Thứ Năm, 26 tháng 12, 2024

Một số nhận định sai lầm về tác phẩm của Vũ Trọng Phụng và Nam Cao

Một số nhận định sai lầm về tác phẩm
của Vũ Trọng Phụng và Nam Cao

Tôi đã rất đắn đo trước khi viết bài này, đơn giản vì sẽ phải lên tiếng phê bình một người bạn cùng nghề phê bình nghiên cứu mà tôi đã và đang có những liên hệ trao đổi khá mật thiết trong việc tìm tòi tư liệu sách báo nghiên cứu. Tôi muốn nói đến nhà phê bình nghiên cứu văn học Thụy Khuê, hiện cư trú tại Pháp.
Chị Khuê cùng trạc tuổi tôi, nay đã ngoại thất tuần; vậy mà sau nhiều cuốn sách đã công bố, lại vẫn đang tiếp tục thực hiện những đề tài về lịch sử, văn học sử Việt Nam, gần đây nhất là chuyên đề nghiên cứu “Tự Lực văn đoàn, văn học và cách mạng”, đang đăng tải trên một vài trang báo mạng.
Ai đã xem qua các phần của chuyên đề này sẽ thấy một lượng tư liệu lớn được tập hợp vào đây. Thiết nghĩ, chuyên đề này sẽ là tài liệu bổ ích cho những ai muốn tìm hiểu hoạt động của một tổ chức báo chí xuất bản đã từng có đóng góp đáng kể vào sự hình thành diện mạo nền văn học Việt Nam thời hiện đại, nếu các tài liệu sử dụng tại đây được kiểm định kỹ lưỡng, nếu các loại nhận định về các hiện tượng văn học tại đây được đề xuất một cách cẩn trọng, thỏa đáng.
Tôi sẽ chỉ đề cập một phạm vi rất nhỏ, khi thấy tác giả chuyên đề đưa ra những nhận định mà theo tôi là rất sai trái về các nhà văn Vũ Trọng Phụng và Nam Cao. Tôi đã làm trên dưới chục cuốn sách về Vũ Trọng Phụng, nên không thể không lên tiếng!
Đó là ở kỳ đăng thứ 39 của công trình kể trên, khi nhà phê bình Thụy Khuê đề cập đến những nhà văn cộng tác với Tự Lực văn đoàn, như Nguyên Hồng, Trần Tiêu, Bùi Hiển.
Ở trường hợp Nguyên Hồng, nhà nghiên cứu lần lượt điểm những tác phẩm mà Nguyên Hồng đưa in trên báo Ngày nay của Tự Lực Văn đoàn /TLVĐ/, tính từ sau khi nhận giải thưởng của văn đoàn này cho tiểu thuyết đầu tay Bỉ vỏ (1937). Thụy Khuê nhận định:  “Nguyên Hồng là một khám phá độc đáo của Tự Lực văn đoàn. Hiện thực xã hội ở Nguyên Hồng, sâu sắc và có nghệ thuật hơn tất cả những ngòi bút hiện thực khác như Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố, Tô Hoài…” (Ai đã đọc hồi ức “Nhà thơ ở ngõ Nghè” của Nguyên Hồng, sẽ rõ: khám phá này chỉ thuộc Thế Lữ: do hai bà mẹ có họ hàng xa thế nào đó, cậu Hồng mới dám tìm đến khi Thế Lữ từ Hà Nội về Hải Phòng thăm nhà, được Thế Lữ chỉ dẫn và đưa dần vào văn đàn. Các thành viên TLVĐ khác cố nhiên cũng được chút thơm lây!)
Và như để làm sâu thêm nhận định trên, Thụy Khuê đem văn chương trước 1945 của Nguyên Hồng so sánh với văn chương cùng thời ấy của Vũ Trọng Phụng và Nam Cao.
Về Vũ Trọng Phụng, Thụy Khuê nói đã từng đã từng nhìn lầm, từng viết nhiều bài khen, nay đã rút khỏi trang web riêng (thuykhue.free.fr), và nhân đây nhận định lại:
“Vũ Trọng Phụng nổi trội trong hai địa hạt: phóng sự và tiểu thuyết. Về phóng sự, trong chương Ngày Nay phóng sự tôi đã chứng minh: Phóng sự của Tam Lang và Vũ Trọng Phụng, dù viết rất sống động, lôi cuốn, nhưng hoàn toàn tưởng tượng (nói nôm na là bịa), nên không thể có giá trị như phóng sự điều tra thực thụ của Trọng Lang. Kết quả, những phóng sự này, vì tưởng tượng, nên sự tố cáo của nó cũng trở thành vô dụng: không ai tố cáo cái điều mình bịa ra.” (bài đã dẫn, kỳ 39)
Tôi (L.N.Â.) cho rằng nhận định kiểu này là một sai lầm nghiêm trọng về mặt nhận thức lý thuyết chung quanh bản chất các thể loại ký, trong và ngoài văn học, sẽ nói rõ hơn ở phần cuối bài này.
