Thứ Hai, 27 tháng 1, 2025

Tiểu thuyết vô đề 2 XXXX

Tiểu thuyết vô đề 2

Chương 8

Tôi mơ thấy một chàng trai có gương mặt vui vẻ dắt tôi qua cánh đồng tường vi. Mặt trời đã lên nhưng sương trắng chưa tan bay lang thang như ước vọng của kẻ si cuồng. Bốn bề xung quanh, hương nồng đậm, hoa tường vi nở mê man cho tới tận chân mây. Hai chúng tôi im lặng, mài miệt bước đi. Chợt một tiếng gọi dóng dả khiến tôi bừng tỉnh:

- Quân, dậy mau không thì mày sẽ chậm tàu!

Chật vật lắm tôi mới kiếm được một chỗ ngồi... Ngay trên đầu tôi, đung đưa đôi chân to như chân voi và dơ dáy của một cô buôn chuyến. Cô ta mắc võng ngay toa tàu, rồi cứ nằm há miệng ngáy, mặc cho kẻ qua người lại. Con tàu thời chiến giống bát cơm chộp giật trong cơn đói lầm than, khốn cùng. Tàu chỉ đỗ ở ga xép năm phút. Khách đi tàu chen lẫn nhau, đạp lên những bãi phân lổn nhổn rác và đá, đạp lên các túi xách, ba-lô, sọt đựng hàng, đạp cả lên lưng và chân nhau... Người ta cố phải tìm được một chỗ ngồi, dù trên ghế hay dưới sàn đầu toa, nước tiểu tràn lênh láng bốc mùi khai lợm. Những chiếc ghế gỗ cứng, long lở, nhem nhuốc vết dao cứa và nhựa hắc ín. Ở cửa: cái còn, cái mất, phủ đầy bụi lẫn muối than. Tàu sơn loang lổ màu rêu ngụy trang.

Một người đàn ông gày gò, mặt đen nhẻm, huých tôi vào sát thành toa:

- Nhờ anh tí nhá.

Ông ta ghé mông ngồi xuống đồng thời đặt kê nửa chiếc bao tải nặng trĩu lên đùi tôi:

- Thông cảm tí nhá.

Tôi nói:

- Việc gì khó, tôi sẵn sàng giúp ông. Nhưng đi đường dài, mà đặt bao tải nặng như cùm sắt thì làm sao chịu nổi?

Ông ta nhăn nhó:

- Bát. Toàn bát ăn cơm. Để dưới sàn vỡ mất.

Tôi bảo:

- Phải tìm cách thu xếp chứ?

Ông ta lắc đáu quầy quậy:

- Anh thông cảm, vỡ mất, ở vùng tôi, bom phá vỡ hết. Nhiều nhà phải ăn cơm bằng gáo dừa!

Tôi dịu giọng:

- Yên trí, tôi sẽ giúp ông.

Thương lượng với mấy cô buôn chuyến, tôi xếp được tải bát giữa những cuộn chiếu cói và sắn khô. Người đàn ông sung sướng nhoẻn miệng cười. Hai hàm răng trắng làm sáng bừng gương mặt gầy choắt, đen như nhọ than.

Ông ta thở phào:

- May quá là may.

Đoạn, rút trong túi dết ra một ổ bánh mì khô cứng, ông ta bẻ làm đôi mời tôi:

Làm một miếng cho đỡ đói lòng.

Tôi lắc đầu:

- Cảm ơn, tôi vừa ăn cơm no.

Người đàn ông hể hả, cầm bánh ăn. Miếng bánh mì đã có vết mốc. Tôi nhìn những lằn gân nổi chằng chịt trên cổ ông ta, cả hai bàn tay khô khẳng như rê duỗi... Trong chiến trường, có lúc đói trắng mắt, đói rã xương, mà lại có lúc thực phẩm dồi dào, ngập đũa ngập bát. Nhưng cái đói bình thường của người dân hậu phương là thứ đói triền miên vô tận!

Thấy tôi nhìn, người đàn ông nói vồn vã:

- Tôi hãy còn cái bánh nữa trong túi, anh ăn nhá?

Tôi vui vẻ đáp:

- Không, tôi nhìn cái mụn ruồi trên cổ ông. Nó giống hệt mụn ruồi của bố tôi.

Người đàn ông cười hề hề, đoạn cúi xuống cẩn thận nhặt từng mẩu bánh vụn rơi trên đùi, bỏ vào miệng. Xong xuôi, ông ta khoanh tay trước bụng, nhắm mắt ngủ. Chỉ một lát sau, tiếng ngáy đã cất lên đều đặn.

Con tàu thét lên hồi còi dài, nhưng vẫn chưa chuyển bánh. Cô buôn chuyến nằm võng trên đầu tôi nói mê:

- Trả tiền tao ngay... Không cho khất được. Biết phiên chợ sau mày còn hay bom nó cắt hộ khẩu rồi... Trả tao...

Cô ta nói rành rẽ khiến đám buôn chuyến xung quanh phì cười.

Tàu rú hồi còi thứ hai. Một nhân viên hỏa xa bước vào toa:

- Yêu cầu đồng bào lùi ra... yêu cầu lùi ra...

Anh ta nói liên tục:

- Dẹp cho tôi một lối đi, yêu cầu...

Đám khách xô đẩy nhau, dạt sang hai phía, nhường đường cho anh ta. Một việc miễn cưỡng. Tuy nhiên, bộ đồng phục ngành hỏa xa, chiếc mũ kê-pi mới và chiếc túi giả da đeo bên hông khiến tấm thân lom khom của anh ta cũng có phần nào oai vệ. Phía sau anh ta, hai người đàn ông bước theo. Cả hai đều to béo, nhưng một người lùn, một người cao. ông lùn đeo kính gọng vàng, ông cao đeo kính cận dầy như trôn chén.

- Nào, nào... dẹp vào... dẹp vào lấy lối...

Người nhân viên hỏa xa tới dãy ghế đối diện với dãy ghế tôi ngồi. Ở dó, đã có hai hành khách đi từ ga nào chẳng rõ. Khi tôi lên tàu, họ đang ngủ, đầu ngoẹo vào nhau, mũ cối úp lên mặt. Cả hai đều mặc quân phục cũ. Chàng nhân viên hỏa xa đập vào vai họ:

- Dậy, dậy....

Hai thanh niên bừng tỉnh, giương những con mắt đỏ kè nhìn xung quanh. Khi nhận ra người đứng trước mặt, họ bỗng ngồi thẳng lên. Người nhân viên hỏa xa nói lạnh lùng:

- Yêu cầu cho kiểm tra vé.

Cả hai thanh niên đều giữ khư khư mũ cối trước bụng, người nọ đưa mắt nhìn người kia. Cả vẻ mặt lẫn toàn thân họ toát ra vẻ khúm núm:

- Dạ... thưa đồng chí... dạ...

Người soát vé nhắc lại:

- Yêu cầu cho kiểm tra vé...

Hai người đàn ông đeo kính vẫn im lặng quan sát từ đầu bỗng cùng lên tiếng:

- Thôi thôi...

Nhân viên nhà ga bảo hai thanh niên:

- Về phòng vé giải quyết.

Đoạn, anh ta quay lại cúi dầu một cách lễ phép nói:

- Xin hai đồng chí cho ý kiến: ngồi đây có được không?

Người đàn ông lùn gật đầu:

- Được

Chàng nhân viên hỏa xa nói tiếp:

- Dạ, có cần gì xin các đồng chí tìm tôi tại phòng vé. Tôi sẵn sàng phục vụ.

Người đàn ông lùn gật đầu:

- Được rồi.

Nhân viên hỏa xa nói:

- Tôi xin phép được đi ạ?....

Vì phải cúi xuống nói với người lùn một cách kính cẩn, trông bộ dạng anh ta hệt như thằng gù có bướu lưng. Người đàn ông lùn sẵng giọng:

- Được rồi, cần gì tôi sẽ báo...

Anh chàng nhân viên hỏa xa cúi đầu chào lần nữa rồi Hai người đàn ông không cớ hành lý gì đáng kể, ngoài một chiếc túi du lịch cỡ nhỏ chắc đựng đồ ăn. Không ai dám ngồi chen thêm vào ghế của họ. Những con người béo múp, trắng như đế nhốt lâu ngày trong bao diêm trở thành bậc chúa tể vô danh giữa đám đông.

Người ta bắt đầu liếc nhìn họ một cách rụt rè, hoặc sợ hãi, hoặc muốn lấy lòng. Ngay đám buôn chuyến trâng tráo là thế cũng không dám thản nhiên buông những lời thô tục. Không khí trong toa tàu bớt ồn ĩ hẳn đi... Có một thứ quyền lực không tên khống chế mọi người!

Con tàu rít lên hồi còi thứ ba, xô lắc rồi chuyển bánh. Hai người đàn ông tựa dầu vào thành toa, nhìn nhau. Ông lùn đeo kính gọng vàng cười ha hả:

- Thấy chưa? Cậu đã thấy chưa?...

Người cao lớn gật dầu, im lặng với vẻ như chờ đợi.

Người lùn nới tiếp:

- Cuộc đời không nhàm chán, mịt mù như văn chương, báo chí của các cậu. Chỉ bước lên toa tàu này mươi phút đã rõ.

Người đàn ông đeo kính cận nói:

- Chính vì muốn thấy rõ nên tôi mới theo cậu đi chuyến tàu chợ này. Chưa chi vợ tôi nó đã đe: - - - Liệu đấy, đem rệp về nhà thì tôi tống khứ!

Người đàn ông lùn cười:

- Vợ là kẻ thù không chính thức của mọi người đàn ông ha... ha... ha... Nhưng chúng ta không thể loại bỏ. Bây giờ trở lại vấn đề cậu quan tâm.

Người đàn ông cao lớn hỏi:

- Nội dung và hình thức.

Người đàn ông lùn gật đầu:

- Chính thế. Tôi khỏi cần bố trí diễn các tiểu phẩm làm minh chứng. Trước mặt chúng ta, vừa mới đây đã xảy ra một ví dụ hiển nhiên. Cậu hãy nhớ lại: Hai thằng trốn vé tàu gọi cậu nhân viên hỏa xa là đồng chí. Cậu nhân viên hỏa xa cũng gọi chúng ta là đồng chí. Nhưng thực chất mối quan hệ thứ nhất là mối quan hệ giữa những kẻ phạm pháp với người thừa hành pháp luật. Mối quan hệ thứ hai là quan hệ đầy tớ với ông chủ. Nói rõ thêm: cậu nhân viên kia chỉ là đầy tớ của đầy tớ chúng ta... Đúng chưa?... Vậy danh từ đồng chí là cái vỏ. Một hình thức chứa đựng những nội dung khác biệt nhau: Xét phương diện ngữ-nghĩa, đó là sự ngụy trá, - Xét phương diện lịch sử, đó là sự thích ứng, - Xét phương diện thực tiễn, đó là một mánh khóe của các nhà cai trị.

Người cao lớn đưa tay sửa gọng kính, lắc đầu:

- Trong xã hội văn minh, người ta phải tìm cách khắc chế sự bất-tương-đồng giữa hình thức và nội dung.

Người đàn ông lùn nhìn vào mặt bạn, lại cười ha hả:

- Cậu ngây thơ thật! Không phải lúc nào chúng ta cũng cần đến một xã hội văn minh.

Người đàn ông cao lớn nói:

- Tôi không hiểu.

Người đàn ông lùn diễu cợt:

- Tôi không hiểu... tôi không hiểu... Đừng nói câu đó khi tuổi ngoại ngũ tuần. Văn minh là con đường cực nhọc. Chúng ta lại thiếu thời gian. Cuộc đời chúng ta ngắn ngủi. Phải tìm kiếm vinh quang bằng con đường khác.

Người đàn ông cao lớn nhăn mũi:

- Cậu có những ý tưởng tàn nhẫn.

Người đàn ông lùn cười:

- Phẩm chất đầu tiên cần thiết cho các nhà cầm quyền là tàn nhẫn. Cậu giống như đàn bà, duy cảm bệnh hoạn!

Người cao lớn nói:

- Tôi giống tôi.

Người lùn vẫn cười:

- Cậu thấy con đà điểu chưa'!... Khi gặp ác thú tiến đến, nó rúc đầu vào cát. Nó tưởng cát sẽ khắc chế dược hiện thực.

Người đàn ông cao lớn bảo:

- Nhưng chúng ta đã ra đi vì lý tưởng.

Người đàn ông lùn gật đầu quả quyết:

- Đúng. Đó là sự thực không thể chối cãi...

Rồi ông ta lại cười.

Lần này tôi thấy rõ hàm răng ông ta ám khói thuốc vàng vàng, lại hơi chìa ra phía trước. Mũi ông ta tẹt, hai lỗ mũi trống hoác. Có lẽ vật giá tri nhất trên con người ông ta là chiếc gọng kính bằng vàng nguyên chất. Sức chinh phục lớn nhất ở ông ta là cái vẻ tự tin pha lẫn diễu cợt chớt nhả của một thằng ôn con lõi đời. Ông ta nói tiếp:

- Tôi và cậu, và nhiều người khác nữa, chúng ta đã ra đi vì lý tưởng. Nhưng đó là những ý nghĩ năm mười bảy tuổi. Vào lứa tuổi năm mươi, nó chỉ là những kỷ niệm mốc meo. Lý tưởng đó, đơn giản là bánh thánh phát cho lũ trẻ vị thành niên. Muốn chúng mặc áo thầy tu, mặc áo lính hay áo cảnh sát quốc gia cũng chỉ cần dùng bấy nhiêu từ.

Người đàn ông cao lớn nói:

- Không ít người nghĩ như thế. Nhưng...

Người đàn ông lùn cắt lời:

- Danh từ cũng như mọi vật: có lúc nảy sinh, có lúc lụi tàn.

Người đàn ông cao lớn hỏi:

- Vậy năm tôi với cậu rời Quảng trị ra đi, cái gì nảy sinh, cái gì đã lụi tàn?

Người đàn ông lùn đáp:

- Hồi ấy chúng ta mười lăm tuổi, tâm hồn và cách mạng đều tươi non. Suốt cuộc hành trình, chúng ta luôn miệng hát bài Đồng Chí.. Gì nhỉ?... "Quê hương anh nước mặn đồng chua. làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá..." Lời hay tuyệt, phải không? Nhưng qua thời gian đó, nó đã trổ bông kết trái. Giờ, tới lúc lụi tàn. Đó là qui luật. Cách mạng cũng như tình yêu, có nảy sinh, có thối rữa. Nhưng cách mạng thối rữa nhanh hơn ái tình...Đồng chí…. Khi thực chất mối quan hệ giữa những người cùng tham dự vào một trận tuyến không còn là đồng chí nữa thì các nhà cầm quyền cần phổ biến danh từ ấy một cách rộng rãi và ầm ĩ hơn... Đó chính là bổn phận của các cậu các nhà văn hóa và giáo dục cao cả. Người ta trả lương cho các cậu chính vì lẽ đó.

Ông ta ngửa cổ lên cười. Rồi rút một điếu thuốc, châm lửa hút. Người đàn ông cao lớn ngập ngừng:

- Có những hạt nhân có lý trong điều cậu nói... Nhưng mà...

Người đàn ông lùn cướp lời:

- Nhưng mà không chịu nổi, đúng không?...

Ông ta cười tiếp. Hình như ông ta có điều gì vui vẻ lắm và cuộc chuyện trò chỉ là cái cớ để bùng nổ nhưng trận cười vô tiền khoáng hậu. Tới lượt người đàn ông cao lớn châm thuốc. Hai người thi nhau thả khói. Họ im lặng hồi lâu.

Trong toa chỉ còn vài người đàn ông cùng tôi theo dõi câu chuyện. Đám đàn bà buôn chuyến đã há hốc mồm ra ngủ. Tiếng bánh sắt nghiến trên đường rầy buồn tẻ vô cùng. Chợt người đàn ông lùn hỏi:

- Cậu có đem bia theo không đấy?

Người kia gật đầu:

- Có. Đã khát rồi à?

Người đàn ông lùn lắc đầu:

- Không. Tí nữa ta uống.

Người cao lớn mỉm cười:

- Đã muốn đi tàu chợ xem dân chúng sống ra sao mà lại còn phải đem theo đồ hộp!?

Người đàn ông lùn cười xúyt xoa:

- Tôi yếu bụng. Trình độ vệ sinh ăn uống của dân ta ở vào loại man rợ nhất nhì thế giới. Nước lã ở các nơi bên Tây Âu sạch hơn nước lọc giải khát đóng chai và hộp ở bên ta.

Người đàn ông cao lớn cười mát:

- Cậu thật mâu thuẫn! Vừa muốn hưởng tiện nghi của nền văn minh vừa không muốn thiết chế một xã hội văn minh!?

- Thiết chế một xã hội văn minh là việc khó. Nhưng bảo đảm đời sống văn minh cho một nhóm người là việc dễ. Tôi đã bảo cậu rằng văn minh là con đường gai góc, tốn phí thời giờ lại phải chia xẻ quyền lực. Đối với một dân tộc ấu trĩ như dân ta, tìm cho họ một tôn giáo thích hợp, dẫn dắt họ đến lễ đài vinh quang bằng con đường ngắn nhất, dễ trăm lần hơn dạy họ văn minh...

Người đàn ông cao lớn nheo mắt:

- Cậu trắng trợn thế?...

Người lùn cười hề hề:

- Sự thật nào mà không trắng trợn?... Cậu cứ thử đặt điạ vị của cậu, vào vị thế của một ông vua... Lúc ấy, cậu sẽ khoái đứng trên lễ đài duyệt binh hơn lọ mọ trong triều đình để tìm kiếm các phát minh về một giống lúa mới hay một qui trình sản xuất mới. Đấy, cái nền văn minh của cậu bắt buộc các ông vua phải lọ mọ trong triều, phải gặp gỡ ve vuốt lũ trí thức gàn dở, kiêu ngạo... Còn đứng trên lễ đài, cờ xí rợp trời, lưỡi lê tuốt trần sáng lóe, súng đại bác gầm thét... đó là niềm thụ hưởng tối cao của quyền lực, - tiền bạc, và ái tình cũng không sánh được... Cho nên, chúng ta cần tôn giáo...

Người đàn ông cao lớn nói:

- Thế mà ít nhất cũng dăm bảy lần tôi nghe cậu trích dẫn câu nói của Lê-nin: Tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân.

Người đàn ông lùn cười cợt:

- Cậu đến lạ! Tôi là giáo sư. Khi đứng trên bục giảng, tôi phải giảng bài đúng yêu cầu. Bọn sinh viên chúng cần ăn những thứ thực phẩm ấy, cũng như cần học thuộc lòng danh từ lý tưởng... Chúng ta không phải bọn chíp hôi... Vả lại, đừng cố chấp. Nếu đúng tôn giáo là thuốc phiện thì chúng ta cần thứ thuốc phiện ấy hơn ai hết.

Người bạn đồng hành lắc đầu:

- Đến thế là cùng...

Người lùn nhìn bạn, vẻ ái ngại:

- Cậu luôn luôn là một thằng học trò... Nhưng có lẽ tôi thích cậu cũng chính vì điều đó. Thế cậu tưởng rằng chúng ta là những kẻ vô thần hay sao?... Không phải thế! Khi chúng ta đập phá đình chùa miếu mạo, ấy là để dọn chỗ treo ảnh Mác, là để tạo đựng hình ảnh một tân-chúa cho đám đông. Cậu có nhớ những cuộc chỉnh quân, chỉnh huấn năm 52-53 không? Chúng có khác gì những buổi lễ xưng tội ở nhà thờ? Trong đó con người tự hành xác, tự dằn vặt sám hối để lương tâm thanh sạch, để được tiến đến gần đấng chí tôn... Bây giờ cũng thế, tôi cũng đã dự những buổi kiểm điểm và kỷ luật đảng viên. Mác đã hiển thánh và trở thành tấm gương đạo đức.

Tới đó, ông ta bật ra vài tiếng ho. Người bạn đồng hành lặng im. Rồi hai người cùng châm thuốc hút... Nhả vài hơi khói, người đàn ông lùn nheo mắt nhìn bạn:

- Cậu đọc kỹ tiểu sử Mác chưa?

- Chưa, chỉ một đoạn a-văng pờ-rô-pô (avant-propos) trong cuốn "Gia đình thần thánh" thôi.

- Cố nhiên... Cố nhiên... Muốn cho Mác hiển thánh thì phải xóa đi mọi dấu vết của đời thường... Tôi, thì tôi đã tới tận ngôi nhà sinh ra Mác, tôi ký tên trên các bảo tàng về Mác, tôi đến đặt vòng hoa trên nghĩa trang Mác tại Anh... Ngửng nói, ông ta nghiêng đầu ngửa mặt nhìn người bạn. Mắt ông ta nheo lại, ánh lên nụ cười ranh mãnh. Cái gọng kính vàng lóng lánh dưới tràng mày thưa. Người đàn ông cao lớn quay sang nhìn, ông ta nói tiếp:

- Tất nhiên, chân giá trị của một vĩ nhân không đặt ởphạm trù đạo đức cá thể... Nhưng mà, nói cho vui, cậu có biết về phương diện sinh hoạt, cá nhân Mác là người thế nào không? Đó là một thằng lùn trụy lạc. Từ thời sinh viên đã mò xuống các xóm nhà thổ chơi điếm. Đặc biệt, Mác rất thích đám con gái di-gan. Nói theo ngôn ngữ của Lép-tôn- tôi, đó là một thằng cha đi hoang không biết mệt. Đoạn đời sau của Mác, nhiều người biết: lão ngủ với cô đầy tớ, đẻ một đứa con. Khi Mác chết, Gien-ni đã tha thứ và công nhận đứa con ngoài hôn thú.

- Ha ha... ha ha... ha...

Ông ta cười rũ rượi. Người bạn đồng hành cũng cười.

Họ thi nhau lấy khăn tay thấm nước mắt. Rồi họ châm điếu thuốc thứ ba, tiếp tục hút.

Tôi ngồi im. Lưng tôi lạnh toát. Một cơn choáng váng xâm chiếm óc não tôi. Tôi có cảm tưởng như mình đang đi trên một cây cầu, trong chớp mắt nó hóa thành sợi dây và bên dưới là vực thẳm. Tôi lén lút đưa mắt nhìn người đàn ông đeo kính gọng vàng lần nữa. Ông ta đang chun mỏ thả khói thuốc, đầy vẻ mãn nguyện. Ánh mắt ông ta như còn tiếp tục cười cợt. Hai khóe mép nhếch lên vui vẻ nhưng mỉa mai... Tôi hiểu, những điều ông ta nói là sự thật...

Tôi bỗng hình dung ông ta là tay phù thủy, vê cục bột thành một hình nhân, đặt lên bệ thờ, rồi ông ta phà ra luồng hơi phù phép. Hình nhân thằng lính kèn bằng bột hóa thành vị thần linh oai nghi, vĩ đại. Trước thần linh ấy, ngàn triệu người xì xụp quì lạy, khấn vái. Ngàn triệu cặp mắt ngước nhìn khiếp hãi, cuồng si. Ngàn triệu sinh linh chờ đợi một tín hiệu là nhất loạt nhảy vào bể dầu sôi hay hỏa ngục... Trong ngàn triệu người ấy có tôi, có tất thảy những người máu thịt thân thiết của tôi... Và ông ta, gã phù thủy thấp lùn mũi tẹt, ngồi ở hậu cung vừa nhả khói thuốc vừa tủm tỉm cười.

- Báo cáo...

Tiếng nói giật giọng khiến tôi sửng sốt!

Tôi quay lại, thấy một anh chàng bận quân phục, đeo băng đỏ đang đứng trước mặt hai người đàn ông.

Anh ta dằn từng liếng:

- Có người đến báo rằng hai ông đã xúc phạm Các- Mác, vị lãnh tụ vĩ đại và đã bôi nhọ chủ nghĩa xã hội của chúng ta.

Người đàn ông lùn lập tức đứng bật dậy, ưỡn ngực quát:

- Ai, ai tố cáo?

Mặt ông ta đanh lại, không còn vẻ bỡn cợt mà trở nên nghiệt ngã:

- Ai?

Ông ta quát lại lần thứ hai, dõng dạc, khinh bỉ. Anh chàng cảnh vệ quay lại phía sau... Hẳn kẻ tố cáo đã nhanh chân lủi mất. Anh ta đứng đần độn, mặt đỏ lựng, ấp úng:

- Có người đã tố cáo... Dứt khoát có người đã...

Người đàn ông lùn rút trong túi áo một mảnh giấy, chìa cho chàng cảnh vệ:

- Đây đọc đi.

Một cuốn sổ nhỏ có bìa cứng màu đỏ, các góc hơi quăn lên. Tôi biết đó là tấm hộ chiếu ngoại giao, loại các ông lớn thường dùng. Anh chàng cảnh vệ run run đỡ lấy cái báu vật biểu hiện quyền uy, mắt như lạc khỏi tròng. Anh ta đọc rất nhanh, và, đọc xong, mặt tái xám.

Người đàn ông mỉm cười, rút lại cuốn sổ nhỏ trên hai bàn tay thô kệch của anh ta, bảo:

- Chính chúng tôi là những người đưa chủ nghĩa Mác vào Việt nam. Chính chúng tôi dạy cho nhân dân, trong đó có bản thân anh, hiểu thế nào là chủ nghĩa Mác. Cho nên, người bảo vệ chủ nghĩa Mác trước tiên là tôi chứ không phải là anh. Rõ chưa?

Chàng thanh niên cúi gằm mặt xuống. Tôi nhìn rõ những hạt mồ hôi đọng trên hai thái dương của anh ta lớn dần lên.

Người đàn ông lùn nói tiếp:

- Tôi bỏ qua cho anh lần này... Lần sau còn hành động hồ đồ như thế, anh sẽ được đưa tới nơi cần thiết.

Anh chàng vẫn cám mặt xuống sàn tàu. Người đàn ông lùn giật giọng:

- Đi đi!

Ông ta ưỡn ngực, chắp tay sau đít, mặt hầm hầm khủng bố đến nỗi chàng cảnh vệ ngã dúi dụi vào đám hành khách. Đi tới gần cửa toa anh ta mới dừng thẳng lên được. Tức khắc, anh ta biến mất.

Người đàn ông lùn ngồi xuống. Vẻ cau có, nghiệt ngã trên mặt ông ta tan biến. Ông ta quay sang người bạn, nháy mắt cười vui vẻ nói:

- Cậu thấy chưa?...Dân mình ngu lắm. Phải có tôn giáo dẫn dắt và phải có ngọn roi để dạy dỗ họ.

Chương 9

Đã bốn giờ ba mươi tám phút!

Thời giờ đi mau quá. Lưng, áo tôi ướt đẫm mồ hôi. Vẫn chưa thấy tấm biển chỉ đường vào đơn vị đặc nhiệm M.035 đâu cả. Tôi giở ra coi lần nữa tấm sơ đồ trên F đã cho... Mũi tên, chữ x nhỏ, chữ X hoa, đường kẻ, dấu chấm... Tấm sơ đồ cầu kỳ, chi tiết mà lại hóa ra vô dụng. "Giờ không tìm thấy đường, đêm chỉ còn cách nhịn đói trèo trên cây mà ngủ!" Tôi nghĩ vậy, rồi nhét tấm sơ đồ vào túi áo, tôi cắm đầu bước đi. "Một liều, ba bảy cũng liều.” Không biết ngả nào mà lần sờ hết. Sơ đồ vẽ một đằng, đường ra một nẻo.

“Mẹ ơi, vong hồn mẹ có khôn thiêng xin đưa đường dắt lối cho con..." Tôi đi ào ào như ma đuổi, mắt không nhìn, chân đưa tới đâu bước tới đấy...

Chừng nửa giờ sau, hiển hiện trước mắt lôi một tấm bảng gỗ bề rộng hai thước, bề cao chừng thước rưỡi, ghi nắn nót dòng chữ: “Đơn vi độc nhiệm M. 035 - cách 500 thước”. Một mũi tên vẽ hùng dũng. Tất cả viết, kẻ bằng nhựa đường rõ rệt. Tôi dừng lại lau mồ hôi. Gió rợn lên khiến toàn thân tôi mát rượi. Ôi hạnh phúc. Chẳng kém gì hành quân mùa khô nẻ lại gặp dòng nước khe. Xóc ba-lô, tôi rảo bước và bắt đầu mơ tưởng đến một mái lán, một bữa ăn nóng. Chẳng gì đại đội trưởng Húc cũng là chiến hữu của tôi. Dù chiến hữu của thời quá vãng. Chắc chắn Húc sẽ thết đãi tôi mấy món hắn thích: nộm chuối rừng, thịt hộp nấu rau chua me, sơn dương hay hoẵng nướng. Ôi chao, hắn là một tay săn bắn ngoại hạng. Cái thời chúng tôi ngoéo tay thề kết nghĩa anh em, hắn đã nuôi tôi triền miên bằng thịt thú rừng. Nửa đêm, tôi ngủ say là hắn lùi lùi ra đi. Tới sáng, có khi tôi chưa kịp tung chăn ngồi dậy hắn đã vào ngồi ghé bên giường, toàn thân toát ra khí lạnh của núi, mùi cây lá, mùi sương đêm, cả mùi lông thú mà hắn vác trên vai. Xung quanh người ta cười hắn mê tôi. Họ đâu biết tôi đã cứu hắn khỏi một ngọn đòn trời giáng của tay chính trị viên đại đội. Húc là kẻ hữu dũng vô mưu, đánh giặc tận tụy nhưng đối đãi với đám người xung quanh lại lỗ mãng. Tên hắn cũng lạ đời: Tạ văn Húc. Hắn có biệt tài nấu ăn, ngang tài săn thú. Các món ăn hắn sáng tạo với các loại rau rừng và thịt rừng thật tuyệt vời. Riêng nộm, ngoài nộm chuối, nộm môn thục, nộm rau mì chính, hắn cả gan nộm rau tàu bay, đọt sắn non và lá ớt. Bởi vậy, đám lính của hắn, vào trận mạc sợ thủ trưởng như sợ cọp nhưng về hậu cứ lại nhõng nhẽo vòi ăn suốt ngày...

- Rắc…… ắc...

Một cành cây khô gãy rơi ngay sau gáy tôi. Hú hồn! Chết theo kiểu bị cây gãy hay xà nhà đổ vào đầu, người ta gọi là ách thượng lương. Tôi thấy hơi lạnh nên rảo bước. Được chừng một trăm bước chân nữa, có tiếng ầm ầm vọng tới rõ ra tiếng chặt cây. Khi những hồi âm tan lắng lại có tiếng rù rì đều đặn tựa dòng âm thanh đậc sánh chảy giữa hoang vu. Quái lạ! Đã quá năm trăm thước mà chẳng thấy doanh trại đâu... Lại có thứ tiếng động kỳ quái kia nữa... Chẳng lẽ chúng nó cắm tấm bảng để lừa mọi người?..."

Hồ nghi nhưng tôi vẫn bước. Vùng này không thể có tụi thám báo xâm nhập nên không ai bày trận giả để mai phục ai. Trên F, người ta đã nói với tôi kỹ lưỡng... Đang nghĩ, chợt tôi đụng đầu vào một chiếc cổng chào bằng gỗ: “Đặc nhiệm M.035.” Bảng gỗ đã bắt đầu gãy, gỗ nứt từng kẽ dài. Lạy trời, cuối cùng tôi cũng đã tìm ra mà trời còn chưa tối. Hăm hở, tôi đi một mạch vào doanh trại. Qua cổng chừng năm chục mét có ba dãy nhà nằm châu hình chữ Môn. Toàn bộ vách thưng gỗ kín đáo. Một khoảng sân trống trồng lưa thưa dăm cây hoa mào gà. Nhưng cách sân vài mét có một khoảng vườn rộng trồng toàn rau. Có cả rau bạc hà, rau mùi tàu, rau thanh hao và xương rồng... Toàn những thứ gia vị siêu việt không thể mơ tưởng trong thời chiến. "Đúng là thằng Húc..." Tôi thầm nghĩ không khỏi tủm tỉm cười. Vượt qua sân, tôi đến khu nhà chính. Các cửa đều chẹt gỗ phía trong, và cửa cuối cùng được xoắn bằng dây thép.

Tôi xuống khu nhà bên trái, nơi duy nhất có một cánh cửa nửa mở nửa khép.

- Có ai trong nhà không?

Tiếng vọng trả lại tôi.

- Có ai đấy không?

