Chủ Nhật, 26 tháng 1, 2025

Chốn vắng 3 00000

Chốn vắng 3

Chương 17
Người thành phố thường dậy muộn hơn dân quê. Nhưng dòng đời phố xá bốc lên nhanh như đám cháy được tưới dầu. Khoảng sáu giờ rưỡi sáng các gian hàng còn khóa chặt, chỉ các cửa ra vào lười lĩnh hé nửa cánh cho mấy người giúp việc ra quét vỉa hè hoặc để mấy bà chủ đầu còn ghim đầy những lọn cuốn tóc vừa bước ra vừa che miệng ngáp áo quần nhàu nhỉnh hớ hênh tìm gọi người bán bánh cuốn rong hoặc sôi nóng hoặc bánh mì pa-tê loại bình dân cho bữa sáng của chồng con. Tới 7 giờ, tất tật các gian hàng đã mở, sáng choang, hàng hóa bầy đâu vào đấy người chạy ra chạy vào nườm nượp. Không gian đầy màu sắc, đầy âm thanh, và cũng bắt đầu bốc bụi. Giữa dòng đời náo nhiệt ấy, Hoan sống lãng đãng như kẻ mộng du. Anh chẳng thức khuya cũng không dạy sớm. Thường bảy rưỡi sáng anh mới mở mắt nhưng còn nằm dài trên giường khoảng ngót một tiếng sau mới ra khỏi phòng. Giờ ấy, chị Nền đã nấu sẵn nồi nước lá thơm cho anh tắm. Mặc dù thời hiện đại, dân thành phố dùng đủ loại xà-phòng và sữa tắm ngoại nhập nhưng anh vẫn tắm nước lá cổ truyền. Ðúng thứ nước lá thơm mẹ anh vẫn tắm cho anh hồi nhỏ. Lá chanh, lá bưởi, hương nhu, cúc tần, lá sả... mùa nào thức ấy.
Tuyệt diệu nhất vẫn là những ngày cuối đông hoặc sau Tết nguyên đán, lúc đó các cây mùi đã già, lụi hoa, kết hạt đem chúng lên nấu trong những thùng nước lớn, hương thơm xông ngào ngạt, thứ hương nửa đồng nội nửa phòng the vừa gợi cho con người sự tinh thiết vừa buộc người ta tơ tưởng đến những khuôn ngực để trần.
Sớm hôm đó, Hoan vừa ra khỏi phòng tắm chị Nền đã đứng chờ anh:
- Cậu ăn sáng gì để tôi mua?
- Em chẳng ăn gì cả.
- Thế cậu dùng một tách cà-phê nhé... Cà-phê nhà không được thơm để tôi gọi quán Nhân đem sang.
- Chị đừng lo, em chẳng uống cà-phê đâu, mà em cũng chẳng đói.
- Cậu nói lạ, người đang xuân thì, không ăn sáng lấy sức đâu làm việc?
Hoan nhìn ánh mắt hoảng hốt của người đàn bà vừa như chị vừa như mẹ vừa như đầy tớ trung thành, đành nhượng bộ:
- Thế chị mua cho em gói xôi đậu xanh vậy.
Chị Nền yên tâm quay đi. Hoan ngồi pha ấm trà uống. Từ sáng hôm qua anh yêu cầu chị không làm món trứng nhúng nước sôi với lý do ăn trứng nhiều không tiêu được. Thực đơn thường ngày hai bà chị dành cho anh là ba quả trứng gà la-coóc ngày xưa ông giáo ưa thích sau đó cộng thêm một khoanh bánh mì hoặc một nắm xôi và tách cà-phê. Họ chẳng biết thứ thực phẩm đó làm đêm đêm anh khốn khổ. Vợ anh đã trở thành vợ kẻ khác. Người đàn bà góa Xóm Hà đã ngủ yên trong quá vãng và cơn đói dục tình không nguôi dịu khiến đêm đêm anh như kẻ ra đấu trường tỉ thí một mình.
- Xôi còn nóng đây, cậu ăn ngay đi.
- Em xin.
- Có ăn đường tôi mang thẩu đường lại.
- Cho em chút xíu.
- Sáng nay cô Kim Liên tới đây với đứa con gái.
- Cô ta vác xác tới đây làm gì?
- Cô ta đến lấy tiền... Cậu quên rằng tháng tháng mình vẫn phải góp tiền nuôi đứa bé ấy theo quy định của tòa án?
- Chết thật...
Hoan thốt kêu. Anh quên thật. Quên hoàn toàn bởi lâu nay chị Châu và chị Nền đã thay anh làm phận sự đó, cái phận sự hết sức phi lý mà người đời đã đặt lên vai anh. Món tiền chẳng là bao song lẽ nó là thứ nguyệt liễm bắt buộc anh phải đối mặt với quá khứ, cái quá khứ dù có muốn quên cũng không đủ sự dung thứ để lãng quên.
Sau đám cưới tai tiếng cô Kim Liên vẫn nghiễm nhiên xách áo quần về nhà ông bà giáo Huy, còn anh xách áo quần sang trú ngụ ở thôn Bảo, trong căn chòi cất rớ. Sáu tháng sau cô Kim Liên cho ra đời một đứa bé gái da nâu tóc quăn tít, chắc chắn nó phải thừa hưởng máu huyết của người đàn ông nào khác chứ không thuộc dòng giống của ông giáo Huy. Phố xá đến xem mặt đứa trẻ, nườm nượp như để minh chứng cho nỗi oan uổng của Hoan nhưng mọi người đều sợ uy ông phó chủ tịch thành phố và ngại cái mồm có quai của bà trưởng cửa hàng nên chỉ dám thì thào sau lưng họ. Bà Kim Lan tuyên bố:
- Cá nhà ai vào oi nhà ông giáo Huy vẫn là cá của ông giáo Huy.
Ông bà giáo nhẫn nhục chấp nhận. Ðứa bé được khai sinh với họ Trần. Và như để nhắc nhớ cuộc hôn phối ông phó chủ tịch thành phố đích thân đặt tên cho cháu ngoại: Trần Nguyễn Kim Loan. Họ tổ chức lễ thôi nôi cho đứa trẻ to hơn cả cỗ cưới của mọi gia đình khác... Nhưng tất thảy những sự kiện đó diễn ra như màn độc thoại. Bởi Hoan không về. Anh nằm lì trên chòi cất rớ làng Bảo. Hoặc đọc sách hoặc cất rớ và đêm đêm chờ cây cầu thang rung chuyển. Ông phó chủ tịch ngậm đắng nuốt cay im lặng. Ông thương con lẻ loi và chờ cơ hội. Vào thời kì đầu cuộc chiến, khi xảy ra vài cuộc thăm dò của phi cơ Mỹ và dăm trận khiêu khích vùng giới tuyến dân thành phố lẫn các huyện đã phải học tài liệu về âm mưu địch, về những nguy cơ chiến tranh, tầm quan trọng của tinh thần cảnh giác cách mạng... Một tối, Hoan đang nằm hóng gió trên chòi, có tiếng quát:
- Ai trên chòi, yêu cầu xuống ngay.
Anh chưa hiểu chuyện gì nhưng cũng thong thả tụt xuống. Dưới chân chòi lố nhố một đám người nai nịt sống ống.
Hoan vừa đặt chân xuống mặt đất, có tiếng quát tức thời:
- Anh là ai?
Cái giọng hách dịch lố lăng khiến Hoan bực. Anh đáp:
- Tôi là tôi.
- Không được hỗn láo với chính quyền. Họ tên là gì?
- Trần Quý Hoan.
- Hộ khẩu đâu, xuất trình?
- Hộ khẩu ở số nhà 17 phố Phạm ngũ Lão.
- Người ở đâu hộ khẩu phải ở đấy. Cớ chi anh tới đây?
- Tới đây kéo rớ.
- Chúng tôi đã theo dõi anh nhiều ngày nay. Cá anh kéo chỉ đưa vào nhà ăn hoặc thả xuống sông, anh không làm nghề như những dân chài khác... Hãy khai thật động cơ tới làng Bảo này?
- Không có động cơ gì hết.
- Chúng tôi được lệnh bắt tất cả những kẻ khả nghi về trụ sở ủy ban giao nộp cho tỉnh đội điều tra. Anh là kẻ khả nghi. Anh đã bị bắt. Hoan chưa kịp có phản ứng gì. Thậm chí anh chưa hiểu vì đâu và vì lý do nào bỗng dưng anh gặp cơn cắc cớ này. Anh ngơ ngẩn hoang mang và chính ngay lúc ấy, cái giọng hách dịch kia đã hô to:
- Các đồng chí, trói nó lại đưa về trụ sở.
Trong đám đen lố nhố, hai bóng người nhảy lại bẻ quặt hai cổ tay anh bằng một sợi thừng:
- Ði.
Cái giọng hách dịch đó hô tiếp. Một báng súng thúc vào lưng Hoan và cả bọn dẫn anh đi dọc bờ cát. Anh không biết mặt ai trong đám đông ấy, cũng chưa từng nghe cái giọng hách dịch kia bao giờ. Từ ngày đến làng Bảo, anh chỉ quen biết vài người quanh xóm Bính, xóm chuyên cất rớ sông và vài quán bán chè bán nước xung quanh. Có lẽ đám người bắt anh là dân quân thuộc làng Cát, làng kế cận làng Bảo nhưng cùng một xã Bảo Ninh. Họ thực hiện một cái lệnh nào đó của ủy ban xã... Thật tồi tệ. Anh không thể hình dung ngày nào đó anh bị liệt vào hạng người khả nghi và bị bắt, bị trói, bị đối xử một cách thô bạo như vậy... Nhưng chiến tranh, chiến tranh, chiến tranh... Anh bắt đầu hồi tưởng những gì đài phát thanh xã Bảo Ninh và cả đài phát thanh thành phố từ bên kia sông ra rả vọng sang, những lời lẽ hùng hồn và quyết liệt, rạch ròi, và tàn nhẫn... thứ văn chương đó hứa hẹn súng dao, máu đổ, đầu rơi:
Ta dại khờ... Rất có thể có những kẻ dựng chòi cất rớ bên sông để chỉ điểm cho máy bay bắn phá, hoặc thám thính tình hình dân cư, sự phòng bị và phân bố các lực lượng quốc trang... Ta chẳng có tội nhưng chính cuộc sống bất thường của ta đã khiến họ nghi ngờ...
Trên quãng đường đi tới căn phòng đầy rệp mà người ta tống giam anh, Hoan không ngừng băn khoăn về sự dại dột của mình về cuộc sống vô công rỗi nghề đã tạo cớ cho kẻ khác hồ nghi. Những ngôi nhà đen thù lù bên đường càng gia tăng nỗi sợ hãi ấy. Từ ngày có các cuộc khiêu khích của máy bay Mỹ, dân không được thắp đèn đêm. Chỉ được dùng đèn phòng không, đặt trong hộp, lỗ sáng khoét không lớn hơn con đom đóm. Khu nhà của ủy ban xã cũng đen ngòm. Một người trong bọn vẩy cây đèn pin trong tay soi ổ khóa, kẻ khác thò chìa mở. Hai cánh cửa có song sắt mở ra, một bàn tay cởi sợi thừng sau lưng Hoan và ẩy anh vào:
- Anh ở đó. Sớm mai sẽ khai báo.
Họ khép hai cánh cửa, kéo sợi xích loảng xoảng qua hai hàng song sắt và bấm ổ khóa tách một tiếng khô khục. Anh đứng lại trong gian phòng, nhìn qua hàng song sắt thấy đám người lô nhố đi xa dần, lặng lẽ như những bóng ma, chẳng ai nói thêm một lời nào nữa. Khi họ mất hút trong bóng đêm, anh vẫn đứng sững sờ, chẳng hiểu vì sao những kẻ anh không oán thù, không tranh giành lợi lộc lại có thể trói anh, thúc báng súng vào lưng anh và sau rốt đẩy anh vào một căn buồng tối tăm bốc mùi tanh và mùi mốc...
Ðêm ấy Hoan không ngủ. Anh ngồi trên đống phoi bào lẫn với lưới rách. Nơi đây hẳn đã từng dùng để chứa đồ hỏng và cũng đã từng giam người. Linh tính mách bảo anh như vậy. Lũ rệp từ mọi xó xỉnh mò đến tấn công. Hoan vừa gãi vừa mò mẫm giết chúng. Mùi máu rệp bốc lên hăng xè, hòa với mùi tanh lưu cữu của các manh lưới cũ và mùi mốc. Thứ mùi rất khó quên. Anh đã ngồi như thế cho tới tận bình minh. Khi nắng chiếu, anh mới thấy đám xác rệp be bét máu trên sàn xi-măng. Ðêm qua anh đã tàn sát chúng ra trò và chúng cũng đã hút máu anh ra trò. Vệt rệt đi thành lối, dẫn từ những cây cột nhà tới. Hoan đứng lên xem. Các kẽ nứt trên thân cột có hàng ngàn con rệp nhung nhúc. Dù ban ngày, chúng không dám bò đi bò lại nhưng vẫn nhúc nhích cựa quạy chen chúc nhau trong nơi ẩn náu quá chật hẹp. Hoan bất giác rùng mình, trong đám hàng ngàn con rệp này đêm qua mới chỉ vài trăm con tấn công anh. Nếu họ còn tiếp tục giam anh ở đây, hẳn lũ rệp sẽ lần lượt tới thăm anh cho tới khi anh còn sức mà giết chúng. Ðám xác rệp trên sàn gió đã thổi khô, dạt vào như nắm vỏ đỗ, lẫn với phoi bào. Lẫn trong đám phoi bào và lưới rách, anh nhìn thấy vài hòn gạch vỡ, mấy chiếc vỏ ốc, vài vỏ hộp đựng kim vá lưới. Hoan đá đi đá lại mấy chiếc vỏ hộp, bất chợt thấy một cây kim bật ra. Anh cầm cây kim cũ rỉ bắt đầu cuộc tàn sát lũ rệp. Chọc kim vào khe gỗ, anh khêu từng con ra, dùng mũi kim cắt thân chúng làm đôi. Xác rệp dính trên thân cột gỗ chỉ mươi phút sau đã khô queo rụng xuống. Hết rạch nứt này đến rạch nứt kia anh đã giết sạch lũ rệp bám trên thân cột đầu tiên. Lúc hơi nóng hừng hực trên đầu anh mới biết không kẻ nào đến đây để thẩm vấn anh như bọn người đêm qua đã hứa. Ném cây kim, Hoan ngồi xuống sàn:
Họ đã nói dối, cái lũ người đã tự xưng là chính quyền, đã quát nạt ta, đã thúc báng súng vào lưng ta... Và tại sao ta đưa ta cho bọn họ trói một cách dễ dàng như vậy. Ðêm không đèn lửa và lũ người bắt ta cũng không đọc lệnh bắt người. Ta là kẻ có chữ mà chịu bắt nạt như một gã nông phu thất học thời cũ...
Anh giận thân, đói và mệt. Tiếng gà gáy trưa eo óc từ nhà nào vẳng tới. Anh chẳng còn cách nào hơn là ngả lưng xuống đám lưới rách, chập chờn ngủ. Trong giấc ngủ đó, con tim anh đập nặng nề, tâm hồn anh khắc khoải, vừa oán hận một kẻ thù vô danh vừa sợ hãi một thứ tội lỗi chưa tìm ra diện mạo.
Quãng bốn giờ, bốn rưỡi chiều có tiếng mở khóa, tiếng xích loảng xoảng trên song cửa, một cô gái mặt tròn xoe lấy chân gạt rộng hai cánh cửa rồi xách chiếc làn tre bước vào:
- Cơm anh đây nè.
Cô nói, đoạn vừa liếc nhìn anh vừa mở làn lấy ra một tô canh cá còn bốc khói với đĩa cơm trên cắm cây thìa:
- Anh ăn đi.
Hoan hỏi:
- Những người giam tôi có nói với cô điều gì không?
Cô lắc đầu quầy quậy:
- Em nỏ biết, nỏ biết chi... Anh ăn đi hồi nữa em quay lại...
Nói đoạn cô hấp tấp đứng lên, chạy khỏi gian nhà và khóa cửa lại. Hoan hiểu rằng anh chẳng thể hy vọng gì nơi cô gái này. Có thể cô đã từng ở trong hàng trăm cô gái làng chài thường vụng trộm ngắm anh hoặc trêu ghẹo anh, nhưng cô cũng là nữ dân quân tự vệ xã và người ta giao cho cô nấu cơm canh cho một kẻ bị tình nghi la gián điệp... Cô không thể vượt qua phận sự của mình. Anh bưng đĩa cơm lên ăn, lòng bắt đầu bình thản lại. Thứ gạo đỏ dân chài ưa tuy không dẻo nhưng có vị ngọt đậm, món canh cá cay xè những ớt có nguyên khúc cá tươi. Ðó là bữa cơm đạm bạc của dân làng Bảo nhưng anh thấy nó rất ngon sau hai bữa ăn bị bỏ trống. Hoan khều từng mảy lá húng thơm lá thìa là nhấm nháp, húp từng ngụm canh chua cho đến giọt cuối cùng. Xong bữa cơm anh gạt bát đĩa sang một bên ngả người xuống đám lưới rách và ngủ ngay tức khắc.
Anh ngủ như thế đến lúc linh tính mách bảo rằng có ai đang ở rất gần anh. Mở mắt thấy khung trời đêm bên ngoài song cửa. Một cái đầu tròn trĩnh in trong khuôn cửa đó. Cô gái mặt tròn đang ngồi cạnh anh, im như phỗng. Hoan nhỏm dậy:
- Cô vào lúc nào vậy?
- Lâu rồi, nhưng nỏ dám thức anh.
- Sao không gọi tôi một tiếng?
- Thôi... Em đem canh vào cho anh, sợ anh đói.
- Cảm ơn, bữa cơm chiều đã đủ no.
- Không.
Cô đáp rồi bấm đèn pin soi chiếc làn tre. Anh thấy bát canh đậu xanh nấu với thịt lợn và tỏi, tỏi nổi từng nhánh trên mặt đỗ.
- Cảm ơn.
Hoan nói.
- Ăn đi.
Cô đáp.
Và cô lại ngồi im như phỗng sau khi tắt cây đèn. Hoan ăn bát canh đậu trong đêm, cô cũng ngồi chờ trong đêm, không nói gì thêm. Anh ăn xong, cô đặt vào tay anh một ca nhôm nóng bóng. Hoan đưa lên mũi, mùi chè xanh bốc bay. Cô gái lặng lẽ bỏ chiếc bát vào làn và ra về.
- Cảm ơn cô nhé.
Hoan nói vọng theo khi cô đang lúi húi khóa cửa. Cô ấp úng gì đó rồi biến mất vào đêm. Hoan ngồi uống từng ngụm chè một cho tới hết ca nước. Ðoạn anh bước vào góc phòng, tiểu. Loại nhà giam tạm bợ này vẻn vẹn chỉ có một gian, chẳng nơi tắm rửa, chẳng nơi đại tiểu tiện. Ở một góc người ta đục một lỗ thủng dưới chân tường thông ra khoảng sân cát phía sau. kẻ bị tù đái vào cái lỗ thủng đó và nước tiểu chảy ra ngoài, thấm xuống cát. Còn nếu muốn đi đại tiện, hẳn anh ta phải vơ những phoi bào mủn vào góc đó thay cho thứ bô vệ sinh thời cũ, hứng phân bằng tro. Hoan đã đủ thời giờ để quan sát cái nhà tù không chuyên nghiệp này và tự hỏi trước anh, đã có những ai từng bị giam nơi đây, và bởi những lý do nào?
Sáng hôm sau ủy ban xã mở cửa làm việc. Hoan nghe tiếng người qua lại khoảng sân tít xa vọng tới. Anh đoán chừng đó là những dân chài tới xin chứng nhận giấy tờ, học sinh tới xin con dấu và lý lịch, vài ba người ăn bận vẻ như đám cán bộ bên thành phố. Anh chắc mẩm sáng nay họ sẽ gọi anh lên đối chất và sau cuộc đối chất họ sẽ cho người điều tra, từ làng Bảo sang thành phố chỉ cách một con đò và như thế, chắc hẳn chiều nay anh sẽ được về nhà. Ngồi bó gối, anh kiên tâm chờ, nghĩ vẩn vơ đủ thứ chuyện. Rồi bất chợt tiếng gà gáy trưa vọng lại, Hoan đứng lên nhìn ra ngoài song cửa: khoảng sân cát trơ trọi chẳng bóng người. Nắng đúng đỉnh đầu. Như vậy, hẳn đám cán bộ xã đã về nhà và dùng xong bữa cơm trưa:
Lũ khốn kiếp... Không lẽ chúng muốn ta phải gào thét hay đập phá gian phòng này để làm cho rõ rành mọi chuyện? Hoặc chúng muốn làm nhục ta, muốn ta phẫn kích làm điều bậy bạ nào đó để khép ta vào tội tù đày? Nhưng là ai, và vì sao nhỉ...
Anh vừa điên giận vừa băn khoăn mọi nhẽ, lục tìm mọi kẻ thù mà không tìm nổi. Chắp hai tay sau lưng, anh đi đi lại lại trong căn nhà bẩn, chật, nóng sừng sực vì lớp ngói không trần. Trời lại im gió và không gian càng bức sốt thêm. Anh đói. Anh căm giận mình. Anh căm giận đám người đã nhốt anh vào căn nhà kho tồi tàn này rồi cố tình quên đi như để đùa rỡn anh hoặc dùng anh làm vật thí nghiệm cho một mục đích bí mật nào đó mà anh không hiểu nổi. Và anh, kẻ ngu xuẩn xứng đáng hưởng sự trừng phạt đó vì tính sĩ diện không đúng lúc của gã công tử. Lẽ ra anh phải kêu, phải gào thét, phải làm cho tất cả mọi người rõ chuyện anh đã bị bắt đi trong đêm tối bởi bọn người không rõ mặt và cũng chẳng giấy tờ, anh đã bị trói bởi một tội danh tuyên bố bằng mồm và anh đã ngoan ngoãn đi theo...
Hoan đi đi lại lại suốt buổi trưa đói khát buồn bực. Nhiều lần anh muốn cất tiếng gọi, hoặc gào thét nhưng lần nào anh cũng không mở miệng nổi. Thuở nhỏ anh đã xem những đám cãi nhau những gã say thuyết lý hoặc ca hát giữa đường, những kẻ điên vừa đi vừa lẩm bẩm vừa múa may... Tất thảy những cử chỉ kéo theo một đám đông, làm trò tiêu khiển cho đám đông đều khiến anh khiếp sợ. Anh không thể hình dung anh, con trai ông giáo Huy, có thể hò hét để kêu gọi một đám đông, để trình bày với họ sự thật, phân trần vơi họ nỗi oan uổng của mình và cầu xin nơi họ lòng trắc ẩn hay sự giúp đỡ... Không... Anh không thể... Và lần này cũng vậy vừa đặt chân tới cửa, vừa quay mặt ra phía song sắt định kêu la anh lại vội vã trở vào. Sau rốt, anh nằm xuống đám lưới rách chờ đợi sự xuất hiện của cô gái làng chài lần này nhất quyết bám theo cô đi ra tìm gặp kẻ cầm đầu lũ người bắt anh đêm trước... Anh nằm như thế qua ngày đến tối, hai mắt díp lại nhưng chẳng ngủ được. Không thấy cô gái mặt tròn. Cỡ tám, chín giờ tối, anh đoán chừng như vậy, có tiếng mở khóa cửa. Một người đàn ông bước vào. Một giọng nói xa lạ cất lên, hoàn toàn không giống với những giọng anh đã nghe trong bọn người đêm trước:
- Anh đói lắm hả? Anh ta hỏi.
Hoan không trả lời. Người lạ chẳng để ý tới thái độ của Hoan, nói tiếp:
- Từ đây anh đi chừng hai trăm thước tới gần bến đò có quán cháo ngon lắm. Trước quán đặt cây đèn phòng không, cháo bán ở phía trong. Anh đi đi.
Hoan hỏi:
- Tại sao các anh bắt tôi?
Người đàn ông đáp:
- Tôi không bắt anh nhưng tôi biết anh bị bắt.
Vì anh ta đứng đối diện nên Hoan thấy tóc anh húi móng lừa và quai hàm rất vuông. Một người tầm thước, hơi to ngang, thấp hơn anh nửa cái đầu. Hoan chưa kịp hỏi gì thêm anh ta đã nói tiếp:
- Anh hãy quay về thành phố. Gia đình anh, vợ con anh ở bên ấy, một mình anh ở đây người ta dễ sinh ngờ.
- Ngờ cái gì? Tôi có hành vi gì để ngờ vực?
- Ðất nước sắp chiến tranh... Chiến tranh là cái cớ khiến người ta dễ buộc tội nhau. Ðã là tội trong chiến tranh thì khó bề gỡ nổi... Anh hãy nghe tôi, quay về thành phố.
Hoan đứng lên, nhìn cái đầu móng lừa in trong khoảng sáng lờ mờ của khuôn cửa:
- Nhưng anh là ai chứ?
Người đàn ông thở dài:
- Tôi là một trong số những học sinh của thầy Huy, cha anh... Tôi nói như vậy, anh đủ tin rồi chứ... Thôi, hay rời khỏi nơi đây càng nhanh càng tốt...
Hoan không nói gì thêm, đi khỏi căn nhà tối om trong đó người đàn ông kia còn đứng lại. Khi tới ngả rẽ, anh quay đầu nhìn, tất cả chỉ còn là một khối đen. Ðêm ấy không trăng. Anh đi tới gần bến đò, mò vào quán cháo ăn liền ba bát cháo đoạn trở lại chòi. Quần áo đồ đạc của anh vẫn nguyên không suy suyển. Sáng hôm sau anh trở về thành phố trong chuyến đò thứ nhất. Anh không muốn dân làng Bảo biết anh đi. Anh đã đến một cách lặng lẽ, anh cũng đi lặng lẽ. Về đến nhà, anh bước thẳng vào buồng riêng. Cô Kim Liên đã ăn mặc chải chuốt chỉnh tề ngồi trên giường nhìn anh với đôi mắt sáng rực. Và tức khắc, anh hiểu ra mọi chuyện. Không nói một lời anh ra chợ mua một chiếc võng một tấm chiếu cói. Anh mắc võng vào hai cây cột hàng hiên sau nhà, nơi mọi người qua lại cả ngày lẫn đêm vì không ai tránh được lối vào nhà tắm lẫn nhà vệ sinh. Rồi anh căng mấy sợi dây, phủ tấm chiếu làm mái che sương, mắc thêm bóng đèn một trăm nến. Từ hôm ấy, cả ngày lẫn đêm anh không rời chiếc võng trừ những lúc đi dạo phố hoặc tắm biển. Anh đọc sách, anh ngủ, anh ngắm mây trời hoặc cây vườn. Ông giáo Huy chẳng nói nhưng anh biết cha ngầm ủng hộ mình. Mẹ anh thở dài sườn sượt nhưng vì yêu và nể con, bà không dám can ngăn đành cắm mặt chịu những lời rỉa rói móc mách của mụ cửa hàng trưởng. Bữa cơm, chị Nền dọn riêng cho Hoan một suất vào chiếc khay nhỏ để anh ăn trước hoặc sau mọi người. Anh ăn suất cơm của mình một cách chậm rãi vừa ăn vừa nhâm nhi đọc sách hoặc ngẫm nghĩ sự đời với vẻ ung dung của vị gia trưởng. Từ chàng trai hồn hậu dễ thương anh đã trở thành người đàn ông băng giá. Dường như anh tự cho phép mình đứng lên vị trí người đàn ông số một trong gia đình. Cha anh cùng tất cả mọi người tuân phục ý muốn ấy một cách tình nguyện và câm nín. Cả ngày Hoan không nói với ai một lời, trừ những lúc chị Nền bưng khay cơm vào cho anh hoặc khi anh hứng chí bảo chị nấu cho anh món ăn ưa thích. Không bao giờ anh đưa mắt nhìn mẹ con cô Kim Liên. Một lần nào đó, người đàn bà mặt dạn mày dày bồng đứa bé đến trước Hoan, vẻ như vừa bắt vạ vừa cầu xin:
- Nào, dù sao anh cũng bế con một lần cho nó khỏi tủi... Nó mang dòng họ Trần của anh đấy...
Hoan im lặng không trả lời. Cô Kim Liên sượng sùng quay đi. Lúc đó bà giáo bước tới, năn nỉ. Anh nhìn mẹ lễ phép trả lời:
- Con không thể... Xin mẹ để cho con yên...
Rút cục, cô Kim Liên đành bứt áo ra đi. Cô không chịu nổi cuộc sống của con vật lạc chuồng. Trong gia đình ông giáo Huy, cô sắm một vai tuồng, những người khác cũng phải sắm vai nhưng họ đứng tất về một phía. Uy tín và quyền hành của cha cô, sự đáo để nanh nọc của mẹ cô cũng không làm nổi cái điều cô thèm muốn: chúng không thể ép Hoan trèo lên bụng cô. Mà cô đã trải mùi đời. Cô chẳng thể chịu cảnh sống góa bụa. Cô trở về nhà liên tục trong nhiều ngày, khóc lóc nài nỉ cha mẹ thuận tình cho cô được ly hôn. Ông phó chủ tịch và bà trưởng cửa hàng bàn bạc mấy tháng trời trước khi bước vào cuộc mà cả. Họ cho phép Hoan được ly hôn với điều kiện phải chu cấp cho đứa bé Trần Nguyễn Kim Loan tới khi nó trưởng thành đồng thời phải đưa cho cô một số dấn vốn tương đương với năm cây vàng để bồi thường danh dự... Năm đó là năm chuẩn bị chiến tranh, đứa con cô Kim Liên vừa đầy tuổi, giờ đây nó đã mười ba. Năm tháng tưởng chừng dài dặc nhưng khi quay lại nhìn cũng ngắn ngủi như cơn mưa bóng mây, như giấc mơ đêm hạ...
Chị Nền lại mang thêm cho anh đĩa quýt chín, thứ quýt thơm chỉ trồng được trên những vùng đồi nhiều nắng:
- Cậu ăn vài trái quýt cho có chất tươi.
Hoan vừa bóc quýt vừa nhẩm tính xem năm cây vàng thời đó đáng giá bao nhiêu tiền? Anh chợt thấy sự tính toán là vô nghĩa. Vào lúc bà Kim Lan yêu cầu mẹ anh phải lo đủ năm cây vàng trước khi cô Kim Liên ký vào tấm giấy ly hôn mặt bà giáo Huy trắng nhợt, bà đã ngã khuỵu xuống đống vải dưới chân. Chị Nền phải chạy tới đỡ bà ngồi dậy. Năm cây vàng lúc đó là một gia tài kinh hoàng mà những người dân bình thường không hình dung được. Trong một xã hội phân phối từ cây kim tới sợi chỉ vá quần áo, cái xã hội tiêu chuẩn thịt trẻ em được một trăm gramme mỗi tháng chỉ cần có chiếc nhẫn một chỉ vàng đeo tay đã đủ vênh vang với mọi người. Bà giáo ông giáo không dám bàn tính vì số tiền đó ở ngoài khả năng của họ. Nhưng may mắn sao trong lúc gia đình anh tuyệt vọng, chính cô Kim Liên đã gỡ cho họ một bàn thua. Phạt mình ép xác không nổi, cô bắt nhân tình với anh trưởng phòng thu thuế Sở thuế thành phố. Anh này có cô vợ đen ròn, đảm đang, đã đẻ dốc thôi ba đứa con trai liền. Cô nuôi con hầu chồng rất tận tình nhưng ghen tuông cũng rất tận tình. Cô ta khéo chạy chọt sao mà cả một lúc bộ tứ lãnh đạo sở thuế bao gồm: Ðảng, chính quyền, công đoàn và đoàn thanh niên cùng tới rình chộp cuộc ngoại tình của cô Kim Liên với tình nhân. Cuộc vây ráp đó thành công ngoạn mục. Tất cả những kẻ tham dự đều được chứng kiến thỏa thuê đôi gian phu dâm phụ trong mọi tư thế làm tình và cô vợ lại là người kiên nhẫn đợi chờ cho tới phút đích đáng nhất mới lên tiếng hô hoán. Cả hai phạm nhân đều phải kí tên vào biên bản mới được phép mặc áo quần. Chưa hết, khi họ rời khỏi cửa, đám dân phố đã được thông báo từ trước hớn hở tới xem...
Nhờ ơn phước đó, gia đình ông giáo Huy chẳng phải nộp năm cây vàng cũng cứu được con trai khỏi cuộc hôn nhân bất hạnh.
Sau chiến tranh, mẹ con cô Kim Liên đưa nhau về thành phố. Cửa hàng bị trả lại cho gia đình Hoan, bà Kim Lan được điều phối làm trợ lý cho giám đốc sở thương nghiệp. Nhưng ông chồng bà chết, cùng với sự ra đi của ông là thế lực và may mắn bao năm nay bà vẫn quen dùng. Kiếm miếng ăn không đủ, bà xin ra ngoài mở quán Bar-Càfé. Dường như cuộc kinh doanh mới cũng không mấy suôn sẻ nên họ chỉ đủ độ nhật. Và tháng tháng họ vẫn tới tìm chị Châu đòi món tiền trợ cấp cho đứa bé kia... Bao lần phóng xe qua cửa hiệu Bar-Café Kim-Kim Hoan đều nhìn thẳng về phía trước nhưng trong thâm tâm anh thầm mong hai người đàn bà đó bất chợt xuất hiện nơi ngưỡng cửa để cho anh có dịp quan sát bộ dạng của kẻ thù. Chưa lần nào anh gặp họ và dần dà trí tò mò thù địch của anh nguôi ngoai. Tuy nhiên, những cuộc thanh toán phí tổn nuôi đứa trẻ kia vẫn xảy ra sau lưng anh và giờ đây nó chợt thức dậy những oán thù chưa hoàn toàn phai nhạt. Anh nhẩn nha bóc từng múi quýt bỏ vào miệng và sực nhớ rằng cái đứa bé gái mang tên Trần Nguyễn Kim Loan kia vẫn mang dòng họ của anh nghiễm nhiên là con anh trước luật pháp, mai này nó sẽ đủ quyền đòi chia gia sản với con trai anh, một đứa trẻ có bản tính thiên thần và đôi chút dại khờ:
Mai sau, nếu có rủi ro nào đó, ta không thể đội mồ sống dậy để đi tới phòng phân tích máu, để kiện lại những điều luật đã được tuân thủ trong một thời gian quá dài... Ta cần phải hành động ngay, để bảo vệ quyền lợi cho thằng bé...
Hoan biết những đồng tiền của anh ném ra lúc này có hiệu lực. Anh sẽ nhờ người tìm đường dây liên lạc với bọn mõ tòa:
- Cà-phê của em được chưa chị?
- Tôi đã gọi cà-phê Nhân, chắc họ đem tới bây giờ. Tôi cũng gọi thêm cho cậu chiếc mô-ka.
- Chị muốn em tăng cân như lợn hay sao?
- Không. Bánh nhà ấy nhỏ chỉ bằng quả trứng vịt thôi nhưng thơm lắm, mà kem cũng rất tươi. Lát nữa cậu nếm xem.
Ðiểm tâm xong, Hoan đến nhà Căng, người bạn buôn vừa giao du vài tháng nay. Anh ta hẹn Hoan bàn chuyện hùn vốn với một công ty sản xuất thuốc trừ sâu ở Sài-gòn. Hoan định bụng xong việc làm ăn sẽ đi tìm kẻ mách mối tới đám cán bộ tòa án. Nhưng trên đường đi anh bỗng nhức đầu dữ dội, cơn đau đánh phá bạo liệt đến mức anh cảm thấy đầu sắp tung thành mấy mảnh và óc não hỗn cuồng sôi sục trong đó sẽ bay tháo ra. Anh biết mình bị hành hạ, đành xuống xe vào quán nước, gọi liền ba cốc bột sắn uống. Hơn tháng nay anh liên tục tiếp đãi bạn hành.
Cuộc gặp nào cũng kèm theo những bữa ăn thịnh soạn. Nguồn sinh lực dồn tích không lối thoát thường xuyên dẫn đến những cơn đau đầu dữ dội, hoặc những khoảng khắc đột ngột choáng váng và mất trí nhớ. Ðêm đêm, anh như kẻ ra đấu trường đơn lẻ, đơn lẻ chiến đấu với sự hành hạ của chính thân xác mình. Ðêm đêm, anh gọi tên vợ thức dậy với manh quần bẩn, với thân xác mỏi nhừ và trạng thái tinh thần u ám như kẻ bị ma đè. Hoan biết giới tu hành có một thứ thuốc bột hiệu nghiệm uống lẫn với nước lá rau dăm. Anh muốn nhờ chị Nền đi tìm cho thứ thuốc diệt dục ấy nhưng không dám. Hai bà chị đều thầm mong cho anh tìm được người đàn bà mới, có hạnh phúc mới. Bởi, họ biết Hoan nặng lòng với Miên nên chẳng ai dám nói ra lời. Nhưng lúc này hoặc lúc khác, anh thấy xuất hiện các cô gái đã chín tuổi lấy chồng, hoặc những người đàn bà tuy dở dang nhưng còn son trẻ. Và những người ấy, như đám chim mồi, lượn lờ không mệt mỏi trước cửa hàng nhà anh chuyện trò thân tình với hai bà chị, tất cả đều chờ đợi một cơ may khi anh quên được người đàn bà xóm Núi. Hoan thấy họ tội nghiệp. Anh không còn là gã khờ năm xưa để sa chân lần nữa.
Nhưng những cơn sốt dục tình không ngừng tra tấn anh. Rồi dịp nào đó, bỗng dưng người ta giới thiệu anh tới bà chủ quán Cổ Truyền. Ðó là một quán ăn lạ kỳ, cửa hàng không nằm ngoài mặt phố mà ở trong ngõ kín. Khi tới đấy, Hoan đã phải để xe lại để thả bộ vào trong con hẻm nhỏ, lối cong queo, có rất nhiều cây cột điện thời cũ được vá víu dựng lại, nhà cửa nhỏ bé lộn xộn, cái tường ghép gỗ, cái xây gạch cao thấp chen nhau nhưng nhà nào cũng trồng một giàn hoa giấy phía trước nên khắp ngõ xác hoa giấy như rải thảm.
Quán nằm ở cuối ngõ. Một tấm bảng gỗ mộc sơn hai chữ CỔ TRUYỀN bằng hắc ín. Nhà thấp lợp ngói, bàn ghế trong quán đóng theo kiểu cổ, thuần bằng gỗ mộc, ám khói và nhẵn bóng mồ hôi. Tường không tranh, không hoa giả, không đèn điện trang trí... Tóm lại không một chi tiết nhỏ nhặt nào của đời sống hiện đại lọt vào đây và bởi thế, quán ăn này hoàn toàn như một quán ăn từ vài trăm năm trước phục chế lại. Chủ quán là một bà lão sáu mươi lăm nhưng tinh tường, khỏe mạnh, vừa oai vệ vừa ranh ma. Tóc trắng phơ cuốn lên bằng một cây trâm đồi mồi, quần áo lụa đen kiểu cổ nhưng tay lại đeo đồng hồ hãng Quac, trông bà nửa như tiên nửa là phù thủy. Quán Cổ Truyền nổi tiếng với các món ăn cầu kỳ tốn kém thời gian dẫu là món bình dân: Lươn om, ốc om, cá nướng lá chuối, cá trê nấu mẻ, xôi trắng ăn với ruốc cá rô... Nhưng bà chủ còn nổi tiếng hơn các món ăn của bà vì bà biết bắt mạch Thái Tổ, chỉ cần xem mạch đủ biết vận mệnh, hung cát. Và biết chế tác những phương thuốc bí truyền nhằm kích dục hay diệt dục, bà có thể chữa bệnh vô sinh cho kẻ này hoặc trục thai cho người khác. Cả những ông chồng bất lực đứng đắn và đau khổ lẫn bọn Sở Khanh ma cô đều phải tới cậy cục trước cửa nhà bà. Ông chồng đã quá cố của bà vốn người Tàu, một thầy thuốc lừng danh nhưng không chống lại được vận mạng đã chết trước bà hơn một thập kỷ. Chính ông đã truyền cho bà các ngón nghề bí hiểm. Hơn nữa ông còn truyền cho bà sự ngoan cường và lòng kiêu hãnh ít ai bì. Bởi thế, tuy bà chỉ là một bà già bình thường nhưng đám người có quyền chức trong thành phố cũng phải kiêng nể.
Khi Hoan gặp bà, bà đang ngồi chơi bài một mình trong phòng riêng. Bà rót cho anh một chén chè tí xíu rồi nói:
- Người ta sống thuận theo lẽ trời là tốt nhất. Cậu có chữ chắc hiểu, khi âm dương giao hòa khí huyết ắt lưu thông, mọi tương năng tương hỗ khác nhờ theo đó mà thịnh... Nếu đã cài then sập cửa, ắt ngôi nhà phải tối tăm, ngột ngạt, không nơi này thì ngã kia tù đọng, hôn ám...
Hoan im lặng. Anh không thể và không có thói quen giãi bày tình cảnh trước người thứ hai. Anh chỉ nói:
- Cảm ơn bà. Nhưng cháu cần thứ thuốc ấy.
Bà nhìn anh với cái nhìn ngao ngán lẫn chút tò mò rồi đưa cho anh thứ thuốc bột màu nâu. Anh đã uống thứ thuốc tiết dục đó, ngày ba lần sau bữa ăn, mỗi lần một thìa cà-phê đầy. Sau ba tuần mọi nhu cầu sinh lý hoàn toàn biến mất... Nhưng anh cảm thấy anh trở thành một kẻ khác. Anh rất thích ngủ, mỗi ngày ngủ đến mười hai giờ. Tay chân anh không còn ấm nóng mà lạnh đi, da anh xanh và anh đi đứng chậm rãi như kẻ chán chường. Ðôi khi, chính anh cũng sợ anh khi thấy anh trống rỗng, không muốn suy nghĩ, không muốn quan sát mọi vật, nửa như sống nửa như vất vưởng đâu đó bên ngoài cõi đời. Hai bà chị hoảng sợ hoảng sợ tìm thầy thuốc. Nhưng Hoan gạt phắt đi. Giờ, anh đã hiểu lời bà lão. Anh biết anh phải lựa chọn giữa hai trạng thái bệnh hoạn. Và anh lựa khả năng thứ hai. Bởi anh còn muốn sống như một người đàn ông khỏe mạnh, tỉnh táo. Anh còn phải làm việc cho con trai anh, cho những người thân của anh, cho người đàn bà anh chưa ngớt yêu dấu...
Uống liền mấy cốc bột sắn, Hoan ngồi bóp thái dương lẫn đỉnh đầu một lúc lâu cơn đau mới dịu. Anh tới nhà Căng. Ở đó, qua buổi trưa anh không dám uống rượu chỉ ăn hai bát cơm với đậu phụ luộc chấm tương. Gã bạn buôn cười hô hố:
- Sao anh khốn khổ thế? Một thằng gốc gác dân cày như tôi cũng chẳng cam lòng chịu đói như anh.
Vốn tính kín đáo, Hoan không có thói chuyện trò bả lả với ai. Bị người khác dò đúng căn bệnh, anh đâm lúng túng, mặt đỏ bừng.
Căng chăm chú nhìn anh, vẻ tò mò hớn hở, dường như gã vừa bắt được món tiền lớn:
- Chết nỗi, sao anh lại đỏ mặt tía tai lên như vậy? Thật không ngờ, tới hôm nay tôi mới trông thấy gáy nhà buôn lớn nhất sáu tỉnh miền Trung.
Hoa đáp:
- Ai cũng có phần ngờ nghệch. Tôi không phải người quen thuộc chốn ăn chơi.
- Thế anh tưởng tôi là kẻ ăn chơi à?