Về tiểu thuyết Số đỏ, Thụy Khuê đưa ra một nhận định nước đôi:
“[Nhưng] tư tưởng của tiểu thuyết Số đỏ là con dao hai lưỡi: Nếu chủ đề của nó chống lại xã hội lai căng thời Pháp thuộc, qua nhân vật chính Xuân tóc đỏ, ma cà bông, nhờ phong trào bình dân hô hào thể thao, may quần áo mốt, mà trở thành vô địch quần vợt và anh hùng dân tộc, thì Số đỏ còn có một phần giá trị. Nhưng Số đỏ cũng đem những chủ trương canh tân của Tự Lực văn đoàn ra làm trò cười, thì lại khác: Vũ Trọng Phụng cổ vũ con đường bảo thủ, chống lại tất cả những hình thức tiến bộ mà văn đoàn này đề ra.” (bài đã dẫn, kỳ 39).
Tôi (L.N.Â.) chỉ nhắc bạn đọc và bạn nghiên cứu nhớ rằng, Số đỏ đăng báo từ tháng 10/1936, in thành sách riêng từ đầu năm 1938; thế nhưng trong thời gian dài, sự đọc-hiểu nó của giới học giả người Việt vẫn còn rất… lơ mơ. Vũ Ngọc Phan (trong Nhà văn hiện đại, Hà Nội, 1942-43) cho rằng khôi hài trong Số đỏ là “lối khôi hài nông nổi, nhạo đời nhưng không căn cứ”; ông chỉ thấy khả dĩ mấy đoạn mà ông xem là “những xen tả chân triệt để”. Phạm Thế Ngũ (trong Việt Nam văn học sử giản ước tân biên, Sài Gòn, 1961-65), cũng nhận xét gần như thế, nhấn mạnh nét “tả chân” ở văn chương Vũ Trọng Phụng, xem thường Số đỏ, chỉ thấy nó là tác phẩm “châm biếm, khôi hài, ngả sang lối khôi hài quá lố của sân khấu hay màn ảnh” mà thôi!
Thế nhưng trong điếu văn đưa tiễn Vũ Trọng Phụng về nơi an nghỉ cuối cùng (tại Hà Nội, ngày 10.9.1939), Lưu Trọng Lư đã bày tỏ nỗi bùi ngùi bi thương lúc đứng trong “một dúm nhà văn buồn bã đi theo quan tài một bạn đồng nghiệp xấu số mà những tác phẩm đã làm vinh dự cho văn học nước nhà”. Còn những nhà văn hoạt động văn học vào loại năng sản hồi những năm 1940s như Vũ Bằng, Nam Cao, lúc tình cờ gặp lại nhau hồi đầu kháng chiến (1948), trong câu chuyện bù khú về đời và văn, lại để lộ cái mơ ước viết được một cái gì ngang với Số đỏ ! Hồi những năm đầu 1990s, Nguyễn Khải cũng có ý tương tự Lưu Trọng Lư, rằng một cuốn như Số đỏ có thể làm vinh dự cho bất cứ nền văn học nào!
Giới học giả người Việt đến những năm 1990s, ví dụ Hoàng Ngọc Hiến, mới bắt đầu nhận ra, tác giả Số đỏ đã tạo ra cả một xã hội hài hước, nhất cử nhất động của bất cứ nhân vật nào đều khôi hài, lố bịch; hoặc Hoàng Thiếu Sơn nhận thấy Số đỏ là tiểu thuyết bợm nghịch (novela picaresco) và theo ông, có một dòng truyện bợm nghịch thế giới ở thế kỷ XIX-XX với với Các di văn của câu lạc bộ Pickwick (1839) của Dickens ở Anh, Những linh hồn chết (1842) của N. Gogol ở Nga, A.Q. chính truyện (1921) của Lỗ Tấn ở Tàu, Số đỏ (1936) của Vũ Trọng Phụng ở Việt Nam! Còn Đỗ Đức Hiểu thì thấy “Số đỏ là cái cười nhại với một tầm cỡ lớn:nhại một xã hội, một phong trào chính trị, một thời đô thị hóa. Nó nhại một trào lưu văn hóa, một trào lưu văn học, một nghệ thuật trừu tượng cực đoan. Nó nhại một ngôn ngữ đang hình thành, hổ lốn, tạp nham, lổn nhổn, khấp khếnh, xiêu vẹo, tạp pí lù”.
Đấy là chỉ kể đôi nhận định của những tên tuổi có uy tín tương đối lớn. Cho nên muốn hạ giá Số đỏ có lẽ chỉ có một cách rất… cùn, là “tôi không thấy hay, tôi không thích”! – Thị hiếu cá nhân là điều cần tôn trọng, nhưng nó vị tất có thể làm suy suyển một ý hướng vinh danh của những tiếng nói tầm cỡ hơn!
