Thứ Hai, 27 tháng 1, 2025

Quãng đời đánh mất 2 XXXX

Quãng đời đánh mất 2

Chương 8

Tám giờ kém mười lăm... Trọng giơ tay xem đồng hồ, bực dọc nhìn mâm cơm. Món canh cá nấu chua đã nguội, mở đóng váng lẫn với cà chua và hành thơm. Đĩa sào cũng vậy. Hai chiếc bát sứ trắng lau sạch sẽ, hai đôi đũa gỗ trắng chia hai bên mâm đợi chờ... Bích lại sai hẹn... Giờ này biết cô ta lang thang ở đâu? Chiến dịch phấn đấu vào Đảng đã kết thúc. Cuối cùng, Bích đã chiến thắng tuyệt đối như cô dự tính. Tại cuộc họp chi bộ lần thứ tư số phiếu thuận cho cô chiếm xấp xỉ hai phần ba. Anh chàng Quỳ, phó bí thư chi bộ bị phê bình nghiêm khắc vì đã lộ bí mật tổ chức. Đương nhiên, kỳ tới, anh ta sẽ không được ứng cử vào ban chấp hành Đảng ủy ngành. Giờ, Bích lại mở chiến dịch thứ hai: có thể cô sẽ thế chân Quỳ chứ không phải mụ Thìn ngu ngốc hám lợi kia?... Cô trẻ trung, vui vẻ hẳn lên. Lúc nào cũng bận rộn với công việc. Bao nhiêu lần lỗi hẹn với Trọng cô đền bù bằng bấy nhiêu âu yếm, vuốt ve. Nhưng họ vẫn chưa hợp pháp hóa cuộc sống chung, vì cô hẹn:

- Anh thư thả cho em vài tháng nữa. Hết đợt này...

- Đợt gì?.

- Anh thấy đấy, em đang đà phấn đấu...

Trọng không muốn nói thẳng cảm nghĩ của mình. Anh hổ thẹn với chính anh vì đã thỏa hiệp. Mối liên hệ giữa người đàn ông với người đàn bà ghê gớm hơn anh tưởng. Quán tính, thói quen của cách nghĩ và thói quen sinh hoạt...cũng mạnh hơn anh tưởng tượng. Chừng mực nào đó, anh là người đàn ông dễ dãi, nhu nhược. Hay vì quãng đời chiến tranh đã tập cho anh thói quen chịu đựng và sự khao khát hạnh phúc lớn đến nỗi nó có thể chế ngự những đòi hỏi nghiêm ngặt khác trong anh?... Dẫu sao, hình ảnh người đàn bà anh yêu dấu cũng đã nhiễm bùn... Lúc này hoặc lúc khác, những ý tưởng đen tối, ngờ vực lại hiện lên. Anh cố tẩy xóa, nhưng không được...

Anh đi quanh căn phòng vài lượt, ngồi xuống ghế đọc báo, rồi lại ném tờ báo đi ra hiên. Trời đầy sao, không khí khô và nhẹ. Những chiếc lá khô rơi xạc xào rất khẽ bên ngoài.

Người đàn ông xem giờ, và lần này anh quyết định khóa cửa, lên thành phố.

- Chừng nửa giờ thôi, mọi sự sẽ rõ ràng.

Trọng nghĩ. Anh đóng các cửa, khóa cửa chính rồi dắt chiếc xe Sim-sơn ra sân. Xăng trong bình đã cạn, tiếng xóc nghe loọc oọc. Trọng tới chân cầu thang, lấy can xăng đổ cho đầy bình. Xong xuôi, anh khóa cổng, nổ máy đi.

- Mình không thể sống mãi trong tình trạng thiếu minh bạch. Mình không còn thời gian nữa. Đáng lẽ, mình đã có một gia đình, một đứa con trai. Mẹ viết thư nhiều lần, cứ phải nói dối quanh bà cụ. Có thể là Bích không muốn có con. Cô ấy đã có một đứa con gái xinh đẹp, bây giờ cô ấy lao vào cuộc phiêu lưu chính trị một cách cuồng nhiệt. Cô ấy tìm kế hoãn binh, khất lần khất lữa với mình... Chẳng lẽ một tình yêu thực sự lại chuyển hai người thành con nợ và chủ nợ hay sao?.

Xe lao như bắn, êm ru. Đường rất xóc nhưng loại xe này có cơ chế giảm xóc tối thượng. Không một thứ Honda nào êm hơn loại xe này. Trọng hài lòng vì anh đã quyết định mua chiếc Sim-sơn mới đập hộp của một chàng lưu học sinh vừa từ cộng hòa dân chủ Đức về chứ không mua Cúp như một số người khuyên bảo. Xem đồng hồ, đúng ba mươi hai phút Trọng đã tới thành phố. Anh phóng thẳng tới cửa hàng, nơi Bích làm việc, cửa hàng đã đóng cửa:

- Vậy mà cô ấy nói rằng có thể mở cửa phục vụ buổi tối, lấy thành tích chào mừng đại hội...

Trọng lầm bầm. Anh nhớ, hồi lão Ngạn còn ở với họ, có lần anh cũng hồ nghi Bích nói dối mình. Anh đắn đo mãi mới dám hỏi:

- Bác ạ, nếu không phải thì bác bỏ lỗi cho, ngày trước Bích có hay nói dối bác không?

Lão Ngạn đang đọc cuốn Nam hoa kinh. Lão bỏ cuốn sách, nhưng không nhìn anh:

- Hồi nó còn nhỏ tôi phải coi sóc cửa hàng, suốt ngày người mua kẻ bán, hàng họ, sổ sách...chẳng có lúc nào để ý...

Trọng lặng im. Anh không dám nói thêm. Lão Ngạn cầm cuốn Nam hoa kinh lên, nhưng xem được vài dòng, lão lại chậm rãi nói tiếp:

- Cái giống đàn bà ấy mà, tìm được một đứa thực thà cũng như tìm bông sen giữa tiết tháng giêng.

Lúc ấy, anh mỉm cười vì vẻ cay độc trong câu nói hàm hồ. Giờ, Trọng lại mỉm cười chua chát:

- Hóa ra ông lão hiểu con mình.

Anh trù trừ suy tính: Không biết tìm Bích ở đâu?... Chiến dịch thứ hai của cô, người đàn bà nhiều tham vọng... Cuối cùng, anh đành an ủi: Nhiều tham vọng tới đâu, Bích cũng chỉ là người đàn bà. Có thể, sau mọi lo toan tranh đấu cô sẽ trở về nhà người chồng cũ, thăm đứa con gái đẹp như thiên thần kia... Anh nổ máy, phóng thẳng về khu nhà giành cho cán bộ cao cấp.

Chừng mười phút sau, Trọng tới nơi. Nhà Nghĩa ở tầng hai, anh không thể dắt theo chiếc xe máy kềnh càng. Anh tìm một rạp chiếu bóng hay câu lạc bộ nào quanh quẩn gần đó, có thể gửi xe. Câu lạc bộ cách đó chừng vài trăm thước. Đi bộ không lâu.

Trọng hối hả phóng tới nơi, chào bà gửi xe - một người đàn bà nặng ngót nghét tám chục cân, với khách nào cũng bả lả như người quen cũ - Bà ta ghi cho anh tấm vé rồi dặn:

- Cưa kéo gì cũng phải lấy xe trước mười rưỡi đấy nhé... Không thì tôi phạt tiền gấp ba.

Trọng gật đầu:

- Cảm ơn bà.

Anh bước đi, nghe bà ta nói sau lưng:

- Gớm, trông anh chàng cứ như hộ pháp trốn chùa đi chơi ấy... Trọng nhìn đồng hồ đeo tay: Chín giờ kém bảy phút...Anh không còn bao nhiêu thời gian nữa. Người đàn ông rảo bước, nhưng cũng ngay lúc ấy, một mặc cảm khiến anh ngại ngần:

- Nên chăng?... Sự xuất hiện của anh liệu mang tới cho người chồng cũ và đứa con Bích điều gì?... Chắc chắn không phải niềm vui. Chắc chắn anh không bao giờ là vị khách họ chờ đợi. Đành rằng Nghĩa và Bích đã ký giấy ly hôn, mọi thủ tục hành chính đã xong nhưng còn những quan hệ mà các thủ tục hành chính không bảo đảm được. Nghĩa chưa lấy vợ, và Bích cũng chưa lấy chồng, giữa họ có thể có những phút hồi tâm...và anh, anh sẽ bẽ bàng bao nhiêu nếu như rơi vào thời khắc ấy.

- Nhưng cũng chính vì ẩn số ấy mà mình mới tới đây. Đau một lần, còn hơn là buồn mãi mãi.

- Nhân danh gì mà mình đột nhập vào nhà họ?... Mình có quen Nghĩa đâu?.

Người đàn ông ấy, anh có biết. Ông ta là thủ trưởng cao nhất ngành thương nghiệp tỉnh. Một người khá đẹp trai nhưng héo úa, còm cõi. Gương mặt ông ta, vầng trán ông ta, đôi mắt ông ta đều toát lên một thứ ánh sáng u sầu. Ngay lần đầu tiên, nhìn thấy Nghĩa, anh đã nghĩ tới hình ảnh một cha xứ bẩm sinh. Loại người chỉ thích hợp với tấm áo chùng thâm và các buổi đọc kinh rửa tội. Giá ông ta từ một vòm cửa nhà thờ nào đó bước ra, cặp mắt xa vời, đi giữa đám giáo dân đang thành kính cúi chào như đi giữa sa mạc, vẻ mặt của kẻ tuẫn tiết...anh sẽ thấy hợp lý hơn là từ cuộc họp căng thẳng giữa các đơn vị kinh doanh bước ra, tay cắp cặp và vai còng xuống một cách khốn khổ... Tự nhiên, anh thương Nghĩa. Anh không hiểu lý do cuộc chia ly giữa ông ta và Bích, nhưng anh thương Nghĩa như một người đàn ông thương một người đàn ông...

- Dù sao, cũng phải có một quyết định về phía mình... Đành liều vậy.

Anh tự nhủ, và đặt chân lên cầu thang. Cầu thang dốc nhưng khá rộng. Duy ngọn đèn phía trên đã bị đánh cắp nên tối om. Trọng phải vịn tay vào lan can, bước lên từng bậc.

Hành lang không có người, nhưng dày đặc những xe: xe đạp và xe máy, chiếc nọ khóa chằng với chiếc kia. Kẻ cắp trong thành phố nhiều tới mức độ những ai còn lương tâm và sự tỉnh táo phải nhục nhã. Các căn hộ đã khép kín cửa, thêm một lần cửa sắt bên ngoài. Nhà nào cũng có một ổ khóa to tướng. Ai tới, người trong nhà ló đầu ra nhìn, nhận diện chắc chắn mới xách chùm khóa ra mở, mời khách vào. Kỳ quái... Trọng thầm nghĩ. Anh nhìn những chấn song sắt lớn nhỏ dọc hành lang, buồn tênh. Những năm chiến đấu trong rừng, anh không mường tượng cuộc sống sẽ tới hồi này. Những năm ấy đã xa.

Nhà của Nghĩa đây rồi, cuối mút cầu thang. Anh vừa giơ tay bấm chuông thì tiếng người đàn bà đã vang sau cánh cửa gỗ:

- Em đi đây.

Trọng vội rụt tay lại, đứng nép vào một bên. Không phải kẻ trộm mà bỗng dưng mặt anh nóng rần rật như bị bắt quả tang làm điều gian trá. Tim anh đập thình thình. Nhưng một ý muốn rất mãnh liệt, ép anh đứng sát vào bức tường, đôi tai căng lên, nghe ngóng. Tiếng lạch xạch khe khẽ, Bích đang đẩy lùi chiếc xe đạp ra cửa. Rồi, giọng Nghĩa vang lên:

- Không đi đâu cả.

Bích nói:

- Em về khu tập thể, còn một đống sổ sách chờ.

- Đêm nay cô không đi đâu được. Tôi nói rồi, cất xe vào... Tiếng người chồng cũ, đầy quyền uy.

Hình như Bích do dự. Rồi có tiếng cất xe lạch xạch. Và cô làu bàu:

- Sao bỗng dưng anh khó tính thế?... Em còn bao nhiêu việc.

Nghĩa nói, dằn từng tiếng:

- Bỏ xe đấy... Ta cần nói chuyện đêm nay.

Một vài giây lặng lẽ. Hình như Bích đã vào nhà, không còn nghe rõ những cử động của cô.

Giọng Nghĩa, từ trong buồng vẳng ra, nhỏ nhưng rành rọt:

- Con ngủ say rồi... Giờ, ta có thể nói mọi chuyện với nhau... Xin lỗi, cô chờ tôi một chút.

Chắc hẳn Nghĩa ngừng lời châm thuốc lá. Có thể khói thuốc sẽ đem lại cho ông ta sức mạnh nào đó chăng?

- Lâu nay, tôi đã tin cô, tin đến mức sẵn sàng gạt ngoài tai mọi điều dị nghị, sẵn sàng trấn áp mọi dư luận xấu xa thiên hạ đồn thổi... Tôi ngỡ rằng, một ngày nào đó, chúng ta sẽ thực hiện những gì cam kết...

- Thì em vẫn...

- Hãy để tôi nói hết. Tôi đã đồng ý ký đơn ly hôn, vì cô thề rằng phải có lá đơn ấy mới cứu được Trọng. Rằng anh ta là một người đàn ông khốn khổ, nghèo túng, cô đơn. Anh ta yêu cô tới mức điên cuồng. Nếu không được đền đáp, anh ta có cơ tự sát hoặc làm trò điên rồ nào đó. Cô không muốn vì mình, mà đẩy người con trai vô tội kia tới tuyệt vọng. Cô không muốn vì mình, đẩy một con người đang khỏe mạnh, lành lặn tới chỗ tiêu vong... Phải, ở đời đôi khi cũng xảy ra những bi kịch loại đó. Và người ta nên ứng xử sao cho thật khôn ngoan. Tôi đã tin cô là người đàn bà khôn ngoan và từ ái. Tôi đã chấp thuận ly hôn, cũng chấp thuận cho cô rời tới ở khu tập thể để làm nguôi cơn si tình rồ dại của người đàn ông kia... Có lẽ, tôi nghĩ mình đã làm điều gì đó xứng đáng với một con người. Không thích chứng tỏ mình cao thượng, nhưng tôi sợ suốt đời phải ân hận vì một tội sát nhân vô cớ... Bởi vì, trong đám sát nhân, có kẻ cố sát và cả người ngộ sát.

Người đàn ông ngừng lại. Có lẽ để rít một hơi thuốc, châm điếu thuốc đã tắt hay ông ta nghẹn ngào?... Vài tích tắc trôi qua, Nghĩa nói tiếp:

- Dưới mắt thế gian, có lẽ tôi là một thằng chồng điên khùng hay ngu độn. Những người cùng làm việc, không ai động chạm tới chuyện riêng của tôi, nhưng ánh mắt họ nói lên điều đó. Giờ này, tôi biết chắc rằng họ đúng. Tôi đích thực một gã điên rồ...

Bích nói:

- Anh đừng cả nghĩ... Xưa nay ai tránh khỏi điều ong tiếng ve. Nhất là con người của xã hội này, độc địa, ghen tuông, đố kị. Chẳng lẽ việc em phải khốn đốn trầy trật mãi mới được kết nạp Đảng mà chưa đủ cho anh thấy hay sao?... Họ thù ghét em, vì em có anh, vì em may mắn hơn họ...

Nghĩa nói:

- Thôi, hãy dẹp thứ lý luận của cô lại, tôi nói tiếp. Cô hãy bình tĩnh nghe cho hết. Hôm nay, là buổi nói chuyện cuối cùng giữa chúng ta...cô biết rằng tôi là một người đàn ông yếu mềm. Tôi hay cảm thương vớ vẩn. Ngay cả trong công việc tôi cũng thường bị cấp dưới lừa gạt. Nhưng chưa có vụ lừa gạt nào lớn hơn vụ lừa gạt của cô đối với tôi... Tình cờ, cách đây vài tuần, tôi gặp một người bạn chí thiết tại nhà máy thủy điện An Hoa. Chúng tôi cùng quê, cùng sống với nhau từ thuở tắm truồng nên thuộc tính nhau như anh em ruột thịt. Đã sáu năm tôi chưa gặp anh ấy. Anh ấy là một người trung thực, có đôi phần cứng nhắc. Trong đời, tôi có thể nói dối lúc cần thiết, nhưng anh ấy thì không. Anh ấy vô tình mà hỏi thăm Trọng, một cán bộ quân đội đầy năng lực trước từng là cánh tay phải của giám đốc nhà máy. Vì yêu một người phụ nữ nào đó tên là Thanh Hường mà đã rời nhà máy xuống dưới huyện Sơn Thanh công tác. Nghe đâu anh chàng làm thống kê cho một cửa hàng bách hóa lớn và đã xây một biệt thự hai tầng xinh đẹp để chung sống với cô Thanh Hường kia... Anh ấy còn cho tôi biết thêm, Trọng là con trai một của một gia đình khá giả, bà mẹ luôn luôn viết thư giục anh lấy vợ, luôn luôn gửi tiền cho anh ta tiêu xài. Trọng không nghèo khó, cô đơn, tội nghiệp như cô miêu tả. Anh ta cũng không phải một phế nhân, thương binh bậc bảy, tâm thần bất định như cô lý giải cho tôi nghe... Cô là người đàn bà can đảm nhất mà tôi thấy, màn kích cô dựng lên hấp dẫn đến nỗi tôi không tìm được lối ra. Anh bạn đã nói rồi, mà tôi vẫn còn hồ nghi câu chuyện về người nào khác. Cô Thanh Hường kia đã yêu một anh Trọng nào khác chứ không phải chàng sĩ quan quân đội của cô... Bạn tôi trở về nhà máy An Hoa, tôi đánh điện gọi đứa em trai tôi từ miền Nam ra. Nó đang thực tập trên đại học tại một tỉnh miền Tây. Tôi điện: “Anh sắp chết, ra ngay...” Nó đã ra, và ăn cơm ở căn phòng này cùng với cô cách đây mười hôm về trước. Tôi kể mọi chuyện cho nó nghe, giao cho nó một việc thôi: phải tìm ra sự thực... Thằng bé ở lại đây, vừa nghe mọi tin tức, vừa chơi với cháu. Hôm thứ ba, trước khi lên đường đi An Hoa nó mua bánh mì, đồ nguội cho chúng ta ăn trưa. Chắc cô còn nhớ. Em trai tôi đã đi An Hoa, ở trên đó vài hôm. Rồi nó xuống huyện Sơn Thanh một hôm nữa... Nó trở về, tới thẳng cơ quan tìm tôi, mặt nhợt như bụng cá. Nó bảo: “Không còn gì nữa đâu anh Nghĩa...” Rồi quăng trước mặt tôi một xấp giấy tờ và ảnh chụp. Sau đó, nó xách túi ra ga ngay: “Anh Nghĩa ạ, chào cháu bé cho em... Em không thể vòng lại nhà. Em không thể nhìn mặt chị ấy...”

Nghĩa dừng lại đôi chút, rồi tiếp:

- Ảnh chụp khá rõ, phải không?... Đây là biệt thự nhỏ của anh Trọng với cô Thanh Hường. Đây là ảnh hai người đèo nhau đi lên đồi hóng gió. Đây là cảnh chụp cô trong phòng khách ngôi nhà ấy. Lại là ảnh cô nữa, trên bãi biển Sơn Thanh, chỉ có một mình cô với anh chàng thôi, xung quanh toàn cỏ và gai trinh nữ... Thật thích hợp với tình cảnh của hai người... Còn đây là chứng chỉ về sức khỏe của Trọng. Đây là ảnh anh ấy đang đánh bóng rổ trong đội tuyển của nhà máy... Còn nữa, còn nữa đây... Nhưng có lẽ thế cũng đủ...phải không?...

Người đàn bà im lặng không trả lời. Nghĩa nói tiếp:

- Cô biết, tôi yêu cô và yêu con. Tôi không có một người nào khác để xẻ chia mình. Cha tôi chết hồi tôi còn trong bụng mẹ. Mẹ tôi cũng qua đời hồi tôi đi kháng chiến. Đứa em trai duy nhất thỉnh thoảng mới về... Chỉ có mẹ con cô là nguồn vui, là hy vọng... Nhưng chính cô đã gây ra vụ lừa lọc lớn nhất trong đời tôi. Cô tước đoạt niềm kiêu hãnh nhỏ mọn và tầm thường mà bất cứ người đàn ông nào cũng có. Tôi đã trở thành một thằng ngu dại, làm trò hề cho mọi người. Tôi đã trở thành bia miệng cho thiên hạ đàm tiếu. Tôi không còn uy tín để sống một cuộc sống đàng hoàng với bè bạn và với các cán bộ cấp dưới. Tôi cũng không đủ phẩm chất để cấp trên tin cậy... Thua thiệt cô gây cho tôi không chỉ đơn giản về phương diện tình cảm. Giờ, cô đã hiểu rằng chúng ta không thể chung sống với nhau. Tấm giấy ly hôn cô từng nói có giá trị sáu tháng sẽ có giá trị vĩnh cửu. Trước cô coi nó là trò giả hiệu, là sách lược đối phó với tình thế, nay nó sẽ là sự thực không thay đổi... Từ phút này trở đi...

Người đàn ông ngừng lại. Ông ta xúc động. Ông ta ôm mặt hay châm tiếp điếu thuốc khác. Giọng ông ta run lên khi nói lời cuối cùng. Trọng hình dung tới gương mặt võ vàng, những nếp nhăn chạy vòng quanh túi mắt và hằn lên hai gò má. Ông ta đã trở thành một ông già quá sớm. Vầng trán xanh xao u uẩn chắc đang hằn những vết nhăn khổ đau. Bàn tay ông ta rất đẹp, với những ngón thuôn dài. Đúng là bàn tay của một linh mục.

Chắc ông ta đang vò mái tóc bạc. Ông ta im lặng khá lâu, rồi nói tiếp. Giọng khàn khàn như giọng người cảm lạnh:

- Từ ngày mai, cô không nên về đây. Cô hãy giữ cho tôi và con bé một sự yên tĩnh nhất định. Giữa chúng ta không còn gì. Thủ tục ly hôn đã xong...

- Không, không...

Bích chợt cất tiếng kêu, và ngay tức khắc Trọng nghe tiếng cô ta khóc nức nở:

- Giữa chúng ta còn đứa con, còn con gái... Em xin anh.

Nghĩa đáp:

- Tôi nuôi con. Vì cô không xứng đáng nuôi một đứa trẻ trong lành như nó. Tôi sẽ cố giữ cho con không nhiễm những thói xấu mà...

- Nhưng em đẻ ra nó.

Người đàn bà kêu:

- Em đẻ, chứ không phải anh... Nó là con em. Không ai thương nó hơn em, không ai thế được em để chăm bẵm nó.

Nghĩa nói nhỏ:

- Người đẻ con, chim chóc cũng đẻ trứng ấp nở ra con, muông thú cũng đẻ con... Nhưng mỗi loài mỗi khác...

Ông dừng lại. Có lẽ vì không nỡ nói thêm những ý nghĩ cay chua, bất nhã khác. Bích vẫn khóc, mỗi lúc mỗi to hơn. Cô nói:

- Nó là con em, không ai tranh cướp được. Kẻ nào muốn cướp sống con em, phải bước qua xác em. Anh không thể độc quyền quyết định... Đành rằng em đã dối gạt anh... Nhưng không phải em muốn gắn bó mãi mãi với Trọng. Chẳng qua vì chưa thể gỡ khỏi anh ta. Anh ta là người thực thà, nhưng kém hiểu biết. Anh ta không chấp thuận những hoàn cảnh éo le. Nếu em rời bỏ Trọng anh là có thể nghĩ em là kẻ phản bội và lúc đó chưa biết con người thô thiển ấy sẽ có hành động gì... Anh Nghĩa, anh nghĩ lại đi... Không bao giờ em chịu mất anh. Có anh, em có tất cả. Không thể đem anh ra bắc cân nặng nhẹ với bất cứ người nào trên đời, bất cứ ai... Tại sao anh không hiểu giá trị của anh. Tại sao anh nghĩ em sẽ chung sống với người đàn ông khác?... Hãy nghe em...

- Bích ạ...- Người chồng lên tiếng: - Cô là người phụ nữ tài ăn nói nhất trên đời... Nhưng dù sao, tôi cũng quyết định rồi. Từ ngày mai, cô hãy về khu tập thể. Lúc nào cần gặp con, cô điện thoại trước. Tôi sẽ bố trí cho cô gặp nó tại nhà trường hoặc các lớp năng khiếu ở câu lạc bộ thiếu nhi.

- Không... Bích quát lên - Con em đẻ ra, em muốn gặp lúc nào em cứ gặp. Chẳng ai có thể ngăn cấm, dù là anh.

Nghĩa nói:

- Cô đừng gào lên như thế, khuya rồi.

Bích nói to hơn:

- Em sẽ gào to hơn nữa.. Em sẽ đánh thức con bé dậy ngay bây giờ. Em nói với nó rằng chính anh muốn gia đình tan nát, chính anh đẩy nó vào cảnh mồ côi sống, chính vì anh mà mẹ con em phải chia lìa.

Có tiếng cười gằn, Nghĩa nói:

- Cuối cùng mọi tội lỗi lại là của tôi? Cô định nói thế phải không?.

Bích nấc lên một tiếng, hạ giọng:

- Em van anh, em xin anh... Em không chối bỏ là có lỗi với anh. Tình thực, hoàn cảnh của em khó gỡ. Nhưng giá nào em cũng sẽ gỡ ra bằng được, em không thể bỏ anh. Giữa chúng ta có bao nhiêu năm yên ấm, và có con. Nó phải được hạnh phúc. Anh đừng đẩy nó ra vỉa hè... Mồ côi sống cũng khổ như mồ côi chết... Nó không thể thiếu mẹ, vì nó là con gái... Nó cần tới em...

Cô đã điểm trúng huyệt của người chồng. Ông ta im lặng, và buông tiếng thở dài. Có lẽ ông gục đầu xuống bàn hay ông bóp chặt hai thái dương vì khổ đau, vì bất lực, vì muôn đời những kẻ nhân từ thường bị đẩy xuống cái hố thẳm của sự nhu nhược và khuất lụy?... Còn Bích, cô đang làm gì?... Có lẽ cô ta sẽ xán tới gần Nghĩa, ôm cánh tay ông ta, ngước đôi mắt tận tụy nhìn ông ta, vẻ như một con chó trung thành... Cái tấn trò cô đã diễn hàng trăm lần với Trọng, mỗi bận cần xoa dịu anh, mỗi bận cần ve vuốt anh để trì hoãn lại ngày cưới.

Trọng bỗng cất tiếng cười gằn. Trong nhà, vẫn im lặng. Đứng ép mãi vào tường mỏi cả vai, Trọng bước ra hành lang, vươn vai vài cái liền cho giãn gân cốt. Rồi anh đi... Ở cầu thang, một cặp trai gái vừa ôm nhau lên thang gác vừa hôn nhau say đắm. Chạm anh, cả hai cúi mặt xuống vì hổ thẹn. Cậu con trai, chạc hai mươi, cô gái chừng mười bảy. cả hai đều xinh đẹp, khỏe mạnh. Hai gương mặt ngời sáng hạnh phúc... Thật điên rồ...- Người đàn ông cay đắng nghĩ - tình yêu có khía cạnh điên rồ không thể đo đắn. Trước đây một năm, anh cũng đã từng ôm Bích như thế, sẵn sàng dừng lại hôn cô ở bất cứ đoạn đường vắng nào, góc hành lang nào, cầu thang nào không có người qua lại. Chắc hẳn, gương mặt anh lúc đó cũng ngời lên niềm tin yêu và hạnh phúc, dù anh không còn là một chàng trai. Lúc ấy, anh cũng không nhìn thấy gì trên thế gian ngoài một gương mặt đàn bà. Lúc ấy, anh không nghĩ gì ngoài những điều kiện để thực thi cuộc sống chồng vợ... Giờ đây, tim anh trống rỗng. Đầu óc anh lạnh buốt. Than cháy hết rồi. Chỉ còn đám tàn tro.

Trên bờ biển, thủy triều đã rút, trơ lại xác cá chết và những đám rong nhớt nhát. Người đi trên bãi cát sẽ đếm được từng thứ một: nào vỏ hàu vỏ hến, nào những con nóc óc bụng chương phềnh, nào những đám xác sứa lầy nhầy, nào những vảy cá rơi và rác rến...

Tất cả những thứ dơ dáy trước đây vài tiếng đồng hồ còn chìm dưới sóng và làn nước xanh thắm phủ lên chúng vẻ đẹp khôn cùng...

Đồng hồ đeo tay đã chỉ mười giờ ba mươi phút. Trọng bước hối hả. Nhưng cũng mười phút sau anh mới tới được nơi gửi xe. Bãi xe vắng tanh, chỉ còn trơ chiếc Sim-sơn của Trọng. Bà chủ bãi khoanh tay trước cái bụng đồ sộ, đứng chờ. Vừa thấy Trọng bà đã chu chéo:

- Trời ơi, đã dặn đi dặn lại rồi mà còn đến muộn thế... Mau mau lên nộp vé xe ra đây...

Trọng nói:

- Cháu xin lỗi bác. Xin trả tiền phạt theo quy định.

Người đàn bà ngớ ra nhìn anh, rồi bà ta cười rũ rượi:

- Ối chao ơi, người đâu mà thôn thế?... Chắc vừa ở trại lính ra phải không?... Nói thế thôi, ai nỡ cầm tiền phạt của anh. Nào, đưa vé đây mau mau cho tôi còn về... Giờ này cả đàn cả lũ bố con nhà nó đã ngồi ngóng.

Bà ta cố nụ cười tươi tắn. Trọng trả vé, cảm ơn rồi đi. Gương mặt đôn hậu của bà ám ảnh Trọng: Người đàn ông lấy bà ta cũng là một người may mắn. Hạnh phúc trên thế gian như cát lọt qua kẽ sàng... Nhưng lẽ ra, anh có thể tỉnh táo sớm hơn, anh có thể nhìn rõ chân tướng người đàn bà ấy sớm hơn. Buổi tối ở tiệm cà-phê ven biển. Bộ mặt sưng húp của Bích, vẻ hiếu thắng cay độc của cô. Đôi mắt nhỏ rực lên ngọn lửa thù hằn, và khát vọng quyền lực. Cả màn kịch điêu toa hèn mọn rất đàn bà mà cô đã công nhiên nói với anh. Lẽ ra, anh phải quyết định từ buổi tối hôm ấy...

Một chiếc ô tô đi ngược đường rọi thẳng hai luồng đèn pha sáng chói vào mắt người đàn ông. Anh vội rẽ sát vào lề đường, đi lên vệ cỏ. Chiếc bò tót ma hung hãn lao qua, bánh xe chỉ cách anh vài chục xăng-ti-mét. Hú vía... Trọng dừng xe, kéo khóa chiếc áo chẽn đai. Rồi anh phóng thẳng về nhà. Đèn bật lên, rọi vào mâm cơm chờ đợi. Hai chiếc bát sứ trắng nõn, đĩa thịt bò xào, bát canh cá nấu chua... Bao nhiêu buổi tối họ đã ngồi với nhau bên mâm cơm này. Cùng uống một chút rượu, nói chuyện nhân gian, bàn tới tương lai của hai người: Trọng sẽ học hàm thụ đại học, Bích sẽ sinh cho anh một đứa con trai. Khi đứa bé đầy tuổi, tất cả sẽ bồng bế nhau vê thăm bà nội... Những ước vọng thật giản đơn, thật khiêm lốn. Một quãng đời ước định đặt sẵn trong tầm tay. Bất cứ người đàn ông bình thường nào cũng có quyền nghĩ tới.

Trọng ngồi, cầm đôi đũa lên, ngắm nghía rồi lại ném xuống mâm. Chiếc mâm nhôm đánh bóng nhoáng như bạc trắng. Chiếc chén nhỏ đựng nước mắm bằng sứ Giang Tây. Chiếc thìa xinh xắn gác bên cạnh... Mọi đồ vật đều hoàn hảo. Chỉ con người là không. Mọi thứ phụ tùng đều sang trọng, nhưng xe không chạy được... Anh chợt nhớ một khung cảnh hoang liêu nơi ngoại vi thành phố. Quãng bờ ít dấu chân người lại qua. Xóm chài xây bằng đất nung với đá hộc. Những hàng dậu nứa lơ phơ chùm mía đỏ... Quán rượu Lan Hương. Câu chuyện của người đàn bà chủ quán như cuốn phim quay lại... Phải, người đàn bà tàn héo ấy đã dạy anh. Tình yêu cũng cần lòng can đảm. Giữa bao nhiêu dục vọng của đời sống phải chọn lấy một thứ, phải dập tắt mọi đám cháy để nuôi dưỡng duy nhất ngọn lửa của riêng mình. Tình yêu, hơn mọi thứ tình cảm khác cần lòng hy sinh và sự trung thực...

Người đàn ông đứng dậy, đêm đen lồng lộng bên ngoài. Gió mải miết thổi lên, mang theo mùi biển, mùi các cồn cát hoang, mùi các xóm chài và các mảnh đồng xen giữa các giải đồi và làng mạc. Anh thấy mình lẻ loi. Ánh đèn nhấp nháy trong phố xá, giữa các vườn cây, sau các bức rèm, tụ điểm của mọi gia đình. Nếu không phải cô ta, nếu tình yêu của anh ký thác vào một người đàn bà khác, anh cũng đã có một ngọn lửa êm đềm như thế. Anh đã có một đứa con, anh đã sống một cuộc sống lứa đôi minh bạch và công nhiên trước mắt mọi người... Thời gian trôi hoài hủy. Cô ta đã đánh cắp một phân đời sống của anh, những niềm tin, những khao khát. Cô ta đánh cắp niềm say đắm trong lành nhất, mạnh mẽ nhất của một người lính từ cửa rừng trở về đồng bằng, dồn nén những thua thiệt của quãng đời chiến tranh dài dặc cho một gương mặt yêu dấu, một mái nhà yêu dấu...

Có lần, họ đi chơi. Giữa đường, gặp một người bạn cũ của Trọng. Anh ta sửng sốt nói thầm vào tai anh:

- Sao lại chọn một cô nàng tâm thường thế?... Chắc là vì máy tốt phải không?... Ả này phải cho cậu một tá con là ít.

Lúc đó, Trọng cười cười nhưng không hài lòng vì thái độ sàm sỡ của bạn. Giờ, anh chợt thấy khía cạnh chính xác của nhận xét đó. Đúng là một cô ả tầm thường. Anh có yêu cô vì say đắm nhan sắc của cô đâu. Phần nào đó, Bích thua kém nhiều người đàn bà khác. Thân hình cô không cân đối, sớm sồ sề. Bộ mặt dài, nục nạc thịt không có đường nét nào quyến rũ. Nhưng tình yêu có lối đi bí ẩn Trọng không biết nó dẫn dắt mình từ đâu?... Tuổi thơ khổ đau của cô đã liên kết trái tim anh với cô? Hay những lời thủ thỉ dịu dàng? Hay cách ngước mắt lên như con chó trung thành? Hay cặp môi nóng rẫy, tràn trề nhục cảm... Người đàn bà đã đánh thức tình thương nơi trái tim bao dung của đàn ông bằng một nhan sắc tầm thường nhất, ít hiểm nguy nhất, bằng những giãi bày đau khổ, kêu gọi nơi họ sự che chở và tinh thần vị tha:

- Em là một phụ nữ không may mắn, anh đừng yêu em. Anh hãy tìm những hạnh phúc ít chông gai...

- Anh là hạnh phúc đầu tiên và cuối cùng trong đời em.. Dù cố sống một trăm cuộc đời, em cũng không gặp được người đàn ông nào cao thượng hơn anh, giàu lòng từ ái hơn anh... Nhưng em phải rời bỏ anh, vì em không xứng, vì em không muốn gieo đau khổ cho một người nào khác, vì với em...đau khổ đã quen rồi.

- Nào, xin anh hãy nghĩ thêm lần nữa... Lấy em, anh chấp nhận hy sinh. Những năm chiến tranh anh hy sinh nhiều rồi... Em không muốn lạm dụng lòng tốt của người khác. Em đã quen với đau khổ, đã quen với cô đơn... Bảy năm với người chồng cũ, em đã quen sống đơn chiếc. Nghĩa với em cũng chỉ như một bức tường...

... Chao ơi, những lý lẽ thân tình ấy, chúng kêu gọi nơi anh tinh thần hy sinh, lòng cao thượng, ý thức bảo vệ của kẻ mạnh với thân phận yếu mềm... Người đàn ông lương thiện nào mà không sẵn lòng chấp thuận như anh?.

Một đoàn xe tải ầm ầm lao qua. Rồi phố nhỏ lại chìm trong tĩnh lặng. Đĩa hát nhà ai đó vẫn vọng oang oang trên các phố hè. Chắc hẳn là có đám cưới, xen lẫn tiếng nhạc là tiếng cười nói xôn xao của thanh niên. Nhưng cả những tiếng cười nói xôn xao ấy cũng không làm thị trấn vui hơn. Trọng đã rời nhà máy An Hoa xuống đây hơn một năm. Trên đó, bè bạn, mọi người quen thuộc vẫn còn nhắc nhở anh. Họ tiếc anh. Còn anh, anh không hối tiếc họ bao nhiêu trong cơn ngây ngất. Cơn ngây ngất qua rồi. Giờ, anh thấy mình đứng giữa thị trấn xa lạ này, với ngôi nhà hai tầng khang trang nhưng hiu quạnh giống như một con hổ ngơ ngác giữa đồng bằng. Đồng bằng thênh thang không phải là của loài mãnh thú... Người chồng cũ của Bích có nói rằng ông ta mắc phải vụ lừa lọc lớn nhất với cô. Không chỉ riêng ông ta rơi vào cạm bẫy ấy.

- Ta sẽ nói mọi điều, tất cả...ngay khi cô ta trở lại đây... Trọng thầm nghĩ: Ta sẽ phanh phui mọi tấn trò, hạ mọi màn kịch. Sau đó, sẽ là cuộc chia tay vĩnh viễn...

Nhưng tức khắc, một tiếng nói khác mạnh hơn:

- Không, không thể giản đơn như vậy. Mình nóng nảy quá, ngu ngốc quá. Án tù treo sáu tháng cho một kẻ sát nhân, xử như thế chỉ chứng tỏ chánh án là một thằng đần... Có lẽ cô ta đã quen nghĩ mình là một thằng đàn ông ngu dại, dễ xỏ mũi: Anh ta là người thực thà, nhưng kém hiểu biết... Đúng là cô ta đã xỏ mũi mình. Cả Nghĩa, cái ông linh mục nhầm nghề ấy cũng đã bị cô ta dắt như dắt một con bò ngoan ngoãn... Không, mình không có quyền ban cho người đàn bà ấy một cái án nhẹ nhàng như vậy. Dù có phải chấp nhận một đời sống trái ngược với bản tính, dù có phải khoác tấm áo giấy của loài yêu ma...

Ý tưởng ấy đã thắng. Đó là tiếng nói sau cùng vang lên trong tâm trí người đàn ông. Anh ta khép hai vạt áo, đóng cửa rồi quay vào.

Chương 9

Tháng bảy mà nắng bạc như cuối thu... Còn bây giờ trời lại mưa rây như mưa đâm lộc... Ông thấy có lạ không?

- Ờ, thời tiết năm nay như kẻ mắc chứng ương cuồng.

Ông Hai xác nhận. Họ đang uống rượu với lạc rang.

Thêm một trái ớt xanh dầm nước mắm. Ngoài trời, mưa bay nghiêng như rây bột. Hàng đỗ leo đã rụi lá, ướt dầm dề. Cuống hoa, và từng đám lá khô đen rơi rải rác dọc theo bờ dậu. Góc sân, ngọn cỏ leo mềm mại vươn lên, những chiếc vòi xanh non, run rẩy... Cả hai ông già ngồi nhìn cảnh vật, mỗi người đuổi theo một ý nghĩ. Chợt, lão Ngạn hớp một ngụm rượu, chép môi:

- Mùa này có bão biển không nhỉ?

Ông Hai đáp:

- Ít, nhưng có thì lại bão to. Năm tôi lên bảy, cũng tiết này biển có sóng thần. Bảy xã phía đông, từ phố Phiêu bồng đến cửa Sao bị bão cuốn sạch. Có tới vài chục làng chài.

Lão Ngạn giương đôi mắt mờ dục nhìn người hàng xóm:

- Ông nói sao? Cả mấy chục làng chài?

Ông Hai gật đầu:

- Phải, bảy xã chứ có ít đâu... Hồi ấy, tôi theo ông chú đi mua đồng vụn. Dân vạn chài, thích dùng đồ đồng cho bền nhưng khí trời lại mặn nên đồ đồng rỉ xanh lè, chóng hỏng. Chúng tôi đi bộ dọc theo bãi cát, làng nào cũng ghé vào, cất tiếng rao. Ông chú rao trước, tôi rao tiếp theo. Từ sáng đến tối, nhiều ít cũng được nửa bao tải. Đêm ấy chúng tôi ghé vào một làng chài, nấu cơm nhờ. Ăn xong, nghĩ sao đó ông chú lại gọi tôi ngược lên một làng đồi cách biển chừng mười lăm cây số. Ngày xưa, người ta gọi những làng như thế là sơn trại. Dân ngụ ở sơn trại là dân cày bỏ ruộng, dân chài không thuyền không lưới bỏ biển đi. Họ làm ruộng trồng màu, cuốc đồi trồng sắn, trồng chè hoặc tiêu. Lại vào rừng đốt than, kiếm củi... Dân tụ bạ, nghề cũng trăm thứ nghề. Ông chú tôi có một món nhân tình trên ấy. Chắc nhớ bà ta nên ông bắt tôi vác tải đồng vụn đi theo. Lúc chúng tôi đi trời mới nhập nhoạng tối. Biển yên, không gợn gió. Tới nơi, khoảng mười giờ. Tôi nhớ, ông chú bảo người đàn bà kia: “Cô xem, chú cháu tôi đi đầu giờ Tuất mà cuối giờ Hợi mới tới đây. Cơm cháo rải dọc đường hết rồi...”

Món nhân tình của ông tươi cười chào hỏi. Rồi bà ta đặt nồi thổi cơm nếp, thịt gà. Cơm vừa bưng lên, trời nổi gió. Rồi bão ầm ầm kéo tới như kéo cây kéo cột ném bốn xung quanh. Từ nửa đêm ấy cho tới chập tối hôm sau gió mới lặng. Chúng tôi ngủ ở sơn trại đêm nữa. Rồi sáng ngày thứ ba, chú cháu tôi dậy sớm, xuống làng chài. Cả một giải bờ sạch bong, không mảy may dấu vết. Không có đến cả một cái hố, hay một gốc ngô đồng sót lại. Chỉ cát là cát. Như muôn đời nơi chúng tôi đứng vẫn là bãi biển chứ không phải làng chài, có nhà cửa cây cối, gia cầm và những con người sinh sống... Tôi ngơ ngác nhìn, còn ông chú tôi cứ lẩm bẩm nói đi nói lại: “Lạy trời lạy phật phù hộ độ trì. Lạy tổ lạy tiên khôn thiêng chỉ lối... Hôm kia chú cháu mình không lên sơn trại mà ngủ lại vạn chài thì hôm nay đã ở dưới rốn biển...” Ông bảo tôi: mày xem, chú sởn cả gai ốc lên... Tôi sờ tay chú, quả nhiên lông tay dựng đứng lên thật...

