Chủ Nhật, 26 tháng 1, 2025

Chốn vắng 2000000

Chốn vắng 2

Chương 11
Xá đang chuẩn bị đồ lề cùng đám thợ sơn tràng lên rú. Anh ta mặc mỗi chiếc quần đùi lại săn hai ống lên tận bẹn ngồi rửa cưa. Tấm lưng trần nhễ nhại mồ hôi vắt chiếc khăn mặt bông nhọ nhem. Lúc Bôn đứng trước ngõ Xá vẫn cắm cúi miết con giũa, tiếng thép cọ vào thép nghe ghê tai. Anh phải gọi bốn năm tiếng liền Xá mới dừng tay lại:
- Chờ tôi ra mở cổng.
Ðặt chiếc giũa vào hộp dụng cụ, Xá rút khăn lau ngực lau lưng rồi mới ra mở cổng cho Bôn:
- Cô Soan này lạ thật... Ðã bảo sáng nay người ta ở nhà, đừng khóa cổng, vậy mà nhót một cái đã bấm luôn ổ khóa vào... Rõ đúng là cái giống đàn bà đái không qua ngọn cỏ, nghĩ không dài hơn sợi tóc...
- Sinh ra cái khóa là để đi khóa về mở, anh nói gì lạ thế?
- Nhưng sáng nay đứng lên ngồi xuống cả thảy năm lần rồi, hết mẹ nó thời gian. Ðầu tiên thằng cu lớn quay về lấy cuốn vở bỏ quên. Lần thứ hai ông tướng lại quay về xin tiền góp cho nhà trường tổ chức đi tham quan thành phố. Lần thứ ba thứ tư hai ông hàng xóm sang xin đinh với xin vịt dầu thắp. Lần thứ năm là Bình kều...
- Bình kều hả? Ðã mấy lần tôi định sang cậu ta chơi mà chưa đi nổi... Bình khỏe không?
- Vẫn nhì nhằng.
- Nghe đâu cậu ta làm ăn khấm khá lắm...
- Cũng khá hơn tôi đôi chút. Nhưng từ Tết đến giờ toàn gặp rủi ro, tích được đồng nào cũng tẩu tán hết rồi. Trước hết ông bố vợ bỗng dưng lăn đùng ra chết. Cô Lãm là con một, Bình lại ở rể nên phải cõng toàn bộ chi phí đám tang. Họ nhà ấy to nhất làng, nên cậu ta phải làm trên một trăm hai mươi mâm mới đủ. Rồi bây giờ cô vợ lại sưng lách. Vừa sưng lách vừa mang thai tháng thứ năm. Bình lo méo mặt. Sáng nay nó mò đến đây, tôi cạn tiền phải bảo cô Soan cho nó mượn cái nhẫn cưới đem bán đưa cô Lãm xuống viện thành phố...
Bôn tái tê. Con tàu hy vọng của anh chìm xuống. Ðêm qua anh dự tính vay một mớ tiền của Bình. Tuy lâu ngày không gặp nhau nhưng Bôn biết tình bạn của họ không lay chuyển. Hai người cùng học một lớp suốt sáu năm trung học, cùng là vần B, họ được xếp chung một bàn và hầu như ở bên nhau trong mọi công việc của nhà trường. Nếu đi cắm trại, họ cùng ở ban tổ chức. Có sinh hoạt ngoại khóa, hai người cùng ở tổ Vật Lý và tổ hướng dẫn sinh trong phòng thí nghiệm. Những đêm liên hoan văn nghệ, cả hai cùng ở nhóm ngâm thơ, Bình có giọng ngâm ngọt ngào, còn anh đệm đàn bầu hoặc thổi sáo theo... Vào cái thời mộng mơ ấy, cả hai đều quyết chí thi cho được tấm bằng đại học và làm cuộc đổi đời dời chốn sơn dã về thành phố. Với họ, điều ấy cũng không quá xa vời, hai người cùng là học sinh loại giỏi. Bình chỉ kém riêng môn Văn, thường nhờ anh chữa bài giúp. Biết bao kỷ niệm se sắt đã gắn bó tuổi thiếu niên của họ. Bình thường chia cho anh nắm xôi buổi sáng, hoặc những đùm khoai dẻo mà chị ruột gói ghém cho. Bôn không quên vị khoai ngọt bùi ấy, vào những năm niên thiếu khốn khó của anh, không có Bình chưa chắc anh đã theo nổi ngần ấy năm ăn học. Tiền của anh kiếm được chỉ đủ mua giấy bút và những món chi dùng tối thiểu.
Anh không đủ gạo nấu ăn sáng, cũng không đủ sức mua cá mắm hoặc các thức ăn khác cho bữa cơm học trò nghèo... Tất thảy những thứ đó do Bình bù đắp. Cái gã cao kều ấy là kẻ hảo tâm bẩm sinh, cậu ta giúp tất cả những ai có thể giúp được với vẻ an nhiên không tính toán dường như đó là phận sự của kẻ làm người. Ðám học trò giàu sang trong huyện do đó phải nể vì. Hai kẻ mơ mộng ấy đã bỏ giấc mơ dở dang cùng một ngày, cùng một ngày tòng quân nhưng lại phiên chế về hai đơn vị. Bình ở cùng đơn vị với Xá. Dạo anh về, Bình nhắn Xá nói với anh rằng cậu ta đang bấn bíu, ngày nào đó rảnh rỗi sẽ sang thăm và sắm bữa tiệc mừng... Anh những tưởng Bình mắc công việc dở dang, ai dè cậu ta đang lâm vào cơn khốn khó:
Ta vẫn ngỡ có thể níu lấy áo trang nghĩa hiệp thuở xưa. Ai ngờ cậu ta cũng sảy chân vào cảnh đắm tầu... Ðây mới chính là ngõ cụt.
Bôn thấy cơn gió lạnh chạy dọc sống lưng anh, dù trời đang nóng. Trên tấm ngực trần của Xá, những giọt mồ hôi lớn bằng hạt đỗ đen đầy quanh hai núm vú. Có một cái tên nảy lên: Già Ðọt... Nhưng anh nhìn thấy trước cái quả hy vọng cuối cùng kia cũng thối. Người đàn bà xuân sắc từ hơn năm mươi năm trước chẳng thể nào có một kho vàng để cất giấu đến giờ. Bà cưu mang mẹ con Tá, những người có liên quan huyết mạch vì đám trẻ ấy chỉ cần miếng ăn cho qua ngày, hạt cơm cõng củ khoai, gắp rau kèm lát sắn. Vậy mà anh đã mơ tưởng gây dựng cơ đồ nhờ những đồng tiền của bà lão gần đất xa trời...
Ta là kẻ mơ mộng hão huyền vô tích sự.
Xá chột ngẩng mặt lên, con mắt lành xoi mói:
- Ngồi xuống đi... Làm gì mà đứng đần thối ra như vậy?
Bôn giật thót, nhưng tâm trí vẫn còn tê dại. Anh vơ chiếc ghế đẩu ở góc sân ngồi. Nhà Xá có đến hàng chục chiếc ghế đẩu các cỡ và các kiểu. Ðúng như người ta bảo: Thợ may ăn giẻ, thợ vẽ ăn hồ. Kẻ làm nghề sơn tràng và nghề mộc chỉ lãi ở những mảnh gỗ thừa thẹo.
- Ngồi đấy...
Xá nói tiếp, giọng to như quát vào tai anh:
- Ngồi đấy... Tôi phải rửa nốt con cưa mẹ...
Bôn chưa kịp nói gì Xá bỗng dừng tay nhìn chòng chọc vào mặt anh.
Lần này cái nhìn đó kéo dài, khoan xoáy vào một điểm nào đó trên mặt Bôn khiến anh bỗng dưng nóng bừng hai tai. Con mắt lành của Xá hấp háy, hấp háy rồi đột nhiên Xá hạ giọng thì thào:
- Sao?.. Ấy rồi phải không?
Bôn hiểu ý Xá, nhưng chưa biết trả lời ra sao. Hai thái dương anh cũng nóng rực lên.
Xá lại hỏi tiếp:
- Có làm ăn được không?
- Cũng tàm tạm.
- Tàm tạm là thế nào. Tôi với cậu là chỗ mặn tình, tôi mới hỏi.
- Nó có lên được không?
- Ðược vừa phải.
- Kim trỏ số 3 à?
- Không hẳn thế.
- Thì sao?
- Tôi cũng chẳng hiểu.
Xá trợn mắt, không còn thì thầm mà quát toang toác lên:
- Vớ vẩn... Ðừng ú ớ con mẹ... Trông điệu bộ của cậu tôi biết là hỏng rồi.
Ðôi mày anh ta cau lại. Rồi cũng chẳng rửa nốt con cưa mẹ, Xá quẳng chiếc dũa vào hòm dụng cụ, đứng lên:
- Này, chuyện nghiêm chỉnh đấy, không đùa được đâu... Tôi nói vậy cậu có hiểu không đấy?
Nói xong, không chờ Bôn trả lời, Xá đi tới góc nhà, móc túi áo lấy hộp thuốc lá sợi đem vấn. Anh tìm một chiếc ghế khác, ngồi đối diện với Bôn:
- Cậu có hút không?
- Có.
Xá đưa hộp thuốc cho Bôn rồi cúi xuống, lăn điếu thuốc của mình:
- Tôi đã nói với cậu rồi... Cái nghề đàn ông đàn bà, phải mê nhau mới ăn ở được với nhau.
- Tôi yêu Miên... Tôi không yêu ai ngoài người đàn bà ấy.
- Phải. Nhưng còn cô Miên... Vấn đề là ở chỗ ấy. Có tình yêu hai phía mới thành vợ thành chồng. Tôi nói thế này cậu đừng giận. Ngủ với con đàn bà chẳng yêu mình thì thà cứ tìm lỗ né cáy còn hơn.
- Chúng tôi đã từng là vợ chồng. Mối tình đầu của tôi cũng là tình đầu của Miên... Cần phải có thời gian để tìm lại...
Xá rít mấy hơi thuốc liền, rồi hỏi:
- Cậu đã gặp tay Hoan chưa?
- Chưa. Anh ta xuống thành phố. Chủ Nhật mới lên nhà bà Huyên thăm con chốc lát rồi lại đi...
- Cậu không đến nhà bà dì Miên hay sao?
- Trừ phi Miên có việc bảo tôi phải đến.
- Thế thì cũng phải... Bà ta chẳng ưa cậu... Mà cậu cũng chẳng mến chuộng gì bà lão đỏng đảnh ấy... Nhưng theo tôi, ít nhất cũng một lần cậu nên gặp tay Hoan.
- Tại sao tôi phải gặp anh ta? Chẳng để làm gì hết... Anh ta có phần anh ta và tôi có phần tôi.
Trán Xá nhăn lại. Anh ta ném đầu mẩu thuốc ra vườn rồi lại vớ hộp thuốc cuốn luôn điếu khác.
- Này Bôn, lời nói thẳng vốn khó nghe nhưng hôm nay cậu hãy gắng mà nghe cho đến đầu đến đũa. Tôi với cậu chẳng phải anh em họ mạc nhưng chúng ta có cái tình gắn bó còn mặn mà hơn thế. Bởi vậy tôi thấy có trách nhiệm phải nói cho cậu biết rõ mọi ngả nông sâu của cuộc đời. Ngày xưa đi học, cậu vẫn thường giải toán cho tôi, sao
bây giờ cậu không biết cách giải bài toán chính của số phận?
Hiện tình, cậu đang cưỡi trên lưng cọp. Trèo lên lưng cọp không hẳn dễ, nhưng xuống đất còn khó gấp vạn lần... Thông minh như cậu hẳn biết vì lẽ gì cô Miên từ bỏ tòa ngang dãy dọc của cô ấy để về rúc trong gian buồng lợp gianh của cậu. Người đàn bà trọng danh dự lắm mới làm nổi cái sự ép mình như vậy. Gặp kẻ khác tôi đoan chắc cậu chỉ có nước xách bị rời khỏi cửa nhà cô ta... Nhưng mọi sự trên đời đều có giới hạn. Cô ta không thể vì nghĩa cử mà sống với cậu cho đến lúc tóc bạc răng long. Tôi nói rồi, chuyện gối chăn phải yêu mê nhau mới nên hồn... Muốn đánh trận phải nhìn rõ mặt đối thủ... Tại sao cậu không thử tìm cách gặp Hoan, dù chỉ một lần?
Mặt Bôn nóng bừng bừng, và anh nghe trong tai mình có tiếng ù ù như ai xay lúa:
- Tôi chẳng hoài hơi làm cái điều ngu ngốc ấy... Tôi không định đấu gươm với anh ta và bây giờ không còn là thế kỉ mười lăm, mười sáu...
- Vậy, cậu cứ nhắm mắt nhảy ào xuống sông, không lường nông sâu, chẳng dò nước ấm hay lạnh?
Bôn không trả lời.
Xá cũng không gặng thêm nữa. Hai người ngồi phun khói trong im lặng. Những mẩu đầu thuốc tiếp nối nhau quẳng ra vườn. Trời mỗi lúc càng thêm nóng và thi thoảng Xá lại vớ tấm khăn bông lau bộ ngực vạm vỡ lẫn tấm lưng trần của anh ta. Bôn không nhìn nhưng anh biết anh thèm muốn những bắp thịt nổi vồng trên khuôn ngực gã sơn tràng, thèm muốn gương mặt cười cợt chung thân như mặt thằng hề nhưng lúc nào cũng ngời lên ánh sáng của thiện tâm và hạnh phúc. Tiếng chim vườn chốc lát lại rót vào không gian, khiến vòm trời như cao hơn và màu lơ kia trong veo trong vắt. Bao nhiêu giây phút trôi qua, Bôn không nhớ. Nhưng sau đó rất lâu Xá cất tiếng thở dài và hỏi:
- Này Bôn, cậu biết tỉnh ta vừa thành lập nông trường chứ?
- Không, tôi không đọc báo.
- Nông trường đó ở cách đây ngót một trăm cây, tên gọi Bình Minh.
Nó được lập ra để hứng đám con gái phục vụ chiến tranh giờ đã quá lứa không còn tuổi lấy chồng, trở lại quê hương cũng bẽ bàng mà tìm công việc nơi thành phố càng khó khăn. Ở đó, họ trồng dứa và trồng tiêu như quê ta... Tay Liệu bạn hẩu của tôi chuyên ngành về làm trưởng phòng hành chính. Cậu có thể đến đó, sinh sống sẽ dễ dàng hơn tự kiếm vốn vỡ khu đồi xã chia cho cậu ở đây. Nông trường này vẫn còn được nhà nước bao cấp và đám cán bộ quản trị hưởng lương theo thang lương quy định... Ðất ấy chắc hợp với cảnh neo đơn của cậu. Ðiều chủ yếu là ở Bình Minh cậu có thể chọn trong số hơn hai trăm cô thanh niên xung phong quá lứa một người vừa ý về làm vợ.
- Anh nói lạ lùng... Gia đình tôi ở đây... Quê hương tôi ở đây...
Xá cười khẩy, lắc đầu:
- Quê hương chỉ có ý nghĩa khi tìm được một mái ấm... Thế nên ở nơi nào ta tìm được một mái ấm, nơi ấy là quê hương... Còn gia đình cậu là bà Tá hay cô Miên?
Bôn không trả lời, Xá nói tiếp:
- Gia đình cậu nghĩa là cô Miên, tôi nói thế cậu không phản đối chứ? Hãy nghĩ cho cạn lẽ, đã chắc gì cô Miên yêu cậu, cảm thông với cậu hơn một cô thanh niên xung phong quá lứa lỡ thì đang ngong ngóng chờ một thằng đàn ông nào rờ mó tới? Chỉ những kẻ cùng cảnh ngộ mới có thể thương nhau đến đầu đến đũa. Chúng ta đã từng là lính. Tất thảy những thằng lính ra khỏi cuộc chiến tranh đều phải nộp thuế, đều phải để lại vật gì đó làm lễ tế thần... Như tôi chẳng hạn, mảnh bom nhỏ bằng mảy trấu cũng móc ra một con mắt. Như thế, tôi đã nộp xong xuất thuế của mình... Còn cậu...
- Tôi cũng ngần ấy năm lưu lạc, anh xem...
Xá lại lắc đầu:
- Chưa đủ đâu, người anh hùng ạ... Tôi thấy như là chưa đủ xuất...
- Dạo này anh ăn nói lạ lùng...
- Ờ... Cũng có thể tôi trở thành thằng gàn trước tuổi...
Lúc đó, Soan từ ngoài cổng đon đả bước vào. Chị cắp một thúng đầy những na lẫn ổi. Người đàn bà trẻ tuy không đẹp nhưng tươi tắn, mặn mà. Cũng như chồng gương mặt chị lúc nào cũng ngời lên ánh sáng của sự mãn nguyện lẫn thiện tâm:
- A, chào chú rể mới... Sao, anh đón nàng về dinh có vui không?
Bôn chưa kịp đáp Xá đã nạt nộ:
- Cái cô này đa sự... Ðã bảo đừng khóa cổng mà cứ quen tay. Làm người ta đứng lên ngồi xuống gãy cả gối đây này...
- Ðấy, anh Bôn xem... Ra trận là lính mà về với vợ con là tướng, hách chẳng ai bằng.
Nói xong chị cười. Chiếc răng khểnh làm nụ cười rạng rỡ hẳn lên. Chị ngước mắt nhìn chồng vừa thần phục vừa riễu cợt:
- Hung hăng thế mà hồi lên cái nhọt ở mông, em nặn cho kêu rống lên như con bò bị chọc tiết, quá đứa trẻ lên ba...
Xá bảo:
- Da thịt người chứ có phải sẹo gỗ đâu mà không đau? Thử rơi vào cô xem... Cô không khóc hu hu tôi cứ bé bằng con kiến.
Soan chọn mấy quả na chín cây và vài quả ổi bỏ vào đĩa:
- Thôi thôi, em chẳng hơi sức đâu mà đấu khẩu với anh. Từ thuở lọt lòng đến giờ anh có chịu thua ai nhời nào đâu? Chẳng cứ bạn hữu, xóm giềng mà ngay cả cô dì chú bác, những bậc bề trên trong họ... Nào, anh Bôn ăn đi. Xem ổi vườn nhà em có ngọt bằng ổi bên vườn nhà anh không?
Bôn cắn trái ổi, lưỡi ngọt dạ chẳng ngọt. Ổi nhà anh còi cọc không được trái chín nào. Quả mới ương ương lũ con Tá đã hái ăn sạch. Những đứa trẻ thả rông như loài thú hoang, không tới lớp mẫu giáo, cũng chẳng học vỡ lòng tha lôi nhau hết vườn nọ tới đồi kia, lăn lê từ lối mòn này sang ngả đường khác... Bao năm khu vườn bỏ mặc cho kiến bọ, các loài sâu và các loài chim. Từ khi anh về, anh đã trồng ở đó một luống cây hương nhu và vài khóm hoa riềng dại. Vì chúng là thứ cây không ăn được nên lũ con Tá để yên. Nhưng đất cằn, ngay những hương nhu cũng không lớn được, mấy khóm riềng dại không trổ hoa còn người đàn bà anh yêu lạnh lùng như khí núi... Phải, Xá nói đúng, cái giống đàn ông đàn bà phải mê nhau mới ăn ở được. Cứ nhìn cảnh nhà Xá đủ biết, vợ anh ta mê anh ta đến thế nào. Mặc dù đã được nghe kể nhiều lần về cuộc tình
giữa Xá chột với cô Soan, Bôn vẫn không hình dung nổi người đàn bà hiền lành đon đả vừa lựa những trái ổi chín mời anh lại có thể táo tợn đến nhường ấy...
Dạo Xá phục viên, chẳng có trong tay thứ gì ngoài vài bộ quân phục và món tiền còm đủ làm vài mâm cơm rau dưa mừng ngày đoàn tụ. Cha mẹ Xá đã chết từ lâu những năm anh còn ở chiến trường ngôi nhà hương hỏa ông anh chiếm, thêm bà chị dâu mặt lúc nào cũng nặng như chì nên Xá ở nhờ nhà ông chú ruột, và bữa cơm đoàn tụ được làm tại nơi đó. Vài ngày sau, gã trai đã vác đồ nghề sơn tràng lên rú, bắt đầu lại cuộc sống sơn dân. Bất đồ, Xá gặp Soan hái củi. Họ yêu nhau tức khắc, theo đúng kiểu người đời vẫn gọi: Ái tình sét đánh. Thời con gái, Soan cũng không đẹp nhưng duyên
dáng, mặn mà, khối người để ý. Trong số đó, có gã anh trai họ đằng mẹ của cô. Anh ta không thật giàu nhưng cũng có ngôi nhà ba tầng dưới thành phố, dẫu một tầng chỉ rộng mười sáu thước vuông nhưng cũng đàng hoàng mở được cửa hàng đại lý ngũ cốc và nhờ đó lúc nào cũng rủng rỉnh tiền. Anh ta hơn Xá hai tuổi nhưng khôn ngoan từng trải, lại có cả một chiến thuật mua chuộc đám họ hàng, xóm giềng nên cầm chắc phần thắng trong tay. Cưỡi chiếc xe mới dán nguyên tem về làng, nhưng bất kỳ gặp ông già bà cả nào anh ta cũng xuống xe, cúi chào lễ độ. Sau đó anh ta tới hỏi thăm từng nhà, bắt đầu từ ông trưởng tộc xuống đến các ông trưởng chi, nội lẫn ngoại, không quên đem theo quà bánh để đặt lên bàn thờ, thắp nén hương khấn vái tổ tiên. Ông trưởng tộc được một gói trà ướp sen với hộp bánh nướng hảo hạng, ông trưởng chi được gói trà ướp nhài với phong bánh quy, rồi các bà láng giềng được khăn len quàng cổ, trẻ con được kẹo hồng và kẹo cam... Thứ nào cũng gói bọc tinh tươm bằng giấy bóng màu rực rỡ... Tiếng khen râm ran không ngớt từ trong nhà ra ngoài ngõ:
- Cô Soan vớ được tấm chồng, đáng công trang điểm má hồng răng đen... Sau này tha hồ nhờ cậy...
- Trai thời nay chẳng thấy ai thông thái như anh Khiền. Còn trẻ thế mà thuộc làu làu lịch sử... Bữa trước lại chơi, anh ta đọc vanh vách cụ tổ nhà tôi đỗ bảng nhỡn năm nào, tháng nào, cùng thời với ai... Mình bạc trắng đầu cũng không biết rõ tổ tiên mình
đến thế...
- Anh ta có chữ, lại sẵn tiền, hào hiệp với xóm giềng làng nước, con cái Soan lấy được tấm chồng như thế ngang lên cõi tiên...
Bố mẹ cô Soan, khỏi phải nói, sướng lăn lóc. Họ hớn hở chờ ngày "đám cưới to nhất làng nhì xứ" được thực hiện:
- Con xem xem, trong làng ngoài nước không ai không ca ngợi anh Khiền... Người đức hạnh như thế, nhất nhất sau này sẽ thủy chung. Con lấy anh ta sẽ được đổi đời, sau này ăn trắng mặc trơn chẳng đầu tắt mặt tối như dân xóm Núi...
Soan lắc đầu nguây nguẩy:
- Con không lấy ai cả, con không lấy ai hết... Con ở nhà với bố mẹ...
Nhưng không ngày nào cô không gặp Xá. Hai người chết mê chết mệt với nhau. Bố Soan bắt được họ ngồi tự tình ven đồi liền tát cho cô hai cái nảy đom đóm mắt rồi dẫn về, trói ở cột chuồng trâu một đêm một ngày liền cho biết phép nhà... Ðám bạn Xá chạy tới, vừa an ủi vừa khuyên:
- Ðối phương mạnh quá Xá ơi, cậu lấm lưng mất. Tính trước đi là vừa...
- Nếu quả tình không cứu vãn được, hãy ra tay trước. Cậu phải tuyên bố bỏ cô ta để khỏi mang tiếng là kẻ bị đá đít... Khiền tuy giàu sang, lắm tiền của lại nguyên vẹn cả hai con mắt nhưng hắn sẽ bị đo ván một khi cậu tuyên bố bỏ cô Soan. Như thế, trước mắt thiên hạ, hắn là kẻ hứng của thừa...
Xá bối rối. Anh chưa biết tính cách nào. Anh yêu Soan, nhưng xem ra đó là mối tình vô vọng. Cuộc so đo không ngang sức. Anh, gã lính về vườn, không cắc bạc trong tay, cửa nhà không, nương vườn chưa có. Xã cũng đã chia cho anh khu đồi nhưng chưa có tiền mướn thợ vỡ đất trồng cọc và mua giống tiêu. Anh dự tính phải sau hai
mùa sơn tràng mới lo nổi số tiền ấy...
Vào lúc anh bấn loạn Soan chạy đến, mặt mày sưng đỏ muỗi cắn, nước mắt lấm lem. Cô bảo anh rằng cô phải rống lên đến nỗi bố mẹ xấu hổ với láng giềng đành cởi trói. Rồi cô giục:
- Anh phải cưới em ngay... Phải cưới ngay tắp lự.
Xá gặng hỏi:
- Vậy... ra Soan không yêu anh ta chút nào chứ?
- Không... không...
Soan gào thật to đến nỗi ông chú ở trong nhà phải ló đầu ra nhìn.
Lúc ấy, hai người ngồi nói chuyện bên rặng dâm bụt trước ngõ.
Soan gào lên rồi quắc mắt nhìn Xá:
- Em đối với anh mặn tình như thế mà anh dám hỏi câu ấy... Vậy anh coi em là kẻ ăn ở hai lòng?
Xá sợ, vội thanh minh:
- Không, tôi không dám... Chẳng qua là vì...
Anh không dám nói với Soan một cách thành thật những ý nghĩa của mình, càng không dám nói tới những lời khuyên của đám bạn. Soan bảo:
- Em không bao giờ yêu cái lão hói đầu ấy, không bao giờ em ngủ với lão hói đầu ấy, dù nó giàu vô thiên lủng.
Xá hỏi:
- Nhưng anh biết làm sao bây giờ? Anh yêu em nhưng anh không dám cãi lộn hoặc đánh nhau với bố em vì làm như thế chúng ta sẽ trở thành những đứa con bất hiếu.
Soan đáp, không chút chần chừ:
- Chúng mình phải ngủ với nhau ngay, ngay tức khắc... Em mà chửa ra, bố mẹ mới hết ép gả cho lão Khiền. Thằng cha ấy đã chuẩn bị mười tám mâm ăn hỏi vào tháng sau...
Lúc đó, anh đang ở nhờ nhà ông chú ruột. Nhà rộng nhưng không có buồng riêng. Hai đứa con trai ông chú tuy trẻ đều đã cưới vợ, chiếm giữ hai căn buồng đầu hồi. Ông chú với anh ở ba gian nhà giữa. Gian chính đặt bàn thờ, ông và Xá mỗi người ngủ mỗi gian
bên. Ba gian đều rộng rênh nhưng nhìn thông thống sang nhau. Và họ chẳng thể làm ăn được trong cái không gian ấy:
- Khó quá...
Anh than thở:
- Anh định kiếm mớ tiền rồi mới dựng nhà... Ðất xã đã chia nhưng phải có tiền mua gỗ mua gạch mới có thể tính chuyện...
Soan giãy nảy:
- Chờ đến lúc ấy thì hỏng hết chuyện... Mình phải ngủ với nhau ngay đêm nay, đêm mai, đêm ngày kia... Em nhất định phải có thai mới nên được duyên kiếp...
Hai người nghĩ ngợi một giây rồi Soan quyết định:
- Anh vào lấy vải nhựa ra đây.
Xá vào nhà và sau đó quay ra với chiếc ca-pốt của lính Mỹ, chiến lợi phẩm anh thường dùng những lúc lên rừng. Họ cùng nhau qua thung lũng, qua mấy dải đồi trồng dứa lên tới những con dốc mọc đầy cây dâm dương hoắc. Ở đó, họ ngồi chờ mặt trời lặn, chờ
khoảnh khắc thiêng liêng để bóng tối bao phủ rừng núi đồi nương làng xóm, thả thứ sương mù đen như mực cho ánh mắt tò mò tọc mạch của thế gian không thể rọi tới...
- Thế nào, ăn được chứ hả?
Xá cất tiếng.
Bôn giật mình vội đáp:
- Ngọt... Ngọt thật.
Xá bảo:
- Vườn của cậu phải cải tạo. Phải cải tạo hoàn toàn. Tôi nói vậy nghĩa là cậu phải đốn hết cây, đào hết gốc, đem làm củi tất tật. Rồi xới xáo lại, ủ phân trộn nhuyễn với đất và trong một thời gian dài cho đất nghỉ ngơi, bổ dưỡng mới được tính đến chuyện trồng cây khác.
- Tôi hiểu.
Bôn đáp. Trong lúc tim anh rên rỉ:
Gã đàn ông kia sung sướng thật... Gã tính mọi chuyện dễ ợt như vẽ lên lòng tay. Bởi gã có được một người đàn bà yêu gã đến thế, tận tình đến thế, hy sinh vì gã đến thế... Có được tình yêu, người đàn ông sẽ có cả thế gian.
Bôn biết rằng khởi đầu Xá cũng là kẻ trắng tay. Ngay đám cưới Soan anh ta cũng không làm nổi. Chính là Soan, người đàn bà táo tợn kia lo toan chuyện đó. Soan có thai, cô ra ngay trạm xá khám và tuyên bố với gia đình. Cô bảo bố mẹ rằng chính cô ta nhẹ dạ nên bây giờ họ phải đứng ra gánh vác chuyện cưới xin nếu không muốn mất mặt với láng giềng. Nếu ông bà đứng ra tác tạo cho đôi lứa, sẽ được thêm một đứa con. Xá là gã trai siêng năng tốt bụng, ăn ở hậu hĩ với anh cũng chẳng sợ thiệt thòi. Bằng không, cô vác bụng theo anh ta, ông bà sẽ mất đi chính đứa con ruột thịt, mất công mang nặng đẻ đau... Sau rốt, lời lẽ của đứa con gái táo tợn đã đánh ngã hai bậc phụ mẫu. Chính bố mẹ Soan đứng lên dựng rạp, lo hơn một trăm mâm cỗ cưới cho hai người. Soan đẻ con trai. Xá làm ăn khấm khá hẳn lên, số anh ta như diều gặp gió và rồi đúng như Soan dự đoán, anh ta trở thành đứa con rể hiếu thuận nhất làng...
- Thế nào, cậu vẫn giữ ý định làm nương tiêu chứ?
Xá lại hỏi.
- Phải, tôi muốn trồng tiêu, vì chẳng có nghề sơn tràng như anh.
Bôn trả lời.
- Không ít vốn đâu.
Xá bảo. Bôn im lặng. Anh lại thấy con tầu đang chìm xuống biển bùn và nỗi ê chề tràn ngập.
Xá gặng hỏi:
- Cậu nhất quyết ở lại Xóm Núi.
- Tôi ở lại.
Bôn đáp. Sau khi ngập ngừng vài giây, anh nói thêm:
- Tôi yêu Miên...
Anh biết rằng lẽ ra anh phải nói:
Tôi yêu người đàn bà đó dẫu cô ta không còn yêu tôi nữa.
Nhưng tôi đã đặt hết cuộc đời tôi vào mối duyên này giống con bạc khát nước cuộc toàn bộ gia sản vào ván bài sau chót... Tôi không thể ra đi. Tôi không còn hơi sức để ra đi. Người đàn bà đó hút hồn tôi. Chẳng ai thay thế được Miên. Chẳng da thịt nào trắng như da thịt ấy, chẳng đôi mắt nào long lanh hơn đôi mắt ấy, chẳng mái tóc nào óng ả hơn mái tóc ấy... Cô ta đã từng là của tôi... Rồi một ngày tôi sẽ tìm lại được hạnh phúc, miễn là tôi kiên nhẫn.
Nhưng anh không đủ can đảm nói thật, dù là đối với Xá, người bạn tận tụy, kẻ bảo trợ tự nguyện cho anh. Xá nín thinh. Anh ta vớ một quả na chín, bửa đôi, ăn hết sạch, đoạn buông tiếng thở dài:
- Thôi được... Nếu cậu đã quyết... Nhưng muốn thế, trước hết cậu phải đi chữa bệnh. Mồm cậu thối bỏ mẹ, tôi ngồi xa thế này còn không chịu được huống chi đàn bà?
Soan lườm chồng:
- Cái lão dở hơi này, ăn nói lỗ mãng thế hả?
Ðoạn chị quay sang nói với Bôn:
- Anh đừng chấp... Chồng em lắm lúc y hệt thằng khùng... Chẳng cứ với anh, ngay với bố mẹ em nhiều khi ăn nói cũng láo liên như thế...
Nói xong, chị liền vội vã đi vào bếp, bỏ lại thúng na lẫn ổi chọn dở dang. Chờ Soan vào hẳn trong bếp, Xá nói tiếp:
- Nếu cậu quyết sống lâu dài với cô Miên, phải chữa bằng được bệnh hôi mồm, còn những việc khác sẽ tính sau. Mai, tôi đưa cậu xuống viện thành phố. Dưới đó, tôi cũng có ông bác làm nghề bốc thuốc bắc. Ta sẽ đến cả hai nơi xem sao... Có bệnh phải vái tứ phương. Giờ cậu về xoay lấy ít tiền, tôi chỉ còn hai ngày nữa thôi. Sáng sớm ngày mốt, đám sơn tràng chúng tôi làm lễ và ngược rú.
Chương 12
Thành phố không có trăng, hoặc nói đúng hơn, trăng thành phố bẽ bàng nhợt nhạt. Chìm lấp dưới các loại đèn mầu trăng biến thành xác ướp của chị Hằng treo lửng lơ giữa bầu trời đầy bụi và khói.
Nhưng ở đây, trên bãi biển vắng tanh vắng ngắt này, trăng ngự trị với vẻ đẹp vẹn toàn, kiêu hãnh. Không vời gọi, không huyền bí như trăng miền sơn dã nhưng lộng lẫy hơn, uy nghi hơn, hùng mạnh hơn.
Biển bờ, sóng nước, những vàng lưới giăng mắc trên bãi cát, đám thuyền nằm chờ đợi... tất thảy đều tôn vinh quyền uy vô song của nó. Không gợn mây vương. Gió chạy ù ù qua rừng phi lao, reo trên sóng nước. Mùi biển đẫm không gian như từng thớ gỗ thuyền, từng hạt cát, từng bông cỏ mặt trời, từng tế bào trên da thịt con người đều thấm đầy vị muối cùng mùi sóng, thứ mùi vị tẩm liệm tâm hồn bất cứ kẻ nào sinh ra và lớn lên ven biển.
Hoan rít liên tục hết điếu thuốc này tới điếu thuốc khác. Những đọt lọc thuốc ném rải rác trên mô cát trước mặt anh dưới ánh trăng vẫn nhìn rõ:
Một bao rưỡi, từ lúc ra đây mình đã hút hết bao rưỡi...
Anh thoáng nghĩ rồi tiếp tục châm nữa, hút mà không còn nhận ra mùi thơm, không còn ngửi thấy vị khói, rít liên hồi như thợ muối đẩy bàn trang trên mặt ruộng. Từ nơi anh ngồi tới mép sóng chừng dăm thước, nhìn rõ đường lươn dập dờn của làn nước, đám bọt mờ nơi đỉnh sóng lẫn những gợn cát khi chúng rút ra xa. Anh nghe rõ tiếng đổ ập của con sóng vào, nặng nề hối hả như nỗi cồn cào của kẻ đói yêu và lặng lờ khi sóng lui xa, bồng bềnh như tiếng thở dài vừa mãn nguyện vừa nuối tiếc. Biển tuổi thơ của anh giờ đổi khác: Nó là biển của kẻ đã từng trải và thôi không còn sung sướng... Ðã một tháng. Trăng đêm nay không tròn hẳn mà ngả sang hạ tuần, giống như đêm trăng Xóm Núi.
Từ đêm anh dắt Miên lên sân thượng tới nay đã tròn một tháng.
Thời gian chẳng tiếc thương ai. Ngày lại đêm, trăng tròn rồi khuyết, Hoan không hiểu anh đã sống vật vờ qua ba mươi ngày ấy ra sao? Một hình nộm hay một bóng ma câm lặng? Không, có lẽ anh vẫn giữ được dáng vẻ đường hoàng chững chạc bên ngoài. Giữ tư thế của một người đàn ông đứng đắn, chừng mực, con nhà có cốt cách. Những quy chế đạo đức nghiêm nhặt của ông giáo Huy vẫn kiểm soát từng hành vi, từng lời ăn tiếng nói của anh. Anh vẫn làm việc một cách bình tĩnh sáng suốt, tính toán rạch ròi đâu ra đấy, thiết kế lại cửa hàng, thuê người thi công, chọn nhân viên mới, thay đổi mặt hàng tìm mối manh để kiếm thêm những mặt hàng ưu thế rồi thuê người áp tải từ Sàigòn và Ðà Nẵng ra. Cửa hàng của anh giờ không còn bán tạp hóa mà chuyển sang các vật liệu nội thất, đồ điện đồ gỗ và một ít đồ trang trí loại đắt tiền. Công việc tiến triển như có phép tiên. Mới một tháng tròn mà sự thay đổi khiến cả thành phố trầm trồ.
Chị Châu bảo:
- Hóa ra chính cậu mới có tay buôn. Cậu làm một tháng bằng chị cầy cục mấy năm ròng. Lẽ ra cậu phải về thành phố từ ngày hòa bình mới phải.
Hoan không đáp.
Chị anh chợt nhận ra sự im lặng của đứa em trai, chị lúng túng nói:
- Ấy, là chị nói thế... Chị xin lỗi...
Và chị lẩn ngay đi nơi khác.
Giữa những quãng thời gian tính toán hoặc kiểm soát hàng hóa, Hoan thường ngồi nhìn đường phố. Dòng đời diễu qua như con nước chảy. Trước đây vài năm có ai ngờ phố xá sầm uất đến thế này.
Cũng chẳng ai tưởng tượng nổi ngôi nhà của ông bà nội anh bị trưng thu được trả lại đột ngột không kèn không trống. Lúc đó, Hoan còn ở Xóm Núi. Chị Châu, chị Nền cùng gia đình về thành phố.
Sau khi mẹ anh chết, chị Châu thế chân bà bán hàng trong cửa hành bách hóa tổng hợp thành phố, vẫn dưới quyền lãnh đạo của bà Kim Lan. Chị anh đã phải chịu mọi sự trả thù hèn hạ của người đàn bà đỏng đảnh lăng loàn sau khi cuộc hôn nhân giữa anh và cô Kim Liên tan vỡ. Bất ngờ một buổi, có chiếc xe hơi xịch đỗ trước cửa. Trên xe bước xuống hai người đàn ông. Một trong hai người ngó nghiêng cửa hàng bách hóa và hỏi:
- Ðây có phải nhà anh giáo Huy không nhỉ?
Chị Châu bước ra đáp:
- Dạ thưa ông ba tôi đã mất. Nhà này trước đây của ông bà tôi.
Người khách đứng ngẩn ra nhìn chị hồi lâu rồi nói như quát:
- Con cái Châu hả? Mày lại dám xưng tôi với chú mày a? Mày biết tao là ai không?
Chị Châu hoảng hồn không biết ăn nói ra sao, ông khách lạ lùng kia đã kéo người bạn vào nhà:
- Vào trong này, tôi phải thắp hương cho ông anh tôi đã.
Ðoạn ông quay sang bảo chị Châu:
- Tao là chú Huyến hiểu chưa? Tao bỏ quê đi mấy chục năm trời.
Ba mày có nhắc đến tao không đấy?
- Dạ, ba mẹ cháu có nhắc tên chú luôn.
- Phải, ngày xưa ba đứa chúng tao vẫn chơi tam cúc ăn tiền... Mẹ mày ra sao?
- Ba cháu mất năm trước mẹ cháu mất năm sau, vừa hết giỗ đầu ông cụ...
- Cũng phải vậy thôi... Cái đời này yêu nhau lắm, người dương kẻ âm sao được?
Nói xong ông cười sằng sặc nhưng nước mắt ràn rụa. Rút khăn lau mặt, ông bảo người đi cùng:
- Bây giờ già rồi, đâm ra hay khóc... Tôi xa quê lâu quá... Xa quê gần hết cuộc đời...
Nói rồi ông lại khóc. Vị khách đi cùng lẫn mọi người đều đứng yên chờ ông khóc cho hết cơn. Chị Châu đưa ông qua cửa hàng vào gian nhà trong, nơi đặt bàn thờ ông bà giáo. Ông khách thắp ba nén nhang cắm vào bát, gọi hồn người chết cũng ngỗ ngược, suồng sã như ông nói với người sống. Khấn vái, than thở xong ông rút ví đưa cho chị Châu nắm tiền:
- Ngày mai mua đồ lễ cúng ba mẹ mày.
- Thưa chú, mai chưa phải ngày kị...
- Tao đã khấn bất cứ ngày nào bố mẹ mày cũng phải đội mồ đi lên.
Ngày xưa, tao còn đưa thư tình cho anh chị ấy rồi mới bỏ nhà theo cách mạng... Trưa mai, họp xong chú sẽ về thắp hương cho ba mẹ cháu...
Nói đoạn ông Huyến kéo tay người đồng hành:
- Ði cậu.
Ra tới hè, khi lái xe đã mở cửa bỗng nhiên ông lôi ông ta quay lại:
- Cái nhà này là thế nào hở?
Vị khách ngượng ngùng đáp:
- Trưng dụng làm cửa hàng bách hóa từ năm 56... Thời đó, các anh ấy đã quyết định...
Ông Huyến trợn mắt lên:
- Trưng dụng... Nhà anh giáo Huy mà còn trưng dụng thì ăn ở đượcvới ai?
Ông kia đáp:
- Việc đó do lịch sử để lại.
Ông Huyến bảo:
- Lịch sử sai cũng phải sửa. Lịch sử là do mấy lão tiền bối của bọn ta làm, có lão tả khuynh, có lão hữu khuynh, có lão thích trò mị dân, có lão thích chơi chiêu của bọn quá khích và khủng bố... Phải xét cái gì đúng cái gì sai mà làm chứ? Không lẽ bây giờ trong đám dân chúng của cậu có đứa lỡ chửa hoang cậu cũng gọt đầu bôi vôi rồi bỏ rọ trôi sông như lịch sử ngày xưa?
Vị khách thấy ông Huyến tức giận lại to tiếng ngay trên hè phố vội kéo vào ô tô:
- Ðược rồi... Tôi biết rồi... Ðể tôi bảo chúng nó...
Xe chạy vụt đi.
Trưa sau, đúng ngọ ông Huyến quay lại. Ði theo ông là viên thư ký của bí thư tỉnh ủy, người hôm qua bị ông tấn công. Viên thư ký đem theo sắc lệnh tức khắc trả lại nhà cho gia đình ân nhân cách mạng, kèm theo khoản bồi thường. Bà Kim Lan và các nhân viên khác phải tức khắc chuyển hàng hóa về kho của Ty Thương Nghiệp để chờ phân công việc mới.
Chuyện xảy ra như mơ. Chị Châu lên Xóm Núi kể lại tường tận với Hoan và bảo anh đưa gia đình về phố. Nhưng Hoan đã giao cho chị toàn quyền quyết định. Anh không thiếu tiền, và đời sống miền sơn dã vẫn lôi cuốn anh hơn. Chị Châu về phố, cắt mảnh đất làm đôi xây hai ngôi nhà cùng kích thước, cùng kiểu mẫu bằng số tiền bà giáo quá cố giao phó và tiền riêng chị dành dụm được. Xây xong, chị dọn hai cửa hàng bách hóa, giao chị Nền trông coi cửa hàng của Hoan, tháng tháng kiểm kê thu chi và xếp những đồng tiền lời vào hộp, dành cho đứa em trai, kẻ nối dõi tông đường của ông bà
giáo...