Tôi hỏi lần thứ hai, và lần thứ hai cũng chính tiếng vọng của tôi đáp lời. Tôi xô cánh cửa, bước vào. Hai dãy giường trống chạy dài, bụi trắng xóa. Riêng chiếc giường cuối có trải vải thô màu cỏ nhạt, bày bề bộn vài trang giấy, hai cuốn vở học trò. Một chiếc bút bi Mỹ lăn lóc. Một khúc gỗ bào nhẵn làm gối đã nhuốm màu đen và bóng như sừng. Trên nóc lán, treo tròng teng chiếc ba-lô. "Họ đi đâu cả, chỉ cử một người giữ doanh trại. Số mình thật không may..." Tôi nghĩ. Đoạn, bỏ ba-lô lên một tấm phản, tôi ngồi bệt xuống cửa, duỗi dài đôi chân. Những tia mặt trời phía tây rọi thẳng vào mắt tôi, chói nhưng ấm áp. Tôi nhắm mắt, tựa đầu vào khuôn cửa, tận hưởng khoảnh khắc hạnh phúc bất chợt của thiên nhiên vốn ác độc và hay lật lường. Tôi thấy ánh tà dương có một mùi thơm, mùi thơm tựa như hoa sởi trộn với dạ hương, thứ mùi làm kinh sợ tuổi thiếu niên và khai nở những giấc mộng tình. Cái dạ dày sôi sục của tôi xẹp xuống, dường như cơn đói tạm lui. Tôi bắt đầu lơ mơ...

Có tiếng bước chân lẹt xẹt. Tôi mở mắt: Một lão già đầu trọc lụ khụ bước lại phía tôi, xanh lét như một thây ma biết di động. "Sao ở đây lại có người già?" Tôi giật mình. Lão già gật gật đầu như chào tôi, môi nhếch lên như cười.

Tôi đứng dậy:

- Chào đồng chí.

- Chào đồng chí...

Thây ma thều thào đáp.

Tôi nói:

- Tôi đến gặp đại đội trưởng Tạ văn Húc.

Lão trọc gật đầu, giơ tay chỉ về phía những ngọn núi đàng sau doanh trại, nơi tiếng rù rì bí ẩn đang phát ra không ngớt:

- Thủ trưởng và đơn vị đang ở hiện trường. Chỉ có em giữ doanh trại.

- Lúc nãy đồng chí ở đâu, tôi tìm không ra?

- Em đi đồng, em bị kiết lỵ...

Nói xong, lão nhăn trán, ôm bụng. Có lẽ vì cơn đau hành hạ. Lúc ấy tôi mới thấy hàm răng trắng nõn của lão, hai bên cánh mũi mịn và đuôi mắt không vết nhăn. Hình như đây là người bệnh lâu năm chứ không phải lão già. Nhưng cái đầu trơ trụi, không một sợi tóc khiến tôi hồ nghi, tôi hỏi:

- Đồng chí bi kiết lị lâu chưa?

- Bốn năm bảy tháng, sau khi nhập ngũ được một năm rưỡi.

- Vậy đồng chí mới nhập ngũ được sáu năm!

- Vâng, tháng sau em tròn hai mươi bốn tuổi.

Tôi bàng hoàng nhìn cái đầu bóng lọng, xanh xám, nhìn lớp da nhăn nheo trên cần cổ, cả tấm thân trong suốt như không phải tạo bằng da thịt mà bằng một loài rêu đá:

- Đồng chí bị kiết lị, sao không chữa từ đầu?

Cậu ta ngước mắt nhìn tôi. Tôi thoáng rùng mình vì cặp mắt ấy trong veo, hệt như cặp mắt của Hoàng, cặp mắt của những chàng trai chỉ sống bằng mộng.

Cậu ta ngước mắt nhìn tôi, cười cười và đáp:

- Em có uống thuốc ạ... Nhưng bệnh chỉ khỏi từng đợt rồi tái phát... Kỳ này, nặng quá...

- Thế sao không xin chuyển về hậu phương?

- Em không muốn... Em tin em phấn đấu được...

- Bệnh phải trị bằng thuốc chớ?

- Vâng, tại kỳ này không có thuốc. Đơn vị đặc nhiệm ở sâu, khó liên lạc. Anh Húc định có đoàn nào đi qua sẽ gửi em ra bệnh viện ngoài quân khu... Nhưng chờ mãi chưa có đoàn nào qua. Mà em lại bị thêm sốt rét ác tính, hai tháng trời, rụng hết tóc...

- Đồng chí ăn uống thế nào? Đơn vị vào rừng bao giờ mới ra?

- Em ăn cháo. Thủ trưởng Húc quan tâm đến em lắm. Săn được con thú nào cũng mang thịt về cho em... Anh chắc quen với thủ trưởng?

- Chúng tôi là chiến hữu từ ngày nhập ngũ.

- Vậy anh vào hiện trường đi. Chắc thủ trưởng mừng lắm.

Tôi ngần ngừ hỏi:

- Đồng chí ở đây có một mình thôi à?

- Anh đừng lo cho em... Em quen rồi. Em vẫn giữ một khẩu A.K.

Rồi cậu ta cười, hai vành môi xinh đẹp nhưng trắng nhợt như giấy ngâm. Một tia sáng chiếu vào hàm răng óng ánh. Cậu giơ ngón tay lên làm điệu:

- Yên tâm đi. Em vẫn đủ sức bóp cò: pằng pằng pằng...

Tiếng nói yếu, đôi lúc như hụt hơi. Tôi bảo:

- Đồng chí vào nhà nghỉ. Có cần tôi giúp gì không?

- Không. Anh đi đi kẻo tối. Lối tắt đây này... Chỉ mươi phút là tới.

Tôi đi theo lối tắt mã cậu ta vừa chỉ. Lối men theo khe cạn. Chỉ mươi phút sau, lối đã tới hiện trường. Để chào đón tôi, là tiếng đổ của một thân cây lớn, làm rung chuyển tất cả. Bốn bề núi vọng ầm ầm. Có tiếng người hét và ai đó reo to:

- Hoan hô... Nghỉ đi thôi...

Những tiếng khác lao xao, nghe không rõ. Tôi vượt qua một trái núi thấp chỉ còn trơ những gốc cây đã bị cưa, nhô khỏi mặt đất chừng nứa thước. Chân tôi dẫm lên rất nhiều đống mùn cưa lẫn với cỏ. Trời bắt đầu tối. Không còn trông được rõ những rễ cây bò ngang lổm chốm, tôi vấp ngã luôn luôn...

Chừng hút tàn điếu thuốc, tôi nhìn ra một ngọn lửa ở phía trước mặt. Đồng thời tôi đụng phải những khúc gỗ lớn nhỏ ngổn ngang, những dàn cưa dựng cao sừng sững. Không gian nức mùi gỗ. "Đơn vị thằng này làm thợ xẻ. Tiếng rù rì lúc nãy là tiếng cưa. Có thế mà mình không nhận ra". Xung quanh đống lửa, lăng xăng những người chạy qua chạy lại. Vì đi từ chỗ tối ra nên tôi nhìn thấy họ, nhưng họ không thể thấy tôi. "Thế này mà có thám báo, chắc bị chúng xơi gọn.

Hớ hênh quá. Xưa nay thằng Húc có liếng là cẩn thận cơ mà". Tôi nghĩ vậy và đi vòng quanh một gốc cây lớn để tìm Húc. Cuối cùng, tôi thấy cậu ta nằm chênh ềnh trên chồng ván xếp gần đống lửa, dáng điệu vừa mệt mỏi vừa thỏa mãn...

- Ai? Giơ tay lên!

Một cái nòng súng lạnh buốt dí ngang sườn tôi.

- Giơ tay lên!

Tiếng quát lặp lại. Tôi giơ hai tay lên cao. Húc ngồi dậy và đám người đi lại nhốn nháo quanh cậu ta cũng lùi lại sau lưng Húc. Cậu ta có vẻ một con voi đầu đàn. Cái nòng súng chọc vào lưng tôi đau nhói:

- Đi!

Tôi tiến về phía Húc, vừa đi vừa lo ngay ngáy. Kẻ áp tải mình lỡ tay chạm cò súng thì nguy! Chiến tranh, mạng một tù binh đâu có đáng giá gì...

Húc đã đứng lên. Cậu ta giương mắt nhìn tôi chằm chặp. Tôi nhìn lại cậu ta rồi bất chợt buông tiếng cười. Quả thật, vẻ mặt căng thẳng của Húc rất khôi hài.

- Anh Quân...

Húc reo lên, nhảy tới ôm lấy tôi.

- Anh Quân... lâu quá... lâu quá...

Húc lắp bắp. Cậu ấy có tật nói lắp mỗi khi xúc động.

Tôi bảo:

- Định giả bộ tụi thám báo dọa các cậu. Ai dè bị lính của cậu dí súng vào lưng điệu đi. Cái điềm này khéo tôi sắp trở thành tù binh thật.

Chú lính gác cười cười, chúc mũi súng xuống đất. Húc phởn chí nói:

- Anh coi thường em quá... Húc cơ mà! Vẫn nhớ nguyên những bài bản anh dạy ngày xưa. Lại bổ xung kinh nghiệm chiến đấu...

Cậu ta dắt tay tôi tới ngồi bên đống lửa. Bộ ngực trần bóng như xoa mỡ bắt ánh sáng trông giống pho tượng đồng.

Tôi hỏi:

- Sao dạo này đen thế?

Húc giơ tay chỉ:

- Suốt ngày phơi lưng trên đồi trọc kia kìa, mai anh sẽ thấy.

Tôi hỏi tiếp:

- Biền đâu?... Cậu ấy có khá không?

- Biền sắp gánh cơm lên đây. Khỏe như ông hộ pháp mà tốt bụng lắm. Anh cho em cậu ấy bằng cho vàng. Chúng em đã kết nghĩa tử sinh rồi đấy. Chúng em bằng tuổi nhau.

- Thế thì tôi mừng lắm.

- Biền nhắc đến anh luôn.

Tôi gật đầu:

- Chúng tôi là bạn đồng môn, lại cùng làng.

Thấy người tôi đầy bụi và ướt đẫm mồ hôi, Húc đưa tôi xuống suối tắm. Trời tối mịt. Chúng tôi dắt nhau mò mẫm đi. Khi sắp xuống bãi sỏi, Húc bảo:

- Cách đây bảy mươi thước là bếp ăn của đơn vị. Biền đang lo sắp quang gánh đem lên.

- Bếp sao tối thui tối mò như vậy?

- Đề phòng tụi thám báo. Dù trên F đã công bố khu vực này không thuộc phạm vi hoạt động của chúng nhưng em vẫn lo. Chẳng lo chúng đánh lén mà lo chúng vào ăn trộm muối. Ở đây, muối còn quí hơn máu người.

Đợt trước, đơn vị em chết non chục người vì phù thủng. ăn tro cỏ gianh, tro lá rừng mãi, có cậu đái ra thứ nước tiểu đục như nước đất. Không có muối, thịt thú rừng ăn vào miệng cũng muốn nôn ra...

Húc bước xuống suối trước:

- Xuống đây anh. Đoạn này lòng suối thoải ngon lành lắm...

Tôi cởi quần áo, mò mẫm xuống theo. Những gợn nước, ánh trong đêm, như đường trườn của rắn. Mắt tôi đã quen với bóng tối, nhìn lờ mờ được cảnh vật nhờ ánh lân tinh quanh quất giữa những đám lá mục hắt lên. Nước lạnh mát, dễ chịu.

Húc bảo:

- Quần áo bẩn để sáng mai giặt. Ít nhất anh cũng ở đây chơi với em và Biền vài ngày.

- Cũng muốn ở nhưng ngại ông Lương kỳ kèo...

Nói thế nhưng tôi cũng đưa mớ quần áo bẩn cho Húc gài lên cây. Tắm xong, bụng đói cồn cào. Hai chúng tôi trở về. Đống lửa cháy rực lên giữa rừng đêm, lộng lẫy. Anh em xúm quanh.

- Mau lên, đói quá thủ trưởng ơi...

Một cậu kêu to.

Húc quát:

- Sao không ăn trước.

Lúc ấy, Biền vụt đứng lên ôm lấy tôi. Tôi yên lặng vỗ vai cậu ta. Một tích tắc sau, bọn tôi ngồi xuống ăn cơm. Đó là một trong những bữa cơm ngon nhất trong đời. Cơm chỉ còn âm ấm nhưng gạo thơm sực mùi cám. Mùi gạo ấy đem hương vị của mùa gặt làng quê tới tận chốn thâm sơn này. Thức ăn gồm đu đủ xào mỡ, ớt mọi trộn mắm tôm.

Húc bảo:

- Anh ở đây vài ngày. Em sẽ đi kiếm con nai về nướng ăn.

- Tôi đi lâu quá rồi. Sư đoàn họ riềng cho...

- Vài ngày là bao?... ra đêm nay em vác súng đi ngay được, nhưng sắp phải nộp hàng.

- Hàng à?... Tôi thấy các cậu đẵn cây, cưa gỗ. Làm gì?

- Lát nữa anh sẽ thấy. Hàng đặc biệt dành cho chiến trường.

Một cậu lính cười hô hố:

- Thủ trưởng không thấy cổng doanh trại của bọn em đề chữ gì ư?... "Đơn vị đặc nhiệm. Làm hàng hóa đặc biệt cho chiến trường."...

Tôi bảo:

- Rau nào sâu ấy! Từ đại đội trưởng tới lính, cả lũ đều mắc chứng ỡm ờ.

Húc cười. Đám lính của cậu ta cũng cười phá lên. Rồi Húc ghé tai tôi nói:

- Anh cứ ăn cho ngon cơm. Nguyên tắc của tụi em là chỉ kể chuyện tiếu lâm và thực phẩm trong bữa cơm, cấm chỉ mọi chuyện khác.

Biền có đem tới một thùng chè đen cho mọi người uống sau bữa cơm. Húc bảo chính Biền đã phải lặn lội đi bốn chục cây số để đổi gạo kho lấy gạo tươi của dân bản và mua chè. Nếu không có ông khổng lồ ấy, cả đơn vị đêù bị phù thũng vì gạo kho lâu năm ăn xốp như bông, không còn chất cám. Húc còn nói thêm là đám con gái Vân kiều cứ nhìn thấy Biền là đờ đẫn như hít phải thuốc mê. Có cô vượt bảy chục cây tới chầu chực ở bìa rừng... Húc kể tới đó, đám lính cười rú lên... Biền cúi mặt, lẩm bẩm:

- Ông này chuyện lằng nhằng...

Tôi cũng cười, vỗ vai Biền nói:

- Người anh hùng của đơn vị.

Ánh lữa đùa giỡn trên mọi gương mặt trẻ trung. Những lưỡi lửa vọt lên cao, rền dừ, rồi lại tụt xuống thấp, uốn lượn giữa những đám tàn lửa rực rỡ. Mọi hình ảnh đều có thể nảy sinh trong làn ánh sáng cổ xưa và huyền bí ấy, cả những ảnh tượng tương lai chưa rõ nét tới những kỷ niệm xa mờ của dĩ vãng.

Lửa đêm, quà tặng của cuộc trường kỳ kháng chiến.

Trong ánh lửa, gương mặt sốt rét nào cũng trở nên hồng hào! Làn da xám ngắt vì chứng tê thấp hay suy dinh dưỡng cũng được tô điểm thành tươi sáng! Mọi ánh mắt đều long lanh!

Tôi biết ngày mai ánh mặt trời độc ác sẽ vạch trần sự thực. Nhưng đầu sao, vẻ đẹp của lửa đêm, vào khoảnh khắc ấy vẫn cuốn hút tâm hồn tôi... Tôi cũng không hiểu tôi nữa!

Tôi buồn, tôi khắc khoải, tôi say mê...

Đám lính xung quanh vẫn chuyện rào rào. Các trận cười nổ ran như pháo. Húc bảo chẳng mấy khi được có khách nên anh em hứng chí, thức khuya. Mọi hôm, cứ cơm nước xong là mọi người đi ngủ. Làm việc nặng cả ngày, đặt lưng xuống tức khắc ngủ như chết.

Mọi cuộc vui đều phải có lúc tàn. Chín giờ đúng. Húc bảo mọi người đi ngủ và nhắc:

- Chỉ còn ngày mai. Sáng ngày kia có người đến lấy hàng. Anh em chuẩn bị tư tưởng làm kiệt lực. Chúng ta còn thiếu mười lăm chiếc.

- Rõ.

Đám lính đáp lời và đứng lên. Tôi nhìn quanh quất.Không hiểu họ sẽ ngủ ở chỗ nào. Trên đầu là trời. Xung quanh là không gian thăm thẳm. Xa hơn nữa, nơi những làn sương phập phồng trên vực tối là rừng núi... Nhưng đám lính tỏ vẻ không ngại ngần gì hết. Họ thẳng tới một tấm ván mới xẻ chất đầy những quần áo và tăng võng. Người nào tìm đồ của người nấy. Húc bảo Biền:

- Đêm nay để anh Quân nằm cạnh cậu nhé. Tha hồ nghe chuyện làng!

- Vâng.

Cậu đưa cái chăn thám báo của tớ cho anh Quân. Tớ sẽ đắp chiếc áo thu-đông của cậu.

Biền gật đầu:

- Ổn rồi.

Đoạn Biền đi tới nơi cất giữ quần áo cho đơn vị. Vài phút sau, Biền quay lại. Lúc ấy, đám lính đã tản đi. Biền bảo tôi:

- Đi đi.

Húc nói:

- Mai anh Quân cứ ngủ cho kỹ nhé. Tụi em phải dậy sớm.

Biền đưa cho Húc chiếc áo. Húc đi.

Tôi với Biền đi sang hướng khác.

Càng xa lửa, mọi người càng khuất bóng dần. Họ len lỏi giữa những gốc cây cụt, những dàn xẻ, những khúc gỗ lăn lóc. Chân tôi sục vào mùn cưa. Chợt nghe giọng Húc oang oang:

- Đêm nay cậu nào gác?

Có tiếng đáp tức khắc:

- Em. Quang.

- Nghiêm chỉnh đấy nhé. Khéo hổ về!

- Thủ trưởng yên trí.

Biền chợt dừng lại, bảo tôi:

- Đây rồi.

Cậu ta kéo tay tôi lại gần, chỉ cho tôi thấy một vật trăng trắng nằm ngay dưới chân tôi:

- Anh ngủ ở đây.

Tôi thấy vật trắng dài bốc mùi nhựa gỗ. Biền bảo:

- Em cậy nắp cho anh. Anh nằm vào rồi em đậy lên.

Tôi lạnh gáy, bật kêu:

- Quan tài hả?

- Vâng. Đơn vị đặc nhiệm chuyên đóng. Lúc nãy anh Húc không cho nói sợ anh ăn mất ngon... Tụi em ở đây quen rồi.

Tôi đứng im, không biết nói gì, không cảm giác. Chỉ thấy các đầu ngón chân tê tê. Biền nói tiếp:

- Hồi đầu, đơn vi đóng hòm ở hiện trường, tối kéo về ngủ tại doanh trại. Nhưng, đốn hết gỗ núi gần, phải đốn đến núi xa, ăn ngủ, di chuyển cách rách quá nên anh Húc quyết định chuyển bếp nấu ăn lên đây. Còn ngủ, cứ mỗi anh chui vào một cỗ quan tài. Vừa sạch, vừa có nắp đậy tránh sương gió.

Biền cúi xuống kéo tấm ván nắp hòm ra:

- Anh nằm vào đi... Quen ngay ấy mà.

Tôi nằm vào quan tài. Biền đắp chăn cho tôi. Tấm chăn dù thám báo nhẹ bông, mát lạnh. Xong, Biền đậy nắp ván.

Rồi cậu ngồi thụp xuống, quờ quạng hồi lâu. Lát sau, Biền đặt một mẩu gỗ lên đầu quách, kê cho giữa thành hòm và mảnh ván có một khe hở. Biền ngắm nghía, nói:

- Thế này đủ thoáng khí. Hở rộng quá sợ đêm lạnh và hơi người bay nhiều, hổ dễ đánh mùi.

- Vùng này lắm hổ thế cơ à?

- Vâng. Đây được coi như hậu cứ nên ít có bom. Hổ từ các khu rừng núi bị oanh tạc dạt về.

- Các cậu có ai bị không?

- Không, chưa ai bị vì tụi em luôn luôn có người gác. Chủ yếu là gác hổ. Sau mới tới đề phòng thám báo. Cứ nghe mùi hôi là nổ súng liền. Dạo em mới về đơn vị chứng kiến hổ tha cái đầu của một cô gái ngay trước cổng doanh trại. Chắc là giao liên.

Biền tự nằm vào hòm của mình, nhưng không đậy ván. Cậu ta nhô đầu lên hỏi chuyện tôi. Vừa nói tôi vừa nhìn qua kẽ hòm. Ở đấy, trên nền trời mông lung, hiện lên vành trăng hạ tuần gầy guộc. Trăng có màu tím ngắt, tựa hồ cánh bông cúc tím tàn. Nghe chuyện xong, Biền nói:

- Tôi thương bố tôi quá...

- Ư hừ, tao thì lại ghét bố tao!

Rất tế nhị, Biền lảng chuyện:

- Bao giờ chiến thắng?

- Tao đã hỏi ông Lương, ông ấy không trả lời.

Chúng tôi im lặng hồi lâu. Rồi Biền nói:

- Ngủ đi Quân nhá. Mai tôi phải dậy sớm.

Kéo tấm chăn thám báo lên ngang mũi, tôi nhắm mắt.

Mùi gỗ mới hòa với mùi mồ hôi tẩm trong chăn bỗng trở nên quen thuộc. Tôi không còn áy náy. Dường như sinh ra, tôi đã quen ngủ trong chiếc giường loại này. Tôi ngủ say...

Có hàng triệu con ong đang bay. Không trung trong biếc như ngọc. Tiếng rù rì miên man ru ngủ tâm hồn... Rồi một cánh đồng cúc tím xôn xao hiện lên dưới ánh rạng đông. Những bông cúc tím trĩu nặng sương, trĩu nặng mật. Đàn ong hòa nhập vào cánh đồng cúc, rù rì, rù rì...

Một tổ ong khổng lồ bằng sáp trắng hiện ra giữa không trung. Mặt trời rọi bạc. Đất bên dưới mờ mịt khói lam, trôi phiêu diêu như tấm khăn choàng bị gió cuốn. Tiếng rù rì của triệu con ong vẫn vang không ngắt. Giai điệu buồn tẻ, đơn điệu lặp lại dai dằng làm sao! Âm điệu ngập tràn tất thảy như cơn hồng thủy, nhấn chìm mọi âm thanh khác, nuốt hết mọi tiết điệu khác và chế ngự vũ trụ...

Tôi mê man trong âm điệu kỳ vĩ đó.

Tôi đi, trên cánh đồng cúc tím, mê man đuổi theo làn sóng âm thanh... Tôi đi, đi hoài...

Tôi cũng phiêu diêu như mặt đất. Rồi tôi thấy mình râu tóc bạc phơ, áo quần tơi tả, cứ

chạy mãi chạy hoài trên cánh đồng.

Có một tiếng sấm vang rền nơi chân trời, tia sét rạch giữa không trung chan hòa ánh nắng. Tôi kinh hoàng ngước mắt lên, tôi thấy chiếc ổ ong khổng lồ kia đang tan chảy.

Mỗi ô cửa lục lăng rơi xuống một cỗ quan tài. Hàng triệu cỗ quan tài rơi xuống mặt đất, chồng chất lên nhau...

- Anh Quân... hét gì mà to thế?...

Luồng ánh sáng chói lóa khiến tôi choáng váng. Tôi vội kéo chăn phủ kín đôi mắt.

- Dậy đi anh...

Tôi nhận ra tiếng Húc. Định thần vài phút, tôi tung chăn ngồi lên. Húc đang đứng chống nạnh trước mặt tôi, nhăn nhở cười:

- Khiếp! Mê gì mà hét to thế?

Tôi cười trừ, trèo ra khỏi quan tài. Mặt trời đã lên cao, sáng lóe như gươm đâm. Xung quanh tôi, cả trăm con người đang nỗ lực làm việc. Những đàn cưa xếp chéo cánh sẻ, xoèn xoẹt không ngừng. Bụi gỗ bay mù, không khí thơm phức.

Anh em chuyển những tấm ván xẻ cho nhóm cưa tấm và vào mộng. Mấy chàng lính còm được giao việc căng dây, lăn mực, tay đen nhẻm, bút chì dắt tai, hệt đám phó mộc vườn. Tiếng chí chát xen tiếng cưa miên man dội trong bầu không gian lặng lẽ...

Húc giơ tay chỉ những trái núi trọc, lô nhô gốc cây cụt và những đám dương xỉ bò quanh:

- Anh thấy không? Tụi em đã quét cơ man nào là gỗ.

Tôi gật đầu:

- Khiếp thật!

Húc nói tiếp:

- Hàng nộp cho chiến trường tăng vô kể, làm bã xác cũng không kịp. Em đang đề xuất trên bổ sung thêm một trung đội lính khỏe. Trên đã duyệt nhưng chưa có lực lượng thực thi. Hiện tại thì vẫn phải cố gắng... Anh xem kia... Húc chỉ cho tôi thấy một tấm băng rơi lắt lẻo trên cành cây:

- Khẩu hiệu em nghĩ ra, anh xem có thuận tai không?...

Đoạn, Húc hét to:

- Lâm ơi, treo lại cái khẩu hiệu cho có khí thế! Cậu nào trưa qua mượn tạm dây căng chưa trả hả?...

Cậu lính tên Lâm đáp:

- Nhóm hạ cây mượn để bật mực thủ trưởng ạ... Nhưng em tìm được dây thay đây rồi.

Cậu ta lấy một đoạn dây buộc tấm băng vào vị trí cũ.

Tôi đọc thấy những dòng chữ kẻ nắn nót bằng thú mực bật gỗ đen như than:

"Đơn vị đặc nhiệm quyết tâm hoàn thành vượt mức kế hoạch. Mỗi chiên sĩ là một nhà phát minh sáng kiến, tập trung trí tuệ tập thể, cải tiến lao động, tăng năng xuất, phấn đấu giao nộp hàng tốt cho chiến trường. "

Tôi nói:

- Hay lắm.

Húc bảo:

- Xưa nay em có thuộc loại văn hay chữ tốt đâu... Nhưng phải tìm cách động viên lính. Anh xem, bi nhốt giữa chốn thâm sơn cùng cốc thế này, sách báo, thư từ hàng năm chẳng có, ăn uống chật vật khốn khổ, thuốc men cũng thiếu... May mà có Biền nó chiụ khó xoay sở nên đơn vị mới được như ngày nay.

Tôi bảo:

- Cậu có tay săn sát thú, sao không truyền cho anh em?

- Săn là một nghệ. Có phải cứ truyền là thành tài đâu. Đơn vị chỉ có em với cậu Lâm đi nổi. Nói thật với anh, tụi em không tự túc được chất tươi thì quị từ lâu. Vùng này, nước xanh như mắt mèo. Thượng nguồn suối, thuần thứ rừng lim già, ác mó... Anh ăn sáng đi nhé. Em phải sang xem họ vào mọng ra sao.

Húc đưa tôi suất ăn sáng, đoạn tất tưởi đi sang trái núi trọc bên kia.

Tôi kiếm một khúc gỗ ngồi, giở gói lá ra: một vắt cơm bằng con sò lớn, trên quệt cục mắm tôm. Một khúc sắn luộc. Tôi nhai từng chút một, ngon lành.

Xưa kia, tôi không biết ăn mắm tôm. Mùi tanh khắm của nó làm tôi kinh sợ. Tôi cũng ghét lây cả những người đàn bà thường xà xuống quanh mẹt bánh đúc mắm tôm, thè dài lưỡi đón miếng bánh một cách say sưa, bất kể đến vẻ đẹp. Từ ngày nhập ngũ, tôi quen dần với món ăn này. Giờ thì nghiện! Mùi tanh khẳn của nó gợi cho tôi những xóm chài, bờ biển, ngọn lửa nướng cá cháy liu riu nơi bãi cát, tiếng rì rào của rừng phi lao... Tất thảy cảnh xót thương của những xóm mạc miền Quảng bình: Nơi tôi đã sống gần trọn ba năm, đã quen thân những con người chất phác và vị tha, những con người chịu ăn sắn suốt bốn mùa để gửi tới hạt gạo cuối cùng cho các chiến sĩ.

Những người dân ấy, có lẽ chẳng bao giờ nhớ tôi, nhưng tôi luôn luôn nhớ họ. Một ngọn khói mờ vấn vương không dứt trên hoang nguyên thăm thẳm của dĩ vãng...

- Xoẹt, xoèn xoẹt, xoèn xoẹt...

- Chát, chí chát, chí chát...

Xung quanh tôi, công trường vẫn hoạt động náo nhiệt, hối hả.

- Xong chưa Huân, nhanh tay lên, trưa mẹ nó rồi!

- Chỉ còn chiều nay thôi đấy nhé, con lạy các bố khẩn trương lên cho!

- Quát ơi, mày sang băng cho thằng Toàn một tí, lưỡi cưa xoẹt vào bắp tay nó...

Một chiến sĩ di ngang qua chỗ tôi ngồi, mỉm cười:

- Anh rủi quá, đến đúng lúc rối tinh rối mù lên! Bảnh mắt sáng mai, đám Vân kiều tới nhận hàng.

Tôi bảo:

- Tốt thôi. Tôi ăn sáng rồi, sẽ giúp cậu một tay.

Cậu ta ngần ngại:

- Thôi, thủ trưởng Húc mắng em.

- Có mắng thì nó mắng tôi chớ không mắng cậu.

Cậu ta ngần ngừ một tí rồi nói:

- Em ở vào tổ mọng, việc kỹ thuật anh không làm được đâu Anh chiụ khó sang tổ chuyển ván và phụ việc của Khoa nhé.

Tôi gật đầu:

- Gì cũng được.

Thế là tôi nhập vào nhóm chiến sĩ khuân ván và làm việc vặt do các tổ kỹ thuật khác yêu cầu. Tóm lại, đó là nhóm người vụng dại nhất.

Chúng tôi làm việc tới đúng trưa. Ai nấy mồ hôi chảy như tắm từ tóc xuống chân. Người nào cũng mặc quần đùi.

Lúc Biền đưa cơm ra thì Húc trở lại. Chúng tôi cùng ăn. Rồi tôi xuống suối tắm, giặt. Mớ quần áo gài trên cây hôm qua khô cứng lại thành cục, phải ngâm một lúc lâu. Biền đưa tôi tới nhà bếp, vương quốc của nó! Biền bắt tôi ngủ trưa, ăn cả một con gà rừng nó bẫy lúc mờ sáng. Con gà non, thịt ngọt lừ.

Biền bảo:

- Cẩn thận, xương gà gô cứng lắm đấy.

Tôi gật đầu. Biền lại hỏi:

- Bao giờ chúng ta gặp nhau?

Tôi ném khúc xương ra ngoài, đưa mắt nhìn bờ suối:

- Biết thế nào mà nói trước... Chiến tranh này... Những gì làm được cho mày, tao đã làm. Giờ mày muốn gì nữa, cứ bảo tao. Sức có tới đâu tao làm tới đó...

Biền cúi nhìn mũi giày, lặng thinh. Chóp mũi nó ửng hồng. To như gấu mà lại mau nước mắt. Tôi nói thêm:

- Trước khi về đơn vị, thế nào tao cũng qua sư đoàn để gặp anh Lương. Anh ấy rất thương mày.

Hai giọt nước mắt lăn trên gò má rộng của Biền:

- Tôi làm khổ mọi người... mà nghĩ cũng cực thân.

- Mày cứ nghĩ lẩn thẩn thế thì hóa rồ... Thôi đi đi, tụi lính nó ì éo gọi mày dưới suối từ nãy...

Biền lau nước mắt, nặng nề đứng lên. Rồi nó đi xuống suối. Tôi nhìn tấm lưng vạm vỡ khuất dần trong quầng sáng của cây lá đùa giỡn với ánh trời.

Hồi còn nhỏ, tôi cũng đã từng nhìn vào tấm lưng nó như lúc này, nhưng không phải với nỗi tiếc thương. Hồi ấy, chúng tôi chơi thả diều. Biền khỏe nhất bọn nên bao giờ cũng cầm cuộn dây để đánh cho diều lên gió. Nó chạy trước, chúng tôi theo sau, vượt qua cánh đồng. Và vi vu, con diều chao lượn giữa trời xanh, rót xuống hồn lũ trẻ chúng tôi bao nhiêu nguồn ước vọng.

Tối hôm đó, Húc hớn hở. Kế hoạch đã hoàn thành vượt mức thời gian mười hôm, lại dư ra một sản phầm. Tôi đùa:

- Cái hòm dư ra ấy chắc cậu làm cho tôi.

Húc cười tràn. Và hứng chí bảo lính:

- Đêm nay cho các câụ vui thỏa thích. Mai nghỉ.

Đám lính hoan hô ầm ĩ. Đêm ấy, lửa cháy rừng rực, sáng mê hồn. Ăn cơm xong, mọi người xúm lại kể chuyện tiếu lâm. Rủi không tìm được chuyện kể, phải chống hai tay xuống, chổng mông lên cho mọi người phát! Hết trò, họ chuyển sang đánh bạc. Đơn vị chỉ có bốn cỗ bài, mỗi chiếu bạc tới vài chục người hò hét xung quanh. Ai thua phải nộp nửa lá thuốc Vân kiều hoặc chiụ bôi một vệt mực đen lên mặt. Tiếng cười, tiếng reo hò vang trời.