Ba bốn hôm sau nữa, nghe nói dân ở cửa Sao vớt được vô số xác người, xác gia cầm với chum vại.

Ông Hai nhắm một lát ớt xanh dầm nước mắm, rồi uống thêm ngụm rượu. Ông ngẩng lên bảo lão Ngạn:

- Uống đi ông.

Lão Ngạn đờ đẫn nhìn ông, như kẻ mất hồn. Ông Hai hỏi:

- Ông làm sao thế? Trúng gió à?

Lão Ngạn giật mình, lắp bắp:

- Không...không. Nhưng tôi sợ... Cái chuyện sóng thần mà ông kể.

Người láng giềng cau mày:

- Sóng thần, phải đâu năm nào cũng có. Biết ông yếu bóng vía tôi chẳng kể cho xong.

Lão Ngạn nói:

- Tôi sợ... Biết đâu rằng...

Ông Hai ngắt lời lão:

- Ông sợ thằng Cường gặp rủi ro, phải không?... Nếu vậy sao còn bắt nó xuống tàu.

Lão đưa đôi tròng mắt ngược lên, nhìn với vẻ oán hận:

- Nó là đứa con trai duy nhất của tôi. Nó phải kế nghiệp ông nội. Bố tôi trước kia là thủy sư đô đốc, lẫy lừng khắp xứ này. Châu Á, Châu Âu, Châu Phi, chẳng nơi nào không có dấu chân ông cụ...

Ông Hai đưa mắt liếc nhìn lão:

- Nếu vậy thì ông hãy kiên tâm chờ đợi ngày thằng Cường trở thành thủy sư đô đốc. Đừng run rẩy, đừng lo lắng một cách vô công.

Lão Ngạn đọc thấy trong cái nhìn của ông Hai sự khinh miệt không thèm che đậy. Cổ lão đỏ lên, hai tai lão cũng đỏ lên. Lão gằn giọng:

- Tôi là người đẻ ra nó, tôi có trách nhiệm với nó... Tôi phải lo.

Ông Hai không nhìn lão nữa. Ông lại điềm nhiên uống rượu, và nhìn lớp mưa trắng xóa bên ngoài:

- Tùy ông.

Nói xong, ông đặt chén rượu đã cạn xuống chiếu. Lão Ngạn biết ông sắp về, hốt hoảng nói:

- Ông về làm gì, còn mưa mà?.

Ông Hai bảo:

- Mưa cũng phải về. Trời này còn mưa lâu.

Ông đưa mắt nhìn trời một lát, rồi nói thêm:

- Điệu này như dớt bão... Có thể bão ở Hải Nam... Như vậy ít nhất cũng mưa ba ngày... Tôi phải sấy ít thuốc, kẻo mốc...

Lão Ngạn nài nỉ:

- Uống thêm chén nữa đi... Mới mưa một ngày làm gì mà đã mốc được thuốc?.

Tuy trong bụng, ghét người láng giềng một cách độc địa nhưng lão vẫn cần ông. Cảnh cô đơn, dường như người láng giềng chịu đựng một cách nhẹ nhàng hơn lão. Thấy ông Hai im lặng, lão nói thêm:

- Tôi còn ít mực khô, ta chịu khó nướng vài con làm đồ nhắm.

Ông Hai bảo:

- Thôi được, chiều tối tôi lại sang. Giờ phải về dọn dẹp nhà cửa...

Nói đoạn, ông trùm mảnh ni-lông bước ra sân. Lão Ngạn nhìn theo hút người hàng xóm cho tới lúc ông khuất lấp.

- Hắn kể chuyện sóng thần mà mặt hắn lạnh như băng... Hay hắn dọa mình?... Không, chuyện đó là sự thực... Mình cũng đã nghe người ta nói... Nhưng sao trước đây, mình không lưu tâm tới?... Những hiểm nguy của biển, của tàu bè, của đám người sóng nước. Giờ đây nó đè trĩu tâm can.

Ngoài phố, có tiếng lục lạc. Lão Ngạn nhìn ra cổng, thấy cỗ xe thổ mộ chậm rãi đi dưới mưa. Con ngựa kéo xe đã già, chân bước khấp khểnh, mệt mỏi. Bờm nó rũ xuống cổ, ướt và bẩn, bết từng dám như lông chó hoang. Chiếc đuôi xơ xác buông thõng. Ngay cả tiếng lục lạc cũng như ẩm ướt mưa, giọng rè vỡ... Bỗng dưng, lão thấy não lòng. Lão đứng tách ra bên lề cuộc đời, nhìn mình, thấy mình giống con ngựa già kia. Con vật khốn khổ kéo cỗ xe định mệnh bước đi, bờm che kín mắt. Một kiếp sống nhợt nhạt, yếu ớt. Kiếp sống của con chim bị chọc mù mắt, chập choạng bay...

- Con ơi, con trai của ba...

Lão Ngạn bỗng bật tiếng kêu. Gian nhà trống vắng ném lại những âm thanh đó. Lão già run rẩy. Lão như thấy đứa con trai bước vào gương mặt tươi hồng ướt lấp loáng.

- Chào ba.

Bộ đồng phục xanh thắm của nó làm căn nhà buồn tẻ rực sáng lên. Chiếc mỏ neo vàng lóng lánh gắn trên vành mũ:

- Cường ơi.

Lão gọi:... Con đã về đấy ư?... Ba mong chờ mãi. Bây giờ, cuộc sống thực sự của chúng ta mới bắt đầu. Từ nay, ba không còn đếm những ngày đêm mỏi mòn, tàn lụi. Từ nay, dân thị trấn sẽ phải cúi rạp xuống vì nể nang, sợ hãi. Con mụ Hậu không còn dám cong cớn khi ta tới mua hàng. Lão Thủy triệu phú không dám vác mặt lên nhìn ta khinh thị. Cả lão Hai, cái lão hàng xóm ngạo ngược cũng phải khiêm nhường hơn... Chúng ta sẽ rời bỏ cái dãy phố hiu quạnh này, phải không con trai? Chúng ta trở về thành phố.

Nhưng sao Cường im lặng không đáp lời?... Chàng trai nhìn lão với ánh mắt nghiêm trang, ánh mắt của một người đàn ông thực thụ. Lão bước tới gần anh:

- Con ơi...

Hai đầu gối lão cập quạng va vào nhau. Lão bước siêu vẹo. Nhưng bước tới đâu, đứa con trai lùi về phía sau tới đó. Lão kêu to:

- Tại sao thế?... Con làm sao vậy, Cường ơi?.

Con trai lão chạy trốn hay chơi trò ú tim?... Hình ảnh anh sắp tan biến... Mắt lão hoa lên, hai chân lạnh buốt. Lão vội vơ chai rượu, không kịp rót ra chén, tu một hơi. Thứ lửa thần diệu ấy làm người lão ấm lên. Lão lại nhìn thấy đứa con trai ngay trước mặt mình:

- Nào, hãy nói cho ba biết, bao giờ cha con ta trở về thành phố?... Ngôi nhà của ông nội con xưa.

Cường vẫn im lặng. Mắt đứa con trai nhìn xa vời. Nó không nhìn lão. Nó không nghe lời lão gọi...

- Cường, nói cho tao nghe.

Lão già vừa bực tức, vừa xót xa. Lão vớ chai rượu tu thêm một hơi thứ hai, nạp thêm chất lửa quỷ diệu cho cơn hăng hái:

- Mày làm sao thế, mày câm rồi sao?... Cường ơi... Trả lời ba đi con.

Bên kia hàng đỗ leo, ông Hai đã quạt xong lò than sấy thuốc. Ông quấn thử một điếu hút, chợt nghe tiếng lão Ngạn ú ớ kêu. Người láng giềng trùm vải mưa chạy sang, thấy lão đang loạng choạng đuổi bắt một bóng ma nào đó trong không gian, hai tay chìa ra như muốn níu kéo, muốn nắm giữ. Miệng lão lẩm bẩm, và hai hàng nước mắt chảy dầm đìa trên gương mặt già nua.

❆❆❆

Bích đã vắng mặt mười ba hôm. Hôm thứ mười bốn, vào lúc năm giờ rưỡi chiều, cô phóng Hon-đa vào tận giữa sân. Trọng đang lúi húi nhặt mớ đậu cô-ve. Dù có một mình, anh vẫn giữ thói quen nấu cơm ngày hai bữa. Anh không thích ăn quà vặt hoặc lê la uống bia ở các quán cơm đầu chợ. Như mọi người quan niệm, anh là người đàn ông chỉn chu. Thấy Bích về, Trọng ngẩng đầu nhìn. Anh muốn xem trên gương mặt người đàn bà có nét nào xao xuyến hoặc bối rối... Nhưng Bích vẫn cười vui vẻ, nụ cười thường nhật của cô:

- Anh làm gì đấy?... A, đậu cô-ve... Tội thân anh chàng cơm niêu nước lọ.

Người đàn bà nói, nửa thật nửa đùa. Cô tắt máy, dựng xe vào chân cầu thang rồi chạy tới, quàng vai anh:

- Em tệ quá phải không?... Đi biền biệt mà chẳng nhắn cho anh một lời... Công ty vừa cử em làm trưởng đoàn cán bộ kiểm tra các cửa hàng thuộc ba huyện miền núi.

- Vậy à?... Anh cũng đoán em bận gì đó.

Trọng đáp. Anh vẫn cắm cúi tước những quả đỗ trong rổ. Bích giữ tay anh lại:

- Anh đừng làm nữa... Anh không nhớ em chút nào hay sao?... Còn em thì nhớ anh như muốn cuồng.

Cô cúi xuống cắn vai anh, rồi hôn cổ anh. Người đàn ông cố giấu một cái rùng mình, vì trong những cử chỉ ve vuốt kia anh đọc thấy một sự nhiệt nồng thành thực.

- Em đã nhờ mụ Thìn điện xuống Sơn Thanh mà mụ ấy quên. Đây giờ, suốt ngày mụ ấy bận rộn chuyện kiện tụng đất đai, nhà cửa...

Cô giằng lấy rổ đỗ trong tay anh:

- Thôi, đủ rồi. Em đã mua thức ăn sẵn cho cả tuần. Bây giờ tới lượt em truy lĩnh nhiệm vụ đầu bếp.

Cô mang rổ đậu đi rửa. Rồi dỡ trong chiếc làn nhựa lớn buộc sau xe những thứ thực phẩm đã mua ở các hàng quen trong chợ hoặc chọn ở các quầy thực phẩm. Một tảng thịt bò non, hai chiếc chân giò, một sấn mông lợn, một túi lạp sường, một cây giò và gói thịt ngỗng quay chặt sân... Trọng nghĩ: Cô ấy biết vơ vét cho bản thân lắm chứ... Những gia đình cán bộ bình thường không dám mơ ước tới một phần năm số thực phẩm kia cho bữa cơm của ngày chủ nhật... Hay cô ấy đem lại phần bù đắp cho những mất mát tình cảm của mình?..” Anh mỉm cười khi nghĩ tới sự chu đáo của Bích - nó hèn mọn, nó tinh ma, nó quỷ quái.

- Anh ơi, xắn cho em cái ống tay áo... Nào...

Người đàn bà gọi, giọng ẩm ướt. Trọng bước tới xắn tay áo cho cô. Anh cố giữ cho mọi cử chỉ có được vẻ êm dịu bình thường. Bích săm sắn xếp các thứ thực phẩm dự trữ vào tủ lạnh. Bày gói thịt ngỗng quay với kiệu muối ra đĩa. Cô cẩn thận rót lượt nước sốt tương ớt lên trên. Rồi rải lượt rau thơm lên trên nữa. Trọng đứng tựa vào tường, hút thuốc, ngắm nghía những động tác thuần thục của người đàn bà. Anh nhớ, hồi họ mới gắn bó với nhau có lần Bích làm món ốc hấp gừng. Anh đã đứng nhìn cô băm lưỡi ốc với thịt nạc, trộn gia vị, viên thành từng viên nhỏ bọc lá gừng. Cái hình ảnh đẹp đẽ muôn thủa của người đàn bà đã có sẵn trong khao khát của các trái tim đàn ông. Nó càng trở nên quyến rũ với anh, người đàn ông đã ném tuổi trẻ của mình qua các ngả đường chiến tranh, những binh trạm với chảo cơm quân dụng... Anh đã hôn tay cô, anh ngắm từng cử chỉ của cô như họa sĩ ngắm vờn nét vẽ.

- Anh ơi, lấy cho em cái đĩa sạch.

Cô gọi. Trọng mang tới cho cô một chiếc đĩa sứ. Bích trút vào đấy món xào đậu cô-ve với thịt bò ướp tỏi. Cô lấy thêm chiếc đĩa thứ ba đựng hành sống và rau thơm. Một bát canh được nấu rất nhanh với thịt nạc băm và rau cải. Rồi mười phút sau, mâm cơm được bưng lên. Hai người ngồi vào chỗ như họ đã từng ngồi với nhau bao nhiêu lần trước. Rồi cô cũng so đũa, cũng rót rượu ra chén cho anh:

- Anh uống một chén vang trước đi... Vang Bun đấy không phải thứ vang Thăng Long chua loét đâu... Rồi ta sẽ uống rượu rắn sau.

Trọng nhấp một ngụm rượu. Bỗng nhiên, anh muốn khóc. Rượu đắng làm sao... số phận dành cho anh một món quà cũng đắng cay như thế...không, có lẽ không nên ví von như vậy. Tại lưỡi anh đắng thôi. Rượu nho của Bun êm dịu. Và chất nước lọc ra từ men ủ với xôi nếp kia cũng tuyệt hảo. Rượu là chất thăng hoa của ngũ cốc, chất lửa thần diệu sưởi nóng tâm hồn con người... Không thể ví người đàn bà kia với rượu. Nho mọc trong vườn, lúa đơm hạt trên cánh đồng, vị ngọt ngon của chúng, mùi thơm của chúng thuần khiết lắm... Còn cô ta... Cặn bã của thịt hành, nước cống, xác chuột chết, rác rến...những thứ vật chất làm người ta nhờm gớm bộ mặt của phố xá.

Bích đưa tay nắm cổ tay Trọng:

- Sao anh uống liền năm cốc thế? Say mất rồi... Hãy ăn đi vài miếng...hãy nghe em...

Bàn tay của người đàn bà ấy... Giọng nói của người đàn bà ấy... Bao nhiêu hơi ấm nồng nàn cũ lại dậy men. Cái thói quen đầu độc con người, hủy hoại con người, biến họ thành bùn đất... Vào một đêm nào đấy của năm trước, bàn tay ấy, giọng nói ấy... đã rót vào anh những ngất ngây.

- Anh ăn một bát cơm đi...một bát vơi cũng được...

Bên ngoài cửa sổ, có con mắt rình mò. Phải chăng đó là một vì sao?... Tia sáng nhấp nhánh như cười cợt, chế giễu, nó nhạo báng ta - người đàn ông đần dại, đứa bé cả tin và to xác, con bò đực bị xỏ mũi dắt đi.

- Anh cười cái gì thế?... Chết thật, say quá rồi... Đi nằm cho đỡ say.

Anh đi nằm, nhưng nghe rất rõ tiếng cô dọn dẹp mâm bát bên ngoài, tiếng dép lê từ phòng khách vào trong bếp. Rồi cô đánh răng, súc miệng lọc ọc, cô thay áo quần ngay đầu giường không cần kéo tấm vải che. Chiếc giường kêu cọt kẹt, người đàn bà đã trèo lên, nằm xuống bên anh. Mùi thơm của thứ xà phòng thơm cô hay dùng lan tỏa. Cô trằn trọc một lát rồi xoay nghiêng ôm lấy anh. Vòng tay cô xiết ngực anh, nóng ấm.

- Anh có tỉnh ra chút nào không?.

Trọng im lặng. Nhưng mỉm cười trong bóng tối: Tỉnh lắm, cô nàng ạ. Dù đã uống tới bảy chén rượu nhưng ta chưa say đâu. Ta xem tiếp tấn trò.

Bích đặt tay lên trán anh:

- Còn hơi ấm.

Rồi cô làu bàu:

- Khổ quá, chưa ăn miếng gì đã uống tì tì.

Trọng nằm im, lắng nghe.

Bích trở dậy, uống một cốc nước rồi trở lại nằm bên anh. Cô nằm sấp, tì chiếc cằm vào cánh tay Trọng, chỗ thăn chuột khiến anh đau nhói. Anh cựa mình, lùi vào trong. Người đàn bà hỏi:

- Em làm anh nhột hả?...

Rồi cô đặt lên trán anh một nụ hôn. Người đàn ông thấy rõ rệt đôi môi ấy, độ nóng, chiều dầy, và bè sâu nhục cảm... Một ưu vật quen thuộc của anh trước kia. Giờ đây... Anh muốn bật dậy, gào lên hoặc hất đổ cái gì đó, hoặc cúi đầu dưới vòi nước mát cho hết cảm giác quẫn bách trong người. Nhưng anh vẫn nằm im như một con cáo giả chết. Và khi cô đặt lên gương mặt anh nụ hôn thứ hai thì anh xoay người lại, ôm choàng lấy cô:...Thói quen hả?...quán tính đời sống hả?... Những điều đó không quan trọng. Chúng như đôi dép cũ đã vừa chân... Nhưng điều quan trọng là kẻ đã ném đá vào cái bình pha lê trong suốt, đã làm đổ vỡ phần thiêng liêng nhất trong trái tim con người..."

Chương 10

Cơ quan Trọng có tới mười lăm cô gái ế chồng. Cô ít tuổi nhất cũng hai mươi sáu, cô nhiều nhất...ngót nghét năm mươi. Trước đây, anh ít quan tâm tới họ. Anh tự coi mình như con thuyền đã đóng ván. Vả chăng, anh thấy những người đàn bà thường lắm chuyện, nhất là những cô quá thì. Tính khí họ bất thường như thời tiết tháng năm, vừa nắng gắt đã lại mưa ào ào. Chiếu cố tới cô này, thì dăm bảy cô khác lại hờn mát, róc rỉa. Nào nói cạnh khóe, nào lườm nguýt, nào bày đặt ra những trò đùa oái oăm. Cả đến những lối trả thù vặt rất đàn bà: Họ có thể phát cho anh thứ giấy than khô mực, không rõ chữ. Họ có thể phát cho anh loại bút bi nội hạng bét, không viết nổi. Họ có thể chờ lúc anh cần giải quyết một khâu việc tối quan trọng nào đó mà ngoe nguẩy bỏ đi với cái lý do trời cũng không dám cản: “Anh chờ đấy nhé, tôi đau bụng hành kinh...” Chao ơi, cái thế giới của các bà cô già...xin chắp tay vái. Tốt hơn cả là hãy đứng xa xa mà nhìn. Muốn gần họ thì phải bỏ công thân thiết hết loạt, phải sắm cân tiểu ly ra mà đong các thứ tình cảm anh ban phát ngày ngày: Buổi sáng đã trót đùa với cô Hồng thì buổi chiều phải nặn ra một câu pha trò với cô Nụ. Hôm nay tặng cô Hòe một quả cam thì hôm sau phải nhớ tặng cô Ngâu một quả quýt. Nếu không, bọn họ sẽ mọc gai lên với anh ngay...

Nói cho đúng, ma cũng chỉ bắt nạt từng người. Giá như anh đàn ông khác mà rơi vào cái tổ kiến như thế thì chết đứng. Nhưng Trọng có vóc dáng cao lớn, đĩnh đạc. Gương mặt anh hồn hậu, nghiêm, vả lại, anh là con thuyền đã neo bến, anh đặt mình ngoài vòng kiểm soát của các cô. Anh đối xử rất nhã nhặn nhưng lại hờ hững, cô nào cũng như cô nào, đẹp xấu, già trẻ... Ai cần nhờ cậy việc gì anh giúp việc nấy, với mọi nhiệt tình vừa đủ. Không bao giờ anh tọc mạch chuyện đời riêng tư của họ, nhất là không bao giờ buông lời cợt nhả. Sau cùng, những người phụ nữ trong cơ quan, kể cả dám các cô chưa chồng đều phải có một nhận định như nhau:

- Anh ấy tử tế thực, nhưng khô như ngói.

Bà trường cửa hàng vừa lớn tuổi, vừa tự cho mình được quyền suồng sã với tất cả đám nhân viên có lần ôm vai Trọng bảo rằng:

- Người đàn bà có hồng phúc thì vớ được cậu... Tiếc quá, tôi chẳng có đứa em gái nào.

Trọng đáp lại bà bằng nụ cười ngượng nghịu. Sau đó anh mải mốt lao vào công việc.

Anh không phải thứ người thích ve vuốt. Đám đàn bà hiểu được điều ấy họ cũng không sáp tới gần anh... Dạo này, họ thấy anh buồn. Anh thường thơ thẩn đi quanh mảnh sân cơ quan, vòng qua khu nhà kho, đứng ngắm nghía hàng giờ những luống hoa cúc, hoa mào gà lẫn với các luống rau thơm của khu tập thể. Thoạt tiên, họ ngỡ anh xem xét để lựa giống cây trồng. Ngôi nhà hai tầng của anh có vườn chạy quanh tứ phía. Trọng đã trồng vài loại cây ăn trái, hai gốc hoàng lan, một cụm hoa giấy và mấy bụi nhài. Còn dư đất trồng rau thơm hoặc cây cảnh. Các bà các cô trong khu đon đả:

- Chú Trọng có thích giống cúc đại đóa này tôi cho cả khóm. Chịu khó tưới nước giải hoa nó to bằng cái bát sứ Hải Dương ấy... Còn cái giàn hoa nhà chú cứ dâm lấy một đoạn gấc bên cô Bồng cho nó leo. Gấc nhà ấy là gấc Ấn độ, trái đỏ như son mà thưa hạt lắm. Cứ nghe tôi, vườn nhà chú sẽ đẹp nhất thị trấn này.

- Anh Trọng có muốn xin hồng em cho vài cành chiết. Nhưng nhà em chỉ có hồng bạch thôi. Chị ấy tên là Thanh Hường, anh phải lên Đà Lạt mà tìm giống hồng xanh.

Anh mỉm cười cảm ơn nhưng lờ lững đi qua. Mắt anh không còn ánh lên niềm tha thiết, một thứ bóng tối tù đọng bên trong. Các bà các cô đoán già đoán non mọi nhẽ sau lưng Trọng. Trước mặt anh, họ giữ vẻ kiêng dè. Người đang hạnh phúc dễ bị kẻ khác ghen tị, còn kẻ đang ưu tư, đau khổ sẽ được mọi người xung quanh nương nhẹ, sợ hãi một thứ sợ hãi không cắt nghĩa được căn nguyên. Riêng bà trưởng cửa hàng biết chuyện. Nhưng trái với tất cả những người đàn bà nhẹ dạ khác, bao giờ bà cũng giữ kín như bưng mọi điều bà biết và tạo ra vẻ mặt vô tư nhất trần đời.

Đột nhiên, huyện đoàn thanh niên nổi hứng lên, rủ các cơ quan xung quanh tổ chức đi cắm trại. Không khí tẻ nhạt của thị trấn rộn lên được một tuần. Đi cắm trại thôi, nhưng đối với các cô gái các chàng trai ở đây cũng được coi như một chuyến đi du lịch trọng đại. Các cô thầm kín chuẩn bị quần áo, dù che mưa, giày dép đi đường và leo núi. Các chàng kháo nhau mượn súng săn, mua ít đạn chì đạn ghém, quyết chí làm Giô-bin-sơn giả hiệu trong vài ngày. Cuộc sống ơ hờ nơi phố nhỏ làm cho con người trì đọng, cái chất trầm lặng và nhàm chán ấy phản ánh lên mọi gương mặt nét nhìn, cách giao tiếp. Những cuộc đi dù dài dù ngắn đều làm được phép cải hóa của một cơn giông đổi thay bầu không khí tù đọng, của một hải lưu cuốn đi dòng nước cũ. Tự dưng, hai hiệu thợ may khá nhất phố huyện vớ được món hời. Đám thiếu nữ rủ nhau mua một mảnh vải si-mi-li giấy (các cô gọi là si-giấy) một loại si-mi-li mỏng và sợi nhỏ có màu thật sặc sỡ để may kiểu áo leo núi đang thịnh hành. Trên túi áo, thế nào cũng có cái tem thêu hình con gấu ôm quả bóng. Áo mới, lại phải có một cái túi xách mới kèm theo, bằng loại vải cùng màu đáy tròn, miệng rút giây. Trong túi các cô có thể bỏ cả phấn son lẫn mía tấm, cơm nắm, bánh dầy bánh giò...

Cuộc đi được tổ chức vào sáng thứ bảy qua ngày chủ nhật và thứ hai. Bảy giờ tối thứ hai họ sẽ lên xe và trở về thị trấn lúc nửa đêm. Nơi cắm trại là một thắng cảnh của tỉnh, cách thị trấn tám mươi tư cây số về phía Tây, có tên Thác Đen. Ở đấy, có một con thác rộng, chìm giữa tầng cây trùng điệp của rừng già. Màu nước nhuốm bóng cây không trắng xóa như những con thác khác mà âm u như nhuộm mực. Dân địa phương đặt cho nó cái tên nôm na: Thác Đen. Thác không cao nhưng nghe chừng rộng tới nửa cây số. Ngoài ra, còn những dòng suối nhỏ dưới chân núi đá, có suối nước nóng nhúng tuột lông gà. Tỉnh đã làm tại chân Thác Đen một trạm đón tiếp khách du lịch, nghe đâu tốn kém lắm. Ngoài ra, dân các bản xung quanh đấy cũng đến trao đổi mua bán hàng hóa, đặc biệt là thi thoảng họ săn lợn rừng đem tới...Những điều mô tả chỉ nghe đã hấp dẫn. Gần như toàn bộ số cơ quan trong huyện đăng ký xin đi hết. Không chỉ nam thanh nữ tú mà cả những cặp vợ chồng son rỗi, hoặc con đã lớn hoặc các ông bà sắp sửa về hưu rủ nhau chơi dối già. Cơ quan Trọng cũng thế. Cuối cùng, chỉ còn những anh chị chàng mắc con nhỏ là phải ở nhà.

Bà trưởng cửa hàng bảo Trọng:

- Cậu sống trên rừng bao nhiêu năm, chán quá rồi phải không?... Mai ở nhà làm cho chị nốt số liệu thống kê quý ba nhé.

Nói xong, bà tong tả đi luôn. Sáng hôm sau, lúc sáu giờ bà lại thấy anh ngồi ngay hàng ghế phía trước. Bà bấm vai Trọng:

- Sao thế?

Anh quay lại:

- Chị yên tâm, em làm xong số liệu quý ba rồi.

Nhìn trước nhìn sau, bà ghé tai anh hỏi nhỏ:

- Còn cô Bích?

- Cô ấy ở nhà.

Anh đáp và quay lên ngay. Bà không hỏi thêm lời nào nữa. Quả tình, việc anh đi Thác Đen không chỉ làm một mình bà trưởng cửa hàng mà làm toàn bộ số nhân viên thắc mắc. Nhưng họ lặng im. Phần Trọng, anh không chú ý tới những ánh mắt tò mò của họ.

Chiều qua, Bích đã hớn hở trở về, đầy làn thực phẩm và bánh trái, một bộ đồ lụa mới của Mỹ làm thân thể cô thon gọn lại. Cô sửa lại mái tóc và kẻ môi.

- Em vừa xuống một huyện ven biển, kiểm tra các mặt hàng.

Cô nói với anh từ lúc còn ngồi trên xe. Anh mỉm cười:

- Anh có phải là thủ trưởng của em đâu?

Cô nói:

- Anh mới là người có quyền lực cao nhất đối với em.

Mắt cô ngước nhìn anh, giống mắt của một con vật đã được thuần phục. Giá cô là một con thỏ, một con sóc, một con mèo...thì dễ chịu bao nhiêu. Anh sẽ vuốt ve bộ lông êm mượt của chúng, xoa cái đầu tròn trĩnh của chúng, nhìn đôi mắt nhỏ lấp lánh như những hạt cườm... Điệu bộ của một con vật trung thành bao giờ cũng đem cho ta miềm sung sướng tin cậy và được tin cậy. Trước kia, anh không bao giờ phân tích được mắt cô hình gì, màu sắc gì, chứa đựng thứ ánh sáng nào?... Khi yêu, người ta nhìn vào nhau, và cả hai bên cùng bị mù ngay trong khoảnh khắc đó. Giờ, anh mới kịp nhìn ngắm kỹ càng. Đường viền hẹp, những sợi mi thưa và ngắn, đồng tử màu thau.

Cô ngạc nhiên hỏi:

- Sao anh kỳ quặc thế?... Cứ nhìn chòng chọc vào mắt em?

Anh đáp:

- Vì hôm nay anh thấy rất khác thường.

Cô gặng:

- Khác thế nào cơ?

Anh bảo:

- Đẹp lắm.

Cô lườm anh:

- Rõ anh khéo chuyện.

Nhưng hai má cô đỏ lên vì sung sướng. Trời đất ạ, ngay chính trong cuộc sống giả trá, người ta cũng có thể có những khoảnh khắc thực thà.

Sự xúc động rất đàn bà của cô làm anh đau xót. Anh quay lưng, bước lên thềm. Nhưng Bích muốn kéo dài những giờ phút viên mãn nên cô gọi anh, đòi anh giúp cô tháo gỡ làn thực phẩm và những túi lớn túi nhỏ đựng hoa quả, bánh trái.

Cô bảo:

- Anh xem mùi thuốc gội đầu của Mỹ có thơm không? Anh cúi xuống đầu cô, đáp:

- Thơm tuyệt.

Nhưng những sợi tóc thơm nức của cô chạm vào mũi anh, khiến anh ngột ngạt. Anh nghĩ: “Giá trên xe buýt, mình có phải ngửi mái đầu hôi khú của một thằng bé cầu bơ cầu bất còn dễ chịu hơn”. Người đàn bà cúi xuống, cố ý để lộ một phần ngực trong chiếc cổ áo có những đường đăng ten. Cô xách túi hoa quả lên, khẽ hất mái tóc vừa được chải gội còn nguyên nếp sấy.

- Anh xem này...

Cô nói với anh: Quả đầu mùa đấy, đắt kinh khủng. Nhưng rất ngon, đúng không?

- Ừ rất ngon.

Anh trả lời như cái máy và nghĩ: “Cái cách cúi xuống trễ tràng ấy, cái cách lắc mái đầu làm duyên ấy, sao tận giờ cô ấy còn dùng?... Phải, vì trước mắt cô ấy, ta là một thằng bé ngu ngốc. Nhưng cuộc sống thật lạ, cũng những cử chỉ ấy, trước kia tuyệt diệu bao nhiêu, bây giờ khả ố bấy nhiêu...” Anh nhìn vào gáy cô, vào vai cô thấy chúng đầy những thịt, dưới lớp lụa mỏng, càng dâm đãng và dơ dáy... Tại sao ta còn tiếp tục cuộc sống này, hãy hạ màn ngay hôm nay... Anh nghĩ và châm điếu thuốc mới, lẩn ra vườn hút. Hai cây hoàng lan lên chới với tầm tay, lá rất xanh nhưng chưa trổ hoa. Còn những khóm nhài càng ngày càng xum xuê hơn và hoa trổ chi chít như ai vãi bỏng rang xuống. Vào chiều, hương thơm của chúng nông lên, ngây ngất. Trọng vẩy tàn thuốc vào một bông nhài, thấy những cánh hoa trắng muốt lấm tàn tro, trở nên nhem nhuốc như một bộ mặt bị rỗ thủy đậu. Anh cúi xuống, ghé sát miệng thổi đám tàn thuốc nhưng chúng chỉ bay đi một phần những chấm tàn đã bám chắc vào cánh nhài vẫn in những vết đen không xóa được. Tâm hồn con người cũng thế chăng, hễ một lần nhiễm bẩn thì không sao tẩy xóa hết?... Anh có thể từ bỏ cô, quên cô đi, tìm kiếm một người phụ nữ mới và giữ cho toàn vẹn niềm tha thiết với hạnh phúc?. Anh còn trẻ, còn khả năng để làm lại tất cả. Anh dư thừa điều kiện để thành một người chồng, người cha hạnh phúc trong xã hội. Tại sao không? Trọng thấy tim anh như một khối đá cứng đè trĩu lồng ngực. Anh đứng dậy, ném mẩu thuốc đi và thở hít mùi cây lá. Ngay tối hôm nay, anh có thể nói hết mọi nhẽ, thanh toán mọi uất ức, đau khổ để ngày mai, tâm hồn anh nhẹ nhõm như cây vườn sau cơn mưa, tươi tắn không chút bụi. Anh sẽ hòa nhập vào cuộc đời và tìm cho mình một tấm áo vừa lưng... Điều đó thật nhẹ nhàng... Hãy giã từ quá khứ... Mà có lẽ, anh cũng chẳng cần giãi bầy. Nếu anh nói, cô sẽ viện đủ lý, cô sẽ thề thốt, sẽ khất hẹn, sẽ van vỉ...và sau cùng, cô sẽ tuôn ra một nửa chén nước mắt... Đó là món tráng miệng quen thuộc trong những lần họ cãi cọ trước kia. Giờ, anh không còn gì để nói... Hãy chia tay êm ả, không lý giải, không cần cãi cọ đôi co.

- Anh ơi.

Bích đã tới sau lưng anh, áp tấm thân nóng rực của cô vào anh.

- Vào ăn cơm đi anh. Xong cả rồi.

Họ vào nhà, cùng ăn cơm. Bữa cơm vẫn diễn ra như thường lệ. Cơm xong, Trọng dọn mâm bát cho Bích để cô pha trà. Lúc từ bếp lên, anh thấy cô đang rót nước sôi từ phích vào ấm. Làn hơi nước bay lên, vấn vít như khói. Cái đầu nghiêng xuống của người đàn bà. Chiếc ống tay áo mặc có đường thêu. Hình ảnh anh đã nhìn hàng nghìn lần trong ngôi nhà này. Một góc nhỏ trong cái hạnh phúc mà anh dày công xây đắp. Lòng anh bỗng trào lên niềm hận thù: Không thể, không bao giờ anh tha thứ cho cô... không bao giờ.

Đêm đó. Bích nói với anh rằng cô vừa đi miền biển về nên được nghỉ bù. Họ sẽ có ba ngày hoàn toàn tự do, rảnh rỗi cho nhau. “Chắc cô ấy đã sắm bộ đồ mới kia, gội sấy lại tóc, mua ống son tô môi đắt tiền để chuẩn bị cho ba ngày này. Thật là một người đàn bà chu đáo. Sau cả tuần lăn lộn, xuôi ngược lo cho việc bầu cử Đảng ủy sắp tới, cô đã thu xếp được một khoảng thời gian nho nhỏ để dành cho người đàn ông mà cô yêu...”

Trọng thầm nghĩ, và bảo cô:

- Ngày mai anh phải đi Thác Đen với cơ quan. Đã ghi tên rồi không tiện xóa. Sáng mai, anh sẽ phải dậy từ ba giờ để lo chuẩn bị đồ ăn.

Nói rồi, anh quay mặt vào tường.

Xe vẫn chạy với tốc độ nhanh. Thi thoảng, khúc đường cong đột ngột khiến tay lái xe phải phanh lại. Đám thanh nữ cười ré lên, ngã nghiêng ngửa. Dăm ba cô nhân dịp đó xô đẩy nhau vào các chàng trai, chế nhạo, ghép đôi một cách láo tợn. Mấy bà lão sắp tới tuổi nghỉ hưu liếc nhìn tủm tỉm cười. Còn mấy cô chưa chồng đã ngoại bốn mươi thì nghiêm mặt nhìn thẳng về phía trước, tuồng như đó là những trò xấu xa, những trái cấm không được phép biết. Họ đã rời thị trấn chừng mười lăm cây số. Hai bên đường là những mảnh đồng nhỏ xen những cụm đồi trồng toàn một loài cây họ trẩu, lá rộng và dầy, hoa trắng như hoa phù dung. Mặt trời phía bên kia giải đồi, nắng hắt lên nhuốm màu hoa trắng, cả một vùng mây ánh trắng. Đến những mái nhà, những bức tường rêu phong, những vòm lá xanh cũng như tan biến trong biển trắng của loài hoa...

- Gớm, ông anh hơi tự nhiên đấy nhé.

Một bàn tay vỗ đét vào vai anh khiến Trọng giật mình. Anh quay lại. Một gương mặt rất xinh với đôi mắt đuôi lá khoai đang cười:

- Anh to như ông hộ pháp, che hết cả cửa xe của em.

Trọng nói:

- Tôi xin lỗi... Tôi sơ ý quá.

Cô gái ngồi cạnh bà trưởng cửa hàng. Nghe anh nói, cô quay sang bảo bà:

- Lính của cô lịch sự quá nhỉ... Sao cháu chưa bao giờ gặp anh ấy?

Bà trưởng cửa hàng đáp:

- Lính cửa tôi là người nghiêm chỉnh, tám giờ ngồi làm việc chứ có nhẩy cẫng lên ngoài phố đâu mà cô gặp được... Cô gái không hề phật ý, tươi cười nhìn Trọng:

- Thế à?... Anh là người mẫu của thời đại phải không?.

Trọng bật cười, lắc đầu:

- Không. Cô hiểu thế nào là người mẫu?

Cô đáp luôn:

- Giảng giải cho anh thì quá mất thời giờ. Nhưng đại để xã hội nào, thời đại nào cũng có người mẫu. Không chỉ một mẫu mà nhiều mẫu khác nhau, thậm chí đối nghịch nhau.

Trọng nhìn bà trưởng cửa hàng đầy ngụ ý, và hỏi cô:

- Vậy như tôi, cô cho là thứ mẫu gì?

Cô đáp:

- Một mẫu hâm, nhìn qua là biết ngay. Người mẫu cũng như giầy mẫu, nhiều kiểu. Kiểu như anh là đã đề-mốt-đê... Tức là lỗi thời, anh hiểu không?

Bà trưởng cửa hàng cau mày:

- Ăn nói gì mà sỗ sàng thế?

Nhưng Trọng không giận mà trái lại anh thấy vẻ ngổ ngáo của cô hay hay - nó hấp dẫn người ta như một cây kẹo mút lôi cuốn đứa bé.

Anh vẫn cười, bảo cô:

- Cảm ơn cô. Cô không nói thì tôi không biết rõ về mình đâu. Khi nào tới Thác Đen, ta sẽ tiếp tục câu chuyện. Giờ tôi phải quay lên, kẻo gãy mất cổ.

Nói đoạn, anh quay lên. Trong ánh mắt của bà trưởng cửa hàng lẫn đám các cô gái quá thì ở cơ quan anh hiển hiện lên nỗi kinh hoàng.

Xưa nay, chưa có ai được anh trò chuyện vui vẻ thế. Mà lại là một đứa con gái lấc cấc, ăn mặc hở hang nhăng nhố, một thứ con gái mà cả đến những người chưa được chỉn chu đứng đắn như anh cũng phải tránh xa...

Từ đoạn đường ấy cho tới Thác Đen, Trọng không trò chuyện với cô gái lần nào. Anh hút thuốc, nhưng thi thoảng anh vẫn nghe tiếng cô cười đùa, châm chọc đám bạn gái, cợt nhả với lũ thanh niên. Người hưởng ứng người mỉa mai, nhưng ngay cả với những người ấy, cô vẫn đối đáp hồn nhiên không chút mặc cảm:

- Cái gì hở cô?

Cô hỏi lại bà trưởng cửa hàng.

Bà này gắt:

- Cô còn vờ vịt... Con gái ăn nói phải đứng đắn một chút chứ.

Cô đáp, giọng thành thực:

- Nhưng cháu chỉ quen ngồi đắn, chứ không đứng đắn bao giờ.

Bà trưởng cửa hàng quát:

- Mất dạy.

Cô gái hỏi:

- Thế ai có dậy bây giờ ạ?... Cô chỉ cháu xem nào?

Bà trưởng cửa hàng nói:

- Không ai có thể tử tế với cô được. Dù Bụt cũng phải nhảy từ trên tòa xuống.

- Bụt nhảy xuống để làm gì hở cô?

- Để trừng trị những đứa con gái cấc láo, trơn trạo như cô ấy.

- Thế thì cô nhầm. Cháu chưa thấy Bụt trừng trị cháu bao giờ. Bụt toàn ban cho cháu tài lộc và may mắn. Này nhé, ăn được ngủ được là tiên, cháu đặt lưng xuống là ngủ liền, ngày ăn bốn bữa vẫn thèm ăn thêm bánh kẹo. Làm thân con gái, điều lo ngại số một là nhan sắc. Bụt cho cháu một tấm chứng chỉ trên loại khá, xấp xỉ loại xuất sắc. Cô xem, da cháu không trắng lắm nhưng cũng coi được, đúng không?... Dáng người, tự chấm cũng phải cho điểm bốn cộng. Răng cháu hai hàm ba mươi hai chiếc nguyên vẹn, không hà không sứt không có cao bám. Môi không sẻ trái tim nhưng cũng tròn trặn, cân đối, không thâm không dầy không mỏng. Còn mắt cháu thì...

- Báu lắm đấy cô ả... Mắt cô là mắt có đuôi lá khoai.

- Vâng, hồi lên sáu, cháu đã nghe câu này:

Những người đuôi mắt lá khoai

Liếc chồng thì ít liếc trai thì nhiều.

Liếc được trai là cao thủ phải không cô. Chứ đàn bà thường mà có chồng rồi thì chỉ liếc vào đống tã con, rồi liếc cái chuồng gà, chuồng lợn... Ha ha ha...

Cô cất tiếng cười ròn tan, tự tán thưởng. Tiếng cười của cô như kim khí cọ vào nhau, lanh canh. Giọng nói lanh lảnh như đồng... “Thị trấn này có được cô gái như thế kể cũng lạ. Tại sao mình chưa hề gặp cô ta?...” Trọng thầm nghĩ. Khi đoàn xe tới Thác Đen, vừa đặt chân xuống đất anh đã hỏi:

- Cùng một thị trấn mà tôi chưa hề gặp cô?... Cô ở cơ quan nào?

- Em đánh máy trong văn phòng huyện ủy.

Trọng gật đầu:

- Thế thì lạ thật.

Cô gái rất nhanh, quắc mắc nhìn anh:

- Tại sao?... vì huyện ủy đáng ra không nên có loại người như em, đúng không?...

Phản ứng của cô mau lẹ, và gay gắt. Trọng đâm lúng túng:

- Tôi không định nói cô là người... Nhưng thường thường, ở các cơ quan như vậy...