  Lập luận như Thụy Khuê rằng “nếu như” Số đỏ châm biếm cái xã hội lai căng thời Pháp thuộc thì tác phẩm “ít nhiều có giá trị”, còn “nếu như” Số đỏ chế giễu TLVĐ thì thế là “bảo thủ”, nghĩa là không giá trị! Chỗ kỳ quặc của lập luận là thái độ đối với TLVĐ lại trở thành thước đo “giá trị/vô giá trị”? Mà có phải Số đỏ chống TLVĐ không? Cửa hiệu “Âu hóa” với các mốt cho phụ nữ tân thời, sân quần vợt cho phụ nữ, v.v. – đó có thể là những biểu trưng văn học của sự chế giễu nhắm vào TLVĐ. Nhưng Vũ Trọng Phụng có chống TLVĐ tận trong nguyên tắc, trong thực chất không? Tôi ngờ rằng chưa chắc! Các nhà Việt học nước ngoài như Christophe Goscha, Peter Zinoman gần đây đã nêu một nhận định: có một số lớn nhà văn, nhà báo Việt Nam thời 1930-1945, trong đó có Vũ Trọng Phụng, hướng về lý tưởng “chủ nghĩa cộng hòa” (républicanisme), tức là hướng về các chuẩn mực “Liberté, Egalité, Fraternité” (tự do, bình đẳng, huynh đệ) của Đại cách mạng Pháp, chứ không tán thành nền quân chủ lập hiến hay chế độ “trực trị”. Các tác gia chủ trì TLVĐ đứng trong hay đứng ngoài cái lý tưởng chính trị républicanisme kia, nếu công việc của họ là “Âu hóa”, đổi mới “theo Tây” tức là vận động xã hội sang hiện đại? Xin đọc cho kỹ! Nếu nhà văn họ Vũ chống lại cái lý tưởng tiến bộ mà TLVĐ cũng mặc nhiên hướng tới, thì không thể thấy nhà văn đặt câu này vào trong trí nghĩ của “cụ cố Hồng” về đứa con du học trở về là ông Văn Minh:
“Ngoài ra cụ lại còn kính thờ con cụ ở chỗ con cụ là một nhà cách mệnh trong vòng pháp luật, vì làm như Văn Minh đương làm, chính là cải cách xã hội một cách tha thiết mà có công hiệu, mà lại không sợ tù tội hay mất đầu như những đảng viên cộng sản hay Việt Nam Quốc dân đảng, những người ngu dại mưu hạnh phúc cho đồng bào mà chẳng làm cho đồng bào được biết cái gì là nhảy đầm, cái gì là y phục tối tân”!  (Số đỏ, VI).
Dòng ngôn từ pha phách giễu nhại đùa cợt làm nhòe đi một tư tưởng chính luận, hay một tư tưởng chính luận bị đưa ra diễn trò? 
So sánh tiểu thuyết Bỉ vỏ với tiểu thuyết Giông tố, nhà phê bình Thụy Khuê cho rằng: “nghệ thuật của Nguyên Hồng cao hơn Vũ Trọng Phụng rất nhiều”!
Cao hơn ra sao? Thụy Khuê cắt nghĩa:
“Sự thăng trầm của Bính, người đàn bà bị hiếp dâm, trở thành con ăn cắp trong Bỉ vỏ, bám chặt tâm ta, bởi vì Bính rất thật, bởi vì Tám Bính sống lại những khổ đau bầm vập của cậu bé Nguyễn Nguyên Hồng từ những ngày thơ ấu.” (bài đã dẫn)
Ta nghe được ở đây một lập luận: tác giả từng trải cuộc sống đau khổ bầm dập nên viết ra được một nhân vật chân thật! Lý lẽ này nghe như ta đang ở giữa thời dân nghèo tố khổ! Lý lẽ này cũng đoan quyết: tiểu sử nhà văn – chứ không phải năng lực, tài năng của anh ta – quyết định sự thành công của xây dựng nhân vật! Người Pháp nghe theo lý lẽ này hẳn sẽ không sao cắt nghĩa nổi vì đâu ông Victor Hugo sang trọng nhường kia lại vẽ ra được một nàng Cosette khổ cực đáng thương đến vậy?
“Còn sự thăng trầm của Thị Mịch, cũng bị hiếp dâm trong Giông tố, khó tin ngay từ đầu”!
Khó tin ra sao? Thụy Khuê viện lý:
“Tại sao Nghị Hách, tối đó, trên đường về nhà, có mười một nàng hầu trẻ đẹp đang chờ, mà lại đi hiếp dâm Thị Mịch, cô gái gánh rạ bên đường? Hách bị bệnh cuồng dâm chăng, nên mới không "nhịn" được? Tại sao bệnh này không thấy tái phát lần nào nữa?”
Tôi (L.N.Â.) dám nói, những người Việt sống trong xã hội Việt, sẽ cảm thấy người phát ngôn mấy câu viện lý trên này hoặc quá ngây thơ, hoặc quá ngây ngô! Là phụ nữ mà hiểu đàn ông Việt thế này, thật quả có hơi nguy hiểm! Ngay xã hội Âu Mỹ thời nay cũng đâu chỉ gồm toàn những đàn ông đứng đắn? Người ta vẫn thấy biết bao chuyện, thực có, hư có, nói về những kiểu đàn ông thị hiếu bệnh hoạn, tìm cách chiếm đoạt, giết hại phụ nữ? Ngược về những năm 1930s thì tôi nhớ, Phan Khôi vào Sài Gòn viết bảo, đã nhận ra: phong hóa Nam Kỳ tốt hơn Bắc Kỳ, ví dụ trong này không hề có thói xấu bóp vú con gái vốn khá phổ biến ở làng xã Bắc Kỳ; thói xấu này, thời tôi lớn lên, tức những năm 1960s vẫn còn nghe nói; mà Nguyễn Huy Thiệp cũng đã đưa hiện tượng xâm hại phụ nữ ở các đám hát vào truyện “Những bài học nông thôn” (1992) đó thôi! Vậy mà nhà phê bình Thụy Khuê vẫn khăng khăng: “Nhân vật Nghị Hách xa rời thực tế, vì Việt Nam không có "loại" người nào như thế”! Và giải thích thêm:
“Miền Bắc [thời ấy] chỉ có một ông tỷ phú Bạch Thái Bưởi, được mọi người kính trọng. Còn các nghị viên chỉ làm bù nhìn, báo Phong hóa, Ngày nay chế giễu suốt, vì họ không có quyền thế gì cả” (?)
