi dựng đứng, khe nước róc rách ngày đêm.
Nắng sớm. Nguyễn Quang Bích nhìn bốn phía, rồi chợt hỏi:
– Tướng quân  lập trại đèo này là có ý thế nào?
– Thưa Tướng công. Mươi năm trước anh em Cầm Hánh, Cầm Tám cũng hạ trại nơi này, cầm cự được nửa tháng với giặc Cờ Vàng. Đề Kiều nói.
– Thế rồi sao nữa?
Đề đốc Kiều thở dài.
– Thế giặc mạnh như bão. Cầm Tám phải lui về Suối Thia cố thủ, bảo vệ vành đai thành Viềng Công.
Thủ lĩnh Hiệp thống trầm ngâm, rồi ngẩng mặt nhìn lên dãy núi Liên Sơn.
– Cầm Hánh và anh em của ông đánh lại giặc Tầu bảo vệ đất này. Họ là những nghĩa sỹ anh hùng.
Nói đoạn Thủ lĩnh nói như giao lệnh.
– Đề đốc. Ngài cho quân binh “giồng” tre hóa dọc hai bờ suối Thia làm tường thành. Ấy là ta học cụ Cầm Hánh vậy.
Bố chánh Nguyễn Văn Giáp từ sáng nghĩ ngợi, chưa lên tiếng, dường như bây giờ mới là đúng lúc nói ra ý mình.
– Thưa Hiệp thống Thủ lĩnh. Bản doanh Pú Chạng là phải lắm; nhưng e rằng không thể bền lâu. Xin Tướng công sớm lo thêm cơ sở dự phòng.
Vương Văn Doãn đua theo:
– Thủ lĩnh. Đó cũng là điều mà hạ tướng và Võ tướng Lãnh Hoan đã nghĩ tới, và thỉnh ý Bố chánh từ mấy ngày trước.
– Các tướng! Thủ lĩnh nhẹ nhàng, quyết đoán. Ý nghĩ các tướng, ta nghe theo. Việc này, về bản doanh ta sẽ giao cho lãnh Hoan và Thủ túc.
Nguyễn Văn Giáp, Đề Kiều, Vương Văn Doãn chắp tay.
– Vâng ạ. Vâng ạ. Biết ơn Thủ lĩnh!
Đội binh Lý Hữu Kim về Nậm Mười, vợ con vẫn ở lại làng Đồng Mè, Đại Lịch xã, thuộc Tổng Đại Lịch. Tổng Khảm Trịnh Bá Đanh, lãnh Năm Phạm Đình Thọ, đốc binh Hà Đình Đặng có mặt trong buổi tạm xa ấy. Vợ chồng cha con người Mán ít khi xa nhau, bây giờ nhiệm lệnh mà đi, vợ con cha mẹ đã có đội binh đồng lòng chăm lo, Hà Đình Đặng khéo động viên làm vợ chồng Kim vui hẳn lên.
Lý Hữu Kim được đốc binh Đặng Phúc Thành cử làm Phó đội binh, và là phụ lý của Đề đốc Hoàng Đình Cương – Tướng quân đặc trách Cửa Tây. Chỉ một tháng, trại binh Nậm Mười đã có đến năm mươi tay súng tay nỏ, cả người Mán, người Mèo, người Thái Tú Lệ cùng tập luyện. Giàng Nủ Kư Nâu hứa với Đề đốc Cương, sẽ lấy thêm trai tráng ở Khua Phạ, ở Púng Luông, cả ở La Pắn Tẩn đưa về trại binh luyện tập. Phó đội binh Bàn Hiệp đề nghị lập thêm một trại ở Tú Lệ hoặc Cao Phạ thì mới hỗ trợ nhau đánh chặn được quân khố xanh khi chúng ở Than Uyên Lai Châu tràn xuống.
Các ý kiến bàn bạc thật sôi nổi, Đề đốc Hoàng Đình Cương đồng tình tất cả. Riêng việc lập thêm Trại binh ở Tú Lệ – nên là Tú Lệ – thấy thật cần thiết, nhưng việc này phải được Bộ tướng bàn thảo, Thủ lĩnh Tướng công quyết dáp. Hai mươi ngày sau Thủ lĩnh cử Bố chánh Nguyễn Văn Giáp lên thị sát Gia Hội, Nậm Khắt, Tú Lệ, Cao Phạ, và cùng Đề đốc Đặng Phúc Thành chỉ định lập Trại binh Tú Lệ, giao cho Giàng Nủ Kư Nâu (Đào Chính Lục) làm đội trưởng, kiêm giữ trại trưởng nghĩa binh, tước Đốc binh.
Trong khi Đề Cương đặc trách cửa Tây lo việc cùng cố, lập mới hai trại binh Nậm Mười và Tú Lệ, thì lãnh binh võ tướng Nguyễn Quang Hoan đóng giả làm người đi buôn trâu, sục vào các làng bản chân núi lòng chảo Mường Lò để tìm địa hình xây dựng cơ sở Bản doanh dự phòng cho đạo binh.
– Ông mua đi, con trâu này nó khỏe mà! Một chàng trai người Thái ở Hạnh Sơn nài nỉ.
Biết trai bản là người Viềng Công. Lãnh Hoan hỏi
– Thế chú có biết ông Cầm Hánh đánh giặc Cờ Vàng không?
– Có chứ, là bác nhà mình mà.
– Thế à. Tớ sẽ đến bản chọn vài con, được không?
– Được chứ! Đi luôn thôi.
– Ừ. Đi nào!
Lãnh Hoan và hộ vệ theo chân chàng trai về bản Viềng Công xã Hạnh Sơn của tổng Phù Nham.

– Mình tên là Cầm Văn Dón. Mình sẽ đưa ông đi xem thành Viềng của bác Hánh bác Hiệp([9])
Thành Viềng Công bao quanh bản Viềng Công và nằm dọc bờ suối Thia. Tường đất cao và dầy, có ba cửa nhắm ra ba hướng. Cửa tây thông ra suối Nung Nghĩa Lộ, đi Tú Lệ, Lai Châu; cửa nam tiếp giáp suối Thia, đi đèo Ách; cửa tây bắc, ra núi Voi đi lên làng bản Khơ mú và vùng Mèo Trạm Táu. Quan sát bốn phía thành hào võ tướng Nguyễn Quang Hoan nhận ra rằng bản doanh của Cầm Hánh nằm giữa cánh đồng, từ lòng thành ra đường rồi đi đến rừng già khá xa, nếu quân Pháp chiếm được cánh đồng thì nội thành sẽ bị bao vây nhanh chóng.
– Chú Dón à. Tôi sẽ mua trâu nhà Dón, bây giờ muốn Dón đưa đi xem Núi Voi kia đã.
– Ừ được, được! Cầm Văn Dón nhanh nhẹn hào hứng.
Ba “lái trâu” ra cửa tây bắc làng Viềng, vượt suối Nậm Tăng vào chân núi. Cầm Văn Dón đưa tay chỉ chỉ.
– Đây này. Cứ ngược suối là lên Nghĩa Sơn của người Khơ Mú, rẽ tay trái theo lối mòn là lên Phúc Sơn lên Trạm Táu, nơi bản người Mèo. Còn quanh quanh chân núi có thung lũng bằng mà rộng, là bản người Thái mình.
– Thế, Trạm Táu đi được đến đâu?
– Đến châu Phù Yên của Sơn La, mà vượt đèo Dè về Thượng Bằng La rồi đi Yên Lập đấy.
Cầm Văn Dón vừa nói vừa đưa ngón tay vẽ vẽ trước mặt tỏ ra thông thạo đèo núi vùng này.
– Ta thử lên vùng người Khơ Mú xem họ có trâu bán không nào?
– Ừ, đi! Mà mình cứ đến nhà trưởng bản Lả Xanh khắc biết.
– Hay quá, hay quá, đi thôi!
Hôm đó, có khách đường xa, lại được người quen là Cầm Văn Dón đưa tới tận nhà, Trưởng bản Khơ mú Lả Xanh mổ con dê tiếp đón. Lãnh Hoan thấy quý mến cả Cầm Văn Dón lẫn Lả Xanh nên hẹn sẽ quay trở lại thăm bản Khơ Mú. Nhưng lãnh Hoan chưa thăm Nghĩa Sơn mà cho hộ vệ cùng đi lần trước đến đón Cầm Văn Dón và Lả Xanh về Trại quân binh gặp tướng quân Đề Kiều. Mười ngày sau đó, thung lũng Nậm Tộc, Noong Khoang của Nghĩa Sơn và thung lũng Núi Voi của Nghĩa An được đệ trình Thủ lĩnh Tướng Công xem xét xây dựng Bản doanh dự phòng của đạo quân binh Cần Vương Tây Bắc. Lả Xanh trở thành Đội binh chỉ huy đội bảo vệ căn cứ quân binh Nậm Tộc, Núi Voi([10]).
Từ ngày có tin “quan lớn” về ở “đồi Ông Voi” (Pu Chạng). Lại thấy quân binh hạ hai ba trại quanh đồi. Ngày rằm có hạ quan đến thắp hương tế trời trong lễ xên mường. Đồi “Ông Voi” không cắm cờ nhưng có chòi gác và nhà buộc ngựa. Thỉnh thoảng dân bản quanh chân đồi thấy các “quan” đi ngựa ra vào, lại thấy chánh tổng các tổng Sơn A, Phù Nham, Đại Lịch khăn xếp áo the, có người dắt ngựa qua vọng gác vào nhà dinh. Cuối đồi có hai con voi to khỏe, quản tượng chăm sóc rất cẩn thận.
Hôm nay đồi “Ông Voi” nhiều người đến, hầu hết mặc áo the, khăn xếp, ngựa đẹp. Quanh chòi gác, có thêm binh quân đeo súng kíp đi đi lại lại trông vừa oai nghiêm, vừa để mắt vào người qua lại. Nghiêm Thái Báo được theo hầu chánh tổng tổng Phù Nham lên đồi “Ông Voi”. Lẽ ra Báo không được vào trong vọng gác mà phải ngồi chờ bên ngoài, nhưng chánh tổng bảo lãnh, thế là quân binh đồng ý. Thái Báo vui lắm, theo sát chánh tổng vào sân bản doanh rồi tự tìm chỗ ngồi, chờ ông dự họp.
Thái Báo có họ là Nguyễn, quê dưới xuôi, đời ông nội không rõ có cơ sự thế nào nên bị làng phỉ nhổ, chạy lên Văn Chấn, đổi Nguyễn thành Nghiêm. Thái Báo mang họ Nghiêm từ cuối đời ông sang đời bố.
Nghiêm Thái Báo sinh đẻ ở đất Đòng Khê. Học hết ê lê măng te (lớp ba), Báo học thêm mấy tháng tiếng Tây, có chứng thực. Một người giới thiệu, rằng, Nghiêm Thái Báo học giỏi, thông minh, tinh xảo, nhanh nhẹn, chánh tổng tổng Phù Nham thích lắm. Thái Báo về làm phụ việc cho nhà chánh tổng từ đấy. Duyên may, chánh tổng cần người soạn bài viết; cần người đỡ đón lúc quan trên truy hỏi; cần người đi bên mình để tác động các quan bạn các hào lý vùng dân tộc thiểu số. Và cũng cần biết dùng khẩu súng ngắn “pạc hoạc” mà quân Cờ Vàng bỏ lại lúc tháo chạy. Bắn thì chưa nhất thiết, nhưng oai hơn các hào lý Văn Chấn là chắc chắn.Nghiêm Thái Báo trở thành thư ký, thành vệ sỹ, thành người xử lý mọi tình huống phải thành trái, trái thành phải của chánh tổng Đào Ngô Dụng. Thực lòng, dùng người giỏi hơn mình, Chánh Dụng không thích nhưng được việc. Biết thế nên Tổng Dụng luôn thủ sẵn món bài “cười nhạt” với Báo khi cần thiết.
Ba mươi phút ngồi chờ ông Chánh vào họp Thái Báo có đủ thời gian nhìn ngắm, dò chuyện dõng binh, và lập luận những điều tai nghe mắt thấy ở quanh khu vực Pu Chạng Mường Lò.
– Cụ Chánh ơi, họp gì mà lắm hào lý các tổng đến đây thế ạ? Thái Báo tò mò, vừa như công việc được cần biết, vừa tỏ lòng thân mật với ông chủ.
– À…! Vận động dân góp súng đạn, góp tiền nong, gạo thịt nuôi quân binh kháng chiến mà.
– Tổng ta có phải góp nhiều không cụ?
– Tùy tâm ấy mà, càng được nhiều thì càng tốt. Với lại lập các đội dân binh ở làng bản, nếu giặc Pháp vào thì đánh!
– Thế ý cụ, tổng Phù Nham ta làm thế nào?
– Ờ! Về bàn với Hội đồng hào lý cái đã. Chú xem đôn đốc giúp tôi.
– Vâng, vâng. Việc này dễ. Cụ cứ giao việc cho các lý trưởng, tạo bản đi. Cháu sẽ đốc đạo, Tổng ta phải nộp song trước Đại Lịch, Sơn A.
– Được thế thì hay. Tôi đang lo.
– Hì hì. Đã bảo cụ cứ để cháu lo giúp. Đấy. Mỗi lần lên Châu phủ cho cháu đi cùng, giúp cụ được bao nhiêu việc.
– Ừ! Từ nay tôi đi đâu, làm gì, chú sẽ được theo, để về còn giúp tôi thực hiện.
– Con cám ơn cụ Chánh tổng.
Chánh tổng Đào Ngô Dụng và trợ lý riêng Nghiêm Thái Báo vừa đi vừa trò chuyện. Thoáng cái đã qua suối Thia, về đến phủ Tổng.
Quả nhiên, mới chỉ một tuần, Sơn phòng Bản doanh Đạo binh đặt tại Tông Co đã nhận những xe ngựa hàng hóa đầu tiên của tổng Phù Nham. Ngoài thóc gạo, trâu bò, còn có năm khẩu súng săn. Đại diện Phù Nham là trợ việc chánh tổng Nghiêm Thái Báo được đích thân Đề đốc Hoàng Văn Thúy vỗ vai:
– Dân bản Phù Nham tốt quá. Chánh tổng tổng Phù Nham giỏi quá.
Đề đốc vừa dứt lời, Thái Báo ngần ngừ, rồi rắn rỏi đáp.
– Thưa quan, việc ấy cụ Chánh giao cho con lo đấy ạ!
– Thế à?
Đề đốc Kiều cười. Lại vỗ vai khen Thái Báo.
Thấy địa thế Đèo Ách chỉ hợp với phục kích đánh chặn, không thuận cho Trại doanh. Đề đốc Hoàng Văn Thúy cho rời trại binh vào trong đèo, nơi ấy là thung lũng của ba con núi: Khau É (Đèo Ách), Huổi Bu (Suối Bu) và Khau Phắt của Đồng Khê. Trại dã chiến Đồng Khê vừa có thể phản công, đẩy giặc ra khỏi Khau É, vừa chi viện Mường Lò nhanh nhất nếu quân Pháp từ Lai Châu đánh xuống. Khi cần, vượt núi Tè sang Thượng Bằng La đi Yên Lập hoặc ngược rừng Suối Bu lên vùng chè của người Mèo trên núi Suối Giàng. Thủ lĩnh Tướng công đồng ý, và nói thêm:
– Nhiều tù trưởng người dân tộc đã theo ta, mà ta thì chưa đáp lễ đồng bào làng bản, áy náy trong lòng.
– Hiệp thống. Điều đó cũng là đúng thôi. Làm sao cho dân bản và các tù trưởng hiểu việc giúp vua cứu nguy đất nước mà tự lập các đội dân binh khắp các địa bàn Tây Bắc, Pháp đến, tự đánh Pháp. Âu cũng là báo đáp đồng bào rồi.
Nghe Đề đốc Hoàng Văn Thúy phân giải. Hiệp thống Quân vụ trầm ngâm:
– Thẻ tất, ta nhắc thủ túc soạn một bức thư tỏ lời cảm tạ, được chăng?
– Vâng. Ý Hiệp thống thế là hay. Nhưng nên lựa chọn ngày đề tựa.
– Nghĩa là…
– Vâng. Đại thần Hiệp thống. Nên nhằm ngày Đức Vua ban chiếu Cần Vương, tựa như lời Triều đình chủ chiến ủy thác Đại thần thúc giục toàn dân vậy.
Dừng lại giây lát như để giúp Thủ lĩnh giải thoát mối băn khoăn e lẽ phạm thượng. Đề đốc nói tiếp.
– Và ngài gửi gắm lòng mình vào cuối lời thư đó.
Nguyễn Quang Bích hiểu ngay ý của Đề đốc, vừa tránh lẽ chạm phạm đến Đức Vua, vừa bộc lộ thông tâm của mình trước đồng bào, mà tế nhị hơn cả, là mượn “thi cảm Ngư Phong” để bộc bạch.
Thủ túc Trần Ngọc Dư soạn một bức thư ngắn, lời lẽ nhân nhớ hai năm ngày Đức Vua Hàm Nghi ban chiếu Cần Vương (tháng 8 Ất Dậu – Đinh Hợi). Cuối thư là lời cảm tác của Hiệp thống Nguyễn Quang Bích Ngư Phong. Thi cảm, tưởng như không liên quan gì đến kháng chiến. Văn dẫn như sau:
Được dân Mèo tiếp đón, về nhà cảm tác.
Trên núi cao muôn trượng có một ngôi nhà rộng
Mọi người vui vẻ tụ họp, sinh sống yên ổn
Hai con suối uốn khúc chảy ngay lối cửa vào
Rặng núi lô nhô dòm ra trước mặt
Không chuộng hoa văn, còn giữ lề thói chất phác xưa
Làm hay nghỉ không cần biết, coi thường đói rét
Nghe nói có ông quan đến, họ (dân Mèo) trực sẵn để đón tiếp
Đến đây, ông quan muốn trào nước mắt!([11])
Lời ngỏ của Hiệp thống Thủ lĩnh đã được gửi đi. Đề Kiều lại cùng thủ túc Dư mở một cuộc họp nhỏ tại sân bản doanh Pu Chạng. Các bản Thái gần đó cử dân chúng đến giao tiếp. Đây là lần đầu tiên Đại thần Quân vụ gặp gỡ trực tiếp với các lớp tuổi bản mường Nghĩa Lộ. Mà cũng là lần đầu tiên người già, trẻ nhỏ, và thanh niên trai tráng địa phương được nhìn tận mắt vị quan Đại thần Triều đình chủ chiến với dung nhan Ngài vừa quắc thước, vừa hiền hậu, vừa như kiên định ý chí, lại như hào hiệp, khoan thai. Tạo bản Tông Co đưa đến một đội gái xòe, trung niên có, thanh nữ có; ai ai cũng xinh tươi, váy áo dịu dàng uyển chuyển. Tiếng nhạc rung rung, tiếng khèn bè khàn khàn dìu dập. Bỗng chốc, bốn năm cô gái Thái áo cỏn trắng bước đến trao vào tay Hiệp thống Thủ lĩnh và các tướng quân tấm khăn piêu năm cút. Ngư Phong Tướng công nhận khăn mà lòng tự bạch: “Nước Nam ta có nền văn hóa, Tổ tiên giữ được, con cháu nỡ để người Tây giật cướp đi sao?”