Cô nhếch môi cười khẩy, mặt vênh lên rất đanh đá:

- Thường thường những cơ quan đứng đắn như vậy, chỉ nên nhận các chị phụ nữ bên huyện hội chuyển sang. Chị nào cũng đi đứng rất mực nghiêm chỉnh, nói năng rất mực chỉn chu. Còn thứ nhân viên như em thì nhăng nhít, làm mất uy tín của tổ chức, của cơ quan, của các bậc đàn chú đàn anh đáng kính.

Nói xong, cô nghếch mắt nhìn anh, nửa như thách thức, nửa như đợi một câu trả lời. Lúc ấy, Trọng chợt thấy mọi đường nét trên gương mặt tươi trẻ của cô rất cân xứng, hoàn chỉnh. Thêm nữa, cặp mắt tinh anh luôn biến động, lúc cười cợt, lúc giận dữ, lúc nhạo báng, lúc khiêu khích...tựa hồ trong đó thường trực một ngọn lửa bùng cháy, và nguồn sáng linh động ấy phản ánh các biến thiên tình cảm trong tâm hồn cô như một tấm gương. Bất chợt, anh nảy ra ý nghĩ so sánh cặp mắt cô với cặp mắt người đàn bà anh đã từng yêu say đắm. Một đôi mắt hẹp, lúc nào cũng như lờ đờ, lúc nào cũng như mất hết khả năng thụ cảm và suy nghĩ. Tựa mặt ao tối, giấu kín dưới đáy nước những bùn lầy và rêu rong.

- Sao, anh im lặng lâu thế?

Cô gái cất tiếng, vẫn căng thẳng như một đường gươm chém giáo đầu để chờ đợi đường gươm ném trả trong trận đấu. Trọng chợt nhớ câu hỏi của cô, anh cười dàn hòa:

- Sao tấn công tôi ghê gớm vậy?... Tôi có là địch thủ của cô đâu?.

Những nếp nhăn trên vầng trán cô dãn ra. Cô cười. Hai hàm răng xinh đẹp. Khóe môi nữa, cũng rất đẹp, vẻ đẹp thanh tú. Người đàn ông rùng mình. Anh chợt hiểu rằng thế gian bao la, vẻ đẹp của con người cũng muôn ngàn thứ. Bấy lâu nay, anh bị cầm tù bởi một gương mặt, một nụ cười... Anh hỏi cô:

- Cô đã xây dựng gia đình chưa?

Lúc ấy, họ đang men theo bờ con thác. Đoàn người cắm trại đã vượt lên một quãng xa. Nghe anh hỏi, cô nghếch mắt nhìn và sảy chân chút nữa lao xuống nước. Trọng vội vã nắm cánh tay cô, kéo cô về phía mình. Động tác của anh quá mạnh, cô gái gần như ngã vào ngực anh. Cô nhón chân, đứng thẳng lên:

- Khiếp, anh khỏe như vâm ấy.

Anh cười. Cô hỏi tiếp:

- Lúc nãy anh bảo gì nhỉ?... Xây dựng gia đình... Lấy chồng hả?... Ai lấy em? Mà em cũng chẳng muốn lấy người nào... Chồng vợ...nợ đời. Giống như đàn cá lượn quanh cái hom. Cá trong hom muốn thoát ra không thoát được. Cá ngoài hom hăm hở chui vào.

- Tại sao?... Cô có kinh nghiệm rồi chăng?

- Kinh nghiệm hả?... Em chưa đăng ký kết hôn lần nào, nhưng kinh nghiệm cũng đã dư thừa. Còn anh?

- Tôi cũng chưa được tới ủy ban nhân dân làm đăng ký.

- Vậy thì anh là một con cá trong lũ cá đang lượn lờ quanh cái hom và cố tìm cách chui vào.

- Còn cô?

- Không đời nào... Chưa kịp lấy chồng đã chán chồng như chán cơm nếp nát. Anh đã ăn cơm nếp nát bao giờ chưa? Nếu chưa thì cố ăn đi một lần cho biết. Em không phải nhà văn nên không thể mô tả cho anh nghe. Hồi đi học, em luôn luôn bị điểm ba văn. Thậm chí có cả điểm hai nữa... Bà ngoại em vẫn bảo: “Ông ngoại mày ngày xưa cầm, kỳ, thi, họa đủ mùi, khắp vùng nức tài ứng thi và tài viết phú. Ngày Tết, người ta kéo đến sân chờ xin câu đối như trảy hội... Thế mà mày dốt đặc cán mai...”

- Cô định sống mãi thế này?

- Có làm sao?

- Tôi chắc là buồn, nếu cứ suốt giao thừa này qua giao thừa khác chỉ đốt pháo và bóc bánh chưng một mình.

- Vâng, nhưng một năm ba trăm sáu mươi nhăm ngày chỉ có ba ngày Tết. Còn lại ba trăm sáu mươi hai ngày bình thường. Đoạn đời bình thường ấy đáng sợ hơn. Nếu chỉ vì muốn khỏi cô đơn ba ngày Tết mà đi lấy chồng thì không gì ngu xuẩn hơn... Em cứ sống vui vẻ thế này thôi. Nhiều người yêu em, thích ai em vời người ấy tới. Nhưng chẳng tùy thuộc một gã đàn ông nào. Không có xếp hàng mua cá biển, thịt tươi, giặt tã lót. Không có cái chuyện ỉ eo: “Tháng này tôi đưa tiền rồi, cô còn hạch sách gì?...” và lại: “Sắp sửa có giỗ ông cụ bên tôi, cô đã chuẩn bị chưa... Thằng cháu dưới quê gặp bọn phường buôn lừa hết vốn, cô xem có vay được ai vài chỉ vàng đưa cho nó không?...” có thì tốt đẹp. Không, mặt nặng như chì. Rồi bao nhiêu thứ phiền toái khác: Mình muốn đi xem phim, họ chỉ ưng ngồi nhà đánh tu-lơ-khơ hoặc xem vô tuyến. Mình thích sống vui vẻ với bạn bè, họ chỉ lo tích cóp chúi xu thành một hào, chúi hào thành một đồng bỏ vào túi quần cho nặng... Chao ôi, chả bõ...chả bõ.

Cô nói một mạch, không ngắt lời, không suy nghĩ, cứ như một cuộn băng tự động quay. Anh nhìn cô, không khỏi ngạc nhiên, không khỏi bị lôi cuốn. Có một cái gì đó, rất khó cắt nghĩa, vẻ trẻ trung, nhan sắc xinh đẹp, hay sự trung thực ngay cả trong những hành vi ngược ngạo, ngay cả trong cách bộc lộ những quan niệm sống lầm lạc và phiến diện?

Con thác đã ở ngay trước mặt họ. Như một tấm màn nước trải rộng, trút êm đềm xuống con vực cũng bao la như thế, không tung bọt trắng, không gào réo ồn ĩ, mà chỉ lặng lờ phản chiếu những giải rừng già.

- Cô có muốn sang bên kia không?

Anh hỏi cô.

Mắt cô sáng lên:

- Có, có chứ, em muốn lắm.

Đoàn khách du lịch đã men theo cây cầu gỗ sang bờ bên kia trước họ.

Cây cầu cheo leo, người đi phải vin vào lan can bằng các cây tre già nối lại, người nào người nấy dò dẫm đặt từng bước chân. Toàn trai tráng, không một cô gái nào dám lên cầu.

Trọng bảo:

- Cô thấy không? Rất nguy hiểm... Cô nên ở lại với đám các bà các cô.

- Không, không.

Cô kêu lên hăm hở:

- Em cứ đi...em cứ đi cơ.

Trọng mỉm cười, anh đưa tay cho cô. Lúc ấy, anh thấy cô như một chàng niên thiếu vừa mọc lớp ria mỏng trên môi.

Chương 11

Ánh đèn lù mù soi, hầm tàu giống như một cái nhà xác khổng lồ, ngột hơi dầu và lạnh lẽo. Những kiện hàng như một thứ tử thi chất chồng câm lặng. Góc này, góc kia, tiếng chân chuột chạy, tiếng rinh rích của chúng ném vào khoảng không gian kín bịt bùng, vang lên gấp bội như đã qua máy phóng âm. Cường chợt rùng mình vì một làn hơi lạnh lướt qua. Cái bẫy chuột vẫn há miệng chờ, không một con chuột nào bén mảng tới. Dù anh đã thay miếng cá nướng bằng miếng thịt lợn. Chuột dưới hầm tàu đã thành tinh. Chúng có thể chạy vụt qua mặt anh rồi quay đầu lại, ngoáy ria, nhìn con người với vẻ trêu cợt ranh ma. Chúng cũng có thể rượt nhau nhảy phóc qua vai anh, chạy qua đùi anh, thậm chí leo lên cả cánh tay anh. Nhưng chúng không vào bẫy. Cái bẫy cứ há miệng chờ một cách hoài hủy. Miếng cá hoặc miếng mỡ treo bên trong khô tóp dần, hoặc thiu thối vào những ngày hè. Rồi thủy thủ lại phải ném đi. Họa hoằn lắm, mới có một con chuột nhép lọt bẫy. Lúc ấy, họ được dịp chơi đủ mọi trò. Họ cho con vật uống rượu, uống thuốc giảm đau có á phiện, uống dấm, uống nước mắm. Họ cho nó ăn ớt, ăn hạt tiêu, dùng diêm đốt cháy trụi râu... Tóm lại, tất cả những thứ trò quái quỷ mà chuỗi ngày buồn phiền, tẻ nhạt lênh đênh trên đại dương, những khối óc tù đọng có thể tưởng tượng ra được...

Chít...chít. Có tiếng chuột rít lên rồi hai con đuổi nhau phóng qua chân chàng trai. Móng sắc của chúng cào sột lớp vải quần. Cường bất chợt rùng mình. Giá như anh mặc quân đùi, hoặc lớp vải quân mỏng, chúng đã cào rách thịt da anh. Những con vật dơ bẩn, rúc rách trong các xó. Cường chợt nhớ tới một truyện ngắn anh đã đọc trong tập truyện của nhà văn nước ngoài. Tên truyện là "Cái bẫy chuột”. Trên một con tàu biển lang thang từ đại dương này sang đại dương kia, cuộc sống của thủy thủ được tổ chức khá chu đáo để gìn giữ những chuyến đi dài, nhiều bất trắc. Hầm tàu rất nhiều chuột. Chuột sinh sôi này nở hằng hà sa số. Trưởng tàu phải ra lệnh cho thủy thủ: cứ diệt được một con chuột sẽ được phát một khẩu phần rượu vang. Đương nhiên, đó là một phần thưởng đắt giá đối với những người đàn ông làm nghề ăn gió nuốt sóng. Mọi người đua nhau bẫy chuột. Nhưng riêng một thủy thủ trên tàu bẫy được nhiều chuột đến nỗi mọi người ngờ ràng anh ta có phép thuật. Phép thuật ấy được giữ bí mật. Bao nhiêu năm sau, người ta mới được biết chàng thủy thủ kia đêm đêm đã cởi trần, chỉ mặc một manh quần đùi, bôi mỡ khắp người và năm như một miếng mồi vĩ đại để nhử chuột xuống. Anh ta đã chịu nằm bất động như một tử thi, chịu mùi hôi của lũ vật dơ bẩn, chịu hàng trăm chiếc móng sắc của chúng cào trên da thịt.

- Khủng khiếp quá...

Cường lại rùng mình lần thứ hai khi nghĩ tới hình ảnh một con người trần truồng, bôi mỡ lợn cùng mình, nằm dưới sàn tầu hôi hám. Và đêm tối nữa.

- Mình không đủ can đảm làm như anh ta.

Cường nghĩ, lại một con chuột nhảy qua vai anh. Chàng trai rụt cổ lại, bẻ dựng chiếc cổ áo sơ mi lên che gáy. Rồi hai tay vòng qua gối, anh nhìn cái bẫy chuột đang há miệng chờ. Chừng năm phút sau, cầu thang có tiếng chân người, Cường quay lại:

- Anh Bá.

Bá lẳng lặng tới sau lưng Cường:

- Rình chuột hả?

- Vâng.

- Thôi, lên đi.

- Trên ấy họ đang đánh bài. Em không nhập cuộc đâu.

- Kệ chúng nó. Lên đi.

Nói đoạn, anh quay lưng đi trước. Cường theo sau. Họ lặng lẽ leo qua cầu thang. Bá bảo:

- Đóng cửa hầm lại.

Tiếng máy nổ khiến giọng nói của anh bị nuốt chìm. Trong phòng lớn, đám thuỷ thủ đang ngồi uống trà, chuyện trò ầm ĩ.

Hai người không vào phòng, nhưng họ kiếm chỗ ngồi gần đó, tựa lưng vào một chiếc thùng gỗ. Bá rút thuốc, châm cho Cường một điếu và một điếu cho mình. Hai người chưa kịp rít, gió đã đốt đốm lửa cháy đỏ.

Tàu chạy nhanh, quầng sáng của nó lướt trên mặt nước tối.

- Ai bảo cậu xuống hầm tàu?

Sau khi rít liền dăm hơi thuốc, Bá cất tiếng hỏi:

- Lại thằng Đính phải không?

Cường lắc đầu:

- Không. Lần này chính tự em đi xuống. Em muốn rình xem tại sao lũ chuột không chịu vào.

- Cậu đổi bẫy rồi à?

- Vâng em đã thay cái bẫy khác, chốt sập rất nhạy.

- Ngồi một mình dưới hầm tàu, không buồn à?

- Có chứ anh...Nhưng...

- Ngày xưa chỉ có những tên tù khổ sai mới sống dưới hầm tàu, hoặc đám nô lệ da đen từ châu Phi chuyển qua châu Mỹ...Tôi thật lạ...

Bá ném mẩu đầu thuốc rồi đứng lên, sải bước trên khoảng trống boong tàu. Biển trải trước mắt anh, trong tấm màn bao la của bóng đêm, mây trời, ánh sao đan dệt với những gợn lân tinh. Gió thổi lạnh, lay động, một sức mạnh cuồng phóng và thách thức. Cái khung cảnh này phải chăng chỉ thích hợp với tâm hồn anh, cũng mãnh liệt cũng bạo ngược, cũng hoang vu. Trước kia, Bá đã từng sống ở bình nguyên. Đã nhiều lần anh đứng trước cánh đồng bạt ngàn xứ Bắc. Mùa Xuân lúa xanh trôi tới chân trời. Và những đàn cò dập dìu, biến nó thành tấm thảm phiêu diêu, lơ lửng giữa thinh không và gió. Giờ, trở về với sóng nước, anh cũng yêu biển như thế. Hình ảnh một khoảng xanh bao la, khoáng đạt hòa nhập vào anh, như thông điệp của niềm vui sống, nỗi khát khao, sự phỉ nguyên của tự do và quyền chế ngự đời sống. Đời sống, không còn là đời sống nữa khi thiếu vắng tự do, khi bị vây bọc bởi sự tòng phục và khuất lụy. Ý tưởng ấy bền vững trong anh, như đá ngồi trên núi... Bá từng mơ ước thành võ sư tài ba và anh đã trở thành võ sư tài ba. Anh ưa thích nghề thợ máy, anh đã học đúng nghề anh thích và trở thành thợ máy. Anh đã yêu những cô gái anh yêu và giã từ họ khi nhận ra đó không phải đích thực người mình cần có. Anh không hiểu, không sao hiểu nổi chàng trai này. Đôi mắt ưu sầu, khiếp đảm. Tiếng nói e dè. Nụ cười quá dịu dàng. Dịu dàng đến mức làm những trái tim đàn ông xa xót...

Bá quay lại:

- Tại sao cậu lại chấp nhận một đời sống như vậy?

Cường ngước mắt lên, đáp:

- Em hiểu rằng anh rất thương em... Chưa có ai tử tế với em như anh...Nhưng em biết làm sao bây giờ?

Bá bất giác buông liếng thở dài, anh ngồi xuống bên Cường và châm điếu thuốc khác. Trong phòng lớn, tiếng ai đó vừa quát to khiến hai người giật mình. Họ im lặng lắng nghe. Cuộc đối thoại từ phòng lớn vang ra, rõ mồn một:

- Láo, cậu đừng láo.

Tiếng Tuấn hói.

Đáp lại, Đính cất liếng cười khành khạch. Sau đó anh ta cất giọng rành rọt:

- Tại sao anh bảo tôi láo? Vì tôi nói trúng tâm can anh. Đối với loại người đã có vị thế nhất định do chức tước, do danh tiếng, do giàu sang, hoặc do một thứ thành công hạng bét trên cõi đời là đã sống một quãng đời dài lâu hơn kẻ khác. Với loại người ấy ai đọc trúng tim đen họ, ai nói đúng sự thật họ đều cho là láo xược. Tôi bảo anh là kẻ sĩ diện. Anh lập tức vằn mắt lên chửi tôi ngay. Vì điều tôi nói là một sự thực không thể chối cãi. Tháng tháng anh tích cóp tiền vào két, không uống rượu Tây, không chơi gái, ngoại trừ mua ảnh và an bom anh chỉ gửi cho bà chị ở quê. Giá bà chị này là người thương yêu anh, thay cha mẹ anh nuôi anh ăn học là một nhẽ. Đằng này bà ta là một kẻ tham lam, tước đoạt tài sản của em trai cho chồng, hành hạ anh tới mức anh phải ly hương biệt xứ. Hơn nữa, anh cũng không phải người độ lượng, đã tha thứ mọi sự hèn kém của người thân, anh găm giữ lòng hận thù với bà ta và người anh rể. Anh cũng ghét cả lũ con họ.Vậy anh gửi tiền cho bà ta làm gì? Không hơn không kém, cử chỉ ấy chỉ để làm nhục mụ đàn bà tham lam trước họ hàng, làng xóm. Cả nhà bà ta biết chữ, mà anh lại gửi tiền cho ông chú họ làm phó chủ tịch xã. Ông này có nhiệm vụ mang tấm phiếu bưu điện cho bà chị anh. Ông ấy biết, vợ con ông ấy biết, khắc họ hàng, hàng xóm biết. Mỗi người ném một câu phẩm bình người chị vô liêm sỉ, nghĩa là họ bốc thơm cho anh. Anh trở thành con người đạo đức, phẩm tiết cao sang.

Cứ mỗi một tập bạc chi ra, anh mua cho mình một đấu tiếng tốt. Còn bà chị anh, nhận một tập bạc, là bán thêm một đấu phẩm giá trước con mắt xóm làng...Ha..ha..ha..anh Tuấn ạ, tôi ít chữ hơn anh, nhưng những trò khỉ trong đời, tôi chẳng đến nỗi dốt... Nhưng mà, nói cho vui thôi. Ở đời, ai sống cách nào tùy ý. Tôi chơi gái, uống rượu, anh không thích những trò ấy thì anh tìm trò chơi khác...cũng vậy thôi. Tuấn hói gầm lên:

- Mày là thằng mặt dày. Đừng nghĩ rằng mọi người đều như vậy cả.

- Dày hay mỏng đều tốt như nhau.

Đính trả lời thản nhiên. Hiếm khi gã có thái độ bình tĩnh như vậy. Đám thủy thủ trong phòng không góp chuyện, có lẽ cả vì Tuấn hói lẫn Đính đều là những kẻ phải dè chừng.

Có tiếng ai đó rót nước òng ọc. Đính cất tiếng ho khan, rồi tiếp:

- Tôi biết trên tàu này chẳng ai ưa tôi. Ngày tôi học trong trường cũng vậy, ở gia đình, hai ông anh và bà chị dâu lớn ngày đêm khấn vái Trời Phật cho tôi bất đắc kỳ tử, dù là tàu chìm, dù bị xe chẹt trên đường phố hay ngộ gió trong quán rượu.

Đính cất tiếng cười khô khan, cợt nhạo ai đó..Lại tiếp:

- Tôi biết mười mươi như thế, nhưng tôi chẳng phiền lòng. Tàu cần tôi, trong trường tôi học giỏi, ở gia đình mọi người phải gớm mặt tôi, dẫu tôi là đứa con út. Xưa kia, hồi bố tôi còn sống, cả nhà sợ ông như sợ cọp. Sáng tinh mơ ông gõ đũa: cách cách cách vào tấm liếp. Cả nhà nhao dậy, còn ông lại tiếp tục ngủ. Hai bà chị dâu vào bếp, người đun nước pha trà, người nấu cơm. Tôi chuẩn bị đồ nghề và nhóm lò. Ông anh cả bổ củi ngoài sân, ông anh hai ôm cỏ cho bò ăn và sửa sang lại xe kéo. Khi cơm chín, bày tươm tất ra mâm, phích nước sôi đã sẵn sàng, ấm chén đánh trắng bóng, hộp chè Thái chuẩn bị đầy đủ, bà chị dâu cả mới vào nhà khẽ khàng gọi bố tôi dậy. Bố tôi bước ra hiên, bà chị dâu thứ hai bưng thau nước nóng với khăn mặt tới cho cụ rửa mặt, rửa tay. Bố tôi rửa mặt xong, vào nhà. Ông đưa mắt liếc qua mâm cơm. Hôm nào thức nhắm đầy đủ ngon lành, chai rượu tăm đứng ngay ngắn ông ngồi lên phản. Khi ông đã ngồi lên phản, mọi người mới lần lượt ngồi sau, thứ tự từ trên xuống dưới: Ông anh cả, ông anh hai, bà chị dâu cả, bà chị dâu hai và sau cùng là tôi.

Tôi ngồi đầu nồi xới cơm, đối diện với bà chị dâu thứ hai. Tiện đây phải nói là bà chị dâu thứ hai của tôi là người thành phố, xinh đẹp dịu dàng. Tôi yêu chị ấy và đáng lẽ, đời tôi đã khác. Nhưng thôi, để tôi quay lại chuyện nhà. Hôm nào có cá rán, có lòng luộc hay thịt quay, bố tôi uống rượu một cách bình thản. Hôm nào mâm chỉ cố vài bìa đậu hay đĩa lạc rang, ông ấy quắc mắt lên: "Chúng mày cho ông ăn thế này hả?.."

Choang một tiếng, ông ấy ném cả mâm ra sân. Hai bà chị dâu rối rít van lạy, người chạy ra thu nhặt, người cuống cuồng sang hàng xóm vay dăm quả trứng gà về rán hoặc chạy ra đầu làng đón mua mớ cá. Làng tôi ở mép rừng, cách phố núi những bảy tám cây số. Năm ngày mới có một phiên chợ, chạy thức ăn là nỗi lo sợ nhọc nhằn đối với những người đàn bà. Tuy thế, không người đàn bà nào khổ sở như hai bà chị dâu tôi. Thường thường, chị em dâu rất ghen ghét nhau, so đo tị nạnh từng chi từng chút và luôn tìm cách khích bác gây hằn thù giữa các ông chồng. Nhưng hai người đàn bà trong gia đình tôi lại thương nhau lạ lùng. Có lẽ bản tính họ không đến nỗi nhỏ nhen. Có lẽ họ may mắn hợp tính hợp tình. Nhưng lý do chắc chắn nhất là họ phải hợp lực để chiều chuộng, cung phụng một ông bố chồng tai ác và cùng gánh vác những oan khổ do ông đem lại. Gia đình chúng tôi vào loại trung lưu trong làng. Anh cả tôi làm thợ rèn, tôi phụ rèn cho anh. Lò rèn mở ngay đầu làng. Ông anh hai tôi làm nghề xe bò kéo. Nhà nuôi một cặp bò đực khỏe. Bà chị dâu thứ hai người nhỏ nhắn, yếu ớt nên nội trợ là chính. Bà chị dâu cả vốn gốc dân quê nên có nhiệm vụ cắt cỏ cho cặp bò kéo và coi sóc đám vườn đám ruộng. Ruộng chỉ có dăm sào nhưng vườn tới ngót nghét hai mẫu. Chúng tôi trồng mít, trồng bưởi, quất hồng bì và cả chè giống Thái Nguyên. Hai người đàn bà quản lý toàn bộ mọi khoản thu nhập, bàn định chi tiêu. Ông anh cả tôi đã có một đứa con trai. Ông anh thứ hai chưa có con nên thằng bé được cả gia đình quý như vàng. Nó cũng là một đứa bé ngoan mặc dù được chiều chuộng. Ba tuổi, nó đã cầm chổi quét nhà quét sân. Bốn tuổi, nó theo mẹ tưới vườn, lượm quả quất hồng bì hoặc bưởi chín vào thúng...

Tóm lại, mỗi người mỗi việc, riêng bố tôi không làm gì. Buổi sáng, sau khi cơm rượu, ông ngồi khoanh tay uống chè, đùi rung tít, mắt nhìn ra vườn như ngẫm nghĩ điều gì đó. Chè xong, ông đủng đỉnh chắp tay sau lưng vào làng chơi. Trưa, mặt trời đứng bóng ông mới trở về, mâm cơm dọn sẵn trên phản, con cháu chờ ông ngồi mới được phép ngồi theo, dù có đói sủi bong bóng dạ dày cũng phải đợi. Cơm xong, ông lên phản ngủ trưa. Anh em chúng tôi ra lò rèn hồi lâu ông mới dậy, vớ cuốn Tam quốc diễn nghĩa tập ba đã rách cả đầu lẫn đuôi ra xem. Một lát bà chị dâu thứ hai mang phích nước sôi lẫn bộ ấm chén rửa sạch lên:

"Con mời bố uống chè" "Được, để đấy cho tao". Ông đáp rồi hất hàm ra hiệu cho cô con dâu xuống bếp. Ông pha tuần chè thứ hai trong ngày, uống hết tuần chè, ông lại gác cuốn "Tam quốc diễn nghĩa" lên bàn thờ, chắp tay sau lưng vào làng chơi. Đủng đỉnh tới lặn mặt trời, ông mới trở về. Lúc ấy, cô con dâu có nhiệm vụ phải dọn sẵn bữa cơm tối cho cả nhà. Ông anh cả cùng tôi đã đóng cửa lò rèn, lo tắm rửa dọn dẹp. Ông anh hai dong bò dong xe về, lo nhốt bò xếp sắp hàng hóa hoặc than củi vào bếp. Mọi việc tươm tất chúng tôi còn phải chờ ông bố. Nếu ông hài lòng, bữa cơm được phép bắt đầu. Nếu ông tự dưng nổi đóa lên vì món nhộng rang hay đĩa rau muống thì mâm cơm lại bay ra sân và hai người đàn bà lại cuống cuồng chạy trước ánh mắt cau có của các ông chồng.

Cuộc sống cứ diễn ra, ngày này qua ngày khác. Chúng tôi, coi nó là sự bình thường, là hiển nhiên, và ắt hẳn ở mọi nơi người ta đều chấp thuận nó như mùa hạ chấp thuận nắng cháy, mùa đông chấp thuận mưa dầm. Không vui sướng cũng chẳng khổ đau. Cả làng khen ba anh em tôi, là những đứa con hiếu thảo. Khen nhà chúng tôi là nhà gia thế. Hễ đứa trẻ nào dám mở miệng cãi lại cha mẹ, y như là họ rít lên: "Hãy mở mắt nhìn con ông Khánh kia kìa...Con người ta thế mới là con... Chúng mày là đồ con tội, con nợ..." Chúng tôi trở thành tấm gương đức hạnh cho trẻ con mọi nhà. Hồi đó từ ông anh cả, ông anh hai đến tôi đều tự hào lắm...Một sáng, như thường lệ bố tôi thức dậy khi hai cô con dâu đã chuẩn bị xong cơm rượu và sắp sẵn đồ pha trà. Ông ra hiên rửa mặt rồi trở vào nhà. Chị dâu thứ hai của tôi đứng cạnh mâm cơm, vẻ mặt băn khoăn khổ sở: "Thưa bố, chiều qua con sang đầm mua cá mà không mua được. Hợp tác xã đem ủng hộ bộ đội cao xạ pháo. Bố xơi tạm một bữa chay..." Ông bố đưa mắt liếc xuống mâm: Một quả trứng gà luộc trơ trọi trong đĩa với mấy hạt muối, dành cho ông. Một thau lớn đựng rau muống sào tỏi cho cả nhà. Tôi tưởng ông đã thuận lòng ngồi xuống. Ai dè, ông gằn giọng cười nhạt: "Tao đã chết đâu mà mày cúng trứng luộc thế kia?" Chị dâu tôi mặt tái mét đáp lời: "Thưa bố nhà không còn con gà nào đẻ. Chị Nhiên, bà Hạo, ông Sơn cũng thế. Con phải chạy lên xóm Đông vay mới được một quả". Bố tôi mặt vẫn tím bầm, đưa mắt liếc qua ba gian nhà gỗ thênh thang với tòa nhà ngang năm gian nhỏ bên ngoài "Tao chưa chết, chúng mày chưa được hưởng cái gia sản này nên phải cúng trứng trước, đúng không?.."

Nói đoạn ông cầm đĩa trứng ném thẳng ra sân. Chiếc đĩa vở tan, quả trứng lăn vào gốc cây lựu. Lúc ấy, tôi thấy những giọt nước mắt trào qua khóe mi người chị dâu, tràn xuống má. Chồng chị đứng ngoài sân, im lặng như thường lệ. Ông anh cả tôi thay quần áo trong buồng cũng im lặng theo thói quen của đứa con hiếu đễ. Chị dâu tôi không dám khóc to, nghiến chặt răng cho khỏi bật thành tiếng. Sợi gân xanh trên cổ phập phồng. Lúc ấy, chị có thai. Đứng ngay ở ngưỡng cửa, tôi hết nhìn người này tới người kia, chợt thấy sự im lặng của những người anh tôi quá vô lý. Tôi bật kêu: "Bố lạ thật, chị ấy có muốn thế đâu?.." Bố tôi quay phắt lại, trợn mắt nhìn tôi. cả hai ông anh tôi cũng vậy. Chị dâu tôi cũng ngước gương mặt đầm đìa lên... Trong gia đình này, chưa bao giờ có chuyện đó. Bố tôi im bặt một hồi vì sửng sốt, lật bật hỏi: "Mày dám cãi lại tao?" Lúc ấy, tôi như con trâu say máu chọi, không còn biết sợ hãi. Tôi đáp: "Tại vì bố mắng oan chị ấy...Còn hai ngày nữa mới đến chợ phiên, ai mà tìm được thịt cá bây giờ?.." Bố tôi đứng lặng đi một hồi, rồi ông ý thức được sự thật. Ông biến sắc, mặt tái như nhuộm chàm. Vớ cây đòn gánh dựng ở góc nhà, ông lao đến tôi với sức mạnh điên cuồng của một con mãnh hổ bị trúng tên: "Mày...mày dám cãi ông...ông giết.." Chiếc đòn gánh vụt trượt, sướt qua vai tôi. Nhưng chỉ thế, cũng khiến tôi đau tê dại. Và nỗi đau như lửa đốt hờn oán trong tim, tôi hét lên: "Bố ác lắm...bố là kẻ độc ác.." Tiếng hét của tôi khiến những người láng giềng chạy bổ ra sân, ra bờ rào xem. Đối với họ, chắc hẳn đây là việc trời long đất lở. Nhìn ánh mắt hoảng sợ của hai ông anh tôi, tôi đọc được ý nghĩ ấy. Tôi đã chạy vụt qua sân, trước khi bố tôi giáng cho tôi ngọn đòn gánh thứ hai. Ngày hôm đó tôi lang thang quanh làng, lòng không dạ đói. Khoảng quá tối, tức là độ tám rưỡi, chín giờ, chị dâu tôi đi tìm tôi. Vai đeo bị, chị cứ dò dẫm quanh lũy tre, cất tiếng gọi khe khẽ: "Chú Đính ơi, chú Đính..." Tiếng chị thì thầm như tiếng gọi hồn ma. Bóng dáng chị cũng ẻo lả vật vờ như thế. Tôi ngồi trong bụi, nghe chị gọi, nước mắt trào ướt má. Tôi chạy ra. Chị dâu tôi giật mình khẽ rú lên. Thấy rõ mặt tôi, chị nức nở: "Tội thân em..." Chị ôm lấy tôi, mặt chị đẫm nước mắt áp vào mặt tôi cũng đẫm nước mắt. Chúng tôi khóc hồi lâu, rồi chị lấy chiếc bị đeo trên vai xuống, bảo tôi ăn: "Cơm đây, lạc rang muối đấy chú ăn cho hết. Ngày mai ăn chiếc bánh chưng này, chị vừa mua ở xóm Đông. Tối mai, chú lại đợi chị ở gốc tre này nhé..." Đưa tay, chị vuốt nhẹ tóc tôi, xoa lên bên vai bị đòn rồi hạ giọng thầm thì: "Em vào miếu làng mà ngủ, ma quỷ chỉ trêu kẻ dữ, không ám hại trẻ con. Đừng ngủ bụi bờ, nhiễm sương cảm hàn thì khốn...Chị về đây" Chị áp má vào má tôi lần nữa. Rồi đeo bị lên vai quay về...Đêm ấy, tôi vào miếu ngủ.

Nhưng hôm sau tôi không đợi người chị dâu như đã hẹn mà vượt bảy cây số tới làng Hẻm, gặp dì. Bà dì tôi năm ấy ngoại năm mươi, sống gần chùa, mở quán bán hàng nước. Dì tôi góa chồng năm ba mươi mốt, ở vậy nuôi con. Nhưng con dì vừa tròn hai mươi đi tắm bị cảm đột ngột chết. Dì lập điện thờ tại nhà tụng kinh gõ mõ đã năm năm. Hồi mẹ tôi còn sống, dì hay đến thăm. Nhưng từ ngày mẹ tôi qua đời, dì không tới nữa. Người làng kể là mẹ tôi và dì rất thương nhau vì chỉ có hai chị em. Ông bà ngoại tôi không có con trai. Khi tôi tới nhà dì, dì đang đun nồi nước chè xanh. Quán làng mở đã lâu, bán vợi cả bánh chưng lẫn chuối chín. Thấy tôi, dì hốt hoảng: "Sao cháu thất thểu như ăn mày thế kia?.." Tôi đáp: "Dì ơi, cháu đói lắm, cho cháu ăn cái đã" Dì lấy nước nóng cho tôi rửa mặt, nấu bánh đa cho tôi ăn. Rồi, ngồi nghe tôi kể chuyện. Tôi hỏi "Dì bảo cháu làm thế có tội hay không?" Dì không đáp. Tôi lại hỏi: "Tại sao bố cháu có quyền đối xử với mọi người như vậy?" Dì chép miệng, đáp: "Cháu hỏi lạ, vì bố cháu là bố" Tôi hỏi tiếp: "Cứ là bố thì có thể làm mọi chuyện bất kể hiền dữ, xấu tốt hay sao?" Dì bối rối, có lẽ không tìm được câu trả lời. Dì quay sang chửi: "Tiên nhân nhà mày, toàn hỏi vớ hỏi vẩn. Vào chõng mà ngủ đi..." Đêm hôm đó và những ngày sau tôi ở nhà dì.

Một buổi trưa, tôi bổ năm gánh củi cho dì, xong tắm rồi đi ngủ. Giấc ngủ say. Tôi thức dậy lúc nắng đã xiên ngang cột nhà. Dì tôi đang trò chuyện với một ông lão ngoài quán. Ông lão khoảng bảy mươi tuổi, tóc trắng da mồi nhưng còn khỏe. Ông lão bảo: "Thằng cháu như vậy là hỗn. Bà phải bắt nó về xin lỗi ông Khánh. Bà chứa nó ở đây, ông ấy biết được là lôi thôi..." Biết họ nói chuyện mình nên tôi nhắm mắt vờ ngủ. Dì tôi đáp: "Về bây giờ ông ấy đánh nó chết. Không chết thì cũng thành quân tàn tật. Hồi trước, chị tôi chịu đòn bao nhiêu bận. Có lần ông Khánh đánh bà ấy sẩy thai, chỉ vì bà ấy đứng mặc cả với anh thợ nhuộm mà anh thợ nhuộm ấy lại rất đẹp trai, da trắng mắt sáng mày đen, cứ như người trong tranh vẽ...Cái máu ghen lạ ghen lùng..."

Dì tôi lại chép miệng. Rồi bà rót chè xanh trong ấm tích ủ rơm mời khách. Ông lão kia uống xong bát nước chè, cất giọng nói tiếp: "Hồi nhỏ tôi cũng học thầy khóa Tương cùng với ông Khánh. Ông ấy dốt nhất bọn nhưng lại có tính khoe mẽ" Dì tôi đáp: "Vâng, tôi có nghe chị tôi kể cái chuyện ông Khánh giảng chữ nho.." Dì cất tiếng cười khe khẽ. Ông khách cũng cười khà khà. Rồi ông nói "Đời lạ thật. Ngẫm xem ông Khánh chả được cái nết gì, vậy mà cả cung Thê lẫn cung Tử đều khá. Hồi trước, suốt ngày ngồi chơi cờ, đánh mạt chược, ruộng vườn hàng xay hàng xáo một mình vợ lo. Vốn liếng có ba sào đất mà bà ấy dựng cơ nghiệp, nhà ngang nhà dọc mấy tòa, lại vườn trên vườn dưới. Giờ, bà vợ chết thì lại có hai đứa con phụng dưỡng. Anh nào cũng lớn ngộc, vợ con đàng hoàng mà sợ bố như trẻ con sợ ông Ba Bị, bố quát một tiếng là run như giẽ, không dám ho he... Thằng cháu Đính cũng có tiếng ngoan xưa nay, giờ mới bỗng dưng sinh giở chứng...Có lẽ lại trong đám mộ tổ tiên dòng họ ấy, có mộ ông cụ, ông kị nào bị rễ cây đâm ngang chăng?..Bà nên khuyên ông ấy tìm thầy địa lý.." Câu chuyện chuyển sang hướng khác ông khách lạ và dì tôi thì nhau kể lại những tai ương họ đã từng chứng kiến, sự hưng thịnh và suy vong của các dòng họ trong vùng chỉ do đặt mộ đúng hướng hay sai hướng. Các đám tang gặp trùng chỉ trong vòng vài tuần trăng gần hết dòng họ bị đột tử, chuyện ma cà rồng nhập vào con mèo đen ăn xác chết.

Tôi quay mặt vào tường, lắng nghe hai người trò chuyện. Tới nhạt mặt trời ông khách lạ mới ra về. Dì tôi dọn hàng đóng cửa quán. Rồi bà gọi tôi dậy nấu cơm. Cơm nước xong, tôi chờ dì tụng kinh gõ mõ và thắp hương lên bàn thờ đứa con trai chết trẻ. Đoạn, tôi nói: "Dì ơi, con muốn thưa với dì câu chuyện" Chừng như thấy thái dộ của tôi trịnh trọng khác hẳn mọi ngày nên dì kéo cơi trầu, têm trầu nhai rồi mới vẫy tôi tới gần: "Chuyện gì, con cứ nói cho hết lẽ". Tôi hỏi: "Hồi chú còn sống, chú có đánh dì không?" Dì tôi cười: "Chú mày hiền như cục đất khô ấy mà..." "Thế chú làm việc gì trong nhà?" - "Mày hỏi lạ, việc nông trang cày cấy, gặt hái. Khi rỗi rảnh thì làm vườn, đốn củi. Lúc nào ngơi tay" - "Dì yêu chú không?" - "Cha tiên nhân mày, chỉ hỏi vớ vẩn, vợ chồng là nghĩa tào khang, xuống khe bắt ốc lên ngàn hái dâu" - "Nếu chú ấy là một người đàn ông khác, suốt ngày đánh đập vợ con, suốt ngày chắp tay sau lưng rong chơi như ông tướng dì có yêu thương nữa không?"..Tới đó dì hừm một tiếng rất vô nghĩa, rồi ngước mắt nhìn tôi dò xét. Tôi im lặng chờ đợi. Dì nhai trầu hồi lâu, rồi nói: "Dì cũng chẳng biết, nằm ổ rơm thì ấm, lội chân xuống ruộng chiêm tháng chạp mới buốt thịt da...dì chưa nghĩ tới cảnh vợ chồng ấy bao giờ...Nhưng giá như chú ấy là người tệ bạc, chắc mọi sự cũng khó khăn." Tôi nắm lấy câu trả lời của dì như nắm lấy chuôi con dao, tôi hỏi tiếp: "Thế tại sao trong họ ngoài làng lại khen ngợi mẹ cháu hồi trước, khen ngợi anh em cháu bây giờ, chỉ vì mẹ con cháu đã phục tùng một người đàn ông vô công rồi nghề như bố cháu?.." Ngay tức khắc, dì bật tiếng quát: "Hỗn, không được hỗn..." Nhưng sau đó khoảnh khắc dì cúi nhìn cái cơi trầu, giọng trầm xuống: "Thực ra, hồi mẹ mày còn sống, đã có lần cắt tóc bỏ lên chùa tu. Nhưng bố mày kéo về. Ông ấy chửi cả sư cụ lẫn sư thầy, không cho ai chứa chấp bà ấy. Rồi họ hàng làng nước xúm vào khuyên, người đàn bà dở dang chẳng đẹp đẽ gì... Mẹ mày cúi đầu, cắp nón theo chồng trở lại. Từ đấy cam chịu tất cả. Không dám liếc mắt nhìn ra..." Tôi không hỏi dì thêm nữa. Đêm ấy tôi vạch sẵn một kế hoạch hành động. Tôi lên rừng đốt than, đẵn gỗ.

Hơn một tháng trời, tôi dành dụm được một món tiền còm. Tôi xin dì tôi một ít. Rồi tôi chờ tới ngày giỗ ông. Nói để các anh biết rằng trong một năm, ngày lễ tốn kém ngang với Tết Nguyên Đán là ngày giỗ ông nội tôi. Ngày đó, ít ra cũng mười lăm, mười bảy mâm cỗ đầy vật mặt. Bánh trái, xôi chè, trà thuốc, không thiếu thứ gì. Anh em tôi chỉ biết ngày đó là ngày trọng đại nhất trong năm. Thứ mới tới giỗ bà nội. Còn ông ngoại, bà ngoại của chúng tôi không được cúng. Bố tôi vẫn bảo: "Mẹ mày đã đi lấy chồng, dòng họ Lê giả về cho ông chú ông bác bên ấy. Phải lo lễ nghĩa dòng họ Đậu cho phải phép". Chúng tôi lớn lên, tuân theo lề luật ấy, như những thằng lính tuân theo quy chế của nhà binh. Tới ngày giỗ, tôi thức dậy sớm. Dì tôi đang ngồi thổi cơm dưới bếp, tôi nói với bà: "Con đi đây. Dì ở lại cho mạnh khỏe". Dì tôi ngơ ngác: "Ở đây với dì, đi đâu nữa?". Tôi nói: "Con về qua nhà, rồi mới đi". Dì tôi giẫy nảy: "Chết, bố mày đánh chết mất. Vừa rồi đi chợ phiên, dì gặp chị dâu mày, nó khóc lóc sụt sùi, bảo mấy lần trốn đi tìm cháu đều bị bố chồng và chồng chửi mắng". Tôi hỏi dì: "Chị ấy có khỏe không dì?" Dì tôi lắc dầu: "Bụng chửa vượt mặt rồi, mà da xanh như da nhái". Tôi đứng lên: "Con phải đi cho kịp dì ạ...Bao giờ con trở thành người, con sẽ về...Nếu không, kể như dì không có con nữa”. Dì tôi nắm vạt áo tôi khóc: "Em mày chết trẻ, dì còn ai nữa đâu?...ở đây cơm muối cơm mắm cũng có nhau. Bước chân đi, đường xa dặm mỏi..." Tôi mủi lòng, nhưng chí đã quyết, tôi gỡ tay dì ra: "Con không sống ở vùng quê được, xin dì cho con đi.." Dì tôi ém đám lửa, lên nhà lật nắp chiếc rương gỗ đếm cho tôi một nắm tiền. Những đồng tiền bà đã dành dụm từ năm trước. Tôi chào dì lần nữa, rồi đi cho kịp.