Tôi và chị Khuê ra đời muộn chừng 10 – 20 năm so với câu chuyện Giông tố, nếu muốn hiểu ngược về cái xã hội thời xảy ra câu chuyện (giả định) nghị Hách, chắc chắn chỉ có thể là hiểu biết gián tiếp, thông qua sách báo. Tôi nhớ, qua đọc báo cũ, tôi được biết, thời Giông tố ra đời, một nhà báo là ông Tạ Đình Bính bảo rằng chỉ đọc qua chương đầu, ông đã đoan chắc kẻ được đặt cho cái tên hư cấu Tạ Đình Hách ấy là ai! Một nhà báo đương thời thì cảm nhận được như thế (về nguyên mẫu của tiểu thuyết), còn một người sinh sau đó 15 – 20 năm lại cả quyết kiểu người như thế không hề có! Vậy làm sao mà tranh luận được?
Lẽ ra phải tiếp tục so sánh hai cô gái cùng bị cưỡng hiếp, dưới tay bút hai nhà văn, sẽ tiến triển khác biệt nhau ra sao (để thấy Nguyên Hồng giỏi, Vũ Trọng Phụng kém!), thì nhà phê bình Thụy Khuê lại bỏ lửng ở đấy, quay sang nhận xét nhân vật nghị Hách “tính cách ly kỳ quá đáng và hành động đầy sơ hở”, “nhiều chỗ rất hề”, “tác giả dùng quy luật huyết thống (cổ hủ)”, v.v. và nhấn mạnh: tất cả xấu xa chỉ đánh vào đầu nghị Hách, còn các quan cai trị người Pháp thì lại được Vũ Trọng Phụng “thầm kín khen ngợi”.
Cái việc trong Giông tố  có những lời “khen quan công sứ Pháp”, vào những năm 1958-1980 ở miền Bắc đã từng bị chỉ trích nặng nề; nhưng vào những năm 2010s này, khi độc giả Việt được đọc bản dịch hồi ký “Xứ Đông Dương” của cố Tổng thống Pháp, cựu Toàn quyền Đông Dương Paul Doumer (1857-1932), thì đã hơi khó để xúi độc giả tiếp tục chê bôi nhà văn họ Vũ rồi đấy!
Còn trở lại khuôn khổ tiểu thuyết Giông tố thì chỉ có cảnh (chương IV) buổi tối nghị Hách viếng thăm nhà riêng viên Công sứ và nhà riêng viên Tổng đốc rồi trở về trang ấp của mình để chỉ huy bọn tay chân đem “truyền đơn, cờ đỏ” ném vào làng Quỳnh Thôn! Trong tiến triển của truyện, đấy là việc nhà điền chủ vừa lấy lòng kẻ quyền thế lại vừa tiếp tục mưu hại các nạn nhân. Mấy viên quan kia, trong đó viên Công sứ được mô tả tại tư gia trong vẻ giản dị đôn hậu; nhưng một điền chủ trong hạt cai trị của ông ta vẫn tác oai tác quái thế kia, cho thấy dụng ý của tác giả là gì? Đây là trong văn tiểu thuyết, đâu phải văn chính luận?
Tiếp theo, Thụy Khuê so sánh Nguyên Hồng với Nam Cao. Tác phẩm mà nhà phê bình muốn xô đổ là Chí Phèo, bởi vì “Trong bao nhiêu năm ở Pháp, mỗi lần có bạn văn trong nước sang Paris, tôi đều hỏi chuyện văn chương, sự trả lời hầu như bất biến: Chí Phèo của Nam Cao là đỉnh cao.” (bài đã dẫn)
Thụy Khuê lược lại truyện Chí Phèo rồi nhận định:
“Màn Chí Phèo giết Bá Kiến trên đây là một màn sát nhân vô cố, khác hẳn màn Năm Sài Gòn giết Ba Bay trong Bỉ vỏ của Nguyên Hồng [….]Còn bá Kiến – dù có làm những việc ám muội – đối với Chí Phèo, vẫn là "ân nhân". Không có chi tiết nào chứng tỏ bá Kiến đáng tội chết, và cũng không có bằng chứng nào cho thấy Chí Phèo bị bóc lột tàn nhẫn.
So sánh với Bỉ vỏ của Nguyện Hồng, riêng việc sát nhân thôi, Chí Phèo cũng không thể bằng Năm Sài Gòn: Năm giết người có lý do, còn Chí Phèo giết người không có lý do. Và làm sao so sánh Chí Phèo với Tám Bính được? Sự khác biệt là như thế: Tám Bính có lòng nhân ái, là nạn nhân của một gia đình độc ác, một xã hội mù loà, rơi vào tay bọn côn đồ, nhưng vẫn luôn luôn muốn ngoi lên để trở về với cuộc đời lương thiện.