Căng cao giọng vặn lại. Rồi không chờ Hoan trả lời, hắn tiếp:
- Bốn đời nhà tôi cơ cực nên tôi chẳng dại dột ném tiền vào chốn cờ bạc gái trai... Anh biết rõ tôi đấy: Tiêu một hào tôi cũng cân nhắc bảy lần. Một bữa tiệc chốn thị thành nuôi được cả gia đình dân cày trong vài tháng mà họ hàng chú bác bên nội bên ngoại của tôi còn ở tất tật chốn bùn lầy. Tôi vẫn phải cưu mang họ... Nhưng vấn đề chính tôi nói với anh chẳng phải chuyện chơi bời mà là phép vệ sinh. Anh bỏ qua cho tôi, thật ra cái... việc đó cũng giống như việc vào hố xí. Người ta có ăn thì có ỉa, uống bia vào thì sớm muộn hai ba tiếng sau cũng phải đái ra. Ðố ai giữ nổi các thứ bã thải trong thân xác.
Hoan đáp:
- Tôi không quan niệm như thế.
Căng giương mắt nhìn anh chằm chằm:
- Trước khi tôi sống độc thân ở thành phố này tôi cũng đã có vợ. Trước khi có vợ tôi cũng đã yêu. Và tôi cũng nghĩ như anh rằng người ta chỉ có thể ngủ được với người đàn bà họ yêu thôi... Nhưng sự đời chẳng thế.
Hoan im lặng. Và bất chợt buông tiếng thở dài. Gã bạn buôn kia nói đúng. Cha anh dạy anh rằng người đàn ông chỉ hạnh phúc với người đàn bà họ yêu. Và anh hoàn toàn tin vào điều đó. Nhưng cuộc làm tình đầu tiên của anh với cô Kim Liên cũng đem cho anh sự thỏa mãn, dù anh chẳng biết cô ta là ai và cuộc làm tình đó diễn ra trong trạng thái mơ ảo... Và rồi nữa, những cuộc làm tình với người đàn bà xóm Hà trong cây chòi cất rớ ven sông Lệ Nhật... Những đêm ấy anh cũng đã leo tới đỉnh ngọn triều khoái lạc, dù chẳng là thứ khoái lạc vẹn toàn của hạnh phúc như anh từng nếm trải với Miên... Có lẽ, những điều Căng nói là sự thật. Có lẽ người đàn ông cần tìm một nguồn mạch giải tỏa cơn khát dục tình giống kẻ lữ hành trên con đường xuyên núi khô khan phải làm nguôi cơn khát bằng vũng nước bất kì bắt gặp... Và anh chợt nhớ tới Miên, chị vẫn phải chung đụng với một người đàn ông chị không còn yêu nữa. Vậy những cuộc làm tình đó cũng ở bên ngoài hạnh phúc, bên ngoài cái chuẩn mực tình yêu mà cha anh đã dạy anh...
Căng vẫn không rời mắt nhìn Hoan, lúc đó tiếp lời:
- Hoàn cảnh anh khác tôi. Vợ anh không hư hỏng do hoàn cảnh bắt buộc phải xa anh... Anh vẫn có thể thương yêu chị ấy, nhớ nhung chị ấy và vẫn có quyền tìm một người đàn bà nào khác để xả những thứ rác rưởi tồn đọng trong thân xác.
Hoan vẫn biết có cái nghề cổ xưa như trái đất. Và nghề đó thời nào cũng tồn tại dù công khai hay lén lút. Hẳn nó là thứ nghề phục vụ cho những gã đàn ông rơi vào cảnh khốn khó như anh hoặc những kẻ thiếu hụt tiền tài hay khiếm khuyết nhân dạng chẳng thể tìm nổi một người đàn bà thương yêu mình...
Phải, mọi thứ đều cũ mèm như trái đất. Trước ta cũng đã có hàng triệu người đàn ông và sau ta cũng sẽ có hàng triệu người nữa rơi vào cảnh ê chệ này...
Anh nghĩ. Nhưng anh vẫn cảm thấy hổ thẹn và lẫn chút trắc ẩn khi nghĩ tới việc tới lầu xanh để tìm một cô gái lầu xanh.
Chừng như đoán rõ những ngại ngần trong anh, Căng lên tiếng:
- Thôi đi, hàng hóa nào cũng cần kiểm nghiệm. Tối nay theo tôi. Anh sẽ thấy chẳng cần tư lự nhiều như thế. Sự đời đơn giản. Ta mua một món hàng và trả đúng giá, như các cụ đã nói từ xưa: Ăn bánh trả tiền.
Rồi Căng liếc đồng hồ. Anh ta có cái hẹn khác vào lúc một giờ rưỡi. Gã đàn ông này là cái máy kinh doanh, là con bệnh khát tiền, làm việc không kể đến thân mình bất kể loại công việc nào dù thượng vàng hạ cám. Hoan biết thứ kinh doanh khốn khổ như thế thường chẳng đem lại bao nhiêu lợi lộc cũng giống những người buôn từ nước mắm tới bấc dầu đèn dù xoay sở quần quật như trâu cũng khó kiếm nổi một số hời cho ra tấm ra món và khó có cơ ngoi lên được:
Vậy mà gã nhà que đo lọ nước mắm đếm củ dưa hành này lại là kẻ khai tâm cho ta ngày hôm nay. Ðời quả nhiều bàn cờ nhiều ván cờ, anh thắng bàn này sẽ thua bàn khác...
Hoan thầm nghĩ. Anh chào gã, ra về. Tới nhà, anh lao vào buồng ngủ một giấc tới tận ba giờ chiều mới phóng xe ra tắm biển. Khi trở lại, Căng đã đứng trước quầy thu tiền tán gẫu với chị Châu.
- Tôi chờ anh đã ba mươi lăm phút.
- Xin lỗi, tôi tưởng anh tới muộn hơn.
- Anh chưa ăn bữa chiều ngoài bãi biển đấy chứ?
Căng hỏi, nháy mắt một cách bợm bãi:
- Nghe nói ngoài bãi biển có món tôm tươi luộc ngon lắm?
Hoan không đáp. Hai bà chị anh đang đứng ở đó. Những người đàn bà của thời cũ không bao giờ dám nghĩ đến loại chuyện suồng sã như vậy. Hoan đi thẳng vào nhà tắm cất quần áo, thay bộ đồ mới rồi quay ra.
- Nào đi...
Anh quay lại dặn:
- Tối nay em không ăn cơm nhà.
Họ cùng lên xe, nổ máy phóng đi. Hoan hỏi:
- Ði đâu?
- Ðến tiệm ăn Tàu.
- Tiệm nào?
- Cao lâu đường Trần-Phú.
Ngừng lại vài giây, Căng nói tiếp:
- Trước khi tìm thú thanh lâu nên ăn món ăn của người Tàu. Ấy là bài học dân Chợ Lớn thứ thiệt đã dạy tôi.
Khi họ dựng xe, vào quán ăn, Căng lại bảo:
- Anh trả tiền chầu ăn. Tôi trả tiền chơi. Như thế công bằng.
Hoan đáp:
- Tôi sẽ trả cả hai chầu, yên tâm.
Căng cười hơ hớ:
- Hôm nay tôi gặp may.
Lúc hai người ngồi xuống bàn ăn, anh ta nói thêm:
- Nhưng kẻ may mắn không chỉ là riêng tôi... Rồi anh sẽ thấy...
Ðoạn quay vào phía trong, anh ta lớn tiếng gọi:
- Cho thực đơn ra đây...
Ðám người hầu bàn Dạ ran trong bếp. Tiếng dạ đặc biệt chỉ có ở các quán ăn Tàu, nó vừa như thứ tín hiệu đáp lời vừa như giọng nhại phía sau cánh gà sân khấu, thuần có ý nghĩa hình thức. Bởi năm sáu tiếng Dạ cùng nhất loạt cất lên nhưng phải chờ hai mươi phút sau mới có một gã trai cao lêu đêu chạy tới. Gã chìa cuốn thực đơn dày cộp, nói:
- Dạ, hai ông kêu trước đồ uống gì?
- Rượu, rượu bổ... Cho loại thượng thặng ấy...
- Dạ...
Gã cò hương quay lưng chạy đi và chừng mươi phút sau gã trở lại với chiếc khay nhỏ bày chai rượu thuốc, hai chiếc ly thủy tinh với vài đĩa đồ nhắm chơi cho vui miệng. Ðặt khay rượu lên bàn, gã lại rút cuốn thực đơn ra, cất tiếng:
- Giờ, xin hai ông gọi món chính.
Căng đặt món chim hầm bát bảo và cá hấp thịt lợn nấm hương. Anh ta gọi cho Hoan bát súp bào ngư với tô gà tần cung đình, loại già đen nhỏ chỉ độ ba bốn lạng tần với các vị thuốc bổ nhằm bồi dưỡng tinh lực vua chúa hoặc các hoàng thân đế thích xưa ưa dùng. Khi gã bồi chạy đi, Căng hỏi:
- Anh biết thứ rượu: Thang vua Minh Mạng này chưa?
- Chưa.
- Ðó là thứ rượu được sáng chế thời Minh Mạng. Vua dùng thứ rượu này và có tới một trăm mười tám người con. Nó nổi tiếng đến nỗi trong xứ ngoài xứ đều biết và được đặt tên là: Nhất dạ lục giao sinh ngũ tử.
Hoan có biết chút tiếng Hán Việt nên anh kinh ngạc hỏi lại:
- Nghĩa là một đêm gặp sáu người đàn bà và thụ thai năm đứa con? Anh không nghe nhầm đấy chứ?
- Nhầm thế quái nào được? Tôi chẳng biết tí tiếng Hán nào nên kẻ cho tôi uống thứ rượu này lần đầu đã phải giảng tường tận cái tên đó... Và chẳng giấu gì anh, tôi cũng đã thử khá nhiều lần. Nào, ta thử đi... Rồi đêm nay anh sẽ thấy...
Gã cất tiếng cười rất lớn, đầy tự tin trước khi mở nút rót. Hoan nhìn chất nước màu mận chín trong chiếc ly thủy tinh, vừa nghi hoặc vừa háo hức. Anh thấy mình như thằng bé con bị dẫn dụ bởi một tên ma cô hay một gã cò mồi:
Chẳng sao hết, cuối cùng thì tất cả mọi người đều phải trả giá cho sự hiểu biết, cũng như ta...
Anh tự an ủi và dốc cạn ly rượu đầu tiên. Sau ly rượu đó, anh tự rót tiếp ly thứ hai, thứ ba, tự thấy phấn chấn, nói nhiều hơn, cười to hơn, và khi kín đáo liếc mình trong tấm gương ám khói treo tường anh kinh ngạc thấy một gã đàn ông khác, khác hoàn toàn cái tôi của mọi ngày, gã nhìn anh với cái nhìn đầy khiêu khích. Không hiểu thứ rượu thần kỳ kia hay những món ăn cung đình khiến anh rơi vào trạng thái hưng phấn lạ lùng ấy. Rồi, trong cái quán ăn ngào ngạt mùi xào nấu, ngột ngạt khói thuốc, ầm ĩ tiếng người bỗng vang lên một khúc hát anh yêu thích và anh vô tình khe khẽ hát theo:
Ta đã từng rơi vào bẫy sau những chén rượu đỏ ở nhà mụ Kim Lan. Bây giờ, ta sẽ tự tìm đến một cái bẫy khác sau những ly rượu màu mận chín, những ly rượu thuốc của ông vua cường dâm. Ngày xưa, ta là thằng bé con lớ ngớ. Giờ, ta là gã đàn ông đói dục tình. Ta có quyền làm mọi điều ta ưa thích...
Ý nghĩ ấy vang lên trong anh như một câu hát, vui vẻ, sỗ sàng, cợt nhả. Một thứ màu sắc anh chưa từng thấy trong đời, sẽ làm quen với một cuộc đời khác hay với hương vị khác của cuộc đời? Thây kệ...
Căng nhìn anh với cặp mắt ranh mãnh. Mặt gã đỏ phừng phừng.
- Ði chưa?
- Ði.
Hoan vẫy hầu bàn, thanh toán tiền rồi họ rời quán ăn. Hai người lên xe phóng tới nhà Căng, cất xe máy ở đó thả bộ theo phố. Hoan không nhớ những dãy phố anh đã qua, bao nhiêu ngã tư và bao nhiêu lần rẽ. Anh đi theo Căng, chẳng nghĩ ngợi gì, miệng lẩm nhẩm hát những câu hát cũ và đôi lúc cười tủm một mình. Sau cùng, họ tới dãy phố nhỏ có nhiều cây bàng còi cọc. Căng bước tới một quầy thuốc lá lẻ:
- Có thuốc sẵn đấy chứ?
Sau quầy nhô lên một gương mặt đàn ông, một gương mặt đầy phè thịt và dù ánh đèn đường tù mù, cũng thấy lần xần những mụn. Gã bán thuốc há miệng cười:
- Lúc nào cũng có, nhưng phải sơ tán xa.
Căng gật:
- Cũng được.
Gã hỏi tiếp:
- Nhảy dù hay qua đêm?
Căng bảo:
- Qua đêm.
- Một mình ông hay cả hai?
- Cả hai.
- Ði riêng hay đi bè?
- Riêng.
- Tôi hiểu rồi.
- Giá cả ra sao?
- Như cũ.
- Ðược. Ði thôi.
- Khoan đã. Giờ này cá lạ đứng đường. Các ông phải chờ nửa giờ nữa tới phiên gác mới.
- Thì chờ. Lại ra quán cóc vậy.
- Phải. Thu Cúc vẫn ngồi chỗ cũ.
Căng kéo Hoan đi. Họ tiếp tục đi một đoạn nữa tới quãng tối, ngồi xuống vỉa hè uống nước chè bình dân. Ðó là thứ quán lưu động thường gọi là quán cóc. Cóc nhảy. Người bán quán cóc vác đồ đạc và xách ấm nước chè chạy từ xó này qua xó khác trước cây dùi cui của cảnh sát. Nhưng các quán cóc vẫn tồn tại nguyên xi. Khi là món tiền lót tay luồn vào túi nhà chấp pháp, khi là sự kiên nhẫn chờ đợi phút nản lòng của luật lệ, người ta lại đặt chiếc thúng tre lên vỉa hè, quăng vài ba chiếc ghế đòn cho khách xung quanh. Trên thúng đặt chiếc mẹt tre và trên mẹt là tất thảy hàng hóa có thể có: Dăm túi mực nướng, dăm túi kẹo lạc hay kẹo bột, dăm gói lạc rang, mấy chiếc chén cáu để uống chè và vài ba ly thủy tinh nội địa để uống rượu. Ấm chè ủ trong giỏ, còn chai rượu giấu dưới thúng. Lúc hai người bước tới, trên mẹt của chủ hàng thắp cây đèn dầu. Người đàn bà bán hàng có gương mặt tăm tối ngồi như tượng phía sau. Căng hỏi:
- Nước nguội ngắt rồi chứ?
Người đàn bà không trả lời. Căng kéo Hoan ngồi xuống:
- Anh cao to ngồi thứ ghế đòn này hơi khó chịu... Nhưng phải chấp nhận thôi... Anh đã khát chưa?
- Chưa.
Căng quay lại bảo người bán hàng:
- Chúng tôi không uống nước... Này cầm tiền cho thuê chỗ ngồi.
Ðoạn dúi vào tay chị ta tờ bạc. Thiếu phụ trạc ngoài bốn mươi cầm tờ bạc đút vào túi áo với vẻ thờ ơ, như chẳng thèm để tâm tới. Mặc dù gương mặt u ám, chị ta có một vẻ kiêu kỳ lạnh lẽo kín đáo và huyền hoặc. Tấm khăn chị trùm đầu in hoa rất rực rỡ, cũng rực rỡ như tấm áo chị đang mặc. Anh hình dung dưới ánh mặt trời, hẳn những màu sắc đó sẽ hân hoan như tuổi trẻ và đẹp một vẻ đẹp chọn lựa.
Những người bán quán cóc thường tìm cách trò chuyện với khách và nói chung họ là những kẻ nhiều lời nhưng người đàn bà này lại câm lặng như pho tượng, vẻ dửng dưng của chị ta khiến Hoan kinh ngạc. Sau khi nhét tiền vào túi, chị ta rút một miếng mực nướng, xé từng sợi nhỏ bỏ vào miệng bộ dạng giống như đứa bé ăn quà. Thấy anh ngồi yên lặng, Căng rút thuốc mời:
- Anh có hiểu gì về thế giới của những người đàn bà ăn sương không?
- Không.
- Ðây là lần đầu anh đi thông cống?
- Phải.
- Vậy tôi giải thích đôi điều. Gái làng chơi ưa dùng tiếng lóng. Thứ tiếng đó nghe vui tai hơn tiếng của đám đông. Ví dụ, nếu anh chỉ ngủ với họ một lần người ta gọi là anh nhảy dù. Nếu thuê trọn đêm anh có thể làm tình một, hai, ba, bốn lần như lũ đàn ông động đực bình thường hoặc bảy, tám lần như đứa vua Minh Mạng, tám chín lần nếu anh còn đủ sức... Như thế gọi là đi tàu suốt...
Tới đó, người đàn bà bán hàng bỗng đập vào cánh tay Căng:
- Họ kêu ông kìa.
Cử chỉ của chị ta có một vẻ thân tình và sỗ sàng rất bất ngờ.
Hoan kinh ngạc nhưng Căng tỉnh bơ quay sang nhìn quầy bán thuốc lá lẻ đầu phố. Chiếc đèn dầu hỏa đặt trên tủ kính đang trượt đi trượt lại mấy lượt liền. Căng vụt đứng dậy:
- Ði thôi.
Trước khi đi, anh ta còn quay lại nhoẻn miệng cười với thiếu phụ:
- Sao tối nay dịu dàng nết na thế?
Người đàn bà không đáp, cúi xuống thu dọn ghế đòn bỏ vào thúng cùng những thứ hàng hóa khác rồi cắp thúng đi theo họ. Gã bán thuốc đang đi đi lại lại bồn chồn phía sau tủ:
- Cá quen đến rồi, các ông đi đi.
- Ai dẫn đường đêm nay? Căng hỏi.
Gã bán thuốc hất hàm chỉ người đàn bà bán quán cóc:
- Ðó.
Ðoạn gã bảo chị ta:
- Ngõ số ba, nhớ chưa Thu Cúc...
- Nhớ.
Chị ta cất lời, giọng trầm khàn như giọng đàn ông. Hoan lần nữa tò mò nhìn người thiếu phụ tàn úa có cái tên mỹ miều kia. Ánh đèn đường quá mờ nên anh không thể thấy gì hơn ngoài một gương mặt võ vàng dưới tấm khăn hoa sặc sỡ quấn kiểu dân Chàm. Người đàn bà đi trước, Căng dẫn Hoan theo sau. Họ vào một ngõ nhỏ, đi lòng vòng qua những ngôi nhà thấp bé, vá víu, kiến trúc nửa quê nửa tỉnh bằng tất thảy những thứ phế liệu nhặt nhạnh được. Những căn nhà lồng ghép, chồng chất chằng chịt tựa cuộc đời đám dân tứ xứ tụ bạ về đây sau chiến tranh, chúng giống đám ốc bươu con nọ bám lưng con kia, cụm này kề cụm khác... Chỉ mới vài năm sao cuộc sống nơi đây đã kịp sinh sôi nẩy nở và cũ kỹ đi nhanh làm vậy. Hai người chui qua những hàng dây thép phơi quần áo, vượt qua những mảnh sân méo mó dị hình, bước qua các đống rác tú hụ chưa kịp hốt và sau rốt leo lên một cây cầu thang ghép bởi những mảnh ván cốp-pha chưa kịp bào nhẵn xấu xí thô lậu. Hoan chưa đặt chân tới khu vực này lần nào, thậm chí anh cũng không tưởng tượng có một khu dân cư tăm tối thế trong thành phố quê hương anh. Trước chiến tranh, khu nhà này chưa hề có. Ðây là đám bèo dạt sau những năm tháng đạn bom. Hoan bảo Căng:
- Nói chị ta đi chậm chậm một chút...
Anh không muốn nói thêm rằng anh chưa quen đi trong những lối lắt lẻo, bẩn thỉu và dưới thứ ánh sáng nhập nhoạng này. Căng gọi với lên:
- Thu Cúc, đợi với...
Nhưng người đàn bà vẫn bước vùn vụt, như không nghe thấy hoặc giả bộ không nghe thấy. Căng buộc phải đuổi theo chị ta. Và Hoan buộc phải đuổi theo gã. Vì to lớn kềnh càng nên anh thật khổ sở mới theo kịp hai kẻ đi trước. Sau cùng, họ dừng lại trước một cánh cửa lớn, gỗ sơn nâu. Người đàn bà đập thình thình vào cánh cửa đoạn kéo sợi dây chuông. Tiếng leng keng rất nhỏ vang lên phía sau bức tường. Cửa mở hé. Người đàn bà dẫn đường quay ngoắt đi và nhanh như mèo chị ta biến mất. Khuôn cửa hé mở ló ra màu đỏ của một tấm màn, một thứ ánh sáng vàng vọt dơ dáy chiếu xuống. Khung cảnh khiến Hoan bất giác chùn chân lại. Chừng như đoán được sự ngại ngần của Hoan, Căng túm cánh tay anh lôi đi theo:
- Nhảy xuống nước đi, như lần đầu tập bơi vậy... Anh không còn ở tuổi ấu nhi...
Hai người bước vào khoảng không gian vàng khè hình chữ nhật. Tấm màn đỏ giăng trước mặt họ từ bức tường bên trái qua bức tường bên phải. Chính giữa treo một bóng đèn ám khói, không chao. Không để Hoan có thời giờ suy nghĩ, Căng hỏi:
- Sau tấm màn kia là hai gian buồng đi khách. Anh lấy gian bên trái hay bên phải?
Hoan đưa mắt nhìn tấm màn đỏ lem luốt những vết son phấn, vết dầu mỡ vết nhọ nồi và hàng đám những vết bẩn khác không thể đoán được lai lịch. Căng không đợi anh trả lời, nói tiếp:
- Sau tấm màn đỏ này căn phòng ngăn làm đôi, chúng ta sẽ được hưởng cái thú nghe lẫn nhau, coi như ăn một món hai lần. Tôi chọn cho anh gian buồng bên phải. Với người tập sự, hướng đó thuận tiện hơn.
Nói rồi Căng dắt tay Hoan tới bức tường bên phải, vén tấm màn đỏ đẩy anh vào trong và quay lưng đi ngay. Hoan nghe tiếng chân gã bước sang gian buồng bên kia và giọng nhẹ nhàng của một người đàn bà cất lên:
- Lâu lắm mới thấy mặt anh...
Tới đó, hai bàn tay của một người đàn bà khác từ phía sau lưng Hoan vươn qua vai anh, lướt trên cổ trên cằm xiên qua hai má và dừng lại mơn trớn nơi trái tai anh:
- Lần đầu hả anh?
Giọng người đàn bà này trầm hơn người ở buồng bên kia. Hoan không đáp. Anh không biết mình nên trả lời ra sao. Anh đứng im như tượng. Hai bàn tay đó tiếp tục ve vuốt, những chiếc móng khẽ cào qua vành tai anh, hai ngón út từ từ ngoáy vào lỗ tai anh và giọng chị ta lại cất lên, lần này rõ rành hơn, mơn trớn hơn:
- Ðừng sợ... Ðừng sợ...
Hoan rùng mình. Da thịt đàn bà đang áp sát vào lưng anh, hơi nóng xuyên qua lớp vải truyền sang da thịt anh, bắt đầu từ hai mông lan dần lên lưng tỏa xuống cặp đùi. Nhưng anh vẫn đứng im lặng. Anh vốn có thói quen im lặng khi ở những hoàn cảnh phức tạp hoặc vào những lúc anh chưa tự chế ngự được cảm xúc lẫn tinh thần. Anh ngửi thấy mùi thuốc sát trùng của bệnh viện, dù thứ mùi đó đã trộn cùng mùi son phấn, mùi xà-phòng tắm và nhiều thứ mùi không rõ rệt. Hoan không hiểu vì sao nơi gái ăn sương kiếm sống lại có mùi thuốc khử trùng, và nỗi băn khoăn đó lởn vởn trong óc.
- Anh lại giường đi chớ? Sao đứng mãi như trời trồng? Giọng người đàn bà phía sau lưng lại cất lên và lần này làn hơi ấm phả qua mang tai Hoan. Hoan không biết anh sẽ đáp lời hoặc sẽ im lặng quay lại kéo cô ta xuống chiếc giường phủ tấm vải hoa tối màu kê cách anh vừa một sải chân. Những chiếc móng tay nhọn của người đàn bà rút từ vành tai anh xuống, nhè nhẹ kéo tấm áo sơ-mi gài trong lưng quần anh rồi chúng thò vào trong, lướt dọc theo sống lưng. Một cảm giác lạ lùng khiến anh sờ sững. Những chiếc móng tay kia chẳng dính líu gì đến anh, chúng chẳng là tài sản của anh, chẳng thể so sánh chúng với da thịt, hay môi mắt người đàn bà anh yêu, nhưng chúng gợi nên một thứ êm dịu anh chưa từng thụ hưởng. Cảm xúc này giống như thứ gió lạ, không phải gió quen thuộc hằng luân chuyển giữa trời cao, trên biển bờ đồng bãi núi đồi, mà là thứ gió âm u của hang động không rõ xuất xứ không dè lành độc nhưng nó du con người vào triền sóng khoái lạc, mơn trớn thân xác họ và khiến họ biết tự chiêm ngưỡng sự tồn sinh của bản thân. Hoan không còn nghĩ gì được nữa, hai mi mắt anh từ từ khép lại như để cảm nhận một cách thấm thía hơn cơn xúc cảm ngọt ngào kia. Lúc đó, người đàn bà lật hẳn tấm sơ-mi của anh lên, áp mặt chị ta vào lưng anh trong vài giây như để anh đủ thời gian nhận biết cử chỉ ấy, rồi trong lúc anh đang còn sững sờ chiếc lưỡi mềm mại của chị ta bắt đầu lướt dọc hai thớ lưng anh...
Người đàn ông dường như không thở nữa. Toàn thân anh tê liệt để cho mọi khả năng cảm nhận dồn vào thần kinh xúc giác trên đám da lưng... Mèo.... Cỏ nhung... Ðám lông tơ trên má Miên... Cặp môi thành thục của người đàn bà góa Xóm Hà... Lông bồ công anh.... Những giọt mưa ấm nóng nhỏ trên mi mắt anh một ngày đầu hạ... Trí não anh lướt qua tất thảy những ảnh hình, những kỷ niệm và da thịt anh cháy lên cơn sốt. Anh thấy máu chảy cuồn cuộn trong huyết mạch như những con sông mùa lũ, dường như chúng sắp sửa phá vỡ các thành mạch hoặc sắp sôi như nước đun trên bếp lửa và chỉ một vài tích tắc nữa anh sẽ điên, anh sẽ nổ tung thành trăm ngàn mảnh vụn nếu nguồn sinh lực sôi sục kia không được giải phóng. Mắt anh chợt tối sầm hung hãn và anh nghĩ anh có thể làm tình... Không, anh có thể hãm hiếp một trăm một ngàn một vạn người đàn bà trong đêm nay. Ðột ngột, anh xoay lưng túm lấy người đàn bà đứng phía sau, nhấc bổng cô ta đặt lên chiếc giường phủ vải hoa lúc này anh đã thấy nó ngả sang màu đen thẫm...
Hoan không nhớ anh đã làm gì, đã nói gì trong đêm ấy. Nhưng anh biết chắc anh đã làm tình như một cỗ máy chứ không như kẻ điên rồ. Như máy cày, máy cuốc, máy gặt đập liên hợp hoặc máy nện búa trên các công trình xây dựng. Anh làm tình quần quật như thằng tù khổ sai làm công dưới cây roi của bọn cai ngục, không một phút chợp mắt, giữa hai cuộc làm tình chỉ mò mẫm hút một điếu thuốc trong bóng tối. Người đàn bà chưa biết tên chưa biết mặt trần truồng hổn hển trên giường, không còn thời giờ quấn tấm khăn ngang bụng dưới chị ta gập nó làm tư như thứ tã cho trẻ sơ sinh để hứng tất thảy những gì anh phóng xả ra...
Vào lúc sáu giờ mười lăm phút còi báo thức thành phố rúc lên. Hoan nhỏm dậy mặc quần áo bước tới trước khuôn cửa sổ. Biển dâng đầy trước mắt anh.
Mặt trời vừa chạm mép nước nhưng phương đông bừng lên một sắc hường hân hoan tươi rói. Những cánh buồm nhuộm ánh dương quang và lũ hải âu chập chờn trên ngọn sóng. Biển của ngày thường. Nhưng gió rười rượi thổi vào mặt anh khiến anh thấy được hồi sinh. Ðầu óc anh nhẹ bổng, trong suốt như mây đen vẩn tụ đã tan, như miệng cống dơ bẩn của thành phố rút hết nước tù và cơn mưa ân sủng đầu mùa mưa đã cuốn trôi tất thảy bụi bặm rác rưởi phố phường. Anh đưa tay gãi đầu, hít thở không khí ban mai nhớ lại những buổi sáng khoan khoái anh đã từng sống nơi Xóm Núi, những buổi sáng trong lành mát rượi anh bước dưới những rặng tiêu hay những rặng cà-phê ướt đẫm sương trí óc minh mẫn và tâm hồn lâng lâng như cánh diều lượn gió...
Tại sao ta lại hồi nhớ thời kỳ sung sướng ấy? Nó đã trở thành quá khứ, như nấm mồ chỉ còn để ngó nghiêng vào tiết Thanh Minh...
Anh nghĩ vậy, nỗi buồn rầu bất chợt ập đến. Anh tự xua đuổi cơn hồi nhớ vì anh cảm thấy mình xúc phạm đến Miên. Rồi anh quay lại nhìn người đàn bà trên giường. Chị ta úp mặt xuống mài miệt ngủ, nước dãi chảy thành vệt trên tấm gối ố vàng. Mái tóc uốn xác xơ phủ gần kín gương mặt gầy và nhỏ. Một chiếc gáy rất mảnh, xương vai gồ lên dưới lần vải áo:
Cô ta gầy gò quá... Làm sao cô ta có thể chịu được cái nghề này hết ngày qua tháng? Gương mặt trông tội nghiệp...
Anh bước tới gần để nhìn cho rõ hơn gương mặt người đàn bà đã cùng anh qua đêm... Bất đồ có tiếng: Xoảng... Hoan nhận ra mũi giầy anh đá vào chiếc thau nhôm dưới gầm giường và một thứ nước bắn tóe ra sàn. Nước tiểu chăng? Anh giật mình nhìn kỹ lại lần nữa. Lần này, mùi khai bốc lên xác nhận:
- Khiếp, anh phá mất giấc ngủ của em.
Người đàn bà lên tiếng. Ngồi nhỏm dậy, chị ta ngáp liên tục một tràng dài dù mắt vẫn nhắm nghiền:
- Quên không dặn anh, đi lại phải kiêng dè kẻo tông vào chậu đái.
Cái miệng tô son thẫm lại há ra ngáp không buồn che đậy. Hoan khẽ rùng mình. Thương hay ghê sợ? Anh không biết. Xương quai xanh người đàn bà hiện lên rõ mồn một vì chiếc áo rộng cổ trụt xuống, nhìn rõ đôi núm vú trên bộ ngực gần như phẳng dẹt. Hai núm thịt thâm sì mọc những sợi lông quăn queo. Anh không hình dung đàn bà có thể mọc những sợi lông dài như thế nơi núm vú. Cô điếm đã mở được đôi mắt ngái ngủ ra, vừa nhìn anh vừa nhoẻn miệng cười:
- Anh ngồi xuống đi...
Ðôi mắt tô vẽ quá vụng dại trên gương mặt mỏng không lưỡng quyền, chiếc cằm nhọn nhỏ xíu như cằm con nít và đôi trái tai lép như gần dính vào mang tai. Hoan ngồi xuống, nhìn những nếp nhăn nhỏ nơi đuôi mắt loang lổ phấn:
- Chị... Cô làm nghề này lâu chưa?
- Ba năm... Ba năm đi khách bằng mười ba năm đời thường đấy. Nghề này tổn thọ lắm.
Nói xong cô ngáp thêm cái nữa rồi quài tay ra sau lưng đấm:
- Ðêm nào cũng gặp khách hung như anh chắc ba năm nữa là vào cửa mả...
Hoan chợt thấy xót lòng, anh nói:
- Tôi... tôi xin lỗi...
Người đàn bà cưới, lúc lắc mái tóc rồi tung mảnh chăn đắp bụng xuống giường quơ chân tìm đôi dép, đoạn kéo chiếc thau nhôm ra chị ta tụt quần đái re re trước mặt Hoan. Gần như kinh hoảng, Hoan vụt đứng lên nhưng rồi tự trấn tĩnh anh lại ngồi xuống chiếc giường bề bộn bẩn thỉu đôi gối quay ngược quay xuôi, hai mảnh chăn đơn vương vãi và nơi góc cuộn thù lù tấm khăn bông lớn mà anh biết rõ người đàn bà đã dùng hứng tất thảy những gì anh tống tháo ra...
Phải, cơ man đàn ông đã qua đây và cô ta cư xử như thế cũng là phải. Ở thân phận cô ta, khó giữ được phép lịch sự tối thiểu của con người...
Hoan nghĩ. Nhưng tiếng nước tiểu chảy re re xuống chiếc thau nhôm vẫn làm anh kinh tởm và anh không khỏi sợ hãi khi nghĩ tới lúc rời khỏi gian nhà này, gặp đám khách hoặc bạn buôn quen rồi trở về nhà nhìn mặt những người thân. Có thể ánh sáng ban ngày sẽ rọi vào từng chân lông kẽ tóc trên thân thể anh và tố cáo sự thật...
- Sao, mãn nguyện rồi chứ?
Căng đã đến sau lưng Hoan lúc nào chẳng rõ, đặt tay lên vai anh. Hoan đứng lên:
- Tôi phải trả bao nhiêu tiền đây?
Anh ta lắc đầu:
- Không phải trả ở đây mà là cho ông chủ. Chính lão bán thuốc lá chúng ta gặp khi đêm... Nhưng anh có thể cho thêm bạn tình chút đỉnh, thứ tiền thiên hạ vẫn gọi là "Món lót dạ trên giường."
Người đàn bà đã tiểu xong đứng hong hóng nhìn anh như con chó chờ chủ gọi ăn, đôi môi chun lại trên gương mặt võ vàng. Căng ghé tai anh, bảo:
- Hai tờ bạc lẻ thôi đấy, không hơn.
Hoan ậm ừ. Lúc đó, một cơn gió mạnh thốc vào khiến mùi nước đái bốc lên khai sặc. Hoan đưa mắt nhìn gian buồng, nhớ là đêm qua chính anh cũng đã tiểu tiện vài lần vào xó xỉnh nào đó. Giờ, anh đã phát hiện ra cái góc cỏn con phía sau chiếc chum đựng nước đêm qua người đàn bà ăn sương đưa anh tới. Chiếc chum sành lớn kê nơi góc phòng, dưới chân là một lỗ khoét thông ra ống cống phía sau. Trên miệng chum bập bềnh một chiếc gáo nhựa trắng, một tấm khăn bông nhớt nhát vắt bên. Bức tường vôi loang lổ, những vệt nước ngấm mọc thứ rêu quầng màu xanh xám xen các đám mốc trắng. Hẳn buồng bên kia cũng bần hàn trụy lạc như bên này, cũng một chum đựng nước nơi góc phòng với tấm khăn nhớt nhát và chiếc gáo nhựa cáu ghét, cũng ống cống thoát nước tiểu ngay dưới góc tường đêm đêm khách làng chơi xối tung tóe xung quanh...
Hoan thấy như cảnh buồn nôn này làm mặt anh nhem nhuốc. Anh kín đáo dúi mấy bạc lớn vào tay cô điếm rồi bảo Căng:
- Ta đi thôi...
Khi họ đã ra tới cửa, người đàn bà ăn sương còn nhào theo:
- Cảm ơn anh... Anh còn trở lại đây nữa chớ?
Hoan không đáp. Nhìn vẻ mặt nhớn nhác của người đàn bà anh đoán chắc rằng món tiền Lót dạ trên giường anh cho quá lớn so với lệ thường. Dường như Căng cũng đoán được điều đó. Gã quay lại bảo cô ta:
- Ðược rồi... Sẽ quay lại...
Nhưng khi hai người xuống cầu thang, gã nghiêm mặt nói với anh:
- Ðừng hào phóng rởm... Hang ổ nào cũng có luật chơi của nó.
Hoan không trả lời.
Khi họ ra khỏi ngõ, anh nói:
- Tôi có việc sáng nay.
- Tôi cũng vậy.
Căng đáp tức khắc. Rồi cả hai cắm đầu vùn vụt đi. Sau cùng, họ trở lại chiếc tủ kính bày hàng chồng thuốc lá. Gã chủ đang chờ. Vẫn bộ mặt to quá cỡ, sần sùi, các thớ thịt húc chọi nhau trên lăm cổ vậm vạp như cổ trâu mộng, vẫn đôi mắt hum húp vừa rình mò vừa hờ hững:
- Sao các ông ra muộn vậy?
Căng bảo:
- Mệt. Không bò dậy nổi.
Bộ mặt to phè kia lạnh như kem:
- Trả thêm mười lăm phần trăm phí tổn.
Căng kêu:
- Cái gì?
Hắn bảo:
- Ðúng luật chơi khách phải rời buồng trước còi báo thức thành phố. Giờ ấy cá đổi phiên và chúng tôi chuẩn bị sơ tán cho đám gái đi nghề. Qua giờ ấy khách phải trả thêm phí tổn rủi ro.
- Thôi được.
Căng làu nhàu nhẩm tính tiền đoạn bảo Hoan trả cho gã sáu tờ bạc lớn. Rồi họ xây lưng đi luôn không chào hỏi không ném ánh mắt lại. Gã chủ lầu xanh cũng nhìn họ với cặp mắt trống rỗng dửng dưng.
Hai người trở lại nhà Căng tắm rồi tới quán cà-phê ăn sáng.
Hoan hỏi:
- Anh có cảm giác gì khi rời khỏi nơi đó?
- Chạy càng nhanh càng tốt, tránh mặt được càng nhiều người càng hay. Lơ mơ chạm trán dân làm ăn thì hỏng chuyện.
- Chẳng lẽ bọn họ không ai lui tới đây?
- Có. Nhưng bố thằng nào dám thú nhận.
Hoan bảo:
- Người ta có gia thất đàng hoàng, ít ai đơn lẻ khổ sở như anh với tôi.
Căng cười hơ hớ:
- Chẳng đơn lẻ họ cũng thích nếm mùi vị mới. Hoặc giả vợ họ đã tới tuổi tắt kinh quanh năm tấp tểnh lễ chùa chẳng còn ham chuyện gối chăn nên họ phải mò mẫm tìm nơi giải thoát... Nhưng vì cớ gì, họ cũng sẽ tránh mặt người đời... Như bọn chúng ta đây...
- Con người giả dối thật.
- Ờ nghề buôn của chúng ta giả dối nhất hạng... Ðời đẹp là nhờ sự giả dối...
- Anh nghĩ thế à? Sao cũng có lúc anh thành thật với tôi?
- A... Anh muốn ám chỉ chuyện chơi gái? Phải, chuyện ấy tôi thành thực, thành thực trăm phần trăm. Anh là người tôi cũng là người, chúng ta đều có nhu cầu đại tiểu tiện. Vì thế khi cấp bách ta có thể rủ nhau vào một chuồng xí công cộng để tháo đống bã thải và sau đó quàng chân lên cổ mà chạy... Tôi đố anh đứng lâu trong một cái nhà xí công cộng bẩn thỉu như nhà xí của thành phố này.
- Vậy ra anh chẳng có chút tình cảm nào với người đàn bà đêm qua chia sẻ giường chiếu với anh? Tôi nghĩ hai người quen nhau đã lâu.
- Phải, ngót nghét hai năm... Nhưng tôi không có thừa tình cảm cho bọn đàn bà nằm ngửa lấy tiền...
Căng vừa đáp vừa nhìn xoáy vào mặt Hoan với vẻ tò mò riễu cợt không giấu giếm:
Mày vờ đấy chứ? Gã lái buôn thành đạt nhất sáu tỉnh miền Trung, bọn có sỏi đầu ở Ðà Nẵng, Sài Gòn cũng phải gờm mặt... Không lẽ mày ngờ nghệch như vậy?
Hoan đọc thấu những ý nghĩ của gã nên đứng dậy trả tiền chủ quán:
- Tôi phải đi.
Căng gật đầu:
- Tôi cũng vậy...
Họ chia tay. Hoan trở về nhà tắm gội lại lần nữa rồi phóng xe ra bờ biển. Anh ngồi ở đó rất lâu, nhẹ nhàng và trống rỗng, chẳng nghĩ ngợi gì chỉ lắng nghe tiếng sóng ban mai nhìn thủy triều khoác tấm áo lam lộng lẫy dưới ánh trời. Trước mắt anh một con dã tràng loe ngoe khua những chiếc còng gày guộc. Bất chợt anh buông tiếng thở dài vì nhớ tới người đàn bà ăn sương gày nhom đôi mắt tô vẽ như mắt chó giấy:
Dẫu sao ta cũng phải cảm ơn con người khốn khổ ấy... Dẫu sao ta cũng đã mắc nợ cô ta...
Mặc dù Căng bảo rằng đây là việc ăn bánh trả tiền, mặc dù anh đã cho cô ta món Lót dạ trên giường đặc biệt nhưng nỗi xót xa cho kiếp người vẫn ám ảnh. Anh nhớ tới khuôn ngực lép kẹp của người đàn bà, cặp vú dị hình và gương mặt nhem nhuốc phấn.
Tội nghiệp, liệu khi lau hết son phấn, gương mặt ấy sẽ ra sao?
Chương 18
Người thành phố thường dậy muộn hơn dân quê. Nhưng dòng đời phố xá bốc lên nhanh như đám cháy được tưới dầu. Khoảng sáu giờ rưỡi sáng các gian hàng còn khóa chặt, chỉ các cửa ra vào lười lĩnh hé nửa cánh cho mấy người giúp việc ra quét vỉa hè hoặc để mấy bà chủ đầu còn ghim đầy những lọn cuốn tóc vừa bước ra vừa che miệng ngáp áo quần nhàu nhỉnh hớ hênh tìm gọi người bán bánh cuốn rong hoặc sôi nóng hoặc bánh mì pa-tê loại bình dân cho bữa sáng của chồng con. Tới 7 giờ, tất tật các gian hàng đã mở, sáng choang, hàng hóa bầy đâu vào đấy người chạy ra chạy vào nườm nượp. Không gian đầy màu sắc, đầy âm thanh, và cũng bắt đầu bốc bụi. Giữa dòng đời náo nhiệt ấy, Hoan sống lãng đãng như kẻ mộng du. Anh chẳng thức khuya cũng không dạy sớm. Thường bảy rưỡi sáng anh mới mở mắt nhưng còn nằm dài trên giường khoảng ngót một tiếng sau mới ra khỏi phòng. Giờ ấy, chị Nền đã nấu sẵn nồi nước lá thơm cho anh tắm. Mặc dù thời hiện đại, dân thành phố dùng đủ loại xà-phòng và sữa tắm ngoại nhập nhưng anh vẫn tắm nước lá cổ truyền. Ðúng thứ nước lá thơm mẹ anh vẫn tắm cho anh hồi nhỏ. Lá chanh, lá bưởi, hương nhu, cúc tần, lá sả... mùa nào thức ấy.
Tuyệt diệu nhất vẫn là những ngày cuối đông hoặc sau Tết nguyên đán, lúc đó các cây mùi đã già, lụi hoa, kết hạt đem chúng lên nấu trong những thùng nước lớn, hương thơm xông ngào ngạt, thứ hương nửa đồng nội nửa phòng the vừa gợi cho con người sự tinh thiết vừa buộc người ta tơ tưởng đến những khuôn ngực để trần.
Sớm hôm đó, Hoan vừa ra khỏi phòng tắm chị Nền đã đứng chờ anh:
- Cậu ăn sáng gì để tôi mua?
- Em chẳng ăn gì cả.
- Thế cậu dùng một tách cà-phê nhé... Cà-phê nhà không được thơm để tôi gọi quán Nhân đem sang.