Từ nhà dì về nhà tôi bảy cây số, nhưng đường eo óc, lúc leo đồi, lúc lội qua ngòi nên hơn hai giờ sau tôi mới tới cổng làng. Tôi ngồi ở quán nước cho ráo mồ hôi, uống một bát nước vối ủ và ăn hai tấm bánh chưng. Bà hàng nước biết chuyện, bảo: "Hôm nay họ Đậu tới nhà chú ăn giỗ. Sớm tinh mơ đã nghe chày giã giò giã chả rồi. Chắc ngày có việc, ông Khánh sẽ tha tội cho chú thôi". Tôi đáp: "Tha hay không thì cũng thế." Đoạn tôi trả tiền bánh tiền nước rồi về nhà. Từ ngoài cổng đến trong sân người nườm nượp. Người thấy tôi, bật tiếng kêu như gặp ma. Người vỗ vai tôi, gật gù: "Thằng này giỏi, chọn đúng ngày về mà tạ tội". Tim tôi đập thình thình, nhưng tôi không đáp lời họ, tôi đi thẳng vào sân. Lúc ấy, người ta chỉ còn chờ phút so đũa, rót rượu. Mâm trên, mâm dưới đã sắp đặt sẵn sàng. Hai bà chị dâu tôi chắc ở trong bếp, còn năm sáu người đàn bà trong họ đang tất tưởi đi lại, đếm các đĩa các bát trên mâm cỗ, xem còn thiếu đĩa xôi hay bát miến, thiếu món măng hầm hay món gà luộc để bưng lên. Ở nhà quê, sắp có mâm nào thiếu là người ta để bụng thù mãi, vì nghĩ sự sơ ý đó là do sơ tình. Tôi đưa mắt tìm bố tôi, ông đã ăn mặc tươm tất, đứng giữa đám người cao tuổi, cao bậc nhất dòng họ. Muốn tới chỗ ông, phải qua năm mâm bầy ngoài sân, năm mâm bày dọc hàng hiên. Trong đám người bậc sang nhất họ ấy, ai đó đã thấy tôi. Ông giơ tay chỉ cho bố tôi biết. Bố tôi quay phắt lại, và chừng như rình rập một cơ hội đã lâu, để chứng tỏ quyền uy, ông trỏ vào mặt tôi, quát: "Thằng lộn đầu quay cổ kia ai cho phép mày bước chân vào đây? Gia thế nhà tao trong họ ngoài làng đã rõ, không dung thứ cho thứ con mất dậy như mày." Tôi đứng im. Một ông già lớn tiếng kêu: "Hôm nay ngày giỗ ông, cháu nó biết lỗi quay về, xin ông anh rộng lòng tha thứ, cổ nhân đã có câu: "Đánh kẻ chạy đi, không ai đánh người chạy lại." Đoạn ông bảo tôi: "Đính, vào xin lỗi cha cháu đi" Bố tôi, tới đó cao giọng nói: "Nể tình anh em, chú bác trong họ, tao sẽ giơ cao roi cho mày bước vào. Nhưng mày phải cúi đầu xin lỗi các bậc cao niên trong họ. Mày phải vái ba vái trước bàn thờ, xin hứa với vong linh tiên tổ dòng họ Đậu từ rày trở đi cải hối, tu sửa cho thành người..." Tôi đứng trân trân nhìn ông, vừa uất nghẹn vừa hoang mang. Tại sao ông tự tin đến thế, đường bệ đến thế? Người đàn ông không tạo dựng được cư nghiệp. Gã thầy đồ dốt nát và hợm mình. Người chồng thô lậu, lười biếng. Người cha thiếu trách nhiệm, tàn bạo...giá trị gì đắp điếm thành một ông chủ đầy quyền uy?...Phải chăng, giá trị ấy là tấm hình lộn ngược cùa dám nô lệ mù lòa là ba anh em tôi bây giờ và mẹ tôi ngày xưa?...Tôi nhìn bàn thờ nghi ngút khói hương, bày từng từng lớp lớp những mâm bát, bình hoa giấy, những chai rượu màu, những đĩa ngũ quả... Bàn thờ dòng họ Đậu, đám giỗ ông nội tôi, tất cả những nghi lễ và tốn kém này được đánh đổi bằng mồ hôi, nước mắt của mẹ tôi và anh em tôi. Dưới mái nhà do người đàn bà họ Lê tạo dựng, trên bàn thờ do người đàn bà họ Lê mua sắm không bao giờ có một nén nhang thắp cho tổ tiên họ Lê. Ông bà ngoại tôi không có con trai, việc cúng giỗ dành cho người cậu con ông em thúc bá. Sau này, dì tôi đổi lệ, tự lo lễ thờ phụng bố mẹ mình. Có một cái gì đó thật độc ác, thật phi lý trong những Luật lệ lưu hành từ đời này qua đời khác mà chúng tôi đã cúi đầu tuân thủ như đàn bò ngoan ngoãn tuân thủ ngọn roi của gã mục đồng...Những ý nghĩ ấy dồn dập xô đến, làm quay đảo, Làm nhức nhối cái đầu nhỏ bé của tôi. Thấy tôi đứng im, bố tôi quát lần nữa: "Thằng kia, mở mồm ra, sao mày câm như hến thế hả?.." Sợi dây mỏng manh ở trong tôi bị dứt đứt. Cảm giác hoang mang tan biến, tôi chỉ thấy cơn uất nghẹn trào từng đợt như nước lũ giữa lồng ngực. Tôi nhìn thẳng vào bố lôi, đáp: "Làm gì mà bố hét to như thế?...Chẳng khác gì ông tướng giữa ba quân. Giá một người đàn ông khác mà phách lối như thế còn có lý. Nhưng bố thì chớ nên..."

Cả dám giỗ im phăng phắc. Cái việc một thằng bé mười lăm dám ăn nói như tôi quả là việc động trời. Bố tôi há miệng như miệng cá nấu riêu, không nói được một câu. Hai ông anh tôi - bấy giờ thấy họ, đang bưng khay chén vào gian nhà thờ. Cả hai cùng sững sờ như bị sét đánh. Không khí lặng lẽ đến nỗi nghe rõ tiếng vo ve của lũ ruồi. Tôi đưa mắt nhìn mọi người, và một nỗi thích thú không tả xiết kích thích tôi như rượu. Tôi vừa từ dám người ngu muội và nhẫn nhịn kia thoát ra, tôi sẽ nói vào mặt bọn họ những ý nghĩ đã nung nấu tôi suốt những ngày qua. Tôi sẽ quất vào tim họ những ngọn roi đau buốt như chính sự thật đã quất vào tim tôi đau buốt. Tôi sẽ chỉ ra sự lầm lạc, mê lú. Tôi sẽ phanh phui sự thực bị chôn vùi dưới bùn đất cùa tòng phục và ngu xuẩn. Họ, là quá khứ của chính tôi, giờ đang hiển hiện lên dưới những gương mặt đờ dẫn kinh hoàng, những cái miệng há hốc, những con mắt trợn trạo, những cái cổ đỏ ửng trên cổ áo sơ mi cáu ghét hoặc áo cánh nâu. Tôi nói từng tiếng, dõng dạc, lưu loát không ngờ: "Ngày trước, một tay mẹ con đã dựng nên cơ nghiệp này, từ ba sào ruộng hồi môn, từ gánh hàng xay hàng xáo. Ruộng nông, ruộng sâu, vườn trên, vườn dưới, nhà thờ nhà ngang đều là người đàn bà họ Lê tu tạo. Vậy, lẽ ra bàn thờ kia phải thờ phụng họ Lê. Lẽ ra, mẹ con mới là người được ngẩng mặt, cao đầu với xóm làng chứ không phải bố. Ngày trai trẻ, bố nuôi móng tay dài đi xoa mạt chược tối ngày, về già, bố chắp tay sau lưng rong ruổi khắp xóm trên thôn dưới bàn chuyện thế sự chán rồi chơi cờ, từ rạng đông tới lặn mặt trời. Mọi người có nhiệm vụ cung phụng cho bố. Bố có quyền yêu sách họ. Ai ai cũng coi đó như luật đời. Chưa một ai thử hỏi xem luật lệ đó từ đâu mà ra, có lý hay không có lý.."

Tôi dừng lại. Và tôi thấy đám người ngồi từ trong gian thờ, qua hàng hiên, xuống sân gần như hóa đá. Họ nhìn chằm chằm vào miệng tôi, và trên những gương mặt ngây thộn của họ, có cả sự tò mò thèm khát lẫn nỗi lo âu. Tôi nghĩ: "Nói nốt một câu rồi mình sẽ cút". Đấy sẽ là khoảnh khắc cuối cùng ở làng quê. Tôi tiếp: "Nếu bây giờ có người hỏi: "Đời ông, ông đã làm được việc gì?.." Bố sẽ trả lời họ ra sao?... Bố học chữ nho, ba năm trời không thuộc nổi một bài phú. Bố chưa trồng được một cây lúa xuống đồng. Mẹ đẻ anh cả, bố ngồi ngoài đình chuyện gẫu vì sợ về nhà có mùi đàn bà ô uế...Vậy mà bố nghiễm nhiên coi mình là ông chủ ở đây. Vì mọi người quá ngu dốt nên họ chấp thuận điều đó. Còn tường vách này, cột kèo kia mà có mắt có môi, nó sẽ lên tiếng rằng: Ông là kẻ vô giá trị, ông là kẻ ăn chạc, kẻ sống thừa". Mặt bố tôi tím như tụ huyết. Những người ngồi trong đám thầm đưa mắt nhìn nhau. Bầu không khí đã tích điện. Tôi nói tiếp: "Con về đây không phải để xin bố tha thứ. Con về đây để nói rõ cho bố tự hiểu bố là ai. Đã tự biết mình thì bố sẽ bớt hạch sách, bớt đàn áp mọi người, nhất là những người đàn bà làm dâu trong nhà này."

Nói xong, tôi không chào ai, chạy vụt ra cổng. Một lúc, mới nghe liếng hét: "Bắt nó lại...tao bắt nó lại sẽ cho nó ra tế sống trước cổng làng...bắt nó.." Tôi cắm cổ chạy như tên bắn, thu hết sức bình sinh để vượt khỏi cơn nguy hiểm. Tiếng chân đuổi thình thịch phía sau. Tối hôm đó, tôi bám theo một chiếc xe tải chờ gỗ của bộ đội về phố huyện. Ăn cơm quán, ngủ nhờ một bà hàng bán nước chè. Ngày thứ ba, một người đàn bà gầy gò, chửa vượt mặt tới tìm tôi. Trời nhá nhem, lát sau, tôi mới nhận được đó là người chị dâu tôi yêu quý. Chị khóc, và kể: "Chú đi rồi, bố trói tôi đánh một trận. Đổ tội là chú yêu tôi, xót tôi bị chửi nên mới đổ đốn ra như thế. Con trai bị bùa yêu nên mất hết phần hồn. Anh ấy cũng chửi hùn với bố, không dám bênh...Anh cả nhờ người tìm, bắt được chú sẽ trói đem về làng, nọc chú ra đánh trước cả họ...Thôi, có lẽ số chú phải ly hương, không còn cách nào gỡ..." Tôi đáp: "Ly hương thì ly hương. Thiết đếch gì cái xó ấy?...Chỉ.." Tôi định nói:" Chỉ thương chị ở nhà bị đầy dọa" nhưng tôi không dám mở miệng. Lúc ấy tôi vẫn là thằng bé nhà quê. Hai cổ tay, hai cánh tay, cả hai vai chị tôi chi chít lằn roi. Bụng chị căng ra giữa hai vạt áo mỏng. Món tóc xòa xuống cái cổ gày, trắng như bột gạo. Tôi cầm tay chị khẽ nói: "Thôi chị về đi không ông ấy lại nghi". Chị bảo: "Tôi phải nhờ người em họ đi cùng, nói là xuống huyện khám thai. Hôm bố đánh tôi bị ra huyết mãi". Tôi mới là niên thiếu, không hiểu chị nói điều gì. Nhưng lòng đau xé. Tôi biết không bao giờ chúng tôi còn gặp mặt nhau. Chị dâu tôi dúi vào túi tôi một gói tiền, rồi ôm mặt khóc: "Chú đi đi..." Tôi ôm chị, tự dưng cắn vào vai chị để khỏi bật lên tiếng nức nở. Rồi tôi bỏ chạy...Từ bấy đến nay tôi không trở về làng. Thỉnh thoảng gặp người quen, biết tin tức gia đình. Ông bố và hai anh tôi căm ghét tôi. Ông bố ghét tôi còn có lý...Nhưng hai người anh trai tại sao họ cũng thâm thù lôi đến thế?..Sau này, lăn lộn nhiều tôi mới hiểu, khi con người đã quen sống kiếp mù lòa, ai vạch ra sự ngu dốt tối tăm trong kiếp sống của họ sẽ bị họ coi là quỷ dữ, vì điều đó chứng tỏ cái hèn kém của bản thân họ, và đặt ra những lời thách đố nguy hiểm. Mà chắc chắn họ không đủ khả năng vượt qua...

Đính ngừng lời. Đám thủy thủ cũng im lặng. Chỉ còn tiếng động cơ nổ và tiếng gió thổi phần phật trên lá cờ hiệu cuối tàu.

Bá định châm điếu thuốc, chợt thấy Cường nhắm nghiền mắt, ngả đầu vào chiếc thùng gỗ sau lưng. Mặt chàng trai xanh mét như trúng gió. Bá vỗ vai Cường:

- Làm sao thế?

Chàng trai mở mắt nhìn anh:

- Không sao cả... có lẽ em bị lạnh..

Giọng nói của Cường hổn hển như hụt hơi. Anh đứng lên:

- Em phải về phòng.

Nói đoạn, Cường đi luôn. Bá rút điếu thuốc khác, vào phòng lớn. Còn Cường trở về buồng, nằm vật ra giường. Đầu óc choáng váng như vừa bị ai giáng cho một búa. Chàng trai nhìn trân trân lớp ván lót trần với đôi mắt bất động như mắt kẻ thong manh. Óc não anh vang lên giọng nói lạnh lùng và rành rẽ của Đính. Gã thủy thủ độc ác ấy, đã trở thành phù thủy phù phép tâm hồn anh. Câu chuyện của gã như một cú tầm sét đánh tróc cái thân cây trường thụ trong trái tim hiền lành, nhu nhược:

- Người ta nói rằng chân lý thường được đặt trên lưỡi của những thằng hề và của loài quỷ dữ?...Đúng thế chăng?.. Một sự thực khủng khiếp? Liệu con người có thể chạy trốn được những tai họa như thế? Và quên lãng có giúp họ xóa đi những sự thực độc địa trong cõi đời?..

❆❆❆

Trọng nằm dài trên giường, hút thuốc. Bích đang nấu cơm, cô mới khóc nên hai mí mắt sưng húp, gương mặt càng phũ và xấu. Từ buổi đi chơi Thác Đen về, Trọng thường sang văn phòng huyện ủy trò chuyện với cô đánh máy xinh đẹp. Tên cô là Kim Lan. Có tối, cô rủ anh đi xem ca nhạc. Hai người điềm nhiên sóng đôi bước vào câu lạc bộ của huyện đoàn. Ngay sáng hôm sau, dư luận đã lan truyền khắp phố như làn sóng: Hai người ấy đã bắt bồ với nhau...Thêm nữa, đám các cô gái thì thào: "Con Lan đá đít hai thằng bồ trẻ đi theo ông Trọng. Ông ấy sắm cho nó bộ bò hoa mới tinh đấy, cả chiếc bờ-lu-dông bằng si giấy hồng khuy đồng nữa.." - "Bà Thanh Hường phen này đến mất chồng thôi, sao bà ấy không dọn quách về đây mà ở. Báu giá gì thành phố?... Bà ấy mà đọ gươm với con Lan thì thua đứt đuôi..." vân vân và vân vân...Lan nghe mọi lời đàm tiếu, cười sằng sặc. Với cô, thứ đó chỉ là trò mua vui. Trọng cũng lắng nghe mọi tiếng xì xào, với vẻ điềm nhiên lạnh lẽo. Cơ quan anh không ai dám chọc ghẹo, khích bác. Bà trưởng cửa hàng thỉnh thoảng liếc mắt nhìn trộm. Còn anh, anh im lặng theo dõi họ. Anh đoán chừng, nhiều lắm cũng chỉ vài ba tuần Bích sẽ biết chuyện.

Quả nhiên, mười lăm hôm, sau ngày anh đi xem ca nhạc với Kim Lan, Bích phóng xe máy từ thành phố về nhà lúc đang trưa, cả mặt lẫn hai mắt đỏ ngầu. Lúc ấy, Trọng đang nghỉ, anh nằm trên ghế tựa chiếc áo khoác trùm ngang ngực. Người đàn bà xấn xổ bước tới, lột chiếc áo khoác ném xuống sàn:

- Anh lừa dối tôi...anh lừa..

Cô gào lên, bằng cái giọng khàn như mèo đực gào cái đêm đêm, anh chưa từng nghe thấy bao giờ. Ngồi xuống chiếc ghế đối diện với Trọng, cô chiếu đôi mắt rực lửa thù vào mắt anh:

- Tôi đã biết mọi chuyện...Đừng hòng che dấu...

Trọng ngồi thẳng lên, nhặt chiếc áo cô vừa ném xuống sàn. Anh không thấy bực, anh chỉ thấy buồn cười và ý muốn trêu cợt nảy sinh. Anh hỏi Bích giọng bình thản:

- Em bình tĩnh. Có chuyện gì thế nhỉ?...

Người đàn bà rít lên:

- Đừng vờ...

Trọng bảo:

- Cứ thong thả nói chuyện xem sao?

Bích đáp:

- Không thong thả được... Anh làm tôi điên lên rồi đây.

Trọng mỉm cười:

- Nếu em điên lên được thì đó là điều đáng mừng... Anh chỉ sợ rằng em vờ điên.

- Tại sao?

- Để màn kịch thêm hấp dẫn.

- Màn kịch nào?

- Màn kịch đang diễn giữa em và anh.

- Anh đừng nói nhảm.

- Đàn bà là thế. Cái gì nghiêm chỉnh họ cho là trò nhảm. Còn những thứ nhảm nhí nhất họ lại coi là chuyện nghiêm chỉnh.

- Anh có cái giọng bất mãn như thế từ bao giờ?.. Xưa nay, anh chẳng nói giọng điệu ấy.

- Anh mới có gần đây thôi. Từ ngày anh biết rõ về em.

- Em sống với anh. Có gì mà anh không biết?...

Trọng ngừng lời, anh nhìn đôi mắt cô, chúng không còn mơ màng như buổi đầu anh gặp. Chúng bắn ra những tia sáng hung dữ, và đục ngầu như dòng sông mùa mưa. Cô đưa lưỡi liếm môi, cặp môi dầy và mọng bóng như được xoa mỡ. Những nốt trứng cá điểm lấm tấm trên hai má, vòng tóc xoăn buông cạnh trái tai...Phút chốc, gương mặt người đàn bà trở nên nhức nhối. Anh thấy khô họng, anh rót cốc nước uống rồi mới lên tiếng:

- Trước kia, anh đã tưởng mọi chuyện êm đềm. Chúng ta sống bên nhau, chờ đợi một điều kiện để hợp pháp hóa gia đình, vượt qua cái trở lực cuối cùng đạt tới hạnh phúc. Tất cả giản đơn, tất cả không có gì để ngờ vực...Rồi, đột nhiên, anh được biết mình là một gã đàn ông khốn khổ, một thương phế binh của chiến tranh, mắc chứng bệnh tâm thần. Anh yêu em với một tình yêu đơn phương và bệnh hoạn, nếu không được em chấp thuận anh sẽ phải treo cổ hoặc nhảy xuống sông chọn tìm một cái chết nhục nhã để giải thoát sự sống quẫn bách: một tên nhân tình hèn mạt, một gã đàn ông không xứng đáng được mặc quần...tóm lại cái chân dung tồi tệ ấy đã làm anh sực tỉnh...Anh tự trách mình hiểu mình quá muộn. Anh tự trách mình vì em phải chịu quá nhiều hy sinh để cứu vớt sinh mạng anh...

Trọng dừng lại. Một ý tưởng chợt đến: "Thế là vở kịch đã hạ màn. Quá ngắn ngủi. Mình là một thằng đàn ông kém bản lĩnh. Mình không biết cách mặc tấm áo giấy cho hết đêm...Hỏng...thế là mọi sự hỏng bét... Cứu làm sao bây giờ?.." Anh thầm mắng anh dữ dội.

Trong khoảng thời gian đó, mặt người đàn bà dần dần ngả sang màu xám. Những suy đoán, những toan tính chạy qua cặp mắt hẹp, còn mọng lên vì nước mắt. Khi Trọng lặng im cô bỗng khóc nức lên:

- Trời đất, sao anh lại tin vào những lời lẽ ấy...Chẳng qua vì Nghĩa là một người yếu đuối lại ưa sĩ diện, em không muốn anh ấy phá hỏng mọi chuyện của chúng mình nên mới nói vậy...Đã sống với nhau, đầu ấp má kề mà anh còn chấp nê? Lời nói chỉ là lời nói, người ta sống với nhau bằng tình thực chứ có bằng nước bọt đâu.

Trọng nhìn Bích, nước mắt cô tuôn như mưa, chảy trên chóp mũi đỏ huẩy. Chóp mũi cô rất to, người ta bảo ai có chóp mũi ấy sẽ giàu. Bích giàu thật, dạo này cô sắm vàng luôn luôn. Vài tuần lại thấy đeo một chiếc nhẫn mới. Người đàn bà này đủ khôn ngoan để nhặt nhạnh cho mình cả thế gian...Lý lẽ của cô cũng hợp lý đấy chứ?...thật dễ lọt tai...

Được rồi, tấm màn đã lại kéo lên, và vở diễn sẽ tiếp tục...

Bích đặt bàn tay lên bàn tay Trọng:

- Anh nghe em không?...Lời nói gió bay...từ xưa người ta đã dạy.

Trọng cười:

- Thôi, em hãy rửa mặt rồi đi nghỉ. Sắp tới giờ làm...

Anh chải đầu, thay áo đi làm buổi chiều. Cô ngủ vùi.

Khi anh tan tầm trở về nhà, cô mới tung chăn ngồi dậy. Hai mí mắt vẫn sưng húp. Trọng bỏ áo ngoài nằm hút thuốc trong khi Bích làm cơm. Người đàn bà đang rán một con gà trên chảo. Mỡ sôi sèo sèo. Vừa trông chảo gà Bích vừa cuốn nem. Mỗi lần họ va chạm mất mát về phương diện tình cảm, Bích lại chăm sóc anh hơn về mặt bếp núc. Người đàn ông thở làn khói lên, ngắm chúng tan lãng đãng trong không gian và khẽ nhếch môi cười: "Một mối tình được gia cố bằng thực phẩm, tuyệt làm sao?..." Trong ký ức anh hiện rõ một vành trăng trong suốt... Đêm cuối hạ đầu thu, đơn vị anh đóng trong một cánh rừng miền Trung cách biển mười lăm cây số đường chim bay. Quân, chàng lính trẻ cùng tiểu đội mà Trọng vẫn coi như em trai thì thào gọi anh ngoài cửa hầm: "Anh Trọng đi với em" - "Đi đâu?" - "Đi với em, em sẽ nói cho anh rõ". Trọng vớ khẩu súng, nhoài khỏi hầm: "Độ năm giờ đồng hồ, được không anh?...Đơn vị đang tập huấn mà" - "Nhưng cũng phải xin phép. Đi liều, bỗng dưng có báo động hoặc trên xuống kiểm tra đột xuất thì toi" - "Không đâu, em đã hỏi dò anh Hùng, mười hôm nữa cũng chưa có lệnh di động" - "Nhưng cậu định đi đâu?..." - "Xuống biển - cái xã bữa trước mình nhận thực phẩm, anh nhớ không?.." Trọng sực nhớ cái làng ven biển, lô nhô những nóc nhà hầm trên cát trắng. Không có cây cối gì ngoài những đám cỏ mặt trời và gai trinh nữ. Và những nấm mộ người bị bom B52 chôn rải rác giữa những đám sỏi, những đám vỏ hầu vỏ hến.

Đơn vị anh nhận mắm tôm, ruốc cá và cá phèn khô ở cửa hàng xã, cũng là một căn nhà ngầm với những dẫy kho lợp tôn có ngụy trang ở phía sau. Những cô gái miền Trung mập mạp, da đỏ au dù ăn uống thiếu thốn, trông coi cửa hàng. Họ đã vét hết thực phẩm dự trữ cho bộ đội.

Hôm ấy, Trọng hỏi đùa: "Bộ đội lấy hết, dân ăn cơm với muối à?" Các cô cười, trỏ tay ra làn nước xanh nhấp nhô ngoài khơi: Thức ăn ở ngoài nớ". Các cô đãi anh món khoai khô hầm đậu đen. Anh đã ăn ngon lành hơn các thứ cao lương mĩ vị của vua chúa được tả trong các tiểu thuyết dã sử. Anh tặng cô trưởng cửa hàng một chiếc lược làm bằng mảnh đuya-ra. Cô tặng lại anh hai cây kim và một cuộn chỉ. Rồi cô nói: "Lần sau về, có dù pháo sáng cho em một mảnh nhé". Trọng đáp: "Vâng, nếu không chết thì thể nào tôi cũng kiếm được cho cô một mảnh dù". Với các cô gái thời ấy, tấm khăn dù quàng cổ là thứ quà ao ước...Trọng nhìn đôi mắt hau háu của Quân, hỏi: "Xuống tìm ai?" - Tụi em thương nhau...Anh có nhớ Phức không?" - "Phức nào, có trời mà nhớ được". - "Cái cô thâm thấp quàng tấm khăn dù trắng ấy...đội viên đội văn nghệ xã" - "A, vậy thì cậu giỏi...Có lẽ cả tỉnh này chỉ có cô ta là xinh nhất". Trọng nói, anh nai nịt gọn gàng rồi cùng Quân đi.

Họ ra cửa rừng lúc trăng vừa nhú. Phải men theo đường mòn tới binh trạm. Từ binh trạm, vượt qua con suối cạn tới trục đường chính. Cứ bám theo đường chính mà đi cho tới ngã ba Sao Kim, một thung lũng có hai đại đội nữ thanh niên xung phong trấn ngự. Qua ngã ba Sao Kim, còn sáu cây số nữa mới tới biển. Đồng hồ đeo tay của Trọng chỉ chín giờ ba mươi bảy phút họ mới đến nơi. Những mái hầm lô nhô dưới trăng. Biển cách họ chừng ba mươi buớc chân, trắng bạc. Bên trái, những vạt dương còn sót lại sau các trận na-pan rì rào. Bên phải, vài chiếc thuyền hỏng nằm nghiêng nghiêng theo cồn cát. Trọng hỏi: "Cô ta ở đâu". Quân đáp: "Tụi em đã hẹn nhau, cô ấy ra bây giờ" - "Thế các cậu đã gặp nhau nhiều lần rồi à?" - "Vâng khá nhiều" - "Cậu lẻn đi, không cho ai biết?" "Vâng...Nhưng hôm nay em thấy không yên tâm. Em muốn anh cùng đi với em". - "Liều thật" - "Vâng. Nhưng biết làm sao hả anh...Chúng em yêu nhau...Và cô ấy.." Chàng lính chấm dứt câu nói bằng tiếng thở dài. Từ phía rừng dương, có một chấm đen xuất hiện. Chấm đen đó tiến về phía họ đứng, mỗi lúc mỗi lớn dần. Trọng bảo: "Cô Phức, đến phải không" - "Vâng, cô ấy đã đến" - "Tôi ra chỗ đám thuyền hỏng kia chờ cậu nhé?" - "Vâng, anh chịu khó chờ em" - "Lúc nào về?" - "Tùy anh, anh gọi thì em về..." Trọng đi tới đám thuyền hỏng, vừa đi vừa hình dung lại gương mặt cân đối, linh động của cô gái xứ biển. Một gương mặt ngời sáng, thanh sạch với cặp mắt không vẩn bụi cát, trong như nước mưa. Chàng lính trẻ của anh mê say cô cũng là phải lẽ.

Anh ngồi xuống cát, dưới bóng con thuyền. Trên bãi biển, cặp tình nhân đã gặp nhau. Họ dắt nhau đi tới gần mép sóng, xa nơi anh ngồi. Ở đó, có những đụn cát nhỏ mọc đầy rau muống biển. Bóng hai người hòa nhập lại dưới ánh trăng. Dưới chân họ, xa một chút, những con sóng ồn ào không ngưng nghỉ. Biển tan với trời đêm, rộng khôn cùng, yên tĩnh khôn cùng mặc dù cứ nửa giờ hoặc bốn mươi phút, những trái đạn pháo của giặc từ ngoài khơi câu vào, bay đỏ lừ qua khung trời, và tiếng nổ từ một góc nào đó trên mặt đất vọng đến. Chắc chắn rằng ở nơi ấy, sẽ có những con người lìa bỏ sự sống hoặc có những đàn gia súc bị thiêu hủy...Trọng bó gối, lơ đãng nghe tiếng pháo. Chiến tranh làm cho người ta quen với hiểm nguy. Anh nhìn mặt nước lay động dưới trăng, ao ước một cái gì đó không rõ hình hài, khao khát một cái gì đó mà anh không gọi tên ra được....Bốn giờ sau, đúng lúc hai giờ kém mười phút, anh vỗ tay ra hiệu gọi Quân. Chàng lính trẻ đứng lên. Cô gái đứng theo.

Trọng nhìn rõ họ ôm nhau vội vàng, hôn nhau thêm lần nữa, lần nữa...Rồi hai người thong thả đến với anh. Cô gái cười, mắt sáng rỡ, tràn trề hạnh phúc. Anh bắt tay cô, rồi cùng Quân ra về. Dọc đường, chàng lính trẻ im lặng, không luôn miệng trò chuyện như lúc đi. Có lẽ vì sự im lặng giúp cho anh ta giữ được lâu bền hơn những giây phút ngây ngất. Hai người đã đi được quá nửa quãng đường bình an. Nhưng qua ngã ba Sao Kim chừng ba cây số, họ gặp tụi OV10. Hai con chuồn chuồn độc vãi bom hú họa. Những trái bom hú họa ấy đã giết chết chàng lính trẻ, lúc anh nằm bên ta-luy đường đối diện với Trọng. Hai người chỉ cách nhau chiều dài tám mét, vừa đúng bề mặt của con đường trục. Trọng không chờ máy bay bay xa, đã vượt qua lớp khói bom chạy sang tìm Quân. Chàng trai còn ấm và mềm như con thỏ trong tay anh. Gương mặt bình thản tươi tắn phơi dưới ánh trăng. Làn môi cong lên như chưa dứt khỏi nụ cười. Dường như gương mặt đó nói với anh: "Tôi đã yêu. Tôi đã hạnh phúc..." Một niềm kiêu hãnh không gì thay thế được.

Những vòng khói thuốc cuộn lên, lơ lửng giữa căn phòng trước khi tan hết. Vàng trăng đêm ấy hiển hiện trong đám khói. Trong suốt, ngời như thỏi bạc. Những tia sáng chúng tỏa ra reo như chuông. Và sóng biển đẫm ánh trăng, xáo động không ngừng Trọng thở hơi khói cuối cùng, ném mẩu thuốc vào gạt tàn. Giờ đây, anh đã hiểu nỗi ước ao mơ hồ, niềm khát khao vô hình trên bãi biển đêm hôm ấy. Nỗi ao ước tình yêu, niềm khao khát tình yêu, thứ tình yêu mời gọi và mãi mãi ám ảnh con người độc chiếm mọi tâm hồn và trái tim giàu nhân tính, chế ngự con người với một quyền lực mãnh liệt và ban phát cho con người những niềm vui không một niềm vui trần thế nào thay thế được...Không, anh không đáng bị tước bỏ niềm ao ước ấy. Anh không có lỗi khi chọn cho mình nỗi khát khao một giá trị tinh thần...

Người đàn bà bước vào phòng, cười với nụ cười thuần phục:

- Anh ra ăn cơm đi. Xong cả rồi.

Anh chống tay nặng nề ngồi lên. Nụ cười của cô giống miếng bánh nặn băng đất sét. Mâm cơm bày ngồn ngộn trước mặt anh, các món ăn nóng sốt, bốc mùi thơm nức mũi như những món ăn nơi tửu quán. Bích cúi xuống so đũa, chiếc cằm đầy thịt của cô in thành hai ngấn. Làn da được bổ dưỡng bóng loáng như xoa dầu. Cô rót rượu cho anh:

- Nào, anh uống đi.

Trọng đáp:

- Ta cùng uống.

Họ chạm cốc như thường lệ. Người đàn ông dốc tuột chất nước cay vào họng, thầm nghĩ: "Trời đây những kẻ phải sống chung dưới một mái nhà khi trái tim họ đã trở thành độc dược đối với nhau. May sao, mình đã không chọn nghề làm điệp viên. Nghề ấy, đôi khi người ta phải kết hôn với cả kẻ thù..."

- Anh xem xem, gà ướp húng lìu theo kiểu quay gà của người Hoa. Em vừa học mụ Tán...

- Ừ rất ngon..

Anh đáp, nhìn cô xé miếng thịt ngon lành. Khi ăn, cô mải mê, để toàn tâm toàn ý vào việc ăn, như đứa bé phàm ăn hoặc loài mãnh thú. Một giọt mỡ rớt xuống cầm Bích. Trọng chìa cho cô chiếc khăn:

- Lau đi.

Họ ăn xong, hãy còn nguyên nửa con gà quay chưa chặt. Trọng chợt nẩy ra một ý nghĩ. Anh bảo Bích:

- Gói dùm anh miếng thịt gà.

Cô ngẩng lên:

- Làm gì cơ?

Trọng đáp:

- Để đem cho một người bạn.

Anh nhìn vẻ tiếc rẻ lộ trên mặt cô, rồi quay đi. Người đàn bà mở ngăn kéo, lục tìm. Cô thấy một mảnh giấy nến vuông vắn ai để lại từ dịp Tết Trung Thu. Thứ giấy chuyên gói bánh dẻo và bánh nướng. Cô gói cho anh gọn ghẽ đúng như người bán hàng thành thục. Trọng bỏ gói thức ăn vào chiếc túi nhỏ rồi dắt xe đi:

- Em cứ nghỉ trước, lát nữa anh về.

Anh đạp xe luôn, không quay lại nhưng biết chắc chắn Bích sẽ đi theo. Lát sau, quả có tiếng Hon-da quen thuộc. Cô đi cách anh khá xa, nhưng không để lạc dấu vết. Đường phố lưa thưa người qua lại chỉ có chừng vài ba chiếc xe máy với ít xe đạp thủng thỉnh men theo hè. Trai gái đi chơi thành từng lốp dăm bảy đứa. Trọng không rẽ ngang rẽ dọc, phóng thẳng tới huyện ủy. Anh để xe vào chỗ quen thuộc rồi bước vào khu nhà tập thể của đám nhân viên. Chỉ có dăm cô gái đang ngồi quanh bàn. Toàn những cô chưa chồng, mải chơi nên giờ này họ mới đem xuất cơm tập thể ra ăn chung. Thấy Trọng họ reo ầm ĩ:

- A, chào người hùng. Anh vào làm bát cơm rau với tụi em.

Kim Lan cười:

- Chúng em toàn dân vô sản, ăn cơm của nhà nước, anh góp vốn vào cho vui.

Trọng rút gói thịt quay cho các cô, cả bốn cô reo lên ồn ĩ như trẻ nhỏ, rồi săm sắn tìm dao thớt chặt thịt. Tiếng dao gõ thớt côm cốp vang dộng cả khu nhà. Trọng khoanh tay nhìn cả đám, cười buồn. Mâm cơm của các cô chỉ có vài con cá trích kho với bát canh bí đao lõng bõng. Thời chiến tranh, cũng có những lúc anh đói vàng mắt, nhưng cũng có hồi họ ăn uống sang trọng gấp mười lần các cô bây giờ.

Thấy anh không nói gì, Kim Lan bảo:

- Em có lạc, anh có muốn ăn lạc không?

Trọng lắc đầu:

- Tôi no rồi, đến chơi với các cô cho vui. Hôm nay chương trình truyền hình chán ngắt.

Đám con gái đã sắp xếp xong, ngồi vào bàn xới cơm. Trọng đưa mắt nhìn ra bên ngoài. Anh biết, trên khoảng sân tối om kia, Bích đã đứng trong bóng tối của một cây phượng hoặc vòm lá du nào đó rình rập anh. Anh cất tiếng chào:

- Các cô ăn cơm nhé. Tôi vòng ra phố chơi, lát nữa quay lại. Nếu không quay lại thì chắc đã gặp bạn rượu rủ vào quán rồi.

Lan quay ra:

- Anh chê cơm tụi em hả?

- Không.

- Thôi được, cho anh đi đi...Lúc nào rỗi em với anh sẽ đấu khẩu...

Cô cười giòn tan, giơ tay chào anh. Người đàn ông đạp xe về. Lúc gần tới cổng, Bích phóng hon-da vọt lên trước. Cô vào nhà, bật đèn sáng choang, chờ anh. Trọng thong thả cất xe, thong thả vòng ra sân rửa mặt rồi thong thả vào nhà. Người đàn bà hằm hằm nhìn anh:

- Thế nào?

Anh bỗng thích thú, một nỗi thích thú vô cớ không ghìm nén được. Anh ngồi xuống trước mặt cô, đưa mắt lướt từ gương mặt tới khuôn cằm, từ cặp vai đầy thịt tới đôi bàn tay trắng thon, từ chiếc áo xẻ nách quá cao tới đôi guốc đắt tiền mầu sữa... Anh châm thuốc, từ từ nhả khói và hỏi cô:

- Em hỏi gì anh?

Bích hạ giọng, nói thì thầm - một thứ âm thanh bị nén xuống dồn chặt những hờn căm:

- Anh không xấu hổ vì hành vi của mình hay sao?

- Xấu hổ à?... Anh chưa quen nghe loại từ ngữ như thế.

- Tại sao anh nói dối?

- Gì cơ? Dối trá hả?... Đó là cái trò đùa người ta thích thú nhất.

- Anh không có quyền trêu cợt em.

- Không, anh nói những lời nghiêm chỉnh.

- Anh đã nói rằng anh tới thăm một người bạn.

- Nếu không phải một người mà là bốn thì càng tốt chứ sao?..Món quà nhỏ mọn ấy sẽ có ý nghĩa lớn hơn.

- Anh không thể làm như vậy.

Anh nhìn cô. Cơn tức nghẹn khiến mặt cô đỏ bừng. Cả cần cổ cũng đỏ. Cả đến hai bên mang tai cũng đỏ như mặt một cô đào hát trát phấn quá tay. Anh hỏi:

Tiếc của phải không?...Người kiếm tiền như sung rụng mà hà tiện thế à?

Cô dằn giọng:

- Không chỉ là chuyện của cải... Thà tôi ném xuống cống còn hơn.

Anh cười:

- Ra thế...Vậy mà anh ngỡ rằng em là một đảng viên mới, còn trong thời kỳ dự bị, em phải nhớ những điều lệ em mới tuyên thệ trước Đảng kỳ?...Những cô gái túng bấn ấy đâu phải kẻ thù của em?...Đông chí đấy chứ...Những người có chung một mục tiêu phấn đấu...Thà ném xuống cống còn hơn...Khá thật..Tình thương thân tương ái đâu rồi? Tinh thần xả thân, ý thức giai cấp đâu rồi?...Những danh từ ấy đôi khi nó kêu như tiếng phèng phèng gõ quảng cáo cho một gánh cải lương, mà loại đào kép như em hoặc thứ người như em sắm vai chính...

Cô trân trân nhìn anh, kiểu như kẻ bị một đòn sụm sống lưng không ngồi thẳng lên được.

Trọng nhìn cô, không còn thú vị mà chỉ thấy buồn. Một nỗi tiên cảm mơ hồ u ám che tối cặp mắt người đàn ông. Anh nói tiếp:

- Trời phú cho em một khả năng tổ chức đặc biệt, một khả năng ngụy biện đặc biệt. Em là nhà tổ chức tài ba, ranh mãnh nhất anh đã gặp trong việc tổ chức thực thi những dục vọng của bản thân. Nhưng em quên rằng những biện pháp thông minh không cứu được quả tim bị hỏng...

Anh châm điếu thuốc, rồi đứng lên:

- Tấn trò hay đến đâu cũng có lúc hạ màn. Tới hồi chót rồi phải không?.

Anh nhìn mắt cô. Trong đó có cả lòng căm hờn lẫn nỗi thất vọng. Nửa tích tắc, Trọng thấy lướt qua ánh hồi quang nuối tiếc. Anh chợt rùng mình vì một cảm giác lạ, rất khó phân tích. Bước ra vườn, anh bắt đầu rít từng hơi thuốc một cách nóng nảy khiến đốm lửa ngún đỏ như than.

Bóng tối của vòm lá hoàng lan phủ xuống. Vai người đàn ông chạm vào những ngọn lá ướt sương. Anh chợt nhớ tới những vòm lá ướt sương ở rừng Reo, nơi anh tập trung học chính trị. Vùng rừng ấy có loài rắn hổ rất dữ. Đêm đêm, chúng lướt quanh các lối mòn, trên lớp lá mục, tìm mồi. Rắn đớp, không nhanh tay nặn độc, làm ga-rô và tìm được thứ thuốc lá của dân bản địa thì ngộ độc chết ngay trong vòng vài tiếng. Vậy mà bao nhiêu đêm, Bích đã đứng chờ anh ở đó. Có những hôm trời mưa, cô trùm áo mưa đứng dưới lớp nước xối xả. Anh bàng hoàng nhìn gương mặt đẫm nước của người đàn bà yêu dấu... khoảng thời gian thần thánh làm sao?...

❆❆❆

Ba tuần sau, một buổi sáng yên tĩnh, Trọng đang cúi đầu trên những cột số dài dặc, bà trưởng cửa hàng bước vào:

- Chăm thật. Đàn ông như cậu cũng hiếm.

Bà đứng ngay trước bàn, đăm đắm nhìn anh. Trọng bảo:

- Chị ngồi xuống đi...Em đun nước pha bình trà mới nhé?

Bà trường cửa hàng lắc đầu:

- Đừng. Tôi đang muốn mời cậu đi tới chỗ này.

- Đi đâu cơ?