Cho nên, nếu coi Chí Phèo là nhân vật tiêu biểu cho những người cùng đinh bị bóc lột là lầm”
Thụy Khuê khuyên người ta phải đọc kỹ, thế nhưng chính nhà phê bình lại đọc rất không kỹ truyện Chí Phèo. Chỉ ở chữ người nhặt được đứa con hoang này mà nhà phê bình viết là “một kẻ thả lươn”, – đã thấy cái lỗi đọc lớt phớt! “Thả lươn” là thả cái gì (thả lươn giống như nông nghiệp đầu thế kỷ XXI chăng?), làm sao cái người đi “thả lươn” ấy lại bắt gặp cái hài nhi bị vứt bên lò gạch hoang? Xin thưa phải là “một anh đi thả ống lươn” “một sớm tinh sương”, như trong truyện viết! Rất gọn, nhưng sai một chữ là đã sai chuyện!
(Ống lươn thường là ống nứa to, một đầu bịt kín, đầu kia hở, lắp hom /hom là thứ nắp đậy một chiều của người nhà quê Việt xưa/ và có mồi giun bên trong; thợ thả ống lươn đem những ống ấy cắm ngập nước gần hết ống ở các sườn bờ ao bờ đầm chiều tối hôm trước, dụ bầy lươn ban đêm đi kiếm ăn sẽ dại dột chui vào, sáng sớm hôm sau người ta đi thu ống bắt lươn đem chợ bán).
Tất nhiên không cần biết nghề thả ống lươn vẫn đọc và hiểu được truyện Chí Phèo !Nhưng bảo rằng không có bằng chứng nào cho thấy Chí Phèo bị bóc lột, không có bằng chứng nào cho thấy Bá Kiến đáng bị Chí Phèo giết hại, thì có lẽ nhà phê bình đã bỏ qua không chịu đọc khá nhiều đoạn truyện. Như sau đoạn Chí ăn vạ trước cổng nhà Bá Kiến lúc mới ra tù về làng, có đến hai chương khá dài, lấy điểm nhìn Bá Kiến để kể về cục diện đẳng cấp của làng Vũ Đại theo cả hai chiều lịch đại và đồng đại: bên cạnh nhóm đông nhất là những người vô danh trong làng, nổi bật lên hai nhóm: nhóm cường hào, vai vế bề trên gồm những Bá Kiến, Lý Cường, Đội Tảo… và nhóm cùng đinh lưu manh hóa gồm những Chí Phèo, Binh Chức, Năm Thọ… Nhóm cường hào cai trị, bòn rút đám đông dân quê, lại cũng cạnh tranh, sát phạt nhau…, chính vì vậy, nhóm cùng đinh lưu manh hóa đã được bọn cường hào sử dụng làm tay chân, công cụ để áp chế dân làng và trừng trị lẫn nhau.
Chí Phèo thuở chưa đi tù là anh canh điền trong nhà Bá Kiến. Hắn có nhà riêng không? Có tài sản riêng không? Chắc chắn không! Sự trả công cho anh canh điền này có tương xứng với công sức anh ta hay không – là chuyện rất mù mờ! Ở nông thôn Việt Nam trước và sau 1945 vẫn có loại hình tá điền sinh sống trong nhà chủ như Chí Phèo; dân Việt gọi đó là “người ở” nói chung. Không phải loại người ở làm việc nhà,  Chí là loại người ở làm việc đồng áng (đôi khi cũng bị sai vặt việc nhà, có vậy mới dính líu vợ bé cụ Lý!). Đó thực chất là vị trí người nông nô xưa kia còn lưu lại ở xã thôn người Việt thời thực dân. Tác giả Nam Cao đã kể rõ chỗ đứng của Chí tại một làng quê Bắc Kỳ thời ấy. Vậy thì còn cần gì phải chứng minh anh ta thuộc giới bị bóc lột? Ai cần biết kỹ xin cứ hỏi giới xã hội học, kinh tế học!
Nhà phê bình Thụy Khuê cũng cố tình bỏ qua những gì đã xảy ra với Chí kể từ lần ăn vạ đầu tiên trở đi. Chí được “cụ Bá” vỗ về, đãi bữa rượu cơm gà, cho đồng bạc “để uống thuốc”. Lần thứ hai, Chí đến, vờ vịt xin “giết người để được đi tù”, được Bá Kiến dùng làm nặc nô sai đi đòi nợ Đội Tảo; may cho Chí, Đội Tảo ốm nặng, bà vợ đem tiền trả! Công trạng đầu tiên ấy của Chí khiến Bá Kiến sai Lý Cường cắm cho Chí năm sào vườn ở bãi sông!
