Thứ Năm, 26 tháng 12, 2024

Seo Sơn - Tiểu thuyết của Vũ Quốc Khanh

Seo Sơn - Tiểu thuyết
của Vũ Quốc Khánh

Nhà văn Vũ Quốc Khánh sinh ngày 15.6.1950 tại Mường Tè, Lai Châu hiện thường trú thị trấn Thanh Sơn, Phú Thọ. Vốn xuất thân từ sinh viên rồi nhập ngũ làm người lính bộ binh, sau khi kết thúc chiến tranh trở về hoàn thành những học trình dang dở trở thành kỹ sư cơ khí, ông làm giảng viên trường Đại học Nông nghiệp I Hà Nội, cán bộ kỹ thuật, Trưởng phòng tới Giám đốc công ty chè rồi Giám đốc Công ty xây dựng.
Dù trên cương vị lãnh đạo công ty nhà nước hay doanh nghiệp tư nhân ông đều khẳng định được cái tôi bản ngã đầy tài năng, bằng những kết quả thực chứng.
Đến với văn chương khi tuổi không còn trẻ, nhưng ngay từ những trang viết đầu tiên: Seo Sơn (tiểu thuyết, NXB Hội Nhà văn2014), ông đã khẳng định riêng một vị thế nhà tiểu thuyết của Chi Hội Nhà văn Việt Nam tại Phú Thọ bằng hàng loạt giải thưởng ở trung ương và địa phương cho những tiểu thuyết liên tiếp được xuất bản.
Vũ Quốc Khánh có ưu thế không mấy nhà văn đương đại nào sánh được, là những nhân vật, dữ liệu tái hiện trong mỗi tác phẩm hầu như nhà văn đã từng giao tiếp và trải nghiệm bằng chính đời sống của bản thân. Mà đôi khi, theo lời nhà văn, đó mới chỉ là “bề nổi của khúc gỗ bồ đề lềnh đềnh trên mặt nước sông Vàng”.
Ông thiên về phản ánh hiện thực theo cách của mình: dung dị, đôi khi hồn nhiên nhưng không kém duyên bởi sự chân tình đầy thuyết phục trên phông nền chằng chéo, rậm rịt những mối quan hệ của các nhân vật cùng các lằn ranh mưu mô đan cài xảo trá, nham hiểm. Cảm giác, Vũ Quốc Khánh hễ cứ ngồi trước bàn phín, múa ngón là có tác phẩm. Đọc văn Vũ Quốc Khánh, chúng ta thấy ngút ngát, ngộn đống chất liệu và rồi bị chính dòng chảy đầy đặn đó cuốn đi. Nội lực và tài năng cân bằng. Cũng như hàng ngày giao tiếp với Vũ Quốc Khánh, người ta luôn thấy một người đàn ông lịch lãm, tế nhị sau trước, khiến đã mến văn lại cảm thêm người.
Vanvn.vn trân trọng trích giới thiệu đến bạn đọc tiểu thuyết Seo Sơn của nhà văn Vũ Quốc Khánh.
16
Trời oi lắm. Vào trong nhà cũng ngột ngạt, ra bóng cây càng ngột ngạt. Không có gió, những cây bạch đàn rũ lá, im phăng phắc. Không có nắng mà không khí cứ như nung, đặc quánh. Búp chè héo queo, những tầu chuối rũ rượi, quằn mình. Đàn trâu đứng im, chúi đầu phì phò thở.
Theo điện của Chủ tịch huyện, cơn bão số năm sẽ quét qua địa phương.
Sớm nay Ban Chủ nhiệm Hợp tác xã Seo Sơn đã triệu tập cuộc họp khẩn, mở rộng đến các đội trưởng để bàn phương án phòng chống mưa bão. Đài phát thanh truyền hình trung ương liên tục thông báo tin bão khẩn cấp. Đây là cơn bão rất mạnh vượt cấp mười ba, đã vào biển Đông, hoàn lưu bão đang cập kè ven biển, còn tâm bão sẽ đổ bộ vào đất liền chỉ nội nhật đêm nay.
Hợp tác xã theo điện của Chủ tịch Huyện yêu cầu các đội trưởng chỉ đạo quyết liệt việc chằng chống nhà cửa, đặc biệt chú trọng đề phòng lũ ống, lũ quét, đề phòng lở đất, nhất là những vùng đất san lấp, làm đường liên bản, liên xã vừa qua.
Bất chấp trời oi bức đến ngạt thở, cuộc họp vẫn được diễn ra khẩn trương. Các đội trưởng sau khi lĩnh hội ý kiến, lập tức nháo nhào lên đường về bản triển khai ngay.
Triệu Văn Lầu phóng xe máy về đến nhà không kịp cả uống nước vội vã vớ chiếc loa mo cau chạy khắp bản chỉ đạo bà con xã viên triển khai ráo riết kế hoạch của Hợp tác xã. Mặc dù trước nay vùng thung lũng Cọ Sơn chẳng mấy khi chịu sự tàn phá của bão, nhưng chỉ thị là mệnh lệnh, chớ có coi thường.
Cẳng mấy chốc trong bản những nếp nhà sàn trông vững chắc, lợp phên lá cọ dầy dặn, hàng dọc, hàng ngang, tựa lưng vào đất rừng Khe Cút, đã được chằng chống thêm. Chuồng trâu, chuồng bò, chuồng lợn, chuồng gà đã được che chắn cẩn thận. Những thân cau cao vút lúc lỉu quả nây tròn, những cây bòng đang mùa trĩu quả, những cây mận cây đào thân già mốc thếch đứng nép ở đầu hồi, cũng đang hồi hộp đón chờ bão đến.
Dưới đồng Cọ Sơn lúa đang thì đứng cái. Những nhánh mạ gầy guộc xanh mềm ngày nào cắm xuống giờ đã xanh đen, thân căng tròn như muốn nứt ra, báo hiệu một vụ sinh nở đầy ngọt ngào để có một mùa vàng óng ả.
Trên rừng Khe Cút cây non mới trồng đầu năm bây giờ đã bén rễ, cây đã cứng cáp, ngọn vươn lên xanh mát mắt. Lầu mong cánh rừng Khe Cút chóng khép tán.
Thực ra nghĩ đến cánh rừng nguyên sinh cũ, Lầu tiếc lắm. Cánh rừng già trước kia thân cây hàng người ôm đối với anh có biết bao kỷ niệm từ thời thơ ấu.
Ngày ấy máy bay Mỹ còn ầm ì quần đảo qua đây, dân bản Cọ Sơn nép dưới bóng rừng tránh giặc. Đã bao nhiêu lần anh cùng người lớn len lỏi theo những lối mòn đi đặt bẫy săn hươu nai, cầy hoẵng. Anh đã nhiều lần được đốt lửa, thui những con nai béo tròn bên mó nước, rồi xả những khúc thịt còn nóng hôi hổi cùng cánh thợ săn trong bản chấm muối ớt mà chỉ mới nhìn đã ứa cả nước chân răng. Rồi những lần lăng xăng theo các chú, các bác đi cắt những tổ ong rừng đầy mật ngọt lúc lỉu trên những cành cây cổ thụ. Cắt xong nằm ngả ngớn trên thảm lá mục ngắm tán rừng, uống mật ong đến say lảo đảo. Cả những buổi cùng các bầm, các ả đi lấy măng nứa, măng giang, ớp nào ớp ấy xếp đầy những măng là măng, cái ỏm, cái luộc cắn đến ngập răng ngọt lừ, lại còn phơi để dành đến tết nấu với thịt gà rừng béo ngậy.
Thế mà bây giờ tất cả chỉ còn quá khứ.
Theo lời Chủ nhiệm Cưởi anh đã biến rừng thành ra vàng, ra tiền đầy ma lực giấu trong chiếc rương kia, thành chiếc xe máy dựng dưới sàn kia, thành váy áo đẹp cho vợ con, thành những nếp nhà sàn xếp gọn ở chái hồi, thành những miếng đất thổ cư hàng mấy trăm mét vuông bám mặt đường, thành những bữa rượu thịt linh đình ngây ngất.
Anh đã xẻ thịt rừng Khe Cút chia cho mọi người, anh được một phần, dân bản Dao Cọ Sơn được một phần, các cán bộ cánh hẩu trong xã, trong Hợp tác xã được một phần, còn lại bao nhiêu phần Chủ nhiệm Cưởi.
Lầu xót xa ân hận, nhưng tất cả đã muộn lắm rồi.
Lòng tham của con người thật đáng sợ. Cánh rừng hàng trăm năm tuổi gắn bó với dân bản cả xã từ người Dao Cọ Sơn, người Mường Đá Vách, người Kinh Thắng Lợi đều ăn nhờ sản vật của rừng, ngủ nhờ gió mát của rừng, sống nhờ đất nước của rừng, chết nhờ quan áo của rừng. Thế mà thấm thoắt chỉ vài năm, vì có những người tham lam phá hoại như anh mà rừng đã đi vào dĩ vãng.
Lắm lúc anh tự dằn vặt mình, biết bao giờ mới trồng lại được rừng như cũ. Lòng anh thầm gọi da diết: Rừng ơi!
Sẩm tối thì bão đến.
Đầu tiên chỉ là những trận gió mát, nhưng chỉ độ nửa giờ sau là những trận cuồng phong dữ dội. Tiếng gió rít như xé vải, giật tung những phên lá cọ chưa được chằng buộc cẩn thận, cuốn lên không trung, rồi ném ra xa vương vãi khắp bản. Gió vặt nghéo cả những cành bòng sai trĩu trái, bẻ gẫy những thân cau buồng nây tròn quả. Chưa bao giờ bão to đến vậy. Cả Cọ Sơn gồng mình trong cơn bão.
Đứng trong nhà cùng vợ và hai con nhỏ nhìn qua khe cửa, Lầu giật mình hoảng hốt. Từ bé đến giờ, ngót bốn mươi năm Lầu chưa từng thấy cảnh đổ nát như thế này. Lầu lo cho bà con dân bản, thầm nghĩ nhà mình ván thưng dầy dặn, mái lợp chắc chắn còn thấy hoang mang, sợ hãi nữa là bà con dân bản nhà chưa chắc chắn bằng nhà mình không biết cơ sự đến thế nào?
Rồi thì mưa đến, mưa xối ào ào trên mái lá, mưa quất ràn rạt vào ván thưng hồi nhà, mưa đổ roàm roạp trên sân. Nước lênh loang chẩy bễ bãi trên những con đường trong bản. Mưa suốt đêm, xối xả không ngớt, nước cứ cuồn cuộn chẩy. Gió đổi chiều và đến gần sáng thì ngớt hẳn, nhưng mưa thì mỗi ngày một to.
Lầu cũng như dân bản Seo Sơn sau một đêm chống chọi với bão, vừa thiu thiu ngủ trong tiếng mưa ầm ầm thì bỗng nghe tiếng ục ục kéo dài như từ trong lòng đất.
Lầu chưa hiểu điều gì xẩy ra, chẳng kịp gọi vợ con lấy một tiếng thì đã thấy như có sức mạnh gì lớn lắm, xô đổ nhà mình. Rồi bùn đất từ đâu ập xuống lấp kín xung quanh, lấp kín cả anh, khiến anh nghẹt thở, không kịp kêu một tiếng nào nữa. Anh bị bịt chặt, mắt mở trừng trừng mà không nhìn thấy gì cả. Thân thể anh trở nên mềm oặt và trôi đi cùng đống bùn nhão nhoét.
Tin suối Khe Măng đổ bùn đất và nhấn chìm nhiều diện tích lúa trên cánh đồng Gò Lau chưa kịp loang đi thì tin dữ một góc bản Seo Sơn bị lũ bùn từ núi Khe Cút vùi lấp làm chết hàng chục người ập đến như dòng thác khiến mọi người trong xã Seo Sơn choáng váng, kinh sợ. Từ trước đến giờ chưa bao giờ Seo Sơn có lũ ống huống chi nói đến lũ bùn như thế này.
Lâm, Bầu và các Phòng ban Huyện ủy, Ủy ban được tin dữ, lập tức có mặt tại Cọ Sơn lo cùng dân bản, xã và hợp tác xã cứu hộ các gia đình bị nạn.
Họ xót xa đứng trước dòng bùn cao hơn nóc nhà nhấn chìm nhà cửa hoa mầu, chôn vùi bao nhiêu sinh mạng những người vô tội mà không thể nào cứu được họ. Mọi người càng xót xa hơn khi ông Nga tóc tai rũ rượi, vật mình vật mẩy gào thét như một người điên:
– Ối con ơi! Ối cháu ơi! Ối dân bản ơi! Trời trừng phạt ta rồi. Bao đời nay rừng che chở ta, giờ ta đang tâm phá rừng, rừng không còn để chở che cho ta nữa!
Tiếng ông Nga khản đặc trong nước mắt rồi lịm đi trong nỗi sợ hãi cùng cực của dân bản Cọ Sơn. Quay đi quay lại người ta không thấy Chủ nhiệm Triệu Văn Cưởi đâu cả.
Các đội sản xuất trong toàn Hợp tác xã ngay lập tức huy động toàn bộ lao động mạnh khỏe tập trung vào công việc hót bùn, tìm thi thể những người dân vô tội bị lũ bùn vùi lấp ở Cọ Sơn. Đội cứu hộ của huyện kèm theo những chiếc máy xúc, máy ủi, ô tô cũng được khẩn trương điều động cấp tập có mặt tại Cọ Sơn.
Tất cả cẩn thận, miệt mài không kể sớm tối, tranh cướp với thời gian, dọn từng xe ô tô bùn đất để tìm cứu người.
Sau hai ngày đêm cật lực, cả một núi bùn đất hàng chục nghìn khối cũng đã được dọn dẹp xong xuôi. Thi thể mười hai người dân trong bản đã được tìm thấy đầy đủ. Dân bản nức nở tắm rửa sạch sẽ cho họ và làm lễ cầu hồn tập thể và an táng họ ở nghĩa trang đặc biệt trên quả đồi đối diện với bản, như để nhắc nhở cả bản luôn nhớ về đau thương tang tóc này.
Bí thư Hà Trí Lâm cùng lãnh đạo huyện, xã và hợp tác xã có mặt đầy đủ lo ma chay, an táng cho những người xấu số và chia buồn tới các thân nhân gia quyến họ.
Khi mười hai người đã được thần cây, thần rừng đón về lòng đất, mồ yên mả đẹp, mọi người mới có dịp nhìn lại hậu quả tang thương có một không hai ở Cọ Sơn. Dòng thác ngày thường mong manh như dải lụa đổ từ lưng chừng núi Khe Cút mang lại dòng nước ngọt lành cho nhân dân cả bản và tưới cho cánh đồng Cọ Sơn bây giờ như con khủng long bị chọc giận, quăng quật cả một vạt đồi. Sườn núi bở tung, lở lói, lôi những mảng đất nhão nhoét đổ ập xuống thành dòng bùn đỏ như dòng dung nham núi lửa ập xuống bản không thương tiếc.
Gần nửa cánh đồng Cọ Sơn mầu mỡ lúa đang đứng cái bị dòng bùn vùi lấp. Bao nhiêu công sức khai hoang, san lấp, tạo ra những thửa ruộng bờ xôi ruộng mật bỗng chốc trở thành công cốc.
Theo yêu cầu trợ giúp của xã và dân bản Cọ Sơn, huyện phải tổ chức một chiến dịch quy mô lớn, dọn dẹp đất bùn, trả lại mặt bằng trồng trọt cho thung lũng Cọ Sơn mất hàng tháng trời và chi phí bằng cả mấy vụ lúa của cả bản. Toàn bộ dân bản ven dòng lũ bùn buộc phải di dời nhà cửa đến vị trí mới an toàn hơn. Cả Cọ Sơn nháo nhác mất đến vài tháng, làm cho cả xã Seo Sơn mất ăn mất ngủ, nín thở theo dõi và cật sức chi viện mới tàm tạm ổn.
Dòng suối Khe Moong ngày nào êm đềm trong mát giờ đục ngầu. Con đường giữa hai bờ Bến Tình cũng không còn những cô gái kéo váy lên ngang người lội qua nữa. Tất cả những nét thơ mộng ngày nào đã bị cơn lũ bùn làm cho tướp táp. Những cành cây khô vắt vẻo trên cây sổ bên bờ suối. Vết phù sa đỏ đòng đọc in ngấn trên những bụi tre đánh dấu mực nước lũ cao xưa nay chưa có. Suối Khe Moong chẳng biết đến ngày nào mới trong xanh trở lại. Từ trước tới nay Bến Tình chưa bao giờ lại tan hoang như vậy.
Trong những ngày tang thương đó, Triệu Văn Cưởi hầu như không xuất đầu lộ diện. Cưởi cáo ốm nằm lỳ ở nhà, mặc cho tiếng rên rỉ, nỉ non kêu khóc của cả bản Cọ Sơn và gia đình ông Triệu Văn Nga ai oán.
Ván cờ của Triệu Văn Cưởi ở Cọ Sơn đã đến những nước cuối cùng, Cưởi buộc lòng phải tìm một phương án mới trước khi nước chiếu hết đã sắp đến cận kề. Cưởi mất ăn, mất ngủ như kẻ bị bệnh tâm thần và xin ra bệnh viện tâm thần tỉnh điều trị.
Phòng Nông nghiệp và Hạt Kiểm lâm huyện được lệnh vào kiểm tra công tác trồng rừng ở Cọ Sơn. Họ đều thấy hậu quả của lối làm việc hành chính, cùng cơ chế quản lý theo kiểu tập trung quan liêu bao cấp của họ đã tạo điều kiện cho những kẻ trục lợi làm càn có mảnh đất phì nhiêu để đơm hoa kết trái, sinh sôi nẩy nở.
Dân bản Cọ Sơn và nhất là đội trưởng Triệu Văn Nga vô cùng ân hận. Họ đã tham cái lợi trước mắt đáng giá chỉ vài nếp nhà, vài trăm cum lúa nương mà bỏ đi cả một núi ân tình rừng chi chút bao đời che chở nuôi sống họ.
Họ đã báo cáo chi tiết với lãnh đạo huyện về việc dân bản đã tiếp tay cho những kẻ phá rừng mà chủ mưu là Chủ nhiêm Triệu Văn Cưởi trong những năm qua như lời chuộc lỗi muộn mằn với xã, với huyện và với những người xấu số.
Chủ nhiệm Triệu Văn Cưởi được đoàn thanh tra huyện mời lên trụ sở làm việc, nhưng do đang điều trị tại bệnh viện tỉnh nên chưa có mặt để giải trình.
17
Bài học ở Cọ Sơn là hồi chuông cảnh tỉnh về sự bảo vệ thiên nhiên và phát triển bền vững nông nghiệp nông thôn miền núi.
Đã đến lúc các cơ quan chuyên môn phải xem xét sự điều hành của mình trong thời gian vừa qua. Ai cũng nhận thấy sự lỏng lẻo trong công tác quản lý Nhà nước về đất và rừng. Bây giờ đến lúc cần phải kiểm tra, chấn chỉnh, phân rõ đúng sai từng người, từng việc. Huyện ủy họp và ra quyết nghị về việc tổ chức lại sản xuất, nhất là quản lý rừng, rút kinh nghiệm ở Cọ Sơn để nhân rộng ra quản lý toàn huyện.
Tháng ba năm ấy đói quá, đâu đâu cũng đói.
Những hộ có sổ gạo xếp hàng chầu chực trước các cửa hàng gạo để mua những cân bo bo cứng như đá, những cân sắn khô đã chớm mốc, những túi bột mỳ đầy mọt. Gạo là mặt hàng xa xỉ chỉ dành cho trẻ con, dù rằng đó là thứ gạo lâu năm để trong kho giờ đã bở bùng bục.
Làng xóm nông dân thiếu ăn đứt bữa, nheo nhóc tìm mọi thứ có thể độn lót được để giúp cho cái dạ dày đỡ lép kẹp. Nhiều hộ dân Seo Sơn trên nương đã hết cả sắn lưu mà củ mài trong rừng bây giờ cũng không có như trước nữa. Họ tìm chặt cả cây báng, lấy lõi băm nhỏ, ngâm nước suối rồi nấu ăn thay cơm.
Người ta ăn độn cả măng rừng, rau dại miễn sao cái bụng đỡ kêu gào. Không biết có nhà nào đói quá móc cả củ khoai bon, trước chỉ để nấu cho lợn về ăn, thấy dù ngứa nhưng cũng ăn được. Thế là các mảnh khoai bon bị đào hết gốc đến nỗi tìm cây giống trồng cho lợn cũng trở nên khó khăn, khan hiếm.
Không ai nghĩ rằng ở một nước nông nghiệp đất đai mầu mỡ, con người chịu thương chịu khó thế này mà chịu đói ràng đói rạc đến như vậy.
Nhiều hội nghị lớn bé được tổ chức để tìm ra nguyên nhân và biện pháp khắc phục. Nhiều chuyên gia kinh tế đã nghĩ đến giải pháp của ông Kim Ngọc. Mọi người đã mạnh dạn phê phán chỉ thị 100 dù như luồng gió mới thúc đẩy sản xuất nông nghiệp cả nước phát triển, nhưng cũng bộc lộ nhiều sức cản. Vì vậy họ đề nghị cần phải có sự thay đổi, tạo sức bật quyết định, cởi trói cho người dân trong việc tự quyết định vận mệnh của mình.
Đảng cũng đã nhận ra vấn đề.
Nghị quyết X của Bộ Chính trị khóa VI nhanh chóng được thông qua và ban hành trên cơ sở coi hộ nông dân là chủ thể quản lý ruộng đất. Kể từ nay, ruộng đất được giao cho nông dân quản lý, người nông dân được toàn quyền trong việc định đoạt việc trồng cây gì, nuôi con gì trên đất ruộng, đất rừng mình đã được nhà nước giao cho quản lý.
Lúc này Chủ nhiệm Triệu Văn Cưởi đang điều trị tại bệnh viện tỉnh. Thực chất đó chính là kế hoãn binh kéo dài thời gian để tìm nước chống đỡ của Cưởi mà thôi. Cưởi thấy rõ mình đang đứng trên bờ vực tội lỗi và án kỷ luật tù đầy chỉ còn là thời gian mà không có gì có thể chống đỡ được.
Tiếng rên rẩm của ông Triệu Văn Nga hôm nào còn như xối vào tâm óc Cưởi. Bất cứ lúc nào, khi ăn, lúc ngủ Cưởi cũng như nhìn thấy ánh mắt ông Nga đang xoáy vào Cưởi như muốn móc ruột, moi gan Cưởi.
Ván cờ ở Seo Sơn coi như đã tàn cuộc, “tam thập lục kế, tẩu vi thượng sách”, Cưởi đã quyết định và gọi Ba Tòng đến, bí mật bàn chuyện trốn về Hà Nội
Mấy hôm sau, Ba Tòng nói với mẹ và vợ Cưởi cần phải đưa Cưởi đi Hà Nội chữa bệnh thiên đầu thống theo lời bác sỹ dặn. Cưởi giả vờ nhăn nhó bảo:
– Tôi buốt đầu lắm, không đi chữa không được, nhưng đi chữa thì không có tiền nữa. Hết cách rồi, thôi đành chịu chờ chết thôi!
Ba Tòng gằn giọng:
– Anh không được nói gở. Còn người là còn của. Tính mạng con người là quý giá nhất. Ngày trước còn khỏe, anh lo cho cả nhà, bây giờ anh ốm chẳng lẽ mọi người bỏ mặc anh sao. Trong cơ sự bí bách này, tôi mạnh dạn tham gia hiến kế không biết có nên không?
Mọi người rối rít nói như van lơn:
– Có cách gì anh giúp được xin anh giúp đỡ.
– Theo tôi, ta nên bán khu nhà sàn ở Đá Vách lấy tiền tập trung chữa bệnh cho anh Cưởi. Bác và Dung tạm thời về ở cửa hàng khu trung tâm vừa gần nhà anh Công vừa gần nhà ông bà vãi (bố mẹ vợ) cho có mẹ có con, có anh có em. Sau này anh Cưởi chữa khỏi bệnh lại tính sau.
Dung ngập ngừng:
– Nhưng biết bán cho ai? Ở Seo Sơn toàn người giỏi lắm chỉ đủ ăn đủ tiêu, ai có tiền mà mua cả khu nhà mình được.
Ba Tòng bảo:
– Bác để cháu hỏi thử Phó Giám đốc Phan Văn Trị xem sao. Trước đây đã có lần anh ấy ao ước mua được khu đất đẹp ở Seo Sơn để làm nhà sàn như nhà mình, đón lõng các chương trình du lịch sinh thái đấy. Anh ấy chắc chẳng thiếu tiền. Chẳng lẽ trước đây anh Cưởi giúp anh ấy nhiều như thế mà bây giờ anh Cưởi gặp hoạn nạn anh ấy lại không giúp sao?
Mẹ Cưởi lập cập:
– Thế thì anh Tòng mau đi gặp anh Trị thử xem. Anh ấy mua cho thì phúc đức quá!
Đêm hôm ấy, văn bản bán nhà đã được Ba Tòng soạn thảo, hai vợ chồng Dung Cưởi ký tên trước sự chứng kiến đồng ý của mẹ Cưởi giao cho Phó Giám đốc Phan Văn Trị.
Cuộc đào tẩu của Cưởi và Ba Tòng diễn ra ngay sau khi nhận tiền bán nhà cho Trị. Vợ Cưởi thật thà chỉ biết Cưởi nhờ Ba Tòng đưa đi Hà Nội chữa bệnh chứ không biết chữa ở đâu. Chị cũng không biết rằng toàn bộ tài sản Cưởi giấu diếm cũng như mấy chục ô đất tại khu trung tâm đã được Cưởi bán trao tay và mang đi sạch.
Về Hà Nội, khác với mọi lần, Cưởi không về nhà mà thuê nhà trọ ở cùng Ba Tòng, sau đó cho Ba Tòng đón Ngát và con tới. Cưởi bảo Ngát:
– Anh bây giờ như con thú cùng đường rồi. Tiền bạc, của nả trắng tay, bị săn đuổi hết đường đành phải chui lủi, không dám xuất đầu lộ diện ở bất cứ đâu. Ngay cả ở đây có thể chính quyền đã cho người đón lõng, bắt được là tống vào tù ngay. Vì vậy em và con phải tạm lánh về quê ít ngày, chờ tôi tìm được chỗ ở mới an toàn sẽ lại đón em sau vậy!
Ngát rơm rớm nước mắt, nghẹn ngào:
– Không! Em cứ theo anh. Sướng cùng sướng, khổ cùng khổ, sống chết có nhau.
– Không được đâu em ơi! Mình anh còn dễ bề xoay xở. Nếu có thêm em và con càng khó thêm ra. Lỡ anh bị bắt vào tù, em xoay sở thế nào được? Nghe anh đi, rồi mọi việc sẽ đâu vào đấy thôi!