Hôm Hoan từ Xóm Núi trở về, anh ứa nước mắt khi hai người đàn bà giao nộp tiền ấy cho anh cùng với chùm khóa. Anh hiểu những hạt giống cha anh gieo không mất. Anh quyết định phá vỡ bức tường ngăn hai cửa hiệu, làm thành cửa hàng thênh thanh nhất thành phố, trang trí nội thất lại và thay đổi mặt hàng. Anh muốn gầy dựng cho những người đã tận tụy với anh một cuộc sống phong lưu, giữ gìn mối tình cảm nồng ấm và nghiêm túc giữa các thành viên trong gia đình, theo đúng nguyên tắc của cha anh ngày trước. Hoan thành công mau lẹ. Một lực lượng thần bí đã phù trợ anh. Một ngón tay linh thiêng trỏ anh từng đường đi nước bước. Bất cứ mặt hàng hóa nào Hoan đụng tới đều mau lẹ trở thành hàng hóa thời thượng và chúng đem lại cho anh những món lãi khổng lồ. Mặt hàng này chưa vãn, Hoan đã thay mặt hàng khác và những kẻ chạy theo chân anh chỉ còn biết vuốt bụng thở dài:
- Thằng cha ấy vào vận đỏ... Trời phù hộ cho nó.
Phần Hoan, chính anh cũng không biết vì sao anh làm mọi chuyện dễ dàng đến thế. Việc buôn bán của anh giống trò đùa. Ðể quên mối sầu buồn anh đi liên tục. Hết Ðà Nẵng vào Nha Trang, từ Nha Trang lên Ðà Lạt. Từ Ðà Lạt xuống Sài Gòn. Từ Sài Gòn lại quay ra Ðà Nẵng. Trong những chuyến ngao du ấy anh nhận thấy người đời cần thứ này hoặc thứ kia, rằng hôm nay họ thích mốt này ngày mai họ thích cái khác. Những quyết định đến mau lẹ sau một vài giờ tính toán. Chuyến hàng nào của anh cũng chóng vánh theo kiểu người ta gọi: Ðánh nhanh rút nhanh. Chưa lần nào thất bại. Công việc đã vào guồng tự nó cuốn theo. Hoan vẫn có thời gian rảnh rỗi. Anh nhờ người kiếm hồng tường vi và cây móng rồng trồng quanh vườn. Anh cho người đi mua bể cạn. Anh tái tạo lại cái khung cảnh thời thơ trẻ và đắm mình vào kỷ niệm, mường tượng những buổi chiều mẹ anh làm lễ vọng trời đất, mường tượng người đàn ông tao nhã dịu dàng thường vuốt mớ tóc trước trán anh, mường tượng chàng trai mười tám xưa trên sân bóng rổ...
Nhưng những điều ấy không làm anh được giải thoát. Quá vãng chỉ là quá vãng. Nhiều lắm nó cũng chỉ cho con người sự êm dịu và ảo ảnh về một sức mạnh. Nó không là cuộc sống. Cuộc sống của anh đã ở ngoài anh, ngoài gã đàn ông chĩnh chện giàu sang và nhàn nhã, thường ngồi sau ly cà phê ngắm phố phường với cặp mắt không ánh sáng, không niềm vui. Ðôi khi, anh tự tách khỏi bản thân để nhìn ngắm mình như ngắm nghía một kẻ lạ lùng nào đó, một thương gia trẻ đang vào vận đỏ, kẻ được cả thành phố thán phục, kẻ làm mồi cho tất thảy những toan tính của đám đàn bà trẻ hoặc của đám gái đến tuổi kén chồng... Anh không lạ gì những ánh mắt ấy. Anh từng cười nói, chào hỏi, bắt tay người này rút thuốc lá mời người kia, lịch sự lui bước nhường đường cho một cô ả xinh đẹp õng ẹo mà anh thừa biết cô ả đang cố ý chìa cặp mông về phía anh, cố ngoáy đôi chân cho thật giống các nữ minh tinh màn bạc, cố vén đôi môi cười sao thật khêu gợi và toàn bộ cuộc chinh phạt đó nhắc anh tới ly rượu đỏ của bà Kim Lan thuở xưa...
Anh thấy mình khốn khổ.
Một nỗi khốn khổ không được thổ lộ cùng ai và khó bề giải thoát. Chị Châu và chị Nền thương anh, chăm chút anh nhưng họ kính sợ anh như kính sợ một vị chúa đất và vì quá giản đơn họ không thể chia sẻ được điều gì... Tuần một lần, anh về Xóm Núi thăm con, kiểm tra rương rẫy và bàn bạc với ông già Lư, người quản gia anh đã chọn từ vùng Quảng Trị. Con trai anh xinh xắn, thông minh, hiền lành... Vẻ đẹp của nó là vẻ đẹp của hai người hòa trộn nên mỗi lần nhìn nó một gương mặt khác lại hiện lên, một thân thể khác lại áp kề, một mùi da thịt khác kêu gọi... Nỗi mừng gặp con ngắn hơn nỗi đau một người thiếu vắng. Anh bị kéo căng ở hai đầu, như một kẻ tà đạo phải chịu hình phạt cho ngựa xé. Cuộc sống phố phường cuồn cuộn. Âm thanh, màu sắc, ánh sáng hòa trộn xáo động không ngưng nghỉ, cũng chỉ lôi cuốn được anh vài khoảnh khắc.
Sau rồi, anh không còn cảm giác gì nữa, như ngũ quan của anh đã mất, chẳng thấy ánh sáng nào, âm thanh nào, mùi vị nàocòn tác động nổi.
Tối nay Hoan trèo lên sân thượng, nhìn thành phố. Anh ngồi như thế giờ lâu rồi bỗng dưng anh thấy dưới kia không còn nhà cửa, phố xá đèn đường, xe ô-tô xe gắn máy, không người đi lại không biển quảng cáo và tiếng ồn của cuộc sống. Dưới kia, là sa mạc. Một chốn không người. Mình anh trơ trọi. Nỗi cô liêu là một vòm trời khác còn rộng rênh hơn bao trùm cà vòm trời trên đầu anh. Anh sợ. Anh nghĩ anh có thể là người cuối cùng còn lại sau cơn tai biến, một nạn hồng thủy hoặc trận bão bom nhiệt hạch. Anh vội xuống nhà, nhảy lên xe, phóng ra bờ biển...
Giờ biển ở trước mặt anh. Nó cứu anh khỏi cơn hoảng loạn. Đầu óc anh dần tĩnh lặng trong gió đêm. Anh nhìn những con sóng không ngừng xô giỡn và biết rằng chỉ cần rút đôi chân khỏi giầy, lột tất đi hơn chục bước, anh sẽ thấy sóng ngay trên chân mình, sóng sẽ liếm chân anh như hơn ba mươi năm trước nó đã từng liếm đôi chân bé nhỏ của cậu bé Hoan. Mỗi bận cha anh cho ra biển tắm, Hoan thường ngạc nhiên thích thú khi bọt nước bám vào chân lông và khi vỡ nó tạo nên cảm giác ngưa ngứa, nhồn nhột...
Nếu giờ đây ta lột áo quần, phóng vào làn thủy triều kia để toàn thân được ngọn sóng vuốt ve, trùm phủ?
Hoan nghĩ tới những vuốt ve nô dỡn của sóng nước khi anh còn thơ trẻ và nỗi khao khát được trở lại một lần hạnh phúc thời quá vãng khiến tim anh nao nức... Anh đứng dậy, cởi hàng nút áo trước ngực. Nhưng khi cởi tới chiếc nút thứ ba, bàn tay anh chạm vào rốn và nó bỗng rơi thõng xuống. Anh chợt hiểu rằng anh không còn là chú bé ngày xưa... Cậu bé Hoan ngày xưa vẫn được cha cho ngồi trên vai dạo chơi trên bãi cát... Cậu bé Hoan say mê tắm biển thấy chân trời cuộc sống nằm dưới đà bay của cú nhảy sóng, mọi bí ẩn của vũ trụ bừng sáng lên sau một hơi lặn dài và làn sóng nước bao la mặn mòi hơi biển cả là nguồn sung sướng vô biên chẳng bao giờ vơi cạn...
Anh đã qua tuổi... Tam thập nhi lập rồi. Anh đã ba mươi bảy. Một gã đàn ông xa con và mồ côi vợ không thể tự cứu mình bằng cái trò tồng ngồng nhảy sóng của hơn hai mươi năm trước. Trong hơn hai thập kỉ ấy, bao nhiêu dòng nước đã cuốn từ cửa sông ra biển, và biển đã luân chuyển các guột nước trong lòng sâu của nó bao nhiêu lần? Anh lại ngồi xuống cát, châm điếu thuốc khác...
Biển của anh giờ không còn ở nơi đây. Từ xa, một bóng người đang cắm cúi đi tới. Một cái bóng bé nhỏ, chúi về phía trước, bên tay cắp chiếc thúng con. Có lẽ là một đứa bé bán quà rong. Những người tắm biển đã về từ lúc lặn mặt trời, cớ sao nó còn chầu chực nơi đây? Có lẽ nó ế hàng nên phải rình những cặp trai gái đang tình tự để năn nỉ. Và bây giờ nó gặp gã khách côi cút là anh?
Hoan đoán đúng. Đứa bé cắp thúng hàng nhằm hướng anh ngồi đi miết. Chẳng mấy chốc nó tới nơi, quỳ gối trước mặt anh vừa thở hồng hộc vừa rút cây đèn pin soi những món hàng ế ẩm: - Chú ơi, mua giùm con ít đồ nhậu.
- Chú không uống rượu.
- Vậy chú ăn quà cho vui miệng.
- Nhưng cha chú bắt chú sau khi ăn quà phải xúc miệng bằng nước muối không sợ hư răng... Ở đây, cháu có nước muối không?
Hoan vừa nói vừa nhớ tới đứa con trai, nhớ vẻ mặt phụng phịu của nó mỗi lần phải thực thi cái nguyên tắc vệ sinh nghiêm nhặt đó. Đứa bé bán hàng ngắc ngứ, đần mặt nhìn anh. Nó không hiểu ông khách nói thật hay bỡn. Cây đèn pin trong tay nó vếch lên, soi một gương mặt đen đủi, ranh mãnh với cặp môi xinh nhỏ:
Nó còn bé quá... Nó đã phải rời học đường đi kiếm sống... Có lẽ cha mẹ nó chết sớm, như Miên ngày xưa...
- Nào, cháu có món gì, để chú mua về đãi hàng phố vậy.
- Dạ, con xin chú, chú mua giùm con...
Con bé nhanh nhảu van nài. Cây đèn pin quẹt qua quẹt lại trên mấy món đồ thảm hại: Một chồng bánh đa kẹp kẹo lạc đã chảy. Một bát lạc luộc. Vài quả ổi dập nát vẹo vọ, hẳn được mót từ mảnh vườn cằn cỗi nào đó đem mớ cho trẻ nghèo. Mấy con mực nướng trong túi ni-lông. Hai gói thuốc lá rẻ tiền đã móp vỏ.
- Cháu có đi học không?
- Dạ không.
- Cha mẹ cháu không cho đi học?
- Thưa không. Con phải bán hàng. Đi học lấy chi mà ăn.
- Cha mẹ cháu làm gì?
- Mẹ con bán ốc hương ở chợ, còn cha con bán tào-phớ-rong.
- Nhà cháu đông người không?
- Có cha mẹ với năm anh em con.
- Không đứa nào đi học cả?
- Thưa không.
- Cháu có thích học không?
- Thưa không. Có hồi cậu con đã dạy chữ cho tụi con nhưng chữ không vào. Cậu bảo óc đặc không học nổi. Đi bán hàng là sướng nhất. Vừa kiếm được tiền mua gạo vừa chơi rong...
À, ra thế... Hóa ra trên đời có những đứa bé không thích học. Chẳng phải ai cũng than vãn việc học hành lở dở như người đàn bà của ta. Ta biết Miên thông minh nhường nào...
- Thôi được, chú mua hết cho. Cả thảy bao nhiêu?
Cặp mắt đứa bé đảo nhanh như chớp và ngay tức khắc mặt nó hiện lên vẻ tinh ranh của đám dân thị thành. Hoan chăm chú nhìn nó tính toán từng món một, nâng giá món này lên vài hào hoặc tính gian món kia vài chiếc, cặp môi xinh nhỏ chụm lại và đôi mắt đong đưa trên cái vương quốc bần hàn.
Hoan bảo: - Thôi, không cần đếm đi đếm lại từng cái kẹo như vậy... Tất cả bao nhiêu, cứ gộp hết vào...
- Dạ. Cả thảy đáng lẽ mười một đồng nhưng vì chú mua cả mớ nên con bớt cho chú một đồng còn mười đồng chẵn.
Xuýt nữa Hoan phá ra cười:
Con cáo con, nó tưởng mình là người trên sao Hỏa vừa xuống... Nhưng nó tưởng thế cũng có lý, chẳng ai rồ dại ngồi một mình trên bãi biển đêm thế này...
- Con ranh, mày tính kiểu gì vậy? Cả mớ hàng cháu bán nhiều lắm cũng chỉ được bốn năm đồng... Lần sau muốn bịp thì phải chọn người khác nhé...
Ðoạn anh móc túi lấy ra ba tờ bạc năm đồng:
- Này, chú cho mười lăm đồng, ôm mớ quà của cháu về luôn đi... Thôi, đi cho mau kẻo lạnh...
- Dạ, con xin cảm ơn chú, con xin đội ơn chú...
Ðứa bé cầm tiền rạp đầu xuống chào anh rồi sau đó nó ôm thúng hàng lủi nhanh như sóc. Hoan nhìn theo cái bóng đen bé nhỏ hút xa dần, cồn cào gan ruột. Viền môi hồng nhỏ xíu của nó gợi cho anh một viền môi khác. Và từ điểm nhớ ấy, nỗi nhớ lan rộng, tăng trưởng, dựng nên một hình bóng thân quên.
Tại sao ta lại ngồi đây nhỉ?
Vào giờ này, lẽ ra anh đang ngồi trên sân thượng uống trà, tán gẫu với đám láng giềng Xóm Núi và vừa tiếp chuyện họ anh vừa lắng nghe tiếng đứa con trai bi bô với mẹ nó dưới sân. Gặp ngày vắng khách, cả ba người ngồi trước hiên hóng gió. Không gian vây bọc họ luôn tẩm ướp hương các loại hoa trong vườn, ấy là tiểu vũ trụ an bình và say đắm được tạo ra từ người đàn bà anh yêu và yêu anh. Cuộc đời anh đã định vị ở nơi đó, sao bỗng dưng bị đẩy ra ngoài, rơi vào khoảng chân không, một cõi lạnh lùng xa lạ nơi bất cứ vật gì cũng khiến anh ngờ vực.
Nhiều lần Hoan tự hỏi:
Vì sao nhỉ? Ta vốn là dân thành phố, sinh trưởng và lớn lên ở nơi đây, hít thở không khí nơi đây để trở thành người, vậy mà ta luôn có cảm giác mình là khách qua đường, là kẻ ăn nhờ ở đậu...
Nỗi bất an thường trực ở trong anh.
Mỗi khi tiếp chuyện những kẻ môi giới, các chủ hàng hoặc đám bạn buôn, anh thấy rõ mình chẳng còn là mình, chỉ là kẻ sắm vai, là hình nộm phải diễn. Một cái bắt tay sớm hay muộn, một tiếng thở dài buông ra đúng lúc hay không đúng lúc, một tiếng cười trật
khấc hoặc đáng giá ngàn vàng hoặc làm sụt lở một phần gia sản một cuộc trà dư tửu hậu có thể củng cố được các mối quan hệ hữu ích hoặc khai thác những sơ hở của đối phương... Những bài học của xã hội buôn bán cạnh tranh mà tất thảy những kẻ nhập cuộc phải thuộc lòng... Nhưng sắm vai trò ấy, anh luôn luôn thấy mình ngộp thở.
Hoan là kẻ thèm khí trời. Anh cần khoảng không gian bao la thanh sạch. Không gian ấy anh đã tìm và đã thấy ở nơi khác. Trong thành phố này, chỉ riêng khu vườn là nơi duy nhất anh có thể hít thở dễ dàng, tránh mọi cuộc tiếp xúc với ngoại giới và được quyền ném mặt nạ lại phía sau... Nhưng khu vườn quá nhỏ. Và mùi hoa móng rồng với tường vi chẳng lấp đầy nỗi thiếu vắng một mùi hương khác. Nỗi thiếu vắng ấy càng ngày càng nung đốt anh, từ không gian thấm sâu vào gân cốt máu thịt. Và tới lúc nó hòa nhập cùng cơn đói tình dục...
Lại có người đi tới. Lần này, không phải một mà là ba cái bóng cao lớn nghênh ngang, vẻ như ba gã trai. Họ tiến đến gần anh vừa đi vừa chuyện oang oang, giọng người chài lưới, át cả tiếng sóng:á
- Mi ưng con nớ hỉ?
- Kệ tau, mi hỏi làm chi?
- Nếu ưng nó tau thôi... Răng không, tau xáp vô liền.
- Thì mi cứ xáp vô.
- Mi thách hả?
- Tau chẳng thách.
- Ðừng thách tau. Bộ mi xớ rớ cả tháng chưa mần ăn được chi, chớ tau cứ rờ tới con nào con nớ mềm nhũn ra ngay... Giờ trước giờ sau là tau quất...
- Ðừng nói trạng... Chứ tau thách mi đó. Mi mần đi.
Giọng thứ ba cất lên:
- Thôi đi chúng bay... Thiếu chó gì gái mà phải mất nghĩa mất tình vậy? Người ta đổi gái chứ không ai đổi bạn từ thuở cởi truồng. Mà mắt tụi bay có vẩy ốc chớ tau nỏ thấy nó đẹp đẽ chi. Hai trái vú to như hai trái dừa mà mông thì lép kẹp. Thằng đàn ông nào mà lấy nó suốt đời phải cam phận nằm dưới, chẳng sung sướng chi.
Tiếng cười khằng khặc ầm ĩ. Ba gã trai vừa đi vừa đá sóng tung tóe. Nước vọt lên dưới những cú đá mạnh rồi rơi xuống rào rào:
- Ai kia?
Một gã cất lời, giọng bả lả. Gã thứ hai tiếp theo:
- Răng ngồi một mình buồn bã vậy? Ði với bọn tui không?
Hoan im lặng. Anh cố hình dung gương mặt những gã trai làng chài có giọng cười thật khả ố và thật sung sướng.
Gã thứ nhất lại lên tiếng:
- Bộ kia là bị người tình ruồng... Ðừng bó gối cho tội thân. Ði chơi đi. Thiếu gì đàn bà trên đời, con nào cũng cái nớ cả...
Giọng thứ ba lại cất lên, can ngăn:
- Im đi chúng bay. Ðể yên cho người ta ngồi... Tổ cha mấy thằng chó dại, nốc có hai chén rượu mà sủa như lũ điên...
Rồi ba gã vượt qua mặt anh, đi tiếp về phía trước, nơi dãy lều chứa lưới in dãy bóng đen thù lù dọc theo bờ cát. Tiếng họ mỗi lúc mỗi hút dần trong gió biển. Càng đêm, gió càng dữ, càng lạnh. Trời như rộng thêm ra và chân trời tan biến trong mù sương, như không còn biển còn mây còn trăng, tất cả hòa thành một cõi huyền hoặc. Anh phóng tầm nhìn ra xa, cố tìm trong khoảng không bao la một chút gì thân thuộc: Tiếng còi báo giờ nơi người gác hải đăng, tiếng buồm reo phần phật trong gió đêm, tiếng hải âu lẻ bạn tình khắc khoải, bóng thuyền câu mực và ánh lấp lóa những ngọn đèn soi cá đêm... Nhưng tất thảy những ảnh hình, những âm thanh quen thuộc của tuổi thơ đã tắt. Biển cũng hoang hoải như thành phố, sa mạc như thành phố và anh chỉ còn lại một mình dù không có nạn hồng thủy hay bão bom nhiệt hạch.
Hoan đứng dậy.
Biển tuổi thơ của anh đã mất.
Và biển của anh bây giờ không còn ở nơi đây.
Anh nổ máy quay xe về thành phố. Quầng sáng hiện lên phía trước khiến anh chán chường, chân tay bải hoải. Nhưng khi nghe tiếng động cơ nổ thuần thục đã giảm dần âm thanh anh nghe rõ tiếng sóng ào ạt sau lưng. Tiếng sóng đuổi theo anh và mỗi lúc càng giống tiếng gọi mơ hồ nào vọng tới. Tiếng gọi của ngày đã qua hay ngày sắp tới? Hoặc đó chính là tiếng vọng nhịp đập của trái tim sầu muộn trong ngực anh, dưới tấm áo tẩm sương? Anh không biết và tiếp tục phóng xe đi, cảm thấy mình đang theo đuổi một mục tiêu vô hình vô thanh nhưng không sao cưỡng nổi...
Chương 13
Người ta vẫn bảo đàn bà xứ chài lưới dâm bởi họ ăn nhiều cá hơn cơm. Những mụ dân chài to vật vã, đen không kém đàn ông, tay chân nần nẫn như đẽo bằng gỗ tứ thiết, lấy chồng từ thuở mười lăm đến năm chẵn ba mươi ít nhất cũng có mười đứa con cả trai lẫn gái.
Rồi họ lại tiếp tục đẻ, thế là bà nội bà ngoại đến nhà hộ sinh cùng một lần với con dâu hoặc con gái và cảnh: em bú chị, cháu bú bà thường xảy như cơm bữa. Cảnh ấy đặc biệt phổ biến ở làng Bảo, cái làng ven sông Lệ Nhật, nửa làng đánh rớ lấy cá sông, nửa kia đi biển đánh cá nước mặn. Dường như không có người nghèo ở đây.
Khốn cùng nhất là lão Gộc, không vợ không con, cũng dựng được gian nhà gạch ngói mới xen ngói cũ. Buổi chiều, loa phóng thanh xã bắt oang oang đã đành, ra-đi-ô của mọi nhà không chịu thua cũng mở đinh tai nhức óc. Dân ăn cá, thần kinh vững sấm nổ bên tai vẫn ngủ say như đá cuội. Bên kia sông Lệ Nhật là thành phố nên đời sống đô thị đặt chân vào từng nhà dù nhà nào nhà nấy bốc mùi tanh kinh niên của hải sản. Trai gái làng những chiều rỗi rãi rủ nhau ra câu lạc bộ xã tập hát hoặc nhảy disco, đầu chải bóng, nước hoa xịt tắc mũi. Các cô cũng đi giày cao gót như ai bước lên sân khấu cầm micro đong đưa qua lại, hất tóc lên kiểu Thanh Lan để gương mặt mơ màng hoặc hạ thấp đôi mi kiểu Lệ Thu để dáng điệu thấm đẫm vẻ nhu mì thục nữ. Rồi lát nữa rời câu lạc bộ, các cô sẽ tụt giày cao gót cắp vào nách. Và các chàng cũng sẽ tụt giày xách theo các cô vì đi trên cát vẫn tiện lợi hơn. Trong lúc ánh đèn câu lạc bộ vẫn quét sáng một vùng, đám thiếu niên choai choai vừa tiếp quản sân khấu đang ra sức vật lộn với nghệ thuật ca hát, đàn anh của chúng đã tụ hợp tại một câu lạc bộ mê ly hơn nơi bãi biển, dưới các gốc phi lao hoặc trong các ngôi lều chứa lưới. Mùi biển đêm không chỉ còn là mùi nước mùi gió mùi rong rêu sóng tấp vô bờ mùi lũ cá óc-nóc trương phềnh trên cát mùi gỗ thuyền hong nắng đang nhả dần vị nắng khét đợi chờ mùi vỏ chanh đám người ăn sò huyết ném lại... mà còn một thứ mùi khác lạ hòa trộn với tất thảy những mùi quen thuộc trên khiến không khí đặc thành chất keo vô hình, và khi hít thở thứ không khí ấy, con người bị nhiễm cơn đói dục tình, ấy là mùi toát ra từ những cặp tình nhân đang quần thảo trong các kho chứa lưới, trên các cồn cát vắng và trong bóng tối rừng dương. Sóng vỗ không mệt mỏi không ngưng nghỉ như kẻ gác đêm trung thành để tiếng ào ạt ồn ĩ khỏa lấp tiếng thì thầm tiếng kêu rên của các cặp trai gái nhưng mùi biển không lấn áp được mùi các cuộc ái ân và vì thế không gian thấm đẫm nhục cảm đầu độc những kẻ đói khát ái tình không may lạc chân vào đó...
Khốn nạn, khốn nạn thật... Sao bỗng dưng ta đưa chân tới đây? Ma đưa lối quỷ dẫn đường, lẽ ra ta đã phải quay về khi phóng xe đến ngả rẽ...
Hoan tự nguyền rủa, nhưng chân anh vẫn tiếp tục bước trên bờ cát, và tai anh tiếp tục lắng nghe trong tiếng sóng ầm ĩ, tiếng rên rỉ của các cặp tình nhân, nhịp thở hào hển của những động tác làm tình mà anh quá thuộc. Những tiếng động ấy làm tái hiện rõ rệt hơn cảnh ái ân cũ, thân xác người đàn bà yêu dấu, hơi thở mùi tóc mùi mồ hôi những cử chỉ nhỏ nhặt và những dấu hiệu âm thầm chỉ riêng hai người nhận biết... Tất thảy, tất thảy... cho đến từng chi tiết nhỏ nhất cuộc sống gối chăn say đắm của anh...
Tại sao ta lại đến đây. Thật rồ dại, ngu xuẩn... Ta đúng là đồ quỷ tha ma bắt...
Nhưng chân anh vẫn bước, và mắt anh không ngừng săn lục những cặp trai gái, tai anh vẫn lọc tiếng sóng biển để đón nhận những tiếng động nhỏ nhặt phát ra từ những thân xác hừng hực lửa dục và thấm đẫm mồ hôi. Không khí đặc sánh nhục cảm vây bọc anh thúc vào tim anh như thúc ngựa, đốt lửa thân xác anh, dồn nén hơi thở của anh khiến chúng trở thành một cơn giông tích tụ đầy hai lá phổi mà không tìm được lối thoát...
- Lối này...
- Chờ em tí đã...
Một cặp tình nhân và từ rừng dương bước ra, sóng vai đi trước anh chừng mươi bước. Mùi mồ hôi trộn cùng mùi dầu chải tóc Hương Sen theo gió xộc vào mũi Hoan. Trước đây chị Châu buôn loại dầu rẻ tiền này nên anh biết. Người con gái bỗng vươn cánh tay quàng cổ tình nhân. Cô ta cao hơn anh chàng nửa cái đầu, đôi cẳng chân lêu nghêu, còn gã bạn tình to bè, lưng gấu, vai u bước khuệnh khoạng đầy tự ti và mãn nguyện.
- Về chưa?
Anh chàng lưng gấu hỏi.
- Chơi tí nữa đã.
Cô gái chân cò trả lời, vừa nói vừa lắc lắc mái tóc xõa ngang lưng.
- Em không sợ mẹ mắng à?
- Không?
- Ra Bãi Ðá chớ?
- Ờ, ra Bãi Ðá.
- Ở đó mát thiệt là mát. Chờ tối trăng ta mần lần nữa rồi về.
Cô gái im lặng ưng thuận. Và anh chàng lưng gấu phởn chí hát ư ử trong họng.
Hoan đi chậm lại, dép sục đầy cát. Anh nhìn hai kẻ sung sướng đi phía trước, thèm muốn điên cuồng:
Ước gì em ở đây, Miên ơi, ước gì em bước từ ngôi lều chứa lưới kia đi ra. Chúng ta sẽ lên thuyền, chúng ta sẽ bỏ lại sau lưng tất thảy, chúng ta sẽ sống cùng nhau trên hoang đảo, như những tiền nhân...
Vì sao không thể sống cuộc sống của những con người thời ăn lông ở lỗ? Họ tự do bởi không bị trói buộc bởi các định kiến, và chắc chắn họ cũng say đắm không kém cặp trai gái đang ôm lưng nhau đi trước mặt anh. Hoan đưa mắt nhìn dãy thuyền chênh vênh trên bãi cát. Liệu con thuyền nào trong số ấy có thể đưa anh cùng người đàn bà yêu dấu vượt biển ra đi? Anh nhớ những câu chuyện cổ tích, và anh nhớ chàng Robinson... Phải, anh có thể trở thành một Robinson hạnh phúc nhất địa cầu, với người anh yêu dấu...
- Coong coong... Coong.
Một cái vỏ hộp sữa bị Hoan đá bật tung lăn lông lốc. Tiếng động hiến cặp tình nhân kia quay lại. Và tiếng động cũng cắt đứt cơn mộng tưởng của Hoan. Anh thấy gã trai lưng gấu khuỳnh tay nhìn mình, vội đưa mắt nhìn theo chiếc vỏ hộp sữa. Nó đã lọt qua cặp đùi cò lêu nghêu của cô gái kia. Hoan nói:
- Xin lỗi, tôi không để ý...
Chừng như gã trai kia đã nhận ra anh là người đứng tuổi, và chẳng hề có ý định trêu ghẹo bạn tình nên lặng lẽ quay lưng đi. Cô nàng cười hi hí:
- Ðứa mô tu hết sữa mà quăng ra bãi?
Câu hỏi làm đà, vô địa chỉ. Gã trai vòng cánh tay vâm vạp qua hông tình nhân và họ tiếp tục đi.
Hoan đứng lại.
Ta đi đâu bây giờ? Không lẽ ta theo họ ra Bãi Ðá để xem trộm cảnh làm tình? Ta đã biến thành kẻ tâm thần từ lúc nào vậy?
Anh ngồi xuống bãi cát, xây mặt ra biển và thấy muối mặn trong gió chà xát tâm hồn
Hơn mười năm trước, sau đám cưới tai tiếng với cô Kim Liên, Hoan sang làng Bảo sống. Anh có người bạn cùng lớp, một gã trai lưng beo vai gấu từa tựa như gã trai vừa bước từ rừng dương ra nhưng cao lớn hơn. Họ cùng học với nhau suốt sáu năm trung học. Vì làng Bảo chỉ có trường tiểu học nên đến cấp trung học, học sinh phải qua sông sang thành phố. Suốt sáu năm họ ngồi cạnh nhau và bao giờ cũng là hàng ghế cuối vì cả hai cao to nhất khóa. Bạn anh không mơ ước một con tàu ngược lên phương Bắc. Cậu ta là con trưởng trong một gia đình chài lưới giàu. Người cha có tài đi biển. Thuyền nghề của ông trở về luôn đầy ắp tôm to cá lớn. Người mẹ chỉ ở nhà đẻ và ôm con. Tiền họ phải bỏ vào chum chôn trongcát. Bạn anh nối nghiệp cha nhưng anh ta không muốn đi biển bằng con thuyền cổ lỗ mà mua sắm tàu lớn ra khơi xa. Ấy là lý do duy nhất khiến chàng ta đeo đuổi mười năm đèn sách dù rằng suốt những năm ấy, anh ta bị những môn học ngớ ngẩn và vô dụng hành hạ đến nẫu nà: Nào văn nào sử nào địa nào chính trị nào thực vật... Sau rốt, chàng cũng đã lọt qua kì thi tốt nghiệp nắm mảnh bằng trở về làng. Ðám cưới Hoan, anh chàng xách theo hơn mười cân vừa tôm hùm vừa tôm bạc má. Vào chính lúc Hoan đứng lên kể cho khách khứa biết chuyện anh bị lừa vào chiếc giường của cô Kim Liên và buộc phải làm đám cưới, anh chàng dân chài đứng dậy trước tiên:
- Trên đời này đức tính cao cả nhất là sự trung thực... Bạn Hoan của tôi là người số một trung thực trên dải đất Việt Nam này. Xin tất cả tràng vỗ tay tán thưởng...
Nói xong, anh ta tự vỗ tay bồm bộp trước tiên và hét đám trai tráng:
- Nào, các bạn trẻ, vỗ tay lên... Chúng ta còn trẻ, chúng ta hãy sống như bạn Hoan, chỉ nói điều mình nghĩ và sống như mình muốn.
Bọn trai thoạt đầu ngớ ra, sau khi hiểu nhất loạt rồ lên vỗ tay, gõ đũa gõ bát, đánh trống, đập phèng phèng... Ðám cưới náo loạn.
Họ hàng nhà gái kéo nhau ra về. Họ hàng nhà trai kháo chuyện, người nọ hỏi người kia ồn ỉ. Rồi một ai đó hét lên trong đám đông:
- Xin mời thực khách nâng đũa nâng bát...
Thế là cuộc tấn công bắt đầu, và việc giải quyết những mâm cỗ tú ụ đã tháo gỡ tình thế gay cấn của tâm lý. Mọi chuyện tốt đẹp ấy đều khởi xướng từ gã dân chài tốt bụng.
Sau đám cưới cô dâu vẫn mang áo quần về nhà ông bà giáo Huy theo chiến lược: (Bám thắt lưng địch mà đánh) của bà mẹ. Chú rể xách mấy bộ quần áo sang làng Bảo. Ở đó, bạn anh cất cho anh một chiếc lều, dạy cho anh cách cất rớ. Lều sát mé sông Lệ Nhật, đêm lẫn ngày rười rượi gió. Thường Hoan ngủ ngay trong lều, chỉ ngày động trời hoặc mưa lớn mới vào nhà bạn. Bữa bữa, đứa em gái chín tuổi của anh ta đem cơm ra lều cho Hoan, ngó nghiêng đám cá anh kiếm được. Hôm nào, anh may mắn vớ được mớ cá kha khá nó mới đem về.
Nếu không, nó chọn những con còn sống thả xuống sông còn những con đã thôi ngáp bỏ vào bể mắm chượp của mấy nhà quanh đó. Cất rớ là thú tiêu khiển duy nhất của Hoan ngoài những giờ anh đọc sách.
Tuần một lần chị Nền đem tiền đem gạo sang cho gia đình người bạn, và như thế, họ nuôi anh như nuôi một gã học trò thi trượt đợi khóa thi sau. Hoan hài lòng với cuộc sống ấy, dù bạn anh đi biển liên miên và mỗi lần về anh chàng cũng chỉ đảo qua lều tán chuyện mươi phút rồi lại bổ nhào đi tìm cô tình nhân. Căn lều cất rớ là chốn tuyệt đẹp để mộng mơ. Gió. Mây bên trên và bóng mây dưới nước. Mặt trời. Sóng. Chim bay. Anh chẳng lo sinh kế nhọc nhằn, cũng chẳng phải nhìn những bộ mặt không ưa thích. Dân làng Bảo hiếu khách. Họ dễ mê gã trai đẹp như tài tử xi-nê có nụ cười dịu dàng và cặp mắt nhìn ai cũng như ve vuốt. Các cô gái thích chòng ghẹo Hoan. Họ ném lên lều đủ thứ: Từ quả ổi chín, vài múi bưởi, cái bánh ngọt đến những con nhái, con cóc. Ðôi lần, khi anh ngồi đọc sách họ rón rén đi tới bỏ vào lưng anh một con tôm hoặc con cá sống. Hoan lẳng lặng cởi áo, rũ con vật đầy gai xóc kia ra, phơi tấm thân vạm vỡ trắng phôm phốp. Anh vốn dễ tính, chịu được sự cợt nhả của mọi người. Anh cũng biết gái làng Bảo mê anh, nhưng không muốn dây dưa với bất cứ ai. Anh vừa nếm quả đắng và đang yêu tự do với tình yêu trọn vẹn. Ðôi khi, tiếng còi tàu từ sân ga Thuận Lý vọng sang, nhắc nhớ một mộng ước đã tan. Và anh lại ngồi nhỏm lên, nhìn những đám mây trắng rải rác nơi chân trời phương Bắc, hồi tưởng những ngày tươi thắm và lời vẫy gọi của tương lai, một tương lai không rõ hình dạng nhưng anh đã đặt biết bao tình yêu và niềm tin phút chốc bỗng tan thành làn khói. Chiếc va-ly sắp áo quần lẫn những vật tùy thân vẫn nằm nguyên trong góc phòng riêng của anh, còn anh nằm trong chòi cất rớ gối đầu lên tay đêm này qua đêm khác. Ngày ngày anh nhìn dòng sông trôi, con sông nhỏ nhoi kia chẳng đáng gì với cõi đất rộng dài mà mãi mãi phân cách cuộc đời hôm nay với những ước mơ năm trước...
Có lẽ nào sự rủi ro ấy chỉ là trò xảo trá của mẹ con bà Kim Lan để hợp thức hóa cái thai trong bụng một cô gái hưng phấn tình dục quá sớm hay còn là tội lỗi của anh, gã trai tìm nàng Xi-ren trong cơn mê muội để thực thi cuộc làm tình đã từ lâu ngấm ngầm thèm muốn?
... Phải, chính anh cũng có lỗi, chính cái thân thể cường tráng quá đỗi của anh đã góp phần xô đẩy anh vào tấn kịch rủi ro này. Vốn trung thực, Hoan lại tự xỉ vả mình mỗi lần ngắm tấm thân vạm vỡ của anh và biết nỗi mong mỏi một nàng Xi-ren khác đang lớn lên trong cái thân xác hừng hực sinh lực mà anh phải gánh vác. Khí trời, gió biển hoặc thứ cá tươi anh ăn ngày ngày đã khiến những cơn đói khát dục tình lồng lộn như ngựa dại? Hoan không thể trả lời. Chàng trai vật vã trong chòi, tự giải thoát bằng lối giải thoát cổ xưa của những gã đàn ông hoặc xấu xí dị hình, hoặc nghèo khó đến nỗi không thể nào lấy vợ...
Một đêm tối trời, cây thang leo lên chòi rung rẩy. Hoan ngỡ cậu bạn đi biển bất chợt quay về nên cất tiếng hỏi:
- Sao bảo ba hôm nữa mới về?
Không có tiếng trả lời. Nhưng cây thang tiếp tục rung và tiếng chân người leo lên từng nấc thang rõ hơn. Hoan thấy lạ, mỗi bận lên chòi cậu bạn thường gọi oang oang từ dưới chân thang. Linh tính xui anh ngồi nhỏm dậy. Khi anh vừa chống khuỷu tay lên ván lát chòi, một người đàn bà đã đổ ập vào:
- Ai đấy?
- Tôi đây... Tôi là Gái...
- Chị là...
- Tôi vẫn qua đây buổi sớm... Tôi ở xóm Hà...
- A... a...
Hoan đoán ra rồi. Hẳn người đàn bà này ở trong đám đàn bà sớm sớm vẫn quang gánh qua đây xuống bến đò dưới mua cá rồi qua sông sang thành phố bán. Dân làng Bảo thường gọi họ là đám dân xóm Hà, bằng thứ giọng nửa thương hại, nửa khinh miệt. Xóm Hà cách làng Bảo chừng dăm cây số, không có nghề chài lưới, ruộng pha cát vừa ít vừa xấu nên họ lấy nghề buôn bán vặt: buôn đầu chợ bán cuối chợ làm nghề chính. Một số đàn ông cũng theo nghề sơn tràng hoặc buôn gỗ thượng nguồn nhưng dường như chẳng ai khấm khá nổi. Hoan nghe nói cả xóm Hà không có một mái nhà gạch. Nhà giàu nhất cũng chỉ lát được mảnh sân xi măng.
Ðám con gái xóm Hà vì thế dường như nhút nhát hơn gái làng Bảo. Họ cũng thích chọc ghẹo anh, nhưng không dám dạn dĩ cợt nhã như gái làng chài. Thường họ đi qua chòi cất rớ, đưa mắt thầm lén liếc nhìn anh, ném một câu đùa bâng quơ, bóng gió...
Nhưng chị ta là ai trong số đó?
Hoan thầm hỏi và tức khắc anh lục soát trí nhớ: Một cô béo thường mặc áo hoa đỏ. Mấy cô khác thanh mảnh hơn cô nào cô nấy buộc quai lụa to tướng dưới nón... Còn lại là dăm bảy người đàn bà chuyên mặc quần áo sẫm màu... Chắc hẳn chị ta ở trong số đó. Tất cả bọn họ đều có dáng lam lũ, tất bật. Tất cả đều đội nón sùm sụp che ngang mặt và vì thế đứng trên chòi anh thấy họ như đám nấm di động.
Liệu chị ta có phải người mặc bộ đồ màu cỏ úa, gương mặt lấm tấm tàn nhang?
Hoan tự hỏi vì thốt nhiên anh mường tượng ra cái gương mặt đó.
Ngượng ngùng anh lên tiếng:
- Chị có phải là...
Người đàn bà thì thào:
- Anh đừng nói to.
Chị năn nỉ và khẽ đặt tay lên ngực anh. Những sợi tóc trên trán chị thõng xuống, cọ vào mặt Hoan. Hơi thở của chị gần như xộc thẳng vào mũi anh vì chòi quá hẹp mà anh lại ở trong tư thế nửa nằm nửa ngồi, hai khuỷu tay chống xuống.
- Anh đừng sợ.
Người đàn bà lại thì thào. Sau vài giây hổn hển chị nói tiếp:
- Tôi là gái góa, có con rồi... Tôi không muốn làm hại anh, cũng chẳng dám phiền hà... Tôi biết anh lâu nay...
- Tôi...
Hoan đáp, nhưng chẳng biết nói gì. Anh định chống tay ngồi hẳn lên nhưng không dám, muốn nằm xuống cũng không được và sau rốt anh đành giữ nguyên tư thế cũ. Hơi thở của người đàn bà vẫn xộc thẳng vào mũi anh, nóng như than. Gió thổi những sợi tóc chị cọ vào mặt anh vừa ngứa vừa nhột mà anh không dám gãi. Nhưng trạng thái ấy kéo dài không lâu vì chị đã rút chân khỏi nấc thang để chui hẳn vào chòi:
- Tôi không làm phiền hà gì anh cả... Xin hãy tin tôi. Tôi có gia thất nhưng chồng tôi chết lũ năm trước. Anh ấy theo chúng bạn đi buôn gỗ... Tôi làm ăn cơ cực chẳng được thong thả như người bên phố, nhưng chỉ hơn anh hai tuổi... Chị nói một mạch, không ngừng, không vấp váp. Dường như những lời lẽ ấy đã được nghiền ngẫm từ lâu, đã nung nấu từ lâu trong trái tim dập nát của chị khiến anh mủi lòng. Rồi anh ngửi thấy mùi mồ hôi của một người đàn bà lam lũ. Chắc hẳn chị đã phải quay về xóm Hà để nấu ăn và tắm rửa cho lũ con, sau buổi chợ. Rồi tắm táp cho mình trước lúc đến đây. Anh chưa từng đến xóm Hà nhưng anh mường tượng đoạn đường năm cây số từ nhà chị đến chòi cất rớ của mình, trong bóng tối, ven những bờ cát mấp mô và sụt lở.
- Tôi... Tôi biết anh từ lâu... Tôi cũng biết chuyện đời anh dân làng Bảo kể... Xin hãy tin tôi...
Những lời nói cuối là những mảnh ngôn từ được chắp vá một cách khó nhọc. Rồi đột ngột chị úp mặt vào ngực anh, bàn tay thô nhám của chị rờ rẫm lên da thịt anh:
- Có nháp không? Tôi có làm đau anh không?
Chị hỏi và không đợi anh trả lời chị lật bàn tay lên, không dùng những ngón tay mà dùng lưng bàn tay để ve vuốt. Anh vừa ngượng vừa thương hại, lúng búng đáp:
- Không... không sao cả... Ðừng ngại.
Người đàn bà thì thầm:
- Anh tốt quá... anh tốt với tôi quá...
Rồi như cảm thấy những lời lẽ vụng về thô mộc đó không biểu lộ được sự hàm ơn chị cúi xuống hôn ngực Hoan. Bắt đầu từ lúc ấy anh chẳng còn biết gì đến gì ngoài những cảm xúc xác thực và mạnh mẽ chị khêu dậy nơi thân xác anh. Cặp môi dạn dĩ đói khát của chị đưa anh vào cõi khoái lạc chưa từng nếm trải. Anh cảm nhận một cách minh bạch rằng anh hoàn toàn tỉnh táo, sáng suốt, không giọt men trong dạ dày, không một ý nghĩa hoặc liên tưởng nào làm hưng phấn dục tình trước khi người đàn bà xóm Hà đến, vậy mà chị đã dẫn anh leo lên từng nấc thang một, từng nấc liên tục không ngưng nghỉ trên cây cầu thang bất định đưa con người tới tột cùng sung sướng.
- Hãy yên. Hãy lặng yên...
Chị bảo Hoan, trong khoảnh khắc ngưng lặng giữa hai cơn hành lạch và rút từ đâu đó chiếc khăn tay lau mồ hôi trên trán, trên lưng anh.
- Ðể mặc tôi... mặc tôi...