Húc nói với tôi:

- Lâu lâu chúng em mới có một đêm vui. Anh ở đây chơi nhé. Đêm mai em sẽ đi săn đãi anh bữa thịt thú no nê.

- Đêm nay em phải ngủ vì mệt quá.

Tôi gật đầu:

- Ừ, tắm mà ngủ trước đi.

Thực ra, tôi đã chỉ nói cho Húc yên lòng. Mai tôi sẽ đi sớm. Không còn thời gian...

Hôm sau, tôi chưa thức giấc đã có ba phát súng nổ. Rồi tiếng chân người chạy, tiếng thét đột ngột lẫn tiếng nói lao xao. Tôi nâng tấm ván nắp quan tài, ngồi dậy. Biền đã đứng

một bên. Trời sáng nhưng chưa rõ hẳn mặt người. Tôi hỏi:

- Có chuyện gì vậy?

- Hổ về. Nó tha mất một người của ta.

- Ai thế?

Biền trỏ về phía doanh trại:

- Cậu sơn. Câụ ấy bị kiết lị nặng nên Húc giao trông nom doanh trại. Không hiểu sao lại bị hổ cám đi. Sớm nay, bên tổ đốn cây có cậu đi đồng sớm trông thấy, hô hoán lên. Anh em bắn ba phát chỉ thiên đuổi theo...

Chúng tôi đứng bên nhau, chờ đợi.

Chân trời phía đông như mảnh gốm, men rạn vỡ, màu xanh lam đan hòa những sợi trắng lạnh, khắc nghiệt. Phía trên các cánh rừng, sương phập phồng trôi. Những ngọn núi trọc, lởm chởm gốc cây cụt phơi ra trần trụi vẻ buồn bã cay độc. Cách nơi chúng tôi đứng chừng non trăm thước, những cỗ quan tài mới, chất thành đống, gọn gàng, vuông vức, đợi chờ. Khẩu hiệu căng bên trên: "Đơn vị đặc nhiệm quyết tâm hoàn thành vượt mức kế hoạch."

Tôi bảo Biền:

- Tao đi đây. Chờ thằng Húc về là tao đi.

Biền nói:

- Tôi đã gói thức ăn cho cậu mang đi đường.

Vừa lúc ấy, Húc dẫn một tốp lính trở về. Họ vừa đi vừa thở đứt hơi, mồ hôi ướt đầm đìa.

Biền hỏi:

- Thế nào?

Húc cau có:

- Cái thằng khỉ, biết thế trước đây mình cứ cho nó vài cái tát. Đã dặn đi dặn lại khi đi ngủ phải chốt chặt cửa. Ai dè nó quên, để toang hoang!

Biền nói:

- Không phải cậu ấy quên đâu.

Húc vặc:

- Lại bao che cho nó. Có bao che thì nó cũng chết rồi!

Biền đáp:

- Tôi không bênh cậu ấy. Bận trước Sơn kể với tôi: đã ba lần hổ về lượn quanh nhà. Lần nào Sơn cũng kéo hai thanh nứa cật rít vào nhau. Nghe tiếng nứa rít là hổ chạy liền. Hổ sợ nứa. Trong rừng chỉ có nứa mới có thể làm nó bị thương. Và, hễ bị thương, hổ sẽ liếm vết đau. Lưỡi nó sắc, lại bẩn, chắc chắn vết thương nhiễm trùng, hoại tử, lan rộng mãi cho tới khi con vật kiệt sức... Tính Sơn thận trọng, nhưng lần này, tôi tin rằng cậu ấy đi lị nhiều quá nên...

Húc vụt kêu lên:

- Chết tôi rồi...

Rồi mặt cậu ta xanh xám lại. Tôi bảo:

- Bình tĩnh. Đằng nào chuyện cũng đã xảy ra.

Húc nói:

- Tại em. Em chủ quan. Tuần trước em xuống doanh trại thăm nó. Nó cứ đuổi em quầy quậy: “Thủ trưởng đừng lo, em phấn đấu được, em sắp khỏe rồi, thủ trưởng cứ yên tâm làm việc.”

Húc nghiến răng lại, hai đường gân nổi dọc quai hàm:

- Thật không ngờ, không ngờ...

Một tốp lính nữa trở về, nhợt nhạt. Một cậu hổn hển:

- Báo cáo... Đã tìm thấy xác Sơn...

- Ở đâu?

- Ở tảng đá đen, khúc suối quành. Hổ đã ăn mất hai đùi và ít gan.

Húc đột ngột gầm lên:

- Thôi, không phải nói nữa. Mang nó về doanh trại khâm liệm.

Cậu ta quay đi. Mọi người im lặng. Không gian cũng lặng tờ. Rồi, bất chợt, tiếng chim rừng lảnh lót vang lên, vô tư một cách độc ác. Tiếng chim chào đón bình minh.

Từ sau lưng tôi, một người lính vượt lên:

- Báo cáo anh, đoàn Vân kiều đã tới nhận hàng.

Húc quay lại:

- Được Tôi ra ngay.

Mắt cậu ta đỏ kè:

- Thật không ngờ, không ngờ cái cỗ hòm dư ra lại để dành cho nó.

Rồi Húc bảo tôi:

- Anh chờ em tí nhá, em phải ra giao hàng.

- Tôi cũng phải đi. Tôi phải trông nom trên một trăm con người như cậu. Mong là chúng ta còn gặp nhau.

Tôi nắm tay Húc, hai bên mép cậu ta hằn nếp nhăn đau khổ.

Tôi bảo:

- Tôi đã từng gặp cảnh tương tự... Tôi hiểu. Nhưng cố mà dẹp nỗi buồn. Chúng ta phải chấp nhận tất cả, vì không có quyền lựa chọn...

Húc ôm chầm lấy tôi. Chúng tôi cứ ôm nhau như thế hồi lâu, tới khi đám người Vân kiều từ chân núi leo lên.

Húc buông tôi ra:

- Anh đi mạnh khỏe nhá.

Tôi đáp:

- Ừ, sẽ gặp nhau.

Biền đưa tôi xuống bếp lấy thức ăn đi đường. Một gói lá chuối buộc sẵn, nặng chịch. Ba phong lương khô với hai hộp thịt.

Tôi hỏi:

- Mày kiếm đâu mà lắm thết

Biền bảo:

- Khắc có.

Rồi Biền đeo ba-lô, tiễn tôi một đoạn đường. Khi xuống thung lũng, tôi nhìn thấy đám Vân kiều đi thành hàng, mỗi người cõng trên lưng một cỗ quan tài. Lưng họ gù xuống, vóc thấp bé nên trông họ giống như những người dân đồng chiêm cõng chiếc thuyền nan.

Tôi bảo Biền:

- Nặng thế mà sao họ cõng nổi!

- Cũng phải quen. Đoạn này xe không vào được. Họ phải cõng hàng sang qua núi bên kia...

Tôi gật đầu, ngẫm nghĩ: “Ừ, cũng phải quen thật... Con người phải học thói quen...”

Mặt trời đã lên. Sương đóng không còn màu men rạn mà biến thành những lớp mây ngọc trai óng ánh. Các ngọn cỏ leo và các đọt cây nhuốm mặt trời hóa trong suất, hồng hồng...

Đoàn người mang những cỗ quan tài in hình trên đường viền của núi, giữa khung cảnh rạng đông. Bóng họ đi động chậm chạp nhưng kiên nhẫn, mê mải. Hành trình. Con người tự vắt kiệt sức mình để đem được quà dâng cho chiến trường. Trong các tặng vật ấy, biết đâu chẳng có một chiếc dành cho tôi?... Và tôi, và bất cứ người lính nào cũng đã sẵn sàng tiếp nhận món quà kì lạ đó... Trong cả hai hành động, có chung vẻ đẹp tuyệt vời của chiến tranh.

Bất chợt, tôi sực nhớ tiếng kêu xé ruột, man đại của mẹ tôi, gương mặt dầm mồ hôi, nỗi đau làm méo mó một cách kinh dị. Rồi cũng chính trên gương mặt méo mó kinh dị ấy, ngời lên nụ cười rạng rỡ hạnh phúc khi tiếng khóc oe oe của đứa con cất lên và đôi bàn chân đỏ hỏn của nó quẫy đạp trong không khí... Đó, vẻ đẹp mặn mòi của đời sống, vẻ đẹp của tạo sinh.

Vẻ đẹp ấy đã xa vời. Nó lẩn khuất với những kỷ niệm vụn vặt thời thơ bé. Tôi bỗng kinh hoàng. Người ta không thể cùng một lần đắm mình vào hai dòng nước.

Tôi, tôi và những bạn hữu của tôi, chúng tôi đã sống đời lính quá lâu, chúng tôi đã đắm chìm trong vẻ đẹp thời binh đao... Liệu bao giờ, và có thể được chăng, tìm lại ngọn nguồn của vẻ đẹp tạo sinh, niềm đam mê của đời sống an bình?...

Tôi dừng lại, bảo Biền:

- Thôi, mày về đi.

Biền dặn:

- Đi cẩn thận nhé.

Tôi bật cười, buột mồm văng tục:

- Cẩn thận cái cục cứt! Bom đạn tránh người chứ người làm sao tránh được bom đạn. Thôi, về đi. Khỏi lo cho tao, liệu mà lo cho cái thân mày.

Biền làu bàu:

- Rõ thật là...

Tôi giơ tay chào rồi quay phắt đi.

Tôi rất sợ những cuộc chia tay bịn rịn. Nó làm tim ta não nề, ngấm mãi nỗi buồn vào những tháng năm sau...

Chương 10

Tôi thấy mẹ tôi ngồi trên bậc cửa, chân duỗi dài, cho một cái đầu lâu bú. Bầu vú của mẹ, quá quen thuộc với tôi, một bầu vú tròn, mịn, với núm vú rất nhỏ màu nâu hồng.

Mẹ ấn núm vú giữa hai hàm răng trắng nhởn của chiếu đầu lâu.

“Bồng bồng, bống bống, bang bang...”

Lời ru bay lên tận đỉnh trời. Và tận đỉnh trời, nắng vàng rây xuống. “Bồng bồng, bống bống, bang bang...”

Em tôi đã chết, cớ sao mẹ làm vậy?... Mẹ cứ ấn mãi núm vú giữa hai hàm răng khô. Nước mắt mẹ lã chã rơi, nhỏ vào hai hốc xương tối thui. Nhưng mà cái đầu lâu cứ nghiến chặt hai hàm răng như thế. “Bồng bồng, bống bống, bang bang...”

Tôi tỉnh dậy, thấy mình ngồi tựa vào một gốc cây sồi ma ven đường. Ba lô và nửa gói cơm lăn lóc bên cạnh. Một đàn kiến leo qua đùi tôi để tiến công món ăn béo bở đó. Tôi

vội vàng mở lá gói, đuổi kiến. Rồi tôi cột chặt gói đồ ăn vào ba lô tiếp tục đi. Mặt trời rọi thẳng trên đỉnh đầu. Một giấc mơ đúng ngọ...

Chân trời tiền duyên lúc ấy tím ngắt. Chỉ quanh quẩn khóm chuối tan nát với những mảnh cột kèo. Hố bom thật chăng? Vì tất cả đã xáo trộn nháo nhào. Chợt một người đàn bà bận quần áo đen tất tưởi chạy đến. Vừa chạy, chị ta vừa hét:

- Chú tê đứng đó mần chi?

Tôi quay lại:

- Chào chị.

Hình như không nghe thấy tôi chào, chị ta hét tiếp:

- Đứng đó mần chi?

Tôi đi tới trả lời:

- Em tìm ông cụ... với con cháu nhỏ...

Không đợi tôi nói hết câu, chị bảo:

- Bom đánh trúng lỗ đáo, hầm trú rồi...

Đoạn, chị kéo tay tôi:

- Đi đi ngay khỏi đây, đi đi...

Tôi chạy theo chị. Lát sau, tới trước cửa hầm, chi mới dừng lại thở hổn hển và giải thích:

- Bom đánh chừ đó. Tới giờ cao điểm rồi... B52 nó rập đúng giờ lắm...

Vừa lúc, từ trong miệng hầm, ba bốn cái đầu nhô ra:

- Mạ, mạ...

Người đàn bà kéo lay tôi:

- Vào đi

Hầm sực mùi xăng, mùi cát, và cả mùi bọ chét. Nó khiến tôi nôn nao. Lúc sau, quen bóng tối, tôi biết chị không phải có ba hay bốn mà tới sáu đứa con. Sáu đứa trẻ lóc nhóc sàn sàn nhau như một bầy vịt chưa ra ràn. Chúng quây lấy tôi:

- Cháu chào chú bộ đội.

Tôi chưa kịp đáp lời chúng thì đứa lớn nhất bọn đã ngỏng cổ nghe ngóng rồi hét:

- Hắn tới đó!

Theo hiệu lệnh ấy, cả bọn chui xuống tấm ván ngựa kê giữa hầm, đứa nào đứa nấy rúc đầu vào trong chổng mông ra ngoài. Mẹ chúng hét:

- Rúc xuống ván chưa?

Cả sáu cái miệng đồng thanh:

- Rồi i i.. Mạ nờ……ờ...

Tới đó, tiếng bom bắt dầu rền như sấm.

Người đàn bà, hai tay bịt tai, miệng hét to:

- Chú bịt tai lại lẻo lộng óc chừ...

Tôi cười thầm thấy chị chỉ huy tôi cũng như đàn con nhưng tôi làm bộ áp hai lòng tay lên thái dương cho chị hài lòng.

Trận bom rền liên tục ba đợt. Chắc tốp B5Z này gồm ba chiếc. Lòng đất rung lật bật từng hồi khiến cát sỏi từ nóc hầm lọt qua phên lót rơi lắc rắc xuống đầu tóc tôi và mặt ván ngựa. Hai mươi phút sau, tất cả lại yên tĩnh.

Lũ trẻ lốc nhốc chui ra, lắc đầu, nghiêng tai cho hết cát. Mẹ chúng bảo:

- Để yên cho chú nghỉ, không đứa nào được quấy nghe.

Chị quay sang bảo tôi:

- Chú nghỉ đi, tui trộ ( Tiếng vùng Bình Trị Thiên- Tui: tôi, Trộ: nhìn thấy. ) chú xanh mét... Nghỉ đi rồi, tui kêu dậy ăn trưa.

Tôi xúc bát gạo đưa cho chị, đoạn leo lên bộ ván nằm.

Bộ ván gỗ mát như thạch. Tôi tức khắc ngủ ngay. Giấc ngủ êm, không mộng mị...

Rồi một dàn âm thanh ran như pháo bên tai tôi:

- Chú bộ đội, dậy ăn cơm...

- Chú ơi, má tui biểu kêu chú dậy...

- Bớ chú bộ đội, dậy mau tề...

Tôi ngồi lên, năm cặp mắt nhỏ long lanh, năm cái miệng nhỏ chẩu ra chờ nói. Tôi cười. Đứa con gái lớn nhất, chừng tám chín tuổi đang giúp mẹ dọn cơm. Tôi nghe nó

nói:

- Tụi hắn đi rồi. Mang cơm lên trên (Tiếng vùng Bình Trị Thiên- trên ấy) mà ăn.

Người đàn bà cự nự:

- Mày chỉ bày việc. Ăn dưới hầm.

Con bé lảu nhảu:

- Mần răng mà mẹ nạt tui?

Mẹ nó quát:

- Ôi chao, cái miệng mi nhọn rứa?... Mang cơm lên trên.

Con nhỏ cười hi hí. Nó bưng mân lên hầm. Tụi trẻ reo:

- Lên trên, lên trên...

Rồi chúng túm áo tôi:

- Ăn trên... chú bộ đội... Mạ cho lên trên...

Mâm cơm bày dưới gốc cây mít. Thứ mâm hình vuông, chân cao chừng non gang tay, đóng bằng gỗ. Trên mâm chất tú ụ sắn cơm, loại sắn tôi từng ăn ròng rã mùa mưa ở Quảng Bình. Một nắm muối đâm với ớt và mắm tôm đặt lên lá mít.

Lũ trẻ ngồi xúm xít xung quanh, chờ đợi. Nắng rực rỡ khiến mắt chúng hấp him, cánh mũi chúng nở ra vì hít gió.

Ở dưới hầm nhiều, chúng nhớ hơi gió. Đứa con gái lớn ra giọng răn đe:

- Ngồi im nghe, chờ mạ. Đứa nào hoang (nghịch.), tao khẻ (đánh) què tay.

Cặp mi đen rướn cong như mi thiếu nữ. Lúc ấy, người đàn bà từ dưới hầm đi lên, một tay bưng tô cơm vun tới ngọn, một tay bưng tô canh:

- Rồi..i i...

Chị đặt tô cơm, tô canh xuống góc mâm còn trống, đoạn lấy chiếc bát úp trên tô cơm với đôi đũa đưa cho tôi:

- Chú ăn cơm. Nhà không có chi. Lưa (còn) mấy con tép khô nấu canh chua me cho chú.

Chị lựa sắn, nhấc củ to, đặt củ nhỏ, sao cho sáu phần sắn như nhau:

- Nè, phần con Hoa, phần con Hà, phần con Hướng...

Những đứa bé chìa tay nhận phần sắn, nhưng mắt chúng liếc tô cơm lén lút rồi vội cụp mi xuống. Tôi giữ tay người đàn bà:

- Chị chia cơm cho các cháu. Em ăn sắn.

Chi lắc đầu:

- Không được.

Tôi nói:

- Chi không chịu, em không ăn.

Chi bảo:

- Chú phải ăn mới có sức leo núi, mới có sức đánh Mỹ.

Tụi con tui đang tuổi lớn, ăn chi cũng lớn.

Thằng bé nhỏ nhất chợt nhìn thấy một cục cơm lăn xuống mâm. Nó nhặt bỏ vào miệng. Con chị cả hét lên:

- Hư, răng mi dám ăn phần cơm chú bộ đội?... Ai đánh Mỹ cho mi hả ả ả...?

Nó đập vào tay em. Thằng bé, nhiều nhất cũng hai tuổi rưỡi òa lên khóc... Tôi giữ tay người đàn bà:

- Chị không được làm thế. Trước ở Quảng bình, em ăn sắn trừ cả mùa mưa. Vả lại, sắn cơm ăn không biết chán.

Chị cau mày, nói gay gắt:

- Tôi không đôi co với chú mấy hạt cơm. Trước kia, nhà tôi thóc tràn vựa, tôm bạc cả thúng, có thèm khát chi mô. Chừ, lâm cảnh binh đao, phải chiụ cực mới đánh được

giặc chớ?

Tôi lắc đầu:

- Không.

Người đàn bà ngọt giọng năn nỉ:

- Chú không chịu hiểu điều phải quấy. Chú có nhiệm vụ ăn để lên đường đánh giặc.

Tôi bảo chị:

- Em không nói lý luận. Nhưng nếu chị không nghe, em sẽ đi ngay.

Tôi đứng lên, làm bộ bỏ xuống hầm lấy ba lô. Tới đó, người đàn bà đầu hàng. Chị hớt hải níu áo tôi:

- Nè, thì thôi... Tui nghe chú...

Chị sớt cơm cho lũ trẻ, nhưng vẫn ép tôi ăn một bát.

Chị không đụng tới một hạt.

Tôi nhìn người đàn bà mới ba mươi tuổi mà nếp nhăn chi chít hai bên khóe miệng, tự hỏi: Chị là ai và chị sống ra sao?... Chừng như hiểu nỗi băn khoăn đó, chị cười:

- Chú đừng lo cho tui. Xưa nhà tui hai tòa gỗ đỏ như son. Chồng tui đem dỡ lát đường cho xe kéo pháo (Xe chưa qua, nhà không tiếc)... Mà đó là gia cơ mới tu tạo một đời. Hồi cải cách, bố chồng tui bị quy phản động, còng tay đem ra trường bắn. Trên đường đi, có lệnh hoãn thi hành án, đem giải lên tỉnh. Từ tỉnh, người ta đưa ông lên giam trên rú (rừng). Vậy mà ông vượt ngục, lần lút trên rú sống một năm. Tới khi sửa sai rồi, được trả lại Đảng tịch, ông mới về... Lúc tui về làm dâu, ba bố con rúc trong cái chòi lá. Bảy năm sau,

bố chồng tui cất nhà ngói to nhất làng.

Tôi hỏi ướm:

- Anh đi đâu chưa về?

Người đàn bà đáp:

- Chồng tui hy sinh hồi tháng chạp năm ngoái. Anh ấy là đội trưởng đội vận tải đường thủy.

Tôi nhìn chị ngạc nhiên:

- Vận tải đường biển?

- Phải. Tui gốc dân biển. Nhưng từ hồi đánh Mỹ, nửa làng sơ tán lên đây...

Nói rồi, chị vuốt tóc đứa con trai nhỏ nhất:

- Mai sau cu sẽ về đi thuyền. Còn hai thằng anh thì lên rú lấy gỗ dựng nhà cho mạ...

Ngưng một lát, chị tiếp:

- Miễn là, giặc Mỹ cút đi...

Mắt chị mơ màng nhìn xa... Tôi biết, phía ấy là biển. Sẽ có một con thuyền chờ đợi chàng thủy thủ tí hon cởi truồng đang ngồi thèm thuồng liếm từng hạt cơm dính trên mép

tô. Miễn là... còn có ngày ấy...

Tôi chào chị, ra đi, tiến đến chân trời tiền duyên. Vào phút đó, nó tím như một miền cúc tím...

Thần may mắn chưa rời bỏ tôi. Đang thất thểu đi, vớ ngay được một đoàn xe tải. Tôi đứng chắn đường. Chiếc xe thứ nhất dừng lại cách tôi hai mét:

- Điên hả?

Tay lái xe hét xong, nhảy xuống nói to:

- Phanh trợt mẹ nó rồi! Có ăn bánh đâu?... Suýt nữa thì toi mạng, mà lại đưa người ta ra tòa án binh. Oan gia...

Tôi nhăn nhở cười:

- Xin lỗi người anh em... thông cảm.

Tay lái xe gắt:

- Lên đi, bố già.

Tôi lẳng lặng leo lên ca bin. Đi được một đoạn ngắn, anh chàng quay sang hỏi tôi:

- Ông tên gì?

- Tôi là Quân.

- Còn tôi là Vũ, hai lăm tuổi. Quê Hưng khôi. Còn ông... chắc ba mươi nhát có lẻ?

- Mới hai mươi tám nhát nhưng sầu đời nên tóc bạc!

- Tôi ở Đông tiến.

- A ha à à... Thế là huyện ông sát nách huyện tôi!

Chúng ta là anh em đồng hương. Kết nghĩa vườn đào nhá?

- Đồng ý.

- Hội đồng hương trong sư tôi đã tới hai mươi ba nhân mạng. Ông tham gia nhé?

Tôi đáp:

- Được thôi.

Một cú xốc khiến tôi chồm về phía trước, chút xíu là đập đầu vào cửa kính. Vũ bậm môi đánh vô lăng rồi nói:

- Cẩn thận. Đoạn này đường lởm lắm... Không chú ý là vập gẫy răng!

Tôi túm chặt thanh chắn, thò cổ nhìn ngoài. Trong ráng chiều, những bụi cây lạc tiên bám đầy bên thành ta-luy vàng rực. Phía dưới tàn lá của chúng, ló lên những túm dương xỉ màu ngọc già... Và những ngọn cỏ leo!! Tôi bàng hoàng đưa mắt nhìn ra xa: một thung lũng mênh mông trải tới chân trời.

Vũ hỏi:

- Ông qua đây rồi chứ gì?... Thung lũng Bảy-oan-hồn đấy. Tởm lắm, lơ mơ là làm mồi cho mối như chơi!

Tôi lặng im, cố tìm cho ra vùng rừng cũ. Những đám dương xỉ, cỏ leo... và sau đó là rừng môn thục. Bộ xương trắng trẻ trung cười... "đằng ấy đừng oán hận gì tớ nhé. Tớ đã mang ba lô đến tận làng Em nơ, giao cho mẹ. Tớ không ở được lâu vì người đèo tớ đến đàng ấy là một gã khó tính, tớ không muốn làm phiền hắn..." Tôi khấn thầm. Tôi đã đến Em nơ, hỏi thăm bà Đào thị Lý, Người ta chỉ cho tôi tới một bà lão nhỏ nhắn, tóc muối tiêu ngồi bán hàng ngay dưới gốc đa đầu đình. Khi tôi tới, bà đang chuyện trò rôm rả với hai người đàn bà khác, tay không ngừng phe phẩy chiếc quạt nan trên chõng hàng. Tôi chào bà rồi gỡ ba lô xuống. Nhìn thấy chiếc ba lô, mặt bà trắng nhợt. Bà hét:

- Con ơi... rồi ngã lăn. Người ta bôi dầu vào hai lòng bàn chân, cõng bà vào nhà.

Một trong hai người đàn bà ngồi lại trông hàng kể với tôi:

- Bà cụ chỉ có một mình nó. Ông cụ chết đúng năm bà cụ mang thai. Làm đám tang chồng được ba tháng thì sinh nở. Phúc đức là thằng bé ngoan, lại có tài gảy đàn bầu, thổi

tiêu, thổi sáo. Gái làng mê tít mà nó chẳng để mắt cô nào... Con trai lớn tướng vẫn còn lẵng nhẵng bám đũng quần mẹ.

Từ ngày nó đi, đã tám năm, ngày nào bà cụ cũng dậy từ mờ sương làm hàng bán... Nhặt từng hào để sau này lấy tiền cưới vợ cho con... Chõng hàng của bà lão có đủ thứ: bún

riêu, bánh đúc, bánh dợm, bánh đa lại thêm mấy lọ kẹo bột, kẹo vừng, kẹo bi xanh đỏ...

Vũ đột ngột hỏi:

- Làm gì mà thộn mặt ra thế. Nhớ mẹ à? Hay nhớ nàng?

- Đâu có.

Tôi chưa trả lời hết câu thì lại một cú xốc mạnh. Vũ nói:

- Đã bảo mã... Đoạn này đường tởm lắm. Nó men theo phía đông thủng lũng Bảy-oan-hồn... ông nhìn rõ chưa?

- Ở cũng rõ. Trừ phía kia, chỗ rừng màu cúc gấm.

Vũ quay đầu nhìn hướng tay tôi chỉ rồi đáp:

- Đó là rừng thộp. Mà chính nó là điều khủng khiếp nhất với lính. Thung lũng này mang tên Bảy-oan-hồn cũng vì thế... ông thấy không, phía đông và phía nam thung lũng có màu xanh khác: ấy là màu rừng gai, dương xỉ lẫn môn thục ở các chỗ trũng. Nửa phía tây và tây bắc toàn thộp. Rừng thộp ăn lan qua các dãy núi bên kia. Lạc vào đó, mênh mông bể sở, không sao lần được lối ra: Cây thộp giống nhau như gạch cùng một khuôn nên không dễ gì tìm đặc điểm điạ hình, đia vật. Tôi đã bi lạc cũng chính từ cái rừng thộp ông vừa chỉ lúc nãy...

Tôi hỏi:

- Thông tin, hay công tác đặc biệt?

Vũ lắc đầu:

- Khốn nạn, công tác công teo gì... Tôi đi ị. Lúc ra, không tìm thấy đường. Quay tứ bề, thấy chỗ nào cũng thế, hệt như bi bỏ bùa mê. Cứ vậy là lặn sâu vào rừng thộp. Hú

gọi, kêu gào chẳng ai nghe. Lại không mang súng bắn báo động. Gọi mãi không được, đành liều đưa chân. Càng đi càng mê man những thộp. Mà ông biết, chẳng tìm được cái

gì bỏ vào mồm. Hai tay trắng, dao không, bát chén không, bật lửa cũng quên trong ca bin... Năm ngày trời, tôi loanh quanh như hồn ma, không hột cơm, không ngụm nước. Tới

ngày thứ sáu, không bò được nữa, lăn ra gốc cây chờ chết... Đúng lúc ấy, đơn vị đổ đi tìm. Anh em thương tôi nên giao hàng xong, họ xin thêm người, chia làm ba tốp đi lùng sục. Vừa tìm vừa bắn súng báo hiệu cho nhau. Họ thấy tôi ngất xỉu dưới một gốc thộp, liền cáng về. Trên võng, tôi mê man. Khi bình phục rồi, anh em kể rằng: “Trên đường tìm tôi, họ qua một hang đá. Trước cửa hang có bảy bộ xương người. Da thịt, áo quần, giấy tờ, ba lô... Tất thảy đã bị mối ăn. Chỉ còn bảy bộ xương và bảy khẩu súng hoen rỉ. Xung quanh, mối đùn từng ổ. Từ đấy, chúng tôi đặt cho thung lũng này cái tên thung lũng Bảy-oan-hồn."

Tôi im lặng nghĩ tới oan hồn thứ tám. Và biết đâu, thứ chín, thứ mười?... Làm sao đếm được chính xác những oan hồn trong cuộc binh đao?...

Vũ hỏi:

- Chẳng biết sau chiến tranh, người ta có tới nhặt xương lính không nhỉ?

Tôi nói:

- Chưa biết... Nhưng trường hợp thất lạc thế... thì cũng khó.

Vũ chép miệng:

- Đến lúc ấy thì cũng mục mẹ nó rồi còn gì!

Tôi không trả lời. Xe rù rù chạy. Lát sau, Vũ bảo:

- Tí nửa nghỉ nấu cơm ăn. Tôi sẽ giới thiệu ông với các đồng hương. Chắc mọi người sẽ vui lắm.

Chương 11

Tôi nhớ khôn nguôi người đàn bà mộng tưởng của tôi, người đàn bà đi qua đường chân trời. Gương mặt ấy ngời ánh sao trong đêm lúa vàng rượi. "Bao giờ mình cưới hả anh?” Cái eo lưng mảnh mai đến thế. Và ánh nhìn xanh xao của em ngày tôi nhập ngũ, ánh nhìn vời vợi qua những con đường lầm bụi, nhưng con đường thối rữa trong bùn, những con đường mục nát cây cỏ và tử thi... Tôi nhớ khôn nguôi, người đàn bà xa vắng của tôi. Gương mặt ấy mơ hồ, có lúc hao gầy, có lúc tươi thắm như gương mặt mẹ ngày xưa với tiếng cười lảnh lót rạng đông, với cái nhìn không bao giờ vơi cạn, với cả điệu nựng nịu ngây ngô và bất tận.

“Bồng bồng, bống bống, bang bang...”

Nắng vàng tự đỉnh trời rãy xuống.

Ở sư đoàn, Lương bảo tôi rằng trong thời gian tôi đi vắng, Lũy đã mắc chứng bệnh điên, thêm trầm cảm. Một tuần lễ, cậu ta ủ rũ không nói, xê phó Khuê hết dọa nạt lại dỗ dành cũng không moi được một lời. Sau đó, sang ngày thứ tám, Lũy không ăn uống, không đi ra ngoài. Cậu ta chúi đầu vào một xó nhà, hai tay lúc nào cũng giơ lên che mặt. Hễ ai tới gần lại rú lên sợ hãi. Sang ngày thứ mười, Lũy không chỉ sợ người lại sợ cả ánh sáng. Cậu ra rúc dưới tấm chăn, nhất đinh không chịu bỏ ra. Lũy gầy rộc đi, hôi hám, con mắt lơ láo như mắt thú bị đạn. Sư đoàn đã cho chuyển cậu ta tới bệnh viện quân khu. Từ đó tới nay chưa có tin tức gì.

Lương an ủi tôi và bảo tôi về đơn vị chuẩn bị. Chúng tôi sắp tham gia một trận đánh lớn.

Khi tôi kể chuyện Biền, chuyện gia đình anh và làng xóm, anh chỉ lặng yên nghe. Tôi hơi bực nhưng lại tự an ủi rằng thời thơ ấu đã qua lâu rồi. Giờ Lương là sư phó, hàm đại tá. Sự vinh quang chờ đợi anh ngay bên kia ngưỡng cửa.

Anh không thể còn là người bạn nguyên vẹn của tôi. Anh bắt đầu bài tập chối bỏ gốc rễ...

Tôi chào anh, hậm hực đeo ba lô về đơn vị.

Trận đánh của chúng tôi tuyệt đẹp. Sóng Sông Hồng đã đại thắng, chứng minh khả năng kỳ lạ của kỹ thuật chiến tranh. Một trung đoàn đích bị xóa sổ, hai trung đoàn tan tác. Chúng tôi được lệnh rút về hậu cứ nghỉ ngơi, nuôi dưỡng sức lính.

Dọc đường hành quân, một hạ sĩ vấp mìn chết!

Anh em bảo cậu ta mò vào rừng đi đồng hay đi tiểu. Nhưng khi mở chiếc ba lô nặng chích ra kiểm kê, tôi thấy hơn ba chục chiếc vừa thìa, vừa dao, vừa nĩa... Toàn đồ i-nốc Mỹ. Chút nữa tôi hạ lệnh quẳng cả mớ đồ xuống suối. Rồi tôi nghiến răng lại. Có ích gì đâu chút đau đớn của kẻ nghèo? Anh em trong đơn vị ngạc nhiên vì thấy tôi nổi khùng lên vô cớ. Họ im lặng chịu đựng. Còn tôi, tôi lỉnh ra bờ suối một mình.