Ba Tòng đế thêm vào:
– Phải đấy chị ạ. Thời thế thế này, trong những cái xấu phải chấp nhận chọn cái xấu ít nhất. Chị cứ về bản cũ ít ngày, nói rằng ở quê cha về chơi, chờ anh Cưởi thu xếp xong lại bí mật trốn đi sau, chứ bây giờ không cẩn thận là bị bắt vào tù cả lũ chứ chẳng chơi đâu. Hãy nghe anh Cưởi, đừng để chính quyền người ta nghi ngờ lần ra dấu vết anh Cưởi là gay go to đấy.
– Thế em cho con về, dân bản hỏi chồng em là ai em biết trả lời thế nào? Mà con thì giống anh như tạc, giấu làm sao được?
– Ừ nhỉ! Thế thì gay go thật. Thôi, em tạm đi ngủ đi, để anh và anh Ba bàn bạc tìm cách khác vậy.
Đêm hôm ấy Cưởi và Ba Tòng thức khuya lắm. Không biết họ bàn bạc với nhau những gì, nhưng chỉ thấy những tiếng lầm rầm như những người đang buôn bạc giả thời Ngát còn bé tý sống ở nhà quan tri châu cùng mẹ vậy.
Gần trưa hôm sau, Cưởi bảo Ngát để con ở nhà rồi đi với Ba Tòng lên vùng sơn cước tìm nơi tạm lánh, nếu được sẽ kéo cả nhà tới đó.
Hai người đóng giả người đi buôn hàng chuyến. Họ thuê chiếc xe con đít vuông đi từ trưa đến tối mịt mới đến một thị trấn nhỏ. Sau khi cơm nước, Ba Tòng đưa Ngát vào nhà trọ bảo Ngát nghỉ ngơi chờ Ba Tòng đi dò la tin tức. Nửa đêm, Ba Tòng về, bảo với Ngát đã tìm được địa điểm tá túc tốt đẹp rồi, mai sẽ đưa Ngát đi xem rồi quyết định. Ngát mừng như mở cờ trong bụng. Trước khi đi ngủ, Ba Tòng pha cho Ngát cốc nước cam uống cho lại sức. Ngát vui vẻ uống một hơi và thiếp đi lúc nào không biết.
Khi Ngát tỉnh dậy, trời đã nhập nhoạng tối. Không thấy Ba Tòng đâu, chỉ thấy lố nhố mấy người đàn ông nói lơ lớ tiếng Dao. Ngát hỏi họ, họ bảo:
– Mày đã được người đàn ông Việt Nam đem sang bán cho nhà này rồi. Ta chẳng biết Ba Tòng, Bốn Tòng nào đâu. Đây là đất Trung Quốc, cách biên giới Việt Nam đã gần nghìn cây số, muốn trốn cũng không trốn được nữa, phải ở làm vợ cho nhà ta thôi. Con gái Dao vốn là người Quảng Đông di cư sang Việt Nam nên nghe được tiếng Quảng Đông ta, không lo bất đồng ngôn ngữ nữa, mà lại đẹp người thế này bọn ta quý lắm à.
Ngát đau đớn hiểu ra rằng mình đã bị chính những người mình hết lòng thương yêu lừa bán sang đây rồi. Ngát đã nhiều lần nghe bà con hàng phố kể về chuyện phụ nữ Việt bị bán sang làm vợ người Tầu khổ lắm, nhục nhã lắm. Có người phải ngủ với tất cả đàn ông trong nhà bởi họ không có tiền cưới vợ. Thế nhưng không bao giờ Ngát tưởng tượng ra có ngày mình lại rơi vào hoàn cảnh ấy.
Thật độc ác hết chỗ nói.
Họ đã chà đạp lên thân thể Ngát, lại cướp đứa con Ngát dứt ruột đẻ ra, cướp mất niềm hy vọng cuối cùng an ủi Ngát lúc cô quạnh tuổi già.
Thế là hết.
Giờ đây Ngát đã trắng tay. Ngát đã mất tất cả, kể cả quê cha đất tổ, kể cả hàng xóm láng giềng, dù rằng đó là nơi thâm sơn cùng cốc, nơi mà Ngát đã tưởng rằng vĩnh viễn được sống trong tình thương yêu đùm bọc của dân bản Seo Sơn yên bình.
Nơi ấy, xưa kia Ngát có thể tự nhiên kéo váy qua đùi, qua eo, quấn lên cổ lội qua Bến Tình thơ mộng, đón tiếng trêu đùa của cánh con trai mà không lo bị sàm sỡ. Nơi ấy Ngát cứ tự nhiên cởi bỏ áo váy, không cần mảnh vải che thân, khoe sự nõn nà, trinh trắng tắm ở mó Rươm, mó Ngọc mà không lo bị ai hà hiếp, chà đạp.
Thế mà theo Cưởi về thành phố, dù luôn luôn quần chùng áo dài, trong ngoài đậy điệm nhưng Ngát lại bị lang sói gặm nhấm từ trong ra ngoài. Cưởi đã biến Ngát thành múi chanh hết nước, thành miếng giẻ chùi chân rồi lừa lọc quẳng Ngát vào nơi tăm tối.
Thế là mọi cánh cửa đã sập lại. Mọi nẻo đường đi về đã bị chặn. Ngát còn gì nữa mà hy vọng. Chẳng lẽ đành ngậm đắng nuốt cay, sống nốt phần đời ê chề ở nơi đất khách mà Ngát hiểu dù có tô vẽ đến thế nào cũng chỉ là tấm vải mục, che cho một tâm hồn khốn nạn này ư?
Không, không thể thế được. Ngát thà chết chứ không chịu nhục một lần nữa.
Lừa cho cả bọn không để ý, Ngát lấy trộm con dao nhọn. Ngát trừng mắt nhìn vào khoảng không vô định, thẳng tay đâm một nhát thật mạnh không thương tiếc vào bầu ngực trái, nơi con tim đã bao lần rạo rực trước tình yêu, tình người nóng bỏng.
Ngát thấy máu phun ra nhiều lắm trước khi mọi vật trước mắt trở nên đen ngòm vô vọng.
Chính lúc Ngát xía mạnh lưỡi dao vào trái tim trong trắng của mình thì Ba Tòng đã về đến Hà Nội và cùng Cưởi thực hiện nốt kế hoạch đã bàn trước đó.
Ngay đêm hôm sau, một đêm trời se se lạnh bởi những cơn gió đông bắc đầu mùa, Ba Tòng thuê xe ô tô về Seo Sơn. Mẹ Cưởi và Dung mừng rỡ đón Ba Tòng, nhưng Ba Tòng bảo cần yên lặng không nên ồn ã bởi chính quyền đang để ý tới Cưởi.
Ba Tòng thông báo:
– Bệnh tật của anh Cưởi gặp thầy, gặp thuốc đang tiến triển rất tốt, chắc nửa tháng nữa là có thể về nhà được thôi, mọi người đừng lo lắng nhé. Bây giờ anh Cưởi bảo cháu về đón bác xuống để có người sắc thuốc cho anh Cưởi uống hàng ngày đỡ cháu, vì cháu ngày nào cũng phải đi cất hàng từ sớm.
Dung nhanh nhảu:
– Để em xuống cùng mẹ.
– Không được đâu, em đi nữa thì lấy ai trông nom nhà cửa. Lại còn ông bà vãi nữa, các cụ cũng già yếu rồi, chẳng may ốm đau lấy ai là người chăm sóc. Vả lại ở Hà Nội nhà cửa có rộng rãi gì cho cam, xuống đông người biết ăn nghỉ ở đâu? Thôi em cứ ở nhà, chỉ đôi tuần nữa anh Cưởi về tha hồ mà chăm bẵm.
Mẹ Cưởi bảo:
– Thôi, anh Ba Tòng đã nói thế, con ở nhà trông nom nhà cửa, để mẹ đi. Bây giờ đi ngủ, sáng mai mẹ sang chào ông bà vãi rồi đi sớm. Mẹ thấy nóng ruột quá.
Ba Tòng vội nói:
– Bác ạ, cháu còn nhiều việc lắm, mai cháu phải đi cất hàng từ sớm rồi. Bác chuẩn bị ta đi luôn cho kịp việc của cháu bác ạ. Dung giúp anh lo đồ đoàn cho bác, nhanh kẻo xe ô tô chờ.
Ngay đêm ấy Ba Tòng đón được mẹ Cưởi về đến Hà Nội ở một xóm ngoại thành nơi Cưởi đang thuê nhà tá túc.
Theo kế hoạch đã bàn từ trước, để xóa hết dấu vết đã có, Cưởi bí mật bán nốt ngôi nhà mặt phố, cóp nhặt toàn bộ của cải, lập kế tránh sự theo dõi của chính quyền. Cưởi tiếp tục lừa vợ, đón mẹ về Hà Nội cùng Ba Tòng và đứa con với Ngát trốn vào Sài gòn sinh sống. Cưởi đã cắt đứt vĩnh viễn mọi quan hệ với mọi người quen biết trong những năm lang bạt kỳ hồ, cù bơ cù bất đến những thời điểm hoàng kim, trên nhung dưới lụa, trong ấm ngoài êm dưới thời ông Bí thư Huyện ủy Hoàng Văn Hợi. Hắn  cũng chấm dứt luôn cuộc sống vợ chồng với con gái yêu Hoàng Thị Dung của ông mà không cần sự công tâm của tòa án.
Đáng thương thay, một người con gái cành vàng lá ngọc, tiểu thư xinh đẹp của gia đình Bí thư Huyện ủy danh giá cũng không thoát khỏi sự lừa lọc của một kẻ thực sự vô danh tiểu tốt.
Không những thế hắn còn lừa được cả dân tộc Dao Mường Đá Vách với màn kịch đổi họ thực dụng để nấp bóng thật thà, làm nên cả một tấn trò đời đầy mưu mô và xảo trá.
Hắn đã lừa từ những người đã lăn lộn qua hai cuộc chiến tranh, đã đứng vững trên những cương vị lãnh đạo trong nhà nước dân chủ nhân dân, đẩy người ta đến chỗ thân bại danh liệt hoặc tự cắn rứt đến lúc nhắm mắt xuôi tay.
Hắn lừa những người dân vô tội hiền lành dù tinh nhanh, minh mẫn thậm chí có phần khôn vặt, nhưng chót tư hữu, sa đà, ham chút lợi cá nhân trước mắt, đến nỗi rơi vào thảm cảnh cha sống trong dằn vặt, con chết không nhắm được mắt.
Hắn lừa cả những người con gái đã từng bắc cầu cho hắn tiến thân, đã từng mang lại cho hắn những thăng hoa trong cuộc sống, nhưng khi không còn ích lợi cho hắn, đã phải chết nhục nhã nơi đất khách, hoặc sống không nên hồn ở ngay chính quê hương mình.
Hắn lừa cả mẹ hắn, người mẹ dứt ruột đẻ ra hắn, mang mẹ hắn ra làm mồi nhử khi còn xuân sắc vì những động cơ thấp hèn của hắn.
Tất cả bị lừa mà vẫn ngây ngô khờ dại không biết mình bị lừa hàng ngày, hàng giờ, vẫn cười vui cho đến khi cánh màn lừa lọc của hắn đã khép lại.
Thật là đau đớn.
Trần Văn Cưởi đã thoát tội và vẫn sống đàng hoàng trên nhung dưới lụa bằng vàng bạc và những đồng tiền là xương, là máu của những người vô tội, là tài nguyên của ông cha bao đời gìn giữ.
Kể từ nay, mọi tồn tại của Trần Văn Cưởi cùng tất cả những mẹo mực, mưu mô của một kẻ dối gian, thất học, giầu tính ma mãnh mấy lần đổi họ đã lai vô ảnh, khứ vô hình, chìm sâu vào dĩ vãng.
Chỉ còn lại đâu đây sự thảng thốt của những người vẫn còn sống nhưng đã vô tình vương vào tấm lưới lừa lọc của hắn mỗi khi nhớ lại.
Hoàng Thị Dung phát hiện ra bi kịch này khi nhận được bức thư viết vội của mẹ chồng trên tầu trốn vào Nam gửi cho cô. Bà nói sở dĩ Cưởi phải trốn vì có nhiều tội với nhân dân Seo Sơn không thể quay lại sửa chữa được nữa và bây giờ chính bà cũng là nạn nhân của Cưởi, không biết Cưởi đang đưa bà đi đâu?
Dung vô cùng đau xót. Cô đã mất tất cả từ nhà cửa, gia đình đến tiền bạc, con cái. Cưởi đã cướp đi của cô không chừa lại bất cứ thứ gì. Đau hơn cả là Cưởi đã đẩy cô cùng bố mẹ cô, một gia đình cách mạng gốc đến chỗ mất cả quê hương bản quán. Còn đâu không khí đầm ấm của làng bản quê hương ngày Dung còn thơ ấu. Giờ đây thay vào sự rộng rãi, thoáng đạt của nếp nhà sàn Mường nơi ngày xưa cô cùng bố mẹ sinh sống ở giữa quê hương, là sự đóng khung trong căn nhà ống chật chội, bí bách nơi ven đường đầy bụi, ngột ngạt bởi người và xe, ồn ã từ sớm đến đêm.
Cô không còn mặt mũi nào nhìn bà con dân bản nữa. Họ đã chi chút cho cô từng tầu lá cọ, từng lóng bương già để lo làm nhà, làm cửa cho cô. Thế mà cô đã bị Cưởi lợi dụng lừa gạt họ, cướp không công sức và lòng tin của họ.
Dung trừng trừng nhìn lên trần nhà quét vôi trắng lốp như nhìn thấy biết bao cơ man là khăn trắng tang tóc của dân bản Cọ Sơn, những khăn tang đầy côi cút và đau đớn.
Dung thấy thật bí bách trong người, chẳng hiểu vì sao mà lại bí bách đến vậy. Dung thấy ngứa ngáy hết cả mọi chỗ, ngứa như có hàng trăm hàng ngàn con kiến đốt. Sao lại nóng thế không biết, chỗ nào cũng nóng. Sao lại bứt rứt đến thế, chỗ nào cũng bứt rứt. Quần áo cứ như những sợi dây trói buộc chặt lấy Dung, dìm Dung xuống mặt đường nhựa bỏng rẫy nắng mặt trời.
Dung không chịu được nữa. Dung phải xé bỏ tất cả cho tinh thần thanh thoát. Dung xé roàn roạt không thương tiếc. Quần áo trên người như những chiếc lá bánh bỏ đi, nhơ nhớp và nhầy nhụa, bám chặt lấy người Dung, cần phải vứt hết.
Vứt bỏ được quần áo trên người Dung cảm thấy thật thanh thản, Dung cười thoải mái, cười như điên, như dại, như muốn phỉ nhổ vào sự khốn nạn của sự lọc lừa khốn kiếp mà Cưởi đã gieo vào cô.
Cứ thế, không còn quần áo ràng buộc, Dung đi ra đường, đi ra chợ, đi vào bản, miệng lảm nhảm những câu vô nghĩa, mắt nhìn vào khoảng không vô định, chân bước đi trong trạng thái vô tâm, lòng không có một sự vướng bận nào.
Dung đã bước vào một thế giới vô thức.
18
Tin Triệu Văn Cưởi bỏ nhà bỏ cửa trốn đi biệt tích sau vụ lũ bùn ở Đá Vách chốc lát loan ra toàn xã Seo Sơn. Những người đã từng gắn bó, nâng đỡ Cưởi như ông trưởng bản người Dao Triệu Văn Thân, nguyên Bí thư Huyện ủy Hoàng Văn Hội, Chủ tịch xã Seo Sơn Hà Đình Đông bứt rứt tưởng ngồi trên đống lửa. Bao năm qua, mọi người đã tin cậy, ủng hộ Cưởi, những tưởng mang lại lợi ích cho quê hương, cho bà con các dân tộc trong xã. Ai ngờ họ lại là người tiếp tay cho Cưởi trong việc tàn phá quê hương, gây nên thảm cảnh kinh hoàng không ai tưởng tượng nổi.
Cả xã Seo Sơn bàng hoàng trước tổn thất to lớn của trận lũ. Cánh đồng Cọ Sơn tan hoang kéo theo cánh đồng Gò Lau cũng tơi tả.
Sự tàn phá của thiên nhiên thật khủng khiếp, nhưng hệ lụy của nó về nhân sự hợp tác xã cũng vô cùng to lớn. Ban quản trị thực sự như rắn mất đầu khi Triệu Văn Cưởi bỏ trốn. Một số thành viên ban quản trị và toàn bộ các đội trưởng như những con ốc sên ngày thường hùng dũng, giờ thụt mình vào vỏ cứng, nằm im chờ thời. Tất cả họ đều trực tiếp và gián tiếp cùng với Triệu Văn Cưởi gây ra thảm họa khủng khiếp này.
Sự hoang mang lộ rõ trong những cái nhìn ngơ ngác của cán bộ xã và hợp tác xã. Họ không những mất hết tinh thần vì cơn thịnh nộ của thần cây, thần rừng, thần đất mà còn hoảng loạn vì sự thờ ơ lạnh nhạt của nhân dân các dân tộc trong toàn xã.
Chỉ một cái vật mình của thiên nhiên trước những việc làm vô nhân tính, bất chấp quy luật của họ mà bao nhiêu sinh mạng, của cải dân bản đã bị trả giá.
Những tấm bằng khen của các cấp từ tỉnh đến huyện, hiện thân của những hư danh phù phiếm khoác lên lá bài vì nhân dân, vì tập thể của họ cũng rơi rụng lả tả, phô ra những vết tang thương lở lói khắp nơi trong xã.
Tiền bạc của nhân dân toàn huyện đầu tư cho Seo Sơn bỗng chốc đổ ra sông ra biển.
Hóa ra từ trước tới nay họ toàn tô vẽ cho sự vô học của họ bằng những bộ cánh mầu mè lý luận vô nghĩa, để rồi cả đời này và đời sau con cháu các thế hệ kế tiếp phải è lưng gánh chịu cho sự tham lam ngu dốt của họ.
Họ đã đẩy dân đến mức phá cả rừng đầu nguồn để thu lấy những cum lúa nương ngon miệng lúc đương thời, vài cặp nhà che mưa, che nắng cho những tâm hồn rách nát chỉ biết nghĩ tư hữu cho mình của một bộ phận những người tham lam và đáng thương đã rơi vào sự bần cùng hóa về cả vật chất lẫn nhân phẩm.
Họ đã ăn chơi hưởng lạc trên tài nguyên trời đất lòng lành hàng nghìn năm, dầy tình dầy nghĩa ban cho quê hương làng bản. Tầm nhìn ngắn ngủi trước thời cuộc, trước vận mệnh cuộc đời của họ đã đẩy đời con cháu sau này vào thảm cảnh khó có thể khắc phục nổi.
Sự đau đớn nhãn tiền buộc họ đến chỗ không dễ gì chối bỏ trách nhiệm. Nhưng tất cả họ đều trốn tránh.
Họ đổ lỗi cho mô hình lãnh đạo tập thể, cho cơ chế quản lý mà không thấy rằng chính họ, với quyền uy tối thượng trong tay, đã đẻ ra mô hình lãnh đạo ấy, ra cơ chế quản lý ấy và mặc cho nó vận hành không hề kiểm tra, kiểm soát.
Họ giống như một kẻ chỉ biết việc thỏa mãn đẻ ra những đứa con, rồi kệ nó muốn ăn ra sao, làm ra sao, sống thế nào, có trở thành thiên thần hay trở thành quỷ dữ họ không cần biết.
Ông Hoàng Văn Hợi càng đau xót.
Là Bí thư Huyện ủy, ông đã ngủ yên trong vầng hào quang của những ngày dựa vào dân, gây dựng cơ sở cách mạng để giành bằng được chính quyền, mà thiếu kiểm tra sâu sát trước mô hình quản lý mới. Sự tắc trách đó đã tạo cơ hội cho những kẻ như Trần Văn Cưởi vô văn hóa đội lốt hiểu biết, chui sâu vào đội ngũ những người cách mạng, bòn rút của dân, tàn phá quê hương ông, lợi dụng ông, lừa gạt ông.
Vì sự dễ dãi có phần thiếu tri thức của ông mà những cánh rừng đại ngàn, vành nôi che chở cho nhiều thế hệ nhân dân quê ông đã bị đốn hạ không thương tiếc. Điều ấy tạo ra vàng bạc châu báu, chẩy vào túi tham của những kẻ lợi dụng danh nghĩa đồng chí, lợi dụng uy tín của ông để làm càn, làm bậy, để lại tang thương cho nhân dân, cho những người nuôi ông đi làm cách mạng, đẩy những người đã tạo thế và lực cho ông giành đến tột đỉnh vinh quang vào sự đau đớn khôn cùng.
Ông đã có mặt ở Cọ Sơn ngay sau giờ phút tang thương đó. Ông đã lăn lộn cùng đội cứu hộ bới bùn tìm những người xấu số, tắm rửa cho họ. Ông đau đớn đưa họ về chốn vĩnh hằng. Ông đã tham gia cùng dân bản vớt từng cây lúa còn lại, đòng tròn căng trong ngày đứng cái, chờ mùa sinh nở, trổ bông kết hạt bị lũ bùn xô ngã.
Ông lang thang như người mất hồn trên những lối mòn rừng Khe Cút, vật vã trước những gốc cây hàng mấy người ôm đã bị đốn hạ, thay vào đó những cây bạch đàn non tơ leo heo trổ nhừng mầm xanh sau cơn hồng thủy.
Ông đã đến từng ngôi nhà nửa sàn, nửa đất của người Dao Nga Hoàng ở Cọ Sơn còn lại, lắng nghe trong tột đỉnh đau đớn những lời than vãn về sự u mê của họ và về sự trừng phạt của thần núi, thần rừng với lỗi lầm mà họ đã gây ra.
Ông thất thần trước cái nhìn của dân bản, những người đã tin theo ông, nghe lời ông như nghe lời thánh sống. Cái nhìn của họ như một sự trách móc, một sự khinh khi, rẻ rúng đối với ông.
Đêm về, ông trân trân nhìn lên mái nhà đang ở. Đâu rồi nếp cọ ngày xưa yên bình, thanh thản ven đồi lốc cốc mõ trâu chiều tháng mười thơm mùi sắn nướng. Đâu rồi những lời thăm hỏi chân tình của dân bản làng Mường quê ông trước những vui buồn, thế sự mà ông đã trải qua. Sao ông lại bỏ lại tất cả để lên đây, phú quý ngây ngô trong căn nhà xây thơm mùi vôi mới mà thằng con rể khốn nạn của ông đã mượn danh hợp tác xã làm cho ông.
Mảnh đất này, căn nhà này chính là tính mạng của những người dân vô tội ở Cọ Sơn mang lại cho ông. Ông như thấy ánh mắt của họ nhìn ông ai oán.
Ông đã được nhân dân giao phó đưa đường chỉ lối cho cả huyện, mà ông không làm tròn sứ mạng đó, thì chính ông, chứ không phải ai khác phải gánh chịu những lỗi lầm do mình gây ra.
Trời đã trừng phạt ông. Con gái ông đã trở thành kẻ điên dại, suốt ngày lang thang không quần không áo, bạ gì ăn nấy. Vợ ông không chịu đựng được đau thương, ngất lên ngất xuống. May mà các cấp chính quyền từ huyện đến xã đã giang tay cứu giúp ông, mời các bác sỹ giỏi tích cực điều trị với thuốc men tốt nhất, nên bệnh tình của vợ con ông đang thuyên giảm theo hướng tích cực.
Ông đáng phải chịu sự trừng phạt của nhân dân. Nhưng ông có cái gì để đền cho tội lỗi đó? Ông chẳng có gì cả. Có lẽ chỉ còn một cách nhân đạo nhất dành cho ông là phải thành khẩn kiểm điểm trước nhân dân. Ông đau xót nhận ra rằng tội lỗi của mình đáng nhận hình thức kỷ luật cao nhất là bị khai trừ, đuổi ra khỏi tổ chức, không còn con đường nào khác.
Ông vùng dậy định lấy giấy bút viết kiểm điểm, nhưng bỗng nhiên thấy choáng váng, đầu óc quay cuồng. Ông muốn gọi vợ ông, con ông, cháu ông và kêu gọi mọi người tha tội cho ông mà không sao há miệng ra được. Tất cả không gian quanh ông trở nên đen kịt.
Màn đêm đặc quánh nhanh chóng bềnh bồng lôi ông chìm vào vô thức.
Đám tang của nguyên Bí thư Huyện ủy Hoàng Văn Hợi đột tử vì nhồi máu cơ tim kèm theo xuất huyết não diễn ra sau đó hai ngày. Trời mưa xầm xịt suốt ngày khiến những con đường khắp Seo Sơn duyềnh lên ngập ngụa bùn đất. Nền trời xám xịt, mây dầy đặc, xám ngoét từ đỉnh núi Khe Cút tràn xuống phủ kín cả một vùng rộng lớn như muốn nuốt chửng xã Seo Sơn nhỏ bé và đáng thương này .
Bí thư Huyện ủy Hà Trí Lâm đích thân làm chủ tang lễ cho ông Hoàng Văn Hợi. Các cán bộ huyện tỉnh và các xã trong huyện đều đến phúng viếng, đưa tiễn. Vợ ông cùng vợ chồng con cái Công và Dung rũ rượi thảm thiết bên linh cữu ông. Tất cả những lao tâm khổ tứ cả cuộc đời hoạt động cách mạng của ông vì sự tắc trách, bỗng chốc chỉ còn là những tiếng nấc nghẹn trong cổ họng của anh em đồng bào, đồng chí.
Mộ ông nằm trên đồi cao, lộng gió, nhìn xuống cánh đồng Gò Lau.
Dẫu sự trừng phạt của thiên nhiên còn ngổn ngang gò đống, nhưng những đòng lúa còn lại cũng vẫn kiêu hãnh vươn lên gọi nhau vào mùa đang cốm.
Hội nghị toàn thể Đảng bộ xã Seo Sơn được tổ chức dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Bí thư Huyện ủy Hà Trí Lâm. Hội nghị đau xót dành một phút mặc niệm những người dân vô tội Cọ Sơn bị lũ bùn vùi lấp đã về cõi vĩnh hằng. Hội nghị nghiêm túc kiểm điểm sự buông lỏng lãnh đạo của Bí thư Đảng ủy và Chủ tịch xã để cho Chủ nhiệm Triệu Văn Cưởi tác oai, tác quái, tàn phá rừng Khe Cút gây hậu quả nghiêm trọng cho nhân dân toàn xã.
Hội nghị xác định rằng, trước sự mất mát về lòng tin của nhân dân, cần phải nghiêm túc kiểm điểm, kiện toàn lại sự lãnh đạo, xốc lại đội ngũ, sửa chữa sai lầm để lấy lại lòng tin của nhân dân, tiếp tục lãnh đạo nhân dân Seo Sơn đẩy mạnh sản xuất, ổn định đời sống.
