Thứ Hai, 27 tháng 1, 2025

Quãng đời đánh mất 1 XXXX

Quãng đời đánh mất 1

LỜI NHÀ XUẤT BẢN

Quãng Đời Đánh Mất là quyển tiểu thuyết thứ ba của Dương Thu Hương, do nhà xuất bản Hải Phòng in năm 1989, sau Bên Kia Bờ Ảo Vọng (1987) và Những Thiên Đường Mù (1988) - hai tác phẩm đã đưa tên tuổi bà lên vị trí sáng chói nhất trên văn đàn Việt Nam suốt mấy năm qua. Bộ ba tiểu thuyết này tạo thành một bức tranh hoành tráng công phu của xã hội Việt Nam ngày nay, với biết bao khung cảnh, hình ảnh, nhân vật, tình tiết...Nghệ thuật miêu tả và phê phán hiện thực sắc bén và can đảm cùng với nỗ lực phản kháng và giải ảo trong các tác phẩm của Dương Thu Hương đã giúp bà trở thành nhà văn được tìm đọc nhiều nhất và nổi tiếng nhất cả trong và ngoài nước.

Cốt truyện trong Quãng Đời Đánh Mất xoay quanh ba nhân vật chính cùng trong một gia đình không được bình thường, gồm có người cha là lão Ngạn và hai đứa con cùng cha khác mẹ là Ngọc Bích và Cường. Lão Ngạn trước kia là một công tử, con của một thủy sư đô đốc giàu có và nổi tiếng, rồi do bản chất yếu đuối, ông đã sa ngã và lấy phải một người đàn bà lăng loàn hung dữ, khiến cho ông mất tất cả cơ nghiệp của cha để lại vào tay người ác phụ đó. Bà vợ đầu tiên này, trước khi biến mất, có để lại cho ông một đứa con gái là Bích, thừa hưởng trọn vẹn hình dáng và tính tình của mẹ. Bích đã hư hỏng và bỏ nhà đi từ năm mười ba tuổi. Sau này Bích có chồng là Nghĩa, một cán bộ thương nghiệp tận tụy với vợ con. Nhưng Bích lại lừa gạt chồng mà ngoại tình cùng một người đàn ông tốt bụng khác là Trọng, người mà Bích lại dùng mưu để hứa hẹn và để được thỏa mãn tình dục. Rồi tham vọng quyền lực chợt chiếm ngự người đàn bà này. Khi sự việc lừa dối cả hai người đàn ông cùng một lúc của Bích vỡ lở ra, thì Bích vội quay trở lại với Nghĩa và dựa vào quyền thế của chồng đẩy Trọng lên tận miền núi để trả thù. Sau đó, Bích đã dùng mọi thủ đoạn đê tiện để hãm hại các đối thủ và leo dần lên đến chức Tỉnh ủy Viên. Nhưng rồi Bích lại bị Trọng dàn xếp một màn trả đũa khác, chấm dứt giấc mơ quyền lực của cô.

Trong khi ấy thì Cường, đứa con trai của lão Ngạn với người vợ kế vắn số, chịu một số phận bi đát hơn. Chính vì bản thân lão Ngạn không thực hiện được ước muốn của ông cha thủy sư đô đốc trước kia, nên bây giờ ông quyết tâm muốn con mình phải làm cho được điều đó. Cái áp lực ghê gớm mà lão Ngạn đặt lên bờ vai Cường từ thơ ấu, trái ngược với thể chất yếu đuối của anh, trở thành sự ám ảnh đau khổ. Anh phải theo học hàng hải, phải làm thủy thủ cho vui lòng cha trong sự kinh hoàng thường trực. Trên tàu, anh lại bị vài kẻ xấu khinh bỉ chà đạp, khiến tinh thần anh ngày thêm hoảng loạn.

Quyển sách chấm dứt với sự tan nát của gia đình ấy: Lão Ngạn thất vọng, lâm bệnh chết; Bích xiêu dạt đến một tỉnh khác; Cường phải vào bệnh viện tâm thần, rồi sau được chuyển sang một tu viện, trồng trọt làm vườn như anh từng mơ ước.

Một số chủ đề trong Quãng Đời Đánh Mất đã được trình bầy tương tự và lập đi lập lại trong các tác phẩm của Dương Thu Hương. Trước nhất là vấn đề danh dự của dòng họ, niềm kiêu hãnh và quá khứ vẻ vang của gia đình. Cũng giống như cô Tâm trông đợi nơi Hằng trong Những Thiên Đường Mù, ở đây lão Ngạn đã bắt con trai là Cường phải nhận lãnh cái sứ mệnh mà ông đã thất bại trong đời mình: trở thành một thủy sư đô đốc. Lão muốn con mình bù đắp cho sự thiếu sót kia một cách phi lý. Cường phải sống cái ước muốn của ông mà bỏ phí chính đời sống của mình. Nếu Cường đã yêu cha một cách không sáng suốt, thì ngược lại, lão Ngạn cũng yêu anh với một tình yêu không bình thường ngay từ thơ ấu. Khi ông bắt con phải học bơi, xuất phát từ nỗi mơ ước bệnh hoạn của mình, ông đã ra lệnh cho con như ban một án lệnh tử hình: “Hoặc mày chết, hoặc mày phải biết bơi, tao không thể đẻ ra một thằng hèn như vậy...”

Sự phục tòng tuyệt đối gây ra bao thảm họa. Cường đã phải từ bỏ những ước vọng hiền lành, thích làm vườn, hoặc trở thành một kỹ sư lâm nghiệp của mình để làm theo ý cha. Anh phải chấp nhận cuộc sống lênh đênh trên sông biển, dù rằng đối với thể tạng và tâm hồn anh, đối với những kỷ niệm học bơi hồi nhỏ, sông nước đã mãi mãi “là ám ảnh ghê rợn, là mối thù không phân xẻ...” Cường đã không có nổi sự can đảm của Đính, một tay thủy thủ trên tàu, dám đối diện và chống phá những uy quyền áp đặt tàn bạo và vô lý của cha, không dám phản kháng và đặt câu hỏi như Đính: “Nếu bây giờ có người hỏi: Đời ông, ông đã làm được việc gì?...Bố sẽ trả lời họ ra sao?...Bố học chữ nho, ba năm trời không thuộc nổi một bài phú. Bố chưa trồng được một cây lúa xuống đồng. Mẹ đẻ anh Cả, bố ngồi ngoài đình chuyện gẫu vì sợ về nhà có mùi đàn bà ô uế. Vậy mà bố nghiễm nhiên coi mình là ông chủ ở đây. Vì mọi người quá ngu dốt nên họ chấp thuận điều đó. Còn tường vách này, cột kèo kia mà có mắt có môi, nó sẽ lên tiếng rằng: Ông là kẻ vô giá trị, ông là kẻ ăn chạc, kẻ sống thừa”. Cường là người yếu đuối, nên mãi sau này khi anh đã chịu dựng quá nhiều đau khổ, khi anh biết rằng tất cả những khát khao, trông đợi của cha anh đã tàn phá biết bao năng lực và niềm vui sống của đời anh, anh cũng không đủ sức chống lại và làm thay đổi đi cảnh sống mà chỉ biết buông tay vào bóng tối u uất của bệnh chứng tâm thần. Sau những giấc mơ chìm đắm được vỗ về bởi niềm hạnh phúc mơ hồ của tình yêu vương vấn nơi anh từ khuôn mặt một lần thoáng qua của một cô gái, anh chỉ có thể trở về nhà đối diện cùng cha, khóc lóc và muốn chết đi. Có lẽ anh đã có thể sống khác đi, thế mà quãng đời của anh lại là “quãng đời bị đánh cắp, như con chim tòng phục mù lòa không cất cánh lên trời cao mà đâm đầu vào vách đá cho tới gãy cánh trụi lông.”

Ở phía kia quãng đời đánh mất của Cường, Ngọc Bích lại đánh cắp cuộc đời kẻ khác trong những tham vọng về quyền lực. Tham vọng quyền lực và sự sụp đổ thảm hại của nó cũng là một chủ đề khác mà Dương Thu Hương hay nhắc đến trong các tác phẩm của bà. Do bản chất hư hỏng, sa đọa của mình, Bích chỉ có thể bước trên những nấc thang ảo vọng đó bằng những thủ đoạn đê tiện tàn nhẫn. Niềm say mê có phần không đúng chỗ nơi người đàn bà - sự say mê quyền lực - trong trường hợp của Bích, ban đầu chưa rõ nét so với những thú vui nhục dục, rồi hình như cùng với sự hỗn loạn, hư hỏng rộng khắp của cả một xã hội, nỗi khao khát đó đột ngột trở thành tham vọng chủ đạo của cô. Thiên hướng và đức tính của người nữ tỉnh ủy viên này đã được Trọng, người yêu tội nghiệp của cô, nói một cách hờn căm và thất vọng như sau: “Trời phú cho em một khả năng tổ chức đặc biệt, một khả năng ngụy biện đặc biệt. Em là nhà tổ chức tài ba, ranh mãnh nhất anh đã gặp trong việc tổ chức thực thi những dục vọng của bản thân. Nhưng em quên rằng những biện pháp thông minh không cứu được quả tim bị hư hỏng...” Trước khi dối gạt và đánh cắp niềm tin của xã hội, Bích đã lấy đi những khao khát, những hy vọng trong một phần đời của Trọng, đã “đánh cắp niềm say đắm trong lành nhất, mạnh mẽ nhất của một người lính từ cửa rừng trở về đồng băng, dồn nén những thua thiệt của quãng đời chiến tranh dài dặc cho một gương mặt yêu dấu, một mái nhà yêu dấu...”

Trong khung cảnh đời phong phú, lẫn lộn vui buồn của Quãng Đời Đánh Mất, có hai khuôn mặt thiếu nữ chỉ thoáng qua ngắn ngủi, nhưng trở thành những giấc mơ đẹp cho hai chàng trai bất hạnh là Cường và Trọng. Sự gặp gỡ cô gái nghèo An và cô nhân viên Kim Lan đã mơ hồ mở ra cho hai chàng trai kia một chân trời yên vui bình thường khác của cuộc sống, giúp họ nhìn lại nỗi khổ vô vọng mà họ phải nhận chịu. Tác phẩm không nói đến một chung cuộc hạnh phúc cho những tình cảm vương vấn đó, nhưng hai khuôn mặt dịu hiền và sống động của hai cô gái đã xuất hiện trên con đường đời của Cường và Trọng như lời nhắc nhở của số mệnh, về những khả thể của hạnh phúc và tình yêu, “thứ tình yêu mời gọi và mãi mãi ám ảnh con người, độc chiếm mọi tâm hồn và trái tim giàu nhân tính, chế ngự con người với một quyền lực mãnh liệt và ban phát cho con người những niềm vui không một niềm vui trần thế nào thay thế được.

Sống cuộc đời mình một cách độc lập, can đảm đối diện và chống lại những quyền lực phi lý, nhìn cho đúng và phá vỡ những ảo tưởng xa lạ, yêu thương cuộc đời và con người một cách chân thành...đó là một vài thông điệp chính mà Quãng Đời Đánh Mất gửi đến người đọc. Chúng tôi trân trọng giới thiệu đến độc giả tác phẩm gợi nhiều suy nghĩ này, và mong sao không một ai trong chúng ta để mất đi một ngày sống nào trong đời mình một cách uổng phí như Cường và Trọng nữa.

Nhà Xuất Bản.

Chương 1

Mặt trời mù sau lớp mây bạc, nhưng vòm trời và mặt đất trắng ánh lên. Các đồi cây đan tiêu hớn hở nô giỡn trước gió, ném vào không trung ngọn lửa cuồng nhiệt và thất thường của những vòm lá đỏ như đồng. Trên con lộ chạy vắt qua những trái đồi ngoại ô, chợt xuất hiện một cỗ xe thổ mộ. Nó tiến thẳng vào thành phố, tiếng vó ngựa và tiếng lục lạc mỗi lúc mỗi rõ dần.

Lão già Ngạn dỏng tai nghe. Rồi từ trong bếp, hấp tấp lao ra sân, đưa mắt dõi theo, cỗ xe ngựa vượt qua tòa biệt thự trắng, xưa là nhà nghỉ của quan công sứ Pháp, nay lũ trẻ đọc sách và chơi đu quay. Rồi cỗ xe lăn qua khuôn viên, khu trường phổ thông, nhà trẻ... Vượt qua hai cánh cổng để ngỏ của lão, nó đi hút về cuối phố. Lão già bất giác thở dài, đôi vai như còng xuống. Từ mảnh sân bên kia, phân cắt bởi hàng đỗ leo, một ông già cao lớn bước sang. Đưa mắt nhìn khuôn mặt ủ ê của lão Ngạn, ông cất tiếng:

- Thôi đi, đừng mất công vô ích. Về được, nó khắc về.

- Nhưng tôi nóng ruột...

Lão Ngạn đáp, vẻ hằn học không che đậy: Ông có con đâu mà ông biết xót?...

Ông già hàng xóm không mảy may phật ý, đáp:

- Tôi không có con nhưng trên đời này chẳng riêng ông được quyền làm cha. Không người cha nào xử sự như ông cả...Nhưng thôi, đừng cãi cọ nhau buổi sớm. Pha ấm trà đi.

Nói xong, ông kéo ghế ngồi, đôi chân bắt chéo lại. Lão Ngạn súc ấm, bỏ trà pha nước mới. Vừa làm, lão vừa nghĩ: Lúc nào hắn cũng đàng hoàng, mạnh mẽ hơn ta. Dù ngồi ở xó rừng hay ngồi trên ghế của người khác...Trông kìa, dường như chính hắn mới là chủ nhân ngôi nhà này, bộ bàn ghế mây đáng tiền này, cả bình trà bằng sứ đời Thanh này nữa. Đến con trai ta cũng thuộc về hắn. Nó tin hắn như dân đạo tin Chúa Jesu. Cái thằng khốn...

Ông già láng giềng vẫn ngồi yên lặng, mắt đăm đăm nhìn dãy đồi đan tiêu nơi chân trời. Tóc ông dày và đen, lưng thẳng. Lão Ngạn đặt bình trà xuống bàn:

- Được rồi đây.

Ông già rót nước:

- Ông uống luôn cho nóng.

Lão Ngạn gật đầu:

- Phải...Nhưng tôi vào bếp đã. Chặn lại cái thớt kẻo sổng mấy con cua. Chúng nó cạo nồi cả đêm, không ngủ được.

Lão vào bếp vì không muốn người láng giềng đọc được ý nghĩ của mình. Thực tình, lão căm ghét ông Hai đến mức thầm ước rằng bỗng dưng có cơn gió độc thổi tới, ông Hai trúng phong ngã lăn quay trên mảnh sân này, lão sẽ hả hê bao nhiêu. Trong chiếc nồi đồng lớn, lũ cua biển giương những đôi mắt lồi tí xíu nhìn lão. Móng cua sắc cạo xào xạo nghe rợn tai. Bất chợt, lão già đập chiếc thớt gỗ lên miệng nồi:

- Lũ khốn, trưa nay ta đem luộc ráo.