- Chị đừng lo, em chẳng uống cà-phê đâu, mà em cũng chẳng đói.
- Cậu nói lạ, người đang xuân thì, không ăn sáng lấy sức đâu làm việc?
Hoan nhìn ánh mắt hoảng hốt của người đàn bà vừa như chị vừa như mẹ vừa như đầy tớ trung thành, đành nhượng bộ:
- Thế chị mua cho em gói xôi đậu xanh vậy.
Chị Nền yên tâm quay đi. Hoan ngồi pha ấm trà uống. Từ sáng hôm qua anh yêu cầu chị không làm món trứng nhúng nước sôi với lý do ăn trứng nhiều không tiêu được. Thực đơn thường ngày hai bà chị dành cho anh là ba quả trứng gà la-coóc ngày xưa ông giáo ưa thích sau đó cộng thêm một khoanh bánh mì hoặc một nắm xôi và tách cà-phê. Họ chẳng biết thứ thực phẩm đó làm đêm đêm anh khốn khổ. Vợ anh đã trở thành vợ kẻ khác. Người đàn bà góa Xóm Hà đã ngủ yên trong quá vãng và cơn đói dục tình không nguôi dịu khiến đêm đêm anh như kẻ ra đấu trường tỉ thí một mình.
- Xôi còn nóng đây, cậu ăn ngay đi.
- Em xin.
- Có ăn đường tôi mang thẩu đường lại.
- Cho em chút xíu.
- Sáng nay cô Kim Liên tới đây với đứa con gái.
- Cô ta vác xác tới đây làm gì?
- Cô ta đến lấy tiền... Cậu quên rằng tháng tháng mình vẫn phải góp tiền nuôi đứa bé ấy theo quy định của tòa án?
- Chết thật...
Hoan thốt kêu. Anh quên thật. Quên hoàn toàn bởi lâu nay chị Châu và chị Nền đã thay anh làm phận sự đó, cái phận sự hết sức phi lý mà người đời đã đặt lên vai anh. Món tiền chẳng là bao song lẽ nó là thứ nguyệt liễm bắt buộc anh phải đối mặt với quá khứ, cái quá khứ dù có muốn quên cũng không đủ sự dung thứ để lãng quên.
Sau đám cưới tai tiếng cô Kim Liên vẫn nghiễm nhiên xách áo quần về nhà ông bà giáo Huy, còn anh xách áo quần sang trú ngụ ở thôn Bảo, trong căn chòi cất rớ. Sáu tháng sau cô Kim Liên cho ra đời một đứa bé gái da nâu tóc quăn tít, chắc chắn nó phải thừa hưởng máu huyết của người đàn ông nào khác chứ không thuộc dòng giống của ông giáo Huy. Phố xá đến xem mặt đứa trẻ, nườm nượp như để minh chứng cho nỗi oan uổng của Hoan nhưng mọi người đều sợ uy ông phó chủ tịch thành phố và ngại cái mồm có quai của bà trưởng cửa hàng nên chỉ dám thì thào sau lưng họ. Bà Kim Lan tuyên bố:
- Cá nhà ai vào oi nhà ông giáo Huy vẫn là cá của ông giáo Huy.
Ông bà giáo nhẫn nhục chấp nhận. Ðứa bé được khai sinh với họ Trần. Và như để nhắc nhớ cuộc hôn phối ông phó chủ tịch thành phố đích thân đặt tên cho cháu ngoại: Trần Nguyễn Kim Loan. Họ tổ chức lễ thôi nôi cho đứa trẻ to hơn cả cỗ cưới của mọi gia đình khác... Nhưng tất thảy những sự kiện đó diễn ra như màn độc thoại. Bởi Hoan không về. Anh nằm lì trên chòi cất rớ làng Bảo. Hoặc đọc sách hoặc cất rớ và đêm đêm chờ cây cầu thang rung chuyển. Ông phó chủ tịch ngậm đắng nuốt cay im lặng. Ông thương con lẻ loi và chờ cơ hội. Vào thời kì đầu cuộc chiến, khi xảy ra vài cuộc thăm dò của phi cơ Mỹ và dăm trận khiêu khích vùng giới tuyến dân thành phố lẫn các huyện đã phải học tài liệu về âm mưu địch, về những nguy cơ chiến tranh, tầm quan trọng của tinh thần cảnh giác cách mạng... Một tối, Hoan đang nằm hóng gió trên chòi, có tiếng quát:
- Ai trên chòi, yêu cầu xuống ngay.
Anh chưa hiểu chuyện gì nhưng cũng thong thả tụt xuống. Dưới chân chòi lố nhố một đám người nai nịt sống ống.
Hoan vừa đặt chân xuống mặt đất, có tiếng quát tức thời:
- Anh là ai?
Cái giọng hách dịch lố lăng khiến Hoan bực. Anh đáp:
- Tôi là tôi.
- Không được hỗn láo với chính quyền. Họ tên là gì?
- Trần Quý Hoan.
- Hộ khẩu đâu, xuất trình?
- Hộ khẩu ở số nhà 17 phố Phạm ngũ Lão.
- Người ở đâu hộ khẩu phải ở đấy. Cớ chi anh tới đây?
- Tới đây kéo rớ.
- Chúng tôi đã theo dõi anh nhiều ngày nay. Cá anh kéo chỉ đưa vào nhà ăn hoặc thả xuống sông, anh không làm nghề như những dân chài khác... Hãy khai thật động cơ tới làng Bảo này?
- Không có động cơ gì hết.
- Chúng tôi được lệnh bắt tất cả những kẻ khả nghi về trụ sở ủy ban giao nộp cho tỉnh đội điều tra. Anh là kẻ khả nghi. Anh đã bị bắt. Hoan chưa kịp có phản ứng gì. Thậm chí anh chưa hiểu vì đâu và vì lý do nào bỗng dưng anh gặp cơn cắc cớ này. Anh ngơ ngẩn hoang mang và chính ngay lúc ấy, cái giọng hách dịch kia đã hô to:
- Các đồng chí, trói nó lại đưa về trụ sở.
Trong đám đen lố nhố, hai bóng người nhảy lại bẻ quặt hai cổ tay anh bằng một sợi thừng:
- Ði.
Cái giọng hách dịch đó hô tiếp. Một báng súng thúc vào lưng Hoan và cả bọn dẫn anh đi dọc bờ cát. Anh không biết mặt ai trong đám đông ấy, cũng chưa từng nghe cái giọng hách dịch kia bao giờ. Từ ngày đến làng Bảo, anh chỉ quen biết vài người quanh xóm Bính, xóm chuyên cất rớ sông và vài quán bán chè bán nước xung quanh. Có lẽ đám người bắt anh là dân quân thuộc làng Cát, làng kế cận làng Bảo nhưng cùng một xã Bảo Ninh. Họ thực hiện một cái lệnh nào đó của ủy ban xã... Thật tồi tệ. Anh không thể hình dung ngày nào đó anh bị liệt vào hạng người khả nghi và bị bắt, bị trói, bị đối xử một cách thô bạo như vậy... Nhưng chiến tranh, chiến tranh, chiến tranh... Anh bắt đầu hồi tưởng những gì đài phát thanh xã Bảo Ninh và cả đài phát thanh thành phố từ bên kia sông ra rả vọng sang, những lời lẽ hùng hồn và quyết liệt, rạch ròi, và tàn nhẫn... thứ văn chương đó hứa hẹn súng dao, máu đổ, đầu rơi:
Ta dại khờ... Rất có thể có những kẻ dựng chòi cất rớ bên sông để chỉ điểm cho máy bay bắn phá, hoặc thám thính tình hình dân cư, sự phòng bị và phân bố các lực lượng quốc trang... Ta chẳng có tội nhưng chính cuộc sống bất thường của ta đã khiến họ nghi ngờ...
Trên quãng đường đi tới căn phòng đầy rệp mà người ta tống giam anh, Hoan không ngừng băn khoăn về sự dại dột của mình về cuộc sống vô công rỗi nghề đã tạo cớ cho kẻ khác hồ nghi. Những ngôi nhà đen thù lù bên đường càng gia tăng nỗi sợ hãi ấy. Từ ngày có các cuộc khiêu khích của máy bay Mỹ, dân không được thắp đèn đêm. Chỉ được dùng đèn phòng không, đặt trong hộp, lỗ sáng khoét không lớn hơn con đom đóm. Khu nhà của ủy ban xã cũng đen ngòm. Một người trong bọn vẩy cây đèn pin trong tay soi ổ khóa, kẻ khác thò chìa mở. Hai cánh cửa có song sắt mở ra, một bàn tay cởi sợi thừng sau lưng Hoan và ẩy anh vào:
- Anh ở đó. Sớm mai sẽ khai báo.
Họ khép hai cánh cửa, kéo sợi xích loảng xoảng qua hai hàng song sắt và bấm ổ khóa tách một tiếng khô khục. Anh đứng lại trong gian phòng, nhìn qua hàng song sắt thấy đám người lô nhố đi xa dần, lặng lẽ như những bóng ma, chẳng ai nói thêm một lời nào nữa. Khi họ mất hút trong bóng đêm, anh vẫn đứng sững sờ, chẳng hiểu vì sao những kẻ anh không oán thù, không tranh giành lợi lộc lại có thể trói anh, thúc báng súng vào lưng anh và sau rốt đẩy anh vào một căn buồng tối tăm bốc mùi tanh và mùi mốc...
Ðêm ấy Hoan không ngủ. Anh ngồi trên đống phoi bào lẫn với lưới rách. Nơi đây hẳn đã từng dùng để chứa đồ hỏng và cũng đã từng giam người. Linh tính mách bảo anh như vậy. Lũ rệp từ mọi xó xỉnh mò đến tấn công. Hoan vừa gãi vừa mò mẫm giết chúng. Mùi máu rệp bốc lên hăng xè, hòa với mùi tanh lưu cữu của các manh lưới cũ và mùi mốc. Thứ mùi rất khó quên. Anh đã ngồi như thế cho tới tận bình minh. Khi nắng chiếu, anh mới thấy đám xác rệp be bét máu trên sàn xi-măng. Ðêm qua anh đã tàn sát chúng ra trò và chúng cũng đã hút máu anh ra trò. Vệt rệt đi thành lối, dẫn từ những cây cột nhà tới. Hoan đứng lên xem. Các kẽ nứt trên thân cột có hàng ngàn con rệp nhung nhúc. Dù ban ngày, chúng không dám bò đi bò lại nhưng vẫn nhúc nhích cựa quạy chen chúc nhau trong nơi ẩn náu quá chật hẹp. Hoan bất giác rùng mình, trong đám hàng ngàn con rệp này đêm qua mới chỉ vài trăm con tấn công anh. Nếu họ còn tiếp tục giam anh ở đây, hẳn lũ rệp sẽ lần lượt tới thăm anh cho tới khi anh còn sức mà giết chúng. Ðám xác rệp trên sàn gió đã thổi khô, dạt vào như nắm vỏ đỗ, lẫn với phoi bào. Lẫn trong đám phoi bào và lưới rách, anh nhìn thấy vài hòn gạch vỡ, mấy chiếc vỏ ốc, vài vỏ hộp đựng kim vá lưới. Hoan đá đi đá lại mấy chiếc vỏ hộp, bất chợt thấy một cây kim bật ra. Anh cầm cây kim cũ rỉ bắt đầu cuộc tàn sát lũ rệp. Chọc kim vào khe gỗ, anh khêu từng con ra, dùng mũi kim cắt thân chúng làm đôi. Xác rệp dính trên thân cột gỗ chỉ mươi phút sau đã khô queo rụng xuống. Hết rạch nứt này đến rạch nứt kia anh đã giết sạch lũ rệp bám trên thân cột đầu tiên. Lúc hơi nóng hừng hực trên đầu anh mới biết không kẻ nào đến đây để thẩm vấn anh như bọn người đêm qua đã hứa. Ném cây kim, Hoan ngồi xuống sàn:
Họ đã nói dối, cái lũ người đã tự xưng là chính quyền, đã quát nạt ta, đã thúc báng súng vào lưng ta... Và tại sao ta đưa ta cho bọn họ trói một cách dễ dàng như vậy. Ðêm không đèn lửa và lũ người bắt ta cũng không đọc lệnh bắt người. Ta là kẻ có chữ mà chịu bắt nạt như một gã nông phu thất học thời cũ...
Anh giận thân, đói và mệt. Tiếng gà gáy trưa eo óc từ nhà nào vẳng tới. Anh chẳng còn cách nào hơn là ngả lưng xuống đám lưới rách, chập chờn ngủ. Trong giấc ngủ đó, con tim anh đập nặng nề, tâm hồn anh khắc khoải, vừa oán hận một kẻ thù vô danh vừa sợ hãi một thứ tội lỗi chưa tìm ra diện mạo.
Quãng bốn giờ, bốn rưỡi chiều có tiếng mở khóa, tiếng xích loảng xoảng trên song cửa, một cô gái mặt tròn xoe lấy chân gạt rộng hai cánh cửa rồi xách chiếc làn tre bước vào:
- Cơm anh đây nè.
Cô nói, đoạn vừa liếc nhìn anh vừa mở làn lấy ra một tô canh cá còn bốc khói với đĩa cơm trên cắm cây thìa:
- Anh ăn đi.
Hoan hỏi:
- Những người giam tôi có nói với cô điều gì không?
Cô lắc đầu quầy quậy:
- Em nỏ biết, nỏ biết chi... Anh ăn đi hồi nữa em quay lại...
Nói đoạn cô hấp tấp đứng lên, chạy khỏi gian nhà và khóa cửa lại. Hoan hiểu rằng anh chẳng thể hy vọng gì nơi cô gái này. Có thể cô đã từng ở trong hàng trăm cô gái làng chài thường vụng trộm ngắm anh hoặc trêu ghẹo anh, nhưng cô cũng là nữ dân quân tự vệ xã và người ta giao cho cô nấu cơm canh cho một kẻ bị tình nghi la gián điệp... Cô không thể vượt qua phận sự của mình. Anh bưng đĩa cơm lên ăn, lòng bắt đầu bình thản lại. Thứ gạo đỏ dân chài ưa tuy không dẻo nhưng có vị ngọt đậm, món canh cá cay xè những ớt có nguyên khúc cá tươi. Ðó là bữa cơm đạm bạc của dân làng Bảo nhưng anh thấy nó rất ngon sau hai bữa ăn bị bỏ trống. Hoan khều từng mảy lá húng thơm lá thìa là nhấm nháp, húp từng ngụm canh chua cho đến giọt cuối cùng. Xong bữa cơm anh gạt bát đĩa sang một bên ngả người xuống đám lưới rách và ngủ ngay tức khắc.
Anh ngủ như thế đến lúc linh tính mách bảo rằng có ai đang ở rất gần anh. Mở mắt thấy khung trời đêm bên ngoài song cửa. Một cái đầu tròn trĩnh in trong khuôn cửa đó. Cô gái mặt tròn đang ngồi cạnh anh, im như phỗng. Hoan nhỏm dậy:
- Cô vào lúc nào vậy?
- Lâu rồi, nhưng nỏ dám thức anh.
- Sao không gọi tôi một tiếng?
- Thôi... Em đem canh vào cho anh, sợ anh đói.
- Cảm ơn, bữa cơm chiều đã đủ no.
- Không.
Cô đáp rồi bấm đèn pin soi chiếc làn tre. Anh thấy bát canh đậu xanh nấu với thịt lợn và tỏi, tỏi nổi từng nhánh trên mặt đỗ.
- Cảm ơn.
Hoan nói.
- Ăn đi.
Cô đáp.
Và cô lại ngồi im như phỗng sau khi tắt cây đèn. Hoan ăn bát canh đậu trong đêm, cô cũng ngồi chờ trong đêm, không nói gì thêm. Anh ăn xong, cô đặt vào tay anh một ca nhôm nóng bóng. Hoan đưa lên mũi, mùi chè xanh bốc bay. Cô gái lặng lẽ bỏ chiếc bát vào làn và ra về.
- Cảm ơn cô nhé.
Hoan nói vọng theo khi cô đang lúi húi khóa cửa. Cô ấp úng gì đó rồi biến mất vào đêm. Hoan ngồi uống từng ngụm chè một cho tới hết ca nước. Ðoạn anh bước vào góc phòng, tiểu. Loại nhà giam tạm bợ này vẻn vẹn chỉ có một gian, chẳng nơi tắm rửa, chẳng nơi đại tiểu tiện. Ở một góc người ta đục một lỗ thủng dưới chân tường thông ra khoảng sân cát phía sau. kẻ bị tù đái vào cái lỗ thủng đó và nước tiểu chảy ra ngoài, thấm xuống cát. Còn nếu muốn đi đại tiện, hẳn anh ta phải vơ những phoi bào mủn vào góc đó thay cho thứ bô vệ sinh thời cũ, hứng phân bằng tro. Hoan đã đủ thời giờ để quan sát cái nhà tù không chuyên nghiệp này và tự hỏi trước anh, đã có những ai từng bị giam nơi đây, và bởi những lý do nào?
Sáng hôm sau ủy ban xã mở cửa làm việc. Hoan nghe tiếng người qua lại khoảng sân tít xa vọng tới. Anh đoán chừng đó là những dân chài tới xin chứng nhận giấy tờ, học sinh tới xin con dấu và lý lịch, vài ba người ăn bận vẻ như đám cán bộ bên thành phố. Anh chắc mẩm sáng nay họ sẽ gọi anh lên đối chất và sau cuộc đối chất họ sẽ cho người điều tra, từ làng Bảo sang thành phố chỉ cách một con đò và như thế, chắc hẳn chiều nay anh sẽ được về nhà. Ngồi bó gối, anh kiên tâm chờ, nghĩ vẩn vơ đủ thứ chuyện. Rồi bất chợt tiếng gà gáy trưa vọng lại, Hoan đứng lên nhìn ra ngoài song cửa: khoảng sân cát trơ trọi chẳng bóng người. Nắng đúng đỉnh đầu. Như vậy, hẳn đám cán bộ xã đã về nhà và dùng xong bữa cơm trưa:
Lũ khốn kiếp... Không lẽ chúng muốn ta phải gào thét hay đập phá gian phòng này để làm cho rõ rành mọi chuyện? Hoặc chúng muốn làm nhục ta, muốn ta phẫn kích làm điều bậy bạ nào đó để khép ta vào tội tù đày? Nhưng là ai, và vì sao nhỉ...
Anh vừa điên giận vừa băn khoăn mọi nhẽ, lục tìm mọi kẻ thù mà không tìm nổi. Chắp hai tay sau lưng, anh đi đi lại lại trong căn nhà bẩn, chật, nóng sừng sực vì lớp ngói không trần. Trời lại im gió và không gian càng bức sốt thêm. Anh đói. Anh căm giận mình. Anh căm giận đám người đã nhốt anh vào căn nhà kho tồi tàn này rồi cố tình quên đi như để đùa rỡn anh hoặc dùng anh làm vật thí nghiệm cho một mục đích bí mật nào đó mà anh không hiểu nổi. Và anh, kẻ ngu xuẩn xứng đáng hưởng sự trừng phạt đó vì tính sĩ diện không đúng lúc của gã công tử. Lẽ ra anh phải kêu, phải gào thét, phải làm cho tất cả mọi người rõ chuyện anh đã bị bắt đi trong đêm tối bởi bọn người không rõ mặt và cũng chẳng giấy tờ, anh đã bị trói bởi một tội danh tuyên bố bằng mồm và anh đã ngoan ngoãn đi theo...
Hoan đi đi lại lại suốt buổi trưa đói khát buồn bực. Nhiều lần anh muốn cất tiếng gọi, hoặc gào thét nhưng lần nào anh cũng không mở miệng nổi. Thuở nhỏ anh đã xem những đám cãi nhau những gã say thuyết lý hoặc ca hát giữa đường, những kẻ điên vừa đi vừa lẩm bẩm vừa múa may... Tất thảy những cử chỉ kéo theo một đám đông, làm trò tiêu khiển cho đám đông đều khiến anh khiếp sợ. Anh không thể hình dung anh, con trai ông giáo Huy, có thể hò hét để kêu gọi một đám đông, để trình bày với họ sự thật, phân trần vơi họ nỗi oan uổng của mình và cầu xin nơi họ lòng trắc ẩn hay sự giúp đỡ... Không... Anh không thể... Và lần này cũng vậy vừa đặt chân tới cửa, vừa quay mặt ra phía song sắt định kêu la anh lại vội vã trở vào. Sau rốt, anh nằm xuống đám lưới rách chờ đợi sự xuất hiện của cô gái làng chài lần này nhất quyết bám theo cô đi ra tìm gặp kẻ cầm đầu lũ người bắt anh đêm trước... Anh nằm như thế qua ngày đến tối, hai mắt díp lại nhưng chẳng ngủ được. Không thấy cô gái mặt tròn. Cỡ tám, chín giờ tối, anh đoán chừng như vậy, có tiếng mở khóa cửa. Một người đàn ông bước vào. Một giọng nói xa lạ cất lên, hoàn toàn không giống với những giọng anh đã nghe trong bọn người đêm trước:
- Anh đói lắm hả? Anh ta hỏi.
Hoan không trả lời. Người lạ chẳng để ý tới thái độ của Hoan, nói tiếp:
- Từ đây anh đi chừng hai trăm thước tới gần bến đò có quán cháo ngon lắm. Trước quán đặt cây đèn phòng không, cháo bán ở phía trong. Anh đi đi.
Hoan hỏi:
- Tại sao các anh bắt tôi?
Người đàn ông đáp:
- Tôi không bắt anh nhưng tôi biết anh bị bắt.
Vì anh ta đứng đối diện nên Hoan thấy tóc anh húi móng lừa và quai hàm rất vuông. Một người tầm thước, hơi to ngang, thấp hơn anh nửa cái đầu. Hoan chưa kịp hỏi gì thêm anh ta đã nói tiếp:
- Anh hãy quay về thành phố. Gia đình anh, vợ con anh ở bên ấy, một mình anh ở đây người ta dễ sinh ngờ.
- Ngờ cái gì? Tôi có hành vi gì để ngờ vực?
- Ðất nước sắp chiến tranh... Chiến tranh là cái cớ khiến người ta dễ buộc tội nhau. Ðã là tội trong chiến tranh thì khó bề gỡ nổi... Anh hãy nghe tôi, quay về thành phố.
Hoan đứng lên, nhìn cái đầu móng lừa in trong khoảng sáng lờ mờ của khuôn cửa:
- Nhưng anh là ai chứ?
Người đàn ông thở dài:
- Tôi là một trong số những học sinh của thầy Huy, cha anh... Tôi nói như vậy, anh đủ tin rồi chứ... Thôi, hay rời khỏi nơi đây càng nhanh càng tốt...
Hoan không nói gì thêm, đi khỏi căn nhà tối om trong đó người đàn ông kia còn đứng lại. Khi tới ngả rẽ, anh quay đầu nhìn, tất cả chỉ còn là một khối đen. Ðêm ấy không trăng. Anh đi tới gần bến đò, mò vào quán cháo ăn liền ba bát cháo đoạn trở lại chòi. Quần áo đồ đạc của anh vẫn nguyên không suy suyển. Sáng hôm sau anh trở về thành phố trong chuyến đò thứ nhất. Anh không muốn dân làng Bảo biết anh đi. Anh đã đến một cách lặng lẽ, anh cũng đi lặng lẽ. Về đến nhà, anh bước thẳng vào buồng riêng. Cô Kim Liên đã ăn mặc chải chuốt chỉnh tề ngồi trên giường nhìn anh với đôi mắt sáng rực. Và tức khắc, anh hiểu ra mọi chuyện. Không nói một lời anh ra chợ mua một chiếc võng một tấm chiếu cói. Anh mắc võng vào hai cây cột hàng hiên sau nhà, nơi mọi người qua lại cả ngày lẫn đêm vì không ai tránh được lối vào nhà tắm lẫn nhà vệ sinh. Rồi anh căng mấy sợi dây, phủ tấm chiếu làm mái che sương, mắc thêm bóng đèn một trăm nến. Từ hôm ấy, cả ngày lẫn đêm anh không rời chiếc võng trừ những lúc đi dạo phố hoặc tắm biển. Anh đọc sách, anh ngủ, anh ngắm mây trời hoặc cây vườn. Ông giáo Huy chẳng nói nhưng anh biết cha ngầm ủng hộ mình. Mẹ anh thở dài sườn sượt nhưng vì yêu và nể con, bà không dám can ngăn đành cắm mặt chịu những lời rỉa rói móc mách của mụ cửa hàng trưởng. Bữa cơm, chị Nền dọn riêng cho Hoan một suất vào chiếc khay nhỏ để anh ăn trước hoặc sau mọi người. Anh ăn suất cơm của mình một cách chậm rãi vừa ăn vừa nhâm nhi đọc sách hoặc ngẫm nghĩ sự đời với vẻ ung dung của vị gia trưởng. Từ chàng trai hồn hậu dễ thương anh đã trở thành người đàn ông băng giá. Dường như anh tự cho phép mình đứng lên vị trí người đàn ông số một trong gia đình. Cha anh cùng tất cả mọi người tuân phục ý muốn ấy một cách tình nguyện và câm nín. Cả ngày Hoan không nói với ai một lời, trừ những lúc chị Nền bưng khay cơm vào cho anh hoặc khi anh hứng chí bảo chị nấu cho anh món ăn ưa thích. Không bao giờ anh đưa mắt nhìn mẹ con cô Kim Liên. Một lần nào đó, người đàn bà mặt dạn mày dày bồng đứa bé đến trước Hoan, vẻ như vừa bắt vạ vừa cầu xin:
- Nào, dù sao anh cũng bế con một lần cho nó khỏi tủi... Nó mang dòng họ Trần của anh đấy...
Hoan im lặng không trả lời. Cô Kim Liên sượng sùng quay đi. Lúc đó bà giáo bước tới, năn nỉ. Anh nhìn mẹ lễ phép trả lời:
- Con không thể... Xin mẹ để cho con yên...
Rút cục, cô Kim Liên đành bứt áo ra đi. Cô không chịu nổi cuộc sống của con vật lạc chuồng. Trong gia đình ông giáo Huy, cô sắm một vai tuồng, những người khác cũng phải sắm vai nhưng họ đứng tất về một phía. Uy tín và quyền hành của cha cô, sự đáo để nanh nọc của mẹ cô cũng không làm nổi cái điều cô thèm muốn: chúng không thể ép Hoan trèo lên bụng cô. Mà cô đã trải mùi đời. Cô chẳng thể chịu cảnh sống góa bụa. Cô trở về nhà liên tục trong nhiều ngày, khóc lóc nài nỉ cha mẹ thuận tình cho cô được ly hôn. Ông phó chủ tịch và bà trưởng cửa hàng bàn bạc mấy tháng trời trước khi bước vào cuộc mà cả. Họ cho phép Hoan được ly hôn với điều kiện phải chu cấp cho đứa bé Trần Nguyễn Kim Loan tới khi nó trưởng thành đồng thời phải đưa cho cô một số dấn vốn tương đương với năm cây vàng để bồi thường danh dự... Năm đó là năm chuẩn bị chiến tranh, đứa con cô Kim Liên vừa đầy tuổi, giờ đây nó đã mười ba. Năm tháng tưởng chừng dài dặc nhưng khi quay lại nhìn cũng ngắn ngủi như cơn mưa bóng mây, như giấc mơ đêm hạ...
Chị Nền lại mang thêm cho anh đĩa quýt chín, thứ quýt thơm chỉ trồng được trên những vùng đồi nhiều nắng:
- Cậu ăn vài trái quýt cho có chất tươi.
Hoan vừa bóc quýt vừa nhẩm tính xem năm cây vàng thời đó đáng giá bao nhiêu tiền? Anh chợt thấy sự tính toán là vô nghĩa. Vào lúc bà Kim Lan yêu cầu mẹ anh phải lo đủ năm cây vàng trước khi cô Kim Liên ký vào tấm giấy ly hôn mặt bà giáo Huy trắng nhợt, bà đã ngã khuỵu xuống đống vải dưới chân. Chị Nền phải chạy tới đỡ bà ngồi dậy. Năm cây vàng lúc đó là một gia tài kinh hoàng mà những người dân bình thường không hình dung được. Trong một xã hội phân phối từ cây kim tới sợi chỉ vá quần áo, cái xã hội tiêu chuẩn thịt trẻ em được một trăm gramme mỗi tháng chỉ cần có chiếc nhẫn một chỉ vàng đeo tay đã đủ vênh vang với mọi người. Bà giáo ông giáo không dám bàn tính vì số tiền đó ở ngoài khả năng của họ. Nhưng may mắn sao trong lúc gia đình anh tuyệt vọng, chính cô Kim Liên đã gỡ cho họ một bàn thua. Phạt mình ép xác không nổi, cô bắt nhân tình với anh trưởng phòng thu thuế Sở thuế thành phố. Anh này có cô vợ đen ròn, đảm đang, đã đẻ dốc thôi ba đứa con trai liền. Cô nuôi con hầu chồng rất tận tình nhưng ghen tuông cũng rất tận tình. Cô ta khéo chạy chọt sao mà cả một lúc bộ tứ lãnh đạo sở thuế bao gồm: Ðảng, chính quyền, công đoàn và đoàn thanh niên cùng tới rình chộp cuộc ngoại tình của cô Kim Liên với tình nhân. Cuộc vây ráp đó thành công ngoạn mục. Tất cả những kẻ tham dự đều được chứng kiến thỏa thuê đôi gian phu dâm phụ trong mọi tư thế làm tình và cô vợ lại là người kiên nhẫn đợi chờ cho tới phút đích đáng nhất mới lên tiếng hô hoán. Cả hai phạm nhân đều phải kí tên vào biên bản mới được phép mặc áo quần. Chưa hết, khi họ rời khỏi cửa, đám dân phố đã được thông báo từ trước hớn hở tới xem...
Nhờ ơn phước đó, gia đình ông giáo Huy chẳng phải nộp năm cây vàng cũng cứu được con trai khỏi cuộc hôn nhân bất hạnh.
Sau chiến tranh, mẹ con cô Kim Liên đưa nhau về thành phố. Cửa hàng bị trả lại cho gia đình Hoan, bà Kim Lan được điều phối làm trợ lý cho giám đốc sở thương nghiệp. Nhưng ông chồng bà chết, cùng với sự ra đi của ông là thế lực và may mắn bao năm nay bà vẫn quen dùng. Kiếm miếng ăn không đủ, bà xin ra ngoài mở quán Bar-Càfé. Dường như cuộc kinh doanh mới cũng không mấy suôn sẻ nên họ chỉ đủ độ nhật. Và tháng tháng họ vẫn tới tìm chị Châu đòi món tiền trợ cấp cho đứa bé kia... Bao lần phóng xe qua cửa hiệu Bar-Café Kim-Kim Hoan đều nhìn thẳng về phía trước nhưng trong thâm tâm anh thầm mong hai người đàn bà đó bất chợt xuất hiện nơi ngưỡng cửa để cho anh có dịp quan sát bộ dạng của kẻ thù. Chưa lần nào anh gặp họ và dần dà trí tò mò thù địch của anh nguôi ngoai. Tuy nhiên, những cuộc thanh toán phí tổn nuôi đứa trẻ kia vẫn xảy ra sau lưng anh và giờ đây nó chợt thức dậy những oán thù chưa hoàn toàn phai nhạt. Anh nhẩn nha bóc từng múi quýt bỏ vào miệng và sực nhớ rằng cái đứa bé gái mang tên Trần Nguyễn Kim Loan kia vẫn mang dòng họ của anh nghiễm nhiên là con anh trước luật pháp, mai này nó sẽ đủ quyền đòi chia gia sản với con trai anh, một đứa trẻ có bản tính thiên thần và đôi chút dại khờ:
Mai sau, nếu có rủi ro nào đó, ta không thể đội mồ sống dậy để đi tới phòng phân tích máu, để kiện lại những điều luật đã được tuân thủ trong một thời gian quá dài... Ta cần phải hành động ngay, để bảo vệ quyền lợi cho thằng bé...
Hoan biết những đồng tiền của anh ném ra lúc này có hiệu lực. Anh sẽ nhờ người tìm đường dây liên lạc với bọn mõ tòa:
- Cà-phê của em được chưa chị?
- Tôi đã gọi cà-phê Nhân, chắc họ đem tới bây giờ. Tôi cũng gọi thêm cho cậu chiếc mô-ka.
- Chị muốn em tăng cân như lợn hay sao?
- Không. Bánh nhà ấy nhỏ chỉ bằng quả trứng vịt thôi nhưng thơm lắm, mà kem cũng rất tươi. Lát nữa cậu nếm xem.
Ðiểm tâm xong, Hoan đến nhà Căng, người bạn buôn vừa giao du vài tháng nay. Anh ta hẹn Hoan bàn chuyện hùn vốn với một công ty sản xuất thuốc trừ sâu ở Sài-gòn. Hoan định bụng xong việc làm ăn sẽ đi tìm kẻ mách mối tới đám cán bộ tòa án. Nhưng trên đường đi anh bỗng nhức đầu dữ dội, cơn đau đánh phá bạo liệt đến mức anh cảm thấy đầu sắp tung thành mấy mảnh và óc não hỗn cuồng sôi sục trong đó sẽ bay tháo ra. Anh biết mình bị hành hạ, đành xuống xe vào quán nước, gọi liền ba cốc bột sắn uống. Hơn tháng nay anh liên tục tiếp đãi bạn hành.
Cuộc gặp nào cũng kèm theo những bữa ăn thịnh soạn. Nguồn sinh lực dồn tích không lối thoát thường xuyên dẫn đến những cơn đau đầu dữ dội, hoặc những khoảng khắc đột ngột choáng váng và mất trí nhớ. Ðêm đêm, anh như kẻ ra đấu trường đơn lẻ, đơn lẻ chiến đấu với sự hành hạ của chính thân xác mình. Ðêm đêm, anh gọi tên vợ thức dậy với manh quần bẩn, với thân xác mỏi nhừ và trạng thái tinh thần u ám như kẻ bị ma đè. Hoan biết giới tu hành có một thứ thuốc bột hiệu nghiệm uống lẫn với nước lá rau dăm. Anh muốn nhờ chị Nền đi tìm cho thứ thuốc diệt dục ấy nhưng không dám. Hai bà chị đều thầm mong cho anh tìm được người đàn bà mới, có hạnh phúc mới. Bởi, họ biết Hoan nặng lòng với Miên nên chẳng ai dám nói ra lời. Nhưng lúc này hoặc lúc khác, anh thấy xuất hiện các cô gái đã chín tuổi lấy chồng, hoặc những người đàn bà tuy dở dang nhưng còn son trẻ. Và những người ấy, như đám chim mồi, lượn lờ không mệt mỏi trước cửa hàng nhà anh chuyện trò thân tình với hai bà chị, tất cả đều chờ đợi một cơ may khi anh quên được người đàn bà xóm Núi. Hoan thấy họ tội nghiệp. Anh không còn là gã khờ năm xưa để sa chân lần nữa.
Nhưng những cơn sốt dục tình không ngừng tra tấn anh. Rồi dịp nào đó, bỗng dưng người ta giới thiệu anh tới bà chủ quán Cổ Truyền. Ðó là một quán ăn lạ kỳ, cửa hàng không nằm ngoài mặt phố mà ở trong ngõ kín. Khi tới đấy, Hoan đã phải để xe lại để thả bộ vào trong con hẻm nhỏ, lối cong queo, có rất nhiều cây cột điện thời cũ được vá víu dựng lại, nhà cửa nhỏ bé lộn xộn, cái tường ghép gỗ, cái xây gạch cao thấp chen nhau nhưng nhà nào cũng trồng một giàn hoa giấy phía trước nên khắp ngõ xác hoa giấy như rải thảm.
Quán nằm ở cuối ngõ. Một tấm bảng gỗ mộc sơn hai chữ CỔ TRUYỀN bằng hắc ín. Nhà thấp lợp ngói, bàn ghế trong quán đóng theo kiểu cổ, thuần bằng gỗ mộc, ám khói và nhẵn bóng mồ hôi. Tường không tranh, không hoa giả, không đèn điện trang trí... Tóm lại không một chi tiết nhỏ nhặt nào của đời sống hiện đại lọt vào đây và bởi thế, quán ăn này hoàn toàn như một quán ăn từ vài trăm năm trước phục chế lại. Chủ quán là một bà lão sáu mươi lăm nhưng tinh tường, khỏe mạnh, vừa oai vệ vừa ranh ma. Tóc trắng phơ cuốn lên bằng một cây trâm đồi mồi, quần áo lụa đen kiểu cổ nhưng tay lại đeo đồng hồ hãng Quac, trông bà nửa như tiên nửa là phù thủy. Quán Cổ Truyền nổi tiếng với các món ăn cầu kỳ tốn kém thời gian dẫu là món bình dân: Lươn om, ốc om, cá nướng lá chuối, cá trê nấu mẻ, xôi trắng ăn với ruốc cá rô... Nhưng bà chủ còn nổi tiếng hơn các món ăn của bà vì bà biết bắt mạch Thái Tổ, chỉ cần xem mạch đủ biết vận mệnh, hung cát. Và biết chế tác những phương thuốc bí truyền nhằm kích dục hay diệt dục, bà có thể chữa bệnh vô sinh cho kẻ này hoặc trục thai cho người khác. Cả những ông chồng bất lực đứng đắn và đau khổ lẫn bọn Sở Khanh ma cô đều phải tới cậy cục trước cửa nhà bà. Ông chồng đã quá cố của bà vốn người Tàu, một thầy thuốc lừng danh nhưng không chống lại được vận mạng đã chết trước bà hơn một thập kỷ. Chính ông đã truyền cho bà các ngón nghề bí hiểm. Hơn nữa ông còn truyền cho bà sự ngoan cường và lòng kiêu hãnh ít ai bì. Bởi thế, tuy bà chỉ là một bà già bình thường nhưng đám người có quyền chức trong thành phố cũng phải kiêng nể.
Khi Hoan gặp bà, bà đang ngồi chơi bài một mình trong phòng riêng. Bà rót cho anh một chén chè tí xíu rồi nói:
- Người ta sống thuận theo lẽ trời là tốt nhất. Cậu có chữ chắc hiểu, khi âm dương giao hòa khí huyết ắt lưu thông, mọi tương năng tương hỗ khác nhờ theo đó mà thịnh... Nếu đã cài then sập cửa, ắt ngôi nhà phải tối tăm, ngột ngạt, không nơi này thì ngã kia tù đọng, hôn ám...
Hoan im lặng. Anh không thể và không có thói quen giãi bày tình cảnh trước người thứ hai. Anh chỉ nói:
- Cảm ơn bà. Nhưng cháu cần thứ thuốc ấy.
Bà nhìn anh với cái nhìn ngao ngán lẫn chút tò mò rồi đưa cho anh thứ thuốc bột màu nâu. Anh đã uống thứ thuốc tiết dục đó, ngày ba lần sau bữa ăn, mỗi lần một thìa cà-phê đầy. Sau ba tuần mọi nhu cầu sinh lý hoàn toàn biến mất... Nhưng anh cảm thấy anh trở thành một kẻ khác. Anh rất thích ngủ, mỗi ngày ngủ đến mười hai giờ. Tay chân anh không còn ấm nóng mà lạnh đi, da anh xanh và anh đi đứng chậm rãi như kẻ chán chường. Ðôi khi, chính anh cũng sợ anh khi thấy anh trống rỗng, không muốn suy nghĩ, không muốn quan sát mọi vật, nửa như sống nửa như vất vưởng đâu đó bên ngoài cõi đời. Hai bà chị hoảng sợ hoảng sợ tìm thầy thuốc. Nhưng Hoan gạt phắt đi. Giờ, anh đã hiểu lời bà lão. Anh biết anh phải lựa chọn giữa hai trạng thái bệnh hoạn. Và anh lựa khả năng thứ hai. Bởi anh còn muốn sống như một người đàn ông khỏe mạnh, tỉnh táo. Anh còn phải làm việc cho con trai anh, cho những người thân của anh, cho người đàn bà anh chưa ngớt yêu dấu...
Uống liền mấy cốc bột sắn, Hoan ngồi bóp thái dương lẫn đỉnh đầu một lúc lâu cơn đau mới dịu. Anh tới nhà Căng. Ở đó, qua buổi trưa anh không dám uống rượu chỉ ăn hai bát cơm với đậu phụ luộc chấm tương. Gã bạn buôn cười hô hố:
- Sao anh khốn khổ thế? Một thằng gốc gác dân cày như tôi cũng chẳng cam lòng chịu đói như anh.
Vốn tính kín đáo, Hoan không có thói chuyện trò bả lả với ai. Bị người khác dò đúng căn bệnh, anh đâm lúng túng, mặt đỏ bừng.
Căng chăm chú nhìn anh, vẻ tò mò hớn hở, dường như gã vừa bắt được món tiền lớn:
- Chết nỗi, sao anh lại đỏ mặt tía tai lên như vậy? Thật không ngờ, tới hôm nay tôi mới trông thấy gáy nhà buôn lớn nhất sáu tỉnh miền Trung.
Hoa đáp:
- Ai cũng có phần ngờ nghệch. Tôi không phải người quen thuộc chốn ăn chơi.
- Thế anh tưởng tôi là kẻ ăn chơi à?
Căng cao giọng vặn lại. Rồi không chờ Hoan trả lời, hắn tiếp:
- Bốn đời nhà tôi cơ cực nên tôi chẳng dại dột ném tiền vào chốn cờ bạc gái trai... Anh biết rõ tôi đấy: Tiêu một hào tôi cũng cân nhắc bảy lần. Một bữa tiệc chốn thị thành nuôi được cả gia đình dân cày trong vài tháng mà họ hàng chú bác bên nội bên ngoại của tôi còn ở tất tật chốn bùn lầy. Tôi vẫn phải cưu mang họ... Nhưng vấn đề chính tôi nói với anh chẳng phải chuyện chơi bời mà là phép vệ sinh. Anh bỏ qua cho tôi, thật ra cái... việc đó cũng giống như việc vào hố xí. Người ta có ăn thì có ỉa, uống bia vào thì sớm muộn hai ba tiếng sau cũng phải đái ra. Ðố ai giữ nổi các thứ bã thải trong thân xác.
Hoan đáp:
- Tôi không quan niệm như thế.
Căng giương mắt nhìn anh chằm chằm:
- Trước khi tôi sống độc thân ở thành phố này tôi cũng đã có vợ. Trước khi có vợ tôi cũng đã yêu. Và tôi cũng nghĩ như anh rằng người ta chỉ có thể ngủ được với người đàn bà họ yêu thôi... Nhưng sự đời chẳng thế.
Hoan im lặng. Và bất chợt buông tiếng thở dài. Gã bạn buôn kia nói đúng. Cha anh dạy anh rằng người đàn ông chỉ hạnh phúc với người đàn bà họ yêu. Và anh hoàn toàn tin vào điều đó. Nhưng cuộc làm tình đầu tiên của anh với cô Kim Liên cũng đem cho anh sự thỏa mãn, dù anh chẳng biết cô ta là ai và cuộc làm tình đó diễn ra trong trạng thái mơ ảo... Và rồi nữa, những cuộc làm tình với người đàn bà xóm Hà trong cây chòi cất rớ ven sông Lệ Nhật... Những đêm ấy anh cũng đã leo tới đỉnh ngọn triều khoái lạc, dù chẳng là thứ khoái lạc vẹn toàn của hạnh phúc như anh từng nếm trải với Miên... Có lẽ, những điều Căng nói là sự thật. Có lẽ người đàn ông cần tìm một nguồn mạch giải tỏa cơn khát dục tình giống kẻ lữ hành trên con đường xuyên núi khô khan phải làm nguôi cơn khát bằng vũng nước bất kì bắt gặp... Và anh chợt nhớ tới Miên, chị vẫn phải chung đụng với một người đàn ông chị không còn yêu nữa. Vậy những cuộc làm tình đó cũng ở bên ngoài hạnh phúc, bên ngoài cái chuẩn mực tình yêu mà cha anh đã dạy anh...