- Đến... Thôi, cứ thu dọn sổ sách theo tôi. Đi rồi khắc biết.

- Em đang dở việc. Hay chị chờ tới chiều.

- Không cần...Ta đi đi thôi.

Trọng gấp cuốn sổ cái lại, đặt chiếc bút ngay ngắn bên cạnh rồi mở ngăn kéo lấy chùm chìa khóa. Anh cười:

- Sao chị lại úp úp mở mở như công an kinh tế hỏi cung thế.

Bà trưởng cửa hàng đáp:

- Có chuyện cần nói...nhưng nói ở đây lại chẳng tiện chút nào.

- Chẳng tiện cho chị hay cho em?

- Cả cho cậu, cả cho tôi.-.Nào, khóa cửa lại đi...

Nói rồi bà quay lưng đi trước. Trọng bấm ổ khóa bước theo sau. Họ đi bộ, qua khoảng sân sau cửa hàng, dẫy kho rồi ra phố. Bà trưởng cửa hàng cắm cúi đi, Trọng cũng không hỏi gì thêm, lặng lẽ theo. Họ xuôi phố tới ngã tư, rẽ sang một phố nhỏ um tùm bóng phượng. Những cây phượng đã rụng hết hoa, những lá chưa ngả vàng, tỏa một vòng xanh ẩm ướt xuống các mái nhà cũ. Phố này toàn những ngôi nhà cổ, lợp ngói âm dương hoặc ngói máy từ thời Pháp. Qua bao nhiêu năm, người la chỉ đào mái hoặc thay những viên vỡ khiến thỉnh thoảng trên lớp áo màu rêu mốc lại điểm dăm bảy vệt son mới tinh khôi của những viên ngói mới. Giữa các nhà, có biển hàng kẻ chữ kiểu La tinh hoặc một ngọn đèn tọa đăng giả, bên trong lồng bóng điện. Ở thị trấn, nhưng Trọng ít qua lại hẻm phố này. Anh lẳng lặng bước theo bà trưởng cửa hàng. Bà dẫn anh tới một tiệm cà phê có tên Sơn Trúc, cổng vào là một vòm trúc uốn. Bên trong, căn phòng nhỏ trang trí toàn bằng trúc: Tường dát trúc, thanh ken trần lát trúc đan thành tấm. Quầy hàng là gỗ bọc trúc tăm dệt thành mành có sơn dầu. Các bộ bàn ghế bằng trúc đánh bóng kê dọc theo tường. Chậu cảnh trồng toàn loại trúc cảnh, cành nhỏ như que tăm, màu vàng óng. Một chiếc ra-di-ô cát-xét đang mở. Một bản nhạc trữ tình vang qua cặp loa treo đối xứng nhau.

Trọng quay lại nhìn bà trưởng cửa hàng:

- Đây là loại quán dành cho các cặp tình nhân...Sao chị lại biết? Chẳng lẽ ông anh dối già, chiều thứ bảy dắt bà chị tới chơi...

Bà đỏ mặt mắng anh:

- Dối già cái con khỉ. Cô em ruột tôi là chủ quán đấy.

Nói rồi, bà chạy xộc vào buồng trong, qua tấm mành trúc buông lửng lơ với những quả khánh reo lanh canh, bính boong rất... tỉnh lẻ...Bà gọi:

- Cô Sơn đâu rồi?... ngủ hả?... cho chị hai cốc cà phê sữa nhé.

Rồi không đợi chủ nhân trả lời. Bà quay ra:

- Cậu ngồi xuống đi...Chỗ này, xa hai cái loa kia cho nó đỡ điếc tai.

Bà kéo tay anh ngồi xuống, một cử chỉ quá gần gũi chưa từng có. Rồi bà ngồi bên anh, vẻ mặt bà tỏa ra cái ý muốn ưu ái, chở che lẫn sự bối rối. Trọng nghĩ: "Quái lạ, hôm nay bà ấy làm sao?...Và có điều gì liên quan tới mình?..." Anh rút thuốc. Chưa kịp châm lửa, bà trưởng cửa hàng đã đưa cho anh que đóm và cây đèn hoa kỳ đặt sẵn trên cái đôn bằng trúc kê gần đó. Trọng châm thuốc, rít một hơi rồi đưa mắt nhìn bà: "Có chuyện gì thế chị?...Không lẽ bỗng dưng chị phải mất công đưa em tới tận đây?...Lành hay dữ chị cũng nói cho hết. Em chịu được tất cả."

- Thì hãy uống cốc nước đã...- Bà bảo - Chẳng lẽ cậu không thể ngồi chơi với tôi một lúc sao?..

Chủ quán từ phòng trong bước ra, tươi cười chào họ. Bà cỡ bốn mươi lăm, giống bà trưởng cửa hàng như tạc, nhưng gày gò, nhẹ nhõm hơn. Gương mặt sáng, thứ ánh sáng của những người từ tâm và hiểu biết. Bà đem tới cho họ hai cốc cà-phê sữa nóng, một hộp thuốc Pan-man và chiếc gạt tàn. Rồi bà ý tứ vặn nhỏ chiếc máy cát-xét và rút lui.

Còn lại hai người. Bà trưởng cửa hàng cất tiếng thở dài:

- Cậu phải thông cảm cho tôi...Trọng ạ...Tôi quý cậu, điều ấy chắc cậu biết.

Trọng đáp:

- Chị không phải vòng vo...Em chưa bao giờ phàn nàn về chị.

Bà nói:

- Xưa nay tôi vẫn bảo mọi người: Cửa hàng có cậu như ngôi nhà có cây trụ vững. Chị em trong cơ quan đều yêu mến cậu. Chúng ta đã quen thân như những người sống chung dưới một mái nhà. Giả sử, có một ai đó bị tách khỏi tập thể, dù là cậu hay là tôi, đều đáng tiếc như nhau...

Trọng đã lờ mờ đoán được câu chuyện. Anh hỏi:

- Giảm biên chế toàn ngành, phải không?

Bà trưởng cửa hàng lắc đầu:

- Không.

Trọng hỏi:

- Vậy có chuyện gì?

Bà trưởng cửa hàng không trả lời, cúi xuống lục chiếc túi giả da xách tay. Rút trong túi ra một cuốn sổ công tác bìa bọc vải đỏ, bà mở sổ lấy ra mấy tờ giấy khổ rộng, được ghim lại bằng cây ghim chữ u vẫn dùng trong các văn phòng:

- Đây cậu đọc xem.

Trọng lần lượt đọc ba tờ giấy. Tờ thứ nhất là công văn xin bổ sung cán bộ thương nghiệp có trình độ cho huyện Bảo Lai, một huyện miền núi lạc hậu nhất tỉnh, cách thành phố hai trăm tám mươi cây số đường chim bay, giáp với biên giới Việt Lào. Công văn đã gửi từ mười tám tháng trước. Tờ thứ hai là tờ trình của trường phòng tổ chức Ty thương nghiệp tỉnh về việc đề cử cán bộ bổ sung cho huyện Bảo Lai. Tờ thứ ba là quyết định điều động Trọng về huyện Bảo Lai nhận nhiệm vụ do trưởng ty ký.

Trọng mỉm cười khi nhìn thấy dòng chữ khắc nghiêng nghiêng in bên dưới chữ ký Nguyễn Chính Nghĩa. Màu mực son ướt nhòe khiến dòng chữ có vẻ cẩu thả. Anh trao lại tập giấy cho bà trưởng cửa hàng.

Bà nhìn anh, e dè:

- Cậu thấy thế nào?

Trọng bảo:

- Chẳng thế nào hết. Quyết định ghi từ mồng một tháng sau. Em còn được chơi mười lăm hôm nữa. Có lẽ em sẽ về quê thăm mẹ em ít ngày. Thư nào bà cụ cũng trách móc, thở than.

Bà trưởng cửa hàng nói:

- Tôi hoàn toàn không biết ý đồ của họ, cậu hiểu cho tôi...Nếu biết, dứt khoát tôi sẽ tìm cách nói lại...

Trọng đáp:

- Thôi, chẳng có việc gì hệ trọng đâu. Với ai khác, chắc họ sẽ sợ hãi. Còn em, những năm kháng chiến đã mài mòn gót chân trên các huyện miền núi rồi... Trở lại đấy cũng là dịp hay.

Bà trưởng cửa hàng nói:

- Cách đây hai ngày trưởng phòng tổ chức ty mới đưa hồ sơ cho tôi. Và họ nói mọi sự đã rồi.

Trọng mỉm cười:

- Mọi chuyện xong rồi, chị không cần bận tâm.

Bà nhìn anh, và chừng như ngạc nhiên vì vẻ bình thản của anh, bà cao giọng hỏi:

- Nhưng còn chuyện tương lai của cậu?...Và căn nhà của cậu còn chưa hết mùi vôi?

Trọng đáp:

- Cám ơn chị... Nhưng chị đã nghe chuyện Con Rùa chưa?...Chưa hả?...Vậy em kể cho chị: Ngày xửa ngày xưa, trong cánh rừng nọ có một con rùa và một con chuột chũi. Rùa làm nhà dưới gốc cây. Vốn chậm chạp, ngày nọ qua ngày kia nó phải tha từng viên đá, nhai từng hòn đất sét cho dẻo làm vừa miết mạch những viên đá lại với nhau. Nhà của rùa kiên cố, bên trong lót rêu khô cho ấm. Mùa chim thay lông, rùa bò tới tận những cánh rừng của loài chim tha lông rụng về, xếp trên lớp rêu khô, tạo thành một chiếc giường êm ái.

Vì xây nhà cầu kỳ thế nên non một nửa thế kỷ Rùa mới xây xong. Trong khi đó, gã hàng xóm chuột chũi của nó chỉ đào một đêm đã được một cái hang trú náu. Suốt ngày, gã ngồi vuốt râu trêu chọc Rùa.

Khi Rùa đã xây hoàn chỉnh lâu đài của mình, chuột chũi mới giở trò. Nó bảo: "Rùa ơi, nếu ta muốn chỉ một đêm là ngôi nhà của mi sẽ đổ sập”. Rùa hốt hoảng lặng người, rồi kêu van: ”Bác chuột chũi thân mến, bác nỡ nào làm thế?...Bác biết họ nhà Rùa chậm chạp, xây được ngôi nhà đã hết cả tuổi trẻ, còn đâu?. Chuột Chũi bảo: "Thế trời ban cho ta cái mõm để phí hoài hay sao?...Từ mai, mỗi ngày kiếm cho ta một nắm hạt dẻ thì ta sẽ tha không phá sập nhà."

Con Rùa tội nghiệp phải cúi đầu chấp thuận. Từ hôm ấy, nó ra sức kiếm hạt dẻ nộp cho gã Chuột Chũi. Đủ hạt dẻ mới dám kiếm phần thức ăn cho bản thân mình...Ba năm sau, Rùa cưới vợ. Đương nhiên, gã Chuột Chũi được mời như thượng khách. Tuần trăng mật chưa qua. Chuột Chũi gọi Rùa tới bảo: "Này Rùa, mụ Chuột Chũi của ta già quá rồi, răng mụ rụng hết, râu cũng chỉ còn non nửa. Cái đuôi duyên dáng ngày xưa giờ ngoe nguẩy như mẩu que cứng. Đã thế, đêm nào mụ cũng nổi cơn hen suyễn khiến ta hết hồn...Mi đã hưởng hạnh phúc với người vợ trẻ. Giờ hãy nhường lại nàng cho ta. Kiếp sống của họ nhà Chuột ngắn ngủi hơn kiếp Rùa. Mi sẽ kiếm được cô vợ khác, mi còn đủ thời giờ hưởng hạnh phúc một lần nữa..."

Rùa khóc lóc: "Bác Chuột Chũi đáng kính ơi, lẽ nào bác nỡ chia rẽ chúng tôi?.. Nàng yêu tôi từ khi tôi mới nhào đất đặt móng cho ngôi nhà". Chuột Chũi bảo: "Ta đã nói, ta không thay lời. Mi không nhường nàng cho ta, chỉ sáng ngày mai tòa nhà nguy nga của mi trở thành đống đất vụn..." Đêm ấy, Rùa khóc lóc, than thở với vợ. Nhưng sáng hôm sau, nó vẫn phải đem nàng nộp cho Chuột Chũi. Đối với kiếp Rùa, ngôi nhà là một tài sản quá to tát, không thể để mất.

Nàng Rùa xinh đẹp sang làm vợ bé của Chuột Chũi, suốt ngày đêm chịu mụ Chuột già ghen tuông cấu xé. Tiếng kêu than của Nàng vọng sang làm chàng Rùa đau đớn muốn phát điên. Năm qua tháng lại, nỗi đau thuyên giảm như cơn bệnh. Nàng Rùa yên lòng chịu kiếp lẽ mọn. Nàng không còn than khóc dữ dội như xưa. Vả chăng, mụ chuột già đã gẫy hết răng, rụt lưỡi, hai chân trước liệt cứng nên mụ không còn hành hạ được nàng. Lúc ấy chàng Rùa kiếm một người vợ khác. Lần này, chàng kiếm một cô Rùa chột mắt để khỏi bị cướp vợ lần thứ hai. Năm sau, nàng sinh được hai chú Rùa con khỏe mạnh, tinh anh. Chàng Rùa suốt ngày vui thú với hai đứa con trai, quên nỗi nhọc nhằn.

Thế rồi một sáng mùa đông rét mướt, gã Chuột Chũi gọi Rùa sang: "Này Rùa, ta đã già, xương cốt đau như có ai dần, ai đánh. Mùa thu vừa qua, ta đã uống ba lạng cao vẩy lê lê mà không khỏi. Mi cho hai thằng con trai của mi sang đấm bóp cho ta. Các con ta bỏ ta biệt xứ. Mụ Chuột Chũi liệt giường, lại mù dở. Còn nàng Rùa phải lo nội trợ không thể hầu hạ ta tối ngày." Chàng Rùa bảo: "Bác Chuột Chũi đáng kính. Lẽ nào bác nhẫn tâm đến thế. Hai con trai tôi còn quá nhỏ. Tôi chưa bắt chúng nhặt một hạt cỏ lép trong đấu thóc, chưa bắt chúng cắn vỡ một hạt dẻ con..." Chuột Chũi bảo không được trái lệnh ta. Nếu mi muốn giữ yên ngôi nhà mà mi đã dày công xây đắp". Tới đó, chàng Rùa bùng cơn giận dữ. Chàng đáp: "Này gã Chuột tham lam độc ác, cho mi đào sập ngôi nhà, cho mi cắn xé tan nát cả chăn ấm nệm êm của ta, không bao giờ hai con trai ta sang làm đầy tớ cho mi hết...." Nói đoạn, chàng bỏ về nói chuyện với vợ con. Nàng Rùa chột lặng lẽ thu xếp áo quần, thực phẩm. Buổi chiều cả nhà Rùa khăn gói lên đường. Trời đông rét mướt, hai chú Rùa con cảm hàn rên khừ khừ trên lưng bố mẹ. Nhưng chàng Rùa vẫn cương quyết dời bỏ ngôi nhà nguy nga tráng lệ, đi tìm mảnh đất khác...

Đêm hôm thứ ba, trời mưa như trút, sét nổ vang trời. Mọi vật táo tác trong cơn giông bão. Bốn cha con, vợ chồng nhà Rùa ôm nhau đứng giữa rừng. Sáng hôm sau họ nhìn nhau ngơ ngác. Rùa bố, Rùa mẹ, Rùa con đều khoác trên lưng một tấm áo giáp vừa cứng vừa dày. Chưa loài vật nào có được tấm áo giáp như thế. Chàng Rùa ngẩng mặt nhìn Trời:

- Tạ ơn trời cao, ngài đã cho họ nhà Rùa chúng con một mái nhà trú mưa trú nắng...Nhờ nó, chúng con sẽ thoát được sự ức hiếp của gã Chuột Chũi tàn bạo. Nhờ nó chúng con thoát được kiếp tôi đòi..."

Từ đó, họ nhà Rùa sống ở đâu mặc sức. Chúng có một mái nhà ngay trên lưng...

Trọng ngừng lời, anh mỉm cười nhìn bà trưởng cửa hàng. Bà cũng đang tròn xoe mắt nhìn anh, không hiểu vì sao anh còn có thể đùa cợt trong tình cảnh ấy. Trọng uống một hơi, cốc cà-phê cạn tới đáy. Rồi anh đốt điếu thuốc thứ hai, thay cho điếu thuốc đầu tiên đã tắt ngấm trên tay:

- Cảm ơn chị đã quan tâm tới hoàn cảnh riêng của em...Nhưng em không như gã Rùa kia đâu, em không chịu mất cả tự do lẫn hạnh phúc rồi mới ý thức được quyền sống. Người ta, đã có gan xây nhà, cũng phải có gan phá bỏ nó đi, nếu chỉ vì nó mà phải chịu một sự tòng phục không chính đáng.

Bà trưởng cửa hàng ngồi ngây ra, mắt dờ đẫn nhìn ngoài phố. Hồi lâu, bà lẩm bẩm:

- Nhưng tôi không yên tâm...Tôi không thể yên tâm. Thể nào tôi cũng sẽ tìm cách nói lại.

Chương 12

Cường đã mơ rất lâu...Anh tỉnh dậy, uống một cốc nước đầy cho đã cơn khát. Con tàu vẫn đi, sóng chòng chành xô lắc. Cơn xô lắc lặp đi lặp lại như không bao giờ chấm dứt khiến óc chàng trai kêu ù ù. Mùi dầu máy xộc vào mũi anh, giống như những mũi khoan nhức nhối. Khứu giác của anh quá tinh nhạy, nó không thích ứng với mùi dầu. Chỉ cần ngửi thấy một làn gió thoảng qua đem theo mùi hôi khét của nó, là anh lại liên tưởng tới mùi tanh lợm của những dây xích bị nước mặn hoen rỉ, của những chiếc thùng gỗ chứa thực phẩm mốc meo, của những bãi nôn...Ngọn đèn trên trần đong đưa như đánh võng. Chàng trai đặt chiếc cốc rỗng xuống sàn phòng, nhắm mắt lại. Và tiếp tục cơn mơ...Lần này, một giấc mơ nặng nề, kéo dài với đầy đủ mọi âm thanh và hình dáng như nó đã được diễn ra trong đời thực.

Chàng trai đã trở dậy sau một trận ốm dài. Những sợi tóc còn sót lại lưa thưa phủ trên vầng trán và trên sọ. Tóc rụng nhiều quá nên lớp da sọ trở nên bóng như vải sa tanh, phơi ra qua đám tóc mỏng, ngả màu hung. Cường chụp chiếc mũ vải lên đầu ngắm nghía trước gương hồi lâu cho tề chỉnh. Rồi Cường đi qua cây cầu tàu xuống cảng. Tàu vắng tanh, không một bóng người. Bá, Tuấn hói, Đính và toàn bộ thủy thủ đều rời tàu từ lúc mờ sương. Cường nhìn quanh:

- Có ai không?

Tiếng anh vọng oang oang trong các căn phòng và hồi âm dội lại.

Cường gọi lần nữa:

- Tàu trưởng đâu?...trông tàu cho tôi xuống.

Thêm một lần nữa, những tiếng vang của anh vọng vào tai anh. Con tàu khẽ đung đưa, ngân một tiếng chuông vô thanh của ảo giác. Cường xốc tới từng phòng, tìm kiếm, nhưng con tàu vắng lạnh như bãi tha ma, chàng trai sợ hãi. Hình như người ta đã trù tính giam giữ anh trên tàu. Họ đã bỏ trốn hết...Cường chạy tới cửa hầm tàu nhìn xuống, hầm tàu tối om, chỉ có chiếc bẫy chuột há miệng chờ và mùi ẩm mốc bay lên từ các xó xỉnh. Một bàn tay kéo áo anh lại. Cường vã mồ hôi, thu hết sức giằng khỏi bàn tay đó. Mảng áo rách soạt...lúc ấy anh mới biết một chiếc đinh móc vào áo mình. Nhưng mồ hôi anh vẫn vã ra như tắm. Chàng trai leo qua cây cầu thang, hối hả như bị ma đuổi. Anh vượt qua boong, lên cầu tàu. Cây cầu tàu rung rinh trao đảo, và những gợn sóng vẽ loang loáng dưới vụng biển như có cuộc tụ hội của trăm loài rắn nước. Anh nhắm mắt cố quên những tấm thân nhẵn bóng, trườn mềm mại như múa trên mặt nước đầy váng dầu. Sau vài phút tĩnh trí, chàng trai lên cầu tàu xuống con kè đá. Hai đầu gối run như giẽ. Cường nín thở đếm từng bước. Áo anh ướt dán vào lưng, cả hai nách cũng ướt sũng mồ hôi. Người anh lúc nóng ran, lúc lạnh toát như bị giam trong hầm nước đá...Anh cắm cúi đi thẳng, không dám một lần quay lại nhìn con tàu. Nhưng có cảm giác rõ rệt là con tàu vô chủ như một lâu đài bị quỷ ám, đong đưa dưới bến cảng nhìn theo. Con mắt nó nửa như cợt cười, nửa như đe dọa...Chàng trai lao đầu chạy. Khoảng sân xi-măng vắng bóng người. Phòng thường trực với ngọn đèn treo trên khuôn cửa sổ. Mái tóc muối tiêu của người gác cảng đang cúi xuống, có lẽ ông ta đang đọc báo. Những dẫy nhà kho chụp từng khối đen khổng lồ trên mặt đất...tất cả lùi lại phía sau...Hải cảng, con tàu hoang, giấc mơ ám ảnh, cơn đau nghẹn thắt trái tim...Cường thấy cổ khô, họng khô đến nỗi đau rát.

Vượt qua cổng lớn, anh theo con đường trải nhựa chạy ra tỉnh lộ. Tám trăm thước nữa...vệ cỏ ướt sương trải dài phía trước, óng ả những sợi cỏ non ngậm ánh mặt trời. Cường quay lại, mặt trời đã lên, ngang mũi tàu, nơi lủng lẳng một chiếc neo phụ. Anh yên tâm đứng lại, thở hổn hển. Những sợi tóc lưa thưa bết chặt vào đầu, dưới chiếc mũ vải. Chàng trai rút khăn tay lau hai thái dương và sau gáy ướt đầm mồ hôi. Những hơi thở nóng hổi vẫn cuộn trong ngực anh, dồn dập. Hai chân anh mỏi rã, bắp chân tê cứng sau cuộc chạy quá sức. Anh ngồi bệt xuống vệ cỏ, gục đầu lên gối ngủ thiếp đi...

Rồi một khoảng thời gian trôi qua, tiếng xe lọc cọc vang tới khiến chàng trai bừng tỉnh. Rõ ràng là tiếng xe bò bánh gỗ, nhưng khi anh mở mắt nhìn nó lại là một chiếc xe Lam cũ kỹ chạy dầu ma dút, tiếng nổ phành phạch nghe váng tai. Cường đứng lên, giơ chiếc mũ. Chiếc xe ghé sát vệ cỏ dừng lại:

- Chú đi đâu?

Người lái xe thò đầu khỏi thùng máy, cất tiếng hỏi. Mặt ông ta đen, bóng nhẫy mô hôi dưới vành mũ dạ rách. Cường đáp:

- Cháu muốn lên Cam.

Ông chủ xe nhăn răng cười:

- Chuyện mơ ngủ. Từ đây tới đó phải chuyển hai luồng xe nữa. Chú chịu đi không?...

Phía sau, một cô gái mặt bầu bĩnh bỗng cất tiếng:

- Mẹ con tôi cũng lên Cam. Nếu bác ưng, ba chúng tôi bao cả chuyến.

Người chủ xe tần ngần:

- Bao cả chuyến hả?...Nhưng có chịu nổi không? Đây tới đó cả thảy sáu ngàn.

Cường sờ vào mớ tiền cồm cộm trong túi quần: cả tiền lương, tiền trợ cấp sóng nước, tiền đắt đỏ...cả thảy cũng chỉ trên hai ngàn. Anh bảo:

- Tôi nạp đủ hai ngàn đấy.

- Vậy thì lên xe.

Ông chủ xe hất hàm ra hiệu, rồi rụt đầu vào buồng máy...Chàng trai vòng ra thùng xe, trèo lên. Chỉ còn một chỗ ngồi, sát tấm ván che hậu. "Dù sao, mình cũng vẫn gặp may..." Cường nghĩ, ngả đầu tựa vào tấm tôn lát phía sau. Cô gái có gương mặt bầu bĩnh đưa mắt nhìn anh một giây rồi quay về phía bà mẹ. Bà ngồi phía trước gần buồng máy, đầu choàng tấm khăn rộng bằng lụa trơn, chắc là để giữ cho mở tóc khỏi bám bụi. Cả hai đối diện với anh, gương mặt, lẫn hình vóc họ đều hiển hiện một cách rõ ràng. Chàng trai chợt giật mình, nhưng chàng không hiểu vì sao. Người mẹ đưa mắt về phía trước, cô con gái ngả đầu vào vai mẹ, mắt lim dim. Có dáng dấp nào đó rất quen...Có lẽ anh đã từng gặp họ. Đường cong của khuôn cằm, sống mũi, những sợi mi...cái đuôi lông màu sắc như vẽ của cô gái được thừa hưởng của người mẹ. Còn nét nhìn đờ đẫn đôi lúc thoáng qua trong đôi mắt của người đàn bà luống tuổi, những nếp nhăn khổ ải dưới quầng mắt, hai bên mép, đám da bị hủy hoại nơi gò má và hai bên thái dương...Chắc chắn anh đã từng gặp họ...nếu không phải trong đời thực cũng là trong giấc mơ. Cường cúi xuống nhìn mũi giầy, cố lục tìm trí nhớ.

Chiếc xe Lam vẫn chạy rất nhanh, như một con ngựa già nhưng hung hăng, tiếng nổ rền rĩ. Chừng mươi phút sau, xe tới bến thành phố, đón thêm hai bà hàng khô rồi tiếp tục đi. Những người đàn bà trên xe bắt chuyện với nhau. Chuyện buôn bán, chuyện giá cả sinh hoạt, chuyện những người bị oan khổ, chuyện tình...Tiếng họ rì rầm, rì rầm như nước chảy. Hai bà lái buôn, hai nữ tu dòng Dô-dép và mẹ cô gái. Chỉ có cô và Cường là ngồi im. Khi xe đã rời khỏi thành phố, chừng hai chục cây số, những người ngồi trong xe đều gà gật ngủ. Họ choàng mắt thức dậy vào lúc mặt trời lặn: xe dừng lại trước một thị trấn nhỏ có con sông đào với cây cầu đá chạy vắt qua. Nửa thị trấn ở phía Tây sông, nửa kia ở phía Đông. Mặt trời chiều hắt bóng những cây du già xuống làn nước yên tĩnh. Người lái xe nhảy xuống đường, nhanh nhẹn như gã tráng niên gương mặt đen bóng không có dấu hiệu mỏi mệt sau cuộc hành trình. Ông ta bỏ mũ xuống, dùng nó lau mồ hôi trên cổ rồi nói:

- Nghỉ thôi. Ở đây, cơm ngon gạo rẻ. Chỉ phiền không có quán trọ. Nhưng ghế cho thuê cũng nhiều.

Hai bà lái buôn nhảy xuống trước tiên, te tái chạy ra sau vườn cây bên đường tìm chỗ đi tiểu. Cô gái bảo mẹ:

- Mẹ con mình lần trước cũng ngủ qua đêm ở đây phải không mẹ?

Bà mẹ đáp:

- Con nhớ nhầm. Lần trước ta ngủ ở phố núi. Nhưng dạo đem nho xuống thành phố thì ta đến đây.

Cô gái à lên một tiếng:

- Con nhớ rồi. Lần ấy ăn cơm với tôm luộc?.

Bà mẹ gật đầu:

- Mùa tôm sông. Món ăn nào cũng có tôm hết. Nào con xuống trước đi.

Cường đã nhảy xuống. Theo anh là hai nữ tu áo váy đen lượt thượt. Cô gái và bà mẹ xuống xe sau chót. Lúc cô quay nghiêng để đỡ chiếc làn cho bà mẹ, Cường chợt nhận ra cô: Chính là người con gái anh đã đi tìm kiếm. An, thiếu nữ trên bãi biển năm trước. Anh chỉ gặp cô trong khoảnh khắc, rồi tình yêu đã khuôn định cho anh một khuôn mặt, một nụ cười, một dáng dấp...Tới giờ anh ngỡ ngàng nhìn cô, cô gái không hoàn toàn khác biệt, nhưng cũng cách xa người thiếu nữ trong trí tưởng tượng của anh. Cao lớn hơn, làn da ửng nắng của con gái miệt vườn chứ không phải nước da trắng xanh của dân thành phố, mái tóc không còn xõa ngang lưng mà búi thành lọn phía sau, gài cây trâm lớn bằng sừng. Trông cô mạnh mẽ và trần thế hơn người thiếu nữ đã được anh tu tạo bằng khối của các cơn mộng mị.

Cường kiếm một chiếc ghế trong quán cơm bên đường, cách xa mọi người một chút. Anh ngồi xuống gọi một cốc nước chanh rồi kín đáo theo rõi hai mẹ con cô gái. Họ đã theo các nữ tu tìm giếng rửa mặt rồi trở lại, ngồi vào chiếc bàn gần bếp nấu ăn. Đối diện với hai mẹ con cô là hai bà lái buôn.

Chiếc bàn họ chọn là trung tâm quán ăn, có đầy đủ các bình dấm, vịt nước mắm, xì dầu, tương ớt, cả chanh và ớt tươi. Bàn của Cường chỉ chỏng chơ một bát ớt tươi thái nhỏ. Hai nữ tu chọn một góc khác, chỉ gọi nước quả chứ không gọi đồ ăn. Họ lấy trong chiếc làn tre mang theo thức ăn đã chuẩn bị sẵn. Cuối cùng người chủ xe bước vào, tìm chiếc bàn nhem nhuốc nhất nhưng ghế ngồi lại có đệm, tấm đệm cũ, nhờn bóng vì ghét. Ông ta ngả lưng ra phía sau một cách khoan khoái, cất tiếng gọi dõng dạc:

- Rượu, bà chủ nhé. Với lại nửa con gà.

Bà chủ quán phía sau quầy hàng, đang điều khiển một bếp lò rừng rực lửa than, vươn cổ hỏi:

- Luộc hay rán, ông bác?

- Luộc. Nhiều hành vào.

Ông chủ xe Lam trả lời. Hai bà lái buôn bàn định ầm ĩ rồi xướng các món ăn. Sau rốt tới bà mẹ cô gái. Chủ quán dạ dạ luôn miệng như đệm nhịp cho các câu hỏi của mình:

- Thịt bò xào cho hai bà, nhiều tỏi tây, rau mùi sống?...dạ..dạ...Canh cá chua nữa?..dạ..dạ...chờ cho tôi một chút nhá... Còn bà với cô ăn dưa giá, thịt kho tàu?...thêm canh rau cải thịt nạc..dạ..dạ..có cả cá hấp xa- xíu, bà và cô có dùng không?...

Xong xuôi đám khách chính, bà chủ quay sang hỏi chàng trai:

- Còn anh gọi gì?...Cho tôi biết cả thể.

Cường đáp:

- Tôi ăn cơm, thức ăn...gì cũng được...

Cả bốn người đàn bà quay phắt lại nhìn anh, rồi hai bà lái buôn tủm tỉm cười:

- Dễ tính thế thì vợ thương lắm đấy...

Bà chủ quán cũng cười:

- Hay anh cũng ăn dưa giá thịt kho tàu như bà với cô đây? Nói xong bà ta đưa mắt liếc anh với vẻ chòng ghẹo. Cường đáp:

- Cũng được.

Cô gái quay lại nhìn anh lần nữa, rồi ghé tai bà mẹ thì thầm. Bà ta bật đứng dậy, nhìn anh chăm chăm. Những người ngồi trong quán đều ngạc nhiên trước cử chỉ đột ngột đó, họ ngỏng hết cổ lên nhìn người đàn bà. Cả bà chủ quán đang đảo thịt xèo xèo trên chảo cũng dừng tay lại. Tự dưng, quán im phăng phắc. Bà mẹ cô gái dán mắt vào mặt Cường, rồi từ từ đi lại phía anh:

- Anh là...

Tự dưng, tim Cường đập thình thình. Anh nói:

- Chào bà.

Bà mẹ cô gái lắp bắp:

- Anh là...Có phải anh đã...

Cường đáp:

- Tôi đã đến thăm nhà ông bà...hồi trước...

Bà dừng lại, cầm tay anh một cách tự nhiên, và nói:

- Anh và một người nữa đã tới nhà chúng tôi. Cái đêm con bé cháu...Hồi ấy chúng tôi rời khu kinh tế mới trở về thành phố?...

Chàng trai gật đầu:

- Vâng. Người đi cùng với tôi là anh Bá, trưởng máy dưới tàu.

Bà ta nói:

- Hồi đó, tôi đã nhiều lần tới cảng rình gặp hai anh nhưng không thấy..vả lại, các anh nói rằng không trở lại thành phố...Chúng tôi tưởng các anh đi mãi mãi.

Cường mỉm cười. Người đàn bà hỏi tiếp:

- Tại sao các anh nói dối?

Chàng trai đáp:

- Chúng tôi không muốn gia đình phải bận tâm.

Bà ta vẫn nắm chặt tay anh, ngồi xuống ghế cạnh anh nói:

- Thế thì tệ quá...Chúng tôi không phải thứ người vong ân bội nghĩa. Ăn quả na phải trồng lại cây na...Anh đi về Cam à?

- Vâng.

- Còn anh kia?

- Anh Bá ở lại thành phố.

- Vậy anh phải tới chơi nhà chúng tôi. Không được từ chối. Tôi không để anh từ chối. Đã gặp anh ở đây không có thứ chim trời ngựa núi nào mang anh đi được nữa.

Bà quay lại gọi:

- An ơi, con sang đây. Mẹ con ta cùng ngồi một bàn với anh ấy. Chuyến đi này may mắn quá, kẻ tri ân gặp bậc Mạnh Thường Quân..

Cô gái xách túi sang ngồi với mẹ và chàng trai. Đám người trong quán đã rõ chuyện, thôi tò mò, cúi xuống các đĩa thức ăn bốc khói trước mặt họ. Hai nữ tu ghé đầu vào nhau thì thào, và nhỏ nhẻ ăn như hai con chim.

Bà chủ quán bưng tới một mâm, cao giọng xướng:

- Này nhé, dưa giá thịt kho tàu, canh cải thịt nạc...may mà chưa đánh nhau vỡ đầu đã nhận ra họ...Các vị có muốn gọi thêm cá hấp xa xíu và rượu vang không?...Vang ở đây nấu lấy nhưng còn vượt xa vang Thăng Long của nhà nước.

Bà mẹ cô gái nói:

- Cho tôi nửa chai.

Đoạn, bà bảo Cường:

- Từ đây tới nơi chúng tôi ở bạt ngàn là ruộng nho. Mai, đi đường anh sẽ thấy. Rượu vang vùng này ngon. Từ ngày có nghề trồng nho và nấu rượu, người ta lên nhà gác hai ba tầng ầm ầm.

Tối hôm ấy họ ngủ ngay trên hè phố. Mỗi quán cơm và giải khát đều có năm bảy chiếc giường bạt với chăn màn cho khách qua đường thuê ngủ đêm. Chủ quán treo một cây đèn ba dây lên đầu hồi làm đèn gác cho khách. Họ thuê vài ba thiếu niên đánh tam cúc hoặc bài Tây canh chừng bọn trộm vặt hành lý. Dưới lòng đường, những cỗ xe Lam nằm nối đuôi nhau, bên cạnh vài ba cỗ xe thổ mộ. Xe nào xe nấy đã hạ càng. Lũ ngựa được trói dưới một gốc cây xa xa, tha hồ phóng uế và nhai thóc.

Hai bà lái buôn vừa uống nước xong đã ngủ ngay. Các nữ tu ngồi rì rầm chuyện trò khoảng nửa giờ rồi cũng lặng lẽ chui vào màn. Chỉ còn mẹ con cô gái ngồi với Cường. Họ kể cho anh nghe đoạn đời vừa qua. Từ buổi tối hôm ấy, gia đình họ đã vượt qua được cái hố của bần cùng. Họ tậu một căn nhà gạch nhỏ ba buồng trong phố, mở quán bán chè thập cẩm và thêu đan thuê. Ông bố đã có tiền mua thuốc chữa phổi. Bà mẹ lo làm ma cho đứa con trai cuối cùng bị tai nạn giao thông. Họ sống những ngày no đủ nhưng nỗi kinh hoàng thi thoảng lại ám ảnh. Rời khu kinh tế mới về họ chưa có hộ khẩu, nên quán giải khát dù đã mượn tên một gia đình thân thuộc đứng tên đăng ký nhưng vẫn luôn luôn bị chất vấn, đe dọa. Thuế má leo thang vùn vụt cộng với trăm thứ chi tiêu phí tổn khác khiến vốn liếng cùn mòn. Thành phố chủ trương dân khai hoang quay trở về thành phố không được phép nhập khẩu. Nếu ở lại, mãi mãi họ sẽ chỉ là loại dân vô thừa nhận...Gần năm sau, một người bà con xa về thành phố cất hàng, tới chơi. Ông ta hỏi thăm cảnh ngộ và khuyên họ rời tới vùng đất mới làm ăn. Vùng đất mới sẽ hái ra vàng. Nghề trồng nho và nấu rượu vang sinh lợi chắc chắn hơn mọi nghề khác. Nếu thua kém, nó chỉ thua kém nghề đào vàng, nhưng bù lại, nó không bắt con người phải hứng chịu lam sơn chướng khí...

Hai vợ chồng bàn định một đêm...Sáng hôm sau đã quyết. Trong vòng mười hôm họ bán lại cửa hàng tủ mẫu quần áo thêu và mọi thứ vật dụng khác thuê một chuyến xe Lam rời tới vùng đất mới. Người bà con dẫn đường. Ông ta có thế lực, lại tinh khôn. Chẳng bao lâu, ông ta đã thu xếp cho họ một cuộc sống ấm êm, thịnh vượng.

Hôm sau, người chủ xe đánh thức khách hàng quá giang từ lúc gà gáy sáng.

Chủ quán đã kịp nhóm lò, đun nồi nước dùng sôi sùng sục để bán phở sớm.

Mọi người ăn xong lên xe đi. Lần này bà mẹ cô gái dành chỗ ngồi bên Cường. Dọc đường bà hỏi chuyện chàng trai, như một người thân cũ chứ không phải một kẻ mang ơn. Cô gái ngả đầu vào vai mẹ, chăm chú nhìn anh với vẻ vô tư của con trẻ. Hai má cô ửng hồng vì nắng, phủ lớp lông tơ phơn phớt như trái đào. Món tóc mai vương dưới vành tai tròn, xinh xắn. Cô mặc chiếc áo lụa xanh, màu áo phản chiếu lên đôi mắt lớn, trong veo. Dường như trong đôi mắt đó, có bóng của bao nhiêu vườn nho rủ xuống...Cường chợt thấy hình ảnh cô bé An anh đã vẽ trong tâm trí nhòa đi trước cô An bằng xương bằng thịt chỉ cách anh có một tầm tay. Anh nhớ buổi tối anh tìm cô ở xóm chài. Khi anh rời căn lều có bà già tốt bụng trở về, anh đã cô đơn biết bao, buôn bã biết bao khi lang thang trên các vỉa hè thành phố.

- Anh có ăn quýt không?...Ngọt lắm..

Nửa chừng câu chuyện giữa anh và bà mẹ, cô bé chợt cắt lời. Cô lục trong làn lấy ra mấy quả quýt, chìa cho anh.

Người đàn bà mỉm cười:

- Con sáng ý đấy...Mẹ mải chuyện, quên mất...Kìa, mời anh...Thứ quýt này được nước nhất vùng.

Cường cầm quả quýt trong tay cô gái. Tay An chạm vào tay anh một cách vô tình. Cô vội rụt tay lại và đưa mắt nhìn vào hai nữ tu ngôi đối diện.

Họ tới nhà cô vào lúc ba giờ chiều. Từ nhà cô tới Cam còn bốn chục cây số nữa. Một ngôi nhà nhỏ nhưng rất đẹp, xây bằng đá trắng, mái lợp ngói âm dương. Vườn nho vây quanh, và chạy dài về phía sau, thành những ruộng nho vuông vắn được phân cắt bằng những bờ cỏ. Đất ruộng thấp hơn đất vườn. Dàn nho cao cỡ hai mét rưỡi, đan bằng tre, đặt trên các cây cọc gỗ chắc chắn. Nho trắng và nho đỏ, tất cả đều đang chín. Giữa các ruộng nho, trên nóc nhà, ngất nghểu những thằng nộm cầm cờ đuổi chim và đuổi dơi. Cường đã dừng lại trước ngôi nhà ấy, lặng đi trong cảm giác bình an mà anh chưa bao giờ có được. Cảm giác của con người về với cõi sống thực của mình. Cảm giác của các thiên sứ trở lại thiên đường, của những mãnh thú đã tàn lực sau khi vượt qua cơn hồng thủy, tìm được hang ổ thân quen nơi nó sinh thành và trú náu.

Bà mẹ cô gái phải giục hai lần Cường mới bừng tỉnh cơn mê, bước theo chủ nhân vào nhà. Ông chủ, người nghệ nhân có đôi tay vàng đã nhận được anh ngay. Ông ta không còn gương mặt ám khí của con bệnh, đã thành một trong những người đàn ông đẹp nhất thế gian. Ông hân hoan đưa anh vào nhà, việc đầu tiên là khoe với anh hàng chục pho tượng gỗ đứng trên bàn thờ, trong tủ, trên các giá gỗ như một viện bảo tàng nhỏ...Cường sống trong gia đình ấy một tuần lễ. Khoảng thời gian ấy chàng trai quên mùi tàu bè, mùi biển cả, quên cơn say lắc, quên tiếng cười độc ác của gã thủy thủ Đính, quên nỗi nhục nhằn của mình...Một tuần lễ, quãng đời thực của anh. Bóng mát của các giàn nho, mùi gió đồng phóng khoáng ánh nắng rọi trên bờ cỏ ướt sương, tiếng chim gọi bạn ban chiều, bữa cơm vui vẻ dưới ánh đèn, tiếng cười của An, bàn tay cô đưa cho anh trên các lối đi lỗ dỗ bóng nắng...Một tuần lễ đã qua, Cường chợt nhận ra rằng anh không thể ở lại thêm, theo phép lịch sự. Vả lại anh còn phải lên Cam thăm ông bố ốm. Anh nấn ná, người ta sẽ đặt những nghi vấn về đạo đức làm con. Sáng ngày thứ tám, An đứng chờ bên đường, vẫy xe cho anh. Khoảng chín giờ, một chiếc thổ mộ chở cá mắm khô và muối ngược lên Cam. Cường chào giã biệt gia đình cô gái, lên xe.

- Anh có trở lại đây nữa không?..- An hỏi.

- Có, sẽ trở lại, nhất định anh sẽ trở lại.