Lão quay ra sân. Ông già Hai đã uống xong chén trà, khoan thai bước về mảnh sân bên kia. Lão Ngạn nhìn theo, nghẹn cổ. Trưa hôm ấy, lão luộc cả mớ cua biển. Một mình, ăn mãi tới nửa đêm mới hết. Dù uống nửa lít rượu, lão vẫn bị đau bụng. Từ hai giờ rưỡi đêm, lão chạy đi chạy lại từ nhà trên xuống chuồng tiêu như con thoi. Lũ nhặng đêm kêu như ong trong không, gian hôi thối. Lão đành uống năm viên rửa có á phiện. Rồi sau đó, khoảng bốn giờ sáng, lão ngủ thiếp đi cho tới non trưa ngày hôm sau. Giữa đám sương bồng bềnh, lãng đãng những vệt nắng vàng. Lão già nghe tiếng xe lăn ngoài phố. Lần này, xe dừng lại trước cổng. Đứa con trai bước xuống, nện gót giày trên sân:

- Chào ba, con đã về.

Nó giơ cao chiếc mũ dạ xanh thẫm, đính mỏ neo vàng. Mắt lão hoa lên. Lão ngắm nghía bộ đồng phục bó sát tấm thân trai trẻ của nó, nước mắt rớt xuống má...

- Thình thình...thình...Thình thình...

- Ba ơi i i...

Hai cánh cửa rung bần bật. Và giọng một người đàn bà:

- Chú Hai, ba cháu ốm à?

- Không rõ. Đêm qua tao thấy ông ấy chong đèn tới ba giờ sáng.

- Mọi ngày ông cụ tỉnh ngủ lắm, ho khẽ đã trở dậy rồi.

- Có thể ngủ mệt không nghe được.

- Cháu phá cửa đây.

- Hãy gọi thêm lát nữa xem sao?...

Tiếng gọi cất lên:

- Ba ơi, ba ơi i i...

Lão Ngạn rùng mình. Không phải tiếng nói của thằng Cường, đứa con trai lão chờ đợi. Giọng của một người đàn bà, như từ cõi âm vọng tới. Lão già cố mở mắt, nhìn thấy cánh tay xanh nhợt của mình vắt trên ngực. Lão cố định thần, lắng nghe tiếng gọi:

- Ba ơi...

Lão Ngạn thầm kêu:

- Con Bích.

Rồi chống tay ngồi lên, lão lê từng bước ra mở cửa. Bàn tay lão lạnh ngắt, run run đặt trên quả đấm sứ:

- Tao đây.

Cánh cửa bật mở. Cô con gái kêu:

- Ba làm sao vậy?

Thay vì trả lời con, lão Ngạn quay sang người hàng xóm:

- Tôi bị tháo dạ, vì lũ cua biển hôm qua.

Ông Hai hỏi:

- Ông có cần thuốc không?

- Không. Giờ cầm rồi.

- Có cần gì thì gọi tôi.

Người láng giềng quay đi. Lão Ngạn lần về giường nằm, chút nữa bật tiếng rên thất vọng:

- Mình mong thằng bé. Lại hóa ra con trời đánh này.

Lão đã kịp nuốt những lời đó vào họng. Kê đầu trên tấm gối sa tanh cáu ghét, lão he hé mắt nhìn đứa con gái người vợ trước. Bích đang xếp mấy hộp bánh lên bàn, lưng xây lại. Vai xuôi, lưng núng nính: Sao nó giống mụ ta đến thế?...Ba mươi tuổi đã phát phì. Hai năm rưỡi, biệt tăm tích. Hẳn có chuyện gì mới dẫn xác về đây...

- Ba già rồi, ăn cua làm gì cho sinh chuyện?...Giờ ba đã đỡ chưa?

- Chưa.

- Con nấu cháo nhé?

- Thôi.

- Thế thì cụ nghỉ đi. Rồi có việc phải giúp con đấy... Bây giờ, con rửa mặt đã...

Nói xong, cô con gái rút chiếc khăn bông trong làn, ra sân sau. Lão Ngạn nằm nghe tiếng trục quay cọt kẹt, tiếng gầu va vào thành giếng, và tiếng nước xối xuống thau. Bất chợt, lão bật tiếng rên:

- Trời hành ta. Sao nó giống mụ ấy đến như vậy?...

Một gương mặt luôn luôn đỏ rực. Cặp môi ướt dầy và cháy bỏng. Đôi mắt nhỏ đờ đẫn, người biết xem tướng thường gọi là Trư nhãn, lúc nào cũng phủ làn khói của cơn say ái ân. Phải, gương mặt ấy đã hiện ra trong ánh sáng nhập nhoạng của một rạp chiếu bóng, năm lão mười chín tuổi. Lúc ấy, lão là một chàng trai khờ khạo. Cậu ấm Ngạn, con trai thứ bảy trong đàn con chín đứa của ông thủy sư đô đốc. Kết quả của một cuộc mây mưa trong cơn say rượu, Ngạn oèo oặt từ nhỏ. Mẹ anh đã nuôi anh bằng sữa cộng với nhân sâm. Cha anh, bù lại cho con phần thiếu hụt thể lực và hình thức đã cho anh một hiệu đại lý thuốc tây từ năm anh mười tám. Năm sau, Ngạn mười chín, nhân dịp Tết Nguyên tiêu, ông lại cho anh quyền sở hữu một cửa hàng kem có hai máy. Với gia tài đó, Ngạn trở thành con mồi khiến tất cả các gia đình có con gái lớn trong thành phố thèm khát. Người ta săn đuổi anh tứ phía. Nhưng anh vẫn còn là một thiếu niên to xác: thích xem phim Tác-dăng, thích đánh tam cúc và bài tây ăn tiền với đám trẻ quanh nhà. Anh đi chơi với đám trẻ, lộc ngộc như con gà trống giữa bày gà choai, ngang nhiên gác chân lên hàng ghế chuồng gà trong rạp hát, ngang nhiên mút kem rong trên hè phố, ngang nhiên hát những bài hát tục tĩu tụi lính kèn du nhập vào phố biển...Bỗng dưng, một tối, trong rạp chiếu bóng, có ai đó áp bộ ngực nóng hổi vào lưng Ngạn. Chàng trai giật thót người, quay lại. Và anh hoàn toàn sửng sốt khi thấy trước mặt mình hiện ra một gương mặt thiếu nữ. Ngạn không nói được gì, há miệng nhìn. Cô gái cười, hai má đỏ như gấc chín. Rồi cô nói, tự nhiên:

- Đổi vé cho em nhé, đầu anh cao thế em làm sao xem được?...

Trong thành phố không gia đình nào dám cho con gái đi xem phim cao bồi. Vì thế, Ngạn bàng hoàng mãi như mê ngủ. Khi anh chưa đáp lời, cô gái lạ đã đặt bàn tay lên vai anh:

- Nào, đi đi...

Chàng trai mềm nhũn ra tức khắc, theo bàn tay cô gái điều khiển ngồi xuống chiếc ghế phía sau. Buổi xem phim ấy, Ngạn như bị ma ám. Người anh lúc nóng bừng, lúc lạnh toát tùy thuộc vào những tiếng thì thầm, những nụ cười, những cái va chạm nhẹ nhàng nhưng đầy nhục tính. Hình ảnh những anh chàng vạm vỡ, phi ngựa như gió, phóng dao và bắn súng lục thiện nghệ không còn hút hồn anh như xưa. Anh đã bị chi phối bởi một gương mặt khác...Nụ hôn đầu tiên cô ta ban phát cho anh, sau tấm phông rách lỗ chỗ và nhàu nát của một gánh hát rong, vừa cay vừa mặn vì có mùi thịt bò khô nộm đu đủ. Cô bá cổ anh, cọ bên má nóng rực vào má anh, thì thầm:

- Thích không?...

Rồi cô chìa cho anh một nắm lạc ngọt của người Tàu, dặn:

- Mai anh mang nhiều tiền đi, chúng mình đến tiệm chú Voòng.

Hôm sau, anh theo cô tới tiệm chú Voòng, một quán ăn thụt sâu trong ngõ, cái ngõ đó nằm giữa khu phố cổ mà anh ít bén mảng tới. Quán nhỏ, bốn bức tường quét vôi vàng nhờn mỡ và các vết ố, lúc nào cũng quần tụ một thứ khói hương trầm lẫn khói đèn dầu hỏa. Chủ quán lẫn những người phục vụ đều béo tốt, nhớp nhúa và hiện ra trong làn ánh sáng vàng vọt như những bóng ma. Ngạn sợ, anh bảo cô:

- Tối quá. Mình tìm hiệu ăn khác ngoài phố.

Cô bĩu môi:

- Ngốc. Quán chú Voòng ngon nhất cảng.

Anh chàng nhát nhúa ngồi im. Cô bắt đầu gọi các món ăn, không cần bảng thực đơn. Những tiếng “Dạ” kéo dài vọng giữa đám hơi nước mù mịt trong bếp. Và sau đó, người hầu bàn mặc quần áo Tàu vải thô, lần lượt bưng lên. Cô nói đúng, các món ăn ở cái tiệm kỳ quái này ngon nhất thành phố biển. Chốc lát, một tay thủy thủ già, dáng trụy lạc hoặc một gã trai da xanh mướt bước vào, lẳng lặng ném mũ xuống bàn và ngồi tựa vào bức tường dơ dáy với dáng điệu của kẻ sắp trẫm mình.

- Dạ, ông dùng gì?

- Tiết kẻ tử tù.

- Dạ, vâng Boóc-đô. Có ngay. Và sau đó?

- Cồn bóp tim.

- Rượu mạnh, thưa ông, có thứ thượng hạng đấy.

- Cậu dùng như mọi bữa?

- Không. Súp-lơ trắng với nấm hương.

Ngạn ngơ ngác, anh hỏi cô rằng tại sao người ta tìm được rau súp-lơ giữa mùa này?...Cô cười và giải thích cho chàng công tử hiểu súp-lơ trắng nghĩa là những chiếc chân vịt rút xương tẩm bột trứng rán giòn lên, hình giống những miếng súp-lơ thái mỏng. Cô còn giải thích cho anh nhiều điều nữa, tất cả mớ từ ngữ và kiến thức của các tiệm ăn đen, các quán trà đen, các ngõ tối nơi tụ hội những số kiếp oái oăm, cắc cớ nhất của cõi đời. Trong mê cung của cô, cậu ấm Ngạn không còn tìm thấy lối ra. Người thầy đầu tiên về tình ái bao giờ cũng là người nắm giữ sinh mệnh học trò đối với những tâm hồn yếu mềm, trơ trọi.

Cậu ấm Ngạn vốn trơ trọi về đời sống tâm linh, cậu đã đi theo cô như một kẻ tòng phục Ngọc Bảo, tên cô. Một căn nhà gỗ ven chợ nơi trú náu của mẹ con cô. Ngạn đã tới...

Tiếng chân bước của đứa con gái khiến lão giật mình. Bích cất giọng hỏi:

- Sao ba không ngủ đi?...

Lão Ngạn đưa mắt nhìn Bích:

- Mày về đây có việc gì?

Cô gái ngồi xuống ghế:

- Sao ba hỏi con thế?

Lão già nhắc lại bướng bỉnh:

- Mày về đây có việc gì?

- Thăm ba, điều đó không được hay sao?

- Hai năm rưỡi trời mày không có lấy một dòng chữ, thăm nom gì.

- Con bận. Có phải suốt ngày ngồi ngóng ra ngõ như ba được đâu?

- Tao không ăn đến hạt cơm của mày. Ngồi hay đứng là quyền của tao.

Cô con gái nhìn bố hồi lâu, hạ giọng:

- Thôi, ba bỏ qua cho con. Ba khó tính khiếp lên được.

- Mày cần gì tao?

- Ba già quá rồi, không nên ở hiu quạnh mãi thế này. Lúc trái gió trở trời, con và em Cường làm sao biết được?

- Tao đã ở một mình mười mấy năm nay. Mày không cần lo.

- Mọi việc khó khăn nhờ cậy chú Hai. Nhưng ba không thể nhờ chú ấy mãi.

Lão Ngạn nhỏm dậy:

- Tao không cần nhờ cậy ai hết.

Bích cười nhạt:

- Thôi, ba nằm xuống đi.

Lão Ngạn chống tay nhìn con. Nụ cười còn đọng trên cặp môi dày của cô ta. Nụ cười khinh thị và hiểm độc. Cặp môi không trộn lẫn được với bất kỳ cặp môi nào khác, với lớp da mọng như ứ máu, nét gợn nơi khóe mép, hứa hẹn no nê tình dục và ẩn giấu những lời lẽ nhọn như gai đâm. Hơn ba năm trước, mỗi nụ cười ấy kéo theo một cơn xốc của lão, những tràng ho bỏng rát lồng ngực, và lão cúi xuống, cúi xuống chiếc ống nhổ sứ trắng miệng loe đặt cuối giường...từng dòng máu đỏ vọt ra.

- Mày cút khỏi đây...

Lào Ngạn rít lên, trước khi nằm vật xuống giường. Bích đến gần bố nhìn hồi lâu gương mặt xám ngoét, cạn kiệt sinh khí và in rõ những nét hằn đau khổ. Cô ta hối hả chạy sang sân bên kia:

- Chú Hai ơi, chú sang xem giùm. Ba cháu vừa ngất...

- Chờ tôi lấy túi thuốc. Lại cãi cọ nhau phải không?...Lần nào cô về ông ấy cũng ngất. Tại sao?...

Chương 2

Trời tím dần một cách mau lẹ rồi sau đó, các lớp mây tro tan vào mặt sóng. Không còn gì ngoài một vệt đen thẫm chạy vòng quanh chân mây. Phía trên vành cung đen ấy, trời lục, nhẹ như khói với dăm bảy vì sao tan vụn ra thành bụi, sau đó chúng hợp lại và chuẩn bị cho một lần tan vỡ khác. Anh nhấm nháp từng hột lạc rang cháy. Anh nhấm nháp như thế từ chiều khi nhận chân gác tàu cho anh em lên thành phố.