Chị thì thầm vào một lúc khác, họ chuyển tư thế. Tay chị nhẹ nhàng và kiên nhẫn, khi cởi từng chiếc khuy trên chiếc quần soóc anh mặc, khi đỡ tấm lưng anh vì anh ở vào một vị trí chông chênh, cử chỉ nào cũng nương nhẹ cũng đầy cẩn trọng, cũng đầy tinh thần khích lệ và bao dung như trong cuộc làm tình này chính chị mới là đàn ông thứ thiệt, kẻ hùng mạnh rèn tập, dẫn dắt và chịu trách nhiệm trước bạn tình...
Hoan không biết họ đã qua bao nhiêu thời gian để tới lúc tàn cuộc. Ngất ngây vì mãn nguyện anh nằm đờ dại, không biết chuyện gì xảy chung quanh. Chỉ khi người đàn bà đã sửa sang xong quần áo ra về, bước chân chị làm cây cầu thang rung chuyển anh mới bừng tỉnh. Hối hả, anh vươn tay nắm vạt áo chị:
- Chị... Chị còn tới đây nữa chứ...
Và chị đáp khẽ như thì thầm:
- Dạ... Tôi sẽ tới.
Cây cầu thang rún rẩy dưới chân chị. Sau tiếng kẹt cuối cùng nó lặng im. Hoan chồm dậy, ló đầu khỏi chòi nhìn theo. Ðêm không trăng. Người đàn bà đã chìm vào bóng tối.
Nhất định sớm mai ta sẽ nhận ra người đàn bà này trong đám dân buôn cá xóm Hà... Mai ta phải dậy sớm...
Nhưng cuộc làm tình sung mãn đã kéo anh vào giấc ngủ dài. Hôm sau, lúc Hoan mở mắt kim đồng hồ đeo tay chỉ chín giờ mười hai phút. Mặt trời chói chang trên sông. Mọi người làm việc từ lâu chiếc rớ của anh vẫn khua càng phơi nắng. Trên sàn, đứa em gái đã đặt bình trà mới và gói xôi đậu xanh. Xôi đã nguội, bình trà chỉ còn âm ấm. Con đường dọc sông lên xóm Hà vắng ngơ ngắt, nắng dội xuống cát chang chang. Hoan biết người đàn bà ấy đã qua đây và muốn gặp mặt chị anh phải chờ lúc chiều tà. Nhưng buổi chiều, anh không thấy chị. Anh đã nhìn kĩ từng gương mặt đám đàn bà xóm Hà nhưng chẳng gương mặt nào khiến anh tìm được chút dính líu tới người đàn bà đêm qua. Linh tính anh mách bảo rằng sẽ chẳng bao giờ chị còn qua đây nữa. Sáng hôm sau Hoan dậy thật sớm, xuốngchòi, đón ngang đám đàn bà xóm Hà, để không ai có thể lọt ngoài tầm mắt của anh. Và lần này, anh đoan chắc rằng điều linh tính mách bảo anh là sự thật. Người đàn bà đến với anh ban đêm đã lánh mặt anh dưới ánh ngày. Như thế, chị sẽ phải đi vòng lên bến đò trên, mua thêm mười cây số. Bến đò ấy có tên Quán hàu, xưa người ta thường bán hàu tươi và cháo hàu cho khách qua sông.
Chị ấy là ai? Người thầy của ta trên trường tình ái?
Ðêm thứ năm chị trở lại. Vào lúc anh vừa thiu thiu ngủ vừa khắc khoải chờ. Nhịp rung của cây cầu thang đánh thức anh tức khắc.
Anh nhổm dậy, chìa tay cho chị nắm. Người đàn bà vừa vào chòi, anh đã cất tiếng hỏi dồn:
- Sao chị lại đi vòng lối Quán Hàu... Tôi chờ chị suốt bốn ngày không thấy?
Người đàn bà im lặng:
Hoan bảo:
- Sao chị tự làm khổ mình như vậy? Tôi không muốn vì tôi mà người khác phải cực lòng?
- Không... không... chẳng cực nhọc gì. Tôi đi qua Quán Hàu buôn thêm ít hàng khác.
Chị đáp hối hả đoạn mò mẫm mở chiếc túi nhỏ đem theo lấy mấy tấm bánh lá dúi vào tay anh:
- Bánh tôi làm... Ðể mai mà ăn sáng...
Kiểu như chị cho trẻ con quà để xí xóa một lời nói dối. Mấy tấm bánh lá còn nóng sực. Ðó tấm tình của chị dành cho anh sau những lo toan của việc mưu sinh. Anh muốn nói với chị rằng anh không còn là trẻ nhỏ và cuộc sống của anh còn phong lưu hơn chị rằng cuộc làm tình không vụ lợi của chị đã là quà tặng đáng giá với anh, rằng từ nay về sau chị đừng nhọc lòng lo lắng cho anh như vậy... Nhưng anh chẳng phải kẻ bẻm mép cũng chẳng là người hoạt khẩu, mọi ý nghĩ đều mắc cứng nơi cuống lưỡi và sau rốt anh đành lắp bắp:
- Cảm ơn... Cảm ơn...
- Ðừng cảm ơn... Ðừng cảm ơn tôi...
Chị thì thào đoạn nắm tay anh đặt lên ngực mình. Anh thấy tim chị đập thình thịch như nhịp con tàu hơi nước cổ lỗ vẫn qua ga Thuận Lý, khuôn ngực chị phập phồng, một khuôn ngực bị thời gian và sinh nở tàn phá. Tim anh bỗng tràn đầy thương xót:
- Cảm ơn... Cảm ơn...
Anh lặp lại như một gã ngớ ngẩn, ghì xiết chị. Người đàn bà vô danh đó đưa lưng bàn tay để ve vuốt anh bởi e sợ những ngón tay chai sạn, bị gai cá đâm xóc của chị làm đau làn da chàng thư sinh trẻ. Và lần nữa chị dẫn anh tới miền cực lạc...
Ðã qua hơn mười năm, hình ảnh người đàn bà xóm Hà bỗng trồi lên ngọn sóng thời gian, thúc hối anh quay quắt. Suốt một tuần anh nhớ cây chòi cất rớ ven sông, nhớ ánh mặt trời chói chang đám cá nhảy lao xao nơi đáy rớ, nhớ sóng, nhớ gió, nhớ cây cầu thang rung rinh, nhớ tiếng sàn ván cót két dưới lưng trong các cuộc làm tình. Thoạt đầu, chỉ những đêm tối trăng hẳn. Sau rồi, cả những đêm trăng khuyết. Nhưng không đêm nào anh nhìn rõ mặt chị. Anh không biết chị mặc quần áo màu gì, da chị thẫm hay sáng, ngay cả những nốt tàn nhang trên hai gò má chị anh cứ đinh ninh là sự thật, vào một lần anh hỏi, chị cười bảo:
- Ðâu có? Tôi đâu có tàn nhang...
Và anh đâm ngờ vực trí nhớ của mình: Có lẽ anh nhầm thật. Chỉ những người trắng mịn mới có tàn nhang, gái làng Bảo, xóm Hà chắc khó có màu da trắng. Sau rốt, anh tin rằng chị có cặp mắt buồn. Nhưng liệu người đàn bà góa bụa nào có được đôi mắt vui tươi? Có thể chính cặp mắt buồn của chị cũng do anh tưởng tượng. Cuối cùng, chỉ có một sự thật không thể chối cãi, lúc nào chị cũng đội nón sùm sụp như tất cả đám dân buôn bán tần tảo của xóm Hà.
Ðể bù lại, trí nhớ anh ghi thật rõ rành mùi mồ hôi, đôi bàn tay thô tháp mà chị thường cố giấu giếm để khỏi làm đau rát da thịt anh, những lời thì thầm nhỏ nhẹ mà dứt khoát tựa hồ những mệnh lệnh đưa ra giữa cuộc làm tình, trong căn chòi nhỏ bé bốn bề bóng
đêm vây bọc, anh là chú học trò ngoan ngoãn và chị là người thầy, kẻ dẫn dắt anh không mệt mỏi trong cuộc hành trình tới miền hoan lạc...
Gái, tên chị ấy là Gái... Sao hồi ấy ta không hỏi chị ấy họ gì. Và sao ta không lên xóm Hà một lần xem chị ấy sống ra sao... Ta đã ơ hờ quá đổi với một người đàn bà mà bao đêm thân xác họ và thân xác ta hòa nhập trong một đam mê, hơi thở họ gần kề như khí trời ta hít thở... Dù sao chăng nữa, chị ấy cũng là một mảnh đời của ta, một ân nhân chưa trả nghĩa...
Nhiều ngày, ý nghĩ ấy day dứt anh.
Rồi đột ngột ba giờ chiều nay anh đùng đùng phóng xe sang làng Bảo. Giờ ấy, làng vắng. Dân chài lênh đênh trên biển, dân làm nước mắm đang ở các xưởng chượp, xưởng nấu, dân buôn còn ngồi ngoài chợ chưa về, chỉ còn lại đám đàn bà nội trợ và trẻ nhỏ. Các chòi rớ ven sông thưa thớt hơn xưa. Người ta bảo mấy năm rày cá sông ít hẳn so với thời trước cuộc chiến. Hoan đứng trên bãi cát, ngắm nơi từng cất chòi rớ của anh nay nằm rã rượi hai con thuyền mục. Mặt trời sáng chói và sóng vẫn lao xao nô rỡn như xưa, như ngàn xưa, như mười năm trước. Con đường lên xóm Hà vắng lặng cát trắng phản chiếu ánh trời. Tít xa hàng phi lao nghiêng một đường lượn xanh thẫm, một nét buồn mảnh mai giữa không gian tưng bừng gió nắng:
Như xưa và chẳng như xưa, cảnh vật cũng như ta, như xưa và chẳng như xưa... Gã trai trẻ đã chết và người đàn ông côi cút đang hồi nhớ nhịp rung chuyển của cây cầu thang năm cũ. Vẫn nỗi khốn khổ ấy nhưng con người đã khác và hạnh phúc cũng chẳng còn hương vị ngày xưa... Sao bỗng dưng ta buồn phiền như gã thi sĩ thất tình. Thi sĩ chẳng phải thân phận của ta và ta chẳng thèm muốn thân phận của đám người vừa yếu hèn vừa khoác lác... Nhưng ta nhớ người đàn bà ấy, kẻ vô danh, không gương mặt... Có lẽ ta phải lên xóm Hà, ít nhất cũng một lần nhìn mặt người đàn bà từng đem lại hạnh phúc cho ta...
Ðường lên xóm Hà thuần cát, xe máy có thể chạy với tốc độ nhỏ, không quá hai mươi lăm cây số giờ. Ðồng hồ chỉ bốn giờ kém mươi lăm phút, Hoan ước tính anh dư thừa thời gian tìm kiếm. Một làng nhỏ mang tên xóm Hà chắc không quá đông dân. Nhưng đúng lúc anh nổ máy, một người đàn bà trẻ chạy xồng xộc tới:
- Anh Hoan... Trời ơi anh Hoan... Răng tới đây mà chẳng vào nhà? Mọi người nhắc tới anh luôn... Vào nhà đã...
Một tay cô xách chai dầu nấu ăn, tay kia níu chặt lấy anh. Cô bé chín tuổi ngày xưa đã trở thành người đàn bà, hai má đỏ rực. Hoan nhìn cô, cười tủm tỉm:
- Lớn quá, xinh đẹp ra nhiều quá... Anh không nhận ra nổi...
Cô cười sung sướng:
- Bữa trước anh sang chơi em lại đưa cháu về bên nội... Tiếc quá... Bọn em cưới nhau trong thời chiến nên chẳng biết anh đâu mà tìm. Bữa nào rảnh anh sang đây, chúng em xin làm riêng một mâm đãi bác.
- Không được. Một mâm cỗ thường và một mâm cỗ phạt.
- Dạ. Ba mâm cho đủ: Một mâm theo lệ thường. Một mâm cỗ phạt. Mâm thứ ba để bác nhận cháu. Chồng em là trưởng tộc, em đẻ cho anh ấy một thằng cu, bác cứ đến cả nhà phải xúm lại hầu.
Giọng cô đầy vẻ đắc ý. Hoan đưa mắt nhìn lần nữa người đàn bà trẻ mặt rám đỏ cổ tròn nần nẫn ngực núng nính nhảy dưới lớp áo lụa để tìm đứa bé gái gầy gò ngày xưa anh yêu mến, đứa bé quanh năm mặc quần đùi như con trai, tóc buộc ngỏng đuôi gà trống bằng sợi thun đỏ. Thấy Hoan nhìn mình, cô hỏi:
- Em khác xưa nhiều lắm hả?
Anh gật đầu:
- Nếu em không gọi trước, anh không thể nào nhận ra... Ngày anh tới đây, em như con chim chích... Nặng không đầy mười tám cân...
Cô bật cười khanh khách:
- Hơn mười năm rồi còn gì? Giờ em nặng hơn sáu mươi cân...
Họ đã tới cổng và cô giúp Hoan lôi chiếc xe nặng trịch qua mấy bậc thềm xếp đá. Anh ở lại đó hơn một tiếng đồng hồ, chuyện trò với bà mẹ, cô em bạn. Lúc hơn năm giờ Hoan mới lên đường. Trời vẫn nắng rỡ, giải cát ven sông trắng ngời như dát bạc. Chừng hai chục phút sau anh tới nơi. Cái làng anh tưởng tượng còn trù phú hơn xóm Hà anh đặt chân tới. Vài chục nóc nhà lá nằm giữa vùng ruộng hẹp, lúa đang xanh. Con mương nhỏ chạy hình cánh cung vây nửa làng, trên đó những đàn vịt đang ngụp lặn. Ðất mặn nên cây vườn còi cọc chỉ những rặng điền thanh là xanh tốt. Ðường làng
đen xỉn màu bùn pha cát. Ngay đầu làng nơi anh thoạt đến, một quán bán nước nghèo như đã tồn tại từ vài thế kỷ trước. Mái nhà lá mục ải nặng trĩu dây bìm hoa tím trùm từ nóc xuống chân rào. Một chiếc chõng tre cũ kỹ bốn chân chỉ còn hai, hai chân gẫy được thay bằng hai chồng gạch, trên chõng bày vài nải chuối chín, mấy tấm bánh gai và một đùm bánh lá, thứ bánh làm bằng bột gạo đỏ rắc vừng người đàn bà mười năm trước đã đem cho anh. Hoan hỏi bà lão bán hàng:
- Bà có nhận trông xe không ạ?
- Có. Nhưng chú phải khóa vào.
- Lúc nào bà đóng cửa hàng ạ?
- Cửa hàng nhà tôi lúc nào cũng mở... Mà cần chi phải đóng?
Hoan chợt nhận ra ngôi quán nhỏ được dọn dưới tấm liếp cửa. Tấm liếp đó đêm ngày đều được chống lên bởi hai cây cọc tre, trừ lúc gió bão. Bà lão có lý. Nhà bà không có cửa vì thế quán của bà cũng chẳng cần phải đóng. Anh nói:
- Lúc ra cháu xin gửi tiền bà.
Bà đáp, chẳng ra mặn cũng không ra nhạt:
- Ờ.
Ði được vài bước, Hoan quay lại:
- Bà biết ai là Gái trong làng này không?
- Gái à? Làng này có bốn đứa tên Gái, anh muốn hỏi Gái nào?
Thấy điệu bộ lúng túng của anh, bà nói tiếp:
- Gái già nhất đủ cháu nội cháu ngoại ở cách nhà tôi hai ngõ. Gái thứ hai mười sáu tuổi chưa chồng ở xóm Vịt. Cái Gái nữa đi thanh niên xung phong về ngót nghét ba mươi cũng chưa chồng cũng ở xóm Vịt. Còn cái Gái thứ tư có năm con ở xóm Mưng, thẳng vườn mía mưng trông ra...
Bà giơ cây quạt chỉ đường cho anh. Nghe bà lão kể, anh làm phép loại trừ và nhận biết người đàn bà anh muốn tìm chính là Gái xóm Mưng. Có lẽ chị đã tái hôn và có thêm ba đứa con nữa với người chồng thứ hai...
Xóm Hà thưa thớt, nhà nọ nhìn thông thống sang nhà kia, hàng rào thấp rau muống. Không có cây ăn quả. Theo lời bà lão bán hàng anh cứ thẳng vườn mía mưng đi. Ngót trăm thước, anh đã tới trường làng, một mảnh đất nện đen thui trước mấy gian nhà lá không cửa vách không tường được ngăn bằng vài tấm liếp tre, ghế bàn xiêu vẹo. Chỉ mấy tấm bảng đen là ngay ngắn và chúng là thứ duy nhất để nhận biết đây là nơi trẻ con tới học. Trường vắng ngắt, vài đứa nhóc đang chơi bi trên sân. Hoan hỏi chúng:
- Các cháu có biết nhà bà Gái ở đâu không?
Sáu đứa bé đều ngẩng nhìn anh, đứa nào đứa nấy mũi rải loang luếch. Thấy chúng im lặng, Hoan nhắc lại:
- Các cháu làm ơn chỉ giùm cho bác nhà bà Gái... Gái có năm con ấy.
Nghe anh nói rõ ràng, năm đứa quay lại nhìn thằng bé nhất có gương mặt tròn và cái mũi tẹt dí:
- Tủn kìa... khách hỏi nhà mày đó...
Thằng bé Tủn ngó chòng chọc vào mặt anh, cái trán vừa dô vừa ngắn nhăn lại, hai bàn tay vẫn chống xuống đất hệt như con chó nhỏ.
Hoan bật cười:
- Cháu phải con của mẹ Gái không?
- Phải.
- Ðưa chú về nhà.
Tay thằng bé vẫn chống trước cái lỗ bi, dường như luyến tiếc. Nó gặng hỏi:
- Ông hỏi chi mạ tui?
Hoan cao giọng:
- Ðưa chú về nhà rồi lại ra chơi tiếp, mau.
Cái giọng mệnh lệnh của anh lần này có hiệu lực. Thằng bé nhấc hai bàn tay khỏi mặt đất chùi vào đít quần, đoạn bỏ hòn bi vào túi áo đứng lên:
- Thì đi...
Hoan theo đứa trẻ qua ba ngõ nữa, tới chiếc cổng thấp uốn bằng tre, cánh cổng cũng đan bằng cành tre, thứ tre ngà chỉ to hơn ngón chân cái. Ngõ nhỏ dẫn thẳng vào mảnh sân xi măng, trên đó anh thấy tấm lưng của một bà lão đang cắm cúi băm bèo. Phía xa
hơn, ở góc sân bên kia một người đàn ông mù đeo cặp kính đen ngồi tẻ từng hạt ngô xuống chiếc sàng kê bên dưới.
- Ðó, nhà tui đó.
Thằng bé bảo anh rồi quay lưng định chạy đi. Hoan túm áo nó lại:
- Mẹ cháu đâu?
- Ðó...
Nó cau có đáp, vùng vằng quẫy khỏi tay anh:
- Mạ tui băm bèo đó... Răng ông không trộ?
Nói đoạn nó tuột khỏi tay anh vùng chạy lại phía sân trường. Hoan đứng sững. Anh nhìn bà lão thái bèo trên sân. Tấm lưng mỏng dẹt, còng xuống dưới lớp vải đen bạc thếch... Làm sao người đàn bà hừng hực dục tình năm xưa lại có thể trở thành bà lão lưng gù đang ngồi băm bèo trước mắt anh chừng dăm thước? Dù mười năm, thời gian cũng không thể biến đổi con người như vậy nếu không phải bùa phép của yêu tinh hoặc pháp thuật loài ma quỷ... Người đàn bà vẫn cắm cúi thái bèo. Hết mớ bèo, bà ta vươn tay kéo rổ bèo khác trên sân, cách già một tầm với. Cử chỉ đó khiến chiếc khăn buộc trên đầu tụt xuống. Hoan nhìn thấy búi tóc nhỏ gài cây trâm sừng. Tim anh buốt lạnh:
Phải, đó chính là người ấy... Chính người đàn bà đã cùng ta... Bây giờ ta phải tin vào pháp thuật của thời gian... Không còn lý do ngờ vực...
Người đàn bà năm xưa qua đêm với anh trên chòi rớ thường kết tóc thành đuôi sam rồi cuốn thành búi. Tóc chị không dài quá lưng nhưng khá dầy và cái đuôi sam của chị đôi lần xổ tung trong cuộc tình:
- Chết thật, cây trâm của tôi... cây trâm rơi đâu mất?
Hoan vẫn mò mẫm giúp chị tìm cây trâm sừng trên những tấm ván lát sàn và vì thế anh không quên được nó. Một cây trâm thô kệch, đầu tiện hình quả cầu, chắc dùng đã lâu đời nên nhẵn bóng. Sau này, anh tìm mua rất nhiều kẹp tóc lẫn trâm cài tóc cho Miên, chưa lần nào bắt gặp một cây trâm gài kiểu "ăn lấy chắc mặc lấy bền" như thế. Phải nói là nó gần lớn bằng chiếc que xiên thịt nướng. Bây giờ, anh nhìn thấy nó trên búi tóc của bà già, cái búi tóc nhỏ xíu lốm đốm muối tiêu càng thảm hại hơn dưới cây trâm cài quá cỡ. Anh vẫn nhớ mùi tóc người đàn bà trên chòi rớ đôi lần anh đưa tay nắn búi tóc chị, nó lớn bằng trái bưởi non. Bàn tay chị thô tháp nhưng hai cánh tay chắc lẳn, và cặp đùi rắn như thép. Cặp đùi của một người đàn bà lam lũ, mỗi ngày đi bộ không dưới bốn chục cây.
Thân thể chị cũng là thân thể kẻ phải làm quen với cường độ và trường độ của thứ lao động nặng, vào trường tình nó chuyển động như cỗ máy không mệt mỏi... Con người ấy, nàng tiên dục tình câm lặng ấy đã trở thành bà lão với búi tóc hoa râm?
Không chỉ trái tim anh buốt lạnh mà thịt da anh cũng buốt lạnh.
Anh nhìn lần nữa búi tóc sau gáy bà già. Nó vẫn được kết sam cẩn thận trước khi búi. Và cây trâm gài cùng một kiểu như xưa.
Một cơn gió chạy ngang khiến anh rùng mình. Anh quay lưng sải bước về phía trường làng. Lũ nhỏ vẫn chơi bi, nhưng chỉ còn lại ba đứa. Ba đứa kia chắc đã về nhà. Anh gọi Tủn:
- Ra đây chú có việc nhờ...
Nó miễn cưỡng đứng lên. Nhưng hai đứa kia chắc đã chán cuộc chơi nên nhân đó cũng đứng dậy:
- Thôi... đéo chơi nữa. Ðói bụng rồi.
- Tao về đây Tũn.
Tũn bảo:
- Mày còn nợ ông đấy nhé.
Ðứa kia gật đầu:
- Nhớ rồi... Mai...
Khi hai đứa bạn đi xa rồi, thằng Tũn quay lại hỏi anh:
- Ông nhờ gì tui?
Hoan rút trong túi xấp tiền bảo:
- Hồi trước mẹ cháu buôn cá trên chợ, chú lỡ vay món tiền. Rồi Mỹ đến thả bom chú đi sơ tán chưa kịp trả. Giờ cháu đưa món tiền này cho mẹ.
Nó vặn:
- Răng hồi nãy ông không đưa cho mạ tui?
Hoan đáp:
- Chú muốn đưa từ nãy nhưng e mẹ cháu không chịu nhận.
Thằng bé đưa tay quẹt mũi rồi nói:
- Thôi được, đưa đây.
Nó giật phắt món tiền trên tay anh rồi quay lưng đi khiến anh sửng sốt. Hoan sợ nó sẽ đem số tiền ấy đi ăn quà mà chẳng hiểu giá trị của những tờ giấy nó cầm trên tay là bao nhiêu. Ở những làng nghèo như xóm Hà, thường những đứa bé mười bốn mười lăm cũng chưa tiêu đến bạc đồng vì bố mẹ chúng bòn cả vườn rau mới được vài hào lẻ. Anh đi theo thằng bé. Nhưng nó không tìm hàng quà mà cắm đầu cắm cổ chạy một mạch về nhà, gọi mẹ:
- Bớ mạ, bớ... mạ... bớ mạ ạ...
Người mẹ vẫn băm bèo, lên tiếng hỏi:
- Chi vậy?
Anh nhận ra tiếng người đàn bà ngày xưa dù âm điệu thay đổi chút ít.
- Cầm tiền nè.
Thằng bé dúi nắm tiền vào tay mẹ. Người đàn bà hoảng hốt kêu:
- Mi lấy đâu ra? Mi lấy thứ này ở nhà ai?
- Tui lấy đâu ra?
Nó vặc lại mẹ rồi giơ tay chỉ:
- Tui đánh bi ngoài sân trường kia kìa, có ông khách tới hỏi thăm thăm mạ, bảo ông ấy nợ mạ món tiền nay đem trả.
- Ông khách nào, người ra răng?
Hoan nghe người đàn bà hỏi thảng thốt, giọng run lên, hiểu rằng chị đã đoán ra anh:
- Người ra răng, ông ta ra răng?
- Ông ta trắng bóc à... Cao to như Tây...
Hoan thấy người đàn bà ném cây dao xuống đống bèo, vụt đứng lên. Anh quay lưng bỏ chạy. Vài giây sau tới ngã tư, anh rẽ vào lối khuất, nhảy qua mấy dòng lạch nhỏ chảy lững lờ thứ nước màu đen, băng qua mấy mảnh vườn thưa hàng rào chỉ cao ngang gối. Cứ cắm đầu chạy thục mạng như vậy hồi sau anh cũng về được vườn mía mưng
mà bà lão bán hàng đã chỉ. Khi đó, anh mới tin chắc đã xa hẳn ngôi nhà của người đàn bà. Anh dừng lại thở, để nhịp tim đập thình thịch nguôi dần:
Cớ sao ta lại chạy như thằng ăn cắp? Một hành vi kì cục ta chưa có bao giờ. Lỡ ai trông thấy và lỡ họ nghi ta làm điều ám muội, bao nhiêu phiền hà sẽ xảy ra?
Trở lại quán nước anh trả tiền bà lão rồi phóng xe đi ngay. Ðường vắng, gió ù ù thổi nhưng anh vẫn phóng xe như điên:...
Thật hú vía... May không ai nhìn thấy...
Anh mường tượng cảnh vừa xảy ra: Một gã đàn ông cao lớn, đường bệ, ăn mặc chỉnh tề bỗng co chân chạy như gã ăn cắp gà, cuống cuồng nhảy qua các hàng rào, các lạch nước, rúc vào các lối ngang ngõ tắt, với dáng điệu của kẻ tội phạm bị săn đuổi, với vẻ mặt thất thần của kẻ bị ma chài... Vì sao bỗng dưng anh sợ hãi đến như vậy? Chính anh cũng không hiểu. Anh định bụng tìm chị, một lần nhìn rõ mặt chị, nói vài lời tri ân... và phút cuối anh đã bỏ chạy như kẻ ăn trộm gà...
Trở lại làng Bảo, Hoan gửi xe ở một quán nước rồi ra bờ sông.
Hoàng hôn đã tắt. Bãi cát tối vì đêm không trăng. Anh đi quanh lên các nấc thang tiếng cọt kẹt của những tấm ván dưới sức nặng và tiếng chị thầm thì:
- Có... nháp không? Tôi có làm anh đau không?
Nước mắt Hoan ứa ra:
- Không, không, không... Ta không thể gặp người đàn bà hôm nay để giữ nguyên vẹn người đàn bà mười năm trước, người đàn bà không tuổi, không tên và không rõ mặt...
Rồi cảm thấy không thể ngồi lại trên bờ sông, nơi hồi ức nghiền nát tâm can, anh đứng dậy lấy xe quay về thành phố. Nhưng khi phóng tới ngả rẽ xuống bến đò, anh chợt thấy quầng sáng phía bên kia thành phố sao ghẻ lạnh, sao hững hờ và dường như bên kia dòng Lệ Nhật không phải là mảnh đất anh từng sinh trưởng mà là một lục địa hoang vu chưa có dấu chân người. Lúc ấy, tiếng loa phóng thanh từ câu lạc bộ làng Bảo bắt đầu cất lên. Tiếng hát vụng dại, tiếng cười nói lao xao của đám trai gái làng chài thu hút anh.
Anh như kẻ bị bỏ bùa mê, quay xe theo vùng ánh sáng... Ðứng trong đám đông dưới sân khấu, anh vừa nghe hát vừa nhìn những cô gái, những gã trai tươi rói niềm sung sướng, nhớ tiếc tuổi thơ, nhớ tiếc thời mộng mơ, nhớ tiếc người đàn bà đã mất. Những nhớ tiếc hòa trộn nhau lan chảy như dòng suối mùa đông, trong suốt như pha lê, buốt lạnh. Hoan cảm thấy anh không còn tự chủ được. Anh chẳng biết anh là ai. Khi đám gái trai thả micro rời sân khấu, rút giầy dép cắp vào nách để đi ra bãi biển, anh chợt thấy bơ vơ:
Ta chưa bao giờ ra bãi biển, dù đã ở đây mấy năm ròng... Hà cớ chi hôm nay không thử đưa chân tới đó?
Anh nghĩ thế, và anh lùi lũi đi theo họ ra đây...
Giờ anh ngồi nhìn biển, khép chặt cặp đùi để trấn áp cơn đói dục tình. Nhưng cơn đói không nguôi dịu. Biển vẫn vỗ sóng và gió vẫn đưa lời thì thầm, điệu cười rúc rích, hơi thở hào hển hoặc tiếng kêu hoan lạc của những cặp tình nhân. Bất giác, anh quay đầu nhìn lên ngôi lều chứa lưới cách anh vài chục bước chân:
Miên ơi, em ở đâu vậy? Em hãy bước ra khỏi bóng tối...
Trái tim anh thốt lên, trong khi mắt anh đăm đăm nhìn cái khung đen sẫm trước lều. Anh chờ người đàn bà của anh từ trong đó bước ra, bộ quần áo màu lục sẫm, da thịt trắng ngần của chị làm biển đêm ngời rạng... Thời gian trôi đi, hai mí mắt anh tê mỏi. Anh đưa lòng bàn day đôi mi mắt và hiểu rằng ước mộng ấy hão huyền:
Em đã là vợ kẻ khác, em đã thuộc về người khác...
Hai bàn tay anh vặn chặt lấy nhau. Cảm giác đau ấy rất thực. Thực như sự xác định quyền sở hữu của người đàn ông khác với vợ anh.
Anh kiệt sức. Trái tim anh bị rút rỗng chỉ còn là thứ vỏ, tựa vỏ trái bầu khô trong khi bộ phận sinh dục mỗi lúc mỗi cương cứng hung hãn cuồng bạo thúc hối. Hoan nhắm mắt, gục đầu xuống gối khao khát một giọng đàn bà xa lạ, một giọng nói anh chưa nghe thấy bao giờ. Giọng nói ấy sẽ vang lên từ phía sau lưng anh, cùng lúc một bàn tay nặng trịch của người chài lưới sẽ đặt lên vai anh:
Tôi là gái góa. Tôi không muốn làm phiền anh, tôi không yêu cầu gì nơi anh cả... Tôi ưng anh đã từ lâu...
Chương 14
Vào những sáng thu, thung lũng nở một loài hoa li ti giống những giọt sương màu lục thẫm. Ðó có thể là loài hoa phù du nhất trong kiếp các loài hoa vì nó chỉ sống tất thảy vài giờ. Cỡ bảy giờ, bảy rưỡi sáng, mặt trời thu se khô cỏ, các nụ hoa bắt đầu xòe cánh. Quãng tám giờ cánh hoa đã nở hết cỡ và bông hoa sống khoảnh khắc viên mãn nhất với sắc đẹp dị thường. Hoa nở từng chùm, đong đưa muôn ngàn giọt lục trên những tầng lá dày đặc màu cẩm thạch có ánh bạc như phủ lông nhung. Mười giờ hoặc mười rưỡi, các cánh hoa mong manh đã bắt đầu héo, xoăn lại nơi mép cánh và đúng ngọ, năm cánh hoa teo tóp nhăn nhúm cuộn thành một chấm đen. Chưa họa sĩ nào vẽ nổi màu lục kì lạ của loài hoa này, cũng chưa thi sĩ nào miêu tả được vẻ đẹp cực mong manh huyền ảo của loài hoa này.
Vốn là lũ bẻm mép và lười biếng, họ không thể lặn lội tới một miền xa xôi như Xóm Núi, các nàng thơ của họ thường chỉ bay lượn quanh bàn rượu, hoặc bàn rượu sang trọng nơi màu vang đỏ điệp với sắc các bông hồng, hoặc bàn rượu hạ lưu nơi lũ ruồi vo ve bên đĩa lòng lợn luộc hay đĩa nộm da bò với thính. Bôn không phải thi sĩ nhưng sớm nay, bất chợt bắt gặp cả thung lũng bừng lên một màu lục thẫm, màu lục trong suốt long lanh tựa ánh trời ngân tụ, anh bỗng sững sờ. Ðây là quê hương, vùng đất mòn nhẵn dấu chân anh, vậy sao mãi tới hôm nay anh mới nhìn thấy loài hoa kỳ lạ. Phải chăng nó vừa mọc lên trong những năm anh xa nhà, do loài chim di trú bay ngang thả hạt xuống, hoặc tuổi thơ cơ cực không cho anh một khoảnh khắc dư thừa để ngắm cảnh vật? Anh không dám chắc đâu là sự thật, chỉ biết loài hoa mong manh kia giống đám mây lục sà xuống thung lũng, xao động giữa các búi cỏ lau trắng bạc và những thân soan dại khô cằn bồng bềnh trong ánh mặt trời thu, ánh mặt trời không còn chói chang đã ngả màu rơm mới. Vẻ đẹp của nó khiến anh ngơ ngẩn. Anh ngồi bệt xuống cỏ, nhìn ánh nắng trôi dạt trên triền hoa, bỗng dưng muốn khóc, muốn rã rời đứt đoạn chân tay, muốn ai đó hoặc xiên một lưỡi lê qua trái tim anh để kết thúc cuộc đơn hành khốn khổ trên cõi đời, hoặc quắp lấy anh như đại bàng quắp một con gà chiếp mang đi thật xa, thật xa, thả anh xuống một hoang đảo, một sa mạc, một miền xa lắc xa lơ cách biệt hẳn cõi người, để anh tạo lập một cuộc sống mới cùng cỏ cây muông thú. Cuộc sống đó có thể cực khổ hơn nhưng không nhục nhã đọa đầy như cuộc sống ở nơi đây...
Tiếng kêu be be của bầy dê nhà ai vọng tới. Theo thói quen, Bôn đưa tay rờ cây liềm và chiếc bao tải giắt lưng. Rồi nỗi chán chường khiến anh dật phắt chúng ra, ném xuống cỏ... Cây liềm ấy đã cắt bao nhiêu tạ lá Dâm dương hoắc, anh không còn nhớ... Ðã bao ngày trời anh kiên trì uống thứ thuốc ông già Phiều tốt bụng kê đơn: Dâm dương hoắc - Nữ trinh tử - Tật lê tử. Ông cho anh hai vị Nữ trinh tử và Tật lê tử. Anh theo chân loài dê lên núi cắt lá dâm dương hoắc. Già Ðọt cho anh rượu mạnh nấu bằng gạo nếp nương nhà. Mọi người cưu mang anh như cưu mang kẻ tật nguyền. Nỗi ê chề anh không mường tượng ra và không chịu thấu nhưng nó là sự thật.
Bôn nhận ra rằng giấc mơ xây đắp hạnh phúc ngày về làng chỉ là ảo giác, giống như châu báu được tạo bằng những hạt sương buổi lê minh. Anh bắt đầu hiểu ra điều đó từ buổi sáng ở nhà Xá chột quay về.
Khi cánh cổng nhà Xá khép lại sau lưng, anh đứng phân vân chẳng biết đi đâu. Con thuyền hy vọng đã đắm. Nhưng sau rốt, anh vẫn quyết định đến nhà già Ðọt, cầu may ở câu chuyện cổ tích về những món gia tài giấu trong hang đá hoặc chôn dưới đất đen. Nhà bà chị ruột của mẹ anh nhỏ hơn ngôi nhà cha mẹ anh để lại nhưng là nhà gạch đàng hoàng, tường trát vữa quét vôi và mái lợp ngói. Dù nước vôi mấy thập kỷ không được thay đã mọc rêu nhưng dẫu sao trông ngôi nhà vẫn sáng sủa vững chãi. Già Ðọt có vườn cây rộng, tuy không còn lam làm được bao nhiêu nhưng bà khéo điều khiển nhờ cậy đám trai trẻ trong làng nên khu vườn vẫn tươi tốt, mùa nào thu hoạch quả mùa nấy. Khi Bôn tới, bà đang ngồi tựa lưng vào tường ngủ gà ngủ gật. Hai đứa con nhỏ của Tá ngồi chọc rổ khoai luộc ngoài hiên, còn đứa lớn đã theo mẹ nó đi làm thuê ở làng bên.
Thấy cháu trai vào bà già mở choàng mắt, tức khắc tỉnh ngủ ngay:
- Vào đây... cháu già vào đây...
Hớn hở như bắt được của bà lục lọi khắp nơi tìm quả chín cho anh ăn, pha trà cho anh uống và kể tràng giang đại hải những câu chuyện về ông bà anh, bố mẹ anh, những người họ hàng thân thuộc và những kỷ niệm chia sẻ giữa bọn họ... Ðó là thế giới của những người đã chết, bà già sống với cái thế giới ấy, bởi nó thuộc về bà, và bà cũng thuộc về nó. Bôn nhìn bà lão hiểu rằng anh chẳng còn mảy may hy vọng. Anh đứng dậy cáo từ:
- Chờ già đã... chờ già đã.., cháu ơi, ta có cái này... Dành cho riêng cháu.
Bà lật đật vào buồng ở trong đó rất lâu, lục đục mở hết hòm này tới hòm kia, sau rốt bà quay ra với một bọc lá chuối khô. Bà đem gói đó tới trước mặt anh, lần lượt giở từng lớp lá chuối khô thận trọng như người ta mở lớp lụa gói đồ pha lê dễ vỡ:
- Này đây... phần cháu đây...
Dưới năm lượt lá chuối là lớp giấy dầu. Trong lớp giấy bọc sau chót là những cục đường phèn:
- Già phải gói kĩ thế này nó mới không chảy nước.
Bôn nhìn những cục đường phèn, hiểu kho châu báu anh mường tượng chính là đây. Anh cảm ơn bà lão, cầm gói đường phèn ra về. Ðường rợp bóng cây. Mẫu đơn nở trong các khu vườn. Tiếng chim vườn hòa cùng tiếng chim từ thung lũng xa vẳng tới, khung cảnh êm đềm nơi Xóm Núi bao năm dài anh mong nhớ đang hiển hiện trước mắt anh, chỉ cần giơ tay là hái được mẫu đơn, chỉ cần ngước mắt lên là thấy lũ chim nhỏ nhảy nhót trên cành, chỉ cần lắng tai là nhận ra điệu hót của những con chim rừng lạc vào vườn... Nhưng giờ đây, anh chẳng còn ham muốn. Nỗi nhớ mong thời cũ đã xa. Những khi nằm võng đong đưa vừa nhai lương khô vừa mơ tới vườn cây xóm Núi.
Những cuộc hành quân khô khát, nhớ dòng suối chốn rừng quê tưởng như nó chẳng còn là suối mà là con sông hòa trộn điệp trùng cả ký ức cùng ước mộng... Xóm Núi bây giờ là Xóm Núi của ai đó có bạc có tiền nhà cao cửa rộng nương cà phê san sát nương tiêu, mảnh đất quê hương anh biến thành quê hương của những người đã cắm chân vững chắc trong cơ ngơi, đã thâu tóm trong tay sản nghiệp...
Xóm Núi không còn là của anh, kẻ trắng tay, đang bước về nơi trú ẩn trong túi chẳng đủ tiền mua một gói thuốc lào. Anh đã trở thành kẻ xa lạ ngay chính trên mảnh đất chôn rau cắt rốn. Và anh chẳng còn một quê hương nào khác, sự cứu rỗi nào khác ngoài Miên, người đàn bà anh yêu. Anh phải bám lấy chị như bám vào mảnh ván cuối cùng trong cơn hồng thủy, bởi anh tin ngày một ngày hai, chị sẽ hiểu rằng trên đời này, trên cõi đất này không một người nào yêu chị hơn anh, ngưỡng mộ chị hơn anh, quỵ lụy chị hơn anh, chịu nhiều cay đắng gian truân vì chị hơn anh.
Bôn về nhà lúc Miên đang khâu vá. Chị ngước mắt lên:
- Anh đã về...
- Ờ, tôi đã về...
Anh hy vọng chị hỏi anh câu thứ hai, rằng anh đi đâu, có việc gì, và có được việc hay không?
Một câu hỏi đại loại như thế để anh có thể mở đầu câu chuyện nhưng Miên đã cúi xuống chăm chúi đẩy mũi kim như đường chỉ đang khâu là tất cả những gì tồn tại trước mặt chị. Bôn đi vào rồi đi ra, hết mở lại đóng ngăn kéo mà anh biết rõ chẳng có gì ngoài vỏ hộp nhựa đựng kẹo bạc hà ngậm ho giờ đựng thuốc lào. Dường như những hành động kỳ cục của anh khiến Miên khó chịu. Chị ngẩng lên hỏi:
- Anh đói rồi hay sao?
- Không... À à...
Miên bỏ cây kim xuống:
- Thôi được, em đi nấu cơm.
Chị dém gọn mớ đồ đang khâu dở vào góc giường rồi quơ chân tìm đôi dép. Anh đứng đần độn nhìn vợ:
Ta không biết mở đầu câu chuyện ra sao? Không lẽ ta tiếp tục nói dối? Bạn anh vừa gặp nạn, hứa năm sau đưa tiền... Chẳng kẻ nào dám hứa như vậy, nói dối cũng không dễ...
Ngoài sân, đứa con gái ba tuổi của Tá bỗng khóc thét. Miên chạy ra dẫn nó lên thềm, phủi kiến bám đầy hai cái mông đít bẩn thỉu của con bé rồi vào nhà lấy hộp dầu cù là bôi vào nốt kiến cắn.
Miên vốn là người nhân hậu, dù Tá là kẻ chẳng ra gì, cô ấy vẫn bao dung những đứa bé bẩn thỉu kia... Ta chẳng còn cách nào hơn là nói thẳng với Miên ngay bây giờ, ngay lúc này...
Bôn nghĩ, ra đứng ngay gần cửa, chờ Miên bôi dầu cho đứa trẻ quay vào anh sẽ lên tiếng. Nhưng một nỗi ê chề không sao lảng tránh vẫn đối diện sừng sững với anh.
Anh nhớ ngày thứ hai trong cuộc sống chung của họ. Buổi sáng anh dậy muộn vì đêm trước, sau cuộc làm tình thất bại anh chỉ ngủ thiếp đi một giấc mệt ngắn ngủi rồi sau đó gần như cả đêm thức trắng. Khi Miên tắm xong, trở vào giường mang theo mùi Thạch trinh hương sực nức, anh đã nằm im không động cựa, không dám hé mắt nhìn, chỉ giỏng đôi tai nghe ngóng xem chị thở than hay nguyền rủa. Nhưng Miên im như thóc.
Hơi thở chị rất nhẹ nên anh không thể biết chị ngủ hay thức.
Giống như kẻ tội đồ chờ lời phán quyết anh cứ giỏng đôi tai, căng hết dây thần kinh chờ đợi một tiếng thở dài, một lời lẩm bẩm tự nguyền rủa số kiếp hay oán trách trời già hòng qua đó biết được sự toan tính của chị. Nhưng anh không đón nhận được bất cứ tín hiệu nhỏ nhặt nào. Người đàn bà nằm bên anh câm như thóc, hoặc nói cho đúng hơn im lặng, lạnh lùng như pho tượng một pho tượng thơm ngát mùi nước tẩy trần. Cuộc thám thính tuyệt vọng của anh kéo dài tới tận lúc đài hàng xóm báo giờ tập thể dục, tiếng những người lên rú hái củi gọi nhau ơi ới ngoài đường thôn anh mới ngủ thiếp đi. Lúc Bôn trở dậy, nắng đã ngang mày, ít nhất cũng chín giờ hoặc chín rưỡi. Nhà vắng lặng. Anh bổ ra vườn, không thấy Miên nhổ cỏ hay cào lá khô. Ra ngõ cũng chẳng thấy bóng dáng chị. Máu Bôn dường như đông cứng trong huyết quản.
