Thứ Năm, 26 tháng 12, 2024

Thủ lĩnh Rừng Già 1

Thủ lĩnh Rừng Già 1

Tuần phủ Tư lệnh thành Nguyễn Quang Bích như bừng tỉnh sau cơn mê hoảng. Ngài cố mở đôi mắt như đang bị thôi miên nhìn rõ khuôn mặt Đề đốc, khuôn mặt tả hữu văn, võ, hộ vệ, rồi lặng lẽ đứng dậy bước xuống bậc thềm. Ngoài kia, tiếng súng chát chúa, tiếng la hét rầm trời, lửa đã cháy lan cả vào cổng chính tòa thành…
Dân ta, phải biết sử ta
Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam
Hồ Chí Minh
Chương I. Cửa hậu
– Chủ tướng, Chủ tướng. Lửa cháy đỏ mặt thành rồi. Xin chủ tướng mau mau rời khỏi thủ phủ theo đường cửa hậu!
– Tướng công. Không thể chần chừ hơn được nữa. Phải bảo toàn thân thể Ngài và Đại quân binh. Hãy rời khỏi tòa thành!
Những lời khẩn khoản đầy trách nhiệm của đám tướng sỹ làm cho Tuần phủ Tư lệnh giây phút đang như pho tượng bỗng trở mình quay lại.
– Vâng. Thưa Chủ tướng. Xin Ngài ra lệnh mở đường cảm tử, thoát ra ngoài rồi ta sẽ liệu bề. Chánh Đề đốc Đề Kiều Hoàng Văn Thúy chắp hai tay sốt sắng thưa.
Chánh Tuần phủ khẽ lắc đầu, hai hàng nước mắt ứa tràn gò má gầy hom của vị thủ lĩnh già. Năm bẩy tướng sỹ và hộ vệ bản phủ cúi đầu chờ một lệnh quyết tử từ Tư lệnh Võ công.
Tuần phủ đúc thanh gươm có đốc kiếm đầu rồng vào vỏ bao, rồi nhẹ nhàng tháo đai da bên mình. Hai mắt Ngài như có lửa cháy. Thủ lĩnh bước đến trước mặt Đề Kiều, hai tay lặng lẽ nâng vương kiếm đặt vào lòng vị tướng trung thành.
“- Tướng quân trao kiếm sao?”
“- Tướng quân hạ vũ khí ra thành sao?”
“- Chủ tướng…”
Đề Kiều thấy run trong người. Mệnh lệnh của Thủ lĩnh? Mà ta là ai? Rồi sẽ là ai trước Tuần phủ thủ lĩnh, trước vận mệnh Cần Vương? Thoáng nghĩ, nhưng rồi Đề Kiều vẫn đưa hai bàn tay đón nhận hộp kiếm báu, vừa như sục sôi, vừa như vô cảm.
Bỗng chốc Tư lệnh phủ quay người bước nhanh theo bậc thang rồi chạy lên sân thượng tòa thành. Trước Đài kính thiên, lá cờ Vương triều đang ngạo nghễ bay trước mặt sân thượng Tòa cung Hưng Hóa. Quân sỹ hộ vệ hiểu ngay Tổng tư lệnh đang sắp làm gì (?). Thành Hà Nội từng thất thủ, Tổng đốc Đại thần Hoàng Diệu tuẫn tiết. Danh nho trung quân, ái quốc (?)…
– Tuần phủ Tổng tư lệnh! Không được thế. Không được! Đề Kiều kêu to.
– Chủ tướng. Chủ tướng!
– Chủ tướng ơi!
Đám hộ vệ kêu la kéo vị trung thần Tư lệnh khỏi mép sân thượng. Đề Kiều ôm chầm lấy Thủ lĩnh nói trong nước mắt.
– Chủ tướng ơi. Ngài hãy vì vận mệnh Cần Vương, hãy vì đất nước Nam Việt, hãy vì quân sĩ chúng tôi. Chủ tướng ơi, Ngài hãy cùng chúng tôi mở đường máu, vượt qua đường máu…
Nhà văn Hà Lâm Kỳ ở Yên Bái
Tuần phủ Tư lệnh thành Nguyễn Quang Bích như bừng tỉnh sau cơn mê hoảng. Ngài cố mở đôi mắt như đang bị thôi miên nhìn rõ khuôn mặt Đề đốc, khuôn mặt tả hữu văn, võ, hộ vệ, rồi lặng lẽ đứng dậy bước xuống bậc thềm. Ngoài kia, tiếng súng chát chúa, tiếng la hét rầm trời, lửa đã cháy lan cả vào cổng chính tòa thành. Chánh Đề đốc ra lệnh hạ lá cờ, gấp nhỏ cho vào túi da. Con ngựa chiến màu tía của Thủ lĩnh được đưa tới. Trước chân cột cờ Đài kính thiên trơ trống, Đề Kiều cúi lạy tòa thành, cúi mình trước Tuần phủ Thủ lĩnh rồi trao lại hộp Vương kiếm cho vị Chủ tướng thành; tả, hữu, vực Ngài lên ngựa. Thủ lĩnh Chánh Tuần phủ hoàn tỉnh, Ngài ngửa mặt lên trời, tuốt gươm vung lên, giọng Tướng quân âm vọng vào bốn mặt thành, đanh lại:
– Quyết tử với quân lang xa!
Tả hữu văn võ đồng thanh:
– Quyết tử với quân lang xa! Quyết tử với quân lang… xa…a!
Chánh dề đốc Kiều hét lên.
– Võ khoa Hoan ngài hãy chỉ huy binh sỹ cảm tử cản đường giặc. Ta hộ giá Tướng công phá vây cấm thành.
Lãnh Hoan giơ gươm:
– Tướng quân Đề đốc. Võ Hoan tuân tử!
Phía ngoài cổng tòa thành Hưng Hóa, tướng Pháp Nêgrie ra lệnh cho pháo hạm trên sông Thao nhằm vào trung tâm thành cung, bắn dữ dội.
– Mời Thủ lĩnh hạ ngựa dừng nghỉ. Đề Kiều khoát tay trước ngựa, hộ vệ bước lại đỡ vai vị tướng công.
– Đây là đâu? Nguyễn Quang Bích chợt hỏi.
– Thưa. Đây là trấn Tứ Mỹ, phủ Lâm Thao. Chúng ta đã rời thành Hưng Hóa được hai trăm dặm. Đề Kiều thưa.
– Ý của Đề đốc thế nào?
Đề Kiều:
– Thưa Tuần phủ. Nơi đây an lành, xa đạo binh Pháp, ta hãy nghỉ lại Tứ Mỹ đêm nay cho lại sức. Mai, bản vị Đề đốc xin tấu trình thủ lĩnh đường trường. Xin Ngài chấp thuận.
Nguyễn Quang Bích sau giờ phút căng thẳng tột cùng nội thành Hưng Hóa, đã bình tâm. Ngồi bên vệ cỏ cùng Hoàng Văn Thúy một cận tướng trung thành mà ông từng hạ phong tước hiệu Đề đốc ngay sau ngày được vua Triều đình sắc phong Tuần phủ Hưng Hóa. Nguyễn Quang Bích cảm thấy yên lòng. Ngài nhẹ nhàng ngả mình xuống bờ cỏ ven đê sông Thao. Những làn gió cuối xuân đầu hạ như đang lướt nhẹ trên mái tóc đốm bạc của vị Thủ lĩnh vùng Hưng Hóa rộng lớn. Nắng chiều nhàn nhạt hắt xuống mặt sông đỏ rực. Hưng Hóa mình, Nam Việt mình rồi sẽ sao đây?
Tiếng đội trưởng hộ vệ làm cắt ngang giây phút tư lự của vị Tướng phủ.
– Thưa Thủ lĩnh, mời Ngài cùng Đề đốc vào an nghỉ trong một nhà dân, thân nhân của vệ binh viên thành nội.
– Vâng. Mời Tuần phủ Thủ lĩnh. Đề đốc Kiều nhắc lại.
Hai vị bản lãnh, hạng sỹ phu, nhẹ nhàng đứng dậy theo chân đội trưởng hộ vệ vào làng.
Đêm đó Tuần phủ Thủ lĩnh và Chánh Đề đốc được chủ nhà sắp xếp nghỉ tại gian buồng giành riêng cho người con gái cả sắp thành hôn, gia chủ cẩn thận sai con trai thứ cùng hộ vệ kê chõng tre ngoài đầu sân canh phòng kẻ lạ mặt. Phía ngọn tre bờ sông Hồng, trăng đầu tháng in một vành khuyết giữa nền trời trong veo.
Canh ba. Thấy quan Tuần phủ trở mình hai ba lần. Đốc Kiều sốt ruột
– Thưa Thủ lĩnh. Ngài lạ nhà, khó ngủ đấy ạ?
– Không đâu. Ngủ thì đã đủ, rất ngon giấc là khác!
– Vâng vâng. Xin Thủ lĩnh tái giấc, gà mới gáy hai, trăng chưa ngả bóng cau.
– Được rồi, được rồi! Cảm ơn ngài Đề đốc. Ngừng giây lát, Tuần phủ bất chợt hỏi:
– Còn bây giờ, theo ngài, ta nên đi hướng nào?
Đêm vẫn yên ắng, chỉ có tiếng dế kêu ngoài hiên, tiếng bờ tre ven sông vọng vào xào xạc, xào xạc. Tướng phụ không để tâm, chủ nhà cũng chẳng hay rõ, chỉ loáng thoáng đoán hai vị khách qua đường xin nghỉ lại là người có tuổi, ở hạng quan phủ hoặc nho sỹ, mà giành buồng con gái sắp hôn lễ để các ngài được một đêm yên tĩnh. Lại cho con trai cùng nhóm tháp tùng ngủ quanh nhà, dễ bề ứng đối khi bất chắc. Đề Kiều – Hoàng Văn Thúy, tù trưởng kiêm thổ hào vùng sơn cước Cẩm Khê, dấn thân vào việc nghĩa Cần Vương, được Tuần phủ Thủ lĩnh tướng quân tin dùng, phải dốc lòng phụng sự nghĩa lớn theo đạo bề tôi, đạo huynh đệ. Chánh Đề đốc thoáng nghĩ, rồi trả lời câu hỏi của Thủ lĩnh.
– Thưa Ngài, tôi hình dung đường trường của ta thế này…
Đề đốc ngồi nhỏm dậy. Ánh trăng lọt qua các khe vách liếp làm sáng nhạt cả căn phòng.
Đề Kiều:
– Thưa Ngài. Đây là trấn Tứ Mỹ thuộc đất Tam Nông, đã xa thành Hưng Hóa nhưng vẫn dọc lộ mòn ven sông. Người Pháp có thể đuổi tới. Tôi sẽ cho dân binh Cẩm Khê lập tuyến phòng thủ Tứ Mỹ, có động, ta dịch lên Ao Lộc. Ao Lộc có rừng núi nhưng hẹp đất, chỉ là trạm dừng chân. Theo lệnh Ngài, tôi sẽ cho người lên gặp thổ hào Tiên Động, nếu Tiên Động hợp ý Ngài thì ta sẽ lập bản doanh ở đó. Ngoài Tiên Động, còn có Sơn Tình, Ao Lộc, Gò Mai, Gò Hàm Rồng, làng Mỹ Lương… Những nơi này thổ dân đều sẵn lòng giúp Vua cứu quốc. Xin hạn hai ngày, Đề Kiều tôi sẽ tấu trình Ngài suy xét lựa chọn.
Nhác thấy vị Thủ lĩnh khẽ gật đầu có ý ngồi dậy, Hoàng Văn Thúy vội đưa hai bàn tay.
– Thủ lĩnh, Thủ lĩnh. Ngài cứ bình tâm hồi sức, đường trường lo việc lớn.
Nguyễn Quang Bích vắt cánh tay ngang trán. Trong đêm trăng, ông đang suy tư mưu bề việc đại sự. Hiểu thế, Chánh Đề đốc vội đứng dậy bước ra hiên nhà, bước ra sân đất – vùng quê quen thân từ thuở tiểu đồng.
Phía ngoài sân vườn vệ binh Vương Văn Doãn không ngủ. Đề Kiều bước lại.
– Này Vương. Tối qua ta đã cho người làng đi tìm Đặng Huy Tá. Nếu Tá về, ta giao cho Vương và Tá khảo sát Tiên Sơn. Ta có ý thuyết phục Thủ lĩnh lập bản doanh ở Tiên Động, Vương thấy sao?
– Tôi đồng ý với Đề đốc. Việc cần kíp, đừng để Tướng công sốt ruột. Hay là…
– Là sao? Vương nói đi!
– Tôi sẽ cận vệ Chủ tướng. Còn Đề đốc là người được Chủ tướng tin tưởng tuyệt đối, lại có khả năng quyết đoán, ngài lên đó, ấn định dinh binh, trở về đích thân tấu Quan Tuần phủ. Như thế chắc chắn hơn.
Trầm ngâm dưới ánh trăng suông, Đề Kiều khẽ lắc đầu.
– Ngẫm thế cũng phải, nhưng huynh phó thác cho đệ, đệ tròn bổn phận trước huynh, tức là trước Tướng công rồi. Còn huynh, tâm lý thành Hưng Hóa thất thủ vẫn đang day dứt Thủ lĩnh, huynh trợ lực bên Ngài, sẽ thuận hơn.
Vương Văn Doãn nghe vậy, không nói thêm lời nào, gộp hai lòng bàn tay lại, khẽ cúi đầu.
– Chánh Đề đốc. Vương này xin hứa làm tròn trọng trách.
Không phải đợi đến trưa hay chiều. Trời sáng rõ, Đặng Huy Tá, Trịnh Bá Đanh, những dân binh Tam Nông, Cẩm Khê đã có mặt bên sân nhà hàng xóm. Cuộc hội ý chỉ mươi, mười lăm phút. Vương Văn Doãn, Đặng Huy Tá, Trịnh Bá Đanh nắm chặt bàn tay vạm vỡ của Hoàng Văn Thúy vị Chánh tổng kiêm Thổ hào nổi tiếng Cẩm Khê. Ba người đàn ông trong bộ quần áo của kẻ làm ruộng, rời sân vườn, lên thẳng vùng núi Tiên Động.
Chánh dề đốc Hoàng Văn Thúy đi dạo quanh vườn cây gia chủ. Cuối xuân, chồi non của những cây bưởi, cây cam đã vươn hai ba lá. Lác đác, những chùm hoa đầu vụ cũng xòe cánh, lộ ra những núm nhụy vàng chanh thơm phức. Hoàng Văn Thúy nhẹ nhàng ngắt một nụ bưởi đặt vào lòng bàn tay. Cảm xúc của người làm vườn, của một chủ đất lại trỗi dậy trong ông. “Chỉ ước gì đất nước quê hương thanh bình, Thúy này sẽ biến đồng đất ven sông thành cánh đồng lúa, sẽ biến các triền đồi Cẩm Khê thành rừng cây, thành rừng quả. Rồi sẽ buôn bán, sẽ đi xa trao đổi hàng hóa… Thổ hào thì phải làm được việc ấy chứ?!”. Hoàng Văn Thúy chợt mỉm cười dạo bước.
– Đề đốc. Thủ lĩnh cho gọi ngài. Hộ vệ Đinh Gia Quốc khẽ nói.
Hoàng Văn Thúy rời vườn bưởi bước nhanh vào sân đã thấy Tuần phủ Thủ lĩnh ngồi bên chủ nhà, Ngài đang trò chuyện? Ngài chăm chú và vui vẻ! Hoàng Văn Thúy không muốn phá vỡ cảnh tượng thân thiện ấm cúng, không muốn phá vỡ câu chuyện riêng giữa Thủ lĩnh Tướng quân với người dân. Nhưng thế chẳng đã, Đề đốc chậm chậm bước tới đầu sân. Thủ lĩnh không mặc áo the thụng mà chỉ choàng ngoài bộ tứ thân.
– Lại đây, lại đây ngài Trợ giá!
– Vâng! Vâng! Hoàng Văn Thúy đáp nhưng vẫn cố ý dùng dắng.
Những khi vui trong lòng, có Đề Kiều bên cạnh Nguyễn Quang Bích thường gọi Hoàng Văn Thúy là Trợ giá – một chức chỉ là trên lời nói. Đề đốc cố cắt nghĩa: Thủ lĩnh nhận chỉ sắc Vua ban Tuần phủ Sơn Tây, rồi Tuần phủ Hưng Hóa. Thế có nghĩa đã là quan hệ Hoàng tộc, người của Hoàng tộc. Ngài chọn cho mình giúp việc, lại đích thân đề nghị nhà Vua phong chức hiệu Chánh Đề đốc Hưng Hóa, luôn tháp tùng Ngài, gắn sinh mệnh ta với sinh mệnh Ngài, thế chẳng là trợ giá sao?
– Đề đốc. Ngài lại đây. Cẩm Khê nhiều điều nói lắm.
Cử chỉ lời nói thân mật của Thủ lĩnh, Đề Kiều bước tới ngồi  bên Thủ lĩnh và gia chủ. Bỗng chốc Thủ lĩnh làm cái việc giới thiệu chủ khách thân mật.
– Đề đốc biết chưa, chủ nhà ta ngủ này là “ngài” Nguyễn Văn Lò đấy. “Ngài” Lò nói Tứ Mỹ có đình làng, Đề đốc xem xét ta có thể  rời lên trú tại đó một thời gian, nhờ vả “ngài” Lò trông nom trong ngoài. Như thế xem có được không?
Nhìn dáng hình to cao vạm vỡ của Hoàng Văn Thúy, Nguyễn Văn Lò nắm hai tay chánh Đề đốc lòng dạ e ngại.
– Vâng, Vâng. Quan phủ hỏi chuyện, tôi mạo muội tâu với Quan. Xin hai vị “đại” quan xá tội cho lão nông này.
– Không không! Đề Kiều khoát tay cười cười. Anh em Cẩm Khê cả mà. Quan Phủ đã gợi, ta sẽ cùng bàn sao cho kỹ lưỡng. Giờ thì “ngài” Lò hãy xung vào Đội Hộ vệ sơn phòng của ta. Được chứ?
Nguyễn Văn Lò vội đứng dậy chắp hai tay trươc ngực khẽ cúi mình.
– Ôi vâng ạ! Được hầu hạ hai quan, con xin hết lòng hết sức đền đáp.
Nguyễn Quang Bích cười lớn
– Ta cũng hầu cận Triều đình Hàm Nghi chống lại người Pháp xâm lăng. Cốt là thủy chung, sẵn tử vì Đạo. Thủ lĩnh tỏ rõ sự vui lòng.
Cẩm, cô con gái của vợ chồng Nguyễn Văn Lò bê ra một rá chuối sài goòng chín vàng thơm thơm.
– Con xin mời các quan, con xin mời bố! Nói rồi cúi mình
– Này con. Đề Kiều chợt hỏi. Con là…
Nguyễn Văn Lò đỡ lời:
– Đây là Nguyễn Mỹ Cẩm gái lớn của chúng con, cháu sắp vào ngày hôn lễ.
Đề Kiều lẩm bẩm.
– Mỹ Cẩm. Tứ Mỹ, Cẩm Khê. Trời định rồi. Sau ngày xe duyên, ngài Lò cho con gái Mỹ Cẩm tham gia Sơn phòng cùng cha, được chứ?
Nguyễn Văn Lò lúng túng nhưng vẫn tỏ ra thông suốt.
– Dạ vâng, vâng ạ. Cha con chúng con xin được một lòng hầu hạ quan Phủ.
Chánh Đề Kiều cười lớn, nhìn hai cha con, rồi nhìn Thủ lĩnh:
– Này này, nhớ lời dạy của “Đại quan” đây. Tất thảy chúng ta, mỗi người mỗi việc cùng nhau phụng sự Cần Vương, phụng nghiệp Cứu Quốc.
Nàng Mỹ Cẩm cúi hai cúi, nhỏ nhẹ buột lời “vâng ạ” rồi lui dần ra ngoài.
Ngay chiều tối hôm đó, với sự sắp xếp của chánh Đề đốc Hoàng Văn Thúy và dân binh Nguyễn Văn Lò, Tuần phủ Hưng Hóa, Thủ lĩnh Tướng công Nguyễn Quang Bích rời ngôi nhà bình dân ven sông, chuyển đến đình Tứ Mỹ trong sự đón tiếp rất lặng lẽ của Thủ nhang nhà Đình. Cha con Nguyễn Văn Lò, Nguyễn Mỹ Cẩm là người được giao chuyên lo việc cơm nước, nghỉ ngơi cho Nguyễn Tướng quân.
Hai mũi tiến công của quân Pháp cùng một lúc công kích bằng đại bác vào thủ phủ Hưng Hóa nơi đóng Đại bản doanh của Tuần phủ Nguyễn Quang Bích. Kinh thành Sơn Tây, kinh thành Bắc Ninh thất thủ, Hưng Hóa cửa ngõ lối vào Tây Bắc Bắc Kỳ, thay lệnh Hoàng Đế Hàm Nghi, Đại thần Tôn Thất Thuyết  khẩn cấp mật thư đến Nguyễn Quang Bích Tuần phủ Hưng Hóa phải giữ thành bằng mọi giá, tạo hậu phương Bắc Kỳ cho đạo binh tử chiến của Triều đình. Tướng Nê grie tiến đánh từ phía Sơn Tây, còn tướng Brielen chỉ huy cánh quân từ Bắc Ninh tiến về. Trong khi đó đạo binh trợ viện của nhà Thanh lại rút lên Tuyên Quang, quân Hoàng Kế Viêm rút vào Thanh Sơn. Nguyễn Quang Bích không nắm được nguyên do phân tán lực lượng viện trợ nên ra sức chống chọi. Tướng quân ra lệnh đánh chặn ở Hạ Bì, ở La Thượng, làm quân Pháp phải tạm thời thoái lui. Nhưng rồi chỉ có Tướng công, trợ thủ Đề Kiều, cùng vài trăm binh lính canh giữ bốn mặt thành chống trả không xuể. Quân Pháp dùng súng phun lửa và đạn xăng bắn tới tấp, khiến tường thành bốc cháy ngùn ngụt. Quân Pháp lại dùng đại bác bắn bầm dập làm các cửa thành tan toác, Đám binh lính Tây ào ào xông lên thành. Khi hai tướng Nêgriê và Brielen hợp binh dưới chân cột cờ thì chỉ còn thấy thành Hưng Hóa tan hoang, quân Nam Việt  nằm nghiêng ngả, Bộ tướng Hưng Hóa đã đi thoát từ lúc nào.
Nêgriê quát tháo:
– Con cọp rừng Hưng Hóa đã chạy trốn. Mau đuổi bắt, đuổi bắt.
Briêlen cũng không kém:
– Điệu tù trưởng ra đây tra khảo xem bọn thủ phủ thoát hướng nào!
Một người cao gầy, chạc trung niên từ trong đám binh lính người Việt bị bắt giữ bước ra.
– Các ngài quan Tây. Chúng tôi chỉ là kẻ làm tôi tớ cho Phủ thành, không bén mảng việc binh đao, bày đặt nước bước cho ai. Từ mấy ngày đây, cổng thành này đóng chặt, bộ chủ đi đâu hết cả, bọn tôi tớ trông nom nhà cửa gà lợn nào biết gì!
Viên thông ngôn như giảng giải thêm điều gì, tướng Tây có râu quai nón, mắt xanh, mũi lõ, làu bàu:
– Thật là lũ ăn bám. Đưa chúng nó về trại lao binh
Cai Đen từ sau lưng Briêlen đi lại, hắn dí dí mũi súng ngắn vào cằm người cao gầy:
– Chưa xong đâu. Nếu chỉ cho quan Tây biết đường chạy trốn của bọn Thủ phủ, sẽ được thưởng to đấy. Thôi, về trại mà bàn tính với nhau rồi khai báo.
Những tù nhân thành yên lặng, sắp một hàng dọc, đi bộ về khu lao binh.
Brielen:
– Ngài Cai Đen. Ngài là người bản địa, liệu ngài có thể đoán thời gian bỏ thành và hướng đi của bọn chúng?
Cai Đen – Trung úy mật thám:
– Tôi chưa thể chắc ngày giờ, nhưng dám chắc, là hướng tây.
Brielen là viên tướng đi lên từ Com măng đô Âu Châu, nên cái nghề mật thám của người Việt, với ông ta chỉ là chuyện cưỡi ngựa xem hoa. Trung úy Đen thoáng nghĩ.
Nhưng không. Brielen gật gật:
– Tôi đồng ý với ngài Cai. Kẻ đứng đầu thành Hưng Hóa, Tuần phủ Bích ấy mới rời cổng hậu Tòa thành hai ngày, mà đúng rồi, thưa ngài trung úy, họ đi về hướng Tây tả ngạn sông Thao.
Trầm ngâm giây lát. Brielen cười ruồi.
– Tuần phủ Nguyễn Quang Bích là một con voi rừng đấy, thưa ngài trung úy mật thám.
Brielen gõ gõ tẩu thuốc lá ngước mắt nhìn chằm chằm Gêgrie:
– Ta cho truy nã luôn chứ ngài thiếu tướng? Truy nã luôn, đừng để cho “con voi” rừng hoàn hồn.
– Ngài Brielen. Tôi lại nghĩ khác. Gêgrie nghiêng mặt cao đạo. Mục tiêu mà Toàn quyền thừa lệnh Triều đình Huế đưa ra, ta đã đoạt ngoạn mục, tôi và ngài chỉ còn chờ chai sâm banh từ Hà Nội gửi đến, thế thì vội gì phải lao quân? Hừ! Gêgrie búng ngón tay. Sơn Tây, Bắc Ninh, Hưng Hóa thất thủ chỉ trong vài tuần, Tây Bắc lấy đâu ra tử thành nữa mà ngài phải lo xa? Tướng Gê cười khẩy.
Brielen, Cai Đen đứng trơ. So với Gê, Brielen cũng lon thiếu tướng, nhưng là tướng điều tra xét hỏi, còn Gêgrie là một sỹ quan chỉ huy tấn công chuyên nghiệp, chừng nào chưa thật rõ ràng về mục tiêu và điều kiện của đối phương thì ông ta chưa thể ra lệnh. Cai Đen nhún vai, hiểu điều đó.
Nhóm thám sát địa bàn lập bản doanh Vương Văn Doãn đã về đến đình Tứ Mỹ. Chánh Đề đốc vui mừng nắm tay từng người dẫn vào hậu sân đình làng. Chén trà Tam Nông do Mỹ Cẩm pha trông thật sóng và thơm. Mới chỉ có ba ngày vắng mặt mà sao Sơn phòng đã có thêm được nàng Mỹ Cẩm. Vương Văn Doãn, Đặng Huy Tá, Trịnh Bá Đanh lấy làm lạ. Nàng Mỹ Cẩm thì Đặng Huy Tá rõ lắm, vì Tá cùng Nguyễn Văn Lò làm thuê ở đồn điền thổ hào Hoàng Văn Thúy hai năm trước. Từ ngày thổ hào Thúy vắng đi đâu xa, con trai ông điều hành đồn điền, Tá và Lò đôi lúc đến thăm nhà nhau. Tá còn dắng vui với người bạn chi điền: – Tam Nông, Cẩm Khê, giáp vách nhau thôi, nay mai cháu Mỹ Cẩm lớn lên, ông “để” nó cho con trai tôi nhá?! Lúc ấy Nguyễn Văn Lò chỉ cười cười vơ điếu thuốc lào. Giờ thì cô con gái Lò làm thuê lại ở đây? Vẫn nét mặt tươi hồng, nhẹ nhàng, nhanh nhẹn, vẫn bộ áo nâu cúc bấm chỉ có thân hình đã đầy đặn hẳn lên. Thoáng nhận, thoáng nghĩ, nhưng trước mặt Đề Sơn phòng Đặng Huy Tá không dám dò hỏi.
– Nào, các nghĩa binh sơn cước nói đi. Phủ Sơn phòng và nơi Tụ nghĩa của Thủ lĩnh sẽ đặt ở nơi đâu? Chánh Đề đốc ngẩng nhìn Trịnh Bá Đanh, Đặng Huy Tá, rồi dừng lại ở khuôn mặt Vương Văn Doãn.
– Thưa ngài Đề Kiều. Ba chúng tôi đã xem xét bốn năm địa điểm, nhưng rồi thống nhất với nhau chọn Tiên Động lập căn cứ, trình ngài xem xét trước khi tấu lên quan Tuần phủ. Vương Văn Doãn thưa báo.
– Tiên Động à! Đề Kiều buột miệng. Nơi này thì tôi rõ, nó thuộc đất Tiên Lương xã, Cẩm Khê huyện.
– Vâng vâng! Trịnh Bá Đanh nhanh nhẩu.
Đặng Huy Tá gật gật rồi giải thích.
– Tiên Động rộng rãi, vừa bằng phẳng, vừa rừng dú. Mặt đông nối sông Thao bằng con ngòi Dành, mặt tây là đồi núi, mặt nam có đầm lầy. Còn bắc, có thể đi về miền Tây Bắc.
– Được! Đề Kiều gật gù. Tiên Động Tiên Lương, có thể giao thông giữa Cẩm Khê với Tam Nông, Yên Lập, Thanh Sơn. Hạ Hòa – Yên Lập – Thu Cúc hoặc Yên Lập – Thu Cúc – Nghĩa Lộ.
Đề Kiều nhấp chén nước chè rồi quả quyết.
– Quyết định chọn Tiên Động làm căn cứ kháng chiến sau thành Hưng Hóa. Không bàn nữa. Tôi sẽ tấu trình Chủ tướng và thưởng công các người.
Đề Kiều đứng dậy. Cả ba nghĩa binh cũng đứng lên, khoát tay vòng trước ngực.
– Cảm ơn Chánh dề đốc! Cảm ơn Chánh dề đốc!
Những bóng áo vải khuất vào lùm cây, khuất vào dặng nhãn đang mùa hoa.
Đêm trăng rằm, trời làng quê đẹp quá. Hoàng Văn Thúy đi đi lại lại quanh cửa đình. Ngày rằm, khói hương phảng phất, thơm dịu. Thấy vị khách quý đi vòng quanh cửa sân, không ngắm trăng, không ngâm nga thơ phú thủ nhang Nguyễn Lộ mạnh dạn lên tiếng.
– Thưa lãnh quân. Ngài có điều gì cần chính chủ?
Hoàng Văn Thúy vốn đã quen biết Nguyễn Lộ, mấy ngày qua, nhờ có Lộ mà mọi việc lớn ở đình đều chu tất. Chánh Đề đốc quay lại.
– Trời quang, gió nhẹ, ta dạo trăng chơi đấy thôi. Nhang Lộ cứ tĩnh tâm đi.
– Dạ. Nguyễn Lộ rẽ vào hiên đình.
Chọn ai làm phó Đề đốc phụ trách Hành dinh? Vương Văn Doãn, Nguyễn Quang Hoan, hay ai nữa? Khi đã lập căn cứ kháng chiến, dù tạm thời, dã chiến hay thành Bản doanh thì Phó Đề đốc trực tiếp quản hành dinh là không thể chậm? Đề Kiều vẫn cứ đi đi lại lại, trong đầu căng thẳng, mà giờ tấu trình Thủ lĩnh Tướng công vào sáng mai, lại không thể trì hoãn.
Trở vào giường. Đề Kiều phân cắt dứt mạch từng phần việc sẽ trình cấp thượng:
Thứ nhất: Cắt cử đội hành dinh về ngay Tiên Động xây dựng lán trại bản doanh, hạn trong ba ngày phải xong, đón Tuần phủ Thủ lĩnh về an vị chỉ huy kháng chiến.
Thứ hai: Lập ra bộ quản sơn phòng, lo gấp việc xây dựng đại bản doanh sao cho thuận cả vài ba việc: Hoạt động tại chỗ, củng cố và luyện tập, thu nhập quân binh và lương khảo, lại tính đến chuyện, nếu quân Pháp đánh mạnh thì có đường rút lui…
Thứ nữa: Cho quân binh tin cẩn về Bắc Ninh, về Sơn Tây, về Hưng Hóa, tìm gặp, mời đón các sỹ phu, các yếu nhân tài giỏi: Nguyễn Văn Giáp, Nguyễn Thiện Thuật, Vũ Hữu Lợi, Nguyễn Đức Ngữ, đón cả trưởng nam Ngô Quang Đoan ở Thái Bình lên Cẩm Khê. Nếu Chủ tướng bằng lòng sẽ cử Vương Văn Doãn làm Phó Đề đốc hành dinh, Cử thủ khoa Võ Triều Nguyễn Quang Hoan làm Lãnh binh luyện quân kiêm tác chiến, lại cử Khê Ông Nguyễn Hội đặc trách văn vận và đàm đạo…
Đêm se lạnh, trăng rằm soi sán, Chánh Đề đốc cả mệt ngủ thiếp cho đến lúc Mỹ Cẩm kéo tấm chăn chiên, nhè nhẹ phủ lên người, Chánh Sơn phòng mới chợt tỉnh, rồi lại gác tay lên trán, thiếp đi.
Tiếng chim ríu ran trên gò vải, lại rúc rích phía vườn bưởi, tiếng chim rừng lọt vào tai, Đề đốc bừng tỉnh. Bình minh đã xiên hiên đình, Hầu bếp Nguyễn Văn Lò đã bưng âu cháo nóng đặt lên bàn ăn từ lúc nào. Đề Kiều mỉm cười như tự chê trách mình vụng về. “Ừ, thổ hào là lão nông, là đất cát vườn tược, đôi lúc thảnh thơi, có gì là quá lắm?”. Cười nhẹ, bỗng dưng Đề đốc lắc lắc đầu: “Không không, không! Ta đang là Chánh Đề đốc Sơn phòng chiến sự. Ta đang cùng Tuần phủ Thủ lĩnh nếm mật nằm gai dặm trường kháng chiến đánh quân sài lang. Ta không còn là tù trưởng, thổ hào. Ta… không…!”. Đề Kiều nhíu đôi mày rậm, bứt chân khỏi phòng ngủ bước ra sân.
– Quan Tuần, con mời quan dùng bát cháo sáng ạ. Nguyễn Văn Lò khép tay mời mọc.
– Tôi nhận, tôi nhận rồi, chú cứ lo việc đi.
Hoàng Đề đốc vươn mình một cách khoan khoái rồi khoác bộ đạo binh dã chiến sang nhà ngang đình làng. Tuần phủ Thủ lĩnh đang đợi.
– Chánh Đề đốc dùng chén trà cho ấm bụng đã. Thủ lĩnh đưa tay mời.
– Cảm ơn Tướng công. Cảm ơn Tuần phủ. Đề Kiều nâng chén đáp lễ.
– Nào, bây giờ Chánh Đề đốc bày giải ý ngài. Ta cùng bàn bạc.