Bí thư Đảng ủy và Chủ tịch xã Seo Sơn đã tự giác kiểm điểm và nhận hình thức kỷ luật cách chức. Cả một núi công việc trong xã đang cần người đứng đầu chèo lái. Sau khi bàn đi tính lại, lựa chọn nhân sự đủ tài đủ đức, có kinh nghiệm thực tế, đã lăn lộn với công tác địa phương Seo Sơn, được đào tạo bài bản trong nhà trường đại học, hội nghị nhất trí cao, giới thiệu với Thường vụ Huyện ủy bà Triệu Thị Bầu hiện là Huyện ủy viên, Phó Phòng Nông nghiệp huyện về đảm nhiệm trọng trách Bí thư Đảng ủy kiêm Chủ tịch xã.
Huyện ủy viên Triệu Thị Bầu được mời tham gia hội nghị đặc biệt của Thường vụ Huyện ủy bàn về công tác lãnh đạo Cọ Sơn.
Hội nghị chuẩn y quyết định cách chức Bí thư Đảng ủy xã và Chủ tịch xã, ra quyết định cảnh cáo Ban chấp hành Đảng bộ xã Seo Sơn, đề nghị Viện kiểm sát nhân dân huyện truy tố Chủ nhiệm Hợp tác xã Triệu Văn Cưởi.
Sau khi làm công tác tư tưởng, hội nghị cũng chuẩn y việc cử Huyện ủy viên Triệu Thị Bầu tham gia Ban chấp hành Đảng bộ xã Seo Sơn để bầu vào cương vị Bí thư Đảng ủy xã, đồng thời tham gia Hội đồng nhân dân xã để bầu vào cương vị Chủ tịch xã.
Mọi công việc nhân sự nhận được sự đồng thuận cao từ dưới lên trên. Một tuần sau, Bí thư Đảng ủy kiêm Chủ tịch xã Triều Thị Bầu đã chính thức về nhận công tác ở Seo Sơn khi lúa đã bắt đầu đỏ đuôi và vụ gặt mùa đang đến rất gần.
19
Việc sắp xếp lại bộ máy Ban quản trị Hợp tác xã đòi hỏi hết sức khẩn trương nhằm khắc phục sự buông lỏng quản lý cũng như sớm kiện toàn tổ chức để triển khai công tác khoán 10 trong toàn Hợp tác xã.
Bí thư Triệu Thị Bầu yêu cầu tổ chức Đại hội toàn thể xã viên bất thường. Trong cuộc họp Ban Chấp hành Đảng ủy xã nhiều ý kiến đưa ra nên tổ chức Đại hội đại biểu vì hội trường không đủ chỗ để Đại hội toàn thể, nhưng Triệu Thị Bầu kiên quyết yêu cầu Đại hội toàn thể. Chị phân tích:
– Vừa qua các tồn tại trong công tác quản lý điều hành của Hợp tác xã đã làm xói mòn lòng tin của xã viên. Vì vậy Đảng bộ phải nhận trách nhiệm trước dân và mong dân đóng góp ý kiến để sửa chữa, nhằm tiến bộ. Việc tìm người bầu bổ xung vào trọng trách Chủ nhiệm Hợp tác xã cần được công khai minh bạch và do xã viên tín nhiệm thực sự để tạo ra động lực mới cho bộ máy lãnh đạo. Viêc triển khai chủ trương khoán 10 trong nông nghiệp là việc làm cấp bách, cần phổ biến sâu rộng đến bà con xã viên vì đây là chủ trương lớn thay đổi toàn bộ nếp nghĩ cách làm của chúng ta từ trước đến nay. Do đó cần tổ chức Đại hội toàn thể. Còn địa điểm họp không nhất thiết hình thức sang trọng. Tuyển quân đi đánh Mỹ vào sinh ra tử đâu cần phải có hội trường to lớn rộng dài mà dân bản vẫn góp người, góp của đầy đủ đó thôi.
Mọi người nghe chị phân tích có lý, có tình đều đồng ý. Và thế là Đại hội toàn thể xã viên Hợp tác xã Seo Sơn được tiến hành ngay tại sân kho trung tâm Hợp tác xã với sự có mặt đầy đủ xã viên, không ai muốn vắng mặt cả.
Dưới sự chỉ đạo của Đảng ủy xã, Ban Chủ nhiệm cũ đã nhận khuyết điểm trước xã viên. Đại hội đã giới thiệu và bầu Đảng ủy viên, Bí thư đoàn thanh niên xã Bàn Quyết Tâm, Trung cấp nông nghiệp vào Ban quản trị và là Chủ nhiệm Hợp tác xã.
Bí thư Triệu Thị Bầu được tân Chủ nhiệm Bàn Quyết Tâm giới thiệu lên trình bầy nghị quyết 10 của Ban Chấp hành Trung ương về khoán quản trong nông nghiệp. Chị phân tích kỹ nhận định của Trung ương về ưu nhược điểm cách tổ chức điều hành cũ của Hợp tác xã và những thay đổi của cách khoán mới.
Trung ương cũng chỉ ra rằng, mô hình quản lý của Hợp tác xã sản xuất nông nghiệp trong khoán 10 sẽ được thay đổi. Mô hình đó vận hành theo phương châm “một chủ, bốn tự” phù hợp với cơ chế quản lý mới. “Một chủ” là xác định hộ là đơn vị kinh tế tự chủ. “Bốn tự” nghĩa là Hợp tác xã tự xác định phương hướng, nhiệm vụ sản xuất kinh doanh; tự xác định hình thức, quy mô sản xuất; tự xác định hình thức phân phối, tiêu thụ sản phẩm, bảo đảm để xã viên tự vào ra Hợp tác xã.
Những yếu tố quan trọng của khoán 10 được chị chỉ ra rất rõ. Đó là giao quyền sử dụng đất cho nông dân, tự do hóa thương mại, tạo điều kiện cho người dân kinh doanh tự do cả đầu vào, đầu ra trên thị trường, chuyển Hợp tác xã, cơ quan chịu trách nhiệm toàn bộ về tổ chức quản lý sản xuất sang làm dịch vụ cho nông dân. Các cơ chế xin cho, điều hành theo kiểu tập trung quan liêu bao cấp được xóa bỏ. Ban Chủ nhiệm Hợp tác xã được tổ chức lại theo hướng tinh gọn nhẹ.
Cả đại hội ồn ào hẳn lên, xã viên đồng loạt bầy tỏ sự đồng tình ủng hộ. Chủ tịch Hội Cựu chiến binh xã hồ hởi phát biểu:
– Đúng là Đảng đã hiểu thấu lòng dân. Đảng đã tin dân, giao ruộng đất cho dân thì dân không phụ lòng tin của Đảng, sẽ làm cho ruộng đất sinh sôi năng xuất. Tất cả sẽ thành cánh đồng ruộng năm phần trăm hết. Xin Bí thư tin ở chúng tôi.
Cả đại hội vỗ tay hoan hô như sấm dậy. Một khí thế mới trào dâng như sóng biển. Một ai đó hô vang:
– Đảng Cộng sản Việt Nam quang vinh muôn năm!
Tức thì cả đại hội rầm rập:
– Muôn năm, muôn năm, muôn năm.
Chỉ trong thời gian ngắn, mọi tổ chức cồng kềnh trong Hợp tác xã theo kiểu quản lý rong công phóng điểm tự nhiên không còn chỗ đứng. Vai trò Ban quản trị và Chủ nhiệm Hợp tác xã đòi hỏi thực chất tài năng và đức độ, không cho phép những người chỉ nhờ chủ nghĩa kinh nghiệm hoặc sự tinh khôn, mưu mẹo, ma mãnh tồn tại.
Các đội trưởng Hợp tác xã ai thấy mình không đủ tư cách, không đủ tài năng đều xin tự rút lui. Các thành viên Ban quản trị lập tức được cử về thay thế tạm thời để gấp rút tổ chức việc chia ruộng cho xã viên ngay sau vụ gặt mùa. Một bộ máy điều hành Hợp tác xã gọn nhẹ đã bắt đầu được xác lập. Lòng tin của xã viên chưa khi nào được đẩy lên cao như giai đoạn này.
Vụ mùa đến. Trước đây việc thu hoạch phải mất hai ba tuần nay chỉ trong mươi ngày toàn bộ công việc gặt hái đã được tiến hành xong xuôi, gọn ghẽ. Nhờ trời, năm nay nắng ráo, việc phơi phong tịnh kho diễn ra nhanh chóng và suôn sẻ.
Do bị thiên tai nên sản lượng vụ mùa toàn Hợp tác xã giảm mất hai mươi phần trăm, nhưng khi chia bình quân vẫn được một cân sáu thóc một công, ngang bằng mọi vụ. Thì ra các đội trưởng cũ cũng biết sợ bị phanh phui việc nhập nhằng công điểm đã tự điều chỉnh lại, không dám ghi những công khống vào sổ sách, những chi phí cho hoạt động chung cũng được tự động điều chỉnh về giá trị thực của nó.
Vân Thục biết đã đi vào con đường hầm không lối thoát. Ê chề nhận ra mình đã phản bội chồng, không phải chỉ phản bội bằng thân xác, mà đã phản bội cả linh hồn. Không những chỉ phản bội chồng mà cô còn phản bội cả dân bản, phản bội làng xã. Bây giờ cô muốn quay đầu lại cũng không được nữa. Lối về đã bị lấp kín. Chắc chắn rằng việc Đỗ Pháp đưa thuốc cho cô đã được ghi hình. Những kẻ đó không phải còn non nớt đối với những việc này…
36
Cửa hàng của Vân Thục đúng là trở thành Trung tâm Thương mại không những của Seo Sơn mà còn của các xã vùng cao quanh đấy. Từ sáng sớm cho đến tối đêm lúc nào cửa hàng cũng đông nườm nượp. Các cửa hàng ngoài phố huyện cũng không thể đông đến như vậy. Đúng là con mắt của Đỗ Pháp là con mắt tinh đời.
Ngoài Xuân vừa là người phụ trách, vừa là người thu ngân, Vân Thục đã phải chọn lựa và bố trí tới bốn nhân viên bán hàng trẻ và xinh xắn. Ấy thế mà lắm ngày nhân viên phải thay nhau nháo nhào vừa ăn cơm trưa, vừa bán hàng.
Áp dụng cách bán hàng ở các siêu thị ngoài Móng Cái, hàng hóa ở cửa hàng Vân Thục được xếp trên các giá thấp để tiện cho khách hàng chọn lựa. Khách hàng muốn mua gì cứ tự chọn hoặc gọi nhân viên bán hàng lấy cho. Khi ra về qua cửa chính Xuân mới bao gói và thu tiền, vì thế khách hàng rất thoải mái.
Không những luôn luôn được các nhân viên phục vụ chu đáo, khách hàng còn được những lời cám ơn, những nụ cười thân thiện, thậm chí những ánh mắt chào mời hào phóng, điều mà các cửa hàng Bách hóa Nhà nước hiếm khi có được.
Tất nhiên, các nhân viên này dù có tế nhị với khách nhưng không bao giờ quên nhiệm vụ của mình là giám sát khách hàng, bởi họ hiểu rằng khách hàng là thượng đế, nhưng trong số họ cũng đôi khi có thượng đế rớm, chỉ muốn ăn người.
Cơ chế thị trường là vậy, bên cạnh ánh mắt tình cảm kia là một bàn tay thép, không nhân nhượng, sẵn sàng bóp nát những hành vi trộm cắp, dẫu có được bọc mấy lần nhung lụa.
Việc thu mua chè búp khô chế biến theo dạng nửa sao nửa phơi, trộn bột sắn, bột đá của Vân Thục càng ngày càng tăng số lượng, khuyến khích các lò sao tư nhân mọc lên như nấm. Qua vụ xuân, chè vào chính vụ được mưa búp lên tua tủa. Các lò sao theo phương châm bất cần chất lượng càng có điều kiện hoạt động suốt ngày đêm. Cửa hàng thu mua của Vân Thục cũng ngày đêm mở rộng cửa, đón tiếp khách hàng đem chè đến bán.
Những người có lương tri đem chuyện chế biến chè này phản ánh với Phó Chủ tịch xã kiêm Trưởng công an Nguyễn Uyên, bởi không ai dại gì phản ảnh với Chủ tịch xã Tấn Phong, vì họ thừa biết quan hệ Vân Thục và Tấn Phong như thế nào.
Nguyễn Uyên bảo họ:
– Cơ chế thị trường mà, thuận mua vừa bán thôi, chẳng ảnh hưởng tới ai cả. Ai biết họ mua làm gì, chắc gì mua để uống. Đất nước họ giầu có, dân họ dùng toàn đồ đẹp, người ta lại chẳng biết phân biệt đồ ngon đồ dở à. Việc gì các ông các bà phải bận tâm? Làm gì thì làm, cứ có nhiều tiền là được.
Thế là những ý kiến đó như được ném vào gió thổi. Người ta đành lắc đầu, lè lưỡi, nhắm mắt cho qua.
Đỗ Pháp chẳng mấy khi có mặt tại Đá Vách, mà có xuất hiện thì cũng thoắt ẩn thoắt hiện, đi mây về gió. Theo lời Đỗ Pháp, Sán Lùng còn giao bao nhiêu việc của công ty cho Đỗ Pháp giải quyết. Vì thế mọi công việc mua bán chè ở Seo Sơn và giao hàng đến Móng Cái đều do Vân Thục điều khiển.
Hôm nay, lại đến kỳ Vân Thục đi giao hàng. Ba xe ô tô hai dàn, hai dí của công ty Sán Lùng đã được xếp đầy hàng, phủ bạt kín mít, chuẩn bị đợi giờ là xuất phát. Cánh lái xe và áp tải trong lúc chờ lệnh đang ngồi tụ tập đánh tá lả. Hầu như rỗi rãi họ đều sát phạt nhau thế cả. Thời buổi “người người đi buôn, toàn dân đánh phỏm” mà.
Trước lúc lên xe, Tấn Phong bảo Vân Thục:
– Lên đấy, nhớ bảo Đỗ Pháp mua cho tôi mấy tút Tám Một đỏ nhé. Đã hút cái anh này mà hút các loại khác nhạt phèo, cứ như hút rơm khô vậy.
– Hút gì hút lắm vậy. Vừa hai tút hôm nào mà đã hết rồi à? Loại này nghe Đỗ Pháp nói đắt lắm đấy.
– Đắt cũng phải mua, bao che cho các người làm ăn chụp giật để các người có tiền trăm, bạc vạn còn được mà các người nỡ tiếc mấy đồng bạc lẻ à? Liệu thần hồn đấy, không thì …
Tấn Phong bỏ lửng câu nói, Vân Thục kéo Tấn Phong vào buồng giảng hòa:
– Thôi, làm gì mà cau có thế, đây em đền …
Vừa nói Vân Thục vừa ôm ghì lấy Tấn Phong, những mong ở Tấn Phong một sự đáp trả, nhưng Tấn Phong đẩy ra:
– Thôi đi đi cho kịp giờ, để lúc khác. Nhớ mua thuốc cho tôi đấy.
Nhuệ khí Vân Thục tự nhiên như bị thùng nước lạnh xối vào, xẹp xuống như quả bóng đang căng bị chọc thủng, xì hơi. Vân Thục xách túi giận dỗi chạy ra xe. Dạo này hàng tuần Tấn Phong chẳng ngó ngàng gì đến chuyện vợ chồng. Cơ thể Vân Thục tràn đầy sức lực quyến rũ mà chịu nằm không thì sao chịu nổi. Tức mà không biết dãi bầy thế nào, ngồi trên xe nước mắt Vân Thục cứ ứa ra, hờn tủi.
Xe lên đến Móng Cái tầm nửa buổi chiều. Giao hàng xong là vừa tối. Vân Thục cơm nước, tắm gội xong, đang nghỉ tại khách sạn của công ty, chờ sớm mai làm thủ tục thanh toán và chuyển tiền thì Đỗ Pháp tới bảo:
– Giám đốc Sán Lùng cho mời cô lên làm việc. Cô lên tầng ba, phòng kế bên phải, Giám đốc đang chờ.
– Anh đưa em lên chứ?
– Tôi phải đi có chút việc, cô cứ lên một mình. À mà anh Phong có dặn lấy thuốc lá cho anh ấy không? Nếu có, đây là hai tút tôi mua sẵn dành cho anh ấy, Loại này tôi cũng không mua được nhiều, cô cầm về cho anh ấy nhé.
Vân Thục tự nhiên thấy nóng trong người, bồn chồn lên tầng, run run gõ cửa. Một giọng nói lơ lớ vang lên:
– Mời vào.
Đẩy cửa bước vào. Đấy là một căn phòng rộng, bầy đặt các vật dụng sang trọng, cầu kỳ và bắt mắt, nhưng vắng lặng, không một bóng người, Giám đốc Sán Lùng cũng không thấy đâu cả. Vân Thục nghĩ hay mình nhầm phòng, đang định quay ra thì cánh cửa kính gian kế bên nhẹ nhàng mở và một người đàn ông tầm thước, khuôn mặt nhẹ nhàng, thanh tú, tay cầm chai rượu bước ra.
– Cô là Vân Thục? Cô ở Seo Sơn?
– Vâng ạ, em lên giao hàng cho công ty.
– Tôi đã được Đỗ Pháp cho biết rồi. Tôi muốn gặp cô để hỏi thăm về Seo Sơn thôi.
– Giám đốc biết Seo Sơn ạ?
– Tôi cũng biết chứ. Mua hàng ở đấy mà chẳng lẽ không biết tý gì. Đỗ Pháp có kể sơ qua nhưng tôi muốn biết thêm một số chi tiết nữa.
– Thế ạ. Giám đốc cần hỏi gì, em xin cung cấp ạ.
Giọng nói đúng là của người Tầu nói tiếng Việt, lơ lớ, nhưng không khó nghe lắm, dáng là ở Việt Nam đã lâu. Giám đốc Sán Lùng rót rượu mời Vân Thục và hỏi những câu về cảnh vật, con người ở Seo Sơn từ thời xưa cũ. Nhiều câu hỏi Vân Thục không biết vì Vân Thục mới vào Seo Sơn có mấy năm, những gì của Seo Sơn thời trước làm sao Vân Thục biết được.
Thì ra Giám đốc Sán Lùng biết về Seo Sơn hơn nhiều so với cô. Hỏi lại Vân Thục chỉ nhận được từ Sán Lùng câu trả lời “cái nghề kinh doanh nó phải thế, không biết thế sao làm ăn buôn bán ở Seo Sơn được”.
Uống xong chén rượu, Vân Thục thấy người rạo rực giống ngày nào Tư Phây mời cô uống khi lần đầu gặp gỡ. Thế là Vân Thục hiểu Giám đốc Sán Lùng muốn gì ở cuộc gặp hôm nay. Bị Tấn Phong thờ ơ lâu ngày, chắc chắn Vân Thục chẳng tội gì mà bỏ qua ham muốn của vị Giám đốc giầu có và đa tình này, nhưng Vân Thục hiểu cần phải làm gì để đề cao danh giá của mình. Qua thực tiễn tình trường Vân Thục nghĩ mình có đủ kinh nghiệm để làm điều đó.
Khi Sán Lùng giang tay định ôm Vân Thục thì Vân Thục tìm bằng mọi cách trốn chạy. Sán Lùng càng đến sát thì Vân Thục càng trách xa, nhưng bao giờ cũng dành một khoảng cách vừa đủ để Sán Lùng thấy được hơi thở nồng nàn, đắm đuối của Vân Thục, ngắm được làn da mịn màng quyến rũ của người đàn bà đang độ hồi xuân và ngửi được mùi nước hoa thoang thoảng mà Vân Thục giấu kín đáo giữa đôi gò bông đảo căng tròn náo nức.
Sán Lùng chạy qua chạy lại vẫn chưa tiếp cận được Vân Thục.
Lạ thật, những người đàn bà khác khi đã chịu uống ly rượu Sán Lùng mời thì thì chỉ câu trước câu sau chẳng thể từ chối Sán Lùng được. Hay là Vân Thục là người chính chuyên không thể mua chuộc? Không, bằng chứng ngoại tình của Vân Thục ta còn cầm đây, Vân Thục sao chối từ được.
Nghĩ thế Sán Lùng bảo Vân Thục:
– Chẳng lẽ, Giám đốc Sán Lùng anh không đáng mặt đàn ông bằng người khác, khiến em phải chê anh chăng?
– Không phải, anh ga lăng phong độ lắm, nhưng đời em chưa bao giờ gặp tình huống này nên em không thể …
– Thế à, nếu em đã nói thế anh sẽ cho em xem những bức ảnh này nhé.
Vừa nói Sán Lùng vừa xổ lên bàn bốn năm bức ảnh chụp Vân Thục và Tư Phây ăn nằm với nhau trong khách sạn ở thành phố.
Vân Thục tái mặt. Chuyện của Tư Phây và Vân Thục chỉ có Tư Phây, Nguyễn Uyên là biết, sao người đàn ông này lại có những tấm ảnh này. Hay là Tư Phây phản bội Vân Thục. Không thể. Hay là Nguyễn Uyên bán đứng Vân Thục. Cũng không thể.
Trong lúc Vân Thục còn đang bối rối thì Sán Lùng đã đến bên Vân Thục bảo:
– Ta hiểu nhau rồi nhé. Thôi anh đùa ấy mà, hãy lại đây với anh.
Thế là Vân Thục mềm như con sứa, lả lướt trong vòng tay Sán Lùng bước vào căn phòng bên trong xa hoa và đài các không kém phòng bên ngoài, tự động cởi bỏ váy áo, phô bầy cơ thể hồi xuân tràn căng sức sống bị kìm nén bao ngày lao vào Sán Lùng, hổn hền, ngấu nghiến như tan ra trong dục vọng vô bờ bến của Sán Lùng.
Hôm sau và hôm sau nữa, việc thanh toán vẫn chưa xong, bởi theo Sán Lùng nói người viết phiếu đi vắng, Vân Thục vẫn phải chờ đợi. Sán Lùng thân chinh lái xe đưa Vân Thục ra bãi biển Trà Cổ, đãi Vân Thục sơn hào hải vị, toàn những món ngon, khiến lòng người giậm giật. Vân Thục như ngây, như dại, nghĩ mình sao không gặp Sán Lùng sớm hơn nữa. Hai người quấn quýt bên nhau như đôi sam lâu ngày không gặp. Trời đất liên tục ngả nghiêng, chao đảo, quên đêm quên ngày, quên thời quên khắc.
Vân Thục phó mặc mình cho Sán Lùng bởi nghĩ mình chẳng còn gì để mất nữa. Suy cho cùng, chữ trinh tiết cũng chẳng là gì, đời người không được chồng cho thỏa mãn khát khao thì có người khác, chẳng sao cả. Mọi thứ vẫn nguyên vậy, y như ngày đầu, năm cũ, đâu có đổi thay gì. Tiền là niềm ao ước của Vân Thục ngày còn túng thiếu, chứ bây giờ nhiều ít đối với Vân Thục nào có ý nghĩa gì đâu, miễn sao thỏa mãn được khát vọng.
Đêm ấy, Vân Thục xà vào Sán Lùng, kể cho Sán Lùng về những nỗi uất ức của mình đối với Tấn Phong. Sán Lùng nghe xong tràn đầy thương cảm, hứa hẹn sẽ dành cho Vân Thục mọi sự yêu thương, chở che, đùm bọc sâu sắc nhất. Vân Thục âu yếm hỏi Sán Lùng:
– Anh nơi thế không sợ chị nhà bắt phạt à?
– Anh làm gì có chị nhà nào. Anh một mình gà trống nuôi con đã gần chục năm nay. Đời phiêu bạt ngả đâu là nhà, ngã đâu là gường, bao nhiêu người phụ nữ đến với anh nhưng chẳng có ai chung tình cả và anh cũng chẳng tha thiết với ai cả. Chỉ có em là người khiến lòng anh say mê đắm đuối …
– Thật không? Anh cũng mới gặp em mà?
– Đúng là anh mới gặp em, nhưng như là định mệnh. Em đã mang lại cho anh một tình yêu sét đánh. Dù anh cũng đã biết về em rất nhiều, mọi việc làm ăn, buôn bán, mọi mối quan hệ của em anh đều biết, nhưng hình như chính vì đó mà anh càng yêu em như yêu tự lâu rồi.
Vân Thục ngơ ngác không sao lý giải được con người Sán Lùng. Vì sao mà Sán Lùng rất thông thạo mọi chuyện ở Seo Sơn? Vì sao Sán Lùng lại biết Vân Thục và nhất là vì sao Sán Lùng có được những tấm ảnh chụp cảnh ái ân giữa Tư Phây và Vân Thục? Vân Thục chưa kịp hỏi gì thì Sán Lùng đã hôn như điên như dại lên đôi môi mọng đỏ và đa tình của cô, dìm cô vào sâu trong biển tình nồng ái. Rồi họ thiếp đi trong lai láng đam mê cháy bỏng.
Đúng là Sán Lùng yêu Vân Thục như điên như dại thật. Sau hai người phụ nữ đầu tiên đã nhiều năm tháng sống cùng Sán Lùng thì lâu lắm rồi Sán Lùng mới có Vân Thục là người Sán Lùng yêu đến như vậy. Ôi, người Seo Sơn sao mà đắm đuối, mà đa tình, trói buộc lòng Sán Lùng sâu nặng đến thế nhỉ?
Kể từ khi vào đến đất Sài Gòn, với hàng ngàn cây vàng trong tay và một bộ sưu tập biết bao mưu ma, chước quỷ, Sán Lùng đã tưởng mình có thể ngang ngửa với các anh hai Nam Bộ.
Thế nhưng, cuộc đời không ai học được chữ ngờ. Chỉ trong mấy vụ kinh doanh cùng thương gia Sán Long, một Hoa kiều ở Chợ Lớn, tưởng chừng chắc ăn, chắc thắng nhưng không hiểu sao cuối cùng lại bị thất bại. Rồi mấy vụ bể hụi cũng do Sán Long chỉ đạo mà Sán Lùng khát nước lao vào. Thế là toàn bộ tiền bạc và vốn liếng của Sán Lùng đã tan thành mây khói.
Mẹ Sán Lùng thấy con bị lừa, thất bại thảm hại trong thương trường, uất quá lâm trọng bệnh, rồi mất. Thằng anh em kết nghĩa hàng chục năm trung thành theo Sán Lùng cũng không thể chịu được cảnh đói ăn, thiếu uống, đành xung quân vào đội cửu vạn của Hoa kiều Chợ Lớn làm thuê làm mướn kiếm sống, không biết bây giờ sống chết ra sao?