Cô ấy đã quay về với người đàn ông kia, không một lời đôi hồi không cáo biệt...
Anh không kịp suy nghĩ gì thêm, cũng không kịp khóa cửa buồng cứ thế xăm xăm ngược lên con đường chính. Con đường ấy dẫn đến nhà dì Huyên và sau đó là nhà cũ của Miên. Anh không biết anh sẽ làm gì nếu gặp chị hoặc nếu không gặp chị, anh chỉ biết mình phải đi tìm người đàn bà đó, bất cứ ở đâu, dù lội xuống địa ngục:
Hoặc cô ấy phải quay về, hoặc chúng ta cùng đi tàu suốt...
Bất đồ, Miên đứng trước mặt anh như cây cột:
- Anh Bôn... Anh Bôn...
Chị gọi. Và anh thất thần khi nhìn thấy chị đứng sững cặp mày nhíu lại một cách giận dữ:
- Anh đi đâu vậy?
Bôn đớ ra, bối rối. Nhìn mắt chị anh hiểu rằng chị đã đọc được tất thảy những ý nghĩ điên rồ, tăm tối của anh. Chị không hề sợ. Cứ nhìn những tia lửa giận dữ bắn ra từ cặp mắt long lanh của chị là rõ.
Chắc mặt ta thâm tím, mắt ta u ám và vầng trán ta hằn lên dấu ấn của kẻ sát nhân... Miên biết rõ. Cô ấy không hề sợ hãi...
Anh nghĩ. Và chính anh bắt đầu sợ. Anh đứng trước mặt chị co ro cúm rúm như thằng học trò không thuộc bài đứng trước ông thầy nghiêm khắc. Mồm anh lắp bắp không ra hơi:
- Tôi... tôi đi...
Miên nhắc lại, lần này nhỏ hơn nhưng các thanh âm bị cắt rời từng khúc. Anh có cảm giác mỗi chữ chị thốt khỏi miệng là một viên đá đập thẳng vào sống mũi anh, khiến anh choáng váng mặt mày, tê bại đầu óc:
- Anh đi tìm ai? Anh định gây sự với ai?
Anh lắp bắp, và bỗng nhiên chân tay anh run lên bần bật:
- Tôi đi... tôi đi tìm Miên... Tôi không thể ở nhà... một mình. Tôi...
Chị nhếch mép cười khẩy:
- Anh là đứa trẻ lên ba ngồi nhà một mình sợ ma bắt, đúng không?
Anh câm lặng, không tìm được lời nào chống trả. Và Miên nói tiếp:
- Anh đừng làm trò cười cho người trong làng ngoài xóm... Nếu anh nghĩ rằng em quay về sống với anh vì sợ kẻ liều thân là anh nhầm. Xưa nay em chỉ sợ bậc quân tử, không sợ bọn cố cùng... Chẳng cứ riêng em, người đời nói chung cũng vậy...
Nói tới đó, chị dừng lại vì người gánh dao kéo rong đi tới. Miên hạ giọng:
- Về thôi.
Chị đi trước, Bôn bước theo. Lúc ấy, anh mới thấy chị xách một con cá còn đang giẫy và mớ rau cải. Họ im lặng cho tới lúc vào tận gian buồng. Miên hỏi:
- Khi đi sao anh không khóa cửa.
Bôn không dám trả lời. Anh vừa sung sướng vì chị đã trở lại vương quốc của anh, vừa nhục nhã vì hiểu mình lố bịch. Người đàn bà cao giọng:
- Nếu hôm nay em không có tiền đi chợ, anh định ăn muối rang hay ra nhổ cỏ vườn lên luộc? Nhà người khác còn có thể bòn được nắm rau dền hay rau me đất nấu bát canh... Vườn nhà anh chắc chỉ hái được cỏ...
Bôn biết điều đó là sự thật. Trong vương quốc của anh không có cái gì có thể nuôi sống con người. Nó là cõi riêng của sự bần hàn. Anh hiểu sự bần hàn đi đôi cùng nhục nhã. Không chờ anh đáp lời Miên hỏi tiếp:
- Ngày hôm nay ăn hết con cá này, mớ rau này, ngày mai anh tính sao?
Và anh, bấn loạn lên bởi những câu hỏi của chị, không thể ghìm nén cơn run rẩy sâu xa trong tâm hồn:
Phải, ta biết tính sao đây? Món tiền định vay còn nằm trong túi. Con gà nhép cô Soan cho đã ăn hết hôm qua. Nếu Miên không có tiền chợ hôm nay chắc ta ra hái cỏ...
Một nỗi chua chát không sao ghìm nén được bỗng cuộn trào. Cơn run rẩy của thân xác hòa nhập với cơn run rẩy trong tâm hồn và anh không ghìm được. Anh khóc. Nước mắt anh lặng lẽ tuôn tràn, tay chân không ngừng run... Ðừng khóc, không được khóc... Khóc là nhục, rên là hèn, van yếu đuối... Ta đã từng đọc bài thơ đó bao nhiêu lượt với Bình kều...
Nhưng nước mắt cứ ràn rụa chảy, không sao cầm giữ nổi, tựa hồ nó đã tích lũy từ tuổi thơ côi cút của anh cho tới lúc này, và bởi quá đầy, chỉ cần một cớ nhỏ để xối xả tuôn ra cho vơi nhẹ. Và cùng với nước mắt, một giọng thì thào cay đắng bên tai:
Cứ khóc đi, còn danh giá nỗi gì mà gìn giữ? Ta nhục thật, ta hèn thật và ta chẳng còn lý do gì để sĩ diện với ai...
Anh đã khóc rất lâu, rất lâu, không biết Miên ra khỏi buồng lúc nào. Khi đã hết cơn hờn tủi, anh tự thấy mình lố bịch. Anh ra giếng rửa mặt rồi xuống bếp. Miên đang nấu cơm trong đó. Anh tới, ngồi sau lưng chị, luồn những cành củi nhỏ lẫn trong đám lá khô cho chị và nói:
- Tôi xin lỗi Miên... Tôi cũng không muốn sự thể như thế này...
Nhưng Miên đã thương tôi, xin thương cho trót... Tôi xin thề từ nay về sau không dám nghĩ điều xằng bậy, không dám làm những việc điên rồ. Và chị buồn rầu nhìn ngọn lửa, đáp:
- Người đàn ông chẳng nên sẵn lời thề thốt... Nhưng tình cảnh đã bấn bíu như thế này, anh phải tỉnh trí mà sống. Ði ra đi vào phải biết khóa cửa... Có mấy đồng bạc trong hòm mà mất, chắc ra vườn hái cỏ về ăn...
Lát sau Miên bưng mâm cơm lên, không ai nhìn ai. Bôn hiểu rằng anh đã bó giáo quy hàng, và cuộc sống dây leo sẽ đặt anh vào một tình thế khác.
Từ đó tới nay đã bao nhiêu ngày qua nhưng Bôn vẫn không quên cảm giác buốt rát trên mặt lẫn trong tâm hồn anh vào lúc anh nói với Miên những lời lẽ ấy. Dường như ngọn lửa bếp không đun nồi cơm chị đang nấu mà thiêu đốt con tim anh, da thịt anh.
Gian bếp lụp xụp khói mù. Từ bên kia chuồng lợn, hai con lợn còi nhà Tá kêu hộc lên đòi ăn. Mùi phân chuồng lẫn phân người bốc sang cùng tiếng lợn kêu. Miên không nói gì, chị vẫn đẩy que cời lửa liên tục giữa đám cỏ khô cho bớt khói. Nhưng anh cảm thấy chị cũng đang phải cố gắng ghìm nén một điều gì đó, và chị cũng khốn khổ không kém gì anh...
- Nín đi... Và không được xuống sân nữa...
Miên bôi dầu cù là cho đứa con của Tá xong, đặt nó ngồi lên tấm ván đầu hè. Chị cầm hộp dầu quay vào buồng. Không hiểu sao lúc chị đi ngang qua anh lại đứng dẹp sang một bên nhường đường cho chị và ngước mắt nhìn vơ vẩn lên những ngọn soan ngoài vườn làm như anh đang theo đuổi một ý nghĩ nào xa xôi lắm. Người đàn bà lẳng lặng lấy rá đong gạo nấu cơm. Ngay lúc ấy, đứa con trai lớn nhất của Tá vác rá sang:
- Mự cho tui vay vài lon gạo.
Nó nói cụt lủn, giọng lấc cấc. Chưa đầy sáu tuổi mà mặt đã cằn cỗi như đứa bé mười hai mười ba. Nó đứng ngay cửa buồng, cặp mắt láo liên sục sạo. Thấy Miên không đáp, nó cao giọng nhắc lại:
- Nhà tui hết gạo, mạ tui bảo mự cho vay mấy lon...
Bôn nóng bừng mặt. Miên vẫn không nói gì nhưng sau đó vài giây chị cúi xuống chum xúc thêm gạo để xẻ cho thằng bé. Ðược gạo rồi, nó cắp rá quay ngoắt đi không nói một lời, dường như quyền vay gạo nghiễm nhiên thuộc về nó còn đong gạo cho vay là bổn phận của bà mự giàu có kia. Từ ngày Miên về đây, gần như thành lệ, hai ba ngày một lượt đứa con trai Tá vác rá sang "vay gạo," thứ vay mà cả người đi vay lẫn người cho vay đều hiểu không có ngày trả. Ngay bữa cơm thứ ba của vợ chồng Bôn, Tá đã xui lũ con vác bát sang:
- Cho tui khúc cá, mự...
- Cho tui miếng thịt heo, miếng kia nờ...
- Răng nó hai khúc cá, tui có một? Cho tui cái đầu cá kia để tui san cho mạ tui một miếng...
Lần nào đó, Tá đứng sau lưng lũ con há miệng hông hốc cười:
- Mự giàu thế, không san sẻ cho chị cho em, để làm chi?
Miên không đáp. Không bao giờ chị hé răng nói nửa lời. Giá như chị phàn nàn, cãi cọ mắng chửi anh vì chuyện đó, hoặc giá chị thẳng thừng từ chối hết thảy những xin xỏ, vay mượn vô liêm sỉ của mẹ con Tá anh còn đỡ khổ... Nhưng chị im lặng, như đá, như cây, như chị với anh không cùng loài giống không chung tiếng nói.
Và anh biết những người ruột thịt của anh nhân thêm nỗi thống khổ anh phải chịu, nhân thêm gánh nặng nhục nhã anh phải gánh:
Mẹ cha ơi, sao lại đẻ ra một loại người vô sỉ như thế, sao đày đọa con đến nhường này? Chẳng có họ, con cũng đã quá nhục quá ê chề rồi...
Một ngày, rình lúc Miên đi vắng và mấy mẹ con Tá ở nhà, Bôn bước sang:
- Mấy người phải biết nhục chớ? Tôi đã chẳng có tiền bạc, sống trên lưng người ta, mấy người còn bám vào tôi làm gì?
Tá thản nhiên đáp:
- Cậu là em ruột tui, cậu lấy được vợ giàu nhất vùng, tui không bám vào cậu hóa tui ngu hơn bò ư?
Bôn nhìn người đàn bà ngồi trước mặt anh, người chung cội rễ chung tuổi thơ cùng san sẻ quãng đời sung sướng nhất, thấy một nỗi nhục sâu đậm thấm đến tận đáy tâm hồn. Phải, chị ruột của anh là thứ sản vật dơ dáy của ông Trời, ở lưng chừng giữa loài người với cỏ cây muông thú. Nhưng cho dù anh có băm nát chị ta ra hay oán hận những người đã chết, anh cũng không đảo ngược nổi tình thế: Ðó là chị ruột của anh, người gần gũi nhất với anh về huyết mạch. Ðiều đó giống dấu ấn bằng sắt nung đóng trên mặt nô lệ hoặc tù binh thời mông muội. Anh không còn cách nào hơn là to tiếng sỉ nhục Tá:
- Chị là đồ khốn. Từ rày còn cho lũ con vác rá sang bên tôi, tôi đuổi...
Nói xong, anh ân hận vì quá nhẫn tâm. Không ngờ, Tá vếch mặt lên:
- Tui thách cậu sập được cánh cửa, thách cậu không mở chum gạo nhà cậu cho tui vay...
Bôn không nói được gì thêm. Anh chịu thua. Cuộc "vay gạo" theo lệ thường của Tá tiếp diễn. Mỗi lần thằng cháu cấc lấc đứng chìa rá trước cửa, mặt Bôn lại nóng dừ lên. Và lần nào anh cũng không mở miệng nổi để mắng chửi hoặc đuổi đứa trẻ, cũng không mở miệng nổi để xin Miên lượng thứ... Cuộc sống của anh đã đầy rẫy những cầu xin rồi. Anh không thể lặp nó từng ngày như một gã ăn mày chuyên nghiệp:
Ta là một thằng ăn mày nghiệp dư nên chưa thể nào thành đạt. Có lẽ phải tìm cách chuyên nghiệp hóa nghề này...
Anh tự nhủ, mắt vẫn không rời những ngọn soan... Những cây soan già cằn già lụi kia đã từng có lúc non tươi, xanh rờn lá. Lúc ấy, chàng Bình kều và Bôn đã ôm vai nhau đọc thơ:
Khóc là nhục, rên là hèn, van yếu đuối
Và dại khờ là những kẻ lặng câm...
Chính anh đã tập cho Bình ngâm thơ những đêm liên hoan văn nghệ. Giọng cậu ta thật ấm. Anh thổi sáo hoặc gảy đàn bàu. Cây sáo và cây đàn bầu đã mất bởi sau khi anh đi lính, Miên trở về ngay nhà dì Huyên. Không ai giữ cho anh các kỷ vật:
Nếu cô ấy thật sự yêu ta như cô Soan yêu Xá chột, hẳn đã mang theo cây sáo với cây đàn...
Ý nghĩ ấy vụt đến nhưng Bôn xua đuổi đi ngay bởi anh biết nếu còn nghĩ tiếp, máu trong huyết quản anh sẽ tự khô kiệt và anh chỉ còn là một thây ma di động giữa cõi người:
Ta luôn vơ lấy những điều cắc cớ... Có lẽ vì ta vô công rỗi nghề... Có lẽ ta cần tự vỡ đất làm nương trước khi thuê thợ... Và chắc hẳn Bình kều sẽ...
Anh dừng lại vì biết anh bắt đầu tự dối gạt mình... Cái phao cuối cùng để anh bấu víu trên mặt biển đã mất. Bình cũng là kẻ chìm tàu. Dù anh có đọc lại một ngàn lần bài thơ cũ, dù anh có rảy nước phép cho những cây soan già kia trở lại non tơ, anh cũng chẳng thể vãn hồi tuổi trẻ.
Khóc là nhục, rên hèn, van yếu đuối...
Bất giác anh bật thành lời. Ðứa con nhỏ của Tá ngồi trên tấm ván đầu hè ngoảnh cổ nhìn anh:
- Cậu Bôn hát à?
Anh vội vã lắc đầu:
- Không, không... Mày hát cho cậu nghe đi...
Con bé nói:
- Tui... Tui hát xong cậu cho cái kẹo...
Bôn bảo:
- Ðược.
Con bé bắt đầu ê a hát. Bài hát lũ trẻ mẫu giáo Xóm Núi thường hát. Hẳn trong lúc lê la chơi ngoài đường nó học lỏm được. Anh vào buồng tìm trong chiếc làn đựng đồ vặt của Miên mấy chiếc kẹo đưa cho đứa cháu, vừa lúc chị bưng mâm cơm lên. Họ ăn cơm. Như thường lệ, bữa cơm im lặng. Có lẽ bữa ăn của các dòng tu khắc khổ cũng chỉ im lặng như thế. Xong bữa, Miên định đứng lên, anh giơ tay giữ vạt áo chị lại:
- Miên hãy ngồi xuống... Tôi có chuyện muốn nói...
Chị ngồi xuống, mắt chị nhìn anh... Cái nhìn lơ đãng. Tâm trí chị đang rong chơi đâu đó, nơi xa lắc xa lơ, ngoài không gian họ đang sống, chẳng dính líu gì tới gian buồng lợp lá này:
Miên ơi, sao em không nhìn tôi lấy một lần? Xưa kia, ta đã từng nhìn nhau, mắt soi trong mắt. Em hãy nhớ xem dưới gốc phượng già năm ấy, ta hôn nhau lâu đến nhường nào. Tôi vẫn nhớ rõ vết bầm xung quanh cổ em, những vết sau ót dưới chân tóc...
Anh nghe con tim mình rên rỉ.
Nhưng Miên không nghe thấy tiếng rên rỉ ấy và chị vẫn theo đuổi cuộc rong ruổi của riêng mình. Bôn nghiến răng một cách vụng lén và anh cúi mặt xuống e ngại Miên nhận biết những ý nghĩ đang vụt qua óc não:
Cô độc ác lắm, giờ đây cô đã hoàn toàn quên tôi và chỉ còn tơ tưởng đến...
Anh thấy cơn ghen tuông điên giận đang quanh quất đâu đây đợi phút nhảy xổ vào. Nhưng rồi tự ghìm giữ được anh đuổi con ác thú đó đi. Một giọng đểu giả cợt nhạo vang lên:
Ðừng quên thân phận mày. Tài không, tiền không, lại cộng thêm chứng thối mồm... Xá nói đúng, bằng bất cứ giá nào cũng phải chữa cho được căn bệnh khốn kiếp ấy... Nhưng ai trả tiền chữa bệnh cho mày đây? Nếu không phải người đàn bà ngồi kia... Hãy biết thân, kẻ hèn không được quyền thịnh nộ...
Anh nuốt nước bọt, nói:
- Miên này...
Những lời nói ngẫm nghĩ trên đường từ nhà Xá chột trở về bỗng bay biến, lưỡi anh như co rút lại. Tai anh ù ù kêu, mặt anh lúc nóng lúc lạnh cứ như ai liên tục quạt hai thứ gió vào. Anh đã ậm ừ, lúng túng rất lâu. Lâu lâu đến nỗi Miên sốt ruột, trái với thói quen kiên nhẫn của chị. Chị hỏi:
- Có chuyện gì vậy, anh cứ nói ra...
Lúc đó, anh mới bật được lời:
- Tôi cần phải xuống thành phố chữa bệnh. Miệng tôi mấy năm nay bỗng dưng sinh nặng mùi... Xá hứa ngày mai đưa tôi đi khám. Nghe nói anh ta có người bác họ bốc thuốc...
Anh nói mà không dám nhìn vào mắt chị. Nhưng anh biết chị vừa nghe vừa chẳng nghe gì hết. Chờ anh nói xong, chị hỏi:
- Anh cần tiền?
Anh thu hết can đảm gật đầu:
- Phải, tiền thuốc... Cậu bạn hứa cho tôi vay tiền đã vào Ðà Nẵng thăm người anh cả. Khi nào cậu ấy quay ra tôi sẽ đưa lại cho Miên.
Dứt câu, người anh tái dại:
Ta đã nói dối lần thứ hai... Và ta sẽ phải tái diễn... Rồi sẽ đi đến đâu?
Anh hình dung chị đang cười khẩy, hoặc chị cố nén sự khinh bỉ trong lòng, mím chặt đôi môi. Anh cũng thấy lớp da trên mặt anh dày hẳn lên, như da trâu, da ngựa, da voi, da tê giác hoặc loài thú rừng nào đấy...
- Anh cần bao nhiêu?
- Tôi... Tôi không rõ lắm... Có lẽ cũng không nhiều... Chỉ là tiền thuốc, cả thuốc tây và thuốc Bắc, Xá chột nói rằng cần uống cả hai thứ...
Chị mở túi áo, lấy tiền đưa cho anh. Bôn cầm tiền, đút vào túi vội vã như kẻ ăn cắp lần đầu nhét tang vật vào xó kín để không ai nhìn thấy và chính y cũng không nhìn thấy. Sau đó, anh mới dám đưa mắt nhìn chị. Ðôi mắt đẹp của chị vẫn phóng thẳng vào khoảng trời riêng, tồn tại ngay giữa bốn bức tường xù xì không tô trát này, trong gian buồng chật hẹp nghèo nàn này, nhưng là cõi xa lạ với anh chẳng dính líu gì đến anh, chẳng dính líu đến cái không gian anh đã gắng tu tạo điểm tô để vãn hồi tình yêu cũ. Anh đưa mắt nhìn những bông hoa riềng đỏ thắm cắm lẫn mấy nhành thạch thảo, mấy màu sắc của chúng thừa thãi và vô dụng... như anh... như kẻ đã dụng công sửa sang tỉa lá ngắt cành và cắm chúng vào bình. Phải, chị không hề để ý tới anh, đến căn bệnh của anh, đến những khổ tâm anh phải chịu... Không như những người đàn bà keo kiệt khác mỗi lần rút một đồng xu khỏi túi phải căn dặn chồng con, phải toan tính cả trăm lần, chị đưa tiền cho anh một cách hào phóng bao dung nhưng đó chẳng phải món tiền vợ đưa cho chồng, ấy là thứ tiền ban cho kẻ tàn tật, phế nhân vào lúc người ta có nhu cầu làm từ thiện... Anh nhìn lần nữa vào đôi mắt trong veo của chị, thấy trong chất nước thủy tinh kia giá buốt mùa đông. Nỗi đau và nhục kéo lưng anh gù xuống. Không chỉ mái đầu mà đôi vai anh cũng hạ xuống theo. Tựa hồ ruột trong bụng anh đang bị cơn đau hiểm nghèo co rút, nếu anh ngồi thẳng lưng lên chúng sẽ đứt ra hàng trăm khúc rã rời. Anh cứ ngồi như thế rất lâu, móng tay bấm xuống thành giường thành vết lõm. Vào khoảnh khắc tận cùng cơn đau, một tiếng thét vụt lên. Không chỉ là tiếng thét mà là sấm sét, giông bão. Những ý nghĩ sáng lòa như chớp, nổ ầm ầm như bửa đầu anh thành muôn mảnh:
Tôi là phế nhân. Giờ đây tôi chỉ là phế nhân. Tôi phải ngửa tay cầm những đồng tiền của lòng thương hại... Nhưng với những đồng tiền của cô tôi sẽ hồi phục, sẽ trở thành kẻ có khả năng tình dục vô biên như người chị nghèo hèn của tôi, có thể gieo hạt giống một lần cho hàng chục hàng trăm người đàn bà. Tôi sẽ bắt cô đẻ cho tôi một lũ đống con. Chúng là xiềng xích trói chân cô lại. Cô sẽ mãi mãi là người đàn bà của tôi, mệt mỏi và tàn tạ đi, chẳng còn trơn lông đỏ da chẳng còn kiêu hãnh được với đời... Rồi ngày nào đó cô sẽ phải còng lưng xuống vì đau khổ như tôi hôm nay, giây phút này. Cô sẽ phải ngước mắt lên van nài cầu khẩn tôi ngồi lại với cô vì những người đàn bà trẻ hơn, xinh đẹp hơn đang chờ tôi đến... Phải, sẽ tới ngày hôm đó...
Anh thấy con tim bớt đau. Người nhẹ dần.
Anh ấn bàn tay xuống thành giường nâng đôi vai và ngồi thẳng lưng dậy:
Phải, sẽ đến ngày ấy... Tôi chờ cái khoảnh khắc cô phải nhìn tôi với ánh mắt đắm say, vâng phục mười bốn năm xưa...
Anh nhìn chị, mỉm cười đắc ý. Nhưng chị chẳng biết đến nụ cười đầy hàm ý lẫn cơn giông bão vừa nổ ra trong đầu anh. Chị đứng dậy bê mâm ra giếng...
Hôm sau, Xá cưỡi chiếc Ja-ma-ha cũ tới đón Bôn lúc tinh mơ và đèo anh xuống thành phố. Gã bạn ấu thơ thường gãi đầu gãi tai nhờ anh gà bài hộ giờ biến thành thần hộ mạng lẫn kẻ bảo trợ cho anh. Ðưa Bôn tới cổng viện, Xá giơ tay nhìn đồng hồ, giao hẹn:
- Tôi rẽ qua chợ mua ít đồ. Mười một giờ kém mười lăm sẽ quay lại. Tôi chờ cậu trước quán cơm Thiên Nga.
Ðoạn Xá giơ tay chỉ quán cơm bên kia đường, trưng tấm bảng kẻ hàng chữ đỏ choét: Thiên Nga - Kính chào quý khách.
- Cậu phải nhớ kỹ quán Thiên Nga, kẻo lại lạc nhau. Người ở chỗ này lúc nào cũng nhung nhúc như cá nhốt trong ang vậy.
Nói rồi chàng cựu chiến binh trèo lên con chiến mã già, nổ máy ầm ầm tuôn luồng khói đen mịt mù nơi ống xả. Con chiến mã khạc nhổ ầm ĩ một hồi mới lao đi, Xá biến vào đám đông. Bôn đưa mắt nhìn lần nữa tấm biển kẻ chữ Thiên Nga bên kia đường. Thật khó phân biệt vì dãy phố dài có tới ba bốn chục quán cơm, quán nọ kề quán kia. Quán nào cũng trưng tấn biển sơn lòe loẹt. Quán nào cũng ám khói cũng có một bếp than cháy rừng rực bên phải và tủ kính lớn bày đồ ăn bên trái. Anh đưa mắt lướt qua dãy biển: Bạch Tuyết, Thanh Lan, Thanh Nga, Hồng Vân, Hồng Nhung, Cẩm Vân, Cẩm Thúy...
Ðến những tấm biển cũng khó phân biệt, chúng gần như cùng kích cỡ và trang trí cùng kiểu, biển nào cũng vẽ năm bảy đĩa thức ăn khói bốc nghi ngút như khói tàu... Sau rốt, Bôn nhìn kỹ lần nữa quán Thiên Nga, thấy bà chủ quán đang bốc thức ăn sau tủ kính, mặc may-ô đàn ông màu đen, cỡ trên dưới ba mươi nhưng đã nặng ước tám chục kí, thịt cổ thịt vai dâng ngồn ngộn. Anh yên tâm có thể tìm được quán cơm Xá hẹn, với ngoại hình bà chủ. Sau đó, anh kiếm lại chứng minh thư, giấy giới thiệu của ủy ban xã và món tiền Miên đưa hôm qua. Nó gần gấp năm lần số tiền anh nhận ngày xuất ngũ:
Ðây là những đồng tiền của người đàn ông ấy...
Anh nghĩ nhưng lập tức dập tắt ngay ý nghĩ đó bằng cách xăm xăm đi tới phòng khám bệnh. Ở đấy, đã có hàng đống người chờ đợi. Người ta bảo anh xếp giấy giới thiệu trước một khuôn cửa hình tổ tò vò. Và sau đó, anh kiếm chỗ ngồi chờ.
Ba tiếng sau mới tới lượt anh. Cuộc khám nghiệm diễn ra rất chóng vánh. Anh có cảm tưởng rằng người bác sĩ không muốn chịu đựng sự đối diện với anh mặc kệ lương tâm nghề nghiệp lẫn chiếc khẩu trang may đúp hai lần đeo nơi miệng. Ông kê cho Bôn cái đơn dài, nói rằng chứng bệnh của anh không nguy hiểm nhưng phải kiên trì và chịu tốn kém mới có thể chữa trị, bởi các cơ chằng có chức năng đóng mở van thực quản của anh đã mất sức đàn hồi không còn khép mở được chặt và nhạy như những người khỏe mạnh. Vì thế, trước hết anh phải nâng thể lực toàn thân, theo một chương trình luyện tập lâu dài khó nhọc, kết hợp với việc uống thuốc đều đặn và kiểm tra kết quả đều đặn trong vòng từ một đến hai năm mới có cơ suy giảm...
Bôn cầm lá đơn, mồ hôi vả đầy lưng: Một căn bệnh hoàn toàn không nguy hiểm nhưng tốn gấp năm lần ca đại phẫu thuật hoặc điều trị bệnh lao thời kỳ cuối... Anh chẳng kịp chào bác sĩ, ra luôn.
Căn phòng tròng trành, cả những dãy ghế dài còn ít người chờ cũng tròng trành theo. Bôn ra thẳng khuôn viên bệnh viện. Ðứng ở đó một hồi anh mới trấn tĩnh được và quay lại phòng bán thuốc. Mua thuốc xong đã thấy Xá đứng chờ ngay cổng bệnh viện, chiếc Ja-ma-ha đen trũi sau lưng:
- Tôi đứng ở quán cơm mười lăm phút mới sang đây... Thế nào?
- Phải chờ ba tiếng mới tới lượt... Ðông quá thể.
- Họ bảo sao?
- Họ bảo bệnh không nguy hiểm nhưng muốn chữa phải tốn rất nhiều tiền và rất nhiều thời gian.
- Cái chính là tiền. Thời gian có vô thiên lủng... Lính quèn về làng chứ vương tướng gì mà thiếu thời gian.
- Tôi sợ khó theo nổi...
- Ai đưa tiền cho cậu... Già Ðọt à?
- Không, già tôi chẳng có tiền... ấy là Miên...
- Vợ cậu cũng chẳng kiếm nổi tiền... Tiền ấy tay Hoan đưa... Cảnh này về lâu về dài không ổn...
Xá thở dài đánh hực rồi thượt mặt ra nghĩ ngợi. Lúc sau, anh ta chép miệng:
- Nhưng thôi, kệ mẹ sự đời, đi kiếm vài bát cơm dằn bụng đã, dạ dày tôi sủi bong bóng từ lúc nãy...
Hai người vào quán Thiên Nga, Xá gọi hai chai bia nhỏ, một đĩa thịt lợn luộc chấm mắm chua, một đĩa rau cải trắng xào thịt bò và hai con cá khô nướng:
- Tôi trả tiền... Ðứng lo. Nào, uống đi đã. Mọi chuyện sẽ tính sau.
Cô chủ quán bưng tới đĩa dưa chua:
- Món này quán đãi khách không tính tiền.
Cô đặt dĩa dưa xuống bàn, không quên cong ngón tay út trên bàn tay béo mập và bóng loáng mỡ lên làm điệu. Xá đưa mắt liếc dãy nhẫn to xù, toàn vàng gộc đeo kín các ngón tay cô, cười:
- Cảm ơn bà chủ, cảm ơn người đẹp nhá... Ðĩa dưa hôm nay ngon hơn mọi hôm đấy...
Chủ quán cười, hai chiếc bình tích rung lên bần bật. Khi cô ta trở lại quầy thức ăn, Xá ghé tai Bôn nói nhỏ:
- Cho không đĩa dưa năm xu lại tính chai bia đắt hơn một hào. Dân thành phố chẳng đứa nào tử tế. Cậu đã nhìn tay mụ béo chưa?
Mỗi cái khoong ấy mua được năm tạ thóc đấy. Ðám dân quê mình cầy ruộng hay lên rú đốt than cũng phải rạc cẳng, quắt cả hai hột cà mới được tạ thóc. Ở đây kiếm đồng tiền ngon ơ... Phi thương bất phú mà... Tôi không có nghề mộc với nghề sơn tràng, ắt cũng đói rã họng...
Nói rồi, anh cầm cốc bia:
- Nào, uống đi không tan hết đá.
Họ ăn xong, Xá đứng lên trả tiền rồi quay lại bảo anh:
- Giờ tôi đèo cậu đến hiệu thuốc Bắc. Nhà ông bác bên họ mẹ tôi... Họ bắn súng ca-nông mới tới... Nhưng dẫu sao cũng còn hơn người dưng.
Anh lại ngoan ngoãn ngồi sau lưng bạn, thắc thỏm chờ một cơ may một phép thần, một bậc thánh y tái thế có thể chữa cho anh canh bệnh hổ thẹn này. Ở nhà ông bác Xá, người ta bảo anh vượng cơn hỏa trong tỳ, trong vị, và họ bốc cho anh mười thang thuốc nhằm hạ cơn hỏa đang cấp táo để hơi thở anh bớt mùi nồng nặc.
Trả tiền thuốc xong, anh vẫn còn khá tiền, nhưng anh cất kỹ vào túi áo, cài khuy cẩn thận. Anh cần tiền, cần rất nhiều tiền... và không có cách kiếm tiền nào khác là ngửa tay trước Miên. Mỗi lần người đàn ông ngửa tay ra với vợ, là một lần tụt sâu xuống nấc thang đi vào địa ngục, anh đã có kinh nghiệm về điều đó.
Thời xưa, cái thời xa lắc xa lơ, có những người đàn bà cả đời nuôi chồng đi học, mong ngày đức lang quân vinh quy bái tổ. Nhưng trong đám một vạn bà đồ nuôi chồng đèn sách, chỉ vài ba người được hưởng cảnh: Võng anh đi trước, võng nàng theo sau...
Còn đa số phải an phận lèo lái con thuyền gia đình để người chồng trở thành một thi sĩ tại gia suốt ngày ngâm ngợi thơ phú, trà thuốc với đám bạn chữ nghĩa và đôi khi cao hứng mài mực, múa bút viết bài thơ nịnh vợ...
Khi Bôn lớn lên, cảnh tượng ấy không còn, nó chỉ còn trong hồi ức xa xôi của các ông già bà lão. Thời của anh, đàn ông là kẻ đứng mũi chịu sào, là người lo toan nền tài chính trong mỗi gia đình. Hình ảnh ông đồ ngồi múa bút vịnh trăng chỉ là một ảo ảnh mong manh và xa mờ, gần như mộng mị. Bây giờ, đôi khi anh thèm quay lại thời xưa cũ, thèm thân phận những ông đồ hay chữ, cả đời sống trong sung sướng an nhiên mà không cần kiếm ra đồng tiền cắc bạc...
Thời đi học, Bôn đã từng là niềm hy vọng của bao nhiêu ông thầy. Và nếu có một thời đèn sách cũ, biết đâu chẳng có lúc anh đưa người đàn bà anh yêu vào giấc mơ: Võng anh đi trước, võng nàng theo sau?
Nhưng những cơn mơ thức, những giấc mộng giữa ban ngày như thế giống như những sợi tơ trời, êm nhẹ thoáng quệt vào má, vương trên mặt ta trong vài giây, bồng bềnh như gợn mây ấy, anh càng nhận biết rõ hơn thân phận chính anh: Anh không phải kẻ lèo lái con thuyền gia đình, cũng chẳng là người chung lưng đấu cật với Miên để lo toan cuộc sống. Anh là bóng ma dĩ vãng, ăn lộc thừa dĩ vãng, cuộc sống chung của anh với Miên giờ đây là sự ghép đôi một thân thể hừng hực sinh lực của cuộc đời hiện tại với thây ma nhợt nhạt từ cánh rừng duy nhất để duy trì cuộc chung sống này bắt buộc anh trở thành một gã đàn ông hùng mạnh, đầy năng lực giao phối để cấy hạt giống vào thân thể nõn nà quyến rũ của Miên, bắt chị buôn chung với anh chuyến hàng tương lai. Ngày xưa, Phật dạy:
Con cái là những sợi xích bằng vàng...
Anh biết điều đó tuyệt đối đúng. Anh phải có con bằng mọi giá, để trói buộc người đàn bà anh yêu mê bằng những sợi xích vàng...
Người bảo trợ của anh có óc thiết thực. Không chỉ một lần mà đã ba lần Xá bảo anh:
- Trước hết, phải trị được chứng thối mồm. Ðéo con đàn bà nào chịu được thứ mùi ấy, cho dù cậu là vua buồi vàng dái bạc cặc lưu ly... Nhưng bây giờ cậu cũng phải trị luôn chứng thiếu năng đực. Chứng đó cũng tốn tiền của và thời gian chứ chẳng chơi. Giờ thì đừng tính chuyện làm nương với vườn cho rách việc. Túm được đồng nào nhét thật chặt vào túi mà lo chữa bệnh bởi tôi biết, tiền Miên đưa cho cậu cũng chẳng phải thực sự tay cô ấy làm ra. Chính anh chồng kia đưa cho cô ta. Phải thừa nhận tay ấy đáng mặt đàn ông, nếu Miên có nặng tình với anh ta cũng là lẽ thường. Như thế, Trời đã cho cậu ăn lộc người dưng, chẳng phải ai ai cũng vớ được món bở như vậy. Tiền của ai rơi vào túi Miên cũng thành tiền của cô ấy. Cô ấy hiện tình là vợ cậu. Vậy cậu có thể tận dụng cơ may này để sống và chữa bệnh... Có sức khỏe trước hết đã, mới tính được mọi việc khác sau... Kể như thế cũng mặt dày thật. Nhưng biết làm sao? Túng thì phải tính... Chẳng ai muốn trở thành thứ mặt dày, nhưng đôi khi người ta cũng phải mặt dày để sống...
Những lời lẽ sống sượng ấy đó tạt vào mặt anh một thứ cường toan. Nhưng khi anh nghe lần thứ hai, rồi lần thứ ba, chất cường toan kia không còn làm anh cháy bỏng mặt mày. Anh hiểu con người có thể làm quen với mọi thứ. Chấp nhận sự thật, anh làm đúng những điều Xá chột khuyên. Ngày ngày anh kiên trì sắc thuốc Bắc uống làm ba lần, mỗi lần một bát. Kèm theo các thứ thuốc Tây trước và sau bữa ăn.
Uống thuốc được ba hôm, anh tìm đến nhà cụ Phiều. Anh đã may mắn gặp được một người tốt bụng bẩm sinh, một kẻ lạc quan bẩm sinh thứ quái nhân hiếm hoi trên cõi đời. Lão già đa tình bảy mươi đó vẫn hăm hở nói đủ thứ chuyện tiếu lâm, vẫn hấp háy cười khi chỉ cho anh cảnh con dê đực đầu đàn của lão đứng ở cửa chuồng ban mai, chờ các con cái qua cửa, lần lượt nhảy lên lưng từng con hệt như cỗ máy giao phối.
- Thế nào? Ðã phát thèm chưa anh lính?
Ông lão hỏi Bôn rồi cất tiếng cười sằng sặc. Bôn kinh ngạc. Anh không hình dung một người ở tuổi bảy mươi lại có tiếng cười khiêu khích như vậy. Hồi anh còn ở làng, ông Phiều mới ngoài năm mươi và ở lứa tuổi đó tính cách như ông không phải là một thứ trò lạ mắt khiến dân chúng phải tò mò...
Nhưng mười bốn năm qua, những người đồng lứa với ông đã trở về già, thôi ham hố chuyện trăng hoa, thôi dòm ngó đàn bà với con mắt dục tình, đã thích bó gối ngồi ở nhà trông cháu, hoặc lơ mơ nhìn mưa nắng ngoài sân kể chuyện ngày xửa ngày xưa...
Chỉ riêng ông vẫn còn ở lại tuổi năm mươi cũ, vẫn không chịu rời bỏ thời chín dục của giống đàn ông, thời mà các kinh nghiệm làm tình trở thành một thứ thuốc phiện kích thích ái ân và khao khát sống như than cháy hết cường độ trong lò tỏa ánh sáng mê cuồng trước khi tắt lụi.
- Sao nom sướng mắt hả?
Ông cụ cất tiếng hỏi Bôn lần nữa, mấy ngón tay đưa lên vê món râu cằm. Trông ông cũng từa tựa con dê đầu đàn, một con dê bá quyền và thông thái:
- Sao, anh thử phát biểu cảm tưởng của người chiến sĩ nhân dân trước cảnh tượng này? Loài vật nào nhảy cái cũng mệt mãi, cũng khốn khổ, cũng thở hồng hộc như sắp đứt ruột gan, cạn hơi cạn sức chỉ riêng loài dê nhảy cái như bỡn như chơi không mảy may mệt nhọc... Thế nên phải xếp nó vào hàng tổ phụ của các giống dâm đực, chủ tịch một nước có xứ tên là Xứ Dâm...
Dứt lời, ông lão tinh quái ra sân, ra lệnh cho thằng con mười ba tuổi lùa dê lên núi, bảo cô vợ pha trà xanh và lấy bánh mật mời Bôn. Người đàn bà chưa đầy bốn mươi tuổi nhưng trẻ hơn tuổi rất nhiều, cổ lẫn hai má đỏ hây hây, mông lẫn ngực núng na núng nính. Chị ta ngoan ngoãn đem bình trà ủ trong quả dừa khô và một đĩa bánh mật nóng rồi vác cuốc ra nương.
Cụ Phiều có tới ba nương tiêu, hai vườn cà phê rộng, vào hàng điền chủ giàu nhất mấy xã. Vợ con trong nhà ngót hai mươi người răm rắp làm việc dưới sự điều khiển của vị gia trưởng, và dù là cảnh vợ nọ con kia, chưa bao giờ xóm giềng nghe thấy một lời nói to dưới mái nhà này. Chờ vợ con đi hết, ông lão bắt đầu bài giáo huấn:
- Người đàn ông dâm chưa chắc đã mạnh dục tình. Cứ nhìn thằng dê cụ kia là rõ. Nó có kéo quần tốc váy sờ mông nắn vú giống cái như mấy thằng đàn ông dâm đãng đâu... nhưng nó vẫn là chúa tể giữa đám vật cường dục, hoạt động như có máy trời chạy bên trong. Muốn có thứ máy trời như nó phải bỏ công rèn dưỡng thân thể...
Tới đó ông lão dừng lại uống hết bát chè tươi nóng rồi bóc bánh ăn. Nhìn ông lão ăn uống, Bôn biết rằng khi uống trà ông đã uống cả vị thơm đồi núi, khi ăn bánh ông thưởng thức cả vị mật bốc lên từ những vườn mía và mùi nếp mới, thứ mùi hương anh tưởng nhớ suốt những năm dài chiến tranh...

Anh biết rõ như vậy, nhưng anh không cảm thấy hương vị của thứ nước anh uống, miếng bánh anh đang ăn. Chính anh, kẻ có chữ và biết tưởng tượng sự thụ hưởng đời sống trở thành vô năng trước cuộc đời thật sự. Anh lặng lẽ nhìn hai hàm răng đều tăm tắp, chắc như đá của lão già bảy mươi nhai bánh ngon lành, nhìn cách ông cụ uống một hơi cạn bát trà xanh nóng hổi, thèm thuồng và chua xót. Ăn uống xong, gương mặt ửng hồng của ông toát đầy mồ hôi, mồ hôi đọng từ chân tóc xuống tận cổ. Ông lão chờ mồ hôi ra hết mới rút tấm khăn bông phơi trên dây lau khô. Toàn bộ những cử chỉ đó toát ra từ sự tự tin và bình thản. Buông tấm khăn, ông nhìn Bôn:
- Sao ăn uống uể oải vậy? Người ta ăn cho tận một miếng bánh quê còn bổ ích hơn ăn bát cháo yến trong cung đình cách miễn cưỡng... Các anh chẳng hiểu gì về phép sống...
Phải, ta chẳng biết gì phép sống. Ðó là những kiến thức hoàn toàn khác biệt kinh nghiệm chiến tranh. Ta đã bắt đầu cuộc sống với tư cách người lính và giờ đây phần đời còn lại đòi hỏi ở ta những tư cách khác...
- Anh còn trẻ...
Ông lão vẫn tiếp tục:
- Anh còn sống nhiều... Sống mà không biết phép sống chẳng khác chi kẻ ngậm ngải tìm trầm mà không biết phân biệt đâu là cây quế đâu là những loài cây tầm thường khác... Thế nên người ta phải học... anh lính ạ...
- Dạ.
Bôn đáp.