Đêm ấy. Đêm xòe Mường Lò, vui tưởng như trời chóng sáng.
Tướng Muniezơ công sứ Bắc Kỳ bí mật đi tầu thủy ngược sông Hồng rồi đột ngột xuất hiện ở thành phủ Trấn Yên. Chỉ có các quan tướng Pháp có mặt: Tướng Bricdlin thống quản miền tây, tướng Giamông tổng chỉ huy mặt trận sông Thao, đại tá Jemmolanh tham mưu trưởng đạo quân miền Tây và đại tá Borítx, đại tá Mốtxiông. Duy nhất một người Việt được phép đi bên công sứ, đó là đại úy do thám Trương Đen.
– Ngài Brícdlin, ngài Giamông. Tôi có lời ca ngợi các ngài về việc đánh bật được quân phiến loạn bản sứ khỏi tất cả Cẩm Khê, Hạ Hòa, và đã bình định xong phủ Trấn Yên. Thời gian nữa thôi, Công sứ Bắc Kỳ sẽ cho lập thành sứ Bái Dương thuộc phủ Trấn Yên, tiến đến việc lập Toà công sứ miền Tây và hệ thống đồn bốt tại làng An Bái phủ Trấn Yên này. Các ngài vừa lo việc lớn, vừa phải lo quét sạch quân giặc cỏ phiến loạn. Người Pháp sẽ thống lĩnh toàn bộ vùng đất Tây Bắc trong vòng hai ba năm tới. Hy vọng các ngài không làm cho nhà nước Đại Pháp phải hổ danh ở Đông Dương.
Nói một mạch, công sứ Muniezơ vung tay chào kiểu nhà binh rồi bắt tay các tướng tá trước khi bước xuống tầu thủy rời khỏi Bến Lâu.
Tướng Giamông đến thị sát làng An Bái ngay bên miếu Ngọc Am, vừa đi vừa hỏi Bo rítx.
– Đại tá. Bao giờ ngài kiểm soát Tổng Đại Lịch và mở được cửa vào Mường Lò?
– Thưa ngài trong vòng hai tháng. Borítx đáp.
Giamông quay sang Trương Đen
– Đại úy, ngài đã sẵn sàng thông tin cho đại tá Borítx rồi chứ?
– Dạ. Tôi đã sẵn sàng.
– Tốt. Vậy thì tôi ra hạn cho các ngài không quá hai tháng phải có mặt tại Nghĩa Lộ, thủ phủ của Mường Lò!
Giamông nói như ra lệnh rồi giơ tay ra chào. Đội vệ sỹ đỡ viên chỉ huy mặt trận sông Hồng lên ngựa về dinh tư lệnh đặt trong trại binh Tuần Quán.
Lời tướng Brícdlin và tướng Giamông như đinh đóng vào tâm trí chiến trận của Giamông. Không đắn đo nhiều, đại tá Giamông quyết định thực hiện chiến dịch đánh sâu vào Văn Chấn. Việc đầu tiên là ra lệnh cho lính về bắt cóc người nhà của Tổng khảm Trịnh Bá Đanh dựa theo mưu kế của trưởng phòng do thám Trương Đen. Hai ngày sau, Trịnh Bá Hoàn, anh cùng cha khác mẹ của Trịnh Bá Đanh đã ở tuổi lên lão sức yếu, bị quân Pháp bắt đưa về đội Tuần Quán.
Nhóm thám báo “Chuột rừng” được đổi tên thành Nhóm T90. Nghĩa là nhiệm vụ của nhóm phải hoàn thành trước 1890, năm mà tướng Muniezơ Công sứ Bắc Kỳ ấn định khai trương nhà Công sứ Pháp tại làng An Bái, cũng có nghĩa toàn bộ phủ Trấn Yên và Châu Văn Chấn đã nằm trong sự kiểm soát của Công sứ Pháp.
Bây giờ thì nhóm T90 đang chụm đầu vạch kế hoạch tiến công quân binh của Nguyễn Quang Bích. Đại úy Trương Đen đến dự.
– Các ngài có biết không? Trương Đen hùng hồn. Tướng Pháp Brích đlin nói rằng. Quân phiến loạn kia không phải là giặc cỏ như ta nghĩ nữa; mà là một đạo quân thiện chiến theo kiểu đánh du kích của Triều đình chủ chiến. Họ đang dương cờ Cần Vương bài Tây. Ngừng một lát Trương Đen lại hùng hồn. Mà Nguyễn Quang Bích cũng không còn là Tuần phủ dân sự, ông ta là quan Đại thần quân vụ Bắc Kỳ chỉ đứng sau Tôn Thất Thuyết. Phòng Do thám của ta phải nhận diện cho đúng đối phương mà kiến xuất với người Pháp.
Đám đánh thuê dưới quyền ngồi im phắc. Quỵch, Quý đất, Bình Trâu, Phạm Duy nhìn nhau, miệng há hốc.
– Bây giờ Nguyễn Quang Bích và bộ sậu của ông ta đang ở đâu? Ai, ai trả lời cho Trương Đen này biết?
Quỵch, Bình trâu, Quý đất… đều im bặt.
Trương Đen lại nhắc.
– Hả? Có ai biết không. Tôi nói đây này, kẻ cầm đầu đạo quân phiến loạn Triều đình là Nguyễn Quang Bích, đang ở Mường Lò. Địa bàn hoạt động của ông ta mang mật danh Rừng Già đã trải rộng khắp Tây Bắc mà T90 của Phòng Nhì (phòng do thám) chỉ loanh quanh trên đất thành phủ chực ăn sẵn. Các ngài có thấy xấu hổ không?
Đại úy Đen như trút cơn bực tức cuống đầu thuộc hạ.
Bình trâu rụt rè.
– Thưa đại úy. Nhưng quân số của đội mỏng quá không kham nổi.
Trương Đen trợn mắt.
– Nổi. Ngay ngày mai T90 của các ông chia làm hai tốp, xâm vào tổng Đại Lịch, vào tận Mường Lò, nắm chắc tin tức báo về. Còn khu vực phủ thành Trấn Yên, để đấy, sẽ có người lo.
– Vâng ạ, vâng ạ. Cám ơn ngài Cai Đen.
Trương Đen nói và buộc đám quân do thám lao ngay vào cuộc. Khác những lần trước, lần này gọi là chia nhóm, nhưng mỗi nhóm chỉ có một người. Lê Bình với biệt danh là Bình trâu điên, theo đường chính vào Đại Lịch. Còn Nguyễn Quý, gọi là Quý đất sang đò bến Lâu, giả danh người mua thuốc nam, đi thẳng vào Mường Hồng nơi đặt phủ tổng, tổng Lương Ca. Với cách giả danh đơn độc như thế, ít ai nghĩ những người đi tìm người nhà, đi tìm thuốc lá rừng, có lúc vào chợ mua hàng, hay xem hội vãn cảnh… lại là những tên thám báo của Phòng nhì thuộc Ban tham mưu miền Tây quân đội Pháp ở Bác Kỳ. Phòng nhì được phát triển từ phòng do thám. Ngoài nhiệm vụ chính là do thám, thu thập tin tức, phòng nhì còn được phép bắt cóc, tra tấn, thủ tiêu đối tượng, tung tin giả, cần thiết thì vu khống, miễn sao nắm được tin tức đúng nhất nhanh nhất và bí mật nhất. Phòng nhì do đại úy Trương Đen phụ trách, trên Đen, vẫn là Jemmolanh tham mưu trưởng miền Tây sỹ quan tinh nhuệ, luôn coi thường Borítx, viên đại tá trận chiến có tiếng.
Borítx trình lên Ban tham mưu miền Tây kế hoạch đổ quân bộ với số lượng lớn, quét sạch quân nghĩa binh Cần Vương ở tổng phủ Đại Lịch, rồi tiến thằng vào Nghĩa Lộ.
Jemmolanh:
– Ngài Borítx thân mến. Ngài vẫn còn nhớ bài học Ngòi Vần và bài học Nước mát đấy chứ?
– Tôi nghĩ đó chỉ là đốm lửa nhỏ chưa kịp dội nước đấy thôi.
– Đúng. Nhưng khi đốm lửa ấy đã bùng lên thành một mảng nương, rồi một đồi rừng. Ngài sẽ dập bằng cách nào?
Borítx im lặng. Miệng cắn móng tay, không nói. Jemmolanh được đà:
– Ngài hãy dùng chiến thuật, tinh nhuệ và khôn ngoan. Ngài Borítx. Chúc ngài đại tá thắng lợi.
Đại tá Jemmolanh nói rồi, vẫy tay viên sỹ quan cận vệ. Cả hai bước ra cửa trại binh Tuần Quán.
Không muốn nghe theo lời khuyên của tham mưu trưởng Jemmolanh, nhưng cũng không thể làm khác. Borítx lên kế hoạch tiến đánh Đại Lịch theo kế bày đặt của Trưởng phòng nhì – đại úy Trương Đen. Đồng thời chuẩn bị lực lượng dự trữ nếu thời cơ đến, Jem sẽ đích thân chỉ huy đại binh đánh cấp tập vào hai điểm mấu chốt nhất đó là Đại Lịch và Đèo Ách.
Đốc binh Lê Văn Nghìn chắn giữ cửa ải Vần Dọc thấy quân thám sát về báo tin Pháp đang tập trung quân lính rất đông ở cả hai khu Bến Lâu và đầm Vân Hội. Lần này có cả Âu Phi và súng máy. Lê Văn Nghìn cho liên lạc vào Mường Lò thỉnh thị Vương Văn Doãn. Doãn đang cùng Thủ lĩnh bàn thảo. Tướng công bất ngờ hỏi.
– Lê Văn Nghìn là tướng giỏi, nhưng quân Pháp đông và có súng lớn, liệu đốc binh có nao núng không?
Vương Văn Doãn tự tin đáp.
– Liên lạc nói, Tướng quân bình thản lắm. Nhưng Đốc binh xin được điều binh hỗ trợ.
Trầm ngâm một lát. Thủ lĩnh sai hộ vệ lấy một tên nỏ, bẻ gập đôi rồi giao cho Vương Văn Doãn
– Tướng quân gửi mũi tên này cho Đốc binh, nói rằng Hiệp thống nhờ cậy.
Vương Văn Doãn cho gọi Trịnh Bá Đanh đến:
– Thám sát của ta cho biết, quân Pháp đang tập trung quân ở cả hai cánh của Vần Dọc, súng đạn lớn, lại do viên tướng Borítx chỉ huy. Hẳn sẽ là chúng có mưu đồ thôn tính gọn tổng phủ Đại Lịch rồi lập doanh trại ở đấy. Tướng quân cùng với Đốc binh chặn giặc. Nhược bằng không thành thì cho quân tản lên rừng, còn các tướng vờ rút chạy về đầm Rôm Đại Lịch, tướng Pháp tất đuổi theo, mai phục ta đánh gập lại. Đây cũng là tương kế tựu kế của Tướng công quân vụ.
Lê Văn Nghìn, Trịnh Bá Đanh bước ra. Hai tướng bàn định rồi cho tốp quân bố phục tại đèo Din, tốp khác tại đèo Cuồng. Đèo Cuồng đã sát với Gò Lim thành phủ tổng Đại Lịch. Nếu quân Pháp lọt được vào đây bằng mọi cách phải “điệu hổ ly sơn”, kéo chúng lạc hướng về chằm đầm Rôm để bao vây quây đánh. Việc đánh giặc trên vùng đầm lầy thì Tổng Khảm đã nhiều kinh nghiệm của ngày lưu trụ đồn Đầm Mực Cẩm Khê, nên rất tự tin. Theo đề nghị của Tổng Khảm, phó Đề đốc Vương Văn Doãn cho Lãnh Năm chặn đường đèo Bẳn, Lãnh Tế chặn đường Ngòi Thé, bảo vệ trại doanh Gò Lim và đồn Lũng Gà, đốc binh Hà Đình Đặng và Hoàng Đình khép kín  khóa đuôi quân giặc để Tổng Khảm và Lê Văn Nghìn đánh gập lại.
Phó Đề đốc Vương Văn Doãn và lãnh binh Phạm Đình Khải chuẩn bị phương án “đánh gập” mà Thủ lĩnh Tướng công đã mật chỉ.
Vương Văn Doãn nhận được mẩu giấy của mật binh nằm vùng thành phủ Trấn Yên Đặng Lanh chuyển đến từ người nhà hào lý Trần Đình lên Đại Lịch “ăn giỗ”. Mẩu giấy viết: “Đoàn đi đón dâu có đến trăm người, đem theo nhiều gánh nặng, do ông quan lai Tây làm trưởng đoàn”. Cuối thư lại dặn: đốt thật nhiều pháo để cả làng ùa ra…
Hoàng Đình, đội binh Thanh Bồng mật dịch, mặt bỗng tái nhợt quay sang Vương Văn Doãn.
– Quân Pháp đông lắm có tới trăm tên, nhiều súng lớn, do tướng Tây chỉ huy. Cần phải đánh giáp lá cà.
Vương Văn Doãn bình thản.
– Đó cũng là kế ta. Lõng gà đã được quăng dò![12]
Nói rồi, Vương Văn Doãn Đề đốc vỗ vai các nghĩa binh, cười cười, nói như cổ vũ:
– Nào, các tướng quân, nghĩa sỹ ta sẽ đánh thắng trận càn này, người Pháp phải thua, tiếng vang còn mãi đến đời sau được chứ?
Các tướng binh đứng quanh hô vang.
– Vâng lệnh Phó Đề đốc. Vâng lệnh Tướng quân!
Cùng một lúc Hiệp thống Thủ lĩnh nhận được hai tin vui do Thủ túc đưa đến.
– Thưa Đại thần Hiệp thống. Phan Đình Phùng tiên sinh vừa dấy binh ở Hương Khê Hà Tĩnh, nghĩa sỹ nườm nượp kéo cờ về hưởng ứng, Đại thần Tôn Thất thuyết từ Côn Minh viết thư ca ngợi. Tướng quân nhắn tin, nếu có vũ khí thì gửi vào hỗ trợ Hương Khê chiến đấu lâu dài.
Nguyễn Quang Bích vuốt vuốt chòm râu thưa.
– Vậy là sau Tống Duy Tân, Hà Văn Mao, Ba Vành, dấy binh Ba Đình ở xứ Thanh, Nguyễn Cao ở Bình Định, giờ đến Nghệ Tĩnh. Sớm muộn sẽ là cả miền Trung nổi lên đánh Pháp. Ta có ý đón Phan tiên sinh ra Nghĩa Lộ để bàn định việc ủy thác.
Trần Ngọc Dư thưa.
– Đại thần Hiệp thống cứ gửi vũ khí kèm theo thư mời đến Phan Đình Phùng. Trộm nghĩ Tiên sinh Phan tiến sỹ sẽ nhận lời mà sắp xếp thì giờ ra Mường Lò.
Thủ túc lại chuyển tin quân Lê Văn Nghìn đánh chặn bọn giặc Pháp ở Tuy Lộc khiến chúng phải rút lui bằng đường thủy.
– Lê Văn Nghìn và ai chỉ huy mà thắng trận Tuy Lộc?
– Dạ. Đốc binh Nghìn cho dựng đồn giả, quân thủy tưởng có đại binh nên đánh úp giữa đêm khuya, bị đội dân binh Nguyễn Quang phóng hỏa đốt cháy trại, bọn giặc chết bỏng năm sáu chục thằng. Thừa cơ quân và dân của Quang rút vào làng Bái Dương.
– Thật hay. Quân binh biết dựa vào dân binh mà đánh giặc. Ấy mới cao kiến. Thủ túc, ta muốn nhân dịp này mục sở thị phủ thành Trấn Yên và úy đạo quân binh dân binh Bái Dương.
– Thủ lĩnh. Thế giặc đang mạnh, mưu đồ theo sát, bao vây, cất vó Đạo binh ta vẫn đang tiếp diễn. Ngài nên ẩn túc nơi bản doanh mà điều hành từ xa, cũng đã là phải lẽ.
Không kinh lý phủ Trấn Yên, Thủ lĩnh Tướng công đưa theo võ tướng Quang Hoan, thủ túc Trần Ngọc Dư, đóng giả dân bản vào sâu thung lũng Nậm Tộc xem xét địa hình nơi sẽ đặt bản doanh dự phòng.
Borítx giao cho thiếu tá Pát xăng chỉ huy mũi thọc sâu vào Đại Lịch với ý đồ chọc thủng mọi phòng tuyến, ém quân, làm nội ứng cho đại binh tiến vào.
– Cho phép ngài chọn những lính chiến tinh nhuệ nhất. Borítx cười nói thêm – những lính chiến không biết đến sát thương trên đường đi.
Pátxăng:
– Thưa đại tá. Đội binh Pátxăng này sẽ đi từ hồng tâm mà thúc ra, sẽ đón ngài đại tá giữa phủ tổng Đại Lịch đúng ngày hẹn.
– Tốt, tốt!
Borítx lại gọi Gobe
– Ngài Đại úy, giao cho ngài đội quân đánh chiếm Hưng Thịnh. Nếu có cơ hội, vượt đèo… tiếp ứng thiếu tá Pátxăng. Được chứ?
Gobe:
– Thưa đại tá. Việc đó dễ dàng. Tôi và ngài Pát sẽ mở rượu sâm panh đón đại tá ngay tại Tổng phủ. Gobe huyênh hoang nói.
Borítx vỗ vai.
– Hay lắm. Borítx này có tả có hữu. Còn ta ư? Trầm ngâm giây lát. Bo gật gật. Ta và trung tá Ben sẽ thúc đại quân tổng hợp, đạp tung cánh cổng Đại Lịch mà ung dung phi ngựa chiến vào Mường Lò. Ha ha!
Viên sỹ quan Pháp được mệnh danh là “Tổng chỉ huy chiến dịch truy quét quân phiến loạn Tây Bắc” Borítx, nói, và làm ngay.
Rạng sáng một ngày tháng 10 năm Đinh Hợi đại tá Borítx ra lệnh tấn công lần thứ ba đánh chiếm Tổng phủ Đại Lịch, mở cửa vào Nghĩa Lộ.
Gobe cao ngạo phốc lên ngựa đen, dẫn theo năm chục lính khố xanh, thẳng đường Bến Lâu tiến vào Hưng Thịnh. Đội quân nón dấu, quần cộc túi bốn phía, kẹp súng bờ ra nô, súng hỏa mai ém vào làng Kháo chờ lệnh. Trời tang tảng sáng.
Chú thích:
[1] Trần Đình Thành Thổ hào người làng Vần, Lãnh binh Cần Vương, từng được vua Hàm Nghi thụ phong “thống lĩnh Thao Hà thủy bộ tướng quân” dưới quyền Hiệp thống Nguyễn Quang Bích. Giai thoại kể: Ông được Vương Văn Doãn tôn làm “Huynh thứ” (anh thứ) trong lần giao kết anh em. Trần Đình Thành có em gái là Trần Thị Gấm kết quyên với Đốc binh Hà Văn Đặng (Đại Lịch). Cháu đích tôn của cụ Trần Đình Thành là Trần Đình Khánh – Cựu Chánh tổng Lương Ca. Sau Cách mạng Tháng Tám, ông Khánh là đại biểu Quốc hội khóa I, Chủ tịch Ủy ban hành chính Kháng chiến tỉnh Yên Bái (theo Nguyễn Liễn. Bảo tàng Yên Bái).