Túi lạc đã vơi quá nửa, Cường rút cuốn sách trong ngăn kéo dưới giường ngủ. Cuốn sách nhàu nát, sực mùi dầu máy mùi mồ hôi và mùi tanh khó tả của tất thảy những con tàu. Cường lật trang 87 đánh dấu bằng mảnh nhựa mỏng anh vẫn dùng gảy ghi-ta. Chuyện kể về vụ án mà tội nhân là người da đỏ. Y đã từ bỏ xứ xở của mình, đã tìm đủ phương pháp để xóa đi màu da, dấu vết tổ tông, âm sắc của tiếng nói mẹ đẻ để rượt theo kẻ thù từ Châu Mỹ qua Châu Úc, từ Châu Úc qua Châu Âu và cuối cùng hạ thủ y trong một lâu đài đổ nát vùng Scốt-len. Cường đặt cuốn truyện lên gối, đọc tiếp. Đoạn văn miêu tả cảnh tên tội đồ trở lại vùng quê, sau khi đã đạt được mục đích cuộc trả thù:

“...Trăng sáng đến nỗi y thấy lạnh. Trăng là một thứ tuyết đá tan chảy, nhuốm bụi vàng. Y lột giầy, đạp trên cỏ nháp, nghe những ngọn cỏ sắc cọ vào lớp da chân đã mỏng qua nhiều năm quen đi giày. Hồi bé, y đã lăn trong cỏ, chơi đùa như chú ngựa non. Hồi đó, Hét-tơ thường mang cho y những miếng bánh ngô tẩm mật ong ngọt sắc. Hồi đó... thôi dừng thèm nghĩ tới tuổi thơ vì những ý nghĩ ấy chỉ làm cho người đàn ông yếu lòng. Cái chính là phải sống cho tương lai... Tương lai... Y ngước nhìn những ngọn núi chọc vào bầu trời như răng cá sấu. Chưa ở nơi nào, núi có hình dáng ghê rợn như những ngọn núi quê hương. Các thớ đá bóng như sừng mà ánh trăng quét lên lượt nhũ vàng thấm trên các khe núi âm u đâm vào tim con người như lưỡi dao. Còn những con thác nhỏ óng ánh, chảy như reo. Y ngồi phệt xuống cỏ, nhìn mãi. Ngày hôm nay, ở các lữ quán dọc đường bộ hành, những người dân xứ xở này đều chối bỏ y. Họ không chấp nhận gã đàn ông để ria kiểu Anh, mặc bộ đồ như những tay bán thịt ngoại ô Luân-đôn và đi đôi giày giá một trăm năm mươi bảng. Còn y, khi trở lại núi non này, ngồi xuống cỏ, y thấy mình tan hòa vào núi, vào cỏ, vào ánh trăng, vào khí trời xứ xở. Những thành phố trong ký ức rơi lả tả như tàn tro: Nào Săng-chi- a-gô, nào Niu-ước, nào Pa-ri, nào Luân-đôn, Cai-rô, Síp... Tất thảy chỉ là các phòng trọ với khung cửa vuông, bồn rửa mặt hoặc sạch sẽ hoặc nhơ bẩn, tấm chăn dấp và chiếc giường,... Không, y vẫn chỉ là đứa con của xứ xở này. Bởi vì khi y từ bỏ màu da, y phục, tiếng nói của mẹ đẻ, chính là để cho tái cả ân huệ và tai ương của tổ tông sống lâu bền mãi mãi trong huyết quản y, trong tâm hồn sâu kín của y, và trong mối thù độc địa của y... ”

Một tiếng quát thô lỗ vang lên, cắt dứt những dòng chữ:

- Đồ con lợn, mày không tìm được trò gì khác hay sao mà suốt ngày ru rú như con lợn chờ xuất chuồng thế này?

Cường chưa kịp trả lời, Đính đã xô anh vào sát vách. Đính ngồi xuống giường, lột đôi giày và đôi tất ném vào góc phòng. Hai bàn chân anh ta bốc mùi thối. Cường quay đi. Đính đã thấy. Anh ta cười gằn:

- A, chân tao thối lắm phải không?

Cường im lặng không đáp. Nhưng Đính đã túm tóc anh, quay mặt anh lại và nhìn chằm chăm vào mắt anh bằng đôi mắt vằn đỏ tia máu:

- Công tử Cường không chịu được mùi chân thối. Công tử quen hít nước hoa. Thế mà dân đi biển thì chỉ bốc lên mùi tanh và mùi thối.

Hơi thở Đính nồng nặc rượu. Hẳn anh ta đã uống liên miên suốt buổi chiều, cả tàu, không ai uống rượu như Đính. Anh ta có thể nốc hai ba lít rượu trong một ngày. Nếu lượng rượu đó làm người khác đứt mạch máu não thì chỉ khiến Đính đập tan chiếc cối đá, đạp bẹp dí chiếc xoong nhôm dày năm ly rồi sau đó ngủ liền hai ngày không nhúc nhích. Cường ôn tồn nói:

- Anh về phòng ngủ đi.

Đính trừng mắt:

- Mày đuổi tao về, phải không?

Cường lắc đầu:

- Anh mệt rồi. Anh đi ngủ cho dễ chịu.

- Tao không muốn ngủ, tao ngồi đây dễ chịu hơn.

- Vậy thì tùy anh.

Cường đáp, cầm cuốn truyện định đọc tiếp. Nhưng Đính giật cuốn sách trên tay anh:

- Mày không thèm nói chuyện. Mày khinh tao phải không, thằng nhãi?

- Nhưng tôi biết nói chuyện gì với anh bây giờ? Anh say rồi.

- Tao mà say à?... Này, bố bảo cho con biết, ba mươi năm nữa bố cũng chưa say.

- Anh Đính.

Cường gần như van vỉ:

- Tốt nhất là anh nên đi ngủ, cho dịu thần kinh. Anh uống nhiều hơn cả lần trước đấy.

Đính không nghe Cường nói. Mắt anh ta đỏ vằn. Những đường gân xanh tím bằng chiếc đũa nổi lên trên cần cổ vạm vỡ:

- Thằng nhãi... Tôi biết nói chuyện gì với anh bây giờ?...Mày khinh tao. Mày khinh tao từ lâu rồi...đừng hòng che dấu điều đó.

Bàn tay cứng như thép của anh ta bóp chặt cổ Cường lắc như lắc chai rượu:

- Mày là thá gì mà dám khinh tao?... Lẽ ra, tao phải bóp cổ mày như bóp một con nhái mà quảng xuống biển. Cái điệu bộ của mày chỉ đáng làm thằng thợ may suốt ngày kéo thước dây đo đùi đo đít lũ đàn bà. Cái mớ chữ nghĩa trong đầu mày đem mà bán lấy vài đồng xu rỉ. Đối với dân đi biển, mớ chữ nghĩa ấy không đáng là mớ giẻ cọ sàn tàu.

Nước bọt của Đính phun ra bắn vào mặt Cường. Anh không dám đưa lay lau.

Cử chỉ đó sẽ kích động Đính và khiến gã đánh đập anh tàn nhẫn hơn. Con người này, khi đã lên cơn hung bạo, không gì kiềm chê nổi.

Vả lại, tay gã xiết chặt cổ anh như hai gọng kìm. Chàng trai nhắm mắt, anh không dám nhìn lâu bộ mặt đỏ rực của Đính, với hai nhãn cầu lồi lên như mắt cá vàng chạy ngoằn ngoèo những tia máu. Đính thở hào hển, những tràng chửi rủa tuôn xối xả:

- Bao lâu nay, chúng tao đã chịu dựng mày như chịu chở theo tàu một cái xác thối, cả mày, cả những bãi nôn vàng ệnh của mày, bộ mặt tái xanh tái tử của mày... Tất cả đều làm ngứa mắt tao. Biển không cần thứ mèo ốm mặc áo thủy thủ. Biển chỉ cần những thằng đi biển thật như tao. Mày hiểu chưa? Thằng thối thây...loài ăn bám.

Hết tràng chửi rủa, chừng đã hả cơn tức, Đính buông Cường ra. Anh ta nhếch môi cười, bọt sùi trắng xóa. Một dòng nước bọt chảy từ mép Đính xuống cằm. Anh ta đưa tay chùi, đoạn quẹt bàn tay dây đầy nước rãi vào môi Cường. Cường định giơ tay đẩy Đính ra, nhưng kinh nghiệm của những lần trước khiến anh phải buông thõng cánh tay xuống. Chàng trai ngồi im, cố chịu đựng cơn say của Đính, vẻ cam chịu của anh khiến gã dịu đi. Gã nhổ bọt phì phì, tỏ vẻ khinh miệt. Rồi, móc túi lấy một nắm tiền, gã ném vào mặt Cường:

- Cầm lấy, vào phố mua rượu cho tao. Nửa tiếng nữa chưa mang rượu về tao sẽ cho mày nếm bã trầu.

Cường nghĩ: Đây là dịp tốt nhất để mình thoát khỏi hắn. Anh cầm tiền, xách chiếc vỏ chai, lên cầu tầu. Đính co chân đạp gối và cuốn sách của chàng trai xuống sàn, nằm vật ra. Phút đó, gã còn ném theo chàng trai một cái nhìn thù ghét, cay độc. Cường leo qua cầu tàu, xuống bến. Anh đi về phía khu nhà bảo vệ cảng, múc nước trong phuy, rửa mặt.

Ông già gác cảng hỏi vọng ra:

-Ai thế?

- Cháu, Cường đây. Cháu xin ít nước rửa mặt.

- Sao không vào bể trong này, nước ấm hơn.

Tiếng ông già khàn như bị viêm phế quản. Thanh âm vọng trong không gian yên tĩnh. Nước ấm hơn... Cường bỗng trào nước mắt. Anh vốc nước rửa mãi vết nước rãi nhơ nhớp của gã say trên môi, rửa cả những dòng nước mắt nóng hổi tràn xuống hai má... Lúc ấy, trên khoảng xi- măng trống vắng, có một người đàn ông bước tới. Anh ta cao lớn, vóc dáng chắc chắn với những bước đi sải dài, đều đặn. Người đàn ông dừng lại trước khu nhà bảo vệ một lát, chăm chú nhìn và nhận ra Cường. Anh bước tới sau lưng chàng trai:

- Cường.

Chàng trai sực tỉnh, ngẩng đầu lên. Anh nhận ra thợ máy trưởng Bá. Bá ngạc nhiên hỏi:

- Sao cậu xuống đây?

- Anh Đính đang ở trên tàu. Anh ấy bắt em đi mua rượu.

- Lại thằng Đính. Nó có gây sự với cậu không?

- Không.

Cường đáp. Nhưng chính anh và Bá đều hiểu rằng đó là một câu nói dối. Hai người im lặng. Rồi Cường nuốt nước bọt, hạ giọng:

- Chuyện ấy...anh đừng để tâm. Anh ta cũng có lý.

-Lý gì?

- Vì…vì em là kẻ vô dụng. Còn Đính, dù có bao nhiêu thói xấu vẫn là một thủy thủ giỏi. Tầu cần anh ta.

Bá dằn giọng:

- Cậu thật lạ lùng... Tôi không hiểu...

Anh bỏ lên tàu. Bóng anh lướt qua khoảng không màu lục treo lơ lửng giửa trời với cây cầu tàu lắt lẻo. Cường ngồi xuống kè. Đá thấm hơi sương làm ẩm lớp vải quần. Chàng trai khẽ rùng mình vì lạnh. Anh khoanh hai tay, dựng cổ sơ mi lên. Lúc đó, một câu hỏi quen thuộc lại lởn vởn trong tâm trí:

- Tại sao?...

Tại sao gã đàn ông tàn bạo ấy thù hằn anh? Tại sao anh phải cam chịu sự hà hiếp trơ tráo của gã? Tại sao mọi cố gắng hòa dịu của anh và thiện chí của những người xung quanh hoàn toàn vô nghĩa. Càng ngày, mối thù độc địa của Đính với anh càng cay nồng và luôn luôn, trong đôi mắt vằn máu của gã, hiện lên ước muốn điên cuồng và âm hiểm của kẻ sát nhân... Bất giác, chàng trai đưa hai tay ôm đầu. Anh nhớ lại buổi chiều hôm ấy, một chiều hè ấm nóng cách đây đã ngót năm năm. Tàu cũng neo tại bến này. Lúc đó khu nhà bảo vệ chưa xây lại, chỉ là một gian nhỏ lợp ngói xi măng đen sỉn. Hàng đã dỡ xong, chờ ăn hàng mới. Đám thủy thủ tụ họp trên boong vì buổi tối có cuộc tổng kết các chuyến đi trong ba tháng qua. Họ vẫn còn thèm xuống phố chơi, nên ai nấy nhấp nhỏm mong tàu trưởng từ tổng công ty tàu biển trở về. Vài anh sắm sửa đồ đạc, là quần áo. Vài anh ăn mặc tươm tất, đứng hóng gió. Còn tất cả xúm quanh Tuấn hói, danh ca của đám thủy thủ cảng. Tuấn hói ngoại bốn mươi, to béo, bụng bắt đầu phệ, tóc chỉ còn một vành đai bao từ hai tai tới gáy. Anh ta khỏe hơn bất cứ người đàn ông nào cùng lứa tuổi. Trí nhớ tốt, thuộc bài hát, có giọng hát nghiệp dư nhưng cũng khá điêu luyện, sổ tay anh ta có ảnh các ca sĩ nổi tiếng trong và ngoài nước. Ngoài ảnh của các ca sĩ là ảnh đàn ông khỏa thân. Tuấn hói có cái thú kỳ lạ là sưu tập ảnh đàn ông khỏa thân. Tới thành phố nào anh ta cũng lùng sục, mua bằng được.

Trong va ly quần áo của anh ta có tới sáu cuốn sổ ngoại, hàng tư bản đờ-luých, cực kỳ đắt tiền và đẹp. Sáu cuốn sổ đầy ắp ảnh ca sĩ và đàn ông khỏa thân, vừa màu, vừa đen trắng. Anh ta buôn giỏi và có kha khá tiền vì ngoài thú chơi ảnh và gảy đàn, anh ta không ham mê gì khác. Hình như Tuấn hói đã có vợ con ở nhà quê, quê anh ta ở một làng xa tít mù khơi tỉnh Thanh, nhưng Tuấn mập mờ lảng tránh mỗi bận đụng chạm tới điều đó nên cũng không ai rõ thực hư. Nói chung, Tuấn hói là một người đàn ông dễ chịu, ngoại trừ thói ăn cắp vặt. Anh ta không thể từ bỏ thói quen đó. Cứ trông thấy vật gì đó khả dĩ, dù chiếc bật lửa, chiếc đồng hồ đeo tay, cuốn an- bom xinh xẻo, thậm chí hộp kẹo cao su của ai hớ hênh, Tuấn hói phải lấy cho kỳ được. Anh ta không thiếu nhưng thích lấy của người khác. Thế thôi. Đó là một căn bệnh, và đám thủy thủ, vì cuộc đời lênh đênh sóng nước cần tới sự liên kết giữa các cá nhân và vì đều giàu có coi rẻ đồng tiền, đã bỏ qua thói xấu của chàng danh ca. Vả chăng, Tuấn hói cũng là một tay võ nghệ cao cường. Anh la ít tham gia các cuộc đánh lộn, nhưng những kẻ hiểu biết đoán chắc rằng anh ta là một cao thủ trong làng võ Thiếu Lâm. Chiều đó, Tuấn hói ngồi trên chiếc ghế vải bố, gảy ghi-ta và hát. Giọng mượt, có đôi phần trau chuốt:

Biển hiền hòa muôn cánh buồm xa xa

Lòng ta như muốn hát ngàn câu ca...

Càng yên tĩnh, tiếng hát vang động bầu không gian êm ả, hòa nhập với tiếng nước vỗ dào dạt quanh tàu. Đám thủy thủ lắng nghe, người ru lắc nhè nhẹ trong cơn chao lắc của con tàu và nỗi buồn muôn thủa của kiếp sống trên sóng nước. Lấn trong tiếng ca diệu vợi, là tiếng còi tàu nào đó ngoài khơi, chắc hẳn ở phao số 0 vọng tới. Tiếng còi kéo là là như một giải khói bay trên mặt biển, nhắc nhở tới những chân trời, đại dương xanh hoang vu, những nỗi âu lo và tình yêu cách trở. Các chàng trai trẻ mơ màng mãi khi bài ca đã kết thúc. Tuấn hói bỗng thả cây đàn xuống sàn tàu, vươn vai:

- Cậu nào cho tớ một chai bia lạnh.