Căng vẫn không rời mắt nhìn Hoan, lúc đó tiếp lời:
- Hoàn cảnh anh khác tôi. Vợ anh không hư hỏng do hoàn cảnh bắt buộc phải xa anh... Anh vẫn có thể thương yêu chị ấy, nhớ nhung chị ấy và vẫn có quyền tìm một người đàn bà nào khác để xả những thứ rác rưởi tồn đọng trong thân xác.
Hoan vẫn biết có cái nghề cổ xưa như trái đất. Và nghề đó thời nào cũng tồn tại dù công khai hay lén lút. Hẳn nó là thứ nghề phục vụ cho những gã đàn ông rơi vào cảnh khốn khó như anh hoặc những kẻ thiếu hụt tiền tài hay khiếm khuyết nhân dạng chẳng thể tìm nổi một người đàn bà thương yêu mình...
Phải, mọi thứ đều cũ mèm như trái đất. Trước ta cũng đã có hàng triệu người đàn ông và sau ta cũng sẽ có hàng triệu người nữa rơi vào cảnh ê chệ này...
Anh nghĩ. Nhưng anh vẫn cảm thấy hổ thẹn và lẫn chút trắc ẩn khi nghĩ tới việc tới lầu xanh để tìm một cô gái lầu xanh.
Chừng như đoán rõ những ngại ngần trong anh, Căng lên tiếng:
- Thôi đi, hàng hóa nào cũng cần kiểm nghiệm. Tối nay theo tôi. Anh sẽ thấy chẳng cần tư lự nhiều như thế. Sự đời đơn giản. Ta mua một món hàng và trả đúng giá, như các cụ đã nói từ xưa: Ăn bánh trả tiền.
Rồi Căng liếc đồng hồ. Anh ta có cái hẹn khác vào lúc một giờ rưỡi. Gã đàn ông này là cái máy kinh doanh, là con bệnh khát tiền, làm việc không kể đến thân mình bất kể loại công việc nào dù thượng vàng hạ cám. Hoan biết thứ kinh doanh khốn khổ như thế thường chẳng đem lại bao nhiêu lợi lộc cũng giống những người buôn từ nước mắm tới bấc dầu đèn dù xoay sở quần quật như trâu cũng khó kiếm nổi một số hời cho ra tấm ra món và khó có cơ ngoi lên được:
Vậy mà gã nhà que đo lọ nước mắm đếm củ dưa hành này lại là kẻ khai tâm cho ta ngày hôm nay. Ðời quả nhiều bàn cờ nhiều ván cờ, anh thắng bàn này sẽ thua bàn khác...
Hoan thầm nghĩ. Anh chào gã, ra về. Tới nhà, anh lao vào buồng ngủ một giấc tới tận ba giờ chiều mới phóng xe ra tắm biển. Khi trở lại, Căng đã đứng trước quầy thu tiền tán gẫu với chị Châu.
- Tôi chờ anh đã ba mươi lăm phút.
- Xin lỗi, tôi tưởng anh tới muộn hơn.
- Anh chưa ăn bữa chiều ngoài bãi biển đấy chứ?
Căng hỏi, nháy mắt một cách bợm bãi:
- Nghe nói ngoài bãi biển có món tôm tươi luộc ngon lắm?
Hoan không đáp. Hai bà chị anh đang đứng ở đó. Những người đàn bà của thời cũ không bao giờ dám nghĩ đến loại chuyện suồng sã như vậy. Hoan đi thẳng vào nhà tắm cất quần áo, thay bộ đồ mới rồi quay ra.
- Nào đi...
Anh quay lại dặn:
- Tối nay em không ăn cơm nhà.
Họ cùng lên xe, nổ máy phóng đi. Hoan hỏi:
- Ði đâu?
- Ðến tiệm ăn Tàu.
- Tiệm nào?
- Cao lâu đường Trần-Phú.
Ngừng lại vài giây, Căng nói tiếp:
- Trước khi tìm thú thanh lâu nên ăn món ăn của người Tàu. Ấy là bài học dân Chợ Lớn thứ thiệt đã dạy tôi.
Khi họ dựng xe, vào quán ăn, Căng lại bảo:
- Anh trả tiền chầu ăn. Tôi trả tiền chơi. Như thế công bằng.
Hoan đáp:
- Tôi sẽ trả cả hai chầu, yên tâm.
Căng cười hơ hớ:
- Hôm nay tôi gặp may.
Lúc hai người ngồi xuống bàn ăn, anh ta nói thêm:
- Nhưng kẻ may mắn không chỉ là riêng tôi... Rồi anh sẽ thấy...
Ðoạn quay vào phía trong, anh ta lớn tiếng gọi:
- Cho thực đơn ra đây...
Ðám người hầu bàn Dạ ran trong bếp. Tiếng dạ đặc biệt chỉ có ở các quán ăn Tàu, nó vừa như thứ tín hiệu đáp lời vừa như giọng nhại phía sau cánh gà sân khấu, thuần có ý nghĩa hình thức. Bởi năm sáu tiếng Dạ cùng nhất loạt cất lên nhưng phải chờ hai mươi phút sau mới có một gã trai cao lêu đêu chạy tới. Gã chìa cuốn thực đơn dày cộp, nói:
- Dạ, hai ông kêu trước đồ uống gì?
- Rượu, rượu bổ... Cho loại thượng thặng ấy...
- Dạ...
Gã cò hương quay lưng chạy đi và chừng mươi phút sau gã trở lại với chiếc khay nhỏ bày chai rượu thuốc, hai chiếc ly thủy tinh với vài đĩa đồ nhắm chơi cho vui miệng. Ðặt khay rượu lên bàn, gã lại rút cuốn thực đơn ra, cất tiếng:
- Giờ, xin hai ông gọi món chính.
Căng đặt món chim hầm bát bảo và cá hấp thịt lợn nấm hương. Anh ta gọi cho Hoan bát súp bào ngư với tô gà tần cung đình, loại già đen nhỏ chỉ độ ba bốn lạng tần với các vị thuốc bổ nhằm bồi dưỡng tinh lực vua chúa hoặc các hoàng thân đế thích xưa ưa dùng. Khi gã bồi chạy đi, Căng hỏi:
- Anh biết thứ rượu: Thang vua Minh Mạng này chưa?
- Chưa.
- Ðó là thứ rượu được sáng chế thời Minh Mạng. Vua dùng thứ rượu này và có tới một trăm mười tám người con. Nó nổi tiếng đến nỗi trong xứ ngoài xứ đều biết và được đặt tên là: Nhất dạ lục giao sinh ngũ tử.
Hoan có biết chút tiếng Hán Việt nên anh kinh ngạc hỏi lại:
- Nghĩa là một đêm gặp sáu người đàn bà và thụ thai năm đứa con? Anh không nghe nhầm đấy chứ?
- Nhầm thế quái nào được? Tôi chẳng biết tí tiếng Hán nào nên kẻ cho tôi uống thứ rượu này lần đầu đã phải giảng tường tận cái tên đó... Và chẳng giấu gì anh, tôi cũng đã thử khá nhiều lần. Nào, ta thử đi... Rồi đêm nay anh sẽ thấy...
Gã cất tiếng cười rất lớn, đầy tự tin trước khi mở nút rót. Hoan nhìn chất nước màu mận chín trong chiếc ly thủy tinh, vừa nghi hoặc vừa háo hức. Anh thấy mình như thằng bé con bị dẫn dụ bởi một tên ma cô hay một gã cò mồi:
Chẳng sao hết, cuối cùng thì tất cả mọi người đều phải trả giá cho sự hiểu biết, cũng như ta...
Anh tự an ủi và dốc cạn ly rượu đầu tiên. Sau ly rượu đó, anh tự rót tiếp ly thứ hai, thứ ba, tự thấy phấn chấn, nói nhiều hơn, cười to hơn, và khi kín đáo liếc mình trong tấm gương ám khói treo tường anh kinh ngạc thấy một gã đàn ông khác, khác hoàn toàn cái tôi của mọi ngày, gã nhìn anh với cái nhìn đầy khiêu khích. Không hiểu thứ rượu thần kỳ kia hay những món ăn cung đình khiến anh rơi vào trạng thái hưng phấn lạ lùng ấy. Rồi, trong cái quán ăn ngào ngạt mùi xào nấu, ngột ngạt khói thuốc, ầm ĩ tiếng người bỗng vang lên một khúc hát anh yêu thích và anh vô tình khe khẽ hát theo:
Ta đã từng rơi vào bẫy sau những chén rượu đỏ ở nhà mụ Kim Lan. Bây giờ, ta sẽ tự tìm đến một cái bẫy khác sau những ly rượu màu mận chín, những ly rượu thuốc của ông vua cường dâm. Ngày xưa, ta là thằng bé con lớ ngớ. Giờ, ta là gã đàn ông đói dục tình. Ta có quyền làm mọi điều ta ưa thích...
Ý nghĩ ấy vang lên trong anh như một câu hát, vui vẻ, sỗ sàng, cợt nhả. Một thứ màu sắc anh chưa từng thấy trong đời, sẽ làm quen với một cuộc đời khác hay với hương vị khác của cuộc đời? Thây kệ...
Căng nhìn anh với cặp mắt ranh mãnh. Mặt gã đỏ phừng phừng.
- Ði chưa?
- Ði.
Hoan vẫy hầu bàn, thanh toán tiền rồi họ rời quán ăn. Hai người lên xe phóng tới nhà Căng, cất xe máy ở đó thả bộ theo phố. Hoan không nhớ những dãy phố anh đã qua, bao nhiêu ngã tư và bao nhiêu lần rẽ. Anh đi theo Căng, chẳng nghĩ ngợi gì, miệng lẩm nhẩm hát những câu hát cũ và đôi lúc cười tủm một mình. Sau cùng, họ tới dãy phố nhỏ có nhiều cây bàng còi cọc. Căng bước tới một quầy thuốc lá lẻ:
- Có thuốc sẵn đấy chứ?
Sau quầy nhô lên một gương mặt đàn ông, một gương mặt đầy phè thịt và dù ánh đèn đường tù mù, cũng thấy lần xần những mụn. Gã bán thuốc há miệng cười:
- Lúc nào cũng có, nhưng phải sơ tán xa.
Căng gật:
- Cũng được.
Gã hỏi tiếp:
- Nhảy dù hay qua đêm?
Căng bảo:
- Qua đêm.
- Một mình ông hay cả hai?
- Cả hai.
- Ði riêng hay đi bè?
- Riêng.
- Tôi hiểu rồi.
- Giá cả ra sao?
- Như cũ.
- Ðược. Ði thôi.
- Khoan đã. Giờ này cá lạ đứng đường. Các ông phải chờ nửa giờ nữa tới phiên gác mới.
- Thì chờ. Lại ra quán cóc vậy.
- Phải. Thu Cúc vẫn ngồi chỗ cũ.
Căng kéo Hoan đi. Họ tiếp tục đi một đoạn nữa tới quãng tối, ngồi xuống vỉa hè uống nước chè bình dân. Ðó là thứ quán lưu động thường gọi là quán cóc. Cóc nhảy. Người bán quán cóc vác đồ đạc và xách ấm nước chè chạy từ xó này qua xó khác trước cây dùi cui của cảnh sát. Nhưng các quán cóc vẫn tồn tại nguyên xi. Khi là món tiền lót tay luồn vào túi nhà chấp pháp, khi là sự kiên nhẫn chờ đợi phút nản lòng của luật lệ, người ta lại đặt chiếc thúng tre lên vỉa hè, quăng vài ba chiếc ghế đòn cho khách xung quanh. Trên thúng đặt chiếc mẹt tre và trên mẹt là tất thảy hàng hóa có thể có: Dăm túi mực nướng, dăm túi kẹo lạc hay kẹo bột, dăm gói lạc rang, mấy chiếc chén cáu để uống chè và vài ba ly thủy tinh nội địa để uống rượu. Ấm chè ủ trong giỏ, còn chai rượu giấu dưới thúng. Lúc hai người bước tới, trên mẹt của chủ hàng thắp cây đèn dầu. Người đàn bà bán hàng có gương mặt tăm tối ngồi như tượng phía sau. Căng hỏi:
- Nước nguội ngắt rồi chứ?
Người đàn bà không trả lời. Căng kéo Hoan ngồi xuống:
- Anh cao to ngồi thứ ghế đòn này hơi khó chịu... Nhưng phải chấp nhận thôi... Anh đã khát chưa?
- Chưa.
Căng quay lại bảo người bán hàng:
- Chúng tôi không uống nước... Này cầm tiền cho thuê chỗ ngồi.
Ðoạn dúi vào tay chị ta tờ bạc. Thiếu phụ trạc ngoài bốn mươi cầm tờ bạc đút vào túi áo với vẻ thờ ơ, như chẳng thèm để tâm tới. Mặc dù gương mặt u ám, chị ta có một vẻ kiêu kỳ lạnh lẽo kín đáo và huyền hoặc. Tấm khăn chị trùm đầu in hoa rất rực rỡ, cũng rực rỡ như tấm áo chị đang mặc. Anh hình dung dưới ánh mặt trời, hẳn những màu sắc đó sẽ hân hoan như tuổi trẻ và đẹp một vẻ đẹp chọn lựa.
Những người bán quán cóc thường tìm cách trò chuyện với khách và nói chung họ là những kẻ nhiều lời nhưng người đàn bà này lại câm lặng như pho tượng, vẻ dửng dưng của chị ta khiến Hoan kinh ngạc. Sau khi nhét tiền vào túi, chị ta rút một miếng mực nướng, xé từng sợi nhỏ bỏ vào miệng bộ dạng giống như đứa bé ăn quà. Thấy anh ngồi yên lặng, Căng rút thuốc mời:
- Anh có hiểu gì về thế giới của những người đàn bà ăn sương không?
- Không.
- Ðây là lần đầu anh đi thông cống?
- Phải.
- Vậy tôi giải thích đôi điều. Gái làng chơi ưa dùng tiếng lóng. Thứ tiếng đó nghe vui tai hơn tiếng của đám đông. Ví dụ, nếu anh chỉ ngủ với họ một lần người ta gọi là anh nhảy dù. Nếu thuê trọn đêm anh có thể làm tình một, hai, ba, bốn lần như lũ đàn ông động đực bình thường hoặc bảy, tám lần như đứa vua Minh Mạng, tám chín lần nếu anh còn đủ sức... Như thế gọi là đi tàu suốt...
Tới đó, người đàn bà bán hàng bỗng đập vào cánh tay Căng:
- Họ kêu ông kìa.
Cử chỉ của chị ta có một vẻ thân tình và sỗ sàng rất bất ngờ.
Hoan kinh ngạc nhưng Căng tỉnh bơ quay sang nhìn quầy bán thuốc lá lẻ đầu phố. Chiếc đèn dầu hỏa đặt trên tủ kính đang trượt đi trượt lại mấy lượt liền. Căng vụt đứng dậy:
- Ði thôi.
Trước khi đi, anh ta còn quay lại nhoẻn miệng cười với thiếu phụ:
- Sao tối nay dịu dàng nết na thế?
Người đàn bà không đáp, cúi xuống thu dọn ghế đòn bỏ vào thúng cùng những thứ hàng hóa khác rồi cắp thúng đi theo họ. Gã bán thuốc đang đi đi lại lại bồn chồn phía sau tủ:
- Cá quen đến rồi, các ông đi đi.
- Ai dẫn đường đêm nay? Căng hỏi.
Gã bán thuốc hất hàm chỉ người đàn bà bán quán cóc:
- Ðó.
Ðoạn gã bảo chị ta:
- Ngõ số ba, nhớ chưa Thu Cúc...
- Nhớ.
Chị ta cất lời, giọng trầm khàn như giọng đàn ông. Hoan lần nữa tò mò nhìn người thiếu phụ tàn úa có cái tên mỹ miều kia. Ánh đèn đường quá mờ nên anh không thể thấy gì hơn ngoài một gương mặt võ vàng dưới tấm khăn hoa sặc sỡ quấn kiểu dân Chàm. Người đàn bà đi trước, Căng dẫn Hoan theo sau. Họ vào một ngõ nhỏ, đi lòng vòng qua những ngôi nhà thấp bé, vá víu, kiến trúc nửa quê nửa tỉnh bằng tất thảy những thứ phế liệu nhặt nhạnh được. Những căn nhà lồng ghép, chồng chất chằng chịt tựa cuộc đời đám dân tứ xứ tụ bạ về đây sau chiến tranh, chúng giống đám ốc bươu con nọ bám lưng con kia, cụm này kề cụm khác... Chỉ mới vài năm sao cuộc sống nơi đây đã kịp sinh sôi nẩy nở và cũ kỹ đi nhanh làm vậy. Hai người chui qua những hàng dây thép phơi quần áo, vượt qua những mảnh sân méo mó dị hình, bước qua các đống rác tú hụ chưa kịp hốt và sau rốt leo lên một cây cầu thang ghép bởi những mảnh ván cốp-pha chưa kịp bào nhẵn xấu xí thô lậu. Hoan chưa đặt chân tới khu vực này lần nào, thậm chí anh cũng không tưởng tượng có một khu dân cư tăm tối thế trong thành phố quê hương anh. Trước chiến tranh, khu nhà này chưa hề có. Ðây là đám bèo dạt sau những năm tháng đạn bom. Hoan bảo Căng:
- Nói chị ta đi chậm chậm một chút...
Anh không muốn nói thêm rằng anh chưa quen đi trong những lối lắt lẻo, bẩn thỉu và dưới thứ ánh sáng nhập nhoạng này. Căng gọi với lên:
- Thu Cúc, đợi với...
Nhưng người đàn bà vẫn bước vùn vụt, như không nghe thấy hoặc giả bộ không nghe thấy. Căng buộc phải đuổi theo chị ta. Và Hoan buộc phải đuổi theo gã. Vì to lớn kềnh càng nên anh thật khổ sở mới theo kịp hai kẻ đi trước. Sau cùng, họ dừng lại trước một cánh cửa lớn, gỗ sơn nâu. Người đàn bà đập thình thình vào cánh cửa đoạn kéo sợi dây chuông. Tiếng leng keng rất nhỏ vang lên phía sau bức tường. Cửa mở hé. Người đàn bà dẫn đường quay ngoắt đi và nhanh như mèo chị ta biến mất. Khuôn cửa hé mở ló ra màu đỏ của một tấm màn, một thứ ánh sáng vàng vọt dơ dáy chiếu xuống. Khung cảnh khiến Hoan bất giác chùn chân lại. Chừng như đoán được sự ngại ngần của Hoan, Căng túm cánh tay anh lôi đi theo:
- Nhảy xuống nước đi, như lần đầu tập bơi vậy... Anh không còn ở tuổi ấu nhi...
Hai người bước vào khoảng không gian vàng khè hình chữ nhật. Tấm màn đỏ giăng trước mặt họ từ bức tường bên trái qua bức tường bên phải. Chính giữa treo một bóng đèn ám khói, không chao. Không để Hoan có thời giờ suy nghĩ, Căng hỏi:
- Sau tấm màn kia là hai gian buồng đi khách. Anh lấy gian bên trái hay bên phải?
Hoan đưa mắt nhìn tấm màn đỏ lem luốt những vết son phấn, vết dầu mỡ vết nhọ nồi và hàng đám những vết bẩn khác không thể đoán được lai lịch. Căng không đợi anh trả lời, nói tiếp:
- Sau tấm màn đỏ này căn phòng ngăn làm đôi, chúng ta sẽ được hưởng cái thú nghe lẫn nhau, coi như ăn một món hai lần. Tôi chọn cho anh gian buồng bên phải. Với người tập sự, hướng đó thuận tiện hơn.
Nói rồi Căng dắt tay Hoan tới bức tường bên phải, vén tấm màn đỏ đẩy anh vào trong và quay lưng đi ngay. Hoan nghe tiếng chân gã bước sang gian buồng bên kia và giọng nhẹ nhàng của một người đàn bà cất lên:
- Lâu lắm mới thấy mặt anh...
Tới đó, hai bàn tay của một người đàn bà khác từ phía sau lưng Hoan vươn qua vai anh, lướt trên cổ trên cằm xiên qua hai má và dừng lại mơn trớn nơi trái tai anh:
- Lần đầu hả anh?
Giọng người đàn bà này trầm hơn người ở buồng bên kia. Hoan không đáp. Anh không biết mình nên trả lời ra sao. Anh đứng im như tượng. Hai bàn tay đó tiếp tục ve vuốt, những chiếc móng khẽ cào qua vành tai anh, hai ngón út từ từ ngoáy vào lỗ tai anh và giọng chị ta lại cất lên, lần này rõ rành hơn, mơn trớn hơn:
- Ðừng sợ... Ðừng sợ...
Hoan rùng mình. Da thịt đàn bà đang áp sát vào lưng anh, hơi nóng xuyên qua lớp vải truyền sang da thịt anh, bắt đầu từ hai mông lan dần lên lưng tỏa xuống cặp đùi. Nhưng anh vẫn đứng im lặng. Anh vốn có thói quen im lặng khi ở những hoàn cảnh phức tạp hoặc vào những lúc anh chưa tự chế ngự được cảm xúc lẫn tinh thần. Anh ngửi thấy mùi thuốc sát trùng của bệnh viện, dù thứ mùi đó đã trộn cùng mùi son phấn, mùi xà-phòng tắm và nhiều thứ mùi không rõ rệt. Hoan không hiểu vì sao nơi gái ăn sương kiếm sống lại có mùi thuốc khử trùng, và nỗi băn khoăn đó lởn vởn trong óc.
- Anh lại giường đi chớ? Sao đứng mãi như trời trồng? Giọng người đàn bà phía sau lưng lại cất lên và lần này làn hơi ấm phả qua mang tai Hoan. Hoan không biết anh sẽ đáp lời hoặc sẽ im lặng quay lại kéo cô ta xuống chiếc giường phủ tấm vải hoa tối màu kê cách anh vừa một sải chân. Những chiếc móng tay nhọn của người đàn bà rút từ vành tai anh xuống, nhè nhẹ kéo tấm áo sơ-mi gài trong lưng quần anh rồi chúng thò vào trong, lướt dọc theo sống lưng. Một cảm giác lạ lùng khiến anh sờ sững. Những chiếc móng tay kia chẳng dính líu gì đến anh, chúng chẳng là tài sản của anh, chẳng thể so sánh chúng với da thịt, hay môi mắt người đàn bà anh yêu, nhưng chúng gợi nên một thứ êm dịu anh chưa từng thụ hưởng. Cảm xúc này giống như thứ gió lạ, không phải gió quen thuộc hằng luân chuyển giữa trời cao, trên biển bờ đồng bãi núi đồi, mà là thứ gió âm u của hang động không rõ xuất xứ không dè lành độc nhưng nó du con người vào triền sóng khoái lạc, mơn trớn thân xác họ và khiến họ biết tự chiêm ngưỡng sự tồn sinh của bản thân. Hoan không còn nghĩ gì được nữa, hai mi mắt anh từ từ khép lại như để cảm nhận một cách thấm thía hơn cơn xúc cảm ngọt ngào kia. Lúc đó, người đàn bà lật hẳn tấm sơ-mi của anh lên, áp mặt chị ta vào lưng anh trong vài giây như để anh đủ thời gian nhận biết cử chỉ ấy, rồi trong lúc anh đang còn sững sờ chiếc lưỡi mềm mại của chị ta bắt đầu lướt dọc hai thớ lưng anh...
Người đàn ông dường như không thở nữa. Toàn thân anh tê liệt để cho mọi khả năng cảm nhận dồn vào thần kinh xúc giác trên đám da lưng... Mèo.... Cỏ nhung... Ðám lông tơ trên má Miên... Cặp môi thành thục của người đàn bà góa Xóm Hà... Lông bồ công anh.... Những giọt mưa ấm nóng nhỏ trên mi mắt anh một ngày đầu hạ... Trí não anh lướt qua tất thảy những ảnh hình, những kỷ niệm và da thịt anh cháy lên cơn sốt. Anh thấy máu chảy cuồn cuộn trong huyết mạch như những con sông mùa lũ, dường như chúng sắp sửa phá vỡ các thành mạch hoặc sắp sôi như nước đun trên bếp lửa và chỉ một vài tích tắc nữa anh sẽ điên, anh sẽ nổ tung thành trăm ngàn mảnh vụn nếu nguồn sinh lực sôi sục kia không được giải phóng. Mắt anh chợt tối sầm hung hãn và anh nghĩ anh có thể làm tình... Không, anh có thể hãm hiếp một trăm một ngàn một vạn người đàn bà trong đêm nay. Ðột ngột, anh xoay lưng túm lấy người đàn bà đứng phía sau, nhấc bổng cô ta đặt lên chiếc giường phủ vải hoa lúc này anh đã thấy nó ngả sang màu đen thẫm...
Hoan không nhớ anh đã làm gì, đã nói gì trong đêm ấy. Nhưng anh biết chắc anh đã làm tình như một cỗ máy chứ không như kẻ điên rồ. Như máy cày, máy cuốc, máy gặt đập liên hợp hoặc máy nện búa trên các công trình xây dựng. Anh làm tình quần quật như thằng tù khổ sai làm công dưới cây roi của bọn cai ngục, không một phút chợp mắt, giữa hai cuộc làm tình chỉ mò mẫm hút một điếu thuốc trong bóng tối. Người đàn bà chưa biết tên chưa biết mặt trần truồng hổn hển trên giường, không còn thời giờ quấn tấm khăn ngang bụng dưới chị ta gập nó làm tư như thứ tã cho trẻ sơ sinh để hứng tất thảy những gì anh phóng xả ra...
Vào lúc sáu giờ mười lăm phút còi báo thức thành phố rúc lên. Hoan nhỏm dậy mặc quần áo bước tới trước khuôn cửa sổ. Biển dâng đầy trước mắt anh.
Mặt trời vừa chạm mép nước nhưng phương đông bừng lên một sắc hường hân hoan tươi rói. Những cánh buồm nhuộm ánh dương quang và lũ hải âu chập chờn trên ngọn sóng. Biển của ngày thường. Nhưng gió rười rượi thổi vào mặt anh khiến anh thấy được hồi sinh. Ðầu óc anh nhẹ bổng, trong suốt như mây đen vẩn tụ đã tan, như miệng cống dơ bẩn của thành phố rút hết nước tù và cơn mưa ân sủng đầu mùa mưa đã cuốn trôi tất thảy bụi bặm rác rưởi phố phường. Anh đưa tay gãi đầu, hít thở không khí ban mai nhớ lại những buổi sáng khoan khoái anh đã từng sống nơi Xóm Núi, những buổi sáng trong lành mát rượi anh bước dưới những rặng tiêu hay những rặng cà-phê ướt đẫm sương trí óc minh mẫn và tâm hồn lâng lâng như cánh diều lượn gió...
Tại sao ta lại hồi nhớ thời kỳ sung sướng ấy? Nó đã trở thành quá khứ, như nấm mồ chỉ còn để ngó nghiêng vào tiết Thanh Minh...
Anh nghĩ vậy, nỗi buồn rầu bất chợt ập đến. Anh tự xua đuổi cơn hồi nhớ vì anh cảm thấy mình xúc phạm đến Miên. Rồi anh quay lại nhìn người đàn bà trên giường. Chị ta úp mặt xuống mài miệt ngủ, nước dãi chảy thành vệt trên tấm gối ố vàng. Mái tóc uốn xác xơ phủ gần kín gương mặt gầy và nhỏ. Một chiếc gáy rất mảnh, xương vai gồ lên dưới lần vải áo:
Cô ta gầy gò quá... Làm sao cô ta có thể chịu được cái nghề này hết ngày qua tháng? Gương mặt trông tội nghiệp...
Anh bước tới gần để nhìn cho rõ hơn gương mặt người đàn bà đã cùng anh qua đêm... Bất đồ có tiếng: Xoảng... Hoan nhận ra mũi giầy anh đá vào chiếc thau nhôm dưới gầm giường và một thứ nước bắn tóe ra sàn. Nước tiểu chăng? Anh giật mình nhìn kỹ lại lần nữa. Lần này, mùi khai bốc lên xác nhận:
- Khiếp, anh phá mất giấc ngủ của em.
Người đàn bà lên tiếng. Ngồi nhỏm dậy, chị ta ngáp liên tục một tràng dài dù mắt vẫn nhắm nghiền:
- Quên không dặn anh, đi lại phải kiêng dè kẻo tông vào chậu đái.
Cái miệng tô son thẫm lại há ra ngáp không buồn che đậy. Hoan khẽ rùng mình. Thương hay ghê sợ? Anh không biết. Xương quai xanh người đàn bà hiện lên rõ mồn một vì chiếc áo rộng cổ trụt xuống, nhìn rõ đôi núm vú trên bộ ngực gần như phẳng dẹt. Hai núm thịt thâm sì mọc những sợi lông quăn queo. Anh không hình dung đàn bà có thể mọc những sợi lông dài như thế nơi núm vú. Cô điếm đã mở được đôi mắt ngái ngủ ra, vừa nhìn anh vừa nhoẻn miệng cười:
- Anh ngồi xuống đi...
Ðôi mắt tô vẽ quá vụng dại trên gương mặt mỏng không lưỡng quyền, chiếc cằm nhọn nhỏ xíu như cằm con nít và đôi trái tai lép như gần dính vào mang tai. Hoan ngồi xuống, nhìn những nếp nhăn nhỏ nơi đuôi mắt loang lổ phấn:
- Chị... Cô làm nghề này lâu chưa?
- Ba năm... Ba năm đi khách bằng mười ba năm đời thường đấy. Nghề này tổn thọ lắm.
Nói xong cô ngáp thêm cái nữa rồi quài tay ra sau lưng đấm:
- Ðêm nào cũng gặp khách hung như anh chắc ba năm nữa là vào cửa mả...
Hoan chợt thấy xót lòng, anh nói:
- Tôi... tôi xin lỗi...
Người đàn bà cưới, lúc lắc mái tóc rồi tung mảnh chăn đắp bụng xuống giường quơ chân tìm đôi dép, đoạn kéo chiếc thau nhôm ra chị ta tụt quần đái re re trước mặt Hoan. Gần như kinh hoảng, Hoan vụt đứng lên nhưng rồi tự trấn tĩnh anh lại ngồi xuống chiếc giường bề bộn bẩn thỉu đôi gối quay ngược quay xuôi, hai mảnh chăn đơn vương vãi và nơi góc cuộn thù lù tấm khăn bông lớn mà anh biết rõ người đàn bà đã dùng hứng tất thảy những gì anh tống tháo ra...
Phải, cơ man đàn ông đã qua đây và cô ta cư xử như thế cũng là phải. Ở thân phận cô ta, khó giữ được phép lịch sự tối thiểu của con người...
Hoan nghĩ. Nhưng tiếng nước tiểu chảy re re xuống chiếc thau nhôm vẫn làm anh kinh tởm và anh không khỏi sợ hãi khi nghĩ tới lúc rời khỏi gian nhà này, gặp đám khách hoặc bạn buôn quen rồi trở về nhà nhìn mặt những người thân. Có thể ánh sáng ban ngày sẽ rọi vào từng chân lông kẽ tóc trên thân thể anh và tố cáo sự thật...
- Sao, mãn nguyện rồi chứ?
Căng đã đến sau lưng Hoan lúc nào chẳng rõ, đặt tay lên vai anh. Hoan đứng lên:
- Tôi phải trả bao nhiêu tiền đây?
Anh ta lắc đầu:
- Không phải trả ở đây mà là cho ông chủ. Chính lão bán thuốc lá chúng ta gặp khi đêm... Nhưng anh có thể cho thêm bạn tình chút đỉnh, thứ tiền thiên hạ vẫn gọi là "Món lót dạ trên giường."
Người đàn bà đã tiểu xong đứng hong hóng nhìn anh như con chó chờ chủ gọi ăn, đôi môi chun lại trên gương mặt võ vàng. Căng ghé tai anh, bảo:
- Hai tờ bạc lẻ thôi đấy, không hơn.
Hoan ậm ừ. Lúc đó, một cơn gió mạnh thốc vào khiến mùi nước đái bốc lên khai sặc. Hoan đưa mắt nhìn gian buồng, nhớ là đêm qua chính anh cũng đã tiểu tiện vài lần vào xó xỉnh nào đó. Giờ, anh đã phát hiện ra cái góc cỏn con phía sau chiếc chum đựng nước đêm qua người đàn bà ăn sương đưa anh tới. Chiếc chum sành lớn kê nơi góc phòng, dưới chân là một lỗ khoét thông ra ống cống phía sau. Trên miệng chum bập bềnh một chiếc gáo nhựa trắng, một tấm khăn bông nhớt nhát vắt bên. Bức tường vôi loang lổ, những vệt nước ngấm mọc thứ rêu quầng màu xanh xám xen các đám mốc trắng. Hẳn buồng bên kia cũng bần hàn trụy lạc như bên này, cũng một chum đựng nước nơi góc phòng với tấm khăn nhớt nhát và chiếc gáo nhựa cáu ghét, cũng ống cống thoát nước tiểu ngay dưới góc tường đêm đêm khách làng chơi xối tung tóe xung quanh...
Hoan thấy như cảnh buồn nôn này làm mặt anh nhem nhuốc. Anh kín đáo dúi mấy bạc lớn vào tay cô điếm rồi bảo Căng:
- Ta đi thôi...
Khi họ đã ra tới cửa, người đàn bà ăn sương còn nhào theo:
- Cảm ơn anh... Anh còn trở lại đây nữa chớ?
Hoan không đáp. Nhìn vẻ mặt nhớn nhác của người đàn bà anh đoán chắc rằng món tiền Lót dạ trên giường anh cho quá lớn so với lệ thường. Dường như Căng cũng đoán được điều đó. Gã quay lại bảo cô ta:
- Ðược rồi... Sẽ quay lại...
Nhưng khi hai người xuống cầu thang, gã nghiêm mặt nói với anh:
- Ðừng hào phóng rởm... Hang ổ nào cũng có luật chơi của nó.
Hoan không trả lời.
Khi họ ra khỏi ngõ, anh nói:
- Tôi có việc sáng nay.
- Tôi cũng vậy.
Căng đáp tức khắc. Rồi cả hai cắm đầu vùn vụt đi. Sau cùng, họ trở lại chiếc tủ kính bày hàng chồng thuốc lá. Gã chủ đang chờ. Vẫn bộ mặt to quá cỡ, sần sùi, các thớ thịt húc chọi nhau trên lăm cổ vậm vạp như cổ trâu mộng, vẫn đôi mắt hum húp vừa rình mò vừa hờ hững:
- Sao các ông ra muộn vậy?
Căng bảo:
- Mệt. Không bò dậy nổi.
Bộ mặt to phè kia lạnh như kem:
- Trả thêm mười lăm phần trăm phí tổn.
Căng kêu:
- Cái gì?
Hắn bảo:
- Ðúng luật chơi khách phải rời buồng trước còi báo thức thành phố. Giờ ấy cá đổi phiên và chúng tôi chuẩn bị sơ tán cho đám gái đi nghề. Qua giờ ấy khách phải trả thêm phí tổn rủi ro.
- Thôi được.
Căng làu nhàu nhẩm tính tiền đoạn bảo Hoan trả cho gã sáu tờ bạc lớn. Rồi họ xây lưng đi luôn không chào hỏi không ném ánh mắt lại. Gã chủ lầu xanh cũng nhìn họ với cặp mắt trống rỗng dửng dưng.
Hai người trở lại nhà Căng tắm rồi tới quán cà-phê ăn sáng.
Hoan hỏi:
- Anh có cảm giác gì khi rời khỏi nơi đó?
- Chạy càng nhanh càng tốt, tránh mặt được càng nhiều người càng hay. Lơ mơ chạm trán dân làm ăn thì hỏng chuyện.
- Chẳng lẽ bọn họ không ai lui tới đây?
- Có. Nhưng bố thằng nào dám thú nhận.
Hoan bảo:
- Người ta có gia thất đàng hoàng, ít ai đơn lẻ khổ sở như anh với tôi.
Căng cười hơ hớ:
- Chẳng đơn lẻ họ cũng thích nếm mùi vị mới. Hoặc giả vợ họ đã tới tuổi tắt kinh quanh năm tấp tểnh lễ chùa chẳng còn ham chuyện gối chăn nên họ phải mò mẫm tìm nơi giải thoát... Nhưng vì cớ gì, họ cũng sẽ tránh mặt người đời... Như bọn chúng ta đây...
- Con người giả dối thật.
- Ờ nghề buôn của chúng ta giả dối nhất hạng... Ðời đẹp là nhờ sự giả dối...
- Anh nghĩ thế à? Sao cũng có lúc anh thành thật với tôi?
- A... Anh muốn ám chỉ chuyện chơi gái? Phải, chuyện ấy tôi thành thực, thành thực trăm phần trăm. Anh là người tôi cũng là người, chúng ta đều có nhu cầu đại tiểu tiện. Vì thế khi cấp bách ta có thể rủ nhau vào một chuồng xí công cộng để tháo đống bã thải và sau đó quàng chân lên cổ mà chạy... Tôi đố anh đứng lâu trong một cái nhà xí công cộng bẩn thỉu như nhà xí của thành phố này.
- Vậy ra anh chẳng có chút tình cảm nào với người đàn bà đêm qua chia sẻ giường chiếu với anh? Tôi nghĩ hai người quen nhau đã lâu.
- Phải, ngót nghét hai năm... Nhưng tôi không có thừa tình cảm cho bọn đàn bà nằm ngửa lấy tiền...
Căng vừa đáp vừa nhìn xoáy vào mặt Hoan với vẻ tò mò riễu cợt không giấu giếm:
Mày vờ đấy chứ? Gã lái buôn thành đạt nhất sáu tỉnh miền Trung, bọn có sỏi đầu ở Ðà Nẵng, Sài Gòn cũng phải gờm mặt... Không lẽ mày ngờ nghệch như vậy?
Hoan đọc thấu những ý nghĩ của gã nên đứng dậy trả tiền chủ quán:
- Tôi phải đi.
Căng gật đầu:
- Tôi cũng vậy...
Họ chia tay. Hoan trở về nhà tắm gội lại lần nữa rồi phóng xe ra bờ biển. Anh ngồi ở đó rất lâu, nhẹ nhàng và trống rỗng, chẳng nghĩ ngợi gì chỉ lắng nghe tiếng sóng ban mai nhìn thủy triều khoác tấm áo lam lộng lẫy dưới ánh trời. Trước mắt anh một con dã tràng loe ngoe khua những chiếc còng gày guộc. Bất chợt anh buông tiếng thở dài vì nhớ tới người đàn bà ăn sương gày nhom đôi mắt tô vẽ như mắt chó giấy:
Dẫu sao ta cũng phải cảm ơn con người khốn khổ ấy... Dẫu sao ta cũng đã mắc nợ cô ta...
Mặc dù Căng bảo rằng đây là việc ăn bánh trả tiền, mặc dù anh đã cho cô ta món Lót dạ trên giường đặc biệt nhưng nỗi xót xa cho kiếp người vẫn ám ảnh. Anh nhớ tới khuôn ngực lép kẹp của người đàn bà, cặp vú dị hình và gương mặt nhem nhuốc phấn.
Tội nghiệp, liệu khi lau hết son phấn, gương mặt ấy sẽ ra sao?
Chương 19
Những người bạn buôn thường cư xử với nhau theo kiểu lập lờ. Dường như trong thứ nghề lấy lời lãi làm mục đích khó tồn tại một tình cảm thực sự. Ðiều này Hoan biết từ lâu. Nhưng cũng có lần, Căng đã khiến anh cảm động. Một sáng, hai người rủ nhau tới tiệm vằn thắn của ông già Quảng Ðông, hiệu nổi tiếng nhất thành phố vì thứ nước dùng trong vắt ngọt mùi xương bò ninh lẫn hải sản. Gia vị nêm tuyệt khéo, còn mì sợi nấu chín vừa độ đến mức sau khi đã ăn vằn thắn ở cửa hàng của ông tất thảy các thứ vằn thắn khác chỉ được coi như thứ ăn đỡ lòng hoặc dành cho khách vãng lai và những kẻ phàm phu tục tử. Hoan gọi hai tô vằn thắn lớn với đĩa quẩy. Anh thích ăn quẩy ròn kèm vằn thắn, phở hoặc những món đồ ăn nhiều nước khác. Một tô hỉu tíu mà thiếu vài chiếc quẩy làm bằng bộ nhẹ chiên ròn thơm là món ăn chưa hoàn thiện.
Người hầu bàn bưng khay vằn thắn ra, Căng hỏi:
- Anh đãi tôi hay tôi đãi anh đây?
- Tôi.
- Anh hào phóng quá... Tiêu như anh lẽ ra phải bại sản nhưng trời phù... Lão trời già đểu thật, lần nào đi ngang qua chùa tôi cũng thắp hương cầu khấn năm bảy lượt. Quanh năm tôi xoay như đèn cù vậy mà cũng chẳng phất lên được.
Hoan bật cười:
- Bởi vì Trời Phật có mắt... anh vừa khấn xong hôm sau chưa thấy lộc đã quay cổ chửi thì Trời Phật thánh thần nào dung thứ...
Căng cũng bật cười theo:
- Tại tính tôi sốt ruột, chẳng kiên nhẫn được như người khác... Ở nhà anh có cúng không?
- Nhà chúng tôi cúng tổ tiên, đúng theo luật lệ của người Việt cổ. Nhưng cũng có bàn thờ Phật đặt trên gác thượng. Hai bà chị tôi chăm lo việc ấy.
Người hầu bàn đặt tiếp trước mặt họ đĩa quẩy. Hai người lặng lẽ ăn không nói gì thêm nữa. Rồi sau khi no nê, mãn nguyện họ châm thuốc lá.
Căng bảo:
- Làm chầu cà-phê chứ? Lần này tôi đãi anh.
Hoan đáp:
- Chẳng cần. Tôi bao luôn chầu này.

Anh trả tiền rồi hai người vượt qua lòng đường sang quán cà-phê ở dãy phố bên kia. Lúc họ bước vào, một người khách vén màn đi ra chút nữa va đầu vào Hoan. Anh nhận ra gã bán thuốc lá lẻ, chủ lầu xanh quen thuộc của họ. Gã cũng nhận ra anh, những múi thịt chen chúc hai bên cánh mũi nhúc nhích nhưng cặp mắt gấu lạnh như băng. Không ai chào ai. Căng chun môi huýt sáo, điệu sai lạc nghe như chọc vào lỗ tai, nhưng anh ta đang phởn chí không thể ngừng lại cơn phấn khởi bất thần.
- Hai cà-phê đen nóng.
Căng gọi rồi ngả người tựa lưng vào ghế, bắt chéo đôi chân đong đưa vừa nhìn ra đường. Hoan chợt đưa mắt tò mò nhìn người đối diện, anh không hiểu Căng đang nghĩ gì. Trên gương mặt cứng đuỗn như tạc bằng gỗ đẽo đôi mắt ráo hoảnh đang cắm vào một con mồi nào đấy trong không gian, cặp môi mím lại chi chít vết rạn như môi người già, chiếc mũi dài có đường rãnh chạy hằn chia đôi chóp. Không nén được, Hoan lên tiếng:
- Anh nghĩ gì vậy?
Căng quay lại, cặp mày nhướng lên đầy vẻ ngạc nhiên:
- Thế anh nghĩ gì? Những thằng lái buôn như chúng ta đây chỉ nghĩ chuyện buôn bán lời lãi chứ còn chuyện gì khác?
Hoan thở dài:
- Anh nói đúng... Nhưng lúc này tôi đang nghĩ đến một chuyện chẳng liên quan gì tới việc làm ăn.
Lại đến lượt Căng tò mò. Quay hẳn người lại phía Hoan, anh ta hếch mặt hong hóng nhìn:
- Chuyện gì ghê gớm vậy?
Hoan nói:
- Từ lúc gặp tay chủ nhà chứa, tôi nhớ lại đêm chúng ta chạy trốn chui qua gầm cầu thang hàng xóm, rồi núp trong kho cá mắm chuột chạy lạo xạo qua chân... Thú thực, tôi vẫn còn sợ...
Căng cười ngất:
- Có thế mà anh phải nghĩ sao? Ðúng là công tử thứ thiệt... Nhưng tôi phải uống cà-phê đã, sau khi ăn một bát vằn thắn tú ụ nếu không có cà-phê tôi sẽ ngủ gục...