[2] Phạm Đình Khải (tức Lãnh Tế), Phạm Đình Thọ (Lãnh Năm) đều là người Tày xã Đại Lịch, Văn Chấn. Hậu duệ hai ông nay ở Đại Lịch, nhiều người là sỹ quan cấp tá trong ngành công an.
[3] “Dời chỗ ở, đến Thượng Bằng La” (Thơ Nguyễn Quang Bích)
[4] Sách: Đình Nguyên Hoàng Giáp Ngư Phong Nguyễn Quang Bích. NXB Văn học 2013. Tr119.
[5] Kư Nâu, có tên tuổi trong lịch sử chống Pháp TK XIX của tỉnh Yên Bái, tác giả chưa có điều kiện tìm gặp con cháu, nhưng chắc chắn hậu duệ có ở các xã Nậm Khắt, Nậm Lành, Nậm Mười thuộc huyện Văn Chấn ngày nay.
[6] Giai thoại Ngành 4 họ Hà Đình xã Đại Lịch do nghệ nhân Phạm thị Thức 84 tuổi (1980) kể: Hà Văn Đặng người Tày làng Khe Liền, đã quen biết cô gái làng Vần tên là Trần Thị Gấm. Trong một lần đi hội, gặp bạn gái, Hà Văn Đặng ra lời hát đối: Binh đao, giặc giã. Chẳng hay/Đường xa, ngựa lạc. Lối này ai đi? (Có ý hỏi, đã có ai đến với nàng?). Trần Thị Gấm trả lời vừa khéo léo vừa tránh trực tiếp: Áo anh rụng đỏ hoa gì/ Binh đao giặc giã, mà đi mấy người? (Có cần thêm người giúp sức không?). Phong trào Cần Vương Tây Bắc tan rã, đốc binh Hà Văn Đặng (nhân vật Hà Đình Đặng) về làng, bà Trần Thị Gấm trở thành vợ ông, đốc binh Hà Văn Đặng chính là Cụ nội của tác giả – Nhà văn Hà lâm Kỳ.
[7] Đầu TK XIX. Pháp đặt Châu Văn Chấn thuộc phủ Quy Hóa. Châu Văn Chấn có 10 sách: Đại Lịch, Thượng Bằng La, Nghĩa Lộ, Phù Nham, Tú Lệ, Sơn A, Thạch Lương…
[8] Trà Hải dịch: Ngàn trùng núi ngất cao/ Suối chảy lượn vòng bao/ Chật lòng khe đá dựng/ Mưa xuống nước dâng trào/ Ai trông đều kinh hãi/ Ngất trời thác như lao/ Chốc lát mưa chợt tạnh/ Nước rút, núi dềnh cao.
[9] Cầm Hánh, tạo bản Viềng Công xã Hạnh Sơn văn Chấn – Thủ lĩnh cuộc chiến chống giặc Cờ Vàng ở Văn Chấn Nghĩa Lộ (với sự tham gia của các em: Cầm Hiệp, Cầm Tán) những năm giữa TK XIX. Nay có đền thờ tại thị xã Nghĩa Lộ.
[10] Theo lời Nghệ nhân ưu tú Lò Văn Biến thị xã Nghĩa Lộ (2015)
[11] Sách: Ngư phong Nguyễn Quang Bích. Chủ biên GS Đinh Xuân Lâm. NXB Văn học. 2013.  Trang 197. Nguyên chú của tác giả Nguyễn Quang Bích: Núi này rất cao ở Châu Phù Yên. Viên tổng quan ở đây họ Mã, nghe tin tôi tới, ông đem dân chúng ra đón tận ngoài trăm dặm, đưa về tới nhà, tình cảm rất ân cần. (Sách trên. Trang 197).
[12] Người Tày có nghệ thuật bắt gà rừng bằng cách đan hàng chục tay dò bằng dây dù rồi cắm quanh lối gà hay đi; gà thấy thóc rơi, chui đầu sang ăn, bị vòng dò thắt lại.
Giữa năm Hợi (Đinh Hợi 1887), lẽ ra đạo binh Cần Vương vùng Tây Bắc phải được tĩnh tại để củng cố lực lượng. Nhưng người Pháp tính kế áp dụng chiêu trò mới với dân An Nam. Từ Hà Tĩnh lãnh tụ Nghĩa sỹ Phan Đình Phùng nhắn tin đến Đại thần Hiệp thống, đại ý: Nay Phụ chính ở xa (Tôn Thất Thuyết đang bị Pháp cô lập ở Vân Nam). Đức Vua vẫn được các phụ tử bảo đảm nơi Sơn phòng. Thương cho Nguyễn Cao minh chủ Bình Định đã bị người Pháp xử chém, ông chết như một người anh hùng vậy. Toàn quyền Đlam nét xăng đang dùng mưu độc chia để trị”, Hoàng Giáp Tướng công hãy cảnh giác mọi bề!
Một người dân đi làm đồng, vừa ra tới ruộng thì thấy lố nhố người lạ, ăn mặc kỳ quái liền chạy về hô hoán. Lý trưởng làng Kháo cho là có cướp liền nổi trống mõ báo động. Tất cả các nhà trống mõ inh om, những đõ ong mật được bê ra chặn lối đi, nhà nào có chó thả vung ra đường sủa cắn loạn xạ. Bọn lính thấy bị lộ, những con chó của người dân tộc to cao như con dê đực chồm chổ xô vào người lạ, bầy ong cứ túm tụm vào đám lính mà đốt. Chỉ huy đội càn, đại úy Go be vừa vuỗi ong bám vào áo, vào mặt, vừa hét lính chạy ngược đường. Lính càng chạy đàn chó nhà và ong rừng càng đuổi. Đội quân nghĩa sỹ của Lê Văn Nghìn chạy tắt đường đồi chặn đánh. Bọn khố xanh la hét. Bỗng có tiếng kêu to.
– Đại úy Go be, ngài chùm chiếc khăn này vào người, mau lên ngựa!
Viên sỹ quan Pháp tay rũ rũ những con ong bám dai như đỉa trên cổ áo, tay kia khoác chiếc khăn mà tên lính vừa chùm cho, cứ thế leo lên mình con hắc mã (ngựa đen). Tiếng giục giã của tên lính hộ vệ lọt vào tai Lê Văn Nghìn. Lập tức đốc Nghìn xô tới. Một mũi giáo phóng trúng vai tên chỉ huy người Pháp. Đại úy Go be ngã nhào xuống đất lùng nhùng trong chiếc khăn dù tây to tướng. Đại úy Go be bị tướng quân Lê Văn Nghìn và nghĩa binh Cần Vương bắt sống.
Trên tuyến Vần Dọc, thiếu tá Pátxăng chỉ huy một đội kỵ quân tinh xảo hầu hết là khố đỏ. Pátxăng giơ cao khẩu côn bát ngạo mạn tuyên bố:
– Chiến binh. Bỏ qua đao kiếm quân triều đình phiến loạn mà đánh từ trong ra ngoài. Đưa tất cả bọn chúng vào lưới Giamông!
Pátxăng tuyên bố rồi vỗ ngựa, hung hăng dẫn đầu đội kỵ binh, vượt đèo Giang, nhằm thẳng hướng làng Vần, làng Dọc mà dong cương bất chấp dõng binh canh điếm báo động.
Vương Văn Doãn, Phạm Đình Tế, Trịnh Bá Đanh đã đoán trước, rất có thể tướng Pháp sẽ thúc một đội quân khố đỏ, khố xanh thọc sâu nên cho lãnh Năm, đốc Đặng và đội Hoàng Đình, mật phục chân đèo Din. Tổng Khảm và lãnh Tế phục chân đèo Cuồng. Nhưng không thể ngờ, đám Tây thọc sâu đó lại là đội lính kỵ binh, có đến hai chục đầu ngựa.
Đội ngựa chiến đóng hàm thiếc thật nhanh, Pát xăng vung súng hô tiến, lập tức đám ngựa hý vang. Vì là ngựa cướp được của dân bản, chưa quen với chiến trận nên nhiều con cứ quay tròn. Nhưng rồi cũng vẫn đua nhau phi ngược dốc. Bo rítx biết đội thọc sâu của Pét xăng đã vượt núi , liền ra lệnh cho cả tiểu đoàn quân hỗn hợp: lê dương, khố đỏ, khố xanh, trương tuần… kéo theo sau hộ tống. Đại tá Bo rítx, trung tá Ben, thiếu tá Bre ăng ghe, đại úy Béc beng ghe… đủ mặt quan một, quan hai, quan ba chễm chệ lưng ngựa chiến hung hăng ngược đèo Giang tiến vào Vần. Lá cờ ba sọc của Tây trên lưng ngựa bay phần phật. Dân bản vừa sợ vừa không hiểu vì sao quân Tây lại kéo hàng đoàn dọc đường súng đạn nghênh ngang mà không bị ai đánh đuổi?
Đoàn binh mã đang hăng chiến thì bỗng trời tối sầm. Một trận mưa như nước đổ trút xuống. Khe Nước Mát chốc lát lũ ống đổ dâng ngập cả những cồ đá làn to bằng cái bịch.
Pátxăng:
– Trời hại ta rồi.
Một thông ngôn người Việt:
– Thưa ngài. Lũ quét to thế những chỉ một lúc là tan thôi, không nên sang suối lúc này.
Đám ngựa hí vang, chân cào đạp tung đất đường.
Phía bên kia, mấy người dân Đại Lịch đi ra Vần nhìn thấy đám người ngựa, lại có cờ Tây nên hiểu ngay là giặc Pháp càn vào Đại Lịch nhưng bị mắc kẹt lũ ống, vội vàng chạy về báo tin. Điếm canh Thanh Bồng nổi mõ, tù và thổi inh ỏi. Lãnh Năm, đ0ốc Đặng, đội Đình lập tức sắp trận dưới chân đèo Din. Tổng Khảm, lãnh Tế chuẩn bị ra đèo Cuồng.
Phút gấp bách, Vương Văn Doãn Phó Đề đốc điều chỉnh kế mai phục lập mưu nhử địch vào thung lũng cụt để quây đánh, tránh xa nơi đồn phủ.
Tổng Khảm Trịnh Bá Đanh cho làm một hình nộm bằng rọ nứa, to cao, đội mũ cánh chuồn, mặc áo Triều phục bằng giấy, tay cầm kiếm dài chỉ ra phía trước. Hình nộm  được đưa đến phía sau bãi chằm rôm, đặt bên bụi cây. Trịnh Bá Đanh, Hà Đình Đặng trực tiếp chỉ huy. Quân nghĩa binh dàn hai bên cánh đầm chằm, phục sẵn. Lãnh Năm Phạm Đình Thọ và đội binh Hoàng Đình sẽ chặn đánh ở suối Nước Mát rồi rút chạy nhử giặc vào bãi chằm. Vương Văn Doãn và Phạm Đình Tế có một đại đội dự phòng, chủ yếu là dân binh giỏi dùng dao găm, mã tấu và võ dân tộc, Đội binh dự phòng luôn được luyện tập phương pháp võ binh, giáp lá cà của người dân tộc thiểu số. Lãnh Tế quay sang nói với Phó Đề đốc: Bãi chằm này, mười năm trước, người Đại Lịch đã tiêu diệt cả trăm quân Cờ Vàng.
Lũ ống kéo dài đến ba mươi phút rồi ngớt dần. Pát xăng vung súng ngắn hét.
– Tiến. Binh mã, tiến vào phủ tổng!
Lập tức lũ ngựa hý dậy trời. Phạm Duy, đại úy người Việt, phó đội quân binh mã, một lính chiến vừa có tài, vừa tục tằn và háu gái, chửi vung.
– Đeo mẹ thằng trời, lẽ ra tao phải được chơi gái Đại Lịch trước lúc mưa to.
Tên hầu vệ đi lên:
– Kỵ mã ta như gió bão, quân phiến loạn dạt lên rừng. Đêm nay ngài đại úy tha hồ mà “chén” gái đẹp.
– Thằng này nói đúng đấy. Bắt được đứa xinh nhớ biếu anh mày trước, nghe không!
Tên lính kỵ mã:
– Dạ! Vâng, vâng. Sẽ dâng ngài, dâng ngài đại úy!
Nói rồi Phạm Duy giơ súng thúc quân lính.
– Tiến mau. Trước mặt kia là đèo Din, sang đèo là phủ Tổng Đại Lịch. Tiến mau.
Phạm Duy phi con mã nâu lên trước, vượt cả đội trưởng Pátxăng.
Chân đèo Din ngổn ngang  cây xanh.
Phạm Duy thốt lên:
– Đúng là trời hại, mưa bão cây đổ chắn đường ta chinh chiến.
Hai ba tên lính khố xanh chột dạ vội châu lại thưa.
– Thưa đại úy Pát. Thưa đại úy Duy. Không phải do mưa gió mà có dấu dao, dấu dìu ngả đổ chặn đường đấy ạ.
Phạm Duy hung hăng nhảy xuống ngựa bước lại hai cây xanh, lá cành um tùm, chặn ngang đường. Duy vung tay quát lớn.
– Lính lệ. Chặt cành cây, mau!
Vừa lúc đám lính túm tụm, đội kỵ binh đứng chực chờ dọn đường thì một tiếng thét lớn.
– Bọn giặc cướp kia, quân binh Cần Vương đây.
Tức thì mấy khẩu kíp nhả đạn tới tấp vào đám lính. Rồi đá cục, mẩu cây từ trên sườn đồi ném thẳng vào lũ giặc.
Phạm Duy nhảy lên ngựa quát.
– Nã đạn lên ven đồi. Rồi lại giục lính. Dọn mau, dọn cây mau lên.
Phạm Duy phát hiện một bóng lính Cần Vương nhảy xô xuống chặn đường liền giơ khẩu mooc chi ê nhả đạn. Nhưng rủi cho Duy, viên đạn không trúng đối phương mà lại đúng phiến đá đen, dựng như tường thành đầu đạn bật lại trúng mắt đại úy chỉ huy Pátxăng.
– Ối! Pátxăng ôm mặt.
Hai tên hầu cận đỡ quan Pháp lùi ra phía sau băng bó. Phạm Duy điên khùng quát tháo, quất ngựa vượt đám cành cây đang được dọn khỏi mặt đường. Lãnh Năm vạch lá cây bảo Hoàng Đình.
– Diệt thằng chỉ huy!
Hoàng Đình nâng khẩu hai nòng bóp cò. Đại úy Phạm Duy lảo đảo rồi lăn xuống chân ngựa, máu chảy đẫm vai áo. Không để mất mặt trước quân lính. Duy chồm dậy bám ngựa leo lên yên.
Trong lúc đội kỵ mã đang mắc kẹt vì lũ ống. Borítx một mặt cho đại quân tiến nhanh vào Vần Dọc để đánh thốc lên Đại Lịch hợp quân với đội kỵ mã, mặt khác, lại cử đại úy Bécbengghe đưa một cánh quân có thổ dân dẫn đường, luồn rừng tránh được điếm canh của Lê Văn Nghìn nên khẩn tốc vượt đèo Kháo, tiến vào làng Mỵ. Rồi từ Mỵ đánh ra Đại Lịch nhằm chặn đường, bắt sống các tướng quân của nghĩa binh Cần Vương nếu họ rút chạy vào Nghĩa Lộ. Đội quân khố xanh tiền trạm của Bécbengghe đang xuống dốc Đát Quang, đi tắt sang Khe Ngủ, phục sẵn lưng chừng đèo Bẳn giáp ranh giữa làng Mỵ và Đại Lịch thì tuyến Vần Dọc, đại quân của Brêăngghe cũng vừa tới.
Thấy đại quân đông, lại lố nhố mũ sắt tây trên lưng mười mấy con ngựa, cờ Pháp dương oai. Phạm Đình Thọ thấy khó chặn nổi quân giặc ở đèo Cuồng, nên cho nổ dăm ba phát súng rồi tháo chạy về theo hướng đầm chằm.
– Hô lê! Bắt, đuổi bắt Thủ lĩnh quân phiến loạn.
Đám ngựa hí vang phi bừa vào lòng chảo tổng Đại Lịch. Lãnh Năm, Hoàng Đình và quân binh vừa chạy vừa bắn trả. Bécbengghe giơ súng. Trương Đen vội tâu.
– Đại úy. Kẻ chạy kia chính là quân vệ sỹ của Trịnh Bá Đanh đấy. Đám tướng binh của chúng chắc cũng sẽ quanh đây.
– Đưa Trịnh Bá Hoàn lên đầu quân. Mau.
Nguyễn Quý dí súng vào lưng Hoàn.
– Này, gọi thằng Bá Đanh em mày về với nhà nước Đại Pháp anh em họ hàng đều được sung sướng, có hơn không?
– Được thôi chú “dõng” binh ạ. Không gọi được chú Đanh, tôi sẽ có cách bắt cả nhóm chỉ huy của nó về nộp.
– Hay quá. Quý đất tâu ngay lên Phạm Phú đội phó T90. Phú tâu lên Trương Đen đội trưởng.
Trương Đen:
– Được, sẽ cho nó một quả mìn sát thương. Loại này, nếu nó liều, mạng nó sẽ “bay” trước.
Quý cất quả mìn vào túi, đợi lúc hai anh em Bá Hoàn, Bá Đanh gần giáp mặt mới đưa đề phòng Trịnh Bá Hoàn làm phản.
Thấy quân Nghĩa binh ở chân đèo Cuồng chống trả yếu ớt rồi bỏ chạy sâu vào làng đầm Rôm, trung tá Ben thúc quân đuổi theo. Borítx khôn ngoan giơ tay.
– Trung tá là lính thủy đánh bộ, ít có kinh nghiệm truy kích. Ngải “nắm” năm chục quân trụ lại ngã ba đường này chặn quân phiên loạn tiếp ứng. Ngài Breăngghe, ngài Trương Đen hãy cùng tôi!
Trương Đen là người Việt tỏ ra thận trọng nhưng lại xông xáo trước quan thầy.
– Lê Bình đâu, Nguyễn Quý đất. Các ngài dẫn đội tinh nhuệ truy kích ngay.
Bọn Bình trâu điên, và Quý đất cùng đám khố xanh thúc ngựa chồm trên đường mòn. Trương Đen, Breăngghe, Borítx quất mã phi theo. Kẻ phiến loạn đội binh Hoàng Đình chạy bộ ngoằn nghèo dốc đá, vừa chạy vừa bắn, rồi bỗng xuất hiện thêm năm sáu phiến quân chạy vào rừng chằm.
Borítx quát to.
– Xông lên, bao vây bắt sống phiến tướng.
Trịnh Bá Đanh, Hà Đình Đặng, Hoàng Đình, an trú trong bãi chằm lau sậy quân binh ba phía vẫn im lìm chờ lệnh.
Do thám Nguyễn Quý đất đã đóng giả đi tìm cây thuốc nam từng mò đến bãi chằm đầy cỏ rôm này tháng trước nên biết rõ là bãi sình lầy. Nhưng cũng lại đoán Trịnh Bá Đanh và các chỉ huy bản địa đang trú trong đó. Quý đất chạy đến Trương Đen.
– Bãi trận này là sình lầy, nếu càn đánh, e rằng không rút được.
Trương Đen hung hăng:
– Bình trâu, đưa con tin lên gọi bọn nó đầu hàng đi.