Cường đáp. Anh cúi xuống xiết chặt bàn tay An lần cuối. Xe đã chuyển bánh, cô gái còn chạy theo ném lên một túi nho. Rồi cô đứng bên vệ cỏ, cất tiếng:

- Anh tới chớ?

- Anh sẽ tới.

Cường đáp, tiếng anh vọng lại phía sau. Anh nhìn theo An mãi cho tới khi cô chỉ còn nhỏ như cái chấm sau làn bụi trắng. Xe chạy, mỗi lúc mỗi xa rời vùng quê. Những vườn nho, những ruộng nho đã khuất sau giải đồi hẹp. Phía trước lại là một miền đất mới. Ở đây, người ta trồng tỏi, trồng ớt, chỉ lác đác mới có những ruộng nho. Làng xóm khuất khúc giữa các ngả đường vào các trái đồi. Các vòm lá rủ bóng trên hàng rào nở đầy loài hoa thạch thảo tím. Cường trù tính chỉ còn mươi cây số nữa là tới Cam. Bộ mặt thiểu não của bố anh hiện lên, với đôi mắt cồn cào trông đợi. Cha anh sẽ hỏi anh đã làm được những gì, đã leo lên được chức cấp nào trong nghề tàu biển. Cha anh sẽ tuôn ra tràng giang những kỳ vọng mà ông đặt vào anh. Cha anh sẽ rót vào tai anh như một cái máy hát cũ quay đi quay lại không mệt mỏi một chiếc đĩa cũ: Nào là sự nghiệp vẻ vang của ông thủy sư đô đốc ngày xưa, nào là ngưỡng vọng của cả dòng họ, nào là trách nhiệm phục thù...Và đằng sau tất cả cái mớ những khát khao, những tin cậy ấy là cuộc đời thê thảm của anh. Chiếc mũ nặng nề của số phận chụp xuống, khiến anh chết lút trong đầm lầy. - Tại sao?...Tại sao?...

Anh có thể sống một cuộc đời êm ấm. Trồng nho hay khắc gỗ, bên người con gái anh yêu. Cuộc sống ấy cho anh được làm người thực sự, con người sáng tạo nên giá trị thực của mình. Những trái nho hay bức tượng đẹp, chẳng lẽ không được đặt ngang giá với chiếc mỏ neo vàng trên mũ ngài thủy sư đô đốc hay sao?...Có lẽ quãng đời đã qua là quãng đời bị đánh cắp, như con chim tòng phục mù lòa không cất cánh lên trời cao mà đâm đầu vào vách đá cho tới gãy cánh, trụi lông.

- Cậu tới phố nào đây?

Người xà ích cất tiếng hỏi đột ngột khiến Cường nảy bật lên. Chàng trai thấy mái nhà thờ thị trấn ngay trước mắt mình. Đã đến Cam, chỉ còn vài trăm thước nữa là tới nhà anh. Cường rút sẵn tiền trả chủ xe, chỉ cho ông ta rẽ qua ngã tư. Dăm phút sau, hàng cây hao lá lưa thưa đã hiện ra ven đường. Anh nhảy xuống, bước săm săm vào cổng. Hai cánh cổng mở toang, như sẵn sàng chờ:- Ba ơi...Chàng trai cất tiếng gọi. Không có ai đáp lời.

- Ba ơi...

Cường lặp lại lần thứ hai, và bước vào nhà. Cửa chính cũng mở. Lúc ấy, nghe tiếng chân ở phía sân sau. Lão Ngạn từ trong vườn chạy lên:

- Ơi...i i...

Lão dừng lại trước mặt con trai, thở hồng hộc. Một tay lão lúm lưng quần, tay kia níu áo anh.

Cường hỏi:

- Ba làm gì sau vườn thế?

Lão đáp:

- Ba đi tiểu.Ruột gan dạo này hỏng.

Môi lão tái nhựt. Lão vẫn giữ chặt tay áo Cường như sợ anh bay đi mất:

- Vào nhà đi con.

Hai cha con vào, ngồi bên nhau. Cường im lặng, còn lão Ngạn chăm chăm nhìn con trai, ánh mắt dò dẫm và phấp phỏng:

- Ba chờ...chờ lâu quá...Không thấy thư từ gì..

- Con đi một chuyến đường dài, vừa về thành phố.

- Hồi ở chỗ con Bích, hai ba lần ba tới cảng...mà không gặp con.

- Vâng. Có lẽ lúc ấy con đi vắng.

- Dạo này, con ra sao?

- Cũng thường, ba ạ.

- Đã có tiến bộ gì chưa?...đã được cất nhắc gì chưa?...Ba mong quá.

Môi lão run run. Đôi mắt vàng đục ngước nhìn anh, hau háu như mắt quạ nhìn mồi. Cường đã thuộc lòng những lời lẽ tiếp theo: Bao giờ con được bổ nhiệm thủy sư đô đốc, danh tiếng nức thiên hạ, có người bưng hòm khiêng tráp như ông nội ngày xưa?...Con sẽ xây lại tòa nhà nguy nga của ông, và cha con ta sẽ trở về thành phố...Chao ôi, giấc mơ quỷ ám. Cái khát vọng đã đầy đọa anh không được sống kiếp người. Cường hất tay lão Ngạn, đứng bật dậy. Lão nhìn con trai ngơ ngác. Anh đang đứng trước mặt lão, run lẩy bẩy, mồ hôi nhỏ thành từng dòng hai bên thái dương. Gương mặt anh co rúm lại, thoắt đỏ, thoắt tái nhợt, dường như nó đang phải chế ngự một cảm xúc nào đó, rất khủng khiếp. Mắt anh lóe lên, chợt tối sầm, rồi lại bắn ra những tia lửa thù hận.

Lão Ngạn lắp bắp:

- Làm sao..làm sao?..

Cường vẫn câm lặng. Tiếng tắc lưỡi của một con thạch sùng vang lên trong căn nhà. Chợt, chàng trai giật mạnh chiếc mũ vải trên đầu và cất giọng the thé:

- Thế này đây...như thế này đây...

Giọng anh ta sai lạc, như tiếng đàn sai cung bậc, nghe ghê tai. Anh nghiến chặt hai hàm răng, rồi nói tiếp:

- Con đã thành một người như thế này đây...ba hãy nhìn xem.

Lão Ngạn nhìn lên đầu Cường, bật tiếng kêu. Đầu anh rụng như gần trụi, chỉ còn ít sợ tóc cỗi, màu hung lưa thưa dán vào lớp da sọ.

Với bộ tóc ghê rợn ấy, trông con trai lão như một lão già quái thai có bộ mặt thiếu niên. Cường vẫn chăm chăm nhìn lão, và nói tiếp:

- Con sinh ra không phải để làm thủy sư đô đốc. Mãn kiếp con chỉ là gã thủy thủ tồi. Mãn kiếp con chỉ là thằng loong toong sai vặt dưới tàu, lau rửa sàn tàu và bẫy chuột. Không một tàu trưởng nào cần con phụ tá, không một trưởng máy nào muốn truyền nghề cho con. Đến thủy thủ thường con cũng không tròn trách nhiệm...Con không chịu được sóng gió, con không thích hợp với cuộc sống tàu bè... Thiên hạ khinh bỉ, giễu cợt con...Con không thể nào...Tới đó, chàng trai ôm cái đầu trụi tóc, ngồi khóc. Lão Ngạn trở lại bình tĩnh. Mặt lão đỏ bầm, lão hét lên:

- Mày...ra mày hèn như thế?...Mày thối chí, mày không chịu noi gương của ông nội ngày xưa...

Cường ngẩng đầu lên, mặt anh đầm đìa nước mắt:

- Không chịu noi theo ông thủy sư đô đốc?...Vậy thì tại sao ba không noi theo ông ấy?...Ba cũng có một cuộc đời. Ba cũng có mấy chục năm để thực hiện giấc mộng vàng của ba.

Lão Ngạn tắc họng, mặt ngây ra. Rồi lão nghiến răng kèn kẹt và túm ngực áo con trai, lão bắn ra một tràng chửi rủa:

- Thằng khốn kiếp... thằng mất dạy...mày dám cãi lại tao hả?...Tao đã trở thành thủy sư đô đốc, tao đã trở thành một người lừng danh, mọi người phải kinh nể...nếu tao không bị số kiếp dầy đọa, nếu như tao là một người đàn ông mạnh khỏe như mọi người...

Cường kêu lên:

- Vậy, ba đã tự tha thứ cho ba...tại sao ba không tha thứ cho con?..Con sợ sóng nước. Con hãi hùng kiếp sống lênh đênh trên biển...Con sợ những hiểm nguy rình rập...Con không phải là kẻ có khả năng để trở thành thủy sư đô dốc như ba mong.

Lão Ngạn gầm lên:

- Mày là một thằng con trai khỏe mạnh bình thường...Nhưng mày hèn, mày thối chí.

Cường van vỉ:

- Trời đã sinh con như vậy, không thể đổi thay...Con có thể kiếm được những đồng tiền lương thiện cho ba. Nếu con trồng nho, khắc gỗ hay đi dạy học tại một trường cấp hai, cấp ba nào đó...Tại sao ba không thể chấp thuận? Những đồng tiền ấy cũng ngang giá như những đồng tiền mang từ tàu biển về?...

Lão Ngạn lại rít lên:

- Mày là một thằng hèn...Tao không ngờ đã sinh ra một đứa con trai hèn mạt như mày...Mày không thể hình dung được ngày xưa, ông nội mày đã sống hiên ngang, vương giả như thế nào?...Cả một vùng, sáu tỉnh phải cúi đầu nể phục.

Bất ngờ, chàng trai vùng đứng lên. Anh vẫn khóc, nước mắt ròng ròng chảy, mồ hôi cũng ròng ròng chảy hai bên thái dương trụi tóc.

Mặt anh co rúm lại:

- Mặc mẹ cái cuộc sống vương giả của ông thủy sư đô đốc ngày xưa...Còn ba, nếu ba hối tiếc vì đã sinh ra con thì ba hãy lấy lại nó ngay bây giờ...Dao đây, cứa một đường ngang cổ là xong...Con cũng đang ao ước được như thế. Chết đi là yên chuyện, ngủ một giấc vĩnh viễn, không phải chịu đầy ải vì gánh một gánh nợ oan khiên.

Cường vớ con dao phay lão Ngạn vẫn dùng chặt thịt hoặc chẻ tre chìa ra. Lúc ấy anh thèm khát cái chết thật sự, thèm khát được lìa bỏ kiếp sống khổ này, thèm muốn được cách xa mãi mãi người đã sinh ra anh, kẻ gần gũi nhất, thân yêu nhất mà cũng làm anh kinh hãi nhất trên cõi đời...Cha anh trợn mắt nhìn anh. Rồi ông vớ lấy chiếc bình cắm hoa cổ trên bàn, ném thẳng vào mặt đứa con trai:

- Thằng khốn kiếp...quân lộn đâu quay cổ...Mày giết tao...

Cường bỗng bật khóc hu hu. Chàng trai quăng con dao xuống sàn: - Chính ba mới là người giết con...ba đã cướp sống quãng đời trai trẻ của con.

Anh lao thẳng qua sân, ra đường. Một cái ức ngực vạm vỡ, có vành đai chồm lên trước mặt anh. Trên đó là cái đầu ngựa với lớp bờm dày phủ xuống, cặp mắt ngựa tụ lại trên chóp trán, lác xệch như mắt người bị trúng gió. Gương mặt méo đi vì sợ hãi của người chủ xe. Tiếng hét thất thanh và muộn màng...Tất cả cùng hiện ra một tích tắc. Cường nhìn rõ hai chân trước của con ngựa cùng chồm lên, lơ lửng giữa khoảng không, trước khi chúng đạp xuống đầu anh, bóc tuột một lớp da sọ và những sợi tóc lưa thưa.

Máu trào khỏi miệng anh, chảy lênh láng trên mặt đường. Máu rất ấm và có vị mặn...

- Thế là xong.

Chàng trai lầm bầm. Sau đó lưỡi anh cứng như nước đá và anh không thể há miệng ra được nữa. Nhưng con ngựa vẫn kéo cỗ xe vượt qua. Anh nhìn thấy cái bụng căng phồng của nó với lớp lông trắng ngà, có vài con mòng bám. Anh sợ hai chân sau con vật sẽ dẫm nát mặt mình. Không, không thể bước vào cõi vĩnh hằng với khuôn mặt bị dẫm nát, biến dạng đi như thế. Chàng trai cố thu tàn lực kêu to:

- Tránh ra..tránh ra

...Có ai đó lay vai Cường. Lại có tiếng gọi bên tai anh Chàng trai ú ớ, nhưng phải một lúc lâu sau anh mới mở mắt ra nổi. Bá cúi xuống hỏi:

- Cậu mê man khiếp quá...Tỉnh hẳn chưa?

Cường gật đầu. Anh không thể nói được. Toàn thân rã rời và ngực trĩu nặng như có đá đè. Ngay thở cũng khó khăn. Bá đặt tay lên trán Cường, nói:

- Vẫn còn sốt...Đã hai ngày nay không chịu ăn uống gì... Giờ cậu phải uống lấy nửa cốc sữa.

Anh đứng dậy, lấy phích nước sôi pha một cốc sữa nhỏ, ép Cường uống, uống xong, chàng trai thấy tay chân mình ấm hơn lên. Anh thở bớt khó khăn, nhịp tim không còn thúc từng hồi như trống gõ. Nhưng lúc Cường tỉnh cũng là lúc anh ý thức được giấc mơ vừa trải qua. Cảm giác tủi nhục dâng đầy, nước mắt trào ra, dàn dụa. Bá hỏi:

- Mê cái gì mà khóc mãi?..

- Không...

Cường đáp yếu ớt, nhắm mắt lại. Nhưng nước mắt như những dòng suối nhỏ, tuôn không ngừng. Chàng trai hiểu rằng, hạnh phúc anh vừa trải qua chỉ ở trong giấc mơ, cả sự phản kháng của anh cũng chỉ có ở trong trí tưởng tượng. Những vườn nho có thật trên cõi đời nhưng anh không đủ sức đi tới đó. Anh bị lún chìm trong đầm lầy, dưới chiếc mũ của số phận nghiệt ngã. Thượng đế sinh ra anh, như một sinh vật thiếu hoàn hảo, vì chỉ bơm vào các huyết quản dòng máu của sự phục tòng.

Chương 13

Mưa nhỏ từng giọt dài, từ mái tranh rớt xuống. Giọt này tiếp giọt kìa, không ngưng nghỉ. Đám bùn lẫn phân trâu dưới chân cầu thang rữa ra dưới mưa, chảy thành từng dòng ngoằn ngoèo sang bên kia đường. Gọi là đường, kỳ thực chỉ là lối đi rộng ước chừng vài thước, nằm giữa hai dẫy nhà sàn. Những dòng bùn lẫn phân trâu màu cỏ úa tràn qua mặt đường, lách dưới chân cột của dãy nhà sàn bên kia rồi tan trong mưa, thấm xuống vạt đồi nghiêng nghiêng chạy tới bờ suối.

Ông già Kin cất tiếng:

- Trời mưa này, cán bộ không qua được suối đâu.

Trọng đáp:

- Bác đừng lo, tôi sẽ chờ tới chiều. Có thể nước rút sớm hơn ta tính.

Ông già lắc đầu:

- Không. Suối này đã dâng lũ, nhanh nhất cũng hết ba ngày...Nó như người đàn bà của mình, sống lâu thì thuộc tính thuộc nết.

- Bác ở đây bao năm rồi?

- Hai mươi tám mùa đông...

Ông chủ đáp, rồi lại cúi xuống gọt chiếc tẩu bằng sừng. Những nếp da màu đông hun chảy sệ hai bên cổ. Trọng nhìn qua màn mưa trắng xóa, thấy con suối lờ mờ như một vệt chì màu đỏ dưới chân giải đồi. Bờ bên kia đã là cửa rừng, cây giăng thành hàng xanh thẫm. Ông già đã sống ở đây hai mươi tám năm. Có nghĩa cái làng đã lập được hai mươi tám năm. Trước đó, họ ở một vùng khác. Trọng bất giác đưa mắt nhìn ông già Kín, se lòng. Cuộc sống của con người ở đây thật cơ cực. Hồi mới tới anh bàng hoàng mãi vì không tin ở mắt mình. Chừng năm chục mái nhà sàn, lợp cỏ tranh. Khung nhà, kèo bằng những cây gỗ nhỏ, không đẽo gọt. Sàn ken cành cây hoặc tre, cao chừng tám mươi phân. Bên dưới lợn bầy lội bì bõm trong lớp phân và bùn. Trâu bò cột ngay chân cầu thang, phóng uế bừa bãi. Đàn bà để ngực trần. Những bộ ngực bị nắng hun và sinh nở dày vò trông thảm thê. Mười người có đến tám người luôn luôn dịu một đứa nhỏ sau lưng, trông không lớn hơn chiếc phích bao nhiêu. Lũ trẻ, ló đầu khỏi tấm vải dịu. Mặt chúng già câng, vàng úa vì thiếu dinh dưỡng. Và những đôi mắt chúng, tròn và nhỏ, rất kém linh hoạt, nhìn với cái nhìn thâm u, đờ đẫn. Có lần, Trọng cầm tay một đứa bé lên, cẳng tay nó nhỏ như một khúc tre cỗi tiện ra, da đã nhăn lại. Vùng này, đất đai cằn. Người ta sống bằng nghề làm nương và đốt than, đẵn củi. Rừng đã bị tàn phá trơ trụi. Phải đi hết hai ngày một đêm mới tới nơi đắp được hầm than. Họ ngủ qua đêm trong các lán tranh hoặc hang đá. Hôm sau, đẵn cây ủ trong hầm mà đốt. Ngọn lửa thiếu dưỡng khí được nuôi âm ỉ trong một quãng thời gian định ước tùy theo từng loại gỗ làm than và tùy theo tiết trời. Rồi họ múc nước suối, dập lửa, cời than bỏ vào bao tải gánh về thành phố bán. Công việc vất vả, đường xa, món tiền bán một gánh than không thể mua gì hơn là gạo muối và dầu thắp - những nhu cầu thiết yếu với dân miền núi.

Trong một đợt kiểm tra số hàng được điều phối về huyện, anh thấy thiếu hụt rất nhiều thứ hàng có phẩm chất, cần thiết cho đời sống. Ngược lại, tỉnh tống về huyện hàng chục mặt hàng xa xỉ nhưng đã bị hủy hoại hoặc không thực tế: Những váy áo lót, những thứ áo khoác khăn trùm cũ hoặc lỗi mốt từ khắp các thành phố Châu Âu nhặt nhạnh về. Trong đống hàng của lòng từ thiện ấy, cái gì tốt, cái gì hời các bà các chị trên thành phố đã nhanh lay thu cất. Họ gửi cái mớ tạp nham sót lại về đây...Trọng nhìn những người dân gánh than qua cửa hàng, mưa bụi khiến than đen lem nhem trên tay chân váy áo họ. Những cặp vú đen nhẻm, thõng thẹo chảy trên cạp váy. Tóc họ màu hung đỏ, xơ xác vì dãi nắng. Con gái chưa biết điểm trang, ngoài những thứ vòng bạc lớn nhỏ đeo ở cổ tay. Thi thoảng có những cô có gương mặt đẹp, với đôi mắt âm u của đêm rừng. Nhưng trong trang phục xoàng xĩnh bằng vải đen đã ố, và những dấu vết không tẩy xóa được của một cuộc sống lầm than, họ khiến tim anh nhói lên. Anh không thể nhìn họ một cách lãng mạn như xưa: đám người lạc từ xứ xở Chim Chích về. Anh nhìn họ như chính một phần da thịt của cõi đời, cái phần hoang dại và thủy chung, cái phần bị lãng quên, cái phần bị thua thiệt...Trọng đã làm công văn gửi lên Ty, đề nghị phân phối hàng một cách hợp lý và nhanh chóng có hiệu quả, để góp phần cải thiện đời sống của dân miền núi Bảo Lai, những người có công trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, những người đã từng gùi muối, gùi đạn, cõng thương binh ngoài mặt trận. Công văn thống thiết của anh ba tuần sau mới có hồi âm:

"Đã nhận ngày 17 tháng 6...

Đang nghiên cứu chờ giải quyết".

Trọng mỉm cười, anh hình dung ra tờ công văn của mình được chuyển từ bàn này sang bàn kia, trong chiếc cặp ba dây kẹp hồ sơ của ông cán bộ này tới ngăn kéo của ông thủ trưởng kia...nghiên cứu, chờ giải quyết. Sự chờ đợi luôn luôn có mùi bụi mùi mốc meo, mùi cứt dán và mùi nước đái chuột...

Bọn họ giờ đây đang bận rộn tối ngày, đang bận bịu vì trăm thứ việc. Tất cả chuẩn bị cho cuộc họp Đảng ủy toàn ngành. Rồi tiến tới Đại hội Tỉnh đảng bộ. Ai còn là tỉnh ủy viên? Ai len được vào Ban thường vụ tỉnh? Ai trượt mất chức vụ cũ...Trong cái guồng quay rối tinh rối mù ấy, liệu có ai chợt nhớ tới một khoảng rừng cũ, mờ mịt mưa bay.

Ông già Kin chợt khà lên một tiếng khoan khoái. Ông đã chuốt được phần nõ của chiếc tẩu sừng. Giờ đây, nó bóng mịn như một thứ sa tanh màu đen. Ông giắt chiếc tẩu vào lưng quần, bảo:

- Đói rồi đi ăn thôi.

Ngước mắt nhìn ra đám mưa trắng xóa, ông nói thêm:

- Tôi đã bảo, đúng chưa?...Không qua được suối đâu. Phải chờ hai ngày nữa.

Ông kéo trên bếp xuống chiếc hăng-gô Mỹ cũ đã móp, mở nắp. Trong hăng-gô là ngô bung. Ông già Kin lấy một chiếc thìa gỗ mun, do tay ông gọt, cẩn thận xẻ ngô bung vào hai chiếc bát nhựa. Mắt chăm chú, ông cố gắng xẻ hai phần thật đều, không rơi ra ngoài một hạt nào. Rồi, thò tay vào vỏ quả bầu nậm đầy bụi tro, ông lấy một nhúm muối, rắc đều trên hai bát:

- Ăn đi.

- Bác ăn đi.

Trọng đáp lời, bưng bát ngô bung lên. Anh không dùng thìa mà nhón từng hạt ngô bỏ vào miệng. Ngô bung đã khô nước, hạt rời. Những hạt muối có màu xám của tro lẫn, vị vừa mặn vừa chan chát. Bất giác, anh đưa mắt nhìn quanh gian nhà vách gỗ. Những chiếc mạng nhện ám bồ hóng bị mưa tạt run rẩy khắp các góc nhà. Các kẽ gỗ nứt và hở được trát bùn khô, giờ ngả màu vì ẩm. Sát bức vách đối diện, vài bộ quân áo của chủ nhân vắt trên sợi dây song. Trên giường, hai chiếc chăn dạ cũ cuộn thành đống...Không có gì hơn. Trọng sực nhớ một ý tưởng đã từng đóng đinh vào óc não anh với các chàng lính thời kháng Mỹ: Hết chiến tranh, hạnh phúc sẽ tới mọi nhà. Hết chiến tranh, đất nước sẽ giàu có, phồn thịnh...Hồi ấy, họ đã tin vào nó như tin định mệnh. Một quy luật tất yếu...

- Cán bộ đã được ăn thịt nhím chưa?.

Ông già Kin bỗng cất tiếng hỏi.

Trọng đáp:

- Có, hồi trên rừng tôi được ăn vài lần. Ngon lắm.

Ông già nói:

- Năm trước tôi bắt được con nhún lớn lắm, một thau đầy thịt. Bốn người uống rượu hết đêm.

Trọng hỏi:

- Ở đây, gạo nương ít, ngô cũng ít sao còn nấu rượu?

Ông già đáp:

- Mùa đông lạnh lắm, phải có rượu mới sống nổi. Lửa đốt bên ngoài không cứu được phải có lửa tưới bên trong.

Trọng bảo:

- Không có cách nào làm thêm ngũ cốc mà chăn nuôi hay sao?

Ông già lắc đầu:

- Chịu. Rừng lụi rồi. Xa tít hai ngày núi mới kiếm được hòn than. Nương ở đây chỉ bằng bàn tay. Trời không cho lúa.

Ngừng một lát suy ngẫm, ông già nói:

- Bên kia dẫy núi, đi bảy ngày đường tới một vùng đất tốt lắm. Nghe nói người ở đấy uống rượu gạo, ăn thịt nướng quanh năm. Họ có cả áo len, áo bông như người dưới phố. Nghe nói nhà ở đấy cột lớn bằng bánh xe trâu, cao mười người trông lên đầu nhau chưa tới, muốn leo lên sàn phải qua hai mươi bảy bậc thang, nhà họ không lợp cỏ tranh mà lợp đất nướng, gió không thổi bay, mưa không tưới mục. Trẻ con ở đấy cũng có giầy đi, cũng có mũ đỏ mũ xanh đội.

Trọng hỏi:

- Cũng trong huyện Bảo Lai này?

Ông già lắc đầu:

- Không, đất khác.

Trọng hỏi:

- Bác chưa tới bao giờ?

Ông đáp:

- Chỉ có hai đứa con trai được đặt chân lên đất ấy. Giờ chúng nó qua Ai Lao. Nhưng chúng nó kể chuyện cho chúng tôi nghe...Giá còn trẻ tôi cũng thử tới đấy xem sao? Nhưng giờ má đã nhăn, gối đã mỏi, ngại lắm...Mà sống ở đây cũng đã quen.

Trọng đặt chiếc bát nhựa xuống bếp tro, nhìn ngoài trời. Mưa vẫn tuôn chảy hoài, không mệt mỏi. Những dòng nước đục ngầu phân và bùn rác vẫn vượt qua các đám cỏ ven đường, tràn xuống bờ dốc nghiêng nghiêng bên kia. Dưới những sàn nhà, lũ lợn dưng nép vào nhau, giữa đám bùn, giương mắt dỏng tai nhìn mưa. Con nào con nấy mặt già nhăn, da bụng chảy sệ, hai vai nhô lên gây trơ xương. Vùng đất đói, người đói, con vật nuôi cũng đói... Nhưng người ta cam chịu ở đây vì thói quen. Thói quen - có lẽ đó là một trong những sức mạnh hủy diệt con người.

- Có ai đang tới kìa.

Ông già Kin, vừa cúi xuống thổi lửa dã ngửng lên, chỉ cho Trọng thấy một bóng người đang tiến vào đường thôn. Có lẽ đó là một người đàn ông cao lớn mập mạp. Anh ta giắt xe đạp, trùm vải mưa trông như một con gấu màu xanh. Ông già Kin và Trọng cùng đưa mắt rõi theo: Người lạ tiến thẳng về phía căn nhà sàn của họ. Tấm vải mưa chùm kín đến tận mắt nên Trọng không nhận được đó là ai. Người khách lạ đặt xe dưới chân cầu thang, rồi leo lên. Bước chân anh ta làm cả căn nhà rung chuyển, các cây cột vặn vẹo kêu cót két, cót két...Trọng nghe tiếng người khách cởi tấm vải che mưa, rủ roàn roạt rồi mới vào nhà. Anh ta xây lưng, cẩn thận móc tấm vải đi mưa vào một mắt gỗ trước cửa rồi mới quay lại chào họ:

- Chào bác Kin, chào anh.

Trọng đưa tay cho Hoan, người trợ lý kiêm phó cửa hàng:

- Có chuyện gì mà cậu lặn lội tới đây?

Hoan lăn một khúc gỗ tới gần bếp, ngồi xuống:

- Có việc.

Đoạn anh quay đầu lại ông chủ nhà:

- Bác cời lửa to lên một chút, rét quá...Cháu lội bốn giờ liền mới tới đây.

Ông Kin bảo:

- Đói bụng không?

Hoan đáp:

- Cháu có đem theo lương thực rồi.

Anh mở túi dết, lấy ra ba ổ bánh mì ướt, một nắm cơm lớn với gói ruốc cá kèm theo. Ông già Kin chất thêm củi vào bếp, ngọn lửa reo xoắn xuýt, vui vẻ.

- Đói quá, ăn đã anh Trọng.

Hoan bảo. Rồi nhanh như sóc, anh ta kiếm que cời than thành đám, nướng lại ba chiếc bánh với nắm cơm. Lửa than vừa kịp sám lớp vỏ bánh bên ngoài. Hoan đã mở gói ruốc cá, đặt lên một khúc gỗ gần đó:

- Nào bác Kin nữa.

Ông già không đáp, lẳng lặng ăn cơm với ruốc cá trước rồi bẻ bánh mì ăn sau. Khi cả ba đã thu dọn sạch chiến trường, ông già Kin bưng chiếc xoong nhôm đun nước uống: một thứ tổng hợp các loại lá rừng, thay cho chè, vị ngai ngái, thơm và chát nhẹ. Ông rót nước ra từng chén, mời mọi người. Lúc ấy, Hoan mới thở một hơi khoan khoái:

- Lúc đến đây, em đói run cả chân tay, không muốn mở miệng nói nữa.

Anh rút bao thuốc, chìa cho ông chủ nhà và châm một điếu cho mình:

- Anh Trọng vẫn cai thuốc đấy chứ?

Trọng cười:

- Không, bắt dầu từ hôm nay tớ sẽ hút lại.

Anh tự rút một điếu, châm lửa từ tay người trợ lý. Hồi mới thuyên chuyển tới Bảo Lai, một trong những biện pháp thử bản lĩnh tồn tại của anh là bỏ thuốc. Tắm nước lạnh buổi sớm được coi là biện pháp thứ hai. Điện pháp thứ ba là luyện Y-o-ga, cả ba thứ Trọng đã thực hiện. Anh vẫn giữ một nụ cười nhẹ nhàng trên khóe môi, hỏi Hoan:

- Bây giờ no rồi, phải bàn tới công việc. Có chuyện gì ở huyện phải không?

Hoan lục túi, đưa cho anh tờ công văn triệu tập cuộc họp đại biểu toàn ngành. Sau thắng lợi của các thủ lĩnh ngành thương nghiệp tại cuộc họp tỉnh đảng bộ vừa rồi, người ta tổ chức một hội nghị biểu dương thành tích đó. Cũng là dịp bổ nhiệm, cất nhắc một số trưởng phó cửa hàng mới, thuyên chuyển công tác cho một số người này và làm thủ tục về hưu cho một số người kia. Một hội nghị thương nghiệp toàn tỉnh, có tầm quan trọng - như công văn đã viết.

Đích danh đại biểu tham dự đã được ban tổ chức ghi sẵn: Chu Thanh Hoan. Hội nghị kéo dài trong ba ngày, các buổi tối có dạ hội và triển lãm sáng kiến. Tối cuối cùng có tặng phẩm cho từng đại biểu, một xuất chiêu đãi của Tỉnh và văn công trung ương phục vụ. Toàn bộ chi phí tàu xe, các phương tiện sinh hoạt do Ban tổ chức đài thọ.

Một dòng chữ chua thêm bên dưới: Xin mời đích danh đại biểu tham dự.

Trọng trả tờ giấy cho Hoan:

- Cậu đưa cho tớ làm gì?

- Anh lăn lộn công tác cả năm, xuống thành phố cho giải sầu. Em ở huyện, vợ một bên, hai con một bên, đi làm gì cho rách chuyện.

Trọng cười:

- Lâu lâu cũng nên rời áo vợ cho khôn lớn ra.

Hoan bảo:

- Họ định kiến với anh... Làm gì có thứ hội nghị mà đại biểu do cấp trên chỉ định?

Trọng bảo:

- Có nhiều chứ. Nhưng dưới các hình thức khôn khéo hơn... Làm thế này... thì quả là trắng trợn... và cũng thiếu thông minh.

Anh cười, nhớ lại bộ mặt tái xanh của Nghĩa, ông cha cố nhầm chuồng. Và bên cạnh bộ mặt của ông tỉnh ủy viên ấy, là gương mặt người đàn bà anh đã lừng quen tới tận mụn ruồi dưới chân tóc. Trọng hiểu mọi sự do Bích sắp đặt. Khi đã không thể là tình nhân của cô, anh buộc phải lùi xa vùng đất cô đang sống. Giá như Bích sinh vào một thời đại khác, và tài sắc kha khá hơn. Hẳn cô sẽ được liệt vào loại Từ Hi hoặc Võ Tắc Thiên.

Cách đây một tháng, anh nghe tin cô trúng đảng ủy ngành, hất chân mụ Thìn, người đứng lên giới thiệu cô vào Đảng. Không hiểu trong đại hội Tỉnh đảng bộ vừa rồi, cô đã leo được tới nấc thang nào trên con đường cô chọn? Trọng không còn thù hận như nhiều đàn ông khác rơi vào tình cảnh của anh. Ngôi nhà ở thị trấn, anh gửi một người bạn. Tất cả những phương án trả thù mà người ta mớm vào tai anh, anh đều từ chối với một nụ cười buồn. Xét cho cùng, mọi thứ trò đó đều buồn thảm. Và để làm gì? Ngoài trời mưa vẫn bay không dứt. Nước tạt chéo từ đông sang tây thành những dòng trắng đục, xiên xiên. Người đàn ông chợt nhớ tới màu trắng của các khóm nhài. Trước cửa buồng ngủ của anh, là giống nhài kép, bông cỡ lớn như bông cẩm chướng. Ban đêm mùi thơm chao chát của nó nức tên. Gương mặt người đàn bà sau lớp vải màn trông hư ảo... Vòng tay ghì riết của cô... Cặp môi dầy, như một thứ trái cây đầy ứ nhục cảm... Cô yêu anh đến thế, thèm khát anh đến thế. Rồi cô lại là kẻ hành hạ anh khi không còn sai khiến được anh, không còn dung hòa được mối đam mê ấy với thứ dục vọng khác... Thật lạ cho con người. Dù sao, với anh cô vẫn còn là mội ẩn số. Anh chưa hiểu con người tận cùng của cô. Cái người đàn bà với tầm nhan sắc bình thường sửng sốt đã nhảy vào cuộc sống của anh, chao lật nó nghiêng ngửa như gió dữ chao lật một con thuyền mỏng manh, không buồm, không bánh lái... Anh, chú bé cao một thước bảy mươi tám phân, nặng sáu mươi tư ki-lô... Trọng bỗng rùng mình, anh thèm được gặp lại Bích, thèm nhìn thấy khuôn mặt ấy, dò thấy đáy sâu tâm hồn ấy. Anh bảo Hoan:

- Được rồi, tớ sẽ đi. Còn mấy hôm nữa nhỉ?

Hoan đáp:

- Anh đi là đúng. Bốn hôm nữa hội nghị khai mạc. Muộn nhất ngày kia anh phải lên đường. Hôm ấy bên huyện ủy cũng có người xuống thành phố. Chiếc U-oát của họ chạy tốt lắm. Em đã nói với họ dành một chỗ cho anh.

Trọng nói:

- Tớ không hiểu bộ mặt của mấy ông tổ chức sẽ ra sao khi không phải là cậu mà là tớ xuất hiện.

Hoan đáp:

- Lờ họ đi. Cứ bảo là em ốm. Ở đây chỉ có hai anh em mình. Còn đám ấy quen chiếu ấm giường êm, sức mấy dám leo xe Reo, xe tải mà lên chốn khỉ ho cò gáy này.

 

Chương 14

Các cơ quan văn hóa, giáo dục hay y tế ghen tị với ngành thương nghiệp cũng không phải là vô lý. Hội nghị tổ chức tại Hôtel lớn nhất thành phố, vừa được một công ty du lịch châu Âu đầu tư vốn xây. Tòa nhà cao bảy tầng. Trên cùng, tầng thứ tám là quán cà-phê, sân nhảy, tiệm nhậu và một lô trò giải trí khác như phòng nghe nhạc sống, có nhóm ca sĩ thời danh chuyên hát các bản nhạc tình. Rồi phòng chơi cờ, chơi bi-a, tắm hơi có xoa bóp. Kể ra, trên chót vót tám tầng cao mà mọc lên um tùm vườn cọ cảnh, các vòm hoa giấy sặc sỡ, các bồn cúc và thất tùng cũng là sự kỳ công, ít nhất cũng là kỳ quan số một của tỉnh. Ở tầng chệt, có phòng chiếu phim năm trăm ghế ngồi, vừa đủ chỗ cho năm trăm đại biểu từ các nơi về dự hội nghị. Các quan khách trong thành phố thì sáng lướt xe ô-tô tới, chiều lướt xe đi, dập dìu như sóng. Đại biểu được bố trí ở các tầng sang trọng nhất, ngang với khách du lịch nước ngoài. Bồn tắm, gương soi, vòi hoa sen, nước nóng, nước lạnh... không thiếu tiện nghi phục vụ sinh hoạt. Mỗi phòng có một tủ lạnh bảy mươi lít, vừa xinh để đựng các thứ đồ ăn nguội, và bia. Tối tối, đám trưởng cửa hàng các huyện mạnh túm nhau lại uống rượu, nhắm với khô mực, khô cá thiều, lạp sường, xúc xích... tóm lại là với đủ thứ đồ nhắm mà họ kiếm được ở vỉa hè. Từ các ô cửa sổ hướng Đông, có thể nhìn thấy bờ biển với du khách nằm dài trên cát, giải dương xanh và con đường trải nhựa, lũ lượt dám thanh nữ dạo chơi. Còn chịu khó lên tầng tám, đứng bất cứ ở nơi nào, phòng ăn, phòng nhảy hay phòng nghe nhạc cũng có thể nhìn xuống toàn cảnh thành phố, nhà cửa, xe cộ và người đi lại như một thư tổ kiến xa xỉ, không ngớt rì rào, không ngớt xôn xao. Cái Hôtel này, hồi Trọng còn ở thị trấn Sơn Thanh mới đang ráp tới tầng thứ ba. Giờ, trông nó vĩ đại mà lại ngon lành như miếng bánh cắt. Hôm đầu, Trọng cùng một nhóm cán bộ các huyện miền núi rủ nhau lên từng cao chơi. Sau vài giờ, anh thấy chán ngắt. Trọng từ giã cả nhóm, lần xuống biển một mình. Anh tắm, bơi no chán rồi lại thuê phao tắm nằm chơi. Duỗi dài đôi chân, khoanh tay vòng dưới gáy, anh phơi nắng cả buổi chiều. Đám đàn bà con gái ngoài bãi biển nhìn anh thì thầm rồi cười ré lên. Thoạt tiên Trọng không biết họ cười mình. Sau, thấy những ánh mắt bỡn cợt, tục tĩu của họ, anh đẩy tấm phao tít ra ngoài khơi. Ở đó chỉ một mình anh với nước và nắng ấm. Trời xanh lơ, cao vòi vọi. Khi anh nằm đối diện với nó, anh bỗng thấy nó rộng rênh, như một tấm khăn trải tới vô cùng uốn lượn trước gió và trước những lớp hồi quang của sóng. Người đàn ông hít căng lồng ngực làn hơi mặn mòi đã lâu anh xa cách. Tâm hồn anh như tan ra trong màu lơ của trời cao, trong nước biển xanh, trong lớp ánh sáng lay động: không ngừng thay màu sắc. Khoảnh khắc ấy đã trôi qua, trong veo. Trọng không nhớ không nghĩ, không để tâm tới một vật gì. Cảm giác trống rỗng tuyệt vời ấy khiến anh lâng lâng như đang phiêu du giữa các tầng mây. Lớp cao su bị nắng hun âm ấm dưới lưng, những bọt sóng vô tình bắn tóe vào mặt, vài con hải âu sà xuống ngay sát tấm phao bơi...tất cả đều không tác động tới giác quan anh. Chẳng mấy chốc mặt trời lặn. Những người tắm biển lục tục kéo nhau về. Trọng vẫn lênh đênh trên tấm phao, đắm chìm trong lớp ánh sáng hoàng hôn. Nhưng tiếng loa phóng thanh vọng từ bờ biển ra đã lôi anh khỏi cơn mơ màng. Phát thanh viên nhắc nhở khách tắm trở vào bờ, vì khúc biển này thường sảy ra tai nạn, đã có người chết đuối, đã có người bị cá mập cắn cụt chân. Đội bảo hiểm của bãi tắm chỉ làm việc đến năm giờ ba mươi phút. Trọng nghĩ:

- Cá mập hả?...Mình chưa gặp bao giờ. Giá thấy được một lần cũng hay.

Nghĩ thế, nhưng anh sợ người phát thanh viên sẽ gọi đích danh anh, theo kiểu gọi của đám kiểm soát trật tự ở các dạ hội hay đám cảnh sát dẹp đường: “Kìa, đề nghị anh áo sơ-mi xanh, quần trắng kia..” Hoặc là: “Đề nghị đồng chí bộ đội đi dép cao su kia...” Trọng vào bờ, cắp tấm phao tới cửa hàng cho thuê đồ tắm biển. Người giữ phao lườm:

- Có dăm người khách thuê như anh thì tôi chết.

Trọng nhũn nhặn đặt trước bà ta cả tờ giấy bạc lớn

Không lấy tiền thừa. Đoạn, anh sang phòng thay quần áo. Chừng mười phút sau, anh thong thả đi dọc bờ biển, trở về Hôtel. Bất chợt, anh bắt gặp quán cà-phê cũ, nơi anh đã ngồi đợi Bích. Vào buổi tối họ định rủ nhau đi ăn tiệm của người Hoa. Buổi tối Bích đã khóc sưng mắt vì chưa được duyệt kết nạp Đảng: và cô đã hằn học tuyên bố với thế gian rằng vào Đảng xong cô sẽ tiêu diệt từng người. Trong quán, ánh đèn mờ rọi vào cây tùng cảnh, mắc những chùm hoa bằng giấy tráng kim, rọi vào những bức tranh khỏa thân treo tường, rọi vào các cặp tình nhân.

Từng cặp một, chụm đầu vào nhau...Những hình ảnh như thứ nước ớt xộc lên mũi. Vành mi ướt đỏ của người đàn bà lại hiện trước mặt anh. Mấy chiếc răng cửa của cô cắn vào làn môi. Nửa khuôn ngực trắng hiện sau cổ áo...Trí nhớ, cũng giống như một thứ dùi sắt nung nóng bỏng, nó áp vào những vết thương đã lên da non...

- Ới giời ơi anh Trọng, tôi đi tìm anh, tìm khắp...

Một người đàn ông đập rất mạnh vào vai Trọng, nói vồn vã. Anh quay lại, anh ta nhoẻn cái miệng cà hết dám răng cửa ra cười.

- Chào anh Núp.

Trọng nói và sau khi mỉm cười, thêm một câu:

- Chào đồng chí Núp, nhưng không phải anh hùng Núp...