- Nhưng anh phải hát nữa cơ...

Một chàng thủy thủ nài:

- Rồi em sẽ đãi anh ba chai bia hẳn hoi. Có cả xúc xích Hà Lan nữa.

Tuấn hói cười:

- Được rồi, nhưng hãy mang bia ra đây trước.

Phía sau, Đính đang ngồi trên đống xích bỗng cất tiếng:

- Hôm nay ông hát hay đấy. Nhưng không phải vì giọng hát mà là vì bài hát. Bài này của thằng cha nhạc sĩ Liên Xô. Chính nó làm bài “Chiều Mát-xcơ-va” nữa đấy.

Tuấn hói nhìn chằm chằm vào mặt Đính. Rồi đôi mắt nhỏ như chuột nhắt của anh ta bỗng tóe lên những tia lửa giễu cợt, nhạo báng.

Anh ta phá lên cười, cười sằng sặc.

Rồi, khi chàng thủy thủ trẻ đưa chai bia ra, Tuấn vừa cầm chai bia vừa gặng hỏi Đính:

- Thế nào, ông nói lại tôi nghe. Nhạc sĩ Liên Xô phải không? Mà lại sáng tác cả bài “Chiều Mát-xcơ-va” nữa chứ?

Mặt Đính đỏ rực lên. Cả cổ và hai bắp tay anh ta cũng đỏ. Các đường gân bắt đầu nổi quanh cổ.

Anh ta trừng mắt:

- Đúng. Chính tai tôi nghe đài Tiếng nói Mát-xcơ-va...

Hai mắt Đính đỏ vằn lên, nhưng trong giọng nói gay cấn đã biểu hiện rõ sự thua cuộc. Anh ta vùng đứng dậy, hoa tay:

- Thằng em tôi làm phiên dịch trên Bộ ngoại giao cũng nghe nhé. Nó bảo thằng cha nhạc sĩ này đã biểu diễn cả một chương trình tại nhà hát Ban-xôi...

Càng nói, Đính càng thua một cách thảm hại. Trong khi đó Tuấn hói đã tu nửa chai bia, nửa chai còn lại cầm trong tay, mắt chăm chú nhìn Đính với ánh mắt của một con mèo nhìn con chuột ngọ nguậy trong nanh vuốt của mình. Đám thủy thủ im lặng. Họ lo ngại trước bầu không khí nhiều độc tố. Tuấn hói vẫn cười cợt, chờ Đính nói xong. Và anh ta hỏi:

- Thế cái Ban-xôi ấy là gì vậy?

- Nhà hát lớn.

Đính hét lên, cảm nhận rõ rệt Tuấn đang chòng ghẹo mình.

Tuấn hói bảo:

- Thế mà tôi không biết đấy. Tôi đã bao giờ đặt chân lên đất Mát-xcơ-va đâu... Còn cái thằng cha nhạc sĩ ấy tên gì hả ông?

- Tên là...tên là...

Tới đấy, Đính tắc họng, mặt anh ta từ màu đỏ chuyển sang tím ngắt. Bỗng dưng, anh ta hét lén:

- Tên là...dài bỏ mẹ đi. Đ...ai mà nhớ được.

Tuấn hói ngọt ngào nói tiếp:

- Thế hả?...Nhưng dù tên dài hay ngắn thì ông ta cũng sinh ra trên đất Ý.

- Sao lại thế được?

Đính tròn mắt hỏi:

- Người Nga chính cống cơ mà?.

Tuấn hói mỉm cười, nói rẽ rọt:

- Bởi vì bản Sê-rê-nát ấy là của một nhạc sĩ khác.

Rồi, quay sang Cường, Tuấn bảo:

- Mày hãy đọc cho ông Đính nghe tên tác giả bản nhạc ấy. Tao đãng trí, quên rồi.

Cường ngần ngại, nhưng rồi cảm thấy không thể im lặng được, anh đáp:

- Nếu em không nhầm, đó là Tô-ri-xen-li.

Tuấn hói, một lần nữa ném vào mặt Đính cái nhìn cao ngạo của kẻ thắng trận, và lại ôm cây ghi-ta lên. Còn Đính, toàn thân tím ngắt như kẻ trúng phong, trừng trừng nhìn Cường. Tuấn hói là một đối thủ khá mạnh, còn thằng nhãi ranh mọt chữ kia chỉ là thứ gà què bất cứ lúc nào hắn cũng có thể vặt trụi lông đuôi lông cánh, Đính khạc nước bọt xuống sàn tàu, dằn giọng:

- Vứt mẹ nó thằng Tô-ri-xen-li của mày cho chó gặm. Đồ mọt chữ...

Đoạn, gã đút tay vào túi quần như một thằng cà lơ mười sáu tuổi, khệnh khạng bước lên cầu tàu... Phải, chính từ chiều hôm ấy, tai họa đã giáng xuống đầu anh. Chàng trai lùa tay vò mái tóc. Anh biết mình không có lỗi, hoàn toàn không có lỗi. Nhưng số phận oan nghiệt xô đẩy anh. Anh phải chấp nhận nó, như người chơi tam cúc phải chấp nhận cỗ bài được chia dù chỉ cọc cạch vài quân tốt với những pháo lẻ và xe thiếu cặp.

Trên tàu, Bá cất tiếng gọi vọng xuống:

- Cường, lên đây.

Cường đứng lên. Anh bỗng thấy đôi vai như còng xuống vì mang vật nặng. Cây cầu tàu treo lơ lửng giữa khoảng trời lục huyền ảo. Nó chênh vênh. Giống như sợi dây treo không bảo hiểm của người làm xiếc. Chàng trai rùng mình, thấy trong bầu không gian bao la sóng, trong cơn say mê mệt của những con tàu nơi vụng nước, trong mùi tanh mặn muôn thuở của biển nỗi hiểm nguy mà anh không dò biết được.

❆❆❆

- Ba ơi, tới nơi rồi.

Bích vỗ nhẹ lên vai lão Ngạn khi chiếc ô tô lượn vào bến. Lão Ngạn choàng mắt hơi choáng váng. Vài giây sau, lão định thần, nhận được khung cảnh bến xe ngoại vi thành phố, người ta thường gọi là bến phụ cách cảng ngót nghét hai chục cây số. Cuối cùng, lão đã chấp nhận gửi nhà cho ông Hai để đi theo Bích, đứa con gái lão không mảy may yêu quý. Tất nhiên, với dụng tâm lão không nói cho ai biết là nhân cơ hội này lão sẽ tới cảng thăm Cường.

- Xuống xe đi ba.

Cô con gái nói. Xe đã đỗ lại hẳn, sau khi tuôn ra làn khói hôi xì làm hành khách nhức dầu. Lão già xuống xe, đưa mắt nhìn khung cảnh cái bến xe đã lâu không tới. Không có gì thay đổi ở nơi đây. Vẫn các quán cơm chạy thành hai dãy ven đường, treo các tấm biển xiên lệch: Cơm bình dân, xin kính mời. Có cơm. Thịt cày bảy món. Những dòng chữ nhố nhăng, không theo kiểu gì, sơn quét sặc sỡ với các hình vẽ minh họa vụng dại như bất kỳ thứ nghệ thuật quảng cáo ba xu nào ở các tỉnh lẻ ven đường.

Phía trước bến xe vẫn còn tấm biển trắng loang lổ hình ngọn lửa, tín hiệu cho trạm bơm xăng ngày xưa. Lão Ngạn thấy hai thái dương nhức, lão tìm chỗ vắng. Cô con gái chạy đi tìm người đàn ông mà cô đã giới thiệu với lão:

“Rồi ba sẽ thích bạn trai của con. Anh ấy tên là Trọng, hiền ơi là hiền”.

Chỉ lát sau, Bích quay lại, dắt theo một người đàn ông vạm vỡ, cao tới gần một thước tám, da đen, tóc đen. Anh ta bận đồ bộ cỏ úa, như nhiều sĩ quan chuyển ngành. Một gương mặt dầu dãi nhưng thành thực:

- Cháu chào bác ạ.

Người đàn ông đưa cả hai tay nắm tay lão, vồn vã chào, và ánh mắt thân thiện của anh tố cáo niềm si mê anh đã giành cho Bích.

- Vâng chào anh.

Lão già đáp, thầm so sánh hình vóc người đàn ông với tên Ân Kiều bán vải, nhân tình của mụ vợ trước: To gần như nhau, da đen gần như nhau, nhưng thằng này hiền hơn... Lòng lão dấy lên mối thương hại. Người đàn ông đỡ chiếc túi quần áo trong tay lão:

- Bác đi đường có mệt không ạ?

- Cảm ơn anh, cũng thường thường.

- Cháu sẽ đưa bác về nhà ngay.

Đoạn, quay sang Bích:

- Đưa ba về nhà rồi anh sẽ quay lại đón em.

Giọng yêu chiều của người chồng tận tụy. Lão già ngồi lên xe, nhắm mắt lại:

- Con quỷ cái, nó cũng ghê gớm như mẹ nó ngày xưa.

Lão không nghe tiếng Trọng nhắc nhở:

- Đường xóc lắm, bác ngồi cho vững nhé...

Non nửa giờ sau, Trọng đã đưa lão Ngạn tới nhà. Đó là một biệt thự nhỏ, nếu có thể gọi như thế, một ngôi nhà hai tầng xinh xắn như tổ chim cu với những khuôn cửa sổ nhỏ sơn màu ghi và cẩm thạch, lắp kinh mờ, với những bồn hoa nhỏ trồng thứ hoa giấy hai màu với những mảng vôi còn thơm nồng mùi nắng. Nơi trú náu thần tiên cho một cặp uyên ương - lão già thầm nghĩ - nhưng khốn thay cho mày, hỡi gã đàn ông khờ khạo kia, nó cũng sẽ là nấm mộ táng. Lão lại nhớ tới căn nhà rộng rênh, sang trọng của mình ngày xưa, giờ chỉ còn là những vụn gạch vùi dưới một cửa hàng bán sơn, vôi ve, kính vụn khả ố trong thành phố. Trọng dìu lão Ngạn ngồi vào sa-lông, pha trà như một chủ nhân hiếu khách rồi mới quay xe đón Bích.

Lão Ngạn ngồi nhấm nháp chén trà đen, thứ trà trồng trên cao nguyên Blao. Từ khuôn cửa sổ phòng khách, một khóm nhài tỏa mùi hương đĩ thõa, lẫn mùi sơn cửa hăng hăng vì chưa kịp khô dầu. Ước chừng non nửa giờ sau, cô con gái trở về thay quần áo rồi nhanh chóng bước ra phòng khách:

- Ba chờ con có lâu không hả ba?

Bích hỏi, không chờ ông bố trả lời đã quay sang bảo người yêu:

- Cho em cốc nước chanh, ít đường thôi nhé.

Lão già khinh khỉnh nhìn cô con gái, không nói gì. Bích ngửa cổ về phía sau, kêu:

- Ôi chao, mệt quá.

Giọng nói nhỏ, lời nọ dính vào tiếng kia, nhưng lại kéo dài sau mỗi âm tiết... Khốn nạn, đến cả giọng nói nó cũng giống mụ ấy. Thế mà mụ ấy đã bỏ nó không thương tiếc chạy theo trai. Còn mình, cho tới lúc già lọm khọm này vẫn chưa thoát nợ.

Trọng đã quay ra với cốc nước quả. Anh ta đặt cốc nước xuống bàn, đoạn đưa mắt âu yếm nhìn Bích. Trái tai anh đỏ hồng lên. Trọng mặc may ô, ngực và cổ nổi cuồn cuộn những thớ thịt màu đồng hun, như được đẽo ra từ loài gỗ tứ thiết. Hai bả vai và cánh tay cũng thế, giống như vai và tay của chàng bốc-xơ chính hiệu. “Mặt mũi vậy, thân xác vậy, kiếm đâu chẳng được một đứa con gái ngon lành. Sao nó lại dính vào quỷ cái này cơ chứ... Nhưng mà, chính mình, chính mình ngày xưa cũng bị con mẹ nó trói bằng cái lưới của bà Nữ Oa. Không sao tính xuể sự mù lòa của kiếp người...” Lão bỗng thấy thương Trọng, lần này không chỉ là sự thương hại mà là mối đồng cảm. Rồi lão sực nhớ tới Nghĩa, chàng rể lão đang ở với đứa con gái sáu tuổi trong thành phố. Nghĩa hơn Bích mười sáu tuổi, gương mặt đẹp nhưng dáng người thanh mảnh yếu ớt. Anh ta mắc chứng đau gan. Năm họ cưới nhau, Nghĩa là phó ty thương nghiệp còn Bích mới tham gia hoạt động không lương ở khối phố. Anh chồng tuyển dụng cô vợ trẻ vào làm nhân viên mậu dịch. Đã mười một năm qua, giờ đây Nghĩa được cử làm trưởng ty, có chân trong thường vụ tỉnh, còn Bích đã là cửa hàng trưởng cửa hàng bách hóa lớn nhất thành phố. Nghĩa là một anh chồng lý tưởng, theo cách đánh giá của mọi người. Ngoại trừ việc săm sắn, lo tạo đủ điều kiện cho vợ leo lên bậc thang danh vọng, anh ta còn chú ý săn sóc vợ con đến từng chi tiết. Từ đôi dép kiểu mới, từ tấm áo ngủ, lọ nước hoa đến mảnh vải trải giường. Anh ta yêu đứa con gái một cách đặc biệt, si mê và thờ phụng. Con bé có cặp mắt nai, khác hẳn mẹ, vẻ đẹp của nó trong trắng. Nghĩa thường nói với mọi người rằng đứa bé rất giống bà nội.

Mẹ Nghĩa chết từ năm anh còn ở chiến khu Việt Bắc. Chắc hẳn, xưa kia anh đã từng yêu mẹ với tình yêu tôn giáo. Khi bà đã xa, tình yêu ấy được ký thác vào đứa nhỏ. Người ta chứng kiến nhiều lần Nghĩa ngồi ngắm đứa bé ngủ đam mê hơn tất cả những họa sĩ nhìn ngắm tác phẩm của mình. Bích uống hết cốc nước, cất tiếng hỏi đột ngột khiến lão giật thót: - Ba đỡ mệt chưa?

Tim lão Ngạn đập thình thình. Thay vì trả lời con gái, lão cau có hỏi:

- Mày đưa tao đến đây làm gì?

- Ba ơi...

Cô con gái nài nỉ:

- Rồi chuyện đâu có đó. Ba đừng làm con mất mặt với người ta. Anh ấy lên đây bây giờ.

Quả thực, Trọng đã bưng mâm cơm lên, tươi cười:

- Mời cả nhà xơi cơm. Hôm nay, bác thử kiểm tra tài nấu ăn của cháu xem sao.