Trịnh Bá Hoàn anh họ yêu quý của Trịnh Bá Đanh bị bọn Bình trâu đưa lên. Sau Hoàn là hai tên lính lệ.
“Trời ơi. Anh Hoàn. Một năm nay rồi bây giờ mới nhìn thấy anh đây. Anh vẫn khỏe mạnh, đẹp lão và hiền hậu như ngày anh em mình ngồi đánh cờ ở sân nhà? Sao anh lại rơi vào tay giặc? Sao anh lại đến đây tìm em, anh Hoàn ơi?!” Trịnh Bá Đanh vừa nghĩ, vừa lấy tay gạt nước mắt. Nòng khẩu súng Branô cướp được trong trận Đầm Đen bỗng hơi chúc xuống.
Trước mặt kia, cách đầu khẩu Bra nô chỉ hơn trăm mét, một giọng đàn ông nói to. Đúng là anh Trịnh Bá Hoàn rồi.
– Chú Tổng Khảm Trịnh Bá Đanh có ở đây không? Nếu ở đây thì nói to với anh một tiếng. Anh là Trịnh Bá Hoàn đây mà! Anh là Trịnh Bá Hoàn, quê nhà ta bình yên cả. Người Pháp đưa anh lên đây dụ em về. Việc anh, anh làm; việc của em, em tự làm em Bá Đanh nhé.
Trịnh Bá Đanh thấy trong người giật giật, nhưng kinh nghiệm Đầm Mực giúp cho tướng quân tỉnh táo, cảnh giác. Tổng Khảm quay mặt sang đốc binh Hà Đình Đặng và đội binh Hoành Đình.
– Nó xui anh Hoàn dụ ta ra hàng, anh Hoàn đã một lần bị địch lừa bắt ở trận Đầm Đen, anh ấy không chịu nhục đâu. Đốc binh ra lệnh cho nghĩa sỹ sẵn sàng, khi nào chúng tràn vào đầm, là xông ra đánh.
– Vâng. Tướng quân Tổng Khảm, hãy tin ở chúng tôi. Hà Đình Đặng nói khẽ.
– Nói, nói nữa đi tên hàng binh già kia. Quý đất giục.
Trịnh Bá Hoàn cười.
– Cho tôi quả mìn. Tôi sẽ vòng ra sau bụi cây gọi chú Đanh. Nếu tướng binh họ không chịu, tôi sẽ nổ mìn phá trại.
Bình trâu đưa mắt cho Quý rồi nói.
– Được, cho lính lệ bám sát chân ông ta đấy.
Trịnh Bá Hoàn cầm quả mìn, nhìn rõ dây chốt. Cười cười:
– Các ngài, tôi đã là hàng binh, tôi làm theo lệnh quan Tây.
Nói rồi. Trịnh Bá Hoàn đi vòng ra sau. Trương Đen, Bình trâu, cả Bre ăng ghe và đám lính vệ sỹ lê dương, khố đỏ quây quanh nhìn theo.
Bất ngờ Trịnh Bá Hoàn lao thẳng vào đám chỉ huy, giật chốt. Quả mìn nổ tung, khói mù bùng lên.
– Giết. Giết quân cướp nước!
Trịnh Bá Đanh hô to. Hà Đình Đặng, Hoàng Đình cùng năm sáu chục nghĩa sỹ hét vang.
– Giết, giết giặc Tây!
Bọn giặc sau tiếng mìn nổ hoảng loạn, lại thấy tiếng la hét. Trương Đen bị thương ở chân nhảy phốc lên ngựa. Borítx cùng mấy vệ sỹ đứng phía xa, thấy vậy quát to:
– Đại úy Đen, không được chạy. Xông lên, xông lên!
Trương Đen cùng đám lính bị viên đại tá Borítx vung tay chặn đường, đành quay lại. Hai bên giáp mặt giữa chằm cỏ rôm lầy thụt. Đạn súng tây súng ta nổ đoàng đoàng. Dao, kiếm, giáo, mác, mã tấu va chát chát.
Đại úy thám báo gìa nghề Trương Đen thấy khó thắng bại, lại là địa hình túi cụt, nên ghé sát Borítx, nói bằng tiếng Pháp.
– Ngài đại tá. Ngài hãy nghe tôi, lui về ngã ba đường phủ tổng chờ quân ứng cứu.
Borítx hò hét đám lê dương khố đỏ đặt súng máy bắn tới tấp vào đầm Rôm mặc cho đạn súng trúng bên nào, rồi quay đầu ngựa cùng hai mươi vệ sỹ chạy tháo ra gò Bằng giữa lòng chảo Đại Lịch nơi trung tá Ben đã dựng trại
Quân Borítx gặp may. Cánh Bre ăng ghe gặp đội nghĩa binh của lãnh Năm. Hai bên giao chiến tới mấy chục phút, đội Nghĩa binh hy sinh ba bốn người, Lãnh Năm ra lệnh rút lên rừng. Breăngghe đốc đám lính xốc thẳng vào Đại Lịch, đã thấy cờ Pháp bay bên sườn gò.
Trận đầm Rôm đại binh Pháp bị thiệt hại nặng nề. Đại úy Tây Breăngghe, trung úy do thám Bình trâu, mấy lính lê dương, cùng năm sáu chục khố  đỏ, khố xanh, lệ binh. Bọn bị thương ôm đầu cõng nhau chạy theo chủ tướng về tổng phủ. Thấy quân Pháp rút chạy, dân bản, dân binh và chiến binh còn lại tiếp cận đầm lầy. Thương cho anh em Tổng Khảm Trịnh Bá Đanh và Trịnh Bá Hoàn hy sinh tại chỗ. Nghĩa binh Cần Vương hao hụt quá nửa đội quân.([1])
Nhận thấy thế giặc quá mạnh, lại ba mũi tiến quân do Pháp chỉ huy giáp công đánh vào Đại Lịch, súng đạn áp đảo vũ khí thô sơ của chiến binh và dân binh. Phó Đề đốc Vương Văn Doãn và lãnh binh Phạm Đình Tế buộc phải để ngỏ phủ tổng, tạm rút lên đồn Lũng Gà, bảo toàn lực lượng.
Chiếm được phủ tổng Đại Lịch. Quân Pháp tuy thắng nhưng không dám trụ lại. Ngay tối hôm đó Borítx chia làm hai cánh. Một cánh do trung tá Ben chỉ huy tiến vào Thượng Bằng La. Cánh chính Borítx đích thân, vượt đèo Mỵ tiến vào Ba Khe đánh úp đồn Đèo Ách của Nghĩa binh. Trại binh Đèo Ách mất cảnh giác, lại bị tập hậu vào gần súng nên Borítx chiếm được một cách dễ dàng. Tướng quân Đề Kiều khi đó đang ở trong Bản doanh Mường Lò nghe tin thế giặc như bão nên tăng cường quân binh ra giữ trại Đồng Khê hy vọng kìm chân giặc để tạo thời gian phòng thủ vững chắc trận địa “cửa” Ngòi Thia. Được tin cấp báo tổng phủ Đại Lịch bị quân Pháp chọc thủng, nghĩa binh đã rút lên Lũng Gà. Thấy trại binh Đèo Ách, Đồng Khê khó giữ, Thủ lĩnh Tướng công Nguyễn Quang Bích quyết định rời Bản doanh từ Pu Chạng (Đồi Ông Voi) vào thung lũng Pú Chạng (Núi ông Voi) – Nậm Tộc. Lại điều Bố chánh Nguyễn Văn Giáp, ra chỉ huy trấn giữ cửa Ngòi Thia. Đề đốc Hoàng Văn Thúy, Phó Đề đốc Vương Văn Doãn cùng bộ tướng rút cả về Nậm Tộc chân núi Voi giáp hai bản Nghĩa Sơn, Phúc Sơn.
Nghe tin phủ tổng, tổng Đại Lịch bị quân Pháp chiếm đóng rồi hạ trại khố xanh ở Khe Kè, quân binh Lãnh Tế rút lên Lũng Gà củng cố lực lượng. Tướng quân Vương Văn Doãn lại được Thủ lĩnh Tướng công điều vào Mường Lò. Đề đốc Hoàng Đình Cương sốt ruột gọi đốc binh Lý hữu Kim và Đặng Phúc Thành đến bàn luận.
– Hai tướng binh. Các anh là người Mán, thấu hiểu vùng đất. Ta có ý tăng cường hai đốc binh về vùng ngoài. Đặng Phúc Thành trợ lực cho Lãnh Tế đánh chiếm lại phủ tổng Đại Lịch, còn Lý Hữu Kim trợ lực Hoàng Thương Thân chắn cửa Thượng Bằng La.
Đốc binh Đặng Phúc Thành băn khoăn:
– Cửa Tây, tuy chưa chạm trán với Pháp, nhưng chúng đã dòm ngó, hai tướng binh đi, sợ rằng Đào Chinh Lục (Giàng Nủ Kư Nâu) và Bàn Hiệp khó giữ nổi.
Đề đốc:
– Biết thế, nhưng ta còn ở lại đây. Các anh cứ yên tâm mà đi.
Ngày hôm sau Đặng Phúc Thành đã cùng lãnh Tế, lãnh Năm, Hà Đình Đặng bàn bạc việc “nhổ” trại Khe Kè và lập ngay doanh trại quân binh Đại Lịch tại chỗ để án ngữ ba trục đường liên thông: Vân Hội, Mường Hồng, Thu Cúc.
Chập choạng tối, Hà Đình Đặng và Đặng Phúc Thành ăn vận bộ quần áo khố xanh lấy được trong trận đầm Rôm, đi thẳng đến trại dã chiến Khe Kè. Tên lính gác nâng ngọn súng hỏi.
– Các anh người quân nào?
– Hai đứa tôi đánh nhau với quân phiến hai hôm trước, bị lạc đường, bây giờ mới tìm được quân ta.
– Thế trại trưởng ở đây là ai, có biết không?
Đặng Phúc Thành đang lúng túng trả lời thì Hà Đình Đặng rút dao găm dí vào ngực tên gác. Vừa lúc đó tốp lính đi ăn cơm về thấy vậy la toáng lên. Tình thế nguy cấp, Hà Đình Đặng rút chốt lựu đạn ném thẳng vào đám đông. Một tiếng nổ long trời. Lãnh Năm phục sẵn ngoài cổng trại hô to:
– Bắt sống, bắt sống bọn lính trại.
Hà Đình Đặng và Đặng Phúc Thành dùng võ dân tộc đánh tới tấp. Ngoài mấy lính chết do lựu đạn, số còn lại có đến chín mười tên khố xanh đều bị bắt sống.
Lãnh binh Phạm Đình Tế ra lệnh lập quân binh tạm thời giao cho đốc binh Hà Đình Đặng làm trại trưởng. Đám lính khố xanh bị tước hết vũ khí chỉ còn bộ quần áo, tay bị trói quặt ra sau. Hà Đình Đặng sai ba chiến binh áp giải ra Vân Hội, cắt dây trói, buộc chúng phải về quê làm ăn hứa không đi đánh thuê cho người Pháp.
Cũng ngay đêm hôm đó Phạm Đình Tế và Đặng Phúc Thành cho người thăm dò, được biết trại lính dã chiến của quân Pháp ra Đèo Ách chỉ có dăm bẩy tên lính khố xanh, còn đại quân đã kéo vào Đồng Khê. Lãnh Tế chỉ huy, cử Đặng Phúc Thành và hai nghĩa binh Thổ, Mán bí mật bất ngờ đột nhập vào cửa, khống chế tên gác, dùng võ Mán khóa tay bọn lính, thu súng đạn rồi đốt trại. Mấy tù binh được đưa về đồn Lũng Gà, giải thích cặn kẽ, cả mấy khố xanh nhận lời đi theo quân binh lập công chuộc tội. Trong số bọn lính bị bắt có một tên khai là họ Hà, dân tộc Mường ở Phù Yên, nhà nghèo mà đi đánh thuê chưa lần nào bắt giết đánh đập người dân. Biết đốc binh Hà Đình Đặng cùng họ, anh ta lấy làm hối hận nguyện xin làm em, Đốc Đặng chấp nhận và nói:
– Nếu chú thật lòng, tôi sẽ giao việc, chú chuộc được tội, mới là anh em.
Người lính có tên là Hà Văn Ban chắp tay như lạy tạ,

Sau trận phá trại Khe Kè, Hà Đình Đặng được lãnh binh Phạm Đình Tế cử làm phó đồn binh Đại Lịch. Năm đó đốc Đặng sinh con gái đặt tên là Hà Thị Chiện. Theo tập tục người Thổ địa phương, từ đây đốc binh Đặng được Lãnh Tế, Lãnh Năm và quân binh, dân làng Đại Lịch gọi thân mật là ông Phó Chiện([2])
Chỉ trong hai đêm một ngày quân nghĩa sỹ tổng Đại Lịch phá tan hai trại tạm trú của quân Pháp ở Khe Kè và Đèo Ách rồi nhanh chóng rút về khu căn cứ Lũng Gà.
Biết rõ quân Pháp sẽ đánh vào Thượng Bằng La nơi trại binh của Hoàng Thương Thân, Phạm Đình Tế cho Đặng Phúc Thành cùng hai mươi tay võ sỹ có súng kíp, giáo mác đi kèm, cấp tốc đến thẳng thung lũng Tam Sơn (thung lũng ba ngọn núi) nơi  Hoàng Thương Thân đặt Bản doanh ([3])
Trận Tam Sơn thật kịch chiến.
Kẻ dẫn đường cho đội quân khố đỏ khố xanh của trung tá Ben không thuộc địa hình Thượng Bằng La nên kế hoạch đánh úp lũng Tam Sơn bị lệch sang Lũng Dê (nơi dân bản rào để nuôi dê). Chỉ thấy trại gia súc, không gặp chiến binh, Ben tức khí rút súng bắn chết kẻ dẫn đường tại chỗ. Nghe tiếng súng, quân binh Thương Thân và Lý Hữu Kim bao vây hai đầu đường độc đạo. Quân Pháp cố thủ không ra hàng. Ngày thứ tư, hết lương thảo. Đặng Phúc Thành cho đội võ Mán nửa đêm xông thẳng vào trại đánh tay vo từ trong ra. Thương Thân, Lý Hữu Kim cho quân binh đánh ập vào. Trung tá Ben bị chém vào tay, được các vệ sỹ đẩy lên ngựa, mở đường máu chạy thoát ra đường Thu Cúc. Xác quân lính khố đỏ, khố xanh nằm ngổn ngang nơi Lũng Dê, số bị thương đều xin tha chết. Đốc binh Thương Thân cho mời già làng đến cảm ơn hai tướng binh người Mán và tiễn họ trở lại Mường Lò.
Sau những thất bại liên tiếp ở phủ tổng, tổng Đại Lịch, dù là các Trại binh dã chiến tạm thời theo phương sách đánh chiếm “cắm chốt”. Nhưng các chốt cắm đều bị nghĩa binh Cần Vương nhổ bật. Tổng Đại Lịch có đến ba trại khố xanh khố đỏ bị xóa. Quân lính chết, bị thương, rồi đầu hàng có đến trăm đứa. Sự hoang mang, rã đám tràn lan trong đạo binh. Tướng Gia mông thỉnh thị cấp trên rồi chỉ định cho đại tá Bo rítx lập đồn Ngòi Nhì thật vững chân để củng cố lực lượng, đánh những trận quyết định vào lòng chảo Mường Lò.
Toàn bộ tổng Đại Lịch từ Thượng Bằng La, Đại Lịch, ra đến Hạ Bằng La không có quân Pháp đóng chốt ngoại trừ thành phủ Trấn Yên và Vân Hội, miền Tây là Ngòi Nhì.
Chánh tổng Tổng Đại Lịch Hoàng Hữu mừng lắm, ông cho khao dân binh hai ngày đêm. Lãnh binh Phạm Đình Tế, lãnh binh Phạm Đình Thọ, các đốc binh Thương Thân, Hà Đình Đặng, Hoàng Đình được công kênh reo hò. Chánh tổng cũng không quên ca ngợi và gửi bạc trắng đến tướng quân Vương Văn Doãn, các đốc binh Lý Hữu Kim, Đặng Phúc Thành. Chánh tổng còn gửi thư cảm tạ Thủ lĩnh Tướng công Nguyễn Quang Bích cùng Bộ tướng, đã vì quê hương Tổng Đại Lịch mà chịu khổ cực nằm gai nếm cực.
Một chiều, Chánh tổng tổng Phù Nham Đào Ngô Dụng bất ngờ đến Gò Lim tổng phủ Đại Lịch chia vui với Chánh tổng vùng ngoài. “Trợ lý” tự nhận của Đào Ngô Dụng là Nghiêm Thái Báo nửa đùa nửa thật, nói bâng quơ.
– Người Pháp sẽ lấy lại các tổng cho mà xem!
Hoàng Hữu không để tâm, nên buột miệng:
– Phù Nham, Sơn A, Hạnh Sơn, chứ Pháp mà vào tổng Đại Lịch thì đồn binh Lũng Gà của Lãnh Năm, Lãnh Tế tổng tôi sẽ không cho chúng chạy thoát.
– Bằng cách nào ông Chánh, ông cho Phù Nham kinh nghiệm?
– Thì đấy. Quân binh dân binh tổng tôi dăng đồn suốt từ Thượng ra Hạ Bằng La. Lại nhiều chỉ huy giỏi như Đốc Đặng, Đốc Kim, Đốc Thành, Đội Đình, Đốc Thân, ấy là chưa kể Tướng quân Vương Văn Doãn nằm vùng ở tổng suốt mấy tháng trời.
– Các ngài ấy bây giờ ở đâu rồi ông?
– Ờ! Việc binh mà. Vương Văn Doãn vào Bản doanh, Lý Hữu Kim, Đặng Phúc Thành trở lại Nậm Mười để cùng Hoàng Đình Cương canh cửa miền Tây…
Chánh tổng Hữu nói một mạch, rành rọt, rõ ràng; làm cho tổng trưởng Phù Nham Đào Ngô Dụng há mồm nghe; còn Nghiêm Thái Báo thì cứ thích thú hỏi thêm, hỏi tường tận về các chỉ huy nghĩa quân, về cách đánh du kích, cả về cá tính, kiểu đi lại của những lãnh binh, đốc binh gan dạ đánh Pháp.
Bất chợt Thái Báo thở dài.
– Đánh người Pháp chỉ là gãi ngứa thôi, mà họ gợi ý cho chức cho tiền, không nhận, lại còn gửi lời thách thức. Dại dột!
– Ai, ai? Tôi mà biết ông nào nhận lời với thằng Tây thì cứ chết. Hoàng Hữu sẵng giọng
Nghiêm Thái Báo giơ ngang bàn tay.
– Ấy, ấy! Đấy là nói về ông Thủ lĩnh Nguyễn Quang Bích, đang ở Bản doanh Pú Chạng kia kìa. Hì hì!
Đến lúc này Đào Ngô Dụng mới leo theo “trợ lý tự nhận”:
– Thái Báo nó khôn đấy ông Chánh ạ, nên nó hợp với tính tôi. Gì thì gì, no thân ấm cật dậm giật cái đã! Hà hà! Thôi nhé, chào ông Tổng chánh Đại Lịch.