Anh ta cười sằng sặc, nắm tay đấm vào vai Trọng. Núp trạc ba mươi tuổi, cũng dân Gia-rai và cũng mang tên Núp, nhưng không phải người anh hùng nay đã tới tuổi thất thập làm chủ tịch Mặt trận ở tỉnh bạn mà là cán bộ thương nghiệp tinh khôn và cần mẫn của một huyện cách huyện Bảo Lai một trăm năm mươi cây số. Anh ta về họp có một mình, không biết trò chuyện với ai, tóm được Trọng cứ bám riết lấy: "Chẳng gì cũng là cánh cán bộ miền núi với nhau..” Núp nói, ngữ điệu còn sai lạc nhưng ngôn từ đã kinh hóa hoàn toàn. Núp đen đủi, thấp bé. Từ lúc gặp Trọng, anh ta cứ nghển lên, quàng vai anh mà đi trông như con nhái đeo vào quả dưa ếch. Trọng ngượng ngùng đưa mắt nhìn những người qua đường. Họ tủm tỉm cười nhưng quay mặt đi. Núp đánh đu vào vai Trọng như thế cho đến lúc về đến Hôtel.

Buổi tối họ tụ tập từng nhóm chơi cờ. Trọng lên tầng thượng uống cà-phê. Khoảng mười giờ, không ngủ được anh lại mua một chai rượu vốt-ka Ba Lan, rủ Núp cùng uống. Chỉ hai chén, anh chàng Gia-rai đã lăn chiêng ra giường. Trọng cất chai rượu vào tủ, bó gối ngồi nhìn khung trời ngoài cửa sổ. Đầu óc anh chao đảo nhưng không thể nhắm mắt. Một ngôi sao trắng như hạt trai đứng im giữa khoảng trời đen. Tiếng biển rì rầm dâng lên khiến không gian càng rộng dài, cô quạnh. Người đàn ông nghe trong tiếng rì rầm của biển đêm một giai điệu mơ hồ, một khúc hát từ cõi đời đã qua vẳng tới. Quá khứ dài dặc như hành lang một lâu đài kỳ lạ, lướt qua hàng trăm căn phòng ngỏ cửa, trong mỗi căn phòng là hài cốt của một quãng thời gian. Một lớp bụi tro phủ lên mọi vật. Nhưng chỉ cần hơi gió lay động, lớp bụi tro biến đi là hiện lên nguyên vẹn chùm hoa vòi voi tím ngắt trên bờ cỏ, nơi anh đi học mỗi sớm. Lại hiện lên nguyên vẹn những con bọ rùa sắc màu rực rỡ bò trong bao diêm, chú dế trũi có hai chiếc răng cửa sắc nhọn, chiếc bàn nhem nhuốc mực tím lẫn vết dao khắc, đêm mùa xuân mưa bụi phủ lên các bụi cúc tần, anh nhìn cô gái nhà bên qua ngõ với ánh mắt bồi hồi, sửng sốt...Lại hiện lên nguyên vẹn những cánh rừng dằng dặc của Trường Sơn, suối và các vũng chân voi chứa một thứ bùn, những kho đạn nằm trong hang đá, bếp cơm quân dụng phun khói mù mịt những ngày mưa...Và sau cùng, đêm trăng biển, lần đầu tiên anh chiêm nghiệm sức mạnh của tình yêu, hạnh phúc đã mỉm cười một giây trước cái chết.

Anh đi qua hành lang ấy, như chú bé trao bàn tay tin cậy vào tay người dắt dường. Những giấc mơ của anh giờ ở đâu?....ở góc nào, xó xỉnh nào trong hàng trăm căn phòng của quá vãng, phải chăng chúng đã náu mình dưới đất, như những hạt thóc nằm chờ đợi mưa xuân ấm đầu tiên?. Người đàn ông đốt một điếu thuốc, rồi đi tới cửa sổ. Dưới kia, cảnh vật yên tĩnh. Vài cặp tình nhân cuối cùng đưa nhau qua đường. Một chàng công an trẻ hút thuốc dưới bức tượng đài dựng trước rặng dương. Từ tầng lầu thượng, ánh đèn đỏ và tiếng nhạc dịu nhẹ còn vẳng xuống. Đồng hồ chỉ một giờ kém mười phút. Nếu ở thành phố có gà, hẳn chúng đã cất tiếng gáy từ lâu. Trọng nhìn khoảng trời đêm, lặng lẽ rít thuốc. Anh không chủ tâm nghĩ một điều gì. Quá khứ, những căn phòng ngỏ cửa lại hiện trước mắt anh: Những buổi gặp gỡ, những gương mặt, những giọt nước mắt, những niềm tin, những lời thề, những hứa hẹn...Các hình ảnh cứ trở đi trở lại, giống lũ ngựa xiếc chạy quanh vòng tròn. Vòng phấn định mệnh chăng?... Sau hết, cảm giác uất ức mơ hồ không thể bày tỏ ám ảnh người đàn ông. Anh đốt hết điếu thuốc này tới điếu thuốc kia, nhưng không cắt nghĩa được cảm giác ấy. Anh tự hỏi những người đàn ông cùng thời với anh có chung cảm giác này không?... cảm giác của lũ trẻ nhìn đám bong bóng xà phòng vỡ tan trong không trung, cảm giác của kẻ lật bới các hài cốt quá vãng, tìm giấc mơ ngày xưa, niềm ưu ái ngày xưa.

Bao thuốc Đà-Lạt đã hết, Trọng vo tấm giấy bọc ném vào sọt đựng rác trong góc phòng. Anh xem đồng hồ, nhận ra mình đã đứng liền ba tiếng rưỡi trước cửa sổ. Hai chân mỏi dừ, anh để nguyên quần áo nằm dài lên giường. Giường bên kia, cách một tấm ri-đô, Núp đang ngáy ầm ĩ. Trọng không buồn ngủ, đầu óc hoàn toàn tỉnh táo. Nhưng anh nhắm mắt lại. Bỗng dưng, óc não anh lại hiện lên hình ảnh những người đàn bà đen nhẻm, gùi than qua phố, mặt mũi lẫn tấm lưng trần mhem nhuốc bụi than, những cặp vú thõng thẹo chảy tới tận cạp váy.

Năm giờ kém mười lăm, Trọng đánh thức Núp, rủ anh ta đi ăn sáng rồi dạo chơi trước Hôtel. Họ là hai đại biểu đầu tiên tới phòng họp. Bảy giờ bốn mươi phút hội nghị khai mạc. Trên sân khấu, kê ba dãy ghế cho chủ tịch đoàn. Từ giáp mép sân diễn về phía sau, theo thứ tự các hàng ghế cao hơn, nhưng chức tước và địa vị những người ngồi lại thấp dần đi. Hàng ghế thứ nhất là các đại biểu của Tỉnh ủy, bao gồm phó bí thư thứ nhất, trưởng ban tổ chức và trưởng ban tuyên huấn. Nhưng khai mạc xong, các trưởng ban ra về và hai vị phó từ hàng ghế thứ hai chuyển lên, thay thế cho họ. Phần quan khách có các trưởng phó ty giáo dục, y tế, văn hóa, công nghiệp, lâm nghiệp... Đám người này trông nho nhã nhưng kém vẻ tự tin hơn các cán bộ lãnh đạo ngành. “Phi thương bất phú”- Cổ nhân đã dạy từ xưa. Và lại thêm nữa: “Mạnh vì gạo, bạo vì tiền”... Đám cán bộ lãnh đạo ngành thương nghiệp nhất tề diện com-plê, đeo cờ-ra-vát. Nhưng ông nào ông nấy đều dùng các loại vải thẫm màu nên nhìn xa, họ hệt như một đám quạ đen. Ông com-plê nâu, ông màu xanh núi thẫm, ông màu đen, ông màu tàn thuốc lá xẫm... Toàn loại màu hà tiện sự giặt giũ và tiện dụng dựa dẫm vào mọi loại ghế, mọi loại tường. Trong dám cán bộ lãnh đạo Ty, Nghĩa ngồi lên hàng ghế thứ nhất, cùng các vị đại biểu của Tình ủy. Ông ta mặc bộ com-plê màu tro xám, cắt đẹp. Một đôi giầy da mềm. Một chiếc phu la kẻ ô. Trông Nghĩa sang trọng nhất đám người trên chủ tịch đoàn. Ông ta hơi gầy, mặt vàng bủng. Trưởng phòng tổ chức của Ty ngồi ngay sau lưng ông ta, ở hàng ghế thứ hai. Thỉnh thoảng, ông này lại vươn cổ lên, thì thầm gì đó vào tai Nghĩa. Mỗi lần như vậy, Nghĩa chỉ khẽ gật đầu đáp lại, cử chỉ kín đáo, oai phong. Quả tình, mẽ người ông ta cũng không đến nỗi nào... Trọng thầm đánh giá ông thủ trưởng cao nhất của anh, người chồng của người đàn bà anh đã từng coi là vợ.

Chợt một bà béo ị ngồi bên trái Trọng lên tiếng thì thào:

- Trông kìa, cô ta lên đấy...đấy...

Trọng quay sang, anh thấy bà béo hích một bà khác kế bên chỉ lên khán đài. Trên bậc tam cấp gỗ, Bích đang thong thả bước. Một khoảnh khắc trôi qua, anh mới nhận được cô. vẫn con người ấy, gương mặt ấy, cặp vai đầy ú, mái tóc quăn...nhưng từ vẻ mặt, từ cách nhìn, từ mái đầu thẳng cứng trên cần cổ...tất cả lại là sản phẩm của một thế giới khác, thế giới của sự thành đạt, thế giới của quyền lực, thế giới của những ông chủ bà chủ.

Bà béo nói

- Tỉnh ủy viên mới toe đấy nhé. Giỏi thật, vừa kết nạp ba năm..à..không phải, non hai năm...Bao nhiêu người lác cả mắt.

Bà kia đáp:

- Nếu cô ấy có khả năng làm việc thì mới kết nạp cũng được thôi. Thiếu gì đảng viên lâu năm mà thối tha tồi tệ hơn cả quần chúng kém?...Chị quan tâm tới điều ấy làm gì?..

- Sao tôi lại không quan tâm..Hàng tuần tôi phải trực tiếp làm việc với cô ấy.

- Thế nào?

- Lươn, lươn, lươn...

- Tôi chẳng hiểu.

- Trơn như rắn, nhẵn như lươn mà...Biết tại sao cô ta nhảy từ quần chúng lên thẳng tỉnh ủy viên không?.. Tại cửa nhà ông bí thư và ông trưởng ban tổ chức cho nhiều dầu, trục quay êm như lụa ấy. Mà bà vợ ông trưởng ban là thứ người bất cố liêm sỉ, bao nhiêu của hối lộ cũng không vừa.

- Tôi mải lo việc nhà, chẳng chú ý mấy tới chuyện trong ngành..Nhưng thế thì..

- Giời đất, chị cứ như người trên sao Hỏa rơi xuống...Kìa, trông cô ả đặt tờ giấy trước mặt ông chồng, điệu bộ chưa? Thế gian mặt dạn mày dầy..Lại sống với nhau rồi đấy. Hồi trước cô ấy mê một anh nào đẹp trai lắm, bỏ ông Nghĩa. Hai người đã đưa nhau ra tòa, tòa xử ly hôn xong xuôi.Vòng vèo thế nào vài năm cáo sắp chết lại quay đầu về núi...Chắc anh chàng đẹp trai kia đá đít. Anh ta gỡ gạc ít tiền của chứ thật dạ yêu đương gì...Tôi không gặp, nhưng nghe mấy cô bạn tả thì anh ta với cô ả chênh lệch nhau một trời một vực.

- Sao ông Nghĩa không nện cho anh kia một trận?

- Có mà nện vào đầu gối ông ấy...Tay kia cao to như hộ pháp. Nó bóp một phát thì ông Nghĩa nhà ta chết tươi.

Tới đó, bà béo bóc kẹo cao su mời bạn. Trọng cúi xuống, giấu một nụ cười. Đúng là miệng lưỡi người đời. Có khi, ở nơi nào đấy, họ lại ngờ rằng anh là một gã đào mỏ chuyên nghiệp và trong vụ ái tình dởm này đã vớ của cô ả trưởng cửa hàng một túi vàng kếch xù đó chăng?... Trên khán đài, mọi người đã yên vị. Bích ngồi hàng ghế thứ hai, chếch sang bên phải. Cô mặc quần lụa đen áo sơ- mi trắng: một bộ đồ giản dị, thật tương xứng với đạo đức và thẩm mỹ của các vị lãnh đạo. Phải chi, người ta có thể sáng tạo ra những tấm huy chương riêng biệt để phong tặng cho những người danh giá? Trọng sẽ đề nghị họ tặng cho cô tấm huy chương tiết hạnh khả phong. Dáng điệu của cô với Nghĩa, cả cách nhìn, cách gật đầu trao đổi một câu nói rất ngắn, thảy thảy đều tỏ rõ ra là một đấng vợ hiền. Nghĩa cúi xuống nhìn đồng hồ đeo tay. Ông ta nắm ống mi-cờ-rô đọc lời khai mạc hội nghị. Toàn thể mọi người đứng nghiêm, làm lễ chào cờ. Dàn nhạc lớn nhất tỉnh cử hành quốc ca. Tiếng công-tơ-bát và tiếng trống định âm làm bè trầm nổi lên một cách trang trọng. Khi bài quốc ca chấm dứt, các đại biểu vừa yên vị, đã có tiếng trống ếch, tiếng kèn đồng rộn rã vui vẻ. Một đoàn con trẻ ùa vào, đứa nào đứa nấy xinh tươi váy xanh, áo trắng, khăn đỏ quàng vai. Mấy đứa bé trai mặc quần soóc trắng áo lính thủy, đội mũ thủy chiến lệch. Tất cả ôm hoa ùa lên khán đài tặng các vị đại biểu. Ban tổ chức đã chuẩn bị sẵn cho mỗi đại biểu một bó hoa, một đứa bé tặng. Có lẽ chúng phải học thuộc vị trí các đại biểu chúng sẽ thao tác cử chỉ ưu ái đó nên việc tặng hoa diễn ra mĩ mãn, không có chuyện nhầm lẫn, thừa thiếu hoặc lộn xộn. Âm điệu của bài quốc ca được tấu liên tiếp hùng tráng và những bó hoa tươi làm giá trị của những người trên khán đài tăng lên, như quả cân được đặt thêm vào bàn cân phẩm hạnh của họ trước công chúng. Trọng tò mò đưa mắt nhìn từng gương mặt, từ hàng ghế thứ nhất tới hàng ghế thứ ba. Anh chợt hiểu. Quyền lực là khát vọng ghê gớm trong thời đại này. Anh chưa nhìn rõ hình thù của nó. Có lẽ, trước khi người đàn bà kia gặp gỡ nó, cô ta yêu anh thật sự. Tấm giấy ly hôn cô chìa ra trước mắt anh là bằng cớ sự thật. Nhưng có lẽ, cũng chính trong thời khắc ấy, gương mặt của quyền lực đã hiển hiện lên, mời mọc, kéo cô ta vào vòng tay và chế ngự một cách tuyệt đối. Phải, tình thế đã diễn ra như vậy. Mọi trò vòng vo, mọi điều dối trá và khuất khúc chỉ do đó mà ra...Trên khán đài, Bích dang xoa đầu đứa bé trai tặng hoa cô, ghé môi hôn nhẹ lên trán nó với cử chỉ đường bệ. Rồi khi lũ trẻ ríu rít rủ nhau chạy xuống, cô khoanh tay trước ngực, ngồi dựa lưng vào ghế, mắt nhìn thẳng về phía trước, nghiêm nghị và ưu tư như mắt nhà hiền triết..."Mình đã thuộc những ý nghĩ của cô ấy, mình biết cô ấy toan tính những gì...." Trọng thầm nghĩ... “Thật là ghê rợn, của cải trong xã hội lại trao vào tay những con người như thế. Người đàn bà ấy và chồng cô ta, hai tấm phim đã hiện rõ trong chậu thuốc tráng. Còn những người ngồi chung khán đài với họ. Cái ông trưởng phòng tổ chức của Ty, ông phó ban tuyên huấn tỉnh, ông trưởng ty y tế thấp lùn đeo chiếc cờ-ra-vát đỏ chóe chấm nâu kia?..và..và.. Liệu trong số đó có bao nhiêu con người chính trực? Cảm giác u tối bỗng ập xuống. Trọng không nhìn lên khán đài. Anh vờ lấy cuốn sổ tay, mở ra và đặt lên gối. Nhưng anh không nhìn thấy dòng chữ nào hết. Anh cũng không nghe thấy trưởng ty Nghĩa đang đọc diễn văn khai mạc. Tràng vỗ tay tán thưởng ông ta. Rồi lại là ông ta đọc báo cáo thành tích. Lại tràng vỗ tay nữa đệm cho khúc ca củ mèm đó...và các bài phát biểu, và các tràng vỗ tay, tất cả những gì đã lặp đi lặp lại một cách nhờn nhãi, như thứ bánh xe đã chờn răng, cứ quay xồng xộc mà chẳng để làm gì.

- Không thể cho qua, không thể tha bổng cho cô ta như vậy. Cái đòn trừng phạt hồi ấy thật nóng nảy và vu vơ.

Trọng thầm bảo mình. Anh nhớ đêm ở thị trấn, nhớ lòng oán hận. Một con quỷ chồm dậy trong anh, lồng lộng như gió bão...

Có tiếng cười rộ lên xung quanh. Trọng ngẩng đầu ngơ ngác, người đọc diễn văn trên khán đài vừa buột miệng nói nhịu một từ tục tĩu. Đám đàn ông cười hềnh hệch, đưa mắt trêu cợt dám phụ nữ. Các bà này kẻ táo tợn thì nhâng nháo cười to hơn cho cánh mày râu khiếp nhược, người nhát gan thì găm mặt xuống, tai lẫn cổ đỏ ửng như hoa mào gà. Tràng cười vừa dứt, hội trường xôn xao. Người đọc diễn văn cố gân cổ đọc cho hết, biết đám người bên dưới không còn để tai nghe. Trận cười như thuốc giải bùa, phá đi bầu không khí oai nghiêm của hội nghị. Người ta nói chuyện riêng râm ran bốn phía, kể cả hàng ghế gần khán đài. Chẳng ai thèm giữ ý tứ gì nữa. Một vài ông còn oang oang đố nhau là giờ giải lao này ban tổ chức cho anh em uống bia chai hay bia thùng?..Họ đánh cuộc một đĩa ba ba hồng xíu hoặc bốn con cua luộc làm đồ nhắm...Ba phút sau, chuông rung báo giờ giải lao. Trọng ra hành lang, lướt qua đám người đang túm tụm quanh bàn giải khát, đi thẳng đến bậc tam cấp dẫn lên phòng chiếu phim. Ở đó, không ai bén mảng tới. Anh rút thuốc hút, cố dằn con quỷ đang gào thét trong lòng: “Nên hay không nên, nên hay không nên...” các mệnh đề lặp đi lặp lại như hai con chuột bạch đánh vòng trong chiếc lồng nuôi chuột cảnh. Cuối cùng, anh thấy một con quỷ mặt đỏ bóp thít tim anh, khiến nó đau nhói: “Hôm nay, không được...Ngày mai...và nếu trời không giúp ta thì ngày kia...dứt khoát ngày ấy...dù cho tình cảm có khó khăn đến đâu ta cũng cứ làm...” Người đàn ông ném mẩu thuốc xuống sàn, đặt gót giầy di lên. Anh hoảng sợ thấy mẩu thuốc anh vừa ném chỉ cách tấm thảm len của phòng chiếu phim có hai, ba mi-li-mét. Hôm sau, lúc cuộc họp buổi chiều chấm dứt, Trọng gọi Núp tới, bảo:

- Cậu thích uống rượu không?

Mắt anh chàng Gia-rai sáng rực lên:

- Hay, hay quá...Nhưng thứ rượu trong như nước chớ?

Trọng gật đầu:

- Trong như nước suối, quốc lủi chính cống.

Núp bảo:

- Chỉ hai người thôi à?

Trọng bảo:

- Uống rượu hai người kém vui. Cậu rủ thêm cho vui.

Núp cười, nắm tay Trọng mà lắc:

- Hả?... Anh tốt thật. Tôi vừa gặp hai đứa trong thành phố. Chúng nó ở đoàn ca múa tỉnh.

Trọng gật đầu:

- Tốt thôi. Tôi cũng rủ thêm bạn của tôi. Tối nay và tối mai nhé...Nhưng chỉ có một điều kiện.

Núp hỏi:

- Gì cơ?

Trọng đáp:

- Muộn muộn một chút. Chín giờ đêm trở đi. Trước đó tôi mắc việc, và có hẹn với một người.

Núp gật đầu ngay:

- Tốt thôi, tốt thôi. Uống rượu đêm mới hay. Tới lúc mọc mặt trời ta hãy cất chén.

Mặt anh chàng hớn hở. Núp định nói thêm điều gì đó nhưng Trọng đã cầm tay anh ta:

- Giờ, cậu xuống phòng ăn cơm nhé. Tôi có việc bận.

Đoạn anh đi.

Núp vào phòng ăn, còn Trọng ngược ra phòng đợi. Anh biết thể nào đám người quan trọng nhất của hội nghị và ban tổ chức sẽ qua đây. Trọng dạo quanh, tìm một chỗ kín đáo, ngồi xuống. Chừng mười lăm phút sau, đám quan khách tới. Họ chia nhau lừng tốp vào buồng thang máy, xuống tầng chệt. Ai nấy đều ngậm tăm, mặt đỏ lừng. Mùi bia, mùi dầu tóc, mùi quần áo, mùi của sự thỏa mãn tràn ngập. Bất chợt, một người đàn ông gầy gò, tóc chải bẹt vào sọ bước tới. Ông ta mặc đồ đen...cắp cặp da den, đi tất xanh sọc với đôi dép da vàng. Mặt ông ta nghiêm nghị, chiếc tăm cắm một bên mép. Đang cắm cúi đi, chợt ngước mắt lên ông nhìn thấy Trọng:

- A…chào đồng chí...

Ánh mắt ông ta thoáng lo âu. Nhưng ông ta kịp trấn tĩnh cơn hốt hoảng, rút cây tăm ra và nhoẻn miệng cười:

- Tôi định bụng sẽ gặp đồng chí, có câu chuyện riêng...nhưng mấy hôm nay... thật là...

Giơ hai tay lên, mặc dù chiếc cặp đen còn kẹp ở nách, ông lắc đầu:

- Thật không mở mắt ra được.

Trọng cười:

- Chúng ta còn gặp nhau nhiều, lo gì.

Ông trưởng phòng tổ chức cũng cười:

- Kiếp sau tôi xin kiếu cái nghề tổ chức. Quá có con mọn.

Trọng ngắt lời ông:

- Tối nay, chín giờ anh đến tôi. Có cả mấy anh em huyện miền núi tới uống rượu. Một dịp tốt để cán bộ tổ chức làm công tác tư tưởng đấy.

Ông trưởng phòng vội vã gật đầu:

- Mình sẽ tới...đúng chín giờ phải không?

Nói xong, ông lật bật mở chiếc cặp da:

- Ghi vào mới được...Đồng chí thông cảm, tới tuổi tôi trí óc không còn dễ bảo như xưa.

Trọng nhìn mũi cây chì bi chạy trên trang sổ tay, để lại những dòng chữ nhỏ li ti, đều sin sít, thứ chữ của các thầy ký muôn thủa. Anh cười thầm trong bụng: “Trời giúp ta. Được nửa phân kết quả rồi...chỉ còn gặp cô ấy mà thôi...” Anh cúi đầu nhũn nhặn chào ông trưởng phòng tổ chức, bắt tay ông thật chặt trước khi ông vào buồng thang máy. Rồi anh không ngồi trong một góc kín đáo như trước, mà đứng đón ngay cửa phòng chờ: “Dứt khoát cô ấy phải tới đây. Dù đi một mình hay có thằng cha cố đạo nhầm chuồng kia, mình cũng sẽ chủ động bắt chuyện. Dịp may hiếm có, không thể bỏ lỡ cơ hội này...” Tim anh đập thình thình, nửa phần phấp phỏng, nửa phần vì say sưa cái say sưa của kẻ uống nhiều rượu. Con quỷ nhảy nhót, nhe răng cười. Không còn một giây đắn đo nào nữa. Trong huyết mạch, đến tận từng li ti huyết mạch, cuồn cuộn chảy một dòng máu hăng mê, nóng rực. Thứ máu của nhân loại thủa hồng hoang, phải đập nát trái cây rắn để moi hạt, phải đập vỡ sọ con vật để tìm óc tủy, phải đập vỡ đá để mài lấy một lưỡi rìu. Thứ máu của hoang nguyên đã chôn vùi dưới các xóm làng và phố xá, nhưng còn lại đốm lửa than muôn thủa trong phần tăm tối của hồn người...

Các tốp khách tiếp tục vào thang máy. Chừng mươi phút sau phòng đợi vắng hẳn, vẫn chưa thấy Bích. Hay cô đã chuồn đi lối nào?...Người đàn ông bồn chồn đi di lại lại. Anh cúi nhìn mũi giầy. Những viên đá lát sàn xanh bóng, vẽ hoa lục thẫm trải đều dặn dưới chân. Mỗi bước hết ba hàng gạch, vị chi sáu mươi xăng-ti-mét...Chợt, như có linh tính, Trọng ngẩng đầu lên. Cách anh chừng năm chục bước chân, Bích đang đi với một cô gái trạc hai mươi, gầy đét. Cô cũng vừa nhận ra anh, sửng sốt và hốt hoảng. Mặt cô tái, mắt trân trân. Nhưng cô vẫn tiếp tục trả lời cô gái đồng hành. Trọng không hiểu câu chuyện giữa họ, nhưng anh tiến lên vài bước nhìn thẳng vào mắt người đàn bà cái nhìn đầy ngụ ý: Không thể lẩn tránh, không thể không gặp mặt tôi... Bích hiểu được cái nhìn nẩy lửa ấy. Cô nói gì đó với cô gái gầy gò, xanh lét kia. Cô ta gật đầu rồi đi xuống các bậc thang đúc bằng đá li-tô vàng, dẫn xuống tầng dưới. Trọng đi tới gần cửa buồng thang máy, bấm nút. Chỉ hai phút sau đèn hiệu nhấp nháy và buồng thang máy mở ra. Anh đẩy Bích vào, bước theo sau. Cánh cửa khép lại. Trong khối không gian chật hẹp chỉ còn lại hai người. Trọng ấn nút tầng thượng. Tất cả xẩy ra không đầy một phút, trong sự im lặng tuyệt đối. Chấm đèn tín hiệu xanh bật. Buồng thang lao vút lên. Người đàn bà lùi vào một góc nhìn anh với cặp mắt tự vệ. Trọng chống hai tay lên vai cô, mỉm cười:

- Chào đồng chí tỉnh ủy viên.

Bích cắn môi im lặng, hàm cô bạnh ra với một đường gân phập phồng. Trọng lặp lại:

- Chào đồng chí tỉnh ủy viên...Xin chúc mừng.

Buồng thang máy rung chuyển khiến họ xô vào nhau.

Người đàn bà vẫn im lặng nhìn anh với cặp mắt lì lợm. Trọng thầm nghĩ: “Kể ra, cô ta cũng là một con người đáng gờm, chí ít cũng là tính ương bướng ít gã đàn ông nào sánh kịp.”

Thang dừng lại đột ngột. Bích sợ hãi đẩy mạnh hai cánh tay Trọng:

- Bỏ ra...Người ta nhìn thấy thế này thì...

Trọng cười:

- Chẳng sao. Chúng ta đã từng gần gũi nhau hơn nhiêu.

Người đàn bà rùng mình, nép sát vào góc. Hai cánh cửa buồng thang máy mở ra vài giây rồi tự động khép lại. Không có ai chờ. Người đàn bà thở dài, nói:

- Anh thật liều.

- Sao lại liều?...Phải chăng có nguy hiểm nào hơn nữa dành cho tôi?

- Kìa, trả lời đi…có lẽ vợ chồng ông trưởng ty đã chuẩn bị phương án thứ hai: Không chỉ đầy lên núi mà gửi hẳn vào nhà tù, đúng thế chăng?

- …

- Đừng im lặng mãi như vậy, ít nhất cũng một lần trong đời hãy nói thực nào...hãy nói đi, tôi chờ nghe.

Một tiếng kịch khô khan. Thang đã tới tầng thượng. Cánh cửa từ từ trôi. Khoảng sân um tùm cây cảnh hiện ra với những ngọn đèn sáu vôn màu xanh thưa thớt. Trọng đẩy Bích khỏi buồng thang máy, rồi dắt cô tới góc tối nhất trong sân..."Đây là vườn của các cặp tình nhân. Địa đàng của ước mong, niềm ân ái...Hay thật..." Anh ấn cô ngồi xuống ghế, rồi nói với người phục vụ bận đồng phục trắng không rõ đàn ông hay đàn bà đứng phía sau:

- Cho một chai vang với hai cái ly đá... Nhanh thôi nhé, rồi để chúng tôi được tự do.

- Vâng. Có ngay.

Một tiếng đáp khẽ. Vài phút sau, cái bóng trắng lướt tới, chai vang và hai ly đá đặt xuống bàn, nhẹ nhàng không tiếng động. Cái bóng trắng lại lướt đi.

Trọng kéo ghế, ngồi sát vào người đàn bà:

- Giờ, tôi đã hiểu.

- Anh chẳng hiểu gì hết, chẳng bao giờ anh hiểu được.

- Thế hả?

- Lỗi ở anh, tất cả đổ vỡ là tại anh.

- Thế hả?

- Lúc nào đó, em sẽ nói cho anh hiểu.

- Cuối cùng tôi lại là người có lỗi?

- Đúng như vậy... chính anh...

Người đàn ông nhắm mắt, buông tiếng thở dài. Anh biết, ngay bây giờ cô có thể phân tích hàng giờ liền những khuyết điểm của anh, rằng anh là người tình thiếu nhẫn nại, rằng anh đã làm nhục cô, đã chọc cơn tức giận của cô, anh là nguyên nhân lòng thù hận và sự tan vỡ...Sẽ có một trăm duyên cớ. Và bao giờ, lẽ phải cũng thuộc về cô...Trọng cất tiếng buồn rầu:

- Phải, lỗi tại anh, anh là một gã đàn ông cả tin và khờ khạo. Anh là loại người ngu tối, chỉ thuộc lòng những quy luật của một đời sống quá đơn giản, một đời sống truyền thống cũ kỹ. Cuộc sống giờ đây phức tạp hơn nhiều, rối rắm hơn nhiều, anh thất bại là phải lẽ. Với em, anh không đủ khả năng đáp ứng cuộc sống chung. Anh có thể là người chồng trung thành, nồng nhiệt, nhưng không phải là người dẫn đường tốt, mà em, em đang cần một bàn tay dắt em đi, đưa em tới gõ cửa nhiều ngôi nhà, tạo cho em những thuận lợi trong cuộc chơi em đã chọn.

- Không phải.

Bích dẫy nảy lên.

“Con người thật lạ kỳ. Hình như họ không có khả năng nghe sự thật.”

Anh nắm tay Bích, ngả đầu sát đầu cô. Anh chợt ngửi thấy mùi dầu cù là. Trước kia, hồi họ chung sống, Bích chuyên mặc các bộ đồ đắt tiền của Mỹ, của Nhật. Cô xài nước hoa hạng nhất. Giờ, cô mặc quần xoa đen, áo trắng và bôi dầu cù là…ôi những đồng xu nhuốm mùi cá trong túi bà hàng cá và có mùi thuốc lào trong tráp lão bán thuốc lào. Các vị cán bộ ở Tỉnh ủy đều ngoại năm mươi. Họ đã tới tuổi xoa dầu cù là tối ngày như một thứ nghiện. Phải lắm, y phục và mùi vị cũng là những ngả đường bằng phẳng dẫn con người đến với nhau.

Người đàn ông cúi thấp hơn nữa, ghé sát tai người đàn bà thì thầm:

- Quên nhau rồi chăng?

- Nói đi. Chẳng lẽ em đã xóa sạch dĩ vãng. Em đã ném tình yêu của chúng ta vào lửa?

-…

- Anh không thể chịu được.

-…

- Anh không thể quên. Một trăm cách cũng không giúp anh quên được em.

-…

- Bích.

-…

- Trả lời đi. Quên anh hoàn toàn rồi sao?

-…

- Em là người đàn bà duy nhất anh đã yêu. Anh không thể mất em. Mất em, anh chẳng còn gì đáng giá.

-…

- Nghĩ lại đi. Anh vẫn giữ nguyên vẹn ngôi nhà của chúng ta. Không bán cho ai. Không cho ai thuê. Chắc em biết điều đó.

Người đàn bà cúi gầm mặt, không trả lời - Phải, đó là sự thực. Cô ta run lên. Kẻ khôn ngoan nhất cũng có lúc ngã ngựa. Không ngã vì dốc cao mà ngã vì một cái hố giữa đất bằng. Khi Trọng cúi xuống, tìm đôi môi cô, cô đã ôm choàng lấy cổ anh, hôn ngấu nghiến.

Người đàn ông đưa mắt sục tìm trong bóng tối, nhưng không rõ gương mặt Bích. Anh hình dung gương mặt đỏ rực như bông hoa mào gà. Trí tưởng tượng trả lại nguyên bản mẫu. Con quỷ trong anh cất tiếng cười: Hồng diện đa...

Hồi mới lên Bảo Lai, anh đã nghiền ngẫm hết sáu quyển sách về nhân tướng học. Anh đã thuộc đủ mười thứ tướng của người đàn bà đa dâm. Con quỷ trong anh sằng sặc cười... Thêm một lần nữa, mùi dầu xoa xông lên mũi khiến anh buồn nôn. Bích vẫn ôm lấy cổ anh trong một cái hôn cuồng khẩu, tưởng không thể nào chấm dứt. Mãi rồi, anh khẽ vuốt nhẹ mái tóc xoăn của cô:

- Tới phòng anh nhé...314, hành lang phía Bắc.

Người đàn bà không đáp, đôi môi nóng bỏng của cô áp vào cổ anh. Trọng tiếp:

- Tám giờ nhé?

- Em bận...có cuộc hội ý với ban tổ chức.

- Chín giờ vậy...Không, chín giờ kém năm. Phải tiết kiệm từng phút với em.

Trọng đứng lên:

- Em hãy xuống trước. Anh đi thanh toán tiền. Nhớ chưa, chín giờ kém năm.

Người đàn bà gật đầu, một động tác anh quen thuộc. Anh đứng chờ cô vào buồng thang máy rồi mới len lách qua các dẫy bàn, tới quầy thanh toán. Tại quầy, Trọng mua thêm ba chai rượu A-ra-rát của Nga, sực nhớ tới lời hứa với anh chàng Núp. Quầy không có thức nhắm. Anh về phòng, cất rượu vào tủ rồi xuống phố mua một ít lạc da cá phong bao, một ít khô cá thiều ướp gia vị, một khúc giò bò. Lúc mang mấy gói đồ ăn về Hôtel, anh chạm trán ông trưởng phòng tổ chức. Ông ta nhoẻn miệng cười chào đón anh, và nói với giọng hồ hởi.

- Chín giờ tôi đến anh nhé, có cả anh bạn cùng ngành đi theo.

Trọng cũng đáp lại một cách nồng nhiệt:

- Vâng, xin cứ mời thêm khách. Rượu tôi có sẵn trong tủ. Còn thức nhắm đầy cả hai tay.

Ông ta gật đầu oai vệ, rồi bước đi. “Chắc mẩm ông ta kéo thêm một tay cán bộ phòng tổ chức. Cái bọn sáu bảy năm liền không xuống tới phố huyện, không biết dân tình ra sao. Cứ có dịp là tới động viên, ve vuốt mọi người. Thứ đầu cơ chính trị cũ mèm. Thứ cơ hội gà nòi... Con dế nằm trong hốc hát tỉ ti”. Phòng chờ của Hôtel đầy người. Trước buồng thang máy, khách chờ tới lượt tụ thành từng đám. Các cô phục vụ đi lại, nhắc mọi người kiên trì, không quá năm người vào thang một lúc để bảo đảm trọng tải, không được mang hàng hóa nặng lên gác cao, không...Trọng lách khỏi đám đông, tới cầu thang thường dành cho khách trọ khi thang máy hỏng hoặc mất điện. Không ai cùng đi với anh trên chiếc cầu thang rộng rinh, bằng thứ đá li-tô vàng bóng như xoa mỡ. Chân dài, Trọng bước hai bậc một. Chỉ vài phút sau, anh đã lên tầng ba, trở về phòng. Căn phòng sáng choang, trước khi đi Núp quên tắt điện. Anh chàng này có tật thích dùng đèn. Có lẽ vì ở rừng mãi, nên cái thành phố sáng lòa này thật hấp dẫn với anh. Đi họp hoặc đi chơi thì chớ, cứ về tới nhà là Núp xòe cả bàn tay bật một lúc ba chiếc công tắc gắn liền bên nhau. Cùng lúc, cả ba ngọn đèn bật chói mắt. Núp đứng nhìn, hấp háy mắt, miệng hềnh hệch cười. Ngay cả lúc ngủ anh ta cũng thích để đèn “Cho nó sáng. Mấy khi được nhiều sáng như thế này, anh đừng cấm tôi thắp đèn mà tội.”. Trọng đặt các gói đồ ăn lên bàn. Đoạn anh thu dọn mọi thứ đồ vặt vãnh, lấy đĩa bày thức ăn, rửa toàn bộ cốc chén bày sẵn, đặt ba chai rượu thành dãy như lũ lính sắp hàng chờ duyệt binh. Mọi việc xong xuôi, đồng hồ chỉ tám giờ bốn mươi hai phút. “Còn bao nhiêu phút nữa?

Mười ba phút tròn. Cô ấy sẽ đến...mọi sự sẽ diễn ra như thế, và sau đó...” Anh hình dung vẻ mặt cô, ánh mắt nhìn của cô. Với cương vị như thế, hẳn cô đã từng rao giảng, đã từng thuyết lý nhiều người. Và có lẽ, họ cũng tin cô như anh đã từng tin. Thói giả dối như chứng hắc lào thời đại, như những con ghẻ bò trong rãnh ghẻ khó tìm. Trời chỉ cho anh một cơ hội này thôi. Người đàn ông cười hả hê, nhìn xuống cái mặt tròn mạ vàng vảy cá của chiếc đồng hồ đeo tay: Chín giờ kém tám phút. Có tiếng gõ cửa nhè nhẹ. Anh lao tới, vặn quả nắm:

- Em vào đi.

Bích nhanh nhẹn lách vào buồng, mùi nước hoa xộc vào mũi anh, thơm ngây ngất. Trọng nhận ra ngay thứ xa xỉ phẩm cô vẫn ưa dùng: nước hoa Sa-nen. Anh đóng sập cửa. Thứ cửa tự động, cứ sập vào là chốt khóa bật theo luôn. Người đàn ông xoay lưng, che ổ khóa. Anh khéo léo nhả nút khóa ra và đưa tay tắt công tắc điện. Bích bật kêu:

-Ối.

Tiếng kêu ngắn, vô nghĩa. Chẳng hiểu cô ta mừng vui hay hốt hoảng, cả ba ngọn đèn cùng tắt, gian phòng tối om. Trọng phải nhắm mắt vài giây cho quen với bóng tối. Lát sau, đã quen mắt, nhờ những tia sáng mỏng manh lọt từ bên ngoài, anh nhận ra phương hướng. Người đàn bà đã ở trong giường anh, lặng lẽ, không một tiếng động thừa, cởi từng chiếc khuy áo.

Vài phút sau:

- Xoạch.

Một tiếng động khô khan vang lên, cánh cửa buồng bật lung.

- Tờ...roách...roách.

Cả ba công tắc nhất loạt bật lên, và tức khắc ánh đèn chói như đèn sân khấu. Đầu tiên là Núp, mặt đen nhẻm, trố mắt ra nhìn. Sau chàng Gia-rai là hai anh bạn Gia-rai khác, cao hơn, thanh mảnh hơn. Và sau đó là ông trưởng phòng tổ chức với một người đàn ông để ria con kiến, da vàng bủng. Ông trưởng phòng tổ chức cầm gói giấy rất lớn trên tay, chắc là món ăn góp với bữa rượu đột xuất. Cả bọn trợn mắt lên. Trọng cúi nhìn. Người đàn bà chưa mở mắt ra hẳn. Anh chỉ thấy hai làn trắng mờ và hẹp. Con quỷ trong anh khanh khách cười: “Trư nhãn”. Cặp môi của cô không khép kín, lộ những chiếc răng dài, vuông, có kẽ bị cặn nước chè bám màu nâu xỉn, chiếc cằm đầy thịt của cô mọc một đám mụn phía bên trái.

- Hớ..hớ..hớ..

Anh chàng Gia-rai bật cười. Và:

- Tờ roạch..roạch.

Ngay tức thì, cả ba công tắc điện sập xuống. Đèn tắt ngấm. Lúc ấy, Bích mới hốt hoảng rú lên một tiếng và hỏi:

- Gì thế anh?

Trọng đáp:

- Mấy cậu miền núi ở cùng phòng phá quấy, đòi uống rượu.

Anh đứng dậy, bật ngọn đèn ngủ cuối giường. Rồi anh ném cho Bích mảnh chăn đơn để cô trùm tấm thân lõa lồ. Người đàn bà có tính cách không thay đổi. Anh sực nhớ tới bữa cơm ở thị trấn. Cô ăn mê mải, mỡ gà quay rớt xuống cằm. Lần ấy, anh đã đưa cho cô chiếc khăn lau. Và giờ đây…tính cách của những đứa trẻ phàm phu hoặc của loài mãnh thú...Trọng ra ghế ngồi, anh châm một điếu thuốc. Thuốc 555 dởm, có lẽ dân Sàigòn làm, mùi khét. Nhưng Trọng thấy lưỡi nhạt nên rít liền vài hơi. Qua làn khói hình xoắn ốc là hình ảnh người đàn bà. Cô ta đang mặc quần áo. Từ độ xa anh, cô ta béo ra đến ba, bốn kí-lô. Tấm thân trở nên nặng nề, mệt nhọc.

- Anh ơi, bật đèn lên...

Bích đã mặc quần áo xong, lên tiếng. Trọng giơ tay bật công tắc đèn:

- Em về đây. Cho bọn họ uống rượu.

Người đàn bà đứng lên, sang sửa mái tóc. Chợt cô trông thấy những đĩa thức ăn bày sẵn trên bàn, dãy cốc chén tráng nước sôi sạch bong. Ba chai rượu đứng thành hàng như một tiểu đội. Tất cả đã được chuẩn bị từ trước. Tất cả đều trong trạng thái đón chờ... Ánh mắt Bích lóe lên nghi hoặc. Cô quay phắt lại nhìn anh. Trọng điềm nhiên hút thuốc. Và vẻ mặt lạnh lùng của anh tố cáo anh. Bích ngồi phịch xuống giường, lặng đi hồi lâu. Mặt cô xám ngoét như con bệnh thương hàn. Đôi mắt cô trở nên mờ đục, như chúng được đẽo gọt từ một cục cao-lanh, không còn chất nước và tia sáng. Rồi cô khẽ nhếch môi cười:

- Được rồi...

Giọng nói của cô rất nhỏ, nhưng bao hàm sự đe dọa và lòng thù hận không thể tháo gỡ. Trọng vẫn lặng im hút thuốc. Người đàn bà mỉm cười lần thứ hai, nụ cười độc địa:

- Được...