Ở đó, tôi đốt thuốc liên miên, nhìn những vòng khói uốn lượn rối ren. "Đồ khốn! Lẽ ra tao phải dựng xác mày lên cho mấy cái tát. Cớ sao mày dám đổi mạng lấy một món chiến lợi phầm khốn cùng?" Tôi chửi rủa người đã chết. Tôi tự chửi rủa mình.

Sau rốt, cánh đồng lênh láng nước hiện lên với đàn cò trắng. Những con chim kiếm ăn chốn bùn lầy. Những con chim cùng khốn... Tôi thấy các lùm tre quằn quại trong gió và đàn cò ướt lướt thướt, lông cánh xác xơ dò dẫm bước ven đầm...

Giấc mơ quen thuộc trở lại ám ảnh tôi. Trong khoảng một năm lại đây, nó như kẻ đòi nợ thuê lẽo đẽo theo tôi khắp mọi ngả đường. Lại một chân trời mịt mù, vô định.

Con tàu lang thang. Những chiếc toa rỗng xô nhau lịch kịch nơi mối nối đường rầy. Ngọn đèn ám khói lắc lư và thi thoảng, tiếng còi rúc từng hồi ảo não nhuốm lên cảnh tượng nỗi buồn vô hạn.

Gió lang thang trên con tàu lang thang, cuốn từ toa này sang toa kia những tờ giấy vụn, những trang sách giáo khoa bị mọt ăn dở, những mảnh giấy thấm chằng chiu hình vẽ và chữ ký... gió lăn từ toa này sang toa kia những viên phấn gãy bình mực cạn, chiếc mũ trắng, ngời bóng dáng mùa hè thơ ấu. Những đồ vật vỡ vụn ấy lăng lông lốc, cười rốn ráng hòa với tiếng còi thê lương.

- Báo cáo thủ trưởng...

Tiếng quen thuộc. Nhưng nó bị chìm trong các âm thanh khác. Con tàu bổng thét lên hồi còi dài, lao rầm rầm trên đường rầy như kẻ mắc chứng khùng, rồi, sau dó, mất hút nơi chân trời ảm đạm. Thay vì nó là những con chim đen tử đồng cỏ ướt, lướt thướt nhoi lên. Chúng không bay mà sải cánh đi trên bình nguyên, bước đi vụng về dữ tợn.

Chúng đến gần, mỗi lúc mỗi gần. Tôi kinh hoảng vì nhận ra đó không phải là loài cò loài diệc hay những con ngỗng trời phiêu bạt. Đó là những con kên kên, loài chim ăn thịt, kẻ thu dọn bãi chiến trường, loài vật ám ảnh giấc mơ đúng ngọ và khoảnh khắc lạc hồn của người lính.

Chúng tiến về phía tôi, lúc lắc cái đuôi bẩn thỉu, đầu chúi về phía trước và há ngoác ra cái mỏ đỏ lòm, - hình ảnh ghê rợn nhất đối với tất cả những ai đã từng sống trên vùng rừng núi này - nó gợi ra những bản làng cháy thui rụi, ngổn ngang xác chết trương phềnh, những thung lũng ngập ngụa máu thịt, mùi thối khẳng, dòi nhặng vo ve..., ánh nắng cô đặc tất cả để khảm vào trí nhớ.

- Thủ trưởng...

- Báo cáo thủ trưởng...

Không chỉ là tiếng gọi mà cả hai bàn tay ai đó lay dữ dội. Tôi choàng dậy. Trung đội trưởng Mão đứng đầu giường:

- Báo cáo thủ trưởng: “đồng chí Hùng vừa đâm vào mạng sườn đồng chí Tếu.”

- Tại sao?

- Báo cáo, họ trêu nhau. Rồi đồng chí Hùng nổi cơn.

- Vết thương cậu Tếu ra sao?

- Y tá đơn vị khám sơ sơ cho biết: vết thương dài bảy phân, sâu khoảng từ năm đến bảy, chắc chắn chạm lá lách.

- Chuyển thương ngay.

- Vâng, tôi cũng đã chuẩn bị tư tưởng để chuyển thương. Hiện y tá đang băng bó.

- Còn cậu Hùng?

- Dạ...

Đồng chí dạ cái gì?... Trong trường hợp này, xứ lý thế nào?

- Dạ... dạ...

Mặt anh ta tái đi, miệng lúng búng. Rõ ràng cậu ta sợ.

Tôi cười gằn:

- Việc xảy ra trong trung đội của đồng chí. Lẽ ra phải bắt giam kẻ phạm pháp ngay. Không làm nổi, chắc tôi phải thay thế kẻ bị giam là đồng chí...

- Dạ... báo cáo... dạ...

Mão đứng nghiệt ra, miệng lắp bắp một cách thảm hại.

Tôi dằn giọng:

- Ra lệnh bắt giam ngay kẻ phạm tội. Cử người chuyển thương lên trạm phẫu. Sau đó, đồng chí trở lại đây gặp tôi tường trình.

- Báo cáo, rõ.

Mão đi.

Tôi ngao ngán. Tôi đã mơ tưởng đến một ngày an vui.

Lâu lắm đơn vị mới có được những ngày nghỉ ngơi thoải mái như bây giờ. Thêm nữa, sau hàng năm trời nghiền măng với rau rừng, ba tuần nay thực phẩm được cung cấp thừa thãi.

Đường vàng phễu và B5 đã mở, quân 559 chuyển vào đây nào gạo, nào thịt hộp, cá hộp, nào mỡ tổng hợp, kẹo Hải châu, lương khô BA70, mắm tôm đặc, ca-la-thầu... Sang trọng hơn cả là sữa hộp Liên xô và bột trứng Trung quốc.

Hôm qua, tôi họp các trung đội trướng, hạ lệnh phát gấp đôi suất thực phầm cao cấp để liên hoan. Tôi cũng yêu cầu mọi người để cho tôi ngủ bù vì suốt bốn đêm qua, tôi thức trắng viết báo cáo tổng kết gửi giao liên kịp mang lên trung đoàn trước ngày ấn định...

Vậy mà cơn mơ chưa tan, máu đã đổ!

Tôi sục chân vào giày, đi rửa mặt. Khi trở lại lán, trung đội trưởng Mão đã ngồi chờ. Hai tay anh ta khoanh trước ngực. Tôi ngồi đối diện với Mão, quẳng cho anh ta điếu thuốc:

- Hút đi.

Mão lật bật châm lửa.

Đó là một người chất phác, hiền lành. Nếu tạo ra bầu không khí nghiêm trọng, chắc chắn anh ta sẽ hoảng lên, rối loạn đầu óc. Nghĩ vậy nên tôi điềm tĩnh ni liền vài hơi thuốc rồi mới nói:

- Chán thật. Tới một ngày vui!

Mão thở dài nhẹ nhõm gật:

- Vâng, đáng lẽ thì thật là vui.

Tôi rít tiếp hơi thuốc, nhả khói thành vòng tròn và đưa mắt theo dõi những vòng khói lơ lửng bay lên. Bất giác, Mão cũng ngước mắt nhìn theo. Tôi hỏi:

- Các cậu đã ăn chưa?

- Chưa,... báo cáo anh, chưa kịp ăn mà đã xảy ra chuyện rủi ro mới bực...

- Hôm nay, anh em bày ra món gì thế

- Nhiều lắm: thịt hộp hầm măng, nộm chuối rừng, nộm rau mì chính với lại...

- Rồi chuyện xảy ra sao?

- A... a... Báo cáo anh, hôm nay bếp trưởng là cậu Tếu.

Cậu ấy làm món thit ếch tẩm bột trứng, rán...

- Bột trứng thì sẵn có nhưng ếch đào đâu ra?

- Báo cáo anh: thế mới rách việc... Cậu Tếu đổi nửa thùng bột trứng lấy góc con heo của người Vân kiều. Anh em đều khen là sáng kiến. Cậu ấy hấp thịt heo, thái từng miếng giả thịt ếch rồi đem nhúng bột trứng. Nhưng trước khi nhúng, cậu ta đã mút hết nước ngọt thành ra miếng thịt nhạt thếch như nước lã...

- Trò quỉ... rồi sao?

- Chưa hết ạ. Cậu ta còn lấy một miếng...

Mão ấp úng... Trông điệu bộ, tôi biết cậu ta ấp úng thật chớ không phải vờ vĩnh để che dấu một uẩn khúc nào. Tôi bảo:

- Cứ thẳng thắn nói cho tôi nghe.

Mão thoáng sượng mặt lại, nhếch mép cười rồi hạ giọng:

- Báo cáo... cậu ta lấy một miếng... bướm lợn... tức là bộ phận sinh dục của lợn cái, kẹp vào đó quả ớt, rồi đem tất cả nhúng bột trứng, thả vào chảo mỡ rán...

Chút nữa tôi phá ra cười: Cái trò ấy thì ông cố nội tôi sống lại cũng không nghĩ ra được. Trung đội trưởng Mão nhăn nhó:

- Báo cáo anh... Khi Tếu rán xong, Hùng sục xuống đòi nếm. Cậu Hùng có cái tính ấy từ lâu. Tếu để cho Hùng bốc sáu bảy miếng ăn rồi mới hỏi: "Hùng ơi, mày không thấy miếng thịt lợn này nhạt à?" Hùng hiểu ra... Vì chính cậu ta, hai năm trước, trong lần liên hoan tại rừng Chồi cũng đã mút hết nước tảng thịt bò luộc rồi mới thái cho anh em

trong đơn vị ăn.

- Chuyện có thế thôi?

- Báo cáo anh, còn ạ: Lúc Hùng biết, đinh xông đến đâm Tếu thì một cậu kéo áo Hùng lại bảo: "Mày dây với thằng ôn con đó làm gì cho hổ mặt anh hào, cứ chọn những miếng to miếng ngon chén sạch. Tí nữa thằng Tếu sẽ bị bọn chúng nó làm lông". Hùng bảo: "Được, phương án ấy hợp lý". Cậu ta sấn đến chộp miếng to nhất. Đó chính là cái...

- Biết rồi. Cậu Hùng ăn hết rồi mới vỡ lẽ?

- Không ạ. Cái đồ quỉ ấy dai lắm... xưa nay có ai ăn được đâu? Hùng cố ăn vài ba miếng. Sau đó, vừa dai vừa cay, cậu ấy phải lè ra. Anh em xung quanh cười phá lên. Hùng vỡ lẽ, rút dao nhảy xổ vào đâm Tếu. Sự việc nhanh chóng chớp mắt nên không ai kịp can.

Mão kể xong, khoanh tay chờ đợi. Nhìn mặt cậu ta, tôi biết chằng thể hỏi thêm điều gì, tôi nói:

- Đưa cậu Hùng lên gặp tôi.

- Vâng.

Mão đứng dậy, xăm xăm đi. Khi anh chàng trung đội trưởng bước ra tới cửa lán, tôi chợt thấy điều mình làm vô nghĩa. Tôi gọi Mão, bảo anh ta cử người canh gác Hùng cẩn mật, chờ sáng mai giải lên quân đoàn. Lúc ấy các lán khác lặng như tờ.

Sau biến cố, anh em buồn tẻ ăn cơm rồi im lìm về lán...

Không nghe thấy cả tiếng sát phạt quanh ván bài. Giờ này, mọi khi thường có những chiếu bạc... liền đặt là thuốc lá, kẹo bạc hà, kẹo cao su, dù pháo sáng, dao i-nốc và ảnh đàn bà. Dạo đói thảm đói sầu, không có gì đặt được, lính tráng chơi trò bôi râu và trồng cây chuối, bắt vạ anh nào thua.

Dẫu sao, đó cũng là những giây phút êm diụ.

Đời lính, niềm khao khát yên vui như con suối chảy giữa khe núi. Nó có thể chảy đến gặp được dòng sông, cũng có thể cạn khô dưới chân núi lèn đá. Sự rủi ro là chuyện cập nhật, đủ loại rủi ro... Vậy mà tôi chưa lường được sự rủi ro ngày hôm nay.

Miệng nhạt thếch, tôi đành moi bao thuốc chiến lợi phẩm để dành trong ba lô ra hút. Cậu liên lạc mang phần cơm trưa vào:

- Anh em đã ăn hết. Thủ trưởng mời cơm kẻo nguội.

- Được để lên bàn cho tôi. Cậu nghỉ đi.

- Báo cáo thủ trưởng, trông thủ trưởng xanh lắm.

- Cảm ơn, tôi sẽ chú ý. Cậu đi đi...

Tôi nhìn cậu ra rời khỏi buồng, nhanh như loài chuột nhắt. Con mắt tròn láo liên, thỉnh thoảng lại quét vụt lên.

Tôi không ưa thứ người như vậy. Bên dưới vẻ khúm núm ấy, chẳng biết ẩn giấu mưu cầu gì: xuất học viên sĩ quan ngoài miền Bắc? một kỳ nghỉ phép? một bậc quân hàm...

không loại trừ một âm mưu đào ngũ. Loại người như thế không ít, ta khó tránh. Cho nên, khi Thái đề cử cậu ta làm liên lạc, tôi gật đầu ngay. Tất cả những ai ở dưới quyền kiểm soát của tôi, tôi có nhiệm vụ bao dung họ. Mà cái nhiệm vụ đó cũng na ná như một thứ cực hình...

Giờ này, không hiểu kẻ phạm tội đang nghĩ gì. Những người đã trói và phải canh giữ cậu ta đều là bạn đồng ngũ, cùng nằm bên nhau trước vòng phong tỏa của địch, cùng ngồi sát nhau quanh chiếu chơi bài...

Tôi tìm mấy tờ giấy trắng trong xà-cột. Chính tôi phải viết tường trình về vụ này. Phải viết kíp gửi lên trung đoàn vào sáng sớm mai. Từ trung đoàn, người ta sẽ chuyển tội phạm sang tòa án binh, cách hành dinh hai cánh rừng. Ở đó có các trại giam và quản thúc. Tôi mới chỉ nghe nói chớ chưa từng đi tới.

Cây bút trong tay nặng trĩu. Tôi cúi xuống trang giấy lại vừa tách mình ra ngoài nhìn ngắm gã sĩ quan thi hành công vụ, một công vụ thảm sầu như của con trâu phải kéo cày san ủi mồ mả...

Tên: Phi Hùng...

Tuổi: 25

Quê quán: Không rõ.

Trú quán: Làng Mai động, quân Hai Bà Trưng.

Gã trai ấy là chiến sĩ giỏi trong đơn vị. Không có hiểm nguy nào làm gã chùn bước. Không tình huống nào khiến gã bối rối. Trời sinh ra gã để làm nghề giết người.

Đúng như sách Binh thư yếu lược đã dạy ta tiêu chuẩn tuyển chọn binh lính: Thượng đẳng là quân đầu trộm đuôi cướp không cửa không nhà, thứ đến bọn tứ cố vô thân, cầu bơ cầu bất. Bọn ấy liều chết chẳng tiếc thân.

Về tướng mạo, bọn đó có: Một gương mặt vẻ u ám, hình cong diệp cày, - mũi nhọn và khoằm - cằm rất dài nhô ra như mảnh sành vỡ dưới hai gò má bẹt, - hai mắt nhỏ, xếch, cái nhìn ngưng đọng như cái nhìn của loài rắn. Họ có dáng đi lừ đừ nhưng trong nửa giây thoắt biến thành con mèo rừng chộp mồi, sau đó tức khắc trở lại vẻ lừng khừng an nhiên.

Hùng thường nghĩ ra những cách giết người đặc sắc trong các trận giáp lá cà. Và gã kể lại cho đồng đội nghe với khoái cảm không che đậy. Kẻ thì gã xọc lê tử họng xuống tim, - kẻ gã chọc từ nách bên phải qua bên trái, - kẻ gã lại đâm từ hạ bộ ngược lên ở bụng. Kỳ thú nhất là một lần đánh ấp, gã bò vào phòng riêng một tên sĩ quan nguỵ, chờ tên này dính chặt với cô vợ trắng phôm phốp của y như một cặp cá thờn bơn, gã mới phóng lê tử trên xuống "Một xọc xuyên hai, bảo đảm là sướng mắt".

Có lần tôi vô tình hỏi Hùng: "Hôm tòng quân có em nào khóc trên vai câụ không đấy?". Gã bỗng trợn trừng mắt nhìn chằm chặp vào mặt tôi, tưởng tôi trêu chọc. Sau một lát biết tôi hỏi thật tình, gã bảo: "Chẳng đứa nào rỏ nước mắt cho em. Mà từ khi biết sự đời, em không nhớ có lần nào mình khóc. Thiên hạ chỉ cười thôi! Họ cười khi em bị đứa

nào đớ sừng hơn, quật ngã em. Hoặc họ cười vụng khi công an còng tay em điều qua chợ. Thủ trưởng biết không, làng em ở, chuyên nghề thịt trâu trộm. Thịt trâu trộm và trộm trâu là mặt lục và mặt nhất của con súc sắc. Em sống bằng hai nghề đó. Khi nào có tiền, em đánh bạc. Mười lần thì chín lần rưỡi là thua. Nhưng hễ vơ được tiền thì vơ cả nắm. Có nắm tiền trong tay, phải có lưỡi dao cắt lìa cổ thằng khác mới giữ nổi tiền."

Kể xong, gã cười. Đến giờ tôi vẫn nhớ cái cười ấy.

Tôi bắt đầu chú ý đến Hùng. Nếu không vì buổi tâm sự thì những thành tích chiến đấu của gã đã chinh phục tôi tuyệt đối. Gã nhiều tài vặt: thịt nai, thịt sơn dương, thịt dô ộc, không nói đến thịt trâu thịt lợn, kể đến thịt, voi gã cũng làm được khéo léo, trơn tru. Gã đan rổ đan rá cũng tài. Nghe đâu, trước khi trở thành thằng bụi đời ở chợ Mai động, gã đã từng ở quê vài năm. Gã chữa súng nhanh hơn cả những tay quân khí sừng sỏ. Đôi lần hứng lên, gã hát khá hay. Giọng gã ấm nhưng lời hát kinh dị:

"Con chó xồm nằm trong xó nhà

Cho một nhát là nằm quay lơ

Nào chả, nào hầm, nào xóc bún tao bằm thây

mày làm bảy món

Riêng cái đầu chặt giữ đem sấy khô... "

Gã chỉ hát đi hát lại mấy câu ấy suốt bảy năm trong quân ngũ. Có lẽ trong nhà tù gã cũng hát như vậy.

Tôi hơi thích gã, ít nhất gã cũng hấp dẫn hơn những thằng nịnh nọt như câụ liên lạc. Tôi cũng ghê ghê khi gần gã. Hùng không mái nhà trú thân, không anh em, họ hàng.

Bố mẹ đẻ không biết. Mụ chột mà gã nhận là mẹ nuôi, - chuyên mua rẻ đồ ăn cắp của Hùng và cho gã ngủ trên chiếc bàn bán quà vặt - chỉ là một liên minh ma quỉ tạm bợ của kiếp bụi đời. Có lẽ chính vì chẳng bận bịu gì với ai mà Hùng đã gia nhập vào cuộc sống này như một cuộc trùng phùng vô tiền khoáng hậu.

Tôi có một kỷ niệm với gã...

Dạo ấy, mùa thu oan nghiệt năm Mậu thân đang rà lưỡi hái của Tử thần trên đầu chúng tôi từng giây, từng phút, từng ngày. Mỗi chiều, - hoàng hôn tro xám nơi phương trời phía Tây, mịt mù khói súng và bụi - mỗi chiều chúng tôi lại kéo xác đồng đội rời khỏi vùng đất lầy máu thit, máu thịt tươi tanh ói của ban ngày, máu thịt thối nồng nặc còn lại từ hai, ba hôm trước và máu thịt lưu cữu đã qua bảy đêm sương bốc lên một mùi thối khẳn, - mùi thối độc địa không thứ văn chương nào tả nổi.

Trong ánh chiều chạng vạng, từng bầy dơi liệng một bên trời và đàn quạ bay bên trời kia buông tiếng kêu đỏ lòm thịt sống. Chúng tôi, đứa nào đứa nấy nhễ nhại mồ hôi, nhễ nhại máu, vác trên lưng cả súng lẫn tử thi. Có tử thi nguyên vẹn, có tử thi cụt đầu hoặc chân tay, gan ruột xổ lòng thòng.

Máu đồng đội quyện với mồ hôi muối xót thấm khắp người, trí óc mê mụ đi vì mệt mỏi, vì tuyệt vọng, chúng tôi dồn toàn lực vào cuộc rút chạy không phải vì ước vọng bảo toàn đời sống mà vì ý muốn điên cuồng tham dự vào cuộc chém giết sắp tới ngày mai. Chúng tôi phải sống để hai mươi bốn giờ nữa, hoặc bốn mươi tám giờ nữa, hoặc bảy mươi hai giờ nữa, những nòng súng của chúng tôi sẽ khạc lứa vào kẻ thù.

Trước luồng đạn ấy sẽ có những xác thịt đổ xuống, sẽ có những vòi máu phun lên, sẽ có từng bụm óc trắng phọt ra... sẽ phải có tất cả cái cảnh tượng ngoạn mục ấy, - vì chúng tôi đã từng trải nghiệm nó: Phương trình phải được cân bằng hai vế. Sự hủy diệt phải được hưởng thụ bình đẳng. Cái khát vọng điên cuồng ấy, lớn hơn mọi khát vọng, độc chiếm tâm hồn.

Buổi chiều hôm ấy, tiếng kêu chiu chít của bầy dơi hòa lẫn tiếng quạ đuổi theo đám làn quân tới tận cửa rừng.

Những cặp cánh đen loạng choạng giữa bóng chiều. Trời lặng gió, tim tôi ứ lên ngột ngạt. Tôi bảo anh em tạm nghỉ để lấy sức vượt qua quãng đường sau chót. Mỗi người kiếm một gốc cây, chúng tôi đặt xác đồng đội và vũ khí sang một bên rồi, kẻ nằm vật ra cỏ, người ngồi dựa gốc cây thở.

Không ai nhìn rõ mặt ai vì trời tối, nhưng tất cả đều ngấm đầy độc tố cay đắng, tủi hổ và thù hận. Tôi rờ rẫm lên mái đầu bết máu bụi của tử thi Hoàng, cậu lính trẻ nhất đơn vị. Đó là người trong trắng nhất trong đám chúng tôi. Hoàng mười tám, con đầu lòng của một gia đình trí thức, cha bác sĩ, mẹ giáo viên cấp ba. Hoàng có hai em gái.

Đỗ đầu trong khóa thi tuyển học sinh đặc biệt học toán Ở nước ngoài nhưng Hoàng đã tình nguyện nhập ngũ: "Không, giảng đường với tôi không cần thiết bằng chiến trường. Các giảng đường đã, đang và sẽ còn lâu dài với tất cả những ai mong muốn nó. Nhưng sứ mệnh lịch sử với Tổ quốc chỉ có trong cuộc chiến đấu này mà thôi. Tôi đã nghe tiếng gọi thiêng liêng đó... Tạm biệt mái trường thân yêu với màu phượng đỏ cháy rực trên bầu trời Thủ đô. Tạm biệt hồ Tây, Quảng bá, những vườn hoa lộng lẫy và những kỷ niệm êm đềm... Ngày nào đó chúng ta sẽ lại gặp nhau..."

Nhật ký của cậu bốc miên man... nồng nhiệt như thế!!

Gương mặt Hoàng thon thon, da trắng, môi đỏ, mắt trong veo như nước hồ. Hoàng ưa tắm giặt và thu dọn đồ đạc sạch sẽ, thích hái hoa rừng cắm nơi lán trú quân... Tất tật những thói quen của đời sống nền nếp đô thị đã quá xa xôi và lạc lõng với khung cảnh của cuộc chiến.

Tôi mến Hoàng nhưng tôi cố dấu niềm mến đó. Nếu không, Hoàng sẽ thành con mồi cho sự đố kỵ của tập thể. Nhưng tôi vẫn kín đáo theo dõi và hỗ trợ cho cậu tránh khỏi lầm lạc thường xảy ra với những cậu học trò có tinh thần nhiều tế nhị và quá mẫn cảm trong cuộc đời lính tráng. Tôi từng thấy nhiều trường hợp mà loại người mỏng manh như vậy đã bị nghiền nát trong thô lậu và hà khắc.

Mảng pháo chém cụt chân trái và tay trái của Hoàng. Máu cậu đã chảy hết, thấm vào lưng áo tôi, khô cứng như mo cau. Xác đã lạnh, bắt đầu cứng. Tôi vuốt ve tóc và vai cậu. Bóng tối che phủ. Sẽ không ai thấy được hành vi đó. Sẽ không ai biết sự yếu mềm của tôi. Thằng bé chết rồi. Tôi có quyền bộc lộ mối cảm tình riêng nặng niềm tiếc hận: Bao lâu nay, tôi phấp phỏng dè chừng. Vậy mà, cuối cùng, điều lo ngại cũng vẫn xảy ra: Tôi đã không bảo vệ được cậu bé.

Cái chết?

Nó như một gã mắc chứng bạo dâm, bao giờ cũng lựa những cô gái yêu kiều nhất. Nó như một thằng súc sinh tham ăn, tục uống, bao giờ cũng ngửi ra những miếng thịt mềm ngon.

- Khét khét... két... ét...

Đột nhiên, mấy tiếng chim rừng! Cậu lính ngồi gần tôi giật bắn lên, thì thào:

- Chạm rồi.

- Ssss suỵt!

- Đích thị bọn chó.

- Truyền tin. Coi chừng có cậu ngủ gật.

Hai chúng tôi bắt đầu bò tới từng người, thì thầm.

Cũng có vài cậu mệt quá, ngủ gật. Nhưng tất cả tỉnh như sáo tức khắc. Tiếng chân bọn địch đã quá gần. Chúng tôi không thể bàn bạc, cũng chẳng có kế hoạch tác chiến nào hết. Tất cả, ngửi mùi mà nhận ra nhau, cùng nhạy tạt vào một mé rừng, và, từ đó, chúng tôi nã súng như điên vào khoảng bóng tối đối nghịch, nơi gió đưa tới một mùi khác lạ, mùi kẻ thù... Tiếng kêu, tiếng rú, tiếng đạn nổ điên loạn. Những vạch lửa rét rét đỏ lóe cắm vào bóng đêm.... Loáng thoáng nhìn thấy hình thù bọn chó. Có lẽ chúng là một trung đội độc lập nhận nhiệm vụ truy quét hoặc phối hợp với quân chủ lực. Cũng có thể bọn bổ xung nhưng hành quân tới chậm?... Nhưng chắc chắn đấy là lũ gà tồ - danh từ chỉ bọn lính mới - chưa từng nếm mùi, chưa say máu chiến. Cứ nghe tiếng rú loảng loạn và điệu bộ lóng ngóng của chúng khi tản đội hình là rõ.

Chúng tôi, đám tàn quân, những kẻ mang nặng nỗi tủi hổ và cay đắng sau một ngày bị tàn sát khốc liệt, lúc ấy bùng lên khát vọng trả thù. Cái đói, sự mệt nhọc, nỗi đau đớn tan biến. Cần ăng-ten của người lính trở nên tinh tường. Mắt sọc qua những lằn sáng mờ nhạt để đinh vị mục tiêu, mũi đánh hơi để nhận biết con mồi di chuyển... Chúng tôi đã bắn như để tẩy rửa nỗi đớn đau và cơn tuyệt vọng của mình.

Lặng dần, lặng dần những tiếng kêu, những làn đạn bắn trả. Sau rốt, im lặng hoàn toàn. Nghe rõ tiếng kêu lạc của chim đêm. Một tiếng rên bật lên sau hồi yên tĩnh. Tiếp theo một phát đạn gằn. Rồi giọng của Hùng vang lên rành rọt:

- Được chưa con? Bố mày gia ân cho đấy nhé...

Lại im ả. Bóng Hùng lướt sát bên tôi. Giọng gã ném vào không gian tối om, rời rạc như từng viên đá rơi xuống khe núi:

- Thằng nào còn sống, biết điều thì đứng lên.

Hùng cười gằn, ngừng một chút rồi thong thả nói tiếp:

- Không xó xỉnh nào thoát được mắt Tôn Hành Giả đâu, bố cho các con biết...

Tôi nghe tiếng tiểu liên Hùng đập vào đùi. Tôi bảo:

- Đồng chí Hùng, không được bắn tù binh. Giải cả về cứ.

Nói xong, tôi thấy một bóng đen từ sau lưng tôi lò dò đi lên, run rẩy:

- Con... con xin...

Hùng nói:

- Lại đây, mày có hai thằng bạn sau lưng tao đây rồi.

Lúc ấy tôi mới biết Hùng đã bắt được hai tù binh khác. Trung đội rủi ro của bọn ngụy bị xóa sổ. Hùng dẫn ba tù binh. Chúng tôi lần mò tìm lại xác đồng đội của mình, tiếp tục đi nốt quãng đường cuối. Chợt tôi sực nhớ, gọi hỏi:

- Đồng chí Hùng, lúc nãy đồng chí cõng ai?

- Không cõng ai cả. Tôi vác súng hộ đồng chí Thêm.

Sau này, tôi biết Hùng không chịu làm công tác thương binh hay tử sĩ. Có lần, gã cười hềnh hệch "Đòm bao nhiêu thằng cũng không ngán. Nhưng cõng mấy đứa cụt đứa què với xác chết, tao chả chơi."

Đêm hôm đó, chúng tôi mò mẫm đi như những bóng ma. Cơn say máu chiến đã qua, cái đói, mỏi mệt thấm vào từng thớ thịt. Xác cậu bé Hoàng đã cứng, lại mất một bên chân nên tôi luôn bị chòng chành. Các chiến sĩ của tôi cũng mệt.

- Cố lên, sắp tới rồi... các cậu....

Thỉnh thoảng tôi lại lên tiếng động viên anh em, biết điều đó vô ích vì chính tôi cũng hoa mắt lên từng chặp và lưng gần như sụm xuống.

Rồi chúng tôi đi qua vực Khan. Con vực dài, sâu hút. Những lay động âm u trong đêm khe khẽ vọng lên. Có lẽ chỉ nửa giờ nữa là tới cứ. Chợt nghe tiếng Hùng quát:

- Nhanh lên.

- Dạ... thưa ông... con đau....

- Đứng lên. Tao cho mày một phút.

- Dạ ạ ạ...

- Rộp.

Một tiếng động khô khan. Tôi chưa kịp hiểu chuyện gì thì núi rừng rung lên bởi tiếng thét man rợ của kẻ xấu số.

Một cây thịt đổ xuống vực Khan, dội lại tiếng đá lăn giữa hẻm núi. Hai tên tù binh còn lại rú lên như mất trí. Chúng đã chúng kiến cãi chết của đồng bọn. Chúng bỏ chạy.

- Rộp....

Lại một tiếng động khô khan, đanh gọn.

Sau đó hai phát đạn.

Hai cái xác rơi tiếp xuống vực. Các hồi âm đuổi nhau, vọng theo....

Lúc đó, tôi đã tới sát mặt Hùng. Chúng tôi cùng nghe rõ hơi thở của nhau. Hơi thở gã đều đặn, bình thản. Hơi thở của tôi, hổn hển vì mệt và sợ hãi. Đáng lẽ tôi phải cao giọng trách mắng, cảnh cáo Hùng trước mặt mọi người: Luật nhân đạo với tù binh, quy ước của chiến tranh, nhân phẩm và danh dự của chiến sĩ... Nhưng lưỡi tôi như cứng lại trong hàm ếch. Tôi đồng lõa?!... Vì cái chết của cậu bé Hoàng, vì nỗi đau sót của kẻ tuyệt vọng, vì tính chất quá khủng khiếp của tội ác?... Có lẽ vì tất cả... Hoặc, có lẽ chẳng vì điều gì hết.

Chúng tôi đứng im phắc trong bóng đêm. Cả các chiến sĩ trong đơn vi cũng vậy. Dường như tất cả chúng tôi bị tê liệt. Rồi, khoảnh khắc sau đó, chính Hùng, trước tiên, cất giọng khàn khàn, uể oải nhưng đầy tự tín:

- Chúng ta đi thôi... Sắp tới rồi...

Nói xong, gã cất bước. Gã vác có hai khẩu súng, gã nhẹ nhõm hơn tất cả chúng tôi, gã là người chỉ huy đích thực!...

Tôi thấy máu nóng trào lên họng. Có lẽ sự tủi hổ này của tôi cũng không hơn không kém sự tủi hổ trong trận đánh thảm bại vừa trải qua... Giờ đây, kỷ niệm ấy thức dậy. Tôi bỗng nóng mặt bởi cái điều chưa bao giờ tôi dám thú nhận với chính tôi: không phải chỉ vì đồng lõa với tội ác mà còn vì mặc cảm của kẻ thua kém. Tôi không muốn dằn mặt Hùng.