Nhà xã hội học đọc truyện sẽ thấy, trước lúc đi tù, Chí là anh canh điền ở đợ, một thứ nông nô. Lúc ở tù về làng, Chí là người tự do, nhưng không tài sản, không nhà không ruộng. Chả có cách gì hơn, một cách nửa ý thức nửa vô thức, Chí đến gây sự với Bá Kiến, may là “cụ Bá” đấu dịu, rồi cho đất cho nhà! Nhưng ở đời làm gì có thứ cho không? “Ân nhân” Bá Kiến đã biến Chí thành tên nặc nô, đầu gấu tay sai. Thế là từ đấy, “[…] bao nhiêu việc ức hiếp, phá phách, đâm chém, mưu hại, người ta giao cho hắn làm! Những việc ấy chính là cuộc đời của hắn” (trích theo Đôi lứa xứng đôi, 1941, bản tái bản, 2015, tr. 37). “Người ta” là ai nếu không là Bá Kiến? Thời gian từ đấy đến sự cố Chí nổi điên hành hung rồi giết Bá Kiến ước chừng trên dưới chục năm. Trên dưới chục năm ấy, Chí trở thành “con quỷ dữ của làng Vũ Đại để tác quái cho bao nhiêu dân làng”. – Đó, chừng ấy chi tiết, tình tiết, vốn là hết sức hệ trọng trong tầm mắt giới nghiên cứu chuyên nghiệp về thể loại văn học tự sự, khi tiếp cận truyện Chí Phèo, song có vẻ lại không là gì cả, trong cách khảo tả của nhà phê bình Thụy Khuê!
Giới nghiên cứu văn học trong nước nửa thế kỷ nay đều lý giải tấn kịch số phận mà nhà văn Nam Cao đặt vào nhân vật Chí Phèo là từ anh canh điền lơ ngơ, bị tống đi tù, học được ít trò dao búa, về làng, rồi cũng chỉ đến thành tay sai, thành công cụ của đám nhà giàu và giới chức làng xã; con đường lưu manh hóa là không thể tránh. Nhưng Nam Cao còn quan sát và gắng nhìn ra điểm sáng nhân bản sót lại ở người nông dân kia. Do nỗ lực này mới có việc Chí gặp Thị Nở, người hàng xóm mà chỉ đến một lúc nhất định y mới có dịp đụng chạm. Trong cơn say, Chí cưỡng hiếp Thị Nở, nhưng vụ cưỡng bức nửa chừng lại biến thành vụ “thông dâm”, Chí bị cảm nặng, may được Thị Nở đem cho bát cháo hành… Sự việc khiến Chí tỉnh ra, bỗng ước muốn trở lại cuộc đời bình thường: có vợ con nhà cửa, sống hòa thuận với xóm làng. Nhưng bà cô Thị Nở ngăn cản Thị Nở lấy Chí! Chí tuyệt vọng. Y làm một cuộc ăn vạ cuối cùng: giết Bá Kiến.
Nhà phê bình Thụy Khuê tóm tắt sự việc bằng cách xem Bá Kiến chỉ như “ân nhân” của Chí Phèo, bỏ qua hàng loạt sự việc cho thấy vai trò lý trưởng, chánh tổng của Bá Kiến; các cuộc gặp giữa Chí Phèo với Bá Kiến thì được Thụy Khuê sơ đồ hóa thành một ít hành động kiểu phim hoạt hình; nói cho nghiêm cách ra, Thụy Khuê đã cố tình xuyên tạc nội dung truyện Chí Phèo để hạ bệ nó. Khá ngạc nhiên là Thụy Khuê hết sức thấu cảm cảnh ngộ nữ nhân vật Tám Bính của Nguyên Hồng, nhưng lại hoàn toàn không đếm sỉa gì đến nữ nhân vật Thị Nở, một người nữ “xấu ma chê quỷ hờn” nhưng lại là người đàn bà duy nhất đánh thức được nhân tính ở gã lưu manh Chí Phèo! 
***
Bây giờ tôi trở lại điểm bên trên, Thụy Khuê nhận định: văn phóng sự của Vũ Trọng Phụng, Tam Lang đều là tưởng tượng, hư cấu, tức là “bịa”! Chỉ văn phóng sự của Trọng Lang và các cây bút trong TLVĐ mới “thực”!
Tôi có giở lại kỳ 26 chuyên đề về TLVĐ xem Thụy Khuê viết ra sao về mảng văn phóng sự trên tờ Ngày nay. Không lạ là Thụy Khuê quy công sáng tác trong thể phóng sự ở làng văn làng báo Việt cho TLVĐ. Điều này để ngỏ đợi nghe ý kiến các nhà nghiên cứu phê bình! Nhưng điều tôi ngạc nhiên ở đây lại là cách nhìn bao quát sự xuất hiện và phát triển phóng sự ở Việt Nam: Ấy là Thụy Khuê chỉ lược qua các tác phẩm phóng sự cụ thể, trích dẫn ít đoạn, đưa ra ít nhận xét vụn, rồi chuyển sang cái khác! Lối viết của nhà báo, không phải lối nhìn của người nghiên cứu!
Điều hệ trọng nhất Thụy Khuê đưa ra: văn phóng sự của Tam Lang, Vũ Trọng Phụng thì “giả”, còn văn phóng sự của Trọng Lang mới “thật”! Một phán đoán hoàn toàn chủ quan, tùy tiện, vô căn cứ!
Lấy gì để đoan quyết: phóng sự này “giả”, phóng sự kia “thật”?