Nói xong anh ta cúi xuống uống cà-phê chem chép như mấy bà già húp chè. Hoan cũng nhấc tách cà-phê lên môi nhưng nỗi băn khoăn vẫn bám vào óc não anh.
Cách đây non một tuần, Căng rủ anh đi làm cái việc mà anh ta vẫn gọi là: Ðại tiện trong chuồng xí công cộng. Họ đã chia sẻ cái nhu cầu thường trực này từ lâu trong căn buồng bẩn thỉu nơi ngoại ô, bao giờ anh cũng ở phía bên phải và Căng bên trái, giữa họ là tấm màn đỏ ngăn cách. Bao giờ Căng cũng là người dẫn đường, chỉ huy mọi hành động còn anh là kẻ chi tiền. Ðêm hôm đó, họ vừa nhập cuộc bỗng chuông rung rổn rảng nơi cầu thang. Cô điếm đang nằm dưới Hoan vùng dậy tức khắc và dù nhỏ bé cô ta cũng đẩy anh ngã chổng vó trên giường:
- Cá... cá...
Cô kêu. Ngay lúc đó bên kia bức màn, Căng lên tiếng:
- Mặc quần áo thật nhanh. Chúng ta chỉ có ba phút. Chậm một ly là hỏng chuyện.
Hoan lớ quớ. Cô điếm thấy vậy phải giúp anh tìm quần áo trong cái đống lộn xộn dưới chân giường:
- Áo anh đây, mặc vào trước... Này, quần lót. Mau lên...
Cô vừa đưa từng thứ cho Hoan vừa mặc quần áo cho mình nhanh như máy. Lúc Hoan gài xong nút áo, Căng chạy sang:
- Theo tôi.
Từ lúc ấy Hoan chỉ biết việc duy nhất là bám theo sau lưng anh ta. Họ tụt xuống cây cầu thang gập ghềnh ẻo lả mà mỗi bậc thang đều vặn vẹo nghiến trèo trẹo dưới bước chân anh. Ðã thế, ánh sáng từ ngọn đèn trên gác hắt xuống quá mờ khiến mấy lần anh suýt ngã. Khi họ tụt xuống bậc thang cuối cùng, Căng giơ tay ngoắc:
- Rẽ lối này.
Lập tức anh ta biến sau bức tường bên trái. Hoan lao theo. Họ vượt qua mảnh sân hẹp, chui qua cây cầu thang nhà bên cạnh, một cây cầu thang còn tối tăm hơn cây cầu thang nhà chứa, màng nhện bụi bặm tướp vào mặt họ, gián bay vù vù trong bóng tối lao vào trán họ. Hai người chạy qua nhiều ngóc ngách ngoằn ngoèo tới một căn nhà nhỏ cửa sơn hắc ín. Căng mò mẫm tìm chốt mở rồi một tay kéo cánh cửa, tay kia ấn Hoan vào trong. Căn buồng tối om không nhìn thấy vật gì nhưng ngay tức khắc mùi cá mắm lưu cữu thối khẳm đập vào mũi Hoan và anh biết mình đang ở nơi đâu. Căng gài xong chốt cửa, lần mò tới bên anh:
- Ðừng sợ. Rồi sẽ quen thôi.
Hoan không đáp. Tim anh vẫn đập mạnh. Anh thấy mình chông chênh như đi qua sợi dây căng trên vực thẳm. Anh không hiểu vì sao mình bỗng dưng hành động như một thằng ăn trộm, một kẻ buôn hàng lậu hay một gã sát nhân bị truy nã. Sợ hãi, đã đành. Nhưng phía sau sự sợ hãi ấy còn có một sự sợ hãi khác mãnh liệt hơn:
Trời đất ơi, nếu cha ta còn sống và phải chứng kiến hành vi này ông sẽ nói sao? Có lẽ chẳng bao giờ ông tưởng tượng được đứa con trai duy nhất của ông lại rơi vào cảnh huống nhơ nhuốc ấy...
Chuột chạy roàn roạt trên các bao cá chất quanh nhảy phóc qua vai họ, chui vọt giữa hai bắp đùi họ. Mùi cá mắm nồng nặc đến chóng mặt. Hoan như thấy hơi thở chính anh bắt đầu nhiễm thứ mùi ghê tởm đó. Chừng như đoán được ý nghĩ của anh, Căng ghé tai anh thì thầm:
- Chịu khó một tí... Chừng nửa giờ nữa thôi, mọi sự đâu vào đấy.
Nói xong anh ta mò mẫm ra cửa, áp tai nghe ngóng. Hoan vẫn đứng nguyên chỗ cũ, mắt nhắm nghiền chịu đựng nỗi thống khổ không thể dãi bầy với ai. Cha anh đã chết, nhưng vong hồn ông còn vương vấn trên cõi đời. Rất có thể vong hồn đó lẽo đẽo theo anh, lẽo đẽo chứng kiến những khoảng khắc nhục nhã này và sẽ phải cất tiếng thở dài chua xót...
- Ngon... Ngon thật...
Căng há miệng thật to thở một hơi dài, điệu bộ thưởng thức một tách cà-phê có gì thái quá và lố bịch. Hoan yên lặng. Anh vẫn tiếp tục hút thuốc:
Có lẽ Căng không có một người cha như cha ta, anh ta tự do làm mọi chuyện mà chẳng cần ăn năn. Và có lẽ anh ta sung sướng vì không mặc cảm. Bước từ dưới bùn lên, giờ đây anh ta khá giàu so với bà con cô bác, đủ sức cưu mang đùm bọc họ. Và như thế, toàn bộ ý nghĩa đời sống lẫn đạo đức của Căng đã được định vị chu toàn. Anh ta không cần suy nghĩ lại...
Hoan nghĩ vậy. Nhưng anh vẫn không tin con người lại thiếu hụt cảm giác hổ thẹn hay ăn năn. Anh lên tiếng:
- Này anh. Tôi có một câu hỏi.
- Gì cơ?
- Buổi tối hôm nọ, khi chúng ta đứng trong căn buồng chứa mắm cá, anh có cảm tưởng gì?
- Chẳng có cảm tưởng gì hết. Tôi nghe ngóng tình hình để thoát ra. Ăn cá mắm thì được nhưng rúc vào đó ngửi chắc không ai muốn.
- Anh đã chạy trốn công an như thế nhiều lần?
- Nhiều. Kho mắm ấy là chỗ trú an toàn nhất. Bọn cá chẳng đoán ra.
- Chẳng lẽ anh không thấy rằng chúng ta chui lủi như quân trộm cắp hay lũ sát nhân hay sao?
- Tôi không ăn cắp cũng chẳng giết người. Tôi chạy vì nhà nước không cho phép chơi điếm. Mà cái con củ của tôi không cần phép tắc cứ đúng kỳ đúng hạn nó ngỏng lên kêu oai oái. Vì thế tôi chẳng nghĩ ngợi nhiều.
- Nhưng nếu họ bắt được chúng ta, và họ tống giam chúng ta cùng với lũ lưu manh trộm cắp? Liệu anh có lường đến chuyện đó chăng?
- Nếu cứ lường tất mọi sự thì rút cuộc sẽ chẳng dám làm điều gì. Trong đời tôi, tôi chỉ bỏ sức tính toán, đo lường việc làm ăn thôi.
Nói rồi Căng châm điếu thuốc khác và quay lại nhìn mặt Hoan với cái nhìn chăm chú:
- Vậy ra anh cũng khổ... Trước đây tôi cứ ngỡ người làm ăn nhẹ vía lại được trời phù như anh hẳn chỉ biết sung sướng... Hóa ra không phải vậy. Ði chơi điếm mà nghĩ ngợi nhiều đến thế thì khổ thật...
Trong ánh mắt Căng có cả ngạc nhiên lẫn niềm thương xót. Lần đầu, Hoan thấy đôi mắt Căng giống mắt con người mà không phải là tia phản chiếu đơn thuần của những mưu toan, của cỗ máy kiếm tiền, và điều đó khiến anh cảm động. Nhưng cơn xúc động của anh chẳng kéo dài được lâu, vì chỉ nửa phút sau, Căng đã ném mẫu thuốc còn lại vào chiếc gạt tàn:
- Thôi tôi đi... Anh trả nốt chầu cà-phê nhé... Ông chủ lớn nhất sáu tỉnh miền Trung...
Căng chạo chợt cười. Lúc đó, mắt anh ta lại loáng lên thứ ánh sáng lạnh như thép, cặp đồng tử lác xệch và gương mặt anh ta hồi nguyên một khối thịt trơ trẽn vô cảm.
Hoan nhìn tấm lưng gã đàn ông khuất sau tấm mành trúc, nhìn khói bốc lên từ mẫu thuốc lá còn sót trong bình gạt tàn, tất thảy dấu vết của một con người, kẻ từng đứng sát bên anh trong căn buồng chứa cá mắm, từng đưa tay cho anh trong bóng tối những ngõ ngách những góc sân những lối đi ngoắt ngoéo nơi khu nhà ngoại ô, bỗng dưng anh lạnh lùng hoang hoải. Những sợi khói bốc lên từ bình gạt tàn kia chỉ là những sợi khói thuốc thôi. Và cái kẻ nhìn anh trong nửa giây bằng cái nhìn cảm thông ấm áp của con người chỉ là một đồng minh bất đắc dĩ, chỉ cần anh hở mánh là gã sẽ xô anh xuống vực, chỉ cần thần rủi ro sờ tới gáy anh là gã sẽ tức khắc cướp những đồng tiền trong túi anh bỏ vào túi gã... Xưa nay, anh vẫn biết vậy nhưng vẫn chẳng muốn tin như vậy. Sáng nay đây anh mới hiểu anh thật sự chơ vơ côi cút nhường nào. Anh sống trong một thế giới anh không tin cậy, giống con rái cá tinh khôn lúc lủi, luồn lách trong các bụi rậm một cách thành thục nhưng vẫn tơ tưởng đến làn nước. Anh, gã lái buôn dung chứa một trái tim học trò lẫn ước mộng của thi sĩ chưa thành.
Mảnh đất này chẳng phải của ta. Ở đây, ta chỉ là con mồi hoặc cừu địch của những kẻ khác. Ngoại trừ chị Châu và chị Nền, ta chẳng có ai thân thuộc. Và chẳng thể đặt lòng tin vào ai, dù có nhẫn nại kiếm tìm và thử thách tới trăm lần...
Anh tiếp tục hút thuốc và nhả khói, phun từng luồng lên cao thả chúng thành những vòng tròn liên tục hay khép nhỏ khuôn miệng để khói thuốc cuộn thành vòng vèo như vân gỗ. Anh nhìn đám khói, cố tìm trong đó một hình dạng một đường nét một thứ phác đồ có thể gợi mở phần tối tăm của đời sống, có thể anh đi qua cái hành lang bưng bít tối tăm giữa con người với con người. Từ khi trở lại thành phố, bắt tay vào việc chấn hưng cửa hàng và mở các mối làm ăn lớn, đã vài lần Hoan kết bạn với đám người cùng nghề. Lần nào anh cũng vướng bẫy. Nếu không phải cuộc mua tranh bán cướp, cuộc tỉ thí quyết liệt bằng mọi thủ đoạn để anh phải chìm xuống, hoặc sự hãm hại có mưu mô tỉ mỉ thì cũng là chuyện móc máy gièm pha, đơn điều đặt chuyện... Nhưng lần nào Hoan cũng thoát hiểm vào phút chót nhờ may mắn bất chợt hoặc sự xui khiến của linh tính. Anh đoan chắc là người thắng phanh cỗ xe của anh cho nó khỏi lao xuống vực, rọi ánh sáng vào trái tim mê mụ hay đầu óc nông nỗi của anh, tính cho anh những nước cờ siêu việt khiến anh có thể chuyển bại thành thắng và buộc các cừu địch phải ngã đòn... người đó, chẳng ai khác ngoài cái linh hồn mảnh dẻ và kiêu hãnh của người cha đã khuất. Hoan biết người đàn ông dịu dàng cương cường đó vẫn luôn theo anh, hằng che chở anh trên mọi đường mọi ngã và cái bóng dáng mảnh dẻ uy nghiêm của ông vẫm trùm lên cuộc sống của anh. Dường như vong linh ông giáo không ngừng xót thương đứa con trai duy nhất nên không thể đi về miền cực lạc. Ðối với ông, gã đàn ông nặng tám mươi cân kia vẫn chỉ là một thằng bé ngây thơ, tồ tệch, một tiểu thiên thần trong trắng luôn có nguy cơ bị người đời xô vào bẫy mỗi khi nó đặt chân lên đường. Mọi bài học cay đắng đều được lưu giữ trong Hoan, tạo cho anh một bản năng thứ hai, một trí thông minh thuần túy dựa vào linh tính, một khả năng toan tính và quyết đoán nhẹ bổng như cánh hạc, mau lẹ và dễ dàng như tất thảy đều được ghi sẵn trong một thứ cẩm nang của quỷ thần trao tặng. Cái bản năng thứ hai đó hướng dẫn anh trong công việc cũng như giao tiếp, anh trở thành kẻ bất khả xâm phạm trong giới kinh doanh, mọi mũi tên từ đám người cạnh tranh cho đến lũ quan trường trong ngành tài chính nhằm đến anh đều trượt ra ngoài. Về hình thức, anh giống như một cậu ấm to xác với dáng vóc khổng lồ, quần áo sạch sẽ tinh tươm. Ðôi khi anh có vẻ như gã phong tình với cặp mắt dịu dàng, tia nhìn êm mượt như nhung. Nhưng mỗi cử chỉ nhẹ nhàng đều ẩn chứa sự khôn ngoan dè dặt, mỗi tiếng cười khẽ khàng hoặc một câu nói nhã nhặn có thể dẫn đến những quyết định dứt khoát và bạo liệt đến những đối thủ có sỏi đầu phải toát mồ hôi. Tuy nhiên, vào khoảnh khắc anh ném ra một đòn trí mạng với những kẻ cạnh tranh, thi hành một thủ đoạn làm ăn khiến từng đám chủ buôn khác rụng như sung chín trái tim lại cất tiếng rên đau đớn:
Chẳng lẽ con người buộc phải sát hại nhau theo kiểu đó hay sao? Chẳng lẽ cuộc đời buồn tẻ thế sao?
Chính anh, anh cũng tự ngờ vực mình. Một kẻ ngụy quân tử hay một con thú lạc chuồng? Anh sống và ứng xử như một thương gia lọc lõi trong khi tâm hồn anh run rẩy, hồ nghi. Anh thèm muốn một vùng trời khác bên ngoài vùng trời anh hít thở. Phải chăng đó là căn bệnh mãn tính của chàng trai năm xưa? Cuộc hành trình lỡ dở vẫn còn nguyên và mỗi bận tiếng còi tàu hú trên sân ga tâm hồn khắc khoải lại nhói đau luyến tiếc? Hoặc tâm tính anh là khiếm khuyết khó tránh khỏi của đứa con cưng lớn lên trong đời sống an bình, nơi tình yêu tạo nên thứ sương mù bí ẩn vĩnh hằng khiến ánh nắng gay gắt của cuộc đời thực tại không xuyên thấu? Hoan không hiểu rõ. Nhưng anh biết cậu học trò trong anh luôn tìm cơ hội để thử lại nghiệm số phương trình. Và việc đó xảy ra lần cuối cùng với cô gái điếm gày có đôi mắt tô vẽ...
Một vài lần, Căng bảo anh:
- Cuộc chơi nào cũng có luật. Tiền chi trả món lót dạ trên giường không được quá ba tờ bạc lẻ, anh chớ nên quên.
Nhưng món tiền Hoan cho cô điếm lần đầu và những lần sau đều lớn gấp mười lần mức quy định. Anh luôn có tâm lý mắc nợ người đàn bà yếu ớt rạc rài đó, và khi trả cô ta một món tiền lớn, nỗi băn khoăn của anh nguôi dịu đi. Ðiều đó thành lệ. Cô điếm không còn sững sờ như lần đầu và lần hồi cô tìm cách nài nỉ anh thêm. Hoan thoáng nghi ngại nhưng không dám thú nhận với Căng. Một buổi tối vui thú bình thường nơi ngõ hẹp, hai người đợi gã bán thuốc lá. Họ uống nước trà trước mẹt hàng của người đàn bà có cái tên mĩ miều Thu Cúc. Chị ta vẫn trùm tấm khăn hoa sặc sỡ và ngồi nhìn cây đèn dầu muội ám. Lần ấy, gã bán hàng chẳng bắt họ chờ lâu. Chưa uống cạn chén trà, cây đèn dầu đã trượt đi trượt lại ba lần trên mặt tủ thuốc lá.
- Ði thôi.
Căng bảo. Cả hai đứng lên. Người đàn bà chợt cất tiếng cười khàn:
- Làm gì vội thế?
Chị ta ném cái nhìn sắc lẻm về phía họ rồi tiếp tục buông lời:
- Con lừa nào bước vội cũng sa hố... Có muốn nhai mực nướng hay không?
Ðó là lần đầu chị cất tiếng mời họ. Căng chưng hửng nhìn chị ta rồi đưa mắt nhìn Hoan. Anh cũng chẳng biết gì hơn gã nên đứng im. Lát sau, Căng bối rối nhếch môi cười:
- Hôm nay cóc mở miệng, ngày mai trời ắt bão.
Ðoạn Căng đưa cho chị ta tờ bạc lẻ:
- Tụi tôi đi đây.
Người đàn bà không nói gì thêm cũng không thu dọn đồ lề bưng theo họ như thường lệ, lúc Căng và Hoan tới quầy bán thuốc lá vẫn thấy chị ta ngồi im như tượng sau mẹt hàng. Ðốm lửa tí xíu của cây đèn dầu khiến phố xá càng thêm tăm tối.
Gã đàn ông mặt bự nói với họ:
- Hôm nay sớm hơn thường lệ... Cá đổi giờ thay ca...
Căng hỏi:
- Vẫn chỗ đó?
Gã gật đầu:
- Phải. Chưa tới kì chạy rong. Các ông đi đi. Thuộc đường rồi chứ?
Căng gật.
- Thuộc rồi.
Hoan đi theo Căng, không còn quá khổ sở vì những lối đi tối mò ngoắt ngoéo như buổi ban đầu. Lạc thú đã dạy anh khôn ngoan và dày dạn, buộc anh làm quen với thứ ánh sáng mới, với những mùi vị mới. Giờ đây, Căng không còn phải đưa tay cho anh khi leo lên cây cầu thang oặt oẹo dưới ánh điện mờ đục như ánh đèn thắp nơi nhà mồ. Anh cũng không còn quá hồi hộp hay ghê sợ. Căn buồng bẩn thỉu lẫn tấm màn đỏ dơ dáy không còn khiến anh ghê tởm cũng như những tiếng động dục tình dội từ bên kia bức màn sang cũng không còn khiến anh hổ thẹn như buổi đầu. Hoan thấy anh quen với hoàn cảnh hiện tại và điều đó nhiều lần khiến anh kinh hoảng. Ðêm ấy họ thỏa thuận với gã chủ lầu xanh Ði tàu suốt. Cuộc phóng xả dục tình thứ nhất diễn ra khoảng chín giờ. Sau đó, Căng lên tiếng:
- Làm một ly chứ? Tôi cất sẵn ở đây chai Nhất dạ Lục giao với mấy túi bò khô.
Hoan bảo:
- Tùy anh.
Căng nói:
- Mặc quần áo vào đi. Tôi sẽ sang bên anh.
Năm phút sau Căng xách chai rượu với mấy gói bò khô nướng sẵn, thứ đồ nhậu dễ kiếm nhất cho đám đệ tử lưu linh. Hoan và Căng ngồi ngay trên giường uống rượu còn cô điếm cuộn tròn trong tấm chăn mỏng lùi vào góc giường trùm kín không rõ ngủ hay thức. Hai người vừa uống rượu vừa tán gẫu khoảng hơn một giờ đồng hồ rồi Căng hỏi:
- Anh muốn ngủ chút không?
- Không.
- Cũng phải. Mai ta có thời gian ngủ bù... Giờ đã hơn mười giờ rưỡi. Nhà thờ sắp điểm chuông.
Anh ta thu dọn mấy gói đồ ăn dở vào túi đoạn xách chai rượu đứng lên:
- Này...
Hoan ngẩng lên:
- Gì cơ?
Căng hỏi:
- Anh có hay nghe chuông nhà thờ không?
- Có.
Hoan đáp.
Căng im lặng vài giây rồi buông tiếng thở dài:
- Tôi chẳng phải dân theo Chúa... Vậy mà cứ mỗi lần nghe chuông nhà thờ tôi lại nhớ mẹ tôi... Nhất là tiếng chuông lúc nửa đêm.
Nói xong, anh ta sang buồng bên.
Hoan chưa bao giờ nghe Căng nói loại chuyện này nên vô cùng ngạc nhiên. Nhưng nỗi băn khoăn qua đi rất nhanh và nhu cầu thỏa mãn dục tình cuốn anh sang cõi khác. Anh lay cô điếm dậy để vào cuộc mới. Trái với vẻ mau mắn tòng phục mọi ngày, cô ậm ừ rất lâu, vừa như ngái ngủ vừa như khiêu khích trêu chọc anh, cùng một lần cô vừa không chịu thỏa mãn dục tình cho anh vừa kích thích để nó bùng cháy lên. Toàn thân Hoan căng thẳng bức xúc nóng rẫy. Anh gần như phát điên lên nhưng cố trấn áp vì không muốn có hành vi sỗ sàng với người đàn bà nhỏ bé, gầy gò trọng lượng chỉ bằng phân nửa cơ thể anh. Trạng thái ấy kéo dài tới lúc chuông thành phố đổ hồi. Cô điếm chợt giữ hai bàn tay anh lại, dõng cổ lên nghe chuông. Lần đầu cô có cử chỉ lạ lùng ấy. Phải chăng cô đã nghe Căng kể về tiếng chuông kí ức và câu chuyện buồn nào đó vừa được khơi dậy cùng các kỉ niệm đã vùi lấp dưới tro bụi thời gian, phía sau chân trời trầm luân của cõi giang hồ? Hoan thầm ức đoán vào lúc người đàn bà gân cái cổ xanh nhớt nổi đầy gân lên nghe hồi chuông đổ, cặp mắt giấy tô vẽ bất động. Khi hồi chuông ngớt, cô vươn tấm lưng với động tác mềm dẻo của loài rắn, choàng đôi cánh tay qua cổ Hoan vít đầu anh xuống và bằng những thao tác thành thục cô dẫn anh vào cuộc làm tình, tựa như hồi chuông kia là hiệu lệnh bí ẩn khiến cô biết cơn ham muốn của khách chơi đã lên tột đỉnh và đó là giây phút màu nhiệm để cô thực thi nghề nghiệp một cách hoàn hảo...
Vài khoảnh khắc sau, khi Hoan không còn biết đến bất cứ việc gì ngoài những xung lực dục tình cánh cửa buồng chợt bật tung đập một tiếng rầm vào tường. Tiếng động dội vào tai Hoan nhưng anh đang quay trong vòng quay khoái lạc như một con chuột bạch trong lồng thí nghiệm không thể ngừng bước nhảy trong bánh xe vì đã mất đà. Ðôi tay cô điếm siết chặt hơn như trói anh lại và Hoan chẳng còn biết tiếng đập cửa rầm rầm kia báo hiệu điều gì. Vài giây sau một luồng sáng chói gắt rọi thẳng vào cô điếm khiến cô ả phải nhắm nghiền cặp mắt. Lúc đó, có tiếng quát:
- Tất cả nằm im.
Cô điếm vụt kêu lên một tiếng khẽ:
- Úi trời...
Giọng đàn ông lạnh lùng lặp lại:
- Tất cả nằm im. Ðộng đậy là tôi bắn.
Hoan đoán kẻ lạ mặt đang đứng cuối chân giường, tay cầm súng, tay kia níu cây cọc gỗ mắc màn. Anh hé mắt. Ánh điện kéo bóng gã đổ trùm xuống giường, nơi cô điếm lẫn anh ở trong tư thế lõa lồ:
- Nằm yên. Ai bỏ chạy tôi bắn tức khắc...
Kẻ lạ mặt nhắc lại lần nữa. Lần này, Hoan nhận ra một chút gượng gạo, một chút thiếu thành thực trong cái giọng oang oang kia. Anh biết mình rơi vào bẫy nhưng chẳng mảy may sợ hãi. Ðiều duy nhất anh cảm nhận là bộ phận sinh dục của anh đã thay đổi khỏi trạng thái hưng phấn rất nhanh, nguội lạnh rất nhanh, rời bỏ thân thể người đàn bà và nỗi kinh ngạc khiến anh gần như đờ dại:
Lần đầu tiên ta vượt qua cơn căng thẳng mà không cần giải thoát. Cả đầu óc lẫn thân xác đều nguội lạnh trống rỗng. Cơ thể con người có thể thay đổi đường đột một cách lạ lùng...
Kẻ tống tiền lên tiếng lần nữa:
- Tất cả giữ nguyên vị trí... Ai nhúc nhích hoặc bỏ chạy tôi nổ súng...
Lần này, Hoan đã hiểu kẻ tống tiền là ai. Trong thời gian làm nghề buôn, anh đã chạm trán lũ giang hồ, bọn du thủ du thực lẫn đám đâm thuê chém mướn, thứ người anh có thể điều khiển bất cứ lúc nào một cách dễ dàng. Anh thuộc điệu bộ và ngôn ngữ của chúng. Chúng không thể ra một cái lệnh văn vẻ như vậy:
"Giữ nguyên vị trí..." Anh muốn bật cười nhưng đã kịp ghìm lại. Một cảm giác lạnh lùng khinh bỉ tràn ngập. Anh tự ngạc nhiên, tự kính phục mình vì sự bình tĩnh anh đang có. Sự bình tĩnh kèm theo lòng tự tin và ngạo mạn xứng đáng. Còn chút tò mò khiến anh đưa mắt nhìn gương mặt người đàn bà nằm bên dưới. Mắt cô ta cũng hé mở. Trong đôi mắt tô vẽ ấy lóe lên chút lằn trắng, một nửa đồng tử nhờ nhờ không ra đen không ra nâu. Chẳng mảy may sợ hãi.
Một màn kịch. Và người đàn bà này là kẻ a tòng... Ta mang trong ví bao nhiêu tiền nhỉ? Rất nhiều, rất nhiều... A, không. Trước khi đi ta đã giao cho chị Châu ba phần tư số tiền để nhận hàng. Ðêm nay tàu Ðà Nẵng chở hàng tới. May mắn làm sao...
Hoan nhớ lại phút anh bước khỏi cửa. Chị Châu đang gội đầu tóc ướt rũ rượi chạy theo gọi nhắc anh rằng đêm nay người ta mang hàng tới giao. Anh đã cười, xin lỗi, móc ví đưa cho chị:
Phải, chị ta đã lấy tiền, đã sắp xếp lại giấy tờ rồi đưa trả ví cho ta... Như thế, con khỉ Phi Châu này cùng ổ nhện nơi lầu xanh cũng chẳng may mắn cho lắm...
Ý nghĩ ấy khiến anh có đôi chút vui thú. Giờ, anh có thể quan sát kẻ đứng sau lưng mình nhờ những cử chỉ của y. Thứ quần áo y mặc là đồ dân sự nhưng con người y vẫn toát ra thứ mùi của những kẻ quanh năm suốt tháng mặc sắc phục. Hẳn y cũng đã lột quân hiệu quân hàm. Anh đoan chắc y thuộc loại trai quê mới qua trường đào tạo cảnh sát, được bổ nhiệm một thời gian đủ nếm mùi tiện nghi của cuộc sống thị thành, hẳn y là một trong số những kẻ vẫn lượn lờ trên đường phố dán mắt vào mọi thứ hàng hóa bày trong tủ kính với sự thèm thuồng không che đậy, giấc mơ tột đỉnh của họ là kiếm được một chiếc xe máy, mồi chài được một cô gái trong phố, thực hiện cuộc hôn phối thay đổi hộ tịch để sáng sáng được quyền ăn tô phở hoặc đĩa xôi trước lúc đến nhiệm sở thay vì gậm một bát khoai ngô rồi rong trâu ra ruộng cày như cha ông hàng trăm năm trước.
Không hiểu vì sao, anh bỗng thấy một nỗi buồn nhẹ nhàng len lỏi trong tim. Anh cất giọng ôn tồn:
- Tất cả tiền tôi cất trong ví. Chiếc ví đó ở túi quần dưới chân giường. Hãy lấy hết và đi cho nhanh kẻo đồng sự của anh bắt gặp thì hỏng chuyện.
Con khỉ Phi Châu đứng im, không một tiếng ho he. Hẳn y bối rối. Hoặc y sợ hãi. Giọng bình thản của anh, cuộc chơi ngửa bài quá dễ khiến y nghi ngờ. Hoan thấy đứng im lặng quá lâu, lại bảo:
- Tôi hiểu anh cần gì... Ðừng mất thời gian vô ích. Moi lấy tiền rồi đi đi. Nhớ để lại nguyên vẹn giấy tờ và những tấm ảnh của tôi.
Con khỉ Phi Châu bật một tiếng hừm trong họng. Ðoạn y dí nòng súng vào lưng Hoan:
- Nằm im. Nếu quay đầu là tôi bắn.
Hoan nói:
- Ðược thôi. Nhanh tay lên.
Người đàn bà ngọ nguậy bên dưới. Cô ta ngứa một bên đùi nên thò tay xuống gãi. Con khỉ Phi Châu đưa khẩu súng lên cao, tay kia quơ quắng mớ quần áo dưới chân giường. Hoan nghe tiếng y ném từng chiếc quần áo vào góc giường bên trong, tiếng y rút chiếc ví da của anh khỏi túi quần, tiếng sột soạt của giấy tờ khi y lọc lựa giữa các xấp bạc...
Bao nhiêu nhỉ? Lúc nhận tiền hình như chị Châu đã xếp mớ bạc lẻ trong ngăn ví nhỏ... Còn những tờ bạc lớn chị nhét vào ngăn ví lớn có những tấm ảnh của cha...
Hoan suy tính nhưng không nhớ nổi món tiền một cách chính xác. Tuy nhiên, anh biết chị Châu lấy đi ít nhất cũng ba phần tư số tiền để trả cho bạn hàng. Con khỉ Phi Châu đã lấy hết món tiền trong ví. Y nói:
- Anh nằm im. Mười lăm phút nữa mới được dậy.
Và y biến khỏi căn buồng.
- Mười lăm phút thì lâu quá.
Hoan nói vọng theo y đoạn ngồi dậy mặc quần áo trong lúc cô điếm kéo tấm chăn lên đến tận cằm:
- Khiếp, em sợ dựng cả lông tay lông chân. Thế mà anh cứ dửng dưng như không... Ðàn ông các anh ghê gớm thật...
Hoan nhìn gương mặt vêu vao, làn môi mỏng nhem nhếch son của người đàn bà, chán ngán đến tận đỉnh óc. Anh lẳng lặng quay lưng.
Xuống thang, anh theo những ngóc ngách đã quen thuộc trở về nhà. Hôm sau, Căng tìm anh từ sớm. Họ cùng đi ăn và uống trà. Có một hiệu trà nổi tiếng gọi là Hồng Hoa, chuyên bán thứ trà xanh sủi bọt uống lẫn mật ong đang được giới làm ăn có máu mặt trong thành phố ưa thích. Hoan muốn thưởng thức thú ẩm thực của người Tàu, một dân tộc sinh ra để buôn bán, có đủ tài năng và mọi phẩm chất cần thiết cho nghề nghiệp ấy. Quán trà Hồng Hoa chật hẹp như đa phần nhà cửa, hàng quán của người Tàu. Chỉ chừng hai chục mét vuông mà có tới mười bàn trà kê thành hai hàng dọc, khách uống ngồi trên những chiếc ghế đẩu mặt tròn lưng người nọ áp sát lưng người kia, mồ hôi thoát ra từ lưng người này có thể thấm sang lưng áo người khác. Một sự thân ái không được phép chối từ. Chiếc quạt lớn trên trần nhà xoay vù vù trong lúc các bình trà sôi sùng sục bên dưới. Uống trà Hồng Hoa tựa như xông nồi hơi khi bị cảm cúm, vừa uống vừa lắng nghe cơ thể nóng lên rừng rực nghe mồ hôi thoát ra khắp lỗ chân lông. Quán ầm ầm như chợ. Người nọ chưa uống xong kẻ kia đã chầu chực đứng chờ. Ðám bồi trà chạy từ đầu phòng tới cuối phòng, điệu nghệ như diễn viên xiếc, trên tay họ là những khay nhôm nhỏ đặt lò than hoa đang cháy lẫn bình chế nước, chỉ cần lỡ tay là cả lò than đỏ rực kia có thể đổ xuống vai người xuống cổ bất cứ ai trong đám khách chen chúc đặc căn phòng.
Hoan và Căng phải chờ mười lăm phút mới có bàn trống. Khi họ đã yên vị rồi, Căng lên tiếng hỏi: - Anh thấy dân Tàu có thiện nghệ không?
Hoan gật đầu:
- Có.
Căng nói:
- Thành phố này có tới năm quán trà. Quán nào cũng thênh thang phòng ốc, đủ cảnh trang trí, nhạc tân nhạc cổ vậy mà vẫn vắng tanh. Riêng quán lão Tàu già này từ sáng tới khuya không lúc nào ngớt khách. Ai cũng bảo lão ta có bùa. Thứ bùa đó tựa như bùa yêu. Ðặt chúng ở nơi nào, nơi đó thành nam châm hút nhân gian như hút mạt sắt.
- Tôi không mấy tin chuyện bùa bả trong việc làm ăm.
- Vậy anh tin họ được trời phù?
- Họ có thực tài. Trước hết vì họ có kinh nghiệm. Dân tộc Trung Hoa biết buôn bán từ thời thượng cổ. Họ biết đóng thuyền vượt biển, biết giá trị của đồng tiền trong lúc người Việt chúng ta còn suy tôn sự nghèo nàn thanh khiết và khinh bỉ những kẻ kiếm lời bằng con đường mậu dịch chứ không phải nhờ mùa màng hoặc bổng lộc quan chức. Sự lựa chọn từ đầu đã sai. Và người Việt phải trả giá cho sự sai lầm ấy.
- Vì biết rõ sai lầm của đám đông nên anh đã chọn nghề kinh doanh Hèn nào anh thành đạt đến thế.
- Tôi vào nghề này do tình cờ. Trước đây tôi sống một cuộc sống ung dung bằng nghề khác.
- Nghề gì vậy?
Căng dướn đôi mày nhìn anh, buông câu hỏi với vẻ cợt nhạo xen lẫn nghi ngờ. Nhưng bồi trà đã đặt trước mặt họ lò than hoa, bình trà với hai cái chiếc chén. Hoan lặng lẽ cầm bình trà, rót thứ trà sôi sục xuống chiếc chén sành miệng rộng đặt trên chiếc đĩa sành lớn, sù sì da cóc. Trà rót tới đâu, thứ bọt xốp màu vàng rêu nổi bồng lên tới đó, như đám bọt xà-phòng phủ kín miệng chén và tràn xuống chiếc đĩa bên dưới. Hương trà quyện lẫn mùi than hoa cháy đỏ tạo thành thứ mùi hỗn hợp vừa thanh tao vừa nồng nhiệt, vừa thoáng chút núi đồi xa vắng vừa là mùi phố phường chen chúc nơi đám đông vật lộn cạnh tranh giành giật một mảnh mồi. Hoan bưng chén trà lên nhấp. Anh hiểu vì sao thứ trà Hồng Hoa thu hết đám thị dân có máu mặt trong thành phố. Người đô thị khát sống, khát tiền, khát mọi thứ họ chưa có. Họ chẳng thể tách rời mảnh đất chật hẹp họ cư ngụ, bởi họ bị gông cùm vào khoảnh không gian ấy để vật lộn sinh tồn và bán linh hồn cho những ham hố. Dù là ngôi nhà bốn tầng hay gian buồng mười mét vuông thuê tháng hoặc tấm phản đơn đặt vừa đủ cái lưng cũng là khoảnh không gian máu thịt bất khả phân ly. Họ phải gắn chặt với không gian đó để thấy mình được tồn tại và đang tồn tại. Nhưng trong khoảnh khôn gian quen thuộc ấy, đôi khi họ mơ những giấc mơ đúng ngọ, họ hồi nhớ những kỉ niệm đã tan mủn lúc nửa đêm, tâm hồn họ bay lượn như loài chim câu nuôi bay lượn trước khi chui vào cửa chuồng. Người đô thị không chịu được khoảng rộng và những chân trời xa xôi. Họ thích uống trà Hồng Hoa vì mùi vị nó gợi nên thứ mùi vị của cuộc sống chen lấn, xô đẩy nơi phố phường, chút hương thơm nồng ấm của nó cho phép họ bay lượn vài vòng như loài chim câu nuôi chuồng vừa bay vừa liếc mắt nhìn ô cửa quen thuộc bên dưới... Một cảm giác an toàn, thật sự an toàn. Sự an toàn là điều con người mưu cầu trước hết...
Hoan uống thêm vài ngụm trà nữa, lắng nghe những cuộc chuyện trò ầm ĩ bốn bên. Một tấm lưng nóng rực, mập thù lù vừa huých vào lưng anh. Chừng phút sau, đùi người đàn bà nào đó lại cọ vào mé sườn bên trái, một cái đùi đã nhão nhoẹt nhưng xem ra còn đầy ham hố và cuộc va chạm giống như cuộc tìm thỏa mãn cố tình... Ðó, đời sống đô thị. Ðó, trà Hồng Hoa, thứ trà của những kẻ xích chặt cuộc đời với các quầy hàng, nơi các đồng tiền được đếm lúc ra lúc vào, những con số đổ rào rào như những quân mạt chược đổ trên mặt bàn sòng bài. Cái đời xốn anh đang sống và đang xa cách...
- Anh làm sao thế... Uống tiếp đi không nguội hết bây giờ?
Căng lên tiếng. Nhưng Hoan không nghe thấy. Anh ta lặp lại lần nữa rồi lấy tay gõ xuống mặt bàn:
- Uống đi đã, kẻo trà nguội mất...
Hoan giật mình ngẩng lên nhìn Căng. Chén trà của anh sắp nguội mà trà Hồng Hoa phải uống nóng, thật nóng cho tháo mồ hôi. Cái thể thức đó đã được Căng thực thi nghiêm chỉnh. Sơ-mi anh ta ướt đẫm, dán vào thịt. Hẳn anh ta đã uống nỗ lực ba bốn chén liền. Chẳng cứ thân thể mà ngay cổ và trán Căng cũng đang nhễ nhại mồ hôi. Anh ta thở từng hơi dài, hổn hển khoan khoái:
- Nhẹ cả người, sướng thật.
Hoan hỏi:
- Anh uống nữa không?
Căng ậm ừ:
- Thôi... thôi...
Nhưng rồi anh ta chuyển ý:
- Ðược, gọi cho tôi bình nữa.
Nói xong, anh ta nhếch môi cười:
- Không thấm tháp gì với mớ tiền bị cuỗm đêm qua.
Hoan vẫy bồi gọi thêm bình trà rồi hỏi:
- Lúc đó anh ở đâu?
- Tôi chuồn ngay tức khắc, sau khi thằng chủ quán mở cửa.
- Anh nói chính gã bán thuốc lá mở cửa sao?
- Vậy anh nghĩ ai có thể làm việc ấy?
- Tôi cũng biết đây là cuộc giăng bẫy nhưng tôi nghĩ chí ít gã cũng phải tránh mặt đi.
- Gã mở cửa rồi lỉnh xuống cầu thang... Mai đây nếu anh hỏi gã sẽ đáp rằng gã buộc phải làm điều đó dưới nòng súng.
- Còn thằng cá kia?
- Ðương nhiên đó là kẻ quen thuộc, kẻ vẫn chia chác món lộc thường xuyên với gã mặt lợn kia... Nhưng tôi cứ nghĩ mãi, chẳng hiểu sao chúng đặt ra trò này... Theo cách tính của những kẻ làm ăn mối lợi lâu dài và thường nhật thường được coi trọng hơn món tiền trấn lột...
Nói xong, Căng nhìn thẳng vào mặt Hoan dò xét. Tức khắc Hoan nhớ lại lời anh ta đã dặn anh về món lót dạ trên giường và hiểu cội rễ tấm kịch đêm qua là sự hào phóng của anh với ả giang hồ có đôi mắt chó giấy. Ý nghĩ ấy không lọt qua mắt Căng. Cũng như anh, Căng có tài đoán định trong giây lát và cặp môi nhàu nhĩ nứt nẻ như môi người già của anh ta nhoành ra trong nụ cười mai mỉa:
- Chẳng ai chùi đít bằng đồng tiền vàng cả... Chùi thế, rách lỗ đít cũng đáng thôi.
Rồi anh ta lắc đầu nói tiếp:
- Thật không sao hiểu nổi... Một người khôn ngoan bậc nhất như anh. Một gã óc có sỏi thép bên trong chứ không phải đá cuội nhặt dọc đường... Hay anh bị ma ám?
Hoan không đáp. Anh né vai để cậu bồi đặt xuống lò than hoa mới lẫn bình trà mới. Như lặp lại một thể thức tế lễ anh giơ cao bình rót trà, đợi tầng bọt dâng lên. Chẳng hiểu sao, trong lớp bọt màu vàng rêu đó anh chợt nhìn thấy nương vườn trang trại của anh trên Xóm Núi thấy những con đường viền cỏ, những rặng rào đọng đầy sương, những vòm cây ngả nghiêng trong chiều gió. Anh thấy người đàn bà anh yêu. Anh thấy dâng lên làn sương mù quen thuộc vẫn dâng đầy các thung lũng miền đất cũ. Anh nhớ hơi ẩm lạnh những buổi chiều mời mọc gối chăn... Hoan bưng chén trà, nhìn mãi đám bọt nước, đợi từng hạt bọt tan dần, lúc lâu sau mới đưa lên môi nhấp. Căng vẫn uống sùng sục, vừa uống vừa đưa mắt nhìn anh. Căng chưa tìm được đáp số cho bài toán. Bứt rứt, băn khoăn vì không hiểu sao một kẻ buôn bán sừng sỏ nhất xứ lại có thể hành động ngu xuẩn như vậy? Nhưng Căng không hỏi gì thêm, biết Hoan đang để tâm nơi khác. Họ uống cạn bình trà thứ hai đã tám rưỡi sáng. Cuộc ẩm thực ban mai tiêu phí hơn hai tiếng đồng hồ. Căng thở dài sượt một tiếng:
- Tôi mất việc sáng nay vì lỡ sa vào thú hưởng lạc với anh.
Nhưng vừa nói xong, anh ta lại chép miệng tự an ủi:
- Nhưng thôi, thây kệ... Ðôi lúc cũng phải tự cho mình sướng một chút. Chẳng mấy chốc cũng hết đời...
Hoan nghĩ:
Anh ta đếm từng ly thời gian, cũng như đo từng phân bạc dành dụm trong két... Nhưng biết đâu anh ta chẳng sung sướng hơn mình?
Một đứa bé bán bánh rán rong lách vào tận chỗ họ ngồi mời. Căng lựa vài chiếc bánh tròn đa lên, lắc lắc cục nhân đậu xanh ngào đường và dừa nạo bên trong:
- Lần đầu tiên ăn thứ bánh rán này tôi đã bội thực. Khi tôi còn nhỏ mỗi lần mẹ tôi đi chợ cả năm anh em quanh quẩn trước ngõ đợi quà. Thứ quà ngon nhất bà mua cho chúng tôi là gói kẹo bi xanh đỏ và tấm bánh đa vừng. Chúng tôi chia nhau tấm bánh, đứa nào đứa hau háu nhìn xem phần mình to hay nhỏ và lỡ hạt nào rơi xuống đất thì phải cúi tìm bằng được bỏ vào mồm. Lúc tôi lớn lên kiếm được tiền giấc mơ thứ nhất là được ăn một bữa chán chê bánh rán... Chính bữa đó, tôi bội thực.