Khách ra khỏi cổng. Chánh Hữu nhìn theo lầm bẩm.
– Mẹ cái đám quân ăn ở hai mặt!
Chánh tổng Hoàng Hữu bước vào nhà thì Phạm Đình Tế cũng vừa đến.
– Cụ Chánh. Nghe nói quân Pháp chuẩn bị đánh lớn vào Mường Lò, Thủ lĩnh đã di chuyển, cụ cho chúng tôi vào Pú Chạng xem hư thực thế nào và thỉnh thị Tướng công.
Chánh tổng Hữu:
– Ai đi cùng Lãnh binh?
– Dạ. Lãnh Năm và đốc Đặng!
– Ai ở lại canh phòng?
– Việc đồn binh, giao cho đội Hoàng Đình, trong thì Thương Thân, ngoài đã có tướng quân Lê Văn Nghìn và Trần Đình đang ở Vần Dọc. Với lại, đi đường rừng cũng ít ngày. Mọi sự nhờ cụ Chánh và dân binh.
Chánh tổng gật đầu.
Chập tối hôm đó. Trời sấm chớp, đổ trận mưa rào. Ba lãnh binh Đại Lịch cùng hai hậu vệ cải trang thành người mua trâu ngựa chùm áo tơi đi vào miền trong.
Đồi Pú Chạng đây, Bản doanh Thủ lĩnh Tướng công mà sao chỉ có vài ba lính dõng canh cổng. Lãnh Tế hiểu rõ sự tình. Cả nhóm đi tiếp. Hà Đình Đặng nói tiếng Thái với một thanh niên.
– Đây là đâu?
Chàng trai người Thái dáng lanh lợi nói:
– Đây là núi Voi (Pú Chạng). Đi ra Thu Cúc cũng được, đi vào Tú Lệ cũng được, đi lên Trạm Táu cũng được.
Đốc Đặng lại hỏi.
– Tớ có nghe nói chân núi Voi được canh giữ cẩn thận lắm, ta vào thử xem.
– Ấy ấy. Chúng “cháu” còn không được đến, ở đấy có quan mới về.
– Thế à. Chú cố giúp tớ. Có bạc trắng trả công chú đây này. Nói thật, chúng tớ được “quan” gọi vào gặp nhưng không biết đường thôi.
– Bạc trắng cháu cũng chả lấy. Nhưng cháu nhờ người em họ đưa đường cho, cháu hay ra vào thung lũng Nậm Tộc.
Trưa hôm đó là lần thứ hai Lãnh Tế, Lãnh Năm, được tiếp kiến vị Thủ lĩnh Tướng công Quân vụ Đại thần Nguyễn Quang Bích, nhận thấy so với tháng trước Thủ lĩnh đến Đại Lịch phủ tổng kiểm tra đồn binh. Ngài gầy hơn, đôi mắt hõm sâu hơn mà như vẫn tỉnh táo, nụ cười hiền lành luôn khép trên khuôn mặt mỗi khi gặp tướng sỹ quân binh. Vị Đại thần Triều đình nhà Nguyễn mà áo sờn nâu tóc đốm bạc nơi rừng núi thế này ư? Cả lãnh binh Phạm Đình Tế, lãnh binh Phạm Đình Thọ, và đốc binh Hà Đình Đặng thấy xót xa, thương cảm trong lòng.
Phó Đề đốc Vương Văn Doãn có lời với Thủ lĩnh:
– Thưa Tướng công. Hai tháng nay quân Bo rítx không vào được Nghĩa Lộ, một phần nhờ dân binh và các tướng quân Lê Văn Nghìn, Lãnh Tế, Lãnh Năm, Thương Thân đấy ạ.
Phạm Đình Tế vội quỳ xuống khoát vòng tay.
– Thưa quan Hiệp thống Tướng công. Có được như thế là nhờ Tướng công và Bộ tướng Cần Vương. Thưa quan.
Nguyễn Quang Bích sai Bố chánh Nguyễn Văn Giáp đỡ Tế đứng dậy, đưa bàn tay gầy guộc ra ngang mặt nhẹ nhàng nói.
– Công đức của Đức Vua anh minh Hàm Nghi và Đại thần chủ chiến Tôn Thất Thuyết, chứ ta và Bộ tướng cũng chỉ như các lãnh binh mà thôi.
Nói rồi Thủ lĩnh bảo Đề đốc Hoàng Văn Thúy tiếp cơm các lãnh binh tổng Đại Lịch chu đáo. Thủ lĩnh nói thêm với Bố chánh và Đề đốc Kiều.
– Người dân tộc thiểu số như các tướng binh đây, như Đốc Kim, Đốc Thân, như Giàng Nủ Kư Nâu, rồi Đốc Thành, Bàn Hiệp, Cầm Văn Thanh… thì giặc Pháp có vào được thì cũng sẽ phải nằm lại đất Rừng Già Tây Bắc mà thôi.
Bố chánh Nguyễn Văn Giáp, Đề Kiều Hoàng Văn Thúy, Phó Đề đốc Vương Văn Doãn hiểu thâm ý sâu xa của Đại thần Hiệp thống.
Lãnh Tế, lãnh Năm, Hà Đình Đặng cáo từ bữa cơm Bản doanh, theo chân thanh niên Cầm Văn Dón, liên lạc Nậm Tộc, rời thung lũng Pu Chạng nơi có đội cận vệ của đội binh Lả Xanh, canh giữ nghiêm ngặt.
Đại tá Borítx đã lập xong trại binh ở Cửa Nhì. Trương Đen muốn thăm dò quan Pháp nên tâng bốc:
– Dân bản địa gọi là Cửa Nhì vì nó thông với phủ Trấn Yên. Nay mai ta có dinh công sứ ở An Bái thì có nghĩa nó thông suốt với bản dinh Đại Pháp ở Tây Bắc đấy.
Bo rítx cười hài hước:
– Thế cửa nhất ở rừng núi Lai Châu xuống à?
Đại úy Đen lúng túng, nhưng khá nhanh trí:
– Thưa ngài. Cửa nhất không theo đường bộ, mà đường không, từ trên trời xuống.
Bo rítx không nói. Bỗng quay lại:
– Ngài đại úy. T90 của ngài đến đâu rồi?
– Thưa đại tá. Đất lạ, dân thổ, nên đang khâu nối.
– Thổ dân quan trọng hơn ngài nghĩ đấy. Ngài đại úy!
Trương Đen biết mình nói hớ, coi chừng cái lon thiếu tá tình báo lại do chính Borítx, một sỹ quan Tây thân cận, cắt bỏ. Trương Đen đành chép miệng.
– Vâng. Tôi sẽ khôn ngoan hơn. Thưa ngài đại tá.
Ngay trong ngày đại úy Đen bàn với trung úy Quý đất.
– Nghe nói chánh tổng Phù Nham cũng dễ tính, trung úy thử tìm tay chân ông ta là ai, lôi kéo họ.
Quý đất la cà mấy hàng quán, cô hàng quán xinh đẹp có tiếng đánh động.
– Anh có thưởng gì nào?
– Gì cũng được, của chìm, của nổi; tình và tiền, nếu em giúp được anh?
– Em thì chỉ cần mấy sóc trắng (bạc trắng) là được. Ngưu tầm ngưu, mã tầm mã mà anh. Cô hàng lửng lơ nói.
– Thế nhé. Điểm gặp là quán em đây. Nhưng nhớ chỉ có hai người. Hai người, anh và cậu Báo. Quý đất cười.
Không đợi đến ngày hôm sau, mà ngay tối ấy Nguyễn Quý đất và Nghiêm Thái Báo khi gật gù, lúc cười tươi tại quán hàng nước, cô chủ cố ý vắng mặt.
Chỉ ba mươi phút vừa làm quen, vừa nhập tâm Quý đất đã nắm được thông tin bốn tổng vùng Văn Chấn: Đại Lịch, Phù Nham, Sơn A và Hạnh Sơn. Tin tức cũng đến ngay với sỹ quan phòng nhì Trương Đen. Dĩ nhiên Trương Đen đang chờ mề đay thiếu tá nên nhanh chóng gặp Borítx. Nhận tin tức Gia mông chỉ thị: “- Trận tập kích vào Bản doanh quân phiến loạn Cần Vương, chậm nhất là đêm chủ nhật.”
Borítx không hiểu ý Gia mông, ngày “chúa nhật”, binh lính khố đỏ, lê dương bận cầu nguyện tại gia. Tinh thần lính chiến chưa chắc đã sẵn sàng.
Gia mông:
– Đại tá, ngài là tướng trận già nghề mà chậm hiểu. Ngài hãy cho đạo quân đến cầu nguyện đúng giờ chúa nhật tại nhà thờ Nghĩa Lộ!
Borítx giật mình. Đúng là chậm hiểu, nhưng rất khó thực hiện. Borítx chưa kịp thỉnh thị thì Giamông đã rung chuông điện thoại vô tuyến.
– Tôi sẽ tăng cường trung tá Porétsin và hai trăm lính chiến từ Yên Lập, hợp lực với ngài. Được chứ đại tá?
– Rõ!
– Thôi, cứ kế hoạch, mục tiêu cầm cố Bản doanh Pu Chạng. Chúc ngài có đêm chúa nhật sâm banh và gái đẹp tại Mường Lò.
– Vâng. Thưa thiếu tướng.
Borítx nhăn mặt. “Porétsin chưa hiểu địa hình, đường đất nếu không bị vây hãm dọc đường là may!”
Nhưng tướng Borítx nhầm. Tiểu đoàn Po rét sin đã ém sẵn trên trục đường Thu Cúc. Trại binh Hoàng Thương Thân đóng ở lũng Tam Sơn nghe dân bản nói có quân lính đi trong đêm, tắt qua gò đồi Yên Ngựa. Đốc Thương chưa kịp cho thám sát theo dõi thì đạo binh khố xanh khố đỏ do thổ dân Yên Lập đưa đường đã ấp sát bản Trạm Táu. Chiều chủ nhật quân Porét sin bất ngờ đột nhập vào Pu Chạng. Bản doanh Pu Chạng trống không, mấy nghĩa binh canh gác lợi dụng đêm tối chạy thoát. Đạo quân Borítx lại không thấy đâu. Porétsin nghi ngờ quân “Cần Vương” nghĩa binh tạo hiện trường giả để đánh úp nên vội vàng rút lui về bản dưới Trạm Táu.
Borítx thúc quân tiến vào Mường Lò cũng từ chập tối chủ nhật, nhưng đến chân dốc Thái Lão bị dân binh Phù Nham đổ ra đường ngăn chặn. Đá hộc từ đồi hang Thẩm Lé lăn xuống ầm ầm. Cây cối dốc Bồ Hòn nằm ngang dọc đường đi khiến đám ngựa chiến phải hý vang mà chồm qua. Lại có tin đồn tung ra, quân của Bố chánh Nguyễn Văn Giáp và Phó Đề đốc Vương Văn Doãn đã phục sẵn hai bên bờ suối Thia quyết sống chết với tướng giặc Borítx. Tin tức loang ra, mà vẫn không thấy tăm hơi đạo đoàn trung tá Porétsin đâu, cả tướng Borítx và đạo quân hoang mang. Borítx quyết định lui về Ngòi Nhì giữ đồn Cửa Nhì chờ lực lượng từ Trấn Yên vào rồi tính sau.
Thám sát của võ tướng Quang Hoan báo tin.
– Có một đạo quân khố đỏ khố xanh đang lập trại ở bờ suối Hát thung lũng Trạm Táu.
– Tin từ đâu? Cụ thể ra sao. Lãnh Hoan hỏi.
Thám sát.
– Mấy người Mèo đến báo tin như thế.
Nguyễn Quang Hoan cử Cầm Văn Dón và Lả Xanh, hai quân binh hiểu biết nhất thung thổ Trạm Táu Hạ đi điều tra.
– Đích thực là quân Pháp có đến năm ngựa chiến buộc ngoài trại. Lính khố đi lại, đun nấu nhưng không to tiếng. Tình thế nguy cấp, vì từ Trạm Táu Hạ đến Bản doanh Nậm Tộc chỉ vài cây số. Võ tướng gặp Bố chánh xin đánh úp.
Bố chánh Giáp.
– Quân Pháp kẹp ta vào hai mũi. Tướng quân chọn một đội tập kích vào Trạm Táu Hạ, mục tiêu là giết chết bọn tướng Pháp, gọi hàng đám lính khố. Tôi sẽ canh giữ tuyến Ngòi Thia Mường Lò. Đề đốc Kiều đề phòng phía ngòi Nung. Đề Doãn canh phòng Bản doanh. Tướng công mấy đêm nay mất ngủ, mệt nhược; đừng nên tin tức với Ngài.
– Thưa Phó Tướng Công. Tôi sẽ phá quân giặc ngay đêm nay, không kịp để trại Cửa Nhì kịp ứng cứu.
– Hay lắm chúc tướng quân chiến thắng. Bố Chánh vỗ vai khích lệ.
Nguyễn Quang Hoan đem theo mười đội binh bắn tỉa, và một tổ dân binh rất giỏi võ dân tộc do Lả Xanh chỉ huy.
Gà rừng gáy sáng. Thung lũng suối Hát im lìm chỉ có tiếng nước trong rào rào chảy. Đội binh Lả Xanh cho ba dân binh lẻn vào trạm gác. Hai tên lính bị trói gô, nhét giẻ vào mồm. Một dân binh ra quần ngựa, lần lượt cắt đứt dây các bộ yên da. Trại binh vẫn im lặng, chỉ có tiếng ngáy to xen nhau như kéo cưa của đám lính. Vẫn không xác định rõ nơi ngủ của bọn chỉ huy nhưng chắc chắn khá xa đội ngựa.
Lả Xanh thì thầm:
– Quân giặc đông quá, mà ta thì chỉ có mười mấy người, đánh thế nào tướng quân?
– Chỉ còn cách mạo hiểm này. Lãnh Hoan nhìn Lả Xanh. Chú cho mấy dân binh chui vào lấy cắp mươi bộ quần áo, ta đóng giả lính trại trực sẵn bên đàn ngựa. Bọn chỉ huy chạy ra, đâm chém ngay.
– Nhưng nguy hiểm cho tướng quân lắm. Lả Xanh lo lắng.
– Tôi và các tay súng bắn tỉa sẽ bắn tới tấp vào đám lính gây rối loạn, rồi ta rút lên rừng.
– Không được tướng quân ạ.
– Thế còn cách nào? Trời lại sắp sáng rồi?
Lả Xanh trầm ngâm giây lát rồi quyết đáp.
– Lả Xanh và võ binh mặc quần áo khố, trực bên đàn ngựa để diệt bọn chỉ huy. Lả Xanh sẽ cho hai dân binh lấy rơm khô chất đống phía sau trại. Khi lửa cháy, bọn lính đổ xô ra đấy. Tướng quân chỉ huy quân binh bắn tỉa vào đó, lúc nào ngựa chạy tán loạn, ta rút lên rừng cũng chưa muộn.
Lãnh Hoan cười.
– Kế của Lả Xanh được đấy. Còn cách nữa, hay là ta cướp hết đàn ngựa, phi về Mường Lò, bọn chỉ huy chạy ra ta bắn tỉa, rồi rút lui?
Lả Xanh.
– Thật hay. Nhưng cướp ngựa rồi, phải nhiều quân ta đánh giáp mặt mới diệt được bọn người Pháp.
Võ tướng Quang Hoan.
– Thôi thôi. Theo kế Lả Xanh, cho người đi lấy rơm ngay rồi đốt. Lả Xanh nhắn đội binh chú ý, cứ thấy Tây là xông vào chém trước. Khi có ba tiếng súng liên tiếp thì tất cả rút lên rừng. Nhớ đấy.
– Vâng. Vâng ạ.
Mười phút, mười lăm phút, vẫn chưa thấy tín hiệu lấy trộm được quân trang. Lãnh Hoan sốt ruột chưa dám ra lệnh đốt cây rơm. Chỉ đến khi con ngựa vằn, có lẽ ngựa của trung tá chỉ huy, hý ầm ỹ, thì cũng là lúc các chiến binh đóng giả đã đứng áp sát từng con chiến mã. Cây rơm bùng cháy. Lính đồn hô hoán. Súng báo động. Tiếng la quát inh om. Một tên Pháp râu quai nón dáng to cao, trong bộ binh phục, tay lăm lăm súng ngắn bổ xô đến con ngựa vằn. Vằn mã đạp móng bàn đạp xuống mặt đất. Thằng chỉ huy! Lả Xanh chợt nghĩ rồi xô đến. Một nhát dao phát rừng bổ đúng bờ vai tên chỉ huy. Po rét sin kêu rống, tên vệ sỹ người Tây xông lại đạp văng con dao trên tay Lả Xanh. Đội Xanh thúc đầu gối đúng mặt làm tên vệ sỹ ngã nhào, các đội binh Cần Vương mặc áo khố xanh đang vung dao kiếm tới tấp vào lũ giặc.
Sau nhiều tiếng súng chát chúa là ba viên đạn nổ điểm xạ. Đội binh Lả Xanh lợi dụng lúc náo loạn chạy lên rừng. Trời sáng dần. Xác quân lê dương, khố đỏ, khố xanh, có đến mười mấy tên. Đám lính bị thương chúng đưa vào nhà trại. Quá trưa trung tá Porétsin nằm trên cáng thương, ra lệnh cho trại binh Trạm Táu Hạ, dắt ngựa rút theo rừng Thu Cúc, xuôi về Hưng Hóa an tĩnh, chờ đón tháng Nô en trên đất A Nam quái quỷ.
Đội binh có tới năm người bị thương, hai dân binh hi sinh. Lãnh Hoan xin Bố chánh gửi đến mỗi gia đình có người tử trận ba lạng bạc. Đội binh Lả Xanh nói với Lãnh tướng Quang Hoan.
– Sao lúc đấy mình lại cắt hết bộ da yên ngựa nhỉ? Nếu không mình đã cướp được mấy chiến mã làm bọn nó mất đường về.
– Đánh giặc mà, mỗi trận đánh, ta lại có thêm kinh nghiệm và sự dũng cảm.
Võ tướng vỗ vỗ lưng Lả Xanh, cảm thấy yêu quý người chỉ huy Đội binh Khơ Mú địa phương gan dạ, thông hiểu nghệ thuật dùng binh theo kiểu dân tộc thiểu số rừng Tây Bắc.
Đánh đuổi được bọn giặc Tây âm mưu thọc sườn Bản doanh Mường Lò. Bố chánh Nguyễn Văn Giáp và võ tướng Nguyễn Quang Hoan đến ra mắt Thủ lĩnh Tướng công. Hiệp thống Quân vụ nhắc:
– Thế là các tướng quân có cảnh giác và chủ động đánh đuổi chúng. Nhưng lực của ta còn mỏng manh, dân binh các tổng vùng trong Mường Lò chưa được như Đại Lịch. Nếu Pháp cùng một lúc tấn công từ nhiều phía, ta sẽ khó khăn. Các tướng quân bàn xem có kế gì hơn?
Sáng hôm sau, không muốn làm ảnh hưởng đến sức khỏe Hiệp thống, Thủ lĩnh ốm nặng chưa lại sức; Bố chánh Phó Tướng công mời Bộ tướng và các lãnh binh của bốn tổng đến họp bàn.