Còn bố con Sán Lùng lâm vào cảnh khốn cùng, được Sán Long đón về cưu mang, ra ân nhận là em kết nghĩa, đổi tên cho mang họ Ba Tầu thành Sán Lùng và điều ra Móng Cái làm Giám đốc công ty Đài Bắc. Tiếng là Giám đốc nhưng mọi hoạt động chỉ đạo công ty đều do Sán Long trực tiếp điều hành. Hệ thống kế toán tài vụ đều do Sán Long nắm giữ. Con Sán Lùng được Sán Long cho ở lại Chợ Lớn. Sán Lùng hiểu rằng, đó là cách giữ người làm con tin, nhưng cũng phải đành chấp nhận.
Bây giờ có Vân Thục trong tay, Sán Lùng thấy vô cùng hạnh phúc. Nhưng niềm hạnh phúc đó nào kéo được nhiều đâu, chỉ sớm mai Vân Thục lại về rồi. Bất giác Sán Lùng thấy lòng mình thật cô quanh và trống trải.
Sớm hôm sau, Vân Thục làm thủ tục thanh toán và chuyển tiền xong xuôi, lên xe khách về Seo Sơn. Chiều tối Vân Thục về đến nhà, đã thấy Tấn Phong đón từ ngõ.
Điều đầu tiên, Tấn Phong hỏi Vân Thục:
– Cô có mua được thuốc lá cho tôi không? Từ trưa đến giờ chẳng còn điếu nào hút, phải nhặt sái hút rồi đây này.
– Đây! Vợ đi về mệt nhọc chưa hỏi han được câu nào đã hỏi thuốc.
Vân Thục chìa ra hai tút thuốc Đỗ Pháp gửi. Vừa nhìn thấy Tấn Phong đã vồ lấy, bóc vội một bao, hút ngấu hút nghiến, nuốt hết cả khói. Nguyễn Uyên đi qua, cười đắc thắng bảo Tấn Phong xem chừng chẳng cần ý tứ gì nữa:
– Anh Tấn Phong hút thuốc kiểu gì như con nghiện thuốc phiện vậy?
– Chú ăn nói kiểu gì thế? Coi chừng đấy nhé!
– Thì em thấy thế nào em nói thế vậy, có gì đâu?
Tấn Phong gườm gườm nhìn Nguyễn Uyên, mắt đỏ đòng đọc. Nguyễn Uyên cũng ném cái nhìn sắc lẻm về phía Tấn Phong không một chút sợ hãi.
Vân Thục ái ngại lo cho Tấn Phong.
Bất giác trong đầu cô thoáng qua ý nghĩ hay Tấn Phong nghiện ma túy thật. Thằng cha Nguyễn Uyên như con ma xó, dạo này nó không còn biết sợ hãi là gì. Tự nhiên Vân Thục đỏ mặt khi nghĩ đến những tấm ảnh Sán Lùng có trong tay. Lạ thật.
Đêm hôm ấy, Tấn Phong vào ngủ với vợ, âu yếm như để đền bù cho công lao của vợ đã quan tâm săn sóc đến chồng. Vân Thục mặc cho Tấn Phong làm gì thì làm, trong đầu cô chỉ hiện lên hình ảnh Sán Lùng với những cuộc mây mưa vừa đắm đuối, nồng nàn vừa khát thèm, ma quái.
37
Vân Thục từ Móng Cái về Seo Sơn được ít ngày thì Đỗ Pháp cũng đến để đốc thúc việc thu gom chè búp khô cho kịp chuyến hàng sắp tới.
Chè khô công ty thu mua càng nhiều, dân tình Seo Sơn càng rủng rỉnh tiền, cửa hàng thương mại tổng hợp của Vân Thục càng đông khách. Quầy giải khát của Vân Thục theo đà phát triển chung cũng nhộn nhịp người ra kẻ vào.
Từ ngày Đỗ Pháp đưa loại thuốc lá Tám Một về cửa hàng đến nay đám thanh niên đua nhau hút, bỏ hết các loại thuốc khác.
Đầu tiên là Tám Một bao xanh xuất hiện. Chỉ trong một thời gian ngắn, Tám Một xanh đã chiếm trọn cảm tình của khách hàng không những vì mùi vị thơm ngon, hút xong điếu thuốc người hút cảm thấy phấn chấn, sảng khoái mà giá cả lại rẻ, cực kỳ hấp dẫn.
Sau đó là Tám Một đỏ bắt đầu có, nhưng rất hạn chế vì khan hiếm. Nghe đâu loại này công ty nhà nước Trung Quốc không sản xuất mà do công ty Đài Bắc sản xuất riêng theo đơn đặt hàng. Đỗ Pháp là người của công ty mới có tiêu chuẩn mua, vì đắt không dám hút, mang về giới thiệu sản phẩm. Khách hàng thân quen, có công lao với cánh bảo vệ mới được đặc cách mua hút, nhưng cũng chỉ được mua nhỏ giọt ngày vài ba điếu lẻ mà giá lại rất đắt, đắt gấp hàng mấy bao thuốc thường. Những người khi đã hút loại này, khi không có cảm thấy bứt rứt khó chịu, phải tìm cho bằng được để hút.
Vân Thục gặp Đỗ Pháp và nghĩ đến lời Nguyễn Uyên nói bèn hỏi:
– Nhà em từ ngày hút thuốc của anh mua cho nghiện quá, không có không chịu nổi, cứ như người nghiện thuốc phiện ấy.
– Ừ thì loại thuốc ấy người ta tẩm thuốc phiện, sản xuất theo đơn đặt hàng của khách hàng quyền quý mà lại.
Đến lúc này Đỗ Pháp không úp mở nữa, trả lời thẳng thắn.
– Thôi chết, anh biết thế sao lại mua cho nhà em hút.
– Tôi bận trăm công nghìn việc, có rỗi hơi đâu, đấy là ông ấy bắt phải mua cho ông ấy chứ. Mà hút thì có làm sao, chỉ khỏe người ra thôi. Đắt thì đắt thật nhưng có phải mất mấy tiền đâu mà lo.
– Ôi anh ơi, người ta nói người đã vướng vào nghiện thuốc phiện thì bao nhiêu của nả chui qua lỗ xe điếu hết thôi. Thế này thì anh giết em thật rồi.
– Làm gì mà ghê thế. Vài bao thuốc có thấm tháp gì so với tiền của của vợ chồng cô. Cô cứ lo bò trắng răng cho nó sầu đời đi. Kệ nó, trời sinh voi ắt sinh cỏ. Dịp tới cô lên công ty, nói với giám đốc Sán Lùng cho tiêu chuẩn mua về phục vụ cho đám thanh niên ở đây, bây giờ chúng nó đang thèm khát lắm. Này, tôi bảo, được mua loại thuốc ấy về bán có mà hái ra tiền đấy.
Vân Thục đau đớn như xát muối vào lòng mà không biết nói năng gì. Cô cảm thấy như có thòng lọng siết vào cổ mình, không biết làm thế nào thoát ra được. Cô đã cố gắng thoát ra khỏi cái vòng kim cô Nguyễn Uyên siết lên đầu thì giờ lại mắc vào vòng thòng lọng của Đỗ Pháp. Bất giác Vân Thục nghĩ đến tập ảnh Sán Lùng có trong tay. Chỉ có thể là Nguyễn Uyên cung cấp qua Đỗ Pháp cho Sán Lùng. Cô lờ mờ nhận ra một sợi dây liên kết giữa Nguyễn Uyên, Đỗ Pháp và Sán Lùng. Mối liên kết đó chắc chắn không phải tốt lành gì. Giờ đây chính Vân Thục tay đã nhúng chàm, đã liên quan mật thiết, cùng hội cùng thuyền với họ.
Bây giờ biết làm thế nào? Sao số cô lại khổ đến thế này nhỉ?
Đêm hôm ấy, Vân Thục không sao ngủ được, cứ chong chong nhìn lên đình màn. Cô như bị vây trong vòng vây tuyệt vọng mà Nguyễn Uyên và Đỗ Pháp đã dựng nên. Muốn thoát khỏi vòng vây đó, chắc chắn không thể trông chờ gì vào bọn họ. Chỉ có thể trông cậy vào một người. Người đó là Sán Lùng. Vân Thục nghĩ vậy.
Tìm được giải pháp khả dĩ tối ưu, Vân Thục tạm an tâm thiếp đi, cũng là lúc gà gáy đã râm ran báo hiệu trời sắp rạng.
Chuyến hàng lên Móng Cái đã chuẩn bị xong. Hôm nay Vân Thục sắp sỏn công việc đi giao hàng theo kế hoạch.
Ngồi trên xe Vân Thục lung bung với bao suy nghĩ. Một thân một mình, thân gái dặm trường, đi vào nơi hang hùm, miệng rắn, lo đối phó với những kẻ mưu mô hiểm độc không phải chuyện đùa. Cơ chế thị trường đã dậy cho Vân Thục cái chân lý hiển nhiên rằng “ông có mất chân giò, bà mới thò chai rượu”. Điều đó là thực tế.
Ở đời chẳng ai cho không ai cái gì bao giờ. Người ta cuốc đều giật vào lòng cả. Thế nhưng, có một hạng người chuyên đi lợi dụng người khác để kiếm lời, thậm chí còn nhẫn tâm hơn theo kiểu “ngư ông đắc lợi”. Vân Thục đã bị Nguyễn Uyên đẩy vào tình thế dở khóc, dở cười này. Hắn đã lợi dụng cả thân xác và công sức của Vân Thục để kiếm ăn. Nhưng cái khốn nạn hơn cả là hắn đã dùng ngay những việc làm ê chề và bẩn thỉu đó để khống chế Vân Thục, coi Vân Thục như món đồ chơi, đẩy qua, đẩy lại để mưu cầu hưởng thụ.
Vì vậy, một mình Vân Thục không đối chọi được với chúng. Vân Thục cần tìm một chỗ dựa, kiến tạo một liên minh, ít nhất không cho những kẻ đục nước béo cò ấy tác oai, tác quái.
Vân Thục biết Sán Lùng yêu mình thật. Linh cảm người phụ nữ dầy dạn tình trường cho Vân Thục biết được điều đó. Trong cái đam mê của Sán Lùng có ngọn lửa của lòng trân trọng, có khát khao của tình yêu và lòng quý mến.
Khác với Tư Phây, tình cảm của Tư Phây với Vân Thục là tình cảm hưởng thụ, tình cảm của sự ban ơn, tình cảm của sự cò kè, có đi có lại. Còn tình cảm của Sán Lùng là tình cảm của con thuyền đang cô đơn trên hoang biển tìm được một nơi bến đỗ. Cái khát khao của Sán Lùng mang dáng dấp của sự hàm ơn.
Vì vậy, Vân Thục quyết định lần này đánh bài ngửa hỏi hết Sán Lùng để hiểu hết tường tận mọi điều cho ra ngô, ra sắn.
Nếu Sán Lùng không cho Vân Thục biết rõ sự tình, Vân Thục coi như dùng thân xác mình làm món quà biếu để công việc mua bán thêm thuận lợi giống như đối với Tư Phây. Tấn Phong có biết, thì cũng coi như sự đã rồi, chắc chẳng dám làm to chuyện vì những tút Tám Một đỏ đối với Tấn Phong giờ đây còn quý hơn sự trinh tiết của vợ. Còn như Sán Lùng mở lòng với Vân Thục, Vân Thục sẽ có một đồng minh đủ sức và lực để bóp chết những âm mưu hèn hạ và bẩn thỉu của Nguyễn Uyên và Đỗ Pháp.
Đúng như Vân Thục đánh giá, Sán Lùng thấy Vân Thục lên giao hàng mừng như mẹ về chợ. Sán Lùng bồn chồn mong ngóng ra mặt, quanh quẩn ở chỗ giao hàng, giục kẻ bốc xếp, giục người tịnh cân như chỉ mong sớm giao xong hàng để được gặp Vân Thục.
Kể ra cũng lạ. Một kẻ như Sán Lùng mà lại có lúc mê mệt người phụ nữ hai con là điều hiếm gặp. Nhưng thực tế là vậy. Vân Thục như cục nam châm có sức hút mãnh liệt khiến Sán Lùng không thể cưỡng lại lòng mình. Người đàn bà đó có khả năng buộc những người như Sán Lùng trở nên hướng thiện.
Kể từ khi được ôm Vân Thục trong lòng, được ánh mắt đa tình của Vân Thục mơn trớn, nhiều lúc Sán Lùng muốn bỏ hết để được cùng Vân Thục đi tìm một cuộc sống bình an thanh thản, lương thiện, không vướng bận vào những mưu mô, chụp giật. Hiềm một nỗi đứa con của Sán Lùng còn đang ở trong tay Sán Long, ông ta đã dùng nó xích chân Sán Lùng, khiến Sán Lùng cam chịu thân phận tôi tớ.
Gặp Vân Thục, Sán Lùng như con thú hoang đã yên bề thuần hóa, thổn thức, nói trong mắt lệ:
– Anh nhớ em quá thể. Em về nhà có chồng, nhớ đến anh không?
– Em có! Lúc nào cũng nhớ đến anh.
– Hay là bỏ quách hắn lên đây với anh, mình sẽ cùng nhau sống một cuộc sống không vướng víu bụi trần.
– Không được đâu anh ơi! Em còn hai đứa con nữa.
– Sao chúng mình khổ thế nhỉ? Đã gặp nhau rồi mà trời nỡ bắt mình xa nhau là sao hở em?
Vân Thục nghẹn ngào vùi đầu vào ngực Sán Lùng như muốn tìm một niềm tin, một bến đỗ.
Sau những giây phút đê mê man dại, Vân Thục mới nhẹ nhàng hỏi Sán Lùng:
– Đỗ Pháp có quan hệ thế nào với anh?
– Chẳng có gì sâu nặng cả. Hắn trước là cán bộ Công ty Giấy, bị sa thải nên lang thang lên đây đã bốn, năm năm nay. Đầu tiên làm cửu vạn cho anh, sau thấy hắn nhanh nhẹn, học hành tử tế, có bằng cấp, làm được việc, lại là người am hiểu thể chế chính trị ở Việt Nam. Anh cần hắn bền bố trí cho làm nhân viên chuyên mua chuộc, moi tin kinh tế từ các cán bộ chính quyền, phục vụ cho mục đích của công ty.
– Ô, Công ty Giấy thì ở trên em, em bán hàng ở đấy mãi.
– Đúng thế, hắn trước làm ở đấy đấy.
– Vì thế hắn mới có ảnh em và Tư Phây đưa cho anh?
– Không phải, ảnh ấy là của người khác đưa cho hắn?
– Tư Phây à?
– Không phải, anh chưa biết người này.
Thế là đã rõ. Nguyễn Uyên đã chụp lén và bán đứng Vân Thục, sau khi đã no xôi chán chè tiền bạc nhờ Tư Phây và làm cho Tư Phây thất sủng. Đối với Nguyễn Uyên không có anh em, bạn bè gì cả. Tất cả chỉ là màn kịch mà hắn là kẻ vừa tung, vừa hứng để kiếm lợi.
Vân Thục đã đoán đúng. Giữa Nguyễn Uyên và Đỗ Pháp còn là một cặp bài trùng nhưng lại tỏ ra không hề quen biết. Thế thì hẳn hai người này còn có âm mưu gì ở Seo Sơn đây.
Nghĩ thế Vân Thục giả vờ âu yếm Sán Lùng và hỏi tiếp:
– Thế thuốc Tám Một đỏ là công ty anh sản xuất à? Có phải nó được tẩm thuốc phiện không?
– Đúng vậy, Tám Một đỏ tẩm thuốc phiện chỉ dùng để gây nghiện cho các cán bộ cần được mua chuộc, lôi kéo và đám thanh niên để khống chế chúng làm những việc theo kiểu Hồng vệ binh ngày trước. Ai đã hút thứ thuốc này coi như phải mãi mãi phụ thuộc vào người có nó.
– Thế thì anh đã hại em rồi, chồng em đã nghiện nó.
– Ai cho chồng em hút?
– Đỗ Pháp.
– Thảo nào. Nhưng mà thôi, bây giờ cũng chẳng gỡ được nữa đâu, kệ hắn, như thế mình càng có cơ hội gần nhau nhiều hơn. Những người đã nghiện sẵn sàng bán vợ đợ con để có thuốc hút. Em phải cảnh giác đấy.
– Đỗ Pháp còn bảo em lên nói với anh cho nhận mang về Seo Sơn bán, lãi lắm.
– Đừng, việc ấy nguy hiểm lắm em ạ, lộ ra là tù tội như chơi. Em coi như không biết, cứ để Đỗ Pháp làm thôi, nếu lộ ra chỉ mình hắn chịu.
Vân Thục biết đã đi vào con đường hầm không lối thoát. Ê chề nhận ra mình đã phản bội chồng, không phải chỉ phản bội bằng thân xác, mà đã phản bội cả linh hồn. Không những chỉ phản bội chồng mà cô còn phản bội cả dân bản, phản bội làng xã. Bây giờ cô muốn quay đầu lại cũng không được nữa. Lối về đã bị lấp kín. Chắc chắn rằng việc Đỗ Pháp đưa thuốc cho cô đã được ghi hình. Những kẻ đó không phải còn non nớt đối với những việc này.
Bất giác Vân Thục nấc lên, đau đớn.
Sán Lùng như thấu hiểu tâm trạng của Vân Thục bèn cất tiếng động viên:
– Thôi mà em, đời người sống được mấy chốc. Cứ vui lên mà sống, suy nghĩ dằn vặt mà làm gì. Cái công ty Đài Bắc đó cũng đâu phải do anh điều hành. Nó là của ông trùm Ba Tầu Chợ Lớn Sán Long đấy chứ, anh chỉ là người đứng tên thôi. Được thì họ ăn, bị lộ là mình anh lãnh đủ, dựa cột có đến hàng trăm lần cũng không hết tội.
Vân Thục như chợt nhớ ra, vội nói:
– Anh không phải động viên em nữa, tay em đã chót nhúng chàm rồi, có rửa cũng chẳng sạch được. Nhưng anh cho em hỏi nốt câu này, sao anh biết Seo Sơn tỷ mỷ đến thế?
– Đấy là bí mật của anh, không ai được biết đến. Nhưng với em, anh không nỡ giấu. Anh đã có thời gian dài sống ở đó.
– Thế à, anh kể nữa đi.
– Thôi, em chỉ nên biết đến đấy thôi, nhưng tuyệt đối không được cho ai biết điều này, sống để bụng, chết mang theo. Em hứa với anh nhé.
– Vâng, em hứa.
38
Tấn Phong hút hết hai tút thuốc Tám Một đỏ Đỗ Pháp gửi Vân Thục mang về mà vẫn không thấy bóng dáng Đỗ Pháp đâu. Ruột gan Tấn Phong nóng như lửa đốt.
Hết thuốc, mồm miệng Tấn Phong nhạt hơn nước ốc, chân tay buồn bực như có nghìn vết kim châm, không nghĩ ra được cái gì cả. Nhiều lúc Tấn Phong muốn gồng người lên, muốn bứt phá, la hét cho hả lòng, hả dạ nhưng không sao làm nổi. Bây giờ, tâm can tỳ phế của Tấn Phong chỗ nào cũng như có kiến cắn. Giá như có ai có thuốc cho Tấn Phong hút, chắc bảo gì Tấn Phong cũng làm, chẳng quản từ nan.
Tấn Phong không đến Ủy ban đã hai ngày, ai đến hỏi Nguyễn Uyên đều nói Tấn Phong bận việc riêng, chắc ngày mai mới đi làm được.
Nằm trong buồng chán chê, Tấn Phong lại lơ ngơ ra quán chờ Đỗ Pháp. Vân Thục biết Tấn Phong đang đói thuốc nhưng cũng chẳng biết tìm đâu ra, đành chịu nhìn chồng rã rượi, miệng sùi bọt trắng xóa.
Sẩm tối, có tiếng xe phanh kít trước cửa nhà, Tấn Phong như con mãnh thú vội lao ra, tưởng Đỗ Pháp đến. Nhưng trước mắt Tấn Phong không phải người Tấn Phong mong đợi mà là Nguyễn Uyên. Tấn Phong gầm gừ trong cổ họng:
– Có việc gì?
– Tất nhiên là có việc chứ. Anh có mời tôi vào nhà hay để tôi tự vào?
– Tôi … mệt.
– Mệt hay đói, có cần cái này không?
Nguyễn Uyên chìa ra bao thuốc Tám Một đỏ dở dang, còn đôi ba điếu. Mắt Tân Phong sáng lên, mặt mũi ra dáng quỵ lụy, chân tay xun xoe, miệng lắp ba, lắp bắp:
– Chú … chú Uyên … chú có thuốc à? … cho anh xin … một hơi …
– Đây, cầm lấy, nhớ là từ nay gặp tôi phải chủ động chào trước nhé. Đừng để đây phải nhắc đấy.
Quẳng bao thuốc dở xuống trước mặt Tấn Phong Nguyễn Uyên lên xe rồ ga phóng đi, để lại sau lưng đám bụi mù mịt, phả vào mặt Tấn Phong trong ánh hoàng hôn xám ngoét. Tấn Phong cúi gập người vồ lấy bao thuốc rút một điếu, không kịp tìm bật lửa, bỏ vào mồm nhai ngấu nhai nghiến.
Vân Thục chứng kiến cảnh ấy từ đầu, đau đớn, úp hay bàn tay vào mặt, khóc nấc lên.
Nhờ có mấy điếu thuốc Nguyễn Uyên cho, sáng nay Tấn Phong tỉnh táo hẳn, lên Ủy ban làm việc. Vừa nhìn thấy Nguyễn Uyên, Tấn Phong đã đon đả:
– Chào chú Uyên, cám ơn chú nhé.
Nguyễn Uyên không nói gì, chỉ nhếch mép, ra vẻ khinh khi, cao đạo.
Cả ngày hôm ấy, Tấn Phong đi ra, đi vào, ruột lại nóng như lửa đốt, mong Đỗ Pháp đến đỏ cả mắt mà vẫn bặt vô âm tín. Tấn Phong không có thuốc lại bải hoải, bài hoài. Tối hôm ấy, không chịu được cơn đói thuốc, Tấn Phong lôi thôi lếch thếch đi bộ đến nhà Nguyễn Uyên gọi cổng. Đàn chó dữ thấy người lạ chồm ra sủa ông ổng. Từ trước đến giờ chẳng bao giờ Tấn Phong hạ cố đến nhà Nguyễn Uyên, nhưng nay thì khác. Nếu Nguyễn Uyên bắt Tấn Phong quỳ rạp dưới chân để cầu xin lấy điếu thuốc Tấn Phong cũng sẵn sàng.
Nỉ non gọi cổng mãi đến gần nửa tiếng, Nguyễn Uyên mới ra mở cổng và sẵng giọng:
– Có việc gì không?
Thái độ Nguyễn Uyên bây giờ là thái độ của kẻ chủ động giữ nhịp cuộc chơi, thái độ của tầng kẻ cả. Tấn Phong như danh tướng bại trận, đã thua lại không còn khí tiết, tham ăn tham hút, khác hẳn thế thượng phong của một vị chủ tịch, bạc nhược và hèn hạ xun xoe:
– Xin chú cho anh điếu thuốc.
– Lấy đâu thuốc mà cho ông mãi được. Ông phải tự kiếm lấy mà hút chứ?
– Ở đây không chỗ nào có. Nếu có bao nhiêu anh cũng mua. Từ trước anh chỉ biết trông mong vào Đỗ Pháp, nhưng ông ta chưa thấy đến.
– Tôi cũng làm gì có.
– Anh biết chú có. Chú ra ân cho anh, bao nhiêu tiền anh xin trả đủ.
Nguyễn Uyên lẳng lặng đi vào nhà. Tấn Phong rón rén, cung cúc đi vào theo. Không rót nước mời, Nguyễn Uyên nói luôn:
– Ông nghiện nặng quá rồi. Bây giờ không có thuốc cho ông hút thì chẳng mấy ngày nữa ông thành kẻ thân tàn ma dại. Ngồi ở ghế chủ tịch mà thế thì dân người ta phế truất sớm. Nhiệm kỳ của ông cũng chỉ còn vài tháng nữa là hết. Quan dẫu không phế truất ông, thì dân họ cũng chẳng bầu. Đằng nào ông cũng mất chức, bị ê mặt, mang tiếng suốt đời, bây giờ lại không có thuốc hút, vật vờ khổ cực.
Ngừng một lát như để câu nói thấm sâu vào lòng Tấn Phong. Sau đó Nguyễn Uyên mới thủng thẳng nói tiếp:
– Chi bằng bây giờ, ông nghe tôi, xin từ chức chủ tịch và giao cho tôi để tôi điều hành, vài tháng nữa bầu cử lại, tôi trả cho dân là xong. Đổi lại, mỗi ngày tôi cho ông mươi điếu thuốc, một tháng mươi, mười lăm bao, không để ông thiếu. Tôi sẽ giữ kín việc này, thế là ông giữ được vẹn toàn danh tiếng mà không bị cơn vật nó hoành hành. Nghĩ kỹ đi, đồng ý làm đơn từ chức, tôi sẽ cung cấp thuốc cho ông hút ngay.
– Đầu óc anh bây giờ chẳng nghĩ được gì cả, chú cho anh xin hơi thuốc cho đầu óc tỉnh táo rồi anh quyết định.
Nguyễn Uyên mở tủ rút ra một tút Tám Một bao đỏ. Tấn Phong mừng qua xô đến, nhưng Nguyễn Uyên nhanh tay cất ngay vào tủ. Tấn Phong vồ hụt, ngã vập mặt xuống đất, chới với, hộc lên một tiếng. Chờ cho Tấn Phong ngấm đòn Nguyễn Uyên dằn giọng:
– Ông đồng ý sẽ có thuốc hút ngay. Còn nếu không thì không bao giờ có cả. Ông nên nhớ rằng, ông không đồng ý thì nhiệm kỳ của ông cũng chẳng còn bao lâu nữa. Ông sẽ bị hạ bệ trong nhục nhã, ê chề.
Bị đẩy đến thế đường cùng, Tấn Phong đành chấp nhận viết đơn xin từ chức vì lý do sức khỏe, giao lại quyền Chủ tịch cho Nguyễn Uyên. Nguyễn Uyên rút cho Tấn Phong mười điếu thuốc và căn dặn:
– Ngày mai, ông và tôi sẽ cùng lên Đảng ủy xã. Có thuốc hút ông sẽ tỉnh táo và trình bầy cặn kẽ với Bí thư Bầu. Cứ nói sức khỏe kém, có bệnh đau tim, không đảm nhiệm công tác được nữa, nay xin nghỉ, bàn giao công tác cho Nguyễn Uyên làm Chủ tịch để đi chữa bệnh, xin Đảng ủy phê duyệt vào đơn. Bí thư Bầu ký xong, phần còn lại tôi sẽ lo, đáp lại ông sẽ có đầy đủ thuốc hút. Nếu ông trở mặt, đừng trách tôi ác. Thế nhé, giờ ông về đi.