– Thưa Thủ lĩnh Tuần phủ. Đề Kiều nghiêm lời mà thân mật. Việc chọn Tiên Động làm đại bản doanh như ý nhóm khảo cứu, Tiểu tướng là người bản địa, nhận thấy hoàn toàn đúng đắn. Chỉ xin Chủ tướng xem xét rộng hơn về đường tiến, thoái?
Thủ lĩnh khẽ gật đầu.
– Chánh Đề đốc nói phải. Trong giao chiến, tiến, thoái là chuyện phải tính để bảo toàn binh lực. Tôi đồng ý với ngài việc chọn Tiên Động làm bản doanh, nhanh chóng loan ngôn tụ nghĩa Cần Vương, tìm kéo minh chủ, văn vận dân tình và nghĩa sỹ. Tôi cùng đồng ý bổ tước Phó Đề đốc hành dinh cho Vương Văn Doãn ; tán tương quân vụ cho Nguyễn Hội – Khê Ông; Giao Nguyễn Quang Hoan làm Lãnh binh quân chiến và hộ vệ. Riêng Đặng Huy Tá và Trịnh Bá Đanh là người Cẩm Khê hiểu rõ đồng đất phong chức Cai, lo việc tuyển mộ ba vùng. Ngừng giây lát, Nguyễn Quang Bích nói tiếp. Nếu trời cho ta được lập cứ phòng ở Tiên Động, thì ta sẽ ra sức hợp nhân mưu đề việc lớn.
Đề Kiều cảm thấy lòng nặng trĩu, thương cho Tuần phủ sức yếu đêm dài đau đáu lo việc nước theo lẽ đạo tôi trung.
– Thưa Tướng công, Ngài cần bảo trọng, việc đại sự đã có bộ tiểu tướng chúng tôi lo liệu, tấu trình tướng công khi vượt sức.
Nói rồi Chánh Đề đốc cho Mỹ Cẩm đi gọi bộ tiểu tướng vào ra mắt: Vương Văn Doãn, Nguyễn Hội, Nguyễn Quang Hoan, Đặng Huy Tá, Trịnh Bá Đanh lần lượt khoát tay trước Thủ lĩnh Tướng công nhận nhiệm lệnh và cúi đầu đáp tạ.
Nguyễn Quang Bích trở lại am phòng. Đề Kiều mời các tiểu tướng sang nhà bên phân công nhiệm vụ rõ ràng cho từng người. Lại làm thông suốt ý đồ lớn của Thủ lĩnh trước vận nước nhà và nghĩa tôi trung Cần Vương.
– Ngài (Nguyễn Quang Bích) đã chính thức rời xa Hành dinh thủ phủ dù vẫn là Tuần phủ Hưng Hóa. Thành Hưng Hóa rơi vào tay quân Pháp, Ngài đã vắt mình lên ngựa chiến với tước hiệu Thủ lĩnh Tướng công, thề quyết tử dưới cờ Cần Vương. Tất cả chúng ta nguyện là đệ tử của Tướng công Thủ lĩnh.
Phó Đề đốc Vương Văn Doãn đứng dậy:
– Thưa Chánh Đề đốc, chúng tôi tâm nguyện trung thành với Tướng công, hành động theo chỉ lệnh của Đề đốc.
Các tiểu tướng cúi đầu đồng thanh:
– Tâm nguyện trung thành với Tướng công, trung thành với Tướng công.
Nàng Mỹ Cẩm từ hiên nhà bước vào
– Thưa quan Đề đốc. Có hai người từ xa đến xin được gặp ông ngay lúc này.
Hoàng Văn Thúy  ngoảnh nhìn Mỹ Cẩm rồi nói.
– Được. Con mời họ vào đây.
Mỹ Cẩm bước ra. Đề Kiều vừa đứng dậy bước theo sau, đã kịp thốt lên.
– Ôi. Giáp! Tuần phủ Giáp.
Hai người đàn ông chưa kịp hỏi han ôm chầm lấy nhau lắc lắc, nước mắt cứ tràn ra.
Vương Văn Doãn rót chén nước chè tươi, nói vui:
– Mời ngài, mời ngài! Chén trà này làm cho chúng ta đến được với nhau.
Đề Kiều cười cười đứng trước nhóm cận tướng, giảng giải:
– Phải nói là duyên ngộ. Ngài Nguyễn Văn Giáp Bố chánh Tuần phủ Sơn Tây lưu lạc sau khi cả hai kinh thành thất thủ, nay cùng vệ sỹ tìm đến yết kiến Thủ lĩnh Tướng công. Chánh đề Kiều này xin cảm tạ ngài! Hoàng Văn Thúy cúi mình.
Tiếng tăm Bố chánh Sơn Tây gan dạ đương đầu với quân Pháp thì ai cũng đã nghe thấy, nhưng giờ mới là lúc mục sở thị vị Tuần phủ trung thành với nghĩa lớn Cần Vương. Ai nấy hoan hỉ và kính phục.
Chỉ mươi phút sau đó, Bố chánh được Đề đốc đưa tới trình diện Thủ lĩnh Tướng công. Hai vị Tuần phủ Tướng quân ôm chặt bờ vai không muốn rời nhau.
Cũng ngay hôm đó, Nguyễn Văn Giáp được Thủ lĩnh tạm chỉ làm phó Tướng công và giao trọng trách cùng với Đề Kiều tổ chức Tiên Động thành Đại Bản doanh kháng chiến khu vực toàn Bắc Bộ, trực tiếp tổ chức và chỉ huy đạo binh giao chiến trên khu vực miền Tây.
Nguyễn Văn Giáp đứng dậy cúi đầu lạy tạ. Không còn là Tuần phủ, ngài trở về với tước hiệu Bố Chánh – Phó tướng, tiếp tục song hành cùng Tuần phủ Hưng Hóa Nguyễn Quang Bích Thủ lĩnh Tướng công, dấn thân vào cuộc kháng chiến Cần Vương chống Pháp ngay sau ngày 12 tháng Tư năm Giáp Thân (1884) – Ngày Thành phủ thất thủ.
Đã một tuần lưu lại ở đình Tứ Mỹ, Nguyễn Quang Bích thấy bồn chồn. Một phần sốt ruột cần có một Bản doanh để tập hợp thân sỹ cả nước, phần khác lo ngại thám sát Pháp ở Hưng Hóa theo đường đê sông Thao mà tìm đến. Ngài gặp Đề Kiều.
– Ta đã ấn định ngày về Sơn Động, Đề đốc lo sớm.
Thưa Thủ lĩnh. Căn cứ Tiên Động do phó Đề đốc Vương Văn Doãn chỉ huy đang thừa hành khẩn trương, sớm được đón Thủ lĩnh nhập Sơn thành.
– Ta muốn cử phó tướng lên đó trước, ông có đầu óc quân binh, nhận rõ thế đứng, thế tiến, thế lui, để rồi điều khiển nó.
– Vâng. Thủ lĩnh cho chỉ, tôi sẽ lo liệu việc này chu tất.
Hôm sau Phó tướng Nguyễn Văn Giáp được lãnh binh Nguyễn Quang Hoan tháp tùng có mặt ở đầm trũng Tiên Sơn. Phó Đề đốc đưa ngài đi ngang, đi dọc, đi ngược, đi xuôi. Trở về, Phó tướng vỗ vai Vương Văn Doãn.
– Ai tìm ra Tiên Sơn?
Phó Đề đốc Doãn:
– Thưa ngài, Đề Kiều. Thổ hào Hoàng Văn Thúy là người Cẩm Khê, ngài am hiểu đường đất, lại có con mắt quân phòng, nên khi tấu trình Thủ lĩnh, Ngài y duyệt ngay.
– Được, được lắm! Thủy sơn hòa nhập, trời mây hội tụ, khí chất yên tĩnh, thoáng đãng. Ta xem phong thủy, sẽ là nơi linh thiêng sông núi.
Nói rồi phó tướng Bố Giáp tự tay cắm hướng Bản doanh và ấn định nội phủ Sơn thành, giao lại cho phó Đề đốc hành dinh Vương Văn Doãn gấp rút thực thi lệnh vụ.
Ngày mai sẽ rời đình Tứ Mỹ về Tiên Sơn Động, Chủ tướng cho làm bữa cơm “khách”. Đề Kiều băn khoăn e việc lo liệu không chu đáo nên mạo muội hỏi Thủ lĩnh:
– Thưa Ngài, vị khách mà được ta mời chiều nay là…
Nguyễn Quang Bích cười, khẽ gật gật.
– Hà! Chánh Đề đốc mời cho ta, ông thủ nhang nhà Đình, ông thủ bếp, và con gái Mỹ Cẩm.
Đề đốc chợt nhận ra, lấy tay vo vo mái tóc đã ngả mầu sương mà lắc đầu    “- Tiểu tướng chậm hiểu, thưa Thủ lĩnh!”
Bữa cơm chiều đó có thịt gà rừng, có cá suối kho, có cả lạc rang, và cút rượu. Nguyễn Văn Lò và nàng Mỹ Cẩm cứ ngẩn người ngồi ngắm nhìn vị quan Phủ hiền lành, đến mức Ngài phải tự tay gắp thức ăn vào bát, mỉm cười và giục:  “- Nào, ăn nhanh, để còn… kháng chiến”
Vẻ như ai cũng ái ngại. Đề Kiều phá tan sự yên ắng.
– Thưa Chủ tướng. “Nhà” Lò đây có nghề gia truyền thảo dược. Thân phụ Lò là Nguyễn Văn Chanh, là bạn đồng niên của tiểu quan, một lang y tiếng tăm ba châu…
– Thế à. Thủ lĩnh cười cười. Hẳn nào Thủ bếp và con gái đểu khéo tay, sức khỏe ta tốt lên trông thấy.
Đề Kiều hào hứng.
– Còn Nguyễn Lộ, gia tộc đã bốn đời giữ chân thổ đạo đình làng. Nhang Lộ cũng sẽ kế vị thân phụ tế linh thần hoàng.
– Việc thiện tự tâm tất bền vững, há gì hèn sang, to nhỏ, cốt trí lực đồng mưu, chung lưng phụ tử. Nói rồi, bất chợt, Tướng công vịnh: “Đồng tâm sơn khả di/ Ninh viết lộ hành lao” (Đồng lòng rời được núi/ Xá gì đường gian lao)
Đề đốc Kiều tỏ sự vui vẻ. Nguyễn Lộ, Nguyễn Văn Lò, cả Mỹ Cẩm vừa thấy kính trọng, vừa thấy thương cảm vị quan Phủ già, dân giã.
Đêm đó, thổ nhang Nguyễn Lộ đặt lễ thắp hương bái thần thổ. Giờ Hoàng đạo, Thủ Lĩnh Tướng công được Chánh Đề đốc và hộ vệ tháp tùng, lặng lẽ rời đình làng Tứ Mỹ, dọc theo đường mòn ven đê sông Thao, tắt ngang cánh đồng, vượt đồi Yên Ngựa, ngược theo khe Ngòi Dành đi về làng Tiên Động phủ Cẩm Khê, ấy là nơi khởi đặt bản doanh kháng Pháp của các nghĩa sỹ Cần Vương hậu Hưng Hóa.i
Chương II. Cờ khởi nghĩa.
Nguyễn Văn Giáp cùng Vương Văn Doãn đi rà soát lại tất cả các công trình, các địa điểm trọng yếu nhất trước khi đón Thủ lĩnh về Tiên Động.
– Theo ý ngài, nếu quân Pháp đánh đến đây ta sẽ cố thủ thế nào để phản công lại chúng.
– Thưa Bố chánh. Tôi và Đanh (Trịnh Bá Đanh) đồ rằng, ta không thể chịu chết đứng như Hưng Hóa. Ngoài việc lập đồn nhỏ ở Ao Lộc để chặn đường bộ thì cần tránh xa tầm đạn pháo trên sông Thao.
– Hay lắm. Ta thất thủ Hưng Hóa cũng là bởi thủy quân Pháp. Nay lui sâu vào rừng đồi, lại lập đồn chặn quân thủy bộ và quân tiến theo đường bộ thì cớ sao không giữ lại được thủ phủ?
Doãn thấy phó tướng Bố chánh dừng chân ở đỉnh đồi, ngắm nhìn bốn phía rồi lấy trong túi vải ra mảnh giấy mà ngài tự hình dung vẽ lại địa hình bố phòng Tiên Động. Vương Văn Doãn chăm chú nhìn theo đường di chuyển của ngón tay Phó tướng.
– Ba mỏm đồi này. Bố chánh nói. Tướng công an tọa ở đồi giữa, ta đặt tên là gò Quan Đại, Chánh Đề đốc ở cùng Thủ lĩnh. Ta trấn mỏm gò cửa tiền, gọi là cổng đồn. Còn ngài cùng Lãnh Hoan án ngữ Hố Gia, xem Hố Gia là cửa hậu, nếu buộc phải lui binh thì đưa Chủ tướng theo đường rừng này sang Yên Lập.
Vương Văn Doãn gật đầu hiểu ý Nguyễn Văn Giáp, liền nói.
– Khi mấy chúng tôi đi khảo sát về, trình Thủ lĩnh việc bố phòng, Tướng công nhắc. Cần lập các đồn binh bao quanh, trại gần, trại xa như kiểu bàn tay chụp xuống, vừa là để bảo vệ căn cứ, vừa để dân làng Tiên Lương yên tâm mà theo Cờ Tụ nghĩa.
Phó tướng ngẩng nhìn phó Đề đốc hành dinh:
– Chúng ta đã làm đúng ý chỉ, hẳn Tướng công sẽ hài lòng.
– Hai vị nghĩa sỹ có công khai sơn phá thạch căn cứ Cần Vương Tiên Động, xuống đồi, rẽ sang chân núi Lưỡi Hái. Bốn phía, quân binh đang gấp rút lo việc xây dựng doanh trại.
Giờ thì Nguyễn Văn Giáp, Vương Văn Doãn, Nguyễn Quang Hoan, Nguyễn Hội, đang cùng với Chánh Đề đốc Hoàng Văn Thúy ngồi quây bên Tướng công trong căn nhà gỗ lợp lá trên đồi Quan Đại, tên gò đồi do chính Phó Đề đốc Hành dinh Vương Văn Doãn đề xuất được Phó tướng Nguyễn Văn Giáp   chấp thuận. Khoan thai trong bộ triều phụ đại quan, Nguyễn Quang Bích ra hiệu ngồi.
– Nghe nói, đất này hợp mệnh ta, phong thủy đắc lộc. Thiên thời, địa lợi, tất sẽ có nhân hòa. Thật ưng ý lắm.
Nguyễn Văn Giáp lựa lời thưa:
– Tướng công Thủ lĩnh. Ý lớn đã định, việc nhỏ đã làm. Xin Tướng công chỉ dụ cầu tài, tập hợp nghĩa sỹ, tụ họp quân binh, ổn định đồn trí, đặng luyện tập, sẵn sàng giao tranh với giặc Pháp.
Võ tướng Nguyễn Quang Hoan cũng khép hai bàn tay.
– Thủ lĩnh. Việc trước nhất được đặt ra bây giờ là lập các hạng đồn bao quanh Tiên Sơn trong đó cần bố phòng hỏa lực ở mặt cửa sông Thao, chống chọi chiến hạm Tây, và mặt cửa bộ phòng quân Pháp theo đường Ao Lộc.
Nguyễn Hội Khê Ông lại nói.
– Việc binh đã rõ, nhưng việc dân cũng cần có chỉ giáo của Thủ lĩnh, Hạ tướng đồ rằng, với dân chúng ba vùng, không ai hơn gắn bó hơn Chánh Đề đốc thổ hào Hoàng Văn Thúy, tấu Tướng công xem xét.
Thủ lĩnh Nguyễn Quang Bích ngồi lặng lẽ nghe, thỉnh thoảng đưa bàn tay xương xương vuốt nhẹ chòm râu ngả mầu đen bạc. Ngài cảm thấy trào sôi trong lòng tình thương Nước trung Quân sau đại trận Hưng Hóa bất thành. Các tướng lĩnh binh quân phải tan tác sau mấy ngày tử thành, bây giờ đang ở đâu, liệu đã tìm được minh chủ, hay sẽ tìm lại ta? Nếu làm cho Tiên Động lan truyền thì tập hợp ba quân, tập hợp tướng sỹ nhanh hơn, nhưng lại dễ lộ bản doanh, người Pháp sẽ truy đuổi, trấn áp. Mà nếu cứ an cư  lặng lẽ thì khác nào làm chuột chui hang chờ đến đêm đi kiếm ăn! Nguyễn Quang Bích chợt nhíu mày, các tiểu tướng đang chờ lời giải của thủ lĩnh mình đây?
Tướng công ngẩng nhìn Hoàng Văn Thúy rồi chợt hỏi.
– Chánh Đề đốc thấy thế nào?
Đề Kiều tự nghĩ các tướng nêu bản kiến đều đúng. Tiếng là tù trưởng liên vùng kiêm thổ hào Cẩm Khê, Hoàng Văn Thúy nhận rõ trọng trách của Chánh Đề đốc trước Tướng công, trước bộ tướng của Tướng công, nên nắm chập hai bàn tay, đưa ngang ngực:
– Thưa Tướng công Thủ lĩnh. Tiểu tướng nghĩ rằng các vị đây đều đã vì vận mệnh mà hiến kế, và kế nào cũng đầy đủ lý và tình. Riêng hạ tướng Đề Kiều xin có lời với Tướng công và các quân chư vị…
Năm sáu đôi mắt hướng cả về Chánh Đề đốc. Chững chạc, tự tin, lại là người trọng thần phục, Hoàng Văn Thúy nói tiếp:
– Tướng công, Ngài phải là ngọn cờ Cần Vương trong lòng dân ba vùng, nghĩa sỹ tìm đến, quy phục. Bộ tướng tôi thủy trung với Ngài. Ngài Khê Ông vừa có lời trình Tướng công, nếu được Ngài y thuận, tiểu tướng họ Hoàng này xin tự nhận làm cánh quân đầu binh xung tiên dưới quyền lệnh của Tướng công và Phó tướng quân Bố Giáp.
Nói xong, Đề Kiều như thở phào. Tự nhận quân đầu binh xung tiên lần này khác với trận tử thành Hưng Hóa. Ba vùng Cẩm Khê chỉ trong lòng bàn tay, Tây Bắc mới là rộng lớn và gian khổ. Hoàng Văn Thúy không ngẫu hứng dù rằng biết mình là kẻ sỹ giữa làng thổ hào. Ông quyết định một lần nữa dấn thân vào cuộc kháng chiến chống lại người Pháp theo mệnh quốc sấm Hịch Cần Vương của minh Vương Hàm Nghi.
Những lời gan ruột và thái độ vừa cứng rắn,  vừa khiêm nhường của Chánh Đề đốc làm Nguyễn Quang Bích cảm thấy yên lòng. Ngài đưa tay vuốt nhẹ chòm râu rồi nói.
– Các tướng đã theo ta mấy trận giữ thành, nay người Pháp đã chiếm cả Hà Nội lẫn Sơn Tây, Bắc Ninh, Hưng Hóa. Nhờ các minh tướng mà ta đã kịp nghĩ lại, không rẽ theo đường Tổng Đốc, dẫn họa tan binh. Giờ đây tướng sỹ cùng ta khởi dựng Tiên Sơn, lại dự phòng Tây Bắc, há phải lòng Trời sao. Ta nguyện trung tử với Hịch Cần Vương của Thượng hoàng yêu nước Hàm Nghi và Đại thần phụ chính Tôn Thất Thuyết. Các tướng Văn Võ nghĩ sao?
– Y lệnh Minh quân Thủ lĩnh!
– Y lệnh Minh quân Thủ lĩnh!
Các tiểu tướng đồng thanh lên tiếng, hướng về phía Tướng công mà cúi đầu cảm tạ.
Tướng công đưa hai bàn tay lên cao, ra hiệu tạm lắng, Ngài ngẩng nhìn khắp lượt rồi chậm rãi nói, giọng Ngài rõ ràng và khỏe mạnh.
– Mưu phục quốc là ý Trời phó thác. Minh Vương, Đại thần rời khỏi Kinh thành, tự ôm lấy núi rừng Quảng Trị, lập cứ Sơn Phòng. trong Nam, ngoài Trung, rồi Bắc Kỳ, đâu đâu cũng lấy cờ Cần Vương mà phản đối Triều đình. Ta sẽ cùng các tướng tụ hợp binh quân, hẹn ngày dựng cờ khởi sự ngay trên đất Tiên Động này. Các tướng có đồng lòng với ta?
Các Tiểu tướng cúi đầu, đồng thanh:
– Y lệnh Minh quân Thủ lĩnh!
– Y lệnh Minh quân Thủ lĩnh!
Thủ lĩnh gật đầu rồi nghiêm giọng:
– Để giúp ta lo việc đại sự, ta ban lệnh: Sung Đề đốc Hoàng Văn Thúy làm Phó tướng thứ hai, đặc trách chỉ huy chiến khu Rừng Già và mặt trận Đà Giang. Sung phó Đề đốc Vương Văn Doãn làm Chánh Sơn phòng Tiên Động. Ta cho các tướng lui diện!
Chánh Sơn phòng Tiên Động Vương Văn Doãn cùng Khê Ông Nguyễn Hội lững thững đi bên mỏm đồi Cửa Tiền, vừa đi vừa ngắm nhìn phải, trái, trước sau. Cả hai dừng lại.
Vương Văn Doãn:
– Ngài Khê Ông. Tiểu nhân chưa hay được hỏi, tước của ngài là Tán tương, mà lại có tên Khê Ông là cớ làm sao?
– Phó Đề đốc. Tôi thuộc dòng Nguyễn Khắc, tên Hội. Gọi tôi là Tán tương Nguyễn Hội, được Tướng công sung Quân vụ, nên hiển danh: Tán Tương Quân vụ Nguyễn Hội. Còn Khê Ông là làng quê sinh hạ mà tôi nguyện thác sẽ hóa thân.
– Tiếng tăm ngài ba vùng đều hay, tướng binh còn phục tài ứng khẩu, tài văn luận, và cả tài đàm đạo của ngài nữa. Hẳn Tướng công xem ngài là vị quan ngự sử, vị quan ngữ văn số một bên mình. Lãnh Doãn này xin thần phục ngài, thần phục ngài!
– Ngài lãnh binh Vương cận tướng (Tướng cận vệ họ Vương). Âu cũng là nhờ giời được theo hầu Tướng công. Tinh anh của Ngài lan tỏa mà tôi nhiễm được cái tâm cái đức ở Ngài, để bây giờ theo Ngài Thủ lĩnh phụng mệnh Cần Vương phục quốc. Làm được việc nghĩa lớn ấy thì Tán tươngnày dù có ngã xuống cũng hả dạ.
Hai vị sỹ phu vào hạng đứng đầu Bộ tướng, vừa thong dong vừa trò chuyện. Bất chợt tán tương Nguyễn Hội dừng lại, Khê Ông ngắm ngắm nhìn nhìn rồi chỉ xuống mô đất mặt tiền gò đồi.
Chỗ đây. Ta dựng chân cờ Phục Quốc tụ nghĩa ở điểm đất này. Phong thủy, linh khí, gió khí, đều thuận.
Phó Đề đốc Hành dinh cúi nhìn, rồi ngẩng mặt. Bốn hướng núi chầu, tám phương gió thoảng. Một đàn chim trời từ đâu bay về chao qua chao lại rồi xà xuống đậu trên những cành cây tán rộng kêu ríu ran.
Chánh Sơn phong Tiên Động gật gật đầu lấy làm hài lòng sai vệ binh đào đất xếp đá xây trụ. Chỉ một ngày, lá cờ có dòng chữ: “Phục Quốc Tụ Nghĩa” được kéo cao, bay phần phật bên cạnh hành dinh Quan Đại.
Nhìn lá cờ Tụ Nghĩa ngạo nghễ giữa mỏm đồi cao rộng. Bố chánh Nguyễn Văn Giáp nghĩ ngay đến việc sẽ có kẻ dò xét nơi căn cứ nghĩa quân rồi thông ngôn cho quân Pháp, hoặc quân do thám Pháp ở Hưng Hóa đang truy tìm hướng đi của Thủ lĩnh và quân binh, nên cho gọi ngay Lãnh binh quân chiến Nguyễn Quang Hoan đến gặp.
– Võ tướng! Ngài sẽ là tổng chỉ huy mặt trận Cửa Tiền. Nơi ấy thường xuyên đối mặt với các tướng Pháp cả trên cửa sông Thao và cửa đường bộ. Ngài sẵn sàng nhận việc khó ấy chứ?
Nguyễn Quang Hoan từng là thủ khoa võ Triều Nguyễn, từ ngày về Hưng Hóa được Tuần phủ Thủ lĩnh gọi thân mật là Võ tướng. Mọi nhiệm vụ nặng nề giao cho Hoan, Thủ lĩnh cảm thấy yên tâm. Cuộc tử thủ Hưng Hóa không thành, nếu không có Đề Kiều và Quang Hoan thì Tuần phủ Thủ lĩnh cũng đã theo các Tổng đốc Nguyễn Tri Phương, Hoàng Diệu mà đi. Với tư cách là Phó tướng thứ nhất, Nguyễn Văn Giáp đề xuất việc cử Quang Hoan làm tổng chỉ huy Mặt trận số 1. Tướng công Thủ lĩnh gật đầu ngay và còn bút phê vào tờ trình: “Võ Hoan Cửa Tiền”.
– Nơi sung yếu này nên lập đồn theo thế cài răng lược. Nguyễn Quang Hoan vừa nói vừa đưa hai bàn tay xòe rộng rồi luồn vào nhau.
– Ngài lý giải rõ hơn đi? Phó tướng Nguyễn Văn Giáp yêu cầu.
– Thế này, Thưa Phó thủ lĩnh…
Hai vị tướng quân ngồi bệt xuống vồng cỏ, Lãnh Hoãn cầm hòn đá vôi vẽ vẽ trên phiến đá bằng phẳng. Những vạch kẻ ngang dọc, đan chéo, dấu cộng, dấu trừ. Lại có cả hình nón, hình cánh cung, rồi mũi tên chạy thẳng, chạy cong, mũi tên gẫy gập… Mặt phiến đá nham nhở trông như trận đồ bát quái.
Bố chánh tủm tỉm cười:
– Thủ khoa võ có khác. Nhưng đây mới là trên sa bàn, còn ngoài sa trận, ngài có dám cam kết trước Thủ lĩnh Tướng công?
Tướng quân Quang Hoan hào hứng.
– Dám chứ. Với điều kiện là Phó tướng cho tôi quyền tổ chức đao binh quân Mặt trận, và cho tôi dùng sơn pháo thần công.
– Sơn pháo thần công thành Hưng Hóa đã lọt vào tay quân Pháp cả rồi, khó khăn cho ta, khó khăn cho Lãnh tướng.
Lãnh Hoan trầm ngâm:
– Biết là khó, nhưng Tây nó có pháo hạm đặt trên chiếc thuyền sông Thao, mà ta có sơn pháo đặt trên đồi cao, tất chúng phải bỏ cuộc.
Phó tướng Giáp:
– Ý Lãnh tướng thật hay, tôi sẽ cùng ngài lo liệu.
Nắng chiều ngả chéo bóng cây, hai nghĩa binh, hai tướng lĩnh đích thân thị sát mặt trận cửa tiền trở về bản doanh. Mấy ai hiểu tâm trạng của Bố chánh và Võ khoa trong lúc này: Cửa Tiền, sự mất còn của Đại bản doanh Tiên Động.
Đề đốc Hoàng Văn Thúy ngồi trầm ngâm dưới bóng cây lim cổ thụ. Ngày còn là Chánh tổng, Thổ hào Kiều có ý định mở thêm mấy quả gò phía Tây để trồng lim, tạo nên một rừng lim để lại cho con cháu đời sau. Đem ý tưởng đó thổ lộ với bố vợ là Hà Công Cấn người làng Ao Lộc, ngỡ ông phản đối, nhưng không, nhạc phụ Công Cấn khích lệ: “- Con mở rộng gò lim thành rừng lim là phải lắm. Người xưa xem lim như cây Thần, rừng nhiều cây Thần, tất có Thần rừng, mà thần rừng thì tĩnh tâm cứu độ chúng sinh, che chở cho muôn vật, che chở cho ta. Con rể mở rộng gò lim thành rừng, là phải lắm!”. Lời nhạc phụ vốn lão nông chi điền, chứ đâu phải nho túc mà sâu sắc, thúc giục lòng người đến thế.
Thế rồi năm Đinh sửu 1877, Nhị giáp Tiến sỹ Nguyễn Quang Bích được Triều đình bổ làm Chánh sứ Sơn phòng kiêm Tuần phủ Hưng Hóa. Ngài cho người tìm đến Hoàng Văn Thúy, vời về thành. Trước đức độ, và tài thu phục của vị Tuần phủ Tiến sỹ, chánh tổng thổ hào Cẩm Khê Hoàng Văn Thúy quyết định về Sơn phòng làm phò tá Tuần phủ. Thế là ý định mở rộng rừng lim đang dở dang phải tạm ngừng. Hưng Hóa thất thủ, Thủ lĩnh Rừng già. Thật trớ trêu, nơi rừng già có những cây lim trăm tuổi đang được mở mang lại trở thành chiến khu, và ông, Đề đốc Kiều, cựu chánh tổng Cẩm Khê được chính Tướng công Thủ lĩnh phong chức Phó tướng thứ hai, đặc trách chỉ huy chiến khu Rừng Già, còn gọi là mặt trận Cửa Hậu.
Ngồi bên Đề Kiều, chỉ huy mặt trận Cửa Hậu lúc này, là phó tướng Bố chánh Nguyễn Văn Giáp và chánh Sơn phòng Tiên Động Vương Văn Doãn.
– Đề đốc đặt tên “Chiến khu Rừng Già”, nghĩa là sao? Bố Chánh hỏi.
– À, đơn giản thôi ngài Phó tướng. Vì tôi muốn gửi gắm tất cả tinh thần, của cải, suy nghĩ và hành động của tôi trước vận mệnh Quốc tộc, và trước vùng đất sinh thành!
– Sâu sắc, sâu sắc! Bố chánh bật nói, chìa hai tay nắm chặt tay Đề Kiều.
Chánh Sơn phòng Tiên Động xen ngang:
– Đề đốc tôi gắn bó với Rừng Già như xương thịt, như cơm ăn nước uống ngày ngày. Đề đốc phó tướng với chiến khu, khác gì sư tử xám làm chúa Sơn lâm. May thay, căn cứ kháng chiến có Đề đốc.
Bố chánh vui hẳn lên:
– Hay, hay lắm! Chúa Sơn lâm Rừng Già!
Chợt Đề Kiều ngửa hai bàn tay chặn ngang ngực
– Không, không. Thưa hai vị. Căn cứ Tiên Động mới là Chiến khu, “Chúa Sơn lâm” ngài đang mưu lược cứu nguy Quốc nhục đấy, hạ tướng ta chỉ là hạng hùm cọp giữ rừng.
Cả Bố chánh lẫn Phó Đề đốc Hành dinh dập tay đen đét. Bố Giáp:
– Chí lý, chí lý. Nếu có rượu đây, tôi sẽ chúc ngài, ngài Phó tướng chánh tổng.
Đề Kiều cả cười, ngài sợ rằng cuộc vui kéo dài làm mất thì giờ quý báu, nên chủ động:
– Bây giờ xin hai vị tra xét mưu kế bày binh mặt trận cửa hậu mà tôi đã chuẩn bị.
Nói đoạn Đề đốc chỉ huy trưởng trải ra thềm đất một tấm vải xám rộng tới cả mét, rồi bẻ cành găng, những lá găng bằng ngón tay cái, xanh thẫm, được bày ra từng chiếc, Đề đốc nhặt từng lá, sắp đặt, xê dịch, rồi lại sắp đặt. Chỉ một loáng trên nền tấm vải đã tạo nên một hình thù không trật tự. Đề Kiều chỉ vào bản “sơ đồ” rồi nói:
– Lá găng to này là vị trí chỉ huy chung. Lá găng nhỏ này là các đồn hiểm yếu. Còn lá găng gập kia là đồn giả, ổ súng giả, ta sẽ hút quân Pháp vào mục tiêu giả ấy mà thừa cơ đánh úp chúng.
Phó Đề đốc hành dinh Vương Văn Doãn nhìn rõ trận địa giao chiến, nhưng vẫn không nhận ra đường lui, liền hỏi.
– Ngài Phó tướng Đề đốc. Từ hành dinh Thủ lĩnh ở gò Quan Đại vượt đầm lầy đến cửa đèo Yên Lập là đoạn đường xa, phải leo núi Lưỡi hái và vực Đá trơn. Nếu quân Pháp đánh ập bốn mặt cùng một lúc, ta đưa chủ tướng đi thế nào?
Đề Kiều:
– Tôi đã nghĩ đến bài học thành Hưng Hóa. Nếu Thủ lĩnh đòi phải lập phương án “cửa hậu” thì Yên Lập là con đường duy nhất. Mặt trận cửa tiền và các đồn tiền cửa hậu sẽ kìm chân giặc để Thủ lĩnh cùng bộ tướng thừa cơ rút lui an toàn.
Phó Tướng công bố Giáp ngắt cành găng thành những mẩu nhỏ, đặt thành dãy nối tiếp trên mặt tấm vải.
– Ngài Đề đốc. Không cần chờ ý chỉ của Thủ lĩnh Tướng công, mà trước hết là tôi và các ngài phải đặt ra, phải lo liệu.
Ngẩng nhìn hai Lãnh tướng chiến trận, phó tướng Bố chánh chỉ tay vào những mẩu cành găng nối nhau, nói một cách rắn chắc.
– Nếu buộc phải lui binh, rời khỏi căn cứ Tiên Động, thì đường đi của Tướng công và Đại quân sẽ là “đây”: Hố Gia, đèo Lưỡi hái Yên Lập, lên rừng núi Tây Bắc.
Không ai bảo ai, trong đầu ba vị Tả tướng đều thoáng hình dung một núi rừng miền Tây bao la, nơi ấy có thể sẽ là Chiến khu khởi nghĩa Phục Quốc bền vững.
Với sự chủ trì của phó tướng Bố chánh Nguyễn Văn Giáp và phó tướng thứ hai Đề Kiều Hoàng Văn Thúy, cuộc tụ họp quan trọng tổ chức tại Gò lim khu Rừng Già  cách gò Quan Đại mấy trăm mét. Bố chánh thay lời Thủ lĩnh Tướng công đọc “Lời Triệu” chiêu binh mộ sỹ do văn quan Nguyễn Hội soạn:
– Bàn dân Cẩm Khê, Tam Nông, Hạ Hòa, Yên Lập. Người Pháp xâm lăng đã chiếm thành Hưng Hóa. Tuần phủ và binh tướng đã rút về Tiên Động lập chiến khu Rừng Già. Ta mời gọi các chư vị chí sỹ nghĩa sỹ, nghĩa binh và bàn dân khắp miền cùng về Rừng Già hợp sức với ta đánh lại người Pháp, phục Quốc rửa nhục Quốc sử. Văn võ bên ta là những tướng tài như Bố chánh Nguyễn Văn Giáp, Đề đốc thổ hào Hoàng Văn Thúy, võ quan triều Nguyễn Nguyễn Quang Hoan, văn quan Khê Ông Nguyễn Hội và nhiều Tả Hữu tài giỏi, đức độ khác nữa. Nay ta thành tâm triệu mời!