- Tôi bảo anh rằng muốn sống cho lành mạnh phải biết rèn và dưỡng. Phải vừa rèn vừa dưỡng chứ không thể chú tâm đến một việc. Ðám nhà giàu dưới thành phố thường chỉ dưỡng thân mà không rèn. Trong nhà họ lúc nào cũng sẵn hàng chục bình rượu bổ: nào sâm nhung quế phụ nào hải mã, bìm bịp, nào Tam xà Ngũ xà... Họ hưởng đủ của ngon vật lạ nhưng đã mấy ai vượt nổi bậc tám mươi trong khi dân vùng núi trên dưới trăm tuổi mới chịu bỏ cõi ra đi là sự thường tình. Có chuyện ấy bởi họ chỉ dưỡng không rèn, uống rượu bổ ăn đồ ngon ngủ với đàn bà nhưng không chịu lao động. Mồ hôi không thoát ra được nên máu huyết khó thông, cơ bắp không va đập ắt phải sớm chảy nhão... Anh thấy đấy, tôi lấy đâu ra tiền mà bồi bổ được như họ? Không sâm nhung quế phụ không hải mã hải sâm, thứ bổ dưỡng duy nhất tôi dùng là thịt dê, huyết dê, sữa dê, tinh hoàn dê, cao dê... Toàn cây nhà lá vườn không tốn kém. Nhưng tôi hơn họ vì ngày nào tôi cũng đi vài bài thái cực quyền, rồi tôi lên nương hoặc rảy cỏ vườn trồng rau trồng đậu... Anh kém tôi bao nhiêu tuổi? Già non bốn chục, đúng không? Vậy mà anh chẳng thể theo chân bầy dê leo lên những ngọn núi bên kia thung lũng Hươu Ðen, tôi tin chắc như vậy. Kể cả lũ trai hai mươi hai mốt cũng nhiều đứa bỏ cuộc. Nhưng tôi, tôi có thể đi với bầy dê tới con vực cuối cùng... Ông cụ ngừng lời, rót nửa bát trà, uống cạn. Bôn nhìn hai hàm răng ông lão chắc kìn kịt như có thể nhai được cả gỗ, bật lên hỏi:
- Bác còn ăn được mía không?
Ông già nhướng mắt nhìn anh:
- Tôi á?
Cất tiếng hỏi lại Bôn rồi, ông tủm tỉm cười bỏ xuống nhà ngang nơi chất chồng đám mía nhổ chiều hôm trước đoạn trở lại với một cây mía vừa dài vừa to vật vã, tì lên gối bẻ làm đôi, đưa cho Bôn khúc trên còn phần mình khúc dưới. Và rồi không róc vỏ không chặt khúc, cầm nửa cây mía dài ngang ngửa một thước tây ông róc vỏ ăn cho tới đốt cuối cùng mới ném rễ ra sân:
- Không phải vì lấy vợ trẻ mà tôi thích khoe khoang nhưng nhiều khi thiên hạ hay đánh đố những trò ngớ ngẩn... Thôi, bây giờ ta nói đến việc của anh... Anh còn trẻ, còn thời gian cải thiện quãng đời trước mặt. Nhưng đừng quên rằng anh đã qua hơn mười năm chiến tranh, sống cuộc sống bất ổn và hoàn toàn khác biệt với cuộc sống quê nhà... Ở đây, tuy cũng có bom đạn nhưng vẫn làng xóm ấy, rừng núi ấy, khí trời ấy, rau cỏ cây cối ấy... Trong những năm xa nhà, có thể anh đã phải uống nước độc, ăn những thứ độc rồi lam sơn chướng khí ngấm vào. Giờ, tôi sẽ bày cho anh những bài tập và các thứ thuốc uống để thanh lọc cơ thể, đẩy khí độc thoát qua đường nước tiểu và mồ hôi. Sau, tôi sẽ cho anh các bài thuốc và những món ăn tráng dương bổ khí...
Từ hôm ấy, mỗi tuần anh đến nhà ông lão hai lần để thực hiện các bài tập nhằm củng cố cơ quan nội tạng, lọc máu, thanh tâm. Chương trình này kéo dài hơn một tháng. Bôn thấy người sảng khoái bớt những cơn choáng váng và nước tiểu trong hơn nhưng khả năng tình dục dường như không thay đổi. Anh nói cụ Phiều và ông già bảo:
- Không thể nóng vội như vậy được... Cổ nhân dạy rồi: Dục tốc bất đạt... Anh phải nghe tôi...
Nhưng ba tuần sau anh đã phải nhắc lại lời thỉnh cầu:
- Bác cho cháu bài thuốc tráng dương... Cháu cần phải có con, càng nhanh càng tốt.
Ông già lắc đầu nhưng cũng chiều ý anh, cho anh bài Dâm dương hoắc Nữ-trinh tử-tật lê tử ngâm rượu. Ông còn dạy anh cách uống rượu dê với những món ăn tương hợp, cách nấu lẩu tinh hoàn dê với hạt sen củ sen củ súng, cách hấp tinh hoàn dê với hành tỏi ngũ vị hương và rượu mạnh, cách ăn gan dê nướng vào lúc người đang tháo mồ hôi và cách uống sữa dê vào buổi sớm...
Không điều răn bảo nào của ông Phiều, anh không thực hiện. Bôn lần mò xuống các làng xa mua hạt sen, củ sen, củ súng. Anh ngồi nhẫn nại hàng ngày bóc hạt sen, thông tim sen để có thể nấu món lẩu tinh hoàn dê tuyệt vời. Anh tìm những hòn đá già lớn gấp đôi viên gạch, nung nóng để nướng gan dê theo đúng cách cổ truyền. Mùi gan dê ướp gia vị nướng sém thơm nức, quyến rũ không chỉ lũ cháu đói của anh mà cả đến Miên...
Nhưng anh quyết không san sẻ những món ăn bổ dưỡng đó cho bất cứ ai, dù bị mang tiếng là kẻ tham ăn, quân phàm phu tục tử... Ðó chẳng phải những món ăn theo nghĩa thông thường, đó là vũ khí của anh để tái chiếm những thành trì đã mất:
Ta nhất quyết phải có con... Bằng mọi giá...
Cuộc mã hồi ngày càng gấp rút. Ngoài các thứ thuốc và các món ăn bổ dưỡng, Bôn sắc lá Dâm dương hoắc lên uống thay nước chè, kiểu như đám đàn bà đẻ phải uống nước lá gừng, và mỗi lần uống thứ nước khó ngửi ấy, anh lại tơ tưởng đến hình ảnh oai vệ của con dê đực đầu đàn, đứng ghếch chân trước cửa chuồng ban mai phân phối ái tình cho cả đàn dê cái, không bỏ sót mụn nào...
Một lần, tới nhà Xá chột chơi anh gặp bạn cùng trường cũ. Năm Bôn và Xá nhập ngũ, cậu ta đi thanh niên xung phong. Sau chiến tranh được học khóa trung cấp nấu ăn và giờ làm đầu bếp cho khách sạn lớn nhất thành phố. Cậu đầu bếp béo lặc lè, đỏ hồng tưởng như nhìn rõ cả đám vi huyết quản dưới lớp da láng mịn và mỏng như da trẻ nhỏ. Hồi cùng học cấp ba, cậu ta gầy gò xiêu vẹo như kẻ ốm đói trường niên. Bôn hỏi vì sao anh ta thay đổi đến thế? Cậu bạn nhăn nhó phàn nàn rằng cậu ta không muốn béo thêm và mỗi ngày chỉ dám ăn một bát cơm với rau quả nhưng vì nấu nướng nhiều chất dinh dưỡng thấm qua khứu giác lẫn da thịt nên cơ thể cứ tăng trưởng không sao kìm hãm. Nghe chuyện, Xá vỗ đùi bôm bốp:
- Vậy là mày có lá phổi thực vật trong cơ địa... Giống các loài cây hấp thụ dinh dưỡng trực tiếp qua lá, qua lớp biểu bì thân chứ không cần tới rễ... Thế nào mà một trăm anh đầu bếp một trăm linh một anh tròn thu lu...
Bôn im lặng, nhưng một ý nghĩ lóe lên trong đầu:
Nếu cơ thể con người có thể hấp thụ dinh dưỡng theo kiểu lá phổi thực vật thì từng bộ phận trên cơ thể cũng có khả năng đó, vì con người là bộ máy hoàn chỉnh và mọi bộ phận đều liên đới với nhau...
Hôm sau, trong khi chọc tiết dê, anh hứng một phần tiết vào chiếc gáo dừa. Chờ lúc Miên đi vắng, anh chốt chặt cửa buồng bắt đầu cuộc thí nghiệm lá phổi thực vật với bộ phận truyền giống của mình. Trước hết, anh hòa nửa phần rượu vào tiết dê đựng trong gáo. Sau đó, anh lựa một tư thế ngồi thích hợp để ngâm bộ phận sinh dục vào. Vừa ngâm, Bôn vừa lấy ngón tay nhẹ nhàng xoa vuốt để quá trình thẩm thấu diễn ra nhanh hơn. Vài giây đầu cái của quý đó mát rượi. Nhưng vài giây sau, nó nóng rần lên. Anh đã nức nỏm mừng thầm, không còn cảm giác hổ thẹn như lúc đầu khi cúi nhìn bộ phận mẫn cảm nhất cơ thể mình bỗng nhiên biến thành một loài động vật kỳ lạ tựa một thứ ếch nhái dị hình bơi lội lóp ngóp trong gáo nước lầy nhầy đỏ... Anh xoa vuốt niềm hy vọng của mình một cách hào hứng hơn. Nhưng dần dần, lớp da không còn ấm nóng mà bắt đầu xon xót và hơi rát. Ðiểm rát nhất chính là nơi đường tiểu thoát ra:
Cần phải kiên trì chịu đựng...
Anh tự nhủ. Nhưng lúc đó Miên gõ cửa buồng. Hẳn chị quay về vì sợ mưa. Bôn cuống quýt. Anh vội vã lấy chiếc quần đùi ném trên giường lau của quý để mặc quần dài. Rồi anh ra mở cửa. Trong lúc vội vã anh đá phải chiếc gáo dừa đang gá vào hòn gạch cạnh chân giường. Cái gáo lăn kềnh, chảy lênh láng khắp nền thứ máu dê hòa rượu. Miên sửng sốt khi thấy thứ nước đỏ kỳ quặc kia chảy đến tận nơi chị đứng:
- Anh làm cái gì vậy?
Chị hỏi:
- Không... tôi có làm gì đâu...
Anh đáp yếu ớt, mặt nóng bừng vì biết mình đã nói dối một cách ngu xuẩn. Nhưng Miên không hỏi gì thêm, đi ra khỏi buồng. Chị để cho anh thời gian thu dọn. Chị hiểu đó là một thứ thuốc thang ăn uống trong chương trình tu bổ sức khỏe của anh. Cái chương trình đã làm hao tổn túi tiền của chị một cách vô nghĩa lý. Ðã từ lâu, anh có thói quen xin tiền chị, cũng từ lúc ấy chị đưa tiền cho anh một cách lặng lẽ, không thèm hỏi han, căn vặn. Mỗi bận anh mua chung với ai một con dê hay đụng một đùi bê để làm thuốc hoặc tẩm bổ chị đều lẳng lặng đứng nhìn như một khán giả đứng xem trận bóng đá diễn ra trước mặt mà trong đó bên thắng lẫn bên thua đều chẳng liên quan tới chị.
- Xong rồi... Miên vào đi...
Anh vừa loay hoay lau đám rượu tiết dê trên sàn nhà vừa gọi. Máu dê thấm vào các mạch vôi không thể cọ sạch. Ðồng thời, cái bộ phận quý báu của anh sưng phỏng trong quần. Tối hôm đó, anh không dám mặc quần đùi đành lấy tấm khăn bông lớn quấn quanh hông đi ngủ. May là trời lạnh nên anh có thể trùm chăn tức khắc và Miên không thấy. Chị không nhìn anh bao giờ. Hoặc chị nằm thẳng đuột nhìn lên đỉnh màn, tay gác trán, hoặc chị quay lưng lại với anh. Và chị cố gắng tránh những va chạm có thể xảy ra giữa hai thân xác. Ðó là nỗi tủi nhục thường trực đày đọa anh. Nhưng vào lúc tai nạn nó lại trở thành điều may mắn. Miên không hay biết gì. Anh giữ kín bí mật trong hai tuần cho tới khi bộ phận bị tổn thương hoàn toàn bình phục.
Mọi nỗ lực của Bôn không vô ích. Sức khỏe anh khá hơn đôi chút. Anh ăn mỗi bữa thêm nửa bát cơm, có thể theo lũ dê tới những dốc núi để hái lá Dâm dương hoắc. Sự cải thiện ấy khiến anh phấn chấn nhưng vào lúc làm tình với vợ, niềm tin ở bản thân anh rơi mất.
Giường chiếu chẳng phải chiến trường, ở nơi đó người ta không thể thắng bởi cánh tay giơ lên trước quân kì thề "Quyết tâm tiêu diệt địch...". Anh biết ý chí của anh còn mạnh anh biết anh được may mắn gieo hạt giống trên một mảnh đất mở màu một miền đất hứa bất cứ người đàn ông nào cũng thém khát. Anh tự củng cố xác tín bản thân bằng cách lặp đi lặp lại những khát vọng tốt đẹp nhất như người theo đặo đọc kinh sáng kinh chiều để những ước vọng thâm nhập vào tâm hồn cùng thể xác và biến thành sức mạnh vậ chất...
Nhưng lúc trèo lên bụng vợ, thấy chị nằm bất động như khúc gỗ, gương mặt xa vắng hướng về nơi nào đó, tâm trí chị trôi dạt nơi chân trời góc bể nào đó, anh bỗng hụt hơi. Anh bỗng thấy anh trơ trọi như kẻ lạc rừng, hoảng hốt như đứa trẻ leo cây mà chẳng có ai đứng phòng hờ dưới gốc, hoang mang như kẻ bơi thuyền trong mù sương chẳng thấy giải bờ, và nỗi thất vọng khiến ngọn lửa sinh lực trong anh lụi tàn mau chóng... ngày mỗi ngày, anh càng giống kẻ bơi ngược dòng thác, bất cứ lúc nào cùng có cơ bị thác xô vào mỏm đá ngầm hoặc rơi xuống vực thẳm nhưng chẳng ai đưa cặp mắt lo âu rõi nhìn anh, chẳng ai giơ cánh tay vẫy gọi anh cất tiếng cảnh báo anh trước luồng nước xoáy hoặc reo hò cổ vũ khi anh vượt qua cơn sóng dữ...
Anh côi cút. Anh đơn chiếc tột cùng.
Miên đứng ở giải bờ xa ngái, cặp mắt đẹp phóng về chân trời riêng của chị, chân trời đó còn ngái xa hơn nơi chị đứng. Người đàn bà tồn tại bên anh như kẻ mộng du, chị chìm đắm liên miên trong cõi riêng của chị, cõi ấy không thuộc về anh.
Còn người chị ruột thịt của anh với lũ con bẩn thỉu chẳng khác chi lũ bò, lũ bê, bụi cây trên bờ sông... họ sống kiếp thú hoang và thảo mộc, họ không có ý thức về chính cuộc đời của họ huống hồ những đau đớn của anh?
"Con ơi, mẹ ra đi chẳng tiếc nuối gì... chỉ thương con côi cút."
Câu nói ấy mẹ anh đã thốt khỏi miệng bà trước khi tắt thở. Câu nói ấy giờ đây đập vào óc não anh mỗi ngày như điệp khúc của rừng già đập vào các lèn đá. Ngày ấy, anh còn nhỏ, giờ đã trưởng thành và anh hiểu thế nào là côi cút:
Khốn nạn thật, sao loài người lại chế tác ra cái từ ngữ ác độc ấy? Có lẽ, nó còn dữ hơn hổ báo, độc hơn rắn rết, tâm hồn con người tàn lụi, tan mủn nhanh hơn hết thảy các chất cường toan...
Trong buổi sớm thu này, những chùm hoa màu lục thẫm khiến tim anh tan vỡ. Chúng vừa như nhung lụa êm đềm vừa là chất cường toan độc hại hủy diệt một lần cả ý chí lẫn sự nhẫn nại trong anh. Anh ném chiếc liềm và bao đưng lá Dâm dương hoắc sang một bên, lăn xuống cỏ. Anh muốn gào, muốn thét, muốn đập vỡ khoảng trời thanh bình trên thung lũng, nhưng đàn dê nhà ai đó đang ăn lá quanh quẩn bên kia đồi, mấy gã chăn dê cũng lẩn khuất đâu đây, anh sợ họ coi anh là một gã điên. Nếu không thận trọng chỉ cần vài lần hành động rồ dại như vậy họ sẽ tống anh vào trại điên và như thế anh sẽ trở thành lột thằng điên toàn phần chết rũ giữa những bức tường giam hãm. Anh đánh đấm thùm thụp vào hai bắp đùi, hai bên hông, rồi đấm lên ngực. Nhưng nỗi đau thân xác không làm anh nguôi dịu. Một miền hoa lang bạt, một biển lục ngang trời, chao rỡn những con sóng cẩm thạch, chao rỡn lũ bướm trắng bướm vàng hoang lạc, chao rỡn lũ chuồn chuồn vô gia cư đang kì động cỡn. Cớ sao anh không được sống kiếp sống nhởn nhơ của muôn loài? Cớ sao anh không hóa thành thứ hoa kì bí kia, chỉ sống vài giờ thôi, nhưng là những khoảnh khắc viên mãn tột cùng, hạnh phúc tột cùng và kiêu hãnh tột cùng?
Rồi không nén được, anh kêu:
- Tiểu đội trưởng ơi, em khổ quá...
Tiếng kêu vẫn bị nén lại một phần trong họng vì anh chưa quên lũ dê lẫn bọn người coi dê bên kia đồi. Cổ họng anh rung rung vì đám âm thanh cuồng nộ bị giam hãm:
- Tiểu đội trưởng ơi...
Anh cất tiếng kêu lần thứ hai, vừa gọi vừa nhìn con bọ rùa lưng đỏ bò trên cọng cỏ trước mặt. Con bọ rùa lung linh như ngâm trong nước hoặc anh nhìn nó qua giọt lệ vừa trào lên khóe mi anh... dứt tiếng gọi, Bôn thấy tiểu đội trưởng ngay bên cạnh mình. Anh mừng rỡ định ngồi lên nhưng anh ấy giơ tay cản lại:
- Cứ nằm cho đỡ mỏi.
- Tiểu đội trưởng ơi, em khổ quá...
- Ờ, tôi biết.
- Tiểu đội trưởng ơi, em nhớ anh.
- Tôi cũng vậy.
- Sao anh không về chơi với em?
- Tôi cũng muốn nhưng âm dương đôi ngả. Ai vượt được cửa nhà trời?
- Em không muốn sống nữa.
- Đừng nói bậy.
- Em không thể...
- Tôi biết cậu khổ tâm, nhưng chẳng có cách nào... dù sao, cũng phải can đảm mà sống. Đã vượt qua ngần ấy năm chiến tranh không được phép chết.
- Nhưng em không muốn...
Anh hét lên và tiểu đội trưởng giơ tay phác một chỉ tỏ ý bất đồng:
- Đừng có ầm ĩ lên như vậy.
Anh im lặng nhìn Bôn vài giây, trách móc:
- Đàn ông gì mà bệt thế? Mà kìa, cậu lại còn khóc nữa...
Nói rồi anh khẽ lắc đầu.
Con bọ dừa lung linh trong nước. Thời gian lặng lẽ trôi theo từng bước nhích của con bọ có tấm lưng đỏm dáng. Tiểu đội trưởng đưa mắt nhìn cánh đồng hoa trước mặt, buông tiếng thở dài:
- Mà thôi... khóc cũng được... khóc đi một chút cho vơi lòng...
Chương 15
Ðứa bé ngủ say, chỉ còn hai người đàn bà ngồi trong gian nhà rộng. Mùa Thu đã già, nắng trưa chẳng còn vàng mà ngả sang bạc trắng hong hong rải trên sân. Những bông mẫu đơn đỏ cuối mùa vẩy ngọn lửa đam mê muộn màng trên khu vườn vắng bên kia bức tường hoa thấp. Khung cảnh êm đềm tĩnh lặng, duy chỉ con gà trống đang táo tác ve mái. Tiếng gọi tình ầm ĩ của nó khiến dì Huyên lẫn Miên đều phải quay ra. Bà già không ngơi đưa võng cho đứa cháu, lắc đầu:
Con quỷ kia, đến khiếp.
Miên chẳng nói chẳng rằng đứng dậy tìm viên sỏi ném con vật đa tình trơ trẽn.
- Cút... Ðiếc tai...
Ả gà mái đang mổ thóc há mỏ kêu: Quác một tiếng thật to rồi cắm cổ chạy về phía bếp. Gã trống cũng chúi đầu chạy nhưng khi đến bức tường hoa gã chợt nhận ra bạn tình đã chạy về phía bếp nên đổi hướng chạy theo. Không gian trở lại yên tĩnh, chỉ tiếng đưa võng kẽo kẹt tấu lên điệp khúc buồn tẻ của cuộc sống miền sơn dã.
Dì Huyên chợt ngẩng lên:
- Sáng nay cháu lên nương rồi a?
- Dạ, cháu đã lên.
- Ðất có khá không?
- Cằn lắm, những mảnh tốt họ chia hết rồi.
- Ờ, trâu chậm uống nước đục... Có cả đống gia đình thương binh, liệt sĩ. Quân nhân phục viên đứng hạng chót trong danh sách ưu tiên... Vả chăng, ai cũng tưởng thằng Bôn chết thật rồi.
- Chết thật lại đi một nhẽ... Giờ, nửa giăng nửa đèn, chẳng biết tính sao...
- Phải, không thể nào sống mãi bằng tiền của cậu Hoan được... Người ta, ai cũng có liêm sỉ.
-...
- Nó không nói gì với cháu hay sao?
- Anh ấy nói rằng anh ấy phải dưỡng bệnh, cháu hãy giúp anh ấy khôi phục lại sức khỏe. Mai rày sẽ làm lại tất cả...
- Mai rày là bao giờ?
- Cháu chẳng biết. Nhưng hiện giờ anh ấy không làm nổi việc gì... Hai lần thử lên nương rảy cỏ, anh ấy ốm nằm bệt trên giường cả hai.
- Rồi lấy gì mà sống?
- Cháu cũng chẳng biết nữa.
- Không thể nhắm mắt đi đường như thế cháu ơi... Miệng ăn núi lở, phải tính kế sinh nhai lâu dài. Số tiền cháu bỏ ra cho nó mua thuốc, mua dê thịt đủ cho người khác xây nhà rồi đấy.
- Cháu cũng đã tính làm nương, nhưng lại nản... Chẳng biết vì sao?
Hai người im lặng hồi lâu rồi Miên đột ngột hỏi:
- Vì sao ngày ấy dì không khuyên cháu?
- Dì biết khuyên cháu thế nào?
- Dì có biết... nhưng dì không nói... Buổi tối hôm ấy, lúc cháu xin dì ở lại...
Bà già thở dài:
Miên gặng:
- Vì sao dì bỏ đi lúc cháu cần dì bên cạnh...
Bà già lại thở dài, và thốt lên hai tiếng cụt lủn:
- Dì sợ.
Rồi bà đưa mắt nhìn cô cháu, cặp mắt mịt mờ như khói phủ:
- Cháu biết đấy... thằng Bôn về là dịp thiên hạ chẩu môi chẩu mỏ rỉa rói dì cháu mình. Hôm ấy người ta kéo nườm nượp tới xem mặt Bôn, hỏi han chuyện trò thân tình như con em ruột thịt của họ. Hồi nó ở nhà, chẳng ai thèm để tâm đến gia đình ấy. Tuy là dân gốc Xóm Núi nhưng họ mạt vận bao nhiêu đời không khá lên nổi. Ðến thằng Bôn cố theo đuổi đèn sách, hy vọng nhờ đỗ đạt vinh quy mà đổi hèn thành sang nhưng lại ra mặt trận. Lúc nó quay về cả làng cả xã kéo nhau tới xem như đứa đội mồ sống dậy. Họ cố tình nói chõ vào tai dì: Tôi đố bà con cái Miên chọn thằng mô? Chọn thằng chồng đầu danh chính ngôn thuận hay chọn đứa sau lắm tiền lắm bạc. Người đoan chính phải về với mối duyên đầu... Còn kẻ gió giăng tôi chẳng biết...
Cô Miên có muốn về với cậu Bôn cũng khó, bà dì hẳn bắt cháu phải sống với anh chồng dân buôn thành phố bởi anh ta hốt bạc về cho cả cháu lẫn dì... Từ ngày vợ chồng cô ta ăn nên làm ra trông bà ta béo phây phây, đủng đỉnh nhàn nhã như vợ ông thừa ông phái thời trước...
Miên cắt ngang lời bà:
- Vậy dì bỏ về vì sợ mang tiếng là kẻ tham tiền nếu khuyên cháu ở lại với anh Hoan?
Bà già im lặng. Miên gục đầu xuống gối. Bà nhìn mái tóc đen nhánh của đứa cháu duy nhất ở với bà như đứa con trời dun dủi cho... Mái tóc ấy giờ không còn gài nhánh hương nhu hay chùm hoa bưởi. Cũng như áo quần Miên mặc giờ chẳng còn màu hoa cà hay hoa cải hay màu lục thủy mà chỉ còn màu đen. Không cầm được, bà đặt tay lên vai Miên:
- Dì có lỗi với mẹ cháu... Dì có lỗi... Nhưng dì không dám làm khác bởi từ ngày đầu cháu dẫn thằng Bôn về dì đã không ưa nó.
Người ta vẫn bảo: Không ưa thì dưa có dòi... Dì e lòng dì thiên vị, nếu khuyên ngăn cháu e mang tội với quỷ thần. Dì ngỡ cháu đã trưởng thành, cháu có thể quyết định. Ngày trước, thời ly loạn, cả làng, cả xã có mình nó mười bảy tuổi, bằng vai cháu không gả cho nó chẳng lẽ gả cho mấy lão già góa hay chờ bọn trẻ con lớn lên? Thời xuân con gái có thì nên dì đành phải theo thời... Còn giờ mọi sự đã khác... Cháu đã có con. Lẽ ra cháu có thể lấy lý do ấy mà từ chối...
Miên ngẩng phắt lên, nhìn trừng trừng vào bà lão:
- Trời đất, sao lúc ấy dì không rót vào tai cháu những lời lẽ này... Chính dì khôn ngoan hơn, tỉnh táo hơn cháu. Cháu đang rối như canh hẹ... Và cháu sợ...
Dì Huyên gật đầu:
- Phải, dì biết cháu sợ, chính dì cũng sợ. Và cậu Hoan cũng sợ như cháu, như dì. Chúng ta sợ thiên hạ nhiếc móc là những kẻ tham vàng phụ ngãi. Còn Hoan sợ mang tiếng là kẻ làm trai mà ở hậu phương tọa hưởng an bình lại tranh cướp hạnh phúc với người chiến đấu vì dân vì nước... Chẳng qua mọi sự cũng từ chữ Sợ mà ra...
- Dì biết rõ mọi chuyện sao giờ mới nói?
- Không... không... lúc đó không nghĩ nổi. Khi cháu quay về với Bôn, dì mới ngẫm... Ngày nọ qua ngày kia... Nào có ai khôn ngay được. Chẳng cứ trẻ thơ mà đến già hai thứ tóc cũng vậy... Các cụ ngày xưa dạy đúng thật: Con đã mọc răng, nói năng gì nữa?
Bà im lặng. Miên đăm đăm nhìn ra vườn từ lúc bà ngưng tiếng. Vẻ mặt của chị có gì đó khiến bà ngờ vực. Nó vừa ngây dại vừa xa vắng lại vừa sắt đá. Chưa bao giờ bà nhìn thấy gương mặt xinh đẹp và quá đỗi quen thuộc với bà lạ lùng như thế. Bà không dám nói gì thêm, lặng lẽ rình mò, lặng lẽ chờ đợi... Chờ đợi gì, bà không biết... Nhưng rõ ràng là sự đợi chờ câm nín khắc khoải. Hồi sau, Miên vụt đứng lên:
- Cháu phải đi.
- Ði đâu?
- Về nhà.
- Nhà nào?
- Nhà của cháu.
Miên đáp, và sau đó nhấn thêm:
- Nhà của vợ chồng cháu.
Bà nhìn đôi mắt Miên bắt đầu hiểu:
- Cháu?
- Sáng nay cháu lên nương gặp ông Lư, ông ấy mời cháu lại nhà bàn việc.
- Cháu phải kín đáo kẻo xóm làng dị nghị...
- Cháu chả cần... Cứ cho thiên hạ thỏa thuê dòm ngó...
Miên đáp cụt lủn, chị lấy nón, cúi xuống hôn đứa bé đang ngủ trên võng rồi vùn vụt đi ra cổng. Dì Huyên nhìn theo, khi bóng áo đen khuất hẳn bà bỗng buông tiếng thở dài, nhưng rồi bà đẩy võng mạnh tay hơn và cất giọng hát ru...
Trong lúc đó, Miên mải miết đi trên con đường mà từ ngày về sống với Bôn chị kiêng tránh. Con đường quen thuộc đến từng bờ dậu, từng gốc cây, từng ngả rẽ. Con đường cầy những vệt hằn nhức nhối trong tâm trí mỗi lần chị bước chân lên cái ngõ lầy lội trước nhà Bôn. Chị đã rời xa nó trọn một mùa Hè và sắp trọn cả mùa Thu. Sự xa cách khiến lối trở về nao nức. Rặng rào hai bên xanh ngắt.
Những búi cỏ leo dưới chân rào theo gió ngả nghiêng. Trời như trong hơn, màu lơ như thắm lại và mây trôi bồng bềnh hơn... Tất cả, như con tim chị rộn ràng. Hoan không ở đây, Miên biết rõ.
Chính ông Lư vừa bảo chị sáng nay rằng anh vào Nha Trang cất hàng, nhưng tim chị vẫn đập rộn ràng như chỉ lát nữa, phía sau cánh cổng, gương mặt rạng rỡ của anh sẽ hiện ra nhờ một phép màu...
- A, cô Miên... Lâu ngày quá...
- Chào cụ.
- Cô đi chơi, hay về thăm dinh cơ cũ?
- Chào cụ...
- Cô vẫn khỏe chớ?
- Dạ, chào cụ...
- Lát nữa rẽ vào tôi chơi nhé?
- Dạ, cháu chào cụ ạ...
Chị trả lời như cái máy và chẳng biết mình đã nói những gì. Ông già hàng xóm dừng lại, ném theo chị cái nhìn ngạc nhiên và xét đoán nhưng chị chẳng hay biết. Vài phút sau, chị tới cổng, Miên đưa mắt nhìn từ bức tường bao, hai cây trụ cho tới núm kéo chuông bằng đồng... Những thứ vô tri vô giác ấy là những người thân thiết đã lâu ngày xa cách. Miên đưa tay kéo chuông, lắng nghe chuỗi âm thanh ròn rã vang reo rồi dần dần tan lắng. Trước kia, chị chưa hề để ý đến tiếng chuông. Sau thời gian sống nơi xóm nghèo hiu quạnh chị nghe tiếng chuông náo động như gọi một hội hè quên lãng quay về:
- Chào bà... Mời bà vào nhà.
Ông Lư là người làm công thời cũ. Ông giữ nguyên cách xưng hô lẫn sự lễ độ xưa. Miên chưa quen với cách thức ấy, chị lúng búng đáp:
- Dạ, chào bác...
Ông già đứng sang một bên chờ Miên bước vào, đoạn khóa cổng một cách cẩn trọng rồi đi theo chị:
Không có Hoan... Tại sao anh không có ở đây?
Miên thầm trách anh dù biết điều đó là vô lý. Chị đưa mắt nhìn tòa nhà cũ đã thành ngôi miếu sang trọng với một ông từ ngày ngày quét dọn, lau chùi. Chủ nhân của chúng đã bỏ đi: Hoan xuống phố, chị về với Bôn và cu Hạnh sang nhà dì Huyên. Ngôi nhà ấm áp xưa giờ mênh mông. Lá rụng. Những bẹ cau khẽ tách trên thân cau.
Tiếng đồng hồ gõ nhịp. Chiếc đồng hồ là vật to mồm nhất trong khoảng không vắng lặng này.
- Bác quét dọn sạch lắm.
- Thưa bà, ông bảo bà ưa sạch sẽ. Ông dặn tôi ngày nào cũng phải quét nhà quét sân và lau chùi các vật gia dụng trong bếp. Mời bà vào...
Ông già nói đoạn xăng xái đưa chị vào bếp. Ðây là thế giới đích thực của chị. Dãy xoong chảo bóng nhoáng treo thành hàng kia giống như mặt những chiếc đồng hồ câm lặng của kỉ niệm, ghi khắc trong chúng những buổi sáng tràn đầy hương cam, hương bưởi, tiếng chim líu lo, tiếng đứa con trai ngọng nghịu, mùi trà ướp hoa nhài hoặc mùi cà phê vườn nhà pha phin đặc sánh, mùi xông hông mùi cơm rang trứng; những buổi chiều ngào ngạt mùi trái cây chín rụng trong vườn, mùi hoa cuống cuồng sau một ngày nắng nỏ và mùi các món xào nấu cho bữa cơm chiều... Miên ngơ ngẩn nhìn từng đồ vật, quẹt ngón tay lên đáy xoong hoặc rờ cán những chiếc muôi lớn bằng sứ Tàu, bồi hồi nhớ rằng những món đồ dễ vỡ này anh đã mua cho chị ở chợ Bến Thành rồi xếp vào hòm gỗ nhồi rơm nhờ người chạy xe đường dài chuyển lên tận đây. Chị mở tủ bát đĩa ngắm nghía những chồng bát sứ Nhật và Giang Tây. Còn chiếc thẩu nấu lẩu kia lần nào đó anh đã tha từ Ðà Nẵng về sau khi học được cách nấu lẩu bằng thịt thú rừng của người bạn. Chị ngồi xuống, nhìn chiếc bàn ăn hình bầu dục, đủ một lần cho hai mươi bốn thực khách. Mặt bàn bóng như gương, hai dãy ghế xếp ngay ngắn, sạch lau li, thứ sạch sẽ vắng hơi ấm con người... Tội nghiệp cho Hoan, anh đã mất bao công sức để dựng xây một cách oan uổng:
- Bà dùng trà hay một tách cà phê nóng để tôi pha?
- Dạ, thôi... Bác để mặc tôi.
- Nhà lúc nào cũng có bánh ngọt, tôi xin pha ấm trà bà dùng thử...
Ông Lư đặt ấm lên bếp, nhóm lửa rất nhanh và gần như tức khắc chị nhìn thấy ngọn lửa nhảy nhót dưới chiếc ấm đồng nhỏ vẫn dùng đun nước pha trà ngày trước:
- Bác làm thế nào giữ ấm được sạch bong như thế?
- Thưa bà rất dễ. Hòa nước xà-phòng bôi dưới trôn ấm trước khi nấu. Dùng xong chỉ cần lấy miếng giẻ ướt chấm xà-phòng bột chùi vài lượt là lại sáng như chưa từng đụng lửa... Cách này ông chú tôi làm nghề nấu bếp truyền cho.
Ông chế nước pha trà. Ðã lâu lắm Miên mới ngửi lại mùi trà nhài. Ở nhà Bôn quanh năm uống nước lá vằng cắt trên rú. Cái ấm đất to tướng nấu một lần buổi sáng và suốt ngày cả Tá lẫn lũ con đều ghé miệng tu. Miên sắm riêng một phích nước cho mình, ngày nọ qua ngày kia chị chỉ uống nước trắng lâu dần quên cả vị trà. Ông Lư bóc phong bánh đậu:
- Mời bà dùng.
- Cảm ơn bác.
Sự tận tình của người quản gia khiến Miên cảm động nhưng không ngạc nhiên. Ðó là một mảnh thiên đường anh tạo dựng. Thiên đường ấy khởi từ lúc họ nhìn vào mắt nhau trên mảnh đồi đang rảy cỏ, dưới thứ ánh nắng gay gắt như chó cắn mùa gió Lào...
Thiên đường ấy đã bị bỏ lại hoang vu hiu quạnh khi chị ra đi, với bị Thạch trinh hương và mấy bộ quần áo tu sĩ, theo hút con đường mù sương chẳng biết dẫn tới nơi nào...
- Mời bà... Bánh mới lắm. Tuần nào ông cũng đem bánh mới lên cho mọi người.
- Tôi biết...
Hàng tuần, nếu không vướng những chuyến cất hàng xa, Hoan trở lại Xóm Núi vào Chủ Nhật. Ngày ấy, chị không tới nhà dì Huyên để tránh chạm mặt anh. Sớm Thứ Hai, chị thấy ngăn tủ đầy bánh trái cu Hạnh thêm một món đồ chơi hoặc bộ quần áo mới, đôi khi những bông hồng Ðà Lạt cắm trong bình, đôi khi món quà riêng dành cho chị... ấy là dấu vết anh gửi lại. Tất thảy đều ẩn giấu gương mặt anh, hình dáng anh khiến không gian trong ngôi nhà dì Huyên biến thành tấm bảng vô hình trên đó dòng chữ viết tên anh không thể nào tẩy xóa:
- Thưa bà, ông giao cho tôi chùm khóa của bà. Tôi không dám đường đột lại đằng nhà, sợ người ngoài dị nghị. Chờ mãi hôm nay mới có dịp mời bà về đây. Xin bà cầm giúp cho...
Dứt lời, ông móc chùm khóa trong túi áo, đặt trước mặt chị. Miên nhận ra chùm khóa có cài con dao nhíp và chuôi mở nút bia, ấy là chùm khóa của anh. Còn chùm khóa của chính chị người quản gia đang giữ.
- Thưa bà, ông dặn tôi không được để bà phải lao lực làm vườn cuốc nương. Nếu bà có ý định làm nương mới cho ông Bôn tôi sẽ mướn người tới xới đất và cào luống. Còn lại, tất thảy những vườn nương cũ vẫn là của bà, bà có toàn quyền sử dụng. Miên im lặng. Chị không biết nói gì. Không buồn và không vui. Ðờ đẫn. Tiếng người quản gia lại tiếp tục vang lên, rành rọt:
- Thưa bà, tôi có phận sự đưa bà coi lại sổ sách thu chi. Xin bà chờ cho một lát.
Ông đi lên nhà trên. Lát sau, ông quay lại với mấy cuốn vở học sinh loại dầy, đặt trước mặt chị. Miên đưa mắt liếc những cuốn sổ không nói năng gì rồi bỗng dưng như kẻ bị thôi miên chị cầm chùm khóa đi lên nhà trên, tới trước căn buồng của chị, từ từ mở khóa, cử chỉ chậm chạp như bà già. Cánh cửa mở ra. Căn buồng hoàn toàn như xưa. Mọi đồ vật nguyên vẹn. Cửa sổ mở toang trông ra vườn.
Hoa thạch thảo chi chít trong bình đặt trên chiếc kỷ đối diện với chiếc kỷ đặt ngọn đèn đêm. Tấm gương lớn lẫn các mặt kính bóng loáng không hạt bụi. Chiếc hộp sơn mài đựng mớ trâm cài lẫn những chiếc cặp tóc vẫn đặt trên mặt tủ ba buồng. Giường sạch tinh tươm. Ðôi gối trắng xếp cùng chiếc gối nhỏ hình bán nguyệt của cu Hạnh. Tất cả như chờ đợi, như đợi chờ. Miên mở tủ. Ngay dưới tầm mắt chị một xấp bạc để dưới lá thư:
Miên của anh, Anh biết sẽ có lúc em cần đến thứ này... Nó chẳng là gì hết với em với anh với những ngày chúng ta sống. Em không được hủy hoại sức khỏe, không được tự hành hạ mình một cách vô lý. (Như thế cũng có nghĩa là ngu ngốc. Anh nói đúng sự thật, xin đừng giận). Nếu em không còn là vợ anh, em vẫn là mẹ cu Hạnh anh có thể coi em như đứa em gái nhỏ. Anh không có quyền để em khổ sở. Bao giờ, anh cũng ở bên em.
Như thế, cũng có nghĩa là ngu dốt... Dường như Hoan có lý. Dường như trong suy nghĩ và trong hành động của ta có gì đó như là ngu dốt?
Chị nhìn lần nữa chữ ký của anh bên dưới. Rồi chị ngồi xuống giường, vừa thấy như đây là chốn của mình, hang ổ của mình, vừa sợ hãi như lạc vào rừng lạ. Có lẽ chị không còn quyền ngồi ở đây, trong gian phòng yên tĩnh và thanh sạch này, bởi chị đã tự ý bỏ anh mà đi, chị đã chung chăn gối với một người đàn ông khác, thân thể chị đã nhiễm mùi mồ hôi cùng hơi thở hôi hám của người đó, đã liễm những nụ hôn đầm đìa nhục cảm, đã in dấu ái ân liên miên mà bao nhiêu nồi nước Thạch trinh hương cũng không tẩy rửa hết...
Vì sao, vì sao, vì sao?
Những lời lẽ đầy ám thị đầy ẩn ý của ông chủ tịch Hiển, tấm cáo thị in bằng thứ chữ xít xao cứng ngắc như những móc sắt ngoặc vào nhau hiển hiện trên tấm lưng áo kẻ cầm quyền vào lúc ông ta quay lưng bước đi hay trùng điệp những bóng ma vẫy gọi, hù dọa, mê ám? Ðã trọn mùa hè và sắp qua cả mùa thu sống dưới mái nhà Bôn chị tìm câu trả lời. Khi là nóc đình màn nơi đọng những mủn lá tranh và lũ thằn lằn ngày tìm muỗi đớp. Khi là những ngọn soan khúc khuỷu đầy muội ám thường đong đưa trong gió lúc chiều tà.
Khi là chân trời buồn thiu ngày tắt nắng, nơi nếp đen rừng rậm và dãy núi in lên những nét lượn sầu muộn đơn côi... Chị đã tìm đã đợi đã mong một gương mặt dù thần dù quỷ bất chợt xuất hiện ở những không gian đó, cho chị một lời giải đáp...
Nhưng quỷ lẫn thần đều đã bỏ đi, đều rời khỏi mảnh đất sơn dã này. Chẳng ai trả lời chị. Ðêm đêm, trước và sau những cuộc làm tình bất cập của Bôn, chị lại tìm kiếm lời giải đáp ngay trong mình. Bất khả. Lần nào đó, khi đã chung sống với anh trên dưới một tuần trăng, chị không còn đủ sức chịu đựng những nụ hôn đắm đuối và hôi hám của anh, đã đẩy anh ra nhoài khỏi giường nôn thốc nôn tháo. Từ đó, Bôn không còn dám hôn chị. Anh chỉ dám úp mặt xuống phần dưới cơ thể chị trút vào đó tất cả mối tình cuồng nhiệt và khổ sở của anh. Cùng một lúc, chị xót thương và kinh tởm...
Không hiểu vì sao ông trời đày đọa cả chị lẫn người đàn ông kia vào cảnh oan trái này? Ngày đầu tiên chung sống, khi anh đưa cho chị bánh xà-phòng vỏ bọc rách nát vàng ố, chị đã đọc thấy sự thật trong đôi mắt anh. Ðôi mắt ấy không chỉ là mắt kẻ đang yêu, đó còn là cặp mắt van lơn của con chó với chủ nhà, của kẻ sắp rơi xuống vực sâu cố bám lấy mỏm đá cuối cùng chênh vênh giữa sự sống và cái chết. Chị biết Bôn yêu chị cuồng si. Tình yêu trong ngõ cụt. Và chị gắng triệu hồi tuổi trẻ như người ta gọi hồn ma. Con suối róc rách, đá trơn nhầy. Rặng phượng đỏ dọc đường hò hẹn. Những đồi dứa thơm quay quắt và nụ hôn đầu không ở trên môi mà dưới mang tai ba bốn ngày không tan vết máu bầm... Nhưng con suối róc rách kia mỗi ngày mỗi cạn. Dãy phượng đỏ nhạt phai dần cánh hoa rụng khô tóp dưới gốc cây gió xáo trộn cùng lá úa và bụi cát... Những cảnh tượng cùng kỷ niệm của mối tình đầu như tảng nước đá tan chảy dưới mặt trời của thời gian, như hồn ma hiện về mả lửng lơ trong vài canh giờ rồi tan biến khi lũ gà cất tiếng.
- Miên... Miên... Tôi yêu Miên...
Cái điệp khúc Bôn đã nhắc ngàn lần, càng nhắc càng mòn mỏi rơi rụng hao gầy như ngọn nến thắp qua mỗi giây mỗi tàn lụi. Chị đã đưa tiền cho Bôn chữa bệnh, mua các thức ăn bổ dưỡng, sắm cho anh một lúc ba bộ quần áo lẫn chiếc áo lót lông Ðức, thứ áo rét tột cùng mơ ước của đám dân sơn dã... Chị làm tất thảy điều đó khi trong thâm tâm chị hiểu rằng chị bù trả tình yêu khốn khổ của anh bằng những đồng tiền.