Thế là Nguyễn Uyên hoàn thành việc giành ghế Chủ tịch xã trong chớp nhoáng. Không như lần trước lật đổ tranh quyền không thành, bị đánh tơi tả phải chấp nhận án kỷ luật đuổi khỏi Công ty Giấy, lần nay việc tiếm ngôi của Nguyễn Uyên thành công trên thế thượng phong mỹ mãn.
Vài ngày sau, Nguyễn Uyên có quyết định trở thành Chủ tịch xã Seo Sơn, chính thức ngồi vào ghế lãnh đạo chính quyền cao nhất của xã.
39
Thấm thoắt lại một mùa xuân mới lại về trên đất Seo Sơn.
Mưa xuân mơ hồ bay bay trên nền trời Đá Vách, giăng mờ che kín rừng Khe Cút, khiến không gian nửa thực, nửa mơ. Đào mai cũng lưu luyến như lòng người nên dùng dằng còn vương trên cành sắc hoa đỏ trắng. Hơi ấm mùa xuân bừng trên má những cô gái Mường Dao, trên đôi môi mọng đỏ các thiếu nữ người Kinh đang tập hát những bài giang, bài ví. Tiếng chàm đuống rộn ràng bản trên, bản dưới khiến lòng người xao xuyến, bồi hồi buông câu tìm bạn.
Dòng suối Khe Moong mùa xuân nước chẩy như êm hơn, thanh thản hơn. Lối đi qua Bến Tình những viên cuội trắng như tinh nghịch hơn trêu những bàn chân trắng muốt của những sơn nữ. Hinh như mùi hương của những nam thanh nữ tú qua đây khiến nước cũng bắt mùi xao xuyến. Bến Tình đã qua những ngày đau thương sau cơn lũ bùn khủng khiếp. Giờ đây, Rừng Đại Ngàn đã mỉm cười, thả xuống lòng suối những cánh hoa rừng để tỏ lòng tri ân của rừng với con người Seo Sơn tình nghĩa.
Tết năm nay Seo Sơn như bồng lên bởi bao nhiêu đổi thay nhanh chóng. Cơ chế thị trường đã xóa đi những thiếu thốn hàng hóa, lương thực và thực phẩm. Nhà nhà thấy mình mới hơn, bản bản cũng thấy mình thay da đổi thịt.
Vùng đất Đá Vách cũng vậy. Xưa kia sỏi đá khô cằn, bong bong tế guột còn không buồn sống. Giờ đá chìm, đá nổi đã được thu gom thành bờ, thành đống, đất được cầy tơi, đào xốp, thành rãnh thành hàng, phân gio đầy đủ, chè đã nên vùng dẫu chưa ken hàng, giao tán nhưng đã mướt tay, mát mắt. Những đồi chè hai ba năm tuổi ngồn ngộn búp đã đành, những đồi chè một năm tuổi cũng được hái tạo tán, mỗi cây giờ đã đơm cành, tỏa búp ngang bằng miệng nồi đồng bẩy.
Đập Đá Vách mới năm ngoái còn toàn gai móc mèo, xấu hổ, nay đã thành ruộng lúa, cấy để tạo bùn, tạo thức ăn phù du cho sang năm tích nước thả cá. Những hụi tre luồng, những búi nứa ngộ cũng đã được trồng xung quanh vùng hồ nước. Không ai nghĩ rằng nơi chó chê, gà sợ này lại có thể có mầu xanh của chè, của lúa, của nứa, của tre. Ấy thế mà giờ điều đó đã là hiện thực.
Năm nay, mọi công việc chuẩn bị cho mùa trồng mới cũng đã xong. Những quả đồi còn lại chưa trồng gần xa đã được Công và Tấn ra công khai hoang móc đá, đào rãnh, được bố trí cuốc hố, bỏ phân từ đầu mùa đông đang chờ sang xuân là hạ bầu, lấp hố.
Với diện tích phải trồng năm nay nhiều gần gấp đôi năm ngoái, Giám đốc Căn đã hợp đồng với công ty Phú Long, với dân bản Đá Vách, Sa Lỳ, Cọ Sơn, Thắng Lợi, với đoàn thanh niên Seo Sơn quyết tâm trồng xong trước tuần cuối tháng giêng.
Không phải là vận động lao động công ích, cũng không phải là đóng góp không công mà đó là hợp đồng kinh tế, tiền nong sòng phẳng, công sức phân minh nên ai cũng hăng hái, tranh thủ hết mình.
Sức con người khi đã hợp tác với nhau, thuận lòng, đồng chí thì có thể dời non lấp bể, cho nên chưa đầy một mùa trăng, diện tích hơn năm chục héc ta chè trồng mới của Giám đốc Căn đã xuôi chèo mát mái, gọn gàng đâu đấy. Bầu chè hớn hở đón mưa xuân và nắng lụa.
Tấn và Dung thanh thản, ríu rít bên nhau đi trên con đường bờ lô, uốn lượn theo những vạt đồi đã hết thời trống vắng. Họ ngửa mặt đón những bụi mưa mát lạnh, khúc khích vui đùa như những chàng trai, cô gái đương thì “dậy rồi những lứa tuổi biết yêu” vậy. Tấn cũng bớt đi vẻ nghiêm nghị, ít cười, kém nói của mình, đã không còn bối rối trước sự hồn nhiên tinh nghịch của Dung nữa.
Họ đang chuẩn bị cho lễ cưới.
Được sự giúp đỡ của công ty, Tấn được cấp một mảnh đất thổ cư trong quy hoạch khu dân cư. Anh đã xây được một căn nhà từ trong năm và đón hai bà cháu ở quê lên, chuẩn bị cho tổ ấm gia đình mới. Những gốc cây ăn quả được hạ thổ từ cuối thu năm ngoái sang xuân đã trăng trắng đầu cành, dáng chừng muốn gọi mầm, phát búp. Vài khóm hoa Dung trồng hôm nào cũng hớn hở đua với tiết xuân, khoe tươi, dục thắm. Những đôi chim vành khuyên xây tổ ở hàng cây ven đường, nhân xuân ấm, đã ríu rít bay về, cất lên những tiếng tươi vui lích tích. Những cánh ong đã dập dìu kéo nhau đi tìm mật. Đôi lúc trời đã hé ra, những tia nắng ấm đã lao xao đây đó.
Họ đã nên vợ nên chồng sau vụ trồng chè xuân. Nhìn họ âu yếm bên nhau, ai cũng mừng cho họ.
Trên mảnh đất này, đâu phải chỉ cây cối mới được hồi sinh mà những mảnh đời cô quạnh cũng đã được hợp lại, tươi vui, tràn đầy hạnh phúc.
Bất giác Giám đốc Căn thấy trong lòng ấm áp. Sau bao thăng trầm trên vùng đất hoang cằn Đá Vách, bây giờ người và đất đã bắt đầu được tươi vui. Công việc còn ngổn ngang trăm mối, anh còn bao việc phải làm, nhưng phía trước trời như đã rạng.
Anh bỗng nghe đài nhà ai vang lên khúc hát “Em ơi mùa xuân đến rồi đó, dang rộng vòng tay đón cuộc đời…” như một lời động viên, nhắc nhở và thúc dục anh tiếp tục mạnh bước hơn nữa trên con đường đã chọn.
Sau khi đoàn công tác nước ngoài về, Phạm Bá Long quyết định đầu tư liên doanh với Hà Trọng Căn xây dựng phân xưởng chế biến thức ăn gia súc, cung cấp cho trại chăn nuôi của Công ty Đá Vách.
Với lợi thế các nguyên liệu đầu vào cho việc chế biến thức ăn gia súc được mua tại địa phương hoặc vùng lân cận nên giá thành sản phẩm hàng hóa thức ăn gia súc xuất xưởng thấp, giúp cho liên doanh có một khoảng chênh lệch không nhỏ.
Tất cả các khoản lợi nhuận đó cùng với tiền thưởng xuất khẩu hàng năm của Nhà nước cho số sản phẩm của Giám đốc Hà Trọng Căn được liên doanh đưa vào quỹ dự phòng cho Công ty Đá Vách. Chính điều này đã giúp cho công ty và các hộ chăn nuôi thêm vững lòng đầu tư cho chương trình chăn nuôi lợn theo phương pháp sử dụng thức ăn công nghiệp.
Cuối năm ấy, thị trường thịt lợn thành phố chao đảo vì cơn sốt giá. Thôi thì giá thịt lợn hơi cứ tăng tính theo ngày, theo buổi, sớm một giá, chiều một giá, chẳng biết thế nào mà lường cả. Càng gần tết nguyên đán, thị trường thịt lợn càng canh tranh sôi động.
Các thương nhân thành phố lần mò lên các vùng xa để mua lợn hơi. Ở Seo Sơn hàng ngày không thiếu người buôn đến săn lùng mua lợn. Chưa đến tháng xuất họ cũng gạ mua. Những hộ nuôi lợn tự do không nói làm gì. Nhưng các hộ nuôi được đầu tư ứng trước, có cam kết bán cho Công ty Đá Vách, nay thấy giá bên ngoài cao hơn giá bán cho công ty cũng lục xục đòi bán cho bên ngoài để hưởng chênh lệch giá. Trong khi Công ty Đá Vách gần đến ngày phải giao lợn cho Giám đốc Phạm Bá Long thì sự tranh chấp này quả là bài toán nan giải.
Mặc dù có công văn của huyện yêu cầu các xã cân đối nguồn cung cầu ở địa phương, có kế hoạch chuẩn bị thịt lợn tết cho nhân dân trong xã, không được cho cánh lái lợn tự do thu mua của dân, nhằm bình ổn giá thị trường trong dịp tết nguyên đán, nhưng chủ tịch xã Nguyễn Uyên giả như không biết.
Nguyễn Uyên cho triệu tập cuộc họp với các trưởng bản và đưa ra đề nghị:
– Hiện nay theo phản ảnh của nhân dân, Công ty Đá Vách của Giám đốc Hà Trọng Căn lợi dụng lòng tin của nhân dân, ép giá thu mua lợn để ăn chênh lệch giá, nhằm tư lợi cá nhân. Đề nghị các trưởng bản bảo vệ lợi ích của nhân dân, kiên quyết không cho công ty mua theo giá thấp. Nếu công ty không nghe, Ủy ban xã chỉ đạo đồng ý để dân bản bán cho tư thương bên ngoài. nhằm bảo vệ quyền lợi của nhân dân.
Một số ý kiến đồng tình với chỉ đạo của chủ tịch Nguyễn Uyên:
– Phải đấy, cơ chế thị trường đâu giá cao thì ta bán. Thế là đúng rồi.
Trưởng bản Triệu Thị Hân bật dậy:
– Chúng ta nên xem xét lại. Giám đốc Căn không tiếc công sức và tiền của, đã đầu tư ứng trước cho dân bản từ con giống, thức ăn, lại còn hướng dẫn chi tiết làm chuồng trại, ao chuôm, ký hợp đồng với bên xuất khẩu thu mua cho chúng ta. Lúc khó có người ta, bây giờ giá cao, không bán cho người ta, thế là bội tín, không đúng cái đầu dân mình nghĩ đâu.
Nguyễn Uyên vặc lại:
– Đồng chí Hân nói không đúng nghị quyết của Đảng bộ rồi, nghị quyết của Đảng bộ là Đảng phải lãnh đạo nhân dân làm kinh tế, mang lại lợi ích cho nhân dân. Đấy mới là phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nếu bắt dân bán sản phẩm mình làm ra với giá thấp có nghĩa là bắt dân bỏ tiền, bỏ của đem lại lợi ích cho Giám đốc Công ty Đá Vách à? Thế sao gọi là Đảng lãnh đạo được?
Mọi người còn đang phân vân chưa kịp có ý kiến, Nguyễn Uyên đã kết luận:
– Thôi! Ủy ban còn nhiều việc phải lo, Chủ tịch Ủy ban ra quyết định: vì lợi ích nhân dân, theo đề nghị của nhân dân và bảo vệ lợi ích của nhân dân, đồng ý cho nhân dân được bán lợn cho nơi nào có giá cao hơn đúng theo kinh tế thị trường. Ai chống lại quyết định này là chống lại chính quyền, vi phạm lợi ích của dân bản, vào hùa với những người lợi dụng việc làm kinh tế để bóp chẹt nhân dân.
Thế là lợi dụng quyết định của Nguyễn Uyên, cánh lái lợn đổ xô đến chèo kéo mua vét từng con, bất chấp lệnh của Chủ tịch huyện cân đối ưu tiên để lợn cho nhân dân mổ tết.
Triệu Thị Hân mở cuộc họp với những người ở Cọ Sơn nuôi lợn theo phương thức ứng trước, bán cho Hà Trọng Căn và mời già làng Triệu Văn Nga tới dự, thông báo kết luận của Chủ tịch Ủy ban thả lỏng việc bán lợn theo giá ai cao thì bán. Một vài ý kiến đồng tình nhưng nhiều ý kiến chưa thống nhất:
– Người Dao mình xưa nay nói một lời hợp cái bụng là mình ưng, ưng thì mình theo. Giám đốc Căn làm là vì mình, mình đã hứa bán cho Giám đốc Căn là mình bán thôi, còn ai bán đâu mặc kệ họ. Lúc no đã vậy, lúc đói thì làm sao.
– Nói hợp ý ta lắm. Đừng nuốt lời như con thú rừng vậy. Ta không bán ra bên ngoài đâu. Trả cao ta cũng không bán mà.
Già làng Triệu Văn Nga lúc này mới chậm rãi phát biểu:
– Bà con nói phải rồi. Nhớ cái hồi phá rừng Khe Cút mà làm bài học. Đừng tham cái lợi trước mắt. Tham trước mắt là hiểm họa nó đến sau lưng đấy. Giám đốc Căn có tham cái trước mắt đâu. Nó ứng trước tiền bạc, giống vốn cho mình mà, sao lại phản lại nó. Phản lại Giám đốc Căn là không tốt đâu.
Thế là mọi người đều đồng tình bán lợn cho công ty của Giám đốc Căn, không ai bán ra ngoài cả.
Các bản khác cũng nhờ các già làng giảng giải nên nhiều người nhận ứng trước của Giám đốc Căn cũng để lợn lại bán cho công ty. Thế nhưng cũng có một số người hám lợi, nên lấy cớ theo ý kiến chỉ đạo của Ủy ban, cứ bán cho tư nhân bên ngoài.
Giám đốc Căn thân chinh xuống các bản cám ơn bà con. Mọi người nắm chặt tay Giám đốc như nắm bàn tay những người bạn thủy chung, tình nghĩa. Các tư thương bên ngoài không mua được lợn nữa cũng rút dần, chẳng ai cố đấm ăn xôi khi mà xôi không còn nữa.
Mọi việc rồi cũng im dần.
Thế nhưng vài ba hôm sau, một số nhà để lợn lại bán cho Giám đốc Căn, ao chuôm nuôi cá, cá chết nổi trắng ao. Người ta kiểm tra, hóa ra ao nào cũng bị thả thuốc sâu, thả đất đèn cả. Lại có tin đồn, có khi giếng nước ăn cũng bị ném thuốc sâu không chừng. Một tâm lý lo sợ bao trùm khắp các bản.
Người ta đồ rằng bọn người lên mua lợn giá cao không mua được nên quay lại trả thù. Thì thực tế chỉ những nhà không bán mới bị, còn những nhà bán có bị đâu.
Người ta kéo lên Ủy ban chất vấn:
– Công an viên đâu, dân quân đâu mà để kẻ gian lũng đoạn thế này, tiền quỹ an ninh nhân dân nộp đầy đủ cả, ấy thế mà để bọn phá hoại ngang nhiên hoành hành, không coi chính quyền ra gì sao?
Chủ tịch Nguyễn Uyên trả lời:
– Chính quyền ra quyết định để bảo vệ lợi ích của dân thì dân không nghe, không đồng tình ủng hộ. Bây giờ có sự cố, bị thiệt hại sao lại chất vấn chính quyền. Nhưng mà thôi, vì lợi ích của nhân dân chúng tôi sẽ điều tra vụ việc này. Bà con hãy an tâm.
Biết rằng có nói cũng chẳng giải quyết được vấn đề gì, ai nấy dẫu trong lòng ấm ức nhưng cũng đành an ủi kéo nhau về.
Tết năm ấy, các chợ đều không có thịt lợn bán phục vụ nhân dân ăn tết. Giá thịt lợn lên cao chóng mặt. Hai sáu, hai bẩy tết mà các phản thịt đều trống huơ trống hoác. Các bản không có tiếng lợn kêu. Không khí tết trầm lắng hẳn. Nhà nào còn lợn là có người tranh nhau đến đòi đụng. Người ta lo đến ba mươi mà vẫn thế này thì coi chừng mất tết.
Bí thư Bầu chạy ngược chạy xuôi, bản nọ, bản kia xem xét nguồn cung thịt lợn tết. Đành rằng đó là việc của chính quyền, nhưng chẳng lẽ lúc nước sôi, lửa bỏng thế này đảng lại khoanh tay đứng nhìn, lặng im không có kế sách?
Bất lực, Bí thư Bầu đành đến cầu cứu Giám đốc Công ty Đá Vách.
Giám đốc Hà Trọng Căn cũng như đứng trên đống lửa. Mang tiếng là công ty có hàng ngàn con lợn, mỗi con hàng tạ mà để nhân dân thiếu lợn ăn tết ư? Nhưng anh làm gì được. Kế hoạch xuất chuồng giao lợn xuất khẩu cho công ty Giám đốc Phạm Bá Long vào ngày mùng năm tết đã cận lắm rồi. Ngày trước người ta nói: “Kế hoạch là cương lĩnh thứ hai của Đảng” chẳng lẽ giờ bước vào cơ chế thị trường mình lại không coi trọng kế hoạch à? Một bên là uy tín với bạn hàng, một bên là trách nhiệm với nhân dân. Chẳng lẽ anh lại thờ ơ với đời sống của nhân dân sao? Cơ chế thị trường khắc nghiệt thật. Ham lợi một tý, không tính toán cân đối làm phá vỡ thế cân bằng cung cầu là lãnh đủ, mà không tranh thủ cướp thời cơ giá cả tạo điều kiện cho dân hưởng lợi từ giá lại là có tội với dân.
Đắn đo mãi, anh quyết định gọi điện xin bớt kế hoạch giao lợn cho Giám đốc Phạm Bá Long để giải cứu thị trường Seo Sơn trong dịp tết. Giám đốc Long hiểu đồng đội của mình đành chấp nhận giật gấu vá vai, đồng ý.
Thế là sáng hai tám tết, các bản nhận được tin đến Công ty Đá Vách bắt lợn về thịt bán cho dân theo giá hợp đồng xuất khẩu, thấp hơn nhiều so với giá thị trường.
Loáng một cái, khắp các bản tiếng lợn đồng loạt kêu eng éc, những chậu tiết đỏ au, những nồi nước dùng váng mỡ, những ếp thịt lợn to nhỏ được tỏa ra khắp bản trên, xóm dưới.
Hóa ra năm nay nhà nhà đón tết chẳng thua gì mọi năm cả. Trẻ con hân hoan, người già vui vẻ, đàn ông bớt lo toan, đàn bà thêm phấn khởi, cây đào cây mận như thêm hoa, trái bòng, trái bưởi như thêm ngọt.
Theo ý kiến của Giám đốc Căn lợn đã cấp đủ cho tất cả mọi nhà, thế nhưng trưởng các bản có người bán lợn ra ngoài không chịu. Họ bảo, lúc bán được giá cao sao không nghĩ đến những lúc này. Cái bụng tham vàng bỏ ngãi không phải cái bụng của người Seo Sơn. Người Kinh, người Mường, người Dao, và ai ai đi nữa đã là người Seo Sơn đều phải theo cái lý của người Seo Sơn. Người Seo Sơn ta tin và theo cái lẽ phải, nói cái lời nhân nghĩa, nghĩ cái nghĩ hiếu trung, làm cái việc trọng đạo.
Bí thư Bầu và Giám đốc Căn phải đến từng bản, cầm tay những người lầm lỡ:
– Thôi, ngày xuân không nói những điều cũ nữa. Người Seo Sơn ta cũng có câu: “ăn ở với nhau phải như bát nước đầy”. Gặp mùa nước lũ chớ có vội lội qua sông. Hãy về nhà ta có rau ta ăn rau, có mắm ta ăn mắm, chờ bớt lũ hãy về. Con thú có bầy, con chim có bạn, yêu nhau bồ hòn cũng ngọt. Tư tết rồi, hãy cùng uống chung cần rượu, không kể chuyện buồn làm gì nữa.
Được lời như cởi tấm lòng, ai cũng vui vẻ trao nhau những nụ cười đầm ấm.
Thế nhưng, những việc làm này như trái bóng bật đúng vào mặt Chủ tịch xã Nguyễn Uyên. Tưởng rằng lợi dụng tâm lý tiểu nông hám lợi của người nông dân, với quyền lực quản lý Nhà nước, Uyên đã ra quyết định mở cửa cho dân bán lợn giá cao để phá vỡ kế hoạch giao lợn của Hà Trọng Căn, đồng thời hạ nốc ao uy tín của Căn trước nhân dân. Không ngờ người hám lợi rất ít, người hiểu đạo lý thì nhiều, không mảy may động được đến lòng tin của mọi người đối với Hà Trọng Căn, lại bị đánh giá không có tầm nhìn, để cho dân lao đao thiếu thịt lợn ăn tết. Nếu không có giải cứu của Căn, không biết Uyên ăn nói thế nào trước việc làm vô lối của mình.
Mặc dù vậy, với lòng hẹp hòi đố kỵ, Nguyễn Uyên vẫn căm tức Hà Trọng Căn, tự thề rằng sẽ có lúc đòi lại món nợ này.
Tết về, Seo Sơn như bồng bềnh trong mưa bụi. Những quả còn tua nhiều mầu sắc ríu rít bay lên, những cây đu phấp phới váy áo đủ mầu sắc, tiếng chàm đuộng rộn vang khắp bản trên làng dưới. Ai ai cũng vui mừng đón xuân mới.
Nâng chén rượu đầy trên tay, già làng Cọ Sơn Triệu Văn Nga cùng già làng các bản khắp Seo Sơn và tập thể Đảng bộ Seo Sơn do Bí thư Bầu dẫn đầu, thay mặt nhân dân đến chung vui và chúc tết Công ty Đá Vách, chúc Giám đốc Hà Trọng Căn thêm khỏe cái chân, thêm tinh con mắt, thêm sáng cái đầu, làm ăn may mắn.
Cả Đá Vách hớn hở mừng xuân. Những ngôi nhà mới định cư xếp thành hàng dọc theo con đường bê tông mới khang trang trong mầu vôi mới. Hàng cột điện ven đường kéo dài đều tăm tắp. Những gốc cam Bố Hạ chiết cành hạ vụ xuân năm ngoái đã bắt đầu ra bói. Cây vải Lục Ngạn, gốc bưởi Đoan Hùng cũng lấm tấm nụ. Đàn ong như cũng vui cùng mọi người, rủ nhau bay la đà tìm mật.
Ngoài đồi chè, những lô chè trồng vụ đầu tiên được đốn tạo tán bằng chằn chặn đã nứt nanh chuẩn bị ra búp vụ xuân. Những lô chè mới trồng đầu năm đã phân cành, dâng đầy sức sống. Hàng cây bóng mát bắt đầu vươn cao, rặng cốt khí để làm giống quả sai chiu chít. Cả một cùng sỏi ong khô cằn năm xưa leo heo bòng bong, tế guột giờ đã xanh mầu  đằm thắm, không còn quả đồi nào hoang hóa.
Đập Đá Vách đã giữ được nước, dẫu chưa đến ngấn xả lũ nhưng đã được lưng lửng, không còn thấm như năm ngoái nữa.
Công ty đang tính đến việc đắp đập Đá Vách 2, Đá Vách 3.
Mọi người vui vẻ đi du xuân. Dung bố trí người trực trông nom chuồng trại xong cũng cùng Tấn sang Cọ Sơn chơi tết. Đường qua Bến Tình mùa này đã bắc được cầu.  Dung nắm tay chồng vừa đi vừa hát một bài hát ví Mường. Bụng chị đã lùm lùm. Chị ra dáng đằm thắm. Lần có mang này chị thấy khỏe hơn, sung sức hơn lần còn làm cửa hàng trưởng năm nào. Bóng hai người lung linh dưới làn nước Bến Tình trong vắt.
Đằng xa kia, tiếng chàm đuống nổi lên, những bài giang, lời ví quyện vào nhau, bay bổng cùng những tua còn, lấp loáng cùng những chiếc váy bông bênh, chiếc áo cóm huyền ảo, những dây xà tích điệu đà, lên bổng xuống trầm, theo nhịp đu xuân, nhún nhẩy, đối mặt, ngửa lòng, tình tứ trong ngày xuân mới.
Anh mải mê ngắm nhìn bầu trời đầy sao, những ngôi sao nhấp nháy, có ngôi thấp, ngôi cao, ngôi thấp thì sáng, ngôi cao thì mờ. Trong các ngôi sao đó, có những ngôi chưa kịp rọi ánh sáng xuống mặt đất đã tàn, có những ngôi lung linh tỏa sáng bất chấp thời gian. Người ta nói mỗi ngôi sao là một linh hồn của một người, không biết có thật thế không?
40
Nhà Tấn Phong năm nay đón tết trong không khí ảm đạm. Vân Thục lên giao hàng chuyến cuối cùng trong năm đến chiều hai chín mới về, mặt xầm xì, chẳng thiết sắm sanh, làm lụng, tết nhất gì cả.
Lần lên giao hàng lần này Vân Thục không gặp được Sán Lùng. Những người trong công ty nói rằng Sán Lùng bị một căn bệnh gì đó nặng lắm, đang được điều trị ở bệnh viện dưới Hà Nội. Vân Thục muốn đi thăm nhưng tết nhất đến nơi rồi không kịp thời gian. Vân Thục nhủ ra giêng bằng mọi cách sẽ đi thăm Sán Lùng. Có lẽ bây giờ chỉ còn Sán Lùng là người thương yêu Vân Thục nhất và Vân Thục cũng chỉ còn Sán Lùng là niềm mong đợi tin yêu mà thôi
Cửa hàng Vân Thục vẫn đông người chen mua sắm tết. Hoa quả, bánh trái, mứt chè, rượu thuốc vẫn ê hề, bán đi, nhập vào không ngớt. Xuân cùng các nhân viên vẫn líu ríu chen chân trong dòng người buôn bán. Tất cả tưởng chừng đủ đầy sung mãn, nhưng trong lòng Vân Thục vẫn trào lên nỗi tủi hổ khôn cùng.