Các tướng sỹ Rừng Già cùng hô vang:
– Về với Tướng công đánh Pháp! Về với Tướng công đánh Pháp!
Lời Triệu vang thật nhanh. Dân làng các xã ba vùng bàn tán, hỏi nhau thực hư ra sao? Có đúng Ngài Tuần phủ kêu gọi từ Tiên Động không? Trai tráng hay bàn dân, nghĩa sỹ, nghĩa binh, lại cả chí sỹ nữa, Ngài sẽ thu nạp thế nào? sử sự thế nào? Ông già bà cả, nam thanh, nữ thanh đi làm, đi chợ, xôn xao cả một vùng.
Việc thu nhận quan sỹ và quân binh, và sắp xếp về các đồn do đích thân Phó tướng Đề Kiều phụ trách. Nghe tên tuổi Đề Kiều phó tướng, đúng là chánh tổng thổ hào Hoàng Văn Thúy năm năm về trước, dân làng ba huyện ào ào cho con cháu loại trai tráng tìm đến Rừng Già ra mắt và xin được nhập “Đạo quân Tuần Phủ”. Đề đốc loan truyền: “- Ai ai ra nhập Đạo quân Tuần Phủ, cũng đều là bởi nghĩa lớn, đều là bởi việc Nước, nặng lòng Vương Triều, không mảy may nghĩ lợi riêng mình, Tướng công Thủ lĩnh sẽ biết tới!”.
Lời Triệu của Thủ lĩnh Tướng công ban ra chưa đầy nửa tháng trời, trai tráng khắp nơi đã kéo đến xin đầu quân. Việc trai tráng đầu quân Đề đốc phó tướng giao cho đốc binh Nguyễn Đình Ngữ sắp xếp bổ về các Đồn, chỉ huy đồn cho luyện tập rồi phiên các đội thiện chiến tùy theo vùng sông nước, đồng lầy, rừng rậm, dốc đá hay len vào làng quê xóm chợ mà đánh. Còn các nghĩa sỹ, vệ binh, dân binh, từng giao chiến trận Hưng Hóa, thất lạc, nay tìm về với Chủ tướng, Đề đốc phó tướng cho mời đến tư phòng phó Đề đốc hành dinh Vương Văn Doãn để được Tướng công ghi nhận công tích và lấy lại lòng thành, rồi mới bổ về giữ trọng trách tại các đồn trọng yếu.
Chánh Sơn phòng Tiên Động Vương Văn Doãn đang lúi húi ghi chép, soạn thảo nội dung một lễ trọng theo yêu cầu của Thủ lĩnh Tướng công thì một bàn tay to bè, đặt lên vai.
Lãnh Doãn quay lại.
– Ôi, ôi, ngài Tán Thuật!
Tán tương Nguyễn Thiện Thuật Chánh sứ Sơn phòng Hưng Hóa, ôm chầm lấy phó Đề đốc hành dinh
– Tán tương Chánh sứ ở đâu đến? Ở đâu đến? Lãnh tướng dồn dập.
– Chuyện dài. Thôi! Thành Hưng Hóa không còn, nhắc đến Chánh sứ Sơn phòng làm gì?
Nguyễn Thiện Thuật ngồi bệt xuống hiên nhà, ngài nhẹ kéo gấu áo Triều phục, thủng thẳng:
– Đi đến chân núi Tiên Sơn mới đưa nó ra mặc, cũng là nợ nước trung quân mà nguyện tìm về với Chủ tướng, tìm về đồng cam cùng Bộ tướng.
Vương Văn Doãn khoát tay trước ngực.
– Cảm tạ tướng quân, cảm tạ tướng quân. Doãn này xin được làm hầu đệ của Thủ lĩnh.
– Không chỉ có tôi đâu, Thuật này nghe nói tiến sỹ Vũ Hữu Lợi ở Nam Định, tiến sỹ Tống Duy Tân ở Nghệ Tĩnh, cử nhân Đinh Công Tráng ở Thanh Hóa cũng đang trên đường tụ nghĩa Tiên Động, trình diện Đình nguyên Hoàng Giáp Tướng công.
Vương Văn Doãn nghe Tán Thuật đưa tin, mừng lắm, liền mời ngài vào nhà an tọa thư giãn sức lực. Rồi sang dinh lán Thủ lĩnh thưa chuyện. Nghe xong, Tướng công nhắc, hậu đãi Tán Thuật, và cứ để ngài bình tâm an tĩnh vài ba ngày. Đoạn lại truyền cho cảnh binh hành dinh đi các ngả đường Tiên Động chờ đợi, nếu gặp được các văn thân nghĩa sỹ thì đưa đường, rước phục về tư lán hành dinh của phó Đề đốc. Vương Văn Doãn chắp nắm tay nhận lệnh rồi lui ra.
Tin tán tương Quân vụ Nguyễn Thiện Thuật tìm đến yết diện Chủ tướng Nguyễn Quang Bích tại chiến khu Rừng Già làm dậy lòng tướng sỹ. Tán Thuật là người Hưng Yên, đỗ cử nhân, được bổ làm Chánh sứ  Sơn phòng phò tá Tuần phủ ở Hưng Hóa. Lại được Tuần phủ giao cho việc trợ giúp Hoàng Kế Viêm. Khi Viêm bỏ về Huế, Tuần phủ mất chỗ dựa, Hưng Hóa thất thủ Tán Thuật đang trên đường ra Bắc, được tin, khóc lóc thảm thiết, nhịn ăn ba ngày rồi về quê an vị. Nhưng nghĩ thương Hoàng Giáp Tuần phủ, lo cho vận mệnh đất nước mà ăn không ngon, ngủ không yên lòng, Nguyễn Thiện Thuật chắp tay vái mẹ già, rồi đeo túi Triều phục cùng một hộ vệ ra khỏi nhà trong đêm mưa rét tháng hai.
– Chủ tướng Tuần phủ ơi, Ngài đang ở Tiên Động là chỗ nào? Trời Phật phù hộ cho ta tìm được Ngài càng sớm càng tốt!
Vừa đi, vừa nghĩ, có lúc bật lời tâm giao ra khỏi miệng.
Hai thầy trò vị tiểu tướng thành Hưng Hóa mặc áo nâu sồng lẫn vào dòng người, kẻ buôn thúng bán mẹt, kẻ hội hè, chùa chiền. Có đêm vào nhà dân xin ngủ nhờ, xin cơm chay, có đêm ghé tạm lán trại trẻ chăn trâu, rồi tìm gặp người già ngoài ruộng, hỏi đường về Tiên Động Cẩm Khê.
Vùng đất Tam Nông đây rồi. Ngày ở Thành, Nguyễn Thiện Thuật đã từng cùng Đề đốc Hoàng Văn Thúy đi kinh lý nơi đây, khi đó tiếng tăm Chánh tổng thổ hào Thúy nổi cả ba vùng, dân làng Tam Nông, Yên Lập, Cẩm Khê ai cũng trọng vọng ngài, nhờ những chuyến đi cùng Đề đốc mà Nguyễn Thiện Thuật học được cách gần dân, gắn kết với họ, mưu việc cho mình. Nhớ lại những ngày sôi động mà thân tình bên Chủ tướng, Nguyễn thiện Thuật thấy tự tin. Hai thầy trò thay bộ nâu sồng nhà chùa, hiển hiện hai cha con lang y nhà nông, lên rừng Tiên Động tìm cây thuốc nam.
Theo lời đề Đề hành dinh, ý Minh chủ chưa giao việc cho một tướng tài cao đức trọng như Tán Thuật là có ý gì? Đến cả phó Thủ lĩnh Bố chánh cũng chưa tự lý giải được huống gì Bộ tướng? Đề đốc phó tướng, Khê Ông văn vận, lãnh Hoan tướng võ, ngồi chụm đầu sắp xếp trọng trách tướng lĩnh và nghĩa sỹ để trình Thủ lĩnh Tướng công.
Bố chánh đi đi lại lại, chợt dừng bước.
– Ngài Đề đốc mặt trận cửa hậu, và ngài võ tướng lãnh binh chỉ huy mặt trận hậu cửa tiền, hãy xướng danh đồn trưởng các đồn?
Lãnh Hoan nhanh nhảu.
– Thưa ngài Bố chánh. Cửa tiền xung yếu bởi pháo hạm Sông Thao, mà Tán Thuật lại giỏi sông nước, xin ngài cho Thuật đặc trách đồn Sông Thao nhằm chặn quân sài lang ngay từ thủy pháo hạm.
Bố chánh gật gật tỏ ý tán thành. Nhưng lại hỏi.
– Nếu Thủ lĩnh Tướng công không phê thì ngài tính sao? Lại còn cửa đường bộ nữa!
Lãnh Hoan giật mình. “Ờ nhỉ. Chủ tướng chưa giao việc, chắc là Ngài đã có ý!” Nhưng rồi không ngần ngừ, lên tiếng:
– Cửa Sông là Dật, Tán tương Lê Đình Dật. Còn Cửa Rừng là Hoàng Đình Cương, lãnh binh Cương. Tạm thời hai người đồn trưởng ấy đã, các phó đồn, tôi tính sau.
Bố chánh, Đề đốc Kiều đều gật đầu.
– Được!
– Được đấy, ngài võ Hoan! Đề Kiều tán thành, rồi ngài tiếp luôn.
– Ở Rừng Già, tôi đề xuất: Đề Kiều tôi sẽ kiêm nhiệm cửa Cẩm Khê, phó đồn có Trịnh Bá Đanh Tổng Khảm và cụ Tán Áo Hà Công Cấn trợ giúp. Còn cửa Khả Cửu Thanh Sơn thì tốt nhất là Đốc Ngữ – Nguyễn Đình Ngữ. Tôi cũng nghĩ đến phần trung lưu Sông Thao, nên lập một đồn, trấn cửa Hạ Hòa đề phòng thủy chiến Pháp ngược sông rồi đánh lật lại Tiên Động.
Phó thủ lĩnh Tướng công thấy Đề Kiều đề xuất thì vỗ đùi đen đét mà cười.
– Đề đốc, ngài đúng là một tướng quân, và là một chánh tổng. Ngài có con mắt của quân binh, lại có con mắt của một dân binh thổ hào! Nhưng theo Đề đốc, ngài giao việc này cho ai?
Đề đốc Kiều ngẩng mặt quả quyết
– Đốc Thục, người Đoan Hùng!
– Được, được! Bố chánh gật gật đầu.
Nguyễn Văn Giáp đứng dậy bước vài bước trong khuôn sân lán trại rồi vỗ vỗ nhẹ vào vai Vương Văn Doãn phó Đề đốc hành dinh, người vừa bước vào ghế.
– Một việc rất quan trọng nữa, là, cột cờ thì làm rồi, nhưng nội dung lá cờ tụ nghĩa, hình như Chủ tướng chưa hài lòng. Các ngài thấy sao?
Lãnh Doãn:
– Vâng, thưa ngài Phó thủ lĩnh. Tướng công có lần tâm sự với tiểu tướng là hai từ “Tụ Nghĩa” thì hay, nhưng không rõ mục đích, mục tiêu, chưa thể hiện ý chí của Văn thân và nghĩa sỹ. Nhưng Ngài chưa đề bút, mà cũng không đọc lời, nên tôi không tiện hỏi.
Bố chánh:
– Thôi được, việc Cờ nghĩa là việc lớn, tôi và Vương chánh Sơn phòng sẽ xin ý kiến cụ Hoàng.
Ngừng giây lát. Nguyễn Văn Giáp đưa hai bàn tay nắm chặt giơ lên.
– Việc bổ tướng đồn, ta đã thống nhất. Các ngài sớm sắp đặt cho hoàn thiện và lo chuyện tập dượt, việc binh dao không đợi bút phê của Tướng công.
Đề Kiều, Võ Hoan, Lãnh Dõan, đều đứng cả dậy khẽ cúi chào phó Thủ lĩnh, rồi bước ra khỏi dinh Bố chánh.
Nguyễn Quang Hoan cho người về làng Mè tìm Ma Văn Vân. Dạo ở Hưng Hóa, Vân là dân quê, nhân chuyến đi bè Sông Thao, gặp Hoan, lúc bấy giờ Hoan chỉ là nghĩa binh, hai người hợp lòng hợp ý, Vân tôn Hoan là anh, anh em huynh đệ, Hoan – Vân trở nên thân thiết. Rồi Vân tự theo Hoan vào Thành, lúc đầu là dân binh, được thủ khoa võ Hoan bảo lãnh, Ma Văn Vân trở thành nghĩa binh, rồi là thủ binh cho lãnh Hoan. Ma Văn Vân gan dạ, mưu mẹo và trung thực, nên được võ tướng tin dùng. Có lần lãnh Hoan kể chuyện Vân dụ hai lính vệ binh người Việt cùng quê, làm trong hàng ngũ quân Pháp ở Sơn Tây, hai lính Việt họ Mè tìm cách làm cùng ca gác rồi ôm súng trốn về thành Hưng Hóa, tự thú tội và xin làm quân binh của lãnh Hoan. Từ bấy Chủ tướng biết đến Ma Văn Vân và giao cho Vân chức Thị sát, phụ trách nhóm quân dò xét tình hình bên ngoài. Hưng Hóa thất thủ. Ma Văn Vân lánh về quê làng Mè.
Gặp được thị sát Ma Văn Vân, lãnh Hoan không ngần ngừ mà giao ngay phó đồn Cửa bộ dưới sự chỉ huy trực tiếp của Đề Cương.
Thủ khoa võ tướng Nguyễn Quang Hoan lại cho người tìm đến Văn Lang Hạ Hòa tìm Đào Văn Toát. Toát là người cao to, có sức khỏe, từng gia nhập quân Triều đình xung hành thành Sơn Tây. Do có công, được Bố chánh Tuần phủ Sơn Tây Nguyễn Văn Giáp phong chức Đội Vệ – đội trưởng vệ binh. Thành Sơn Tây bị uy hiếp rồi thất thủ, Đào Văn Toát chạy về Hưng Hóa ra mắt Tuần phủ Nguyễn Quang Bích và được Ngài phong Lãnh – Lãnh Toát, xung vào đội cảm tử của võ tướng Nguyễn Quang Hoan. Thế giặc quá mạnh, Đề Kiều, Lãnh Hoan dìu Tuần phủ Thủ lĩnh Rừng già. Đề đốc Kiều đưa Thủ lĩnh rời thành, lãnh Hoan và đội vệ Đào Văn Toát cùng đội cảm tử, vẫn cản bước chân giặc cho đến lúc quân Pháp tràn vào Thành, Hoan và Toát, mỗi người cùng tốp binh quân, chạy thoát vào rừng.
Võ Hoan vời được Đào Văn Toát trở về Sơn phòng Tiên Động làm Phó đồn cửa sông dưới quyền tán tương Lê Đình Dật.
Cái rét nàng Bân năm nay cũng chỉ thoáng qua, không kéo dài. Sau trận mưa rào tháng ba, dấu hiệu của đầu hè đến sớm. Bản doanh Thủ lĩnh như trầm lặng trong cánh rừng già đang vụ nảy lá non. Chim rừng từng đàn, ríu rít trên các cây cổ thụ Tiên Động. Dưới tán cây xanh mát có những khoảng trống to nhỏ để những tia nắng sau mưa tuy có nhợt nhạt nhưng cũng đủ dọi xuống làm thoáng đãng không gian Rừng Già.
Đồi “Quan Đại thần” – quân binh thân mật gọi thế, một lúc có mấy tốp khách được vệ binh của lãnh Hoan đưa đến tư dinh Quan Đại. Ai nấy tỏ vẻ tươi vui hào hứng chờ đợi phút giây mà họ đã phải mất bao ngày đêm mỏi mắt đợi chờ.
Gian nhà lán ba gian lợp lá cọ, phân liếp vách nứa nhưng rộng rãi. Cột gỗ không cưa xẻ mà một đầu hồi, cây cột cái lợi dụng luôn vào chãng hai gốc thành ngạnh già. Hôm chọn địa điểm dựng lán “chiêu hiền”, đích thân Tướng công cắm hướng và gợi ý chánh Sơn phòng Vương Văn Doãn để nguyên cây xanh này. Thành ngạnh là loại cây cao, thẳng, cứng, vỏ bạc phếch, các mắt sần lúc nào cũng rỉ nhựa đỏ và dính. Thành ngạnh sống khỏe trong mọi thời tiết mưa, nắng, hạn, úng, gió giật. Khê Ông văn thân Nguyễn Hội nhìn nhà lá chiêu binh hiền tài gật gù nói với phó Đề đốc hành dinh:
– Tướng Công có con mắt linh thần , lại có quả tim trung Quân ái Quốc, việc tất thành!
Vương Văn Doãn lấy làm thích thú giải đáp:
– Tướng công sâu sắc lắm, nhựa cây cũng như máu và nước mắt người ta vậy, “Bình Tây, báo Quốc” là ý chí của Chủ soái Thủ lĩnh! Tán tương Quân vụ và phó Đề đốc hành dinh rảo bước quanh nhà lá “Chiêu Hiền”.
– Thưa ngài!
Vương Văn Doãn quay lại. Một vệ binh đã đứng ngay sau lưng, hai nắm tay khép hờ.
– Thưa ngài chánh Sơn phòng, có một người tự xưng là tướng quân Đinh Công Tráng, nghe giọng nói nặng nặng, hai ba kẻ theo hầu, đang dưới lưng đồi, đòi vào gặp Thủ lĩnh.
– Được! Mời lên gặp ta.
Nói rồi, Doãn bước nhanh về tư dinh. Vừa lúc Đinh Công Tráng bước tới.
Vương Văn Doãn chắp hai nắm tay ngang mặt.
– Chẳng hay, Tướng quân là ai, từ đâu về tụ nghĩa?
Đinh Công Tráng nhìn Vương Văn Doãn, thấy phong thái lịch thiệp nhưng thiếu dáng uy nghi, cho rằng đây chỉ là một hầu cận nên không trả lời mà chỉ bước qua bước lại.
Chánh Sơn phòng thấy người được cho là “Tướng quân Đinh Công Tráng” tỏ vẻ xem thường chức sắc của bản doanh Tiên Động, lấy làm khó chịu. Nhưng vì trọng nghĩa chiêu hiền của Minh chủ nên kiềm chế, bước lên hai bước, một lần nữa chắp nắm tay, mỉm miệng, mà rằng:
– Quý tướng quân, muôn dặm đường xa về đây không ngoài mưu cầu phục Quốc, là phải lòng phải dạ Thủ lĩnh Hoàng Giáp lắm lắm. Xin mời ngài an tọa cho đỡ mệt mỏi, Tướng công tôi sẽ thân hạ tiếp người.
Đinh Công Tráng thấy người đứng trước mặt lễ nghĩa nói câu “Tướng công thân hạ” tiếp mình thì cảm thấy ái ngại, liền khoát khép hai cánh tay, lên tiếng.
– Thưa tráng sỹ, Đinh Công Tráng tôi từ xứ Thanh ra đây tìm Minh chủ, đúng là cũng chỉ vì mưu phục Quốc. Nay được ngài thiện tình, thì mau mau cho tướng quân họ Đinh này vào ra mắt Tướng công.
Phó Đề đốc vẫn từ tốn:
– Hạ tướng xin cảm tạ và mời tướng quân lên dinh Chiêu Hiền cho lại sức.
Đinh Công Tráng khoát vòng tay rồi bước theo chánh Sơn phòng.
Cùng chiều hôm đó tiến sỹ Vũ Hữu Lợi ở Nam Định được mấy học trò dẫn đường, đã tìm đến Tiên Động mong ngày được gặp bạn cũ – Cụ Hoàng Giáp, mà cùng bạn dấn thân vào cuộc chinh chiến mới vì nghiệp lớn.
Cụ Hoàng Giáp Nguyễn Quang Bích thong thả rảo bước trên sân dinh Thủ lĩnh. Trời đang giữa thu, khô hanh pha lẫn sự mát mẻ của khí hậu rừng già. Thủ lĩnh bước đi, bộ Triều phục nhẹ nhàng lướt trên những đốm lá khô. Mũ vành đai, áo lụa xanh với những ô hình đa giác mềm mại, hàng khuy đồng gọn nhẹ mà khỏe khoắn. Ngài không đi giầy Triều thần, mà thật lạ, Ngài thưởng đôi guốc mộc, tay cầm cuốn sách, tay vuốt nhẹ chòm râu dài trước ngực. Ba bốn hộ vệ đứng quanh tư dinh khẽ ghé tai nhau thầm thì mà không ai dám làm phiền Tướng công. Nhưng có điều chắc chắn, với Ngài, hôm nay phải là một ngày quan trọng. Mấy hộ binh luận thế.
Cụ Hoàng vẫn bước nhẹ, lá khô xào xạc. Những tốp chim rừng đủ mầu xanh đỏ chao đi chao lại rồi đậu xuống cành cây thành ngạnh đầu trái nhà, kêu rúc rích. Hoàng Giáp đến bên phiến đá trắng khoan thai nâng vạt lụa Triều, từ từ ngồi xuống. Đôi con mắt vị Hoàng Giáp nhìn xa xôi, vừa như mơ tưởng, vừa như đăm đắm. Ngài bật thành lời: “- Gập ghềnh nào sợ bước gian nan/ Cứu nước thân già, dạ sắt son/ Trung hiếu trên đầu trời chiếu rọi/ Non sông che chờ được bình an!”
Ngẫm lướt qua đường đời, lúc ngọt lành khi chua chát; lúc hào hứng bởi sự mãn nguyện, khi buồn rầu khi trời chẳng chiều lòng. Hai mươi tám tuổi, đậuTú tài; ba mươi mốt, đỗ Cử nhân. Được vào thi Đình, đỗ Đình nguyên Nhị giáp, rồi Hoàng giáp. Tiến sỹ. Năm ấy Tự Đức Hoàng thượng trọng tài đức mà bổ làm Án sát Bình Định, rồi làm Tuần phủ phủ Hưng Hóa, phong Hiệp biện Đại học sỹ. Nếu không có biến cố Hà Nội thất thủ, Tổng đốc tuẫn tiết, dẫn tới thành Bắc Ninh, thành Hưng Hóa… Nghĩ đến đây cụ Hoàng thở dài, rồi tự vươn ngực hít thở như lấy lại sự tự tin giữa nơi không khí trong mát “Gập ghềnh nào sợ bước gian nan/ Cứu nước thân già, dạ sắt son…” Hoàng Giáp cựu Tuần phủ cảm giác trong người nhẹ nhõm thanh tao, hiệu bút Ngư Phong mỗi khi được nhắc đến, hay đặt sau mỗi bài thơ do mình cảm tác, Ngài tự thấy viên mãn, tự thấy sự mãn nguyện của một kẻ sỹ lòng thành. Bây giờ thì, chút lãng mạn nho gia đấy đã thay đổi. Trước mặt là vận Nước, kẻ sỹ lãng tử như Ngư Phong Hoàng giáp đây sẽ phải đối diện, sẽ phải đối mặt. Triều thần là ta ! Triều đình là ai? Thế sự đến bao giờ thì có thể đảo ngược? Hay mặc cho số phận, mặc cho Trời, Đất định đoạt? Không! Triều đình là ai ? Triều thần là ta ! Vận mệnh nước nhà phải do các sỹ phu, nhất định phải do các sỹ phu giành quyền giữ!
Hoàng Giáp như chợt tỉnh, Ngài mỉm cười gấp cuốn sách giấy bổi dầy đặc chữ nho.
Phó Đề đốc hành dinh rụt rè.
– Thưa… thưa Thủ lĩnh Tướng công…
Nguyễn Quang Bích khẽ ngẩng mặt quay lại.
– Thủ lĩnh Tướng công. Tiến sỹ Vũ Hữu Lợi bạn hữu của Ngài xin được tiếp kiến.
– Vũ Văn Lợi người Nam Định phải không? Tướng công chợt hỏi.
– Vâng! Đúng. Đúng ạ!
– Ông Nghè cũ. Mời bạn ta vào!
Nguyễn Quang Bích bước nhanh trên nền sân dinh, lá khô xào xạc. Ngài đang nóng lòng đón ông Nghè làng Giao Cù Vũ Hữu Lợi bạn hữu thời cùng học thầy Doãn Khuê tiến sỹ trường Nam Định.
Hoàng giáp bước vào dinh phòng, không thấy ai, liền quay bước lại. Chánh Sơn phòng lúng túng.
– Thưa Thủ lĩnh, chờ Ngài an tọa…
– Ơ kìa, bạn ta, bỏ mọi lễ tục!
Nói rồi Nguyễn Quang Bích ra hiệu Vương Văn Doãn đưa xuống nhà ngay.
Tam giáp đồng tiến sỹ Vũ Hữu Lợi nhác thấy bóng Triều phục, hiểu ngay Hoàng giáp Nguyễn Quang Bích thân chinh đến gặp mình nên vội cúi sụp xuống, hai tay chắp khép, chào nhỏ.
– Cụ Hoàng Giáp! Quan Đại thần Hoàng Giáp!
Ấy ấy! Cụ Đốc học tam giáp tiến sỹ. Tôi mặc Triều phục là để luôn nhớ trọng trách trung thần chứ không phải để làm quan. Việc của anh em ta bây giờ là phục quốc bài Tây, Cụ Đốc học đồng tình chứ?
Hai vị tiến sỹ đồng trang lứa, cùng mưu chủ chiến, đồng nghĩa thân dân, nắm tay nhau bước vào nhà lán giành cho Thủ lĩnh.
Cũng ngày hôm ấy vào giờ Dậu, Thủ lĩnh Tướng công cùng phó Đề đốc hành dinh, thân chinh xuống nhà nghỉ trong khu dinh thự Đại bản doanh, đón tướng quân Đinh Công Tráng, tán tương quân vụ Nguyễn Tử Ngôn, cử nhân Trần Ngọc Dư. Ai nấy hoan hỉ, hào hứng và thân tình. Bản doanh khu Rừng Già Tiên Sơn đang ngày càng có thêm nhiều tướng lĩnh, nghĩa sỹ, thân hào các miền tìm đến.
Đã mấy lần Chánh Đề đốc theo ý của Bố Giáp có lời với Thủ lĩnh, là tăng cường các tướng, các nghĩa sỹ về đội quân, để rồi lập ra bộ tướng Tiên Động như thời thành Hưng Hóa. Tướng công lắng nghe, không gạt đi, nhưng cũng chưa tỏ thái độ đồng lòng. Thấy sốt ruột, Bố chánh Nguyễn Văn Giáp đề thư ngỏ gửi lên Thủ lĩnh.
Một ngày, hai ngày. Đến chiều, Tướng công cho mời Bố chánh Giáp và Đề đốc Kiều cùng ăn cơm. Lại cho mời võ tướng Nguyễn Quang Hoan, văn thân Nguyễn Hội và phó Đề đốc hành dinh Vương Văn Doãn kế tiệc.
– Ta mời các tướng đến, nhấp chén rượu nhạt, và cùng ta định liệu việc thế sự.
– Dạ. Có các tiểu tướng, thưa Thủ lĩnh! Bố chánh Nguyễn Văn Giáp đáp nhẹ.
Thủ lĩnh:
– Từ ngày rời đình Tứ Mỹ lên đây, đã tròn sáu tháng, các tướng giúp ta nhiều điều, làm ta hài lòng. Căn cứ Tiên Động đã hình thành. Lập được các đội quân đồn. Nhiều tướng lĩnh, văn thân, nghĩa sỹ, nghĩa binh từ khắp miền tìm đến, ra nhập. Dân chúng ba miền Phú Thọ đều hướng về chiến khu Rừng Già mà góp gạo thịt, chăm sóc, bảo vệ làm ta cảm động…
Nguyễn Quang Bích ngừng lại. Các tướng khoanh tay trìu mến nhìn vị Thủ lĩnh. Đề đốc Kiều nhận rõ khuôn mặt Ngài đã thay đổi ít nhiều theo năm tháng, gầy hơn, râu tóc nhiều sợi bạc, thân hình không còn vượng sức như ngày đương kim Tuần phủ tọa lạc nội thành. Trước mặt các văn thân nghĩa sỹ đây, bây giờ chỉ là một Tuần phủ lưu vong không thể điều hành bộ máy hành chính đầy quyền lực. Mà Triều đình dù chưa bãi chức, nhưng không điều hành, không liên lạc, không cung cấp, không ngăn chặn quân Pháp. Có nghĩa là không tất cả với Hưng Hóa… thì còn nghĩa lý gì? Ngài ngồi đây, một quan đại thần hàng phủ của Triều đình ngồi đây giữa rừng Tiên Động, không mặc Triều phục, chỉ bộ cánh nâu lụa như các cụ hào lý làng. Vậy mà thần thái Ngài dường như vẫn tỏa sáng. Khuôn mặt đầy bản lĩnh, đôi mắt kiên nghị, giọng nói rắn rỏi thuyết phục…
Nguyễn Quang Bích trìu mến nhìn các tướng lĩnh hạng cận thần, nhẹ nhàng bộc bạch: “- Gập ghềnh nào sợ bước gian nan/ Cứu nước thân già, dạ sắt son/ Trung hiếu trên đầu Trời chiếu rọi/ Non sông che chở được bình an”.  Nhóm tướng bất ngờ cúi mình cảm tạ. Văn thân Khê Ông Nguyễn Hội vội đứng lên:
– Thưa ngài Thủ lĩnh. Mỗi lời trên bút hiệu Ngư Phong được viết ra từ gan ruột. Chúng tôi coi đó là lòng dạ mình vậy.
Bố chánh Nguyễn Văn Giáp cũng đứng dậy.
– Thủ lĩnh. Chúng tôi nhất tâm tôn Ngài làm Đại thần Quân vụ Bắc Kỳ!
Nguyễn Quang Bích đưa hai bàn tay xương xương ra trước mặt.
– Giã ơn các ngài. Giã ơn! Ta muốn nói ra điều này. Tiên Động căn cứ đã là đây, nhưng lá cờ hợp nghĩa chưa làm ta ưng thuận. Các tướng cùng lo cho cái ngày tuyên bố hành động, để tiếng vang gần xa, ba miền biết tới, và để nghĩa sỹ, dân tình hòa lòng sau trước, báo quốc bình Tây, giữ bền Tiên tổ!
Các tướng lại một lần nữa cúi mình vâng mệnh. Bữa cơm Thủ lĩnh mời chiều nay, chỉ có rau rừng chấm muối cỏ gianh, cũng chỉ có rượu lá cất từ lõi cây đao xanh, rót đầy bát mắt tre, mà ai nấy cảm thấy no say ấm áp.
Rời tư dinh Thủ lĩnh, Bố chánh và Đề đốc sóng đôi bước về phía Quân trại.
– Tướng công tâm trạng và sâu sắc. Đề Kiều nói.
Bố chánh:
– Đúng là Tướng công tâm trạng, sâu sắc, mà cũng đã đặt lòng tin ở tất cả chúng ta rồi. Theo ngài, phải làm gì bây giờ?
– Thủ lĩnh nói như vậy, nghĩa là cần chuẩn bị kỹ cho việc tổ chức dựng cờ tuyên bố khởi nghĩa.
– Đúng thế, việc đại sự này xin Đề đốc cùng hành dinh lo giúp cho. Phần mình, tôi sẽ lựa lời trình Thủ lĩnh chuyện sắp đặt Bộ tướng trên bàn cờ Tiên Động.
– Ngài Bố chánh yên tâm. Tôi hiểu vùng đất, hiểu dân binh, ta sẽ làm vừa lòng Tướng công.
Hai vị Phó soái cùng chắp ốp bàn tay chào nhau. Mỗi người một lối, về tư dinh Bản doanh Tiên Động.
Chánh Sơn phòng Vương Văn Doãn thật sự vui mừng khi vệ binh dẫn hai cha con “ông dân quê” lên tìm gặp. Mới thấy thoáng dáng hình Nguyễn Văn Lò, Vương Văn Doãn đã bổ xô đến ôm thật chặt.
– Đầu bếp, Đầu bếp! Ông có khỏe không, xa nhau đến sáu bẩy tháng rồi còn gì?
Nguyễn Văn Lò nắm chặt hai vai bạn rồi quay sang cô gái – nàng Mỹ Cẩm.
– Chú, chú! Mỹ Cẩm lúng túng!
– Thế nào, cưới chồng lâu chưa?
– Dạ, chưa đâu ạ!
– Sao thế anh Lò. tôi cứ ngỡ…
– Thế này chú Vương ạ…!
Thực lòng bố con Nguyễn Văn Lò đã sắp định việc ở lại Tiên Động cùng Thủ lĩnh sau hôm rời đình Tứ Mỹ. Nhưng rủi, ở Tiên Động được hai ngày thì đầu bếp Nguyễn Văn Lò nhận tin bố vợ ốm nặng rồi qua đời. Cha con Lò phải về chịu tang, việc theo hầu Thủ lĩnh bỏ dở, cả chuyện tình duyên cận ngày ăn hỏi của nàng Mỹ Cẩm cũng đành gác lại. Những tưởng không thể về Tiên Động, nhưng rồi chính cha con Nguyễn Văn Lò cũng bị phụ thân là cụ lang y Nguyễn Văn Lường mắng mỏ về tội “bỏ dở việc Nước”. Không đợi đến giỗ đầu bố vợ, đất đã xanh cỏ hai cha con Lò trở lại Tiên Động.
Chánh Sơn phòng Vương Văn Doãn nghe xong lấy làm chia sẻ rồi cắt đặt Nguyễn Văn Lò nhập trại doanh Đề đốc ở khu Rừng Già, còn nàng Mỹ Cẩm được giao trọng việc tiếp tục cùng các lang y chăm sóc sức khỏe Thủ lĩnh và Bộ tướng như ngày ở đình Tứ Mỹ.
Đề Kiều và Vương Văn Doãn ngồi chụm đầu bàn việc may một lá cờ đại để kéo lên cột tre bương trên đồi Trọi.
– May cờ đại là việc hệ trọng, Ngài cho tìm các nghệ nhân dệt vải, rồi chọn các gái trinh tiết thêu riềm. Đề đốc nói.
– Thế còn thêu chữ?
– Cũng vậy! Xin Tướng công Thủ lĩnh đề bút, rồi các gái trẻ gái khéo thêu thành chữ. Trước ngày kéo lên, ta mời Ngài  ra lễ tế hô thần nhập binh. Cờ là Quốc hồn, vừa tụ nghĩa, vừa khởi nghĩa.