Chị biết chị không thể vãn hồi tình yêu. Ngay tình thương cũng mỗi lúc mỗi cạn. Ðêm đêm, chị nhìn anh tận tâm tận lực cấy vào cơ thể chị một hạt mầm giống như chị quan sát một kẻ trèo cây lấy mật ong hoặc một đứa trẻ chơi bi ăn tiền, đôi khi dửng dưng đôi khi thương hại đôi khi ghê tởm... Vào lúc anh đã dốc cạn sinh lực sóng sượt như một thây ma chị vùng dậy nấu nồi nước tắm. Mùi thạch trinh hương khiến tâm hồn chị bình tĩnh lại. Chị cầu mong thứ nước lá của kẻ tu hành giúp chị gột rửa hết dấu vết của người đàn ông chị không còn yêu thương nữa. Lẽ ra, anh chẳng nên quay về. Bởi khi còn là hồn ma ngự trị trên bàn thờ, anh cao giá. Mỗi năm, ngày giỗ anh chị làm năm bảy mâm thịnh soạn mời mọi người tới hương khói. Tấm ảnh anh thời học sinh đặt sau đĩa ngũ quả giống một tiểu thiên thần xứng tôn kính. Người ta nhắc đến anh như nhắc tới một vong hồn trong trắng như nhắc tới một thời xa vắng thời mọi người đã đi qua cuộc chiến tranh cam khổ như đoàn thiên thần cất cánh bay qua bầu trời giông bão, qua sấm chớp và mưa đá, qua gào hú của hổ báo, sói lang, lửa núi, cơn hồng thủy và các nạn dịch trầm kha... Bởi anh là cái cớ để mọi người tụ họp, khơi lại giấc mơ hào hùng, hé cánh cửa căn buồng đầy sấm sét bão giông quá khứ nhìn ngắm nhấm nháp những giọt vinh quang tô điểm cho cuộc đời tẻ nhạt thường ngày...
Thời ấy, chị đã tưởng nhớ đến anh như một hình bóng xa xôi, một giấc mơ yên lành, trong giấc mơ đó dòng suối róc rách chảy như sợi chỉ bạc, con đường phượng vĩ tưng bừng như khóe môi tươi... Tất cả, là thế giới mơ. Tựa phong cảnh hiện lên giữa cái khung sân khấu rạp hát thành phố...
Nhưng anh quay về. Tiểu thiên thần mộng mơ bỗng biến thành gã đàn ông bằng xương bằng thịt, cặp mày chữ nhất, đôi mắt sầu u, hai má hóp sạm đen vì chứng sốt rét kinh niên, cặp môi thâm và hơi thở bốc mùi địa ngục. Cái hồn ma xa vời kia bỗng thành kẻ háo hức tình dục đêm đêm dày vò trên bụng chị, lắp bắp không biết chán những lời ân ái, thở hồng hộc như phu đào huyệt và mỗi cuộc làm tình của anh giống một lần phu đào huyệt để an táng một thây ma và cuộc đào huyệt mãi không thành...
... Vì sao, vì sao, vì sao?
Ðêm đêm chị tắm nước thạch trinh hương, kỳ cọ kỹ lưỡng từng ly tấc da thịt tưởng chừng những nụ hôn ám mùi tử khí của anh có thể tẩm liễm khiến chúng đổi màu. Quả tình, người ta chẳng thể cố yêu. Tình yêu chẳng giống một gánh nặng, một bát thuốc đắng hay một món ăn thiu thối... Giá như thế, chị sẽ cố nhấc gánh nặng đó một lần, cố uống bát thuốc đắng hoặc ăn thức ăn thiu thối kia cho dù sau đó có thể mắc chứng đường ruột mãn kiếp...
Tình yêu là tình yêu và chị không thể làm gì với nó. Cuộc sống chung của chị với Bôn càng ngày càng tuột khỏi đời sống như mảnh ván bị sóng đánh mỗi lúc mỗi xa bờ...
Nắng đã gần như trắng hẳn ngoài song cửa sổ. Miên chợt nhớ sắp tới giờ nấu cơm chiều. Chị mới có nồi thịt bò kho gừng ở nhà, lát nữa phải rẽ qua vườn nhà người quen mua mớ cải. Ðám cải chị gieo chưa kịp mọc đã bị lũ con Tá nhổ sạch từng cái rễ. Miên khóa tủ đoạn bỏ chùm khóa vào ngăn kéo. Chị quay xuống bếp. Người quản gia vẫn ngồi đợi:
- Thưa bà, bà có cần gì nữa không?
- Cảm ơn bác. Tôi đã bỏ chùm khóa vào ngăn kéo tủ.
- Thưa bà, ông muốn bà giữ nó.
- Không. Ðã có bác ở đây. Khi cần tôi sẽ tới.
- Thưa bà, bà có ý định làm nương mới cho ông Bôn?
-....
- Nếu bà quyết, tôi sẽ thực thi mọi công việc.
- Tôi chưa định gì cả...
Miên đáp và định ra về. Ðúng lúc ấy có tiếng chuông. Ông Lư nói:
- Thưa bà, xin bà hãy chờ cho vài phút.
Ông ra mở cổng. Chị ngồi xuống ghế, uống trà. Trà đã nguội. Ngoài ngõ, tiếng gọi của đứa con trai vang lên:
- Mẹ... Mẹ ơi...
Chị nghe tiếng chân nó chạy. Và giây lát, nó ùa vào bếp như cơn lốc:
- Mẹ ơi... Mẹ... về nhà mình rồi chứ?
- Ờ...
Miên bế con, ghì siết vào lòng, ngửi mùi tóc mùi thịt da thân thiết và ngay tức khắc không gian quanh chị tỏa rạng ánh sáng thời cũ, ngào ngạt hương thơm thời cũ, đầy ắp âm thanh thời cũ...
- Mẹ ơi i i, Mẹ ơi i i...
Cu Hạnh hét lên. Hẳn nó đã chờ đợi giây phút này từ lâu mà không biết cách nói ra, dường như nỗi mong chờ tiềm ẩn trong trái tim non nớt của nó giờ mới bật thành lời:
- Mẹ ơi, mẹ về đây với con.
- Ờ...
- Mẹ ơi, đừng đi nữa...
- Ờ...
- Mẹ ơi, ôm con chặt vào...
Trước khi chị ôm chặt con, thằng bé đã chủ động ôm lấy mẹ trước và rồi nó hôn chi chít lên trán, lên chóp mũi, lên hai má, lên môi chị. Không phải cái hôn thường lệ mà là cuộc tấn công. Hôn mẹ xong, thằng bé nhảy xuống, nắm tay chị:
- Mẹ ơi, con dắt mẹ ra vườn...
Dì Huyên lẫn người quản gia cùng trố mắt nhìn đứa trẻ. Miên sững sờ. Chị đi theo nó như kẻ bị thôi miên. Ðứa con trai chị vốn ngoan ngoãn nhưng tồ tệch. Sinh ra trong cảnh êm ấm, được cưng chiều, nó có thói quen thụ động. Ðây là lần đầu, nó chủ ý dắt mẹ đi chơi.
- Mẹ ơi, bao giờ lớn con sẽ bẫy cho mẹ con sáo mỏ vàng... Con cũng bảo bố mua cho hai mẹ con mình con vẹt biết nói như vẹt nhà ông Khương. Mình sẽ cho nó vào cái lồng thật đẹp, treo ngay trước cửa. Buổi sáng, con sẽ cho nó ăn kê và uống nước. Thằng cu Hõn nhà ông Khương dạy con cách cho vẹt ăn rồi...
Thằng bé nói lưu loát, không chút vấp váp, ngập ngừng. Ðoạn nó đứng lại, nhìn vào mắt chị:
- Mẹ. Mẹ cười lên... Sao lâu quá con không thấy mẹ cười?
Cặp mắt trong trẻo của nó dán vào mắt chị chăm chú, nghiêm trang, chờ đợi. Miên chợt hiểu rằng đứa con trai bé bỏng của chị đã trưởng thành vượt bực trong quãng thời gian qua. Rằng tất cả những câu trả lời vòng vèo, mập mờ của dì Huyên lẫn của Hoan đều không đánh lừa được nó, rằng nó đã học cách im lặng cả một mùa Hè lẫn mùa Thu, đã nung chín nỗi mong thầm trong trái tim bé bỏng, đã thành một ông lão năm tuổi dưới vẻ non nớt của chúa Hài đồng.
Chị muốn ứa nước mắt nhưng không dám, đành đánh trống lảng:
- Ðừng ra vườn... Mẹ con mình vào buồng chơi nhé?
Thằng bé gật đầu tức khắc:
- Vào đi...
Hai người leo lên bậc tam cấp, nhưng khi họ bước vào nhà chính, nó đưa tay ra trước, dắt Miên vào buồng:
- Vào đây mẹ...
Nói đoạn nó tụt dép leo tót lên giường, kéo chị ngã kềnh theo. Hai mẹ con đã ở một tư thế tuyệt vời để nằm ôm nhau.
- Ôm con chặt vào... Chặt như là bố...
Cu Hạnh nói. Miên luồn cánh tay cho nó gối đầu và hỏi:
- Ðược chưa con?
- Gần được rồi mẹ ạ...
- Còn gì nữa?
- Tay kia mẹ xoa lưng con... Không xoa thế mà phải xoa từ mông lên... Bố vẫn làm như thế...
- Bây giờ bố ôm con giỏi hơn mẹ phải không?
Miên hỏi và không khỏi có chút thầm ghen tị với Hoan, thầm tủi phận. Cu Hạnh chưa kịp đáp, chị gặng hỏi thêm:
- Bố ôm con giỏi lắm phải không?
- Ðúng. Chủ nhật nào về bố cũng đưa con đến đây. Bố bên ngoài con nằm ở trong.
- Rồi sao nữa?
- Bố xoa lưng con, gãi đầu cho con và bảo: Ít hôm nữa làm xong mấy nương tiêu mẹ sẽ quay về. Mẹ sẽ ôm con, sẽ hát ru, sẽ làm bánh như hồi xưa...
Tới đó, dường như hồi ức về món ăn quen khiến thằng bé ngồi nhỏm dậy:
- Mẹ ơi... Mẹ làm cả bánh rán nhân mặn cả bánh rán nhân ngọt chứ?
- Ờ... cả hai thứ...
Miên đáp theo đà đưa đẩy của câu chuyện. Nhưng khi nói xong một ý nghĩ bùng lên:... Tại sao không? Tại sao không? Ta sẽ về đây, làm bánh cho con trai ta ăn, tắm giặt cho nó trong gian phòng tắm kia, sẽ cùng nó ra vườn trẩy cam và bẫy sáo... Ý nghĩ ấy bùng lên như đám lửa. Nó cháy rừng rực trong óc não chị. Chị nhìn thấy qua ngọn lửa đó tất cả những gương mặt trong làng ngoài xóm, những hồn ma điệp trùng, cả ông chủ tịch xã lẫn tấm cáo thị... Một nỗi uất hận trào lên khiến chị muốn gào thét, muốn chửi rủa nhưng chị kịp ghìm giữ. Lướt qua một mùa Hè và mùa Thu đầy đọa, ngày ngày tù hãm trong gian buồng tối tăm khâu vá mãi những thứ chẳng cần khâu vá, nhìn mảnh trời trên gian bếp tiêu điều lững lờ chuyển sắc, thi thoảng đuổi lũ gà bưới vườn một cách vô ích, nấu hai bữa cơm bằng cỏ khô lá mục khiến cặp mắt cay xè và đêm đêm làm tấm đệm thịt chịu đựng những cuộc làm tình tuyệt vọng của Bôn... Chị đã chấp nhận cuộc sống vô nghĩa ấy, bởi chị sợ hãi và vâng phục những hồn ma. Cuộc đời của một con người dương thế bỗng lênh đênh theo con thuyền của những bóng ma trên dòng sông vô định. Phải chăng, chị vốn là kẻ hèn nhát, và do đó chịu khuất phục một cách dễ dàng?
- Mẹ... Mẹ ơi...
Tiếng gọi thúc hối của đứa con kéo người mẹ trở về cõi thực như mặt trời tháng sáu vụt chiếu sáng cõi hôn mê mờ mịt. Khao khát nổi loạn giống như thứ men ủ từ lâu bột khởi nở tung khiến Miên choáng váng và phấn khích. Chị nói rất to:
- Ðược rồi. Mai mẹ sẽ làm cả bánh mặn và bánh ngọt cho con. Nhất định mẹ sẽ làm cho con. Ngay ngày mai.
Rồi chị bế bổng con trai lên, bước ra phòng ngoài. Ông già Lư và dì Huyên vẫn đang uống nước trà. Miên bảo:
- Bác ngâm cho tôi cân gạo nếp. Mai xay làm bánh rán.
- Thưa bà, tôi nhớ rồi...
Dì Huyên đưa mắt nhìn Miên nhưng không dám hỏi gì. Bà quay sang cu Hạnh:
- Cháu vòi gì mẹ thế?
Miên gạt đi:
- Không, chính cháu muốn vậy. Tối nay dì tìm cho cháu gói nấm hương và giã sẵn cho cháu ít hạt tiêu. Sáng mai cháu qua chợ mua miếng thịt nạc.
Ðoạn, chị ôm con hôn lần nữa:
- Con ở đây với bà... Mẹ đi...
Miên ra ngõ. Cu Hạnh đứng nhìn nhưng không dám lẵng nhẵng chạy theo. Thói quen đó nó đã được rèn từ năm một tuổi. Miên ra tới cổng lại quay vào:
- Chút nữa quên. Bác Lư ngâm thêm cho tôi nửa cân đỗ xanh làm nhân ngọt. Còn thừa nấu nồi chè. Sáng mai tôi đến...
Chị nói, mắt long lanh. Dường như không phải sớm mai chị tới đây làm bánh mà sớm mai, chị bước vào một cõi khác.
Chương 16
Khóc đi, khóc đi một chút cho vơi lòng...
Giọng tiểu đội trưởng thầm thì và dịu dàng. Dịu dàng như xưa. Anh ấy là con trai Hà Nội. Suốt ngần ấy năm anh em chung sống chưa một lần quát nạt, chưa một bận sỗ sàng. Anh ấy có nụ cười tươi, da trắng đến nỗi những vết sẹo trứng cá và các mụn ruồi nổi lên rõ mồn một. Anh ấy nấu xôi nấu cơm khéo hơn cả đàn bà... Bôn nghe nước mắt chảy qua hai thái dương luồn dưới chân tóc ướt lạnh và nhồn nhột như giun bò. Dễ chịu quá:
- Tiểu đội trưởng ơi, em khóc nữa đây.
- Ờ, khóc thêm chút nữa cũng chẳng sao.
- Tiểu đội trưởng không mắng à?
- Không... Tôi biết nhiều người đàn ông cũng thích khóc như đàn bà.
- Thế anh đã khóc bao giờ chưa?
- Chưa.
- Tiểu đội trưởng nói khoác. Anh quên ngày em kiết lỵ sắp toi, tay đã giơ lên bắt chuồn chuồn hay sao? Lúc em sống lại y sĩ quân đoàn bảo anh khóc như mưa như gió...
- Bậy nào...
Tiểu đội trưởng quay đi. Anh ấy ngượng... Bôn thích chí. Anh muốn cười ầm lên dù nước mắt chưa khô. Nước mắt cuốn đi cơn sầu muộn. Anh lấy ống tay áo lau khô nước mắt và ngồi dậy. Cánh đồng hoa dập dờn nắng dập dờn bướm dập dờn những cánh chuồn kim. Con bọ rùa đỏ leo qua ngọn cỏ tới đậu trên đầu gối Bôn:
- Tiểu đội trưởng nhìn xem, con bọ đẹp không này?
- Ờ, đẹp thật.
- Hồi bé, tiểu đội trưởng có hay đào dế không?
- Không, ở thành phố khó kiếm nơi đào dế. Tôi chỉ đi dính ve sầu thôi... Hồi nhỏ tôi cũng thuộc loại lêu lổng, vào khóa học mới da đen nhẻn đen nhèm vì dãi nắng suốt vụ hè.
- Quê em có nhiều thứ ve lắm, nhiều loài dế nữa nhưng chẳng có thời gian mà chơi.
- Ờ, mỗi người mỗi cảnh... Nhưng sao cậu không nằm xuống cho đỡ mệt? Nằm xuống đi, cứ mặc tôi ngồi. Tôi nằm ngày này qua tháng kia, năm này qua năm khác mục ải xương rồi.
- Sao đã mục ải được? Nơi ấy đất khô...
- Ðất khô mấy rồi xương cốt cũng mục cùng với thời gian... Sau này cậu sẽ biết...
Anh đưa tay vỗ nhẹ lên vai Bôn:
- Nằm xuống đi.
Bôn đáp:
- Xin phép tiểu đội trưởng.
Anh lại nằm xuống cỏ. Những đốt xương sống giãn ra. Ðất dưới lưng vừa ấm vừa mềm, dễ chịu quá. Con bọ rùa vẫn đậu nơi đầu gối nhưng giờ đây trước mắt anh đong đưa chùm hoa màu lục. Ðẹp, trái tim anh hồi dần nhịp đập thanh thản. Nỗi đau đớn ở lại bên kia giải bờ.
- Tiểu đội trưởng ơi, anh nhớ em không?
- Không nhớ sao tôi về đây?
- Anh nhớ những ngày chúng ta cùng nhau trong rừng không?
- Nhớ.
- Anh nhớ lũ chim khiếp đảm bay theo mình không?
- Lũ chim nào nhỉ? Tôi không còn nhớ rõ?
- Lũ kền kền quái ác. Bốn con chim ăn xác cả đực lẫn cái lẽo đẽo theo tiểu đội trưởng suốt mấy ngày trời... Lũ khốn nạn ấy. Lũ đểu ấy, em nhớ lắm... Em không bao giờ quên chúng được.
Bôn nói. Và sau đó, anh bỗng thấy bầu trời nâng cao lên, cao lên không ngừng. Mọi hình ảnh đều tan loãng. Không còn bướm dập dờn, không còn chuồn kim đỏng đảnh, không còn mây trắng nghiêng nghiêng trôi, không còn màu lơ thắm trong nắng thu, không còn gì ngoài một khoảng hun hút màu xám tro không mây gió. Rồi khoảng không đó quay chầm chậm như chiếc chong chóng vĩ đại vô hình mà luồng gió của vũ trụ thẳm sâu làm chuyển động. Bôn chăm chú nhìn những vòng quay chậm rãi của chiếc chong chóng mờ ảo trên cao không kịp nhận ra chính những vòng quay đó đang hút anh vào lõi chuyển động. Ðến lúc nhận ra điều đó, anh thấy mình bị dính vào
chiếc chong chóng ma quái kia như một hạt bụi sắt dính vào thỏi nam châm không cách nào thoát nổi:
- Tiểu đội trưởng, nguy quá, cứu em với i i...
Bôn cất tiếng gọi nhưng anh không mở miệng ra nổi. Lưỡi anh đã dính chặt vào hàm. Cổ họng tắc nghẹn. Khói bom lẫn bụi đất từ đâu đã xộc đầy hai lá phổi, lấp các đường phế quản. Anh biết anh sẽ chết ngạt nếu không khạc được cục bụi quyện lẫn nước bọt và đờm đang nút kín cổ họng anh. Anh thu hết sức lực khạc liên tiếp năm sáu lần, hai mắt nổ hoa cà hoa cải mới đẩy được cục bụi đó ra. Ðồng thời, cơn choáng váng làm anh xây xẩm mặt mày, không còn nhìn thấy gì ngoài những bầy đom đóm đen đom đóm vàng bay lượn... Bôn vội vã nhắm mắt, lấy hai bàn tay úp lên... Khi anh hết cơn choáng váng, mở được hai bàn tay ra cái không gian vĩ đại màu xám tro đang quay tròn kia đã biến mất. Trước mặt anh là bầu trời tĩnh lặng màu tím đục với mặt trời đỏ tướp máu phía sau cao điểm 327 nát nhừ.
- Tiểu đội trưởng ơi... Tiểu đội trưởng...
Anh gọi. Ba trái lựu đạn nổ liền đáp lời anh. Một cột bụi phọt lên mé bên kia đồi. Ðất bị xáo trộn, băm nát đã nhuyễn như bột bánh khảo, chỉ cần một âm thanh một va đập nhỏ là phọt lên. Sau chuỗi lựu đạn, tiếng gọi lần thứ hai như bị bẻ gẫy thành khúc:
- Tiểu đội... Trưởng ơi... tiểu đội... trưởng ơi...
Không có tiếng lựu đạn trả lời chỉ những hồi âm vọng qua ngọn đồi ngập ngụa tử thi súng ống, vật đổ nát và khói đang ngún cháy. Những làn khói ngoằn ngoèo bốc lên, mặt trời đỏ máu nhuộm thành thứ màu pha trộn nửa như huyết đọng nửa là màu áo sư sãi. Tựa như những ngọn khói ngoằn ngoèo uốn lượn kia là lời cầu nguyện chậm rãi, là hơi thở của đất đau đớn đang chờ bài kinh xá tội, đang đợi tiếng mõ từ những ngôi chùa xa hút vọng về. Bôn gióng tai nghe. Anh hy vọng sẽ nhận ra tiếng rên hoặc tiếng gọi của tiểu đội trưởng cho dù chúng yếu ớt khẽ khàng đến mấy. Thuở nhỏ, người làng gọi anh là Bôn dơi vì tai anh thính như tai dơi. Nhưng trong không gian yên ắng chỉ có tiếng tích tắc của tiếng đồng hồ đeo tay vang lên. Chiếc đồng hồ của Lợi chua cho anh trước khi chết. Lợi cùng tiểu đội với anh, quê Ninh Bình. Hát giả giọng con gái giống như hệt. Nói cũng eo éo như con gái và ăn chua cũng như con gái kỳ ốm nghén. Thế nên, cả đại đội gọi là Lợi chua. Lợi chết vì chứng kiết lỵ mãn tính. Các loại thuốc quân y viện phát đều vô dụng. Sáu tháng trời, ngày nào Lợi cũng ra hố xí ngồi hàng giờ, lúc quay vào mặt nhợt như gái đẻ băng huyết:
-Này Bôn, cầm lấy mà dùng dưới cõi âm chẳng ai cần thứ này đâu...
Chiếc đồng hồ Thụy Sĩ cổ lỗ của Lợi chua vẫn còn, vẫn chạy dai dẳng dù bao nhiêu bận bị bom vùi bom nén. Bôn cúi xuống nhìn chiếc đồng hồ lẩm nhẩm:
- Lợi ơi sống khôn chết thiêng xin chỉ đường cho tôi tìm tiểu đội trưởng. Anh ấy đã cư xử tốt với tất cả chúng ta, chẳng riêng ai...
Chiếc kim giây quay bốn mươi, năm mươi, sáu mươi rồi chín mươi nấc. Sắp hai phút, chưa nghe tiếng động nhỏ nào. Mặt trời càng nở to hơn đỏ bầm tụt xuống phía bên kia cứ điểm, chỉ còn lại vành bán nguyệt với dải mây tím bên trên. Một trái lựu đạn nữa bất thần nổ, hất lên vài mảnh vải rách với vật gì đó tựa như khúc tay cụt. Sau đó, tất cả trở lại yên tĩnh. Cánh rừng sau lưng bắt đầu sẫm lại. Chỉ lát nữa thôi nó sẽ chìm vào bóng tối. Bôn tuyệt vọng: Nếu anh không tìm được tiểu đội trưởng, mười lăm phút hoặc nửa giờ nữa máy bay Mỹ sẽ tới dội xăng hủy các tử thi. Và lúc ấy sẽ chẳng thể tìm nổi dấu vết của con người...
- Tiểu đội trưởng ơi, tiểu đội trưởng... Anh gào. Nghe tiếng gào của chính mình run rẩy. Những làn khói ngoằn ngoèo run rẩy theo và vài con chim hớt hải từ cánh rừng sau lưng bay vọt lên:
- Tiểu đội trưởng ơi anh có nghe thấy không?
- Tiểu đội trưởng ơi, tiểu đội trưởng ơi, tiểu đội trưởng ơi...
- Anh ở đâu, ở đâu? Tiểu đội trưởng ơi i i...
Bôn gào, gào liên tục như hóa rồ, tiếng gào âm vang khắp khung trời khiến lũ chim đen hớt hải bay trong ánh hoàng hôn tàn lụi.
Mặt trời chỉ còn nhô lên cái vành mỏng như móng tay, bốn bên sương núi ùn lướt tới, trùm lên các tử thi, hòa cùng các đám khói:
- Tiểu đội trưởng ơi i i...
Lần cuối. Cuối cùng. Tiếng gào nghẹt nước mắt. Giống tiếng chào ly biệt hơn là tiếng gọi tìm đồng đội. Bôn nước bọt khan nuốt nước mắt mặn xốc lại thắt lưng, sờ chiếc bình-toong còn vài ngụm nước bên trong. Anh đưa mắt nhìn cứ điểm lần chót trước khi quay lưng mò vào rừng. Và đúng lúc ấy, tiếng tiểu đội trưởng vọng lại:
- Tôi... Tôi đây... Tôi ở đây...
Tiếng gọi rõ nhưng vô cùng yếu ớt, chỉ như sợi thanh âm luồn qua một khối đen tử thi lẫn những thanh gỗ rầm gãy nát, những khối vụn bê-tông chồng chất. Bôn quay lại, lần lượt kéo từng xác người sang bên, không phân biệt xác nào lạnh xác nào còn ấm, bới và đẩy những thanh rầm lẫn mớ gạch và mảnh bê-tông, kinh hồn vì những đợt bom đã tung bứng, xào xáo quỷ quyệt đến mức cả đống xác người lẫn đồ vật dồn tụ giữa hai bức tường xi-măng gãy nát. Tiểu đội trưởng chưa phải người cuối cùng, bên dưới anh còn hai tử thi nữa. Nhưng với sức nặng của ngần ấy xác lẫn rầm gỗ, anh còn sống cũng là sự thần tình. Bôn xốc ngược tiểu đội trưởng ra ngoài, tức khắc cõng chạy về cánh rừng giờ đã hoàn toàn đen thẫm. Hai tay tiểu đội trưởng quàng qua vai anh mỗi lúc mỗi lơi lỏng. Chiếc bi-đông quay ra phía sau, đập vào xương cụt đau nhói nhưng anh
không dám dừng lại xoay nó về vị trí cũ. Linh tính bảo anh rằng chỉ trong khoảnh khắc, máy bay sẽ tới và tất cả sẽ biến thành biển lửa... Tiểu đội trưởng to con hơn, nặng cân hơn Bôn nhiều, nhưng lúc ấy anh không biết nặng nhẹ, anh chạy phăng phăng vì trước mắt anh là cây cầu, bờ bên này là cái chết bên kia là sự sống... Rồi Bôn cũng chạy kịp. Anh tới được cửa rừng cũng là lúc bầy phi cơ ập đến, rú rít xé nát bầu trời, lửa đèn hiệu gắn nơi cánh và đuôi phi cơ nhấp nháy liên hồi như những con mắt đỏ. Lũ máy bay lượn thành vòng tròn, chu vi vòng tròn mỗi lúc mỗi hẹp.
Các thùng nhiên liệu cháy được thả xuống theo một tiết điệu đều đặn trên khắp khu đồi. Chừng vài phút sau, toán phi cơ nâng độ bay. Một loạt bom ném xuống và cứ điểm 327 tức khắc bùng lên biển lửa. Lửa cháy rần rật bốc cao lưng trời, soi rõ từng mảnh quần áo rách bị gió thổi bay vừa bay vừa bốc cháy, soi rõ cả mấy khóm cây
lẻ loi đang xèo xèo sôi nhựa. Bôn lau mồ hôi mặt mồ hôi gáy. Tiểu đội trưởng đang tựa mái đầu nặng trĩu trên vai anh. Anh ấy cũng đang mở mắt nhìn lửa cháy. Ðôi mắt hiền và mơ màng như đang buông lơi tia sáng để trôi vào khung trời khác:
- Lửa... lửa cháy... Rồi... tất cả sẽ thành tro... Anh lẩm bẩm.
Bôn hỏi:
- Tiểu đội trưởng bị thương ở đâu? Ðể em xem...
Anh lắc đầu:
- Thôi... Vô ích...
Bôn nói:
- Em hãy còn cuốn băng cá nhân... Cứ để em...
Tiểu đội trưởng lắc đầu lần nữa, hình như anh mỉm cười nhưng nụ cười thật gượng gùng và khó khăn trên cặp môi trắng nhợt:
- Ðừng mất công... Tôi không qua... được... Ðứt động mạch chủ rồi...
Bôn rống lên:
- Ðứt động mạch chủ? Sao không gọi y tá làm ga-rô?
Tiểu đội trưởng nhắm mắt không đáp. Bôn chợt hiểu anh vừa hỏi một câu xuẩn ngốc. Làm gì còn y tá trong lúc đó? Cả thảy có năm người, ba đã chết ngay lúc mở đầu trận đánh. Hai người còn lại đưa thương binh về hậu tuyến, chẳng rõ họ và đám thương binh có đi thoát hay đã bị bom dập nát rồi... Nhưng Bôn không cam lòng bó tay, anh rờ rẫm tìm vết thương trên người tiểu đội trưởng, hy vọng mong manh rằng còn nước còn tát. Tiểu đội trưởng bị mảnh bom chém ngang đùi trái. Máu thoát theo đường ấy, bết vào lớp vải khiến ống quần bên trái khô cứng như mo cau. Bôn kêu:
- Tiểu đội trưởng ơi, em rạch ống quần ra nhé?
Anh khẽ lắc:
- Ðừng.
Bôn nói:
- Dao em rơi mất rồi... Ðể em mò con dao của anh...
Nói rồi anh đưa tay lần quanh thắt lưng tiểu đội trưởng. Anh ấy cố đưa tay lên như muốn ngăn Bôn nhưng cánh tay rơi thõng xuống. Tiểu đội trưởng nhướn cặp mi vài lần rồi từ từ mở mắt ra:
- Tôi thấy trời màu đỏ, đỏ như hoa phượng hoa hồng... Ðẹp lắm...
Anh buông từng tiếng khó khăn, như lưỡi anh bị rút ngắn và đang cứng dần. Nhưng tiếng anh trong trẻo. Một làn ánh sáng phảng phất trên mặt anh, như rong rêu vô hình biếc trong ánh lửa từ cứ điểm 327 soi chiếu. Rồi anh mỉm cười:
- Thế... cũng xong một đời trai... cũng hay... ay...
Và mắt anh chợt lóe lên một tia sáng như muốn thu nhận lần chót đám cháy rực rỡ tàn bạo có tên 327, đám cháy khiếp đảm đã thiêu cháy bao nhiêu con người bao nhiêu cuộc đời của hai bên chiến tuyến. Không ai đếm nổi trong đụn lửa ngất trời kia có bao nhiêu tro bụi hài cốt hòa trộn bốc bay. Trong đám tro xương đó có bao nhiêu gã đàn ông những kẻ may mắn biết hương vị ái ân và còn lại bao nhiêu chàng trai khờ khạo như anh, chưa hề biết đến da thịt đàn bà dù đã đọc hàng trăm cuốn tiểu thuyết, xem hàng trăm cuốn phim, giảng giải và nói phét về chuyện ái tình cho đám lính quê như những gã Sở Khanh thứ thiệt...
... Ðời là cuộc chơi... Nhưng trò chơi không được quyền chọn lựa...
Ánh sáng lóe lên trong đôi mắt anh. Ý nghĩ như mây trôi. Rồi ý nghĩ qua mau chỉ còn lại vòm trời tưng bừng hoa đỏ. Xa hơn nữa là những tầng khí quyển màu lơ chan hòa ánh nắng. Nhưng tầng khí quyển màu lơ hút anh về phía chúng. Nắng không rải lên cõi đất mà quy tụ thành từng luồng sáng rực. Những luồng sáng đó giống những vòi rồng hút anh vào trong. Tâm hồn anh nhẹ nhàng bốc bay như cánh ong như cánh bướm như phấn hoa tản mạn và mờ ảo. Chúng bay lên cao càng lên cao những chùm sáng nhẹ nhàng mong manh kia càng hồi tụ, giống như những chùm khói chùm mây rực rỡ, chúng kết thành hình dạng con người một chàng trai khác lạ, vừa như anh nhưng vừa chẳng là anh, mà là phiên bản của Chúa Hài Ðồng.
Khi tâm hồn anh bay về khoảng xa xăm, thân xác anh nằm lại trên tay Bôn dần biến sắc. Gương mặt chẳng còn trong suốt như nặn bằng thạch cao mà ngả sang màu xanh xám. Cặp mi im lìm đông cứng. Hai cánh tay sõng sượt chẳng bám vào đâu.
- Tiểu đội trưởng ơi...
Bôn gọi giật giọng.
Gương mặt xanh xám của tiểu đội trưởng như gương mặt người bị trúng phong, hôn ám và bất động.
- Tiểu đội trưởng ơi...
Bôn gọi giật giọng lần thứ hai, vừa gọi vừa lắc vai anh dữ dội:
- Tiểu đội trưởng ơi, đừng bỏ em...
Hai cánh tay thõng thượt của tiểu đội trưởng quăng đập sau những cú lắc điên rồ của Bôn. Gương mặt anh đã hoàn toàn xa vắng. Không còn tiểu đội trưởng nữa. Anh ấy đã đi. Ði hẳn rồi. Anh ấy đã đi theo khung trời hoa hồng hoa phượng.
- Tiểu đội trưởng ơi i i...
Lần này không còn là tiếng gọi mà là tiếng than. Nước mắt Bôn lặng chảy. Giá như anh biết kêu, biết khóc, biết than hờ, biết hát những bài hát đưa vong mà đám người lớn tuổi thường vẫn hát, có lẽ lòng anh sẽ bớt đau. Nhưng anh không biết. Không thể. Và cơn đau quẫy lộn trong tim:
- Tiểu đội trưởng ơi anh nhớ ngày chúng mình gặp mặt? Lúc đó em mười bảy nhưng đã có vợ, còn anh hai mươi ba tuổi mà vẫn trai tân. Ðám lính mười tám mười chín trong tiểu đội đều đã lấy vợ cả. Nông thôn chúng em lấy vợ sớm để giữ giống trước khi ra trận. Chỉ dân thành phố các anh là khờ... Ngay buổi tối đầu tiên sau bữa liên hoan chúng em hò nhau vật anh ra giường để xem con giống của gã trai tân thành phố trắng đến đâu? Hai hôm sau lúc ở thao trường về anh đãi cả bọn một bữa xôi chè thả cửa...
Bôn lau nước mắt, xốc người chết tới gốc cây gần đó. Anh tựa lưng vào gốc cây cho đỡ mỏi. Cái bình-toong chạm đánh khấc một tiếng vào mẩu xương cụt khiến anh đau tê tái. Anh gỡ cánh tay tiểu đội trưởng để quài ra sau lưng, xoay chiếc bình-toong về vị trí cũ. Cánh tay anh ấy đã nguội.
Người thoát dương chân tay lạnh trước, sau đó đến bụng, ngực và đầu. Kẻ giàu tình trái tim nguội sau chót. Kẻ trí lự cái đầu sẽ giữ hơi ấm cuối cùng... Người đời thường nói vậy... Tiểu đội trưởng ơi, anh là người giàu tình nhất em được gặp trên đời. Như thế, tim anh còn ấm lâu nhất... Bôn luồn tay vào ngực trái tiểu đội trưởng. Hơi ấm truyền sang tay anh. Và nước mắt anh chưa kịp khô lại tiếp tục tràn xuống hai gò má...
Lửa trên cứ điểm 327 bắt đầu tàn. Không còn biển lửa cao ba thước mà chỉ còn một bãi mênh mông lô nhô những đống lửa nơi cao nơi thấp và giữa những đống lửa nhỏ tựa như các gò đụn đang bốc cháy là nền than láng phủ tàn tro, đôi khi gió lùa bốc bay từng đám như pháo hoa ai ném trong những đêm giao thừa thời an bình thịnh vượng. Bôn cúi xuống nhìn mặt tiểu đội trưởng nhưng ánh sáng hắt từ cứ điểm 327 hoàn toàn tắt, tất cả sẽ đen kịt. Không còn ai bên anh, ngoài cái xác anh đang bế trên tay. Ðêm nay là đêm đầu tiên, anh một mình không đồng đội. Từ ngày nhập ngũ cho đến trận đánh khốc hại này anh luôn luôn sống cùng bạn hữu chưa bao giờ lẻ loi.
Từ đây, anh bắt đầu nếm mùi đơn thương độc mã. Anh đưa mắt nhìn xung quanh thấy trời đêm mênh mông hơn, huyền bí hơn hết thảy những đêm anh đã qua, thê lương hơn hết thảy những cảnh chết chóc anh từng nếm trải. Bôn sợ. Anh không biết anh sợ gì? Thám báo, hổ sói, hay ma quỷ? Có lẽ là tất cả. Anh hãy còn súng còn đạn. Dao găm của anh đã rơi nhưng giờ đây anh có con dao găm của tiểu đội trưởng, mới và bén nhọn hơn nhiều. Anh có thể chống lại bọn thám báo nếu anh cẩn trọng, chịu ẩn mình trong bóng tối và các bụi rậm. Còn hổ báo, sau một trận đánh khốc liệt như trận đánh vừa rồi chắc chắn đến lợn lòi, gấu độc hay cọp già cũng phải chạy bạt đi vài ba cánh rừng và ít nhất qua vài tuần trăng mới quên được cơn khiếp hãi... Còn ma quỷ? Ðúng. Có lẽ anh sợ ma quỷ vì đó là những hình ảnh khiếp hãi, kinh hoàng đã được cấy vào óc não anh từ hồi thơ dại dù sau này lớn khôn, từng hương khói cho những vong hồn thân thiết là cha mẹ anh, anh đã hiểu thế giới bên kia chỉ là nơi cư ngụ những linh hồn sương khói và ngày nào đó anh cũng sẽ gặp lại cha mẹ anh tại cõi tối tăm ấy. Dẫu sao, người ta cũng khó tẩy rửa nỗi sợ. Thế giới của kẻ đã chết là chốn xa lạ hù dọa tất thảy các sinh linh, nơi đó ánh sáng không phát ra từ mặt trời mà từ ánh lân tinh lập lòe trên các vòm xương sọ, những lũ quỷ nhỏ lông lá luôm nhuôm bẩn thỉu đi thành dãy dài mỗi con cầm một chiếc đầu lâu cắm trên khúc xương đùi tựa hồ bọn người rước đuốc đêm hội.
Ðiều khác biệt là ánh sáng tỏa ra từ những chiếc đầu lâu dát lân tinh là thứ ánh sáng ghê rợn trong thứ ánh sáng đó mọi làn da đều có sắc xanh xám của kẻ bị rút huyết, mọi cặp mắt đều mất đi đồng tử, và mọi làn môi đều có màu máu khô. Thế giới của cõi âm là nơi quẩn quanh dồn tụ những oan khuất của kiếp người dương thế, những kẻ bị phụ bạc, dối lừa, những kẻ chịu đọa đầy oan uổng, những kẻ chưa được nhắp hớp rượu đầu của mùa rượu mới, những kẻ phạt mình ép xác lao tâm khổ tứ suốt một đời mà chưa tới đích, những trai thanh chết non nữ tú chết yểu... Và những vong linh bất mãn, những ông mãnh bà cô ấy thường thích hành hạ hãm hại bất cứ kẻ nào còn có cơ hội nếm trải giọt rượu đời... Ðúng... Anh sợ... Nỗi sợ ấy sống trường kỳ trong anh. Ðôi khi nó bị dìm lấp đi khi có đồng đội bên mình... Cũng là rừng nhưng rừng thật gần gũi những đêm xưa mắc võng, võng nọ nối đuôi võng kia, hàng này kề hàng khác, chỉ cần quơ tay là chạm tới người nằm cạnh, chỉ cần thò cổ khỏi võng là có thể châm thuốc, hàng trăm chiếc võng tạo nên một không gian ấm áp an bình và rừng là những tán lá che sương, che con mắt thần gắn trên phi cơ địch, một kiểu nhà tập thể bao dung và thân ái. Rừng đêm nay lạ lẫm, thâm u, ẩn chứa muôn con mắt rình mò, những gương mặt xa lạ xanh rờn rêu nhớt, những cánh chân cánh tay đã rời khỏi thân mình khua khoắng như lũ vòi bạch tuộc, những con rắn quăng mình trên cây và những tiếng tắc lưỡi của nó vang to như tiếng tớp mồi của loài tắc kè. Trong tiếng sột soạt của các vòm cây Bôn nghe thấy tiếng các bóng ma chuyển động, những bóng ma lạnh lùng dữ tợn ngắm nhìn anh, đo đếm xem anh xứng đáng với những hình phạt nào. Họ sẽ rút lưỡi anh hay treo ngược anh lên cành cây, buộc anh chịu một cái chết dai dẳng, thân xác anh bị các loài chim tới rỉa và sau cùng chỉ còn một nắm tóc phất phơ giữa đám lá cành... Mường tượng đến những cảnh ấy, toàn thân Bôn tê dại. Một ý nghĩa đột khởi vụt lên:
Nếu tất thảy mọi người chết đều hóa thành ma, ta đang ôm trong tay con ma thân thiết nhất. Kẻ đã bảo trợ ta trong cuộc đời dương thế đã dạy ta từ cách xỏ giầy đến cách xỉa răng, từ cách gấp chăn màn xếp ba-lô đến cách nấu các món ăn dã chiến, đã nhận lỗi thay ta trước mặt đại đội trưởng, đã dung thứ cho ta tội đánh mất công văn, đã bẻ cho ta mẫu lương khô cuối cùng... Kẻ ấy khi chết cũng sẽ phù trợ cho ta, và như thế chẳng còn chi đáng sợ.
Bôn ghì xiết tiểu đội trưởng. Anh có cảm giác như đó là tấm mộc che chắn, là bức thành chống đỡ lại những kẻ xâm lăng vô hình nhưng kinh dị. Anh hít liền mấy hơi thật sâu rồi hét:
- Dừng lại... Dừng lại... Nghe ta nói đây:
Tiểu đội trưởng bắn súng hai tay gần như nhau và có thể phóng dao găm trúng bóc những cự ly ngoài ba mươi thước... Chúng bay hãy dè chừng...
Rừng rung giật ầm ầm. Bôn nghe giọng đắc thắng của chính mình vang lên mồn một, va đập vào các vòm cây khiến các đốm lân tinh vụt tắt vụt nẩy như mắt sao, và anh quay đầu bốn phía nhìn rừng, thấy những gương mặt xanh nhớt tan dần như đám khói bốc trên miệng bình thử hóa chất, những đám cánh chân cánh tay treo lủng liểng trên cành cây tựa hồ lũ đao phủ điên rồ đã lượm vét từ các thùng phẫu của các quân y viện đem tới đây cũng rụng lả tả và tan mủn như tàn tro không còn dấu vết, những con mắt thù hận trong hố mắt rộng và sâu không lông mày lông mi nhìn anh từ bốn phía bỗng biến mất như phép tàng hình. Bôn thấy rừng an toàn yên tĩnh như những đêm mắc võng xưa, một mái lá che cho anh bớt lạnh:
- Chúng nó trốn sạch rồi, tiểu đội trưởng ơi... Bọn ma ấy sợ anh. Giờ em có thể ngủ yên...
Anh nói và vỗ lên cánh tay lạnh ngắt của người chết. Ðoạn, anh gài con dao của tiểu đội trưởng vào thắt lưng, đè cây súng dưới mông để phòng bọn thám báo tước mất và ngủ ngay tức khắc...
Sáng hôm sau, nắng xiên qua kẽ lá soi vào mắt Bôn khiến anh thức giấc. Anh nằm tênh hênh trên lớp lá rụng, khẩu súng dưới mông xác tiểu đội trưởng úp lên ngực trong tư thế từa tựa tư thế kẻ làm tình. Bôn luồn tay vào ngực áo người chết nhưng chợt hiểu rằng chẳng thể tìm được chút hơi ấm nào ở đó nên rút tay ra. Xác chết lạnh cứng. Hơi sương ẩm tấp lên lớp áo quần bốc mùi khét khói đạn, mùi máu khô tanh khẳn. Anh lật xác tiểu đội trưởng lên, thấy rõ từng nốt ruồi con từng vết sẹo trứng cá cả những nếp nhăn nhỏ trên gương mặt xanh tái. Có gì đó khác lạ trên gương mặt anh quen thuộc mọi ngày. Không chỉ vì màu da đã đổi khác mà còn vì vẻ xa vắng cách biệt. Bôn đưa tay rờ những nốt ruồi con nơi gò má, miết những nếp nhăn nhỏ nơi đuôi mắt người chết, những cử chỉ anh không thể làm khi tiểu đội trưởng còn sống vì chúng kỳ quặc, có vẻ như lối tỏ tình của gã lại cái hoặc lối nịnh nọt của lính với cấp trên.