Anh ta cười, nước mắt chảy ra. Vệt hằn trên chóp mũi như sâu hơn lên và có màu đỏ của các tia máu. Tiếng cười của Căng khiến Hoan mủi lòng nhưng anh lặng im uống trà. Chờ Căng ăn xong chiếc bánh thứ ba, anh hỏi:
- Phải ăn bao nhiêu chiếc bánh rán mới bị bội thực?
- Ba mươi hai cái cả thảy. Sau đó tôi uống nước như trâu, chẳng ngờ đường còn làm người ta khát nước hơn muối. Tôi chẳng ăn gì nữa trong ngày hôm ấy. Ngày hôm sau cũng chỉ uống trà. Sáng ngày thứ ba mới ăn trở lại bát cháo đậu xanh...
Nói tới đó, Căng ngừng lời chiêu nốt chén nước trà và chỉ mấy chiếc bánh trên đĩa:
- Sao anh không ăn?
- Tôi no.
- Dạ dày anh chẳng nhỏ hơn bao tử của tôi. Nhưng với một công tử gốc rễ như anh thứ quà tầm thường đó chẳng xứng...
Căng lại cất tiếng cười và lần này giọng cười chứa đầy ghen tuông độc địa. Hoan định nói cho Căng hiểu rằng anh cũng đã từng qua những thời kì thiếu thốn, tuy chẳng đến nỗi bần hàn như anh ta nhưng cũng là một cuộc sống đạm bạc trong xã hội phân phối từ lạng thịt cho tới cân gạo. Tuy nhiên, những thiếu thốn vật chất không để lại những ấn tượng lâu dài và sâu sắc trong anh. Nhưng Hoan biết có nói cũng vô ích. Căng là loại người không nghe ai không tin ai và bị cùm trói trong những nghiệm sinh của chính gã. Gã không tin trên đời có kẻ ít ham tiền hơn ít coi trọng tiện nghi ít sùng phục đời sống thị dân hơn chính bản thân mình:
Tại sao càng ngày ta càng dấn sâu vào mối quan hệ này? Căng chẳng bao giờ có thể trở thành bạn của ta theo ý nghĩa thông thường của từ đó...
Hoan thầm nghĩ khi nhìn Căng rút trong túi áo một tờ báo, xé lấy một mảnh nhầu rồi đưa lên lau miệng. Anh nhớ lần nào đó đến nhà Căng thấy anh ta bầy trên tủ bát đĩa một xấp hai ba chục chiếc khăn tay còn nguyên nếp hồ. Anh hỏi Căng ý định buôn thêm mặt hàng này chăng, Căng trả lời rằng anh ta vốn không có thói quen dùng mù-soa nhưng anh ta sẽ tập dần cũng như trước đây anh đã tập thắt cà-vạt. Căng đã thuộc bài tập thứ nhất nhưng bài tập thứ hai chưa thành. Cứ xem điệu bộ anh ta vò tờ báo lau mồm chắc hẳn dăm bảy năm nữa chồng mù-soa trong tủ cũng sẽ còn nguyên:
Nhưng tại sao mối quan hệ giữa ta với Căng càng ngày càng dày đặc? Không thể nói là khăng khít nhưng rõ ràng số lần lui tới đã tăng theo cấp số nhân. Và ta biết rõ anh ta là ai. Vừa sợ vừa ghen, vừa thân thiện vừa thù ghét, đó là toàn bộ màu sắc tình cảm của Căng đối với ta. Bao trùm lên hết thảy là sự thèm muốn. Anh ta rượt đuổi thành công như sói đói đuổi mồi, càng đuổi càng mất tăm, càng đuổi càng hụt sức...
Căng không biết những ý nghĩ của Hoan. Lau xong miệng, anh ta ngẩng lên hỏi:
- Ðêm qua anh mất bao nhiêu?
- Tôi không rõ con số đích xác.
- Anh không biết trong ví anh có bao nhiêu tiền? Vậy mà anh lại là người sống bằng nghề buôn bán? Anh nói thật hay bỡn vậy?
- Tôi không có ý định nói bỡn. Chẳng qua trước khi đi với anh tôi đã đưa ví cho chị tôi lấy tiền trả tiền hàng. Tôi chẳng rõ chị ấy đã để lại bao nhiêu... Nhưng có lẽ món tiền ấy cũng mua được năm hay sáu cây vàng, nếu anh muốn lấy vàng làm đơn vị tính...
- Năm hoặc sáu cây vàng?
Căng chồm qua mặt bàn, hỏi lại Hoan, giọng anh ta lạc đi một cách đột ngột và đôi tròng mắt lác xệch. Gương mặt Căng hiện lên vẻ căng thẳng thường chỉ có khi anh ta tìm cách bắt mối hàng hoặc rủ rê anh vào một cuộc buôn chung mà Hoan biết rõ Căng chỉ góp một phần năm vốn nhưng bao giờ cũng đòi hưởng món lời trước tiên và gạt mọi khả năng rủi ro sang phần anh. Hoan đã nhiều lần chấp nhận kiểu làm ăn đó với tâm lý kẻ bề trên, kiểu một võ sĩ siêu thặng chấp nhận cuộc tỉ thí vô điều kiện cùng một lần với ba võ sĩ hạng gà. Chính anh cũng không hiểu được mình. Phải chăng vì Căng đã dẫn anh tới chốn lầu xanh, giải quyết thứ nhu cầu sinh vật đang hành hạ anh vào đúng khoảnh khắc anh vô cùng khốn khổ và nhờ giọng lưỡi trơ trẽn của Căng mà anh đã vượt qua được những mặc cảm một cách dễ dàng? Có thể... Nhưng còn một lý do quan trọng hơn, anh thích tiếp cận với một kẻ hoàn toàn trái ngược mình, thứ cảm giác hệt như đứa bé sợ ma nhưng lại thích nghe chuyện ma. Có lẽ, nhờ đối mặt với những thực thể xa lạ, những bản tính trái ngược nên ta có cơ may nhìn lại mình, dò tìm những vùng tối ẩn nấp trong tâm hồn mà khi sống với những người có cùng phẩm chất ta không thể nhận biết.
- Sao, anh không nhầm đấy chứ? Năm hay sáu cây vàng?
Căng hỏi lại lần thứ hai, cao giọng hơn và đường gân nơi thái dương anh ta phập phồng. Hoan bảo:
- Tôi không nhầm đâu. Tôi biết chị tôi lấy chừng ba phần tư số tiền trong ví.
Mặt Căng bỗng tái xanh và anh ta cất tiếng, gần như nghẹn ngào.
- Anh có biết em gái tôi đã phải bán mình với giá bao nhiêu không?
Hoan không biết nói sao. Anh thấy vẻ đau khổ hiện trên gương mặt méo xẹo của người bạn buôn và anh cúi xuống. Căng kéo tay khỏi mặt bàn, ngồi xuống ghế. Anh ta đưa mắt nhìn vào khoảng trống, nơi khói thuốc và khói trà hòa quyện nhau, và đám bồi lượn đi lượn lại như lũ dơi ngày. Và rồi hạ giọng thì thầm, anh ta vừa như nói với Hoan vừa như nói với chính mình:
- Nó là đứa con gái xinh xắn, còn trinh, mới mười sáu tuổi... Tôi nhớ cả ngày sinh của nó lẫn ngày nó phải làm cái việc nhơ nhuốc đó để lấy tiền mua thuốc cho cha tôi. Nó nhận được nửa chỉ vàng. Và kẻ mua dâm là một gã lái trâu, già ngang tuổi cha tôi, chuyên nghề mua trâu bò vùng sơn dã xuống huyện bán...
Hoan không biết nói gì. Anh tiếp tục châm thuốc lá, đợi cơn phẫn uất của Căng dịu đi. Anh biết những cơn phẫn uất kiểu ấy đã biến thành một phần con người Căng từ rất lâu, một phần da thịt, xương máu. Nó chỉ có thể được che giấu hoặc phơi bầy, chẳng bao giờ mất. Căng lại cầm bình rót trà. Kể xong câu chuyện mặt anh ta tím ngắt. Anh ta uống liền hai chén trà. Rồi đặt chén xuống bàn, anh ta cười:
- Tôi đưa anh đi chơi.
Hoan ngơ ngác hỏi lại:
- Chơi đâu vào lúc này?
Căng vẫn giữ nguyên nụ cười, gương mặt đã mất đi vẻ căng thẳng trở lại vô cảm như thường nhật:
- Chơi điếm ngày... Hôm nay ta đổi món. Coi như bù lại chầu lỡ dở đêm qua. Anh khỏe chứ?
- Bình thường... Nhưng tôi không muốn.
- Anh đừng ngại. Chúng ta đi đường vòng và sẽ chẳng người quen nào nhìn thấy đâu.
- Tôi không tiếc anh, nhưng ban ngày ban mặt...
- Anh xấu hổ à? Chúng ta không còn ở tuổi mười lăm.
- Nhưng...
- Tôi xin anh. Tôi xin anh đấy. Ðây là lần đầu tiên tôi xin anh. Những lần trước anh cần. Lần này tôi cần. Thuận tình đi vì như thế là lẽ công bằng.
Anh ta nói, giọng nghiêm nghị, cái nhìn khẩn thiết. Hoan chẳng còn cách nào hơn là im lặng chấp thuận. Anh gọi bồi trả tiền trà và họ rời quán Hồng Hoa lúc xấp xỉ mười giờ. Tới vỉa hè, Căng gọi hai chiếc xích lô. Căng ngả giá với phu xe như một mụ già keo kiệt rồi bảo Hoan lên chiếc xe sau, còn anh ta ngồi xe trước dẫn đường. Trời đã sang thu nhưng còn nắng, người phu xe giương mui xe lên che khiến Hoan có cảm tưởng như anh là bệnh nhân rời viện hoặc sản phụ sau khi sinh nở. Hoan thấy xấu hổ nhưng không dám yêu cầu hạ mui xe xuống vì nhìn phía trước Căng cũng đã giương mui xe lên xe, chiếc mui xe ấy lại may bằng vải hoa sặc sỡ khiến nó giống như xe quảng cáo cho gánh cải lương phố huyện. Anh đành ngồi yên trong xe, cầu Trời khấn Phật đừng gặp ai quen dọc đường. Không bao lâu họ tới khu ngoại ô. Hoan nhận được cùng một kiểu kiến trúc vá lắp phản thẩm mỹ, những ngõ nhỏ chỉ vừa đủ lách vừa hai bánh xe xích-lô, những góc sân chất đầy đồ phế thải và các đống rác chưa hót... Họ dừng lại trước một quán cà-phê nhỏ:
- Tới nơi rồi, anh vào trước đi.
Căng bảo anh rồi lấy tiền trả hai người phu xe. Hoan rảo bước gần như chạy vào quán. Anh ngồi xuống ghế, cất tiếng hỏi theo thói quen khi đặt chân tới quán lạ:
- Ở đây có những đồ uống gì?
- Ở đây có những thứ mà nơi khác có...
Giọng đáp chỏng lỏn tức thì của chủ quán khiến anh sửng sốt.
Anh ngẩng đầu nhìn vào phía quầy hàng và nhận ra người đàn bà có gương mặt tàn úa ngồi sau mẹt hàng đêm đêm. Chị ta vẫn trùm chiếc khăn hoa trên đầu dù trời không lạnh. Dưới ánh sáng ban ngày những nếp nhăn chi chít in trên gò má màu vàng chanh.
- A... a...
Hoan bất giác bật tiếng kêu. Người đàn bà nghiêng đầu cười:
- Có gì là lạ?
Giọng chị ta khàn khàn. Trong buổi mai nắng rỡ, thanh âm đó gợi một nỗi buồn chẳng thể gọi tên. Hoan không dám nhìn thẳng mặt chị ta, e những nếp nhăn bệnh hoạn khiến chị tủi hổ. Anh đành đưa mắt nhìn vẩn vơ khắp căn phòng. Quán nhỏ và lộn xộn. Tường không trát phẳng treo những tấm tranh đầy bụi một khóm hoa nhựa ám khói đen sì, vài dãy chai nước ngọt bày trong tủ kính và chiếc cát-sét cũ hát điệu hát cũ:
Hạt bụi nào hóa kiếp thân tôi
Ðể một mai vươn hình hài thức dậy...
Giọng nữ ca sĩ méo đi vì cuốn băng tồi vì máy hỏng hoặc vì những bài hát cũng giống mùa hoa phải tàn úa theo thời gian. Câu hát cũ xiêu vẹo như bước chân đám hành khất trên con lộ vắng và đôi mắt người đàn bà có gương mặt đầy vết nhám nhìn anh tựa như cặp mắt thủy tinh của một pho tượng què cụt trong ngôi miếu hoang đổ nát ven đường.
- Nào, uống gì? Chị ta cất tiếng hỏi.
- Cho tôi ly nước chanh. Hoan đáp.
- Khẩu vị đàn bà. Chị ta bình luận.
Hoan không trả lời. Chị ta quay lưng vào trong quầy pha nước. Chiếc thìa khua lanh canh, lanh canh. Lúc đó, Căng bước vào:
- Anh uống gì nữa vậy?
- Nước chanh.
- Chẳng cần phải uống cho ỏng bụng. Chúng ta ngồi đây vài phút nữa thôi.
Nói đoạn, anh quay về phía người đàn bà nói:
- Dẫn chúng tôi đi, Thu Cúc.
Gương mặt tàn úa quay ra:
- Ði ngày?
- Phải.
- Chưa đủ mùi hay sao?
- Chưa đủ.
Căng đáp và sau một thoáng ngẫm nghĩ hỏi tiếp:
- Chỗ quen thuộc sao đêm qua không báo động?
- Tôi đã nói rồi, óc đặc thì chết.
Người đàn bà đáp đoạn bưng ly nước chanh đặt trước mặt Hoan.
Căng nhìn chị ta hồi lâu rồi cất tiếng à...:
- Nhớ rồi, nhớ rồi... Nhưng lúc đó tôi chẳng lường được...
Người đàn bà cười, cặp môi thưỡi ra:
- Phải học lấy chữ lường...
Ðoạn chị ta thong thả bước trong gian phòng, vẻ như một cô đào trước màn trình diễn, vừa đi vừa cất tiếng ngâm nga:
Thế gian ai học được chữ lường.
Dẫu rằng dày dạn chín mười phương.
Vẫn còn một lối chưa thông tỏ...
Căng ngắt lời:
- Thôi, chọc ghẹo thế đủ rồi. Gọi lão gù sang trông hàng rồi đưa chúng tôi đi.
Người đàn bà không tỏ ra phật ý cũng chẳng tỏ ra ưng thuận, chị ta lẳng lặng rời khỏi gian hàng qua đường sang dãy phố bên kia. Ở đó, chị ta tiếp tục đong đưa đôi vai gầy và tấm thân cứng ngẳng trong một ngõ hẹp có rất nhiều tấm tôn chìa ra như những mái hiên. Căng trầm ngâm nhìn theo và nói:
- Ðêm qua cô ả cất tiếng mời chúng ta ăn mực. Ðó là cách báo hiệu hiểm nguy mà tôi quên khuấy mất... Lỗi tại tôi, óc tôi lú quá rồi...
Hoan hỏi:
- Ăn mực là dấu hiệu rủi ro? Lần đầu tôi nghe chuyện ấy.
Căng khoác tay phác một cử chỉ bất bình:
- Lạ thật, chuyện vặt ấy sao anh không biết? Người ta thường vẫn nói: Ðen như mực. Ðối với khách chơi hoa, nói như vậy có nghĩa là bể ống khói hoặc bị lũ ma cô hành hung. Tôi biết điều này nhưng vì chưa từng bị trầy da sớt thịt nên vô tình quên mất... Quả tình, Thu Cúc rất tốt với chúng ta...
- Thu Cúc? Tôi trông người đàn bà này chẳng có vẻ Thu Cúc lẫn Ðông Cúc... Vì sao chị ta có cái tên điệu đàng như vậy?
- Anh nhầm. Chị ta vốn là con nhà tử tế và cái tên ấy là do cha mẹ đặt cho. Ðáng lẽ chị ta phải là bà chủ, còn hai con đàn bà vẫn ngủ với chúng ta chỉ đáng làm đầy tớ... Nhưng cuộc thế xoay vần... Một người luôn may mắn như anh chắc không hiểu được cái chữ oan nghiệt đó...
Hoan lặng thinh. Căng có lý. Thực ra cuộc sống của anh không thăng trầm như nhiều kẻ khác. Anh chưa từng ra tù vào tội, chưa từng bị đói khát, hành hạ, sỉ nhục, chưa từng lết trong rãnh bùn của cuộc mưu sinh... Căng nói tiếp:
-Thu Cúc vốn không đẹp nhưng ở tuổi xuân chị ta sang trọng và duyên dáng. Biết gảy đàn, biết hát, biết đánh bóng và chơi bài. Nếu trời thương hẳn người đàn bà ấy chẳng phải kéo dài kiếp sống nơi đây... nhưng có mấy người được trời thương? Dù Chúa hay Phật tình thương cũng chỉ đủ phát cho con số lẻ, còn đa phần chúng sinh ở ngoài rìa ơn mưa móc.
Nói tới đó, Căng ngoảnh đầu ra cửa:
- Thu Cúc đã quay lại với lão gù, chúng ta đi thôi.
Hoan đứng lên. Câu chuyện khiến anh tò mò. Anh chăm chú nhìn người đàn bà đang tiến đến trước mặt mình dò tìm một lịch sử bí ẩn phía sau hình dạng tầm thường ấy. Chị ta cúi đầu khi bước sang đường. Tấm khăn phủ in những hình kỉ hà xen những bông hoa lớn với gam màu quyến rũ. Cổ đeo sợi dây mảnh bằng bạc. Tất cả có vậy thôi. Một cách trang điểm giản đơn, độc đáo. Ngoài ra, anh chẳng thấy gì khác biệt. Quần áo chị ta mặc là thứ quần áo bình thường của những người đàn bà cỡ tuổi bốn mươi. Ði sau chị ta là một lão già thấp đen có bướu lưng. Một người gù đúng nghĩa. Gù dị tật như Quasimodo trong cuốn Thằng Gù ở nhà thờ Ðức Bà của Hugo, nhưng với gương mặt choắt, chòm râu dê và cặp mắt ti hí kiểu Mông Cổ. Lão gù bước những bước ngắn nhanh thoăn thoắt, và luôn luôn giữ đúng cự ly cách người đàn bà chừng hai bước chân.
Căng đứng đón họ ngay trước cửa:
- Anh trông hàng nhé, chúng tôi đi ngay đây.
Lão gù gật đầu:
- Ðược, Thu Cúc sẽ đưa các anh đi... mọi sự ổn cả thôi.
Lão bước vào gian hàng. Căng kéo Hoan đi theo người đàn bà. Họ đi xuôi dãy phố chừng hai trăm thước đoạn rẽ vào một ngõ nhỏ còn hẹp và lởm chởm hơn cái ngõ nhỏ nơi người đàn bà đi gọi lão gù. Một thứ ngõ được tạo dựng bởi những căn nhà lắp ráp từ đủ thứ vật liệu: mảnh tôn, ván gỗ, giấy lợp, bìa các-tông, săm lốp xe ô-tô cũ. Căn ngõ đó dài đặc với rất nhiều ngả rẽ khiến Hoan lo ngại. Anh chắc nếu bị bỏ rơi ở nơi đây anh sẽ chẳng tìm được lối ra và sẽ làm mồi cho một băng cướp ngày hoặc một bọn chém mướn nào đó...
Mình thật dại dột... chẳng lý do nào khiến ta phải dấn thân vào chốn này.
Căng đi trước, chừng như đoán được ý nghĩ của anh nên quay lại:
- Ðừng sợ, tôi biết cả lối vào lẫn lối ra...
Ðoạn anh nhe răng cười và nói thêm:
- Có thể tôi rành khu này hơn cả lũ trộm cắp. Cứ yên tâm.
Họ đi như thế chừng nửa giờ và sau rốt, anh nhìn thấy cây cầu thang quen thuộc, cây cầu thang ghép bởi những tấm gỗ chưa bào thường rên rỉ oằn oại dưới những bước chân nặng trĩu của anh.
Người đàn bà dừng lại trước chân cầu thang:
- Tôi về được chứ?
Căng gật:
- Cũng được...
Nhưng chị ta vừa đi được vài bước, Căng gọi giật lại:
- Thu Cúc, hôm nay xuống đòn ân oán giang hồ, có muốn xem thì ở lại.
Chị ta gật:
- Ra thế... ờ, thì xem.
Nói xong chị vòng ra phía cầu thang chui vào căn buồng bên dưới. Họ nghe tiếng kẹt cửa, tiếng dép lê trong phòng. Căng kéo tay Hoan lên cầu thang:
- Nào, theo tôi.
Lần đầu Hoan nhìn quang cảnh căn nhà chứa dưới ánh sáng ban ngày và sự xấu xí bẩn thỉu khiếp hãi của nó làm anh rùng mình. Căng đang nghĩ chuyện gì đó, im lặng. Khi tới trước cánh cửa buồng anh ta mới chợt như sực tỉnh cơn trầm tư và giơ tay gõ:
- Ai đấy?
Có tiếng hỏi vọng ra. Căng không trả lời nhưng dang tay đập mạnh khiến cánh cửa rung ầm ầm.
- Chờ tôi chút xíu...
Lại có tiếng người đàn bà cũ vọng ra. Có tiếng guốc lê vội vàng và sau đó, cửa mở. Người xuất hiện trong đó là cô gái điếm thường qua đêm với Căng. Cao lớn, gương mặt lầm lì, mắt xếch, tóc đen và rậm, trông cô ta lực lưỡng hơn đồng nghiệp nhiều. Chẳng mảy may tức giận, cô ta giương mắt nhìn Căng:
- Hôm nay anh rảnh sao?
Căng gật:
- Rảnh... không rảnh cũng bỏ việc. Con Hồng có trong kia không đấy?
Cô ta gật đầu:
- Có. Chị ấy đang ngủ.
Căng bảo:
- Ðược rồi. Trở lại giường của em đi, lát nữa sẽ có việc.
Người đàn bà đáp:
- Em chờ.
Giọng nhẹ nhàng êm dịu trái ngược hoàn toàn với thân hình vạm vỡ. Hoan hỏi Căng:
- Tại sao lại là Hồng? Cô ta vẫn nói với tôi tên cô ta là Thanh Huệ?
- Nay nó là Thanh Huệ, ngày mai nó là Bích Hồng ngày kia nó là Kim Chi ngày kìa nó là Ngọc Diệp... làm sao anh biết được tên thật của một con điếm? Nhưng thôi, quên cái chuyện tầm phào ấy đi, vào đây với tôi.
Anh ta hất tấm màn kéo Hoan vào gian buồng bên phải, gian buồng của người đàn bà có đôi mắt chó giấy, cái lưỡi ma quỷ có tên Thanh Huệ, thứ hoa thanh khiết nhất trong các loài hoa... nàng Thanh Huệ của anh đang ngủ, gương mặt lau phấn son bợt như mặt kẻ hậu sản thiếu ăn, miệng há hốc để lộ những chiếc răng thưa thớt. Mấy lọn tóc xõa trên mặt gối thứ gối trắng ngả màu loang lổ vết nước dãi không giặt sạch. Tấm vải trải giường nhàu nát lâu ngày chưa thay và mấy tấm khăn bông cuộn như nùi giẻ lau dưới chân giường...
Mình đã từng nhiều lần nằm trên chiếc giường kia, với người đàn bà xấu xí dơ dáy kia, da thịt mình trong da thịt cô ta và hơn thế nữa...
Hoan rùng mình. Nỗi hổ thẹn nhục nhã trào lên khiến mặt lẫn gáy anh nóng bỏng. Nhưng Căng không để cho anh có thời gian tra vấn lương tâm. Cúi xuống giường, anh ta nắm cổ cô điếm dựng dậy:
- Mở mắt ra... mở mắt ra, con đĩ.
Người đàn bà oằn oài dưới bàn tay Căng, miệng làu nhàu:
- Ai thế? Ai thế? Làm gì mà ngậu lên thế?
Nói xong cô ta lại đổ kềnh xuống giường vì không cưỡng lại được cơn buồn ngủ.
- Mở mắt ra.
Căng quát to:
- Mở mắt ra. Mày ngủ thật hay ngủ vờ? Dù thật hay vờ tao cũng sẽ lôi mày dậy.
Nói đoạn, anh dang tay tát vào mặt cô ta năm sáu cái liền. Tát phải rồi tát trái, mặt người đàn bà lật như tấm bánh rán đảo trong chảo mỡ. Hoan sững sờ. Anh không dè Căng cư xử như vậy. Lần đầu đưa Hoan tới đây anh ta đã mơn trớn cô điếm thật khéo léo nhẹ nhàng:
"Này em, giao bạn vàng của anh cho em đấy nhé... hãy trổ tài chiều anh ấy hết ga hết số, bọn anh không để em thiệt đâu..."
Căng nói vậy đoạn vuốt lưng cô ta với cử chỉ âu yếm của tình nhân.
- Bốp, bốp...
Hai cái tát cuối cùng, như dấu chấm cho câu gọn gàng chuẩn mực về ngữ pháp. Mặt người đàn bà đỏ dừ, vì quá đau vì quá đột ngột cô ta không thể cất tiếng kêu cũng không tìm được cách chống đỡ, cô ta buông mình như tàu cải héo dưới bàn tay Căng. Khi anh ta dừng lại, cô ta mới mở được mắt ra. Ðưa tay ôm mặt, người đàn bà rên rỉ:
- Ôi trời, đau quá mẹ ơi...
- A, mày cũng biết kêu mẹ cơ à? Mày cũng biết đau à? Vậy khi mày gài bẫy cho bọn cá trấn tiền của người ta khác có biết người ta cũng đau xót như mày hoặc còn hơn mày không?
Gương mặt người đàn bà bắt đầu hiện lên những nốt lằn tay, các vạch đỏ nổi gờ chồng chéo nhau trên cặp má không lưỡng quyền. Chiếc cằm cô ta như mũi tàu thủy, nhọn hoắt lì lợm dưới đôi tai chuột đeo hạt trai giả. Hoan nhìn rõ những sợi gân máu phập phồng trên cổ cô ta. Anh muốn bảo Căng dừng tấn trò tại đây và đi về nhưng anh biết điều đó là bất khả. Anh đành đứng nhìn màn kịch tiếp tục diễn ra trên cái sân khấu thảm thê anh vừa đóng vai kẻ chứng kiến vừa dễ bị ngờ là kẻ chủ mưu một cách oan uổng. Cảm giác đó khiến anh bứt rứt.
Căng vẫn nắm chặt gáy người đàn bà, ghé sát vào mặt cô ta tra vấn:
- Mày được bao nhiêu phần trăm, thằng chủ mày bao nhiêu phần trăm trong sáu cây vàng? Nói ra không tao đập cho nát mặt. Thằng chủ mày không dám bênh vực còn thằng cá kia xong việc cắp đít cao chạy xa bay rồi... giờ đây nó đã diện sắc phục đeo lon đeo hàm trở lại làm người chiến sĩ bảo vệ an ninh người cảnh sát của nhân dân... mày có gào lên giữa bốn bức tường này cũng vô ích.
Cô điếm im như thóc. Hoan biết Căng có lý. Cô ta không dám và không thể kêu cứu. Tất cả những kẻ sống cuộc sống giang hồ đều phải chịu đúng luật chơi. Họ cướp bóc kẻ khác trong bóng tối và bị kẻ khác cướp bóc hoặc truy sát cũng trong bóng tối. Họ có thể thắng bại, sống hay chết nhưng không thể kêu cứu. Thế giới đen hệt đời sống của thú hoang. Không có tín hiệu S.O.S. Nhung nhúc người và hoang vu hơn sa mạc. Ở đó, tình thương là thứ thừa. Vậy mà anh cảm thấy thương hại người đàn bà đã gạt anh vào tròng, đã lạm dụng lòng tốt của anh một cách giảo quyệt và tàn nhẫn. Cô ta đang vặn vẹo toàn thân dưới những ngón tay sắt của Căng, cố sức gỡ nắm tóc đang bị kéo giật về phía sau và càng lúc càng xoắn lại:
- Trả lời tao, bọn chó thí cho mày bao nhiêu?
- Ối chao, ối chao ơi...
Cô ta tiếp tục rên rỉ, coi đó là phương sách duy nhất có thể cứu gỡ trong tình cảnh này. Sự im lặng thú nhận. Nhưng Hoan không thấy căm giận kẻ tội đồ:
Rõ ràng cô ta gài bẫy hại ta. Nhưng đó là sự mưu sinh của kẻ cùng đường. Hoàn toàn chẳng giống trò lừa gạt của mẹ con bà Kim Lan ngày trước...
Anh nhớ màu rượu vang trong những chiếc ly thủy tinh Bô-hêm, hai mẹ con bà trưởng cửa hàng xúng xính váy áo và cái kí ức khiến anh động tâm trước người đàn bà rạc rài khốn khổ đang bị hành hạ trước mắt mình.
Không, ta chẳng có chút uất hận nào trong sự rủi ro này... ta có mất một số tiền, nhưng chẳng ai xúc phạm danh dự, làm tổn thương tâm hồn ta. Cái đó, mới chính là thứ cần bảo trọng. Ta không thể đứng ở đây, chứng kiến màn kịch tồi tệ này...
Anh cất tiếng:
- Này Căng, tôi có việc.
- Không.
Anh ta nói gần như quát:
- Anh không cần bố thí lòng nhân đạo với loại chó cái này. Cách đây nửa năm, nó cũng đã lừa một khách chơi cho bọn ma cô trấn. Ðể tôi ra đòn cho nó biết luật lệ.
Hoan nhắc lại:
- Tôi có việc. Tôi phải về.
Căng cười nhạt:
- Anh không thể về theo lối quen vì sẽ chạm trán nhiều người. Giờ đang lúc nửa trưa và gần hết dân thành phố biết mặt anh. Còn lối vòng qua hẻm ngoài Thu Cúc với tôi chẳng ai đưa anh đi nổi... liệu anh có dám mò mẫm trở về một mình chăng?
Hoan im lặng. Anh biết anh không thể. Anh là kẻ có máu mặt trong thành phố, chắc chắn những ổ lưu manh trộm cắp lẫn những gã tài tử đói ăn đều muốn chờ cơ hội tốt để ra tay. Là một ông chủ lớn nhiều khi cũng phiền phức...
Thấy Hoan không nói gì thêm, Căng hạ giọng tiếp:
- Thôi được, lát nữa chúng ta sẽ về... tôi kết thúc trò chơi thật nhanh cho anh được giải thoát.
Dứt lời, anh ta cất tiếng gọi:
- Thu Cúc, Thu Cúc...
- Tôi đây.
Có tiếng đáp tức khắc và người đàn bà trùm tấm khăn hoa bước vào.
- A... a... a... a...
Một tiếng thét xé lên, âm thanh chói sắc như lưỡi lam rạch đôi màng nhĩ và Hoan thấy cô điếm đang quằn quại dưới bàn tay Căng vụt chồm về phía trước. Bằng bước nhảy của loài hổ vồ mồi cô phóc tới chụp cả hai bàn tay lên gương mặt kẻ mới đến. Những móng tay sắc nhọn cào roạt một tràng khiến Thu Cúc hét lên. Chị ta lùi lại một bước để tránh đối thủ và trong động tác ấy, chiếc khăn trùm đầu bị giật tung phơi cái sọ trơ trụi không sợi tóc:
- U ú ú...
Thu Cúc rú lên. Chị ta ngớ ra trong một giây vì hổ thẹn và sau khi biết chắc chắn cái đầu trọc lóc của mình đã bị phơi trước mặt kẻ khác cơn hoảng hốt đó biến thành thù hận điên cuồng. Mặt chị ta ngả trắng như vôi, những vết nám rắc như đám đậu đen trên gò má, cặp mắt lạnh lẽo và u sầu thường nhật bỗng long sòng sọc như mắt loài cọp dữ:
- Con đĩ Hồng...
Người đàn bà thong thả buông từng lời, và Hoan nhìn thấy mắt chị ta dâng lên dòng lũ thù hận đã tích tụ qua bao nhiêu năm tháng.
- Con đĩ Hồng, giờ mày sẽ biết tay tao...
Chị ta tiếp tục nói rất khẽ, thong thả tách từng âm tiết. Cặp môi tô son khẽ nhếch lên cười. Những vết cào rớm máu chạy rần rần như đám giun bò trên gương mặt. Bất chợt, từ bức tường giáp tấm màn che, người đàn bà nhảy một bước phóc lên giường. Chị ta chồm lên tấm thân đối thủ, dằn cô ta xuống, bóp cổ cô ta với hai bàn tay xương xẩu như tay đàn ông, những ngón tay dài móng vuông và vàng khè:
Ðó là những bàn tay của người đã từng chơi bóng...
Hoan thoáng nghĩ khi chứng kiến tấn kịch. Căng há hốc mồm, anh không ngờ cô điếm Hồng rẫy được khỏi những ngón tay cứng như sắt nguội của mình và rạch lên mặt Thu Cúc những móng vuốt dữ dằn như thế. Trong tay anh, còn lại nắm tóc xơ xác. Hai người đàn bà lao vào cuộc xâu xé. Hai kẻ khốn cùng. Không chồng không sinh nở. Một người đầu trọc lóc người kia để lại những nắm tóc xác xơ trong tay kẻ hành hung... Căng, sau khi qua cơn thảng thốt bắt đầu tức giận. Anh ta thả nắm tóc trong tay xuống sàn:
- A, con khốn nạn... mày dám làm như thế trước mắt bố mày đây...
Nghiến răng lại, Căng giật đầu cô điếm Hồng ra phía sau. Tức khắc, Thu Cúc nắm tay thụi xuống mặt cô ta.
- Thôi, thôi đi...
Hoan cất tiếng quát. Anh không ngờ mình có khả năng quát to như vậy:
- Dừng tay lại... tôi không muốn xảy án mạng ở đây. Hai người không dừng tay lại tôi sẽ gọi cảnh sát, rồi muốn ra sao thì ra.
Chưa bao giờ anh nói to như thế trong đời. Anh, con trai ông giáo Huy, được dạy từ nhỏ rằng chỉ những kẻ lố bịch mới làm ầm ì trước mặt người thứ ba. Vậy mà tiếng quát của anh có hiệu lực tức thì. Căng bảo Thu Cúc:
- Thôi, buông nó ra.
Thu Cúc giáng nốt quả đấm cuối cùng xuống gương mặt nhòe nhoẹt máu của cô điếm. Máu vẫn tiếp tục chảy từ cánh môi rách và bên lỗ mũi dập nát. Thu Cúc nhặt mảnh khăn dưới đất trùm lên đầu. Chị ta quay mặt vào tường chẳng nhìn ai. Rồi ra đi. Chị biến rất nhanh sau tấm màn. Không nghe thấy cả tiếng chân trên cầu thang. Căng bảo Hoan:
- Về thôi.
Ðoạn anh ta quay lại cô điếm nằm rũ rượi như cái xác vô hồn:
- Hãy nhớ kĩ lần này đồ chó cái... trấn lột của thiên hạ cũng không quá dễ đâu.
Chùi tay vào đùi, anh ta nói vọng sang ngăn buồng bên kia:
- Anh về đây, bữa khác gặp.
Tiếng người đàn bà đáp lại:
- Dạ, em chờ...
Hai người đi xuống, tiếng chân họ nện trên cầu thang nghe rõ mồn một. Khu này, vọng động của phố phường mơ hồ tan trong không gian hiu quạnh. Cư dân túa các ngả, đoàn quân nô dịch của phố phường, những người bới rác và móc cống, những kẻ mua lông gà lông vịt giấy vụn đồng nát bàn là bếp điện hỏng cốc chai vỡ và một trăm lẻ một thứ đồ táp nham phế thải của cuộc sống nơi đô thành. Ban ngày, chỉ còn lại những người già không làm nổi việc gì, những kẻ tàn tật hoặc những người ngớ ngẩn điên khùng. Những kẻ khốn khổ đó chui rúc trong bóng tối hoặc ngồi lật lưng phơi nắng trước cửa. Mấy bà già da mốc thếch như da trăn rờ rẫm vãi từng hạt cơm quanh bu gà. Hoan biết buổi tối con cháu họ sẽ đem bu gà đó ra chợ. Ðoạn khu chợ chỉ họp lúc nhọ mặt người, bán vội vàng qua quýt cho những kẻ ít tiền, những gã móc túi hoặc đám thi sĩ nổi hứng bất kì lúc hoàng hôn... khu ngoại ô buồn thảm phơi dưới mắt Hoan. Ðã bao lần anh qua đây nhưng hôm nay là lần đầu tiên anh nhìn nó dưới ánh mặt trời. Bỗng dưng anh buồn. Chân tay anh trở nên đờ đẫn. Những ý nghĩ lướt qua óc anh u ám như những đám mây đen chầm chậm lướt qua khung trời mùa đông.
Anh nhận ra mình đã đến trước quán cà-phê Thu Cúc với lão gù. Lão đang đứng trước cửa, đưa cặp mắt ti hí nhìn anh. Căng đã ngồi hút thuốc phì phèo. Không thấy Thu Cúc. Lão gù hỏi:
- Hai anh dùng gì?
- Cho ấm trà sen đi... a mà thôi, sáng nay tụi tôi vừa uống trà Hồng Hoa rồi. Cho hai tách cà-phê nóng, thứ hảo hạng, pha cà-phê đểu tôi hắt ra đường...
Căng đáp, giọng nửa bỡn cợt nửa đe dọa. Hoan hỏi:
- Quán này có mấy thứ cà-phê?
Căng đáp:
- Ít nhất cũng năm loại, phải không anh gù?
Lão gù xác nhận:
- Chính xác. Năm loại.
Căng đắc ý kể:
- Trước hết là loại cà-phê rửa bát loãng ngoét bán đại trà cho mọi loại phu phen thợ thuyền, xích lô, ba-gác, thợ làm đường và lũ trẻ con nhà nghèo học đòi tập toạng. Loại thứ hai đã có ít mùi cà-phê gọi là cà-phê áo ngắn, khá hơn chút đỉnh, bán cho học sinh trung học và dân buôn đầu đường xó chợ, những người gánh hoa quả rong. Loại thứ ba là loại cà-phê trung bình ở tất cả quán trong thành phố, người nào uống cũng được, nước đã sánh hơn đậm hơn được gọi là cà-phê sinh viên. Loại thứ tư chính hiệu Buôn Mê Thuột ngon thơm đặc sánh pha phin lẻ, nước sôi ngâm tách, giá đắt gấp đôi thứ cà-phê sinh viên là cà-phê công tử, dành cho đám con nhà giàu hoặc những sinh viên được gia đình chu cấp biệt lệ. Loại thứ năm là tuyệt đỉnh, tôi đang gọi đãi anh, cũng là cà-phê Buôn Mê Thuột, nhưng đòi hỏi kỹ thuật rang sấy cầu kỳ, bao nhiêu lượng mỡ gà, bao nhiêu bơ, bao nhiêu muối rang trong thời gian bao lâu, ngọn lửa thế nào và được ủ ra sao trước khi xay... tất thảy đều là bí quyết. Hơn nữa, khi pha, phải pha đúng kiểu Pháp thuộc địa, kiểu đó chỉ có những tay bếp Tây ngày xưa nắm được rồi truyền lại đến bây giờ... Căng nói say sưa, sùi bọt mép, như cậu học sinh thuộc bài từ lâu đợi mãi mới có dịp lên bảng đọc thuộc lòng. Hoan phì cười:
- Anh giỏi thật. Tôi là dân gốc ở đây mà chẳng rành.
Căng cười ngất ngư:
- Trời cho mỗi người mỗi lộc. Tôi chẳng buôn may bán đắt như anh nhưng trời cho tôi một trí nhớ thần kỳ tất thảy những gì từ năm tôi ba tuổi tới nay tôi nhớ như buổi chiều hôm qua.
Lão gù bưng ra hai tách cà-phê nghi ngút khói. Mùi thơm tỏa ngào ngạt khắp gian phòng. Hoan nói:
- Thơm thật... lần đầu tôi ngửi thấy mùi thơm đặc biệt thế này. Thật không ngờ...
Căng cả cười nói tiếp:
- Không ngờ cái quán ghẻ lở nơi ngoại ô lại có thứ đồ uống xịn thế phải không? Nào, mời...
Anh ta bưng tách cà-phê lên hít ngửi một hồi rồi hỏi chủ quán:
- Lúc nãy Thu Cúc có rẽ vào đây không?
Lão lắc đầu:
- Không, cô ấy đã về thẳng nhà.
- Con đĩ Hồng nhảy bổ vào chị ấy, tôi không kịp đỡ.
- Con rắn độc mặt lưỡi cày ấy nham hiểm lắm.
- Nó cào Thu Cúc xước mặt.
- Rồi tôi sẽ bắt nó trả nợ ba lần.
- Anh tìm thuốc cho Thu Cúc.
- Khỏi lo. Tôi có thứ mỡ chuyên bôi sẹo và thứ rượu thuốc dành cho đám võ sư.
- Nhưng chúng tôi cũng đập nó nát mặt.
- Chưa đủ.
- Tôi định hiếp cho nó bại xương hông nhưng anh bạn đây đòi về.
- Cứ để nó đấy. Khắc có người lo.
- Anh không sợ thằng mặt dầy bán thuốc lá à?
- Thằng đó nhiều nợ với tôi... Vả chăng nó đã kiếm được mấy con bò lạc mới sắp thải con đĩ Hồng.
- Anh đã thấy mấy con bò lạc đó chưa?
- Rồi.
- Có con nào khá không?
- Cũng tạm... Toàn dân xứ biển trốn làng ra đây, chẳng ngon mắt nhưng khỏe như trâu đực. Thứ ấy đến bò nhảy cũng không chết.
- Còn non không?
- Non. Lớn nhất mười chín, nhỏ nhất mười lăm.
- Có đứa nào còn trinh không?
- Ðừng mơ. Gái xứ biển dâm vô độ. Chúng toáy hoáy từ thuở dậy thì.
- Thôi cũng được, chọn cho chúng tôi hai con khá nhất.
- Ðược.
- Anh cứ bảo thằng béo chính tôi yêu cầu.
- Ðược.
- Hiện chúng đang bị nhốt ở chuồng nào?
- Cách đây hai mươi cây số. Lão đang tập nghề cho chúng... Anh có thích mò xuống đó chơi non hay không?
- Cũng hay. Bọn gái chưa thành thục cũng có cái thú riêng. Hôm nào đi được báo cho tôi.
- Yên trí, tôi sẽ báo cho anh thật sớm.
Căng nhấp ngụm cà-phê thứ nhất, khà một tiếng. Hoan đã uống gần cạn tách cà-phê. Cà-phê ngon thật. Hoan không ngờ trong cái quán bẩn thỉu tồi tàn này có thể kiếm được thứ cà-phê ngon đến thế. Cách sao rang tẩm xay có bí quyết nào đó khiến vị cà-phê thơm ngậy, cùng một lúc mùi mỡ gà mùi bơ mùi muối mùi than lửa hòa quyện thành thứ mùi siêu việt khôn tả. Giá chi anh học được bí quyết này để về rang xay cà-phê uống sáng sáng nơi Xóm Núi? Ý nghĩ ấy vừa chợt đến đã khiến anh giật mình sững sờ: Xóm Núi còn đó nhưng mái ấm của anh đâu còn? Chỉ có ông già Lư chăm sóc vườn tược và ngày ngày Miên đưa cu Hạnh về chơi. Vợ anh trở lại nhà như vị khách thường nhật, còn anh, anh là vị khách hàng tuần. Ngày Chủ Nhật anh quay lại gặp đứa con trai khi Miên vắng mặt.
- Thế nào, anh có thể liệt cà-phê quán này là hạng nhất thành phố không?
Căng cất tiếng đột ngột hỏi. Và anh, giật thót mình gật đầu:
- Nhất, nhất... nhưng vì sao không trưng bảng quảng cáo hoặc đề giá từng loại cho khách hàng?
Căng cười sằng sặc:
- Vì chủ nghĩa xã hội không chấp nhận một tách cà-phê này đắt gấp năm lần hay mười lần một tách cà-phê khác... Xã hội của chúng ta là xã hội của sự công bằng.