Đề đốc Hoàng Văn Thúy nói làu làu như thể ông đã hiểu hết ý tưởng của vị Thủ lĩnh. Chánh Sơn phòng Vương Văn Doãn gật đầu, rồi lại gật đầu lãnh nhiệm.
Mười ngày nay. Những tấm vải vuông lụa điều đồng mầu ngũ sắc của các làng nghề dệt may nổi tiếng ở Tiên Động được đưa về Bản doanh. Hai mươi cô gái xinh đẹp, khéo tay nhất cũng được chọn đến khâu tua khâu diềm. Giờ mùi sáng hôm đó, nắng bừng Rừng Già không gian thật lãng mạn, Thủ lĩnh Ngư phong Nguyễn Quang Bích được văn thân Khê Ông và phó Đề đốc hành dinh tháp tùng, đi xuống nhà ngang bản doanh, nơi các gái trẻ Tiên Sơn đang khẩn trương làm việc. Đứng ngắm lá đại kỳ dài hơn hai trượng, Thủ lĩnh Tướng công nhìn quan văn Nguyễn Hội tỏ ra hài lòng. Chánh Sơn phòng vội vàng lấy bút lông dâng lên tay Thủ lĩnh. Nguyễn Quang Bích bước tới mặt tiền đại kỳ, Ngài nâng cây bút hoa đưa dần, đưa dần tới góc trái lá cờ mà nhẹ tay đề tựa “Bình Tây, báo Quốc”. Đoạn quay sang nàng Mỹ Cẩm và các gái trẻ mà rằng: “- Đời ta chưa  trả xong, đời con, đời cháu nối tiếp”. Rồi Ngài khoan thai trở lại tư dinh. Bốn chữ đề tựa nét chữ đậm trên góc ngọn cờ lụa được các nghệ nhân già trong làng, phóng đại đặt vào tâm cờ. Một tháng sau, bốn chữ “Bình Tây, báo Quốc”, được các cô gái hoa tay thêu căng nét giữa bản cờ lụa. Chánh Sơn phòng ra lệnh gấp lại, cất kỹ, chờ ngày tế linh.
Sau thời gian để các văn thân võ tướng tĩnh dưỡng tại nhà dưỡng sức, tọa lạc ngay bên đầm nước làng Mỹ Lương. Đầm nước Mỹ Lương bao bọc quanh làng. Mùa mưa, làng nổi như một bán đào. Ngay sau khi đặt chân lên đất Tiên Động, Thủ lĩnh Tướng công đã cùng Đề Kiều và lãnh Hoan đi thực địa, tại đây Tướng công gợi bảo võ tướng Nguyễn Quang Hoan lập một đồn thuộc mặt trận cửa tiền nhằm án ngữ đường thủy Ngòi Dành, lại có thể yểm trợ cho các đồi Gò Dọc, đồi Cỏ Rác, những điểm sẽ lập đồn thuộc Mặt trận. Tướng công lại gợi ý Đề Kiều, nên làm một dinh thự nơi lòng đảo này để tướng lĩnh, văn thân nghỉ ngơi thư giãn sau mỗi lần chiến trận thắng lợi.
Tám tháng trôi nhanh. Tướng công Thủ lĩnh và các hạ tướng, quân binh, đã làm cho Tiên Động khá yên tĩnh ngày nào, nay sôi động không khí sinh hoạt, lại sôi sục máu nóng quân binh. Tướng công tỏ ý hài lòng. Giờ thì Ngài đang thanh tĩnh tại tư phòng chờ đón các Văn – Võ ba miền – một cuộc gặp Bình Tây báo quốc mà chính Ngài, một quan Triều, đã bao ngày đêm chờ đợi.
Chánh Sơn phòng  Vương Văn Doãn lần lượt mời các văn thân vào phòng: Nguyễn Thiện Thuật, Đinh Công Tráng, Vũ Hữu Lợi, Nguyễn Đình Ngữ, Nguyễn Tử Ngân. Rồi các tướng đồn trưởng, đồn phó mặt trận cửa tiền, cửa hậu: Hoàng Đình Cương, Lê Đình Dật, Ma Văn Vân, Đào Văn Toát, Trịnh Bá Đanh, Hà Công Cấn…
Thủ lĩnh Tướng công Nguyễn Quang Bích trong Triều phục từ cửa dinh bước ra. Bên ngoài là Bố chánh Nguyễn Văn Giáp, Đề đốc Hoàng Văn Thúy, lãnh binh võ tướng Nguyễn Quang Hoan, Khê Ông văn thân Nguyễn Hội. Tướng công nắm tay từng người, đôi mắt Ngài trìu mến và thu phục. Đứng trước hàng cận tướng, Nguyễn Quang Bích đưa hai bàn tay lên cao, nắm chặt.
– Các Tướng quân. Người Pháp cướp nước, Triều đình lung lạc. Thế ta không giữ nổi Hà Thành, Bắc Thành, Hưng Thành, đã là tội lớn với Tổ tiên. Nay ta từ chức Tuần phủ Hưng Hóa mà tự gánh lấy việc dấy binh ở Tiên Động, các tướng đã tự nguyên về đây cùng ta, xin ăn ở lòng thành, sống chết tôi trung, danh thơm muôn đời để lại cùng Non Nước. Nguyễn Quang Bích ta sẽ chọn ngày kéo cờ khởi sự “Bình Tây, báo Quốc”, các tướng nghĩ sao?
Cả loạt văn thân võ tướng khoanh tay đáp vang.
– Theo Tướng công, bình Tây, báo quốc! Theo Tướng công, bình Tây, báo quốc!
Tướng công Thủ lĩnh một lần nữa đưa hai bàn tay lên cao, nắm chặt. Rồi Ngài cùng phó Đề đốc hành dinh lui vào phòng Hậu cung. Bố chánh Phó Thủ lĩnh Nguyễn Văn Giáp bước lên. Nàng Mỹ Cẩm bưng tới một bình rượu nếp.
Nguyễn Văn Giáp:
– Các tướng quân. Đây là rượu lộc Thủ lĩnh Tướng công ban biếu để ghi nhận buổi gặp mặt hôm nay. Mời các ngài lần lượt thụ hưởng để giữ tròn danh dự.
Nói rồi, Bố chánh bật nút bình rượu, nàng Mỹ Cẩm tay nâng ly sành, tay rót nhẹ. Hương vị rượu nếp tháng mười tỏa thơm cả tòa Hành dinh. Lần lượt, cứ thế, lần lượt…
Cuộc vui khởi động diễn ra nhanh gọn mà ai nấy đều cảm thấy hài lòng. Một cảm giác tràn ngập lòng các bá quan văn võ: Chén rượu nếp vừa cay vừa ngọt ấy, cũng là vị nóng của máu đào, vị mặn của mồ hôi mà tướng lĩnh đã đồng lòng đón nhận từ Thủ lĩnh, tự nguyện chinh chiến vì một mối thề báo Quốc, bình Tây.
Giờ mão đêm hôm đó, mồng chín tháng ba Ất dậu Thủ lĩnh Tướng công lặng lẽ rời Bản doanh, về đình làng Hội, đích thân làm lễ tế Tổ vua Hùng. Ngài chỉ đem theo văn thân Nguyễn Hội, chánh Sơn phòng hành dinh Vương Văn Doãn, và nàng Mỹ Cẩm hầu lễ.
Đề đốc Hoàng Văn Thúy không thể ngờ dân chi điền vùng Tiên Động, Hoàng Lương lại hướng về Chủ tướng Thủ lĩnh đến thế. Làm chánh tổng bao nhiêu năm gắn bó với đất và người làng quê trung du mà chưa khi nào dân chúng lại sôi động, lại gần gũi và thân thiện như từ ngày Tướng công về đây công khai chiêu mộ. Nếu không có sự hiển linh của quý nhân, thì hẳn là, ở Ngài phải có hút lực nào đấy! Lực hút vô hình kia ngoài cái tâm, cái chí, cái tài nữa, có thể còn có cái thiêng mà không mấy ai dám nói ra một cách rành mạch. Ngồi một mình với chén trà ướp nụ hoa nhài, Đề Kiều gật gù cắt nghĩa.
– Khê Ông, Khê Ông văn hầu! Mời ngài ghé lán dùng trà.
– A ha, Đề đốc võ Hoàng. Văn thân Nguyễn Hội kêu lên.
– Mời ngài. Trà nhài ướp tươi uống nóng chỉ Phú Thọ tôi mới có.
– Vâng. Vâng! Xin ngài Đề đốc.
Nhấp chén sành trà miền quê trung du, Khê Ông Nguyễn Hội thấy thân tình, ấm áp mặc cho ngày đông lạnh giá. Khê Ông thảnh thơi tự bạch.
– Tướng công lạ lắm. Đặt tách trà xuống mặt bàn tre, văn thân Khê Ông Nguyễn Hội gật gật nhẹ.
– Văn hầu có ý nói đến sự tinh anh của Tướng công?
– Vâng, đúng, đúng thế. Đình Hội là nơi thờ Vua Hùng thứ 18, ngài biết rõ rồi! Thủ nhang mời. Hành lễ xong, Tướng công cúi lạy ba lạy, bát nhang tự bùng cháy một vầng sáng cầu vồng. Ấy là điều linh, Tổ tiên chả những đã chấp nhận xá tội thành Hưng Hóa, mà còn giục Ngài cầm gươm lên ngựa cứu nguy giang sơn.
Nguyễn Hội lại gật gù trầm ngâm. Hoàng Văn Thúy đặt chén trà chắp hai bàn tay vào nhau.
– Tôi đây chưa bao giờ gặp điều này ở đình làng. Linh nghiệm, linh nghiệm!
– Chưa hết, chưa hết đâu ngài Đề đốc! Tôi dám chắc Hồng phúc trời Nam sẽ xuất hiện nay mai mà Tiên Sơn đây chỉ là một trong bẩy sắc cầu vồng! Tán tương Khê Ông hào hứng nói.
Đề đốc Kiều reo to.
– Hay, hay! Thật là hay. Xin chúc phúc ngài Văn thân Nguyễn hầu.
– Cám ơn, cám ơn ngài Phó tướng Đề đốc.
Văn thân Nguyễn Hội chắp tay cáo lui thì cũng vừa lúc Lãnh binh chỉ huy cửa tiền bước đến.
– Đề đốc phó tướng.
Đề Kiều cười cười :
– Thì cứ ngồi xuống đây làm chén trà quê đã chứ.
– Vâng vâng. Xin lộc Đề đốc! Lãnh Hoan vui vẻ đáp, rồi nói: – Sau ngày Tướng công làm lễ tế Tổ, dân các làng hân hoan đến nhập quân. Các tướng thu nạp cả.
– Rồi sao nữa? Đề Kiều nghiêm trang hỏi.
Lãnh Hoan:
– Đồn trưởng cửa bộ Hoàng Đình Cương, đồn cửa sông Lê Đình Dật, đồn canh phòng Hạ Hòa, rồi Tổng Khảm, Tán Áo chỉ huy cửa Cẩm Khê, đang lập các đội dân binh, hỗ trợ quân chính quy của Tướng công. Ai ai cũng tự nguyện, cũng hào hứng.
– Các tướng chỉ huy quân chính quy, sắp xếp ra sao ngài lãnh Hoan?
– Tôi mới được rõ, ở xóm Chầm Vần có đội dân binh do Nguyễn Du Hè chỉ huy, xóm Đốc Đông có Nguyễn Văn Vượng, Mỹ Lương có Nguyễn Văn Ngọ, làng Hoàng Lương có Nguyễn Văn Bối…
– Chà chà! Dân binh Cẩm Khê ta, chỗ dựa vững chãi cho Bản doanh Tướng công ở Tiên Động! Đề Kiều buột miệng. Rồi ngài vỗ nhẹ vai Lãnh Hoan:
– Võ tướng Quang Hoan, tôi sẽ cho lập các Đội dân binh ở khắp vùng Chiến khu Rừng Già, nhiệm vụ của dân binh là tự giữ làng, bảo vệ khu cứ, đánh hỗ trợ chính quy khi cần thiết, và lo thực túc. Trước mắt tướng quân phụ trách mặt trận dân binh này. Ngài nghĩ sao?
– Thưa Phó tướng Đề đốc. Tôi sẵn sàng nhận lệnh của Ban doanh.
– Hay lắm. Võ tướng cho rà soát và lập Đội các làng ngay trong nửa tháng. Nửa tháng! Được chứ?
– Vâng. Thưa Đề đốc!
Nguyễn Quang Hoan đứng dậy, cúi nhẹ nhận nhiệm vụ rồi bước ra khỏi lán dinh phó tướng Đề đốc Kiều.
Trời đang là mùa xuân mà như ngày đông. Rừng đồi trung du Phú Thọ cây cối xanh đặc, sương mù lúc phủ xuống ướt đẫm cành lá nhưng mặt đất vẫn hanh khô, thỉnh thoảng cơn gió mùa lành lạnh thoáng qua vừa đủ cho người người đi lại, vừa đủ cho chim chóc ríu ran, thật là cảnh bình yên trong chiến tranh âm ỷ.
Ma Văn Vân và Đặng Huy Tá được phó tướng Nguyễn Văn Giáp giao nhiệm vụ thám sát quân Pháp ở Hưng Hóa, sau ba ngày trở về bản doanh. Bố Chánh cho mời Đề đốc Kiều, lãnh Hoan, Vương Văn Doãn đến cùng nghe tình hình.
Ma Văn Vân:
– Đêm, chúng tôi đã vào sát cửa thành, thấy người Pháp đưa Sơn pháo ở đâu về đặt giữa sân, có đến bốn năm khẩu. Chòi canh có hai lính “người ta”, soi đèn chiếu sáng từng đợt từng đợt.
Đặng Huy Tá:
– Hai chúng tôi đóng giả thường dân vào làng hỏi han, dân chúng nói, từ ngày ngài Tuần phủ rút lên miền ngược, người Tây mở rộng bến bãi ven sông, chiến thuyền đậu về đây nhiều lắm. Cờ ba vạch của Pháp cắm cao. Quân lính người Pháp canh gác, đi lại, lúc lúc lại bắn cầm canh.
– Thế có dấu hiệu gì là bọn chúng có thể động binh không? Nguyễn Văn Giáp chợt hỏi.
Ma Văn Vân:
– Thưa ngài Bố chánh. Hai chúng tôi quả quyết, người Pháp chiếm thành Hưng Hóa, họ đang gấp rút củng cố, sớm muộn cũng sẽ ra tay.
– Dân ven thành nói sao nữa? Đề Kiều hỏi.
– Thưa ngài. Họ bị bắt đi làm phu khuân vác hàng hóa ở bến cảng sông, ở bãi ô tô, rồi đi mở đường, chặt gỗ. Nhiều trai làng đã vào lính cho Pháp để có tiền có muối. Huy Tá nói.
Phó tướng Nguyễn Văn Giáp đứng dậy đi đi lại lại trên nền dinh Quan Đại.
– Nghe vậy, có thể khẳng định rằng người Pháp đang tập trung vũ khí, mở đường, tuyển lính người Việt, chuẩn bị đánh tập kích ta. Tôi giao cho ngài Lãnh Vân việc tổ chức nhóm thám sát đặc biệt, vừa nắm tình hình quân Pháp, vừa lôi kéo quân binh người Việt. Nếu cần thiết thì tìm cách bắt cóc lính đồn để tra hỏi lấy tin tức.
Lãnh Vân, Đặng Huy Tá lui khỏi lán dinh
Từ nguồn tin có được, Bố chánh Nguyễn Văn Giáp và Đề đốc Hoàng Văn Thúy lên tư dinh Thủ lĩnh trình kiến. Nguyễn Quang Bích đưa tay vuốt nhẹ chòm râu đen, bình thản:
– Ta đồng ý với đề xuất của hai tướng quân. Ngày giờ khởi sự được định trong tháng này năm Ất Dậu.
Hai tướng cúi mình nhận trọng việc rồi cáo lui.
Ngày hôm sau, Chánh Sơn phòng trình lên Tướng công bản Lễ tiết tuyên ngôn khởi nghĩa do đích thân Bố chánh vạch thảo.
Đệ trình Tướng công bản lễ tiết, nhưng Bố chánh phó tướng vẫn không khỏi băn khoăn. Nếu chỉ là một nghi lễ thì khó khăn gì, xa gần rồi cũng sẽ biết, tướng lĩnh, quân binh hả lòng, dân binh dân vệ ngóng đợi. Nhưng tiếng vang ấy cũng chỉ như nằm mơ mà thôi, nó thoáng qua nhanh chóng, nó rơi rụng dần ý chí quân tướng nhất là trong lúc khởi đầu này. Còn nếu như đánh một trận vào quân Pháp, thì đánh vào đâu, sự chuẩn bị chưa kịp sẽ dẫn đến thất bại. Mà nếu lui thời gian thì Tướng công đã chỉ lệnh trong năm Ất Dậu, với lại, nếu tin tức lộ ra ngoài, quân Pháp ở Hưng Hóa sẽ ra tay phá trước…
Bố chánh phó tướng ngồi thu lu, hai chân vắt chéo nhau, hai tay ôm chặt đầu gối. Đang lúc đầu óc rối bời thì nàng Mỹ Cẩm bước vào.
– Con chào Tướng quân. Có bắp ngô non, thầy con bảo đưa lên mời Tướng quân.
Bố chánh :
– Thế à. Thầy con cho, ta nhận ngay đây!
Mỹ Cẩm đặt đĩa ngô luộc thơm phức, cúi mình xin lui.
– Này con. Ta muốn trò chuyện một chút, được chứ?
– Dạ. Thưa Tướng quân!
Mỹ Cẩm e dè bước đến gần ngồi xuống góc ghế. Từ ngày trở lại hành dinh, nàng được Sơn phòng giao việc hầu cận Tướng công, có lúc phụ hầu các phó tướng Bố chánh, Đề Kiều, nên quan hệ giữa nàng với các Thủ lĩnh là quan hệ cận hầu, quan hệ cha con gần gũi trong khoảng cách.
– Con đã cập kê, vì việc nước mà dãn tình riêng, ta rất trọng. Nay Tướng công chuẩn bị cho đại sự, cần đến con; chỉ có con là cận hầu mới có thể đảm đương được việc.
– Dạ, thưa Tướng quân. Việc gì con cũng xin nhận ạ. Mỹ Cẩm rắn rỏi đáp.
– Thế thì tốt rồi. Cụ thể thế nào Lãnh Vân sẽ gặp con.
– Thưa vâng!
Nàng Mỹ Cẩm đứng lên rời lán dinh, lòng lâng lâng. Cả bản doanh duy nhất, có Mỹ Cẩm là gái. Dù là chiến khu, là chuyện binh đao rừng dú chỉ phù hợp với nam giới, nhưng có những công việc, phần việc không thể thiếu bàn tay, tiếng nói nữ nhi. Có lẽ vì thế mà tướng quân Bố chánh trực tiếp gặp, trực tiếp dò hỏi, hẳn Ngài tin tưởng lắm. Mừng cho mình, mừng cho thân phụ đầu bếp Nguyễn Văn Lò được Tướng công, Tướng quân luôn nghĩ đến. Nhớ ngày Thủ lĩnh Tướng công về tạm trú ở Tứ Mỹ, được thân phụ giao việc chăm sóc sức  khỏe cho Ngài, rồi tướng quân Đề Kiều gợi ý cả hai cha con theo Người lên Sơn phòng, nghĩ đến đồng đất quê cha Tứ Mỹ và quê mẹ Cẩm Khê mình mới có cái tên đẹp “Mỹ Cẩm” nên nàng Mỹ Cẩm không do dự dù đang dở dang chuyện tình duyên. Giờ thì mẹ không còn, ông bà nội ngoại đã có chú dì cậu mợ trông nom, chồng chưa cưới không chịu nhập quân binh. Mỹ Cẩm thấy phải luôn ở bên cha Nguyễn Văn Lò để cha con cùng phò trợ việc đại sự nơi Bản doanh Sơn phòng.
Càng nghĩ nàng Mỹ Cẩm càng thấy lâng lâng, khấp khởi…
Hôm sau, rồi hôm sau nữa, lãnh Hoan, lãnh Vân nắm chặt tay hai chú cháu Đặng Huy Tá, Nguyễn Mỹ Cẩm, chúc họ “lên đường” thật may mắn và hoàn thành công vụ trở về.
Bản doanh Sơn phòng hôm nay lại đón tiếp hai quân binh từ đất Thanh Hóa tìm đến. Cận vệ hỏi họ tên, quân binh chỉ trả lời “người xứ Thanh” về ra mắt Thủ lĩnh Tiên Động. Nghe nói người từ xứ Thanh, phó tướng Nguyễn Văn Giáp cùng chánh Sơn phòng Vương Văn Doãn thân chinh xuống nhà cận vệ gặp gỡ.
Một người to cao sức lực, tự xưng là Tống Duy Tân, tiến sỹ chánh sứ Sơn phòng Thanh Hóa, bất mãn vì Triều đình ký hòa ước với Pháp mà từ về ẩn. Được tin Tuần phủ Nguyễn Quang Bích dựng cờ kháng Pháp ở Tiên Động mà lặn lội tìm đến.
Một người nhỏ nhắn những khỏe mạnh, giọng nói đặc âm tiếng dân tộc, tự xưng là Hà Văn Mao, từng làm trợ tá cho chánh Sơn phòng Tống Duy Tân, nay tự nguyện theo chân quan đốc học Tống Duy Tân, về với Sơn Động.
Mới nghe xưng danh và thái độ lời lẽ lịch thiệp của hai “quân binh” Bố chánh Phó tướng đã ôm chầm lấy Tống Duy Tân, rồi ôm lấy Hà Văn Mao mà lắc lắc. Vương Văn Doãn phó Đề đốc hành dinh cũng khẽ cúi đầu cảm tạ rồi nắm chặt tay khách xa.
– Mời, mời hai quan Sơn phòng xứ Thanh vào dinh lán Sơn Động.
Nghe Vương Văn Doãn giới thiệu Bố chánh Nguyễn Văn Giáp, phó tướng thứ nhất của cụ Hoàng giáp Tuần phủ, giờ đây là Thủ lĩnh Tướng công Nguyễn Quang Bích. Tiến sỹ Tống Duy Tân cả mừng ôm lấy phó tướng Bố Chánh mà nói.
– Thầy trò tôi gặp được đây rồi! Thầy trò tôi gặp may rồi, Tướng quân!
Quả thật Bố chánh chưa giáp mặt Tống Duy Tân. Ngày ở Hưng Hóa có nghe chuyện Chánh Sơn phòng Thanh Hóa phản đối hàng ước của Triều đình mà khăng khăng từ bỏ quan trường Thủ phủ vùng Thanh Nghệ Hà, chỉ đem theo bao kiếm về quê. Chuyện ấy đến tai Tuần phủ Hưng Hóa, cụ Hoàng nói với Bố chánh: “- Một võ tướng lòng thành, khảng khái”. Ngày Tướng quâng Đinh Công Tráng từ Thanh ra Bắc, tìm đến Thủ lĩnh xin yết kiến, Ngài đã hỏi Tráng            “- Tướng quân có biết đến Tống Duy Tân không?” Tráng nói. “- Tiểu tướng có biết nhưng không phục!”. “- Vì sao?”. Minh chủ cười, không dò thêm.
Phó tướng đứng dậy, đưa hai tay đỡ Tống Duy Tân
– Thay lời Minh chủ, xin mời hai Tướng quân về dinh Tụ Nghĩa an tọa chờ ngày yết kiến Thủ lĩnh Tướng công.
Tiến sỹ họ Tống và quân binh họ Hà được Vương Văn Doãn đưa chân đến tận lán dinh.
Nắng ngả sang chiều.
Đề đốc Hoàng Văn Thúy lật giở từng tờ giấy gió mềm mại, vàng thâm. Những dòng chữ mục tím hằn lên rõ nét. Tướng quân mỉm cười một mình “- Các làng địa hào cũ, vẫn còn nghe ta!”
Có tiếng bước chân. Đề Kiều ngước ra cửa.
– A, lãnh Hoan. Vào đây vào đây!
Nguyễn Quang Hoan ngồi luôn xuống tấm chõng tre bên Đề đốc.
– Hay lắm, hay lắm. Như vậy là có đến bốn mươi làng của Cẩm Khê, Hạ Hòa, Tam Nông, Thanh Sơn lập được đội dân vệ. Đề Kiều nói.
– Vâng! Nhưng chưa được luyện tập gì, chưa được trang bị cả những hiểu biết lẫn khí giới. Lãnh Hoan tỏ ý băn khoăn.
– Đúng đúng. Phải đi từng bước một. Thế này nhé…
Đề Kiều đứng dậy, lấy hòn than củi viết nghệch ngoạc ra tấm ván giường ngủ.
Võ tướng Nguyễn Quang Hoan từng là thủ khoa võ triều Nguyễn nên hiểu ngay ý của phó tướng Đề đốc:
– Trong các đội dân vệ làng, chọn một số người đủ điều kiện, lập ra đội dân binh liên làng. Dân binh làm nòng cốt cho các đội dân vệ. Bản doanh sẽ tập dượt cho dân binh, dân binh tập lại cho dân vệ. Bình Tây, phục quốc là mục đích cao cả nhất, danh dự nhất của mỗi người. Thế còn khí giới: cây, gậy, gươm, giáo có sẵn, đi đến súng kíp, súng săn, tên cung tên nỏ mà đánh quân giặc!
Thủ khoa Hoan vỗ nhẹ hai bàn tay. Đề đốc Kiều cười tán thưởng.
– Còn việc này nữa. Đề Kiều bất ngờ nghiêm giọng.
–  Vâng. Xin Phó tướng Đề đốc giao lệnh. Lãnh Hoan đứng nghiêm nghị.
Tướng quân Rừng Già đi đi lại lại, rồi lên tiếng:
– Ta giao cho Đốc Ngữ, đồn trưởng cửa Khả Cửu Thanh Sơn làm tổng chỉ huy mặt trận dân binh và dân vệ, Nguyễn Đình Ngữ có tài vận động đồng bào dân tộc. Quang Hoan đặc trách cảnh vệ và mặt trận cửa tiền. Chiến khu Tiên Sơn đã rộng lớn mà đại bản thì phải tuyệt đối an toàn.
– Vâng, Thưa Phó tướng Đề đốc. Ý ngài như vậy thật phải lắm. Tôi sẽ hoàn thành trọng trách Bộ tướng giao cho.
– Tốt lắm. Chúc Lãnh Hoan, mưu lược, đánh đâu thắng đấy.
Hai vị tướng quân nắm tay rời dinh Đề đốc.
Sau khi chiếm được thành Hưng Hóa. Tướng Brielen cho dựng ngay một đồn trại phía đầu nguồn sông Thao cách Thủ phủ khoảng hai ba cây số, gọi là Đồn Cửa sông. Đồn Cửa sông chỉ khoảng một Trung đội hầu hết là dân bản xứ với những vũ khí thô sơ như hỏa mai, mút ca tông, chia hai khu: chỉ huy, và doanh trại, nhà lá vách đất, xếp thành dẫy trên diện tích mấy nghìn mét vuông. Mục đích của Brielen là đề phòng nếu có quân Triều đình phản loạn ở phía mạn nguồn thì quân đồn sẽ là đám hứng đạn đầu tiên, cũng là để lính Thủ phủ kịp đánh dẹp.
Gần trưa có hai bố con lão nông gánh thúng hàng quà đi rao, ghé vào cổng Đồn trại. Trong thúng có đủ ngô luộc, khoai lang luộc, chuối sài gòong vàng ươm, rồi đu đủ chín, cam quýt bưởi ngày xuân. Người cha gánh, người con vừa bán vừa rao. Hai cha con bán hàng rong đóng giả khéo đến nỗi có mấy bà dân Tứ Mỹ đi chợ về không một ai nhận ra nàng Mỹ Cẩm, và người cha gánh hàng là cai bộc Đặng Huy Tá.
Nghe giọng con gái vừa dịu vừa ngọt, đám lính thú chạy ùa ra khỏi cổng, kẻ hỏi giá, đứa tán tỉnh cô hàng.
– Anh muốn mua quả “bưởi” kia. Một lính thú cợt nhả.
– Dạ đây ạ, quả này đẹp và ngon ạ. Mỹ Cẩm ôm quả bưởi vàng ươm vỏ xốp trên tay đưa cho tên lính. Anh ta dùng dắng.
– Không, bưởi kia cơ!
– Đâu, quả nào anh?
– Đây, đây này! Tên lính chỉ trỏ không rõ hướng. Nàng Mỹ Cẩm hiểu ý nhưng cố giả bộ chẳng hay rõ.
– Quả này đẹp rồi, ngọt ngọt, thơm thơm mà anh.
– Không tròn bằng hai quả kia, hai  qủa kia kìa. Một lính thú với tay chạm vào ngực “con gái” bán hàng rong Mỹ Cẩm.
Cô gái khẽ lấy tay đẩy nhẹ bàn tay to bè. Đám lính cười hô hố. Nàng Mỹ Cẩm: “- Mặc chúng nó!”.
Trong khi bọn lính túm đến gánh hàng, ông “bố” Đặng Huy Tá đã kéo một lính thú trông có vẻ mặt hiền lành ra phía ngoài.
– Chú hút với anh điếu thuốc lá cuốn vậy.
– Vâng, con xin!
– Quê chú ở đâu, đi lính thú lâu chưa?
– Con ở Tiền Hải, nhà nghèo lắm, đi lính lấy mấy đồng nuôi bố mẹ già.
– Thế à, chú cũng quê Thái Bình đây. Ta nhận nhau làm chú cháu nhé. Tên chú là Trần, con gái kia là Như. Bố con gánh rong kiếm đồng ra đồng vào nuôi nhau.
– Vâng. Vâng ạ! Còn tên cháu là Tiến. Em Như đến đây cứ hỏi tên cháu là lính cổng cho gặp thôi ạ.
– Như ơi, bán xong chưa, đi thôi con! “Bố Trần” gọi to.
Đám lính mua thì ít mà tán thì nhiều. Nghe “bố” gọi, Mỹ Cẩm hiểu ý cười nói.
– Thôi, các anh chỉ đòi mua “bưởi”, em đi đây!
– Ấy ấy…
– Em đi đây! Mỹ Cẩm nhấc gánh hàng bước lại chỗ “bố”
Cai Bộc Đặng Huy Tá giao giá với Tiến.
– Em Như đây, sẽ thường đi lại với nhà đồn. Em cần gì chú Tiến giúp đỡ.
Nhìn Mỹ Cẩm, dáng hình khỏe mạnh, khuôn mặt tròn xinh, môi đỏ, má lúm, lúc nào cũng như cười cười. Lính thú có tên là Tiến chỉ biết gật đầu            “- Vâng, vâng ạ”.
Cai Bộc cầm một tai chuối đẹp đưa cho Tiến.
– Cái này, chú gửi biếu anh em gọi là tình cảm với nhà đồn.
Người lính đỡ nải chuối. Mỹ Cẩm thừa cơ.
– Ngày mai bố bận, chỉ có em qua đây, chúng mình nói chuyện riêng anh Tiến nhé?
– Thế thì vui lắm, anh sẽ mời vào nhà trại. Tiến liếc nhìn cô gái hàng rong, bắt gặp đuôi mắt, nửa như hoa cau, nửa như ánh lửa của nàng Mỹ Cẩm.
Thật ngẫu nhiên, chú cháu cai Bộc Đặng Huy Tá làm quen được với Tiến, phó trưởng doanh trại đồn Cửa sông.
Ngày hôm sau. Một mình Mỹ Cẩm gánh hàng đến cổng trại
Ngày hôm sau nữa, lại một mình nàng Mỹ Cẩm. Và lần này, phó trưởng trại Bùi Quang Tiến đưa cho Mỹ Cẩm một mảnh giấy nhỏ, lại dặn: “- Giờ khởi sự, anh sẽ bơi thuyền sang sông rồi tìm về Tiên Động”.
Bố chánh Phó tướng Nguyễn Văn Giáp, lãnh binh Nguyễn Quang Hoan, và cai Bộc Đặng Huy Tá, chụm đầu bàn bạc về những đường vẽ, những ký hiệu trên mảnh giấy mà Mỹ Cẩm chuyển giao lại. Không còn ý nào trái ngược nữa, Phó tướng chính thức chuẩn chỉ phương án đánh đồn Cửa sông và giao sự chỉ huy này cho võ tướng Nguyễn Quang Hoan. Trong lúc khẩn trương chuẩn bị, cách ngày “Như” lại quảy hàng rong vào sân dẫy nhà lá trại lính thú.
Truyền lệnh Tướng công Thủ lĩnh! Phó tướng Nguyễn Văn Giáp dõng dạc lên tiếng.
– Lệnh truyền của Tướng công Thủ lĩnh sắp đến giờ khởi sự! Chánh Sơn phòng Tiên Động thừa lệnh nâng ống loa quay về bốn phía, nói lớn.
Lập tức cả chòm đồi Quan Đại gần như xao động. Cột cờ làm bằng cây tre bương cao chín mét, to và thẳng như thân cau, mấu mắt lờm xờm, cảm giác gai góc, rắn đanh. Các tướng lĩnh thân hào, hạng nghĩa binh bản sỹ, có cả đội trưởng dân binh, quân binh làng xã, theo lời hô của Chánh Sơn phòng mà bước vào hàng lối, ngay ngắn, trang nghiêm.
Chín giờ. Phó Đề đốc hành dinh Vương Văn Doãn thân chinh bước tới cửa dinh Bộ tướng đón Tướng công Thủ lĩnh Nguyễn Quang Bích, đưa Ngài đến bên cột cờ. Bước sau Ngài là Phó tướng Bố chánh Nguyễn Văn Giáp, phó Đề đốc Hoàng Văn Thúy, Khê Ông Nguyễn Hội, các thân sỹ từ nơi xa tìm về Tiên Động: Tống Duy Tân, Đinh Công Tráng, Nguyễn Thiện Thuật, Vũ Hữu Lợi, Hà Văn Mao, Nguyễn Đình Ngữ, Nguyễn Tử Ngôn, Hoàng Đình Cương…
Nàng Mỹ Cẩm bước lại, cúi mình dâng lên Thủ lĩnh Tướng công bao kiếm đầu rồng. Trong bộ triều phục uy nghiêm, Tướng công nắm chặt đốc kiếm, dõng dạc Tuyên ngôn:
“- Nay ta vâng mệnh Hùng Vương Tiên tổ, dựng cờ khởi nghĩa, Bình Tây, báo Quốc; cầu gọi muôn dân đồng lòng đánh giặc…” Lời Tướng công sang sảng vang vọng rừng núi Tiên Sơn. Tấm đại kỳ dài hơn hai trượng, đỏ rực khuôn vuông giữa những giải ngũ sắc được Khê Ông văn thân Nguyễn Hội cầm chín nén hương trầm nghi ngút khói đưa vòng đưa lại ba lượt. Đoạn, võ tướng Nguyễn Quang Hoan từ từ kéo rút đại kỳ lên ngọn cột. Đại kỳ gặp gió Rừng Già bay phần phật. Khê Ông lui lại hạ mình quỳ gối lạy ba lạy. Thủ lĩnh Tướng công và các tướng quân cùng chắp tay cúi đầu vái vọng Hồn Quốc, Linh thần. Trời đang sáng bỗng nhiên chuyển nhiệt, tối sầm. Một tiếng sét chói tai dội xuống đâu đấy sau làn chớp lòe. Thật lạ, cơn mưa lớn nghe rào rào phía bờ sông Thao mà không về đến khu hành dinh Tiên Động. Ngày hôm đó, đêm hôm đó của năm Ất Dậu. Chiến khu không ngủ.