Hiệp đốc Bố chánh Phó Tướng công trang nghiêm nói:
– Thám sát nằm vùng của ta tin tức về, tướng Brícdlin thống quản miền tây ra lệnh cho tướng Giamông tổng chỉ huy đạo binh sông Thao, là phải bình định xong Tây Bắc trước năm 1890. Đại tá Jemmolanh, đại tá Borítx quyết tâm kiểm soát toàn bộ Văn Chấn trong năm tới. Còn ta, Cần Vương, bình Tây phục quốc là đạo, là tâm để lại cho muôn đời con cháu, các tướng quân đã thủy chung theo Hiệp thống dựng cờ, nay dầu có chết, hãy chết dưới cờ Cần Vương và lưỡi gươm báu của Đức Vua anh minh Hàm Nghi chứ nhất quyết không chịu khuất phục.
Hiệp đốc Nguyễn Văn Giáp nói to, rắn chắc mà thấm thía. Các tướng quân, lãnh binh, đốc binh đứng cả dậy khoanh vòng tay cúi đầu. Ai nấy tưởng như hình bóng Hoàng thượng hiển hiện, sau bộ long bào khăn chít kia là hai vị Đại thần Tôn Thất Thuyết, Nguyễn Quang Bích túc trực tả hữu Đức Hàm Nghi chủ chiến nơi sơn phòng rừng núi Quảng Trị. Bố chánh đưa hai tay mời ngồi. Nỗi xúc cảm ngập tràn các tướng lĩnh làm cho Hiệp đốc Bố chánh lên cơn ho khan dữ dội khiến thủ túc Trần Ngọc Dư phải vội đỡ ngài xuống tràng kỷ mây tre.
Đề đốc Hoàng Văn Thúy đứng lên:
– Phó Tướng công gian nan song hành cùng Thủ lĩnh mới được Vua tôi tin cậy. Nay ta lo việc lớn, đỡ đần chút nào cho Hiệp thống, Hiệp đốc cũng là tôi trung hiếu quốc vậy.
Nguyễn Văn Giáp qua cơn ho khan, bắt đầu thấy rét run nhưng cố nén, khẽ mỉm cười:
– Nào, ta bàn kỹ mấy việc lớn sau đây:
Bản doanh: Dinh chỉ huy chếch trên sườn núi cận bản Nghĩa Sơn của người Khơ Mú. Ba mặt có đường núi che chở, được các đồn trấn giữ, có đường thông sang Thượng Bằng La và Tú Lệ. Địa thế hiểm trở, thuận lợi cho việc hậu cần([4]). Thủ lĩnh Tướng công đã y thuận!
Kinh nghiệm dân binh ở  Cẩm Khê rất hay rất tốt, mà sao chưa làm rộng khắp Văn Chấn, Mường Lò? Đề đốc Kiều nghĩ thêm về binh pháp này.
Cửa suối Thia, cửa suối Nung, cửa Trạm Táu Hạ, đều là then cài chân chốt Bản doanh, Tôi và các tướng quân Lãnh Hoan, Đề Doan, Đề Cương phải đánh lật quân Pháp khi chúng tới các cửa này.
Lại một cơn ho kéo đến. Hiệp đốc Bố chánh ôm ngực gắng gượng nói tiếp:
– Các lãnh binh, đốc binh địa phương. Đức Kim Thượng  đã biết đến tên tuổi và quê hương các ngài. Thủ lĩnh, Hiệp thống Tướng công và Bộ tướng đạo binh Cần Vương rất cần các ngài – những tướng binh dân tộc Tây Bắc. Các ngài hãy cùng dân binh làng bản, nhất quyết mà đánh Tây, đánh bằng mọi kiểu cách, sao cho giết được giặc, đuổi được giặc Pháp ra khỏi làng quê nước Nam mình…
Nguyễn Văn Giáp thấy tức tức trong ngực. Ngài ra hiệu kết thúc cuộc họp.Việc bàn kỹ hơn, sẽ do từng tướng quân phụ trách, tiếp tục lo liệu.
Đề đốc Kiều đến tổng Sơn A. Chánh tổng tiếp đón và hứa sẽ cùng Đề đốc Hoàng Đình Cương lập ngay các đội dân binh Thái ở Ao Luông, dân binh theo đạo thiên chúa ở Bản Hẻo, dân binh người Dao ở Gia Hội; mở đường thông với trại binh của Đặng Phúc Thành, Bàn Hiệp. Riêng đốc binh Lý Hữu Kim được cử trở lại tổng Đại Lịch, dân vận người Dao vùng ngoài, cùng Hà Đình Đặng kìm chân quân Pháp, làm chậm đường tiến vào Mường Lò của chúng.
Phó Đề đốc Vương Văn Doãn xuống tổng Hạnh Sơn. Chỉ trong hai tuần đã lập được các đội dân binh Hạnh Sơn, Trạm Táu Hạ, Phúc Sơn, Nghĩa Sơn, Nghĩa An, Pu Chạng; cùng đội cận vệ Bản doanh của Đào Xuân Thái và Lả Xanh, bảo vệ an toàn thủ phủ đạo binh và chủ tướng Thủ lĩnh.
Chánh tổng Phù Nham Đào Ngô Dụng chủ động tìm đến Đề Kiều. Hai ông vui vẻ nâng chén rượu mừng. Đoạn Chánh tổng phàn nàn rằng dân binh trong tổng bận việc lo chuẩn bị làm đồng nên xin lùi lại, tết xong, sang xuân sẽ bàn với các trưởng bản.
Đề Kiều trợn mắt.
– Hả? Việc binh đao mà lại đợi sang xuân à? Tết nhất xong lại lí do rượu thịt hội hè. Không được! Ông biết tôi từng là Chánh tổng Cẩm Khê trước ông mấy năm rồi đấy.
Đề đốc Kiều đỏ mặt, nói nhẹ mà như quát. Đào Ngô Dụng, miệng ú ớ, lòng dạ run hơn gặp gió mùa đông bắc. Chỉ riêng trợ lý tự nhận Nghiêm Thái Báo thì ngẫm trong bụng: “ Lão Chánh chịu trận, việc  mình mình cứ làm, làm trong đầu, ai biết?”
Nhờ có thuốc lá rừng của bà lang Khơ Mú do Lả Xanh nhờ giúp, sức khỏe của Bố chánh hồi phục dần. Bệnh ho khan đã dứt hẳn. Ngài vui lắm. Những ngày tháng chạp Đinh Hợi, thủ túc Trần Ngọc Dư nhờ Lả Xanh đưa đến tận nhà bà lang vườn “sêu” tết theo tục người Kinh
– Ông bà đã làm phúc mà cứu được cho cả Thủ lĩnh, cả Tướng quân tôi, đã qua cơn bạo bệnh sốt rét rừng, tôi thay lời Thủ lĩnh mà đến giã ơn bà.
– Ấy ấy! Bà lang cười móm mém. “Nó” như thằng cháu Lả Xanh nhà “tao” thôi mà, lấy thuốc làm phúc, không nhận bạc đâu. Không nhận đâu.
Bà lang một mực từ chối. Thủ túc khoanh tay cúi đầu cảm ơn.
Mồng năm tết Mậu Tý, đích thân Bố chánh thay mặt Tướng công, đến nhà bà lang chúc tết. Biết tin vui cả bản Khơ Mú mổ hẳn một con lợn đón Hiệp đốc và mừng cho Lả Xanh “nên người”.
Mùa xuân xứ sở người Thái. Cả mường cả bản đi lễ hội hoa ban Thẩm lé, rồi lễ hội Thẩm Han. Một nơi, tưởng nhớ đôi trai gái Thái yêu nhau, không lấy được nhau Tạo bản ghen tị, đày chàng lên núi, cô gái đi theo người yêu trên núi đá Thẩm Lé, đi đến kiệt sức, ngã gục bên một gốc cây. Gốc cây đó, mùa xuân năm sau bỗng nảy ra những cánh hoa trắng mỏng, nụ hoa phớt tím hồng. Dân bản đồ rằng cánh hoa mỏng trắng kia là hình tấm áo cỏm, nụ hoa phớt hồng là đôi má hay cặp môi nàng, chấm nụ mầu tím dù mưa dông gió giật, vẫn không bao giờ phai. Đó là mối tình thủy chung của đôi trai gái độ trăng tròn. Còn lễ hội Thẩm Han hay lễ hội động nàng Han, là để tướng nhớ công lao của người con gái Mường vùng đất Ao Luông, chấp nhận sống độc thân, tự mình cầm gươm, quy tụ dân bản đánh giặc Tần. Bên nàng có thêm bao người lính tài giỏi, trung thành và dũng cảm. Chỉ đến khi có một gã trai bản, không lấy được nàng, mang lòng thù hận mà bắn lén khi nàng đang cùng bạn gái tắm dưới vực Vằng Phăng. Nàng Han bị thương vào ngực mà vẫn đuổi qua ba quả núi bắt tên sát nhân, cho đến khi nàng ngấm thuốc độc mà ngã xuống. Trước khi chết, nàng Han còn kịp dặn binh tướng trả lại hang động Ko Đúa (nơi nàng mượn đặt Bản doanh) cho dân bản Chiềng La. Thương xót và mang ơn người con gái anh dũng, dân bản Chiềng La đặt tên động Ko Đúa là Thẩm Han (động nàng Han) và làm lễ hội hàng năm để tưởng nhớ.
Vừa đi, Cầm Văn Dón quân binh liên lạc và bảo vệ Bản doanh kể lại hai sự tích ngày xuân trên đất Mường Lò khiến võ tướng Nguyễn quang Hoan vỗ đùi bừng bừng khí uất, còn quan Thủ túc Trần Ngọc Dư thì lại chớp chớp bờ mi.
Câu chuyện đi đường của đội binh Cầm Văn Dón về vùng dân tộc Mường Lò đến với Thủ lĩnh Tướng công. Hiệp thống khẽ vẫy thủ túc lại gần, nói nhẹ:
– Ta ta! Tạo vật hề dĩ ngã vi sinh! Dữ ngã dĩ chứ nhi đoản kỳ trí, dữ ngã dĩ thành nhi bệnh kỳ hình!
(Than ôi! Tạo vật đã sinh ra mình! Cho ta được chí mà không đạt trí, cho ta được danh thì khổ hài hình!)([5])
Thủ túc thấy thương cảm cho vị nghĩa sỹ từng là quan Đại thần Triều đình, nay phải dấn thân vào chốn rừng núi vì nghĩa lớn. Ngài nói ta, mà đang tự tình về mình vậy chăng?
Bước đi vài bước bước, bỗng Hiệp thống ngẩng nhìn Trần Ngọc Dư mỉm cười.
– Mà thôi, ngày xuân, văn nhân thủ túc cho ta cảm tác được chứ?
– Vâng, vâng! Xin mời Hiệp thống Tướng công. Ngọc Dư đáp nhỏ, rồi vội đưa giấy bút cho Ngư Phong Thủ lĩnh, rồi lui ra.
Nhìn khuôn viên tư dinh dưới chân núi, bắt gặp khóm hoa huệ mà cháu gái Mỹ Cẩm từ Cẩm Khê gửi biếu ngày nào, nay đơm bông trắng muốt. Ngư Phong hạ bút: Chờ đến đêm thanh tỏa ngát hương/Chê ngày bụi bặm, nhụy phong sương/Thân ưa đứng thẳng, trời cao vọi/ Một tấm lòng băng không bụi vương. ([6])
Bài thư “Vịnh hoa huệ” vừa tạm xong, Đề đốc Kiều đưa chân mấy vị Chánh tổng, lý trưởng, tạo bản đến chúc tết. Cảm hứng ngày xuân, Hiệp thống Tướng quân Ngư Phong đưa bài thơ ra đọc bên li rượu. Chánh tổng Phù Nham Đào Ngô Dụng vội vã tranh lời, miệng cười cợt:
– Thơ của quan ngài nói về ngài, hay quá!!
Ngư Phong Tướng công lạnh sắc mặt. Thủ túc Trần Ngọc Dư đứng bên vội vã đỡ lời.
– Ông Chánh chưa hiểu Thủ lĩnh tôi rồi, Ấy là bởi ngài mới được nghe câu chuyện về sự tích Hoa Ban, và truyền thuyết Nàng Han của ngay đất Mường này mà cảm tác đấy thôi.
Đào Ngô Dụng:
– Không, không! Thưa Tướng công, dân Tổng không có ý gì, không có ý dám nghĩ về Quan Hiệp thống đâu ạ.
Khách xuân rời hành dinh. Võ tướng Lãnh Hoan ghé tai phó Đề đốc Vương Văn Doãn.
– Ông Chánh Phù Nham nói vậy, là bởi ý hạ tín quỷ quyệt của cái anh “thầy dùi” lúc nào cũng cặp kè bên ông ta.
Vương Văn Doãn vốn già nghề chánh Sơn phòng bản doanh nên khi nghe Lãnh Hoan nhận xét, liền đồng tình.
– Tướng quân. Người xưa nói “Rắn ngoài đường, nó chạy. Rắn trong nhà, nó cắn”. Nghiêm Thái Báo là thế, ông chánh Dụng không khéo bị đớp có ngày.
– Thôi, đấy là chuyện của ông Tổng, còn huynh đệ ta, giữ nhà, phải nhìn từ ngoài cổng. Nguyễn Quang Hoan cười.
Cuối những ngày xuân là gió Lào thổi theo rãnh dãy Hoàng Liên Sơn đổ về Mường Lò Văn Chấn. Không phải heo may, chẳng phải hanh khô, gió lạnh mà khô khốc. Dân địa phương sống chung với gió Lào đã thấy khó chịu, với Đạo binh nghĩa sỹ, chưa thích nghi, quân số ốm đến nửa Đạo.
Đề đốc Hoàng Văn Thúy lo lắng, thỉnh thị ý kiến Bố chánh Hiệp đốc. Tướng quân Nguyễn Văn Giáp chưa thật bình phục, liền bàn.
– Hiệp thống gần đây tâm tư hơn, nhiều đêm ngài thức đến canh bốn canh năm, ta không nên để cho Ngài thêm lo lắng.
– Nếu quân Pháp biết tình hình, chúng đổ quân từ nhiều hướng đánh áp đảo, tướng quân tính sao?
– Khả năng này cũng không thể loại trừ. Bố chánh nói. Tôi và tướng quân cố gắng vậy. Trước mắt Đề đốc làm nhanh đội quân địa phương như ngày Tiên Động ấy. Nếu cần, tăng cường thêm tướng quân Hoàng Đình Cương cho việc tổ chức dân binh luyện tập.
– Thế còn quân binh? Đề Kiều chợt hỏi như có điều gì băn khoăn mà chưa tự làm rõ được.
Hiệp đốc Bố chánh:
– Với khu vực tứ tổng Mường Lò thì ta nắm được, nhưng còn Tây Bắc, địa bàn xa Hành dinh, các tướng quân ít đi đến, các đội binh bị hào lý, chẩu mường, thổ ty, thống lý, tạo bản, rồi cả mo then nữa thao túng giằng kéo, ấy là chưa nói đến người Tây tìm cách xỏ tay vào. Đội binh, quân binh dễ bề nghiêng ngả.
– Hiệp đốc. Ngài nhìn xa trông rộng mà trúng ý tôi vậy. Có tin Tri châu Mường Lay Đèo Văn Trì đang có ý nhận bạc trắng và ra làm cho Pháp. Ngay cả Chánh tổng Đào Ngô Dụng cũng bị kéo vào chiếu bạc và gái. Món này, quân phòng Nhì của Trương Đen giỏi giang lắm đấy.
– Tướng quân Đề đốc. Tôi có ý đi Lai Châu thuyết phục Trì, bàn việc với Đèo Văn Toa ở Phong Thổ, rồi về Sơn La gặp lại Tri châu Mai Sơn Cầm Văn Thanh. Bố Chánh trầm tư.
– Sức khỏe của Tướng quân…
– Không sao tôi đi được mà, phải đi. Đề Cương có ăn thề, Đạo binh ta mới có được các tướng Thổ phủ Bình sông Chảy Nông Đình Tẩn, Nông Đình Tần, rồi Giàng Nủ Knâu, Bàn Hiệp vùng Nậm Mười. Vương Văn Doãn cùng ăn cùng ở nhà dân mới xây dựng được tổng Đại Lịch chân vững như vách núi.
Hai vị Phó Tướng công vỗ vai nhau cười ha hả.
Bất chấp sức khỏe. Hai ngày sau Bố chánh Nguyễn Văn Giáp vẫn cùng trợ thủ Cầm Văn Dón lên ngựa. Đôi song mã ngược Gia Hội, Tú Lệ, Khau Phạ ghé thăm các tướng binh người Mán, người Mèo ở trại binh Nậm Mười, Nậm Khắt vài ngày, rồi dong thằng Mường Lay gặp Đèo Văn Trì.
Vốn đã quy phục Bố chánh, tiếng tăm từ ngày ông làm Tuần phủ Sơn Tây. Đèo Văn Trì ra tận cổng Mường Lay đón. Các thủ lĩnh người dân tộc thiểu số ở các địa phương thường lập cho mình một lãnh địa riêng, cung cách điều hành, tổ chức, ăn ở, bang giao, và cả sử sự nữa, ít ai giống ai. Đèo Văn Trì phá lệ Thái trắng, thắp hương lên bàn thờ gia tiên mà hứa trung thành với đạo binh Cần Vương chống Pháp. Kiểu cách ấy làm cho Phó Tướng công Nguyễn Văn Giáp thầm phục quay sang Cầm Văn Dón cố ý nói rõ ràng:
– Nếu ở Mường Lò từng có Cầm Hánh chỉ huy đánh giặc Cờ Vàng trở thành người anh hùng, thì ở Lai Châu cũng sẽ có Đèo Văn Trì tổ chức đánh giặc Pháp trở nên tăm tiếng!
Đèo Văn Trì biết Dón là cháu ruột tạo bản Viềng Công Cầm Hánh, nên chắp hai tay vái vái cả Bố chánh lẫn trợ thủ. Hiệp đốc đưa người thu tay Trì và trao cho Tri châu Mường Lay thanh gươm mà Hiệp thống Quân vụ đã dâng lên bàn lễ tế cờ ở Tiên Động. Tri châu Đèo Văn Trì vội vã rúm người lại nhận lấy gươm báu. Hiệp đốc nói thêm:
– Gươm này, lẽ ra đãphải trao cho Thủ lĩnh nghĩa quân Phong Thổ Đèo Văn Toa vì ông ấy đã biết gắn kết với dân binh địa phương Mường Lay dựng được tuyến phòng thủ “quân dân binh” từ Than Uyên đến Nam Lao Cai, lại biết phối hợp nhau mà đánh kiểu du kích, diệt nhiều giặc. Ta trao trước cho tri châu là tin ở ngài lắm lắm.
Đèo Văn Trì có lẽ không còn lời nào để tỏ lòng ơn nghĩa Thủ lĩnh binh Vương mà chỉ biết cúi đầu vái lạy.([7])
Giữa năm Hợi (Đinh Hợi 1887), lẽ ra đạo binh Cần Vương vùng Tây Bắc phải được tĩnh tại để củng cố lực lượng. Nhưng người Pháp tính kế áp dụng chiêu trò mới với dân An Nam. Từ Hà Tĩnh lãnh tụ Nghĩa sỹ Phan Đình Phùng nhắn tin đến Đại thần Hiệp thống, đại ý: Nay Phụ chính ở xa (Tôn Thất Thuyết đang bị Pháp cô lập ở Vân Nam). Đức Vua vẫn được các phụ tử bảo đảm nơi Sơn phòng. Thương cho Nguyễn Cao minh chủ Bình Định đã bị người Pháp xử chém, ông chết như một người anh hùng vậy. Toàn quyền Đlam nét xăng đang dùng mưu độc chia để trị”, Hoàng Giáp Tướng công hãy cảnh giác mọi bề!