Tôi đặt bút lia, không nghĩ ngợi, tóm tắt sự kiện đơn giản. Lời đề nghị: Cấp có thẩm quyền xử quyết. Rồi tôi gọi Mão, đưa bản tường trình:

- Xong rồi. Đồng chí nộp lên cấp trên.

Mão đáp:

- Rõ.

Tôi bảo:

- Mang theo ba tay súng tin cậy. Đề phòng khả năng nó thịt các cậu rồi đào ngũ.

Mão gật đầu:

- Báo cáo thủ trưởng, tôi cũng nghĩ tới điều đó.

Cậu ta đi. Tôi tần ngần bước tới trước phần cơm nguội lạnh. Mặc dầu hổ thẹn, tôi không thể không công nhận rằng lòng tôi nhẹ nhõm như cất được gánh nặng khi nghĩ tới buổi

sáng ngày mai.

Ngày mai, thằng cha ấy sẽ rời khỏi nơi đây!

Một giọng nói vui vẻ cất lên sau lưng tôi:

- Thủ trưởng khao em nhé...

Tôi quay lại: khuôn mặt tròn xoe của cậu Tạo đang sáng bừng lên, mắt lấp lánh cười. Tôi hỏi:

- Gì thế?

- Thủ trưởng khao em đi... Thủ trưởng có thư nhà.

Cậu bé rút trong túi áo ngực một chiếc phong bì đưa cho tôi... Tôi vui vẻ khất:

- Cho nợ nhé. Hôm nay tôi hết kẹo cao su rồi...

Thư của người đàn bà ngày xưa tôi mộng tưởng. Một chiếc phong bì hoen ố, vàng khè, có nhiều vết dán gặm xung quanh và mép hồ. Dấu bưu điện hoàn toàn mất.

Anh Quân của em,

Em đã gửi mười sáu lá thư mà không nhận được thư tin.

Tháng nào chị Soạn, cô Liên cũng rủ em lên bưu điện huyện hỏi. Họ nói không có thư đọng hòm. Chi em chúng em đành kéo nhau về tay không. đường xa mà thời rét căm căm, bọn em vừa đi vừa chảy nước mắt.

Anh ơi, anh sống chết thế nào mà bặt vô âm tín. Lá thư cuối cùng em nhận của anh đã cách đây mười bốn tháng rồi.

Làng xóm mình vẫn như xưa chẳng có gì thay đổi. Năm nay lúa kém nên dạo tháng mười một ngày lễ vào mùa chẳng có gà cũng chẳng nên xôi. Ai nấy chỉ cúng hoa quả với rượu trắng, quèn hơn cái lễ hôm xưa chúng mình cùng nhau đi chùa.

Quân ơi, em nhớ anh, nhớ anh nhiều lắm. Tám năm hai tháng đã qua từ ngày anh đi. Em bây giờ gầy, không còn được như xưa.

Hôm lên huyện, em chỉ cân được bốn mươi mốt cân rưỡi.

Anh còn yêu em không hở Quân? Em yêu anh, thương anh mãi mãi...

Một chữ ký run rẩy, ngoằn ngoèo, với những nốt nhòe không hiểu do thời gian hay nước mắt. Thư ấy, viết cách ngày tôi về phép một năm, bảy tháng, mười ba ngày...

Chương 12

Vào một buổi chiều yên tĩnh, chúng tôi đang ngồi uống trà. Dạo ấy tôi có nhiều trà đen của đám bạn từ cao nguyên gửi cho. Tôi cũng đã quen uống trà đen nóng pha với một thìa mật ong hoặc một mảnh đường phổi hay một thìa đường cát. Thứ trà ấy ngọt dịu, thấm được nỗi nhớ mơ hồ vương vấn, thấm đượm những cảm giác không gọi được tên, những cảm giác thường lẫn quất trong khoảng trống vắng của tâm hồn người lính.

Có hai người ngồi với tôi: Xê phó Thái và binh nhất Tạo. Thái có một nửa gói lương không BA70. Tạo có hai quả bứa chín. Cộng với nước trà đường của tôi tạo nên bữa tiệc ngọt tuyệt vời.

Rừng chiều êm ả trong ánh thái dương. Không khí hiền hòa đến mức Tạo đang thao thao nói về cách ngào chè lam ở quê cậu ta cũng đột nhiên ngừng lại. Cả ba chúng tôi lặng lẽ uống trà, lặng lẽ nhìn những vòm lá rừng xao xuyến.

Đột nhiên vang lên tiếng kêu quái gở:

- Ngoeo oeo oeo...

Tiếng kêu rít lên như còi, lại méo mó âm thanh như tiếng còi đó bị dẫn qua một chiếc ống cong queo rồi mới phát ra.

Cả ba chúng tôi đưa mắt nhìn nhau.

- Ngoeo oeo oeo...

Tiếng kêu lần thứ hai thật rùng rợn... Một con mèo rừng lao thẳng vào. Thái và tôi cùng đứng bật dậy lui về phía sau. Lúc ba chúng tôi dàn ra cũng là lúc con mèo rừng lao thẳng vào chiếc bàn ghép bằng nứa, nơi chúng tôi vừa ngồi uống trà. Nó chụm bốn chân lại, cong lưng lên như định nhảy. Nhưng nó không nhảy mà lại đưa mắt nhìn khắp lượt xung quanh. Mắt nó phát ra những tia sáng lạnh như nước đá.

Tôi vừa đặt tay lên hông, Thái hét:

- Đừng bắn!

Con mèo đập đuôi vào bát nước trà, dựng ngược lông lên. Cặp mắt nó như nở to ra, long lanh ma quái. Một lần nữa nó quay đầu nhìn thẳng vào mắt chúng tôi, từng người một, với cái nhìn hung hãn của quỉ sứ. Nó không hề sợ, ánh sáng từ đôi mắt xanh rêu trong như thủy tinh phát ra làm chúng tôi tê liệt. Thái run run nhắc lại:

- Đừng bắn... đừng ai bắn...

Mặt Thái tái nhợt. Tạo lui ra sau ghế, chuẩn bị sẵn vũ khí. Con mèo lườm cả ba chúng tôi một cách khinh bỉ:

- Ngoeo oeo oeo...

Nó kêu lần thứ ba rồi nhảy vọt ra ngoài. Chúng tôi đứng lặng đi vài tích tắc, ớn lạnh xương sống. Rồi Tạo kêu:

- Khiếp! Chưa gặp con mèo rừng nào kinh khủng thế!

Mặt Thái vẫn tái nhợt. Anh uống một ngụm nước như để lấy lại bình tĩnh. Tôi nói:

- Mười năm bảy tháng lính tôi mới gặp con quỉ này.

Thái im lặng. Tôi nói tiếp:

- Tôi tưởng giống mèo rừng thấy người là chạy. Nó chỉ hung dữ khi đang nuôi con.

Lúc ấy, Thái mới nhìn vào mắt tôi và kể: “Chú tôi làm nghề mộc và thi thoảng theo phường săn đi săn. Ông nói rằng giống mèo rừng không bao giờ mon men xuống nương rẫy hoặc làng bản. Người ta đặt bẫy hổ ngừa nó cõng lợn cõng bò, đặt bẫy lợn lòi ngừa nó xuống dũi nương sắn, đặt bẫy khỉ ngừa chúng bẻ trộm ngô, thậm chí đặt bẫy gấu ngừa những con gấu tinh ranh xuống ăn vụng mật ong nuôi trong vườn... Không ai đặt bẫy mèo rừng. Cho nên khi nào mèo rừng xông tới nơi người ở là điềm báo trước một tai họa bất thường vô cùng khủng khiếp. Có thể đời ông qua đời cháu, mèo rừng mới xuống một lần. Những lần ấy, thế nào cũng có trận lũ cuốn trôi cả một bản, cơn hỏa hoạn đốt trụi cả vùng hay bệnh dịch không thể cứu chữa... Chú tôi còn bảo nếu có ai đó đánh chết con mèo báo mộng thì tai họa sẽ xảy ra triền miên không bao giờ dứt. Nếu có bệnh dịch thì bệnh dịch ấy sẽ lưu truyền từ đời này qua đời khác, thập niên này qua thập niên khác. Nếu có hỏa tai hay lũ lụt thì năm nào nó cũng tới hành hạ con người... Anh đừng cho là tôi mê tín. Chú tôi thật thà chất phác, cả đời chú ấy không nói sai một câu, tôi không thể không tin...

Tạo túm áo tôi, rú lên:

- Eo ơi, rợn hơn cả chuyện ma.

Tôi bảo:

- Đừng có kể cho ai chuyện này nhé.

Thái gật đầu:

- Ừ, cậu phải giữ hoàn toàn bí mật...

Ba chúng tôi cùng im lặng

Buổi chiều ấy qua đi, nhưng thi thoảng câu chuyện con mèo rừng vẫn ám ảnh tôi. Một tháng rưỡi sau, tôi bắt đầu thấy nó ứng nghiệm.

Thời gian ấy, chiến dịch "Mũi tên thần tốc" mở màn.

Đang mùa khô mà bỗng dưng trời u ám. Sương mù buổi sớm tan rất muộn, có mùi hăng ngột ngạt như mùi các lò chế độc dược bí truyền. Khắp các thung lũng, các khe sâu, các hẻm núi lửng lơ một lớp khí trong suốt, màu lam, nặng nề luân chuyển với các ảo ảnh bị tan vụn, bị cát rời. Những luồng hồi quang mơ hồ, vụt ẩn, vụt hiện in dấu giữa không trung các hình ảnh lạ kỳ, khi là những đường kỹ hà quái lạ, khi là bức thành cổ tua tủa những mũi lao, khi là những gương mặt tươi cười bị cắt làm ba, bốn mảnh, các mảnh lẻ ấy rượt đuổi nhau, chập chờn, kỳ ảo như những chiếc bong bóng xà phòng trẻ con thổi...

Đơn vị chúng tôi nhận nhiệm vụ bảo toàn lực lượng, làm lương khô cho giai đoạn chót chiến dịch. Chúng tôi phải thay đổi vị trí tập kết luôn luôn, thực hiện nguyên tắc: “Lai vô ảnh, khứ vô hình”. Như giống mèo hóa thân, chúng tôi phải xóa kỹ mọi dấu vết của mình: bếp lửa nấu ăn phải dập tắt, vết chân không được lộ, đi đồng phải chôn phân thật kỹ... Mùa khô năm trước, một đơn vị bị lộ chỉ vì một cậu lính tai quái không chịu đái nơi bụi rậm mà lại đái vào một bông loa kèn rừng. Thường các cuộc hành quân bắt đầu lúc vào đêm. Người dẫn đường đeo mặt nạ, chỉ hở cặp mắt. Khẩu lệnh thay đổi từng tuần. Lính không được hỏi, không được nói, không có giờ giải trí. Đến địa điểm tập kết, sau khi mắc võng, tổ chức nơi ăn ở, phải ăn cơm và đi ngủ ngay. Tất cả đều hiểu rằng đó là giai đoạn đợi chờ... Một tối, khi chúng tôi đã đến vị trí thứ tư, Thái gọi tôi vào rừng. Tôi nghĩ đó là cuộc hội ý thường lệ nên hỏi:

- Khuê đâu?

Thái lắc đầu:

- Không cần. Tôi có chuyện riêng với anh.

Đoạn cậu ta quay lưng đi trước. Chúng tôi vào khe núi, nơi hai bên um tùm những cây đại thụ và vách đá. Đêm ấy sáng trăng. Chúng tôi ngồi dưới một tàn cây rậm và bóng tối phủ chúng tôi tựa một con mèo khổng lồ dâm đãng. Bên ngoài, những đốm lửa lạnh lẽo của mặt trăng rãy qua tầng lá rừng đùa giỡn vì gió, thứ gió đỏng đảnh chỉ có ở vùng núi miền Tây.

Thái nói:

- Anh Quân này, em tôi chết rồi.

Tôi hỏi:

- Thăng hả?

- Phải, tôi chỉ có một mình nó là em trai. Đã có lần tôi nói với anh...

- Nhớ rồi... Cậu ấy ở đại đội giữ B41.

Lần ấy, Thái bi sốt rét ác tính. Cậu ta tưởng chết nên lúc tỉnh kể chuyện nhà, gửi gắm đứa em trai và ông bố già cho tôi. Nhà Thái có đến bảy anh chị em, nhưng chỉ có hai anh em trai là Thái và Thăng. Mẹ Thái chết vì hậu sản khi đẻ đứa con gái út. Bố Thái làm nghề trồng thuốc lào, ở vậy nuôi con cho tới tận bây giờ.

Giọng Thái run. Cậu ta hỏi:

- Anh Quân biết tay Hữu, chính ủy trung đoàn không?

- Biết chứ.

- Trung đoàn trưởng đi vắng, lão Hữu muốn lập công với sư đoàn nên quyết định đánh lẻ. Bọn dưới nịnh lão, ủng hộ kế hoạch tác chiến vắng mặt sư trưởng. Lão lại là bí thư đảng ủy trung đoàn, toàn thể các đảng ủy viên nhất trí quyết định của ban thường vụ. Đại đội trinh sát vừa muốn lấy lòng lão Hữu, vừa lười nên báo cáo ẩu, đia hình địa vật hoàn toàn sai. Thế là đại đội B41 của thằng em tôi được lệnh tiêu diệt các hỏa điểm của địch, mở đầu trận F.E.18. Chúng nó bò tới trận địa, vừa rút xẻng ra đào hầm trú ẩn thì bị ngay. Ở đó, không phải loại đất pha cát như tụi trinh sát báo cáo, thuần một thứ đất sỏi pha đá ong già, lưỡi xẻng chọc xuống là lửa lóe lên. Các hỏa điểm đích cứ thấy đốm lửa lóe lên ở đâu là nã cối và các loại đạn nóng vào đó. Đại đội B41 phơi lưng, không một hòn đá, gốc cây ẩn núp. Địch trút cả núi đạn xuống. Hôm sau phải điều động ba đại đội tới đánh trả và lấy xác các tử sĩ ra. Lại thêm năm mươi nhân mạng hy sinh... Đại đội B41 chỉ còn một cậu, nghe đâu quê ở Quảng bình, thoi thóp, đưa về trạm phẫu phải cắt cả lách lẫn gan, giờ không biết ra sao...

Tôi hỏi:

- Cả một đại đội bị xóa sổ! Có lấy được hết xác ra không?

- Làm sao lấy ra được hết tử sĩ hả anh?

- Cậu ấy đã có người yêu chưa?

- Chưa... chưa... Tôi còn chưa kịp yêu nữa là nó. Nó chết rồi. Đại đội ấy toàn là những thằng trẻ như nó cả....

Rồi Thái bật lên nức nở:

- Em tôi chết oan, anh Quân ơi... Cả đại đội ấy chúng nó cũng chết oan....

Tôi im lặng nhớ tới hai bàn chân đỏ hỏn đạp trong chiếc chậu sành. Những làn nước sóng sánh ánh chiều hôm... Hàng ngàn, hàng vạn, hàng triệu bàn chân đỏ hỏn như thế. Những thằng con trai đã hăm hở chào đời, và hăm hở ra đi...

Tiếng Thái nức lên, âm thầm trong bóng đêm. Tôi ngồi lặng lẽ chờ cho cậu ta bình tĩnh lại rồi bảo:

- Thôi nhé. Trông chừng tinh thần anh em.

Thái nói:

- Tôi hiểu. Nhưng tôi cần phải nói với anh.

Tôi trả lời:

- Tôi e rằng sẽ đến lúc không ai buồn nói với ai...

Chúng tôi ra về. Nhưng tôi biết Thái đang nghĩ tới hình ảnh con mèo rừng bữa trước. Vì chính tôi cũng đang bị nó ám ảnh.

Ngày hôm sau, từ sáng sớm, y tá báo cáo một tiểu đội bị sốt rét. Anh em thì thầm rằng tiểu đội đó xấu tính, đi ăn mảnh, vớ phải thứ quả độc. Ba ngày sau, lần lượt các tiểu đội khác nộp mạng cho Thần Rừng. Ngày thứ tám, số người ốm đã quá một phần ba quân số. Không ai còn thì thầm đùa giỡn. Mặt ai nấy xanh lè. Những người khỏe nhất được phân công kèm giữ mấy cậu lên cơn sốt ác tính. Họ thường la hét, trần truồng bỏ chạy vào rừng. Họ bị một ngọn lứa đốt tử trong gan ruột đốt ra, bị nỗi sợ hãi vây bủa trùng điệp như cảnh rừng núi xung quanh, bị nỗi thèm muốn điên cuồng không gọi được tên hành hạ... Ngày thứ mười, tôi cử người mang báo cáo lên cấp trên thì đúng lúc có lệnh: rời vị trí tập kết, bất cứ giá nào. Người mang lệnh nhìn tôi qua khe hở của chiếc mặt nạ, nói với giọng ồm ồm:

- Ngay đêm nay, không chậm trễ.

- Nhưng một phần ba quân số ốm!?

Trên yêu cầu hành quân gấp. Đây là vị trí tập kết cuối cùng của các đồng chí trong chiến dịch này. Đêm ấy, sương dày hơn bao giờ hết. Một thứ gió âm u lùa sau chúng tôi, buốt lạnh sống lưng. Đại đội đi thành hàng dọc, cứ hai người khóc cõng một người ốm, kèm theo tư trang.

Đường mòn, cây và dây leo bò ngang chân. Tôi phải đi đầu, phát quang cho trống. Người dẫn đường đi cách tôi vài bước, luôn luôn nhìn thấy tấm lưng thẳng cứng của anh ta, như một phiến gỗ. Thái đi cuối đoàn quân. Còn Khuê, mạnh khỏe nhất, chạy lên chạy xuống, chăm sóc những người bệnh nặng và, khi cần thiết, võng thay anh em. Không ai nói được một lời nào. Sự mệt nhọc quá độ khiến mọi người phải căng toàn bộ thần kinh để cố gắng nhích từng bước một về phía trước. Hành quân... hành quân... hành quân... tôi chợt nhớ khúc quân hành mười năm trước chúng tôi đã hát vang trên đường tiến vào phương Nam, tiếng hát làm rung chuyển rừng già. Năm ấy tôi mười tám tuổi...

- Đoàng....

Một phát súng dội vào tai. Người dẫn đường nằm phục xuống, quát:

- Đứng lại!

- Đoàng...

Một phát chỉ thiên thứ hai. Tôi chạy lên, ngọn đèn pin trong tay, tôi rượt đuổi. Người dẫn đường cũng chạy theo một bóng đen. Chỉ vài phút sau, chúng tôi đã tóm được nó. Đó là một thằng bé loắt choắt, da đen xam, đầu trọc. Nó ngồi bệt trên đám lá mục, giơ hai tay lên, cổ thụt giữa hai vai:

- Em lạy hai anh, em lạy hai anh...

Giọng nói trọ trẹ của nó là giọng dân Hà tây. Cái ba lô đeo sau lưng dúm dó, bẩn thỉu như cái đãy thằng ăn mày. Nó chắp hai tay, hổn hển: - Em lạy hai anh, em chắp tay lạy hai anh...

Hơi nó yếu. Có lẽ nhịn đói đã lâu. Tôi bảo:

- Đào ngũ hả? Giấy tờ đâu?

Nó móc túi đưa ra chiếc thẻ quân nhân và cả tờ công lệnh nhàu nát:

- Em không phải lính đào ngũ... em bị lạc...

Tôi đọc lướt các thứ giấy tờ của nó rồi bảo:

- Mày lại muốn lừa tao hả?... Công lệnh tháng sáu năm ngoái sao giờ còn ở đây?

- Báo cáo thủ trưởng, em lạc... rồi em sốt rét. Em ở trong kia với người Vân kiều. Nó giơ tay chỉ nhưng vì bóng tối quá dày, tôi không nhìn rõ nó chỉ hướng nào. Ngọn đèn của người dẫn đường lại rọi thẳng vào bộ mặt choắt cheo, hốc hác của nó. Móc trong túi một mảnh giấy nhàu nát, nó đưa cho tôi:

- Dạ, có giấy của bà con Vân kiều chứng nhận.

- Tối thế này làm sao tao đọc được? Nhưng không đào ngũ, tại sao mày không tìm đơn vị?

Mồm nó méo xệch rồi bỗng dưng nó ti tỉ khóc:

- Báo cáo thủ trưởng... em nhớ u em lắm... U em... có mỗi mình em... mà đơn vị em xa quá, giờ ở tận B9, làm sao em tìm được.

Lúc đó, Khuê chạy lên, hỏi:

- Gì thế?

Tôi bảo:

- Vớ một thằng lỏi con đào ngũ.

Khuê nói:

- Thôi, dong nó cùng đi đi... Mấy cậu dưới kia sắp lên cơn ác tính rồi...

Tôi gật đầu:

- Ừ, đi đi

Những chàng lính phải võng bệnh nhân nhờ cơ hội ấy vừa được nghỉ ngơi, lại chuẩn bị đặt đòn lên vai.

Tôi bảo thằng bé:

- Đi theo tao.

Người dẫn đường vượt lên và cuộc hành quân tiếp tục. Lát sau chúng tôi vượt khỏi cửa rừng, tới một lối nhỏ men theo núi. Đường sáng hơn nhờ trăng chiếu rọi. Kẻ đào ngũ đi sau lưng tôi, thỉnh thoảng lại chúi đầu ngã. Lần nào nó cũng vấp phải gót chân hoặc sau đùi tôi. Tôi quay lại:

- Làm sao thế, mày đói à?

Nó lặng thinh. Tôi móc túi áo, tìm mảnh lương khô Thái đưa cho tôi buổi trưa, dúi vào tay nó:

- Này.

Nó im như thóc. Từ lúc ấy, nó không vấp ngã. Đôi lúc quay lại, tôi thấy nó lẽo đẽo bám gót tôi, im lặng như cái bóng.

- Mẹ nó là ai nhỉ?... Có lẽ là một người đàn bà lam lũ vùng Hà tây. Có thể tôi đã gặp bà ta trong số những người đàn bà gánh nặng trẹo cả vai nào ốc, nào su hào, rau cải, nào chuối, nào khoai lên thành phố, đi bộ đèo đẽo vài chục cây số để kiếm mấy đồng bạc tiền lời. Hay mẹ nó là một trong những người đàn bà chân đất vẫn cầm ấm chè xanh chạy rong theo các xe chở khách?

Hay mẹ nó ở trong số những người chúi mặt xuống bùn cấy lúa để, đến mùa thu hoạch, được chia mấy đấu thóc còm, vẫn sung sướng tươi cười vì được ghé mặt vào chụp ảnh với đồng chí bí thư tỉnh? Mẹ nó là ai?...

Ý nghĩ tôi miên man như mê sảng. Trăng sáng. Lạnh như kem. Trước mặt chúng tôi, núi rừng bị trăng phủ, mơ hồ như những bóng quỉ ngồi. Hơi thở của lính tan loãng trong bầu không khí lạnh. Bất chợt, tôi quay đầu lại và thấy thằng oắt đang cắm cúi bước... Đã có lần, tôi nghe bọn lính xuyên tạc một bài quân hành ra những lời lẽ sau:

"Tao là con của bố tao mẹ tao,

Muốn về là tao cứ ra về,

Tao không cần ba lô

Không còn lương khô

Không cần ô tô.

Tao về ăn Tết xong tao lại lên"...

Chắc thằng oắt này là một trong số những kẻ đặt lời xuyên tạc đó. Những bài hát như thế, các sử gia chiến tranh không thèm để tâm!

Chúng tôi đến được nơi tập kết thì số người ngã bệnh lên tới non nửa quân số. May sao, thuốc đã chở tới kịp thời. Dứt bệnh sốt cũng là lúc chúng tôi tham dự trận đánh.

Chiến dịch "Mũi tên thần tốc" đã sang giai đoạn thứ ba, và đơn vị chúng tôi là một trong hai con chủ bài của giai đoạn này. Cuộc đấu diễn ra không thuận lợi như chiến dịch "Sóng sông Hồng". Đơn vị tôi chỉ còn Thái, tôi và mười bảy lính. Khuê đã hy sinh từ trận đầu tiên. Đại đội của chúng tôi được tặng danh hiệu đại đội anh hùng và bổ sung quân số tức khắc. Dẫu sao, chúng tôi cũng đã thắng. Tôi được lệnh đưa anh em về nơi tập kết bởi vì mùa mưa sắp tới. Đám lính trẻ cần được tập luyện và làm quen với nghề chinh chiến.

Trước khi lên đường, mười chín người chúng tôi được gọi là bộ khung của đại đội, làm lễ vĩnh biệt những người đã khuất. Chúng tôi đóng trước lễ đài, dựng bằng nứa từ hôm trước, trên phủ vải trắng. Tôi hạ lệnh đốt lửa. Phải có một ngọn lửa thật lớn mới đủ soi sáng hơn một trăm gương mặt những người đã khuất. Họ luôn luôn đóng bên cạnh chúng tôi với bộ mặt xanh xám của kẻ bị rút hết máu, tỉ tê, hờn dỗi, đòi ân oán...

Tôi mơ giấc mơ áo xanh. Người đàn bà mặc áo xanh từ khoảng trời xanh hiện ra. Nàng vừa giống, vừa xa lạ người đàn bà tôi mộng tưởng. Không với khuôn mặt hao gầy và cái bụng kềnh càng sắp tới ngày sinh nở mà với gương mặt kiều diễm có hai hàng mày dài. Tôi đã yêu nàng tới kiệt sức. Tôi yêu nàng tới mức tôi sẵn sàng từ bỏ cõi đời vì đã được yêu...

Nhưng tôi tỉnh dậy trong võng một mình, áo quần ướt mồ hôi và dơ dáy:

- Khốn nạn, mơ với mộng, hão huyền...

Một thằng đàn ông rít lên chửi thề, nghiến răng trèo trẹo. Một thằng khác nhẫn nại xuống suối tắm giặt, đi ăn cơm chiều và bàn với Thái kế hoạch hành quân ngày mai.

Buổi tối, khi chúng tôi ngồi uống trà thì liên lạc trung đoàn xuống. Cậu ta chuyển cho tôi tờ lệnh của sư đoàn. Tôi có nhiệm vụ áp tải bốn tù binh quan trọng tới đia điểm tập kết, giao cho bộ phận điều tra xét hỏi. Lệnh nhấn mạnh: Không được để tù binh thất lạc hay bỏ trốn, hoặc ốm chết trong bất kỳ tình huống nào. Lệnh do chính Lương ký thay sư trưởng.

Mưa rừng ập xuống, như tai nạn dọc đường, như tình ái không báo trước. Mưa ròng rã nửa tháng liền không cho mặt trời kịp nháy mắt. Trắng xối xả không gian. Suối dâng ào ào, đường tắc, chúng tôi đành đóng quân ở binh trạm X3-57.

Ngày này qua ngày khác, nhìn dòng nước tuôn như thác, nhìn những tầng lá rung giật, quằn quại dưới mưa. Đêm nọ qua đêm kia, nhìn những ngọn đèn săng khói mù, tỏa thứ ánh sáng đỏ cáu lên mùi hôi khét, những gương mặt mốc meo quanh đám chơi bài. Tôi trở nên cáu bẩn.

Tôi hay nhớ đến em trai tôi. Tôi mơ thấy đôi chân đỏ như son của nó quẫy đạp như con cá mắc lưới, vào giữa chừng một bữa cơm chỉ mắm tôm rang ớt, hay giữa chừng buổi trò chuyện quanh một ấm nước lá rừng. Không phải mơ, dường như tôi nhìn thấy nó. Kỷ niệm ấy khiến tôi ủ ê.

Đến lúc, tôi thấy chính tôi như con cá mắc lưới, bị dĩ vãng dày vò...

Cũng một buổi sáng, mưa. Tôi trở dậy, tới lán số 2. Từ nơi tôi ở qua lán số 1, số 2 và số 3 có các mái hiên dài, người đi không ướt. Dọc theo các mái hiên, chăng từng dãy dây phơi quần áo. Mùa mưa, quần áo chỉ vắt lên dây cho róc hết nước, muốn khô phải đem xuống bếp than hơ một đêm.

Mưa vẫn tuôn không ngừng. Đang đi, chợt tôi bắt gặp tên tù binh số 4 đứng một mình đầu mái lán. Hắn đang hứng mưa. Nước xổ từ mái nứa xuống lòng tay hắn bắn lên tung tóe. Gương mặt hắn nhìn nghiêng giống hệt như Hòa, cô em gái của người đàn bà tôi yêu.

Đường sống mũi, vành môi, khuôn cằm... tất thảy gợi dáng nét của một tu sĩ. Hắn không nhìn thấy tôi. Hắn chăm chú chơi trò hứng mưa, hồn nhiên như học trò tiểu học... "Nếu có Hùng ở đây, chắc gã sẽ cười khẩy và trề môi ra nói: Bọn trai Mỡ, bọn Gà giò. Gảy đàn, thổi sáo, viết nhật ký, làm thơ, ép hoa khô... đó là trò khỉ của những tâm hồn oặt oèo, ủy mị, bọn lính Cậu, bọn trai Hoi - Tao cầu cho bom dập chúng mày thành cám - Tao cầu cho pháo cối băm chúng mày thành món pa-tê..."

Bất chợt một cành khô gãy. Tên ngụy giật mình quay lại, mặt đỏ bừng: - Bẩm thưa ông...

Tôi định trấn an hắn, song tự cảm thấy điều đó lố bịch.

Hắn vẫn không hết luống cuống:

- Dạ... thưa ông.

Tôi chợt thấy hắn giống Hòa ghê gớm. Có lẽ hắn cũng trạc tuổi Hoàng. Hắn có viết những dòng nhật ký miên man mê cuồng không? Hắn... có từ bỏ một giảng đường để đi tìm lý tưởng không?... Tôi bảo hắn:

- Tù binh số 4, về buồng tôi.

Đoạn, tôi quay lưng đi trước. Hắn lẽo đẽo theo sau.

Buồng tôi ở là một gian được ngăn cách trong dãy lán đặc biệt dành cho ban chỉ huy binh trạm và chỉ huy các đoàn quân tạm trú. Buồng thưng gỗ ván, kín đáo, treo vài tấm lịch đã phai màu. Đồ dùng khá đủ: Giường nằm, tủ đựng tài liệu, bàn ghế. Tất cả đều đóng bằng gỗ mộc.

- Vào đi.

Tôi bảo tên lính. Hắn rón rén vào phòng, cúi đầu lau mái tóc ướt vào cánh tay áo.

Tôi trỏ chiếc ghế đối diện:

- Ngồi xuống.

Hắn ngồi, thu hai tay vào lòng. Hắn có đôi bàn tay mỹ nhân, ngón dài, nuột nà như tay tố nữ trong tranh. Tôi rót cho mình một chén nước và cho hắn chén thứ hai:

- Uống đi cho nóng.

Nước còn bốc khói. Hắn khẽ nhấp một ngụm rồi lại ngồi yên, vẻ lo lắng. Khi hắn nhìn xuống, hai hàng mi dài và đen che một phần tròng mắt. Lưa thưa hai bên mép và môi trên, có vài chấm râu. Thấy tôi ngồi yên, tên tù binh ngước nhìn sợ sệt. Tôi nhìn đôi mắt hoảng loạn của hắn, bảo:

- Yên tâm đi, tao không giết lén mày làm gì.

Hắn lặng thinh, mắt cụp xuống.

Tôi nói tiếp:

- Mà ở đây, cho thêm kẹo chúng mày cũng không dám trốn. Đúng không?

Hắn ngẩng lên:

- Bẩm ông, trung tá Huyên cũng nói thế.

Tôi cười thầm vì hắn quả là thật thà. Chưa tên ngụy nào đối đáp như vậy. Tôi hỏi:

- Huyên là tên tóc muối tiêu, tù binh số 1, đúng không?

- Bẩm ông, phải. Ngài trung tá nói nếu trốn, chúng con sẽ rơi vào các đơn vị khác. Mười phần, chắc tám chín là được nếm kẹo đồng hoặc lưỡi lê.

Tôi cười:

- Phải rồi. Bọn chúng mày cũng cáo lắm. Không ai có đủ lòng từ thiện để chia từng mẩu lương khô giữa mùa mưa lũ với bọn người nã pháo cối vào họng mình. Bọn mày là kẻ thù, nhân đạo nhất là người ta cho chúng mày vài viên kẹo.

Hắn im lặng. Tôi nói tiếp:

- Ở đây với tao được an toàn vì tao có nhiệm vụ nộp chúng mày cho bộ phận khai thác tù binh. Tao phải nuôi sống và bảo vệ chúng mày.

Tôi châm điếu thuốc, lơ đãng nhìn dòng nước trắng xóa bên ngoài. Bỗng dưng tôi nhớ mẹ khủng khiếp. Tôi lang thang trên bãi tha ma giữa đồng vắng. Những nấm mộ nhấp nhô giữa những bụi dứa gai, những lùm dây mây và những ngọn cỏ leo đỏ như tiết lợn. Tôi lượm từng thoi vàng bẹp dúm giữa cỏ, giữa đất ướt. Tôi dẫm lên những mảnh ván- thối... Mẹ ơi... Nắm hương bén lửa bốc cháy đùng đùng. Chắc mẹ đã nghe tôi gọi.