Cuối xuân, tiết trời lúc se lạnh, khi có độ nóng, các cụ nói thời tiết chuyển mùa con người khó chịu. Đúng thật. Đặng Huy Tá như cố quên đi cái đau đầu sổ mũi mà làng quê vẫn gọi là cảm cúm để đưa nhóm quân binh của lãnh Hoan tập kích đồn Cửa sông Thao phía tây thành Hưng Hóa chỉ vài chục dặm.
Ngay sau ngày Thủ lĩnh Tuyên ngôn khởi nghĩa, nàng Mỹ Cẩm được lệnh đến bán hàng dong tại trại lính Cửa sông với một nhiệm vụ đầy căng thẳng, thách thức.
– Này em gái xinh đẹp, Em vẫn chưa cho anh “bóc bưởi”, anh giận đấy.
Bọn linh thú đứa tán tỉnh, đứa vào hùa. Mỹ Cẩm thoáng nghĩ, rồi cởi hai cúc bấm áo ngực, lấy chiếc nón lá vừa quạt, vừa tươi cười.
– Em cho các anh, bưởi bóc trắng rồi đây này!
Đám lính xô nhau.
– Vào đi, vào đi!
– Mà khoan đã. Mỹ Cẩm nghiêm trang nói to. Sắp đến ngày phủ Hưng Hóa thất thủ, em làm quà nhà đồn cả gánh hàng này đấy.
Phó trại Bùi Quang Tiến nói to
– Cô nàng biếu, thì ta nhận anh em ơi.
Dứt lời, Tiến nhấc cả gánh hàng quà chuyển cho tên lính đứng bên. Cả đám vỗ tay rào rào chạy theo gánh rong vào sân trong. Vẫn là tên lính tán tỉnh lúc nãy nhanh tay ôm hai má Mỹ Cẩm hôn đánh “chụt”: “- Các anh xin em gái xinh đẹp nhé!”, rồi chạy vụt đi. Mỹ Cẩm liếc anh ta, cười tình.
Chỉ còn lại Cẩm và Tiến.
– Đêm nay, khởi sự. Anh hẹn giờ nào?
– Giờ nào cũng được. Tốt nhất là nửa đêm. Khi phát hỏa, nhóm anh sẽ bơi thuyền sang sông, vừa để thoát, vừa đánh lạc hướng bọn lính.
– Liệu có an toàn cho anh không.
– Em đừng lo, bọn anh đã quen với sông nước rồi.
– Vâng. Em về đây. Em sẽ đón anh ở Tiên Động anh Tiến nhé.
Nàng Mỹ Cẩm đặt hai bàn tay con gái vào giữa lòng tay chai sạn của người lính thú.
– Anh mong khởi sự thành công. Thôi, em về đi. Mỹ Cẩm: “- Vâng”, rồi rời nhanh khỏi khu trại.
Theo kế hoạch, tốp binh sỹ nghĩa quân do Nguyễn Quang Hoan chỉ huy sẽ phải mật phục trên gò rừng lúc mặt trời lặn để có thể nhìn rõ lối vào. Phó tướng Bố Giáp chỉ cho đánh vào trại lính, nhằm gây tiếng vang, chưa đủ sức tập kích đồn cửa sông. Lãnh Hoan thấy có cơ hội nên chia làm hai nhóm, cai Bộc đốt trại lính, lãnh Hoan ném bùi nhùi lửa vào vọng gác cổng đồn chính, hoặc nhà cảng ven sông. Đặng Huy Tá can ngăn, Lãnh Hoan mới bỏ ý định gây náo loạn đồn Cửa.
Bây giờ thì lãnh Hoan, cai Bộc và binh Luật đã nằm sát khu lán trại. Ba dãy nhà dài chủ yếu là tre gỗ, lợp cọ nằm nối nhau, xung quanh rào nứa xen. Gọi là cổng gác nhưng chỉ có hai tên lính ngồi co ro đánh bài, chiếc đèn bão to tướng treo ngoài vọng gác chỉ đủ hắt sáng lờ mờ xuống cổng trại.
Nửa đêm. Tĩnh mịch. Trăng cuối tuần nhàn nhạt. Cai Bộc sốt sắng không rõ Bùi Quang Tiến đang ở đâu, ngoài anh ta còn có ai đảo ngũ. Nếu khởi sự bằng cách đốt trại, liệu nhóm Tiến có xuống sông kịp không? Còn nếu nhóm Tiến đốt trại theo kế hoạch gây hỏa hoạn rồi la hét báo động thì anh ta an toàn hơn nhưng lại không phải do nghĩa binh tập kích, không gây được thanh thế.
Lãnh Hoan vỗ vai cai Bộc:
– Thế này, tôi và Luật sẽ khống chế hai lính gác, cướp súng, bắn thẳng nhà trại; còn Tá, Tá xông vào đốt trại, cướp súng bắn lại, rồi rút nhanh lên đồi Cây De, không để lính nhà đồn kịp báo động.
– Lính Tiến thì sao? Cai Bộc hỏi.
– Hiệu lệnh nổ ra, Tiến sẽ tự biết giải quyết tình huống theo cách của anh ta.
– Đồng ý! Tá, Luật cùng lên tiếng.
– Bắt đầu!
Phạm văn Luật mới hai mươi tuổi, to khỏe, trèo cây giỏi. Luật cầm con dao nhọn dài mấy gang tay leo thoăn thoắt lên chòi gác. Lãnh Hoan bám theo.
– Hai thằng mày, cúi mặt xuống, đưa tay ra sau lưng!
Luật quát. Hai tên gác dựng súng đánh bài, giật nảy mình nằm vật xuống. Lãnh Hoan, binh Luật thu hết súng đạn, bắt hai tên cởi hết quần áo quăng xuống đất. Lãnh Hoan dằn giọng:
– Chúng tao không phải là kẻ cướp ngày đâu, mà là nghĩa binh Tiên Động, Bình Tây phục quốc. Cho chúng mày về quê mà làm ăn, đừng bao giờ đi lính cho giặc Pháp nữa. Nhớ lấy!
Hai tên lính gác vâng dạ rối rít.
Dưới nhà trại, một đốm lửa xuất hiện. Rồi cả tảng lửa bùng lên mái nhà. Đám lính choàng tỉnh chạy túa ra sân. Một tiếng nổ vang ở dãy nhà cuối. Chắc không phải cai Bộc, có thể Tiến đã giật mìn. Lãnh Hoan thoáng nghĩ rồi ra lệnh rút lui, súng giặc đã nổ loạn xạ. Đạn bay chiu chiu, bông lửa đỏ lòe. Nhóm lãnh Hoan đã gặp nhau ven đồi Cây De, thu được bốn khẩu hỏa mai, mút ca tông, và mấy túi đạn. Nhà trại đồn Cửa sông bốc cháy ngùn ngụt. Nhà đồn chỉ huy ra lệnh hú còi phong tỏa.
Ngày hôm sau Tướng Beri e len chỉ huy thủ phủ Hưng Hóa nhận được bản báo của viên trưởng đồn cửa sông: “Đêm qua, khoảng canh hai, mấy nghĩa binh Triều đình ở Tiên Sơn đột kích đốt cháy cả dãy nhà trại, lấy đi bốn khẩu súng, dăm túi đạn. Hai lính thú gác chòi bị bắt trói, ba lính thú nhà trại đốt thuốc nổ làm sập mái kho lương khảo rồi bỏ trốn bằng thuyền theo đường sông Thao. An ninh Hưng Hóa đã bắt đầu tệ hại!”.
Lòng nào trốn tránh vẹn riêng thân (?)! Bất chợt Thủ lĩnh ngồi bật dậy. Sơn hà xã tắc sẽ nằm trong tay Hàm Nghi hay Đồng Khánh? Binh quyền sẽ nằm trong tay Đại thần nào, Tôn Thất Thuyết hay Nguyễn Văn Tường? Nguyễn Quang Bích Đại thần đứng dậy đi đi lại lại. Ngài cho gọi Văn thân Khê Ông Nguyễn Hội vào dinh. Từ hôm đắc phong tước hiệu, Khê Ông là người đầu tiên được Thủ lĩnh Tướng công mời gặp. Nguyễn Hội vận mũ áo nho gia theo chân hầu cận lên đồi Quan Đại, nơi an ngự của Đại thần Hiệp thống.
– Tướng quân văn vận. Đêm trước, ta nằm mơ thấy một vầng hồng xuất hiện trên triền núi Quảng Trị, vầng hồng di động một đoạn xa, đẹp tuyệt, rồi bỗng tắt. Tỉnh giấc, ta không nghiệm nổi ấy là điềm gì!?
Chương III. Phụng mệnh Cần Vương.
Thủ lĩnh Tướng công mặc bộ quần áo thôn quê, đầu đội chiếc mũ cọ đã tầu tầu, tay cầm cây gậy tre, đôi dầy vải bó liền chân theo kiểu cao niên nhà Thanh. Sau Ngài là võ tướng Lãnh Hoan và dân binh Nguyễn Văn Lò; cả hai cùng ăn mặc dân dã, đeo túi vải. Họ đang đón “bố” về thăm quê.
Cả ba cha con vào làng Thủy ven sông Thao. Làng Thủy thuộc Cẩm Khê nằm trên trạm đường bộ men bờ sông suối về Tứ Mỹ, về Ao Lộc, rồi Hưng Hóa thủ phủ. Hôm trước đi đánh đồn cửa sông Hưng Hóa, nhóm Lãnh Hoan cũng cải trang thành thanh niên làng theo đường này mà đi.
– Hai ông đi đâu về mà gánh gồng thế? Lãnh Hoan vui vẻ hỏi.
– Xuống phủ. Dưới phủ Hưng Hóa có cái “kinh tiêu”, nhiều hàng Tây hàng Tầu lắm! Một lão ông vui vẻ.
–  Thế ạ. Thế có người Tây người Tàu không? Họ có đem theo súng đạn không hai ông?
– Có Tây. Nhưng ít súng thôi. Từ hôm quân Triều đình trên Tiên Động xuống tận đồn cửa sông đốt nhà lính. Người Tây ít ra đường. Chỉ thấy lính thú lính lạc. Mà dạo này lính người Tầu cũng vãn lắm, họ đi đâu rồi ấy!
– Thế Tây có bắt dân đi lính không? Dân các ông có được nhà đồn giao cho phải làm gì không? Binh Lò cũng tỏ ra sốt sắng.
Một lão nông ngầng nhìn “ông bố” râu đen, trả lời.
– Chưa, chưa thấy bắt vào lính, nhưng quan đồn đã về làng, họ kháo nhau chuẩn bị súng đạn để đánh quân Triều đình ở trên Tiên Sơn cụ ạ.
Lãnh Hoan trống lảng.
– Quân triều đình ở Tiên Sơn đang khởi nghĩa bình Tây báo quốc, ta nên theo họ chống lại nhà đồn các ông ạ.
– Thì vưỡn! Tôi già rồi nếu không cũng sẽ lên Tiên Sơn.
– Ta già không còn sức, nhưng kêu gọi con cháu, dân làng, bình Tây báo quốc hai cụ ạ. Tướng công thủng thẳng nói.
– Nhưng biết bằng cách nào được cụ ơi? Già rồi!
– Cách thế này hai ông ạ. Lãnh Hoan cởi mở. Ta vào đội dân binh, vào đội dân phòng phản kháng lại người Pháp ngay tại làng quê mình, thế là bình Tây báo quốc rồi đấy.
Sợ đứng lâu bất lợi, lãnh Hoan chủ động chào hai ông dân quê, nhắc họ lần nữa, tích cực vận động làng xã vào dân binh dân phòng. Hai khách đường cười hỉ hả, gật gật.
Một ngày đường, Thủ lĩnh Tướng công cùng hai nghĩa binh Tiên Động đã đi ba bốn làng xã của Cẩm Khê và Tam Nông. Tạm nghỉ chân bên đường. Ngài nhắc lãnh Hoan:
– Thế là ta biết dân mình thế nào rồi, về bàn với Đề Kiều làm tốt hơn việc lập đội ở địa phương và chủ động luyện binh.
Võ Hoan gật đầu.
– Vâng, thưa Thủ lĩnh! Nhưng muốn trình lên Ngài…
– Được, nói đi!
– Cho đồn Cửa tiền của hạ tướng, tiến đánh thêm vài trận nhằm khích lệ quân binh, gây hoang mang cho quân Tây; tạo tiếng vang cho Tiên Sơn!
– Được. Ta khen võ tướng trận Cửa sông. Nay đồng ý tập kích một hai đồn giặc nữa. Việc này bàn với Bố chánh cho kỹ.
– Vâng vâng. Cảm ơn Tướng công.
Ba thầy trò Thủ lĩnh đứng lên rời phiến đá làn ven sông, nhẹ nhàng đi về phía chân núi. Nơi đó, chỉ có Bố chánh, Đề đốc và Chánh Sơn phòng là biết việc kinh lý của Tướng công. Ai nấy đang sốt ruột chờ đón Ngài trở lại hành dinh mà không mảy may sơ sẩy.
Nguyễn Quang Bích khẽ ngả mình xuống ghế “xích đông” mà quân sỹ hành dinh làm bằng tre bương già và dây rừng. Cảm xúc lớn thường đến với Ngài sau mỗi cuộc nhận biết nảy ra từ trong đầu óc, gan mật của một người có cái tâm, cái trí, cái dũng, cái chất lãng mạn luôn thường trực: “- Gập ghềnh nào sợ bước gian nan/ Cứu nước, thân già dạ sắt son…”
– Thưa Tướng công!
Chánh Sơn phòng Vương Văn Doãn biết rõ lúc này nên để Thủ lĩnh hưởng phút giây thư giãn; thậm chí là lúc Tướng công Ngư Phong thăng hoa mà để lại những câu thơ bất luận. Nhưng không cách nào khác phó Đề đốc hành dinh đành lên tiếng.
– Thưa Tướng công. Có sứ giả của Đại thần Triều đình xin được tiếp kiến Ngài sau mươi phút nữa.
Ngư Phong Tướng công ngắt đoạn những ý thơ nhân sỹ. Ngài khẽ đứng dậy.
– Thế à. Chuyện hiếm thấy sau ngày Hưng Hóa đau buồn! Rồi Ngài bước vào phòng khách trong tư dinh.
“Sứ giả của Đại thần Triều đình? Nghĩa là người của Đại thần xứ Huế – Triều đình! Đại thần, ai đây? Triều đình thì đang lùi từng bước trước người Pháp. Nguyễn Trung Trực ở Nam Bộ giữ trọn khí tiết. Phan Đình Phùng đã bị thải hồi quan Triều, cho về quê. Vua Hàm Nghi, Người có anh minh?” Những câu hỏi rối bời thoáng đến, lưu sâu trong đầu Nguyễn Quang Bích.
Thủ lĩnh Tiên Sơn nhấp chén trà sen hương vị Hạ Hòa, vừa lúc chánh Sơn phòng Vương Văn Doãn đưa hai người khách lạ bước vào tư dinh. Tướng công đứng dậy, Vương Văn Doãn lui một bước, đứng nghiêm trang. Sứ giả:
– Thưa quan Thượng thần Thủ lĩnh Tiên Động, hai chúng tôi là tiểu tướng của Đại thần Tôn Thất Thuyết, lặn lội từ kinh thành ra đây, là bởi được Ngài ủy thác, đem theo tin tức vận nước chuyển tới Ngài.
Nguyễn Quang Bích bất ngờ trước sự có mặt của hai vị sai xứ với trọng trách lớn lao mà Ngài không kịp khoác bộ Triều phục để tiếp lễ. Nhưng Ngài lại kịp nghĩ: “- Thôi được, cứ tiếp nhận tin nhắn đã rồi sẽ lễ nghĩa đầy đủ”, liền sai Chánh Sơn phòng ghi chép.
Hai sứ:
– Thưa Ngài quan Đại thần Thủ lĩnh. Vận quốc đang lâm nguy. Tướng Pháp Cuốc xy đang kéo quân vào Huế, quân nhà Thanh đã rút ra khỏi ngoại thành để về nước. Tôn Đại thần luôn ở bên cạnh Hàm Nghi Thánh thượng. Người yêu cầu Ngài nhận lời đứng đầu Bộ lễ kiêm Bắc Kỳ Hiệp thống. Thời gian gấp gáp lắm…
Thủ lĩnh đứng dậy đi đi lại lại rồi cho mời Phó tướng Bố chánh, Phó tướng Đề Kiều. Khê Ông Nguyễn Hội vào gấp. Đoạn, Ngài khoác bộ lễ phục, sắc thái bình thản.
Đứng trước Bộ tướng Tiên Sơn và hai sứ giả Triều đình, Thủ lĩnh dõng dạc bộc bạch.
– Các Ngài. Đất nước đang nguy nan. Đại thần Tôn Thất Thuyết tin cậy giao phó cho chúng ta trọng trách Vua ban. Ta đã dựng cờ khởi nghĩa bình Tây phục quốc thì há chối từ? Hai sứ Triều về tâu lại với Đại thần rằng Bộ tướng Tiên Sơn Bắc Kỳ đã xuất binh khởi sự thì nay sẵn chờ ấn chỉ nhà Vua anh minh và Đại thần Phụ chính tâm quốc.
Hai sứ triều cúi rạp, Bộ tướng cũng khoanh tay đáp lễ.
Tin sứ Triều tiếp kiến Thủ lĩnh Tướng công được chuyển đến hàng đốc binh, lãnh tướng khu căn cứ Rừng Già. Ai nấy phấn chấn, tưởng như mình đang ở một nơi xa xôi của núi rừng miền Tây trung du, mà vẫn được Triều đình và các quan Đại thần biết tới, tìm đến, lại tin dùng vào việc đại sự Nam Quốc. Thật là Trời có mắt. Được Thủ lĩnh Tướng công ủy thác, Phó tướng quân Bố chánh quyết định lên kế hoạch tập kích hai đồn Pháp.
Sau khi trại lính đồn Cửa sông bị đốt cháy, Tướng Brielen cho rằng quân Triều đình không thể mạnh để mà đánh vào tâm đồn Cửa sông và các đồn có người Pháp, nên lập ra các trại dã chiến hoàn toàn người Việt, các trại này được trang bị vũ khí quân dụng, mục đích tạo hàng rào chắn cho thủ phủ. Nguyễn Quang Hoan, Nguyễn Thiện Thuật được giao chỉ huy đánh trại Bến bãi. Hoàng Đình Cương, Đinh Công Tráng chỉ huy đánh trại Đà giang. Quân binh tham chiến đều do các tướng chọn lựa từ các đồn Cửa tiền, Cửa bộ. Phó tướng Nguyễn Văn Giáp yêu cầu đốt cháy trại, cướp được vũ khí và giải tán đám lính Việt, bắt chúng phải phản chiến, bỏ đồn về quê làm ăn.
Lãnh Hoan là người am hiểu đường đất nên chỉ xin thêm lãnh Vân làm tiên phong với nhóm quân binh tinh nhuệ. Trại Bến bãi gần Chợ bờ, cửa ngõ vào thành phủ Hòa Bình. Từ hôm trại Cửa sông bị tập kích, quân Pháp chỉ huy đồn cho tăng cường canh phòng các trại bao quanh trong đó Bến bãi có đội lính khố đỏ sẵn sàng ứng chiến. Lãnh Vân cùng một quân binh đi thám sát trở về gặp lãnh Hoan và Nguyễn Thiện Thuật.
– Trại Bến bãi thực chất là đồn rồi, tổ chức của chúng khá quy mô, phải dùng mưu kế mới có thể đánh được.
Lãnh Hoan:
– Lãnh binh có kế gì hay?
Lãnh Vân trầm ngâm rồi hào hứng:
– Ta cử một nghĩa binh cải trang phụ nữ đi chợ Bờ, rồi lân la vào đồn bán bánh ăn sáng. Sau “cô” nghĩa binh là ba tốp do lãnh Hoan, Tán Thuật, và tiểu tướng chỉ huy, khi “cô” vào đến cửa đồn thì nổ súng tấn công.
Tán Thuật băn khoăn.
– Như vậy có mạo hiểm không? Tán tôi xin đem theo bình rượu biếu đồn trưởng, nhân cơ hội bắt sống được tướng, bọn lính tất đầu hàng.
Lãnh Hoan bàn thêm:
– Tôi sẽ cho Tượng Phong Ngô quang Đoan chuẩn bị sẵn thuyền chở quân binh “đi chợ”, rồi ém vào bờ bãi, khi hạ thủ xong, ta rút nhanh ra thuyền vượt sông Đà về bản doanh.
Tán Thuật hài lòng.
– Hay lắm, hay lắm!
Nói đoạn sai quân chuẩn bị bình rượu ngâm tay gấu trông thật đẹp mắt. Tượng Phong cũng lo xong thuyền bè, lãnh Vân đã cử được “cô” bán bánh. Lãnh Hoan hẹn giờ khởi hành.
Đoàn thuyền chở người quê đi chợ Bờ cập bãi đúng giờ cửa chợ, đám lính thú, có cả khố đỏ, khố xanh vào ra nhà chợ mà không đem theo súng đạn. Thấy vậy, Tán Thuật nháy Lãnh Hoan đi sâu vào sân đồn vừa rao bán bánh vừa xin biếu quà. Bỗng một “lính khố xanh” nói to.
– Hôm nay ngày sinh ngài đồn trưởng, anh em nhà đồn xin biếu ngài bình rượu tay gấu. Nào, nào!
Nghe tiếng, tên lê dương to cao từ trong trại bước ra, tiến lại gần. Lợi dụng đám lính lố nhố, các nghĩa binh thủ sẵn dao găm trong túi áo.
– Nào, nào. Xin biếu ngài quan đồn. Xin biếu ngài.
Tiếng reo hò ran lên. Nghĩa binh giơ cao bình rượu đập thẳng vào đầu quan đồn lê dương. Lãnh Hoan hét to:
– Giết, giết bọn lính đồn.
Tán Thuật cũng quát:
– Bắt sống tên chỉ huy. Bắt sống!
Mười mấy nghĩa binh vung dao găm đâm túi bụi vào bọn lính. Tán Thuật và nghĩa binh dâng rượu, ôm chặt tên lê dương đồn trưởng quật xuống trói quặt hai tay, trại lính hỗn loạn.
Các nghĩa binh Tiên Động nhanh chóng tước hết súng đạn, bắt bọn lính nằm úp mặt xuống sân trại. Lãnh Vân quát to:
– Tất cả nghe đây. Quân binh Tiên Động bình Tây, phục quốc, không nỡ giết chết các người. Các người hãy phản chiến đồn trại, bỏ lính mà về quê làm ăn.
Đám lính thú, lính khố xanh, khố đỏ nói ậm ừ, lí nhí.
– Vâng ạ. Vâng ạ!
Nhà đồn bắt đầu nổ súng báo động. Thấy quân “đi chợ” đã rút xuống thuyền. Lãnh Vân kéo cò súng nổ liền một, hai, ba viên chỉ thiên rồi chạy nhanh theo nghĩa binh.
Lính trong đồn kịp hoàn hồn, bắn tới tấp xuống mặt sông nơi có hai chiếc thuyền chờ khách đang mải miết rẽ nước.
Trong khi đội của võ tướng lãnh binh Nguyễn Quang Hoan dùng mưu đánh đồn Chợ bờ, phá trại Bến bãi thắng lợi trở về thì lãnh binh Hoàng Đình Cương, tướng quân Đinh Công Tráng cũng đang tích cực cho trận tập kích trại Đà giang Trung Hà thì Phó tướng Bố chánh yêu cầu chuyển mục tiêu, lập ngay phương án chống càn quét. Số là, khi lãnh Vân giam chân đám lính tại sân đồn Chợ bờ thì có một binh sỹ khố xanh nhận ra Vân. “- Đúng, đúng là ông Ma Văn Vân làng mình rồi; Vân Mè, Vân Mè, người làng Mè vẫn gọi ông ta thế!”. Nghĩ vậy, nhưng sự việc diễn biến quá nhanh, chỉ kịp nhớ câu “Quân binh Tiên Động bình Tây phục quốc”. Người lĩnh khố xanh quyết định tự tạo cơ hội trốn lên Tiên Động tìm “Mè Vân”.
Đồn Chợ bờ bị tấn công chợp nhoáng, đồn trưởng người Việt lai Tây bị trói, súng đạn bị cướp đi, quân Tiên Động đã thách thức người Pháp, Tướng Bri e len tức tối gọi quan ba Xác lăng lên dinh phủ:
– Ngài thấy đấy, quân Triều đình phiến loạn ở Tiên Động đã mấy lần chọc tức người Pháp. Tôi không thể kiên nhẫn được nữa, giao cho ngài nhổ bỏ cây gai Tiên Sơn.
Xác lăng đứng nghiêm.
– Thưa ngài. Vì danh dự của người Pháp, tôi hứa sẽ làm bật rễ cây gai đầu tiên.
– Tốt lắm, tốt lắm. Chúc ngài thắng lợi trở về.
Ngay ngày hôm sau Xác lăng tuyển đội binh có cả lê dương, khố xanh, khố đỏ, lính thú trang bị đầy đủ súng đạn do đích thân Xác lăng chỉ huy, chọn ngày giờ tiến quân. Người lính khố xanh có tên là Tình nắm chắc kế hoạch Xác lăng qua một người bạn, đêm đó, anh ta lấy thuyền thúng một mình bơi ngược sông Thao rồi cứ nhằm hướng núi Tiên Sơn mà tìm người làng có tên là Vân mè hay Ma Văn Vân nghĩa binh Tiên Động. Hy vọng mong manh của anh lính khố xanh Tình, người làng Mè Phú Thọ, may mắn thành hiện thực. Vệ binh Rừng Già dẫn Tình lên gặp lãnh Hoan, thế là gặp lãnh Vân, hai người lính cùng làng hoan hỉ, Tình khố xanh tình nguyện dẫn đường cho đội lãnh binh Đề Cương và Đinh Công Tráng.
– Không thể theo phương án cũ được nữa, thưa phó tướng Bố chánh. Đề Cương khẳng định.
– Đồng ý. Nhưng hai ngài bàn kỹ pháp thuật rồi đưa yêu cầu cho chánh Sơn phòng.
Đêm hôm đó cả trăm tay súng quân Tiên Sơn có mấy chục ngựa chiến mật phục ở Hiền Quan và Cổ Tiết. Một tốp vào bãi trống đường đất đốt lửa giả làm mươi lán trại để nghi binh, quân giặc tưởng thật tang tảng sáng đốc lính bao vây đúng trận địa phục kích. Đề Cương, Đinh Công Tráng ra lệnh phản công. Bọn giặc trên đoạn đường Hiền Quan Cổ Tiết bị đánh giáp mặt, cả trăm đứa nhảy bừa xuống sông Hồng, số còn lại ngồi thụp giơ tay hàng. Quan ba Xác lăng dương súng ngắn bóp cò, bị ngựa chiến của Đề đốc Hoàng Đình Cương chồm tới, đề Cương đá văng khẩu súng, một mũi giáo lao thẳng vào ngực viên quan Tây. Tướng quân Đinh Công Tráng tả xung hữu đột trong vòng vây của đám lính lê dương, khố đỏ; thấy vậy Hà Văn Mao, Đào Văn Toát cùng phi ngựa tới. Gác ri noa phó tướng của Xác lăng bị Hà Văn Mao chém văng đầu. Quân giặc lố nhố đầu hàng. Hoàng Đình Cương ra lệnh thu súng đạn rồi tuyên bố sa thải, chỉ cho gói đầu hai tướng Pháp vào vải đỏ đem về Tiên Động tế cờ.
Trận phục kích chống càn quét đầu tiên ở Cổ Tiết Hiền Quan thắng lớn. Bố Giáp, Đề Kiều trình Thủ lĩnh Tướng công khao thưởng các tướng lĩnh cả hai trận Chợ bờ và Hiền Quan. Riêng hàng binh Tình của đồn Chợ bờ cũng được trọng thưởng rồi nhập vào Quân binh đồn Cửa bộ dưới sự chỉ huy của Ma Văn Vân.
Tháng 6 năm Ất Dậu (1885). Mùa hè năm nay oi nồng. Chiến khu Rừng Già Tiên Sơn dù có mát mẻ bởi những rừng cây cổ thụ và suối khe bao quanh, nhưng Thủ lĩnh Tướng công vẫn cảm thấy lòng dạ bồn chồn, ngồi đứng không yên. Ngài cùng Tán tương Nguyễn Hội rảo bước đến tư dinh công vụ của các Tướng quân khu vực bắc miền trung đàm đạo. Tống Duy Tân, Đinh Công Tráng, Hà Văn Mao, Nguyễn Tử Ngôn, Nguyễn Cao…! Nhác thấy bóng Tướng công, Tiến sỹ Tống Duy Tân vội bước xuống bậc thềm sân dinh cúi mình đón. Tướng công thân tình khoát tay tiến sỹ họ Tống:
– Các văn thân từ miền Trung về đây cùng ta khởi nghĩa, chẳng phải một lòng đem thân hiến quốc đấy sao? Nhưng bình Tây phục quốc có được ở cả ba miền, ấy mới là đạo đức Nghĩa sỹ.
Tống Duy Tân ngẩng nhìn Chủ tướng:
– Thủ lĩnh. Đất miền Trung cũng đang nung nấu nhưng chưa có minh chủ.
– Ta biết. Đại thần Phan Đình Phùng đã bị Triều đình thải hồi, chưa thấy lên tiếng. Nguyễn Xuân Ôn, Cao Thắng, Tạ Hiện đang ở đâu? Trong Nam Bộ, ngọn cờ sỹ phu Trương Định đã nổi tiếng nhưng không thành, Nguyễn Khoa Huân thì dở dang. Ta cũng biết các văn thân quan triều ở ẩn mà dùng ngòi bút phục quốc bình Tây thật đáng thán phục. Ông Đồ Chiểu, ông Nguyễn Thông, ông Cao Bá Quát, ông Phạm Văn Nghị… các ông đã cho Ngư Phong này cả ngọn bút lẫn thanh gươm.
Cả nhóm Võ tướng miền Trung ngồi lặng yên. Tướng công đưa mắt nhìn khu Rừng Già, chòm râu đen đóm bạc của Ngài khẽ rung theo nhịp cảm xúc: Gập ghềnh nào sợ bước gan nan/ Cứu nước thân già dạ sắt son/ Trung hiếu trên đầu Trời chiếu dọi/ Giang sơn che chở được bình an!
Tống Duy Tân, Đinh Công Tráng, Hà Văn Mao, Nguyễn Tứ Ngôn, Nguyễn Cao, đồng loạt đứng dậy.
– Thưa Tướng công Thủ lĩnh. Các hạ tướng chúng tôi hành hương về đây chỉ một lòng góp phần đuổi giặc Pháp, rửa nhục cho nước nhà. Nay Minh chủ Tướng công khởi nghĩa, chúng tôi nguyện tìm cơ hội đem ngọn cờ Tiên Sơn về đất Trung Bộ mà phục Quốc, bình Tây như mong đợi của Minh chủ.
Tống Duy Tân vừa dứt lời, các yếu nhân miền Trung khẽ cúi mình đáp lễ. Nguyễn Quang Bích cũng đứng lên nắm tay từng võ tướng nghĩa sỹ. Ngài nhẹ nhàng:
– Phú Thọ là nơi tổ tiên khởi dụng ngọn nguồn Nam Việt, đạo con cháu, ta không bao giờ để hổ thẹn với Hùng Quốc Tổ.
– Dạ!
Các sỹ phu Trung Bộ đồng thanh. Chánh Sơn phòng Vương Văn Doãn bước tới đón Thủ lĩnh trở lại Hành dinh.
Thủ lĩnh khoan thai bước vào phòng đã thấy các Phó tướng Bố chánh Nguyễn Văn Giáp, Phó tướng Đề đốc Hoàng Văn Thúy và Tán tương Nguyễn Thiện Thuật ngồi chờ sẵn, ai nấy như tươi vui. Khê Ông Nguyễn Hội cũng được Chánh Sơn phòng mời an tọa. Nguyễn Quang Bích Tướng công linh cảm có điều thiện.
Bố chánh tướng quân đứng lên:
– Thưa Thủ lĩnh Tướng công. Đại thần Tôn Thất Thuyết từ kinh đô cho sứ giả đặc trách cơ mật Văn phòng triều đình đến Tiên Động, đích thân trao cho Tướng công chỉ lệnh tước phong. Xin Ngài cho phép Bộ tướng và Sơn phòng Hành dinh tổ chức lễ nhận sắc.
Thủ lĩnh trầm ngâm giây lát rồi ngẩng nhìn Bộ tướng.
– Vận nước nguy nan, âu là chiếu chỉ, ta há chối từ. Bộ tướng cùng ta nhận mệnh Đức Vua mà không làm nghi lễ rườm rà. Kháng chiến cần sắc chỉ, không nhất thiết hân hoan chiếu phong. Trên dưới đồng lòng, trong ngoài tiền hô hậu ủng. Thế là được.
Các tướng đồng loạt đứng dậy, cúi mình.
Sáng hôm sau, ngày giờ đẹp nhất của tháng sáu Ất dậu, văn võ bá quan có mặt đầy đủ dưới chân cờ Tụ Nghĩa. Chiến khu Rừng Già trên đất Tiên Động, theo ý chỉ của Tướng công, Chánh Sơn phòng cho mời cả cha con Nguyễn Văn Lò, nàng Mỹ Cẩm được tham dự buổi lễ. Một đội tiêu quân ăn mặc gọn gàng, súng gươm bên mình đứng túc trực dưới lá cờ bình Tây phục quốc. Thủ lĩnh Tướng công trong bộ trang phục Quan triều được tướng quân Tiến sỹ Tống Duy Tân tháp tùng từ tư dinh Sơn phòng bước ra đứng trước hàng võ tướng, văn thân và quân binh. Một làn gió nhẹ giữa trời trong mát thổi lướt qua đồi rừng Tiên Động.