❆❆❆

Cái ngày anh chàng Ngạn tuyên bố thành hôn với cô Ngọc Bảo, con bà buôn ngũ cốc ở Chợ Chính, cả nhà rầu rĩ như có tang. Bà mẹ nhỏ như chim sẻ, nhưng chẳng mấy tinh ranh khóc sưng mắt, một điều rằng sẽ nhảy xuống sông, hai điều rằng sẽ đâm đầu vào đường ray chết nếu con trai dại dột như thế. Các bà cô, bà thím, các ông chú, ông bác từ dưới quê lên, các ông anh làm đốc học, làm thẩm phán từ trong Nam ra, từ mạn ngược xuống đều răn đe, dọa nạt Ngạn. Bà nội anh, tám mươi tư nhưng mắt chưa đeo kính, có giọng nói trong trẻo, im lặng. Một tối, bà gọi Ngạn tới, dỗ sẽ sàng:

- Con ơi, nghĩ lại đi. Trời sinh ra cho con người đủ thứ, có may lại có rủi, có nhân duyên lại có duyên nghiệt. Mày lấy nó, sợi dây oan nghiệt quấn quanh cổ không gỡ được ra.

Ngạn cúi đầu, lắp bắp:

- Thưa bà, cô ấy...

Bà lão nhìn hồi lâu vào đôi mắt bạc nhược của đứa cháu trai, rồi lắc đầu. Bà cụ không nói thêm lời nào nữa. Ngạn lẩn tránh các cuộc gặp gỡ với mọi người thân. Suốt ngày anh lang thang trong thành phố với cô Ngọc Bảo. Da thịt cô ấm nồng, các trò vui, các quán rượu, các màn kịch hay các bộ phim cô đưa anh đi xem đều hấp dẫn hơn mọi lời khuyên nhủ của gia đình. Hai người thường xuyên hú hí với nhau trong ngôi nhà gỗ vá víu của Bảo ở gần kề chợ Chính.

Ở đó, mùi bụi cám, bụi ngô bám vào các bức vách gỗ, vào chăn màn, vào quần áo. Cái bến nhỏ phía sau nhầy nhụa thức ăn thừa và thỉnh thoảng những con chuột ngày to bằng bắp chuối non đủng đỉnh bò trong cống ra ngó nghiêng nhìn mọi vật. Cái nhà tắm che tạm bợ bằng mấy tấm gỗ thùng sữa hiệu Tổ chim. Bảo tắm trong đó hở từng mảng da thịt trắng phốp, chẳng những Ngạn ngồi trong nhà mà cả khách qua đường cũng nhìn rõ mồn một. Bên nhà hàng xóm tiếng những đám người đánh bạc chửi bới, cãi cọ cả ngày lẫn đêm vẳng sang. Đôi khi tiếng rú man rợ của một gã thua bạc hoặc tiếng dao chém, tiếng đấm đá vật lộn kéo đám người bốn xung quanh bu lại, hệt như một đàn kiến cụng râu quanh giọt mật rơi. Không khí nồng mùi xào nấu, mùi cống rãnh, mùi thối rữa của các đống lá rau già, bắp cải thối, ruột lợn, ruột cá... Tất cả, kích thích một tâm hồn nhạy cảm nhưng bạc nhược và thiếu từng trải.

Ban ngày, mẹ Bảo đi chợ. Chiều về, rũ bộ quần áo trắng xóa bụi ngũ cốc, bà bận một bộ đồ lụa, sức thứ nước hoa mua ở quán tạp hóa trong chợ, gài một chiếc trâm có gắn mặt đá giả lên búi tóc. Bà gọi Ngạn:

- Chàng công tử, chẳng mấy khi rồng hạ cố xuống nhà tôm, xin mời nâng với chúng tôi ly rượu đắng.

Trong lúc nói, mắt bà đã khám xét chiếc giường, và ghi nhận dấu vết cuộc mây mưa của cô con gái với chàng công tử con ông thủy sư đô đốc, vẻ đắc thắng. Hai mẹ con bà chuốc rượu cho chàng công tử say khướt, rồi khiêng chàng vào giường. Cứ như thế, ngày nọ nối tiếp ngày kia. Tới một ngày, bà không vực Ngạn vào giường mà khiêng thẳng ra chiếc xích-lô, kéo tới nhà ông thủy sư đô đốc. Bà biết chắc chắn dịp đó, ông chủ từ hải cảng trở về. Tàu của ông, có ba lá cờ đuôi nheo vẫy gió vừa cập bến. Trước sự náo loạn của gia đình, ông thủy sư cất tiếng cười hảo hớn mà rằng:

- Không một ai được khóc, không một ai được bàn tán. Cho cậu Ngạn làm lễ cưới ngay. Nó thích nếm quả đắng cho ăn hẳn mật cá mè. Khi nó tỉnh ra khắc tính lại. Đời thằng con trai cưới năm bảy lượt cũng là lẽ thường...

Đám cưới được cử hành ngay, sau lời tuyên bố của ông thủy sư đô đốc bốn mươi tám giờ. Cô Ngọc Bảo từ giã căn nhà gỗ ngột ngạt bụi cám mặc áo gấm vàng, đội khăn vành dây kiểu hoàng hậu Nam Phương, đi hài gấm lên chiếc Xi-tờ-rô-oen trở về nhà chồng. Ngày hôm sau cô nghiễm nhiên thành bà chủ đại lý thuốc tây Thủy Tiên, và hãng kem sữa gói. Sáng sáng, cô cùng chồng đi ăn điểm tâm bằng xe riêng của nhà rồi trở về đại lý, ngồi sau chiếc bàn bầu dục dài một thước tám, rộng một thước hai, sai phái người ăn kẻ ở. Cô bắt đầu ăn nói nhẹ nhàng thưa dạ, bắt đầu học thói cảnh vẻ của các cô gái trâm anh thế phiệt, đi lại một cách từ tốn và may sắm một tá quần áo mới cho tương xứng với địa vị mới của mình. Lúc đầu, Ngạn thấy ngộ nghĩnh. Sau anh chàng đâm hoảng sợ vì những thay đổi đột ngột của cô con gái bà buôn ngũ cốc. Trước kia, mỗi lần đói, Ngọc Bảo thường làm một chảo cơm rang, hoặc bánh đa thái chỉ, rồi cô đổ tất tật những thứ thức ăn thừa bữa trước vào thành món hẩu lốn, sau đó rút hai cái thìa nhôm ngắn cán, cô chìa cho Ngạn một chiếc, một chiếc cho mình, không ra một hiệu lệnh nào khác ngoài cái hất hàm ra hiệu: Ăn. Cô vục thìa vào chảo, cắm cúi xúc ăn, vừa há miệng hà hơi cho bớt nóng. Giờ, cô bắt chồng ngồi vào bàn rải khăn trắng lên đầu gối, rung chuông chờ chị bếp bưng mâm cơm lên mới thong thả so đũa. Trước, cô thì thầm rót vào tai công tử Ngạn những chuyện ái tình tục tĩu, những chuyện tiếu lâm dọc cầu chợ, máy nước, những chuyện vô luân bại lý mà đám dân kẻ chợ góp nhặt từ khắp các ngả đường, khắp các quán trọ mang về. Và khi chàng thiếu niên đỏ mặt tía tai vì xấu hổ, vì bị kích thích bởi ham muốn của thân xác thì cô dẫn chàng đi vào hang động lạc thú một cạch hờ hững và bí ẩn như thầy phủ thủy làm phép ếm hồn ma. Giờ, bất cứ ai đùa cợt hoặc nhắc tới chuyện lứa đôi, cô cau mày nghiêm mặt bỏ đi tức khắc. Và những quan khách bẽ bàng trước một bà chủ quá đoan chính, không còn cách nào hơn là cắp mũ lễ phép cúi chào... Gia đình Ngạn cũng ngạc nhiên không kém gì anh. Bà mẹ chồng bán tín bán nghi nhiều lần tới tận nơi xem xét. Bà cho là cung phúc đức của họ nội, họ ngoại quá tốt nên đã cải hoán được cô con dâu. Nhân dịp cô sinh cháu gái đầu lòng, bà đã tới tận nơi đặt tên cháu là Ngọc Bích và thửa cho cháu một cặp khánh vàng lẫn chiếc vòng ngọc bích đắt tiền nhất thành phố. Chỉ riêng ông thủy sư đô đốc là không tin phép màu nhiệm đó. Ngồi ngả lưng vào chiếc ghế bành lớn bọc nhung, ông đang cặp chân khỏe như chân ngựa trên tấm thảm Ba-Tư, và cất tiếng cười ha hả:

- Quạ là quạ mà công vẫn là công. Có nhổ hết lớp lông này nó cũng sẽ mọc lớp lông khác. Rồi đấy mà xem... Nhưng thôi, cũng là dịp để thằng bé trưởng thành. Đối với một người đàn ông, không có trường học nào tốt hơn là những kinh nghiệm rút ra từ chính cuộc sống chung với cô vợ của họ...

Bà vợ ông nghe tới đó mặt đỏ như vông vang. Và ông, lại tiếp tục cười ha hả mà rằng:

- Như bà chẳng hạn. Bà đã dạy cho tôi biết rằng người vợ là một thiên thần bé nhỏ...và ngốc nghếch.

Vợ ông im lặng, mặt lại càng đỏ hơn. Ông thủy sư thôi cười, và tiếp:

- Nhưng bà yên tâm, tôi thừa sức cưới cho thằng bé ba lần vợ nữa. Chỉ có điều, tôi sẽ khuyên nhủ nó đôi câu. Nó khờ khạo quá, dễ tin người quá. Một thứ công tử bọc nhung. Cứ thế này, tới lúc nào đó gặp cơn nguy biến, người ta sẽ lột da nó ra. Để lần sau, tôi gọi thằng bé xuống tàu trò chuyện. Chuyến đi này có lẽ cũng đến vài tháng...

Chuyến đi ấy ông không trở về. Ông đã trúng phong chết ngay trên tàu, khi neo chờ ăn hàng mới ở cảng Tu- lông. Ông không kịp khuyên nhủ đứa con trai khờ khạo. Ngạn, đã sang tên cửa hiệu kem Đại Dương lẫn đại lý tân dược Thủy Tiên cho vợ, chiều theo mọi gợi ý cô đưa ra trong hơi ấm của những ái ân.

Đám ma ông thủy sư đô đốc vừa xong, nhang khói nghi ngút trên bàn thờ, sáng hôm sau, ông chủ Ngạn lững thững sang nhà mẹ liền bị vợ gọi giật lại.

- Anh ở nhà.

Ngạn hỏi:

- Sao cơ?

Ngọc Bảo đáp:

- Từ nay anh ở nhà làm kế toán. Tôi cho ông Hạnh thôi việc rồi.

Chàng công tử lắc đầu:

- Thôi, tôi ngại lắm.

Bà chủ cười nhạt, giọng lạnh tanh:

- Chơi quen rồi. Nhưng thời buổi làm ăn khó khăn muốn giữ được đại lý phải bớt đi một xuất lương. Đám ma ông cụ tốn kém thế, mình cũng phải góp một phần, anh không biết hay sao?

Ngạn cáu:

- Từ xưa tôi đã ghét tính toán. Tôi không làm sổ sách bao giờ.

Ngọc Bảo đáp:

- Xưa chưa làm, nay phải làm. Từ giờ trở đi, không còn ông bố nào nữa để chìa tay xin tiền đâu.

Ngạn đáp:

- Còn hai cửa hiệu đấy. Chúng mình vẫn sống cơ mà.

Bà chủ nói:

- Cả hai cửa hiệu đều là của tôi. Tên tôi ghi trên môn bài.

Công tử Ngạn đứng chưng hửng giữa khoảng trống trong phòng khách giữa những Sa-lông bọc gấm sang trọng, những tủ kính sáng choang và những chùm đèn lồng giả óng ánh.

Chàng chưa tin nổi những điều vừa nghe. Đầu óc mung lung, chàng đặt ra mọi hồ nghi, mọi giả định. Vợ chàng, đứng phía sau tấm bình phong, nhìn chàng lạnh lùng, dằn từng tiếng:

- Ở nhà làm sổ. Không làm, không có gì mà hốc đâu.

Sau ba năm, ngôn ngữ thật lại xuất hiện trên khuôn miệng đầy ứ của cô. Ngạn lạnh toát sống lưng. Đấy là lời nói thật sự của cô Ngọc Bảo. Và cô Ngọc Bảo sẽ làm đúng những điều cô nói. Tay chân rụng rời, anh ngồi phịch xuống ghế, ôm mặt khóc.

Quá vãng trở về, như cuốn phim quay chậm, lần giở từng trang ký ức. Lão Ngạn thẫn thờ buông tay. Chén rượu đổ nghiêng xuống mặt bàn khiến mùi rượu thơm sực lên, tỏa đầy gian phòng.

Ngoài trời vẫn mưa sầm sập. Mưa này, lão không thể vào thành phố tìm Cường. Ngồi đây, chỉ nhớ lại toàn những chuyện cay đắng. Bởi lẽ con gái lão giống mẹ nó quá, giống đến rùng mình. Sáng nay trước khi đi làm, nó từ buồng ngủ bước ra trong bộ quần áo lụa mỏng như cánh chuồn chuồn. Lão nhìn rõ những ngấn thịt bụng hằn thành từng tầng dưới lớp lụa ấy. Ngày xưa, mụ Ngọc Bảo cũng có những tầng thịt bụng như thế. Khi bỏ quần áo ra, mụ trắng như lợn cạo. Trắng khiến lão sởn gai ốc. Tại sao mụ lại trắng thế khi mà bộ mặt dài và nục nạc luôn luôn ửng đỏ như hoa mào gà?... Vì tầng thịt bụng của đứa con gái mà lão nhớ lại cái dĩ vãng buồn của lão. Và hình ảnh mụ Ngọc Bảo lại lởn vởn trong tâm trí không sao xua được. Lão tìm chai rượu, rót chén nữa. Từ phòng trong, Trọng bước ra. Sáng nay, anh chàng hì hục trang trí căn buồng hạnh phúc, sau khi cọ rửa bóng loáng các khuôn cửa sổ. Trọng đặt các chậu hoa cảnh nhỏ xíu lên đó. Rồi anh lồng kính vào khung, treo các tấm ảnh chụp thẳng chụp nghiêng của cô Ngọc Bích, xoay ngang xoay dọc, ngắm nghía chán chê mới đặt lên nóc chiếc tủ ly lót gương ở góc phòng. Giờ, chừng công việc đã xong, anh rửa tay bước ra ngoài:

- Mưa lâu quá bác nhỉ.

Lão Ngạn đưa mắt nhìn bộ mặt hớn hở như bắt được vàng của Trọng khẽ gật đầu. Rồi lão rót một chén rượu khác:

- Anh ngồi xuống đây, uống với tôi một chén.

- Cháu xin bác.

- Anh vẫn chờ việc phải không?

- Vâng.

- Con Bích nó bảo sao?

- Bích bảo rằng đầu tháng sau mới có quyết định chính thức. Bởi vì ông trưởng phòng tổ chức đi họp ngoài trung ương, cuối tháng mới về.

- Đàn ông, hay hớm gì theo đuổi cái nghề buôn bán lời lãi. Trước, anh làm ở đâu?

- Trước, cháu làm trên nhà máy thủy điện An Hoa.

- Ở chỗ đó khó sống lắm à?

- Không. Trên ấy công việc thuận lợi, và anh em đối với cháu rất chân tình. Quá nửa số cán bộ kỹ thuật, công nhân nhà máy là bộ đội phục viên và chuyển ngành. Chúng cháu dễ hòa hợp với nhau.