Bằng sự đọc, đọc kỹ nữa, tác phẩm ấy ư?
Than ôi, trên mặt báo giấy chỉ có diễn ngôn, lấy đâu ra sự thật “sờ mó được” để mà phán xét?
Muốn xét đoán công hiệu, ta phải cùng kẻ điều tra kia đến tận nơi diễn ra sự vụ, nhìn thấy mọi sự mà kẻ ấy nhìn thấy, rồi ta dùng trí nhớ ấy đối chiếu với cái kẻ ấy viết ra, tức sự diễn ngôn, tức tác phẩm của kẻ đã đi điều tra kia!
Liệu có ai, có nhà phê bình nào có thể thực hiện được cách kiểm định duy nhất đảm bảo chính xác ấy không? Không ai cả!
Thế cho nên, hầu như ngay đương thời cũng không nhà phê bình nào đủ “thẩm quyền” phán xét mức độ đúng sai của các sản phẩm điều tra, tức các phóng sự đăng báo! Nếu kẻ phê bình nhận xét chung chung, “vô thưởng vô phạt” thì thôi, kẻ sáng tác chả cần cãi vã mất thì giờ! Nhưng nếu kẻ phê bình bảo diễn ngôn điều tra kia “sai sự thật”, kẻ viết phóng sự sẵn sàng nói mình bị vu cáo, bị gây hại, có thể cự lại ở nhiều mức, thậm chí đưa ra tòa án; đến đó, kẻ phê bình cầm chắc phần thua, nếu chỉ đưa ra kết luận từ cảm tưởng do mình “đọc” tác phẩm trên giấy! Bởi hắn đâu có đi cùng kẻ điều tra kia để có chứng lý trong tay mà đoan quyết?
Vậy mà lịch sử báo chí, lịch sử văn chương chữ Việt những năm 1930-1945 lại hầu như chưa xảy ra vụ việc cãi vã nào như thế! Vì sao? Có thể là hầu hết những phán đoán phê bình đều “chung chung”, hoặc nhận xét điều này điều kia, như Vũ Ngọc Phan, thường chỉ khen phóng sự Trọng Lang, Vũ Trọng Phụng, Tam Lang… là “linh hoạt”, vậy thôi, không hề bàn các phóng sự ấy “thật” hay “giả”! Các nhà phê bình có phạm lỗi né tránh không? Vừa có vừa không! Bởi các phóng sự được bàn đến ở đây là phóng sự văn chương, không phải phóng sự thuần báo chí! Thế nên, dù Trọng Lang đi điều tra rồi về viết “thật” những điều mình thấy, hay Vũ Trọng Phụng hóa trang như một gã “anh chị” để đi vào giới “cơm thầy cơm cô” rồi về viết những trang nửa ký nửa truyện, – thì trước công chúng, cả cái Trọng Lang viết lẫn cái Trọng Phụng viết đó đều là những “sự thật” như nhau! Chỉ có điều, đó không phải những sự thật “xác chỉ”, đúng thật đến tận tên người tên việc, mà là những sự thật “phiếm chỉ”, nói chung về một tình trạng xã hội, tình trạng con người! Những sự đổi họ thay tên, hư cấu thêm bớt sự việc hay tính nết nhân vật, trong thao tác viết mà kẻ đi điều tra kia “thông diễn” lên trang văn, không hề làm tăng hay giảm giá trị phản ánh đời sống hiện thực của tác phẩm!
Lý lẽ vu vơ rằng “không ai tố cáo cái điều mình bịa ra”, ta sẽ ăn nói ra sao, chẳng hạn, với tác giả Những người khốn khổ, người đã tin rằng khi trên đời này còn tồn tại khốn khổ và bất công, thì những cuốn sách như cuốn (hư cấu) này vẫn còn có ích?
Vậy, phán xét phóng sự Vũ Trọng Phụng, Tam Lang là “bịa”, phóng sự Trọng Lang mới “thật”, – là xét đoán vô nghĩa lý, bởi trước mắt ta đó đều là các phóng sự văn chương, đăng trên các tờ báo văn chương, ở đó những “sự thật” được “tố cáo” đều là (hoặc được coi như là) những “sự thật phiếm chỉ”, tố cáo một vài tình trạng xã hội và con người, chứ không nhằm tố cáo đích xác một số con người và sự việc cụ thể nào! Đối với loại phóng sự ký sự văn chương này, có khi viết “quá thật” lại bị bắt lỗi, ví dụ xâm phạm bí mật riêng tư của người ta, có khi bị kiện!