Sứ giả cơ mật của Triều đình Huế trong bộ Triều phục bước lên, nghiêm trang đọc nhật chiếu Nhà Vua lệnh phong Nguyễn Quang Bích làm Lễ Bộ Thượng thư sung Hiệp thống Bắc Kỳ quân vụ Đại thần, tước Thuần trung, Tổng chỉ huy Quân đội Triều đình tại Bắc Kỳ.
Lời sứ giả cơ mật sang sảng, làu làu, đầy hàm văn sắc chỉ. Vì lí do đi đường xa, nhiều kẻ theo dõi nên Đại thần Tôn Thất Thuyết yêu cầu sứ giả truyền lời trực tiếp mà không mang theo văn tự trong người.
Sứ thần dứt lời, bước lại trao cho Nguyễn Quang Bích hộp triện đồng chức vị. Tướng công lui lại ba bước ngẩng mặt lên ngọn Đại kỳ mà rằng:
– Nguyễn Quang Bích tôi, Thượng thư Lễ bộ kiêm Hiệp thống Bắc Kỳ quân vụ, tước thuần trung; lòng thành ơn sâu Bệ hạ, nguyện đem tâm sức phục Quốc, Bình Tây. Xin đèn Trời soi rọi, đưa Tôn Sơn về khắp đất Bắc, Trung mà dậy sóng trừ Tây báo Quốc…
Cả trăm tướng lĩnh, văn thần, quân binh, dân binh, im phăng phắc nghe những lời gan ruột của Đại thần Tướng công. Bộ tướng hiểu rõ Triều đình chủ chiến của Đức Vua anh minh Hàm Nghi đang xa giá tại Quảng Trị lập Sơn phòng kháng chiến. Hộ giá Ngài có Đại thần Phụ chính Tôn Thất Thuyết, Tiến sỹ Trần Xuân Soạn và các tôn tử Tôn Thất Thiệp, Tôn Thất Đạm. Còn Triều đình chủ hàng của Vua Đồng Khánh bạc nhược, đứng sau là Nguyễn Văn Tường, Nguyễn Hữu Độ, đang gắn mình chặt chẽ với người Pháp mà đạo dụ các quan triều yêu nước quy phục.
Với tư cách Đại thần Triều đình của Đức Vua Hàm Nghi chủ chiến, hai ngày nay Nguyễn Quang Bích thấy tâm thế, bản lĩnh, trí lực, và cả lòng nhân ái trào dâng, thật khác thường. Ngài ngả mình xuống ghế xích đông trước vườn dinh lẩm nhẩm: – Chưa chút mảy mảy đền nợ nước/ Lòng nào trốn tránh vẹn riêng thân?
Lòng nào trốn tránh vẹn riêng thân (?)! Bất chợt Thủ lĩnh ngồi bật dậy. Sơn hà xã tắc sẽ nằm trong tay Hàm Nghi hay Đồng Khánh? Binh quyền sẽ nằm trong tay Đại thần nào, Tôn Thất Thuyết hay Nguyễn Văn Tường? Nguyễn Quang Bích Đại thần đứng dậy đi đi lại lại. Ngài cho gọi Văn thân Khê Ông Nguyễn Hội vào dinh. Từ hôm đắc phong tước hiệu, Khê Ông là người đầu tiên được Thủ lĩnh Tướng công mời gặp. Nguyễn Hội vận mũ áo nho gia theo chân hầu cận lên đồi Quan Đại, nơi an ngự của Đại thần Hiệp thống.
– Tướng quân văn vận. Đêm trước, ta nằm mơ thấy một vầng hồng xuất hiện trên triền núi Quảng Trị, vầng hồng di động một đoạn xa, đẹp tuyệt, rồi bỗng tắt. Tỉnh giấc, ta không nghiệm nổi ấy là điềm gì!?
Khê Ông Nguyễn Hội vốn là nhà tử vi, nhưng vẫn bị bất ngờ trước câu hỏi về giấc mộng của Thủ lĩnh, đành trả lời một cách lưỡng đôi:
– Thưa Hiệp thống. Triều đình bất hòa, Chủ chiến xa giá, ắt trời đất linh thiêng phù trợ và báo mộng đến Tôn Sơn đấy thôi.
Hiệp thống Thủ lĩnh cho là phải nên không hỏi nữa mà chuyển hướng.
– Chủ chiến Triều đình, Đức Vua Hàm Nghi trẻ người nhưng gan vàng, lại được Tôn Đại thần phò tá, tất sẽ kêu gọi sỹ phu cả nước đồng lòng chống Pháp, ngăn chặn chủ hòa. Ta có ý đưa một phần anh tài Tôn Sơn về Trung bộ, Bắc bộ, làm hậu thuẫn cho Tôn Thất Thuyết, gây nên tiếng vang ba miền?
Nguyễn Hội:
– Đại thần nghĩ phải. Ngài là Tổng chỉ huy quân đội Bắc Kỳ, Đức Vua đang trông đợi. Việc đại sự này xin Đại thần bàn thêm với Bộ tướng.
Nguyễn Quang Bích:
– Là ta mới có ý thế. Trước mắt ta cử vệ sỹ về Trung, tìm gặp Tiên sinh Đình nguyên Ngự sử Phan Đình Phùng, Nghè hoa Nguyễn Xuân Ôn, và Hoàng giáp Nguyễn Hữu Chỉnh, vận động các ngài dấy binh.
– Phải lắm. Xin Đại thần Hiệp thống cho chỉ ngay vì vận mệnh Quốc gia đã mong manh.
– Ta cảm ơn Khê Ông Tiến sỹ.
Thủ lĩnh Đại thần đứng lên. Nguyễn Hội cúi chào lui ra cửa.
Trở lại phòng riêng, Nguyễn Quang Bích nhắc nàng Mỹ Cẩm cho Ngài một li sành rượu nhạt.
– Thưa Thủ lĩnh Tướng công. Ngài dùng rượu nếp, rượu cao chứ ạ? Mỹ Cẩm ngạc nhiên, hỏi lại.
– Không. Con cho ta một li sành rượu nhạt, ta uống với Đại võ thần Tôn Thất Thuyết.
Nàng Mỹ Cẩm càng không hiểu nhưng vẫn làm theo yêu cầu của Chủ tướng.
Ly rượu đặt trong khay sứ được nàng Mỹ Cẩm đưa tới, Thủ lĩnh ra hiệu đặt trên mặt hoa tấm phản gỗ dài rộng nơi Ngài hay ngồi trò chuyện sử sách với các văn thân. Mỹ Cẩm xin lui, bước ra, vội chạy đến dinh lán Chánh Sơn phòng, thuật lại. Khi Phó Đề đốc Vương Văn Doãn lên tới thì đã thấy Đại thần Hiệp thống ngồi lặng, tay nâng ly rượu và nói một mình:
– Nào, ta cùng cạn chén vàng này, rượu lộc của Đức Vua anh minh. Tôn Thừa tướng, mời Ngài dùng trước, Ngài dùng trước!
Chợt nghe câu tự sự của Chủ tướng, Vương Văn Doãn hiểu ý nên vội vàng lùi lại, cho đến khi quan Đại thần rời chiếu hoa, Doãn mới dám bước đến. “- Li rượu, mà là rượu nhạt, hết một nửa!”, Chánh Sơn phòng nhẹ tay cầm đặt lên giá văn, chờ khi Ngài thư giãn mà hỏi lại.
Chánh Sơn phòng chưa kịp dời tư dinh Hiệp thống thì đã thấy hộ vệ Bản doanh đến gọi. Đề đốc Kiều và Bố chánh Giáp đang kinh lý, Hành dinh ai người trực tiếp tiếp kiến sứ giả Triều đình chủ chiến? Mới mấy ngày mà Đại thần Tôn Thất Thuyết hai lần cử sứ giả ra Tiên Sơn hẳn có việc hệ trọng! Chánh Doãn cho mời thêm Khê Ông Nguyễn Hội và Tiến sỹ Tống Duy Tân cùng diện kiến.
– Việc này lớn, không thể đợi các Phó tướng, tôi nghĩ Phó Đề đốc chánh Sơn phòng và Tán tương quân vụ nên gặp ngay Đại thần Hiệp thống xin ý chỉ. Tống Duy Tân đề xuất ý kiến được hai tướng quân đồng tình.
Nghe xong, Thủ lĩnh tướng công chậm rãi, rành mạch:
– Đức Vua ban Chiếu Cần Vương là lời thiêng sông núi. Sơn phòng hành dinh lo ngay việc trọng lễ đón nhận. Cho mời tướng lĩnh, ba quân và dân làng tề tựu. Giao cho các đồn Cửa sông, Cửa bộ cảnh giác quân giặc. Sau Lễ đón nhận Chiếu, ta ban lệnh Hành động của Tôn Sơn.
Bố Chánh Phó tướng Nguyễn Văn Giáp đang đi thị sát vùng Hạ Hòa, Lâm Thao, dự định lên Yên Bình, Trấn Yên thì được lệnh gọi về. Đề đốc Hoàng Văn Thúy trở lại Cẩm Khê, Thanh Sơn rồi theo đường Thu Cúc lên Ba Khe Nghĩa Lộ những nơi mà ngày làm Chánh tổng Cẩm Khê ông đã từng đi, từng đến, nhưng lần này cũng nửa chừng. Đề đốc cùng tháp tùng phi ngựa về Hành dinh cho kịp Lễ rước Chiếu Vua.
Tiến sỹ Tống Duy Tân trang trọng:
– Bộ tướng, Ba quân, Dân phòng Tôn Sơn nhất thể mời Tướng Công Lễ Bộ Thượng thư, Thuần trung Hiệp thống Bắc Kỳ Quân vụ Đại thần Nguyễn Quang Bích Thủ lĩnh, truyền ngôn Đức Vua Hàm Nghi đến muôn dân Bắc Kỳ, Trung Kỳ, và hàng binh lính đồn Tây đóng binh trân đất Nam Việt…
Đại thần Nguyễn Quang Bích trong bộ Triều phục mũ cánh chuồn mà sứ giả vừa đem ra, bước lên bục danh dự. Thân hình xương xương, bước đi chậm mà chắc chắn. Khuôn mặt Thủ lĩnh lúc này như quắc thước, lại như hiền triết; như võ công lại như văn thần. Giọng Ngài khỏe khoắn, vang và ấm:
“- Phàm những người đã cùng dự chia mối lo này tưởng cũng đã dự biết. Biết thì phải tham gia công việc, nghiến răng rụng tóc thề giết giặc…
“Ngõ hầu lòng trời giúp thuận, chuyển loạn thành trị, chuyển nguy thành yên, thu lại bờ cõi chính là cơ hội này đây. Phúc của tôn xã tức là phúc của thần dân. Cùng lo với nhau, thì cùng nghỉ với nhau há chẳng tốt sao?…” Ngày 2 tháng sáu Ất Dậu. Triều đình chủ chiến Niên hiệu Hàm Nghi, hạ chiếu Cần Vương”.
Dưới lùm cây cổ thụ chân đồi Tôn Sơn căn cứ Tiên Động, cả nghìn người im phăng phắc. Nhiều tiếng khóc. Đại thần vừa dứt lời, hàng trăm quân binh, dân binh hướng về phía Mặt trời  mà chắp tay vái vọng Đức Vua Hàm Nghi như thể lòng người Bắc Kỳ, Trung quân Ái Quốc mà hôm nay, Thủ lĩnh là người có công khâu nối.
Sau lễ công bố Chiếu Cần Vương trở về Dinh Bản doanh, trước mặt các văn hầu võ tướng, Hiệp thống Nguyễn Quang Bích nhận chỉ của Vua Hàm Nghi từ tay sứ giả, lên đường sang gặp Nhà Thanh xin cầu viện.
Nắm bắt được nhiều tin tức Triều đình chủ chiến nơi Sơn phòng Quảng Trị. Thuần trung Tướng công Quân vụ Đại thần Nguyễn Quang Bích, cho mời Bộ tướng về Bản doanh nhận nhiệm. Giọng Hiệp thống Tướng công chậm rãi, rành rọt, đầy sức thuyết phục:
– Các tướng quân. Vì nghĩa lớn và vận mệnh nước Nam mà các ngài lặn lội tìm đến Tiên Động, đất tổ Hùng Vương đây, tự sắp mình đứng dưới Cờ Đại bình Tây báo quốc. Ân nghĩa và chí khí ấy làm ta cảm động lắm. Nay Đức Vua ban Chiếu Cần Vương, lẽ nào ta lại khoanh tay một góc? Tiên Động đã khởi nghĩa, đánh thắng quân Tây các đồn Chợ bờ, Cửa sông, Đà giang, tất có công sức tài trí của các tướng. Giờ đây Hịch Cần Vương đã về đến ba miền, quân dân có thừa nhưng thiếu người Thủ lĩnh tổ chức khởi sự, Hiệp thống ta giao nhiệm các tướng: Hiệp đốc Bố chánh Nguyễn Văn Giáp là Phó tướng công đặc trách, thay thế ta trong mọi điều kiện. Đề đốc Hoàng Văn Thúy là Phó tướng công chỉ huy Chiến khu Rừng Già và vùng rừng núi Tây Bắc. Tán tương Nguyễn Thiện Thuật về khu Hưng Yên, Hải Dương. Tiến sỹ Vũ Hữu Lợi về với Nam Định, Ninh Bình. Tiến sỹ Tống Duy Tân  vùng đất Nghệ An, Hà Tĩnh. Tướng quân Đinh Công Tráng, Tướng quân Hà Văn Mao vào xứ Thanh, dây nối với Tống Duy Tân Nghệ – Tĩnh. Việc này đại sự, các tướng quân sớm lên đường, giữ gìn sức lực, bí mật tuyệt nhiên. Đại bản doanh Sơn phòng Quảng Trị của Đại thần Tôn Thất Thuyết đón chờ tin tức các tướng quân để sớm tấu trình Đức thượng hoàng Hàm Nghi. Hiệp thống ta và Chiến khu Tiên Sơn cũng một lòng trông ngóng tin thắng lợi của các ngài.
Bộ tướng đứng lặng, ai nấy kiềm chế nỗi xúc động. Bố chánh Hiệp đốc Nguyễn Văn Giáp khoanh tay cúi đầu đáp lễ. Bộ tướng đồng loạt cúi mình tạ ơn Đại thần quân vụ.
Cai Đen, từ ngày chết hụt trong trận tử chiến thành Hưng Hóa, y về nhà thương Hà Nội điều trị. Vết thương chưa lành, Đen trở lại thủ phủ đích thân lên gặp tướng Brielen. Vốn là chỗ gần gũi, từ chân thông ngôn, đến chỉ điểm, Cai Đen được Brielen sử dụng và phong hàm trung úy mật thám. Không ngần ngại, hắn gạt tay lính gác tư dinh tướng phủ, bước vào.
– Chào ngài thiếu tướng nước Đại Pháp.
Brielen quay lại:
– A. Ngài trung úy
Không đợi viên tướng Tây nói hết câu, Cai Đen nhanh nhảu.
– Tôi trở lại Hưng Hóa, hy vọng tướng binh trọng dụng.
– Trung úy có thể đảm nhận một mũi nhọn nào đây?
Chộp thời cơ, trung úy Đen nhanh nhảu.
– Thưa ngài. Nếu được nắm trong tay một số quân, và nếu được ngài phong thêm mề đay để dễ bề chỉ huy, tôi sẽ lần theo dấu chân Tuần phủ Hưng Hóa mà gửi đến ngài những gì các ngài cần.
Brielen cười to, bước lại tủ ly với chai “Napôlêông” rót đầy cốc đưa cho trung úy Đen.
– Cảm ơn ngài Đen – một chiến binh thủy chung và hăng hái với nước Mẹ Đại Pháp.
Hai cốc thủy tinh to bằng quả trứng, đầy nước cốt Tây, nâng ngang mặt. Cạn!
Brielen nhìn chằm chằm viên trung úy, cười khùng khục:
– Từ nay, ngài Đen thuộc quyền chỉ huy của Đại tá Mo lanh. Được chứ?
– Vâng. Thưa ngài thiếu tướng.
Cái bắt tay không chặt của Brielen làm cho hắn nửa tin nửa ngờ. Đen hiểu, với người Pháp, chỉ có lăn vào việc thì mới hy vọng thăng quan. Mà đã lăn vào cái việc do thám thì bội tinh chưa thấy, mạng mình cũng coi chừng. Nghĩ thế, trung úy Đen mạnh bạo:
– Thưa ngài đại tá…
Molanh giơ tay như chào, lại như ra hiệu không cần nói nữa. Y nhíu miệng.
– Trung úy Đen. Việc của anh bây giờ là đội trưởng do thám tuyến hoạt động của tên Tuần phủ Bích. Trong tay ngài có hai mươi lính đội hạng tinh nhuệ rừng núi, có thể chia làm ba bốn nhóm cùng mục tiêu. Ngài có quyền chọn một đội phó và các nhóm trưởng.
– Về nội dung. Thưa ngài…
Molanh lại giơ mấy ngón tay dài ngoằng.
– Mục tiêu là thế. Nội dung cũng là thế. Ngài lập kế hoạch trình lên Sa Nô Tây Bắc. Chúc ngài Đen thành công.
Molanh tiễn trung úy Đen ra cửa, giơ tay chào kiểu nhà binh Tây phương.
– Chúc ngài trung úy thành công.
Thực ra, Molanh không tin Đen, một tên lính thú không chữ nghĩa, một kẻ thực dụng hành động mù quáng. Bù lại anh ta sẵn sàng làm con thiêu thân trong đám sỹ quan người Việt ở Hưng Hóa. Molanh mới từ Hà Nội lên giữ chân chỉ huy Sa Nô Tây Bắc. Chưa hiểu vùng đất con người, mà có được một kẻ xung kích như trung úy Đen cũng là cần. Nghĩ vậy, viên đại tá quan một bật cười tủm tỉm, quay vào.
Nhưng Molanh đã nhầm. Chỉ một tuần, chưa đầy một tuần, trung úy Đen đã trình lên chỉ huy Sa Nô của đạo Hưng Hóa bản “Kế hoạch triệt hạ toán quân Tuần phủ” gọi tắt là “Kế hoạch KTT”. Điều làm cho đại tá Molanh thú vị không phải là sự quy mô, cung cấp nhiều, mà ngược lại: Số quân chỉ dăm bẩy người, hầu hết là thổ dân, được huấn luyện võ thuật và xử lý tình huống… Tất cả đặt dưới sự chỉ huy trực tiếp của Đội trưởng – trung úy Đen! Molanh cầm bút ký nhoằng, rồi đưa cho thiếu tá tham mưu trưởng Sa nô.
– Ngài Xanhtơni. Thằng Đen được đấy. Ngài dùng nó vào mục “Dùng người Việt, đánh người Việt” trong bài “Đông dương, chia để trị!”. Được chứ? Mo lanh cười thô kệch.
Xanhtơni:
– Vâng, ngài đại tá, đây sẽ là một ứng dụng hay cho Tây Bắc, nó là sản phẩm quân sự của chính ngài, ngài Mo lanh.
– Trung úy Đen lập bản kế hoạch do thám tung tích của Nghĩa quân Triều đình trong thời gian ngắn, được nhóm sỹ quan chỉ huy ở Sa Nô khen ngợi không phải không có cơ sở.
Trương Đen quê ở Sơn Tây, ba đời làm thuê. Ông nội phù Lê diệt Mạc, bị truy đuổi chạy lên Hưng Hóa, đổi Phạm thành Trương. Dòng họ Phạm – Trương sinh độc, Đen thành con một, ông bà cha mẹ không còn, tứ cố vô thân, Đen chỉ biết họ tên của riêng mình. Tuổi thơ lưu lạc, Đen cứ đi ngược sông Hồng rồi gặp một đồn điền trên đất Cẩm Khê, y xin làm bốc vác. Cuộc sống đơn độc, không biết tung tích, suy nghĩ lệch lạc, Trương Đen chửi đời, rồi chửi trời…! Đúng lúc ấy người Pháp từ đâu đến chiếm đóng thành Hà Nội. Đám bạn làm thuê cho đồn điển ở Cẩm Khê rủ nhau về Hà Nội “xem mặt người Tây”. Thế rồi, cả nhóm trở thành lính gác, rồi lính tuần canh cho đồn Pháp lúc nào chẳng hay, chỉ biết là được ăn uống đầy đủ, quần áo mũ mãng quân binh tươm tất; trên người lại đeo khẩu mút ca tông hay khẩu hỏa mai. Nghĩ thật oách. Nhưng một quy định của nhà Đồn đối với lính người Việt là chỉ cho học bắn để bắn trúng; chỉ cho học võ để đánh giáp mặt chứ  không cho học nhiều chữ. Hạng như Trương Đen, như Lưu Minh Rỗ, ma ranh hơn, nhà đồn nhặt riêng cho đi học trường Tây ở Hà Nội chuyên ngạch thám tử. Trương Đen và Lưu Minh Rỗ võ vẽ tiếng Tây, quan đồn xung vào làm thông ngôn cho lính lê dương đánh phủ Bắc Giang, đánh phủ Sơn Tây, rồi đánh phủ Hưng Hóa. Trận Hưng Hóa, Đen xông pha bên tướng Brielen, được phong trung úy, rồi bổ chức Cai, nhưng cũng xuýt toi mạng. Nghe nói khi cửa Phủ bị đại bác bắn vỡ, Trương Đen xông vào, trong thành chỉ còn vài chục quân lính Triều đình, một người nhận ra y.
“- Thằng Trương Đen, đúng thằng Đen cùng làm thuê ở đồn điền Cẩm Khê, nó mất tích hai ba năm nay, hóa ra chạy theo Tây!” Dị lẩm bẩm, một tay cầm ngọn giáo, tay che mặt theo dõi.
Đốc Dị quê làng Thạch Đồng, Thanh Thủy. Một lần chánh tổng Hoàng Văn Thúy đi Thanh Thủy bàn cách làm ăn, mở rộng điền địa, vô tình gặp Dị. Thấy chàng trai sức vóc khỏe mạnh, ăn nói thông minh, thổ hào Thúy bèn gợi ý đưa Dị về làm bảo vệ đồn điền Cẩm Khê. Tại đây, Dị ăn ở cùng cánh làm thuê trong đó có Trương Đen, Lưu Minh Rỗ. Bỗng nhiên một ngày ba bốn trai thuê bỏ trốn, ai cũng nghĩ, họ về quê. Rồi chánh tổng thổ hào được Tuần phủ Nguyễn Quang Bích mời về thành Hưng Hóa phong chức Đề đốc. Dị cũng được đưa đi cùng, và rồi được Tuần phủ bổ chức Đốc binh.
Thằng Trương Đen chỉ cách năm mét đang khua tay nói gì bằng tiếng ta tiếng Tây với tên người Pháp mắt xanh, tay lăm lăm súng ngắn. Không kiềm chế nổi. Đốc Dị hét to:
– Thằng Trương Đen kia, mày theo giặc, mày phản bội! Trương Đen giật mình quay đầu chạy.
Miệng quát, tay phải Đốc Dị giơ căng ngọn giáo nhọn hoắt
“- Vút”.
Cây giáo lao thẳng, đâm vào vai trái tên thông ngôn. Trương Đen kêu “- Ối!”. Bọn lính xô lại. Đốc Dị rút lui cùng Nguyễn Quang Hoan.
– Tôi cũng chỉ biết có thế thưa ngài thiếu tá! Lãnh Hằng ngừng lại.
Để hiểu thêm về thuộc hạ trước khi giao việc, Xanh tơ ni cho gọi Nguyễn Văn Hằng. Nguyễn Văn Hằng tước Lãnh binh chiến đấu giữ thành bên Nguyễn Quang Hoan, bị bắt. Pháp mua chuộc. Lãnh Hằng tương kế tựu kế để được yên ổn chờ ngày trốn về Tiên Sơn. Khi biết Tuần phủ dấy binh khởi nghĩa Hằng viết thư cho lãnh Hoan gửi người đi Chợ Bờ chuyển giúp. Nguyễn Quang Hoan nhận thư mới hay Hằng còn sống, đang yên ổn chăm sóc vườn cây Thủ phủ. Lãnh Hoan cho vệ sỹ đóng giả người đi chợ Bờ vào tận Hưng Hóa tìm gặp Hằng. Vài ba lần gặp, lãnh Hằng nhận lời với bạn hữu Lãnh Hoan, ở lại phủ Hưng Hóa làm nội binh cho quân Tiên Sơn.
Bây giờ ngồi đối mặt với Xanhtơni, lãnh Hằng cảm thấy khó khăn, nhưng hình bóng Lãnh Hoan, giọng nói lãnh Hoan cứ chập chờn, văng vẳng. Nguyễn Văn Hằng đi đến quyết định, nắm chắc tin tức từ cả hai, Xanhtơni lẫn Trương Đen cung cấp cho võ trướng Nguyễn Quang Hoan. Người được lãnh Hoan tin tưởng làm dây nối giữa Tiên Động với lãnh Hằng là đốc Xù. Ngoài Hoan, đốc Xù trực tiếp nhiệm vụ với phó Đề đốc hành dinh Vương Văn Doãn.
Xanhtơni đưa hai tay ra hiệu.
– Được rồi, được rồi. Cảm ơn ngài Hằng!
Nguyễn Văn Hằng cúi mình lui ra.
Ngay sau khi được chỉ huy Sa Nô chuẩn y. Nhóm chỉ huy Xanhtơni, Trương Đen, Lưu Minh Rỗ gặp nhau bàn định.
Trương Đen:
– Thiếu tá. Ngài đề nghị Sa Nô cho đánh một trận vào Tiên Sơn để thăm dò phản ứng của quân Tuần phủ.
Lưu Minh Rỗ:
– Chưa được, chưa được; ta đã chẳng vừa bị đánh tập kích ở Đà Giang, Chợ Bờ. Quân Tuần phủ đang thanh thế.
Xanhtơni:
– Ngài đội Rỗ có kế gì?
– Theo ý Đội. Ta cho nhóm thám sát đi dò xét xem nơi nào sơ hở nhất của quân Tiên Sơn, kéo binh đánh úp. Chắc thắng.
– Hay, hay lắm. Xanhtơni gật gù. Vậy thì ngài Rỗ sẽ dẫn đầu nhóm “Chuột rừng” này. Hạn ba ngày có kết quả.
Đội Rỗ đứng bật dậy.
– Cảm ơn ngài thiếu tá, ngài trung úy. Tôi xin hứa danh dự!
Lời hứa của đội Rỗ thật hiệu nghiệm.
Nhận được tin từ nhóm “Chuột rừng”. Quan ba Xáclăng chỉ huy phủ Hưng Hóa lập tức cử ngay một tiểu đoàn vừa khố đỏ khố xanh do lê dương chỉ huy đang đêm bất ngờ đánh úp Trại Xuân Quang, dưới chân Tiên Sơn cách Bản doanh chừng mươi cây số. Lãnh Bạt chỉ huy trại Xuân Quang chủ quan, cho quân binh về ăn rằm tháng bẩy, Trại gần như bỏ trống. Quân lê dương, khố đỏ ào ào đốt trại. Quân binh chống đỡ không nổi. Nguyễn Văn Lò, thân phụ nàng Mỹ Cẩm, giữ chân phó trại, cùng hai nghĩa binh đánh tung hoành, giết chết năm sáu khố đỏ thì trúng đạn mút ca tông. Chiến binh Nguyễn Văn Lò hy sinh giữa thành trại, người nghĩa sỹ Cần Vương đầu tiên của Chiến khu Tiên Sơn Bắc Kỳ ngã xuống dưới ngọn cờ bình Tây phục quốc.
Nhóm “Chuột rừng” lại gửi tin tức về Sa Nô:
“Tuần phủ Bích đang đi Vân Nam cầu viện, quân Tiên Sơn tỏ ra lỏng lẻo. Sa Nô ra lệnh đánh vào các đồn cửa sông, cửa bộ. Lấy được hai đồn này, người Pháp sẽ mở hội ăn mừng giữa bản doanh Tiên Động!”
Xanh tơ ni, Trương Đen tỏ ra hoan hỉ, đắc thắng trước mặt hai quan trên, Mo lanh và Xác lăng.
– Thiếu tá và trung úy, các ngài tự tin chứ?
Trương Đen:
– Thưa các ngài. Tôi xin tiên phong!
Xác lăng:
– Tốt. Tốt! Lần này chánh thủ phủ sẽ giao cho ngài Đen mũi xung kích trên bộ.
Trương Đen đứng dậy cúi gập người rồi bước ra ngoài.
Để trại Xuân Quang bị tập kích trong khi Hiệp thống Thủ lĩnh đi sứ, Bố chánh phó Tướng công day dứt nhận lỗi trước các tướng quân, rồi mời phó tướng thứ hai Đề đốc Kiều và võ tướng Nguyễn Quang Hoan đến bàn.
Lãnh Hoan nêu:
– Ta tương kế tựu kế, lấy lại trại ta dễ dàng. Ắt bọn giặc sẽ chủ quan, cho tay chân dò la rồi mới đánh vào các đồn quanh Tiên Sơn. Tôi sẽ cho để ngỏ doanh trại đồn Cửa bộ, khi nào chúng vây thành ta đánh ập trở lại.
Các phó tướng đồng ý. Lãnh Hoan, đốc Cương gấp rút chuẩn bị. Chỉ ba ngày, trại đồn Cửa bộ như vắng bóng quân binh. Ngõ cổng, lối đi lại đều được tung các tờ rơi có dòng chữ: “Đồn Cửa bộ, quân binh được phép về quê gặt vụ. Đồn Cửa sông điều quân bảo vệ Bản doanh Tiên Động”.
Người đi chợ Bờ, đi Hưng Hóa nhặt được tờ rơi cầm theo để kháo nhau. Nhóm “Chuột rừng” cũng lên tận Tiên Động dò xét, thấy đúng; gươm giáo, súng đạn treo ngổn ngang nhà trại. Đồn Cửa bộ chỉ có vài ba bộ quần áo nghĩa binh phơi rải rác.
Đội Minh Rỗ:
– Nếu ngài Xanhtơni chưa thật tin thì tôi và trung úy Đen sẽ dẫn quân, vì đường đất này, chúng tôi thuộc làu làu!
Tham mưu trưởng Sa Nô cười to, giọng điệu hiểu biết, pha chút châm chọc.
– Tôi tin, tôi tin các ngài chứ, nhưng quân Tiên Sơn không chỉ là binh lính Triều đình, họ còn là thổ dân. Họ cũng lắm mưu mẹo đấy thưa trung úy Đen và ngài Đội!
Vốn tính hiếu thắng, lại mù mờ về binh kế. Trương Đen đứng dậy quả quyết.
– Tôi không phản đối thưa ngài Xanhtơni, nhưng đây là thời cơ cho Sa Nô, cho cả ngài chánh phủ Hưng Hóa, cảnh báo quân Tiên Sơn Tuần phủ!
– Thôi được, tôi đồng ý trình lên ngài chánh thủ phủ Sắclăng.
Một ngày sau. Hai đại đội quân thành phủ do đại úy Mácdoa chỉ huy, đội Rỗ dẫn đường hành quân lên Cổ Tiết, rồi lên Tứ Mỹ; chờ đêm đến, chia hai cánh sẽ đồng loạt bao vây đánh chiếm đồn cửa bộ. Nghe theo Xanhtơni, Trung tá Xáclăng chánh phủ phủ Hưng Hóa cũng sắp đặt sẵn một bộ quân, sau khi chiếm được đồn cửa bộ của Tiên Sơn sẽ lập ngay đồn Pháp trực thuộc phủ.
Lãnh Hoan đang ngồi trước bàn cờ tướng tính toán cách bày binh thì hộ vệ sơn phòng xin vào gặp trực tiếp. Võ tướng đứng dậy, mắt lướt trên mẩu giấy ngắn nhận ra chữ của lãnh Hằng, Quang Hoan gật nhẹ, rồi vội lên dinh phó tướng Bố chánh và Đề đốc. Mươi phút sau, Vương Văn Doãn, Hoàng Đình Cương, Lê Đình Dật có mặt.
Đồn trưởng Cửa bộ Hoàng Đình Cương:
– Kế nghi binh của võ Hoan để ngỏ Cửa bộ nhử cho giặc vào rồi đội rơm lên đánh tôi đã chuẩn bị kỹ càng.
Bố chánh.
– Tốt, tốt! Nhưng bây giờ có tin, quân Phủ đông tới mấy trăm, Đề Cương cho mở rộng khu mật phục để tăng thêm quân binh. Còn Tán Dật, đồn trưởng Cửa sông, ngoài quân thiện chiến giữ thành, sẽ cùng Đốc Thục đồn Hạ Hòa đánh vỗ ba mặt, tất diệt được giặc, bắt sống tướng chỉ huy.
Tán Dật đứng lên
– Tôi đề xuất đội Cửa bộ nên để ngỏ một đường đất chạy ra phía mặt sông Thao. Khi ta đánh ba mặt, quân giặc phải tháo chạy lối này ra sông mà thoát thân.
– Hay hay, kế của Tán tương hay lắm. Việc này giao cho Đề Cương. Bố chánh phó tướng gật gật.
Với sự tổng chỉ huy trực tiếp của Lãnh Hoan. Đề Cương ráo riết tạo nên địa bàn mai phục suốt gò đồi có nhiều cây cỏ rác, kéo dài đến tận đầm nước mà người dân đào để chăn nuôi vịt, Đề đốc Hoàng Đình Cương đặt mật danh địa hình trận địa này là đồi Cỏ rác, bãi Đầm đào. Lãnh Hoan lấy làm thích thú với kế dấu binh bằng rơm rạ không xa chân núi Tiên Sơn.
Đêm hạ trại ở Tứ Mỹ, để lập công danh cho mình đại úy Mácdoa điều tiểu đoàn số một do chính mình và đội Rỗ chỉ huy, bí mật tiến vào khu đồn cửa bộ. Quân canh phòng của Tiên Sơn cử người về báo ngay cho tướng quân lãnh Hoan.
Ngay đêm ấy, tất cả các ụ rơm rạ khu vực bãi Đầm đào và đồi Cỏ rác đều đã được quân Đề Cương náu mình, phủ kín. Quân binh của Đốc Thục, của Tán Dật cũng đã ém sát vài vị trí mật phục.
Trung đội mũi dài của Minh Rỗ hung hăng tỏa ra quanh đồn Cửa bộ chỉ thấy mấy quân binh Tiên Sơn trực gác đang ngồi đánh tổ tôm và uống rượu, súng ống vẫn treo trên vách. Nhận được tin của cai đội Minh rỗ, Mácdoa đại úy hớn hở huy động tiếp cả tiểu đoàn dự phòng cùng phong tỏa vòng vây nhằm đánh nhanh thắng nhanh và đóng chốt lập đồn ngay trong đêm rạng sáng không để cho quân Tiên Động kịp ứng cứu. Ngồi ở đồi chỉ huy, Bố chánh Phó Tướng công Nguyễn Văn Giáp và võ tướng Nguyễn Quang Hoan nhận được tin tức, bọn Pháp tăng quân đông gấp đôi, Bố Giáp ra lệnh cho Tổng Khảm, Tán Áo chỉ huy đồn cửa Cẩm Khê gấp rút đưa một Đại đội ra mai phục, chặn đường Tứ Mỹ về Hưng Hóa; Tổng Khảm – Tán Áo dẫn quân binh xuyên sơn cho kịp.