Tiểu đội trưởng đã chết, giờ chỉ còn mình anh trong cánh rừng này, chẳng ai có thể rình mò hay chế riễu.
- Tiểu đội trưởng ơi, chẳng ai tốt với em hơn anh... Nhưng anh đã sang cõi khác, không thể cõng anh theo trên đường tìm đơn vị. Lát nữa, em sẽ phải vùi anh nơi góc rừng này, xin anh xá lỗi...
Bôn tiếp tục xoa gò má, hai thái dương và vòng xuống cằm người đã khuất:
- Nếu trời còn cho sống, bao giờ yên hàn em sẽ ra Hà Nội thăm quê anh, trả lại cuốn nhật ký của anh cho bà cô ruột, đặt tấm ảnh anh lên bàn thờ... Em sẽ đến những nơi anh rong chơi thời học trò: Văn Miếu, Hồ Tây, sông Hồng, sẽ bơi ra cù lao bẻ bắp nướng... Anh thấy viền môi tím ngắt của người chết khẽ đụng đậy như muốn kìm giữ nụ cười:
- Sao mà bi lụy vậy? Ai rồi cũng chết. Chúng ta lũ trai thời loạn phải chấp nhận một cuộc ra đi chóng vánh hơn cuộc ra đi của những người sống cuộc sống bình thường. Chẳng ai chọn được thời để sinh, cũng chẳng ai chọn được chốn đầu thai nên hãy vui vẻ chấp nhận mảnh đất Ðức Phật đã gieo quẻ xúc xắc cho kiếp sống của mình. Ðừng khóc... Tôi chẳng thích nhìn đàn ông khóc, và hơn nữa, khi họ là người lính...
Anh nghe rõ tiếng cười của tiểu đội trưởng. Bao giờ anh ấy cũng cười thật khẽ, gần như không bật thành tiếng, vừa dịu dàng vừa hài hước nhưng chính vẻ dịu dàng đó giờ đây cấu xé tim anh. Anh nghiến hai hàm răng để nước mắt ngừng chảy, đưa tay vuốt cặp mi cứng đờ rồi đặt tiểu đội trưởng xuống đất, mở ba lô. Trong ba lô của anh có cuốn nhật ký với bộ quần áo thu đông của tiểu đội trưởng. Trước lúc đánh cứ điểm 327, anh ấy đột nhiên gọi Bôn lại:
- Này, cậu là người cẩn thận nhất tiểu đội, hãy giữ giùm tôi cuốn nhật ký và bộ quần áo, tôi biết cậu sẽ chẳng bao giờ để mất...
Linh tính xui khiến hay quỷ thần đã mách bảo anh? Bôn chợt rùng mình khi nhớ lại ánh mắt tiểu đội trưởng lúc ấy. Ánh mắt mơ màng trống rỗng, như không phải mắt người mà là ánh sáng chiếu rọi từ một tâm hồn nhẹ bổng bay lơ lửng lơ trong cõi khôn cùng:
Phải, anh ấy đã rời xa chốn này từ phút đó, anh ấy đã bay tới cõi khôn cùng, nơi không còn đất đá rừng cây không súng đạn hầm hào không khẩu lệnh tác chiến phương án chính phương án dự phòng, không còn mồ hôi nước tiểu không còn máu...
Anh đặt bộ quần áo mới tinh lẫn cuốn sổ của tiểu đội trưởng sang một bên, thứ đến mớ quần áo của anh để rút tấm ni-lông trùm võng. Trải tấm tăng xuống nền rừng. Bôn đặt người chết lên, lục lọi tất cả túi áo túi quần lấy được một chiếc bút máy, một khăn tay bẩn một bao thuốc hút dở bỏ tất cả vào ba lô rồi xếp lại và buộc chặt. Xong xuôi, anh kéo chân tay tiểu đội trưởng cho thật thẳng, quấn xác anh ba lượt trong tấm tăng dài rộng, hài lòng vì mình đã giữ được tấm tăng tới lúc cần thiết này trong khi chính tiểu đội trưởng lẫn đám đồng đội đã đánh mất hoặc đổi lấy sắn khoai ăn trên đường qua các bản Vân Kiều. Khi đã gói xác chết cẩn thận, Bôn rút trong túi quần sau cuộn dây dù nhỏ buộc kĩ ba phần: đầu, ngang bụng và cổ chân tử thi. Rồi cầm dao găm gạt lớp lá mục bên trên anh bắt đầu đào hố. Ðất không quá rắn dao găm sắc ngọt, chừng non một giờ sau anh đã đào huyệt. Cũng là lúc nắng bắt đầu nung nóng rừng cây. Không có gió mà chỉ có những làn khí nóng hầm hập luồn qua lưng khiến mồ hôi nhơm nhớp ngứa như kiến đốt.
Ta cần chôn anh ấy thật nhanh. Trời nóng tử thi dễ ngả mùi...
Anh ôm xác chết đặt xuống hố, đứng nghiêm theo tư thế mặc niệm dưới chân huyệt:
Không có nhạc tiễn đưa anh. Cũng không hoa tưởng niệm. Lẽ ra em phải bắn băng đạn cuối cùng, nhưng e trên đường về đụng biệt kích. Xin anh xá cho...
Rồi anh quỳ xuống hì hục lấp đất. Chỉ mươi phút sau nấm mồ đã thành hình, cao hơn nền rừng chừng già một gang tay. Những chiếc lá úa tiếp tục rụng, rải màu đỏ chết chóc lẫn màu vàng ủ dột. Rừng này là rừng khộp, lá bằng bàn tay khi tàn nhuốm những màu sắc dữ dằn và buồn thảm, Bôn đứng ngây dại nhìn lá rụng:
Tiểu đội trưởng ơi lá rụng không ngừng... Rồi mai đây mùa mưa tới. Rồi mai đây những gốc cây già đổ xuống, rừng thay đổi dạng hình và chẳng còn ai tìm ra dấu vết của anh...
Rút dao ra, anh hối hả chém lên những gốc cây xung quanh. Gốc cây nào cũng khắc chữ X thật lớn, vừa bổ dao lia lịa anh vừa thấy tâm trí mịt mù như đám khói vì biết rằng chẳng bao giờ còn có thể quay lại nơi đây. Khi các gốc cây quanh mộ đều hằn lên hình chữ X, anh xốc ba-lô lùi lũi bỏ đi, e sợ nếu quay đầu lại sẽ nghe thấy tiếng gọi dưới mồ và không còn can đảm đi tiếp.
Ði như thế hơn hai giờ liền, cơn khát cấu xé khiến lưỡi Bôn như dính vào hàm trên. Chiếc bi-đông chỉ còn lại vài ngụm mà chẳng biết lúc nào mới gặp được khe nước hay nguồn suối. Ðã đặt tay lên bi-đông nhưng anh rụt lại, đưa lưỡi liếm mồ hôi đọng trên môi rồi tiếp tục đi. Chừng một giờ nữa, cổ họng anh bắt đầu sưng lên. Bôn đành tìm gốc cây ngồi nghỉ, cởi bi-đông uống vài ngụm nhỏ. Từng giọt nước thấm vào lưỡi, từng giọt nữa trôi qua cổ họng khiến da thịt sưng phỏng mát dịu đi. Nhưng khi cổ họng anh bớt đau, dạ dày anh liền hồi tỉnh và lên cơn phẫn nộ. Ðã hai ngày nó bị quên lãng. Thoạt tiên, nó lên tiếng than van nỉ non, rồi những than van mỗi lúc càng dồn dập hơn nhiều hờn oán hơn. Bôn siết chặt dây lưng. Dạ dày anh sôi lên ùng ục không kêu than mà nguyền rủa cấu xé anh bằng cách tự cấu xé nó trước. Hai ngày hai đêm qua anh mất hoàn toàn cảm giác đói, giờ đây toàn bộ giác quan anh quy tụ quanh cái dạ dày. Tai anh nghe nó réo gào, mắt anh nhìn thấy chất cường toan đang bào mòn thành vách, da thịt anh thấm dần những cơn buốt rát từ nó lan truyền sang... Bôn thít lại dây lưng lần nữa, ngả đầu vào gốc cây, nhắm mắt lại. Anh bắt đầu tìm kiếm một mùi thơm trong trí nhớ: một mẩu cháy, một miếng lương khô, sắn nướng trên than hoặc thịt nai quạt chả... ôi mùi thịt rừng quyến rũ ấy suốt mấy năm quân ngũ anh chỉ được nếm một lần mà hương vị còn nguyên vẹn đến giờ...
Những năm ấy, đơn vị anh đã hành quân qua bao nhiêu cánh rừng không ai nhớ nổi. Nhưng theo những vệt bom cày, các loài thú lánh bạt đi. Rừng thuở xưa nào hươu nào nai nào hổ nào gấu nào các loài chồn cáo các loài chim chóc đã biến mất... Chỉ những khu rừng lở lói xác xơ vì bom dội, trụi tóc vì chất đi-ô-xin. Các bờ suối mất vẻ mộng mơ vì mọi thứ rau ăn được bị lính tráng vặt trụi, bữa ăn tươi thường chỉ thịt đôộc nấu cháo, làm nộm hoa chuối hoặc rang mặn với mắm tôm khô đồng bằng gửi lên. Họa hoằn mới thấy bóng hươu nai. Trong cảnh tàn phá dữ dội chỉ có thứ hổ độc hay cọp thành tinh mới dám trụ lại kiếm mồi. Mồi của chúng giờ không chỉ là bầy thú sơn lâm mà cả những chú lính lơ ngơ hoặc các tốp giao liên xuất hành vào giờ Khốc Hại:
Một miếng, ước gì một miếng thịt nai từ trên trời rơi xuống. Một miếng bằng bàn tay hoặc bằng hai bao diêm thôi cũng được...
Nước miếng anh tứa đầy chân răng, và bao tử anh róc rách mơ có con suối nào đang chảy. Bôn nhắm mắt chặt hơn nữa, nuốt nước bọt. Khi anh làm như vậy, những ý nghĩ tới mau lẹ hơn.
Ngày ở làng bao lần ta vớ được bọng ong rừng. Sao những năm chiến tranh không còn may mắn đó? Ong cũng sợ đạn bom như các loài thú hoặc vì ta chưa có thời gian rảnh rỗi kiếm tìm? Có lẽ vậy. Dù bom dội, hoa vẫn nở, bướm vẫn bay đầy lèn đá và như thế, ong cũng vẫn xây tổ làm mật... Ta sẽ thử vận may xem sao? Giờ cần ngủ một giấc để lấy sức. Sau giấc ngủ, ta sẽ tìm cách lấy một giỏ ong...
Bôn thầm nghĩ, thọc tay vào túi kiểm tra xem chiếc bật lửa còn không. Chiếc bật lửa còn. Trời đã thương anh. Sau giấc ngủ anh sẽ lấy trong ba-lô chiếc may-ô cũ nhất xé làm nùi hun. Anh sẽ lựa chiều để chiếc áo cháy xong đàn ong bay đi hết. Anh sẽ trèo thật nhanh dỡ giỏ ong xuống để dè chừng lũ ong quay lại hoặc một con gấu tấn công. Anh đã mường tượng rành mạch cách đối phó với con thú tham lam kia, nếu nó ẩn núp sau một bụi rậm chờ khoảnh khắc thuận lợi chiếm đoạt chiến lợi phẩm của mình. Anh sẽ nổ súng thật mau lẹ, nhắm giữa hai con mắt hay chính tâm điểm trán tên kẻ cướp. Và sau đó, sẽ có thể là món thịt gấu nướng... Bởi lúc đói thế này, thịt gấu cũng sánh tày thịt nai...
Niềm hy vọng khiến cơn đói nguôi ngoai và anh thấy tự tin hơn. Trước lúc buông mình vào giấc ngủ hoàn toàn anh còn kịp nhẩm tính:
Mình đã đi được bao nhiêu cây số rồi nhỉ? Mười một, mười hai cây, không có lẽ chỉ mười cây chẵn. Theo hướng Ðông, nếu may mắn gặp đoạn rừng hẹp cũng còn sáu bảy chục cây nữa mới tới miền thưa lục... A, miền thưa lục... Ai dạy ta câu ấy nhỉ? Chính là tiểu đội trưởng, anh ấy đã nhặt danh từ này trong một câu thơ.
Bôn nghe âm vọng mơ hồ của câu thơ năm nào nghe đọc, rồi anh trượt từ thân cây xuống đám lá rụng và không hay biết gì nữa. Giấc ngủ kéo anh xuống một đường hầm không ánh sáng, một không gian đen thẳm hun hút không bờ không đáy, tựa hồ anh rơi xuống một cái giếng ma rơi mãi rơi mãi không biết bao giờ chạm vào mặt nước... Anh tỉnh dậy khi một cành khô rơi vào vai đau điếng. Cơn đau kéo anh từ cái giếng không đáy từ đường hầm vô tận kia về rừng khộp. Ðám lá quanh anh sực hơi nóng. Anh xoa vai, ngước nhìn vòm trời nhuộm ánh tà dương biết ý định tìm giỏ ong là bất khả. Chỉ nửa giờ nữa thôi trời tắt nắng và rừng rơi vào bóng đêm nhanh như trở bàn tay. Cơn đói đã qua, giấc ngủ đem lại cho anh sức lực nhưng anh vẫn khát. Anh lắc bi-đông xem có thể nhấp thêm một ngụm nữa chăng nhưng sau đó quyết định xoáy chặt nút bi-đông lại để trấn áp cơn thèm. Ðã có lần đơn vị anh hành quân qua một vùng khô cạn hơn ba tuần lễ, mọi người phải uống nước đái, khi gặp bãi phân voi tươi còn bốc khói ba cậu đã xô nhau áp bộ mặt nứt nẻ vào bãi phân để làn da được dịu đi... kỷ niệm ấy anh không quên được. Anh phải dành những giọt nước cuối cùng cho ngày mai, ngày mai và ngày mai... Phải cố bao nhiêu ngày mai nữa để ra khỏi cánh rừng này? Anh chưa biết... nhưng anh biết đích xác rằng anh phải gìn giữ một ngày mai. Vì thế, giờ đây anh phải ngủ tiếp giấc ngủ nữa, theo đúng phương cách của lính mùa chỉnh huấn chỉnh quân và đói thực phẩm: Lấy Ngủ bù Ăn.
Nắng cuối chiều nhạt. Bôn gối đầu lên ba-lô nhìn vòm lá chuyển màu. Ánh tím đỏ trên các phiến lá già đã ngả sang nâu và dưới các tàn lá thấp một thứ khói chàm mỏng như hơi sương luồn qua kẽ lá. Rừng rùng mình từng cơn tựa như nổi gió tựa như cất tiếng thở dài tựa như ớn lạnh sởn gai ốc và mỗi lần như vậy lá úa thi nhau lìa khỏi cành chao liệng như đám thuyền nhỏ trước khi đậu xuống. Những chiếc thuyền cỏn con màu đỏ tía màu vàng phai màu nâu ủ dột đẹp vẻ đẹp phù du khiến con ngươi thắc thỏm sợ hãi. Không gian bắt đầu nhuốm mùi hiểm nguy và nỗi kinh hoàng. Bôn ớn lạnh. Anh vội lấy tấm áo thu đông của tiểu đội trưởng mặc rồi mắc võng. Ðêm nay anh không thể ngủ dưới đất vì đất ẩn chứa một thế giới khác và từ thế giới ấy những hồn ma có thể tấn công anh. Mắc võng xong, Bôn mở khuy quần vừa đái vừa đi một vòng quanh võng để nước tiểu rắc một vành đai xú uế chống ma. Ðoạn, anh bỏ cả súng cả ba-lô lên võng rồi leo lên nằm. Trời bắt đầu tối, anh nhắm mắt lại:
Ngủ đi, ngủ thêm một giấc cho khỏe. Ngày mai ta phải đi một mạch hai mươi cây số không được nghỉ. Phải đi như thế hai hay ba ngày liền mới hy vọng gặp được người... Miễn là người của đằng mình... Không có gì ăn, cũng không đủ nước uống, phải lấy ngủ làm phương tiện duy nhất để phục hồi sức khỏe... Nào, ngủ đi...
Ý nghĩ đó thật rành mạch, quyết đoán, giống như mệnh lệnh khiến anh không còn nghĩ gì thêm. Anh chờ giấc ngủ tới. Nó không tới. Anh bắt đầu đếm từ số I đến 1000 rồi vòng trở lại, nhưng bất chợt một tiếng: Roạt vang lên kèm theo mùi hôi hắc. Bôn mở choàng mắt. Rừng đen kịt. Một con đại bàng đất vừa bay qua, để lại thứ mùi khó ngửi:
Tổ sư mày, đồ chết giẫm...
Anh thầm rủa con chim, nghe tim đập thình thịch. Chẳng bõ bèn gì con chim đêm mà tim anh đập nhịp mã hồi không sao ghìm nén. Bôn xấu hổ với chính mình:
Làm sao ta lại đổ đốn ra thế nhỉ? Ta đã qua bao nhiêu trận mạc, vác xác đồng đội ít nhất cũng bảy lần, chứng kiến cảnh chết chóc triền miên không nhớ rõ... Vậy mà giờ lại sợ tiếng chim đêm. Thật đúng là đồ con lừa... Hãy nhắm mắt ngủ đi...
Nhưng một chuỗi cười vang lên khành khạch ở góc rừng, phía dưới chân võng:
- Này anh lính, tôi đố anh ngủ được, cho dù anh đếm từ số một đến một triệu. Ðêm nay anh phải thức để tiếp chuyện tôi. Tôi chờ anh ở xó rừng này đã lâu.
Bôn tự bảo:
Vớ vẩn, mình chẳng quen ai ở vùng này. Toàn là chuyện tưởng tượng...
Anh nhắm mắt và bắt đầu đếm: 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9... Tiếng cười khành khạch lại vang lên, lần này ngay ở đầu võng và âm thanh rợn như tiếng dao cạo trên tinh nứa:
- Mở mắt ra. Không ngủ được đâu. Anh không thể tự lừa anh lại càng không thể trốn được tôi. Mở mắt ra, tôi đang ở đây và đang nhìn vào mặt anh.
Bôn kéo hai vạt võng trùm kín mặt nhưng hai bàn tay anh bỗng lạnh toát cứng đơ đau điếng như bị hai bàn tay bằng thép nắm chặt và bóng ma cúi xuống thổi vào mặt anh làn hơi giá. Trước tiên hai gò má anh buốt lạnh, rồi hai mi mắt anh tê cứng máu không còn luân chuyển, anh không còn điều khiển nổi và chúng bỗng dưng đờ đẫn mở ra như miệng con sò nướng chín:
- Có thế chứ?
Bóng ma cao giọng:
- Hãy mở mắt nhìn xem chúng ta đã gặp nhau ở đâu?
Một gương mặt trong suốt, xanh như lá mạ đang lửng lơ trước mặt anh, vầng trán rộng và nụ cười đầy riễu cợt:
- Nhớ ra chưa? Chúng ta đã có duyên hội ngộ mà?
Bôn lẩm bẩm:
- Không... Không thể nhớ...
Bóng ma giơ một bàn tay lên: Bàn tay phải chỉ có bốn ngón hiện rành rành từng đốt xương như tấm phim chụp X quang.
- Hãy nhìn bàn tay phải của tôi: Nó chỉ còn bốn ngón thôi và ngón cụt chính là ngón trỏ.
Bôn gật đầu:
- Ðúng, bàn tay anh chỉ còn bốn ngón nhưng tôi chẳng nhớ đã gặp anh ở đâu.
Bóng ma nói:
- Hãy lục thêm một lần trí nhớ. Anh cũng như tôi còn rất trẻ. Óc minh mẫn như tờ giấy trắng dễ dàng ghi nhận nhiều điều.
Bôn bắt đầu bực:
- Thôi đừng đánh đố, tôi không nhớ được là không nhớ được.
Bóng ma cười:
- Cha cha... Sao mà vô tư vậy? Dễ quên lắm vậy? Anh nhớ ngọn đồi Sao Trắng chứ?
- Nhớ. Ðồi Sao Trắng tức cứ điểm phía Tây Nam Bình Quới. Ðơn vị tôi đã diệt gọn quân địch trong một đêm. Sau trận ấy được tuyên dương đơn vị anh hùng và được thịt ba con bò khao quân.
Bóng ma lại cất tiếng cười khanh khách, điệu cười ròn rã như trẻ thơ như đau đớn như cay đắng:
- Sao, bữa cỗ khao quân đó có ngon không?
Bôn đáp:
- Ngon. Mấy tay đầu bếp pha nước tương chấm bò thui ngon tuyệt.
- Trong mùi thịt bò có ngửi thấy mùi thịt chúng tôi không đấy?
Anh trai tôi, chỉ huy đồn Sao Trắng cùng đồng đội của anh ấy đều đã chết vì Rốc-két của các anh. Tôi là kẻ hưởng ân huệ sau cùng.
Tôi đã hứng một tràng tiểu liên của anh khi tôi đứng trong góc kẹt giữa hai bức tường nhà kho... Anh vẫn nhớ hai bức tường ấy chứ? Chúng quét vôi vàng nên máu và óc tôi vọt bắn ra in nhòe nhoẹt như bức tranh màu. Trên chóp nhà kho cắm cây chong chóng chỉ hướng gió và sau lưng nhà kho chất lổng chổng những hòm gỗ rỗng. Anh đã bị ngã ở đó. Và lúc ấy, đứng trong góc kẹt nếu tôi vẩy một phát súng ngắn thì anh sẽ chết ngon lành, anh sẽ chẳng còn cơ hội lia một băng tiểu liên vào tôi...
Giọng kể của bóng ma đều đều, vừa như vui vẻ vừa như buồn rầu và gương mặt xanh rờn trong suốt đó cao bổng lên, mắt nheo lại ngắm nhìn anh:
- Anh bạn, giờ đã nhớ ra rồi chứ?
Bôn không đáp. Trí nhớ anh như thung lũng lấp dưới bao nhiêu than tro, bụi đá, sỏi đất những trận bom những luồng đạn pháo những chiến trường dằng dặc liên miên tên cứ điểm này chồng lên tên cứ điểm kia, con đường nhỏ đổ vào con đường lớn, các đoàn quân đi từ đông sang tây từ Bắc vào Nam rồi lại từ Nam quay ngược ra Bắc, anh làm sao nhớ được? Chừng như bóng ma đoán ra điều ấy, liền cất tiếng sẽ sàng:
- Anh còn nhớ gã trai nhỏ thó mặc bộ quần áo lính Dù đứng giữa hai bức tường nhà kho cứ điểm Sao Trắng, cái gã đeo cặp kính cận và giơ chiếc áo sơ mi trắng lên đầu?
Trong tâm trí Bôn vụt lên tiếng kêu:
- Giờ tôi đã nhớ...
Hình ảnh gã trai đeo cặp kính cận bỗng trồi dậy qua bao nhiêu địa tầng trong trí nhớ... Phải, lúc đó anh đã trượt ngã khi nhảy qua đống hòm gỗ phía sau nhà kho, anh vượt qua gian nhà sập mái, một kho thực phẩm đang cháy và sau đó chợt nhìn thấy gã trai nọ đứng trong khúc kẹt giữa hai bức tường, gã giương lên đầu vật gì đó trăng trắng và cặp mắt kính long lanh hướng về phía anh. Lúc đó anh không nghĩ ngợi gì đã lia một băng tiểu liên và tiếp tục chạy về phía trước, tiếp tục truy quét đám tàn quân theo tiếng hô của đồng đội:
- Tôi chính là gã trai mang cặp kính cận nhưng giờ đây tôi không mang chúng nữa... Chúng chẳng còn cần thiết dưới cõi âm...
Bôn lặng thinh. Anh hiểu rằng đã đến lúc kẻ ra đi vòng trở lại. Cái oan hồn kia sắp tính sổ với anh... Lúc đó, tại sao anh không đếm xỉa tới tấm áo sơ-mi giơ lên thay cho ngọn cờ trắng? Anh không biết. Có lẽ anh quên kỉ luật nhà binh, thứ lý thuyết chỉ đọc qua một lần. Có lẽ vì diễn biến trận đánh quá nhanh, anh không ngờ mình có thể gặp hàng binh... Cũng có thể vì trong trận đánh trước, đại đội của anh đã bị diệt quá nửa nên những kẻ sống sót không còn khả năng gìn giữ kỉ luật chiến trường... Cũng có thể lúc đó óc anh mê mụ vì tiếng đạn rốc-két, tiếng trung liên, tiểu liên, tiếng gào thét và tiếng hô xung phong, vì lửa vì khói vì những xác người đổ xuống và tất thảy làm thành bản nhạc siêu thặng kinh dị của chiến trường, thứ âm nhạc ở ngoài tất thảy.
Không một giao hưởng, một tấu khúc nào đạt tới bởi nó khiến con người mê đắm trong cơn say thù hận, chém giết... Không, không...
Anh không biết và anh cũng chẳng cần bào chữa cho mình. Anh nói:
- Tôi nhớ ra rồi... Nhưng chiến tranh là chiến tranh. Lúc các anh giội bom nghiến nhừ từng đại đội chúng tôi rồi quay về Sàigòn uống bia lạnh và ôm gái các anh có ngửi trong mùi bia mùi máu chúng tôi chăng? Ðừng hỏi những câu ngớ ngẩn. Muốn làm gì nhau cứ làm...
Gương mặt xanh rờn kia lướt lại gần:
- Anh nói đúng. Chiến tranh là chiến tranh. Anh trai tôi, người chỉ huy đồn Sao Trắng cũng sẽ bắn tới người lính Việt cộng cuối cùng nếu anh có thể... Nhưng tôi là gã trốn lính, là thằng lao công đào binh lên Sao Trắng thăm thân nhân trước lúc trở về Sàigòn.

Bàn tay bốn ngón lại giơ lên trước mắt Bôn:
- Anh hãy xem: Tôi đã chặt ngón tay đó với lưỡi rìu của một ông già Ê-đê khi đơn vị tôi đóng quân ở Ðắc Lắc. Lúc đó tôi nhập ngũ được hai tháng sau khi đã chạy chọt đủ kiểu mà không thoát nạn quân dịch. Vì tội ấy tôi bị tù năm năm, sau đó là ba năm lao công đào binh...
Bôn cắt lời:
- Lúc ấy tôi làm sao biết được bàn tay bốn ngón của anh?
Bóng ma gật đầu:
- Phải, nhưng tôi đã giơ cao tấm áo sơ-mi trắng lên đầu và hẳn anh biết đó là dấu hiệu quy hàng?
- Tôi cũng đã được học qua nhưng lúc đó tôi quên béng... Giá hẳn là mảnh cờ trắng cho thật rõ ràng đã đi một nhẽ... Ðằng này lại là tấm áo. Tôi biết đâu mà suy ra?
Bóng ma xanh rượt kia nhếch miệng cười buồn, chẳng phải tiếng cười khanh khách đầy thách thức riễu cợt như lúc trước:
- Tôi thấy anh thực thà... Quê anh ở đâu?
- Quê tôi...
Bôn định nói quê anh miền sơn dã, một xóm giáp Trường Sơn hẻo lánh và thơ mộng... nhưng anh chưa kịp mở miệng một bóng ma khác từ phía sau bóng ma xanh rờn kia chồm tới:
- Câm mồm... Ðã đến lúc mày trả mạng...
Một bóng ma vậm vạp, hung dữ, cao hơn bóng ma xanh nhợt kia cả cái đầu:
- Thằng sát nhân, tới phút mày phải đền em tao mạng sống.
Bôn thấy nửa mặt anh tê điếng như vừa bị cú đấm hiểm độc hoặc bị tọng một báng súng. Anh muốn bật trả lại cú đấm, anh muốn quơ tay lấy khẩu súng nhưng hai cánh tay anh đã tê cứng như đóng thành băng. Anh không động cựa được. Lúc đó, bóng ma ẻo lả kia lướt tới gần:
- Thôi đi anh... Chẳng để làm gì?
Bóng ma hung dữ gầm lên:
- Em ngu lắm... Không ai cao thượng với kẻ thù nhất là thứ kẻ thù ti tiện như bọn Cộng Sản.
- Em xin anh... Anh ta còn quá trẻ. Và anh ta chẳng được học hành.
- Không lý luận. Tao là lính và tao hành động theo cách lính.
Phía sau bóng ma đó, một lũ ma xô tới:
- Ðúng, bẻ cổ thằng sát nhân ấy đi.
- Rút lưỡi nó ra.
- Cho nó một nhát lê vào giữa tim... Mà thằng lính quê đó chẳng có tim đâu. Trong ngực nó chỉ có một quả cật bò hay cật lợn...
Ðám ma lính xông tới, hò hét, khạc hơi lạnh của tử địa vào mặt anh, tất cả giữ nguyên vóc dạng hình hài, trang phục lính. Bôn như ngửi thấy mùi khét của mồ hôi lẫn mùi máu đọng trên những vết thương của họ, mùi dầu chải tóc, mùi áo quần, mùi kẹo cao-su họ thường nhai... thứ mùi quen của bọn thù địch. Lũ ma bên kia chiến tuyến còn ghê rợn hơn lũ ngạ quỷ anh thấy trong các ngôi chùa bởi chúng không phải những hình ảnh do các huyền sử ghi tạc mà là những kẻ thù thật sự, và khi anh đã quên, chúng còn nhớ...
Chỉ mình ta, đơn thương độc mã, nhưng ta có súng và dẫu đông chúng vẫn chỉ là những hồn ma... Chiến đấu!...
Ý nghĩ đó bật lên trong tâm hồn phẫn nộ của anh, khiến máu anh vọt từ tim ra, lùa luồng khí nóng đi khắp cơ thể, sưởi ấm đôi tay cóng giá. Anh co bóp mấy lần hai bàn tay rồi nắm chặt, chặt đến đau điếng và sau động tác đó, những ngón tay anh lấy lại cảm giác bình thường. Bôn hét to:
- Chiến đấu... Chiến đấu...
Rút cây súng dưới lưng, anh nổ ba phát liền. Rừng đêm rung vang rào rào trút lá. Anh nghe tiếng lá rơi, tiếng chân thú nhỏ chạy xào xạc, tiếng đập cánh của lũ chim đêm trên các vòm cây. Lũ ma biến mất, cả đám ma hung hăng lẫn con ma ẻo lả có gương mặt xanh rờn.
- Chiến đấu...
Anh thét lên lần nữa, say sưa vì thắng lợi, vì sự nhục mạ được tẩy rửa:
- Tao sẽ cho chúng mày biết trong ngực tao có trái tim hay không.
Pằng, pằng, pằng... Ba phát nữa tiếp theo. Rừng lại rung âm vang vọng và lá trút ào ào khắp bốn bên. Ngớt tiếng súng, Bôn giương mắt nhìn quanh thấy đêm im lặng, đen như nhung, an toàn như những đêm xưa:
- Có thế chứ...
Anh cao giọng nói, nghe tiếng vọng lại như tiếng nhạc của thần rừng. Yên tâm, anh nằm xuống, tay chặn lên khẩu súng và tay kia cuốn vạt võng lên che bụng:
Giờ ta có thể ngủ một giấc cho đến sáng, và sớm mai, ta sẽ tiến hai mươi cây số về phía đông...
Nhưng toàn thân anh nóng sực, thần kinh anh căng thẳng như những sợi dây đàn vặn căng hết cỡ trong cuộc giao tranh khiến anh không thể chợp mắt. Anh lắng nghe tiếng vỏ cây rạn vỡ, tiếng những con bọ bay rè rè, tiếng chuột rừng chạy trên đám lá khô, tiếng chim đêm gõ mõ... Và chợt nhận ra hai tai anh giỏng lên nghe ngóng mọi tiếng động rừng đêm vì trong thâm tâm anh sợ hãi tiếng cười khanh khách của con ma có gương mặt xanh rờn:
Tại sao ta lại bắn nó? Cái gã ẻo lả đó. Nó đã giơ cao tấm áo trắng trên đầu. Rõ ràng ta nhìn thấy hai cánh tay gã giơ lên, vạt áo trắng thõng xuống che một phần mái tóc. Hình như óc ta chẳng kịp suy nghĩ trong khi tay ta như cỗ máy tự động bóp cò... Khốn nạn thật...
Anh biết con ma ẻo lả đó đáng sợ nhất vì nó đã tước đi vũ khí của anh. Anh không thể căm thù nó. Anh không thể xả súng bắn sáu phát liền vào nó như vừa bắn lũ ma lính đểu cáng kia. Anh sờ khẩu súng, khấn trời mau sáng và nếu lũ ma còn hiện hình xin hãy là lũ ma lính đồn Sao Trắng, bọn thù địch anh có thể đối đầu không ăn năn khiếp hãi, có thể xả súng khạc đạn hoặc có thể đái vọt vào mặt chúng dòng nước tiểu để xua chúng đi theo cách cổ truyền...
Nhưng trời còn lâu mới sáng và chừng nửa giờ sau, khi thần kinh anh bớt căng thẳng, khi gân cốt anh bắt đầu chùng xuống, giấc ngủ mơ hồ lướt tới một bàn tay lạnh buốt lại đặt lên trán anh:
- Sao, anh không ngủ được à?
Bôn mở mắt, thấy gương mặt xanh và nụ cười buồn:
- Tôi không có ý định hành hạ anh. Nhưng tôi không hiểu nổi việc anh làm. Tôi không hiểu được cái chết của tôi và giờ đây tôi muốn chúng ta trò chuyện...
Bôn ngồi nhỏm dậy. Anh biết nếu còn tiếp tục nằm anh sẽ chết ngạt bởi làn ánh sáng xanh rợn toát ra từ gương mặt trẻ trung kia, nó có thể là làn khí độc thoát ra từ những con hồ chứa thủy ngân hoặc những lọ độc dược bọn phù thủy thường dùng để tiêu diệt đối thủ:
- Hình như anh còn kém tuổi tôi? Ở nông thôn, người ta đăng lính sớm...
Bôn nói:
- Tôi đã bảo anh rồi: Chiến tranh là chiến tranh, không ai tính được trong lúc đạn réo bên tai, đạn cày trước mặt. Tôi chẳng thù oán gì anh, nhưng trời xui đất khiến anh lạc vào đồn Sao Trắng và tôi phải xử với anh như với kẻ thù.
- Tôi hiểu.
Bóng ma đáp nhẹ nhàng, không nhìn vào mặt anh mà hướng ánh mắt về phía trước:
- Ngay từ đầu tôi đã nói: Tôi chờ anh nơi xó rừng này để trò chuyện, tôi không tính nợ máu như những kẻ ân oán chốn giang hồ. Hãy yên tâm, tôi chẳng làm gì phương hại đến anh.
Bôn đáp:
- Tôi chẳng sợ. Anh muốn làm gì cứ việc làm.
- Ồ, sao anh lại cáu? Ðêm còn dài và chúng ta có thể chuyện trò thả sức... Anh có vợ chưa?
- Rồi.
Bôn đáp trong khi tiếng rên rỉ bật lên trong trái tim anh:
- Ðêm còn dài nhưng tôi muốn ngủ, tôi không muốn đối mặt anh, chuyện trò với anh. Không ai muốn đối thoại kẻ mình đã sát hại... Nhưng bóng ma dường như không biết tới tâm trạng của anh, tiếp tục cuộc nói chuyện một cách khoan dung:
- Dân miền núi các anh lấy vợ sớm thật... Như thế, anh cưới vợ năm mười chín tuổi?
- Mười bảy.
- Trời đất, thế vợ anh bao nhiêu?
- Cô ấy bằng tuổi tôi.
- Chị ấy xinh không?
- Vợ tôi đẹp như tiên, chẳng xấu xí như tôi.
- Anh không xấu dù anh chẳng đẹp... Anh có cặp mày chữ nhất và đôi mắt u uẩn như mắt dân Chàm. Chị ấy có viết thư cho anh không?
- Năm đầu tôi nhận được hai lá... Từ đó đến nay không có nữa.
- Bên các anh phương tiện thư tín khó khăn.
- Phải, chúng tôi không có viện trợ Mỹ. Chúng tôi không đủ thịt hộp, lương khô, sữa hộp, thuốc lá và thuốc men như quân địch.
- Nhưng đạn dược thì hẳn là nhiều.
- Cũng có đôi khi không đủ... Ðôi khi chúng tôi phải rút quân sớm vì không chuẩn bị đủ cơ số đạn... Nhất là B40 và B41.
- Các anh được nhận đạn của cả Liên Xô và Trung Quốc, sao thiếu được.
- Nhận của ai cũng mặc mẹ họ... Tôi không muốn nói mãi chuyện ấy...
Bôn nổi khùng vì tim anh đau thót, dường như cuộc nói chuyện với hồn ma kia là cuộc thôi miên dẫn anh vào độc đạo, càng đi hơi thở càng suy yếu ngột ngạt, tâm hồn anh càng tả tơi tan mủn như mảnh giấy báo dầm mưa... Anh cần phải rút khỏi cuộc đối thoại này trước khi trở thành xác chết:
- Thôi thôi, anh đi đi...
Anh đột ngột thét lên:
- Tôi đéo nói chuyện với anh nữa... Cuốn xéo đi đi đi...
Bốn bên, rừng lặp lại tiếng anh. Và những tiếng vang nghe rùng rợn, nghe ma quái như không còn là tiếng của chính anh mà là tiếng vọng từ hang sâu vực thẳm nào đó. Anh chộp khẩu súng, lên đạn giương về phía bóng ma:
- Ði đi... Tôi chẳng thù oán gì anh nhưng tôi không thể đối mặt anh... Ði đi, nếu không tôi bắn...
Anh nghe có tiếng cười khe khẽ, gương mặt xanh rờn kia không xao động:
- Ðạn không bắn thủng được hồn ma. Chúng tôi sẽ giữ mãi hình hài của chúng tôi lúc chết. Hãy nhìn xem: lỗ thủng trên trán tôi vẫn còn.
Bóng ma xáp gần, giơ ngón tay chỉ vào vầng trán rộng và Bôn thấy trên vầng trán đó lỗ thủng đen tròn viên đạn anh để lại.
Bóng ma tiếp tục nói:
- Tôi không làm hại anh, nhưng anh chẳng thể trốn tránh tôi. Chúng ta không thể chối bỏ hành động của chính mình, bất cứ ai cũng vậy... Tại sao anh lại bắn tôi lúc đó? Tôi đã giữ mạng sống cho anh, tôi đang đợi anh tới để nộp cờ hàng. Tôi biết chúng ta cùng nòi giống và lẽ ra chúng ta không nên làm cuộc chiến tranh thảm sầu, nồi da nấu thịt...
Bôn không rời mắt được cái lỗ thủng đen và tròn trên vầng trán xanh xao kia. Có những viên đạn khác nữa ở vị trí cao hơn đã bửa tung cái đầu gã trai khiến máu lẫn óc vọt lên hai bức tường. Cảnh tái hiện khiến anh kinh hãi:
Phải... lúc ấy mắt gã long lanh. Ta nhớ đôi mắt đầy thiện ý. Và giá như ta bước tới, gã sẽ bỏ tấm áo trắng kia xuống và ngoan ngoãn bước đi. Ta có thể nhốt tạm gã vào gian phòng nào đó rồi sau trận đánh thả gã về thành phố...

Những ý nghĩ ấy cày trong óc não anh những rạch cày buốt xót. Gã trai ẻo lả đó đã chết vì tay anh. Và khi thu dọn chiến trường nào ai còn để tâm tới bàn tay phải có bốn ngón của gã? Nào ai biết gã là kẻ phản chiến và lẽ ra gã còn có cơ hội được sống dưới ánh mặt trời... Anh thấy anh sắp tắt thở, liền kêu rống lên:
- Tôi không biết, tôi không biết... Lúc ấy tôi chẳng nhớ gì, và...
Lưỡi anh tắc lại, hơi thở yếu xìu, có lẽ anh sắp hết hơi và chỉ vài giờ nữa anh sẽ chết nếu tiếp tục bị con ma kia tra khảo:
Trời ơi, giá tiểu đội trưởng ở đây, giá có anh ấy bên ta lúc này ta sẽ chẳng còn khốn khổ. Tiểu đội trưởng là dân Hà Nội, anh ấy sẽ đủ lý lẽ để thuyết phục con ma thành phố kia, và biết cách bảo vệ ta...
Anh hối hận vì đã không lường trước khúc nhôi này, không đem tiểu đội trưởng theo mà chôn anh ấy lại góc rừng sát cứ điểm 327:
Lẽ ra ta phải cõng anh ấy theo... Giờ đây ta côi cút và anh ấy cũng côi cút...
Bóng ma xanh rờn kia vẫn đứng trước đầu súng, chẳng mảy may run sợ. Bôn nói tiếp, nghe giọng anh lạc hẳn đi, gần như tiếng van vỉ:
- Anh đi đi... Ði đi...
Bóng ma cất tiếng thở dài. Hơi thở cuốn theo làn gió lạnh. Làn gió đầy âm khí lướt qua mặt qua vai Bôn khiến toàn thân anh sởn gai ốc và sống lưng như muốn sụn xuống. Bôn biết anh sắp chìm vào cơn tê bại lúc trước nên nghiến răng bấm cò súng. Một tràng đạn rung giật rừng đêm, xô lắc đám cành cây, lá úa thi nhau trút đổ. Tiếng súng lắng, anh giương mắt nhìn: Bóng ma kia vọt lên cao như trái bóng của trẻ nhỏ như đám lông chim bay liệng giữa không trung. Anh biết rằng khoảnh khắc nữa, khi mùi thuốc súng tan lắng hoàn toàn, rừng im lặng hoàn toàn, nó sẽ lại nhẹ nhàng đáp xuống như con bướm, trước mặt anh, đưa cặp mắt ma trống rỗng nhìn anh, tiếp tục cuộc hỏi cung từ tốn và kinh rợn. Anh quỳ gối, mở khuy quần, rút bộ phận sinh dục giờ trở thành vũ khí tùy thân, tia nước tiểu về phía trước. Nhưng anh chẳng có nước uống nên nước tiểu tia ra một chút rồi tắc lại. Bôn thót bụng hòng vắt kiệt chút nước tiểu còn sót trong bọng đái, dù là máu anh cũng muốn nó biến thành thứ nước khai nồng vào lúc này, nhưng mọi cố gắng của anh đều vô hiệu. Anh đành cài khuy quần, ngồi nhìn bóng ma lững lờ giữa không gian đen thẳm của rừng đêm, tay nắm chặt khẩu súng nhưng không dám bắn thêm một phát đạn nào vì còn phải để dành phòng hờ bọn thám báo... Rồi anh nghe tiếng cười của bóng ma từ trên cao vọng xuống. Rồi anh thấy hai ống đùi nó đong đưa, đong đưa, hai ống đùi không đầu gối không cẳng chân bàn chân... Chẳng loài ma nào có chân cả. Cặp đùi nhẹ bỗng đung đưa trong không gian đôi lúc như sắp lao vào mặt anh đôi lúc lại lảng xa xa, tiến về hướng khác... Mồ hôi anh toát ra, cơn căng thẳng khiến đầu óc anh lúc nóng sừng sực, lúc tê dại... Dần dần, anh thấy hai đầu gối không còn trụ vững, xương bánh chè long dần, rã rời lục cục như mấy mảnh gỗ trong ống quần, tay anh hạ dần khẩu súng xuống. Khi cây súng nằm gọn trong lòng võng, hai cánh tay anh cũng mất hết cảm giác cứng đờ, buốt lạnh. Anh ngã chúi mặt bụng úp lên cây súng. Phía trên lưng anh một bàn tay lướt dọc như muốn làm động tác xoa vuốt, bàn tay xương xẩu chỉ còn bốn ngón, ngón trỏ đã bị tiện cụt đi.