Nhưng đối với tác phẩm thuần báo chí thì khác! Tin tức đưa lên báo phải là sự thật chính xác, sự thật “xác chỉ”. Phóng sự, ký sự thuần báo chí cũng vậy. Tỷ như Phan Khôi năm 1935 làm chủ bút báo Tràng An, viết (và phái phóng viên đi điều tra để viết) về “người đàn bà bị bỏ đỉa vào tai”: một việc có thật ở Huế lúc ấy, người ở Huế đọc báo xong có thể đến xem, nghe, hỏi về trường hợp một phụ nữ lang thang nọ bị một gã đàn ông hư nào đó gạ gẫm không được, bèn gắp đỉa bỏ vào tai, khiến sức khỏe sa sút nghiêm trọng. Đề tài được tờ báo đề cập trở đi trở lại trong thời gian dài, các thông tin của báo tác động đến công chúng và giới chức hữu quan, người đàn bà nọ được đưa vô nhà thương, rồi báo đưa ý kiến giới thầy thuốc, tin tức kết quả chữa trị, rồi báo liên lạc được cả với viên quan nhỏ nào đó ở mạn trong là chồng người đàn bà nọ, đã ruồng bỏ mụ do áp lực của người vợ cả. (xem Phan Khôi: Tác phẩm đăng báo 1935, H.: Tri thức, 2013). Một phóng sự đích thực báo chí như vậy, không thể “bịa” gì thêm nếu không muốn bị công chúng lên án!
Các nhà văn, với tư cách những con người cụ thể, tính tình, suy nghĩ có thể khác nhau, người này thực thà, người kia ranh mãnh… Có bằng chứng cho thấy, lương tri trung thực luôn hiện hữu trong tâm trí Vũ Trọng Phụng, người đàn ông chỉ sống đến 27 tuổi (1912-1939). Đáp lại tòa soạn tờ Chuyện đời (1938) của Phạm Cao Củng: “chúng tôi xin ông kể lại cho độc giả của báo tôi cái kỷ niệm sâu xa nhất, hoặc đau đớn hoặc buồn cười trong đời văn ông”, Vũ Trọng Phụng đã kể về cái việc “bất lương nhất tất cả trong cái đời làm báo của tôi, kể từ bữa nay về xưa”, ấy là chuyện đã đổ vấy cho nhà báo khác cái lỗi của chính mình trước mặt viên Đốc lý Hà Nội, chỉ để được cấp phép vào điều tra nhà Lục-sì! Chuyện “không khảo mà xưng” ấy cho thấy sự trung thực, tinh thần tự phê sòng phẳng của Vũ Trọng Phụng. Ít thấy một tác gia TLVĐ nào có sự tự thú, tự phê rành rõ như thế!
Người ta biết, ngay đương thời những năm 1930s, danh hiệu “ông vua phóng sự đất Bắc”, – có lẽ xuất xứ từ miền Nam, một danh hiệu không đi kèm bất cứ mảnh giấy chứng nhận hay đồng tiền thưởng nào – đã được gắn với tên tuổi Vũ Trọng Phụng chứ không phải Trọng Lang hay bất cứ tác gia phóng sự nào của TLVĐ. Liệu người đương thời hay kẻ hậu thế đã tỏ ra hiểu biết hơn hay ít hiểu biết hơn, đã khoác trúng hay khoác trật một mệnh danh có thể cũng là hão huyền?
Để kết thúc bài viết, xin trở lại tinh thần chung của chuyên đề “Tự Lực văn đoàn, văn học & cách mạng”, tác giả Thụy Khuê định phác vẽ chi tiết hoạt động văn học, báo chí của TLVĐ, nhấn mạnh vị trí hàng đầu của văn đoàn này trong tiến trình văn học hiện đại tiếng Việt nửa đầu thế kỷ XX.
Thiết nghĩ, vai trò ấy là rõ ràng, tuy mỗi nhà nghiên cứu phê bình hay nhà báo cụ thể lại nhìn nhận vai trò ấy theo mỗi cách khác nhau.
Tôi chỉ đề cập đến chừng dăm bảy trang trong chuyên đề có lẽ rất dài của tác giả Thụy Khuê, chủ yếu cũng chỉ để làm rõ những nhận định của Thụy Khuê về văn chương Vũ Trọng Phụng và Nam Cao mà tôi cho là sai lầm cần được làm rõ, không chỉ với tác giả, mà chủ yếu nói với giới đồng nghiệp trẻ tuổi hơn mình.
Thế nhưng có thể các bạn trẻ ấy còn tinh tường hơn tôi! Đôi khi nghe được một vài bạn trong giới ấy nhận xét rằng, dường như do không được đào tạo trong chuyên ngành nghiên cứu văn học, nhà báo Thụy Khuê chỉ thành công ở việc tập hợp tài liệu trên khá nhiều đề tài văn học sử, lịch sử Việt Nam. Còn khi phải bắt tay dựng thành những chuyên đề lớn, thậm chí khi viết thành những bài phê bình nghiên cứu dài, thì lại thường chỉ dùng lối viết của nhà báo, tóm tắt tác phẩm, trích dẫn thật nhiều đoạn văn, nhân thể nhận xét ngang ý này ý kia, có lúc lại như nhảy vô bên trong tác phẩm, cãi vã với nhân vật, có lúc bỏ ngang vấn đề đang bàn! Tóm lại, dường như vẫn sa vào xã hội học dung tục mà không tự biết!
Không biết nhận xét như thế có lý hay vô lý? Xin ghi lại để tiếp tục suy nghĩ!
Hà Nội, 15/9/2021
Lại Nguyên Ân
Theo https://vanvn.vn/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Sao em không đợi

Sao em không đợi? Chiếc xe hơi ập đỗ trước cổng. Xe phủ trắng bụi đường. Chứng tỏ chặng đường đi xa xa lắm. Người đàn ông đầu hói, mặt cổ ...