- Trên đó không có đàn bà hay sao?

- Có chứ ạ.

Trọng đáp lời, sửng sốt trước câu hỏi hiểm hóc, và xấu hổ. Mặt anh đỏ rần lên.

Hớp một ngụm hết chén rượu, đặt chén xuống, anh phân bua:

- Với Bích, hoàn toàn là chuyện khác. Một người phụ nữ nhiều năng lực, khao khát sống nhưng gặp toàn cảnh éo le, trắc trở. Cháu thương Bích...Chúng cháu yêu nhau. Tuổi thơ của cháu, cũng như Bích, đói khổ và bơ vơ. Mẹ cháu cũng qua đời năm cháu lên ba. Bà dì ghẻ thì...

Lão Ngạn nhìn chằm chằm vào hàng ria mép của Trọng:

- Khoan đã, nó nói với anh là dì ghẻ rất ác nghiệt?

Trọng lúng túng, anh lảng tránh ánh mắt lão già:

- Cháu không muốn làm bác buồn phiền... Nhưng sự thực là... Nhân gian đã có câu: Mấy đời bánh đúc có xương...

Lão Ngạn tiếp:

- Nó có nói với anh là bà vợ sau của tôi đuổi nó khỏi nhà? Và vì thế nó phải kiếm sống từ năm mười bốn tuổi?...

Trọng nài nỉ:

- Thôi, bác ạ, chuyện đã qua hãy để nó qua... Vì bác hỏi nên cháu mới lỡ miệng nhắc tới dĩ vãng. Nhưng chẳng ai sống bằng dĩ vãng. Chúng cháu bây giờ có tất cả những gì chúng cháu ước muốn. Cuộc đời ở trong tay, quá khứ chỉ là một cuốn sổ lưu niệm thỉnh thoảng lật lại xem chơi.

Lão Ngạn gật gù, môi nhếch lên cười. Một nụ cười lạ lùng, chẳng ra vui sướng, chẳng ra mai mỉa. Trọng tưởng những lời lẽ văn hoa của mình đã trấn an được lão, anh rút lui vào phòng trong. Còn lão, lão nhớ tới những năm tháng khác...

... Năm một ngàn chín trăm bốn mươi tám, lão Ngạn bỏ chiến khu kháng Pháp trở lại vùng tề. Cùng về với lão là đốc-tờ Hải. Hải cũng ngoại bốn mươi, béo trắng, vợ thanh mảnh như cây sậy nhưng đã có tới bốn thằng con trai. Trước kia, cặp vợ chồng này cũng ở thành phố, cách đại lý Thủy Tiên vài chục căn nhà. Sau thời gian tiêu thổ kháng chiến, tất cả bọn họ bị cuốn vào dòng thác cách mạng, bồng bế dắt díu nhau ra chiến khu. Nhưng cuộc sống khó khăn ở những dãy phố rừng không dung nạp được đám dân đô thị đã quen sung sướng. Qua một cái Tết đạm bạc nữa trong những dãy nhà nứa lá, nghe tin vùng tề đã lập lại yên ổn, họ lục đục kéo nhau trở về. Tới thị trấn ven sông Cam, cả hai bị mắc nghẽn vì loạt đạn bên kia những dãy đồi đan tiêu đỏ rực. Quân du kích đang đánh nhau với Pháp ở đó. Lão Ngạn lẫn đốc-tờ Hải không đủ can đảm vượt qua vùng tranh chấp về thành phố cảng. Họ dừng lại, sinh cơ lập nghiệp tại thị trấn Cam. Cùng mức gia sản, cùng cảnh ngộ, hai người thân thiết nhau mau lẹ. Chiều chiều, chị vợ gày gò của đốc-tờ Hải lúi húi tráng bánh cuốn hoặc đổ bánh ca-ra-men mời bố con lão Ngạn sang ăn. Ban đêm, họ chụm đầu trên bàn mạt chược. Các buổi sáng lão Ngạn pha cà-phê mời đốc-tờ Hải sang uống với thứ bánh quế bỏ lò giòn tan mà lão rất nghiện, cửa hàng tạp hóa của lão Ngạn cũng như phòng mạch của đốc-tờ Hải khá thịnh vượng. Thị trấn Cam không phải nơi buôn bán phát đạt gì nhưng dân cư trú trong các phố và các làng lân cận đều cần tới kim chỉ băng phiến, sách bút học trò cùng trăm thứ nhu yếu phẩm lặt vặt khác. Lão Ngạn có đủ mối lấy hàng, vả lại, lão còn tích trữ được một số hàng đắt tiền từ trước thời kháng chiến. Dân chúng cũng cần tới đơn thuốc trị bệnh, thương hàn, cảm cúm, viêm phế quản, lao xương, lao phổi, các bệnh xã hội và bệnh da liễu. Đơn thuốc của đốc-tờ Hải hiệu nghiệm hơn đơn thuốc của các thầy thuốc ăn lương làm công trong nhà thương. Nghiễm nhiên, hai người trở thành những kẻ có máu mặt trong thị trấn. Mùa hè, sau bữa cơm họ thường sóng vai đủng đỉnh đi dạo vài vòng quanh phố, trước ánh mắt thèm muốn của đám người xung quanh. Dạo ấy, Bích lên tám nhưng phổng phao như con nhà khác mười một, mười hai. Con bé dạn dĩ, quyến luyến ông hàng xóm vui tính. Ông đặt cho nó biệt hiệu Mi Mi.

- Thơm chú đi nào, Mi Mi. Trông cháu còn đẹp hơn cả con Tây đấy. Anh Ngạn, bà vợ anh ngày xưa tốt da tốt thịt lắm phải không?...

Ngạn ừ hữ không đáp. Bích cười tít mắt, leo lên đầu gối ông chú đốc-tờ. Năm sau, nhờ mối lái, lão Ngạn cưới vợ kế, một người đàn bà yếu ớt, xinh đẹp nhưng rầu rĩ. Cô ta sống trong mấy gian phòng của lão như cái bóng, lướt từ phòng này qua phòng kia không một tiếng động, mắt lúc nào cũng ngơ ngác như nhìn vào cõi vĩnh hằng. Thỉnh thoảng, cô lại cúi mặt vào tường hoặc ngăn tủ tạp hóa giấu giếm những giọt nước mắt. Cô sợ Ngạn, mặc dù lão yêu chiều. Cô sợ cả đứa con gái táo tợn của lão. Không bao giờ cô dám đối mặt hoặc gọi tên nó. Mười lăm tháng sau, cô cho Lão một đứa bé trai nặng ba cân mốt và chết luôn khi chưa kịp rời bàn đẻ. Gánh nặng nuôi dưỡng đặt trên vai lão Ngạn. Lão thuê vú em, nhưng suốt ngày vẫn bận bịu với đứa con trai quý. Ngoại trừ những giờ buôn bán, coi sóc cửa hàng, lão ngồi bên nôi thằng bé, ngắm nghía, ve vuốt, mơ tưởng tới tương lai của nó, hát những câu hát không mạch lạc. Trong suốt khoảng thời gian ấy, Bích lớn lên như thổi. Càng ngày, con bé càng gần gũi thân thiết với ông chú láng giềng hơn. Năm năm trôi qua, lúc ông bố còn mê mải chăm sóc cậu con trai, cô con gái đã thành một thiếu nữ dậy thì. Dân thị trấn bắt đầu thầm lén đưa ánh mắt dõi theo Bích, khi nó bá vai bá cổ đốc-tờ Hải đi qua phố. Hai người dạo quanh khuôn viên hoặc đi lên đồi cây đan tiêu hóng gió. Đứa con gái mười ba tuổi phốp pháp như các cô gái mười bảy khác. Hai má đỏ như cà chua, cổ trắng nõn nà. Bích thường mặc váy, lần nào nó đi ra phố, những gã đàn ông dâm đãng cũng núp sau cánh cửa nhìn theo bứt rứt. Những người đàn bà lắc đâu ái ngại. Con bé nửa thơ ngây, nửa ý nhị như một thiếu phụ từng trải. Mọi cử chỉ của nó giống cánh cửa nửa khép nửa mở, hứa hẹn và gợi nỗi tò mò. Lũ đàn ông vô sỉ ghen tị với đốc-tờ Hải ra mặt. Y thường khoác vai hoặc dắt tay con bé đi dọc phố, vừa đi vừa to tiếng trò chuyện như một ông chú thật sự, một kẻ có chủ quyền bảo vệ cái sinh lực phập phồng, hàm chứa nhiều bí ẩn kia...

Tới một chiều oi nồng, dân thị trấn đổ ra sông tắm. Họ chợt nghe tiếng kêu điên dại của thằng khùng vang lên trong cánh rừng nhỏ bên kia sông. Xen vào đó là tiếng vụt của cành khô, tiếng cây gẫy, tiếng nói ú ớ không rõ nghĩa. Đám người tắm sông cụm lại xì xào. Kẻ cam đoan thằng khùng lên cơn tự cào cổ hoặc đập đầu vào thân cây tự vẫn. Người đoán nó bị gã lưu manh nào đó cướp số tiền bán kem nên chống lại quyết liệt. Sau rốt, một người đàn ông đứng tuổi, để ria mép kiểu sĩ quan Nhật lên tiếng:

- Chẳng lẽ cả lũ đàn ông đứng đây mà sợ một thằng khùng?... Bơi sang đi.

Nói xong, ông ta nhảy ùm xuống nước. Như căn bệnh hay lây, lòng quả cảm kích thích đám đông. Người nọ nối người kia bơi sang bờ bên kia, cả thanh thiếu niên lẫn các vị trung niên và các ông già. Họ vào rừng, nơi tiếng la man rợ của thằng khùng mỗi lúc mỗi rõ. Chừng trăm thước sau, họ tới một đám cỏ lọt giữa rừng cây. Đốc-tờ Hải trần truồng như nhộng đang cầm cành cây quật thằng khùng. Thằng này, bận bộ áo quần rách tướp cũng cầm một khúc cành to hơn bắp tay, chống trả hăng hái. Vừa đánh, nó vừa rú lên những tiếng kêu ú ớ, rối loạn, bọt sùi dây hai mép. Cách đó mười lăm mét, sau bụi gai quả đỏ, Bích ngồi thu hình như con mèo nhúng nước, hai tay kẹp giữa đùi, trần truồng hệt như ông chú. Sau cùng, đám người thị trấn thấy trên ngọn cây dâu da rừng, cao tới tám mét, mớ áo quần của đốc-tờ Hải và con bé Bích. Chiếc sơ-mi trắng chấm nâu, chiếc quần Ga-ba-đin trắng, chiếc quần lót kẻ ô của ông đốc-tờ. Tấm váy dài màu thanh thiên lẫn chiếc quần lụa lót trong của cô cháu gái. Tất cả mắc giữa đám cành cây và đều bị xé tơi tả.

Chuyện thế này: Thằng khùng bán kem đã đem lòng say mê con bé Bích từ hơn một năm nay. Nó mười tám tuổi, con một mụ đàn bà dở điên dở dại chuyên nghề xay bột thuê. Từ năm lên bảy, thằng bé đã tự bán kem nuôi thân. Nó không được học, cũng không đủ trí khôn nhớ mặt chữ. Nhưng nó không lẫn một hào tiền lời bán kem. Vốn liếng cất trong chiếc túi mề gà dắt bụng, nó sống lang thang. Thi thoảng, nó về ngủ nhà với mẹ. Mùa hè, nó ngủ trên ghế đá công viên, thùng kem buộc ngang bắp chân. Mùa đông, nó rúc vào bếp tiệm hủ tiếu của chú khách, ở đó vừa được ăn các tô hủ tiếu thừa vừa được hưởng hơi than ấm áp. Trí óc nửa sáng nửa tối của nó không hoàn hảo như những đứa bé khác, nhưng tấm thân niên thiếu vẫn lớn theo thời gian. Trong huyết mạch nó, đốm lửa tình dục nảy nở theo thông lệ. Vào một sớm hè rạo rực, thăng khùng chợt thấy cặp đùi nần nẫn của con bé Bích hiện dưới lần váy xanh làm nó tê dại chân tay. Nó sững sờ, há miệng như bị câm hẳn. Bích cầm que kem, thấy thằng khùng nhìn chòng chọc vào đùi liền đưa mắt lườm, ném tiền vào nắp thùng kem rồi bỏ đi. Lũ trẻ trong phố bắt gặp cảnh đó, hò reo chế nhạo. Chúng đặt vè ghép đôi thằng khùng với Bích, tất nhiên là sau lưng con bé. Chúng làm đủ động tác tục tĩu đùa cợt. Gã thiếu niên cùng khốn sướng rơn. Ngày nào nó cũng ôm thùng kem lượn qua cửa hiệu tạp hóa của lão Ngạn, nhìn trộm đứa con gái. Những câu chòng ghẹo của lũ trẻ tựa những viên sỏi rơi vào khoảng trống âm u trong óc đứa con trai bất thành nhân, lấp đầy dần bằng những hy vọng của kẻ đang yêu. Ngày một ngày hai, ý tưởng mập mờ phôi thai về tình ái được tô đậm dần trong cái đầu nửa tỉnh nửa mê của nó.

Chiều ấy, thằng khùng đi tắm. Tắm xong, nó chợt nảy ý định hái quả gai chua ngọt, thứ quả trời cho vừa lành dạ vừa dễ kiếm nó đã quen thuộc từ thuở nhỏ. Khi luồn sâu vào các bụi gai, nó chợt thấy đứa con gái nó hằng tơ tưởng đang cùng một gã đàn ông to béo làm cái công việc của gà trống với gà mái. Cái phần tinh khôn có được cộng với nỗi đau đớn âm u trong bản năng loài giống khiến thằng khùng hiểu được nỗi mất mát của mình. Nó đờ đẫn nhìn. Rồi nó hét lên, vồ xé đống quần áo của hai người ném cạnh đó.

Đốc-tờ Hải trong cơn hoan lạc chợt tỉnh vì tiếng hét của thằng khùng. Nó vẫn xé vải roàn roạt, hệt như con khỉ xé vỏ chuối mà kẻ tinh nghịch dấu bọc mắm tôm bên trong, vừa xé vừa rít lên những tiếng oán hận. Đốc-tờ Hải đứng lên, chưa kịp xô tới thằng khùng đã tung mớ vải lên ngọn cây. Đốc tờ Hải vơ vội một đoạn cành cây, vụt mạnh vào vai thằng khùng. Ngọn đòn xé rách vai nó, máu bắn tóe ra. Cơn đau nhục thể khiến thằng khùng trở nên điên dại. Nó xông tới gã đàn ông, cắn ngập hai hàm răng vào cổ gã. Đốc-tờ Hải giáng cho nó ngọn đòn thứ hai rồi đá bật nó ra. Trời xui đất khiến, thằng khùng vớ được ngay một khúc cành cây có mắt gỗ cứng. Thế là, có vũ khí trong tay, nó lao vào cuộc chiến...