Sớm hôm sau, Bôn thức dậy trong tư thế kì cục ấy. Anh nằm úp mặt xuống võng, chổng mông lên trời hai gối quỳ dưới bụng và khẩu súng dưới gối. Ðầu gối anh thâm tím, quần áo tẩm sũng mồ hôi lẫn sương lạnh toát, tim đập đau nhói từng hồi. Bôn nhảy xuống, tháo vong, mở bi-đông tự cho phép mình uống hai ngụm nước để lấy sức đoạn vặn chặt nắp bi-đông đeo vào lưng. Anh khoác ba-lô quay lại nơi chôn tiểu đội trưởng. Anh đi một mạch, không quay đầu lại phía sau, không nghỉ. Sự thúc hối sống còn khiến chân anh bước vùn vụt như kẻ nhập đồng. Ðoạn đường hôm qua đi được không dài lại không có khúc rẽ nên hơn hai tiếng đồng hồ sau anh đã quay lại đúng góc rừng giáp cứ điểm 327. Bôn tìm đám lá cây khắc chữ X. Ở giữa chúng, mồ tiểu đội trưởng đã lút dưới tầng lá khộp. Bôn vẫn nhớ cự ly từ ngôi mộ đến các gốc cây xung quanh. Cào lớp lá chẳng bao lâu anh thấy nấm đất vuông hiện lên. Anh bỏ ba-lô sang bên, rút dao găm đào đất. Lưỡi dao gọt theo hình chữ nhật rồi dần đưa sâu vào bên trong. khi lưỡi dao vừa chạm tới lớp tăng liệm cũng là lúc trên đầu anh vang lên tiếng kền kền: Một, hai, ba rồi bốn con bay tới, lượn vòng trên các vòm cây, lúc chao bên phải, lúc chao bên trái, mắt chúng quăm quắm theo dõi lưỡi dao dưới tay anh. Bôn nhặt mấy cục đất to ném:
- Cút mẹ mày đi... Tổ sư lũ khốn...
Câu chửi vừa dứt anh bật ho một tràng dài. Ngắt cơn ho Bôn mới biết mùi tử thi đã bốc lên xộc thẳng vào họng anh khiến anh nghẹt thở. Lũ kền kền ngửi thấy mùi tử thi trước anh. Chúng là bạn đồng hành với cái chết, đất chiến trường nơi nào cũng có chúng dù núi cao hay bình nguyên, thung lũng hay cát cồn ven biển. Lần đầu Bôn thấy chúng khi anh cùng Tấn và Kha, hai cậu bạn Nghệ Tĩnh đi hái rau rừng. Qua núi Xiêng Mai bất chợt lũ chim ăn xác vọt bay qua đầu họ, vừa bay vừa buông tiếng kêu ken két như kim loại cọ vào nhau và cánh chúng quạt ra thứ gió nồng nặc mùi thịt người thối khẳm... Ba người lính đứng chết lặng một hồi vì sợ. Ðó là lần đầu họ bắt gặp sứ giả của Tử thần. Lát sau, bình tĩnh lại, họ quay về góc núi kín nơi lũ kền kền vừa bốc bay lên. Góc núi ấy khuất sau những tầng dây leo um tùm xanh ngợp kết thành bức bình phong khổng lồ treo lủng liểng những chùm hoa đỏ nhợt nhị đen, lá dày nổi gân thẩm trông như đúc bằng nhựa màu lục. Thứ lá ấy đụng phải da sẽ sưng rộp trong khoảnh khắc và sau đó vài ngày chúng làm thành thứ mủ vàng đục rất tanh. Họ đã nếm mùi nên phải thận trọng tìm lối đi vòng để tới được bãi mồi của lũ chim ăn xác. Càng tới gần, mùi tử thi bốc lên càng ngột ngạt. Trong không khí tẩm liễm thứ mùi ghê rợn ấy, những toán kền kền khác tiếp tục bay lên, không giống như lũ chim lúc trước vừa bay vừa cất tiếng kêu ầm ĩ mà là những con chim béo mụp, nặng nề, vỗ cánh chậm chạp. Vì quá béo, chúng không còn kêu được, chỉ thì thoảng phát ra một tiếng: Két cụt lủn. Mắt chúng cũng lờ đờ hơn những con kền kền đói. Chúng bay qua mặt tốp lính, từng con một, dửng dưng, không thèm trốn tránh, không sợ hãi, tiếng đập cánh nặng nề của chúng làm không gian trong xó núi thêm cô đặc mùi tử địa và nỗi kinh hoàng. Ba người tới tận nơi: Một góc đất rộng chừng vài trăm thước vuông rải rác xương và những mảnh áo quần bị xé rách, quần áo lính đeo trên các tử thi chưa kịp mục nhưng bị xé rách tươm vì nanh thú dữ và mỏ chim. Không con thú nào còn lại đó vì thịt đã thối khắm. Chỉ còn lại lũ kền kền. Vài con đại bàng đất nghiêng ngó cái đầu trụi bẩn thỉu xấu xí...
Không hố bom. Không vết mìn nổ... Vậy những người lính chết vì lý do gì? Những chiếc đầu lâu lẫn những chiếc ba-lô. Bôn đếm hơn ba chục đầu lâu: một trung đội. Họ chết vì lý do nào? Hai người bạn nhìn anh và tất cả những ánh mắt đều chung nỗi hoài nghi. Không ai trả lời ai. Không ai dám lên tiếng. Hơn ba chục chiếc đầu lâu bị tha đi tha lại, lăn lóc, biến dạng, mảnh tóc mảnh thịt dính lươm nhươm... Ðó là những đồng đội của họ, sống cuộc sống gần gụi với họ và có thể là ảnh tượng của chính họ trong một ngày mai rủi ro nguy khốn... Ba người không ai bảo ai câm lặng đi bẻ cành khô, kiếm lá khô quấn thành nùi lớn rồi ném lên đống xương chưa kịp rã hết thịt thối. Phải ngót bốn tiếng đồng hồ họ mới kiếm nổi số củi cành ước lượng tạm đủ cho cuộc hỏa thiêu. Họ cũng chẳng thể nấn ná lâu hơn vì mặt trời bắt đầu xuống núi. Kha châm mồi lửa ném vào đống củi cành. Lúc đó, Bôn và Tấn mới lên tiếng. Cả hai lẩm nhẩm khấn:
- Anh em sống khôn chết thiêng xin chứng giám cho chúng tôi. Chúng tôi không đào đâu ra xăng bột, cũng chẳng kiếm đủ củi khô để hỏa thiêu anh em thật sạch. Xin cầu trời khẩn phật cho vong hồn anh em được siêu thăng, sớm được đầu thai kiếp khác để hưởng cuộc sống an bình... Rồi ba người đứng cúi đầu mặc niệm đám đồng đội vô danh. Trong lúc lửa đã lan từ núm mồi sang các đám củi cành và các thân gỗ khô ải. Lửa bắt đầu bốc cao, Kha bảo:
- Về thôi.
Sau tiếng hô của Kha, cả ba người quay lưng chạy. Họ chạy như điên như rồ như ma quỷ hoặc thần dịch hạch đuổi sau lưng. Họ cắm đầu phóng qua các bụi gai, theo nhau trượt như con cù trên các dốc núi, nhảy qua các bờ vực mà lúc bình thường họ không dám liều mạng đưa chân... Rồi họ trở về đơn vị, không một ngọn rau trong tay, ảnh tượng của những người đồng đội xấu số vẫn bám chặt vào óc não, mùi tử thi bám trên da thịt quần áo, nỗi kinh hoàng ngấm vào từng lỗ chân lông. Cả ba ngã dụi giữa lán, thở muốn đứt hơi, chẳng kịp nói với bạn hữu lời nào và cứ thế òa lên khóc...
Kỷ niệm cũ quay về khiến Bôn sững sờ trong giây lát. Anh nhắm mắt rồi lại mở mắt mấy lượt liên tiếp như để xua đuổi hình ảnh góc núi Xiêng Mai, những tử thi lăn lóc phía sau tấm bình phong xanh lục khổng lồ treo những chùm hoa đỏ nhợt... Hồi lâu, khi đã thật sự trấn tĩnh, anh ngước nhìn lũ kền kền đậu trên cây đang hau háu chờ đợi... Cũng loài chim kinh tởm này, nhưng giờ đây không có Tấn, không có Kha chỉ mình anh đơn thương độc mã chống lại chúng:
Phải tấn công trước, lấy tấn công làm chiến lược...
Anh vơ một vốc cục đất to đứng lên vừa hét vừa liệng về phía lũ chim ăn xác:
- Cút... Cút mẹ mày đi... Cút cút... Cút cút cút...
Lũ kền kền kêu thét, vỗ cánh bay lên nhưng sau vài vòng lượn chúng lại theo nhau đáp xuống một cành cây chỉ cao hơn đầu anh vài sải tay.
Mặt trời đã lên cao, hơi nóng lan dần trong các tầng lá. Bôn quỳ xuống tiếp tục đào. Anh phải đi khỏi rừng này, tiến về phía Ðông, tiến về phía sự sống. Anh không được phép chần chừ. Mặc kệ mùi tử thi và lũ chim ăn xác. Mùi tử thi nào có thấm gì với nỗi cô đơn và sự khiếp hãi đêm qua anh phải chịu? Chỉ cần sự hiện diện của tiểu đội trưởng mọi bóng ma thù địch sẽ lùi xa và anh sẽ an toàn. Cả hai sẽ cùng tiến về phía Ðông. Tiểu đội trưởng, hồn ma chiến thắng sẽ đánh bại lũ ma đồn Sao Trắng sẽ xua đuổi hồn ma xanh xao ẻo lả, sẽ bảo trợ và đem lại nguồn sức mạnh cho anh. Và anh, kẻ yêu anh ấy với một tình yêu chung thủy sẽ mang anh ấy về với đồng bằng... Họ sẽ bên nhau, cho tới phút vinh quang ấy...
Mười lăm phút sau anh đã xốc được tử thi khỏi huyệt. Lũ kền kền bắt đầu nháo nhác kêu, theo nhau lượn vòng trên đầu anh. Hơi gió Tây lùa mạnh hơn bốc mùi tử thi và đưa âm vang tiếng kêu của lũ chim ăn xác, tiếng kêu hoan hỉ hội hè.
- Cút... Cút... Cút ú út...
Bôn hét. Nhưng tiếng hét của anh đã yếu, lọt thỏm giữa rừng già chẳng ảnh hưởng gì tới lũ chim đang khép chặt vòng bay, mắt sáng nhoáng nhăm nhăm nhìn con mồi, mỏ và móng dường như đang sẵn sàng nhay rỉa. Buột chặt một cành cây. Khi đã nắm trong tay thứ vũ khí mới anh vươn thẳng lưng nhìn lũ chim thù địch:
- Ðịt mẹ chúng mày. Tưởng cỗ dọn sẵn rồi hả? Cỗ đây, cỗ đây, cỗ đây, cỗ sẵn rồi đây...
Anh cất tiếng chửi tục rất to và cứ mỗi nhịp hô, anh lại quật cành cây khiến lũ kền kền phải vọt lên cao. Bôn dừng tay gài dao vào lưng, thở một lúc. Khi đã hoàn hơi anh tháo nút dù buộc nơi cổ tử thi, rút trong túi quần đoạn dây dù khác rồi mở đầu tấm tăng thắt hai góc thành hai nút tai lợn, buộc vào mỗi nút một đầu dây, hai đầu kia nối lại vừa vặn tròng qua vai. Như thế, anh có thể kéo xác chết đi một cách dễ dàng trong khi gương mặt vẫn để hở. Anh đã tính, cần để gương mặt tiểu đội trưởng ra ngoài cho gió tản bớt mùi thối và cho anh bớt lẻ loi. Gương mặt tiểu đội trưởng đen sạm, một màu đen âm u khiến anh không dám nhìn lâu. Không ngờ màu da đổi nhanh đến thế. Trong trí nhớ của anh chỉ duy nhất một gương mặt trắng trẻo tươi cười cặp môi duyên dáng và mấy nốt ruồi tụ như quần đảo nơi gò má.
Giá có chút phấn văn công và thỏi son là đủ làm anh ấy tươi đẹp như cũ... Ước gì ta có...
Bôn từng gặp mấy cô văn công quân khu vào một sớm tinh khôi khi các nàng xuống suối đánh răng rửa mặt. Nước da tái mét lẫn làn môi trắng nhợt của các nàng khiến anh sửng sốt. Ðêm qua dưới ánh đèn sân khấu các nàng lộng lẫy như tiên giáng thế và suốt đêm hình ảnh các nàng hiện lên trong giấc mơ của anh hòa trộn với hình ảnh Miên, người vợ nhan sắc ở quê nhà... Bôn đã biết phép màu nhiệm của hóa trang, giờ anh muốn thực thi phép màu ấy trên gương mặt tiểu đội trưởng... Nhưng rủi ro, trong tay anh chẳng có vật liệu gì. Nếu đây là vùng đất sét đỏ anh có thể dùng bột đất sét thay phấn. Giá đây là vùng hang động anh có thể kiếm vài thỏi nhũ nghiền thành bột trắng phủ lên mặt tử thi. Nhưng đây là rừng khộp chỉ lá rụng và lá rụng. Rừng khộp. Vô tích sự làm sao?
Anh suy tính một lúc trong khi đám kền kền bắt đầu cất cánh lượn, dường như nỗi sợ hãi đã qua và mùi hấp dẫn của con mồi kéo chúng về phía anh.
- Roạt...
Bôn cầm cành cây quất mạnh rồi quỳ xuống mở ba-lô. Anh vừa nhớ tới ống thuốc đánh răng dùng dở. Ống thuốc hiệu Côn-gác cô giao liên trạm 72 cho anh sau một ngày anh đưa cô đi hái rau rừng và giặt hộ cô chiếc võng lẫn tấm chăn dù... Phải, không phấn không son không bột đất sét đỏ không nhũ đá nhưng anh có thứ kem trắng tuyệt vời, thơm tuyệt vời, nó có thể trả lại một phần màu sắc cũ cho gương mặt người đã mất. Anh móc ống thuốc đánh răng lên, mở nắp và bắt đầu hóa trang cho gương mặt chết. Thoạt tiên, anh quét thuốc lên cặp môi thâm xịt của tử thi lấy ngón tay miết đều cho chất kem phủ kín, rồi tới hai má và vầng trán. Còn lại khoảng cằm với phần da cổ xám ngoét, anh ngẫm nghĩ vài giây rồi quyết định bóp thêm kem xoa thật mỏng. Sau chót, anh bôi thêm lần nữa chút kem dọc sống mũi và khoảng giữa hai tràng mày. Ống thuốc hết nhẵn:
Cóc cần, xuống bếp xin bọn cấp dưỡng nắm muối đánh răng càng chắc. Miễn là tìm được đường về...
Bôn đá vỏ hộp kem đánh răng đi, thắt ba-lô rồi quàng sợi dây dù qua vai, lẩm nhẩm:
- Tiểu đội trưởng ơi em đưa anh cùng đi tìm đơn vị... Sống khôn chết thiêng xin anh hãy chỉ đúng lối ra rừng...
Anh nhìn lần nữa gương mặt tử thi trắng bốp rồi quay lưng đi.
Xác chết trượt trên lớp lá khô khá dễ dàng, hoặc linh hồn thân yêu kia đã phù trợ cho anh thêm sức mạnh... Bôn đi một mạch không nghỉ, quên rằng anh chẳng có hột cơm nào trong bụng đã ba ngày ba đêm và mấy ngụm nước anh tự cho phép mình uống sớm nay đã từ lâu tiêu tán. Vừa đi, Bôn vừa liếm những giọt mồ hôi trên môi dường như những giọt nước mặn từ chính cơ thể anh tiết ra giờ đây là nước lấy từ hồ lô của Ðức Phật Như Lai có thể nuôi dưỡng anh ba ngàn ngày không cần ăn uống. Bôn cắm cúi đi cho tới lúc mặt trời sắp lặn, cảm thấy vật gì đó đang lôi tử thi lại. Quay đầu nhìn anh thấy hai con kền kền đậu trên khúc chân tử thi đang cố sức xé tấm tăng:
- Lũ đểu... Lũ khốn nạn này...
Anh buộc chửi. Lũ kền kền đã rượt theo anh suốt đường đi nhưng không dám xà xuống mà chuyền trên các ngọn cây. Thi thoảng anh vẫn canh chừng và vẫn đếm đủ bốn con như bọn yêu quái tháp tùng hay đúng hơn lũ mã tà canh ngục. Chỉ chừng hơn một giờ qua, vì mệt, anh không còn ngoái đầu lại nữa, chúng đã lặng lẽ đậu xuống tử thi, không sợ hãi chẳng kiêng dè cái con người đang sống cách chúng già một sải tay. Bôn dừng lại, bỏ sợi dây trên vai xuống. Hai con chim tinh khôn bay vọt lên ngọn cây, không kêu một tiếng mắt chúng gườm gườm nhìn thẳng vào mắt anh đầu chúng ngó nghiêng một cách trâng tráo:
A bây giờ chúng sẽ đánh lén sau lưng ta. Bắt đầu cuộc chiến tranh du kích... Sẽ thật khó khăn với lũ khốn nạn này...
Anh rút dao chặt một lô cành, lấy dây buộc thành nùi như kiểu dân chài kết chà cho cá trú. Ðoạn anh cột mớ cành cây lên tử thi. Lúc anh làm xong, trời cũng vừa tắt nắng. Gió dịu lại và đám lá úa quay chầm chậm trong ánh chạng vạng của rừng. Cơn khát bắt đầu thức dậy.
Phải ngủ ngay. Ngủ ngay tức khắc. Bi-đông chỉ còn vài ngụm nước cho ngày mai và ngày kia... Rồi còn có thể sau ngày kia nữa. Hôm nay ta đi chưa nổi hai chục cây số. Chắc chắn không thể lần ra nước trong miền rừng này. Ta phải ngủ. Ðêm nay, chẳng con ma nào dám quấy nhiễu ta. Ðêm nay sẽ là đêm phục sinh cho sức khỏe và lòng tin. Ngày mai đi tiếp...
Anh nghĩ, và tức khắc hai mi mắt anh nhíu lại:
Có mắc võng không nhỉ? Thôi, mắc võng làm gì. Ta ngủ cạnh tiểu đội trưởng. Ðể anh ấy nằm cuối gió. Chẳng còn gì đáng sợ đêm nay...
Anh bò qua đám cành cây ngụy trang trên tử thi để tìm chỗ nằm nơi đầu gió. Rồi buông súng và ba-lô xuống đám lá rụng, anh quài một cánh tay lên phía đầu tử thi và ngủ ngay tức khắc...
Hôm sau, không phải nắng xiên hay cành cây gẫy đánh thức Bôn mà là nhát mổ của lũ chim ăn xác khiến anh kêu thét. Ngồi bật dậy, anh thấy ngay cánh tay đang ròng ròng chảy máu:
Bỏ mẹ, nhiễm trùng mất... Nhiễm trùng...
Ý nghĩ đó vụt đến anh tỉnh ngủ tức khắc. Anh vội mở ba-lô lấy túi thuốc cá nhân, tìm lọ thuốc sát trùng bôi lên vết thương. Khi lỗ thịt bị đứt đã thấm đầy thuốc, anh lấy bông lau khô cả thuốc lẫn máu rồi tiếp tục bôi lượt thuốc khác lên. Vết thương bắt đầu đông máu. Anh bôi chút mỡ chống nhiễm trùng, áp miếng gạc lên rồi băng vết thương lại. Xong xuôi, Bôn gỡ mớ cành cây ngụy trang trên tử thi. Ðám cành vừa quăng xuống, ba con kền kền nối nhau bay lên vừa bay chúng vừa kêu quang quác như lũ quạ già. Trên gối xác chết tấm tăng đã bị xé rách. Vết xé dài non hai gang. Ðó là cửa chính cho lũ kền kền vào ăn tiệc. Chắc chắn chúng đã bắt đầu bữa cỗ bằng vết thương trên đùi trái. Lúc trời sáng, một trong bốn con chim định tấn công cái đầu tử thi nên đã mổ vào tay anh.
Khổ thân anh, chúng đã dứt bao nhiêu miếng thịt trên xác anh rồi? Em biết làm cách nào để chống lại chúng đây?
Bôn bắt đầu sợ. Lũ chim đã luồn dưới đám cành ngụy trang im lặng xé rách tấm tăng và ăn thịt người đồng đội của anh trong khi anh đang ngủ. Một kẻ đói khát và suy yếu ngủ cũng gần như một tử thi... Ðám cành cây kia chẳng thể chống lại chúng. Vậy anh biết tìm thứ vũ khí nào đây? Anh không thể hò hét vì tiếng hét của anh không còn làm chúng khiếp sợ. Anh chẳng còn đủ sức hét. Anh cũng không thể dùng cành lá xua đuổi vì trong khi kéo tử thi về phía đông anh không thể ngoái lại phía tây. Và dù có ngoái lại, anh cũng không còn đủ sức cầm cành cây. Anh đói. Tệ hơn nữa, anh khát. Cơn khát nguôi dịu trong giấc ngủ giờ bắt đầu cào cấu, mặt trời và gió càng nóng lên bao nhiêu, khát càng dữ bấy nhiêu. Bôn đặt tay lên bi-đông nước, trong lúc mắt không rời lũ kền kền. Cả bốn con cùng đậu một hướng trên cành cây và những cặp mắt thủy tinh của chúng nhìn anh chăm chú, thản nhiên, không mảy may hồ nghi, không mảy may chùn bước rằng đây là một cuộc đối đầu và kẻ thù của chúng là cái sinh vật đang đứng dưới đất kia, to xác nhưng thiểu não và gần như bất lực vì đói khát và đơn lẻ... Bôn rùng mình. Anh hiểu rằng giờ đây lũ chim ăn xác là kẻ thù của anh, kẻ thù chưa từng tưởng tượng ngay cả trong giấc mơ ngông cuồng nhất, nhưng chính vì thế chúng khủng khiếp. Anh không còn gì để chống lại chúng, để giữ gìn người đồng đội, ngoài chính bản thân anh:
Trước hết ta phải uống một chút. Một ngụm. Một ngụm thôi...
Ý nghĩ ấy đứt nửa chừng. Anh mở nắp bi-đông nhấp từng giọt, từng giọt để cảm nhận sự hồi sinh một cách chậm rãi:
Một ngụm rồi. Ta được quyền uống thêm ngụm nữa. Còn ngày mai. Còn ngày kia a a a...
Cái âm tiết cuối cùng của chữ ngày kia ngân dài trong anh như dòng suối chảy như nỗi hoài nghi như giấc mơ xa xôi chập chờn. Bôn đưa mắt nhìn xung quanh. Rừng và rừng. Cây và cây. Những đám lá rụng đã mục nằm dưới lớp lá khô bên trên, những chiếc lá mới rụng còn nguyên vẹn đầy đặn chưa bị sâu ăn kiến đục còn giữ đủ các đường gân nổi lẫn sắc màu rực rỡ... Trước và sau. Bên phải và bên trái. Sau thân cây này là thân cây kia. Sau hàng này là hàng khác. Bên vòm lá cao là vòm lá thấp. Rừng chập trùng vây bủa rừng chăng lưới quây thành rừng mê cung bát quái trận đồ không cho con người lối thoát. Bao năm đi lính, giờ anh mới thấy khiếp sợ rừng, dù anh vốn là dân miền sơn dã:
Tiểu đội trưởng ơi sống khôn chết thiêng xin anh chỉ lối đưa đường. Em chỉ còn ngụm nước cầm hơi, biết làm sao chống chọi lũ chim ăn xác?
Bôn khấn thầm. Anh không dám bật thành lời vì điều đó khiến anh tiêu hao năng lượng. Anh phải dè sẻn chút sức lực còn lại để theo đuổi hành trình. Ðoạn anh nhìn đám cành cây tính toán: Không thể dùng cành cây phủ xác chết nhưng có thể gỡ những cành cây còn tươi đan chiếc rọ, nói đúng hơn là dùng từng khúc dây dù cột chúng thành chiếc rọ chụp lên đầu tử thi để bảo vệ cặp mắt người đã chết. Mọi linh hồn khi tách rời thân xác bay lên nhờ ánh sáng chiếu rọi từ cặp mắt mà tìm được lối vào thiên đường hoặc cửa ngõ đầu thai. Một tử thi không đầu hoặc bị khoét mắt linh hồn sẽ lang thang vĩnh cửu trong cõi u tì và dễ rơi vào tay loài ma quỷ.
Không, anh không thể để lũ kền kền chạm tới đôi mắt tiểu đội trưởng cũng như không thể để chúng moi tim hay móc mắt chính anh. Bôn ngồi xuống, moi cuốn dây dù nhỏ trong túi quần. Tiểu đội trưởng và đồng đội vẫn gọi anh là Thằng Bôn hàng xén vì anh thường tích trữ các đồ lặt vặt. Cái cửa hàng xén của anh giờ thật hữu ích. Với cuốn dây dù nhỏ, anh cắt thành nhiều khúc gút các cành cây lại theo kiểu đan rổ hai lớp. Vì cành khộp cứng quèo nên hì hục hơn hai giờ đồng hồ liền Bôn mới đan xong một thứ méo mó, chẳng ra rọ cũng không ra rổ nhưng tựu trung có hai lớp cành cây chằng ngang chằng dọc khiến lũ kền kền không thể rúc đầu qua. Anh chụp thứ rọ cồng kềnh ấy lên đầu tử thi, kiếm mấy đoạn dây lớn và chắc hơn cột chiếc rọ với hai vai, luồn dây vài lần qua nách cho chắc chắn. Sau cùng, khi anh kéo thử xác chết thấy chiếc rọ lúc lắc dặt dẹo nhưng luôn luôn chụp cứng bên ngoài cái đầu giống thứ mũ có lưới sắt các kiếm sĩ thường đội trong cuộc tỉ thí. Hoàn toàn an tâm với sáng chế của mình, anh nhìn lũ kền kền thầm chửi:
Con mẹ chúng mày, giờ cứ việc bay theo...
Lũ chim ăn xác vẫn đứng thành đội ngũ trên cành khộp, nhìn anh bằng cái nhìn nửa như vô cảm nửa như đe dọa. Nắng đã soi ngang mày. Bôn tiếp tục cuộc hành trình về phía đông, phía hy vọng và sự sống. Chân anh sục vào đám lá khô như lưỡi cày sục vào rãnh cày. Có lẽ hai chân anh bắt đầu phù nề nên bước đi nặng hơn, chậm hơn, chệnh choạng:
Sao thế nhỉ? Sao mình đi như thằng say rượu?
Anh thầm hỏi. Nhưng không thể trả lời vì không còn sức nghĩ tiếp. Anh níu lấy sợi dây trên vai, cúi đầu nhắm hướng đông mà bước, bất luận lên dốc hay xuống dốc, nền rừng phẳng hay gồ ghề... Ðôi lúc, anh không bước mà buông thân lăn xuống bờ vực khiến cả đống lá khô lẫn tử thi cùng đổ ụp xuống theo. Bôn đi như thế cho tới lúc nắng soi sau gáy, chợt thấy mỗi bước chân như có sợi dây níu ngang như có bàn tay vô hình kéo lại. Anh quay đầu nhìn về phía sau: Lũ kền kền vẫn bám trên tử thi. Một con đứng trên lỗ vải bị xé rách đang rúc mỏ rỉa còn ba con kia đã chui hẳn vào trong tấm tăng khiến tấm vải phập phồng:
Vẫn lũ khốn nạn ấy. Nhưng chúng không đủ nặng để cản chân ta... Hay hồn ma xanh rờn bữa trước? Không, không, kể từ khi mang tiểu đội trưởng đi theo, ta ngủ mỗi giấc mười hai mười ba tiếng liền chẳng mộng mị cũng không bóng ma trêu chọc. Vậy vì lý do nào?
Bôn tự hỏi. Rồi bất chợt anh không nhìn lũ chim mà nhìn xuống bàn tay mình. Hai bàn tay đang run. Run không ngừng. Giống hệt chứng run tay của những người già sắp kề miệng lỗ:
Khốn nạn... Sao ta lại mắc bệnh run tay vào tuổi này? Ở quê nhà, chỉ những người ngoài tám mươi tám mươi nhăm mới mắc chứng đó...
Anh ngắm thêm lúc nữa thấy cả hai cánh tay cũng đã run theo và rồi hai đầu gối cũng run như để làm thành bản hòa tấu run rẩy. Anh chợt hiểu mình suy kiệt. Ðói. Khát. Căng. Anh ngồi xuống, nhìn hai gối lẫn hai cánh tay tiếp tục run bần bật không sao ghìm giữ được. Dường như chúng không còn thuộc về anh, chúng là những sinh vật độc lập tự hành động theo ý muốn của chúng. Anh muốn khóc. Nỗi buồn tràn phủ trái tim anh, như mây giông giăng kín bầu trời ngày bão lớn. Hình như hai giọt nước mắt vừa trào lên mi. Chắc là hai giọt lệ bé nhỏ bởi chúng không lăn xuống gò má, chỉ vừa nhấp ướt vành mi bỏng rát. Sau đó, mắt anh nhíp lại, không sao mở nổi. Mặt trời chiếu vào gáy anh làn hơi nóng như lửa phả ra từ miệng lò nung gạch nơi quê nhà. Anh hình dung làn khói trắng bay trên vòm trời những đêm thanh bình xa ngái những đêm trong suốt lưa thưa sao sáng bếp lửa nhà ai dậy lên mùi nếp rang ngào gừng mật và ông thợ cả trông lò gạch rút từ làn tre ra chiếc đùi dê nướng... Giấc ngủ ngày thứ tư đã bắt đầu với giấc mơ giữa nắng, giấc mơ yên lành và ngon ngọt, bầu trời lắc rắc sao, mùi ngào ngạt của nếp rang tẩm mật lẫn mùi thịt dê thui uống với thứ rượu nếp già... Có lẽ anh đã ngủ liền hai mươi bốn giờ hoặc lâu hơn nữa để khi anh thức dậy mặt trời đã đứng ngọ và không khí oi nồng của rừng khộp trộn lẫn mùi tử thi thành một khí quyển đặc sệt hãi hùng. Lũ kền kền không còn nhìn anh với con mắt thù hằn nữa. Những cặp mắt thủy tinh của chúng hướng về anh bình tĩnh, ung dung, kiên nhẫn. Cả bốn con cùng đứng trên tử thi xếp thành đội ngũ. Cả bốn con hoặc vừa rỉa lông, gãi mỏ hoặc nghển cổ nhìn anh. Và Bôn chợt hiểu rằng ánh mắt hiền hòa bình thản kia là ánh mắt bọn đao phủ chờ phút hành quyết kẻ tử tù, rằng giờ đây trước mắt chúng anh chẳng còn là đối thủ mà chỉ là con mồi dự trữ, cái khối thịt không nhúc nhích hơn một ngày đêm kia chắc chắn là một thây ma và sẽ tới lúc chuyển mùi. Một nỗi tức giận ghê gớm bùng lên tựa hồ dòng sinh lực còn ẩn chứa nơi sâu thẳm tâm hồn anh bất chợt vọt lên:
- Lũ khốn...
Anh bật tiếng chửi, lao cả thân mình về phía lũ chim.
- Roạt... oạt...
Cả bốn con chim cùng cất cánh bay nhưng chẳng hề vãi một tiếng kêu. Cử chỉ đột ngột của anh không làm cho chúng hoảng sợ mà chỉ khiến chúng kinh ngạc. Lũ chim lượn vài vòng rồi đáp xuống đậu trên mô đất nhỏ cách anh vài sải tay. Ở đó, chúng tiếp tục rỉa lông rỉa cánh như để trêu chọc anh tiếp tục nhìn anh với cái nhìn bình thản chăm chú đầy vẻ xác tín của những kẻ có chủ quyền.
- Con mẹ chúng mày...
Bôn cất tiếng chửi lần thứ hai nhưng lần này tiếng anh không cất nổi qua vòm họng bởi các âm thanh đã dính bết nơi cuống lưỡi. Cơn khát dai dẳng khiến các bộ phận trong miệng anh trở nên khô cứng. Họng anh nóng, đau rát khiến anh không thể tiếp tục há ra thêm một lần nữa. Anh bước loạng choạng về phía mô đất, vồ lũ chim. Lần này, anh ngã sấp mặt xuống mô đất còn lũ chim bay trở lại đậu trên tử thi:
Lũ khốn nạn... Con mẹ chúng mày...
Anh cất tiếng chửi lần thứ ba, lần này chỉ là tiếng chửi thầm trong óc não. Rồi anh tiếp tục vồ bắt lũ kền kền. Anh không hiểu vì sao anh làm như vậy nhưng nỗi căm giận không buông tha anh và anh nhất quyết phải vồ được chúng, phải bóp được chúng trong tay...
Nhưng anh cứ vồ trượt mãi. Rồi mặt anh đập vào mũi giầy xác chết. Anh không còn thấy đau nhưng thấy nhục, các giác quan anh gần như tê liệt nên cảm giác đau gần như mất hẳn, nhưng ý thức về sự nhục nhã vẫn còn. Như dòng lũ mỗi lúc mỗi đầy tràn, nỗi nhục dâng lên dìm đắm tâm hồn anh. Phải một lúc lâu anh mới lồm cồm bò dậy nổi, nhìn lũ chim ăn xác, những con vật bình thường chẳng ai đếm xỉa, loài chim bẩn thỉu nhờm tởm giờ đây bỗng trở thành kẻ thù hùng mạnh hơn anh, khống chế anh. Anh con người đói khát lẻ loi đã chiến bại. Cuộc chiến đấu tuyệt vọng của anh đã diễn ra trước những cặp thủy tinh ngạo nghễ nhạo báng của chúng:
... Không. Không. Không. Không. Không...
Tiếng thét vọt dậy trong tim anh. Nhưng ngay cả tiếng thét cũng chỉ còn khe khẽ, mơ hồ như tiếng rung của sợi đàn bầu vọng qua thung lũng. Anh cứ nằm úp mặt xuống đất hồi lâu như thế để thở, và lắng nghe nỗi uất hận nguôi dần:
Tấn ơi Kha ơi Quý ơi Thanh ơi Trấn ơi Tường ơi Phiến ơi Trù ơi... Các cậu ở đâu hãy mau đến với tôi... Tôi không muốn chết tôi không thể chết. Tôi phải đưa tiểu đội trưởng ra khỏi rừng...
Anh chống tay từ từ ngồi dậy, từ từ choàng sợi dây qua vai. Mọi cử chỉ thật chậm chạp. Hai tay anh không còn run lật bật như hôm qua nhưng chúng chệnh choạng và từng động tác phải dò dẫm nghe ngóng như cử động của một người già trong cơn bệnh trọng.
Tiểu đội trưởng ơi em cùng anh lại tiến về đồng bằng, về đồng bằng... Chúng ta phải thoát khỏi nơi đây. Em sẽ chôn anh gần đồng bằng và ngày nào đó khi đất nước yên...
Những ý nghĩ ấy nhẹ nhàng như làn khói mỏng bốc bay trong óc não anh. Lâng lâng ánh nắng đỉnh đèo, bình nguyên bình nguyên sáng láng những chân trời xanh rờn sóng biển... Anh kéo tử thi và đặt một bàn chân về phía trước, khi cảm thấy đất đã chạm vào gan bàn chân đó anh tiếp tục đưa bàn chân kia lên... Tiến bước. Sợi dây dù cọ riết vào hai vai anh, nhưng da đã tê anh chẳng còn thấy đau hay rát. Tiến bước. Tiến về phía đông. Tiến về đồng bằng.
Bôn không còn nhớ anh đã đi được bao lâu. Toàn bộ cảm thức và sinh lực trong con người anh chỉ còn để điều khiển hai cẳng chân đặt hai bàn chân lần lượt xuống mặt đất, để chúng trụ được dưới thân xác anh, để thân xác anh không rời tuột sợi dây kéo tử thi và toàn thể các bộ phận ấy còn di chuyển được về phía trước. Anh đã nhấp nốt giọt nước cuối cùng và quẳng chiếc bi-đông vào bụi cây ven lối. Giờ thì chẳng còn ước mong được gì thêm ngoài giấc ngủ. Anh tiến bước trong khi hai mắt anh dấp dính ngủ. Khi chân anh không đưa nổi về phía trước anh đổ kềnh xuống như thân chuối bị chặt và chìm vào giấc ngủ đen ngòm. Giấc ngủ không mộng mị như vực tối, hun hút như hang sâu. Sáng hôm sau những chiếc móng sắc của lũ kền kền quắp vào ngực anh làm anh tỉnh giấc. Anh vớ chiếc mũ cố quật vào chúng, nhưng cử chỉ của anh quá chậm và quá yếu nên lũ kền kền đã kịp bay sang đậu lên tử thi. Chiếc mũ lăn xuống: Anh chậm chạp bò tới nhặt mũ đội rồi chống hai tay vào gối đứng lên. Choàng sợi dây kéo tử thi qua vai anh tiếp tục đưa chân về phía trước: tiến về phía đông. Những chùm nắng sớm xuyên qua tán lá rọi thẳng vào hai mắt anh. Cảm giác ấm nóng khiến anh khoan khoái. Anh vừa bước vừa lim dim và trong khoảng khắc đó cây cầu vòng đa sắc của tuổi thơ hiện lên, cây cầu vòng sau những cơn mưa rào đầu hạ:
Giao ơi Thịnh ơi Tốn ơi Nguyên ơi Dư ơi Yêm ơi Minh ơi Quang ơi Tạo ơi, các cậu ở đâu bây giờ? Bao giờ chúng ta gặp được nhau. Bao giờ nhỉ?
Anh lại cất tiếng run rẩy sẽ sàng trong tâm tưởng và tiếng gọi ấy triệu hồi những sớm mai cỏ ướt đẫm sương những sớm mai long lanh rộn ràng chim hót lũ trai trẻ ôm nhau vật lộn đùa nghịch trên cỏ thằng bóp vai thằng đấm lưng thằng bóp dái nhau xem đứa nào có hai hột cà to nhất... Những thanh âm của ban mai xa ngái ngân nga trong anh, đu đưa bông lan chuông nơi góc từng một khoảnh rừng mơ mộng suối chảy lá reo chẳng phải thứ rừng khộp khô nẻ chết chóc chỉ tiếng kêu của lũ chim ăn xác. Bông lan chuông tím đung đưa, đung đưa mãi cho tới lúc anh không còn bước nổi và anh ngã gục mặt vùi trong đám lá mục thiếp đi. Ngày thứ bảy anh thức dậy đã non trưa, lũ kền kền đang moi ruột tiểu đội trưởng ra ngoài giằng xé. Lỗ thủng trên tấm tăng toang hoang. Lũ chim vừa xé các khúc ruột vừa ken két kêu dường như chúng không chỉ ăn cỗ mà còn biến bữa tiệc thành chốn vui chơi đùa cợt:
- Ðịt con mẹ chúng... mày...
Anh thầm cất tiếng chửi nhưng ngay tiếng chửi thầm cũng không bật ra nổi, chúng như những tàn tro tơi tả rơi xuống. Cơn uất hận tựa làn hơi độc không thoát ra được khiến Bôn tức thở, xây xẩm mặt mày. Anh lướt tới, dùng mũ quật lũ chim nhưng tay anh không còn giơ nổi nên anh đành buông thõng tay nhìn những con vật ghê tởm và nước mắt anh từ từ lăn ra. Lần này, có hai giọt lăn xuống gò má. Ðã mấy ngày anh không còn nước uống. Những giọt nước mắt ấy hẳn đã chắt ra từ chính máu anh: Anh đã thua. Anh đã thua. Anh đặt hai cánh tay lên đùi. Nước mắt anh đã cạn rồi. Và tại sao anh lại lãng phí chúng vì những con chim ghê tởm kia? Nếu tiểu đội trưởng còn sống, ắt hẳn anh ấy sẽ mỉm cười: Ðấy chẳng phải cách thức của đàn ông...
Một chiếc lá khộp đỏ ối bỗng rời cành quay lộn mấy vòng trước mắt Bôn rồi mới rơi xuống. Hẳn đó chính là vong hồn tiểu đội trưởng ra dấu hiệu để nhắc nhở anh. Anh phải tiếp tục đi.
Ta phải đi. Không thể thua cuộc... Không thể thua...
Bôn đeo ba-lô đội mũ rồi khoác sợi dây dù qua vai. Giờ đây nó là vật nặng nhất vì bi-đông nước lẫn khẩu súng anh đã ném bỏ. Anh dò dẫm đặt từng bước, từng bước, nhích tử thi theo. Và từng bước anh lần lượt điểm tên những chàng trai cùng đăng lính một lần, cùng tiểu đội, cùng trung đội, cùng đại đội:
... Ðỉnh ơi Nghĩa ơi Sinh ơi Khánh ơi Hạnh ơi Phát ơi Thước ơi Toàn ơi Tân ơi Doãn ơi Hưng ơi Sơn ơi Hùng ơi Chi ơi...
Những chiếc lá khộp màu nâu màu vàng chanh màu cam màu mận theo nhau rơi xuống trước mặt anh, sau lưng anh, rải rác lên tử thi đang bị lũ kền kền cấu xé. Dường như anh sắp ngã dường như anh sắp ngủ dường như sắp rơi xuống một dòng sông màu chì không cầu không thuyền không sóng nước phẳng lặng như gương rồi anh sẽ chìm dần chìm mãi mãi:
Mình chết mất... Chết trong cái rừng khộp chó đẻ này. Mẹ ơi Cha ơi Miên ơi...
Anh kinh ngạc khi thấy cả ba người anh yêu nhất trên đời đều đứng như ba bóng ma bên kia bờ con sông màu chì không cầu không thuyền không sóng. Họ chẳng trả lời anh, chẳng giơ tay vẫy, cũng chẳng biểu lộ một tín hiệu nhỏ nhoi nào để anh hiểu rằng họ đã nghe anh gọi. Họ đứng như ba cái bóng, dửng dưng, vô cảm với những cặp mắt rỗng.
Mẹ ơi, cha ơi, Miên ơi... Tôi chết mất...
Trong tâm hồn anh có những giọt lệ từ từ lăn chảy. Chúng giống những giọt sương trong thung lũng ban mai... Tại sao nước mắt giống như sương khi con người tự khóc thương mình? Anh không hiểu. Và nỗi băn khoăn ấy lơ lửng bay theo anh như những sợi bồ công anh trong lúc anh thu hết tàn lực nhích từng bước về phía trước.
Mặt trời càng lên cao, hơi thở anh càng chìm xuống. Vào lúc hai mí mắt anh sắp dính tịt lại anh chợt nhìn thấy một người lính lấp ló sau những đám lá khộp đang quay đảo. Một tiếng gọi giật róng vang tới:
- Anh em ơi, người đằng mình... Có người đằng mình...
Tiếp theo là tiếng lao xao rất quen thuộc của đoàn quân, tiếng chân bước trên lá khô, tiếng lách cách va đập, giọng nói hòa trộn...
Ai thế nhỉ? Ai giống như Na như Quốc như Ðường như Mai như Nha như Ðảng như Tuấn như Huân như Hạc như Thống? Anh em ơi, tôi đây, người đằng mình đây... Tiểu đội trưởng ơi, chúng ta thoát rồi. Chúng ta đã gặp đồng đội. Lũ kền kền không thể rỉa mắt anh được nữa. Linh hồn anh với đôi mắt sáng sẽ bay về phía thiên đàng nơi những sớm mai trong lành những sớm mai rộn ràng tiếng chim rì rào suối hát và lũ trai vô tư vui đùa trên cỏ...
Sau những ý nghĩ đó, anh chợt nhớ tới lũ kền kền, bầy chim thù nghịch đã hành hạ anh suốt cuộc hành trình:
... Ðịt con mẹ... chúng... mày nhé...
Lần này câu chửi đã vọt ra được, dù chỉ trong tâm tưởng. Sau câu chửi đó anh được giải thoát, người anh nhẹ hổng hân hoan và anh chẳng còn hay biết gì nữa...
Mười hai hôm sau Bôn tỉnh dậy trong y viện quân đoàn. Tiểu đoàn anh tám trăm tám mươi người chỉ còn lại một trăm lẻ bảy. Một đại đội thuộc tiểu đoàn khác đã bắt gặp anh vừa lúc anh ngã ngất đi, kéo theo một tử thi bị lũ kền kền rỉa chỉ còn sót hai vai và cái đầu. Họ đã chôn tiểu đội trưởng ngay tại bìa rừng khộp.
Ở đó, còn năm trăm thước nữa là xuống đồng bằng.
23/11/1998
Dương Thu Hương
Theo http://vietnamthuquan.eu/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Đỉnh cao chói lọi 5XXXX

Đỉnh cao chói lọi 5 NGƯỜI ANH EM (4) Nói rồi ông nhanh nhảu ra lệnh cho trợ lý. Anh này lục tìm cuốn danh bạ đơn vị, hí hoáy tẩy chữ Nôn...