Ðặt tách cà-phê xuống, anh ta mím môi lạ, nụ cười tự dưng biến mất trên gương mặt vô cảm, gương mặt đã quá quen thuộc với anh. Hoan dè dặt nói:
- Ờ, tôi nghĩ nhà nước có lý của họ.
Căng nhìn anh:
- Anh nghĩ thế thật hay vờ? Anh có tin rằng trên đời này có sự công bằng hay không? Tôi chưa từng nghĩ tới điều ấy kể từ khi tôi biết mặt chữ. Sự công bằng, tự tay tôi thiết lập trong chừng mực tôi có thể... Ðó, anh vừa nhận ra sự công bằng tôi tạo dựng trước mắt anh. Con em gái tôi nõn nường xinh đẹp như vậy phải bán trinh cho gã lái trâu lấy nửa chỉ vàng, trong khi một con điếm già tã tượi mỗi lần nằm ngửa lại được anh cho mấy tờ bạc lớn, không những thế còn lừa anh cho bọn cá và thằng chủ lầu xanh trấn lột... Ðiều đó có gì giống với sự công bằng anh nghĩ không? Không... Vậy tôi phải tự tay thiết lập sự công bằng trên cái mặt dày của nó... Còn nữa, một người như Thu Cúc, vợ anh bạn gù đây có đáng sinh ra để làm cái nghề đốn mạt này không? Không. Nhưng chị ấy đã bị số phận xô đẩy và phải lăn lưng xuống bùn. Thu Cúc đã học đại học luật năm cuối. Quê chị ấy ở Nha Trang. Chị ấy lưu lạc tới đây sau ngày giải phóng, chẳng phải thứ dân thất học như tôi...
Trán Căng nhăn lại trong khi anh ta nói, gương mặt anh ta xanh xám, vệt gân đen nổi giữa sơn căn. Hoan không khỏi kinh ngạc: Một gã thất học trồi từ bùn đen lên, thán phục và thương cảm một người đàn bà xuất thân từ tầng lớp trên bị sóng đời vùi dập trong khi thẳng tay đánh đập tàn nhẫn một người đàn bà khác cũng bùn lầy dơ dáy như gốc rễ của gã, như bản thân gã... Và động cơ trước hết là sự chênh lệch giữa hai món tiền bán mình, cái duyên cớ thúc đẩy lòng căm uất và cho phép gã thiết lập sự công bằng như gã muốn? Thật sự, anh không hiểu nổi cái lô-gích đời sống này. Cái cuộc sống anh đang phải chấp nhận dù anh ước muốn được xa cách mãi mãi. Cái cuộc sống anh đang đối diện từng ngày từng giờ mà không ngừng ao ước cuộc bỏ trốn. Cái cuộc sống hòa trộn gương mặt vô cảm của gã lái buôn Căng với đôi mắt chó giấy tô vẽ của cô điếm
Hồng, cái đầu trơ trụi không sợi tóc của nàng Thu Cúc với màu son đỏ chói trên làn môi dầu dãi, những bàn tiệc và chiếc thau nhôm chứa nước tiểu trong gian nhà chứa, chốn đại tiện công cộng được thỏa thuận cho giới đàn ông... Ðó, chính là gương mặt thật cái cuộc sống anh phải chấp nhận, thô lậu xa xỉ khốn cùng. Chỉ tới hôm nay, anh mới thấu suốt. Giống một ngày thu trong veo chợt ta nhìn rõ những vẩn mây lơ lửng tít khung trời.
Hoan đưa tách cà-phê lên môi uống cạn những giọt cuối cùng. Những giọt cà-phê đặc sánh thơm nức khiến anh nhớ những nương cà-phê chín đỏ, nhớ không khí mùa thu hoạch trên Xóm Núi, đám thợ hái cà-phê đi lại trò chuyện giữa các rặng cây, trời thênh thang, gió thổi, chim hót, tiếng sáo của lũ trẻ chăn dê từ các sườn dốc vọng về... Anh nhớ. Hồi nhớ không sót một mảy may cuộc sống anh từng sống. Anh thấy Miên đi giữa những nương vườn, tay này chị xách chiếc giỏ tre đựng thẩu chè đậu xanh đãi thợ và tay kia xách ấm trà tươi lớn, chị cười nụ cười mê hồn gương mặt ửng hồng với những giọt mồ hôi lấm tấm trên môi, cặp mắt đen láy nhìn anh qua đám lá cành, chờ đợi, e ấp như thời thiếu nữ chưa qua... Bây giờ, anh đã biết rằng anh chẳng bao giờ có cuộc sống thật sự nơi đây, trong thành phố này, nơi chẳng ai xót thương ai và tất cả bán mình cho đồng tiền trong túi. Ở đây, dù thành công hơn nữa, xây mười một ngôi nhà lầu anh cũng không sung sướng. Chỉ có một người có thể đem lại sinh khí cho cái thực thể mang tên hạnh phúc, người đó là Miên. Chính chị mới là cột trụ của cuộc đời anh, kẻ khai tạo niềm vui và nguồn vui sống. Chính chị là người bảo trợ cho anh. Xét cho cùng, người đàn ông như anh là kẻ yếu. Anh chẳng phải gã đàn ông có gương mặt vô cảm ngồi trước mặt anh kia. Gã, kẻ hùng. Gã yêu tiền, sung sướng vì tiền. Thế là đủ. Anh, con vật yếu đuối cần tình yêu. Chỉ một người có thể mang lại cho anh điều đó. Người ấy là kẻ mạnh. Người ấy đã bỏ anh ra đi vào một sớm sương mù, với bị cỏ Thạch trinh hương. Cuộc ra đi giống cuộc ra đi của kẻ tử thù. Nhưng chị đã quyết. Và chị bỏ anh côi cút sau lưng. Và cuộc đời xô đẩy anh đến bến bờ rác rưởi này... Sớm ấy sương mù... Tại sao lại có một buổi sớm sương mù như thế sau những ngày hạnh phúc? Tại sao vô vàn những hạt sương trên lá cành vườn tược rớt xuống mặt anh?
- Anh làm sao thế?
Căng cất tiếng hỏi đột ngột và nhìn chòng chọc vào mặt anh.
Hoan vội vã chớp mắt:
- Có con muỗi vừa bay vào mắt tôi...
Anh ta im lặng, đầy vẻ hồ nghi nhưng không gặng thêm. Rồi lát sau anh ta hỏi:
- Về chứ?
Hoan gật đầu:
- Về.
Căng rút ví:
- Tôi trả chầu cà-phê này.
Hoan gạt đi:
- Ðể tôi.
Nhưng anh ta lắc đầu quầy quậy:
- Không. Riêng lần này tôi trả. Tôi đang sướng. Những lần khác anh trả là hợp lý. Anh giàu gấp trăm lần tôi và nhờ tôi anh hiểu thêm được chuyện đời.
Nói rồi Căng quay lại bảo chủ quán:
- Nhớ món hàng tôi dặn... Hai con bò xứ biển, chọn loại thịt chắc nhưng đừng đen quá... Ngon lành đến mấy mà da đen xì cũng hết thú chơi...
Chương 20
Vào mùa săn, việc nương vườn trễ nải. Các ông già bà lão ngồi uống nước chuyện vãn ngóng tin con cháu. Ðám đàn bà ra ra vào vào ngóng chồng. Lũ trẻ biếng chơi, tụ tập chờ tin cha anh, mỗi lần có toán thợ săn trở về là chúng phóng như bay đến xem rồi lại phóng như bay đi khắp nơi loan báo. Tất thảy mọi đôi tai đều dỏng lên chờ hiệu kèn báo đoàn săn thú trở về. Không khí vừa khắc khoải, bồn chồn vừa nao nức như ngày hội. Khó ai đủ kiên tâm lên nương rẫy lúc này. Xóm thôn cứ lặng ngắt trong cơn hồi hộp như thế cho tới lúc mùa qua...
Một sớm, đứa con trai lớn của Xá chột tới nhà Bôn réo ầm ĩ từ ngoài ngõ:
- Chú Bôn... Ớ chú Bôn... Cha cháu nhủ chú sang uống rượu.
- Chú Bôn..., ớ chú Bôn...
Bôn còn đang ngái ngủ, thằng bé đã đập cửa buồng thình thình:
- Chú Bôn, mở cửa mau.
Bôn vừa bật chốt cửa, nó đã chạy tọt vào vừa thở hồng hộc vừa nói:
- Chú mau sang mà xem... Nhiều lắm, nhiều lắm... Hai con gấu ngựa này, ba con hươu với mạ heo độc nặng ngót hai tạ... Bố cháu bắn con heo độc đó, nhủ chú mau sang ăn thịt nướng.
Bôn hỏi:
- Họ đang chia thịt hả?
- Dạ.
- Chia ở đâu vậy? Nhà trưởng thôn à?
- Không... Nhà cụ trưởng phường.
Thằng bé đáp với vẻ khinh khỉnh. Tuồng như nó không hiểu vì sao anh cất tiếng hỏi ngớ ngẩn như vậy... Bôn chợt nhớ rằng trong mùa săn, mọi chức sắc của đời sống thế tục bị đẩy lùi xuống hàng thứ yếu và người thực sự có uy quyền là người thợ săn giàu kinh nghiệm nhất, biết đoàn kết anh em trong phường, biết dẫn họ đi theo những lối may mắn, biết chọn giờ xuất hành tốt nhất để săn được nhiều thú và tránh những rủi ro... Anh bảo thằng bé:
- Cháu về đi... Lát nữa chú sang.
Thằng bé chỉ chờ câu nói đó là cắm cổ chạy đi liền. Bôn chắc bố nó cùng đám bạn phường đang chia thịt. Cuộc chia bôi xem chừng phải hàng giờ mới xong. Theo lệ cũ, bất kỳ người thợ săn nào hạ được con thú cũng chỉ được hưởng một đùi tức là một phần tư con mồi. Ba phần tư còn lại được xẻ làm đôi, nửa chia cho anh em cùng phường nửa chia cho các hộ trong làng. Bởi thế đến mùa săn dù nhiều dù ít nhà nào cũng được thịt rừng và hễ là dân trong phường dẫu năm ba mùa liền chẳng bắn trúng con thú nào cũng vẫn được chia phần thịt đều như những người khác. Chỉ một tiếng nữa thôi, cả làng sẽ vang lên tiếng chày cối chí chát, tiếng dao băm xuống thớt, tiếng gọi í ới vọng qua các bức rào và không gian sẽ ngào ngạt mùi thịt nướng hoặc mùi phi hành tỏi...
Ta nấu nồi thuốc đã, uống xong sang cũng vừa...
Bôn nghĩ vậy. Anh xuống bếp đun nồi nước lá Dâm dương hoắc. Trong nhà còn một bát thuốc bổ khác chờ anh. Thứ thuốc ấy, chính cụ Phiều dạy anh nấu. Sau một thời gian sức lực anh khá lên đôi chút, cụ đã khuyên anh kiên trì uống cao dê. Thứ cao dê chuyên trị thận hư đau lưng, gân cốt yếu, hay đổ mồ hôi ban đêm, lòng bàn chân lẫn bàn tay sinh nhiệt, luôn bị táo bón và da lông khô ráp. Tất thảy các hiện tượng lâm sàng đều ứng đúng với Bôn, như thế anh phải uống bài: Ích âm bổ thận, cường tráng gân cốt. Bởi vì, theo cụ Phiều, không những anh hao tổn dương khí mà âm khí cũng tiêu tán, tì phế đều nhược, cần thay đổi các phương thuốc theo từng giai đoạn mới có thể cân bằng âm dương, di dưỡng sinh khí. Bài thuốc cụ bày cho anh không quá cầu kì nhưng cũng tốn công sức. Anh phải kiếm đủ tủy xương dê nấu chín, mỡ dê rán, mật ong trắng, gừng tươi, và củ địa hoàng tươi. Tuy nhiên, tất thảy những thứ đó đều mua bằng tiền của Miên, những đồng tiền rút từ túi áo chị. Sáng sáng, Bôn hòa cao dê với nửa bát nước sôi và nửa bát rượu uống thay trà. Sau khi thuốc ngấm, mồ hôi thoát ra ướt đẫm lưng áo, anh cảm thấy mình khỏe như thời mười tám, có thể chiến thắng mọi trở lực và làm cho Miên có thai ngay đêm ấy... Nhưng cảm giác sảng khoái và niềm tin đó chỉ tồn tại nửa giờ. Khi mồ hôi lạnh trong lưng, những cơn đau lại tới, những mối u hoài lẫn sự tuyệt vọng lại xô anh xuống dòng nước và anh chơi vơi như kẻ sắp chìm... Lần hồi, anh không còn biết mình phải làm gì? Anh vẫn uống thuốc như một cái máy đúng giờ nạp điện là nạp điện. Anh vẫn hy vọng phục hồi, vẫn không bỏ qua bất cứ lời khuyên nào, không đánh mất bất cứ cơ may nào để thực thi ước muốn... Nhưng cùng lúc ấy, có một gã đàn ông thảm đứng bên ngoài, nhìn tất thảy những nỗ lực của anh với cặp mắt chế riễu với nụ cười ảm đạm, gã đàn ông đó biết mọi nỗ lực của anh là nỗ lực của dã tràng, và trong nụ cười mỉa mai u ám của gã anh thấy một con thuyền gãy lái, cánh buồm tơi tả vẫn không ngừng bơi, không ngừng bơi...
- Chú Bôn... ớ chú Bôn...
Thằng con Xá chột đã quay lại, đang gào ngoài cổng với giọng bất mãn không che dấu:
- Bớ chú Bôn, cha cháu đang chờ chú ở nhà.
- Ờ, chú sang, chú sang ngay đây...
Bôn không ngờ cuộc chia chác chóng vánh như vậy. Anh vào buồng, uống bát cao dê hòa rượu rồi đi. Trưa nay, anh sẽ uống rượu với Xá. Sẽ bớt được một buổi trưa buồn tẻ vì theo lệ thường anh ăn bữa trưa một mình. Từ ngày Miên đưa con trai trở lại nhà cũ, họ chỉ ăn chung bữa duy nhất vào lúc tối trời. Sáng nào, Miên cũng dạy trước anh, nấu cho anh óc cơm nếp rồi sang nhà dì Huyên. Óc cơm nếp ấy anh ăn với thịt hoặc cá chị đã kho sẵn. Trưa anh có thể nấu chút cơm nóng ăn với canh rau hoặc bầu bí luộc. Nếu không, anh nấu bát cháo tiết dê hoặc cá riếc với thuốc nam theo cách chỉ dẫn của cụ Phiều. Chỉ đến buổi tối anh mới cảm thấy mình được quyền làm chồng, có một người đàn bà ngồi đối diện bên mâm cơm. Chỉ buổi tối, gian buồng của anh mới trở thành một mái nhà cho dù dưới mái tranh ấy anh không dám nghĩ anh có một tổ ấm, hoặc một cái tổ mà kẻ này ấm còn người kia lạnh...
Dẫu sao, trưa nay ta cũng sẽ được vui vẻ... Dẫu sao, Xá cũng là người bạn chân tình chẳng ai sáng được....
Ý nghĩ đó được anh kéo dài, nhấm nháp như đứa bé nhấm nháp mẩu bánh và khi bước chân qua ngưỡng cửa nhà bạn anh vẫn còn lâng lâng vui.
Xá chột ngồi khoanh chân trên phản đợi anh. Chai rượu thuốc trước mặt, đôi đũa gác ngang miệng bát. Chiếc mâm đồng lớn đặt chính giữa phản, trên đó lò than hoa đang nổ tí tách, cạnh lò là chiếc thẩu lớn bằng gốm da lươn đựng đầy thịt ướp. Bôn biết đó là thịt heo rừng, mạ heo độc đã ngã dưới mũi súng của Xá. Anh chàng sẽ được thăng lên hàng thợ cả sau chiến tích này. Săn nai, săn hươu, săn khỉ, săn hoẵng, săn chồn, săn cáo... thảy thảy đều là công việc của loại thợ cỏ, kể cả săn gấu chó cũng vậy. Nhưng một khi anh hạ được gấu ngựa, lợn lòi, hay hổ lập tức anh được lên chiếu trên, thành thợ cả hoặc thợ sơn gọng, hệt như võ sĩ Tây côn-đô được thăng từ đai trắng lên thẳng đai đen, bỏ qua đai xanh và đai nâu... Nếu con lợn lòi Xá hạ chỉ nặng cỡ tám chục cân, anh ta chẳng được vinh thăng như thế và ít nhất cũng qua vài mùa săn nữa Xá mới có thể mon men tới chiếu đàn anh, nhưng vì con vật anh ta hạ thủ nặng ngót hai tạ nên Xá đã nhảy một bước vọt lên thượng đỉnh làng săn như vậy chỉ trong một thời gian ngắn nữa, chắc chắn anh sẽ ngồi ghế trưởng phường thay cho cụ trưởng phường đang kiêm vị. Gương mặt chàng cựu chiến binh hoan hỉ. Thấy Bôn bước vào anh ta cao giọng gọi:
- Mẹ thằng cu đâu rồi? Mẹ thằng cu đâu?
Cô Soan chưa kịp trả lời, Xá đã quát:
- Khách đến rồi, mẹ thằng cu đâu?
Vợ Xá dạ ran lên hai ba tiếng liền dưới bếp rồi hơn hớn chạy lên chào Bôn:
- Mời anh vào, nhà em chờ anh đã lâu.
Bôn bước vào, cô Soan cũng bước theo, hai má đỏ hây hây như đào chín:
- Thôi, hai anh nhâm nhi với nhau cho ròn chuyện. Em xin phép ăn dưới bếp với mấy đứa trẻ, mẹ con em cũng được thoải mái vui vẻ với nhau.
Nghe vợ nói, Xá chột gầm gừ trong họng như dọa nạt nhưng con mắt lành của anh ta sáng long lanh. E hèm một tiếng, Xá bảo:
- Ấy là tự cô quyết định đấy nhé, chẳng phải tôi... Giao hẹn trước không sau này lũ trẻ lớn lên lại mách: Bố chúng mày ngày xưa phong kiến bắt mẹ với các con ăn dưới bếp chỉ riêng ông ấy ngồi chiếu trên... Ðàn bà thời nay bình đẳng bình quyền đa sự lắm. Soan cười khanh khách, quay cổ lại đối đáp:
- Này bố thằng cu, em không có tài dựng chuyện cũng chẳng có nghề đơm đặt như anh. Cái kiểu đó các cụ vẫn gọi là: suy bụng ta ra bụng vợ đấy...
Nói rồi cô chạy tọt xuống bếp. Và từ dưới bếp tiếng cười của người mẹ trẻ với mấy đứa con ròn rã vọng lên. Tiếng cười làm Bôn tê tái... Giá như anh có ở lại Bản Kheo và có con với nàng Thoọng chắc chắn chẳng bao giờ cô nàng có được tiếng cười nổ như ngô rang lấp lánh bọt nước rực rỡ như nắng hạ. Tiếng cười đem lại nguồn sống cho người đàn ông... Giờ đây, liệu anh có thể có con chăng? Với Miên, người đàn bà anh yêu mê sợ hãi, người đàn bà quyến rũ anh và cũng làm giá lạnh mọi nỗ lực của anh khiến mỗi cuộc làm tình diễn ra như cuộc tỉ thí trên đấu trường và lạnh lẽo câm nín như nấm mồ, anh có thể vượt được những chấn thương tinh thần và thể xác để gieo hạt sống vào cơ thể chị hay không? Và nếu họ có con chắc chắn Miên cũng sẽ không cất nổi tiếng cười ròn rã sung sướng như vậy... Hạnh phúc... Phải thế chăng? Cho đến khi giã biệt cõi đời này anh cũng không thể có được thứ Xá chột đang có... Bến bờ ấy ở bên ngoài sông nước đời anh...
- Nào, rót rượu.
Bất chợt, Xá chột cất tiếng như quát bên tai Bôn. Miệng nói, tay anh ta mở nút chai rượu thuốc:
- Hôm nay được quyền say, liệu cậu uống nổi mấy chén này?
Bôn nhìn hai chiếc chén sứ sâu lòng chưa biết trả lời ra sao Xá đã nói:
- Rượu ngon đấy nhé, thang Anh Hùng hẳn hoi.
- Thang Anh Hùng là gì?
Bôn hỏi lại.
Xá cười:
- Gọi là thang Anh Hùng vì thứ rượu thuốc này chống lại tất thảy những biểu hiệu yếu kém của người đàn ông trên giường, giúp họ có khả năng bắn liên thanh hàng giờ liền và bắt người đàn bà thụ thai bất cứ lúc nào họ muốn... Ví như tôi đây, nếu tôi đủ lực nuôi nổi một tiểu đội tôi sẽ bắt vợ tôi đẻ liền mười hai đứa sáu trai, sáu gái... Cụ Phiều đã cho cậu uống thang thuốc này chưa?
- Chưa... Hiện tôi đang ăn cao dê kèm các loại cháo bổ.
- Ờ... Vì rượu đó quá mạnh chưa hợp với tạng của cậu. Cần phải chờ thêm một thời gian. Nhưng hôm nay có thể nếm trước vài chén, chẳng sao. Cậu sẽ thấy ngon miệng hơn. Theo lý thuyết của tôi không thứ thuốc nào hiệu nghiệm hơn thuốc bổ dạ dày. Cứ ăn được khắc khỏi hết mọi thứ bệnh và sẽ có tất thảy những gì muốn có. Cậu đã ăn thịt lợn rừng nướng chưa?
- Có, vài lần.
- Ướp với gia vị gì?
- Hành và tiêu bột.
- Ngu. Phải ướp mỡ nước, hành khô, tỏi khô đập giập, tiêu xanh và thêm là húng quế. Cũng chưa đủ, lại còn phải có chút đường, chút muối, vài nắm vừng rang, ít củ sả đâm nhuyễn... Thử cúi xuống ngửi xem thẩu thịt tôi ướp có đủ các thứ mùi đó hay không. Bôn cúi xuống ngửi, xác nhận trong thẩu có đủ thứ gia vị Xá đã liệt kê, ngoài ra anh còn thấy những mảnh ớt tươi băm vụn:
- Sao anh lại cho ớt tươi vào thịt rừng? Tôi tưởng ớt tươi chỉ làm nước chấm, kho cá, hoặc nấu canh chua?
- Ngốc. Phải có ớt tươi. Lát nữa cậu sẽ thấy mùi ớt tươi nướng hay ra trò...
Nói xong, Xá bắt đầu gắp thịt trong thẩu tải lên chiếc vỉ nướng trên lò than. Chỉ vài phút sau thịt bắt hơi than tỏa mùi thơm nồng dậy và mỗi lúc mùi thơm đó mỗi ngào ngạt hơn, đặc quánh hơn. Không còn riêng biệt mùi thịt chín tỏi hành phi mùi tiêu xanh hơ lửa hay mùi ớt cháy cùng lá húng... Tất cả hòa lại thành một hương vị không phân tách được khiến nước bọt tứa đầy. Xá luôn tay lật qua lật lại vỉ nướng cho thịt chín đều... Khi mẻ thịt đã chín tới độ, riềm những miếng thịt xém vàng Xá gỡ bỏ vào bát cho hai người đoạn anh ta gác vỉ lên lò:
- Nào, nhắm... Ăn hết vỉ này nghỉ vài phút rồi nướng vỉ thứ hai. Ta có cả một ngày để say sưa...
Họ nâng chén, nâng đũa. Món thịt nướng quả là ngon. Lần đầu trong đời, Bôn được ăn thịt rừng nướng ngon như vậy. Hai người im lặng khá lâu. Có lẽ Xá mải nhấm nháp món ăn lẫn niềm vinh quang. Vinh quang đến với anh chàng quá sớm bởi có nhiều tay súng gia nhập phường săn đến hai ba chục năm vẫn ở loại thợ săn cỏ và đến mãn kiếp cũng xếp trong đám đông chạy phía sau hiệu kèn. Xá vui ra mặt. Niềm vui đó lan sang Bôn trong khoảnh khắc, rồi nó ra đi rất nhanh:
Ờ, ta cũng có thể kiếm được niềm vui như Xá, nếu muốn. Tay súng ta cũng chẳng đến nỗi nào. Nhưng thú vui đó có nghĩa gì, chẳng có nghĩa gì hết... Màu xanh nhờm tởm của núi rừng khiến ta chẳng còn ham muốn. Thợ cả hay thợ cỏ cũng thế thôi, rồi cũng ra ma, Miên cũng sẽ ra ma người đàn ông kia cũng sẽ ra ma... Vô nghĩa hết...
Những ý nghĩ bay chập chờn như đàn bướm trong óc Bôn. Thứ rượu thuốc khiến anh ngây ngất, choáng váng. Nhưng anh vẫn tiếp tục uống. Xá chột không ngơi tay rót cho anh. Họ ăn hết mẻ thịt rất nhanh. Xá nướng tiếp mẻ thứ hai. Mùi thịt nướng lẫn mùi than lửa thơm ngây ngất... Và xa vời... Tuổi trẻ anh cơ cực, anh không được hưởng những thú vui gia đình, anh không được hưởng và không biết cách nấu nướng ngon lành như Xá. Sự đơn bạc của số kiếp chẳng rời anh. Ðã có lần, anh chạm tay vào thần may mắn... cái ngày Miên bị bạn đẩy xuống suối anh đưa cánh tay ra và số phận kết trói họ... Số phận đã vĩnh viễn ràng buộc anh với người đàn bà ấy... Tại sao anh không từ bỏ Miên tìm một người nào khác? Có thể. Trên hai trăm cô gái ế chồng ở nông trường đang chờ anh. Anh có thể trở thành ông hoàng của một cô gái lỡ thì ở nông trường như anh đã từng là ông hoàng của nàng Thoọng nơi Bản Kheo. Và dù sao đây cũng vẫn là xứ sở của anh, anh được nói tiếng mẹ đẻ, được ăn những món ăn quen từ thuở lọt lòng... Tại sao anh không thử thời vận may một lần? Tại sao anh thối chí? Không, không, đã quá muộn. Anh không còn sức để thử vận may. Vầng trăng bạc trên dãy núi Bản Kheo đã hút hồn anh, anh đã đi theo nó, đã rút tới giọt sinh lực cuối cùng. Trong cuộc hành trình ấy, máu lẫn mồ hôi anh đã tháo chảy giờ đây anh chỉ còn là một hình hài trống rỗng một nhúm da khô xác đen sạm một trái tim cạn máu giống như vỏ quả bầu khô...
- Ngon chứ hả?
Bất chợt Xá lên tiếng. Bôn gật đầu:
- Ngon... Ngon lắm.
- Sao mắt cậu lờ đờ thế kia? Mới có vài ngụm rượu đã say à. Hèn quá...
Ngoái cổ ra sân, Xá gọi:
- Mẹ thằng cu đâu? Cho bát cháo đậu xanh lên đây...
- Dạ... Có ngay...
Soan đáp. Chỉ nháy mắt sau chị đã bưng lên khay gõ nhỏ trên đặt một bát chiết yêu cháo nóng nghi ngút, thứ trá o đậu xanh nấu lẫn nếp sánh như hồ:
- Anh Bôn đã ngà say rồi ư?
Chị hỏi rồi đặt tô cháo trước mặt Bôn:
- Anh ăn cháo đi, chỉ vài phút là tỉnh.
Soan đặt thêm một lọ đường với chiếc đĩa đựng muối bên cạnh tô cháo.
Xá hỏi:
- Cậu ăn cháo muối hay đường?
Soan nói:
- Cho anh ấy ăn muối mình ạ... Ăn cháo muối mau tỉnh hơn...
- Ờ thì muối...
Nói đoạn xá nhúm mấy hạt muối bỏ vào tô cháo cho Bôn. Soan lại đưa tay ngăn chồng:
- Ăn ít muối thôi kẻo lại đau thận...
Dặn dò xong người đàn bà cầm chiếc khay gỗ đi xuống bếp. Bôn bưng bát cháo ăn và đột nhiên anh nghĩ:
Mình thèm một người vợ như Soan, như Soan... Mình có thể yêu cô ấy ngay bây giờ ngay ngày hôm nay... Và mình sẽ nói thẳng với Xá điều này...
Ăn xong bát cháo, mồ hôi vã đầy mặt và gáy Bôn. Anh rút khăn lau mặt, cảm thấy cơn chếnh choáng tan dần óc não tỉnh táo lại và ngay lúc ấy anh lạnh sống lưng: Anh vừa phạm tội. Anh vừa ước muốn vợ bạn. Trong lúc húp những miếng cháo nóng sực anh đã nhìn tấm lưng Soan, cặp mông đung đưa với những khát thèm tội lỗi, và khởi đầu sự ước muốn đó từ lúc cô cúi đặt tô cháo trước mặt anh:
Ta thật khốn nạn... Xá là người tử tế nhất với ta...
Bôn vụng lén đưa mắt nhìn Xá, anh ta vẫn tiếp tục uống rượu với thịt nướng, đang liếm mép một cách ngon lành. Nhìn cái điệu bộ đó, thấy anh có thể chén hết cả thẩu thịt cũng chưa say. Bôn biết Xá chẳng mảy may để tâm đến những gì vừa xảy ra với mình. Anh run run thở:
- Thôi, cơm no rượu say rồi tôi về đây.
Nói rồi Bôn đứng lên ngay định bụng ra về tức khắc để quên đi cái chuyện vừa xảy ra, dù chỉ mình anh hay biết. Nhưng Xá đã quát tướng lên:
- Ðiên à? Nghỉ một lát rồi tiếp tục uống rượu... Mấy tháng rồi cậu mới tới nhà tôi. Bôn đáp:
- Anh bận, tôi chẳng dám quấy.
Xá lắc đầu giận dữ:
- Cậu tịt ngay cái giọng khách sáo thị thành ấy đi... Tôi đang có chuyện muốn hỏi cậu... Ngồi xuống.
Giọng anh ta đầy uy lực và sự ngay thẳng nhiệt thành của anh cũng đầy uy lực. Bôn đành ngồi xuống phản. Con mắt lành của Xá chăm chú hướng về anh:
- Tôi nghe nói cô Miên dẫn thằng con trở về nhà cũ.
- Phải.
- Cô ấy có nói gì với cậu không?
- Ðứa bé muốn có chỗ chơi. Ở đó sân rộng vườn rộng nó có thể đạp chiếc xe ba bánh. Hơn nữa Miên còn nương vườn, cô ấy cần xem xét công việc.
- Và cậu phải chấp nhận?
Bôn không đáp.
Xá tự trả lời:
- Cũng phải chấp nhận thôi. Lẽ ra, cô ta có thể cự tuyệt quay về với cậu từ đầu, nhưng tôi nghĩ cô ta vẫn còn thương cậu đôi phần... Hoặc nói cho đúng hơn, cô ta chịu hy sinh thân mình để bù trả cho những thiệt thòi của cậu... Nhưng sự hy sinh nào cũng có giới hạn. Tôi đã lường trước việc này...
Bôn đứng lên:
- Anh lại sắp nhắc tới hai trăm cô thanh niên xung phong quá lứa và yêu cầu tôi tới đó phải không? Tôi chán lắm rồi...
Xá quắt mắt quát:
- Cậu đừng sĩ... Giờ bụng có muốn tới đó cậu cũng chẳng dám đi. Tôi biết tỏng điều ấy...
Trán Xá cau lại, cày một dãy vết nhăn sâu gương mặt anh ta có một vẻ gay gắt và chua xót lạ lùng. Bôn không chịu nổi ánh mắt dữ dằn của Xá nên đành cúi mặt im lặng. Xá bảo:
- Làm sao phải sĩ diện thế? Mà lại sĩ diện với tôi? Tôi có định tranh cướp cô Miên với cậu đâu? Tôi có phải là tình địch của cậu đâu? Tại sao phải giữ cái thói sĩ diện thối tha ấy?
Càng nói giọng Xá càng cọc cằn giận dữ và những nếp nhăn càng đào sâu thêm trên trán anh ta, dưới món tóc mà lần đầu tiên Bôn nhìn thấy vài sợi bạc:
Phải, ta là kẻ thối tha, vì anh ấy thương ta thật lòng. Xá phải lo kiếm tiền nuôi vợ nuôi con, tu tạo cửa nhà, một trăm thứ việc nhưng vẫn còn phần áy náy cho ta...
Gạt chiếc bát sang một bên, Xá nói tiếp:
- Cậu nên biết rằng nếu có cuộc tranh chấp giữa cậu với một người đàn ông khác, hẳn tôi phải đứng về phía cậu... Chúng ta, những kẻ đã chia sẻ thiệt thòi, có chung nhiều mất mát... Tôi biết nỗi đau cậu phải chịu và tôi chỉ mong những tốt lành đến với cậu. Sao cái sự đơn giản ấy cậu không chịu hiểu?
- Tôi hiểu, anh thương tôi hơn tất thảy mọi người... Nhưng anh khó thông cảm được với tình cảnh của tôi.
- Có thể...
Xá đáp, giọng dịu xuống:
- Có thể tôi suy nghĩ khác cậu và tính khí tôi khác cậu... Có thể là tôi chủ quan khi gán ghép những tính toán nhận định và cách xử thế của tôi cho cậu... Bởi vì nếu là tôi...
Nói tới đó Xá thở dài, mở nút chai rượu rót tiếp:
Bôn hỏi:
- Anh vừa nói: Nếu là anh...
Xá gật:

- Nếu là tôi... Phải, nếu là tôi khi trở về người vợ đã kết hôn với kẻ khác tôi sẽ...
Bôn tiếp lời:
- Anh sẽ bỏ đi... như nhiều người đàn ông khác... Như đa phần những người đàn ông trên đời. Những người đàn ông cao thượng trọng danh dự hơn hết thảy... Nhưng tôi chẳng cần những thứ đó. Tôi cần hạnh phúc, tôi muốn được ăn nằm và có con với người đàn bà tôi yêu... Tôi chẳng ông chồng trinh tiết hay đức hạnh. Tôi đã ngủ với những người đàn bà khác dọc đường chiến tranh và tôi biết rằng con người chỉ hạnh phúc khi được làm tình với người mình yêu...
- Bây giờ cậu hạnh phúc chứ?
Xá hỏi.
- Tôi yêu Miên và bây giờ cô ấy là vợ tôi. Tôi có thể ăn nằm với cô ấy bất cứ lúc nào tôi muốn.
Bôn đáp lại, giọng nhát gừng khinh khỉnh, vẻ mặt lạnh lùng trong lúc óc não anh liệt kê những cuộc làm tình bất khả, trái tim tê bại nhục nhã của anh rên rỉ và tâm hồn anh như mảnh vải mục đang tan mủn dần trong chất cường toan.
Ta phải về, phải về, phải về...
Anh tự nhủ, sợ rằng chỉ một ly nữa thôi, cốc nước sẽ tràn, nồi đau đớn sẽ đập vỡ trái tim khô kiệt của anh và anh sẽ òa khóc sẽ đổ gục như thân chuối bị phạt trước mắt người bạn thuở thiếu thời:
- Tôi về đây.
Bôn nói. Xá không trả lời. Anh lại thở dài não nề và gương mặt bỗng trở nên xa vắng. Dường như trong giây lát, Xá đã quên bẵng câu chuyện họ đang nói và anh đang rượt đuổi một cơn mơ ngày hoặc một con lợn độc trong cánh rừng tưởng tượng. Sau một lát im lặng bất chợt Xá ngẩng lên:
- Cô ấy vẫn chưa có thai à?
- Chưa.
- Cụ Phiều bảo cậu còn phải chờ bao lâu nữa?
- Ông cụ chẳng nói rõ thời gian, chỉ khuyên kiên trì.
Xá nhếch mép cười:
- Chờ đợi không phải nghề của người đàn ông. Mà thời gian cũng chẳng phải cái túi không đáy. Tôi ngờ rằng cậu không còn thời gian và vì thế phải dùng các biện pháp mạnh.
Bôn im lặng. Anh biết Xá có lý. Xá hoàn toàn có lý. Anh không còn thời gian. Cuộc sống chung của anh với Miên đã trượt trên con dốc nghiêng chẳng bao lâu nữa là tới bờ. Xá nhìn anh, nói tiếp:
- Người ta có dạy tôi một bài thuốc, cậu có thể xem xem. Nếu buổi tối cậu uống một cốc cà-phê đặc pha với vài hạt muối trước khi gặp đàn bà chừng nửa giờ, cậu có thể hưng phấn bắn liên thanh khoảng một giờ liền mà nòng súng không nóng chảy, nhưng chỉ được phép làm vài lần thôi, sau đó phải chấm dứt vì phương thuốc này đốt thận. Nhưng trong vài lần tăng cường độ đột ngột như thế, tỷ lệ thụ thai rất cao.
- Cảm ơn anh, tôi sẽ xem xem...
Bôn đáp với vẻ dửng dưng nhưng thực ra anh đã nghe như nuốt lấy từng lời. Họ từ biệt. Trái với lệ thường Xá đưa Bôn ra cổng. Xá không nói gì thêm. Bôn cũng vậy.
Chiều đó Bôn ngủ một giấc dài rồi sang nhà cụ Phiều xin vài tách cà-phê rang sẵn. Dân Xóm Núi trồng cà-phê nhưng ít uống. Họ vẫn ưa uống trà búp hay nụ vối vườn nhà, vừa rẻ vừa giản tiện. Chỉ một vài gia đình khá giả trong làng thích thứ đồ uống lách cách đó. Ðứng đầu bảng là cụ Phiều. Ông già đa tình và kiêu hãnh này thường tuyên bố:
- Ðã là người phải biết sự khổ cùng cái sướng. Chẳng ngu dại gì mà không thụ hưởng những sản vật tự tay mình làm ra. Dân xứ quê nuôi gà nhưng chỉ dá ăn gà toi gà dịch, nuôi lợn nhưng chỉ dám thịt lợn còi, trồng lạc trồng đậu cũng chọn hạt nẩy đem bán còn hạt thối hạt lép dành cho mình ăn... Thế nên các cụ đã bảo trăm năm ngàn năm thằng còng làm thằng ngay ăn... Nhưng tôi vốn ngược đời, cái gì tôi làm ra tôi hưởng trước hết, và hưởng phần ngon nhất...
Gia đình cụ nhất nhất tuân thủ nguyên tắc ấy. Khi nào muốn thịt dê họ cắt tiết con dê ngon nhất đàn, muốn thịt lợn họ chọn con béo nhất chuồng. Trứng gà đẻ hàng ngày con cháu cụ nhặt quả tươi ăn trước, còn thừa mới đem bán. Cả vùng nhìn gia đình cụ với con mắt thần phục và ghen tị. Khi Bôn đến, cụ Phiều vừa tắm xong đang ngồi uống trà, ngang lưng quấn tấm khăn lông. Tắm nước nóng rồi uống trà nóng cho mồ hôi thoát ra, mồ hôi ra tới đâu dùng khăn bông thấm tới đấy, ấy là một trong những phép dưỡng sinh của ông lão độc đáo này:
- Vào đây, vào đây...
Vừa nhìn thấy Bôn ở đầu ngõ, cụ đã cất tiếng hồ hởi:
- Tuần trà này xanh lắm, không uống cũng thiệt.
Cụ nói và rót cho anh chén trà nóng. Bôn uống hết chén trà mới dám cất tiếng hỏi:
- Cháu nghe nói bác vẫn uống cà-phê thường ngày. Bác có thể cho cháu vài thìa được không?
Cụ Phiều nhìn anh:
- Anh định dùng bài cà-phê muối chứ gì?
Bôn im lặng. Chẳng gì giấu được lão phù thủy này.
Cụ Phiều nói:
- Tôi không lạ gì phương pháp ấy. Nó có thể đem lại kết quả tức khắc nhưng nguy hại cho anh lâu dài. Nó là con dao hai lưỡi, phải nghĩ kĩ đi...
- Cháu biết điều ấy... Nhưng cháu phải có con... Cháu cần có ngay một đứa con...
Bôn đáp và bỗng dưng giọng anh rung lên như sắp khóc. Cụ Phiều ngoảnh mặt ra vườn nhìn ngọn cây một lát, như chờ cơn xúc động của Bôn qua đi. Rồi cụ đứng dậy mở tủ, lấy trong đó chiếc bình thủy tinh đựng đầy hạt cà-phê rang và chiếc cối xay nhỏ. Ðem tất cả ra bàn, cụ thong thả lấy thìa xúc cà-phê bỏ vào cối xay. Mùi thơm bay lừng. Bột cà-phê rất mịn và màu nâu óng của nó tỏa vị mỡ gà. Bôn nói:
- Thơm thật.
- Ờ, tôi rang bằng mỡ gà trống thiến.
Cụ dốc cối cà-phê xay vào một tấm giấy dầu, gói lại đưa cho Bôn:
- Anh cầm lấy.
- Cháu cảm ơn bác.
Bôn nói và đứng lên, định ra về tức khắc. Nhưng cụ già lại bảo:
- Anh chưa về được. Chờ tôi lấy cho chiếc phin đã... Không lẽ về nhà anh bỏ vào nồi mà đun?
Bôn sựng lại.
Mình quê mùa hơn cả một lão nông...
Cụ Phiều đã quay ra, đưa cho anh chiếc phin pha và nói:
- Ðừng đổ quá nửa phin, nếu không nước không xuống nổi. Và anh cũng không được quên rằng nước pha cà-phê phải thật sôi.
Anh cảm ơn ông lão lần nữa rồi ra về.
Ðây là vũ khí của ta, cứu cánh cuối cùng để dành lại hạnh phúc. Cuộc đời phía trước của ta trông chờ vào thứ bột kích thích này...
Anh nghĩ, và vừa đi vừa thò tay nắn gói cà-phê trong túi quần. Ðường làng vắng tanh. Giờ này chẳng ai đi chơi cả. Thế cũng may, nếu không sẽ có kẻ bắt gặp anh vừa đi vừa cười và người ta ngờ anh mất trí...
Tối hôm ấy sau bữa cơm chừng nửa giờ Bôn đun nước pha cà-phê. Mùi thơm tỏa lừng căn buồng. Miên đưa mắt nhìn anh ngạc nhiên nhưng không nói gì. Chị lấy mớ quần áo khô ngồi gấp.
- Miên có uống cà-phê không?
Bôn hỏi:
- Không.
Chị lắc đầu.
- Tôi tưởng Miên vẫn thường dùng cà-phê... ở đằng kia?
Anh hỏi tiếp, đưa mắt nhìn sâu vào mắt chị xem câu hỏi ấy gợi lên những kỷ niệm và ý nghĩ gì... Anh biết căn bếp sang trọng của Miên, chắc chắn ở đó phải có những lọ thủy tinh đựng thứ cà-phê hảo hạng như của nhà cụ Phiều. Nhưng Miên không đáp, chỉ lặng lẽ gấp quần áo, thứ lặng lẽ vẫn có từ ngày về sống với anh. Chỉ một lúc lâu sau, khi thấy anh vẫn kiên tâm chờ câu trả lời của mình, chị mới ném vài lời uể oải:
- Ở đằng kia em có uống... Nhưng không ai uống cà-phê vào buổi tối...
Nói rồi, chị mang mớ quần áo đã gấp bỏ vào hòm. Bôn nhìn theo Miên, con tim đập náo nức:
Phải, chẳng ai uống cà-phê vào buổi tối như tôi. Tôi, kẻ khốn khổ rồ dại, kẻ yêu em với tình yêu của tên nô lệ của gã ăn mày... Nhưng đêm nay, em sẽ biết tôi là ai...
Sau lời tuyên bố thầm lặng ấy anh nghe tiếng cười đắc thắng vang lên. Tiếng cười của chính anh và của cái kẻ đứng ngoài anh cả hai cùng cất tiếng cười sằng sặc ngạo nghễ điên rồ cuồng loạn và cùng lúc cả hai tiếng cười cùng dội đập vào anh, vọng lên những hồi âm rùng rợn thâm u như tiếng cười của lũ ma dưới đáy vực. Miên chẳng hay biết gì những ý nghĩ của Bôn. Cất quần áo xong chị trở lại giường buông màn, nằm đúng vị trí thường ngày, tay vắt lên trán. Bôn liếc nhìn vợ, bắt đầu uống từng ngụm cà-phê, thứ cà-phê đặc sánh gần như ngả sang đen, thơm ngậy đắng và mặn. Anh uống nhưng không hề cảm nhận mùi vị đồ uống, chỉ đợi thứ nước nóng bỏng đang chảy vào dạ dày. Ở đó, nó sẽ truyền sang các mạch máu một chất kích thích, một ma lực khiến cơ thể anh cháy bùng như lửa, dữ tợn và hùng mạnh như cơ thể một đấu sĩ...