Từ ngày mất chức chủ tịch xã Tấn Phong như cái bóng vật vờ, tàn lụi. Trong nhà vẫn là phòng khách với sập gụ, tủ chè, sa lông như cũ, nhưng đã thay đổi hết cả. Trước đây, chỉ những người có chức vị mới được long trọng tiếp đón ở đây còn bây giờ nhường lại cho những kẻ leo queo, mặt lúc nào cũng cúi xuống, nhưng mắt thì đảo như rang lạc. Họ thoắt ẩn, thoắt hiện và ra hiệu cho nhau nhiều hơn là nói.
Họ đến với nhau không vì chén rượu, cuộc cờ, không vì ấm chè đàm đạo. Không nói chuyện ăn làm, tình dân nghĩa bản, lúa má, lợn gà, xuân về tết đến. Họ chỉ đến với nhau bằng thuốc, những điếu thuốc Tám Một đầy ma lực và hấp dẫn.
Tấn Phong sau khi nghỉ được Đỗ Pháp giao cho quản lý và bán thuốc Tám Một đỏ cho Đỗ Pháp tại nhà. Theo lý lẽ của Đỗ Pháp nơi chân đèn là nơi tối nhất, ít người  có thể nghi ngờ. Kho thuốc được bố trí ở một nơi bí mật, gần như không ai biết.
Bạn hàng của Tấn Phong ở Seo Sơn cũng đã có đến đôi, ba chục người, đa phần là đám thanh niên từ choai choai đến lưng lửng tuổi, ở khắp các bản trong xã.
Những kẻ đó đầu tiên là đến bán chè cho Vân Thục. Những bao chè tuy bẩn về chất lượng nhưng lại bán được nhiều tiền. Làm ra thì chẳng tốn bao nhiêu, nhưng thu về thì rủng rỉnh, khiến bọn họ đua đòi, nay lon bia, mai bao thuốc. Rồi được cánh bảo vệ cửa hàng của thằng Chi rủ rê, lôi kéo vào động của Tấn Phong, nghiện Tám Một đỏ lúc nào không biết và không dứt ra được. Thế là trở thành những kẻ vật và, vật vờ, lúc có thuốc thì nhanh tay, nhanh mắt, lúc hết tiền thì nhanh mồm, nhanh miệng. Gặp người không nghiện thì huyên thuyên, nhưng gặp bạn bè cùng nghiện thì toàn ra hiệu thay cho lời nói. Người ta bảo nói dẻo như con nghiện là vì thế.
Vân Thục biết điều đó hơn ai hết. Biết đó là tội lỗi và tăm tối mà chưa biết cách gì thoát ra. Nhiều lúc Vân Thục muốn tung hê tất cả để trở về với cuộc sống ngày xưa, dù có thiếu thốn, độn cơm, vá áo nhưng trong sạch, ấm áp nghĩa tình mà đâu có được nữa. Lối về của Vân Thục đã bị bít chặt.
Tấn Phong lắm lúc cũng buồn khi nhớ lại thời hoàng kim của mình, khi ấy nói  người ta phải nghe, đe người ta phải sợ. Chữ nghĩa trong đầu chẳng có bao nhiêu nhưng bằng cấp thì đúc chật túi. Lượm lặt được ba cái lý luận nhì nhằng nhưng hễ đứng trên bục thì thao thao bất tuyệt, “giang tay giảng giải huyên thuyên, những điều mờ mịt nơi miền mung lung” ra chừng thông thái lắm, ai muốn hiểu thế nào thì hiểu.
Khi bị thất sủng và bị Nguyễn Uyên tiếm quyền vì nghiền Tám Một đỏ, bị bỏ đói thuốc, Tấn Phong đã bán linh hồn cho quỷ dữ, về làm anh bán thuốc. Cái nghề này tuy vụng trộm nhưng nhiều lúc cũng oai ra phết. Nói thì chẳng nói được ai, nhưng đám đệ tử khách hàng lúc đói thuốc sợ một phép, bảo gì làm nấy, cấm có dám cãi lời, miễn là có thuốc hút, giống y như Tấn Phong trước Nguyễn Uyên ngày nào vậy.
Xuân về tết đến, khắp nơi dân bản nô nức chơi xuân, riêng Tấn Phong thẫn thờ ngồi bên bàn thỉnh thoảng mồi điếu thuốc, hít cho hết khói. Sau mỗi lần như thế, tinh thần ra chiều sảng khoái, miên man trong thế giới phù du mộng ảo, quên cả việc đời. Tiền mua thuốc vốn chẳng phải lo. Mua một bán năm, lãi cộng vào bởi chục đệ tử là đủ cho Tân Phong hút đêm hút ngày, dư dả thoải mái, mà ở đây những hai ba chục đàn em, cứ thế này bao giờ Tấn Phong mới hết thuốc hút.
Đời thì thây kệ, giỗ chạp cúng bái, hương khói tổ tiên Tấn Phong mặc kệ Vân Thục lo toan. Người sống còn chẳng ăn ai nữa người đã thành thiên cổ. Cưới xin, mời mọc, hàng xóm láng giềng Tấn Phong cũng chẳng quan tâm đến. Cùng đời ai cũng chỉ hai vuông tha ma nghĩa địa bằng nhau tất cả, có kèn trống hay không thì cũng vậy, vẫn phải đem chôn, chẳng lẽ để đấy mà ngửi à. Ăn mày hay tỷ phú thì cũng cùng là một, nào ai có hơn ai. Nghĩ thế thành ra Tấn Phong cũng chẳng bận tâm gì nhiều cho nặng lòng, miễn sao người đời ngày đỏ lửa ba lần, còn Tấn Phong đủ thuốc hút là được.
Lâu nay vợ con Tấn Phong ai làm gì thì làm, đi sớm về khuya, Tấn Phong cũng mặc, chẳng có nghĩa lý gì đối với Tấn Phong cả. Chưa đến nỗi “của anh anh mang, của nàng nàng xách” nhưng mọi sự cũng đều như là nghĩa vụ, chẳng lẽ thấy nhau không nhìn, gặp nhau không hỏi. Tấn Phong biết giả như Tấn Phong có mệnh hệ gì, nhắm mắt xuôi tay thì tiếng khóc của vợ con cũng chỉ là giả dối, khỏa lấp cho sự thanh thản, mừng rỡ ở trong lòng. Lòng tin trong Tấn Phong đã bị Tám Một đỏ làm cho cạn kiệt.
Căn nhà vượng khí ngày nào giờ chỉ còn lại hình hài trông như sang trọng, chứ thực chất đã mục ruỗng hoàn toàn.
Vân Thục sau bữa cơm sớm mùng một Tết, uể oải lên gường nằm. Nỗi chán chường như tràn ngập trong lòng, âm ỉ gặm nhấm tâm tư khiến Vân Thục không còn hơi sức đâu mà nghĩ đến mùa xuân và tết nhất nữa.
Đám nhân viên cửa hàng chiều ba mươi Tết mỗi người lĩnh một cục tiền lương, kéo nhau về gia đình cả. Hai đứa con Vân Thục được nghỉ Tết, sau khi thờ ơ nhận tập tiền lỳ xì từ tay mẹ, chán cảnh u ám ở nhà, mắt trước mắt sau đã lỉnh đi xem ném còn, đánh đu và chàm đuống ngoài những thửa ruộng bậc thang cùng đám thanh niên và dân bản, mặc kệ bố mẹ muốn tết nhất thế nào thì tết nhất. Thành ra không khí ở nhà Vân Thục cứ như có đám vậy.
Vân Thục càng nghĩ càng u uất. Vừa năm nào thôi, Vân Thục còn là cô giáo dậy văn nhan sắc điệu đà, khéo ăn khéo nói, đám giáo viên đàn em suốt ngày ngưỡng mộ.
Thế rồi cuộc sống phù phiếm nơi thương trường đã quyến rũ Vân Thục từ lúc nào khiến Vân Thục bỏ nghề mê mải về làm chủ cửa hàng.
Có đồng tiền trong tay, chồng lại là người có quyền chức nhất nhì trong xã, Vân Thục đã tưởng mình thăng hoa nơi thị trường buôn bán. Thế nhưng, Nguyễn Uyên đã dụ dỗ đưa Vân Thục vào mê cung của tiền tài và tình ái, đẩy Vân Thục dúi dụi vào vũng bùn nhơ nhớp mà Vân Thục vẫn nghĩ mình đang bay bổng trong xa hoa và nhung lụa.
Rồi tưởng đã thoát khỏi tay Nguyễn Uyên để một mình xây dựng giang san riêng thì Vân Thục lại gặp Đỗ Pháp. Vẫn là một phường mèo mả gà đồng, cùng cánh dối gian lừa lọc, Nguyễn Uyên và Đỗ Pháp đã bỡn cợt với thân phận Vân Thục, đẩy Vân Thục vào con đường vô luân, bạc nghĩa một lần nữa. Không những thế chúng còn đưa Tấn Phong thành kẻ nghiện ngập khiến thân bại danh liệt. Bọn chúng đã lôi kéo Vân Thục làm những việc phi nhân tính, bẩn thỉu và tội lỗi.
Những người dân Seo Sơn vốn hiền lành và chân thật được Vân Thục tiếp tay với danh nghĩa xuất khẩu, tranh nhau sản xuất ra những loại chè bẩn thỉu, cứ nghĩ đến là đã muốn nôn, muốn ọe, mang về đất nước Trung Hoa xa hoa và phù phiếm. Thế rồi họ lại phù phép bán đi đâu đó trên thế giới này cho những người chắc còn mông muội lắm. Họ cho những kẻ bất nhân, bất nghĩa như Đỗ Pháp, Nguyễn Uyên mang về đây loại thuốc lá chết người được đóng bao xanh bao đỏ, phủ đầy những lời hoa mỹ khiến cho bao người ở Seo Sơn sống không ra sống, chết không ra chết.
Thật là tội lỗi.
Đám con nghiện của Tấn Phong kia có nhiều đứa xưa kia là học trò của Vân Thục. Giờ chúng được Vân Thục gián tiếp đưa đường chỉ lối đến chỗ nhơ nhớp này. Mấy chục người, mấy chục đứa ăn phải bả của những kẻ từng làm thầy, từng làm lãnh đạo, để đến nỗi sẵn sàng lừa thầy, phản chủ, dối mẹ, gạt cha, ăn không nói có, miễn là có hơi thuốc Tám Một thế này đây.
Vân Thục thật đáng tội chết, muốn từ bỏ những trò mua bán xuất khẩu bẩn thỉu, muốn trốn chạy tội lỗi mà không sao trốn chạy được.
Bỗng nhiên Vân Thục nhớ tới lời Nguyễn Uyên nói ngày nào: “Tôn Ngộ Không có đi cả đời vẫn chỉ là đi trong lòng bàn tay Đức Phật. Trái đất này tuy to mà nhỏ. Chúng ta cũng chỉ đang đi trong lòng tay của Ngài mà thôi.”
Thì ra chúng đã chủ động tất cả, âm mưu tất cả, lừa đảo tất cả. Vân Thục chỉ là con rối, chỉ là thứ đồ chơi không hơn không kém trong tay chúng.
Trời ơi, đau xót biết chừng nào. Bao nhiêu năm được ăn, được học, bao nhiêu năm mang danh là nghề cao quý. Ấy thế mà chỉ vì những ham muốn nhất thời Vân Thục cuối cùng bị bả đồng tiền làm cho mờ mắt, bị chính những kẻ khoác áo có chữ, những kẻ mang danh tài cao, học rộng lừa gạt để đến nông nỗi này.
Vân Thục muốn khóc mà sao không khóc được. Nước mắt như lặn vào trong, khiến tròng con ngươi bỏng rát.
41
Vân Thục chuẩn bị đi giao chuyến hàng đầu năm, và dự định sẽ bàn với Sán Lùng tuyên bố không thu mua chè bẩn cho thương nhân Trung Quốc nữa. Bao nhiêu người dân vô tội cay đắng, sống dở, chết dở với trò sản xuất mua bán này rồi. Không có lẽ cứ tiếp tục để cho họ mờ mắt vì những đồng tiền nhơ nhớp, để rồi trở thành kẻ thân tàn ma dại, còn mặc sự đời cho Đỗ Pháp và Nguyễn Uyên định đoạt ra sao thì ra?
Cùng lắm Vân Thục tìm đến cái chết để giải thoát đoạn đời nhơ nhớp đã qua chứ không chịu sống trong dày vò day dứt mãi như thế này.
Đến Móng Cái, làm thủ tục giao hàng xong, Vân Thục nằm tại khách sạn công ty để chờ mai làm thủ tục chuyển tiền. Một mình chống chếnh trong căn phòng sang trọng, Vân Thục thấy da diết nhớ tới Sán Lùng.
Vừa hôm nào còn ở bên nhau, trước là chỉ những trò mây mưa trăng gió, nhưng thời gian đã gắn kết họ trở thành đôi người tri kỷ. Ừ thì nồi lành úp vung lành, đôi ta méo mó thì có vung méo mó. Đã tin cậy nhau thì trăm sông ngàn núi cũng là gần, chẳng có gì xa xôi cả.
Vân Thục đã mất hết tất cả, chỉ còn tình yêu với Sán Lùng thôi. Vân Thục cần thiết sẽ tung hê tất cả để đến bên Sán Lùng, chẳng phải bận tâm, đạo mạo hóa làm gì cả.
Người ta bảo Sán Lùng nằm ở một bệnh viện Hà Nội và nhắn mọi người trong công ty nếu Vân Thục đến giao hàng thì bảo Vân Thục xuống thăm.
Sớm hôm sau, thanh toán chuyển tiền xong, Vân Thục bắt xe về Hà Nội, tìm đến bệnh viện nơi Sán Lùng đang điều trị.
Nhìn thấy Sán Lùng, Vân Thục không tin được vào mắt mình. Trước mặt Vân Thục là một thân hình gầy gò, xanh xao, tiều tụy, mụn nhọt lở loét. Mới chỉ vài bốn tuần mà Sán Lùng đã thay đổi đến không ngờ. Còn đâu vẻ hào hoa phong nhã ngày nào, còn đâu những nét khôi ngô từng trải, lịch lãm và điệu nghệ. Những múi cơ căng, săn chắc được thay bằng sự nhăn nheo già cỗi, vẻ hồng hào của làn da khỏe mạnh đã biến mất nhường chỗ cho vẻ tái tê mệt nhọc.
Nhìn thấy Vân Thục mắt Sán Lùng bớt đi vẻ lờ đờ, thiểu não, ánh lên một chút tươi tỉnh. Sán Lùng cố gắng tựa người vào đầu gường, thều thào hỏi:
– Em xu … uống … rồi đấy ư? Anh tư … ưởng không còn … cơ may gặp … em nữa.
Giọng Sán Lùng tự nhiên trở nên thuần Việt, không còn lơ lớ giọng người Tầu nữa.  Vân Thục khóc nấc lên, đỡ cho Sán Lùng ngồi thẳng dậy:
– Sao lại đến … nông nỗi này hả anh? Anh bị bệnh gì? Bác sỹ khám bảo thế nào? Công ty đâu mà không ai lo lắng đến anh thế vậy?
– Chu … yện dài … lă … ắm … em ơi … Rồi anh sẽ … kể hết … em nghe.
Sán Lùng cố gắng nhấc cánh tay lên, chỉ thằng bé chừng hơn mười tuổi lấm lét ngồi ở đuôi gường bảo:
– Đây là … cháu Tuấn Anh … con … trai anh. Cháu … mới được … công ty đưa … từ trong … Chợ Lớn … ra.
Vân Thục bây giờ mới để ý thấy thằng bé. Nó lý nhí:
– Cháu chào cô ạ.
– Cô chào cháu, cháu có mệt không? Cháu ra một mình hay ai đưa cháu ra?
– Bác cháu đưa ra?
– Thế bác cháu đâu?
– Bác cháu bảo cháu bác cháu về, hai bố con ở đây đã có bệnh viện Nhà nước lo cho rồi, bác cháu không ra nữa.
Vân Thục không hiểu gì, phân vân định hỏi cho ra lẽ nhưng sợ Sán Lùng trả lời mệt nên thôi. Lúc sau, chừng đã khỏe lại, Sán Lùng bảo con:
– Tuấn Anh … ra ngoài chơi … để bố nói chuyện … với cô nhé.
Thằng bé rón rén ra ngoài vẻ mặt cam chịu. Sán Lùng cố gắng gượng sức nói với Vân Thục:
– Anh có tội nhiều với em … mà chẳng biết giãi bầy với em thế nào được. Anh … bị bệnh mà không biết bị bệnh, nên … không giữ được cho em, để em phải khổ. Nỗi đau … đớn này anh chết chắc không nhắm … được mắt.
– Anh cứ bình tĩnh, rồi từ từ kể cho em nghe xem. Ở đời này em chỉ còn anh là chỗ tin cậy yêu thương thôi, có gì anh cứ cho em biết.
– Anh cũng vậy, anh cũng … chỉ còn em là người yêu … thương thôi, cứ tưởng sẽ được cùng … em gắn bó. Ấy thế mà trời … nỡ để mình thế này, Thôi … dương thế chẳng nên đôi, … đành hẹn nhau nơi … tuyền đài vậy … em nhé.
Sán Lùng cố gắng nắm lấy bàn tay Vân Thục, bàn tay Sán Lùng hờ hững và lạnh. Vân Thục để yên tay mình trong tay Sán Lùng như muốn tiếp thêm sức cho bàn tay lạnh lẽo kia. Nghỉ một lúc Sán Lùng mới cố gắng kể nốt câu chuyện bỏ dở:
– Anh chính tên là Trần Văn Cưởi, người Việt mình chính gốc… Bố anh là họ Nguyễn nhưng được nhà họ Trần … cưu mang nhận làm con nuôi nên được mang họ Trần. Nhà anh lên khai hoang … ở Seo Sơn từ những năm sáu mươi. Anh bị coi rẻ … vì mồ côi bố từ sớm. Để có bố, anh đã nhận người Dao … họ Triệu ở Đá Vách làm bố nuôi và được … đổi thành họ Triệu. Anh đã lấy cô Hoàng Thị Dung, con gái ông … Bí thư Huyện ủy Hoàng Văn Hợi làm vợ. Nhưng lấy nhau lâu … mà hai người không có con nên anh … đi lại với cô Triệu Thị Ngát nay đã biệt tăm không rõ … ở đâu trên đất Tầu và có với nhau … thằng Tuấn Anh bây giờ.
Hồi lâu Trần Văn Cưởi mới nói tiếp:
– Anh có tội với dân bản Cọ Sơn… nên phải trốn chạy khỏi Seo Sơn vào Sài Gòn từ… hồi cuối những năm tám mươi. Vào đến đấy, anh bị người… Ba Tầu Chợ Lớn tên là Sán Long lừa hết tài… sản, tiền bạc khiến mẹ anh mang mối hận, uất mà… chết. Bố con anh trắng tay, trở thành… cửu vạn trong tay Sán Long, rồi bị Sán Long lợi dụng… nhận là anh em kết nghĩa, giữ thằng con… ở lại làm tin, đẩy thằng bố ra Móng… Cái làm Giám đốc cho ông ta, thực chất… làm bia đỡ đạn cho những việc làm… táng tận lương tâm của ông ta. Anh đã định quay về Seo Sơn… nhưng về đến nơi hay tin vợ anh vì anh mà bị điên… bố vợ vì anh mà bị chết anh sợ… quá không dám ở lại. Chính anh bầy cho… Đỗ Pháp đến mua chè tại… Seo Sơn mà. Giờ anh bị… trọng bệnh, Sán Long đưa bố con anh vào đây, phó mặc… sự chăm lo cho Nhà nước, còn ông ta… cao chạy xa bay về Chợ Lớn.
Thế là Vân Thục đã rõ. Cô thoáng rùng mình vì đã nghe những chuyện về người có tên là Triệu Văn Cưởi ở Seo Sơn, nhưng bây giờ mới biết người ấy bằng xương bằng thịt.
Sán Lùng cố sức nói tiếp:
– Bây giờ anh gần đất… xa trời rồi. Tội lỗi cũng đã… chất đầy, anh chẳng dám kêu ca gì. Anh chỉ… muốn nhờ em một việc trước… khi chết. Em đưa cháu Tuấn Anh về… cho cô Dung, vợ cũ của anh… nhờ cô ấy nuôi giúp. Dù anh… có vô cùng nhiều tội với… cô ta, nhưng cũng đã có thời gian là vợ… là chồng, mong cô ấy… thương lấy con anh, cho nó có… một mái nhà. Nó cũng đã lớn rồi, có thể… làm được việc đồng áng… trả công cho cô ấy. Em cố gắng giúp… anh nhé.
Vân Thục giàn dụa nước mắt:
– Vâng, em sẽ đưa cháu về cho chị ấy.
– Em… hứa nhé.
– Vâng, em hứa.
– Thế là anh đã mãn… nguyện, chết cũng… được rồi.
– Nhưng anh chưa nói cho em biết, bác sỹ bảo anh bị bệnh gì.
Sán Lùng mệt nhọc trả lời Vân Thục đứt quãng:
– A… anh… bị… S… i… đ… đa… giai… đoạn… cuối.
Nghe Sán Lùng lắp bắp Vân Thục mãi mới định thần hiểu hết. Đất trời như sụp đổ dưới chân, Vân Thục thét lên một tiếng khủng khiếp rồi gục xuống gường ngất lim. Bác sỹ ào đến đưa Vân Thục vào phòng cấp cứu.
Đến chiều, Vân Thục mới tỉnh. Cô hoảng sợ khôn cùng. Cô cũng đã nghe nói đến căn bệnh khủng khiếp này, nhưng nào có hình dung ra nó thế nào, vuông hay tròn méo, cứ nghĩ nó ở đẩu ở đâu, nào ngờ nó ở ngay cạnh mình và bây giờ có khi đang ở trong mình.
Thế là hết, cuộc đời Vân Thục nếu dính căn bệnh này là hết. Chết thì Vân Thục không sợ, cô cũng đã nghĩ đến nó để giải thoát bao tủi nhục của mình rồi cơ mà, Chết là việc đã rồi, ai cũng một lần phải chết, nhưng chết mà tiếng xấu còn lưu lại mai sau như thế này, khiến người đời phỉ nhổ thì Vân Thục không tài nào chịu nổi.
Làm thế nào chết cho thanh thản, chết mà được bảo toàn danh dự được nhỉ? Thế thì đừng để ai biết mình mắc phải căn bệnh quái ác này. Muốn thế chỉ có một cách là chết khi bệnh vừa phát. Đơn giản quá, một liều thuốc ngủ cực mạnh là xong, vừa không đau đớn, vừa ra đi thanh thản như một giấc ngủ dài.
Nghĩ đến thế Vân Thục cảm thấy chẳng có gì phải bận tâm về cái chết nữa. Bỗng nhiên cô sực nghĩ, chắc gì mình đã bị. Ừ nhỉ, sao mình không nghĩ đến khả năng này. Có thể lắm chứ. Bao nhiêu bộ đội ở Trường Sơn nhưng có phải ai ở Trường Sơn là bị phôi nhiễm chất độc da cam cả đâu.
Thế là Vân Thục như được tiếp thêm sức mạnh, cô vùng dậy, chạy sang phòng của Sán Lùng. Vân Thục bảo với Sán Lùng, giọng bình thản không vướng bận lo âu phiền muội gì:
– Thôi, anh cố gắng an tâm điều trị, em phải về lo công việc ở nhà, mấy hôm nữa em lại xuống thăm anh. Anh xem nếu phải đưa cháu Tuấn Anh về cho chị Dung thì anh nói với cháu để em đưa cháu về, xem ý chị ấy thế nào. Nếu chị ấy đồng ý thì tốt, còn nhược bằng không, em sẽ thay anh nuôi nấng cháu nên người.
– Được thế… thì anh mừng quá. Anh vô cùng… cám ơn em. Em cũng nên… đi xét nghiệm xem, nếu cũng bị… thì còn chữa sớm, đừng để đến mức… muộn như anh, khó chữa.
– Em không bị, em đi xét nghiệm từ trong năm rồi.
Vân Thục nói dối để trấn an Sán Lùng và cũng tự trấn an mình.
– Thế thì mừng… cho em quá. Tuấn Anh ơi, con… chuẩn bị các thứ, cô Vân Thục sẽ đưa con… về với mẹ nuôi… con…
Sán Lùng nói chưa hết câu thì bỗng nhiên mồm đờ ra, ngáp một cái, rồi từ từ nhắm mắt. Vân Thục kêu lên thất thanh. Bác sỹ, hộ lý kéo đến, nhưng y học cũng bất lực, Sán Lùng đã trút hơi thở cuối cùng.
Sau khi an táng Sán Lùng – Triệu Văn Cưởi – tại đài hóa thân hoàn vũ, Vân Thục mang lọ tro hài cốt Sán Lùng cùng Tuấn Anh về Seo Sơn, lại dặn Tuấn Anh không được nói với ai về nguyên nhân cái chết của Sán Lùng, chỉ nói là Sán Lùng bị cảm chết, Tuấn Anh ngoan ngoãn vâng lời.
42
Sau tết, khắp nơi trong Seo Sơn người ta nói về lòng nghĩa hiệp của Giám đốc Hà Trọng Căn đối với nhân dân và trách cứ Chủ tịch xã Nguyễn Uyên không chấp hành ý kiến của huyện, thiếu trách nhiệm, không lường trước trông sau trước khi ra quyết định liên quan đến cơm ăn áo mặc của dân. Nhiều người còn dự kiến chất vấn cả trong kỳ họp Hội đồng nhân dân xã. Nguyễn Uyên vô cùng tức tối.
Kể ra, làm chủ tịch xã mà để dân dè bỉu chê bôi thì cũng tức thật. Ngược lại nếu bình tĩnh suy xét thì sự phản ảnh của nhân dân chính là thể hiện sự góp ý chân thành để người cán bộ, người đầy tớ của nhân dân rút kinh nghiệm. Rút được kinh nghiệm là tăng thêm uy tín của mình trước nhân dân. Nhưng Nguyễn Uyên không nghĩ thế.
Nguyễn Uyên cho rằng Hà Trọng Căn lợi dụng tình thế để chơi trội, nhằm hạ bệ uy tín của Nguyễn Uyên. Bằng chứng là việc bán lợn cho các bản tết vừa qua, Hà Trọng Căn không bàn bạc, không xin ý kiến chính quyền, mà chỉ cùng với Bí thư Bầu tự làm, tự giải quyết. Thế là dân chủ mà không có tập trung, biểu hiện của sự dân chủ vô chính phủ.
Nguyễn Uyên đưa vấn đề này ra trong cuộc họp Đảng ủy xã. Chẳng ai muốn tham bàn gì về việc này. Nguyễn Uyên tưởng là mọi người đồng tình với ý kiến của mình nên cao giọng, đề nghị kiểm điểm, kỷ luất với đảng viên Hà Trọng Căn. Đến nước này, các Đảng ủy viên mới ồ lên, tranh nhau phát biểu chỉ trích thái độ của chủ tịch xã.