- Kìa!...

Tên tù binh chợt thốt tiếng kêu. Hắn chỉ vào tay tôi.

Điếu thuốc cháy bỏng lớp da ngoài. Tôi ném mắu thuốc ra ngoài mưa, nhìn hắn:

- Tên gì?

- Dạ, thưa ông, con tên Huỳnh Hoài An, mười tám tuổi

- Quê quán?

- Dạ, Gia định, Sài gòn.

- Nghề nghiệp?

- Thưa ông, Ba con dạy trung học, Má có cửa hàng may.

- Thợ may?

- Thưa ông, chuyên may đồ cho phụ nữ.

- Tại sao đi lính?

- Dạ thưa ông...

Hắn hớt hải nhìn tôi, rồi cắm mặt xuống bàn.

- Tại sao?

- Dạ, thưa... vì nhiệm vụ với quốc gia...

- Cái gì?

- Dạ... thưa... vì lý tưởng quốc gia...

Tói nhớ đến gã đàn ông đeo kính gọng vàng, trắng như con dê nhốt trong bóng tối: "Lý tưởng, đó đơn giản là bánh thánh phát cho lũ trẻ vị thành niên. Muốn chúng mặc áo thầy tu, mặc áo lính hay áo cảnh sát quốc gia cũng chỉ cần dùng bấy nhiêu từ..." ông ta cười. Nụ cười của kẻ quyền uy, khả ái một cách đáng khâm phục! Dù sao tôi cũng phải cảm ơn chuyến tàu hôm ấy...

Tên tù binh vẫn nhìn tôi, căng tẳng chờ cuộc hỏi cung.

Tôi mỉm cười:

- Lý tưởng?

- Dạ...

- Bảo vệ non sông gấm vóc?

- Dạ... thưa...

- Làm tròn nhiệm vụ của người thanh niên yêu nước, xứng đáng với dòng dõi Lạc Hồng?

- Dạ... thưa ông...

- Ta thề hy sinh tới giọt máu cuối cùng phụng sự cho Tổ quốc?

- Dạ...

Hắn dạ nhịp sau mỗi câu tôi nói, mặt mỗi lúc mỗi tái xanh. Hai tay hắn run như giẻ. Hai chân hắn cũng bắt đầu run. Hắn không hiểu thằng Việt cộng này đang giương ra thứ bẫy nào để đưa hắn tới đoạn đầu đài hay giá treo cổ... Tròng mắt hắn lạc đi.

Tôi hỏi tiếp:

- Thờ thánh thần nào?

Hắn hổn hển đáp:

- Dạ... thưa ông... nhà con không theo đạo...

Môi hắn xệch đi, mếu:

- Dạ, thưa ông... Má con chỉ ăn chay niệm Phật ngày mùng một và ngày rằm...

Tôi lắc đầu:

- Tao hỏi: thờ thánh thần nào?

Hắn chắp hai tay vái:

- Dạ, thưa... xin ông tha cho...

Tôi bảo:

- Đừng có khóc... Không ai ăn thịt mày mà sợ! Nghe tao nói đây này: Chúng tao thờ một chủ thuyết. Chúng mày cũng thờ một chủ thuyết. Vị thần chúng tao thờ tên là Mác, mũi lõ, mắt xanh, râu rậm. Còn vị thần chúng mày thờ tên là gì? Tóc thưa hay tóc rậm? Trán hói hay trán vuông? Để râu dê hay râu cáo?

Đến lúc ấy, hắn bắt đầu hoàn hồn. Hắn thở dốc từng cơn:

- Dạ, thưa ông, không có...

Tôi nhăn mặt:

- Sao không? Lý tưởng quốc gia của chúng mày kém thế. Không tìm được vị thần nào mà tôn ngôi à?

Hắn lắp bắp:

- Dạ, xin ông tha lỗi, con không hiểu...

Tôi nói:

- Đừng vờ, nhất định phải có...

Hắn đáp hối hả:

- Thưa ông, dạo học Trung học, con có nghe các thầy nói tới ông Mác, với lại ông He-ghen, ông Lăng, ông Nít... Nhiều lắm. Nhưng con không ưa môn triết nên không tò mò...

Tôi cười:

- Ghê thế cơ à?... Chúng mày thờ đa thần... Cái lý tưởng quốc gia của chúng mày tham lam quá!... Tại sao mày bị bắt?

- Dạ, thưa ông, chúng con bị phục kích. Con là lính tháp tùng cho trung tá Huyên.

- A, thằng lùn tóc muối tiêu. Thủ lĩnh của tụi mày?

- Dạ.

- Mày ra trận lần thứ mấy rồi?

Thưa ông, lần thứ hai.

- Lần thứ nhất, mày bắn được mấy thằng Việt cộng?

- Dạ, thưa...

- Có khi tao chạm trán mày trận ấy... Có khi chính viên đạn của mày nghiến sứt vành tai tao đây này, thấy chưa?...

Tôi chìa cho hắn vành tai phải bị mảnh pháo tiện cụt một mẩu. Mặt tên tù tái xanh, nước mắt rân rấn quanh tròng:

- Dạ... Con làm sao bắn trúng ông được ạ!

- Sao không?

- Thưa ông... vì lần ấy, nghe súng nổ, thấy xung quanh nhiều người chết quá nên con chúi đầu xuống đất, không dám ngẩng lên.

- Không dám ngẩng lên à?... Đúng thế thật... Nhưng lần thứ hai, lần thứ ba mày sẽ ngẩng lên... Và lần thứ tư mày sẽ ngắm trúng họng tao mà bắn... Đúng không?

Hắn run rẩy:

- Thưa ông...

Tôi nhìn hắn, mỉm cười. Lần nữa, tôi thấy hắn ngần mặt ra và hắn giống cô bé Hòa như đúc! Có lẽ hắn không hiểu tôi là người hay quỉ. Các thớ thịt trên khuôn mặt hắn cứng đờ. Có lẽ đầu óc hắn rối tung và hắn không thể tìm được lời giải. Tôi khoái chí nhìn hắn:

- Đừng sợ. Bắn giết là công việc của chiến tranh. Bước ra trận tao cũng bắn tụi mày như bắn lũ sâm cầm, không ghê tay... Có lẽ vì tụi mày thờ đám thần khác với thần của chúng tao nên mới khổ vậy. Hay mày về nói với lão trung tá Huyên xin chính phủ chúng mày đổi sang thờ thần Mác?

Tên tù binh há miệng nhìn tôi chằm chằm. Hoặc là hắn nghi tôi điên. Hoặc hắn sắp điên.

Tôi nói tiếp:

- Hoặc giả chúng tao với bọn mày sẽ chọn chung một ông nào đó. Ví như ông Thổ địa, cái vị bụng phệ vẫn ngồi bệt ở dưới góc nhà ấy... Không ai chém giết nhau vì một ông thần cỏn con như thế...

Tên tù há mãi miệng ra mới nói được vài lời:

- Con xin ông... tha tội... Con chẳng hiểu ông nói gì... con xin...

Tôi cười phá lên, bảo:

- Không có gì đâu?... Tao đùa tí chơi... Về đi...

Hắn đứng lên, chắp hai tay vái:

- Thưa ông, con xin phép...

Hắn lùi ra sau vài bước. Khi tới cửa, hắn quay lưng bước nhanh như chuột. Ánh mắt hắn nhìn tôi hãi hùng như ánh mắt đứa bé gái nhìn thấy con yêu râu xanh!

Chương 13

Mưa vẫn rơi sầm sập trút thác ngoài trời. Các mái lán rung rào rào dưới mưa rơi. Nước hắt bụi vào tận nơi tôi ngồi lạnh lạnh, tê tê. Tôi nhìn màn mưa trắng xóa, thấy núi rừng trùng điệp lô xô, mặt trận nọ nối tiếp mặt trận kia, hun hút tới chân trời.

Trên vùng đất mênh mông ấy, lúc nhúc những binh đoàn như kiến đen và kiến đỏ, kiến gió và kiến lửa, kiến ong và kiến mối... lúc nhúc ngoi lội giữa bùn, giữa nước, giữa đồng khô nắng cháy...

Cả hai bên đều hò hét, cả hai bên đều điên cuồng chém giết, - cả hai bên đều rú lên khoái trá khi máu đối phương phụt khỏi tim, óc đối phương vọt khỏi não, - cả hai bên đều quằn quại như sâu bọ dưới những làn đạn lửa, - phần sống sót lê khỏi chiến địa để làm mồi dự trữ cho các mặt trận tiếp theo, - phần đã chết tự hiến nốt hình hài cho các loài ác thú và dòi bọ.

Cả hai bên đều yên trí là mình đã hy sinh xứng đáng cho lý tưởng. Than ôi, họ có chung một nòi giống, con của mẹ Âu Cơ và cha Lạc Long Quân. Họ là những hữu thể được tái sinh trong cùng một bào thai - không xứ sở nào có được cái huyền thoại mê ly đến thế!...

Tôi đã sốt liền một tuần không ăn uống. Y tá chuyền nước muối đẳng-trương và đường Glu-cô trực tiếp vào mạch. Sang ngày thứ tám, dứt cơn sốt, tôi đòi ăn cháo. Mưa đã tạnh. Buổi chiều nắng ấm, tôi chống gậy mò ra cửa ngồi chơi.

Rừng đẹp não lòng. Tôi sung sướng vì mình còn sống, bắt đầu thả cơn mơ mộng lãng đãng dọc theo đường quê, từ bờ đê chạy thõng xuống ánh đồng, nghe tiếng chim vịt lưng trời gom nhặt lại những mình thời gian đã mất, uống nước trong với tí tẹo trời lơ khuấy trong đáy cốc... Có thể tôi sẽ mọc lên như nhành mạ sót, lay lắt giữa khí trời thù địch, và những cơn bão rớt nhưng sẽ còn trổ bông?...

- Đề nghị thủ trưởng vào lán ngay.

Cậu y tá miệng nói, tay lôi tôi vào giường, bắt tôi nằm ngoan dưới tấm chăn. Nhưng, thân thể vừa ấm, tôi lại chìm vào cơn mê buốt lạnh.

Tôi thấy Hoa. Cô đang ăn nằm với một gã đàn ông đen sì, dị dạng. Cô kêu ú ớ, mặt tái nhợt như kẻ chết trôi. Gã đàn ông bóp nắn cô với đôi cánh tay gầy, lông lá. Tóc gã dựng đứng. Tấm thân gã cử động khó nhọc và quái dị như con đười ươi. Tôi thấy gã nhìn tôi, nhăn nhở cười, phơi bày cuộc chiến thắng bỉ ổi một cách hể hả...

Tim tôi nhói đau vì ước muốn trả thù. Tôi định hét to một tiếng. Nhưng cổ họng tôi bỏng rát. Rồi bỗng dưng tôi tan biến. Tôi thấy một cảm giác tan nhuyễn lạ kỳ khi xương thịt mình hóa thành làn nước, lan qua đồng cỏ, hòa nhập vào dòng sông lặng lờ miền quê cũ...

Hôm qua có một tay kẻng trai trên trung đoàn xuống chơi. Ông ta đem theo thư của Lương với một hộp táo tầu và nửa cây thuốc lá. Trên sư đoàn, Lương đã nghe tin tôi bị sốt rét ác tính. Anh không xuống được nên nhờ người chuyển thư và quà. Sứ giả của anh hơn tôi một hàm, hơn mười một tuổi. Rất giỏi tán. Sau bữa cơm, chúng tôi ngồi tán gẫu.

Bất chợt, ông ta khoe bắn một thằng trúng đầu gối trên đường tới đây. Tôi hỏi:

- Thám báo hả?

Ông ta lắc đầu:

- Không, một thằng đào ngũ. Đáng kiếp. Hai phát đạn của tôi trúng hai đầu gối nó. Thế nào nó cũng phải tháo khớp háng. Từ ngày vào lính, chưa bao giờ tôi bắn chính xác như lần này.

Tôi hỏi:

- Thằng ấy nom thế nào?

ông ta kể:

- Nghe giọng biết là dân Hà nam. Nó còn nhóc lắm... Chắc bằng tuổi thằng con lớn của tôi. Ngu như bò. Hô dừng lại cứ lao đầu chạy tiếp nên mới chết.

Rồi ông ta cười:

- Này, cái bật lửa của ông chúa quá. Tụi sĩ quan ngụy cũng khó kiếm thứ hàng cao cấp thế? Kỷ niệm cho tôi nhé?

- Sẵn sàng.

Tôi ném chiếc bật lửa vào lòng ông ta và nhìn bộ mặt ông ta rạng rỡ lên.

Các cán bộ cỡ đại đội trở lên phải dự một cuộc tập huấn. Địa điểm chính xác không biết trước nhưng từng chặng tập kết có giao liên đưa đường.

Tôi mới ốm dậy nên đề nghị Thái đi thay nhưng cấp trên không chuẩn y.

- Đành vậy. Cậu ở nhà lo cho cơm ngon canh ngọt. Rỗi rảnh thế này, bọn lính dễ đi sục gái. Không cẩn thận lại xảy ra chuyện rầy rà...

Trong buổi bàn giao công việc đại đội, tôi bảo Thái như vậy. Cậu ta đần mặt ra hồi lâu mới nói:

- Anh đi xa, tôi chống chếnh lắm!

Tôi cười:

- Cậu phải nghĩ tới lúc tôi tỏi chứ.

Thái nói:

- Đừng.

- Cậu vớ vẩn. Chuyện đó là thường. Riêng trong đơn vị này, nó đã xảy ra với một trăm ba mươi bảy người.

Thái lắc đầu:

- Nhưng với mười chín người còn lại thì không.

- Tại sao?

- Tại tôi tin thế. Chẳng lẽ trời không có mắt?

- Nếu trời có mắt, con người đã chẳng chém giết nhau!

Thái cúi đầu hạ giọng:

- Anh Quân này, hết chiến tranh rồi mình sẽ sống ra sao? Nhà tôi chẳng hạn, có mỗi mống em trai thì chết mất, còn lại một đống em gái... Ai sẽ lấy đàn vịt cái ấy?... Rồi suốt ngày chúng sẽ quàng quạc bên tai tôi...

- Cậu lo xa quá!... Trước mắt hãy lo cho cứng gân cốt mà đi qua cuộc chiến tranh này.

Thái đưa cho tôi gói thuốc Vĩnh bảo của một cậu đồng hương tặng. Thuốc gửi từ miền Bắc vào, qua bao nhiêu ngày đường nên đã mốc. Thái phải rửa sạch, sao lại. Tuy thế, còn hơn hút rễ cây hồng-ma hay lá đu đủ. Tôi đi từ lúc mờ sương, theo đường giao liên tới địa điểm tập kết thứ nhất. Nghỉ ngơi ở đó một đêm, sáng hôm sau, tôi cùng năm chục người được đưa lên một chiếc ô-tô tải xuyên rừng. Xe phủ bạt kín mít. Đi hai ngày một đêm thì tôi điểm tập kết thứ hai.

Đấy là một cánh rừng rậm, lán dựng san sát dưới các vòm cây. Khói bếp tập thể luồn qua ống dẫn tới tận khe sâu. Người đi kẻ lại rầm rập, khua bát khua thìa, chuyện trò râm ran...

Ở đấy các hội đồng hương tha hồ hoạt động, các cuộc kết nghĩa vườn đào được tổ chức quanh các bếp lửa hoặc ven suối, các buổi biểu diễn văn nghệ tự động liên miên ngày đêm. Giọng ngâm thơ miền Trung lẫn với giọng quan họ xứ Bắc. Toàn bọn đàn ông mà cũng rôm rả lắm trò... Sớm ngày thứ hai, giao liên tới.

- Nữ giao liên, anh em ơi...

Ai đó hô to. Thế là bỗng dưng, người trong các lán đổ ra và tiếng hoan hô vang dậy trời:

- Hoan hô… ô… ô...

- Ha …a… a...

– Hô… ô… ô...

Có nhiều cậu nhẩy cẫng lên. Cả đám người xao động, nháo nhác chạy ngược chạy xuôi. Tôi đứng lẫn trong đám đông, lòng rộn ràng. Mãi mươi phút sau, chúng tôi mới thấy người con gái ấy. "Cũng bỏ công mọi người chờ đón..." Cô xinh xắn, tuy không đẹp. Da trắng xanh, tóc đen, mắt đen, răng khểnh. Cô lại nhỏ bé, có vẻ yếu ớt.

Tất cả chúng tôi xô ra, ai cũng cố nói với cô một câu, chạm vào vạt áo đen mềm hay mái tóc xõa ngang lưng. Cô giao liên cười với tất cả, gật đầu chào tất cả bằng thái độ bình tĩnh, nhẫn nại.

Chắc chắn cô đã quen với cảnh rồ dại của đám đàn ông bị nhốt lâu trong rừng. Vị nữ thần xinh xắn ấy đưa tới một đoạn thuyền. Chúng tôi theo cô, vượt rừng tới ngọn nguồn một con sông xanh biếc. Mười hai chiếc thuyền, mỗi thuyền chở mười hai người vừa tròn một tiểu đội. Chúng tôi đã được phiên chế rất nhanh trên đường đi. Nữ giao liên đi thuyền đầu tiên, cùng với ban chỉ huy. May sao, tôi không được bầu vào ban chỉ huy ấy. Khi đoàn thuyền bắt đầu xuôi, bóng người con gái đứng nơi mũi thuyền khắc vòi vọi giữa khung trời. Trong chiếc áo bà ba lụa đen mềm mại, trông cô xinh đẹp và mời gọi. Ở những thuyền đi sau, tôi nghe tiếng thở dài. Một giọng:

- Làm chỉ huy, sướng thật!

Một giọng khác:

- Được ngồi thuyền ấy, chỉ ngửi mùi cũng đỡ nhớ!

Giọng kia:

- Gió ơi, hãy đem mùi thơm của nàng chia đều cho chúng anh.

Giọng thứ hai:

- Cậu ca cải lương đó à?

Giọng đáp lại:

- Cải lương gì?... Đúng bỏ mẹ còn làm bộ!...

Vài tiếng cười khúc khích. Sau đó là yên lặng. Những gương mặt đờ đẫn.

Hai bên bờ, núi rừng xanh thẳm chầm chậm trôi. Tiếng mái chèo khua buồn tẻ. Cứ ba giờ, thay chèo một lần. Người dẫn thuyền chỉ trực tiếp chèo những đoạn lắm ghềnh hoặc nhiều mỏm đá. Chúng tôi tựa vào nhau, ngủ gà gật, khi thời gian trôi cùng với con thuyền, đưa chúng tôi về đồng bằng. Tôi tỉnh ngủ vào lúc trời chiều. Mặt trời ở sau lưng chúng tôi, nơi đuôi thuyền, dập dềnh giữa sóng nước. Trước mặt tôi, ở hai bên bờ, mênh mông cát đỏ...

“Xứ Chàm... Mình đã gặp trên đường tới K..." Tôi chợt nhớ tới chàng Vân kiều Te Chiêng. Anh ta đái tồ tồ ngay bên cạnh tôi và tiếng nước tiểu rót trong buổi sáng hôm ấy đã cứu tôi khỏi các ám ảnh... Miền cát đỏ... Tôi ngồi thẳng dậy, sửng sốt nhìn. Các triền cát chạy dọc theo con sông, miên man, với những lượn sóng mờ và các đám cỏ xam xám.

Giờ này vào lúc hoàng hôn, màu cát ngả sang tím nhợt như cánh hoa bèo. Giờ này vào lúc hoàng hôn, nó không ám ảnh tôi bởi các bóng ma quá vãng mà trải trước mắt tôi nỗi sầu thảm mênh mông. Miền cát đỏ đã nguội đi hơi nóng mặt trời, ngọn lửa thù hận, các cuồng vọng và những đam mê. Vùng cỏ xám mờ dần trong hơi thở miên man của đất đai, không khắc khoải, không chờ đợi. Tôi nghe tiếng nức nở. Phải chăng ấy là tiếng sóng vỗ lúc chiều hôm?... Một giai điệu u hoài văng vẳng. Đêm đen, với ngọn lửa lập lòe bên chân thành ốc. Ai đó đang ngồi, cái bóng âm thầm, câm nín kề một bên mũi giáo. Ánh lửa soi xanh rờn giọt nước mắt đọng nơi khóe mắt, chưa kịp rơi.

- Ai kia?

- Ta.

- Ông là ai?

- Ta là ông tổ bảy đời của con.

- Tôi không quen ông.

- Phải, con người không thể quen tổ tiên của chính mình.

Cái bóng ngẩng lên. Giọt nước mắt lăn khỏi khóe mắt, từ tử bò thành dòng trên gò má. Gương mặt ấy dường như tôi đã gặp đâu đó trong cuộc hành trình của đời mình. Vừa quen, vừa lạ. Nhất là nét cong cuối tràng mày và những nếp nhăn trên trán.

Tôi hỏi:

- Ông cần gì?

- Ta phải gặp con.

- Để làm gì vậy?

- Con đã dựng ta khỏi mồ, vì lòng hờn oán.

- Vâng... Có thể...

- Con đã từng tới vùng đất này, đã bị bóng ma Chàm rượt đuổi, đã sợ hãi và nguyền rủa chúng ta.

- Phải.

- Đừng thế.

- Tội ác đó có thật. Dù chôn dưới bảy tầng đất đen, sự thật vẫn là sự thật.

- Phải.

- Nếu vậy, không còn gì để nói.

- Còn...

Bóng ma ngẩng lên nhìn tôi. Một cái nhìn đắm đuối. Tôi lạnh toát sống lưng. Tôi không muốn mình bị chinh phục bởi một hồn ma. Nhưng rõ ràng, trong cái nhìn u buồn đau đáu kia, ẩn chứa một tình yêu không cưỡng chế. Bóng ma khẽ nhếch môi cười, hướng đôi mắt xa vắng vào mắt tôi:

- Còn một sự thật nữa...

Tôi cau có, gằn giọng:

- Vậy thì ông nói đi.

Bóng ma cười buồn:

- Có một con hồ xa vắng, có một dòng sông xa vắng, có cánh rừng xa vắng...

Tôi gắt:

- Ông nói dài dòng tôi không hiểu?

Bóng ma cười hiền:

- Rồi con sẽ hiểu... Tít xa kia, nơi phương Bắc... Có một con hồ xanh biếc, có một dòng sông, một cánh rừng và những đồng lúa tốt... ấy là quê hương ta, và quê hương xưa cũ của con. Ông tổ bảy mươi đời của ta đã sinh ra ở đó, đã lấy vợ, đẻ con, gây dựng cơ đồ... Rồi bọn rợ phương Bắc tới cướp đất, chiếm nhà, đánh bạt tổ tiên ta khỏi vùng quê ấy... Tổ tiên của ta phải ra đi...

Tôi nói:

- Tôi hiểu rồi. Bọn rợ phương Bắc rượt đuổi các ông. Và các ông lại tiến về phương Nam chinh phạt. Một vòng tròn luẩn quẩn của tội ác.

Bóng ma nói:

- Lịch sử đầy tội ác.

Tôi hỏi:

- Tại sao các ông không chống lại nó?

Bóng ma lắc đầu:

- Con người không chống được số phận của mình.

Tôi nói:

- Chính các ông đã truyền lại cho chúng tôi câu nói:

- Số bảy, người ba.

Bóng ma cười:

- Phải, đấy là điều ta muốn nói.

Tôi hỏi:

- Tại sao không làm mà lại nói?

Bóng ma đáp:

- Thời ta sống, người ta đâm chém nhau bằng gươm giáo. Muốn chuyển một bức thư, ngựa chạy cả tuần trăng. Con người bị cắt chia trong các khu vườn tối tăm, man dã. Chúng ta sống giữa u mê như bầy thú mù lòa, chúng ta không thể vượt qua những lũy tre đầy gai nhọn tìm vùng đất mới.

Tôi nói:

- Các ông để lại cho chúng tôi một chiếc túi rỗng.

Bóng ma đáp:

- Có

Tôi hỏi:

- Cái gì?

Bóng ma bảo:

- Những khải hoàn môn.

Tôi cười sằng sặc:

- Khải hoàn môn của chúng tôi bây giờ còn to hơn.

Bóng ma nói:

- Kiêu ngạo là thói thường của lũ trẻ đầu xanh... Con hãy nhìn ta xem: ta không có giày, có mũ, có súng. Chân ta đi đất, vai ta đeo ruột tượng đựng lương khô - Lương khô ấy là bắp rang trong nồi đất. Cây giáo của ta rèn trong bếp lửa làng quê... Chúng ta trần trụi. Và chúng ta đã dựng cho các con những khải hoàn môn bằng xương máu của chính mình.

Tôi nói:

- Cóc cần những khải hoàn môn của các ông... Cóc cần cả ông nữa... Sao ông cứ ám tôi?... Tôi chán lắm rồi...

Bóng ma đáp:

- Con là giọt máu của ta. Dù luân lạc qua bao đời, nó vẫn là của ta... Đừng cáu bẩn... Đừng bội bạc... Trước kia khi đã từng oán hận tổ tiên như vậy... Nhưng con ơi, chúng ta không lựa chọn được lịch sử cho mình...

Tôi thấy ngột ngạt. Dường như tôi sắp khóc. Tôi hét lên:

- Tôi cóc cần!

Bóng ma vẫn nhìn tôi, không nổi giận, không an ủi:

- Người ta không nên bước vào đời với một cái đãy rỗng không. Nhưng cũng chẳng nên thò tay bốc gạo trong đãy ăn mà không nghĩ cách cắt lụa may một chiếc đãy mới. Kẻ không có gia tài đáng tủi nhục còn kẻ không tạo được gia tài cho con cháu thì cần khinh bỉ.

Tôi nhìn chăm chăm vào đôi mắt xa vời của hồn ma, hoang mang:

- Ông định nói gì?... ông còn muốn gì ở chúng tôi?

Bóng ma nói:

- Chúng ta đã để lại cho con những khải hoàn môn. Sao các con không dựng lấy những khải hoàn môn của chính mình?...

Tôi nghĩ "A... thật hàm hồ... cái ông cụ ông kị này... Chẳng lẽ ông ấy không thấy chúng tôi đang làm gì hay sao?... Chẳng lẽ ông không thấy bao nhiêu lớp người đã ra đi, và đã gục xuống, và đã hát khúc khải hoàn... Tất cả đang tiến về phía cái nửa vòng tròn huyền diệu của chân trời tương lai?" Nhưng lưỡi tôi bỗng cứng ngắc, không thốt lên lời.

Bóng ma nhìn tôi giờ lâu, âu yếm, thắm thiết. Một cái nhìn vừa khoan dung vừa trông đợi. Một ánh mắt đau đáu, vượt qua thăm thẳm thời gian, vượt qua mọi cách biệt thế hệ, vượt qua các triều đại và các nền văn minh... Đôi bàn chân lấm đất, bên trên quấn xà cạp. Bộ áo quần bằng vải thô dơ dáy. Một mũi giáo và cái ruột tượng đựng ngô rang... ôi những con người đã dựng lên các khải hoàn môn... Tổ tiên đau khổ của tôi...

- Này, lại ngủ hả?...

Tôi giật mình quay lại: Không phải ngọn lửa chập chờn bên chân thành cổ mà là bộ mặt tí tởn của anh chàng ở B9 mới ra. Anh ta cười:

- Nghĩ gì mà ngồi ngây như tượng?... Nhìn kia kìa...

Anh ta chỉ cho tôi. Trên chiếc thuyền chỉ huy, cô giao liên đang ngủ, tựa đầu vào vai một tay trung tá. Ông này vừa thích vừa sợ xung quanh di nghị nên ngồi cứng ngắc như tượng, mắt nhìn về phía trước.

Anh chàng ngồi bên cười toe toét, bảo tôi:

- Đằng ấy muốn được thay vị trí không?

Tôi đáp cộc lốc:

- Không!

Anh ta nhăn mũi:

- Sĩ diện!

Tôi lặng im không tranh cãi.

Mặt trời chìm xuống nước, chỉ còn nhô lên cái mí đỏ như vành móng tay. Ánh dương rực rỡ hắt lên mặt sông.

Phía trước, những giải mây xám đang chập chờn trên bờ cỏ. Các triền cát ngả sang màu tím thẫm. Đấy là màu của buổi chiều hoang vắng xưa, khi tiếng tiêu cô độc lướt qua bãi chiến trường ngổn ngang những thây người cùng thây ngựa...

Chương 14

Lương đã chờ tôi ở điạ điểm tập huấn. Anh tới đây một tuần để chuẩn bị nội dung. Tóc anh bạc một mớ bên thái dương. Đêm đầu tiên có văn công quân khu phục vụ nên không ai còn tâm trí nghĩ tới chuyện nào khác. Tôi cũng thế, tôi quên Lương ngay khi trước sân khấu hội trường, - đào ngầm trong lòng đất, - người ta treo lên hai tấm màn đỏ.

Từ sau tấm màn ấy vọng ra tiếng vĩ cầm sai lạc và tiếng đàn ác-cóóc-đê-ông vụng dại oàm oạp như ếch kêu nhưng chúng làm cho tim tôi như đứng lại cùng những hồi ức học trò, hy vọng được tái sinh.

Tôi đứng đần độn trong một xó rừng, không ai hay biết, nghe đám nhạc công thử dây đàn, tấu những khúc nhạc lộn xộn và đôi khi có tiếng cười lanh lảnh của một người con gái. Tiếng cười ấy làm tôi thèm muốn chết được gặp cô.

Nhưng nỗi sợ hãi cầm chân tôi tại chỗ. Rồi một anh chàng đi qua, kéo vai tôi:

- Vào đi sắp tới giờ biểu diễn.

Tôi đi theo anh ta, như bè nứa bị đẩy ra dòng nước.

Những bài hát và điệu múa nối tiếp ra sao, tôi không còn nhớ. Tôi dán mắt vào những gương mặt hồng hào, tươi đẹp, những tấm thân quyến rũ của cả đám đàn ông lẫn đàn bà trên sân diễn. Tôi chẳng nghĩ gì. Tôi bị hút hồn. Như kẻ lạc rừng đêm, bước về phía ánh lửa, như kẻ đi biển hướng về mỏm núi, tôi bị thôi miên bởi vẻ đẹp từ lâu thiếu vắng và quên lãng. Nụ cười ấp ánh, cái liếc mắt mồi chài, cánh tay trắng phau, lườn lưng mềm dẽo và dính hút như nhựa đánh bả, những ngôi sao trong suối tóc đen, giai điệu phiêu du của ái tình và tuổi trẻ, cặp mông Thị Mầu, giải lụa màu thiên thanh phấp phới bay những bông hoa dại khờ đính trên gấu váy... Những tràng vỗ tay ran tứ phía, lan truyền như sóng.

Tôi cũng vỗ tay thật to. Vỗ mãi, mãi, mãi... Rồi một người giật tay áo tôi:

- Cậu điên à?...

Tôi không trả lời, ngơ ngẩn nhìn...

Anh chàng nhăn nhở cười vào mũi tôi:

- Máu quá phải không?

Tôi gật đầu đáp bừa:

- Ừ, máu.

Anh ta cười nhăn:

- Máu cũng phải từ từ không họ cười cho... Sắp chỉnh huấn rồi, thằng nào thù nó để ý thì sinh lắm chuyện.

Tôi chỉ ư hữ, gật gù, anh kia cũng gật gù nói tiếp:

- Nghĩ đời chán bỏ mẹ, máu một tí cũng không dám...

Tôi định nói với anh chàng điều gì đó nhưng Lương đã đi tới. Đầu anh luôn luôn thẳng đứng trên cần cổ cũng thẳng đứng và vẻ mặt trầm tĩnh. Anh bảo:

- Về phòng tôi đi.

Tôi chào anh chàng vui tính, đi theo Lương. Chúng tôi đi qua những đường mòn, chằng chịt đan chéo nhau như một tấm mạng nhện khổng lồ trên mặt đất phủ đầy lá mục và lửa lân tinh.

Các đám người tấp nập qua lại, ánh đèn pin loang loáng, các sơ đồ doanh trại cầm tay, tiếng hỏi đường, tiếng tán dóc, tiếng cười, tiếng xì xầm trò chuyện tạo thành bản hòa tấu của cả bày ong đêm.

Lương hỏi:

- Đoàn nãy diễn hay không?

Tôi đáp:

- Hay.

Anh pha chè đen, khoắng hai thìa đường và đặt trước mặt mời tôi:

- Uống đi.

Chờ tôi uống hết cốc nước, anh mới nói:

- Tôi không định báo tin này cho cậu... Nhưng trước sau rồi cũng biết.

Tôi nhìn vào mặt anh. Lập tức, đôi mắt anh sập xuống.

Tôi hiểu rằng có cái gì đó trọng đại. Tôi hỏi:

- Anh định điều tôi sang một đơn vị mới phải không?

- Không.

- Sắp có tai biến trong sư đoàn mình?

- Không.