- Ta để đèn đêm nay chứ Miên...?
Chị không đáp. Có lẽ, chị nghĩ anh lẩn thẩn hoặc không có chuyện gì để nói nên lảm nhảm những câu vô nghĩa như vậy. Cánh tay chị vẫn gác trên trán, không động đậy. Bôn nhìn vợ. Khoảng da nơi cổ Miên lộ ra phơn phớt màu cam vì ngọn đèn đêm của họ được che bằng tấm giấy bóng kính màu cam. Bôn thích màu đó. Anh mê mải nghĩ:
Ðêm nay ta sẽ hôn lên đó, ta sẽ hôn lên môi, ta sẽ...
Ý nghĩ đầy phấn khích, tươi sáng như ánh đèn. Ðã từ lâu anh không dám hôn vợ. Căn bệnh thối mồm không thuyên giảm bao nhiêu và nỗi sợ hãi khiến anh không dám vượt qua hàng rào cấm kỵ... Nhưng đêm nay, một đêm thần kỳ... Nó sẽ cho phép anh làm tất cả... Cà-phê muối đã ngấm. Bôn thấy toàn thân anh từ từ nóng lên, rồi nóng sực, có chút mồ hôi toát ra sau gáy. Ruột cồn cào. Từ thẳm sâu trong anh vừa bùng lên ngọn lửa. Thoạt tiên nó leo lét như lửa nhóm giữa những cành củi nhỏ, nhưng càng lúc nó càng bốc cao càng lan rộng tựa các đống lửa trại thời hoan niên anh từng đốt. Lửa bén bùng nhanh như phép lạ, những lưỡi lửa sinh nở như loài tảo biển, ngọn lửa mẹ đẻ ngọn lửa con, ngọn lửa vàng sinh ngọn lửa đỏ, ngọn lửa đỏ gọi những ngọn lửa trắng... thảy thảy chất chồng ngút ngát mênh mông như lửa cháy rừng. Lửa luồn lách trong các cơ bắp thổi luồng khí nồng nàn hừng hực dưới da, tỏa hơi nóng đến từng lỗ chân lông, từng gốc sợi tóc:
- Miên... Hãy quay lại với tôi...
Anh lẩm bẩm với nụ cười mơ hồ. Ánh sáng loang một vùng trên da thịt Miên. Da thịt Miên trắng nõn ánh hồng ánh cam. Anh nhìn rõ cặp vú chị với hai núm vú nhỏ và mịn đang vồng lên như những trái đồi... Những trái đồi của một mùa xuân đã qua. Mùa xuân ấy, lần đầu anh thọc tay xuống đũng quần ướt, tự biết mình đã trưởng thành, hoảng sợ ngất ngây khi con giống dựng ngược như cây cọc gỗ... Mùa xuân trẻ trung tươi rói. Những trái đồi xuân mơn mởn cỏ cây, mưa bụi giăng trắng xóa từ đồi nọ sang đồi kia từ thung này sang thung khác. Anh lăn lộn trên các dải đồi ướt sũng. Anh băng qua thung lũng, da thịt quệt vào cây lá ướt ròng sương đêm. Anh thơ dại trẻ trung tràn đầy sinh lực tựa hồ mọi bụi cây bờ cỏ kia không ướt sũng mưa bụi hoặc sương đêm mà ướt nhểu thứ nước của sinh lực từ con giống anh chảy xuống...
- Khéo anh làm tắt đèn...
Miên cất tiếng khi Bôn đi ngang qua nơi đặt hộp đèn đêm để leo lên giường. Bôn cười:
- Không tắt đâu... Ðêm nay đèn không tắt được...
Vừa nói anh vừa cúi xuống khêu to ngọn lửa lên. Căn buồng sáng hẳn ra. Miên quay nhìn anh với ánh mắt kinh ngạc nhưng chị chẳng nói gì thêm, chỉ lẳng lặng nhắm mắt và gác cánh tay lên trán. Ánh đèn rọi vào một bên má người đàn bà, đường lượn bên hàm và một phần cổ. Bôn chăm chú nhìn khoảng da thịt tươi mịn ấy rồi bất chợt nắm cánh tay Miên kéo xuống:
- Miên, tôi yêu em.
Chị chưa kịp phản ứng gì anh đã lặp lại lần thứ hai, thứ bà, thứ tư như bắn súng:
- Tôi yêu em, tôi yêu em, tôi yêu em....
Giọng anh mỗi lúc mỗi khàn đi, hung dữ khiến chị hoảng hốt:
- Ðừng... Ðừng anh...
Miên co cánh tay, định ngồi dậy nhưng bằng một cữ chỉ phũ phàng anh đã giằng cánh tay chị xuống siết chặt nó trong bàn tay nóng bỏng của anh và những ngón tay anh căng lên như những gọng kìm:
- Không gác mãi cánh tay lên trán nữa... Như thế đủ rồi...
Bôn nói tiếp, những ngón tay thép của anh siết chặt hơn nữa và thốt nhiên gương mặt anh tím bầm lại, anh quát:
- Như thế đủ rồi... Cô hiểu chưa...?
Cổ Miên tắc lại vì kinh hoàng. Nỗi kinh hoàng khiến chị đờ dại và vẻ đờ dại đó thú nhận chị sợ hãi, chỉ trong nháy mắt căn buồng gian hãm loài quỷ dữ đã bị rút chốt, cánh cửa bật tung và lũ quỷ điên rồ lao ra. Bôn đột ngột chồm lên vặn hai cánh tay chị khiến chị đau nhói. Khi thấy chị không còn chống cự được nữa anh cúi xuống lung hăng giật những chiếc nút áo trên ngực chị với vẻ tàn bạo chưa từng có. Hơi thở hôi và nóng rực của anh thổi lên mặt, lên cổ, lên tóc tai chị thứ lửa địa ngục và miệng anh không ngừng rít lên:
- Ðáng lẽ ta phải làm như thế này... Ta phải làm như thế này từ lâu... Ta đã quá nhẫn nhục, ta nhẫn nhục như con lừa... Ta đã phải sống kiếp lừa lâu quá...
Miên muốn chống cự. Chị biết chẳng có lý do nào khiến chị phải chịu ngược đãi. Nhưng chị sợ cơn điên rồ của Bôn, chị sợ gương mặt tím bầm như mặt quỷ, chị sợ anh có thể gào thét hoặc làm những trò dã man khác mà chị không thể lường trước. Chị đành nằm đờ như khúc gỗ để mặc anh giằng xé, vật vã chị như một đứa trẻ độc ác giằng xé con búp-bê nó có trong tay...
- Miên, tôi yêu em...
Sau khi lột hết quần áo của Miên anh ném chúng vào góc giường và anh kêu lên rất to:
- Tôi yêu em...
Miên chết lặng. Chị muốn van xin anh đừng hét lên như vậy.
Không người đàn ông tử tế nào hét lên khi ăn nằm với vợ theo kiểu đó bởi bất cứ thứ tiếng động quá trớn nào cũng vang dội trong đêm và đánh thức những lỗ tai tò mò của láng giềng. Chị muốn mở miệng nhưng nỗi sợ khiến chị gần như tê liệt. Anh đang quỳ dưới chân chị, nhìn chồm chỗm vào thân thể trần truồng của chị trong tư thế loài hổ vồ mồi với vẻ mặt lạ lùng và trên đôi môi thâm tím của anh một nụ cười mơ hồ vừa nở ra, nửa như cười và nửa như mếu. Miên sợ hãi đến mức không dám nhìn Bôn nữa, chị nhắm nghiền cặp mắt lại. Trong lúc ấy Bôn vẫn không ngừng kêu:
- Tôi yêu em, yêu em, yêu em... Em là người đàn bà của tôi... Em phải là của tôi...
Mỗi lần anh lập lại, ngọn lửa trong anh bốc cao hơn, bỏng rát hơn. Lửa reo cười ca hát lửa gào thét rú rít. Trong ngọn lửa hoang cuồng, anh lại thấy biển lửa trên cao điểm 327 năm nào, bốc rừng rực sau loạt bom xăng vươn lên trời đêm muôn vạn bức tường đỏ rực, thiêu đốt mọi vật, đun sôi bọt nhựa các loài cây, bốc bay lên những mảnh quần áo lính, vừa bốc bay vừa cháy, vừa múa lượn vừa hóa than tro, như muôn vạn cánh dơi dưới bàn tay phù thủy, lửa tung tóe những tràng đạn pháo, thổi mù mịt tàn tro và bột xương cốt. Ngọn lửa ấy giống ngôi sao chổi khổng lồ lướt qua dải Trường Sơn, qua những giải rừng xanh trùng điệp thiêu cháy bao nhiêu triệu mảnh đời... Bôn thấy anh từ ngọn lửa đó bước ra, tả tơi hình bóng, không còn da thịt chỉ bồng bềnh than tro, chẳng còn là người chỉ còn là ảo ảnh...
- Không. Không. Không. Không. Không....
Ai đó thét lên.
Tiếng lay động núi rừng.
Và anh, anh cắm mặt xuống da thịt người đàn bà anh yêu:
- Tôi yêu em, yêu em, yêu em... Em phải là của tôi, phải sinh con cho tôi, là vợ tôi mãn kiếp.
Anh nói với Miên và nói với chính mình, hối hả tuột quần áo, hối hả hôn hít nhay cắn vợ, cảm thấy tất cả máu trong huyết quản đang sôi, đang cất tiếng cười sằng sặc điên dại hân hoan khi con giống dựng ngược lên và cứng như thỏi sắt:
Miên ơi, tôi là chồng em muôn thuở, chúng ta sẽ có con đàn con đống và sẽ sống cùng nhau tới lúc xuống mồ...
Anh thì thầm với chị trong tim, trái tim bắt đầu nguôi dịu khi anh cắm ngập thứ vũ khí duy nhất, thứ vũ khí tối hậu, cứu cánh cuối cùng của cuộc đời anh vào thân thể chị.
Chương 21
Ngày Miên biết chị mang thai trời lạnh. Lạnh tới mức những giọt sương như đông cứng trên đuôi cỏ, những vòm lá cam lá bưởi im lìm sương giá từng phiến lá dầy mọng như lá loài thạch hoa. Như thường lệ, chị đưa cu Hạnh về nhà cũ, dạy nó học vần vỡ lòng và cho nó ăn bữa trưa trong gian bếp lúc nào cũng sạch lau li. Lúc ông già Lư gắp dưa cải Miên nhìn những cọng cải chợt tứa nước bọt thấy đói cồn cào, thấy thèm ăn, như kẻ ốm dậy muốn ăn trả bữa. Nhưng vừa ăn được vài miếng cơn buồn nôn vọt thẳng từ dạ dày lên họng khiến chị không thể ghìm giữ phải chạy vào buồng tắm tống tháo ngay đám thức ăn vừa nuốt. Từ lúc đó, chị rét ghê gớm, rét như trong đời chị chưa từng gặp một tiết trời khắc nghiệt như thế.
- Bác nhóm giùm tôi cái lò sưởi.
Chị bảo ông già Lư. Trong bếp luôn trữ sẵn tải than hoa để nướng thịt hoặc để sưởi những ngày giá buốt. Cũng sẵn chiếc lò ủ than có thể xách đi xách lại dễ dàng. Ông già Lư buông bát cơm đứng lên nhóm lửa tức thì. Chỉ vài phút sau ông đã nhen được lửa mồi, bắt đầu quạt hối hả điệu nghệ như mấy chú phụ bếp quạt than nướng chả trong các quán cơm dưới phố. Lò than đỏ, ông xách tới đặt dưới chân Miên rồi quay sang bảo cu Hạnh:
- Này cậu, lại đây với tôi, tôi sẽ dẫn cậu ra vườn bẫy chim, đừng quấy bà nữa.
Cu Hạnh đứng ngẩn ngơ. Nó chưa kịp hiểu ông già nói gì. Mảnh vườn, vương quốc của riêng nó, nơi nó rong chơi suốt mùa hè lẫn mùa thu nào trèo cây hái quả nào đào dế dựng nhà... Mảnh vườn ấy đã khép chặt cánh cửa vào những ngày đầu tiên trời trở rét. Chẳng ai khác chính mẹ Miên đưa điều cấm kị và ông già Lư thực hiện tức thì, ông khóa cửa vườn bằng ổ khóa lớn bỏ chìa trong túi áo. Từ hôm ấy nó chỉ được phép chơi loanh quanh trong nhà, giới hạn đã hoạch định là đầu hồi bên này sang đầu hồi bên kia gian nhà lớn. Sau bữa cơm nếu chịu khó ngủ cho đẫy giấc sẽ được phép xuống sân đạp chiếc xe ba bánh. Chấm hết. Hơn một tháng nay nó ngậm ngùi đứng ngoài cửa vườn mường tượng những tổ chim quen, những hang đá đã đánh dấu, những khu nhà xây bằng sỏi lẫn đất sét nhưng thảy thảy đồ đạc giường tủ bàn ghế bát đĩa bên trong đều bằng nhựa bố Hoan mua dưới thành phố. Ðối với lũ trẻ Xóm Núi, ngôi nhà búp bê của nó đích thực là một lâu đài trong cổ tích. Cu Hạnh xiết bao hãnh diện về tài sản của mình. Giống như một chủ trại phải xa nương vườn, gia súc nó gửi bao nhiêu buồn nhớ theo những cơn gió xào xạc lùa từ sân vào vườn, rung xuống từng đám lá khô, vi vút tiếng thở than thầm thì của giun dế chim muông và của các lâu đài không ai chăm sóc... Giờ đây, cái thế giới thân thiết bị tù hãm lại có thể hé mở và nó có thể thả mình trong cái cõi riêng yêu mến đó?
- Nào, lại đây, cậu không nghe tôi nói sao?
Ông già Lư nhắc lại. Cu Hạnh vẫn chưa dám tin, nó đưa mắt nhìn mẹ. Lúc ấy, cơn buồn nôn thứ hai bắt đầu cuộn lên trong gan ruột nhưng Miên vẫn thấy ánh mắt ngờ vực tội nghiệp của đứa con trai nên chị cúi xuống bảo:
- Ờ... ờ... Con đi đi. Hôm nay mẹ cho phép ra vườn.
Thằng bé nhẩy cẫng lên cuống quýt bổ nhào đến ông già Lư. Cả hai ra sân và chẳng mấy chốc họ biến mất trong khu vườn. Miên chạy vào nhà vệ sinh nôn tiếp. Lần này chỉ một thứ nước lợn cợn vàng. Nôn xong, mặt lẫn tay chân Miên lạnh toát, mồ hôi vã đầy trán đầy cổ. Người đàn bà quay lại gian bếp, ngồi trước lò than óc não hoàn toàn tỉnh táo chị nhìn những viên than cháy và một ý nghĩ hiện lên, rõ ràng, rành mạch như đường phân cắt dãy núi với vòm trời sau những cơn rào mùa hạ:
Ta đã có thai với Bôn. Chẳng còn hồ nghi nữa. Hoàn toàn không phải dấu hiệu cảm cúm hoặc những cơn đau thường...
Chị biết chị mang thai vào cái đêm điên dại Bôn khêu to ngọn đèn, cười nụ cười mơ hồ và thảm khốc, vật vã nhay cắn chị như thú dữ ngoạm mồi, làm tình hùng hục như gã phu đào huyệt hùng hục dai dẳng liên miên... Chính đêm ấy. Vào chính những khoảnh khắc chị sợ hãi Bôn như sợ hãi một thằng điên hay con quỷ nhập tràng, chị phải nhắm mắt lại để khỏi nhìn thấy gương mặt tím bầm của anh với những đường nét đột nhiên trở thành hung dữ trong cơn kịch phát đau đớn thù hận... Chị lờ mờ đoán được sự thù hận trong anh. Nhưng chị không hiểu. Chị chỉ thấy sức mạnh tình dục lẫn sự tàn bạo bùng cháy lên cùng một lượt nơi Bôn như đám cháy rừng mùa hạn, như cơn hỏa hoạn bất tường. Vậy mà chị đã mang thai chính trong cái đêm điên dại ấy... Mầm sống trong chị là kết quả của hoan lạc hay kinh hoàng?
Sáng hôm sau thức dậy Miên thấy Bôn sượt xoài như mảnh giẻ rách, mặt lẫn môi tím đen. Chị không đành lòng bỏ đi nên sang nhờ dì Huyên dẫn cu Hạnh trở về nhà cũ chơi rồi quay lại. Bôn vẫn ngủ như chết. Anh ngủ như thế cho đến tận bốn giờ rưỡi chiều mới lò dò đi ra vườn. Anh ngồi ở đó rất lâu, hết nôn khan lại thở dài sườn sượt. Khi anh quay vào lưng anh không dựng thẳng lên được. Miên nhìn đôi tròng mắt vàng ệch của anh:
- Anh làm sao thế?
Chị hỏi
- Không sao cả.
Anh xẵng giọng đáp. Nhưng rồi anh lại vào giường nằm bệt xuống và thú nhận:
- Tôi đau lưng.
Tối hôm ấy anh đòi ăn cháo. Hôm sau nữa cũng vậy. Từ đó tới nay đã hơn một tháng Bôn không đi thẳng lưng lên được. Anh quanh quẩn ở nhà nhìn chị với cái nhìn đờ đẫn nhẫn nhục, cái nhìn thú nhận anh không còn, không thể còn là người đàn ông sau một đêm rồ dại như ngọn núi lửa phun lần cuối cùng trước khi vĩnh viễn tắt:
Càng tốt, ta cũng chẳng cần gối chăn theo kiểu ấy... Thà cứ sống như gái góa cho rảnh chuyện...
Miên nghĩ thế. Hơi thở địa ngục của Bôn ám ảnh chị. Những cuộc làm tình khốn khổ, quằn quại như kẻ hụt hơi bơi vượt sông mùa lũ và dáng vẻ của một kẻ đội mồ từ quá vãng quay về nhiễm mùi tử khí... Chị tự xác định cho mình một niềm an ủi, một mục đích sống và điều đó khiến tinh thần thăng bằng lại:
Coi như mình là gái góa. Ta sẽ sống nốt quãng đời còn lại để nuôi cu Hạnh. Thế cũng đã may mắn hơn những người đàn bà khác. Ít nhất ta cũng đã từng hạnh phúc, và giờ đây ta không phải lao lung vì kế sinh nhai...
Cuộc sống của chị được phân cắt làm đôi. Với quá khứ, chị là con nợ phải trả nốt phần chưa trả đủ. Chị sẽ nuôi Bôn, tận tâm phục vụ một bóng ma, cánh tay chìa ra cho chị trên con suối một ngày xa ngái. Ngoài bổn phận ấy, tương lai chị được ký thác vào đứa con trai, máu thịt của chính chị, tất cả tình yêu và niềm hy vọng còn lại trong đời sống... Bây giờ, bỗng nhiên xuất hiện một mầm sống mới. Một sinh vật không được chờ đợi và không có chỗ nơi trái tim người mẹ. Cái thế giới đã được sắp đặt trong tâm hồn Miên rung chuyển. Trong thế giới đó mọi chỗ đã được lấp đầy, đứa bé sắp ra đời sẽ nằm ở đâu? Bởi nó cũng sẽ là con chị, lớn lên từ máu và sữa của chị, rồi nó sẽ bú bầu vú cu Hạnh từng bú, sẽ gọi cu Hạnh là anh, sẽ gọi chị như cu Hạnh từng gọi:
- Mẹ ơi...
Hoặc là:
- Mẹ Miên ơi...
Nó không xứng. Nó không nên gọi cu Hạnh là anh... Không thể. Không được phép...
Nó, hạt giống của người đàn ông có cặp mày chữ nhất, da thịt đen đủi và hơi thở địa ngục. Nó thuộc dòng giống một đám người bần hàn, lười biếng khốn khổ, sống lay lắt chẳng ra giống người, nó có những đứa anh em họ lê lết trên mặt đất như loài thú hoang và một bà bác tà dâm, vô sỉ...
Nhưng vì sao ta lại khinh bỉ nó? Nó cũng là con của ta. Ta sẽ phải mang nó trong dạ đủ chín tháng mười ngày như đã từng mang thai cu Hạnh, như mọi bà mẹ trên đời mang thai con họ. Rồi nó cũng sẽ bập bẹ nói tiếng đầu tiên: Mẹ ơi... Và nó sẽ ngước nhìn ta với cái nhìn non nớt, cảm lòng như cu Hạnh nhìn ta năm trước...
- Mẹ ơi i i...
Chị bỗng nghe thấy ngay một tiếng gọi xa vời. Tim chị đau nhói. Chị hình dung gương mặt đứa trẻ. Nó sẽ là gái hay trai? Nó sẽ giống chị hay giống Bôn, hoặc khốn khổ hơn giống người chị ruột của Bôn? Rất có thể. Và nếu vậy chị sẽ phải cách ly nó với gia đình Tá từ lúc nó còn nhỏ. Chị cần cho nó xuống thành phố ăn học. Hoan đã để cho chị một gia tài lớn, dưới bàn tay chăm sóc của ông già Lư, chị sẽ có một đời sống phong lưu. Chị sẽ cứu đứa con mình bằng những đồng tiền nằm trong túi...
Cơn buồn nôn thứ ba lại tới và Miên thấy mỏi hông. Chị hơ tay trên than rồi xuống nhà tắm nôn tiếp. Lần nghén cu Hạnh những cơn buồn nôn không dồn dập và thúc hối như thế này:
Nó hành hạ ta một cách dữ dằn... Con ơi, con là gái hay trai, con mang mầm hạnh phúc hay tai họa? Khởi đầu con đã bắt mẹ chịu cơ cực như vầy?
Chị tiếp tục nôn ra thứ nước lợn cợn vàng, vừa nôn vừa thấy các đốm lửa trắng lửa vàng nổ tung tóe trước mắt. Nhưng cũng lúc ấy chị mường tượng đến gương mặt đứa bé đang nảy sinh trong lòng mình, một gương mặt nhỏ xíu mơ hồ mập mờ giữa sương mù. Gương mặt đó hướng về chị cái nhìn đau đáu non nớt và lần nữa trái tim chị đau buốt như bị kim đâm:
Con ơi, dù là gái hay trai, dù xinh hay xấu mẹ cũng sẽ nuôi con và sẽ nuôi con tận tâm tận sức... Con khốn khổ của mẹ, con tội nghiệp của mẹ...
Chị bắt đầu hối hận vì đã khinh bỉ, đã có ác cảm với cái mầm sống trong dạ, nghĩ tới những người đàn bà bị Tây đen hiếp ngày xưa cũng đã phải mang nặng đẻ đau những đứa con họ không chờ đợi cũng đã hy sinh cuộc đời họ để tác tạo cho những đứa con đen trong sự ruồng rẫy khinh bỉ của xóm làng...
Ta còn hạnh phúc hơn những người mẹ tội nghiệp ấy một trăm lần...
Chị quay lại bếp, run lập cập ôm lấy lò than như một bà lão, không biết ông già Lư đã trở lại đang đứng nhìn chị với cái nhìn chăm chú. Sưởi một lát, Miên ngồi lên ghế. Lúc đó, chị mới bắt gặp ánh mắt người quản gia:
- Thưa bà, bà có thấy ổn không? Có cần tôi đi gọi thầy thuốc không?
- Không, không...
- Thưa bà, da bà xanh lắm.
- Bác Lư, con trai tôi đâu?
- Cậu đang chơi ngoài vườn. Tôi đã chỉ cho cậu cách bẫy chim, bà không cần lo.
- Hôm nay lạnh lắm.
- Dạ... Nhưng với người khỏe thì chẳng ăn nhằm chi. Bà có dùng cơm tiếp không?
- Bác để mặc tôi.
- Ðể tôi nấu cho bà nồi cháo.
- Không cần đâu... Tôi không cần ăn cháo...
Nhưng người quản gia đã lẳng lặng đi rửa xoong, vo gạo lẫn nếp để nấu cháo cho chị. Ông Lư đi lại nhẹ nhàng, thẳng đứng, gầy và nghiêm trang như bộ xương di động, hai hố mắt sâu sáng thứ ánh sáng thâm trầm u uẩn. Ánh sáng ấy rất xa và rất gần, phảng phất như có những hồi quang của một miền cát vắng...
Có thể ông già Lư đã biết. Ánh mắt của ông thật lạ. Con người này đối với ta có vẻ gì đó giống như một người cha...
- Bà ăn cháo gà nhé, lạnh không nên ăn cháo đậu.
- Tùy bác.
Người quản gia ra chuồng bắt gà. Trông ông hệt như cây cột đẽo bằng loài tứ thiết:
May mắn cho ta, Hoan đã tìm được một người tận tâm như thế...
Một ngày cách đó không lâu, Miên làm bánh bột lọc nhân tôm. Dì Huyên, cu Hạnh, đặc biệt ông già Lư thích món này. Chính bữa ăn ấy là lần đầu người đàn ông lặng lẽ này nói chuyện:
- Quê tôi Quảng Trị, nhưng tôi mê mấy món ăn Huế từ nhỏ. Mẹ tôi khéo tay làm bếp. Trong lúc những nhà khác chỉ biết luộc tôm chấm muối tiêu hoặc nướng cua ăn với khoai nhà chúng tôi được dùng đủ món: Cháo cua biển rau hao, bánh con tằm nấu gạch cua thịt vằm, đặc biệt món bánh bèo tôm cháy, bánh bột lọc nhân tôm...
Khi nói đến những kỉ niệm đó, cặp mắt ông như phủ khói. Miên hỏi:
- Gia đình bác còn những ai trong nớ?
- Chẳng còn ai.
Ông đáp. Mắt ông ráo hoảnh và lớp khói vừa thoáng phủ đã cuốn theo gió:
- Gia đình tôi cả thảy mười tám người. Một nửa chết vì đạn cối của lính Sài Gòn, nửa còn lại chết vì rốc-kết của quân giải phóng. Mỗi phần chín mạng, thật đều. Có bao nhiêu tiền dè dụm tôi xây đủ mười tám ngôi mộ cho họ. Ngày tôi gặp ông nhà, trong túi chỉ còn đủ tiền trả hai chén trà.
Ông kể những chuyện đó, nghiêm trang, chẳng buồn cũng chẳng vui. Rồi ông bảo rằng trời còn thương ông nên đã đưa đường chỉ lối cho ông được gặp Hoan, được anh thâu nhận và hứa nuôi ông cho tới lúc ông trăm tuổi. Miên hỏi:
- Bác có muốn trở lại làng không?
- Không.
Ông đáp nhẹ nhàng nhưng dứt khoát.
- Còn chuyện hương khói?
- Tôi đã xây đủ mười tám ngôi mộ, bằng tất cả số tiền tôi dành dụm được suốt mấy chục năm làm nghề trông nông trại. Tôi chẳng còn điều chi ân hận. Việc cắm mấy nén nhang ngày Thanh Minh người làng sẽ làm. Nơi quê tôi nhà nào cũng có cả mớ người chết, dù lính Cộng Hòa hay Việt cộng cũng là ma làng, chôn ở nghĩa địa làng, bất cứ ai đi tảo mộ cũng cắm luôn phần nhang cho các gia đình khác.
- Nghĩa địa làng bác có lớn không?
- Lớn. Thuần cát. Mỗi lần quạ đen đáp xuống rợn hồn...
Có lẽ mười tám nấm mồ trên cái nghĩa trang thuần cát ấy là phần đời cốt tủy của ông. Nhưng là phần đời quá vãng và ông không còn muốn ngoái nhìn thêm một lần nữa. Từ ngày đến Xóm Núi, ông chẳng mảy may nhắc lại. Cũng như chị, kí thác tương lai vào đứa con trai, ông kí thác phần đời còn lại vào trang trại. Dân khắp vùng thán phục sự tính toán khôn ngoan sắc sảo lẫn sự cần mẫn của ông. Dưới tay ông mọi việc diễn tiến như có phép thần:
- Bà xem, hạt gạo đã nhừ chưa?
Ông già Lư lên tiếng và chìa trước mặt chị muôi cháo. Miên ngửi mùi gạo, nói:
- Mùi như vậy là cháo đã nục... Bác gọi thằng bé vào cho nó ăn.
- Khoan... Ðể tôi múc ra bát cho bà dùng trước... Trẻ nhỏ ham chơi hơn ăn. Lát nữa gọi cậu vào cũng được...
Ông trở lại bếp múc cháo. Rồi vừa sớt những muôi cháo vào bát ông vừa nói thêm:
- Bà hãy lo cho sức khỏe của bà... Cứ để cu Hạnh đấy cho tôi...
Miên im lặng nhìn người quản gia:
Ông già này có chi lạ lùng. Thật khó xử. Ðôi lúc ta muốn coi ông như một người cha, ông giữ lễ đúng như kẻ làm mướn. Rồi những lúc ta lẳng lặng chẳng nói năng chi, đứng ở một góc ông nhìn ta từa tựa như cha nhìn ta ngày trước...
Ông già Lư đặt bát cháo lên chiếc đĩa, mang lại cho Miên:
- Mời bà dùng cho nóng.
- Bác cũng ăn luôn cho nóng. Hôm nay trời rét đậm.
- Lát nữa tôi sẽ ăn với cậu. Nồi cháo chưa cạn được ngay...
Ông già trả lời rồi thong thả đi ra sân, những đám lá khô gió xoáy cuộn thành vòng quanh chân ông. Miên vừa húp cháo vừa đưa mắt nhìn theo người quản gia, tự hỏi nếu cha chị còn sống liệu ông có còn mẫn tiệp khỏe mạnh như ông già Lư hay không và liệu ông có đủ niềm trìu mến với chị như ông già Lư hay không?
Khi ta lớn lên cha đã trở nên nghiêm khắc. Cha yêu Sương hơn cả bởi vì nó giống cha nhất nhà, nó hát hay và thích theo cha đi bắn sâm cầm hoặc vào rừng bẫy thú. Còn ta luôn phải ở nhà trợ giúp mẹ việc bếp núc, phải mang áo quần ra giếng giặt, phải ngồi vá lưới hay phơi khoai khô, phơi lúa... Ta chẳng mấy khi có dịp gần cha và cha cũng chẳng mấy khi hỏi han đứa con gái lớn trong nhà...
Một nỗi buồn nhớ nhẹ nhàng thức dậy. Miên nhớ gương mặt cha, giọng cười của ông và đám râu bên má ông lần nào đó cọ vào mặt chị. Một tối Miên nấu cháo cá, lần đầu làm bếp một mình nhưng cũng biết đâm tiêu vằm ớt, cũng biết thái dọc hành lẫn thìa là rắc lên bát cháo, cũng biết dọn mâm như những thiếu nữ hơn chị năm bảy tuổi. Miên lễ mễ bưng mâm cháo lên nhà. Lúc đó, cha Miên đi đâu vừa về, ông đứng sững trước sân nhìn Miên rồi bước tới đỡ mâm cháo trên tay chị. Ðặt mâm cháo lên phản, ông kéo Miên vào lòng:
- Con gái cha, mới tám tuổi mà đảm như con nhà khác mười lăm, mười bảy...
Mũi ông hít hà mái tóc Miên, hàm râu ông cọ vào má Miên, ánh nhìn êm dịu... Kỉ niệm đó như ngôi sao Hôm ở góc trời, chiều chiều vẫn mọc...
Ông già Lư đã quay lại:
- Cậu đang mải chơi... Cứ để cho trẻ được thỏa sức.
- Tôi sợ trời lạnh.
- Trẻ chạy nhảy, chơi đùa nóng sực lên. Bà đừng sợ cậu rét. A... chút nữa tôi quên. Bà đã xem lại mớ tiêu lép chưa?
- Tôi xem rồi.
- Ta nên bán ngay dù giá rẻ.
- Bác cứ làm theo ý bác. Việc mua bán bác rành hơn tôi. Xưa nay, những việc ấy anh Hoan lo cả.
- Dạ... Dù sao tôi vẫn cứ phải hỏi ý bà.
- Chẳng cần vẽ chuyện.
- Ðó là yêu cầu của ông nhà. Bữa trước, ông đã kiểm qua các loại nông sản còn trong kho.
- Nhà tôi... Anh Hoan có nói gì nữa không?
- Ông bảo qua mùa nữa sẽ thay giống mới. Và ông dặn tôi phải chăm lo sức khỏe cho bà...
Miếng cháo đắng ngắt trong họng Miên:
Ta vẫn sống trong sự đùm bọc của Hoan nhưng ta buộc phải chung đụng với Bôn và giờ đây ta mang mầm sống của người đàn ông đó. Mai đây, đứa con Bôn ra đời, nó sẽ lớn lên nhờ những đồng tiền của Hoan để lại, những đồng tiền lẽ ra chỉ thuộc về cu Hạnh....
Chị nhớ buổi sáng chị từ giã ngôi nhà này để đến sống với Bôn, đinh ninh sẽ cam chịu cực khổ với người chồng cũ, không bao giờ còn giữ mối dây liên lạc với Hoan ngoại trừ việc họ có chung trách nhiệm với đứa con trai... Nhưng cuộc sống đã dắt chị đi qua lối vòng, và giờ đây tất cả lại như cũ. Chị vẫn sống trong ngôi nhà xưa với đứa con trai, vẫn tiêu những đồng tiền rút ra từ ngăn kéo chiếc tủ ba buồng, dưới sự bảo trợ hoàn toàn của anh dù anh vắng mặt:
Bị cỏ Thạch trinh hương chẳng được tích sự gì... Rút cục ta vẫn không tránh nổi cảnh chung chạ...
Mùi thơm loài cỏ núi chỉ giúp chị gột bỏ được phần nào hơi thở địa ngục của Bôn, không kháng cự được ham muốn dục tình và khao khát sinh nở của kẻ từ cõi vắng trở về. Rút cục, Bôn cũng đạt được điều anh ấy muốn, chính nhờ vào những đồng tiền của Hoan. Người đời vẫn gọi: Thằng còng làm thằng ngay ăn là thế:
Không, không, ta không có quyền thụ hưởng cuộc sống này. Nhục nhã quá. Ta phải hoàn trả tất cả cho con trai ta. Nó là người duy nhất xứng đáng tiêu những đồng tiền của Hoan, nó là con trai anh ấy...
- Bà làm sao vậy? Cố ăn hết bát cháo đi.
Ông già Lư giục:
Miên chợt nhận ra chị đã thẫn thờ buông chiếc thìa xuống từ lâu. Ngoài sân, gió xoay tròn đám lá khô như dòng lũ quay xoáy nước, vừa quay vừa chuyển dịch. Người đàn bà dán mắt vào đám lá khô, thấy đời mình như đám lá vô định trong luồng gió đỏng đảnh và dữ tợn của tạo hóa. Chị chẳng quyết định được điều gì. Và giờ đây quyết định nào cũng sẽ viển vông. Chị biết rằng chị không thể rời bỏ ngôi nhà này để sống một cuộc sống độc lập với Bôn, cũng không thể bỏ mặc anh trong chái nhà lá để sống hoàn toàn với đứa con trai dưới mái nhà này. Chị đã trở thành loài vật lưỡng cư không thể chạy trốn khỏi số kiếp.
- Ðể tôi múc cho bà bát cháo khác.
- Thôi, chẳng cần.
- Bà không ăn cháo nguội được... coi chừng đổ bệnh thì rầy rà...
Nói rồi ông múc bát cháo nóng đưa cho chị, mang bát cháo ăn dở đã nguội lạnh đặt lên mặt tủ bát đĩa. Miên cúi mặt xúc cháo ăn, cảm thấy khó chịu nổi sự săn sóc của ông già, người thay mặt Hoan ở nơi đây, sự hiện diện của ông là thế vật cho sự khuyết diện của anh và như thế anh không ngừng cùng chị. Người đàn ông đích thực của chị. Tình yêu đích thực của chị. Chị cúi thấp hơn nữa xuống bát cháo nóng để làn hơi vây bọc gương mặt chị, vùi lấp mọi suy tư... Nhưng vô ích. Chị vẫn thấy Hoan hiện diện ngay nơi đây, trong gian bếp sang trọng do chính anh kiến tạo. Chị ngửi thấy mùi da thịt anh, mùi quần áo anh, thấy long lanh mồ hôi trên khuôn ngực lớn và đầy sau những cuộc làm tình mùa hạ, ánh mắt ve vuốt cợt cười, bàn tay và hơi thở thơm tho lành mạnh... tất thảy những chi tiết nhỏ nhặt nhất của cuộc sống vợ chồng. Tại sao, tại sao? Cuộc sống đổi thay như lật bàn tay, như bây giờ là mơ và hôm qua là thực?
Chị thấy mình vừa rời chiếc giường ân ái, Hoan đang còn nằm trên đó khuôn ngực ửng hồng xin chị mang cho anh chiếc gạt tàn. Lần nào đó anh hút nhiều thuốc quá chị trừng phạt bằng cách nhổ một sợi lông nơi nuốm vú anh khiến anh van xin rối rít mọi cử chỉ của anh giống một chú bé nhát đòn hơn là một người đàn ông từng trải, nặng tám mươi cân. Chị nghe tiếng cười hiền lành quen thuộc của anh âm vang trong ngôi nhà vào những đêm họ nổi hứng thắp nến uống trà...
- Bà đã thấy dễ chịu chưa?
- Dạ... Tôi đỡ rồi.
- Bà hãy lên nhà nghỉ. Giờ tôi gọi cậu về ăn cháo.
Miên lên nhà, vào buồng nghỉ, tuân lệnh người quản gia như cái máy. Lúc chị ngả lưng, một cơn choáng váng ập tới khiến chị tối mắt lại. Những cây cọc gỗ treo màn quay tròn và hai cánh tay chị tê lạnh như vừa nhúng nước. Chị bắt đầu hoảng sợ khi thấy nỗi căm giận bùng lên trong tâm hồn:
Ta sẽ phá thai. ta không cần giữ đứa con của Bôn. Ðứa con ta không mong không đợi... Nuôi Bôn cũng đã đủ trả món nợ cũ. Nuôi thêm đứa con anh ấy bằng những đồng tiền của Hoan nghĩa là chịu thêm một lần nhục nhã. Ta không thể đi về ngôi nhà cũ khi mang thai với một người đàn ông xa lạ... Ngôi nhà này là của Hoan và mọi thứ đều phải thuộc về anh ấy...
Miên hình dung lại những người đàn bà hoang thai lén lút tới trạm xá để tiêu hủy tội lỗi. Thường họ phải xách gói quần áo tớn trạm xá lúc nhọ mặt người, ở đó qua hai mươi bốn giờ và ra đi cũng vào lúc nhá nhem tối. Có những người bị băng huyết, máu chảy thành dòng trên lối đi, sáng hôm sau những cục huyết khô đen... Những người đàn bà khốn khổ, mặt tái xanh tái xám, đầu cúi gằm chẳng dám nhìn ai, đến và đi đều vật vờ vụng lén như lũ trộm, lẩn sát các bờ rào, hoặc len lỏi quanh các khu đồi hoang vòng phía sau trạm xá...
Ta chẳng cần lén lút như họ. Ta sẽ đàng hoàng tới trạm xá giữa lúc thanh thiên bạch nhật, yêu cầu hủy thai vì không đủ điều kiện giữa... Một đứa bé có cha, nhưng cha nó không đủ sức nuôi thân, còn cơm cháo đâu nuôi dưỡng nó? Sẽ chẳng ai dám ngứa miệng chõ vào. Nếu chính quyền can thiệp, ta sẽ yêu cầu chủ tịch ủy ban viết giấy đảm bảo chu cấp tiền nuôi đứa bé cho tới năm nó mười tám tuổi...
Không một ông chủ tịch nào dám liều thân viết tờ cam đoan như vậy. Miên biết rõ điều ấy. Chị cũng biết phá thai nghĩa là hủy cuộc sống chung giữa chị và Bôn. Cái cuộc sống chung chị đã muốn hủy bỏ trước khi phải bắt đầu, từ bước chân thứ nhất rời khỏi cổng ngôi nhà này để theo anh về xóm khác... Chị muốn và chị cần tiêu hủy cuộc sống ấy... Nhưng hủy bỏ chính cuộc sống của Bôn, chị không nỡ... Chị không quên anh là kẻ khốn khổ, thua thiệt, và là gã trai đã một lần đưa cánh tay cho chị trên dòng suối:
Dù còn thương Bôn, cũng không thể giữ lại cái thai này. Mặc xóm làng đàm tiếu. Chẳng ai nỡ làm tuyệt diệt một dòng họ. Bôn chưa có con và anh ấy cầu mong một đứa con hơn hết thảy những người đàn ông khác. Nhưng cớ sao ta phải chịu cơ cực để phục vụ ý nguyện của Bôn? Ta chẳng còn yêu anh ấy. Tất cả những khổ sở chia lìa ta phải chịu đã quá đủ để lấp đầy những ơn nghĩa cũ. Ta không phải con ở chung thân của Bôn. Phải hủy bỏ cái sinh mạng này, bởi ta không cầu mong nó...
Ý nghĩ cuối cùng có vẻ mặt lì lợm xác quyết và nó khiến Miên thôi nghĩ quanh quẩn. Chị định bụng vài tuần nữa khi cái thai đủ già sẽ tới trạm xá nạo, hoặc ngay tuần sau chị sẽ xuống thành phố biết rằng tại bệnh viện thành phố giờ đây người ta đã áp dụng một phương thức tân tiến hơn là hút thai:
Ta sẽ cùng ông già Lư xuống phố, giao lại nhà cửa và cu Hạnh cho dì trông coi. Mọi sự đơn giản. Chỉ vài hôm là xong. Trên đường về, ta sẽ cắt chục thang thuốc bổ..
Chị nhắm mắt, thấy lòng thảnh thơi hơn và bắt đầu thiu thiu ngủ. Nhưng chính lúc đó gió bỗng xào xạc ngoài vườn. Trong tiếng xạc xào buồn bã, chị nghe thấy một giọng nói khẽ khàng, một tiếng gọi non nớt. Một âm vọng mơ hồ vừa như bên tai vừa như từ chân trời góc bể nào vẳng tới. Tiếng gọi của một đứa trẻ. Một sinh mạng vừa phôi thai, non nớt, chưa rõ hình hài mù mờ vừa cất tiếng:
Nó ở đâu nhỉ? Và làm sao nó có thể cất lên tiếng nói khi chưa có mặt trên cõi đời?
Chị lắng nghe thêm lần nữa, và lần này tiếng gọi trong mông lung kia vẳng đến, rõ rệt từng lời:
- Mẹ, mẹ ơi.... Mẹ ơi i i...
Giữa những thanh âm đó có những cơn gió rật. Thảng thốt. Van nài. Tha thiết. Miên nhìn vào cái chân trời mông lung chị vừa mường tượng, tìm kiếm:
- Mẹ, mẹ ơi...
Tiếng gọi lại cất lên và lần này chị nhìn thấy một gương mặt nhỏ xíu, mọi đường nét nhù nhòa như gương mặt hài chúa dìm sau lớp mây mù. Từ gương mặt ấy đang hướng về phía chị cái nhìn ngây dại, đau đớn:
Nó cũng là con ta. Con của ta. Nó cũng là một kiếp người, có sinh mạng và nó đòi chỗ trên cõi đất. Ít nhất, ta cũng phải cho nó một lần nhìn thấy ánh mặt trời...
Trái tim chị thét lên và da chị thịt như bị xé rách trong tiếng kêu ấy. Miên ngồi nhỏm dậy, mặt đầy mồ hôi cùng nước mắt...
23/11/1998
Dương Thu Hương
Theo http://vietnamthuquan.eu/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Đỉnh cao chói lọi 5XXXX

Đỉnh cao chói lọi 5 NGƯỜI ANH EM (4) Nói rồi ông nhanh nhảu ra lệnh cho trợ lý. Anh này lục tìm cuốn danh bạ đơn vị, hí hoáy tẩy chữ Nôn...