Người đàn ông bóp tắt điếu thuốc trên tay:

- Được gì cơ?

- Tôi đã hiểu bộ mặt thật của anh.

- Vậy à?

- Anh có mấy bộ mặt?... Em nói giùm...

- Không trả lời? Thôi được, đừng nhìn anh với cặp mắt khinh bỉ thế. Tình thương yêu giai cấp để đâu, đồng chí tỉnh ủy viên? Khi đồng chí còn ngủ yên trong chăn ấm thì tôi đã cầm súng lội qua sình thâu đêm để chiến đấu bảo vệ chính quyền này. Tôi không phải kẻ chống phá cách mạng, muốn tiêu diệt tôi hãy tìm một cái cớ nào đó nghe cho lọt tai... Thôi nào bình tĩnh nghe tôi nói... Em hỏi tôi có bao nhiêu bộ mặt ư?...Trước kia tôi chỉ có một bộ mặt thôi. Duy nhất một con người, một lương tri. Nhưng cũng chính vì thế tôi đã bị em dối gạt... Tôi là chú học trò chậm hiểu, cố học được một phần sự tinh khôn của em. Nặn thêm được một bộ mặt với em, chỉ với riêng em thôi.

Bích cười gằn một tiếng, rồi đứng lên. Lần này, cô ta đã cứng cỏi:

- Tôi đi đây... Nhưng anh sẽ phải trả giá cho hành động này.

Trọng cười:

- Trả giá hả?... Tôi sẵn sàng... Giờ đây tôi biết cô là kẻ mạnh. Cô mới chính là kẻ mạnh chứ không phải chúng tôi, những người đàn ông. Dù là tôi, dù là Nghĩa, ông chồng hèn mọn có bộ mặt vàng như sáp ong kia... Sau đây sẽ có một vụ cháy kho, sẽ có một hồ sơ giả vu cáo tôi tham nhũng, sẽ có những kẻ kiếm cớ gây lộn để hạ sát tôi trong một cuộc đụng độ cố tình nếu tôi không thể kìm giữ... Còn phương án nào nữa không? Hỡi nữ đồng chí tỉnh ủy viên?... Tôi biết cô dư sức làm điều đó. Thời nào, những kẻ có thế lực mà vô lương tâm cũng đủ mánh lới bành trướng quyền uy, và hành hạ những người yếu ớt hơn mình...

Anh ngừng lại, nuốt nước bọt, vì thấy họng bỗng dưng đau rát. Người đàn bà đứng cách anh một bước chân, trừng trừng nhìn.

Trọng nói tiếp:

-... Nhưng hãy nhớ điều này: Dù có trả thù tôi, ngay cả sự bức tử cũng không đem cho cô niềm vui sướng. Cô sẽ phải vật vã suốt quãng đời còn lại. Đời sống đích thực của con người hướng tới niềm vui. Đời sống của quỷ mới hướng tới sự giết chóc. Muốn gì, cô vẫn là đàn bà. Không bao giờ có hạnh phúc ban cho kẻ đã ném bùn vào nước trong, đã đập vỡ cái bình pha lê của tình yêu.

Anh cũng đứng lên. Hai người nhìn vào mắt nhau, hung dữ, run rẩy. Rồi người đàn bà xô Trọng sang một bên, chạy ra hành lang. Tiếng guốc của cô gõ công cốc... Chừng ba phút sau, Núp dẫn hai cậu bạn về:

- Anh Trọng tếu thật. Làm toàn chuyện bất ngờ...

Trọng đáp:

- Mình xin lỗi, chuyện bất ngờ thật... Không kịp thông báo... Núp cười hề hề:

- Người đàn bà của anh to béo thế, bằng hai con vợ tôi.

Trọng mở nút chai rượu, rót ra chén:

- Nào xin mời...

Anh ngồi xuống, chạm cốc với ba chàng Gia-rai. Chờ họ uống hết tuần rượu thứ nhất. Trọng cáo có việc, bỏ đi. Anh xuống thang, ra phố. Lang thang hồi lâu giữa đám người dạo chơi và xe cộ. Trọng mỏi rã rời. Nghĩ tới cảnh trở lại căn phòng trong Hôlel, cuộc tiếp xúc, chén rượu, Trọng hoảng sợ. Anh không muốn gặp mặt ai, trò chuyện với ai trong lúc này. Người đàn ông ngược ra biển. Đã hơn mười giờ khuya, đường vắng. Những cặp tình nhân đi xiêu xiêu như loài cỏ leo quấn lấy nhau trước gió. Giải dương thẫm đen trong bóng đêm. Trọng băng qua rừng dương, tới mép sóng. Bãi cát không bóng người. Biển rì rầm dâng tới tận chân anh. Anh cúi đầu giữa hai gối, nhớ một gương mặt đàn bà. Một gương mặt không xinh đẹp, không quyến rũ bí ẩn, không thanh cao. Một gương mặt bình thường nhưng anh đã ký thác tình yêu và niềm tin cậy. Anh đã đặt vào đó, tâm hồn trung thực của một người lính, của một gã đàn ông đơn độc đã hối tiếc thời trai trẻ, đã khao khát tình yêu, và tìm kiếm một hạnh phúc dung dị trong quãng đời.

Chương 15

Tại tửu quán Hoa Lư, đúng ngọ. Tiếng nhạc Jazz ầm ĩ. Tiếng cười nói, văng tục, đùa bỡn của đám khách nhậu càng ầm ĩ hơn. Những người phục vụ, nhũn nhặn tuyệt vời, to béo tuyệt vời, mặc những chiếc tạp dề màu cháo lòng nhàu nát đi giữa các bàn ăn, lúc đưa một khay đồ bốc khói, lúc thu dọn bát đĩa bẩn, lúc mang thêm một xô nước đá đập vụn. Ở một chiếc bàn nhỏ có bốn ghế, gã thủy thủ Đính đang uống rượu với ba người đàn bà: Hai người trạc ngũ tuần, gầy, cao, tóc uốn ngắn, cùng mặc quần màu xám và áo Pun trắng, hệt như hai giọt nước. Một cô gái trẻ cỡ tuổi hai mươi, phốp pháp, bận quần áo màu thiên thanh thêu ren cầu kỳ. Cả dám hút Sa-mít, uống rượu Na-pô-lê-ông. Một chiếc lẩu, than đỏ rực cháy trên bàn. Những đĩa chim quay, tôm luộc, cá hấp bầy ê hê xung quanh. Mặt Đính đỏ gay, xem chừng gã đã uống hết hàng chục chén. Gã cao giọng kể lại với ba người đàn bà câu chuyện ở cảng Sinh-ga-po. Không rõ chuyện thực hay chuyện dỏm nhưng cả ba người đàn bà nghếch mặt lên, tai nghe, còn mắt nhìn chăm chăm như nuốt từng lời. Không ai để ý tới hai người đàn ông vừa rẽ đám khách ăn bước vào. Trông cách ăn mặc, có thể biết họ cũng từ dưới tàu lên. Hai người đi tới, đứng sau lưng Đính. Gã không hay biết vẫn hoa tay lên say sưa nói chuyện. Đám đàn bà thắc thỏm, mấy lần đưa mắt nhìn hai người khách lạ nhưng không dám lên tiếng. Chờ cho Đính ngừng lời, tiếp tục tu rượu, cô gái mới đập vào vai gã:

- Anh Đính, có người tìm anh.

Đính quay lại, gã ồ lên một tiếng:

- A, vào uống rượu với bọn tôi cho vui.

Bá nói:

- Chúng tôi có việc cần gặp cậu.

Đoạn anh quay lại ba người đàn bà:

- Xin lỗi các chị. Dưới tàu có việc cần… Có lẽ anh Đính không thể quay lại đây ngay. Trong tích tắc, Đính nhìn vào mắt trưởng máy. Dù say, gã hiểu rằng không từ chối được.

Gã đứng dậy, tiến vào trong quầy hàng:

- Ông chủ đâu, tôi thanh toán trước...

Gã móc túi, ném ra một cuộn tiền:

- Phần ông bao nhiêu, lấy đi... Còn lại trả tôi...

Người chủ quán cao lớn, tóc bạc trắng, có vẻ mặt của bố già Ma-phi-a. Ông ta đưa mắt nhìn Đính:

- Hãy cầm tiền của anh lên...

Đoạn, ông gọi:

- Tắc, đem hóa đơn ra đây.

Một người đàn ông bụng phệ, mặc tạp dề vàng ố chạy tới, đưa cho ông già tấm phiếu. Ông ta xem xong, ném xuống trước mặt Đính. Lần này lại chính gã phải nhặt mảnh giấy lên, xem giá tiền rồi đếm trả. Ông già nhận tiền, lẳng lặng quay vào. Đính đi ra:

- Nào, đi...

Gã nói trống không, đoạn cắm đầu bước thẳng. Ba người đàn bà ngơ ngác nhìn theo. Bá và Tuấn hói lần lượt chào họ rồi ra khỏi quán. Chỉ một khoảng khắc ngắn ngủi sau đó, họ đã đuổi kịp gã. Bá buông một tiếng cụt lủn:

- Ra biển bãi phía Nam...

Đính không đáp lời, cả ba lùi lũi bước.

Nửa giờ sau, họ mới ra tới bãi biển phía Nam. Bãi biển này buồn hiu hắt, là đoạn nối giữa bãi tắm chính của thành phố với bãi hoang ngoại ô, nơi có các quán rượu Lan Hương, Thanh Lan, Khói Xanh... lọt giữa các xóm chài xây bằng đá tảng và đất thó. Chẳng ai tắm ở đây. Cát xỉn màu, bẩn. Nước không được trong. Những giải dương già, cằn cỗi, hoang lạ...

Cả ba chui vào giữa rừng dương. Tới một khoảng trống.

Bá cất tiếng:

- Dừng lại.

Đoạn anh nói thêm:

- Nói chuyện ở đây là thuận tiện rồi.

Họ dừng quay mặt nhìn nhau như thế chân kiềng. Đính hết nhìn Bá lại nhìn Tuấn hói. Hai người cũng chăm chú nhìn hắn. Như thế, thời gian trôi trong tiếng gió lồng lộng và tiếng sóng. Một con ong ruồi nhào lộn giữa tầng không. Sau cùng Đính không chịu nổi sự im lặng, gã cất liếng:

- Hai người cần gì tôi?..

Không ai dáp.

Đính cười khẩy:

- Chơi trò hai thằng chọi một ở đây chăng?...

Bá bảo:

- Chỉ thứ người nhân cách như mày mới chơi trò đó. Anh Tuấn, có lẽ anh nên rời khỏi đây, ra bãi cát chờ tôi.

Tuân hói lắc đầu:

- Không, tôi muốn chứng kiến cuộc nói chuyện này. Tôi muốn biết gan ruột nó ra sao?... Tôi sẽ không động tới nó, tôi cũng không giúp anh một nửa ngón tay nếu anh lâm nạn, yên trí... tôi giữ đúng luật chơi... Tôi chỉ là khách dự khán theo đúng nghĩa.

Đoạn, Tuấn hói lùi lại vài bước, khoanh tay trước ngực, dựa lưng vào một cây dương. Còn lại hai người, mặt đối mặt, như hai con gà chọi vào xới. Mặt Đính sưng lên, mắt gã bắt đầu vằn máu. Bá thản nhiên nhìn hắn, im lặng. Lại một khoảng thời gian câm nín trôi qua. Rồi, Đính gào:

- Thế nào, bắt đầu đi chứ...

-…

- Định làm gì thế này? Tôi đ’... có thời gian chơi ú tim với ông đâu.

Tới đó Bá cất tiếng hỏi:

- Vì sao mày đánh thằng Cường?

- Nó quan hệ gì đến ông?... Nó là cụ tổ ông hay sao?

- Tất cả chúng ta đều quan hệ với nhau. Mày đừng nhầm. Trả lời đi: Thằng Cường có tội gì mà mày đánh nó?

- Thế trên đời có bao nhiêu thằng có tội bị đòn?

- Có, trên đời nhiều người không có tội bị đòn, và nhiều kẻ mang tội lại nhơn nhơn sống. Nhưng lúc này tao chỉ hỏi riêng chuyện thằng Cường. Trả lời đi...

- Có, nó có tội... Tội ở chỗ nó có bộ mặt để tôi thèm đánh. Không tôi sẽ là một thằng Đính khác, cũng vậy thôi. Bởi vì, cái mặt nó sinh ra để người ta thử quả đấm, cũng như cái thớt sinh ra cho dao chặt, cái cối sinh ra cho chày giã. Vật nào có chức năng của vật ấy...

- Mày đừng nhảm. Hãy nói một cách nghiêm túc hơn...

- Nghiêm túc?... Anh còn muốn tôi nghiêm túc đến đâu?.. Anh không hiểu lời tôi nói hay sao? Lúc nào rỗi rảnh, hãy nhìn kỹ mặt thằng công tử hạng ruồi ấy... Nó có ra mặt một thằng đàn ông không?... Tôi cam đoan với anh là không. Một trăm lần không. Thứ mặt nhợt như bụng cá, bạc nhược, hèn lụy... Tôi chẳng biết nô lệ thời Trung cổ, nhưng chắc chắn những kẻ nô lệ cũng chỉ có bộ mặt khiếp nhược đến như nó là cùng. Đã là thân nô lệ, nó phải chịu kiếp đọa đầy. Thế là phải lẽ...

- Mày tự cho mày là chủ nô?

- Ít nhất, tôi cũng không phải thứ hèn. Tôi là kẻ mạnh.

- Phải, mày là kẻ mạnh, theo nghĩa nào đấy. Mày có thể uống hai lít rưỡi rượu, trong khi số rượu đó làm người đàn ông khác cháy gan chết. Mày có thể bơi năm cây số đường biển, trong khi anh em chỉ bơi được ba, bốn cây. Mày có thể ăn một lúc hai cân thịt bò, xách quả tạ bảy mươi ký lô như xách làn đi chợ... Đó cũng là một sức mạnh... Nhưng còn những sức mạnh khác, Cường đã có mà mày không thể có. Nó phân biệt được một bản nhạc Ý cổ điển với một bản nhạc nhẹ đương thời. Nó biết tiểu thuyết “Cuốn theo chiều gió” là của một nữ văn sĩ người Anh chứ không phải của ông Mac-xim Goóc-ki. Nó biết tư tưởng chính của sếch-xpia, của Huy-gô, của Đốt-stôi- ép-ski. Nó biết ngày nay tin học đã phát triển tới cấp độ nào và người ta đã ứng dụng được khoa học ấy ở vùng đất nào trên thế giới. Nó biết và mày không biết. Trong lãnh vực kiến thức, nó mới là kẻ mạnh. Chính mày cũng tự thấy sự yếu kém của mình. Nhưng mày không dám thú nhận. Và mày dùng sức mạnh cơ bắp để hủy diệt thằng bé. Không phải vô cớ mà mày đập đầu thằng Cường vào thành tàu rồi mới ném nó xuống nước... Phải, mày cố ý đập vỡ sọ, cố ý tiêu diệt cái phần giá trị duy nhất của đối phương.

Anh ngừng lại, Đính vẫn chăm chăm nhìn anh, nhưng không cất được tiếng. Bá thong thả quan sát gã, rồi tiếp:

- Trong mọi thứ đố kỵ của con người, đố kỵ về trí khôn là ghê gớm nhất. Sự thua hụt về tiền của về nhan sắc, về hạnh phúc còn có lời bào chữa êm tai. Nhưng sự thua hụt về trí khôn là canh bạc cháy túi. Trí khôn là mảnh đất tranh chấp muôn thuở giữa kẻ thống trị với người bị trị trên mọi quốc gia. Người bị trị được thêm một mảnh ruộng thông tuệ, là họ tiến sâu thêm một đoạn vào sân phần của tự do. Và bị tước đi một mảnh, là họ lùi sâu thêm vào đầm lầy của tòng phục ngu xuẩn... Quyền hiểu biết là quyền lớn nhất của con người, điều đó như nhau. Nhưng khả năng hiểu biết thì mỗi kẻ mỗi khác...

Anh mỉm cười, hạ giọng:

- Thế nào, đã trúng tim đen người hùng chưa?

Đính không đáp. Nhưng mặt gã trở nên đanh lại, như mảnh gang. Những đường gân nổi hai bên quai hàm. Gã cắn chặt hàm răng, nhìn anh. Bá thong thả nói tiếp:

- Trước kia, tao chẳng có chút cảm tình nào với mày. Rồi một lần, nghe mày kể chuyện về gia đình, về ông bố quyền uy vô tích sự, về việc mày đã phản kháng những hành vi phi nghĩa và ra đi. Từ hôm ấy, tao thấy mày là một thanh niên sớm có ý thức, đủ tinh khôn để thoát khỏi những vây bọc xung quanh mà tạo lập một cuộc sống tự do. Nhưng dẫu sao tao cũng không thể yêu mày. Không một ai trên tàu yêu được mày, dù mày là một thủy thủ tài ba. Tim mày nhiều máu đen. Tâm hồn mày nhiều độc dược. Mày đã thoát khỏi một ông bố độc ác nhưng mày đã đem thói độc ác của ông ta theo. Thói độc ác ấy cắm sâu trong mày, như loài xương rồng mọc trên cát, đâm nhành nảy cánh...

Anh cởi khuy áo sơ mi, lần lượt từng chiếc một, và nói tiếp:

- Nếu ông bố mày tin rằng vì là bố nên có quyền độc ác với mọi người, thì mày cũng tin rằng vì mày là kẻ mạnh nên mày có quyền hà hiếp kẻ khác. Sức mạnh cơ bắp là thứ sức mạnh bò tót, không dễ kiếm nhưng cũng chẳng khó lắm đâu... Hôm nay, tao sẽ cho mày thấy nó...

Đính gầm lên, lao vào anh. Bá chưa kịp ném chiếc sơ- mi cho Tuấn nhưng anh cũng tránh được cú đấm của gã. Tức khắc, Bá quăng áo xuống cát, xông vào cuộc quần thảo. Tuấn hói, trong một giây nhanh nhẹn lượm chiếc áo của Bá, rồi lại lùi ra, tựa lưng vào cây dương. Chàng ca sĩ ngắm những ngọn đòn của Bá. Trước, thày dạy võ cho Bá từng dặn đi dặn lại:

“Không có việc cần, chớ xuống tay. Lỡ mất mạng người, tổn hại tới âm đức”

Thi thoảng, Bá vẫn vào hẻm núi hay ra bãi biển tập võ một mình. Nhưng chưa lần nào Tuân hói bắt gặp anh đánh lộn với ai. Thậm chí, chạm những thằng nhãi hung hăng, anh cũng nín nhịn bỏ qua. Có lẽ, Bá luôn ý thức được điều ông thầy đã dặn: Tới trình độ nào đó, người giỏi võ có thể gây nên những cái chết ngoài ý muốn... Ngược lại, Đính lao vào cuộc chiến với tất cả sức mạnh cuồng bạo mà gã có. Con người hiếu thắng, kẻ mặc cảm, gã đàn ông có máu sát nhân bẩm sinh... Cả ba cùng tồn tại, cùng hòa trộn trong dòng máu sôi sục của gã. Gã say đòn, máu lẫn nước bọt sủi hai bên mép, một đuôi mắt rách toạc, một chiếc xương sườn gãy, nhưng vẫn lao vào đối phương không tính toán. Gã chẳng có trí khôn ngay cả trong cái trò chơi võ biền này. Giống hệt con trâu điên, gã đấm, đạp, móc mắt, giằng xé Bá... không biết tất cả cơn kích động cuồng bạo kia đi tới đâu. Không biết đối phương ở tình trạng nào...

Bá vừa đánh, vừa có phần ngắm nghía và thương hại. Một bên mắt Đính chảy máu. Máu tràn qua nhãn cầu, thành bức màn đỏ nhòe. Gã chỉ nhìn thấy anh bằng con mắt kia. Nhưng gã vẫn bổ vào mặt Bá những cú đấm quyết liệt. Con mắt chột khiến cho cự ly sai lệch, vả lại, Bá tránh đòn rất nhanh, nên những cú đấm của gã trượt gần hết...

Cuộc quần thảo kéo dài một giờ hai mươi ba phút. Đính gẫy bốn xương sườn, đau tới mức cơn hiếu sát cũng không cứu được gã. Gã nằm nghiêng trên bãi cát bị cày xới. Mặt gã loang lổ máu và cát. Trên gương mặt ấy, con mắt lành của gã còn rực lên tia lửa thù.

Bá rút mù-xoa lau tay, cổ và mặt anh cũng nhiều vết xước vì những ngọn đòn bất ngờ. Chẳng phải Thiếu Lâm, Hồng Đa, Nhất Nam, Vĩnh Xuân hoặc bất kỳ một môn phái nào anh từng biết. Anh bảo Tuấn hói:

- Nó đánh như người bơi chó, nhưng đôi khi bơi chó cũng vượt được sông đấy ông ạ...

Đoạn anh mặc sơ-mi:

- Ta về tàu thôi.

Tuấn hỏi:

- Có cần lấy nước dội vào đầu nó không?

Bá đáp:

- Không. Nó không chết đâu. Một giờ nữa, hồi lại, nó sẽ đủ sức bò khỏi bãi dương, vẫy xe vào bệnh viện. Trong khoảng thời gian đó, nó sẽ phải chịu đau, và sẽ hiểu nỗi đau của người khác.

Hai người ra khỏi bãi cát. Họ đón xe Lam. Tuấn hói bảo:

- Trông mắt nó, tôi biết rồi đây sẽ có lúc nó phang cho tôi hoặc cho ông một búa vào đỉnh sọ. Dù thời gian để xảy ra chuyện đó có thể là một tháng, một năm hay mười năm...

- Cũng có thể...

Bá đáp. Nhưng kỳ này, nhất thiết phải tống cổ nó khỏi tàu. Bởi cuộc sống lênh đênh của chúng ta cần tới sự liên kết và tình thân ái. Dung nạp nó có nghĩa là nuôi một con rắn độc trong nhà...

Anh ngừng lời vì một chiếc xe Lam đã chạy tới.

❆❆❆

Nửa tháng sau, một ngày mưa sùi sụt, Bá đang quấn chăn ngủ ngon lành trên giường, bỗng có người gọi anh. Họ nói một ông già đang chờ anh dưới phòng trực. Bá tung chăn ngồi dậy, mặc quần áo, khoác ca-pốt đi xuống. Các con tàu dưng im lìm trong mưa.

Các cây cầu tàu ướt nhoáng. Sân cảng vắng tanh, chỉ đám cần trục đứng lơ chơ như lũ hươu nghển cổ hứng mưa trời.

- Ai nhỉ?

Bá lẩm bẩm, không khỏi bực mình, cũng không khỏi ngạc nhiên. Ai tới tìm anh lúc mưa to gió lớn này?... Những người thân của anh không có bất cứ lý do nào để lận lội tới cảng. Anh rảo bước, gần như chạy qua kè đá.

Chút nữa, anh đã thấy phòng trực với tấm cửa kính ròng ròng nước chảy. Người gác đi vắng sau khi báo tin cho anh. Trong phòng chỉ có một ông già cao lớn đang xây lưng ra cửa, mải mê xem tấm bản đồ hải lưu.

Trông vóc dáng, hoàn toàn xa lạ. Ông mặc bộ đồ vải đen, áo len dài tay. Cao lớn, vai ngang, lưng rộng.

Nghe tiếng bước chân, ông quay lại:

- Chào anh.

Bá đáp:

- Chào bác. Có phải bác vừa cho người gọi tôi?

- Anh là Bá, trưởng máy dưới tàu?

- Vâng.

- Tôi là Phùng Khánh Hai, người láng giềng của ông Ngạn.

- Mời bác ngồi. Tôi đã gặp bác Ngạn hai lần.

- Ông ta tới đây?

- Vâng.

- Tìm thằng Cường?

- Vâng.

- Và không gặp?

- Vâng.

- Cường đi vắng?

- Vâng...

Ông già ngừng lại, cúi đầu nhìn xuống chén trà trắng trơ trắng trợt mà người gác phòng trực đã rót mời ông. Dường như ông suy tính điều gì đó... Lát sau, ông ngẩng lên một cách quả quyết: "Anh bỏ lỗi... Có phải cháu Cường đi vắng thật không?" Mắt ông sáng quắc, mở đau đáu nhìn anh. Một cái nhìn quyền uy và thấu suốt. Bá bỗng rối trí. Anh hạ giọng:

- Quả tình là...

Ông già nói đón luôn:

- Nó đã trốn ông ta, và nhờ anh chống chế?

Bá mỉm cười. Rồi anh hỏi:

- Sao bác biết?

Ông già thở dài:

- Biết điều đó cũng chẳng sung sướng gì...

Tới lúc ấy, hai người mới ngồi xuống ghế. Trời rét, mặt gỗ lạnh tanh khiến Bá rùng mình. Ông già trơ trơ như gỗ, dù ông mặc ít quần áo hơn anh. Bá thấy những bắp chân bắp tay rắn chắc như gỗ đẽo, cả chòm râu trên cái hàm én cũng xum xuê, đen nhánh. Chòm râu đầy sinh lực. Ông đăm dăm nhìn anh, rồi nói:

- Ông Ngạn ốm đã non một tháng nay. Trước đây, ông cũng hay ốm vặt, lúc đau bụng đi tiêu, lúc cảm nóng, lúc cảm lạnh...tôi vẫn coi sóc. Chúng tôi là láng giềng gần, hai nhà chỉ cách hàng đỗ leo. Vả lại, tôi không vợ con, ngoài giờ làm vườn tôi rủ ông ấy đi uống rượu. Chẳng ngày nào chúng tôi không gặp mặt nhau, khi hết rượu lại có bình trà, hoặc mớ nếp rang hoặc vài củ lạc luộc... Nói thế, anh biết chúng tôi gắn bó với nhau dù ông ấy trái tính trái nết... Giờ ông ấy ngã bệnh, việc thăm nom tôi không quản... Nhưng lần này ông ấy mê lú, xem chừng khó đậu được lâu.

Ba đáp:

- Vâng. Hồi Bác tới đây, đã yếu lắm.

Ông già Hai tiếp:

- Anh cho tôi gặp Cường. Nó tránh mặt ông ấy, nhưng nó không dám tránh mặt tôi.

Ba đáp:

- Cường ốm. Cậu ấy vào viện đã hơn nửa tháng nay.

Ông già thở dài, cười buồn:

- Vậy tôi sẽ trở về, nói với ba nó rằng nó đang lênh đênh trên biển... Nó đi một chuyến dài ngày. Và lần này trở về, chắc chắn sẽ được phong chức đô đốc thủy sư...

Bá cũng cười. Anh hiểu ngụ ý của câu nói hàm chứa trong đó một chút giễu cợt. Anh bảo:

- Bác chờ ở đây. Tôi lên tàu, lấy ít tiền gửi cho bác Ngạn.

Ông già đáp:

- Được.

Bá khoác ca-pốt, trở lại tàu. Anh mở va-ly, lấy xấp giấy bạc lớn đem xuống. Ông già vẫn khoanh tay trước ngực, ngồi nhìn mưa. Trông như một pho tượng đá cũ kỹ của xứ Chàm. Chờ cho Bá đặt xấp tiền ngay trên bàn, ông nói:

- Tiền của anh, đúng không?

Bá im lặng.

Ông nói tiếp:

- Không phải bất cứ ai ném xuống tàu cũng nhặt được đồng tiền trên bọt sóng. Xưa nay, thiên hạ vẫn nhầm.

Đoạn ông lượm xấp tiền bỏ vào túi rồi đứng lên. Bá hỏi:

- Bác có nhắn gì cậu ấy không?

Ông già nói:

- Tôi đến thăm nó. Nó ốm bệnh gì?

- Cậu ấy bị thương... Hôm đó trời mưa, boong tàu trơn. Cường vô ý trượt ngã.

Ông già cúi đầu, không nhìn anh. Lát sau, ông cất tiếng:

- Thằng bé làm sao vậy?... Tôi không tin nó ngã...không tin.

- Cậu ấy ngã.

- Không.

- Lúc ấy tôi đi vắng... Khi về, nghe anh em kể lại...

- Nó không ngã... Nó làm sao vậy, anh nói thật cho?...

Chòm râu ông run rẩy, nhưng mắt vẫn cúi nhìn xuống đất. Bá bối rối hỏi:

- Nhưng tại sao, lại sao chớ?...

Ông già lắc đầu:

- Tôi đã sống với nó từ nhỏ, thuộc nết nó như thuộc lòng bàn tay. Cường là đứa trẻ cẩn thận nhất trong số những đứa trẻ tôi đã biết. Nó không thể bị thương vì vô ý trượt chân...

Ông ngước mắt lên. Trong đôi mắt sáng, quả quyết và trung thực, đẹp vẻ đẹp rất đàn ông ấy, lướt qua những tia phiền muộn. Bá không đáp, anh cũng không dám nhìn lâu vào đôi mắt kia. Anh đi lại trong phòng:

- Tôi...chính tôi cũng không hiểu...

Bá nói, anh biết lời lẽ của mình vô nghĩa. Ông già đột ngột cắt ngang:

- Anh Bá, xin anh cho địa chỉ?

- Địa chỉ nào?

- Nơi cháu Cường chữa bệnh.

- Trời mưa lo...bão tiếp tục bổ sung. Làm sao bác tới đó?.

Ông già lấy chiếc áo mưa vẫn vắt trên thành ghế, khoác lên vai:

- Tôi đi được.

Đoạn, ông rút trong túi cuốn lịch nhỏ cỡ nửa bàn tay:

- Xin anh địa chỉ của thằng bé.

Bá không ngờ tình thế chuyển xoay như thế. Anh đứng lặng hồi lâu, rồi chậm rãi nói:

- Bác ạ... Tôi khuyên bác không nên tới đó, vết thương của Cường không phải là một vết thương bình thường...dễ chữa... Người ta đã đưa cậu ấy sang một bệnh viện tâm thần…cách thành phố này mười tám cây số, về phía Bắc...

Ông già sững sờ nhìn anh. Mắt ông bỗng dục hẳn đi, như tắt hết lửa. Ông đứng sững hồi lâu rồi lẩm bẩm:

- Tại tôi...tại tôi...

Bá khẽ đập vào vai ông:

- Bác làm sao thế?...Bình tĩnh lại...

Ông già ngước đôi mắt đờ đẫn:

- Tôi là một kẻ độc ác, phải không?

Bá dịu giọng:

- Bác mê rồi... Bình tĩnh lại...

Ông già lắc đầu, cử chỉ đàng hoàng, dứt khoát:

- Anh nhầm... Tôi không như lão Ngạn. Tôi không mê.

Bá nói:

- Chẳng ai muốn có cái kết cục xót xa như thế... Nhưng biết làm sao?...

Ông già bảo:

- Tôi biết... Tôi biết cách tránh đi cái kết cục xót xa ngày hôm nay... Nhưng tôi đã không làm... Vì tự ái, vì giữ ý, vì sợ phiền lụy cho bản thân... Vậy mà tôi yêu Cường hơn cả người đẻ ra nó.

Ông ngừng lại, đăm đăm nhìn trời. Mưa vẫn mưa, một bức màn xám mênh mông. Tiếng còi của con tàu nào đó vọng ngoài khơi, nghe như chìm trong lớp nước. Khi tiếng còi tàu tắt đi, tất cả lại tĩnh lặng. Chỉ còn tiếng mưa độc chiếm thế gian. Ông già đứng trước mặt Bá, như hóa đá. Anh nhìn ông, không nói gì thêm. Cứ thế, một khoảnh khắc trôi qua. Rồi ông già cất tiếng:

- Anh đã bao giờ sống với dân biển chưa?... Anh đã bao giờ tìm hiểu đời sống của những người thuyền chài chưa?... Trong đám họ, có kẻ thấy người chết đuối sẵn lòng thả mái chèo nhảy xuống vớt, còn có kẻ quay mặt đi để người xấu số chìm xuống đáy sông, vì họ sợ cơn thịnh nộ của ma Nam, của Hà Bá...vì họ sợ nếu cứu người, mình phải nộp mạng sống thay... Tôi, tôi còn tồi bại hơn lũ dân chài ngu dốt ấy. Họ độc ác vì họ hèn, họ sợ... Còn tôi, tôi chẳng sợ thánh thần, cũng chẳng dè ma quỷ. Tôi không khuất lụy trước bất cứ sức mạnh thế tục nào... Vậy mà tôi đã quay mặt đi để thằng bé chết chìm... Tôi còn độc ác hơn lũ người độc ác ấy...

Ông nhìn anh, ánh mắt não lòng. Bá không dám nhìn ông, đôi mắt trước đây ít lâu còn rực lên những tia sáng mãnh liệt, giờ trở nên buồn sầu, yếu đuối. Chòm râu ông run run. Và nước mắt, như hai dòng suối nhỏ, chảy ràn rụa.

VĨ THANH

Hồi xảy ra câu chuyện này, tôi có ở thành phố. Trong số những thành phố đã từng sống, thành phố ấy có vẻ đẹp lạ lùng. Cây cối tốt tươi, hoa trái trong vườn lúc lỉu. Trời nhiều mưa, nhiều nắng, và ánh sáng phù ảo khiến cho biển thay màu như một con kỳ nhông từ thời hồng hoang lưu lại. Chiều chiều, cả chuông chùa lẫn chuông các nhà thờ Ki-tô giáo và phái Tin lành cùng thánh thót đổ hồi. Dân ở đấy hiền, không thích đánh nhau, mắt mơ màng như phủ bóng vườn cây. Nhưng thi thoảng, họ có những cơn khùng ghê gớm không thể đoán trước. Sống ở đấy bắt đầu quen, tôi lại có việc phải ngược lên phương Bắc, một thị trấn heo hút, hai tuần mới có một phiên chợ và phiên chợ nào cũng chỉ nghe hát lượn đã thêm sầu. Tôi vẫn nhớ thành phố biển, bãi cát, ánh dương quanh các khu vườn. Tình cờ, mùa hè năm nay, tôi có dịp trở lại. Phố phường vẫn như xưa, nhưng có thêm ba Hôtel mới và cỡ một chục tiệm ăn mới. Nghe đâu, toàn người nước ngoài và Việt kiều bỏ vốn làm. Đám này thật kỳ dị, sao họ chỉ thích xây nhà nghỉ và các tiệm ăn. Chắc họ âm mưu làm cho dân thành phố chết chìm trong hũ rượu? Bãi biển càng ngày càng đông. Dù đỏ dù xanh mọc như nấm. Tôi ra bãi cát chơi, sực nhớ tới nhân vật Trọng. Hỏi ba ngày, mới biết anh ta đã bỏ việc trở về quê. Biệt thự chim câu của Trọng và Bích xưa giờ ông phó chủ tịch huyện Sơn Thanh ở. Còn Bích, cũng đã chuyển sang thành phố khác, xuôi về phía Nam một trăm hai mươi cây số. Giá như không xảy ra sự kiện ở phòng số 314, tại hành lang phía Bắc của Hôtel sang trọng nhất thành phố hồi ấy, chắc cô còn lên mãi, lên mãi chức cấp nào không rõ. Ở xứ xở của chúng ta lạ lùng làm vậy, cùng một việc, giá giấu kín được trong vòng bí ẩn của đêm đen lại khác, bị phơi trước ánh mắt mọi người là nguy. Người đàn bà tinh khôn ấy không tính được chữ ngờ. Suốt ngày lang thang dọc bãi biển, tôi đã tới bến cảng tìm con tàu xưa, nhưng nó vắng mặt. Trong vụng nước là những con tàu lạ, bảnh chọe, kiêu kỳ với đám thủy thủ phương phi như người phương Tây. Không gặp ai quen để hỏi thăm Cường. Chàng trai trẻ đáng thương. Mãi lúc rời thành phố, tôi mới biết Cường đã được chuyển tới một tu viện ở bên kia cầu, cách nơi tôi ở chỉ non một cây số. Thời gian đầu, bị bệnh nặng suốt ngày chàng trai leo lên cửa sổ, túm chặt những chấn song như khỉ leo cây. Bất cứ ai, bất cứ vật gì cũng khiến Cường sợ hãi. Đối với người bệnh, thế gian là tụ hợp của các sức mạnh có thể dè nát anh ta, nuốt tươi anh ta. Trong đôi mắt to và đen, đẹp kiểu đàn bà, luôn luôn ánh lên nỗi lo âu, hoảng loạn. Đám người điên trong phòng thi nhau làm tình làm tội chàng trai. Một vài tháng, họ khám phá ra cách tra tấn Cường. Họ đặt anh nằm vào tấm vải dài, hai người túm hai đầu lắc lư như đưa võng. Mỗi bận như thế Cường lại rú lên từng hồi và ngất xỉu. Sau các bác sĩ biết chuyện, đưa anh sang phòng khác. Một phòng nhỏ biệt lập, gần khu nhà vệ sinh, luôn có mùi hôi thối nhưng yên tĩnh. Đặc biệt, gần đấy có một giàn hoa bìm nặng trĩu, quanh năm tốt tươi. Người ta thấy bệnh nhân suốt ngày ngẩng mặt nhìn giàn cây, thì thầm tự trò chuyện hoặc im lặng mơ màng vẻ mặt anh thanh thản, các cơn bệnh thuyên giảm rõ rệt.

Một ông già cao lớn, mặc đồ đen, đeo túi vải thường tới thăm Cường. Ông ta tỏ ra hào phóng, chịu khó mua quà bánh ủy lạo đám bác sĩ và người phục vụ. Trong mắt ông có vẻ phiền muộn, xót xa. Ông ta ngồi hàng ngày thủ thỉ chuyện trò với người bệnh trong gian phòng nặng mùi xú uế. Đôi lần, người hộ lý bắt gặp ông ta âm thầm khóc, gục đầu giữa hai cánh tay. Qua năm thứ hai, ông xin với các bác sĩ chuyển chàng trai tới một tu viện. Ông đã liên hệ với mẹ Nhất và các sơ, giúp bệnh viện điều trị tiếp. Các bác sĩ bàn đi tính lại mấy tháng ròng, đơn của ông mới dược chấp thuận. Từ bấy đến nay, Cường sống trong tu viện. Hồi còn ở thành phố, tôi đã nhiều lần đến tu viện ấy. Một lâu dài cổ, đồ sộ, xây gạch trần màu hồng thắm, các mái ngói chóp nhọn như búp thông. Xung quanh lâu dài là các bãi cỏ, vườn cây, các dãy nhà lợp đá tấm và chuồng nuôi gia cầm. Một bức tường bao quanh toàn khu vực, hình ô-van, hệt như bức tường bao quanh lăng vua Minh Mạng ở cố đô Huế. Dọc bức tường, rủ um tùm những loài dây leo có hoa rực rỡ: nào hoa i-rít xanh lơ, nào hoa ti-gôn hồng và đỏ thắm, nào hoa đăng tiêu vàng nghệ... Đứng ngoài nhìn vào, tu viện đẹp vẻ đẹp lạ lùng: nó trộn lẫn bầu không khí u tịch, cô liêu với sắc hoa đỏng đảnh. Ở tu viện đó Cường trở thành một người lao động đắc lực. Anh trồng vườn, cày xới lại tất cả nhửng mảnh đất đã lão hóa, đổi thay các giống cây cằn lụi, đặt một hệ thống nước tưới tuyệt diệu khiến tu viện trở nên mát mẻ. Người bệnh có một trí nhớ đáng kinh ngạc về các độ phì của đất, các loại phân bón thích ứng, các giống cây và quá trình gieo trồng. Anh đã biến khu vườn hoang vu, cằn lụi của tu viện thành một thiên đường bé xíu, quanh năm tràn trề hoa trái.

Thu nhập của bệnh viện tăng gấp ba lần rưỡi. Ngày nào cũng có một đàn sơ tha thướt vào vườn, khi thì cắt hoa tươi hoặc hái quả chín, khi thì dỡ hành tây hoặc khoai tây. Tháng hai lần, một chiếc xe Lam chở đầy ắp thực phẩm chạy thẳng vào cổng tu viện, tiếng nổ ròn nghe thật hãnh diện.

Mẹ Nhất và các sơ không có lý gì để không quý mến Cường. Việc nuôi một người bệnh tâm thần từ một hành vi nhân ái trở thành chuyện may mắn trời cho. Cường đã là một tài sản và niềm vui của họ. Họ theo dõi, săn sóc chàng trai như chăm bẵm đứa trẻ. Hồi đầu, Cường luôn luôn buột miệng gọi các sơ trẻ là An... Dạo ấy, chàng trai còn bị các cơn mê hoảng co giật và rối trí. Sau này, khi trí não sáng suốt lên, các cơn bệnh gần như chấm dứt, anh không gọi ai bằng cái tên ấy nữa. Nhưng nhiều bận, các sơ thấy chàng trai ngồi tựa lưng vào gốc cây hoặc bậc thềm, ngước đôi mắt u uẩn nhìn trời, như tìm kiếm ai đó giữa các tầng mây. Giả như ngồi gần đó lắng nghe, hẳn sẽ thấy anh thì thầm gọi:

- An, An ơi...An ở đâu?

Các sơ không muốn Cường rời tu viện. Nhưng nếu anh khỏi bệnh mà nhất quyết trở lại cuộc đời thế tục họ cũng không dám giữ. Theo các sơ dự đoán nếu tình trạng sức khỏe của Cường cứ tiến triển tốt như bây giờ, chỉ hai, ba năm nữa anh sẽ lành. Lúc ấy, Cường có thể bước vào cuộc đời như bất kỳ một chàng trai nào đó, bắt đầu đặt viên gạch xây móng cho ngôi nhà của mình.

Như vậy, quãng vài năm nữa, vào những năm 1990 hoặc 1991, nếu các bạn thấy trên đường, một người khách lữ hành tuổi xấp xỉ bốn mươi, gương mặt hoang vắng, đôi mắt đen và ẩm ướt như mắt đàn bà, tóc đã thưa và những nếp nhăn đã kéo chỉ dưới hai đuôi mắt... Anh ta xách chiếc va-ly nhỏ hoặc chiếc túi du lịch cũ. Và bên tay kia, chiếc làn cói mà các sơ chất đầy bánh trái ăn đường. Trong cái nhìn của anh ta, có niềm lo âu thầm kín, có sự ngờ vực lẫn nỗi cô đơn - ánh mắt của người đã tách biệt với cuộc đời một quãng thời gian xa lắc, như kẻ bị ném lên hoang đảo sau vài thập kỷ mới vẫy được tàu về. Anh ta đứng bên vệ cỏ, ngập ngừng mãi không dám giơ tay vẫy xe... Đó chính là nhân vật của cuốn chuyện này. Cường đã lành bệnh, rời tu viện để đi tìm đời sống, đi tìm cô An của anh ta.

Hà Nội, 15/12/1983

Dương Thu Hương
Theo http://vietnamthuquan.eu/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Bùi Phan Thảo với khúc ca bi tráng

Bùi Phan Thảo với khúc ca bi tráng Trường ca “Những ngọn khói về trời” của Bùi Phan Thảo là cuốn truyện bằng thơ, kể lại một thảm họa lịch...