Bí thư Bầu có ý kiến:
– Đồng chí Uyên nhầm lẫn trong việc suy xét và đánh giá Giám đốc Hà Trọng Căn. Phẩm chất đảng viên của đồng chí Căn thực sự xứng đáng để chúng ta học tập. Không có bất cứ động cơ cá nhân nào trong cách ứng xử này. Nếu xét về quyền lợi của doanh nhân được pháp luật bảo hộ thì người ta có quyền bán sản phẩm của người ta cho bất cứ ai người ta muốn. Nếu không trái với luật pháp, không ai có quyền ngăn cản và tuyệt đối không phải báo cáo ai cả.
Mọi người tiếp lời bí thư:
– Việc phải báo cáo mới được bán sản phẩm sức lao động của doanh nhân là tư duy duy ý chí đã bị phê phán và xóa bỏ lâu rồi. Nếu xét về trách nhiệm, người ta không bán cho tư nhân với giá cao để thu lợi cho riêng mình như văn bản của đồng chí yêu cầu, mà người ta chủ động bán giá thấp và chỉ bán để cứu cho dân có thịt lợn ăn tết. Đấy là người có trách nhiệm cao với cộng đồng, mà ở đây chúng ta chưa có ai làm được. Vì vậy ý kiến của đồng chí Uyên là hoàn toàn sai. Ta không nên bàn đến nữa.
Nguyễn Uyên cay cú, mặt đỏ dừ vì ngượng ngập, không nói được lời nào.
Đêm hôm ấy. Nguyễn Uyên không sao ngủ được. Những ý kiến trong cuộc họp sáng nay làm cho Uyên mất mặt, ức muốn nổ con mắt. Phải làm điều gì đó để trả món nợ này, không làm không chịu được.
Sáng hôm sau, Nguyễn Uyên đi xe đến nhà Tấn Phong với thái độ mềm mỏng hiếm có kể từ sau ngày Tấn Phong xin thôi công tác:
– Dạo này anh khỏe ra đấy. Có thuốc có khác nhỉ. Anh Đỗ Pháp gửi tôi lời động viên anh và phần thưởng mấy tút thuốc Tám Một đỏ để anh hút và thưởng cho cánh đã rải thuốc sâu, đất đèn vào ao cá những kẻ chống lệnh chính quyền để lợn lại bán cho Hà Trong Căn năm ngoái đấy.
– Vâng, cám ơn các chú đã quan tâm đến anh em. Bây giờ có chỉ thị gì mới chú cho ý kiến. Anh em sẽ thực hiện ngay, miễn sao có thuốc cho anh em hút là được.
Nguyễn Uyên thầm thì:
– Có đấy. Anh Đỗ Pháp bảo tôi nói với anh, bằng mọi cách phải đầu độc hết đàn lợn của Hà Trọng Căn trong vài ngày tới.
– Làm thế nào được nhỉ? Đầu độc vài con thì được, chứ đầu độc cả đàn e khó quá.
– Không khó đâu. Đàn lợn của Căn ăn xong thức ăn tinh là phải uống nước. Như vậy, nếu bỏ thuốc diệt chuột liều lượng cao vào nguồn nước thì tất lợn uống phải chết.
– Ừ nhỉ! Thế mà mình không nghĩ ra.
Nguyễn Uyên định nói, cái đầu ông đần độn, làm sao mà nghĩ ra được kế này, nhưng kìm lại được vì lúc này Uyên đang cầu cạnh Phong nên cần phải ôn hòa tránh chạm đến lòng tự ái của hắn.
Nguyễn Uyên ghé tai Tấn Phong nói tiếp:
– Anh lựa chọn lấy mấy thằng nghiện nặng, hứa thưởng cho mỗi thằng một tút thuốc, bảo nó tranh thủ mấy ngày cuối tháng không có trăng này, thực hiện luôn đi. Đây, thuốc diệt chuột thứ thiệt của Tầu do anh Đỗ Pháp gửi về đây.
Vừa nói, Uyên vừa lôi ra một túi đen đựng thuốc giao cho Phong.
– Anh cho làm ngay nhé, Thôi tôi về đây, ngồi đây lâu không tiện.
– Ừ chú về đi, tôi sẽ gọi chúng nó đến bàn cụ thể rồi cho tiến hành ngay.
Đêm hôm ấy, trời không trăng, không sao, tối đen như mực. Ba bóng đen sau khi rít những hơi thuốc đầy mê ly và sảng khoái từ nhà Tấn Phong, nhẹ nhàng như những con rắn trườn vào đêm tối, thẳng hướng tới đài nước của Công ty Đá Vách đặt trên đồi cao chuyên cung cấp nước cho trại chăn nuôi của công ty.
Chúng không ngờ một nửa tiểu đội công an đã bí mật phục kích xung quanh khu vực đó theo hai vòng với quyết tâm không để tên nào chạy thoát. Xung quanh nhà của Tấn Phong và Nguyễn Uyên lực lượng công an cũng đã bao vây chặt.
Khi những bóng đen chuẩn bị trèo lên đài nước thì các chiến sỹ công an đã ập đến, nhanh chóng quật ngã chúng, tóm gọn cả người cùng hàng chục gói thuốc chuột.
Cả ba tên nhanh chóng được đưa về văn phòng Công ty Đá Vách để lập biên bản lấy lời khai. Tại đây chúng đã khai nhận toàn bộ âm mưu tội lỗi của chúng và thành khẩn thú nhận chỉ vì nghiện thuốc Tám Một đỏ mà chúng đã nghe theo lời Tấn Phong làm điều độc ác.
Lập tức, Tấn Phong bị hai chiến sỹ công an áp giải cùng với lệnh triệu tập khẩn cấp đến văn phòng Công ty Đá Vách. Trước những nhân chứng và vật chứng rõ ràng không thể chối cãi được, Tấn Phong đành ngoan ngoãn cúi đầu ký vào biên bản hỏi cung.
Tại nhà Nguyễn Uyên, hai chiến sỹ cảnh sát, sắc phục nghiêm trang gọi cổng. Nguyễn Uyên ra mở cổng. Nhìn thấy bóng công an, thấy thái độ của họ có vẻ không vui vẻ, thiện chí như mọi bận, lại nghe lời mời lên văn phòng Công ty Đá Vách làm việc, Nguyễn Uyên chột dạ biết rằng việc làm của mình đã bại lộ nên ngoan ngoãn mặc quần áo để lên đường.
Trong lúc mặc quần áo trong đầu Nguyễn Uyên lóe lên suy nghĩ, thế là hết, thôi thì trong ba mươi sáu chước, chước chuồn là thượng sách.
Nguyễn Uyên giả vờ xin đi vệ sinh. Được đồng ý, hắn mở cửa nhưng lại nhanh nhẹn lách qua khe bóng cửa, trèo qua lan can, lẩn vào đêm tối vượt qua hàng rào sau nhà định tẩu thoát. Thế nhưng, vừa vượt qua được hàng rào, chưa kịp co giò chạy thì một giọng nói sắc lẻm đã vang lên:
– Đồng chí chủ tịch, đồng chi định đi đâu đấy.
Nguyễn Uyên chưa kịp trả lời thì ánh đèn pin đã lóe lên, hai chiến sỹ công an đã áp sát hai bên, dìu Nguyễn Uyên đang lả người lết đi về phía chiếc xe cảnh sát vừa phóng tới.
Tại văn phòng Công ty Đá Vách, không còn cách nào khác hơn, trước lời khai của đồng phạm, trước nhân chứng và vật chứng rõ ràng Nguyễn Uyên đã phải cúi đầu nhận tội chủ mưu trong việc xúi giục đám thanh niên nghiện, bỏ thuốc chuột định đầu độc toàn bộ đàn lợn của Công ty Đá Vách, nhằm trả thù Giám đốc Hà Trọng Căn.
Cũng tại đậy, Tấn Phong khai nhân toàn bộ việc đã bán thuốc Tám Một đỏ cho các con nghiện trong xã. Một bản danh sách hơn hai mươi con nghiện được lực lượng công an lập ra từ lúc nào, được Tấn Phong xác nhận. Rồi địa chỉ kho thuốc tại nhà Tấn Phong ở đâu, mối quan hệ giữa Tấn Phong và Đỗ Pháp và cách thức giao hàng thuốc Tám Một đỏ ra làm sao, vai trò của Nguyễn Uyên trong đường dây mua bán và sử dụng sản phẩm gây nghiện này như thế nào đều được đề cập đến.
Nguyễn Uyên ra sức cãi và chối đây đẩy các tội danh buôn bán và sử dụng thuốc Tám Một đỏ, nhưng không hề gì, lệnh khám nhà vẫn được ban ra.
Trước sự chứng kiến của chính quyền địa phương, kho thuốc Tám Một đỏ tại nhà Tấn Phong đã bị lôi ra ánh sáng. Gần chục tút thuốc còn nguyên đai, nguyên kiện. Còn tại nhà Nguyễn Uyên, khám xét kỹ càng trong nhà, lực lượng công an cũng không lần ra dấu vết gì. Đang định dừng khám xét thì một chiến sỹ tinh ý thấy có vết vân tay trên bức ốp chân tường bằng gỗ pơ mu cao gần một mét phía khuất đôi lọ lục bình. Lập tức, mọi sự chú ý đều dồn vào đây. Thì ra đó chính là một cánh tủ nhỏ và công an lôi ra từ đây gần trăm tút thuốc Tám Một đỏ.
Lệnh bắt khẩn cấp Nguyễn Uyên và Tấn Phong và lệnh triệu tập hơn hai mươi người đang nghiện thuốc Tám Một đỏ tại Seo Sơn được ký ngay lập tức. Chiếc xe chở phạm nhân được dùng để chở Nguyễn Uyên, Tấn Phong và tang vật vụ án cùng với chiếc xe ca chở con nghiện bị triệu tập, xé màn đêm phóng nhanh về trụ sở công an huyện.
Đồng chí đội trưởng cơ quan điều tra công an huyện nán lại, vào nhà Tấn Phong. Trong gian khách vẫn còn bừa bộn chưa kịp thu dọn, đồng chí chuyển lời cám ơn của cơ quan công án tới công dân Vân Thục vì có công lao giúp cơ quan công an nhanh chóng phá gọn vụ án.
Thì ra Vân Thục sau khi xong đám tang của Sán Lùng ở Hà Nội trở về Seo Sơn đã làm được một việc thiện là mật báo cho cơ quan công ạn toàn bộ đường dây buôn bán thuốc Tám Một đỏ tại Seo Sơn, cũng như danh sách các con nghiện.
Lại nữa, khi Nguyễn Uyên đến tìm Tấn Phong, Vân Thục đã bí mật theo dõi, nắm được kế hoạch đầu độc trại lợn của Nguyễn Uyên, Tấn Phong và đồng bọn. Chị kịp thời báo với Phó Giám đốc Hoàng Thị Dung, nên cơ quan công an huyện đã nhanh chóng giăng lưới tóm gọn những kẻ thực hiện.
Vân Thục vô cùng cảm kich trước sự chiếu cố của cơ quan công an.
Lâu lắm rồi, đêm hôm ấy Vân Thục mới có được giấc ngủ yên lành, thanh thản. Dẫu Tấn Phong có bị bắt giam để điều tra tội lỗi, nhưng điều ấy chỉ mang lại những tốt lành cho dân bản Seo Sơn và cả cho gia đình Vân Thục.
Mấy ngày hôm sau, Đỗ Pháp cũng bị cơ quan công an bắt tại của khẩu Móng Cái và bị di lý về cơ quan công an cùng đồng bọn.
Đến bây giờ người ta mới biết, thực ra Nguyễn Uyên và Đỗ Pháp là một cặp bài trùng, trước cùng công tác ở Công ty Giấy. Khi bị đuổi việc, Đỗ Pháp lặn ra Móng Cái làm cho Công ty Đài Bắc của Ba Tầu, Nguyễn Uyên chui được vào Seo Sơn. Chính Đỗ Pháp là bạn vong niên của Nguyễn Uyên, là kẻ được Nguyễn Uyên gọi mời vào Seo Sơn cộng tác khi Nguyễn Uyên chân ướt chân ráo được bầu làm phó chủ tịch xã.
Nguyễn Uyên bị bắt, xã khuyết Chủ tịch. Thể theo nguyện vọng của nhân dân các bản trong xã, Hội đồng nhân dân xã đã bầu lại Triệu Thị Bầu Bí thư Đảng ủy kiêm Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã.
Xã Seo Sơn trở lại bình an sau khi Nguyễn Uyên với những mưu mô hiểm độc cùng đồng bọn bị bắt và Vân Thục tuyên bố ngừng thu mua chè bẩn.
Một không khí làm ăn chân chính được khuyến khích dưới sự chỉ đạo của những cánh chim đầu đàn như Triệu Thi Hân, già làng Triệu Văn Nga và những hộ nông dân gương mẫu, có tầm nhìn xa trông rộng, đang ngày đêm miệt mài lao động sản xuất, làm giầu cho quê hương và làm giầu cho chính bản thân mình do Hà Trọng Căn làm nhạc trưởng.
43
Mấy tháng sau, việc điều tra của cơ quan công an đã kết thúc. Người ta đã làm rõ những nghi vấn còn bỏ ngỏ tại Seo Sơn trong thời gian trước.
Chính Nguyễn Uyên chứ không ai khác, là người đã tung tin đồn Bí thư Bầu có quan hệ bất chính với Phó Chủ tịch Hà Trọng Căn khi Uyên còn là Trưởng công an xã. Chính Uyên thực hiện kế hoạch bôi xấu Căn, nhằm loại Căn ra khỏi chiếc ghế Phó Chủ tịch, mặc dù trước đó Căn đã có đơn xin nghỉ công tác, nhưng việc làm của Uyên với mục đích đẩy nhanh quá trình nghỉ của Căn, để giành chiếc ghế đó cho mình.
Khi thấy Đảng ủy xã và Hà Trọng Căn có ý định đưa Triệu Thị Hân đảm nhiệm chức Phó Chủ tịch xã, Uyên đã tiếp tục vu vạ Hân bao che cho việc quan hệ bất chính của Căn và Bầu để bôi nhọ Hân, ngăn chăn Hân tiếp cận đến cái ghế Phó Chủ tịch xã.
Việc vu khống ấy đã giúp cho Uyên bắn một mũi tên trúng ba đích. Không những loại được Căn và Hân khỏi chính trường, mà còn làm cho Bí thư Bầu mất uy tín, lúng túng, thiếu tập trung và quyết đoán trong việc bố trí nhân sự cán bộ của xã, để Uyên dễ bề tác động tới Chủ tịch huyện là chú họ của Uyên trong việc giới thiệu và bầu Uyên vào chức vụ Phó Chủ tịch.
Hà Trọng Căn bắt đầu gây dựng công ty chăn nuôi ở Đá Vách, chính Uyên đã chỉ đạo em họ của mình là Chi bán hàng cho Vân Thục thực hiện kế hoạch đốt chuồng trại chăn nuôi của Căn, nhằm gây tâm lý hoang mang trong dân bản và làm lung lay nhuệ khí của Căn.
Sau đó, Uyên đã móc nối lại quan hệ với Đỗ Pháp là bạn cùng cánh hẩu với nhau từ hồi con làm ở công ty giấy, yêu cầu Pháp vào Seo Sơn làm một công đôi việc, vừa tổ chức thu mua chè bẩn cho công ty Đài Bắc của Ba Tầu, vừa bằng mọi cách gây nghiện cho Chủ tịch xã Tấn Phong. Thế là Uyên đã loại được Phong ra khỏi bộ máy lãnh đạo xã, buộc Bí thư Bầu và Đảng ủy, Hội đồng nhân dân xã phải đưa Uyên ngồi vào chiếc ghế quyền lực chính quyền cao nhất ở Seo Sơn, nhằm thỏa mãn khát khao của Uyên.
Thông qua Đỗ Pháp, Nguyễn Uyên đã điều tra được hoàn cảnh sống của Sán Lùng. Biết Sán Lùng độc thân, cần nhu cầu tình cảm. Lại biết tính đa tình và vẻ bề ngoài dễ thu hút của Vân Thục, Nguyễn Uyên đã cung cấp cho Đỗ Pháp những tấm ảnh quan hệ bất chính của Vân Thục với Tư Phây mà Nguyễn Uyên đã chụp trộm. Những bức ảnh đó vừa giới thiệu với Sán Lùng một người phụ nữ có thân hình bốc lửa, vừa kích thích Sán Lùng đến với Vân Thục khi Vân Thục ra Móng Cái để dễ bề khống chế Vân Thục. Khi Vân Thục đã sa vào vòng xoáy ái tình, thì gia đình Tấn Phong đã tan nát. Điều ấy đã trả thù việc Tấn Phong cản trở con đường công danh của Uyên ngày trước.
Đối với Hà Trọng Căn, Nguyễn Uyên thâm thù Hà Trọng Căn, nên đã bằng mọi cách phá hại công việc của anh. Khi thấy Căn thất bại trong việc trồng chè bầu theo phương pháp giâm cành lần đầu, không những Uyên trên cương vị Phó Chủ tịch xã không động viên, giúp đỡ, mà còn vui mừng, rêu rao nhằm tạo tâm lý mất lòng tin cho mọi người, hạ bệ uy tín của Căn. Khi những hộ chăn nuôi ủng hộ Căn, Uyên đã dùng những con nghiện đói thuốc thả thuốc sâu, đất đèn xuống ao nuôi cá của những hộ đó, đổ tiếng phá hoại cho cánh đến thu mua lợn hơi ở xã, nhằm gây tâm lý sợ hãi trong dân bản, khiến những người tin theo Hà Trọng Căn hoang mang. Còn kế hoạch đầu độc đàn lợn của Hà Trọng Căn, cơ quan công an đã làm rõ vai trò chủ mưu của Uyên, không phải bàn cãi gì nữa.
Riêng việc buôn bán thuốc gây nghiện cũng không ai khác, chính Nguyễn Uyên đã đặt vấn đề với Đỗ Pháp về việc dùng thuốc gây nghiện để gây nghiện cho Tấn Phong.
Đỗ Pháp đã đặt hàng với Công ty Đài Bắc của Sán Long để sản xuất riêng loại thuốc Tám Một đỏ tẩm thuốc phiện gây nghiện cho Phong để khống chế Phong.
Rồi cũng chính Nguyễn Uyên yêu cầu Đỗ Pháp mang Tám Một đỏ về tập kết ở nhà Uyên, bố trí cho Tấn Phong trực tiếp bán hàng cho con nghiện, khống chế họ, buộc họ phải làm theo những mưu ma chước quỷ của Uyên, tạo ra một thế lực khủng bố ngầm ở Seo Sơn. Điều này một mặt dễ qua mặt cơ quan công an, mặt khác nếu bị lộ thì Uyên tránh được tội vì không bao giờ xuất hiện.
Nguyễn Uyên thực sự là kẻ chủ mưu nguy hiểm, bầy đặt tất cả mọi chuyện, thiết lập và tổ chức thực hiện nhiều mưu sâu kế hiểm ở Seo Sơn. Hắn đã gây ra nhiều tội lỗi, làm tan cửa nát nhà cửa nhiều người dân lương thiện, phá hoại niềm tin vào khối đoàn kết của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng kinh tế, văn hóa, xã hội, vào sự ổn định chính trị ở Seo Sơn.
Riêng Đỗ Pháp, lẽ ra nếu việc bắt Nguyễn Uyên không xẩy ra bất ngờ và bí mật thì chỉ bằng một cú nháy điện, Đỗ Pháp sẽ nhanh chóng lẩn qua biên giới Trung Quốc và việc luận tội Nguyễn Uyên khó mà suôn sẻ được. Nhưng nhờ có mật báo của Vân Thục mà cơ quan công an đã kín nhẹm được việc bắt Nguyễn Uyên khiến Đỗ Pháp trở tay không kịp.
Với Tấn Phong, một người đã từng giữ cương vị chủ tịch xã, mất cảnh giác để đến mức bị sa vào cạm bẫy nghiện ngập. Khi là nạn nhân của Uyên, bị cơn nghiện hoành hành không làm chủ được bản thân để tự cai nghiện, vẫn sa đà vào khói thuốc đến nỗi bán rẻ cả lương tâm, lao vào kinh doanh tội lỗi.
Còn Chi, em họ Nguyễn Uyên đã theo đóm ăn tàn, theo lệnh của Nguyễn Uyên làm càn làm bậy, rủ rê những thanh niên đua đòi ăn chơi vào xới nghiện.
Tất cả những việc làm vô lương của bọn chúng đều được phơi bầy ra ánh sáng. Song sắt nhà lao rồi có làm cho chúng tỉnh ngộ?
Ngoài kia theo quy luật sinh tồn, Seo Sơn vẫn ngày ngày thay đổi. Rừng Đại Ngàn Khe Cút vẫn ngày một xanh tươi phủ lấp đi những gì một thời nham nhở. Dòng lúa nếp Quà Đen ngày mỗi ngày thơm ngon hơn đem lại niềm tin cho hoạt động sản xuất hàng hóa cho nông nghiệp nông thôn ở một miền quê miền núi. Suối Khe Moong vẫn dạt dào mê mải đưa dòng nước mát xuôi về sông cái.
Bến Tình vẫn đôi bờ cát mịn chứng kiến những tiếng cười khúc khích của lớp trẻ lớn lên, chứng kiến sự thăng trầm của nhân tình thế thái nơi đây, chứng kiến những đổi thay kỳ diệu ở Công ty Đá Vách cùng sự trưởng thành của những người Dao, người Mường, người Mông, người Kinh và các dân tộc ít người khác ở Seo Sơn trên bước đường phát triển kinh tế đưa đời sống nông dân đến ấm no và hạnh phúc.
Hơn bốn năm sau, Tấn Phong cải tạo tốt được ân xá ra trại. Phía sau Tấn Phong là cánh cửa công lý, ác giả ác báo, tội lỗi phải đền. Con người Tấn Phong đã được tắm trong triết lý nhân sinh, gội trong đạo đời nhân quả. Cánh cửa đó đã khép lại, trả Tấn Phong về với cuộc sống hoàn lương.
Vân Thục đến tận cổng trại giam đón chồng.
Sau hơn một nghìn ngày mất tự do, Tấn Phong giờ như cánh chim được tung bay giữa muôn trùng trời xanh và mây trắng, được hít thở không khí trong lành đến miên man lồng ngực, được ùa đón mênh mông nắng thơm và gió ngọt, sải những tâm tư trong lồng lộng đất trời, đầy tình người và rạng ngời đạo lý.
Hai người lao đến bên nhau, ngực tìm ngực, môi tìm môi, mặc thanh thiên bạch nhật.
Vân Thục thủ thỉ nói với chồng:
– Mọi việc đã qua rồi, mình làm lại từ đầu, anh nhé.
Tấn Phong rưng rưng nước mắt:
– Anh cám ơn em đã chăm lo cho anh trong những ngày sóng gió. Từ giờ anh sẽ tu tâm, tĩnh trí để khỏi hổ thẹn với gia phong và dân bản.
Họ dắt tay nhau lên đường trở về Seo Sơn giữa buổi nắng mùa thu dãi vàng lối vắng.
Cửa hàng kinh doanh tổng hợp của Vân Thục từ ngày Tấn Phong bị bắt đã được thu gọn lại nhiều so với trước. Những mặt hàng có xuất xứ từ Trung quốc giờ ít người mua vì chỉ hào nhoáng bên ngoài còn chất lượng không được đảm bảo. Thay vào đó là những mặt hàng thiết yếu phục vụ đời sống dân sinh sản xuất trong nước.
Xuân đã lấy chồng ở ngoài thị trấn, các nhân viên khác cũng lần lượt kẻ đi theo chồng, người về tìm vợ. Giờ chỉ còn Vân Thục lo toan, lúc thì bán hàng, khi thì bán giải khát.
Tấn Phong về, căn nhà như thêm nguồn sinh khí, làng xóm gần xa ai cũng mừng, bỏ qua mọi lời trách cứ. Vân Thục thêm yên lòng. Nhà có đàn ông như rừng có cây lớn, bão gió cũng kiêng dè bởi tán vững, chở che cho bụi nhỏ.
Vân Thục trải qua những ngày hoảng loạn giờ như con thuyền đã có bến bình an. Cô quan tâm tới Tấn Phong từng miếng cơm chén nước như chuộc những lỗi lầm đã qua, như đền bù cho chồng những phút giây tác tao hạnh phúc.
Càng ngày Vân Thục càng thấy giá trị của cuộc sống gia đình ấm êm to lớn đến chừng nào. Đồng tiền làm sao cân bằng được phẩm giá. Nhưng thôi, bây giờ cô như cây khô héo đã được hồi sinh. Quên hết quá khứ đục lầm, cô giờ thanh thản như Bến Tình ngày qua mùa bão tố.
Từ ngày đưa được Tuấn Anh về dưới mái nhà vợ chồng Dung Tấn, Vân Thục năng đến thăm Dung hơn. Ngày trước, dưới con mắt Vân Thục, Dung chỉ là một cô gái yếu đuối, nhỏ bé và đáng thương, nhưng đến khi đưa Tuấn Anh đến cô mới giật mình, bởi trước cô là một con người có nghị lực phi thường và một tâm hồn cao thượng.
Bỏ qua bao nhiêu những đau khổ do Sán Lùng – Triệu Văn Cưởi – gây cho Dung, Dung tiếp nhận nuôi Tuấn Anh không phải vì cần một đứa trẻ có thể làm được việc nhà để trả công nuôi nấng cho mình như bố nó nghĩ trước khi chết. Dung không muốn nó sa vào những cạm bẫy cuộc đời khi nó còn quá trẻ. Dung và Tấn đã nhận nó làm con, xin cho Tuấn Anh được vào học trường dân tộc nội trú của huyện.
Tấn Phong về nhà đã được vài tháng. Sự chăm sóc của Vân Thục khiến Phong có phần đỡ xanh hơn so với những ngày trong trại, nhưng người Tấn Phong vẫn có cảm giác mệt mỏi. Các hạch trong người thỉnh thoảng nổi lên khiến cơ thể đã mệt càng mệt mỏi thêm.
Một hôm Tấn Phong có việc xuống phố huyện. Đang chầm chậm tay ga, mải ngắm những thay đổi hai bên đường phố thì nghe có tiếng gọi:
– Chú Phong, chú về từ bao giờ thế?
Tấn Phong còn đang ngơ ngác thì một thanh niên tóc nhuộm vàng hoe từ một quán nước ven đường ùa ra:
– Cháu Chi đây, cháu được ra trước chú mấy tháng, chú không nhận ra cháu à? Chú vào đây uống chén nước cái đã.
– Ô, Chi à, mày thay đổi đến chóng mặt, nhuộm tóc thế này đến bố mày cũng chẳng nhận ra được nữa là chú.
– Chú vào đây hẵng.