Cai đội Minh Rỗ cho lính xô vào đám tổ tôm. Năm bẩy quân binh Tiên Động bị bắt, úp mặt vào tường.
– Đốt trại lán báo hiệu cướp đồn! Minh Rỗ gào to rồi nổ tràng tôm xông liên thanh.
– A lê, cướp đồn, cướp đồn! Đại úy Mácdoa hét lên.
Quân lê dương, quân khố đỏ, khố xanh, hét inh ỏi, tràn vào đồn Cửa bộ.
– Đánh chưa tướng quân?
– Chưa lộ, quân nó còn đang hăng, ta cứ bình tĩnh. Đề Cương đáp.
Mác doa ngồi trên lưng ngựa tay khua súng ngắn cùng mấy chỉ huy ghì dây cương tiến thẳng vào sân dồn.
Bỗng một tiếng hét rất to từ một góc nhà trại:
– Giết, giết giặc Pháp!
Lập tức hàng trăm tiếng thét từ trong các nhà trại, rồi từ các lùm rơm khắp đồi Cỏ rác, khắp bãi Đầm đào phát ra. Mỗi tiếng hét là một bóng quân binh quần áo nâu gươm giáo sáng loáng lao như điên loạn vào đám lê dương khố đỏ mà đâm chém, mà cướp súng đạn. Một lá cờ to từ đâu xuất hiện trên nóc nhà đồn cửa bộ. Cờ gặp gió, chữ “Bình Tây báo quốc ” cứ phần phật phần phật làm cho quân binh Tiên Sơn càng phấn chấn, quân giặc thì rối loạn. Đạn nổ “Tắc, bọp, chát, chát; đóp, đóp, đóp…!” Tướng chỉ huy Mácdoa giật cương ngựa đen quay đầu tháo chạy ra cổng. Thấy chỉ huy tháo chạy, đám quân tướng giặc liều chết thoát ra khỏi khu nhà đồn. Quân binh vẫn cứ từ các lùm rơm xô tới, đánh giáp mặt. Hàng trăm quân khố xanh, khố đỏ vứt súng giơ tay xin hàng. Đề Cương nhìn thấy mấy con ngựa chạy ra khỏi cổng đồn liền thúc quân binh đón đầu. Súng vẫn nổ chan chát. Lãnh Vân giơ khẩu mút ca tông nhằm kẻ dẫn đường, bóp cò. Con ngựa nâu quỵ xuống, tên giặc người Việt quay súng ngắn nổ từng phát. Lãnh Vân bổ tới đá mạnh, tên giặc mất thăng bằng, rút dao găm thế thủ. Lãnh Vân lùi lại, một mũi gươm vung lên, bay đến, cắm phập vào ngựa tên phản bội. Lãnh Vân chỉ kịp nhìn thấy tên giặc mặt rỗ, trợn mắt rồi gục xuống như cây chuối đổ. Cai đội Minh rỗ giãy giãy mà tay hắn vẫn nắm chặt chuỗi dao găm.
Bọn giặc phủ Hưng Hóa chạy tán loạn ra bờ sông thì gặp đại đội quân binh của Lê Đình Dật đã đón sẵn. Hai con ngựa một đen, một mốc, hý ầm ỹ. Năm bẩy tên lê dương mũi lõ, mặt trắng bệch, râu rậm rì, ra sức cản nhóm quân binh. Tán Dật hét:
– Giết giết thằng chỉ huy, giết chết quân giặc Tây.
Tán Dật vừa dứt lời, một tiếng nổ danh gọn phát ra, tên chỉ huy ngồi lưng ngựa đen nghiêng nghiêng người rồi lăn xuống đất. Con ngựa thân chủ kéo rê hắn đi tới ba chục mét, lãnh Toát cùng mấy quân binh xô lại, đốc Thục cũng vừa bổ đến, một mũi giáo phóng thẳng vào tên chỉ huy, khẩu súng lục trên tay hắn rời ra, con ngựa đen hý to nhảy bật đi. Viên đại úy Mácdoa trợn cặp mắt xanh rồi gục đầu. Đám tàn binh cả trăm đứa ra đến bờ sông thì gặp quân của đốc Thục đã đón sẵn, tất cả quay đầu chạy ngược bờ sông. Thằng Tây ngồi trên lưng ngựa mốc, giật cương, ngựa mốc chồm thẳng xuống đầm nước ven dòng sông Thao đang đục ngầu phù sa. Cả đám khố đỏ, khố xanh trung thành với chủ tướng ào ào nhảy theo.
Trận đồi Cỏ rác kết thúc, đồn Cửa bộ im tiếng súng. Theo lệnh của Tướng quân Nguyễn Quang Hoan, hàng trăm lính giặc đã xin hàng, được đưa vào nhà trại, cho ăn uống nghỉ ngơi. Chiều tối hôm đó, Đề đốc Hoàng Đình Cương gặp tất cả, khuyên giải đám hàng binh, hãy trở về quê mà làm ăn, không được đi lính cho Pháp; còn nếu ai yêu nước thì ra nhập nghĩa quân Tiên Sơn bình Tây báo quốc. Hàng binh khố đỏ, khố xanh, vâng dạ, ra khỏi nhà trại.
Thượng thư Bộ lễ Đại thần Nguyễn Quang Bích cùng mấy tùy viên về đến Bản doanh hành dinh Tiên Động thì trời tang tảng sáng. Chánh Sơn phòng Vương Văn Doãn mời Ngài nghỉ ngơi một vài ngày cho lại sức. Hiệp thống khoát tay.
– Ta vẫn khỏe. Nghe nói đầu bếp Lò tử trận trong trận Xuân Quang, thương thay nghĩa binh đầu bếp từng cưu mang ta!
Chánh Sơn phòng cho gọi nàng Mỹ Cẩm đến. Nhìn thấy Thủ lĩnh đi đường xa về, người gầy rộc, Mỹ Cẩm quỳ xuống bên Tướng công mà khóc, Thủ lĩnh khẽ đỡ tay.
– Con gái ta. Cha Nguyễn Văn Lò đã vì nghĩa lớn mà thác trận, con nối bước chân người nghĩa sỹ Tiên Sơn, cho xứng danh với quê hương, với Quốc Tổ.
Nói rồi, Ngài nhắc chánh Sơn phòng cho người về quê thăm hỏi thân phụ Nguyễn Văn Lường, phụ tử binh họ Nguyễn để nghĩa được trọn trước sau.
Bộ tướng Tiên Sơn có mặt. Hiệp thống khen các tướng quân lập được mưu kế nên thắng lợi. Nhưng Ngài lại nói:
– Thua trận, Pháp sẽ trả thù, chúng không để ta lừa lần nữa. Phó tướng công cho củng cố toàn tuyến thủ phòng. Tăng sức dân binh các làng, cùng soát lại sơn pháo Cửa sông, ngăn chặn quân dò xét. Việc binh không được quên lãng.
Bố chánh cùng các Tướng quân cúi mình đáp lễ rồi lui khỏi tư dinh.
Chuyến đi Vân Nam theo chỉ dụ của Đức Vua Hàm Nghi trở về làm cho Hiệp thống thấy vui. Tổng đốc Sầm Dục Anh đã ngỏ ý giúp đỡ Triều đình chủ chiến cả về người và súng đạn trong thời gian sớm nhất, có thể đầu mùa thu Ất Dậu này. Hiệp thống tự mỉm cười cầm bút viết thư cho Đại thần Tôn Thất Thuyết. Võ tướng Hoàng Bộc cùng hai nghĩa sỹ đóng vai người ăn xin, vào Sơn phòng Quảng Trị dâng thư. Cai Bộc cũng đem theo lời lẽ của Hiệp thống, tìm đến Tả tướng quân Phan Đình Phùng người đang bị hồi quê ở Hà Tĩnh. Chiều nắng nhạt, tư dinh Sơn phòng âm thầm đưa tiễn Cai Hoàng Bộc và hai nghĩa binh. Bố chánh phó tướng, Đề đốc phó tướng và Chánh Sơn phòng Vương Văn Doãn có mặt. Hiệp thống đặt vào tay Cai Bộc hai vuông vải to bằng tờ giấy, cả hai đều có dòng chữ Hán “Bình Tây báo quốc ” và dặn, một vuông, dâng lên Đại thần Tôn Thất Thuyết, một vuông chuyển đến Phan Tả tướng. Ba sứ giả Tiên Sơn cúi mình lãnh nhiệm.
Như tự bằng lòng với đại sự mà Đức Vua giao, Hiệp thống Đại thần mời phó tướng công quân vụ Nguyễn Văn Giáp, phó tướng công Đề đốc Hoàng Văn Thúy trở vào hành dinh. Một phác họa khâu nối giữa chiến khu Tiên Sơn, với các căn cứ mới hình thành trên đất Bắc Kỳ được Thủ lĩnh đặt ra. Ngay hai ngày sau, Hiệp thống cho các võ sư lên đường, người đi Hưng Yên, Hải Dương tiếp kiến tán tương Nguyễn Thiện Thuật; kẻ về Ninh Bình gặp tán tương Nguyễn Tử Ngôn. Hiệp thống lại viết thư cho Tiến sỹ Vũ Hữu Lợi, xem xét việc sớm dấy binh ở Nam Định, Thái Bình, lại nhắc Nghè Lợi đưa con trưởng Ngô Quang Đoan đang tầm sư thầy Nghè, lên Chiến khu Tiên Động.
Chưa lại sức, Hiệp thống cùng các Phó tướng Đề đốc, lên ngựa đi kiểm tra phòng tuyến chiến khu Khả Cứu Thanh Sơn nơi Đề đốc Nguyễn Đình Ngữ đang khẩn trương xây dựng mặt trận, và miền Tây chiến khu Rừng Già nơi rừng núi Yên Lập tiếp giáp với Thu Cúc, Nghĩa Lộ.
– Ngày ta ở Hưng Hóa không nghĩ đến đường lui. Mà ai biết được vật đổi sao dời, Triều đình quy phục ngoại bang, hết đất Nam Kỳ, đến Trung Kỳ, rồi Bắc Kỳ. Đến khi ông Tổng đốc Hoàng Diệu tuẫn tiết thì mọi sự đã rồi, cứu vãn khó thay.
Thong dong trên lưng ngựa, Hiệp thống quân vụ tâm tư cùng Hoàng Đề đốc.
– Chuyện đã qua rồi, thưa Thủ lĩnh. Trước mặt Tướng công quá nhiều việc lớn. Đề Kiều phân trần.
– Cổ nhân dạy “Thần thiêng nhờ bộ hạ”. Nay ta dấy binh Tiên Động, được yếu nhân khắp nơi tìm đến phù trợ, há chẳng phải lòng Trời đấy sao?
– Vâng, vâng, thưa Thủ lĩnh! Đề đốc vội cắt ngang lời Hiệp thống Đại thần khi vó chân ngựa chiến bước xuống dòng suối chảy xiết.
Thất bại thê thảm trong trận bao vây đánh chiếm Cửa bộ một đồn trọng yếu của nghĩa quân Tiên Sơn. Có đến hai ba trăm lính khố đỏ khố xanh bị giết chết, bị trôi sông; số còn lại trở thành hàng binh. Vũ khí đạn dược mất tất vào tay đối phương. Đại úy Mácdoa, đội Minh rỗ, những người hùng của Sa Nô Tây Bắc, đều chết trận. Ý đồ lập đồn Tứ Mỹ của ngài thiếu tá Tham mưu trưởng Xanhtơni hoàn toàn đổ vỡ. Ăn nói thế nào, lập luận thế nào với Sa Nô, với ngài đại tá Molanh?
Chánh thành phủ Hưng Hóa trung tá Máclăng ngồi thừ mặt, chén rượu Mácxay đặt trên bàn vẫn nguyên vị. Có tiếng gõ cửa.
– Chào thiếu tá Xanhtơni. Chào trung úy Đen.
– Vâng, Vâng. Chào ngài Xáclăng!
Những tiếng chào hỏi, đáp lễ, khô khốc, nặng nề. Trung úy Trương Đen thấy cần phải phá vỡ không khí mệt mỏi, lấy lại sự tự tin theo kiểu người Việt, chủ động lên tiếng.
– Các ngài cho tôi rót tiếp ly rượu Mácxay. Hì hì. Ta chúc nhau chiến thắng trong cuộc thua tạm thời.
Miệng nói, tay Đen cầm chai rượu mạnh rót đầy ba li thủy tinh.
– Nào, các ngài. Người Việt là thế, thua là để chiến thắng!
– Ô kê. Ô kê! Nào! Nào! Chiến thắng…
Xanhtơni đặt chiếc li cạn xuống bàn, ngẩng mặt. Đôi mắt xanh của y bỗng khác thường.
– Các ngài. Đại tá Molanh Tổng chỉ huy Tây Bắc không trách cứ chúng ta, ngài chỉ đòi hỏi, muốn đánh được nghĩa binh thổ dân, phải có một chiến thuật.
Xáclăng vừa rót rượu vừa ngếch mặt lên như dò xem chiến thuật bình sơn nào sẽ hữu hiệu nhất?
Xanhtơni búng ngón tay cái, rồi bật ngón tay trỏ, và xòe cả năm ngón tay trên bàn tay.
– Đánh lẻ, đánh liên tiếp, rồi đánh đổ bộ!
Trương Đen vỗ đùi đánh đét.
– Hay! Quấy rối, tiêu hao, rồi càn quét. Tôi xin tiên phong! Cai đội Trương Đen le lên, cầm chén rượu uống đánh ực, gật gù cười.
Chiến thuật của Xanhtơni được đại tá Molanh y duyệt. Chỉ mấy ngày sau, nhóm “Chuột rừng”, từng tốp, từng tốp, luồn sâu vào địa bàn Cẩm Khê, dò xét.
Tốp thám báo “Chuột rừng” có hai tên thuộc chủng loại khố xanh đi Mỹ Lương trở về, tin tức được đưa ngay lên trung úy Đen.
– Ngài Cai đội. Mỹ Lương là đầm sình lầy, quân Tiên Sơn đang xây dựng các ụ pháo bằng đất. Chưa rõ Tuần phủ lập kế gì?
– Kế gì à? Đen trợn mắt. Kế cướp pháo đồn cửa Đà giang hay Thao giang, các ngươi không đoán được thì do thám làm gì?
Một tên bước lên:
– Theo ý tiểu binh, thiển nghĩ, quân Tuần phủ Tiên Động không đủ sức cướp pháo của Chánh phủ mà chỉ dùng súng thần công để đối chọi.
Trương Đen hất hàm.
– Súng thần công?
– Vâng. Khi ta chiếm được thành Hưng Hóa, hàng binh Tuần phủ khai rằng, có ít nhất ba khẩu thần công đã được quân Tuần phủ Bích cất giấu, bây giờ nó đã nằm trên núi Tiên Sơn.
– Quân Chánh phủ ra tay ngay được chứ?
– Vâng được. Ra tay ngay bây giờ. Còn nếu chậm, mùa mưa về cả làng Mỹ Lương ngập nước, muốn đánh, lại phải bắc cầu từ gò Hang hùm sang gò Hàm rồng mới tập kích bất ngờ cứ điểm Mỹ Lương được.
– Ha, hay hay! Chiến hữu Phú, anh xứng đáng được trọng thưởng. Trung úy cai Đen vỗ vai.
Chỉ mấy ngày sau Phú bạnh được bổ chức đội phó do thám thế chỗ Lưu Minh rỗ vừa chết trận.
Lê Phú bạnh được thăng đội phó là phải; anh ta có bộ cằm vuông mỗi lần cãi vã, cổ bạch ra, đám lính gọi là Phú Bạnh chứ kỳ thực tên họ chỉ là Lê Phú.
Phú bạnh người Thổ Tang, cũng từng làm thuê ở đồn điền Cẩm Khê của Thổ hào Hoàng Văn Thúy, anh ta tranh giành cái chức tổ trưởng bốc vác không được, mang thù, đánh chết bạn điền, bị đuổi. Phú chạy một mạch về Sơn Tây xin vào lính khố xanh. Hưng Hóa rơi vào tay người Pháp, Phú được đưa về đây, vào đội “Chuột rừng”, tranh nhau chức phó đội với Trần Đức, nhưng Đức cao tay hơn, thắng thế. Giờ thì Đức bị điều đi Bắc Ninh, Minh rỗ thì chết xác. Phú vừa mưu mẹo, vừa được lòng Trương Đen. Thế là Xanhtơni thăng chức từ lính quèn lên đội phó.
Mưu mô của Phú bạnh được Xanhtơni chú ý nhất là thâm kế đánh nghĩa quân Tiên Động vào ngày nước ngập. Xanhtơni nhìn Trương Đen tủm tỉm cười.
– Cám ơn Trung úy Cai Đội! Dùng mưu nào, bao giờ dùng nó, và dùng ra sao để phá được bọn thổ dân Tiên Sơn, còn phải được ngài đại tá Molanh thụ lý ban lệnh. Ngài hiểu chứ, ngài Đen?
– Ồ, tôi hiểu, tôi hiểu! Chỉ mong thiếu tá tham mưu ghi nhận đấy là công sức của anh em người Việt chúng tôi.
Xanh tơ ni cười to, với chai Mácxay rót hai chén đầy.
– Chúc mừng công sức các ngài. Chúc mừng!
Chưa lập được đồn Tứ Mỹ, nhưng phải khống chế nghĩa quân Tiên Sơn, Xanhtơni, Xáclăng, tăng cường sơn pháo cho đồn cửa phủ Hưng Hóa và giao cho Cửa phủ nhiệm vụ quấy rối Tiên Động bằng thủy pháo nhằm tránh chạm trán đường bộ với Tiên Động chờ mùa mưa nước nổi dùng đại binh quét trận.
Tổng chỉ huy Sa Nô Tây Bắc, đại tá Molanh bước vào phòng Chánh phủ Hưng Hóa. Xáclăng, Xanhtơni, cả Trương Đen hoan hỉ chào đón bằng món quà mưu kế thâm hiểm.
– Tôi thành thật khen những sáng kiến tuyệt vời của ngài Chánh phủ Xáclăng, của ngài tham mưu Xanhtơni, và của cả ngài trợ lý Đơbiêngđơ của tôi nữa. Molanh cười nhạt rồi cầm li rượu Mác xay. Nào. Chúc mừng!
Năm sáu sỹ quan Sa Nô có mặt tại dinh Chánh phủ tươi vui mặt mày.
– Thưa ngài đại tá. Tôi, tôi sơ xuất…
Mọi con mắt đổ dồn về trung tá Chánh thành phủ. Xác lăng nghển cổ:
– Tôi sơ xuất chưa giới thiệu với ngài Quan một Molanh cao cả. Cùng tôi đón ngài hôm nay còn có thiếu tá Víchke, phó Chánh phủ Hưng Hóa, và ngài Cai- trung úy Trương Đen!
Trương Đen thở phào. Molanh:
– Ố ồ, tốt tốt!
Vích ke, Trương Đen cúi đầu rồi bước lại gần viên Tổng trưởng Sa Nô.
Li Mác xay, cả ba cạn trơ đáy. Mo lanh cười nửa miệng rồi bỗng trang nghiêm.
– Các ngài! Tôi muốn nói với các ngài. Sứ mệnh của phủ Hưng Hóa hôm nay, khác ngày hôm qua. Hôm nay, Phủ của ngài Toàn quyền Đông Dương chứ không còn của cái Triều đình Huế lỗi thời. Mo lanh đột ngột dừng, nhìn quanh, rồi lại bật thành tiếng. “- À mà cái ông Tuần phủ Nguyễn Quang Bích đi đâu rồi nhỉ (?!)”
Xáclăng thừa hiểu quan trên hỏi xỏ mình nhưng vẫn lễ độ
– Thưa đại tá, ông ta kéo được đám thổ dân chạy lên núi Tiên Sơn đang hòng lật lại thế cờ.
– Ồ, đúng đúng! Tuần phủ Bích không còn nữa, mà bây giờ là Hiệp thống Bắc Kỳ Đại thần quân vụ của Triều đình lưu vong sơn cước. Ha ha. Triều chính Huế đang rối loạn. Bổn phận của các ngài là phải dẹp tan đám loạn quân Tiên Sơn này.
Viên đại tá chỉ huy Sa Nô mặt rắn lại, giọng điệu đanh chặt. Y tự rót cho mình một ly rượu, rồi bất ngờ.
– Sao? Các ngài, ta hành động chứ?
Xáclăng rụt rè. Víchke hăng hái. Trương Đen xum xoe. Tham mưu trưởng Xanhtơni hất hàm.
– Trung tá Xáclăng, ta hành động.
Xáclăng như chợt tỉnh cười tươi, cái cười chưa quên đòn đau trận đồn Cửa bộ, đồi Cỏ rác mấy tháng trước.
– Vâng! Nào, ta hành động, ra tay quét sạch quân Tiên Sơn. Chúc ngài đại tá…
– Ô, Ồ! Tốt, tốt! Mo lanh cười to.
Chỉ sau ba ngày tổng chỉ huy Molanh về thành phủ. Xáclăng đã ra lệnh cho đồn Cửa phủ đưa thủy pháo lên tầu, đêm, bí mật ngược sông Thao, ém sát Tiên Lương, nhằm các đồn Cửa bộ, Cửa sông của nghĩa quân Tiên Sơn mà nhả đạn tới tấp, rồi rút nhanh. Hai tháng ròng, chiến thuật của phó chánh thành phủ Víchke được bốn thám báo “Chuột rừng” đi dò xét trở về.
– Thưa ngài Xanhtơni. Trương Đen liếc mắt
– Ngài nói đi. Ngài Đen!
– Tôi cho rằng chiến thuật của ngài Vích chỉ là tiêu tốn đạn. Quân Tiên Sơn vốn cố thủ, mấy đồn binh của chúng vẫn kéo cờ ngạo nghễ. Đánh như thế khác gì bắn chỉ thiên (!!), cai Đen đùng đùng căng máu mặt.
– Ý ngài sẽ là sao?
Cai Đen được thể.
– Phải lập được vài trạm đồn Cửa phủ nằm dọc mặt sông Thao. Quân Tiên Sơn không đánh được, mà ta vẫn có cơ hội đổ quân bộ dưới sự hỗ trợ của thủy pháo.
– À a! Một kế hay! Tôi sẽ thống nhất với ngài Xáclăng, lập các trạm đồn lưu động ngay trong tháng chạp này.
Xanhtơni nói là làm. Mười ngày sau, ba trạm thủy pháo của đồn Cửa phủ nghênh ngang nổi trên mặt sông Thao suốt ngày đêm tương ứng với khu vực Tiên Động, bất thình lình bắn tới tấp vào các đồn Cửa bộ, Cửa sông của nghĩa binh. Có ngày thủy tầu còn ngược sông lên áp đồn canh phòng Hạ Hòa của đốc Thục để thăm dò. Quân nghĩa binh đốc Thục không được lệnh khiêu chiến.
Tháng mười hai Ất Dậu. Giữa trưa mà trời sương lạnh, Hiệp thống ngả mình trên giường tre hiên nhà Hành dinh. Ngài không ngủ, mà Ngài cũng không mấy khi ngủ trưa. Từ ngày Đức Vua bổ chức Đại thần, lãnh nhiệm đi sứ Côn Minh, thế chỗ Hoàng Tá Viêm làm trưởng đoàn trình quốc thư lên tổng đốc Vân Nam Sầm Dục Anh, Hiệp thống thấy trọng trách thiêng liêng nặng nề trước Đức Kim thượng Hàm Nghi và phụ chính Đại thần Tôn Thất Thuyết, trước vận mệnh “Phục quốc bài Tây” của nghĩa binh Tiên Sơn. Đang miên man nghĩ ngợi thì Chánh Sơn phòng Vương Văn Doãn bước tới. Sau Doãn là võ tướng Nguyễn Quang Hoan.
– Thưa Thủ lĩnh Quân vụ. Lãnh Hoan đứng nghiêm trang, nói. Mấy ngày nay quân Pháp ở thành phủ lập ra ba bốn tầu pháo nằm dọc sông Thao. Chắc chúng có ý đồ lớn bao vây Tiên Sơn. Xin Thủ lĩnh Quân vụ cho đánh chặn.
– Bằng cách nào? Thủ lĩnh hỏi.
– Các nghĩa binh sông nước bơi ra đốt tầu, hoặc là Ngài cho dùng thần công bắn thẳng? Lãnh Hoan nói ngắn.
– Cả hai cách. Cách nào sẽ làm cho “thành phủ” nổi giận mà đổ quân đánh Tiên Động?
Lãnh Hoan, chánh Doãn đều chợt hiểu, khi ta chưa củng cố được lực lượng thì chỉ nên ở thế giằng co, manh động là hỏng. Lãnh võ Hoan vội vàng đỡ lời lỡ miệng.
– Vâng, thưa Thủ lĩnh. Chỉ khi thủy pháo bắn nhiều thì súng thần công của ta mới đáp lại. Còn việc tập kích các tầu pháo thì… tạm gác lại.
Quân vụ Tướng công gật đầu rồi nói.
– Việc trọng, cần bàn với phó Tướng công Bố chánh. Rồi Ngài quay sang Vương Văn Doãn: Phó Đề đốc nhắc lời ta với Phó tướng công Đề đốc, là, chuẩn bị tích cực hơn lương thảo, và rà soát lại các đội quân dân phòng quanh Tiên Sơn. Xuân này ta sẽ gặp mặt dân phòng.
Hai tướng quân cúi mình, đáp lễ. Hiệp thống Quân vụ trở lại tư dinh. Nàng Mỹ Cẩm bưng lên tư phòng mấy quả ngõa mật căng mọng, thơm ngọt.
– Con mời Thủ lĩnh Tướng công ăn cho lại sức.
– Được rồi, ta tự dùng! Nói rồi Ngài vẫy Mỹ Cẩm lại gần:
– Ta nghe Chánh Sơn phòng hỏi ý, rằng có anh hàng binh nào đấy, ngỏ lời yêu con. Đúng không?
– Dạ vâng, việc này con đã xin ý kiến thế phụ Doãn, thế phụ đồng tình ạ.
– Thế thì được, ta mừng cho con. Ta sẽ nói với thế phụ Vương Văn Doãn lo liệu.
– Dạ. Con mang ơn Thủ lĩnh Tướng công, mang ơn thế phụ.
Có gì bồn chồn trong lòng. Đêm càng về khuya, càng trằn trọc. Bao mối lo nghĩ nơi chiến khu Rừng già Tiên Sơn chưa đâu vào đâu mà vận Nước thì như băng phủ. Nơi rừng núi Quảng Trị, Đức Vua và Phụ chính đang đối mặt với Ưng ký Nguyễn Cảnh Tông Đồng Khánh chủ hòa, Tướng Pháp Cuốc xy ở Huế đã thắt được thòng lọng vào cổ Triều đình Việt chủ hòa này rồi. Nguyễn Văn Tường, Hoàng Tá Viêm đều là những Đại thần bạc nhược. Ba tháng rồi, Tổng đốc Vân Nam đã hứa mà không có văn tự đáp lễ Kim thượng Sơn phòng chủ chiến, lẽ nào họ nuốt trôi lời hứa cứu viện? Việc quốc gia đại sự mà ta có lỗi với tổ tiên, với vợ con nơi làng quê Trình Phố. Xin Đèn trời soi rọi xá tội cho đứa con ngày đêm lo nghĩ việc báo Quốc này.
Hiệp thống Thủ lĩnh thiếp đi, cho đến lúc gà rừng te te gáy, Ngài chợt tỉnh, bước ra khỏi tư phòng. Bộ tướng đã tề tựu dưới nhà Hành dinh, mặt mũi ai nấy tươi vui, nói cười rôm rả.
Chánh Sơn phòng đứng dậy.
– Thưa Hiệp thống Quân vụ. Theo lệnh Thủ lĩnh võ tướng Hoàng Bộc đã hoàn thành trọng trách, Tướng quân xin được tấu trình với Hiệp thống và Bộ tướng.
Tin Hoàng Bộc (Cai Bộc- Đặng Huy Tá) trở về an toàn khỏe mạnh, làm Tướng công vui lòng. Ngài khăn mũ tử tế, ngồi trang nghiêm, nghe lời dụ.
Võ tướng cai Bộc cúi mình, rồi thong thả.
– Tiểu tướng đã thân chinh trình tấu với Đại thần Phụ chính. Phụ chính Tôn Thất Thuyết chuyển lời khen của Đức Kim Thượng về sự dấy binh khởi nghĩa Tiên Động “Bình Tây phục quốc”  của Thủ lĩnh Tướng công; và việc Hiệp thống Quân vụ đi sứ Vân Nam gặp được Sầm Dục Anh, nay chờ cứu viện.
Thủ lĩnh ngồi lặng yên. Phòng nhỏ hành dinh im phắc
Cai Bộc cúi mình lấy trong ngực áo ra phong thư của Đại thần Phụ chính. Thư có câu thơ: Độc vãn cô quân trì viễn tái/ Cộng hoài xích kiếm trảm đông lưu (Níu đám cô quân nơi cửa vắng/ Cầm ba thước kiếm chặn lòng sâu).
Hiệp thống đứng dậy đỡ phong thư của Phụ chính Đại thần viết từ Sơn phòng Quảng Trị mà lòng bồi hồi. Tướng công Ngư Phong Hiệp thống bật lời họa lại: “Ba trung chỉ trụ, ngột cuồng lưu” (Cột cao giữa sóng, chặn lòng sâu). Bộ tướng gật gù thán phục và tự cảm thấy tin tưởng cao độ ở quan Đại thần chủ chiến dòng Tôn Thất trong bối cảnh đất nước ngàn cân treo sợi tóc này.
Mưa xuân rả ích. Thủ lĩnh Tướng công cùng Đề đốc và Võ tướng chống gậy lão nông chi điền đi đến từng đội dân binh dân phòng các làng Tiên Lương, Hoàng Lương, Mỹ Lương, Ngô Xá. Dân binh chỉ biết đến Đề đốc từ ngày ông còn là thổ hào chủ đất, rồi chánh tổng Cẩm Khê, nay bất ngờ được gặp Quan Đại thần Triều đình thì lòng vui khôn xiết. Hiệp thống vỗ vai một lão nông dân binh:
– Đất của ta, nhà của ta, thằng Tây đến cướp, ta cùng nhau đánh lại nó mà giữ lấy. Thế. Có làm được không?
– Làm được, đánh được!
Các dân binh, dân phòng cao niên, trung niên thanh niên. Cười ha hả.
Thăm đồn Cửa bộ, Hiệp thống Đại thần khen trận lừa địch khôn khéo mà đánh bại nó. Rồi Ngài lại nhắc: “- Nó có trả thù quân ta, ta cũng sẽ đánh thắng. Được chứ?” Quân sỹ vung hai tay lên cao, hô to: “- Thưa Tướng công. Được ạ. Đánh thắng ạ!”. Ngày xuân, hoa nở trắng các gò đồi. Nghĩa quân Tiên Sơn, từ vị Tướng công đến chàng nghĩa binh, ai nấy hào hứng. Hiệp thống quay lại nói với các tùy tùng:
– Lời Đức Vua anh minh đã về đến làng quê; quân binh, dân binh một lòng phụ tử!
Ngoài sân đồn cửa bộ, hộ vệ đã thắng ba con ngựa chiến, đón quan Hiệp thống, Đề đốc và võ tướng trở về hành dinh. Trên yên ngựa chủ tướng Thủ lĩnh bất ngờ hỏi Đề đốc.
– Nếu quân Pháp đánh chiếm được chiến khu Rừng già, tướng quân tính sao?
Đề Kiều:
– Thưa Hiệp thống. Nếu chẳng may phòng tuyến mặt tiền bị vỡ. Bộ tướng sẽ rút theo đường Thu Cúc. Hạ tướng sẽ ở lại cùng dân binh, quân binh, biến Rừng già thành hố chông, bẫy đá, tên thuốc độc mà cầm cự với giặc.
Hiệp thống Quân vụ gật đầu
– Được lắm, được lắm. Khen cho tướng quân Đề đốc có đầu óc kháng chiến du kích.
Võ tướng Quang Hoan chợt nghĩ: “- Đề đốc thực kỳ tài. Kháng chiến du kích và kháng chiến võ khí, cần được đan xen với nhau!”.
Bộ ba kỵ mã bước nhanh, về tới hành dinh. Trời xuân, hong hong nắng.
Đã nhiều lần đội “Chuột rừng” lập được công tích do thám và hiến nhiều mưu kế mà chánh thành phủ vẫn phớt lờ việc bổ chức, thăng cấp. Trương Đen tức tối mà không dám nói ra, y quyết định tung các tin giả rồi đòi Xáclăng, Xanhtơ ni mở cuộc phản công kết hợp quân bộ và thủy pháo.
Tháng sau.
Mấy ngày liền tàu thủy nối nhau ngược sông Thao, rồi dừng ở khu vực các đồn, các làng có quân binh, dân binh Tiên Sơn đồn trú mà bắn pháo. Có quả thủy pháo tầm xa nổ đến tận ngòi Dành, nổ tận Minh Côi, giáp với Tiên Động.
Thấy hiện tượng khiêu khích không như trước đó, lãnh Hoan, phó đề Doãn gặp phó Tướng công Bố chánh xin ra lệnh án ngữ. Quân Tiên Sơn chưa kịp triển khai thì thủy pháo cấp tập bắn. Võ tướng Lãnh Hoan cho kéo hai khẩu thần công xuống bờ ngòi Dành phục sẵn đề phòng tầu địch vào bến đổ quân. Rồi cho quân binh liên lạc đến ngay các làng cửa tiền sông Thao cho đôn đốc các đội dân phòng cảnh giác sẵn sàng đánh giặc.
Mưu kế Trương Đen thật hiểm độc, sau hàng loạt thủy pháo vào Mỹ Lương, Minh Côi. Quân Pháp bất ngờ đổ quân bộ vào làng Hoàng Lương. Đội Bớt, chỉ huy dân phòng Hoàng Lương kháng cự không nổi cho dân binh rút sang ngòi Dành. Quân Pháp đuổi theo. Khố đỏ, khố xanh hò hét, đạn nổ chát chúa. Thấy quân địch ào ào, Đội Bớt liều chết ra lệnh tổng phản công đánh gập trở lại. Đứng trên đồi, Ma Văn Vân đồn phó đồn Cửa bộ phán đoán quân giặc đã tiến sát ngòi Dành liền cho liên lạc chạy báo đến lãnh Hoan. Võ tướng Hoan điềm tĩnh mà dứt khoát.