Khó khăn lắm, dân thị trấn mới kìm giữ được thằng con trai cùng khốn. Họ giúp gã đốc-tờ khều đống áo quần trên ngọn cây xuống rồi bỏ đi. Từng người một bơi trở lại bờ bên kia. Gã đốc-tờ mặc quần áo, ngồi trong rừng cho tới lúc trời tối mịt mới dám đưa con bé trở về.

Sau câu chuyện nhục nhã ấy hai hôm, Hải biến khỏi thị trấn. Vài tuần sau, chị vợ với lũ con biến theo. Nghe đâu gã trở về thành phố, bán ít tư trang trong số của hồi môn của vợ, xin vào làm trong nhà thương tỉnh. Cũng từ ngày ấy, Bích xấu hổ không dám tới trường. Nửa năm sau, nó biến mất, đem theo sợi dây chuyền mặt kim cương tháo ở cổ đứa em trai cùng bố khác mẹ. Lão Ngạn không đi tìm, không nhắn nhe dò hỏi bất kỳ ai. Ba tháng sau ngày con bé trốn đi, một người bà con đem hàng từ thành phố lên thị trấn Cam báo cho lão biết rằng đốc-tờ Hải đã thuê một căn phòng nhỏ gần rạp hát Tân Hưng cho con bé ở. Bích bán ô-mai, các loại kẹo, các thứ lạc ngọt lạc mặn và hạt bí cho đám người đi xem hát. Đêm đêm, nó là vợ lẽ lão đốc-tờ.

-Ông có nhắn gì cháu không?

Người bà con hỏi lão, sau khi kể chuyện.

- Không nhắn. Cũng đừng ai nhắc nhở tới nó với tôi.

Lão đáp, và quay đi...

Từ đó tới nay, năm tháng qua. Bao nhiêu biến đổi. Nhưng lão khó quên được các biến cố, các đổi thay. Lúc nào lão cũng sửng sốt ngơ ngẩn... Giờ, lại là chuyện Bích bị xua đuổi khỏi nhà. Tấn kịch dì ghẻ con chồng từ xửa từ xưa. Mà cái gã đàn ông khờ khạo kia lại vì thế mà đem lòng thương yêu nó... Trời hỡi trời, nhưng lão thề một ngày nào đó, lão sẽ đem bộ mặt con yêu quái phơi dưới nắng ngày, cho dù trong huyết mạch nó có một phần dòng máu lão. Cho dù nó vẫn mang dòng họ Phạm như một thứ thẻ căn cước, một thứ giấy chứng chỉ không đổi thay...

Chương 3

Hai người xuống cầu tàu, đi dọc theo kè đá, vẫn còn giọng hát của ca sĩ Tuấn hói vọng theo: Em ơi, vì sao trời xanh mãi?...và tình yêu không mòn mỏi, tháng năm qua...

Trưởng máy Bá bật cười:

- Cái thằng suốt đời mê lũ đàn ông khỏa thân lại hát bài kêu gọi tình yêu...

Cường tủm tỉm cười, không đáp.

Hai người ra khỏi bến cảng, đi dọc theo bờ biển. Họ sục chân vào cát, dưới bóng bờ dương. Dương xanh ngắt, đan nối nhau như đường riềm của bờ bể. Đôi chỗ, người ta trồng tỉa chúng thành hình những con thú, xen lẫn các luống cát trồng hoa tứ quý, cúc đỏ, cúc tím và cỏ kim để tạo ra một thứ khuôn viên sơ sài. Dưới các gốc dương có đặt ghế đá. Lũ trẻ vô gia cư và dám khách bộ hành lỡ độ đường túi không đủ tiền trọ thường ngủ ở đó.

Bá hỏi:

- Cậu có hay ra đây buổi tối không?

- Không. Cường đáp. - Em không ham. Tìm được một cuốn truyện mới đọc vẫn thú hơn đi lang thang.

Bá nói:

- Tối ở đây nhung nhúc bóng. Công an đuổi đầu này họ chạy ra đầu kia. Giống như chơi trò ú tim vậy.

Cường dè dặt hỏi:

- Anh mà cũng thích ra đây sao?

Bá đáp:

- Không. Nhưng tôi tò mò. Tôi muốn chính mình chứng nghiệm mọi vẻ mặt của đời sống. Trước đây, tôi cũng ham đọc. Sau, tôi thấy sống cần thiết hơn. Cái đám nhà văn ấy mà, họ hay lừa dối chúng ta. Họ thích thi vị hóa cuộc đời, thích rắc rối, phức tạp hóa những điều đơn giản, thích lu loa, che giấu những nỗi đớn đau thiết cốt của con người, cái khu vực họ không dám và không có quyền xử lý.

Tới đó, hai người im lặng. Họ tiếp tục đi song song những bước dài nhưng không vội vã. Mặt trời lặn sau các dãy núi phía Tây, biển nhòa đi xóa bóng những cánh buồm, những cặp tình nhân ngồi bên bờ cát, những cánh chim âu. Đèn thành phố bật sáng trong những tiếng chuông thánh thót của nhà thờ Tin Lành vọng tới. Hai người chợt nghe tiếng cười sau lưng:

- Các anh đi chơi sớm nhẻ?

Họ quay lại. Trong ánh tà dương, một nụ cười nham nhở hiện trên gương mặt úa héo phô những chiếc răng dài, cao đã ăn đen hết chân. Hai gò má cao chi chít vết nhăn trát phấn. Món tóc uốn loăn xoăn kéo xuống trán che phủ phần sọ hói trơ lớp da. Mấy bông hoa lan cài bên tai người đàn bà tỏa mùi hương dập nát. Thấy Bá và Cường im lặng, chị ta lại nói tiếp:

- Các anh trên tàu xuống?

Bá hỏi:

- Tại sao chị biết chúng tôi ở trên tàu?

- Biết chớ.

Người đàn bà ngoẹo đầu rinh rích cười. Dân phố biển sao không biết các chàng thủy thủ..

"Nhổ neo ra khơi, tàu anh sẽ nhổ neo ra khơi..."

Chị ta lấy hơi, hát cho hết một câu. Những sợi gân to bằng chiếc đũa nổi trên cổ. Hai người im lặng, nhìn người đàn bà đang cố gắng làm duyên một cách thê thảm, nhìn bộ áo quần nhàu nát, nhìn hai bàn chân dơ dáy xỏ trong đôi dép nhựa xanh lè... Chừng như hiểu cái nhìn đó, người đàn bà hát xong ngẩng đầu nói:

- Tôi hả?... Không đâu. Thứ tôi chỉ dành cho ba lão xích-lô già vô gia cư, năm vài lần vớ được món khách sộp, rửng mỡ lên muốn nếm mùi đời. Nhưng tôi biết lối đưa các chàng thủy thủ đến những nơi thú vui đáo để.

Chị ta cười, những nếp nhăn xô vào hai đuôi mắt. Rồi chị ta rút trong túi áo một sập ảnh, xòe ra như xòe cỗ tam cúc. Mỗi quân bài là một cô gái, cô chụp thẳng cô quay nghiêng, cô ngửa cổ lên, cô cúi đầu xuống. Các gương mặt và các kiểu tóc. Những làn môi tô son đậm với nụ cười treo trên đó như một thứ mặt nạ hổ phù phô bày không thương tiếc vẻ trụy lạc của nỗ lực tồn sinh. Nhìn các tấm ảnh ấy, người ta thấy đám phụ nữ ở đây như một bày rắn nước, cố ngoi lên thở trong mảnh đầm bị phủ váng dầu.

Người đàn bà nghênh mặt nhìn họ:

- Khá chứ hả? Toàn gái thành phố chính hiệu đấy. Mấy ả bò lạc không lọt được vào đây. Chúng nó ở ngoài ga...

Chưa nói hết câu, chị ta bỗng cụp vội cỗ bài độc đáo thu trước bụng rồi lủi vào bụi dương. Cường đưa mắt nhìn ra quãng đường phía trước, thấy một công an trẻ thong thả qua bờ cây cọ cảnh, lên hè. Điếu thuốc lập lòe trên môi, anh ta vào quán bán đồ lưu niệm và giải khát ngay kề đó. Người đàn bà sau gốc dương bước ra, mắt nhớn nhác liếc quanh rồi thở phào:

- Hú vía.

Bá hỏi:

- Chị có bị bắt lần nào không?

- Có...

Người đàn bà gật đầu:

- Trước đã có lần tôi phải tập trung vào trại cải tạo. Bây giờ, các trại chật chỗ, họ chỉ nhốt chúng tôi trong đồn vài ngày rồi thả ra. Nhưng bị tóm ngày nào khốn đốn ngày ấy. Mình thì sao cũng được, nhưng lũ trẻ nó có chịu nhịn đói cho đâu?...

Loáng qua đôi mắt đục của chị, nỗi lo lắng, niềm trìu mến, cả bóng dáng của cái lũ trẻ thân thương kia. Một tích tắc sau, đôi mắt trở lại tinh ranh, trơ tráo:

- Thế nào, các anh định chấm đứa nào tôi liệu.

Đoạn, đưa mắt lục soát kỹ càng từng người một, chị ta hạ giọng:

- Trông bộ kén lắm. Có đủ đạn không, tôi bán tem cho.

Cường hỏi:

- Tem là cái gì?

Bá vội đập tay anh, rồi hỏi:

- Tem loại nào?

Người đàn bà đáp:

- Không chê vào đâu được.

Bá khẽ cười:

- Tin vào đầu lưỡi của các bà...

Chị ta quắc mắt:

- Xem ngay.

Và sau một lát, buông từng tiếng nặng nề:

- Nó là cháu tôi. Cả nhà sống dở chết dở, vừa từ khu kinh tế mới về.

Mắt chị cúp xuống, không nhìn vào mặt họ. Bá nói:

- Thôi được. Giá bao nhiêu?

- Hai ngàn.

Người đàn bà đáp, vẫn không ngẩng lên.

- Đấy là của cô ta hay cả phần chị?

- Tôi chỉ kiếm hoa hồng của người ngoài, còn nó... Thôi đi đi...

Chị ta quay ngoắt, bước đi đột ngột. Bá ra hiệu cho Cường theo anh. Họ qua lối cát, ẩn dưới các tán dương. Ánh sao mờ trộn ánh đèn đường khúc đậm khúc nhợt. Thi thoảng, lại gặp một cặp đứng dưới gốc dương, thì thầm, hổn hển. Những đôi trai gái yêu nhau thường ngồi lui dưới kia, sát với mép sóng, ngắm những làn bọt trắng tắm ánh sao, những con tàu sáng rực nổi lênh đênh trên biển đêm như thành phố thần thoại, bàn chuyện tương lai. Đại dương vẫn dạt dào, tiếng sóng che lấp cả những câu ân ái lẫn những tiếng hổn hển tục tằn và cùng khốn. Người đàn bà đưa họ xuyên qua bãi dương, tới khoảng bờ cát, nơi trơ trụi một cây dương già, cành vươn bờm xờm như mái tóc không được cắt tỉa. Chị ta cất tiếng:

- An ơi. Cháu vẫn ở đây chứ?

Sau gốc dương, bóng một cô gái bước ra, câm lặng. Người đàn bà bảo họ:

- Đây rồi.

Cường bất giác đưa tay nắm vai Bá. Chàng trai thấy tim đập rộn một nỗi sợ vu vơ lẫn sự khắc khoải tràn ngập tâm hồn. Hai người bước lên vài bước.

Người đàn bà nói:

- Hai anh ấy bằng lòng trả hai ngàn. Xong rồi đấy. Giờ, dì đưa cháu đưa khách tới cửa hàng. Đã thỏa thuận hết với mụ Liên. Cô gái vẫn câm lặng như cái bóng cúi đầu lùi lũi đi trước.

Người đàn bà cười gượng, phân bua.

- Tính nết con bé thật là... Hai anh thông cảm.

Đoạn, rảo bước để theo kịp cô gái, chị gọi giật giọng:

- An, từ từ đã...

Nắm vạt áo cô, chị hạ giọng nài nỉ:

- Hãy chào hỏi, làm quen với hai anh ấy đi nào.

Cô gái dừng lại, quay đầu nhìn họ. Hai người sững sờ. Đó là một gương mặt trẻ thơ. Cô ta chỉ mười lăm mười sáu tuổi. Lớp lông tơ phủ trên hai má mượt như lông trái đào. Cái nhìn ném vào mặt họ không phải lời chào. Đó là cái nhìn căm ghét, hờn oán.

Bá cất tiếng:

- Khoan đã, cho tôi hỏi.

Người đàn bà quay mặt lại:

- Có chuyện gì hả anh?

Bá nói:

- Chị đưa chúng tôi đi đâu?

Người đàn bà đáp với vẻ ngạc nhiên:

- Tới nhà hàng? Anh định đi đâu?... Hay xuống tàu?...

Bá lắc đầu:

- Không. Chúng tôi muốn xem nhà cô bé.

- Không, không... Không được đến nhà tôi...

Cô gái đột ngột cất tiếng kêu. Đoạn, dứt tiếng kêu tấm tức ấy, cô ngồi thụp xuống cát, khóc nức nở. Người đàn bà đứng ngây. Chị bối rối nhìn hai chàng thủy thủ, lắp bắp:

- Tôi không ngờ...tôi không...

Bá nói:

- Chúng tôi không tới nhà cô ta để mua chữ trinh. Chúng tôi không động tới cô ấy... Nhưng chị yên tâm, chúng tôi sẽ trả tiền...

Người đàn bà cau mày, ngờ vực nhìn Bá. Chị dứt khoát từ chối:

- Không. Chúng tôi không quen các anh. Chúng tôi không liên quan tới những người lạ.

Đoạn, chị ta gọi giật giọng:

- An, đứng lên. Về thôi...

Rồi chị dìu cô gái đi:

- Thôi, rủi lại hóa may... Biết đâu tối nay thằng Hưng lại đem gạo về?... Nín đi cháu... Nín đi...

Bá giữ tay Cường đứng lại, chờ cho họ đi xa. Anh bảo:

- Ngay lòng tốt bây giờ cũng trở nên khó tin. Người ta sẽ ngỡ mình có âm mưu xấu xa nào đó, còn khủng khiếp hơn cái việc bỏ tiền mua cô con gái kia... Hoặc mình là một thứ mẹ mìn, hoặc là công an trá hình, dò xét. Cậu thấy chưa?

Ngừng lại một lát, Bá nói tiếp:

- Nhưng sao tôi thấy nhói trong ruột. Cái cô bé này giống hệt con bé em út của tôi. Cũng trạc tuổi ấy, gương mặt ấy, cả cái vẻ bướng bỉnh ấy... Có lẽ gia đình cô ta gặp một hoàn cảnh gay cấn, không thoát được... Cường này, cậu có muốn vào phố không? Nếu không, ta đi tới nhà cô ấy để xem sao. Cũng là dịp để cậu bớt đi một chút cái chất sách vở và thêm hiểu phần đời.

Cường đáp:

- Tùy anh.

Nói thế, có nghĩa như một lời tòng phục. Chàng trai không dứt được cảm giác khắc khoải từ khi ánh mắt oán hờn của cô gái lóe lên như tia lửa thiêu đốt anh.

Bá nói:

- Đi đi.