Tôi không hỏi nữa, ngồi chờ... Một lát, trong tầm nhìn xa xăm và trong tiếng thở dài, Lương khe khẽ:

- Biền chết rồi.

Tôi lặng im.

Anh nói tiếp, chậm rãi:

- Biền đạp mảnh pháo. Vết thương nhiễm trùng uốn ván...

Tôi đứng lên:

- Anh dẫn tôi đi gặp thằng Húc. Tôi muốn biết nó chết như thế nào.

Húc không về tập huấn. Đơn vị đặc nhiệm được miễn vì nhận chỉ tiêu đột xuất. Chúng ta sắp mở chiến dịch lớn.

Trên bổ xung cho Húc hai đại đội. Giờ cậu ấy là tiểu đoàn trưởng, vừa được phong hàm...

Tôi hỏi:

- Chỉ tiêu mới?... Bao nhiêu? Một vạn hay mười vạn chiếc hòm?

Lương ngồi im, cái đầu cứng đơ trên cần cổ cúng đơ.

Tôi biết anh không nói. Không bao giờ nói...

Trong óc tôi diễu qua đoàn người. Đoàn Vân kiều cõng những chiếc quan tài ra mặt trận, bóng họ in trên đường triền núi trong buổi rạng đông xanh rờn. Rồi những đoàn xe tải phủ kín bạt chở những chiếc hòm đó xuyên rừng, xuyên núi, lắc lư. Những chiếc quan tài, như những con mắt rỗng không, những túi tiền rỗng không, chờ đợi...

Lương vẫn ngồi lặng lẽ. Tôi bỗng sợ hãi anh:

- Anh Lương, chẳng lẽ anh không nói gì với tôi?

Lương im lặng.

Tôi gọi giật giọng:

- Anh Lương!

Lương ngẩng lên:

- Mình buồn lắm, Quân ạ... Nhưng chiến tranh là chiến tranh. Và sứ mạng lịch sử đã trao cho nhân dân mình...

"Câu nói ấy thì tôi đã nghe hàng vạn lần trong các buổi phát thanh... hàng vạn". Tôi chào anh, đi về. Hình như anh định đứng dậy tiễn tôi, nhưng tôi đi quá nhanh, tôi không nhìn anh. Người bạn thời thơ ấu.

Chúng tôi đã cùng nhau nhảy xuống sông làm ánh dương đọng trên mặt nước vỡ thành trăm ngàn mảnh, lấy cọng cỏ đo chim nhau xem thằng nào dài hơn. Cả Lương, cả Biền, cả tôi đều có con cu bằng quả ớt. Thời ấu thơ của tình thân ái... thời ấu thơ bình đẳng!

Những con chim đa tình gù suốt những trưa hè trên ngọn tre. Những con cào cào nhảy chanh chách trong đám cỏ ven đê. Những người đàn bà da thịt phốp pháp ví von hát ghẹo nhau, đuổi rượt nhau, ôm nhau lăn trên bờ ruộng khiến lũ trẻ chúng tôi tràn đầy sung sướng... Có con diều neo giữa khoảng trời lơ, khiến những giấc mơ cứ muôn đời lơ lửng trong thinh không... Còn mặt đất lầy bùn, lầy thịt người thối rữa. Những con mắt thối rữa cho chim ác là khoét. Những cẳng chân cẳng tay thối rữa cho con lợn lòi khốn quẫn sục mõm vào. Những tâm hồn thối rữa vì thói quen chém giết, vì lạc thú mò mẫm chốn chuồng bò, vì chứng hoại thư cấy vào lòng trắc ẩn...

“Thằng khốn kiếp, nó đã không chịu nghe lời mình...”! Tôi nhớ buổi sáng Biền tiễn tôi đi. Giá nó nghe tôi trở về làng làm sống lại chàng trai má hồng gánh một ngày trên trăm gánh lúa!... Giá mà... Đấy là câu nói đặt giữa hai bờ tiếc thương và tuyệt vọng. Giá mà... Chính tôi cũng không thể đặt cho mình hai từ ấy.

Trong cái đêm xuân mát rượi ven sông, tiếng cá quẫy và tiếng cỏ rì rào làm cho bầu trời trở nên gần gũi hơn, có ba thằng trai làng đã nằm gối đầu lên cánh tay, mơ mộng. Các giấc mơ như lũ bọ-gậy cung quăng bơi lội. Lũ bọ-gậy ấy đã trôi tuột vào cái mồm của một con thủy tức, - ấy là giấc mơ kỳ vĩ của đám đông, - giấc mơ hiển thánh giữa cung đình toàn nhân loại.

Ta đã để cho các con những khải hoàn môn...

Tiếng nói của hồn ma xưa vọng khắp cánh rừng, lẫn tiếng lá, lẫn tiếng thác. Tôi ngồi xuống bên chân thành ốc, nghe tiếng tiêu u hoài. Ông tổ tôi gác ngọn giáo, ngồi bên tôi. Từ đám xà-cạp quấn quanh hai bắp chân voi sưng phồng, bốc lên mùi mồ hôi lưu cữu. Những giọt nước mắt xanh rờn đọng trên mi mắt ông. Hai bên thái đương, hai bên mang tai ông lún phún từng đám rêu già.

Tôi hỏi:

- Sao lúc nào ông cũng khóc? Chúng tôi đâu có cần thêm nước mắt của các hồn ma?...

ông tổ tôi đáp:

- Ta khóc cho các con.

Tôi bảo:

- Ông nên khóc cho hai bắp chân voi kia, cho ngọn giáo kia, cho cái túi ngô rang lưu cữu kia...

Bóng ma gật đầu:

- Ờ, nhưng chúng ta đã đuổi quân của Thành cát Tư hãn.

Tôi bảo:

- Khải hoàn môn ấy cũ rồi. Nó cũng sẽ mục nát như những mái chùa thời ấy.

Bóng ma nói:

- Con đừng bội bạc. Không có cái khải hoàn môn cũ kỹ ấy, đầu gối các con sẽ nhũn như bông trước lũ giặc hôm nay.

Tôi bảo:

- Nhưng thời ấy, loài người không biết tới tên tuổi đất nước này.

Những giọt nước mắt xanh lóng lánh trong đêm nối nhau lăn. Bóng ma cúi đầu nức nở:

- Giọt máu phiêu bạt của ta... Ta thương con...

Tôi im lặng, nghe tiếng núc nở vang trong đêm. Hồi lâu bóng ma ngước nhìn tôi với đôi mắt u uẩn:

- Chúng ta đánh giặc để giữ bàn thờ tiên tổ, chúng ta đánh giặc để bảo tồn nòi giống, chúng ta không đánh giặc vì tiếng tung hô của ngoại nhân...

Một tiếng thở dài tan trong gió. Rồi đôi chân voi sưng phù lê vào lối mòn. Mùi mồ hôi lưu cữu bay lại. Rừng đêm khép dần bóng ma xưa. Chỉ còn lại với tôi ngọn lửa chập chờn hư ảo, tỏa một thứ ánh sáng xanh trong suốt, tái tê.

- Ai?... Đứng lại.

Tiếng quát.

Tôi nói:

- Chim én tới mùa xuân.

Tiếng nói diụ lại:

- Sao đồng chí đi khuya thế?

- Tôi từ chỗ đồng hương về.

- Về ngủ đi. Mai phải lên hội trường sớm.

Rồi tiếng chân xa dần trong rừng đêm. Cây đèn trong tay tôi vừa lúc hết pin. Mò mẫm mãi tôi mới về tới chỗ ngủ. Bốn bề xung quanh tiếng ngáy vang lên. Tôi rúc đầu trong chăn. Người nằm cạnh tôi mắc chứng đái dầm. Sáng ra một góc chăn tôi ướt sũng, bốc mùi khai. Anh ta không thèm xin lỗi tôi mà cỡn càu nhàu:

- Hỏng mẹ nó máy rồi... Thế này về làng, đéo... con nào nó lấy!

Tôi lẳng lặng ôm chăn xuống suối giặt. Anh ta cũng ôm mớ quần áo bẩn và chăn xuống theo. Trời rét, sương mù bay cuồn cuộn. Nước giá như kim châm vào tay, hơi lạnh thốc vào mặt. Người đàn ông đái dầm bị trượt chân, ướt cả hai ống quần. Anh ta vừa vò quần áo vừa run lập cập rồi bỗng dưng quay sang tôi gây sự:

- Sao ông không thèm nói với tôi?... Kiêu thế?... ông muốn khinh tôi hả?...

Tôi ném chiếc chăn ướt xuống chân, quay sang ước lượng: “Từ đây tới đó đúng ba bước chân, thuận một cú đá. Chỉ một tích tắc, mày sẽ được bơi lóp ngóp giữa dòng, tha hồ mát..." Bộ mặt anh ta tái rét, một điểm tím tụ trên sơn căn. Cái cần cổ vươn ra như cần cổ một con gà chọi về già trên cổ áo thu đông đã sờn cũ. Tôi chợt rùng mình "Mặt ám thế kia, chắc sắp tỏi rồi... Không thoát khỏi trận tới." Tôi đã hình dung ra chiến dịch mới qua không khí căng thẳng của những bài tập chỉnh quân. Một ngày mai... thoáng liếc nhìn gương mặt tái xanh, tôi thấy hai hố mắt rữa nát giữa bùn vùng chiến địa. Tôi thu tay về, cúi xuống vò tiếp chiếc chăn dù. Còn anh ta vẫn vênh váo nhìn tôi, miệng lầm bầm:

- Tưởng định gây chuyện với đây?...

Chương 14

Lương đã chờ tôi ở điạ điểm tập huấn. Anh tới đây một tuần để chuẩn bị nội dung. Tóc anh bạc một mớ bên thái dương. Đêm đầu tiên có văn công quân khu phục vụ nên không ai còn tâm trí nghĩ tới chuyện nào khác. Tôi cũng thế, tôi quên Lương ngay khi trước sân khấu hội trường, - đào ngầm trong lòng đất, - người ta treo lên hai tấm màn đỏ.

Từ sau tấm màn ấy vọng ra tiếng vĩ cầm sai lạc và tiếng đàn ác-cóóc-đê-ông vụng dại oàm oạp như ếch kêu nhưng chúng làm cho tim tôi như đứng lại cùng những hồi ức học trò, hy vọng được tái sinh.

Tôi đứng đần độn trong một xó rừng, không ai hay biết, nghe đám nhạc công thử dây đàn, tấu những khúc nhạc lộn xộn và đôi khi có tiếng cười lanh lảnh của một người con gái. Tiếng cười ấy làm tôi thèm muốn chết được gặp cô.

Nhưng nỗi sợ hãi cầm chân tôi tại chỗ. Rồi một anh chàng đi qua, kéo vai tôi:

- Vào đi sắp tới giờ biểu diễn.

Tôi đi theo anh ta, như bè nứa bị đẩy ra dòng nước.

Những bài hát và điệu múa nối tiếp ra sao, tôi không còn nhớ. Tôi dán mắt vào những gương mặt hồng hào, tươi đẹp, những tấm thân quyến rũ của cả đám đàn ông lẫn đàn bà trên sân diễn. Tôi chẳng nghĩ gì. Tôi bị hút hồn. Như kẻ lạc rừng đêm, bước về phía ánh lửa, như kẻ đi biển hướng về mỏm núi, tôi bị thôi miên bởi vẻ đẹp từ lâu thiếu vắng và quên lãng. Nụ cười ấp ánh, cái liếc mắt mồi chài, cánh tay trắng phau, lườn lưng mềm dẽo và dính hút như nhựa đánh bả, những ngôi sao trong suối tóc đen, giai điệu phiêu du của ái tình và tuổi trẻ, cặp mông Thị Mầu, giải lụa màu thiên thanh phấp phới bay những bông hoa dại khờ đính trên gấu váy... Những tràng vỗ tay ran tứ phía, lan truyền như sóng.

Tôi cũng vỗ tay thật to. Vỗ mãi, mãi, mãi... Rồi một người giật tay áo tôi:

- Cậu điên à?...

Tôi không trả lời, ngơ ngẩn nhìn...

Anh chàng nhăn nhở cười vào mũi tôi:

- Máu quá phải không?

Tôi gật đầu đáp bừa:

- Ừ, máu.

Anh ta cười nhăn:

- Máu cũng phải từ từ không họ cười cho... Sắp chỉnh huấn rồi, thằng nào thù nó để ý thì sinh lắm chuyện.

Tôi chỉ ư hữ, gật gù, anh kia cũng gật gù nói tiếp:

- Nghĩ đời chán bỏ mẹ, máu một tí cũng không dám...

Tôi định nói với anh chàng điều gì đó nhưng Lương đã đi tới. Đầu anh luôn luôn thẳng đứng trên cần cổ cũng thẳng đứng và vẻ mặt trầm tĩnh. Anh bảo:

- Về phòng tôi đi.

Tôi chào anh chàng vui tính, đi theo Lương. Chúng tôi đi qua những đường mòn, chằng chịt đan chéo nhau như một tấm mạng nhện khổng lồ trên mặt đất phủ đầy lá mục và lửa lân tinh.

Các đám người tấp nập qua lại, ánh đèn pin loang loáng, các sơ đồ doanh trại cầm tay, tiếng hỏi đường, tiếng tán dóc, tiếng cười, tiếng xì xầm trò chuyện tạo thành bản hòa tấu của cả bày ong đêm.

Lương hỏi:

- Đoàn nãy diễn hay không?

Tôi đáp:

- Hay.

Anh pha chè đen, khoắng hai thìa đường và đặt trước mặt mời tôi:

- Uống đi.

Chờ tôi uống hết cốc nước, anh mới nói:

- Tôi không định báo tin này cho cậu... Nhưng trước sau rồi cũng biết.

Tôi nhìn vào mặt anh. Lập tức, đôi mắt anh sập xuống.

Tôi hiểu rằng có cái gì đó trọng đại. Tôi hỏi:

- Anh định điều tôi sang một đơn vị mới phải không?

- Không.

- Sắp có tai biến trong sư đoàn mình?

- Không.

Tôi không hỏi nữa, ngồi chờ... Một lát, trong tầm nhìn xa xăm và trong tiếng thở dài, Lương khe khẽ:

- Biền chết rồi.

Tôi lặng im.

Anh nói tiếp, chậm rãi:

- Biền đạp mảnh pháo. Vết thương nhiễm trùng uốn ván...

Tôi đứng lên:

- Anh dẫn tôi đi gặp thằng Húc. Tôi muốn biết nó chết như thế nào.

Húc không về tập huấn. Đơn vị đặc nhiệm được miễn vì nhận chỉ tiêu đột xuất. Chúng ta sắp mở chiến dịch lớn.

Trên bổ xung cho Húc hai đại đội. Giờ cậu ấy là tiểu đoàn trưởng, vừa được phong hàm...

Tôi hỏi:

- Chỉ tiêu mới?... Bao nhiêu? Một vạn hay mười vạn chiếc hòm?

Lương ngồi im, cái đầu cứng đơ trên cần cổ cúng đơ.

Tôi biết anh không nói. Không bao giờ nói...

Trong óc tôi diễu qua đoàn người. Đoàn Vân kiều cõng những chiếc quan tài ra mặt trận, bóng họ in trên đường triền núi trong buổi rạng đông xanh rờn. Rồi những đoàn xe tải phủ kín bạt chở những chiếc hòm đó xuyên rừng, xuyên núi, lắc lư. Những chiếc quan tài, như những con mắt rỗng không, những túi tiền rỗng không, chờ đợi...

Lương vẫn ngồi lặng lẽ. Tôi bỗng sợ hãi anh:

- Anh Lương, chẳng lẽ anh không nói gì với tôi?

Lương im lặng.

Tôi gọi giật giọng:

- Anh Lương!

Lương ngẩng lên:

- Mình buồn lắm, Quân ạ... Nhưng chiến tranh là chiến tranh. Và sứ mạng lịch sử đã trao cho nhân dân mình...

"Câu nói ấy thì tôi đã nghe hàng vạn lần trong các buổi phát thanh... hàng vạn". Tôi chào anh, đi về. Hình như anh định đứng dậy tiễn tôi, nhưng tôi đi quá nhanh, tôi không nhìn anh. Người bạn thời thơ ấu.

Chúng tôi đã cùng nhau nhảy xuống sông làm ánh dương đọng trên mặt nước vỡ thành trăm ngàn mảnh, lấy cọng cỏ đo chim nhau xem thằng nào dài hơn. Cả Lương, cả Biền, cả tôi đều có con cu bằng quả ớt. Thời ấu thơ của tình thân ái... thời ấu thơ bình đẳng!

Những con chim đa tình gù suốt những trưa hè trên ngọn tre. Những con cào cào nhảy chanh chách trong đám cỏ ven đê. Những người đàn bà da thịt phốp pháp ví von hát ghẹo nhau, đuổi rượt nhau, ôm nhau lăn trên bờ ruộng khiến lũ trẻ chúng tôi tràn đầy sung sướng... Có con diều neo giữa khoảng trời lơ, khiến những giấc mơ cứ muôn đời lơ lửng trong thinh không... Còn mặt đất lầy bùn, lầy thịt người thối rữa. Những con mắt thối rữa cho chim ác là khoét. Những cẳng chân cẳng tay thối rữa cho con lợn lòi khốn quẫn sục mõm vào. Những tâm hồn thối rữa vì thói quen chém giết, vì lạc thú mò mẫm chốn chuồng bò, vì chứng hoại thư cấy vào lòng trắc ẩn...

“Thằng khốn kiếp, nó đã không chịu nghe lời mình...”! Tôi nhớ buổi sáng Biền tiễn tôi đi. Giá nó nghe tôi trở về làng làm sống lại chàng trai má hồng gánh một ngày trên trăm gánh lúa!... Giá mà... Đấy là câu nói đặt giữa hai bờ tiếc thương và tuyệt vọng. Giá mà... Chính tôi cũng không thể đặt cho mình hai từ ấy.

Trong cái đêm xuân mát rượi ven sông, tiếng cá quẫy và tiếng cỏ rì rào làm cho bầu trời trở nên gần gũi hơn, có ba thằng trai làng đã nằm gối đầu lên cánh tay, mơ mộng. Các giấc mơ như lũ bọ-gậy cung quăng bơi lội. Lũ bọ-gậy ấy đã trôi tuột vào cái mồm của một con thủy tức, - ấy là giấc mơ kỳ vĩ của đám đông, - giấc mơ hiển thánh giữa cung đình toàn nhân loại.

Ta đã để cho các con những khải hoàn môn...

Tiếng nói của hồn ma xưa vọng khắp cánh rừng, lẫn tiếng lá, lẫn tiếng thác. Tôi ngồi xuống bên chân thành ốc, nghe tiếng tiêu u hoài. Ông tổ tôi gác ngọn giáo, ngồi bên tôi. Từ đám xà-cạp quấn quanh hai bắp chân voi sưng phồng, bốc lên mùi mồ hôi lưu cữu. Những giọt nước mắt xanh rờn đọng trên mi mắt ông. Hai bên thái đương, hai bên mang tai ông lún phún từng đám rêu già.

Tôi hỏi:

- Sao lúc nào ông cũng khóc? Chúng tôi đâu có cần thêm nước mắt của các hồn ma?...

ông tổ tôi đáp:

- Ta khóc cho các con.

Tôi bảo:

- Ông nên khóc cho hai bắp chân voi kia, cho ngọn giáo kia, cho cái túi ngô rang lưu cữu kia...

Bóng ma gật đầu:

- Ờ, nhưng chúng ta đã đuổi quân của Thành cát Tư hãn.

Tôi bảo:

- Khải hoàn môn ấy cũ rồi. Nó cũng sẽ mục nát như những mái chùa thời ấy.

Bóng ma nói:

- Con đừng bội bạc. Không có cái khải hoàn môn cũ kỹ ấy, đầu gối các con sẽ nhũn như bông trước lũ giặc hôm nay.

Tôi bảo:

- Nhưng thời ấy, loài người không biết tới tên tuổi đất nước này.

Những giọt nước mắt xanh lóng lánh trong đêm nối nhau lăn. Bóng ma cúi đầu nức nở:

- Giọt máu phiêu bạt của ta... Ta thương con...

Tôi im lặng, nghe tiếng núc nở vang trong đêm. Hồi lâu bóng ma ngước nhìn tôi với đôi mắt u uẩn:

- Chúng ta đánh giặc để giữ bàn thờ tiên tổ, chúng ta đánh giặc để bảo tồn nòi giống, chúng ta không đánh giặc vì tiếng tung hô của ngoại nhân...

Một tiếng thở dài tan trong gió. Rồi đôi chân voi sưng phù lê vào lối mòn. Mùi mồ hôi lưu cữu bay lại. Rừng đêm khép dần bóng ma xưa. Chỉ còn lại với tôi ngọn lửa chập chờn hư ảo, tỏa một thứ ánh sáng xanh trong suốt, tái tê.

- Ai?... Đứng lại.

Tiếng quát.

Tôi nói:

- Chim én tới mùa xuân.

Tiếng nói diụ lại:

- Sao đồng chí đi khuya thế?

- Tôi từ chỗ đồng hương về.

- Về ngủ đi. Mai phải lên hội trường sớm.

Rồi tiếng chân xa dần trong rừng đêm. Cây đèn trong tay tôi vừa lúc hết pin. Mò mẫm mãi tôi mới về tới chỗ ngủ. Bốn bề xung quanh tiếng ngáy vang lên. Tôi rúc đầu trong chăn. Người nằm cạnh tôi mắc chứng đái dầm. Sáng ra một góc chăn tôi ướt sũng, bốc mùi khai. Anh ta không thèm xin lỗi tôi mà cỡn càu nhàu:

- Hỏng mẹ nó máy rồi... Thế này về làng, đéo... con nào nó lấy!

Tôi lẳng lặng ôm chăn xuống suối giặt. Anh ta cũng ôm mớ quần áo bẩn và chăn xuống theo. Trời rét, sương mù bay cuồn cuộn. Nước giá như kim châm vào tay, hơi lạnh thốc vào mặt. Người đàn ông đái dầm bị trượt chân, ướt cả hai ống quần. Anh ta vừa vò quần áo vừa run lập cập rồi bỗng dưng quay sang tôi gây sự:

- Sao ông không thèm nói với tôi?... Kiêu thế?... ông muốn khinh tôi hả?...

Tôi ném chiếc chăn ướt xuống chân, quay sang ước lượng: “Từ đây tới đó đúng ba bước chân, thuận một cú đá. Chỉ một tích tắc, mày sẽ được bơi lóp ngóp giữa dòng, tha hồ mát..." Bộ mặt anh ta tái rét, một điểm tím tụ trên sơn căn. Cái cần cổ vươn ra như cần cổ một con gà chọi về già trên cổ áo thu đông đã sờn cũ. Tôi chợt rùng mình "Mặt ám thế kia, chắc sắp tỏi rồi... Không thoát khỏi trận tới." Tôi đã hình dung ra chiến dịch mới qua không khí căng thẳng của những bài tập chỉnh quân. Một ngày mai... thoáng liếc nhìn gương mặt tái xanh, tôi thấy hai hố mắt rữa nát giữa bùn vùng chiến địa. Tôi thu tay về, cúi xuống vò tiếp chiếc chăn dù. Còn anh ta vẫn vênh váo nhìn tôi, miệng lầm bầm:

- Tưởng định gây chuyện với đây?...

Chương 15

Chiến dịch Ngôi sao Bắc đẩu.

Ngôi sao Bắc đầu đã cháy sáng nhưng tiểu đoàn bị xóa sổ. Tôi còn mười hai lính.

Sau bốn mươi tám giờ, quân số được bổ sung. Lính tử miền Bắc vào ào ào như thác lũ. Cơ man nào là con cháu của nòi giống Lạc Hồng.

Chúng tôi tiến về phương Nam.

Chân trời đỏ rực lửa.

- Pằng pằng pằng... pằng pằng...

- Pằng pằng pằng... pằng pằng pằng...

Tôi đứng bật dậy:

- Cậu nào bắn ẩu thế?

Tạo đứng lên theo:

- Thủ trưởng để em ra xem sao.

Cậu ta lao vút ra ngoài bóng đêm. Chỉ còn tôi và cậu y tá. Đèn sáng đến chói mắt. Chưa bao giờ tôi ngập tràn ánh sáng như bây giờ! Căn phòng còn nguyên vẹn, cả những chiếc phô-tơi bọc da màu huyết dụ, cả những tấm rèm ni- lông trong suốt, cả máy đàm thoại, những chồng giấy viết thư trắng tinh có in bông hoa tím...

Kẻ địch sống sang trọng thế này, làm sao chúng chống chọi lại chúng tôi?... Chiến tranh cần chó gì thứ giấy viết thư kìa với những bông hoa li ti màu tím?

- Thủ trưởng để yên, chưa xong đâu...

Cậu y tá nhắc. Cậu ta đang thay băng cho tôi. Hình như vết thương sắp có mủ, nó cứ cắn rưng rứt như kiến đốt.

- Pằng pằng pằng... pằng pằng pằng pằng...

Tôi bảo:

- Quái lạ, đứa nào bắn như động rồ mãi thế. Có lẽ tôi phải đi xem sao. Xong chưa?

Cậu y tá nói:

- Tí tẹo nữa thôi ạ.

Cậu ta cuốn vòng băng cuối, thắt nút một cách khéo léo và dịu dàng. Tôi nghĩ: "Cái mặt nó đáng ghét nhưng bàn tay của nó bằng vàng! Giá nó làm thợ khắc, thợ chạm thì tuyệt ".

Thắt xong nút băng, cậu y tá xin:

- Thủ trưởng cho em đi theo?

- Ừ, thì đi.

Chúng tôi rời khỏi phòng, vượt qua khoảng sân xi- măng mênh mông về phía tiếng súng. Đó là dãy kho quân dụng. Ánh đèn lấp lóa với mấy cánh tay cần câu đen sì, những mảnh vải trắng, vải dù mắc trong đám dây điện phất phơ bay. Mùi thuốc súng, mùi khói lẫn mùi các vết thương và máu người, hờa trong khí trời đêm như những chiếc vòi bạch tuộc hút chặt trí não. Tôi nghe bước chân mình vang lên, lạ lùng. Tiếng gõ trên nền xi-măng cứng lạnh.

Xưa nay, tôi chỉ nghe tiếng chân mình lẫn trong tiếng cỏ xạc xào, tiếng sột soạt của lá rừng, tiếng lép nhép của bùn lầy tiếng va chạm của vỏ đạn và vũ khí.

Lần đầu tiên, chúng tôi bước xuống thành phố...

- Rảo bước lên...

Tôi bảo cậu y tá, vội vã chúng tôi tiến về dãy nhà lô nhô dưới chân cây đèn cao áp trắng. Người chạy ra đầu tiên đón tôi là Tạo:

- Vào cũng không được...

- Bắn ai?

- Không ạ. Gặp gì bắn nấy. Lung tung cả...

- Dẫn tôi đi, mau lên...

Cậu ta chạy trước. Chúng tôi vào kho. Mái tôn cao ước trên hai chục thước, tựa trên khung sắt lớn, vừa đơn giản, vừa quái dị. Các thùng hàng chồng chất, sừng sững cho tới áp mái, chỉ để lọt những lối đi hẹp hình bàn cờ. Chúng tôi đi theo các lối hẹp ấy. Phía trước, tiếng súng thỉnh thoảng lại rộ lên từng tràng, lẫn tiếng cười oang oang, tiếng hát và tiếng nói líu lưỡi của kẻ say.

Tôi hỏi:

- Những đứa nào thế?

Tạo đáp:

- Báo cáo thủ trưởng, tiểu đội của thằng Lành.

- Chúng nó say rượu cả hay sao?

- Có thằng say, có thằng tỉnh.

Đoạn, cậu ta ngăn tôi lại:

- Thủ trưởng rẽ sang lối này...

Chúng tôi bước sang gian kho khác, lối đi rộng hơn, với một chuỗi đèn chạy dọc theo mái kho, chiếu xuống. Nền kho láng bóng. Đang đi, chợt một dòng nước màu hồng thắm chảy tới, bò từ từ đến mũi giày tôi. Tôi chưa kịp dừng chân, một dòng suối nữa tràn đến, màu hồng trong suốt lóng lánh dưới đèn, như si-rô lựu ai tưới xuống mặt đất.

Tôi hỏi:

- Cái quái gì thế này?

Tạo đáp:

- Báo cáo thủ trưởng, thuốc ạ.

Thuốc gì?

- Thuốc tiêm B12. Toàn thuốc cao cấp của Mỹ. Ở kho đằng kia, chúng nó đã bắn tan bốn công-ten-nơ, B12 chảy ngập tới mắt cá chân... Giờ lại thế...

Lại một dòng nước hồng đặc sánh chảy tràn qua lối đi.

Giày chúng tôi ướt. Lội trong dòng nước sóng sánh, chúng tôi đi

- Pằng pằng pằng... pằng pằng pằng pằng...

Tiếng súng vọng trong kho, chối óc. Tạo chạy lên phía trước quát:

- Thủ trưởng đến đấy... dừng lại...

Tiếng cậu ta lấp trong tiếng súng. Khi tôi và cậu y tá đến nơi, Tạo vẫn còn đang hò hét.

Cách Tạo hai bước chân, một cậu đen đủi, thấp bé cầm tiểu liên quạt như điên vào chiếc hòm gỗ trước mặt. Tên nó là Tu, dân Hà tĩnh. Nó đứng chạng đôi chân cong queo, gầy như hai que củi, bậm môi bóp cò. Cặp mắt Tu đỏ vằn, chắc nó say. Khi Tạo đập liên hồi vào vai Tu, cậu ta mới quay ra, nhìn thấy tôi. Tu ngước cặp mắt đờ đẫn lên, nhe răng cười.

Tôi hỏi:

- Ai cho cậu bắn?

Tu kẹp súng, đáp:

- Báo cáo thủ trưởng, hắn là đồ của đế quốc Mỹ, em bắn cho hắn không thể ngóc đầu lên.

- Cậu không có mắt à? Câụ không biết đó là cái gì à?

- Em có trộ chi mô... Dưng mà em biết đó là đồ của đế quốc Mỹ.

Tôi bảo:

- Đó là thuốc bổ. Thứ thuốc người ta đã tiêm cho cậu khi cậu nằm trong quân y viện.

Tu kêu:

- Không, thủ trưởng lộn rồi... Hồi í, em toàn tiêm thuốc bổ của Liên xô...

Dứt lời, cậu ta loạng choạng lùi lại. Đường gân xanh đập phập phồng nơi cổ. Tôi hỏi:

- Lành đâu?

Mấy cậu đứng sau Tu đáp:

- Báo cáo, anh Lành say quá đã ngủ rồi.

Tôi bảo:

- Đẹp mặt nhỉ, các cậu lấy rượu ở đâu?

- Báo cáo anh, trong bếp của ban chỉ huy cứ điểm. Có cả một kho... đủ các loại rượu...

Mặt cậu nào cậu nấy lấm lét. Tôi biết chắc thủ phạm chính chưa xuất hiện. Mấy bộ mặt cù lần không thể nghĩ ra cái trò chơi tàn bạo này. Tôi hỏi:

- Ai dẫn các cậu đến đây?

Mấy đứa cúi gằm mặt xuống.

Tôi quát:

- Ai?... Các cậu muốn ra tòa án binh cả nút hả?

Lúc ấy, Tu lảo đảo bước lên:

- Thủ trưởng, tha cho em... tụi em có làm... chi mô.

Tôi gằn giọng:

- Ai đưa các cậu tới đây?

Tu ngẩng lên, ngất ngưỡng:

- Báo cáo thủ trưởng... là... anh Kha... Anh Kha bảo...

“Thảo nào... Thằng ôn con chuyên bày trò khỉ..." Tôi quát:

- Tìm cậu Kha lại đây.

Nhưng đám lính chưa kịp chạy đi, Kha đã từ sau lưng tôi bước lên:

- Báo cáo, em có mặt.

Hóa ra cậu ta rúc vào khe giữa hai hòm hàng. Mặt Kha trắng xanh, hoàn toàn tỉnh táo. Tôi bảo:

- Hóa ra cậu!

Kha im lặng.

Tôi hỏi:

- Đã uống mấy chén rồi? Tôi ngửi hơi cậu không có mùi rượu. Cậu giữ cho tỉnh để đưa mấy thằng say đi làm trò càn dở phải không?

Kha cúi gầm mặt, lặng im.

Tôi bảo:

- Về phòng tôi.

Tạo đưa mấy chàng say và Tu về chỗ ngủ. Kha đi cùng tôi. Cậu y tá lẽo đẽo bước sau. Khi chúng tôi băng qua sân phi trường, một đám cháy lớn bùng lên phía tây in chóp nhọn của một ngôi nhà thờ như lưỡi lê chĩa ngược vào trời đêm. Đối điện với cái lưỡi lê ấy, vài ngôi sao thoi thóp sáng.

Có tiếng chuông từ nơi nào xa lắm vọng tới. Cậu y tá nói:

- Báo cáo thủ trưởng, đã nửa đêm.

Tôi bảo:

- Cho cậu về nghỉ.