Lặng nghe tin nhắn truyền miệng của sứ thần miền Trung, nhời nhẽ Phan Đình Phùng đại thần lạc làm sao được? Hiệp thống thốt lên:
– Phan tiên sinh. Lẽ ra Hiệp thống tôi đây đã được đón Tướng quân Phụ triều ở Mường Lò, mà không thành! Là bởi người Pháp đã cố ý cắt đoạn, chia để trị rồi,nói gì đến nghĩa binh với dân binh, dân tộc với dân tộc? Tiên sinh họ Phan nơi Hương Khê, ta cùng nhau dốc lòng phụng mệnh Cần Vương, bài Tây phục quốc, ấy mới là phải đạo với Hùng Vương tiên tổ.
Hiệp thống nói cùng lòng mình mà cảm như đang được nắm tay người bạn cùng chốn quan trường vốn yêu nước kính Vua. Hiệp thống ít nhiều cũng đã thấy nhẹ nhõm, liền giao thủ túc Trần Ngọc Dư thảo lời phúc đáp. Lòng tôi trung tràn ngập nỗi niềm tin yêu Thượng hoàng Chủ chiến – Đức Hàm Nghi.
Trở lại Tư dinh, Hiệp thống hạ mình xuống mặt giường đệm bông lau, vắt tay lên trán mặc cho chòm râu dài thưa tự do giữa khoảng không.
Người Pháp thâm hiểm và độc ác. Phan tiên sinh nói phải rồi. Nào có ai ngờ, đến hai đại Phụ chính Tôn Thất Thuyết và Nguyễn Văn Tường cùng dốc lòng cho cuộc bạo động của minh Vương, ấy thế mà Phụ chính Tường bỏ dở đường trường của Đức Vua Hàm Nghi, nghe lời Tây, quay đầu, tìm cách lật ngược Tôn Đại thần? Đến ta, mới đây thôi cũng được người Pháp dụ hàng. Tây Bắc nhiều tộc người tập tục khác biệt, đầu óc cũng khác biệt. Lại thêm hàng hào lý, mua tranh chức tước, ham hố chơi bời, cục bộ lãnh địa, thì làm sao mà tránh hỏi sự lừa phỉnh của người Pháp.
Càng nghĩ, Hiệp thống càng thấy lo ngại cái điều toàn quyền, công sứ, đặt ra: “Chia để trị!, Chia để trị!”
Chưa kịp chợp mắt thì văn thân Trần Ngọc Dư bước vào trình làng, sứ thần của Phan Đình Phùng đã nhận lời ân trao của Đại thần Hiệp thống hứa sẽ chuyển lời trực tiếp đến Phan tiên sinh. Hiệp thống thấy vui, vẫy thủ túc lại gần, thuận miệng, Ngài nói chuyện sử sách những thời Lý, Trần, Lê. Văn thân Dư nhân chủ đề do Hiệp thống khởi xướng mà nói.
– Tướng Công! Triều Tây Sơn, mưu thần Tĩnh phái hầu Ngô Thời Nhậm một văn quan phò tá Nguyễn Huệ – Quang Trung, Đặng Trần Thường nhiệm tấu với Đức Vua xin chức nho sỹ đầu phủ. Tĩnh phái hầu hiểu rõ Thường là người có bụng dạ cơ hội nên khuyên ông ta nên chọn việc khác. Trần Thường đem lòng ghen ghét người mình từng có ý nhờ cậy. Quang Trung mất, Nguyễn Ánh triệt hạ cận thần tôi trung, cho bắt Ngô Thời Nhậm, sai chính Đặng Trần Thường hành xử. Thường mỉa mai đọc một vế đối: “- Ai công hầu, ai khanh tướng; trong thần ai, ai dễ biết ai!” Ngô Thời Nhiệm nhìn thẳng vào mắt Trần Thường mà đáp: “- Thế chiến quốc, thế xuân thu; gặp thời thế, thế thời phải thế”. Thường uất ức mà sai lính đánh thần Tĩnh phái hầu cho đến chết.
Ngư phong Tướng công đứng lên đi đi lại lại trong phòng nhỏ, giọng trầm ấm:
– Đức vua Quang Trung là người Anh hùng, mưu thần Ngô Thời Nhậm xứng đáng là Tĩnh phái hầu của vị Vua Anh hùng ấy.
Thám báo Quý đất dò la từ Nghiêm Thái Báo biết tin Bố chánh Phó tướng công ốm vì sốt rét rừng thì mừng lắm, liền tâu ngay với Trương Đen. Đại úy Đen lên tư phòng đồn Cửa Nhì tìm gặp thượng cấp Binh đoàn.
– Chào “thiếu tá” phòng nhì chiến hữu!
– Chào ngài Borítx. Hy vọng lời của ngài sớm thành hiện thực! Trương Đen tế nhị.
– Ồ. Chỉ trong trận trước mặt này thôi, lon tá của người Việt sẽ không ngoài ai khác.
– Vâng. Thưa đại tá. Tin tức mà tôi khổ công tìm được sau đây sẽ là tốt cho cả ngài, và cả Trương Đen này nữa.
– Ô kê, ô kê!?
– Ta nên mở ngay một trận tập kích vào Nghĩa Lộ, chưa cần tới tướng Giamông phải biết đến. Hì!
– Tôi e rằng khó chắc thắng vì Sơn phòng Mường Lò của “Tuần phủ” Bích vẫn nhiều tay chân thuộc hạ giỏi bao quanh.
– Trương Đen cười hơ hớ.
– Đấy. Chính là chỗ đấy. Thưa ngài đại tá. “Tướng” số một của “Tuần phủ Bích” là Nguyễn Văn Giáp đang ốm thập tử nhất sinh, “bọn’ Đề Kiều, Đề Doãn, Đề Cương thì đang đi các tổng vận động lập dân binh. Chỉ còn… chỉ còn Lãnh Hoan là hơi đáng ngại. Thời cơ đến rồi, thưa đại tá Bo!?
– Nếu đúng như đại úy nói thì đáng lo gì. Bo rítx đưa mạnh bàn tay về phía trước. Ta chọc thằng đến bản doanh quân phiến loạn Triều đình rồi rút nhanh. Ít ra cũng bắt sống “Tướng” Bố chánh khiến “Tuần phủ” và binh quân nó rối loạn.
Hai tên chỉ huy “Đạo binh sông Hồng”, một xâm lăng, một phản quốc; vỗ đùi nhau cười khằng khặc. Bất chợt Borítx nghiêm trang hỏi Trương Đen.
– Đại úy, trận này ngài cùng với tôi được chứ?
Trưởng phòng nhì giật mình nhớ đến lần chết hụt trận Tuần Quán, mỉm cười chống chế.
– Sẵn sàng, thưa đại tá. Nhưng việc “đi” của tôi phải được tướng Giamông đồng ý, nên… nên tôi cử trung úy Quý đất “cây số một” của T90, và một điệp viên nằm vùng đầy khôn ngoan. Thưa ngài Bo!
Nói đến Quý đất, Borítx đã biết tên tuổi, mưu lược chiến tích do thám và tham vọng lên lon. Nhưng còn một điệp viên của ta nằm vùng…
– Đại úy, đấy cũng là chiến công của ngài chăng, ngài cho tôi biết rõ về con người này?
– Đó là Nghiêm Thái Báo. Tên thật là Nguyễn Thái, anh ta giỏi viết, được chánh tổng Đào Ngô Dụng tin dùng, xếp của Dụng là Vũ Lệch cao tay cổ xúy. Nghiêm Thái Báo đã mấy lần ra vào Bản doanh phiến quân, biết rõ cả dung nhan, cá tính, sở thích, và nhất là bản lĩnh của từng chỉ huy quân tướng Thủ lĩnh Tuần phủ!
– Chà, chà. Đại úy Đen, ngài hãy “nắm” ngay con người này. Ngài thống quản miền tây tướng Bricdlin sẽ không tiếc gì cho con người này: chức tước, đất đai, gái đẹp, cả dạo chơi Pa ri hoa lệ nữa.
– Cám ơn ngài đại tá cánh trưởng miền tây.
Chỉ nửa ngày, thiếu tá quan ba Bô đanh được Borítx gọi đến giao nhiệm vụ lãnh hội tiểu đoàn tinh nhuệ của cánh quân miền Tây, được Quý đất và Nghiêm Thái Báo đưa đường, nhận diện đối phương, đợi lúc các nhà sàn làng Nhì tắt đèn đi ngủ bí mật xuất phát, ém mình trên đất Phù Nham chờ lệnh tập kích đồi Pú Lo Nghĩa Lộ nơi Bản doanh của Phó Tướng công Bố chánh Nguyễn Văn Giáp.
Cánh quân của Bôđanh được đặt biệt danh “Quạ đen”.
Đêm tối, phải bí mật, lại không có sự chuẩn bị kỹ lượng nên “Quạ đen” tập hợp một số lê dương, khố đỏ, khố xanh, đội dõng tổng tại một đồi đất đầy cây nhãn. Mùa này tháng mười, nhãn Văn Chấn ngọt mọng. Mấy trai bản đến bẻ cành nhãn quà cho các bạn gái, bỗng thấy quân lính lố nhố giữa các lùm cây. Một trai bản gặp Lò Văn Ún, dõng binh canh điếm Phù Nham.
– Ún à. Mày sắp đi đâu mà súng ống thế?
– Đi đánh Pú Lo? Đánh quân phiến loạn Pú Lo. Chánh tổng “bảo” thế!
Trai bản giật thót. “Pú Lo là nơi có người của ông Hoàng Văn Thúy (Đề Kiều) rồi. Nghĩ vội, chàng trai tách khỏi đám bạn chạy đến nhà tạo bản. Trưởng bản Cầm Văn Xay cho con trai phóng ngựa đến Pú Lo (Núi Lò).
Bố chánh Nguyễn Văn Giáp giao lệnh cho Vương Văn Doãn. Đề Doãn xin được tập kích thằng vào trại tập trung “Đồi nhãn” phá giặc ngay từ bên trong.
– Không thể kịp đâu Đề đốc. Ngài hãy lấy suối Thia làm tuyến chặn, tôi lấy ngã ba Phắc Kết làm tuyến hai. Tôi sẽ trực tiếp chỉ huy tại đây đề phòng quân Pháp đổ bộ vào Nậm Tộc. Nói đoạn Bố chánh sai liên lạc đi gấp vào gặp Lãnh Hoan.
Đề phó Vương Văn Doãn chắp ốp bàn tay như lời chào ra trận, rồi nhảy lên ngựa. Dưới chân Pú Lo, đại đội hỗn hợp của quân binh và dân binh Mường Lò do Nông Văn Quang và Lý Hữu Kim chỉ huy, cũng đang tiến ra suối Thia.
Tất cả, như chỉ còn chờ thấy quân Pháp lố nhố bước xuống bờ bên kia suối là Vương Văn Doãn ra lệnh chuẩn bị nổ súng và giáp trận. Phía tuyến hai Phắc Kết Bố chánh Nguyễn Văn Giáp cũng chỉ chờ chín viên đạn của ba loạt tiểu liên điểm xạ là tướng quân dân binh sẵn sàng tiếp ứng.
Trời càng về khuya.
Tiếng gà gáy hai, gáy ba.
Bình minh hướng đông cánh đồng Mường Lò trải rộng, lên dần.
Bờ suối Thia im ắng.
Thám sát của Vương Văn Doãn trở lại chính thức báo cáo, quân Pháp ở trại binh Cửa Nhì vẫn nguyên vị trí cũ, chưa thấy dấu hiệu hành quân về hướng tây.
– Thế là sao nhỉ? Chẳng lẽ thám sát của ta bị chúng nghi binh, hoặc nghe tin không chắc chắn đã vội vàng về báo. Phó Đề đốc băn khoăn.
Bố chánh Giáp ung dung tự tại trên yên ngựa nhìn về phía Phù Nham, cửa vào Nghĩa Lộ:
– Có hai khả năng. Một là quân Pháp đột ngột tạm dừng trận càn để chờ có thêm lực lượng viện binh. Hai nữa, thấy không chắc thắng nên cũng tạm dừng. Theo tướng quân là ý nào?
– Phó Tướng công. Sẽ là khả năng thứ nhất. Vương Doãn đáp.
– Nếu thế thì ta mở rộng tuyến phòng thủ để nếu chúng bất ngờ đánh vào các cửa. Ta đã chủ động đối phó.
– Vâng. Xin Tướng công ra lệnh. Một cuộc hội ý gấp và gọn do Bố chánh thay mặt Thủ lĩnh Tướng công chủ trì.
Hiệp đốc Nguyễn Văn Giáp nói rắn chắc:
– Cửa suối Thia, Tướng quân Vương Văn Doãn có thêm Lý Hữu Kim, Hà Đình Đặng và Nông Văn Quang, cửa suối Nung là Đề Cương, có thêm Lả Xanh, Lò Văn Kim, sau lưng Mường Lò là Giàng Nủ Knâu và Đặng Phúc Thành, Bàn Hiệp đề phòng quân Pháp từ Than Uyên xuống. Cửa Trạm Táu Hạ giao cho Nguyễn Quang Hoan. Bảo vệ Bản doanh trông cậy vào Đề đốc Kiều và Đội vệ binh sơn phòng.
Nói đoạn, Bố chánh dừng đột ngột. Ông thấy tức tức trong lồng ngực mà vẫn cố gắng hít một hơi dài. Rối mới tiếp lời.
– Sở chỉ huy chung của tôi đặt ở bản Căng Nà. Các tướng quân trực tiếp nhận lệnh từ các liên lạc viên cảm tử. Tôi liên lạc với Thủ lĩnh Tướng công thông qua đội binh Đào Xuân Thái và Cầm Văn Dón.
Bố chánh lại thấy tức ngực, bàn tay ngài xoa xoa vào lồng ngực mà nói.
– Có thể hôm nay, ngày mai hay hôm nào Pháp đánh Mường Lò, đấy là việc của chúng. Còn đạo binh ta ư? Sẵn sàng nhận lệnh Hiệp thống Thủ lĩnh.
Các tướng quân đứng dậy. Bố chánh nắm tay từng người, cười nhẹ. Ông thấy mệt, nên vỗ vỗ hai bàn tay vào nhau như ra hiệu điều gì. Không, ngài không ra hiệu, mà nói.
– Sau tôi, là Phó Đề đốc Vương Văn Doãn, làm Phó chỉ huy trận chống càn của quân Pháp vào bản doanh Mường Lò này.
Các tướng vái chào Bố chánh rồi rời sở chỉ huy doanh trại Pú Lo.
Đúng như phán đoán của Bố chánh Hiệp đốc. Khi kế hoạch bất ngờ tập kích bản doanh Pú Chạng của Borítx vừa được động binh thì đầu dây đàm thoại bên kia – Đồn Tuần Quán, giọng tướng Giamông tổng chỉ huy cánh tây:
– Đại tá, ngài định một mình bắt sống được quân Triều đình phiến loạn đấy sao?
– Thưa thiếu tướng. Ngoài mặt trận, thời cơ đến, tôi có thể ra lệnh. Borítx rắn giọng đáp.
– Ngài nói không sai, nhưng cũng không đúng. Là đại tá quân đội viễn chinh chuyên nghiệp, ngài tự hiểu chứ? Trước mặt ngài chỉ là mấy tên phiến loạn, nhưng sau lưng ngài là các cuộc biểu tình của dân chúng Pháp, họ đòi xác con em họ!?
Borítx thừa hiểu điều đó, nhưng đấy là việc của trung tướng Muniêzơ Bắc Kỳ, trên nữa là đại tướng Đlamnétxăng Toàn quyền  Đông Dương, chứ chưa phải là lon tướng cánh trưởng miền Tây như “ngài” đâu!! Đại tá Borítx chấp nhận ra lệnh tạm dừng cuộc tập kích Pu Chạng trong đêm trăng tháng mười Đinh Hợi, nhưng vẫn tìm cách thực hiện nó sớm nhất.
Tướng Giamông đình chỉ lệnh cấp dưới nhưng đã kịp cấp báo đến Thống quản miền Tây Brícdlin chỉ trong một giờ. Và cũng chỉ trong một giờ nữa Giamông đã điều một tiểu đoàn bộ binh đóng ở châu Than Uyên cấp tốc từ đèo Púng luông, Khau Phạ đánh úp Trại binh Nậm Khắt của Giàng Nủ Knâu, tốc thắng, tập kích trại binh Nậm Mười của Bàn Hiệp, thần tốc đánh vào Nghĩa Lộ, trung tá người Việt Nguyễn Công Vang huyênh hoang rút ngắn thời hạn ba ngày xuống còn hai. Tướng Giamông hứa sẽ thăng hàm cho Vang sau chiến thắng.
Giamông lại điều tiểu đoàn tinh nhuệ do thiếu tá Oóclăng từ Yên Lập theo đường Thu Cúc, qua Thượng Bằng La, ém quân sát bên nhà thờ Đồng Lú, chờ lệnh chiếm lĩnh tổng phủ Hạnh Sơn, thọc sườn Pu Chạng.
Đương nhiên đại tá Borítx cũng đang đợi lệnh rời đồn Cửa Nhì vượt suối Thia tiến vào thủ phủ Mường Lò là Nghĩa Lộ.
Kế hoạch “ba mũi” của tướng Gia Mông khá tạo bạo, thần tốc, và mạnh tay.
Thủ lĩnh Tướng công chưa được văn phòng Bản doanh thông tin về cuộc vây ráp ba mặt đánh chiếm Nghĩa Lộ và lập đồn Pu Chạng của tướng Giamông. Nhưng ngài lại rất tin ở sự nhậy bén và tài thao lược ứng phó của Bố chánh Nguyễn Văn Giáp. Thủ lĩnh có phần bình thản hỏi Đề đốc Kiều và thủ túc Dư về đường lui chiến lược và bước lánh chiến thuật.
Đề đốc Kiều:
– Thưa Hiệp thống Tướng công. Đường lui chiến lược là Tôn Sơn xã Mộ Xuân, Yên Lập. Còn, nếu tạm lánh, hoặc là bản Mèo, hoặc là bản Xá Cẩu (Khơ Mú) thùy theo hướng tiến của quân Pháp.
Thủ lĩnh khẽ gật đầu. Thủ túc ghi nhanh bản lĩnh quyết đoán của Tướng công và Đề đốc.