– Xuống nói với lãnh Vân cho cảm tử dồn giữ chân quân giặc đúng ngã ba cửa ngòi càng nhiều càng tốt. Rồi nổ liền ba viên xít ten, cảm tử nhảy xuống vực ngòi để sơn pháo khai hỏa.
Liên lạc chạy đi.
Lãnh Vân y lệnh, vác khẩu xít ten mà nghĩa quân thu được trong trận cửa bộ lao xuống ngòi Dành.
– Đội Bớt, Đội Bớt. Cho dân binh lui vào trong, cử mấy người cùng anh và tôi cảm tử cản giặc.
Không đợi đội trưởng cắt đặt hai dân binh Nguyễn Văn Đồng và Nguyễn Văn Đạo cầm giáo, vung gươm bước sang đứng bên đội trưởng. Lãnh Vân ra lệnh.
– Chỉ bốn, chỉ bốn người thôi. Khi tôi nổ liên thanh ba phát súng, tất cả phải nhảy xuống vực Dành để ta bắn pháo.
– Rõ.
Trên đồi, Khê Ông Nguyễn Hội cùng võ tướng Nguyễn Quang Hoan đang làm lễ tế linh, cầu Thổ công Thổ địa Thổ kỳ Tiên Sơn và linh thần Thần công phù hộ lần đầu khai pháo sau trận Hưng Hóa. Ba khẩu thần công ém mình dưới lá cây, bộ nòng chĩa thẳng xuống ngã ba Dành. Nghĩa binh chuyên pháo đã sẵn sàng đốt lửa đuôi nòng.
Tiếng la hét mỗi lúc một gần: – Bắt sống, bắt sống bọn thổ dân…! Bỗng ba phát nổ liên hoàn, đúng là tiếng nổ của súng xít ten. Lãnh Hoan hét:
– Đốt lửa. Bắn!
Lập tức ba khẩu súng thần rung lên. Uỳnh. Uỳnh. Uỳnh…
Phía dưới chân đồi đúng ngã ba ngòi dành, tiếng khóc thét, tiếng kêu la: – Sơn pháo, sơn pháo quân Tiên Sơn, chạy đi, chạy đi! Vang trời.
Ba khẩu thần công vẫn nổ từng phát, từng phát cho đến lúc quan sát chạy đến báo: “- Quân giặc chết như rạ, chúng kéo nhau đã tháo chạy ra bờ sông”, Võ tướng mới ra lệnh tháo rời sơn pháo giấu vào rừng.
Trận ngòi Dành giáp lá cà, lính khố đỏ khố xanh chết la liệt. Trung úy Đooc ka và nhóm lê dương trúng đạn pháo thần công đúng lúc quay đầu tháo chạy. Lãnh Cát, đội Bớt cùng một nghĩa binh chém tới tấp vào lũ giặc. Bị chúng quây bắt, đội Bớt trúng đạn địch, ngã xuống ngay trên đất làng. Lãnh Hoan, Khê Ông Nguyễn Hội, Lãnh Vân, cúi đầu thương tiếc các dân binh hy sinh anh dũng trong trận Hoàng Lương – Ngòi Dành.
– Thưa Hiệp thống Quân vụ…
Nguyễn Quang Bích đang thư thả phe phẩy cánh quạt tay được làm bằng tầu cọ đồi gò thì nghe tiếng chánh Sơn phòng, nhưng thoáng trong đầu Ngài đã hình thành một bài thơ ca ngợi Đức Vua Hàm Nghi, kiên quyết rời bỏ chốn Vương phủ mà theo bề tôi lặn lội rừng già  lập Sơn phòng mưu việc cứu nước. Chút lãng mạn hiếm hoi của Ngư Phong Tướng công bị ngắt quãng.
– Thưa Hiệp thống. Có sứ thần từ Quảng Trị ra, xin được trình diện.
– Phó Đề đốc mời hai phó Tướng công và Khê Ông Nguyễn Hội cùng diện kiến.
– Thưa vâng!
Hiệp thống bước vào tư phòng, Cận vệ hành dinh nhanh chóng sắp bộ Triều phục. Bộ tướng đã có mặt.
Sứ thần bước tới:
– Thưa Đại thần Hiệp thống. Sứ thần vâng lệnh Đại thần Phụ Chính chuyển đến Hiệp thống chỉ dụ của Đức Vua, cắt cử Phụ chính và Hiệp thống cùng mấy Triều thần thân chinh gặp lại Tổng đốc Vân Nam cầu viện. Ngày giờ lên đường được ấn định là…! Nơi nhập đoàn cũng được ấn định là…! Ấn chỉ Ngài Hiệp thống gấp rút lo liệu.
Sứ thần cúi mình trao thư của Phụ chính. Bộ tướng nhẹ nhàng đáp lễ.
Từ hôm cùng tướng quân Đề Kiều và võ tướng lãnh Hoan đi thị sát các làng ven khu cứ và các đồn mặt tiền chiến khu. Thủ lĩnh Tướng công có phần yên tâm. Trước mắt tìm cách yên tĩnh để củng cố quân lực và hậu cần, cũng là chờ viện binh từ Vân Nam. Thủ lĩnh luôn ngóng trông tin tức từ Sầm Dục Anh và Chiếu chỉ từ Đức Vương minh. Giờ đây mật thư của Phụ chính gửi đến, đủ thấy trọng trách mình chưa thành làm phiền lòng Minh Vương Hàm Nghi khiến Ngài lại phải yêu cầu đích thân Tôn Thất Phụ chính và Hiệp thống Lễ bộ Thượng thư xuất bôn, đủ thấy vận mệnh Quốc gia nghiêm trọng đến mức nào.
Ba ngày sau nhận chỉ lệnh Hiệp thống Thủ lĩnh triệu tập bộ tướng.
– Ta lên đường, ngày tháng nhanh chóng đều không thể định. Ta trao quyền cho Bộ tướng mà người đứng đầu là Tham tán Hiệp đốc Bắc kỳ Quân vụ, Bố chánh phó Tướng công Nguyễn Văn Giáp. Người Pháp cố tình, binh thuật đã có, tướng sỹ phụ tử, dân làng đồng lòng, ta yên tâm đi sứ hẹn sớm trở về Tiên Sơn.
Lời quan Hiệp thống nhẹ nhàng, sâu sắc, đầy đủ. Các tướng có mặt đồng thanh đáp lễ. Bố chánh Nguyễn Văn Giáp đưa hai tay nhận bản triện từ Thủ lĩnh.
Hôm sau. Giờ mão. Hiệp thống Nguyễn Quang Bích, Khê Ông Nguyễn Hội được vệ sỹ võ tướng lãnh Hoan tháp tùng rời Tiên Động sang Tuyên Quang, đợi đón Phụ chính Đại thần Tôn Thất Thuyết và các văn thân Trần Xuân Soạn, Chu Thiết Nhai nhập đoàn, xuất dương ngoại giao. Dạo ấy là tháng Năm, năm Bính Tuất.
Hiệp đốc phó Tướng công Bố chánh cho mời Bộ tướng đến hành dinh.
– Các tướng quân. Hiệp thống Quân vụ vừa rời đất Phú Thọ đi sứ thì quân Pháp đã đồng loạt pháo kích càng làng ven rồi đổ quân bộ đánh vào Hoàng Lương. Nhờ các tướng mà ta chặn được giặc ở ngòi Dành.
Bố Giáp chậm rãi, ngẩng nhìn bộ tướng. Rồi bất chợt đặt câu hỏi.
– Liệu có kẻ do thám nào biết việc Hiệp thống ta tạm dời hành dinh Sơn phòng hay không? Các ngài cùng phán đoán?
Vương Văn Doãn đứng lên:
– Thưa phó Tướng công Bố chánh. Theo nội gián lãnh Hằng thì việc quân Pháp bất ngờ đánh vào các làng là chỉ để thăm dò quân ta. Lãnh Hằng chưa nắm được kế hoạch này nhưng cho biết thành phủ đã lập nhóm thám báo lấy tên là “Chuột rừng”, chuyên điều tra tin tức Tiên Sơn. Nhóm này hoạt động lẻ, hai ba người, xen lẫn vào dân làng nên rất khó phát hiện chúng.
– Ai có kế gì? Bố chánh hỏi.
Đốc binh Nguyễn Đình Ngữ:
– Tôi sẽ yêu cầu các đội trưởng dân phòng, dân binh lưu ý phát hiện kẻ trà trộn, phát hiện cả người lung lạc đem tin tức đi Cửa bộ.
Chánh Sơn phòng Vương Văn Doãn.
– Khu vực đại bản doanh vẫn được bảo vệ chặt chẽ. Tin tức cho biết bọn “Chuột rừng” đang tìm cách mua chuộc quân binh, các tướng quân phải chú ý cả quân mình.
Đề đốc Hoàng Đình Cương đồng tình.
– “Chuột rừng” nhiều mưu mẹo, ta tìm cách diệt được chỉ huy chúng, tất nó hoang mang mà chùn tay.
Phó tướng công Bố chánh:
– Đối phó với đại quân cũng khó, nhưng còn dựa vào rừng núi, dân binh. Đối phó với thám báo, với kẻ bị mua chuộc, hoang mang, lung lạc mà có ý phản tặc, thật khó. Triều Trần, Triều Lê chả lắm bọn rắn rết này thao túng cả cơ đồ đấy sao? Yêu cầu các tướng quân giám sát quan binh, quân binh thuộc đạo mình sao cho chặt chẽ.
Các tướng rời hành dinh. Đề đốc Kiều nán lại.
– Ngài Bố chánh. Hiệp thống ta đang lo việc đại sự, vả lại, Ngài có thể chưa lường hết mưu mô người Pháp. Phận ta giúp Ngài giúp Vua giữ Nước, nghĩ đường rộng hơn được không?
– Đề đốc, ý ngài là ta mở rộng hơn nữa chiến khu, phòng khi tự lập? Nguyễn Văn Giáp nhìn Đề Kiều một cách thân tình như dò hỏi.
– Vâng, đúng. Ý này nhiều lần tháp tùng Thủ lĩnh kinh lý, nghĩ vậy mà tôi chưa dám thổ lộ. Nay nhờ rướng quân…
Hoàng Văn Thúy khẽ lặng mình. Dù sát cánh bên nhau tại chiến khu đã hơn một năm nay, nhưng hiếm khi có dịp trò chuyện chung riêng với Phó tướng công Bố chánh. So về tuổi tác, Bố chánh hơn Đề Kiều một giáp. So về hàm phẩm, Bố chánh là Tòng nhị phẩm, sát dưới Chánh nhị phẩm của Hiệp thống. Đề Kiều đang là Chánh tam phẩm dưới ngài một bậc. Bố chánh văn võ song toàn, từng làm Tuần phủ, cùng quân Cờ Đen đánh nhiều trận lớn với quân Pháp. Đề đốc Hoàng Văn Thúy lại từ một chánh tổng, về với cụ Hoàng Tuần Phủ. Hưng Hóa thất thủ Đề đốc cùng lãnh Hoan vực Ngài lên ngữa chạy về Tứ Mỹ rồi lên Tiên Động lập Chiến khu.
Không dám so đo với một tướng quân toàn tài, kiên quyết đánh Pháp như Tòng nhị phẩm, nhưng bảo vệ chính kiến của mình trước Thủ lĩnh về vùng đất chiến khu thì Đề đốc lợi thế hơn. Mặc dầu vậy, Đề đốc cần có tiếng nói của Bố chánh, tấu trình quan Đại thần Hiệp thống càng sớm càng tốt. Nghĩ vậy, Đề Kiều lên tiếng.
– Nay nhờ tướng quân xin với Hiệp thống cho mở rộng vùng đất khởi nghĩa này ra toàn miền Tây Bắc, mà lâu dài, bản doanh ta cũng phải rời ngược lên đó. Thủ lĩnh đã căn dặn, dựa vào rừng núi, dựa vào dân bản, thì đấy là lợi thế nhất cho ta, thế thua thiệt cho người Pháp.
Bố chánh nhấc chén trà xanh mời bạn hữu, thong thả nói.
– Tướng quân. Ngài quả là người nhìn xa trông rộng, Bố chánh tôi đồng tình với tướng quân. Hiệp thống Thủ lĩnh dù chưa về, chúng ta vẫn cho người đi tìm địa hạt sao cho đạt ý địa lợi nhân hòa. Việc trọng này, tướng quân nên nhắm vào ai?
– Tòng nhị phẩm. Tôi nghĩ là Hoàng Đình Cương, người mà đích thân Hiệp thống thăng chức Đề đốc sau trận thắng Cố Tiết – Gia Dụ. Đề Kiều đáp.
– Liệu đề Cương có am hiểu vùng đất Tây Bắc? Bố chánh đắn đo.
– Một người như tướng quân Hoàng Đình Cương, Thủ lĩnh đã tin tưởng, há ta phải băn khoăn?
– Cảm ơn Đề đốc Chánh tam phẩm.
Hai vị tướng quân đứng dậy. Bố chánh tiễn Đề đốc ra tận sân hành dinh.
Ba ngày sau, Đề đốc Hoàng Đình Cương, Tán Áo Hà Công Cấn, và lãnh Liêng, được Hiệp đốc phó Tướng công Nguyễn Văn Giáp mời đến giao nhiệm vụ đặc biệt:
– Ba tướng quân mang theo mình sứ mệnh tìm Sơn phòng Hành dinh Triều chiến Bắc Kỳ là việc trọng, ta nghĩ quan Đại thần Hiệp thống Quân vụ sẽ hài lòng mà chấp thuận. Lại nữa, kháng chiến Cần Vương lấy thu phục nhân tâm trong đó có người bản địa rẻo cao là việc cần, các ngài luôn nhớ.
Hai tướng đáp lễ.
Hà Công Cấn, người làng Áo Lộc, bố vợ của Đề đốc Hoàng Văn Thúy, có công với khởi nghiệp căn cứ Tiên Động, được Thủ lĩnh Tướng công Hiệp thống phong chức Tán tương Quân vụ, dân làng yêu quý nên thân mật gọi ghép chức với tên quê mà nên Tán Áo. Đề đốc không tỏ ra ái ngại trước việc bố vợ được Tham tán Hiệp đốc Bố chánh cử đi Tây Bắc, nhưng là đạo con, Hoàng Văn Thúy quay lại Tán tương.
– Thầy đi cùng tướng quân Đề đốc Hoàng Đình Cương, và chú lãnh Liêng, dù đường xa, mưa rừng, dốc núi, con vẫn thấy yên lòng. Thầy và tướng quân giữ gìn sức khỏe, sớm trở về.
Nói đoạn Đề Kiều gọi vệ sỹ hậu cần dắt đến hai con ngựa nâu và mấy nghĩa binh hầu cận.
Tán tương Hà Công Cấn khoát tay:
– Tướng quân Đề đốc Hoàng Đình và ta còn khỏe, đi được. Khi nào mệt mỏi nghĩa binh sẽ vào làng nhờ ngựa dân bản chả khó khăn gì.
Đề đốc Cương thấy nhạc phụ đề Kiều nói vậy, cũng cười cười mà rằng.
– Xin hai ngài phó Tướng công yên tâm, nhạc phụ và tôi sẽ làm vừa lòng Quan Hiệp thống Đại thần.
Nói dứt, hai tướng cúi chào rồi cùng tùy tùng rời hành dinh Sơn phòng Tiên Động, men theo bờ sông Thao lên Âu Cơ. Từ đây đoàn khảo sát bản doanh Tây Bắc sẽ ngược ngòi Lao, lên Ba Khe, đi vào Mường Lò, rồi từ Nghĩa Lộ sẽ theo đường Thu Cúc, về đất Thanh Sơn, nơi chiến khu Khả Cửu của Đề đốc Nguyễn Đình Ngữ.
Không đánh chiếm được Hoàng Lương, lại bị trận pháo thần công bắn đúng đội hình tại ngã ba ngòi Dành khiến chỉ huy người Pháp và đám lê dương, khố đỏ, khố xanh chết la liệt. Đưa nhanh chân chạy thục mạng ra đến sông Thao. Xác lăng, Trương Đen, Xanhtơni, Víchke, chụm đầu tìm mưu kế mới. Trung úy mật thám nhanh nhảu:
– Ta tổn thất vì súng thần công, lại vào lúc đường đất khô ráo, quân “Cỏ” không bị bất ngờ (!)
Víchke:
– Phải làm thế nào để bọn “cỏ” không kịp trở tay ngài trung úy Đen?
– Kế đó, tôi nêu rồi, “ngày nước nổi” (!), ngài Xanhtơni và ngài Xáclăng hãy nghe tôi, nghe tôi! Trương Đen nói giọng như trách móc, lại như cam đoan.
Xanhtơni thấy nóng mắt nhưng vẫn đấu dịu.
– Được rồi. Các ông không bàn thêm nữa. Ngài Cai Đen cho “Chuột rừng” nắm bắt tình hình quân “cỏ”, về báo cho chánh thành phủ. Trận này, tôi đích thân chỉ huy, Sa Nô quyết đào đất đá, lập đồn giữa bản doanh Sơn Động.
Nhóm chỉ huy Pháp nặng nề đứng dậy.
Việc do thám Tiên Động, Trương Đen giao cho Lê Phú bạnh đội phó. Còn “ngày nước nổi”, nghĩa là lũ sông Thao dâng, các đầm nước vào Tiên Động sẽ đầy, quân binh trên núi dễ chủ quan, dân phòng thì không ra khỏi nhà. Chỉ cần bắc vài ba bộ cầu gỗ vượt đầm là cả tiểu đoàn có thể tập kích đồn quân Tiên Sơn.
Mưu mô của Trương Đen bày đặt đúng cơ hội.
– Thưa ngài Víchke. Lê Phú bạnh hào hứng. Thám sát chúng tôi đi về biết chắc chắn chủ tướng Tiên Sơn là Nguyễn Quang Bích đã đi Vân Nam cầu viện. Ở nhà chỉ còn mấy tướng quèn, đang tranh giành quyền hành lẫn nhau.
Thiếu ta Víchke nghe nhóm “Chuột rừng” cam đoan tin tức, mừng ra mặt, liền xin lệnh chuẩn bị gấp chờ ngày mưa lớn là hành động ngay. Chánh thành phủ, trung tá Xáclăng đích thân duyệt kế hoạch giao chiến. Xanhtơni ranh mãnh hơn, đòi Lê Phú Bạnh phải đưa nghĩa binh Tiên Động, người vừa bị nhóm “Chuột rừng” bắt cóc lên tra hỏi.
– Thủ lĩnh Nguyễn Quang Bích của các ông đi Vân Nam bao giờ về?
– Chắc là còn lâu. Nghĩa binh trả lời.
– Bây giờ những ai chỉ huy trên Tiên Sơn?
– Bố chánh Nguyễn Văn Giáp và Đề đốc Hoàng Văn Thúy còn gọi là Đề Kiều. Họ đang tranh cãi nhau để nắm quyền.
– Ngoài các đồn….; còn đâu nữa?
– Chỉ có các trạm dân binh, dân phòng vây quanh Tiên Động.
– Ông dẫn đường cho quân thành phủ vào tận bản doanh của bọn nổi loạn Giáp, Thúy được chứ?
– Được. Nhưng…
– Nhưng tính mạng ông chứ gì? Đây! Ngài Lê Phú bạnh nói cho ông ta yên tâm. Nào…
Cuộc tra hỏi kết thúc. Nội dung không khác xa những gì mà nhóm “Chuột rừng” đã tra khảo dọc đường. Lưu Phòng, một vệ binh Tiên Động, trên đường đi thăm người nhà bị nhóm Lê Phú bạnh bắt cóc, đã nhận dẫn đường cho quân Pháp đánh vào Tiên Động. Bây giờ thì Phòng đang ngồi trước một tờ sơ đồ do Phú bạnh vẽ, Phòng chỉnh sửa lại cho đúng. Cả đám chủ huy: Xanhtơni, Víchke, Trương Đen chụm đầu xuống tờ sơ đồ quan trọng
– Đường này, đường này nhanh hơn!
– Nếu bắc cầu vượt đầm nước, thì đầm này, và đầm này…
– Đại bản doanh Tiên Động. Đây, đây!
Cứ thế Lưu Phòng chỉ ngón tay xuống bản sơ đồ, nói một cách hào hứng.
– Tốt lắm. Được rồi. Tốt lắm! Sau trận vây bắt Tiên Động ngài Phòng sẽ được trả công thật xứng đáng. Quan ba Xáclăng nói tiếng Việt lơ lớ, lơ lớ. Rồi cười to.
Lưu Phòng được giam giữ cách biệt, anh ta hối hận với các ân nhân Tiên Động và nhất là Thủ lĩnh Tướng công, chỉ vì thói dựng chuyện, bịa đặt ra chuyện nội bộ mà bị chánh Sơn phòng Vương Văn Doãn sa thải ra khỏi đội cận vệ hành dinh, xuống làm quân lương. Bất mãn, anh ta bỏ việc về quê thì bị nhóm thám báo “Chuột rừng” bắt cóc.
– Này anh bạn gác ơi, tôi cũng từng là lính gác đây.
Nghe gọi, người lính khố xanh quản mấy buồng giam quay lại
Lưu Phòng thủ thỉ, nói như khoe:
– Bạn ở quân nào, lần này có được lên đánh Tiên Động không? Tôi dẫn đường đấy!
Nhờ khéo miệng, chỉ mấy phút, người khố xanh gác buồng đã mở cửa cho Lưu Phòng ra sân. Nhưng Phòng không có ý trốn trại mà chỉ muốn tự do hơn, thoải mái hơn trong cái phòng chật hẹp kia, chờ ngày đưa đường lấy thưởng.
Biết được kế hoạch thành phủ sắp điều quân đi đánh Tiên Động, nghĩ mấy trận trước, quân khố xanh người Việt phải lên trước đỡ đạn cho lê dương, khố đỏ mà ngán ngẩm, người lính khố xanh rỉ tai mấy bạn lính thân nhất, liệu tìm cách mà cáo ốm được lần nào hay lần ấy. Tin đến tai lãnh Hằng cựu nghĩa binh Hưng Hóa giải ngũ, giờ “nằm” lại thành nội gián. Lãnh Hằng cho người đưa tin mật đến Đốc Xù, từ Đốc Xù – liên lạc của Lãnh Hoan, tin tức đến Bố chánh Nguyễn Văn Giáp. Một lưới chống càn được bày trận.
Đã bẩy tám ngày không thấy động tĩnh gì, mà lãnh Hằng cũng không có tin gì thêm. Những ngày cuối cùng của tháng mười Bính Tuất, trời mưa trái mùa như đổ nước. Cả vùng đầm Tiên Động nước ngập như đảo đến người dân cũng không ra vào được. Quân Pháp do Xanhtơni đích thân chỉ huy, Víchke, Trương Đen được giao đưa một tiểu đoàn tinh nhuệ đánh chiếm và lập đồn tại Gò Mai sau khi trung úy Bécgăng và Lê Phú bạnh được Lưu Phòng dẫn đường bí mật bắc cầu gỗ từ Hang Hùm sang Hàm Rồng đánh chọc sườn Tiên Động.
Trời mưa lớn, Trạm quan sát của đồn Cửa sông phát hiện có một bè gỗ to và thẳng của dân buôn, được tầu thủy thành phủ kéo ngược sông Thao. Sau bè gỗ là hai ba tầu tuần tiễu.
– Tại sao (?). Sao bè gỗ lại chạy ngược sông, mà tầu Pháp kéo hẳn hoi? Một lính trạm thắc mắc.
– Chúng đi tuần tra, bắt của dân buôn đấy thôi. Thôi kệ! Lính trạm thứ hai giải thích.
Nghi ngờ và tự giải thích, nhưng hai quân binh canh gác vẫn báo về đồn. Đồn phó Đào Văn Toát báo về phó Đề đốc Vương Văn Doãn. Doãn ra lệnh cho các đồn Cửa tiền, Cửa bộ, Cửa sông, và các đội dân phòng đề phòng quân Pháp tập kích. Mặt khác Bùi Quang Tiến lập nhóm quân binh giỏi sông nước bí mật tập kích tầu thủy giặc ngay khi quân bộ của bọn Pháp đánh vào Tiên Động.
Bùi Quang Tiến và Phạm Văn Luật đều là hai hàng binh đồn Cửa tiền của Pháp ở thành phủ, khi quân nghĩa binh đốt trại vì cảm phục lãnh Vân và nàng Mỹ Cẩm mà Tiến và Luật bơi vượt sông lên Hạ Hòa rồi tìm về Tiên Động. Biết chuyện Thủ lĩnh Nguyễn Quang Bích và thân phụ Mỹ Cẩm là Nguyễn Văn Lò, nhận Bùi Quang Tiến làm “con trong nhà”. Quang Tiến luôn được ở bên Mỹ Cẩm, “cặp” quân binh nam thanh nữ tú duy nhất ở căn cứ kháng chiến Cần Vương Tiên Sơn. Nắm tay người vợ chưa cưới, nhìn nàng trong ánh mắt dịu dàng đằm thắm, Bùi Quang Tiến quay mặt rồi cùng nhóm chiến binh thủy tử gấp gáp chuẩn bị những túi rơm khô tẩm đẫm dầu hỏa theo ngòi Dành ra cửa sông mai phục tầu giặc.
Hai ngày mưa rào.
Ngày thứ ba, vào lúc rạng sáng, nhiều ánh đèn le lói phía mỏm đồi Hang Hùm. Tang tảng sáng mồng một tháng mười một Bính Tuất, Tiểu đoàn khố đỏ, khố xanh của quan tư Béc găng bất ngờ từ Gò Dọc vượt qua làng Minh Côi theo ba mặt cầu gỗ vượt sang Hàm Rồng, từ đây đạo quân bắn phá cấp tập lưng sườn Tiên Động. Dân phòng, dân binh Minh Côi chỉ có giáo mác đâm chém giặc không xuể. Cả làng bị bắn giết thảm hại trong đó có đội Văn, đội Luân. Thấy quân giặc bất ngờ chiếm được Hang Hùm và Hàm Rồng xung quanh đều là đầm nước ngập, nghĩa binh Nguyễn Du Hè (Lãnh Khóa) cùng quân dân binh của đốc Đông và lãnh Bồi ra sức kim chân giặc chờ ứng cứu. Vừa lúc đó quân đồn Cửa bộ do lãnh Vân chỉ huy từ phía ngoài bơi qua đầm nước vào đánh giáp mặt. Thấy cờ Tây cắm trên đồi Hàm Rồng, Thiếu tá Víchke thúc đại quân đánh bừa vào Gò Mai. Ba phía đã là cờ Pháp: Hàm Rồng, Mỹ Lương, gò Thanh Mai; Bố chánh buộc phải điều đại đội vệ binh Tiên Sơn ứng cứu quyết đánh bật địch khỏi gò Thanh Mai. Cai bộc Đặng Huy Tá cho cả trung đội quân binh giấu dao găm súng đạn trong người rồi viết thư giả hàng. Người đưa thư cởi trần, chỉ cầm theo chiếc khăn trắng, xin được vào gặp chỉ huy Pháp ở Gò Mai. Thấy có một người, quần áo nông dân, gầy gò, trung úy Trương Đen cười ha hả rồi nói tiếng Tây với thiếu tá Víchke.
– Quân ta đã chiếm được Gò Mai. Cờ Pháp đã tung bay. Há gì phải sợ? Cứ cho tướng quân nó vào nộp vũ khí rồi lột hết quần áo, đuổi về quê.
Víchke cười khùng khục.
– Tôi khen trung úy, ngài thật cao kiến và nhân ái!
Nghe tiếng súng chát chúa trên gò Hàm Rồng, rồi ba lá cờ Pháp nhô lên giữa các lùm cây, thủy binh Bùi Quang Tiến ra lệnh cho nhóm chiến binh đánh thủy ôm từng bao ni lông rơm đã tẩm dầu hỏa, nhanh chóng tiếp cận hai chiếc tầu Pháp đậu sát bờ sông Thao, nòng pháo chĩa lên Tiên Động như sẵn sàng nhả đạn. Những chiến binh sông nước của nghĩa binh bơi gọn như con rái cá, chỉ mấy phút rời bờ đã bám vào được thành tầu. Tiếng quân lê dương Âu phi trên tầu xì xồ nói như cãi nhau. Bùi Quang Tiến bám được vào chiếc tầu có lá cờ Pháp, đoán đây là tầu chỉ huy nên ra hiệu cho thủy binh hết sức chú ý bọn lính gác chờ cho Luật hành động trước. Trời lờ mờ sáng, Tiến nhìn rõ Luật đã đưa túi rơm lên boong tầu mà sao chưa phát hỏa? Kia rồi, dây bùi nhùi đã bốc cháy. Tiến và Thủy cùng leo lên thành, ép sát người, đưa được hai ổ rơm lên boong. Hai tên lính khố xanh ngồi canh mà không hay biết. Bùi Quang Tiến và Đỗ Thủy dùng võ chân đạp mạnh cả hai tên khố xanh rơi xuống sông. Tiến bật lửa châm thẳng vào ổ rơm. Rơm đẫm dầu hỏa bùng cháy giữa đầu buồng máy. Cả hai nhảy tùm xuống sông bơi vào bờ.
Khi lãnh Vân và quân binh đồn Cửa bộ bơi qua đầm nước sang được bờ bên thì quân Pháp đã chiếm xong đồi Hàm Rồng. Lãnh binh Ma Văn Vân đấm thình thịch vào ngực mà ra lệnh cho quân lính bơi trở về giữ đồn Cửa bộ. Còn mình và hai quân binh ôm súng bò lên sát miệng đồi nằm phục. Trời sáng rõ mặt người.
– Tướng quân, có tốp lính đi kiểm soát trận địa. Tướng quân cho đánh trả thù.
– Được. Nấp kín. Đánh xong chạy lên đồi.
Ba nòng súng xít ten, mút catông, hỏa mai chĩa vào đám lính, đồng loạt bóp cò. Mấy loạt nổ liên tiếp. Đám lính kêu la. Quân khố đỏ chạy túa ra bắn loạn xạ. Lãnh Vân ra lệnh nổ thêm mấy loạt đạn vào bọn khố đỏ rồi chạy lên mỏm đồi bên cạnh nghe ngóng.
Tiếng vọng từ đồi Hàm Rồng:
– Thưa trung úy Bécgăng, ngài đội phó do thám, thiếu úy Lê Phú bạnh cùng mười mấy quân lính xanh, đỏ, đã bị bắn chết.
Tiếng Bécgăng:
– Thiếu úy có công vẽ sơ đồ Hàm Rồng mà phải sớm thiệt mạng!
Tình thế khiến võ tướng Cai Bộc cực chẳng đã phải dùng mưu mạo hiểm trá hàng để đánh từ trong ra, chờ quân cứu viện từ đồn Hạ Hòa xuống trong thế yếu, cờ Tây đã cắm trên đồi Gò Mai.
Thiếu tá Víchke phó Chánh thành phủ, trung úy mật thám Trương Đen, cả “Chuột rừng” đào tẩu Lưu Phòng có mặt. Một đám lính lê dương, khố đỏ, khố xanh tò mò quây quanh xem mặt mũi đám “giặc cỏ”  thổ dân ra hàng quân Thành phủ.
Một, hai, ba quân binh vào nộp súng. Trương Đen cho đẩy Lưu Phòng ra giữa sân nhận mặt chỉ huy “quân cỏ”. Phòng bước lại, chỉ tay vào Đặng Huy Tá rồi cười.
– Đây, đây là ông Cai Bộc Đặng Huy Tá, chỉ huy vệ binh hành dinh Sơn phòng của tôi. Chào ngài chỉ huy. Không ngờ anh em mình lại trở về một nhà từ hôm nay!
Tất cả nghĩa binh Tiên Sơn ai cũng nhận ra kể đồng ngũ từng bị sa thải. Thì ra hắn đã phản bội Thủ lĩnh Tướng công, chạy theo Tây rồi!
Không kiềm chế nổi. Cai Bộc hét lên.
– Giết, giết quân chó má!
Lập tức mấy chục nghĩa binh Tiên Động trá hàng rút dao găm đâm tới tấp vào đám giặc. Võ tướng Cai Bộc lao thẳng vào Vích ke, một cú đấm như trời giáng vào giữa mặt tên chỉ huy mũi lõ. Rồi một mũi dao từ tay võ tướng thọc thẳng vào sườn nách. Thiếu tá Víchke viên phó Chánh thành phủ, giãy giãy rồi nằm im trên vũng máu. Một nghĩa binh vật nhau với Trương Đen, mọi người nhận ra đó là đội Dương. Đội Dương đánh võ tới tấp, Trương Đen cũng không vừa, hai bên lừa miếng nhau. Thấy vậy một vệ binh quân xô tới, mũi dao găm đâm sượt trúng vào cánh tay trái. Trương Đen bỏ chạy. Các nghĩa binh lùng tìm Lưu Phòng kẻ làm phản, nhưng hắn biết lợi dụng lúc giáp lá cà mà ôm đầu lăn xuống dốc đồi chạy mất. Quân Pháp bị đánh bất ngờ ngay trên bãi “hàng binh” giao nộp, khí giới. Mặt trời sau những ngày mưa, le lói sáng. Đạo binh Pháp đã kịp tổ chức lại, chặn tất cả các ngõ quanh Gò Mai. Cai Bộc thấy không thể chờ quân tiếp viện đành ra lệnh thu súng đạn rút lui. Nghĩa binh  vệ sỹ Tiên Động tản nhanh ra đồi gò dưới làn mưa đạn của lính tây.
Ngoài cửa sông Thao, cột khói đen đặc cuộn lên, làm u ám cả vùng trời Cẩm Khê.
Đúng như dự đoán của Tán Áo. Chỉ  ba mươi phút sau, trung đội khố xanh do trung úy Lê Phú Tài đuổi tới. Đốc binh Tán Áo ra lệnh đánh gập mặt. Hai mươi phút giao chiến, Lê Phú Tài đang hò hét bắt sống “giặc cỏ”, một ngọn giáo lao trúng ngực trái, tên Đội lảo đảo rồi ngã gục. Đám khố xanh chạy tán loạn. Đốc binh Tán áo Hà Công Cấn bị đạn địch găm vào vai. Quân nghĩa sỹ Cần vương được lệnh rút ra đầm Vân Hội, xuôi về Âu Cơ đề phòng Pháp đổ quân tiếp viện…
1/12/2021
Hà Lâm Kỳ
Theo https://vanvn.vn/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Sao em không đợi

Sao em không đợi? Chiếc xe hơi ập đỗ trước cổng. Xe phủ trắng bụi đường. Chứng tỏ chặng đường đi xa xa lắm. Người đàn ông đầu hói, mặt cổ ...