Tôi dẫn Kha về phòng. Căn phòng sáng choang, cửa ngỏ. Gió thổi những tờ giấy viết thư bay khắp nơi trong khi cục thủy tinh chặn giấy hình quả chuông nằm choáng lộn trên bàn. Tôi bảo Kha ngồi xuống, mở tủ lấy chai vang trắng rót hai cốc.

- Nào, bây giờ đến lượt tôi và cậu cùng uống. Uống xong, không có gì bắn thì bắn lẫn nhau...

Kha đỡ cốc rượu, ngước mắt nhìn tôi:

- Anh Quân, tha tội cho em...

Tôi bảo:

- Hãy uống đi đã.

Tôi uống trước. Kha uống theo. Vẻ mặt nó không mảy may lo ngại.! Thằng mất dạy, nó ỷ thế... Nó biết mình mến nó.!! Trong đại đội, sau khi Hoàng chết, tôi gần gũi với Kha. Nó không trong trắng như Hoàng, nó khôn lỏi, láu cá vặt, lười nhưng tốt bụng và, khi cần, biết hy sinh cho lẽ phải.

Trong chiến đấu, bao giờ Kha cũng tìm được phương pháp tối ưu tiết kiệm xương máu. Nó không ham sục gái, thích mộng mơ và vẽ ra những trò oái oăm để trêu cợt mọi người.

Rượu đã cạn, tôi nói:

- Tửu lượng cậu cũng khá... Uống hết chai này chăng?

- Nếu anh thích.

- Trông cứng cỏi ra phết. Tựa như là tôi mời cậu lên đây để bồi dưỡng báo cáo điển hình.

Cậu ta cúi mặt, mân mê chiếc cốc trong tay. Tôi nhìn những vòng ánh sáng chao đảo quanh miệng cốc pha lê, như những vòng sóng bất tận, không bờ bến. Những vòng sóng trên mặt đầm ấu thơ của tôi, - nơi những con sâm cầm ngã dưới làn đạn ghém tàn ác của những người săn chim từ thành phố đổ về, máu đỏ tưới nhau trên đám cỏ hoặc rơi xuống tan hòa cùng làn nước, - nơi đám trẻ ngụp lặn giữa cỏ và bùn phóng tầm mắt tới chân trời mộng tưởng - không có chi ngoài con tàu cổ lỗ chạy hơi nước, phun ra từng đám hơi lẫn bụi than, như con ngựa ghẻ của hiệp sĩ Xéc-văng-tát từ thế kỷ nào đó lạc tới, - nơi những đứa bé gái cưỡi trâu nhông nhông chạy trên đồng lần đầu tiên nhìn thấy hai núm vú nhỏ xíu giữa làn nước trong suốt - sợ hãi như con người tiền sử thấy sấm sét - vụng lén như tên trộm cất dấu của bất chính - hồi hộp đợi chờ nó nảy nở thành hai trái đào tiên - Và rồi hằn học chai lì nhìn chúng dăn dúm, teo tóp lại trên lồng ngực lép kẹp chưa một bàn tay đàn ông chạm tới chưa cặp môi non dại nào đòi sữa... Vòng sáng óng ánh kia... con đầm... những giấc mơ trong suốt như thủy tinh.

Quả pháo thăng thiên vụt tan thành trăm ngàn vụn giấy...

- Choang...

Giờ cuốn tấm rèm, giật chiếc cốc trên bàn rơi xuống. Những mảnh pha lê bắn trên sàn đá hoa. Tôi thấy Kha đưa mắt nhìn. Cậu ta vẫn chờ lời phán quyết. Tôi ngồi xuống bên nó:

- Tại sao?

Kha nói khẽ:

- Anh tha cho em.

Nhưng tại sao cậu làm như vậy?

Em không biết.

- Cậu có biết.

Kha im lặng. Tôi hỏi gặng:

- Cậu làm như thế để được cái gì?

Kha ngẩng lên, nhìn vào mắt tôi:

- Nhưng không làm như thế em cũng chẳng được gì.

- Cậu nhầm rồi! Cậu đã phá hoại tài sản của nhân dân. Tất cả những gì chúng ta đổi xương máu để có đều thuộc về nhân dân.

Kha cười:

- Làm gì có nhân dân?

Cái vẻ nhếch mép chán chường của nó... Cái ánh mắt chán chường trên gương mặt tái xanh... Thằng lỏi khốn kiếp, vốn được tôi o bế, giờ coi tôi như một gã khờ đáng thương hại. Tôi cố nén cơn giận, mỉm cười:

- Cứ nói đi... Ngày hôm nay cậu đã tàn phá bao nhiêu thứ?

- Tụi em bắn tan ba công-ten-nơ đựng thứ đài to có mặt kính. Nghe thủy tinh nổ như mưa rào khoái cả tai. Rồi xơi đến mấy chiếc tủ lạnh trong bếp ban chỉ huy cứ điểm.

Còn buổi tối thì...

- Đủ rồi!

Tôi ngắt lời:

- Các cậu đã phá hủy một số thuốc đủ tiêm cho hàng vạn bệnh nhân. Còn thứ đài to có mặt kính là máy truyền hình, có thể chiếu cho hàng ngàn người...

- Vâng...

Kha ngắt lời tôi:

- Nhưng số người được xem chiếu hình không phải là nhân dân... Nhân dân, trong đó có bố mẹ anh, bố mẹ em, có đám lính tráng này... đừng hòng xơ múi...

Tôi bảo:

- Tại sao cậu dám nói thế?

Kha đặt tay lên vai tôi:

- Anh Quân, đừng to tiếng... Năm em mười bảy tuổi, ở thị trấn, người ta quyên tiền xây dựng nghĩa trang cho các liệt sĩ hồi kháng Pháp. Tinh cờ, lúc nộp tiền, em ở nhà. Trong số tiền mẹ em nộp cho chính quyền có một tờ bạc có lỗ thủng bằng hột vừng đúng giữa hình bông lúa.

Năm hôm sau, một đứa bạn gái học cùng lớp rủ em lên tỉnh chơi. Nó kém em vài tháng, được nước da trắng hồng nhưng mắt lác và rụt cổ. Nó mê em như điếu đổ. Trong chuyến đi ấy con bé tiêu tiền như ném rác. Cửa hàng nào nó cũng sà vào, mua toàn đồ xa xỉ, không cần trả giá. Số tiền nó tiêu một ngày gấp sáu lần số lương tháng của bố nó, ông chủ tịch thị trấn. Và trong số tiền hôm ấy, em nhìn thấy tờ giấy bạc có lỗ thủng bằng hột vừng đúng giữa hình bông lúa, đó rõ ràng là tiền của mẹ em!

Tôi lặng im, Kha cũng lặng im. Chúng tôi nghe gió lang thang qua phi trường, nghe tiếng nổ lép bép của đám cháy nào đó chưa lụi hết. Lát sau, tôi nói:

- Cậu làm tôi choáng cả đầu!

Kha đáp:

- Em nghĩ nhiều... Em cũng nghe chán vạn điều thiên hạ nói. Nhưng mà, nhân dân lúc có thật, lúc như bóng ma: Nếu cần lúa, nhân dân là con bò kéo cày. Lúc có chiến tranh, con bò ấy mặc áo giáp và cầm súng. Rồi, khi mọi sự đã qua, vào những ngày lễ lạt, hội hè... người ta tôn xưng nhân dân như hú vọng các hồn ma, tưởng thưởng cho khói thơm và tro tiền, còn phần xôi thịt thì kẻ khác hưởng...

Tôi choáng váng thật sự, như bị đè dưới đáy nước, giống hệt cảm giác hồi năm tuổi bị thằng anh họ điên khùng dìm dưới sông.

Rồi Kha nói:

- Anh đưa em ra tòa án binh cũng được... Nhưng mà em đã trót biết sự thật... em đã trót nghĩ như thế...

Nó cúi đầu, mái tóc đen lánh đổ xuống... "Thằng khốn kiếp... Nó làm mình tái tê..." Tôi nhớ đôi bàn tay xanh lét của nó hơ trên lửa dạo ở trong hang Bò cạp. Tôi nhớ miếng thịt chim ưng núi vừa dai vừa khét nó chia cho tôi ở bên kia đường. Tôi nhớ thân hình mảnh dẻ của nó, trần truồng lông nhông chạy bên bờ suối, lúc nó bị sốt rét ác tính hành. Tôi nhớ... Bỗng dưng, toàn thân tôi run bần bật. Tôi quát:

- Đồ khỉ... Lẽ ra cậu phải lãnh một viên đạn ở tòa án binh... Về ngủ... Từ ngày mai, bỏ trò phá hoại ấy đi...

Kha đứng lên, lẳng lặng ra khỏi phòng.

Tôi ngồi lại một mình. Gió ùa vào, cuốn những tờ giấy viết thư liệng khắp nơi. Tôi vớ quả chuông thủy tinh rồi ngồi nhìn những tờ giấy chao liệng như đàn bướm trắng khổng lồ. Những tờ giấy tiếp tục bay. Căn phòng tán loạn màu trắng. Tôi thấy lạnh. Không phải vì gió đêm, mà vì một bàn tay thần bí nào đó rút lửa khỏi xương tủy, da thịt tôi.

Tôi lạnh hơn mười mấy mùa mưa lạnh buốt Trường sơn, mười mấy mùa chìm ngập giữa sương giá của rừng núi... Tất cả rét mướt mười mấy năm dồn lại cho buổi tối này... Tay chân bủn rủn, tôi đặt quả chuông xuống sàn đá, mặc cho gió lồng lộn thổi đám giấy trên bàn, vãi tung tóe, cuốn khỏi ra cửa, mang vào khoảng đêm đen ngoài kia...

Một con gà gáy gọi bình minh.

- Cúc cù cu cu cu cúc cù cu.

Tôi ngồi dậy, đi tìm nó. Suốt đêm tôi không chợp mắt, người nhão như vải thưa. Cậu liên lạc mới, vừa tới:

- Thủ trưởng dậy sớm thế?

Tôi bảo:

- Đun nước pha cho tôi ấm chè.

Cậu ta đập gót chân:

- Rõ.

Trông cậu ta hớn hở ra mặt. Mười tám tuổi rưỡi, vừa gia nhập quân ngũ vài tháng đã được tiến về giải phóng đồng bằng. Anh chàng chưa biết đói khát, sốt rét, u sầu, thèm gái, nhớ quê... Nó được bổ xung thay cậu liên lạc cũ tử vong trong chiến dịch Ngôi sao Bắc đẩu. Tôi đi qua phi trường, khí lạnh ban mai khiến đầu óc dần tỉnh táo.

- Cúc cù cu cu cu

Tiếng gà gáy cất lên lần thứ hai, hào hển hơn, vang từ phía sau bức tường đổ. Tôi dẫm qua đống gạch vụn, lổn nhổn vỏ đạn, vỏ đồ giải khát, bông băng và bắt gặp một chú gà trống trắng đứng lẻ loi trong chiếc chuồng đan bằng thép mắt cáo. Chiếc chuồng rất đẹp đứng giữa đống đổ nát của tòa nhà. Đúng là phép lạ của thần linh.

Trong chuồng, còn nửa lon gạo tấm, nửa lon ngô xay với bát nước. Một mảnh pháo nhỏ nằm cong queo giữa đáy ý tưởng như tia chớp vọt qua: "Mày là con gà trắng yêu quái trong chuyện cổ An Dương Vương hay sao mà hiện ra trong buổi sớm này?" Con gà trắng nghiêng đầu nhìn tôi: "Sao không?... Ta cất tiếng gáy ở đâu, ở đó những thành trì sụp đổ "

- Báo cáo thủ trưởng...

Tôi giật mình quay lại. Cậu liên lạc đã đứng trước mặt tôi:

- Báo cáo thủ trưởng, một nồi luộc ạ...

Cậu ta chỉ con gà, hấp háy:

- Con này vừa nồi luộc. Trưa nay thủ trưởng cho phép...

Tôi cố gắng nén cảm giác khó chịu, hỏi:

- Có việc gì?

Thấy vẻ lạnh lùng của tôi, cậu liên lạc cụt hứng. Cậu ta thò tay gãi đầu, nói:

- Báo cáo, nước đã sôi... Em đã pha chè... Mời thủ trưởng...

Tôi bảo:

- Về trước đi.

Cậu ta đi, tôi cũng đi luôn, tâm hồn nặng trĩu. Cho tới khi uống chè với Thái, tôi vẫn không thoát được tâm trạng ngột ngạt. Tôi thầm oán hận Kha, nhưng không hiểu vì sao tôi thấy Kha có lý. Những lời tiên tri mơ hồ bay chập chờn như đàn quạ đen trên nghĩa địa thành phố.

Thái bảo tôi:

- Theo lệnh trên, bảy giờ tối nay đơn vị xuất phát. Tôi cho anh em ăn tươi buổi trưa.

Tôi nói:

- Phải đấy. Mà làm sớm lên. Bữa chiều ăn lúc bốn giờ ba mươi cho nhẹ bụng.

Thái gặng:

- Anh có cần dặn dò các trung đội không?

Tôi lắc đầu:

- Không.

Thái ăn nốt mẩu lương khô rồi đi.

Tôi ngồi lại một mình, bị vây bọc giữa nghi ngờ và oán hận. Ngoài sân phi trường, đám lính lăng xăng chạy đi chạy lại. Một không khí nao nức đến cuồng nhiệt hun đốt mọi người. Ánh mắt khát khao, nụ cười bồn chồn, cử chỉ hăm hở vội vã. Tất cả bị cuốn trong guồng quay của bánh xe. Tất cả lăn tới chân trời phía trước, nơi khải hoàn môn đã sừng sững hiện lên sau những đám cháy và sau màn bụi đỏ...

Tôi cô lẻ. Tôi bị câu chuyện của Kha làm tê liệt. Trái tim yếu hèn của tôi không chịu được dày vò. Thằng lính trong tôi mạnh hơn tôi. Nó đã chiến đấu cừ, nó đã chịu đựng hết thảy mọi gian khổ, một trong số mười hai người ít ỏi còn lại từ con số một trăm năm mươi chiến sĩ của đại đội ban đầu.

Vậy mà nó đã đi qua cuộc hành trình dằng dặc ấy không một giấc mơ, không thèm khát vinh quang, không trông đợi một phần xôi thịt. Trong trí óc lạnh lẽo của nó, khải hoàn môn đã hiện ra như một chiếc cầu vồng sặc sỡ nhưng khi đi qua nửa vòng tròn mộng tưởng ấy, người ta sẽ lại lội trong bùn thuở nguyên sơ, với những rạch cày từ thuở nguyên sơ...

Trưa ấy, trong bữa cơm khao quân, sâm banh nổ đôm đốp vang tuôn chảy như suối. Tôi cố tình không nhìn Kha nhưng tôi biết cậu ta nhìn tôi. Cái nhìn thương cảm. Có lẽ, vẻ xanh xám ngơ ngác của tôi, với nó là bộ mặt của một thằng bé lần đầu bị bỏ trong phòng tối...!! Sư mày... thằng lỏi con chơi nước kiệu. Mình đã quá mềm yếu... Phải trị cho nó một trận..." Tôi cố giữ cảm giác điên khùng. Tôi đưa mắt hằm hằm nhìn xung quanh. Đúng lúc tôi nhìn Kha, cậu ta mỉm cười. Nụ cười xẻ chia, buồn như nắng cuối đông. Trong nụ cười của nó có vẻ ngượng ngùng của một kẻ vác nặng xẻ gánh cho người khác. Nó đã vác gánh nặng ấy quá lâu, một mình, và thời gian không còn cho đủ lòng kiên nhẫn...

Bốn bề xung quanh, tiếng nói cười, tiếng ly cốc ồn ào sôi động. Hưng phấn tràn trề. Những gương mặt hừng hực lửa hy vọng. Đoàn xe đã nổ máy ngoài kia, chuẩn bị cho cuộc hành quân vào lúc lặn mặt trời. Tôi chợt hiểu rằng chỉ có tôi và Kha là hai kẻ bất hạnh duy nhất trong đoàn quân nồng nhiệt này, chúng tôi đã bị trói buộc cùng nhau bởi đã xẻ chia một điều bí mật...

Rạng đông đỏ lừng lững như sóng đỏ tràn trên mặt đất.

Xe chúng tôi lăn qua mặt lộ rải rác đầy giày dép, quần áo mũ, túi xách, ba-lô, đạn vàng choa, bàn chải gãy, su- chiêng của đàn bà, bánh mì kẹp thịt bị xéo nát, búp bê nhựa nát đầu, dấu vết của cuộc rút chạy nóng hổi.

- Tiến về đồng bằng, ta tiến về đồng bằng...

Một cậu hét to. Cả đám hòa theo:

- Tiến về đồng bằng, anh em ơi i i...

Gió thốc lại. Bụi đỏ bay mờ mịt. Một cậu sau lưng tôi cất tiếng cười:

- Ha ha... Bao nhiêu năm nay chúng ông rúc trên rừng.

– Đ. mẹ chúng mày. Giờ chúng ông đã về đây, sướng sướng sường sương nhé...

Tiếng cười rộ lên trong tiếng gió gào và tiếng máy. Tới ngã ba cao nguyên, gặp một đoàn tăng từ cánh trái đi tới.

Phía trước, một chiếc jeep trắng của quân ngụy bỏ lại, bánh cháy lụi, tên lính lái xe chết gục mặt vào vô-lăng. Đám lính hét to:

- Anh em tăng đâu... nghiến mẹ nó đi... nghiến đi...

Đám lính tăng ngồi trên tháp giơ tay vẫy.

- Hoan hô... hoan hô...

- Xin chào...

Tụi lính của tôi hào hứng đứng lên, hoa chân múa tay, gào tới rách cổ: - Nghiến mẹ nó đi, anh em ơi...

Đám lính tăng hình như nghe thấy. Một cậu từ tháp pháo tụt xuống. Vài giây sau, chiếc tăng quay đầu từ từ bò tới nghiến chiếc jeep:

- Hoan hô... hoan hô...

- Anh em tăng tuyệt vời i i...

Tôi quay đi, chợt bắt gặp ánh mắt của Kha. Mặt cậu ta thản nhiên, môi khẽ nhếch lên cười. Đám lính của tôi còn hò hét vẫy chào mãi khi đoàn tăng vượt qua ngã ba cao nguyên rẽ sang đường khác. Xe chúng tôi tiến lên, tiến lên...

Và tôi dần dần ngủ thiếp đi trong tiếng hát của bọn lính mới được bổ sung. Sức lực còn dư nên chúng gào mãi không chán...

Trong lúc ngủ, tôi vẫn hình dung ra trận đánh tới. Có lẽ nó sẽ ít hiểm nguy hơn những trận đã qua một trăm lần.

Quân địch đã rút lui hỗn độn. Một cuộc rút lui như thế sẽ huỷ diệt tới giọt cuối cùng tinh thần kháng cự. Chúng tôi sẽ thắng... Khải hoàn môn lấp ló phía chân trời. Tim tôi trào lên niềm hoan lạc đau đớn cùng lúc óc não tôi hiện lên một ảnh tượng lạnh lẽo: Tôi thấy tôi tách khỏi đám đông, đang níu lấy những cây cột sơn son thếp vàng để dò dẫm tiến về cánh đồng phía trước. Cánh đồng ấy trơ trụi những gốc rạ, loang loáng mặt đầm xa. Một đàn cò đang lặn lội mò tép. Tôi đi theo chúng, câm lặng như cái bóng, đôi chân trần sục giữa cỏ và bùn.

Trận đánh đã diễn ra như một màn giáo đầu tiếp tới đoạn kết thúc, chóng vánh không ngờ, và, so với những trận đánh trong mười mấy năm vừa qua, nó tựa như trò chơi...

Tôi không nhớ qua bao lâu mình ngồi giữa sở chỉ huy của địch, hầu như nguyên vẹn, và nghe tiếng đồng hồ quả lắc đong đưa trên tường. Cứ nửa giờ lại một giai điệu thánh thót ngân nga. Trong ngăn kéo bàn chỉ huy, có một đống giấy tờ, sơ đồ, hóa đơn và ảnh đàn bà cởi truồng màu sắc chói lọi như lưỡi quỉ. Đột nhiên, cậu liên lạc chạy vào:

- Báo cáo thủ trưởng...

Tôi hỏi:

- Cái gì?

Trong đám tù binh có một thằng Mỹ. Anh em hỏi thủ trưởng xem xử lý ra sao?

- Quái lạ! Lính Mỹ rút từ hai năm trước. Sao còn một thằng rớt lại đây? - Báo cáo thủ trưởng, nó to như hộ pháp, nói xí xồ không ai hiểu gì...

- Đem nó lên đây.

Cậu liên lạc dạ một tiếng ngoan ngoãn rồi chạy đi. Tôi lơ đãng nhìn ra cửa ngập nắng, lòng trống rỗng. Rồi ít phút sau, đám lính của tôi giải thằng Mỹ vào. Có tới bốn cậu nhăm nhăm tay súng. Tù binh bị trói quặt tay ra sau, đi quanh quạng. Hắn cao lớn thật, tóc vàng trơn bóng, mắt xanh lơ. Đám lính của tôi dúi hắn quỳ giữa nền nhà. Cả cây thịt to rơi huỵch xuống, mặt hắn nhăn lại vì đau và đôi mắt xanh lơ của hắn ngước nhìn tôi. Một cái nhìn không thể diễn tả. Tôi hỏi:

- Đại đội ta có ai biết nói tiếng Anh không?

Một cậu đáp:

- Báo cáo, lúc bắt được hắn, thủ trưởng Thái cũng đã hỏi khắp rồi, nhưng chẳng ai biết tiếng Anh. Đồng chí Kiệm biết tiếng Nga hỏi hắn thì hắn lắc đầu.

Tôi bảo:

- Cởi trói cho nó. Súng ống như rừng vây quanh, làm sao nó trốn được!?

Đám lính cởi trói cho tên tù binh. Hắn nói gì đó, chắc là lời cảm ơn, và co duỗi những ngón tay bầm tím. Tôi nhìn những ngón tay trắng nõn của hắn, trắng như những mầm giá đỗ. Hắn lại nói với tôi từng tràng tiếng Anh, vừa nói vừa làm điệu bộ. Hình như hắn muốn chứng minh hắn không phải là lính, chỉ là một phóng viên hay thợ chụp ảnh nên hắn hết đập vào ngực, lại chỉ vào chiếc áo sơ-mi và làm động tác của mấy anh phó nhòm.

Da hắn hồng, với những đám lông nâu loăn xoăn trên ngực. Màu da trắng hồng, màu tóc vàng, màu lông hung nâu, màu mắt lơ... Những hình sắc dị biệt ấy xưa kia đã là tiêu điểm cho lòng căm thù truyền kiếp... Kẻ ngoại xâm... Kẻ ngoại bang. Những ông tổ xa xưa của tôi từng căm thù cái đuôi sam của bọn rợ Hung nô như vậy. Lòng thù hận ấy đặt sức mạnh vào cái lẫy nỏ hoặc lưới gươm. Chúng tôi cũng đã có cùng một sức mạnh ấy khi phóng những quả đạn B40 và B41, khi lia từng tràng tiểu liên, khi xọc lưới lê...

- Mất thì giờ quá...

Một cậu lính kêu.

Một cậu khác nói:

- Em nghi nó là gián điệp. Tống giam.

Cậu kia kêu lên:

- Giam hả?... Lấy ai canh giữ. Cho mẹ nó một viên kẹo đồng.

Cậu thứ ba bảo:

- Phải đấy thủ trưởng ạ... Đơn vị mình còn tiếp tục đi. Giữ làm quái gì cái của nợ này...

Tên tù binh đưa mắt nhìn quanh. Nó nhìn đám lính của tôi đang bàn cãi, mỉm cười làm thân. Đồ bò, nó chẳng hiểu gì cả. Nó tưởng người ta đang bàn cách làm các món ăn chắc?... Mái tóc vàng lúc lắc khi nó cười. Rồi nó khẽ nhún vai... Lúc ấy tôi mới thấy đôi vai nó to và dày làm sao! Cả tấm lưng đồ sộ kia nữa!

Vai và lưng nó hoàn toàn giống Biền. Dường như đôi vai ấy và tấm lưng ấy sinh ra để gánh mỗi ngày hơn trăm gánh lúa. Hắn vẫn cười ngô nghê nhìn tôi.

Bỗng dưng, tôi thấy lòng thù hận trong tôi dời chỗ. Hình như nó đã đi dạo chơi đâu đó, như con hổ bị nhốt đã xổ cũi dạo chơi trong rừng... Dã thú cũng tới lúc mệt mỏi...

Trước đây, cứ nhìn màu da trắng hồng kia, mái tóc vàng óng kia là tôi nổ súng không nghĩ ngợi! Kẻ ngoại xâm, - tiêu điểm của hận thù! Lòng tự tôn đã bó kết với thù hận! Sự bảo tồn gắn với hủy diệt!!...

- Thủ trưởng...

Đám lính của tôi lên tiếng:

- Thủ trưởng quyết định đi...

Một cậu hạ giọng:

- Tụi Mẽo này chuyên ăn thịt, thủ trưởng ạ... Mình lấy đâu của thừa mà nuôi nó?... Thủ trưởng đồng ý đi... Em đòm cho. Tích tắc là xong...

Tên tù binh nhìn tên lính của tôi, nheo nheo mắt như suy ngẫm. Tôi chợt hình dung trái đồi xanh rờn, gã trai trẻ này ôm người đàn bà của hắn lăn trên cỏ. Có thể là một đứa con gái thành thật như lũ ngợm tôi vừa xem ảnh cởi truồng.

Cũng có thể là một thôn nữ, có cái tên mộc mạc như tên con gái quê tôi: con Hoa, con Hòa, con Vinh, con Lài, con Mơ, con Mận...

Cũng có thể một đêm xuân mát rượi, hắn từng gác chân lên chân bạn và mơ tưởng đến cuộc ái ân sấm sét giữa các thánh thần như Biền từng mơ tưởng đến bà Nữ Oa với ông Tứ Tượng...

Rồi hắn phải từ bỏ tất thảy những vui thú ấy để mặc áo lính ra đi vì lý tưởng quốc gia, vì những giọng nhật ký miên man cuốn hút, vì một buổi rạng đông nào đó hắn bị cám dỗ bởi hình ảnh của chính mình nơi chân trời khói lứa, ngực lủng lẳng những tấm mề-đay... Mọi ý tưởng ấy làm tôi lạnh toát sống lưng.

- Báo cáo thủ trưởng...

Một cậu lính kêu:

- Sắp tới giờ ăn, tụi em đói quá... Xin thủ trưởng quyết định cho.

Tôi nói, giọng lạnh lùng:

- Các cậu nghĩ mọi việc đơn giản như đùa! Chiến tranh sắp kết thúc, không còn là thuở sống giữa rừng. Lúc này, bất kỳ ai, kể cả bản thân tói, vi phạm chính sách tù binh sẽ phải ra tòa án binh lãnh tội.

Nói xong, tôi quay ngoắt đi.

Thái độ đó có hiệu quả. Đám lính của tôi giải tên Mỹ đi lặng lẽ, không dám xô đẩy hắn thô bạo như trước.

Tôi lại trở về chỗ ngồi cũ, nghĩ tới những sợi tơ nhện đong đưa trước gió, những trò ú tim tàn bạo của chiến tranh. Trên đường tiến quân, tôi đã chứng kiến biết bao thây người treo lủng lẳng trên cành cây, kẻ bị móc mắt, kẻ bị phanh thây làm đôi, kẻ bị cắt gân đầu gối buộc gập lên như con cào cào bị bẻ càng... Những cuộc trả hận không ai kiểm soát được. Vào lúc từng loạt pháo rền để báo trước tiếng đại bác ngày chiến thắng, tiếng kêu của bầy quạ cũng vang lên trên các nghĩa địa và quanh những thây ma chưa được vùi lấp. Mùi tử thi lẫn mùi thuốc súng hôn mê...

Mặt trời lặn trong lúc đèn bật sáng khắp nơi. Ánh tà dương trộn cùng ánh đèn, trộn cùng ánh nến. Đám lính của tôi vớ được một hộp nến, chúng cắm la liệt khắp các phòng và ngoài sân. Đêm tới cùng bữa ăn náo động. Tổ cấp dưỡng khui được cả hầm rượu, mở ra đổ vào chậu tắm. Một chậu tắm khổng lồ tràn đầy thứ rượu màu vàng: pha trộn đủ loại vang, sâm banh, cô-nhắc. Lính mạnh ai nấy thò ca múc tùy tửu lượng. Mỗi gương mặt như nhân lên hàng trăm lần vì hàng trăm ngọn đèn và nến... Cười, nói, chếnh choáng, hớn hở, ca hát...

Trên bàn ăn, bày đầy những món đồ hộp của ta và đồ chiến lợi phẩm: cá hộp Liên xô, cá hộp Mỹ, thịt hộp Trung quốc, bánh quy Mỹ, nho khô Mỹ, táo Tầu... Bữa ăn kéo dài lâu lắm. Thái ngồi bên tôi, hình như cậu ta nói gì đó rồi len lén cúi xuống chùi nước mắt. Tôi chắc Thái nhớ đứa em trai đã hy sinh.

Tôi định nói vài lời an ủi Thái nhưng tôi lại lặng im. Vì tôi cũng nhớ em trai tôi. Sau đó tôi chẳng nhớ ai nữa. Tôi nhớ tới một gương mặt vô danh, vừa câm lặng, vừa sống động trồi lên ngọn triều quá khứ... Mười mấy năm trôi qua...

Nó mỉm cười...

Một số cậu say loạng choạng ra về. Số khác chụm lại tán gẫu. Tôi chợt thấy Kha kéo Tạo đi ngang qua. Hai anh chàng ra cửa. Có tiếng va chạm của vỏ đồ hộp ngoài kia.

Tiếng cười hô hố. Rồi tiếng Tạo kêu:

- Anh Kha, đái đi.

Kha đáp:

- Ờ thì đái ì i...

- Em đố anh đái đầy hai hộp cá này.

- Mày muốn thi hả?... ơ... thì thi...

Tiếng tồ tồ của nước tiểu rót, lúc nhỏ, lúc to. Rồi Kha nói:

- Mày lợi hơn đấy nhé... Tao say, tao đái rớt ra ngoài.

- Nào, lấy nến ra xem cho rõ.

Tạo nhảy xổ vào phòng, lấy ngọn nến trên bàn đem ra.

Một phút sau, anh chàng reo vui vẻ:

- Bằng nhau... Của anh, hai hộp cá Mỹ. Em được nửa hộp thịt lợn Tàu... Coi như hòa...

Tiếng Kha:

- Ờ bọng đái tao với bọng đái mày to bằng nhau... Bố khỉ, từ thuở cha sinh mẹ đẻ chưa bao giờ say mà đêm nay thấy cái mặt mày nhảy nhót... Tạo, về ngủ thôi...

Tiếng chân bước xa dần. Đám lính quanh tôi cũng lục tục kéo nhau về. Sau rốt, còn lại hai chúng tôi. Thái hỏi:

- Bao giờ mình đi tiếp nhỉ?

Tôi trả lời:

- Chờ lệnh trên.

Thái ngậm ngùi:

- Bao nhiêu năm nay, đơn vị mình toàn là mũi tiến công chủ chốt.

Tôi cười:

- Mỗi năm mỗi khác. Giờ chỉ có mười hai thằng lính già. Còn lại toàn lính mới, đưa chúng nó lên các điểm nóng làm chả nướng à?...

Thái nói:

- Dù sao cũng buồn, anh Quân ạ...

Tôi bảo:

- Ờ, thời oanh liệt nào cũng qua.

Thái hỏi:

- Sau đây, rồi sẽ ra sao?

Tôi cười:

- Tôi biết gì mà hỏi tôi? Cá mè một lứa cả...

Thái im lặng một lát rồi hạ giọng:

- Đại đội ta là đại đội anh hùng... Chúng mình... anh với tôi sẽ được đề nghị phong hàm vượt bực đấy...

Tôi không trả lời Thái. Tiếng anh rót bên tai tôi đều đều nhưng tôi chỉ nghe thấy tiếng róc rách của lạch nước dưới chân cầu, tiếng lúa rì rào trên đồng. Một điệu ca lảnh lót giữa chốn quê hương u tịch:

" Trèo lên Quán Dốc, ngồi gốc cây đa "...

Giai điệu ấy cùng cây nhị ư ừ rền vang những năm tháng Trường sơn... Chú lính nhỏ bé của tôi... Chú lính tội nghiệp của tôi trong buổi sớm giá lạnh ấy đã trúng đạn rơi xuống...

Và máu trai loang đỏ tấm dù...

Hà Nội, 11/12/1990

Dương Thu Hương
Theo http://vietnamthuquan.eu/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Bùi Phan Thảo với khúc ca bi tráng

Bùi Phan Thảo với khúc ca bi tráng Trường ca “Những ngọn khói về trời” của Bùi Phan Thảo là cuốn truyện bằng thơ, kể lại một thảm họa lịch...