Vừa nói Chi vừa kéo Phong vào quán. Bô lô bô la một hồi, Chi mới ghé sát tai Tấn Phong hỏi nhỏ:
– Lâu rồi chú có được hút thuốc cũ không?
– Vào trong ấy ai cho hút mà hút. Mà bây giờ lấy ở đâu ra.
– Thiếu gì, bây giờ toàn hàng cao cấp thôi, xịn trăm phần trăm, giá lại bèo.
– Không, tao đoạn tuyệt rồi, chẳng dây vào nữa, công an túm được thì chết.
– Ừ, không hít nữa là tốt.
– Sao lại hít?
– Chú chưa biết rồi, bây giờ toàn hít với chích thôi, công nghệ hay lắm. Cháu biểu diễn cho chú xem nhé. Chú vào đây.
Chi nói nhỏ với chủ quán, lấy một gói giấy bé xíu rồi kéo Phong vào trong góc khuất, nhanh nhẹn mở gói giấy, đổ ra giấy bạc thuốc lá một chút bột trắng đưa lên mũi, bật lửa hơ dưới gầm giấy bạc. Một làn khói mỏng bốc lên, thơm dễ chịu và quyến rũ. Phong nhìn, thấy người như đê mê theo. Tự nhiên cái cảm giác bồng bềnh huyền ảo ngày nào như trỗi dậy. Lát sau, Chi như tỉnh táo hơn bảo Phong:
– Chú có muốn thử lại một tý không? Cháu chiêu đãi, rẻ bèo ấy mà.
Phong còn đang đờ người ra, chưa kịp phản ứng gì thì Chi đã mang cái chúng nó gọi là tép vào, dốc thuốc ra giấy bạc, dí vào mũi Phong rồi bật lửa. Phong dùng mũi, dùng mồm hít hết làn khói mong manh ấy vào lồng ngực. Một cảm giác lâng lâng, sảng khoái, rần rật chạy trong cơ thể Phong, đưa Phong vào mê cung huyền ảo. Phong như mộng mỵ, như được bay lên, đắm chìm vào cõi bồng lai, lai láng.
Rồi Phong thấy mình như được tiếp thêm sức mạnh, những mệt mỏi và cựa quậy của hòn hạch, tự nhiên bay đi hết, chân tay như hoạt hẳn ra. Đoạn đường từ phố huyện về Seo Sơn như ngắn lại.
Đêm hôm ấy, Phong như trở về với tuổi thanh niên cường tráng khiến Vân Thục cũng cảm thấy bất ngờ và mãn nguyện.
Hôm sau, Tấn Phong thấy cảm giác buồn buồn chạy khắp cơ thể. Sự khát thèm cái làn khói mong manh ấy đay nghiến Tấn Phong, giục Tấn Phong phải nhanh chóng tìm về với nó. Tấn Phong phóng xe máy ra phố huyện. Đến quán nước hôm qua đã thấy Chi ở đấy có vẻ như đang chờ Phong đến, nó nói nhỏ đủ cho Phong nghe:
– Nhân bảo như thần bảo, cháu biết thế nào chú cũng đến mà. Đời người sống được mấy nả, nhịn thèm làm gì cho nó khổ. Thôi vào đây, cháu bảo cô chủ lấy thuốc cho, rồi nhanh về kẻo người ta nghi ngờ, bất lợi. Mà chú nhớ tìm chỗ kín đáo mà hít, đừng để ai, kể cả cô nhà chú biết đấy.
Phong ừ rồi rút tiền lấy cả một chục tép để đỡ phải đi lại nhiều. Bấy giờ Phong mới biết giá một tép thuốc không hề “bèo” một chút nào.
Sau mấy năm ngồi bóc lịch trong trại giam, kiến thức của Phong về chất gây nghiện vẫn chỉ là nàng tiên nâu trong Tám Một đỏ. Tiếp xúc với Chi, Phong như người đi từ sông ra biển, được mở rộng tầm mắt, mới thấy nền văn minh hiện đại đã tiến xa đến thế nào. Phong đã được biết rằng chất bột trắng đã cho Phong niềm đam mê tuyệt vời đó được coi như là thứ thuốc phiện cao cấp, được nền văn minh hiện đại sản xuất ra để con người được thăng hoa cùng cảm xúc thần tiên. Thứ thuốc ấy có tên là hê-rô-in.
Thế là Phong lại được đê mê, sảng khoái, lại được miên man trong phù du hưởng lạc.
Hết chục tép thuốc ấy, Chi còn hướng dẫn Tấn Phong việc tiêm chích nữa. Cái cảm giác phê thuốc đã kích thích Tấn Phong, Phong cảm thấy mỗi lần được phê thuốc như được sống trong một thế giới khác, đầy ảo vọng mênh mông, được đắm chìm trong mê cung mãn nguyện.
Đối với Tấn Phong giờ đây thứ thuốc thần dược ấy đã là tất cả. Trước đây Tám Một đỏ chỉ được ví như người vợ thôn quê mộc mạc, nâu sồng chân đất, gắn bó với Tấn Phong một thời cám tấm. Còn bây giờ hê-rô-in như tiểu thư thành phố khuê văn, đài các, cổ kiêu ba ngấn, đong đưa, lúng liếng, có sức thu phục làm nghiêng ngả thành trì, đảo khuynh trời đất.
Mỗi lần hít những làn khỏi mỏng manh ấy vào cơ thể mình, Tấn Phong thấy như được tiếp thêm nguồn sinh lực đê mê quằn quại. Cái cảm giác thần dược đó đã đưa Tấn Phong đi vào cõi bồng lai tiên cảnh, rạo rực, mơ hồ, bông bênh, huyền ảo.
Một buổi, Tấn Phong có việc qua bản Cọ Sơn.
Cơn mưa chiều sầm sập kéo dài như trời không muốn dứt. Sẩm tối thì nước suối Khe Moong lên cao đổ từ thượng nguồn Khe Cút về qua Bến Tình, khiến đôi bờ ngập tràn mênh mông nước trắng. Nước lên to thế này thì chịu thật, có tài thánh cũng không sao lội qua suối để về nhà được. Tấn Phong đành mắc kẹt ở bên kia suối.
Cơn thèm thuốc khiến Tấn Phong vật vã trong người, những cái hạch phối hợp với cơn đói thuốc như muốn làm phản Tấn Phong, khiến cơ thể Tấn Phong bứt rứt, cứ như có hàng vạn mũi kim châm chọc vào mọi nơi, mọi chỗ. Tấn Phong vò đầu bứt tai không sao ngủ được. Một đêm mà đối với Tấn Phong dài như thế kỷ.
Sáng hôm sau, Phong ra bờ suối từ sáng sớm, chờ nước rút lội về nhà.
Về đến nhà, không kịp thay quần áo ướt, Tấn Phong chui vào buồng lấy xi lanh bơm thuốc, chích luôn vào cánh tay. Bơm hết cữ thuốc mà cảm giác tỉnh táo, phấn chấn chưa thấy về, Tấn Phong tiếp tục bơm thêm cữ nữa. Thuốc chưa kịp bơm hết, Tấn Phong đã thấy mình như bồn chồn, rạo rực khó tả,  mồm miệng đắng ngắt, choáng váng, chân tay như đờ ra. Phong ngáp một tiếng, lả đi, gục xuống, mê man bất tỉnh.
Lúc Vân Thục vào buồng thì cơ thể Tấn Phong đã lạnh ngắt.
Đám ma Tấn Phong được tổ chức ngay sau đó. Dù gia đình Vân Thục và các con không ai hé nửa lời về nguyên nhân cái chết của Tấn Phong, nhưng mọi người đều biết Tấn Phong chết vì bị sốc thuốc.
Thôi! Thế cũng là xong một kiếp người trầm luân. Được đào tạo với bao nhiêu khóa học, đủ các loại bằng cấp đủ để hơn người, Tấn Phong đã bao lần kinh bang tế thế, diễn thuyết đăng đàn, tưởng chừng cứng vững trước mọi sóng gió cuộc đời. Ấy thế mà cũng không tránh khỏi một lần sa đà, vô tình lạc bước vào nơi phù phiếm, để rồi khói thuốc đốt cả đời người, hủy tan sự nghiệp, lưu lại tiếng xấu bôi danh.
Thế mới biết, cuộc đời con người giữ gìn cho trọn vẹn mọi đường ăn ý ở là một việc thực sự khó khăn, chứ một khi quyền chức có trong tay, chót sao nhãng dù chỉ phút giây ngắn ngủi để tâm không sáng, trí không thiện, gan không bền thì khó lòng giữ gìn cơ nghiệp được.
Việc đời chẳng biết thế nào mà lường, thường thường “phúc bất trùng lai, họa vô đơn chí”. Sự mừng chẳng mấy khi lặp lại, việc tổn thất cứ đua nhau ập đến. Âu đấy cũng là lẽ thường.
Mấy tháng sau ngày Tấn Phong chết, Vân Thục cũng thấy cơ thể mình luôn mỏi mệt, chán không muốn ăn cơm, luôn như ngây ngấy sốt, người gầy rộc hẳn đi, khắp người hạch chạy cứ như quen đường thuộc lối.
Thế là Vân Thục biết mình sắp gần đất xa trời. Căn bệnh của Sán Lùng đã gọi Vân Thục về nơi vân du bách tuế.
Chưa bao giờ Vân Thục tha thiết được sống như thế này.
Từ khi dứt được mối quan hệ làm ăn, buôn bán với Nguyễn Uyên và Đỗ Pháp Vân Thục thấy cuộc đời có biết bao điều đáng để thèm khát.
Dù đồng tiền chẳng có tội tình gì, nhưng đồng tiền trong canh bạc với Uyên và Pháp nhơ nhớp, bẩn thỉu đã trói chặt Vân Thục vào tấn trò đời đầy khốn nạn và bất lương.
Bây giờ đã thoát khỏi những cạm bẫy đó, Vân Thục như thấy thanh thản và da diết muốn được đem sức lực của mình làm được việc gì đóng góp cho dân bản. Vân Thục khát khao được sống như Hoàng Thị Dung những ngày này, dẫu rằng tiền của chẳng có là bao so với Vân Thục, nhưng có đầy Phẩm Hạnh. Phẩm Hạnh đó là Phẩm Hạnh của một người phụ nữ can trường và nhân cách trước muôn vàn gian lao, khổ ải. Cuộc đời của Dung khi bị Triệu Văn Cưởi lừa gạt đã tưởng chừng đi vào ngõ cụt, nhưng chị đã lấy lại bình tâm để lao tâm khổ trí cùng công việc. Chị như cánh hoa quý, vượt lên trên sương gió phong trần giữ mầu hoa càng tươi, càng bền, càng đẹp.
Thế nhưng Vân Thục còn làm được gì nữa. Ngày đã cạn lắm rồi, mệnh đã biết sẽ lụi tàn như ngọn đèn sắp tắt. Vân Thục cũng chẳng có mấy ai là bạn bầu thân thiết, chia sẻ tâm can. Những lúc mạnh khỏe thì lao vào mánh mung, buôn bán kiếm tiền, giao du với bọn người ma giáo, chẳng được sống với những chân thành, tình nghĩa, nên giờ chẳng còn đủ thời gian xây lại cảm xúc bạn bè.
Vân Thục cũng không đủ can đảm để nói ra những lời căn dặn, sám hối trước những việc làm đã qua, nên khéo léo dặn dò con cái, lại ý tứ có lời nhờ họ mạc các bên, nhờ bà con dân bản trông nom, dạy dỗ chúng nên người, biết vì mọi người mà sống.
Vân Thục xem lại liều thuốc ngủ mạnh đã chuẩn bị sẵn sàng và lo toan mọi việc cho ngày vĩnh biệt, không muốn cho ai biết sự thật chuyện ra đi của mình.
Một buổi sáng, mọi người thấy Vân Thục cứng đơ trên gường, nét mặt thanh thản, phảng phất một nụ cười. Ai cũng nghĩ Vân Thục bị cảm mạo.
Thế là Vân Thục đã đi vào cõi vĩnh hằng.
44
Mưa giăng giăng rồi nắng ướt mềm thi nhau tưới khắp đồi chè Đá Vách. Mới có năm năm mà những đồi chè đã vào kỳ giao tán. Búp chè đua nhau ken dầy, tua tủa, non mềm đơm trên mặt tán cong đều mềm mại. Khắp vùng chè Đá Vách như lung linh một sắc xanh óng ả dưới ánh mặt trời. Những chiếc máy hái chè đua nhau làm việc, hối hả đưa về nhà máy những bao chè non mẫm.
Đất Đá Vách trước đây khô cằn sỏi đá, chè vè còn khó sống, nhưng được cái có những vi chất tạo cho chè có hương vị đặc trưng hơn hẳn chè các vùng lân cận. Chả thế mà từ xưa tới nay, những người sành chè đều đến mua chè Đá Vách.
Chính vì tiếng lành đồn xa, công ty San San của Nhật đã tìm đến liên doanh với Công ty Đá Vách được hơn một năm nay. Người Nhật thấy chất lượng chè búp tươi của Đá Vách không thua kém gì chất lượng chè vùng Sa Ka của họ, nên đã tìm đến và đầu tư một nhà máy chế biến chè theo công nghệ đặc biệt của Nhật tại Đá Vách.
Qua năm, sáu năm nay, năm nào vườn chè Đá Vách cũng được đầu tư một lượng đáng kể phân chuồng từ chuồng trại chăn nuôi lợn và phân xanh cốt khí. Lượng phân vừa bón cho gốc chè, vừa bón cho cốt khí nên cốt khí cứ xanh um, nốt sần của rễ đem lại cho đất lượng đạm bổ xung, lá cành của cây đem lại độ tơi xốp và bổ xung mầu mỡ cho đất. Rồi lá chè già, rồi cành ngọn sau đốn. Tất cả đều để lại mầu mỡ trên lớp đất đá ong ngày nào lở loét, khô ráp dưới chân người, khiến bây giờ bước vào vườn chè đất xồm xộp, mát êm.
Năng suất vườn chè bây giờ đã trên mười tấn một héc ta và mỗi năm mỗi tăng. Liên doanh đang áp dụng phương pháp che lưới đen hạn chế tia cực tím trong ánh nắng mặt trời để nâng cao chất lượng chè búp, nhằm chế biến ra những mặt hàng chè đặc biệt cao cấp.
Hơn một trăm héc ta chè của đội chuyên canh chè Đá Vách đã giao cho dân bản  được Giám đốc Hà Trọng Căn đầu tư ứng trước toàn bộ để trồng mới lại theo quy trình chè giâm bầu, thu mua búp chè tươi sau cũng qua thời kỳ kiến thiết cơ bản, bước vào giai đoạn kinh doanh, đàm bảo cung ứng nguyên liệu cho nhà máy chế biến.
Những hồ đập xen kẽ giữa những đồi chè bây giờ lúc nào cũng đầy nước.
Nước được lấy từ thác Kẹm Hem qua một hệ thống cọn nước bằng nhựa cứng mầu vàng óng, thay cho tre nứa, đảm bảo vừa bền vừa nhẹ, được bàn tay vàng Đinh Công Tấn thiết kế và xây dựng trông thật nên thơ, ngày đêm rì rào đưa nước từ Bến Tình lên cao, đổ vào mương nước dẫn về đập.
Một hệ thống ống dẫn bằng nhựa và thép mạ cũng được đầu tư xây dựng, chôn ngầm, chôn nổi, kéo dài từ phai Khe Măng vòng sang Đá Vách, cung cấp nước bổ sung cho hệ thống hồ đập, khiến Đá Vách quanh năm lúc nào cũng sung mãn nước.
Trước kia đồng đất khô cằn, nước có đến đâu, thấm và bốc hơi đến đó nên khô cằn vẫn cứ khô cằn. Giờ Đá Vách mầu mỡ đủ đầy, nước nôi không thiếu, cây cối xanh tươi, khí hậu tiểu vùng mát mẻ nên nước chẳng thấm là bao, bốc hơi cũng bớt, làm cho vườn chè đã xanh tươi lại xanh tươi thêm.
Cả một vùng Đá Vách nay đã óng ả chè, mượt xanh như nhung lụa, dậy lên hương vị dịu thơm, nồng ấm. Những hàng cây muồng hoa vàng bóng mát điểm tô cho những đường bờ lô với viền cao che nắng, chắn gió, khiến không gian không còn sự ngột ngạt ngày nào. Thay vào đó là sự yên bình của trời, của đất. Những đàn chim ríu rít từ mọi nơi về xây tổ, chen nhau cất tiếng hót véo von. Những đàn cò, đàn vạc kéo nhau về đậu kín trên những thảm tre, bãi luồng ven hồ ven đập, mỗi sáng mỗi chiều khỏa vào không gian những âm thanh chiu chít, gợi nên sự trù phú, thanh tao, khiến lòng người như xôn xang, nao nức.
Khói nhà máy chế biến chè mỏng tang, nhẹ bay trong nắng sớm. Hương vị chè ngọt thơm, phả vào không gian khiến đất trời như dịu dàng, mơ hồ, huyền ảo. Nhà máy chế biến thức ăn gia súc nồng nàn mùi đậu đỗ rang xay, ngô nghiền ngon đượm, búng vào không gian niềm ước ao chín mầu hạnh phúc. Khu công nghiệp đông lạnh, chế biến thịt lợn xuất khẩu mới được đầu tư xây dựng râm ran tiếng lanh canh đóng hộp bao bì, miên man tiếng băng chuyền vận chuyển làm cho không gian cứ sôi động như tằm đang vào mùa ăn rỗi.  Từng đoàn xe chở hàng chè xuất khẩu ríu rít bon trên những con đường láng nhựa như những con trăn khổng lồ đen bóng, khiến Đá Vách như miền đất đầy ấn tượng.
Tiếng con trẻ đọc bài riu ran cùng tiếng róc rách suối đàn Khe Moong, Bến Tình, Kẹm Hem, Đá Đụng, tiếng vỗ cánh mơ hồ của đàn ong siêng năng tìm hoa, hút mật, cùng miên man sóng lúa nếp cái Quà Đen từ Cọ Sơn vọng lại, tiếng Rừng Đại Ngàn Khe Cút xôn xao thoang thoảng phổ về dệt lên khúc nhạc nao lòng cùng Đá Vách.
Chiếc cầu treo sênh sang vắt ngang đôi bờ Khe Moong, soi bóng xuống Bến Tình nước đang vào mùa trong vắt. Những cọn nước vàng ươm phô mình đài các, đưa nước dềnh lên, chẩy vào mương tưới cao gần chục mét như vẽ vào nền trời những nét chấm phá điệu đà mơ mộng.
Cả một vùng Khe Cút, Cọ Sơn, Đá Vách của Seo Sơn rộng hàng nghìn héc ta nay đã thành điểm du lịch cộng đồng trong hành lang du lịch của vườn quốc gia Phia Boóc. Những chiếc xe ngựa nhạc cổ binh boong chở khách viễn du trên những con đường đất mịn  thăm quan những danh lam thắng cảnh.
Thôi thì khách ngoại quốc có, khách du lịch nội địa có, cứ nườm nượp vào ra.
Biết bao người ngây ngất trước vẻ tao nhã tuyệt thế của Thác Mơ với dải lụa từ đỉnh cao núi đá, trổ mình xuống lưng chừng Rừng Đại Ngàn Khe Cút. Tắm trong vụng nước mát rượi, ngâm mình dưới làn nước trong vắt giữa mùa hè nóng như đổ lửa, hít thở mùi rừng già đẫy nhựa, ai ai cũng thấy thanh thản. Rồi ngắm nhìn những bọng ong rừng ngọt lịm phấn hoa, những đàn cầy hương thập thò qua kẽ lá như đùa trêu du khách, hít thở không khí đại ngàn của những cây rừng đủ loại đinh lim, sến táu lực lưỡng, cao vút, những giò phong lan đủ mầu sắc vắt vẻo lưng chừng đại thụ và hít thở mùi chuối rừng chín cây thơm lựng khiến du khách tưởng lạc vào chốn phiêu du mộng tưởng.
Đã thế, khách sành chơi được đắm chìm trong những điệu ví, điệu giang, âm vang tiếng lòng chàm đuống của nền văn hóa dân tộc. Từ đây bao người tìm hiểu lễ hội ném còn, đánh đu, tết nhẩy, phong tục cấp sắc, của đồng bào người Mường, người Dao ở Cọ Sơn. Người ta còn được thưởng thức những tiệc rượu cần ngọt lừ, thoang thoảng mùi vị mật ong hoa bồ đề, hoa dẻ rừng thơm ngát, ngả nghiêng trên những ngôi nhà sàn hoặc nửa sàn nửa đất, với những món ăn dân dã của mường, của bản như rau nương đồ trong hông gỗ, cá suối cặp vỉ tre non nướng vàng cườm trên than hoa gố nghiến, những ống thịt chua thơm mùi thính gạo, lại nữa, lợn cắp nách bẩy món ở thâm sơn và những lóng cơm lam thoang thoảng mùi nứa non nướng chín. Họ càng thêm thấu hiểu những nét đẹp văn hóa truyền thống của đồng bào vùng cao, thấu hiểu lòng mường trù phú.
Khách viễn du còn được rung rinh trên lòng xe ngựa trải thảm vỏ cây sui già giữa đồng lúa nếp Quà Đen đang vào mùa phơi đòng làm hạt. Hương lúa dịu dàng mơn man khứu giác đưa lữ khách vào chốn mộng mơ căng tràn nhựa sống. Cũng có khi đi trong mùa lúa đang thì con gái mượt mà xanh non, khiến lòng người mát rượi, phơ phất xúc cảm, quên đi bao phiền muội ở đời. Hoặc vào giữa vụ gặt mùa, hương thời gian đậm đà phả trên cánh mũi, mùi lúa mới nồng nàn cứ reo rắt theo nhịp chân các sơn nữ lao xao về bản.
Đi qua cầu treo Bến Tình, ngắm nhìn làn nước trong, in hình nhau dưới suối, ai đó nhớ về thủa đã qua bóng áo cóm căng đầy, bóng chân trần trắng mịn khỏa nước cứ xôn xao, thao thức gọi về với tự nhiên khoang khoải để náo nức trong lòng.
Rồi cọn nước miên man bên bờ suối, như những bánh xe quay tròn đùa nghịch dâng nước lên cao gần bằng ngọn cây, lãng đãng trêu ngươi mây trời, giữa không gian sơn thủy hữu tình, nắng gió xuyến xao.
Du khách được rong chơi bên hồ nước Đá Vách với từng đàn cá lội tung tăng, phô những hàng vây bạc, lấp lánh trong làn nước xanh trong. Những khóm sen xanh mượt lá, những đóa hoa súng đỏ tươi, thoang thoảng hương đưa dìu dịu. Những đàn cò trắng sải cánh trong nắng, chấp chới cùng mầu xanh non tơ của búp chè. Tất cả như đồng điệu với lòng người, dịu dàng như những lời xuân thì của người sơn nữ điệu đàng.
Họ còn được tắm trong không khí lao động hăng say trên đồng chè, trong nhà máy, được ngắm nhìn đàn lợn chuẩn bị xuất chuồng no tròn béo nục, những đàn lợn con tung tăng đùa nghịch, những sản phẩm đông lạnh xuất khẩu, những hộp thịt ánh lên mầu thiếc trắng. Khách gần, khách xa còn được thưởng thức những chén chè nước xanh như mật vịt, được pha với động tác điệu nghệ khiến họ không khỏi buông lời tấm tắc, xuýt xoa.
Khách du ra về, mang theo bao tình yêu mến với Seo Sơn. Quà thì đây, những mặt hàng thổ cẩm đầy ắp tình người, những chai mật ong sánh vàng hương Khe Cút, những túi gạo nếp Quà Đen ăn một lần nhớ mãi, rồi biết bao đặc sản của rừng. Lại nữa, những ấm chè ngọt dịu lời mời, những ống cơm lam thảo thơm tình nghĩa.
Khu du lịch sinh thái cộng đồng Đá Vách Cọ Sơn đã phát triển kéo theo bao nhiêu nghề truyền thống được ươm mầm và phát triển. Công ty lữ hành cũng ra đời bổ xung ngành nghề cho liên doanh Đá Vách.
Một mô hình sản xuất kinh doanh tổng hợp đa ngành, đa nghề, quan tâm đến cả nội tiêu và xuất khẩu, giữ Rừng Đại Ngàn bền vững kết hợp với du lịch sinh thái cộng đồng, hoạt động lữ hành cùng kinh doanh các sản phẩm truyền thống, khai thác đất đai và bồi bổ nâng cao độ phì nhiêu cho đất, giữ gìn môi trường đã làm cho Seo Sơn trở thành hình mẫu nông thôn mới, văn hóa, văn minh thay thế cho vùng đất vốn trước đây là thâm sơn cùng cốc.
Đêm nay trắng sáng quá, Giám đốc Hà Trọng Căn mê mải đi trong hương chè giữa một vùng Đá Vách căng tràn nhựa sống. Công sức bao ngày lao tâm khổ tứ của anh, của Triệu Thị Bầu, của Hà Trí Lâm, của Triệu Thị Hân và bao nhiêu bạn bè, đồng chí, anh em, dân bản đã đơm hoa kết nhụy.
Seo Sơn đã ngập tràn niềm vui và hạnh phúc. Mọi điều tội lỗi đã được lịch sử phán xét, những dang dở đã được hồi sinh, những ước mơ khát vọng đã thành hiện thực.
Anh mải mê ngắm nhìn bầu trời đầy sao, những ngôi sao nhấp nháy, có ngôi thấp, ngôi cao, ngôi thấp thì sáng, ngôi cao thì mờ. Trong các ngôi sao đó, có những ngôi chưa kịp rọi ánh sáng xuống mặt đất đã tàn, có những ngôi lung linh tỏa sáng bất chấp thời gian. Người ta nói mỗi ngôi sao là một linh hồn của một người, không biết có thật thế không?
Trước mặt anh là Cầu Treo Bến Tình lung linh trong điện sáng, giờ đã thành điểm vui chơi của thanh niên các bản ven bờ Khe Moong như Đá Vách, Cọ Sơn. Anh nghe giọng đồng dao vang lên từ Bến Tình: Một ngôi sao sáng, hai ông sáng sao…
Lời bài hát cứ như quyện lại, bổi hổi bồi hồi cùng hương chè, hương lúa, hương rừng và như thơm cùng mùi mồ hôi nồng nàn sau những giờ miệt mài lao động.
Anh thấy ấm trong lòng và anh cũng muốn ngân lên: “Một ông sao sáng, hai ông sáng sao …” như lớp trẻ.
11/12/2021
Vũ Quốc Khánh
Theo https://vanvn.vn/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Sao em không đợi

Sao em không đợi? Chiếc xe hơi ập đỗ trước cổng. Xe phủ trắng bụi đường. Chứng tỏ chặng đường đi xa xa lắm. Người đàn ông đầu hói, mặt cổ ...