Mũi tiến của Oóclăng đến Thượng Bằng La bị quân binh và dân binh của Hoàng Thương Thân dùng lợi thế đèo núi đánh chặn giam chân tại chỗ không thể vào Đồng Lú. Sợ bị đánh tập hậu thiếu tá Oóclăng vội vã rút lui. Mũi thứ hai nhờ có ngựa binh hỗ trợ. Trung tá Nguyễn Công Vang cho đội chiến mã xông trận, lọt qua được trại binh Nậm Khắt của Đào Chinh Lục (Giàng Nủ Knâu), một nửa lính bộ binh bị tụt lại. Giàng Nủ Knâu cho bao vây, đám lính khố xanh, dõng binh, hầu hết là người địa phương đứa giơ tay hàng, đứa bỏ súng chạy lấy người. Nguyễn Công Vang hiếu thắng định xông thẳng tới Mường Lò, vừa đi vừa cướp bóc của dân bản. Biết tin, Đặng Phúc Thành và Bàn Hiệp cho cào đất đá, chặt cây cối, ngổn ngang đoạn đường Gia Hội. Bị đánh cắt đường Công Vang tiến mắc, lui vướng liền hô quân bỏ ngựa, tử chiến. Trung tá ngạo mạn Nguyễn Công Vang bị một chiến binh nghĩa sỹ người Dao giơ khẩu hai nòng nhằm thẳng. Hai viên đạn ghém nổ dòn Nguyễn Công Vang ngã nhào xuống chân con ngựa trận mầu đen.
Hướng nam, trục chính, hai tiểu đoàn của Trại binh Cầu Nhì được lệnh tiến vào Nghĩa Lộ với hai mũi kìm qua bản Thanh Lương và Phù Nham.
Đại tá Borítx:
– Quan hai Nôốckê. Hy vọng ngài qua Thanh Lương, Hạnh Sơn, Viềng Công và có mặt tại trại binh quân phiến loạn ở Nậm Tộc một cách dễ dàng và bắt được cọp. Được chứ?!
– Hô hô! Việc đó trong tầm tay tôi, thưa ngài chỉ huy. Nôốckê cười to.
– Còn thiếu tá Luýt-lina. Ngài lấy của nàng Ly na cái tên làm mật danh là hay đấy. Ngài hãy chỉ huy một tiểu đoàn thiện chiến, theo hướng Phù Nham, Nghĩa Lợi, mà bao vây Phắc Khết. Sẽ đón quân trung tá Nguyễn Công Vang từ Tú Lệ ra tại đó rồi cùng đổ bộ lên “Ông Voi” khóa tay Nguyễn Quang Bích. Chúc ngài đem được bông hoa ban ép trong sổ tay ngày nào, về Pa Ri tặng nàng Ly na bạn gái. Borítx mỉm cười.
Luýt – li na dậm chân giầy da, giơ tay chào kiểu nhà binh Pháp.
– Rõ!
Bo rítx bước lên bệ đá cao vuông vắn. Trước mặt y là các sỹ quan Pháp, Việt. Có đủ thành phần: Âu phi, lê dương, khố xanh, khố đỏ, dân vệ, bảo an binh. Bo rítx vung tay súng ngắn, hô lớn:
– Xuất phát!
Thám sát báo tin đến Bố chánh Nguyễn Văn Giáp: Quân Pháp sẽ đồng loạt tiến công từ ba hướng; đông, chia hai mũi; tây, tiểu đoàn người Việt, và đông nam, có thổ dân đưa đường đến Đồng Lú.
Bố chánh hỏi lại:
– Hướng đông, hai mũi khả năng vượt suối Thia ở những địa điểm nào?
Thám sát:
– Cũng chưa rõ, nhưng chắc chắn trên địa bàn Phù Nham và Thanh Lương.
– Được, cần theo dõi tiếp và báo cáo nhanh.
Từ sở chỉ huy Phắc Khết, Phó Tướng công cho liên lạc đến trạm chỉ huy của các tướng quân:
“- Giữ nguyên kế hoạch đánh chặn đã ban lệnh”
Ban lệnh xong, Hiệp đốc Bố chánh nhảy lên yên ngựa cùng Lả Xanh thắng cương đến thẳng Bản doanh.
– Thủ lĩnh Tướng công và Đề đốc Kiều. Tình hình nguy cấp lắm. Phương án đánh chặn, đánh giáp mặt ba hướng bốn mũi đã được chốt và ban lệnh. Xin Hiệp thống tạm lánh lên bản Mèo ít ngày. Việc Bản doanh sẽ do Đề đốc quyết định.
Tướng công:
– Ngài Hiệp đốc. Bích tôi cũng đã được biết. Tôi đồng ý tạm lánh lên động Mèo dăm bẩy hôm. Cùng bên tôi là Đề đốc, Thủ túc và đội vệ binh Cầm Văn Dón. Bản doanh Núi Voi – Nậm Tộc, Đề đốc Kiều giao cho Lãnh Hoan tổng chỉ huy.
Bố chánh và Đề đốc khoanh tay cảm tạ. Hiệp thống bước đến bên Nguyễn Văn Giáp.
– Tháng nay sức khỏe của Tướng quân suy giảm, mà giặc Pháp thì đốc binh thôn tính những người yêu nước, những dân Nam tôi trung với Đức Vua chủ chiến Hàm Nghi.  Ta lo lắng cho sức lực của Tướng quân, mong ngài ủy thác trận chiến sinh tử cho Phó Đề đốc để dãn sức, lo việc lâu dài.
Đại thần Hiệp thống giang hai tay ôm chầm lấy bạn hữu – Phó tướng công Bố chánh rồi trở lại hành dinh. Hiệp đốc cùng Lả Xanh vội vã lên ngựa, giật cương, phi thằng về trạm chỉ huy Phắc khết.
Đại tá Borítx là một sỹ quan nhà nghề của quân đội Pháp ở Đông Dương giữa thế kỷ XIX. Ông ta đã từng chinh chiến tại nhiều nước nhất là khối thuộc địa Pháp với câu nói được cho là gieo vào lòng hàng sỹ quan hiếu chiến: “- Nước Pháp, không để thuộc địa tuột khỏi tay mình!”. Với luận điểm chiến tranh ấy, Borítx đi đến đâu, là tìm mọi cách giành giật phần thắng. Viên đại tá viễn chinh đã được chính phủ tặng nhiều “Anh dũng Bội tinh” các hạng.
Borítx đến Việt Nam (An Nam) với tư cách đã từng là một người hùng của các miền biên ải. Lần này công sứ Bắc Kỳ, tướng Muniezơ giao ông ta cho thống quản miền tây nhưng đặt dưới sự cai quản của tướng Giamông nên Bo hậm hực. Đã nhiều lúc phớt lờ cấp trên trực tiếp; nhưng vì cái lon tướng nay mai, nên đại tá Bo quyết “dẹp” bằng được các thủ lĩnh của vùng Tây Bắc trong đó có Thủ lĩnh kháng chiến Cần Vương mà Toàn quyền Đông Dương Đlam nét xăng gọi đó là nhóm quân Triều đình phiến loạn trên đất Bắc.
Đại tá Borítx đang dốc mình thực hiện mật danh “T.90” của tướng Bricdlin, nghĩa là trước năm 1890 người Pháp phải kiểm soát toàn bộ miền Tây Bắc An Nam. Bởi vậy khi nghe tin tiểu đoàn khố đỏ tăng cường từ Yên Lập lên, bị đánh chặn ở Thượng Bằng La, đã bỏ cuộc. Tiểu đoàn khố xanh người Việt từ Than Uyên xuống cũng đã bị quân Mèo, quân Mán đánh cho tan tác. Nghe đâu trung tá chỉ huy có tên là Nguyễn Công Vang cũng đã trúng đạn súng săn thú rừng mà ngã ngựa. Ba hướng bốn mũi hẹn điểm Nghĩa Lộ, là sản phẩm của Gia mông cấp trên, coi như phá sản. Bây giờ là một hướng, hai gọng kìm, kế hoạch của chính đại tá Bo, bị tướng Gia mông bác bỏ, lại đang sắp hoàn tất kết thúc có hậu. Báo cáo “đỏ” sắp được gửi về Hà Nội, ký tên “Borítx”. Cánh trưởng miền tây, đại tá Borítx sướng run, cho trợ lý thúc hai mũi quân tiến nhanh hơn, đánh mạnh nữa, bắt được các đầu binh phiến loạn.
Quan hai NoốcKê ngồi trên lưng ngựa xám vung súng ngắn. Khuôn mặt đầy lông, mũ bạt cứng, quần áo nhà binh có đến tám túi, trông y hung hăng không kém gì cấp trên Borítx, chỉ khác Bo mặt bè, mắt xanh, mũi dẹt. Sau NoốcKê là đại úy Tinh, người Nam. Tinh từng là du kích Bắc Bộ, bị quân Pháp bắt, chiêu hàng. Lập công chuộc tội bằng việc khai báo quân Pháp triệt hạ cả một đơn vị du kích xã. Tinh được đặc cách phong chức cai đội về Hà Nội huấn luyện, rồi biệt phái ra Hải Phòng, lại lập công, được thăng vượt cấp lên đại úy. Hai con ngựa trận lùi lũi đi sau tay thổ dân đưa đường đúng như sơ đồ lộ trình mà thám báo T90 Quý đất vẽ trước đó: Thanh Lương, vượt suối Thia, Viềng Công, tiến vào Nậm Tộc chân Núi Voi!
Bờ suối Thia, đoạn con suối rộng đến mét, nước chảy chỗ xiết chỗ chững, tán lá cây bờ tây um tùm Phó Đề đốc Vương Văn Doãn dăng đội hình mật phục bên tay trái; nước chảy chững được cho là lối lên xung yếu, quân binh của Hà Đình Đặng chờ sẵn. Bên phải, là đốc binh Lý Hữu Kim và đội binh Nông Văn Quang. Mỗi đội năm chục tay súng. Đủ thứ binh khí thô sơ. NoốcKê chủ quan, chọn đoạn nước nông và rộng hô “tiến”. Đám lính dõng của sở tại, rồi đám khố xanh, bốn năm đầu ngựa chỉ huy, sau lưng là khố đỏ, lê dương.
Đại úy cai đội Tinh ghé tai do thám Quý đất:
– Cảnh làng quê An Nam mình thơ mộng quá. Núi, sông, đất, đá, con người… như hòa làm một vậy.
– Anh Tinh. Quý đất đi sát ngựa cai đội thủ thỉ, vô vàn tài nguyên khoáng sản. Bao giờ người Pháp cai quản, em đảm bảo sẽ biếu không anh Cai đại úy vàng bạc châu báu vùng Mường Lò này.
Cai Tinh giật mình. Quan hai Pháp đang dong ngựa sát bên sườn nhưng vẫn kịp ném theo Quý đất đang lẽo đẽo đạp trên đám đá cuội giữa lòng Thia.
– Chú này. Đại úy Tinh như anh đây, làm sao có thể quên thằng em Quý đất lúc gian khó này. Hì hì.
Đám lính đã sang gần đến bờ tây.
– Giết, giết giặc Tây! Lý Hữu Kim hét lên. Ba phát súng nổ liên thanh.
Lập tức cả đội quân binh nghĩa sỹ túa ra mặt bờ suối. Những binh sỹ thổ dân quen với đồi suối, tay dao, tay mác nhảy “cóc” trên những hòn đá lổng chổng. Những tiếng hét vang trời cứ nhằm đám giặc mà nhảy bổ tới đâm, chém. Ném đá. Lũ giặc bị bất ngờ rối tinh, bắn loạn xạ. Tinh cai đội quát.
– Bắn, bắn vào quân phiến loạn. Bắn mau!
Các khẩu tômxông, bờranô, mútcatong nhả đạn đoành đoành. Chét, chét…
– Có thằng Tây râu quai nón chắc là chỉ huy. Lý Hữu Kim chỉ tay.
– Để em ra!
Nông Văn Quang khoác khẩu kíp vào vai, rút ngọn giáo nhọn hoắt men theo sườn tảng đá. Lý Hữu Kim tỳ súng yểm trợ. Thằng Tây xoay xoay cặp cương hàm thiếc. Con ngựa xám chồm lên.
– Mày chết này!
Nông Văn Quang dùng hết sức lao ngọn giáo vào thằng Tây. “- Ơ kìa. Nó ngã ngựa rồi”. Quang kêu lên xô lại. Thằng Tây mặt đầy lông vàng trợn mắt, tay vẫn lăm lăm khẩu súng ngắn. Ngọn giáo có cạnh của đội binh Nông Văn Quang ngập sâu vào ngực trái quan hai Pháp Noóckê khiến hắn ngã xoài giữa suối, con sám mã lồng lên. Cai Tinh nhìn rõ chỉ huy quan Tây ngã lộn thì quay đầu ngựa. Một viên đạn ghém từ đâu bay trúng đầu. Đại úy Tinh được hai khố đỏ dìu ra ven bờ đông. Có đến bốn năm chục xác lính. Thằng chết, đứa bị thương. Nước suối Thia ngả đỏ dòng.
Chỉ huy Noóckê chết tại trận. Cai Tinh ôm đầu máu. Khố đỏ khố xanh nằm ngổn ngang. Riêng thám báo Quý đất thoát trận, y vỗ vai một khố xanh. “- Tao nhìn thấy bọn “Cần Vương” từ bờ bên kia rồi, nên tìm cách lỉnh ra đằng sau mới thoát chết!”
“Mũi tiến Viềng Công” mới đến giữa dòng suối Thia, quân tướng Noóckê đã tan tác.
Nhưng số trời không chiều đạo binh Cần Vương. Quân Pháp kéo cờ bước xuống ven bờ nam dòng suối Thia, đội binh Tây tỏ ra hùng dũng, dàn hàng vượt đoạn nước chảy chùng. Đội quân binh của Đề Doãn và Hà Đình Đặng đã nhìn rõ. Mặt suối rộng tới gần một trăm mét, giặc Pháp đang tiến sang bờ tây. Nghĩa binh ai cũng nắm chắc tay súng, tay kiếm, tay dao, nín thở.
Bỗng Lả Xanh hớt hải chạy đến Đề Doãn.
– Tướng quân, tướng quân. Bố chánh lên cơn đau ngực dữ dội lắm. Chắc khó qua khỏi!
Nhìn mặt Lả Xanh tái nhợt Phó Đề đốc hiểu ngay Tướng công Hiệp đốc gặp phút hiểm nghèo. Bờ suối bên kia quân Pháp vẫn đang tiến sang.
– Tướng quân. Hà Đình Đặng nói như ra lệnh. Đề đốc về ngay với Tướng công Bố chánh đi. Ở đây tôi sẽ lo!
Phó Đề đốc Vương Văn Doãn gạt nước mắt nắm hai tay Hà Đình Đặng
– Tôi về trạm. Tướng công Bố chánh đang nguy kịch. Tất cả do Đốc binh quyết định. Nếu không thể cứu vãn thì phải gắng bảo vệ quân binh để còn chiến đấu lâu dài!
Nói đoạn Đề đốc nhảy lên ngựa phi theo sau Lả Xanh.
Mũi chiến do đại tá Borítx trực tiếp chỉ huy, qủa thực rất mạnh. Lại có cờ Pháp có súng máy đi cùng. Quân tướng tự tin đến ngạo mạn. Có lẽ lúc này viên đại tá cánh trưởng miền tây vẫn chưa hay biết ở phía ngọn nguồn, mũi tiến qua Thanh Lương sang đất Hạnh Sơn, chiếm thành Viềng Công, đã bị đội binh bản xứ Lý Hữu Kim, Nông Văn Quang đánh chặn, đâm chết cả chỉ huy, phải tháo chạy. Quân nghĩa sỹ cũng vậy, sau khi đập gục được quân Pháp, Lý Hữu Kim ra lệnh chuẩn bị tinh thần, vũ khí, sẵn sàng đánh đội tiếp viện mà có biết đâu, cách đó chỉ ba cây số nơi hạ dòng, tướng quân Vương Văn Doãn đang bối rối trước phút giây Phó Tướng công đang nguy kịch vì bệnh trọng, phải về lo liệu đại sự, hay ở lại chỉ huy đánh quân Pháp đang tiến sát thành Nghĩa Lộ?
Không còn cấp chỉ huy nào ở bên cạnh để trao đổi, Hà Đình Đặng đơn phương quyết định phương sách đánh ghìm chân giặc. Đốc binh phán đoán đoạn đường bộ của địch, rồi ra lệnh tản quân sang hai bên, đoạn chọn năm tay súng bắn tỉa giỏi nhất, đón sẵn cửa lên, chỉ nhằm vào ngựa và kẻ ngồi trên ngựa mà bắn. Phương án không có sẵn này, cũng chỉ mười phút, quân binh đã sẵn sàng.
Chú thích:
([1]) Các bậc cao niên Đại Lịch (cụ Phạm Văn Tích, cụ Phạm Văn Đăng, nội tộc Lãnh Tế, Lãnh Năm) kể lại: Trong cuộc kháng chiến Cần Vương, Pháp đã 3 lần đánh vào Đại Lịch, đều do đại tá Bo rítx chỉ huy (Tháng 1.1887, tháng 5.1887, tháng 9.1887) chưa kể các đợt hành quân đi qua. Các trận trên đều bị Vương văn Doãn, Trịnh Bá Đanh cùng Lãnh  Tế (Phạm Đình Khải), Lãnh Năm (Phạm Đình Thọ), Đốc binh Hà Văn Đặng, Đội binh Hoàng Đình chỉ huy nghĩa binh, dân binh Đại Lịch đánh trả. Trận Đầm Rôm tháng 8.1887 Tổng khảm Trịnh Bá Đanh hy sinh, đội binh Hoàng Đình và Hà Văn Đặng bị thương. Ta tiêu diệt 2 sỹ quan và hàng chục lính khố đỏ, khố xanh.
([2]) Theo Gia phả họ Hà Đình xã Đại Lịch tỉnh Yên Bái
([3]) Theo ông Hà Thiết Hùng nguyên Bí thư Tỉnh ủy Hoàng Liên Sơn, quê ở xã Thượng Bằng La. Sau trận giao tranh với quân Pháp, thung lũng chân của ba ngọn núi, được gọi là Lũng Pu Thương, ngọn núi cao nhất cũng được nhân dân địa phương gọi là núi Pú Thương – ông Thương, bố Thương – tức lãnh binh Hoàng Thương Thân. Hậu duệ Hoàng Thương Thân nay chưa rõ cụ thể là ai? (tác giả ghi chép 2015)
([4]) Nhận định trên đây là ý kiến của Giáo sư Đặng Nghiêm Vạn trong bài viết: “Vài hoạt động của Nguyễn Quang Bích qua tư liệu Thái” trong cuốn sách: Nguyễn Quang Bích , nhà yêu nước, nhà thơ. NXB KHXH.1993. Trang 189.
([5]) Bản dịch nghĩa của Trần Huy Liệu. 1957
([6]) Bản dịch của Ngô Đức Tĩnh
([7]) Một só tài liệu lịch sử Tây Bắc ghi lại: Sau khi Bố chánh Nguyễn Văn Giáp mất, Pháp tập trung vây thành Nghĩa Lộ. Có hào lý bỏ trốn rồi ra hàng Pháp trong đó có Đèo Văn Trì Tri châu Mường Lay; Chiêu Tấn, tri châu Than Uyên, Hoàng A Phi thổ ty Bắc Hà…
1/12/2021
Hà Lâm Kỳ
Theo https://vanvn.vn/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Sao em không đợi

Sao em không đợi? Chiếc xe hơi ập đỗ trước cổng. Xe phủ trắng bụi đường. Chứng tỏ chặng đường đi xa xa lắm. Người đàn ông đầu hói, mặt cổ ...