Hai người đàn bà đã khuất sau lùm dương bên trái bãi cát, cách họ chừng hơn trăm thước. Bá và Cường hối hả đuổi theo. Tới bãi dương ven thành phố, người đàn bà lẩn vào trong đó, còn cô gái tiếp tục men theo bờ biển, đi ngược lên phía Bắc.

Chẳng mấy chốc, họ đã đuổi gần kịp. Bây giờ, cô ta chỉ đi trước họ chừng năm chục thước. Nhưng cô không quay đầu lại. Vả chăng, nhiều du khách thường lững thững đi dọc mép sóng rong chơi, nên cô chẳng thể nghi ngờ hai chàng thủy thủ bám gót mình.

Cái bóng nhỏ của cô phiêu diêu bên mặt biển mênh mông. Trong khoảng nước tối, thi thoảng ánh lân tinh của loài mực ma lóe lên tia lửa xanh non yếu, chập chờn. Cô gái đi hết bờ cát, tới bãi đá. Có những đám dây rau muống biển bò từ dưới chân núi đá ra tận mép nước. Bãi đá dài ước chừng năm trăm thước. Tận cùng là mỏm núi từ giải núi phía trong nhô ra như mũi một con tàu. Nhiều dòng nước róc rách chảy qua lớp đá vụn và sỏi dưới mỏm núi. Cô gái đi khá nhanh, chẳng máy chốc đã lấp sau mỏm núi.

Bá bảo Cường:

- Rảo bước lên.

Họ cố đuổi kịp cô. Lúc này, không còn mặt biển trống vắng mà là những nếp nhà tranh, những mái lều thấp lụp xụp của ngư dân xen lẫn các bụi cây, bụi mía. Đèn dầu hỏa hoặc cây tọa đăng thắp sáng phía sau các bức vách, thùng gỗ, hoặc tôn gỉ. Bóng người đi lại, làm lay động các vầng sáng. Thoắt cái, đã thấy mất hút cô gái. Hai người rạch bụi mía, vượt qua khoảng sân cát của một ngôi lều khiến con chó trong lều chạy vụt ra, sủa ầm ĩ.

- Đừng quay lại, nó đuổi đấy. Bá bảo Cường. Họ qua mấy cái chum chượp mắm bốc mùi nồng nặc. Nghe rõ một bà già càu nhàu phía sau:

- Đồ ôn vật. Cứ tối đến là chạy quáng lên như chó đực... Vá, thôi vào nhà...

Cường chợt đứng lại, kéo tay Bá. Anh thấy cô gái, gần như ngay trước mặt mình. Cô cách anh chừng ba bốn bước chân. Cường kéo Bá giật lùi, núp sau bụi mía lau gần đó. Họ thấy cô dừng lại trước một căn lều được dựng sơ sài bởi hai chiếc thuyền mục úp vào nhau, hai cây trụ chính bằng tre. Phía trên, những tấm bìa các-tông lớn xen lẫn những tấm cốt ép và ni-lông lợp dày cộm. Chỗ mảnh ván thuyền mục ải được khoét thành cửa ra vào, treo tấm chiếu buồm thay cho cánh cửa. Cô gái nép mình bên mảnh chiếu nát nhìn vào. Phía trong, ánh đèn hoa kỳ soi lờ mờ những đồ vật cũ nát. Một chiếc bàn thờ nhỏ bằng gỗ, gãy chân, kê chồng gạch tạm. Vài chiếc ghế đẩu xiêu vẹo đặt phía dưới. Chiếc ấm sứt vòi với dăm chiếc chén đủ loại gom góp bày trong đĩa nhôm. Bên trái, kê chiếc giường rẻ quạt, trên vắt đầy quần áo. Một người nằm trùm chăn mặt quay vào trong. Lát sau một phụ nữ trạc ngoại tứ tuần mặc bồ đồ thẫm màu từ phía đuôi thuyền khuất lấp bóng tối đi ra. Tới giường, bà ta cúi hỏi người bệnh:

- Anh cố ăn nửa bát cháo loãng nhé?

Không có tiếng trả lời. Người đàn bà buông tiếng thở dài, vén manh chiếu, bước ra.

- Mẹ ơi..

Cô gái cất tiếng gọi, rồi chạy tới:

- Mẹ ơi... Cô nói - Con đã không...con không đem được tiền về...

Cô ôm mẹ, gục đầu vào ngực bà. Người đàn bà khẽ vuốt tóc con, mắt thẫn thờ. Cô gái bắt đằu khóc, tấm tức rung đôi vai mảnh dẻ:

- Mẹ tha tội cho con... Mẹ tha cho...

Mẹ cô vẫn không ngừng vuốt tóc con, và thì thầm như để riêng mình nghe:

- Cha con sốt cao quá, không ăn được gì... Nhà cũng không còn bơ gạo nào hết.

Cô gái ngước mắt nhìn mẹ, gương mặt đầm đìa:

- Anh Hưng con vẫn chưa về?

Mẹ cô không nhìn cô, hạ giọng:

- Mẹ không dám cho cha biết. Anh Hưng con bị tai nạn trên đèo Lau từ thứ Bảy tuần trước, cả xe không sót người nào.

Bà móc túi, lấy mảnh giấy gập tư đưa cho con. An ghé mắt vào khe cửa, lật bật mở tờ giấy. Cô đọc dòng chữ ghi trên đó, đọc đi đọc lại mấy lần rồi kêu rú lên:

- Mẹ ơi...

Cô ngã vào lòng mẹ. Hai người ôm nhau khóc. Nhưng ngay lúc tiếng khóc của cô gái vỡ òa, bà mẹ đã hốt hoảng bụm miệng con:

- Khẽ chứ, An ơi... Cha con biết bây giờ...

Trong lều, nổ ra một tràng ho. Người ốm gọi:

- Hạnh ơi, cô Hạnh đâu rồi...

Mẹ An buông cô con gái, hối hả:

- Em đây...

Bà tới bên chồng, quỳ xuống để giấu gương mặt đẫm lệ:

- Bố nó đã tỉnh chưa?

Người chồng không đáp, chống tay nhìn quanh:

- Con đâu?

Bà vợ đáp:

- Con nó vào trong xóm. Em sai nó đi mua dầu.

Người chồng bảo:

- Ba hôm nay còn đồng xu nào mà mua dầu? Cô đừng nói dối quanh.

Người vợ đáp:

- Sao anh lại nghĩ thế. Em vừa vay được mấy chục sáng nay. Em vay dì Lan...

Người ốm bỗng đập tay xuống giường.

- Tôi cấm cô, tôi cấm cô gặp mặt con điếm ấy...đem trả tiền nó ngay. Dù tôi chết, dù cô chết, dù có phải cho thằng Hưng đi ăn cướp cũng không thể bán con bé đi... Tôi không...

Tới đó, ông ta lại bật ho rũ rượi một tràng dài. Mái tóc mềm rũ xuống, và đôi vai nhọn nhô lên dưới tấm vải chăn. Dứt cơn ho, người bệnh đưa tay lau mép, rồi ngẩng đầu lên nói:

- Gọi con bé về đây cho tôi... An đâu?... Con An đâu?...

Ông ta lại nấc lên, toàn thân lảo đảo. Bên ngoài cô gái bịt chặt miệng, cố nén tiếng khóc khỏi bật khỏi môi. Tiếng người cha vẫn vọng ra, mỗi lúc mỗi thúc hối:

- Gọi nó về đây... Tôi sẽ đâm chết nó trước khi tôi chết...

Người đàn bà nức nở:

- Em lạy anh... Chưa có chuyện gì với con bé hết. Chưa có chuyện gì xảy ra. Tin em đi.

Người chồng lắc đầu:

- Không. Trước đây tôi tin cô. Tôi tin cô cả đời. Nhưng lần này tôi không tin cô được... Cô muốn cứu sống tôi bằng cái cách khả ố ấy?... Thế là cô giết tôi hai lần. Hai mươi năm sống mà cô không hiểu được tính tôi.

Ông ta đưa tay lên lau mắt. Hình như ông ta khóc, và giọng nói của ông ta chùng xuống:

- Tin nhau cả đời để trước khi nhắm mắt không tin nhau nữa. Thương nhau cả đời để trước khi chết oán hận nhau. Cô làm cái điều ngu xuẩn ấy làm gì?...

Giờ thì ông ta khóc thật, ông khóc ồ ồ, giơ bàn tay xương xẩu che mặt. Người vợ vẫn nửa ngồi nửa quỳ dưới chân giường thút thít khóc theo. Một khoảng thời gian câm lặng trôi qua. Người ốm gọi:

- An ơi...con gái tôi.

Tiếng gọi ấy che giấu một biển sâu thương yêu, xa xót. Những ngón tay gày gò của người cha rung lên từng cơn, từng cơn. Chòm râu loăn xoăn không được cạo rửa dưới cằm ông ta óng ánh vì những giọt nước mắt rơi xuống.

- An ơi...

Cô gái vụt nức lên, chạy đâm sầm về phía hai chàng thủy thủ. Cô băng qua bụi mía, qua mảnh sân nhà láng giềng rồi biến vào bóng dêm. Bên trong lều, giọng người cha vẫn rung lên, như những nốt ngân của một sợi dây đàn sắp đứt.

- Tôi sinh nó ra cõi đời này làm gì? Khốn khổ thân con. Thật ngu xuẩn cho cái kiếp sống này. Có đủ hai bàn tay, hai con mắt mà không kiếm đủ miếng cơm độ nhật. Đẻ con ra mà không thể chở che... An ơi, cha có tội với con...

Người đàn bà ngẩng lên, níu tay chồng:

- Tin em đi...em xin mình. Chưa có chuyện gì xảy ra cho con đâu...

Dường như người chồng không nghe những lời nói ấy. Ông ta vẫn khóc lặng lẽ, toàn thân run rẩy, đắm mình trong cơn đau. Đột nhiên, ông ta ngẩng phắt lên, đôi mắt long lanh sáng quắc:

- Cút đi... Đừng để tôi nhìn thấy mặt nữa... Đồ độc ác, cô đã hại tôi...

Sau tiếng hét, ông ta vung cánh tay lên, toàn thân chồm về phía trước trong tư thế chuẩn bị giáng cho người đàn bà một cái tát trời giáng. Người đàn bà không né tránh, không van xin, không giơ tay che đỡ. Bà ta vẫn nửa quỳ nửa ngồi trước giường bệnh, ngước mắt nhìn chồng. Và chắc hẳn, bà ta vẫn khóc vì đôi vai run lên, và những tiếng thút thít đã chuyển thành cơn nức nở. Đôi mắt sáng lóe của người chồng mờ dần đi, làn môi ông ta đang bặm lại trong cơn tức giận từ từ giãn ra. Cánh tay người đàn ông rơi chầm chậm. Nửa chừng, ông ta lấy can đảm giơ nó lên lần nữa, lần này nó lại mềm rũ ra, như không còn xương cốt và rơi thõng xuống. Hai chàng thủy thủ lặng lẽ chứng kiến cảnh tượng ấy. Tới đó, Bá bảo Cường:

- Lúc này, ta xuất hiện là hợp lý nhất.

Cường ngần ngừ:

- Đừng, ông ta hổ thẹn.

Bá gạt đi:

- Không. Người đàn ông cư xử như thế là người đầy lòng phục thiện. Điểm này tôi nhiều kinh nghiệm hơn là cậu. Vào đi...

Họ tới trước tấm chiếu buồm che cửa lều, hắng giọng hỏi:

- Có ai trong nhà không đấy?

Cả hai người im bặt. Không nghe cả đến hơi thở của họ. Rồi lát sau, người đàn bà hốt hoảng đáp lời:

- Ai gọi chúng tôi đấy ạ?

Bá nói:

- Chúng tôi, thủy thủ dưới tàu An Khánh. Không làm phiền gì tới ông bà đâu.

Vợ chồng chủ lều khe khẽ nói gì đó với nhau, rồi người đàn bà bước ra, vén manh chiếu:

- Mời hai ông vào.

Bà ta vặn to ngọn đèn hoa kỳ không bóng. Lửa cháy cao lên, tuôn làn khói đen xì. Mùi muội dầu tỏa khắp gian lều hôi khét. Bá và Cường chào người chồng, lúc này đã ngồi thẳng lên, trùm chăn kín vai. Ông ta đưa mắt nhìn họ với vẻ ác cảm không che giấu. Phía sau vẻ ác cảm ấy, còn là tia lửa của sự liều lĩnh, báo hiệu những hành động điên rồ có thể xảy ra đối với một kẻ đã hết hoàn toàn hy vọng vào cuộc đời. Người vợ mời họ ngồi bằng hai chiếc ghế đẩu vững nhất trong đám ghế xiêu vẹo đặt dưới chân bàn thờ. Bá nói:

- Xin lỗi ông bà, nếu sự xuất hiện của chúng tôi làm ông bà phiền lòng.

Mắt mgười đàn ông dịu đi đôi chút nhưng mối ngờ vực vẫn còn nguyên. Vợ ông ta rót nước ra hai chiếc chén, mời họ. Nước trắng, không có chè. Chén sứ mỗi chiếc mỗi kiểu nhưng được đánh trắng bóng. Ngay cả chiếc đĩa nhôm cũ cũng sáng nhoáng lên. Bàn thờ long vẹo cả chân, mộng hở ra, nhưng những hình khắc chạm cầu kỳ còn giữ nguyên vẻ tuyệt mỹ. Trên bàn cố đôi chân nến cũng bằng gỗ khắc, thứ gỗ đen bóng như sừng trâu chuốt dầu, chạm con hạc xòe hai cánh nâng mặt trời, chiếc cổ dài mềm mại vươn lên cao, mỏ há ra hớp gió. Đồ vật nơi đây khiến ta đau lòng vì vẻ đẹp bị dãi dầu, tàn phá, và cả vì sự gắng gỏi đến cùng của những bàn tay giữ gìn...

Bá đưa mắt liếc qua căn lều, anh ngẫm nghĩ đôi chút rồi cất tiếng:

- Chúng tôi không phải bọn người say vào nhà dân sục tìm mua rượu nặng. Cũng không tới xóm nghèo này tìm các cô gái... Anh dừng lại, lưỡng lự không biết nên hay không nên thuật lại cái cảnh trên bờ biển vừa rồi. Hai vợ chồng chủ lều vẫn hau háu nhìn anh, chờ đợi. Họ ước chừng mới ngót nghét tuổi năm mươi. Người chồng cao gầy, khuôn mặt dài, mũi thẳng và râu rậm. Người vợ thấp nhỏ, mặt tròn, mũi hơi hếch, đôi mắt đen đuôi rất dài như nét mực vẽ. Họ đúng là một cặp vợ chồng lý tưởng, vẻ đẹp của họ tương phản và bổ sung cho nhau. Chắc hẳn, ở tuổi hoa niên, họ đã từng cố một thời gian sung sướng. Bá quyết định nói lại sự thật. Anh nhìn thẳng vào đôi mắt trong cơn sốt, rực như hòn than của người chồng, nói:

- Trước đây một tiếng rưỡi đồng hồ, chúng tôi đi dạo dọc bãi bể trong thành phố. Ở đoạn Rừng Dương, gặp người đàn bà dẫn mối. Chị ta bảo có một cô gái còn trinh, muốn bán thân với giá hai ngàn...

Người chồng mím môi, hai bàn tay ông bất giác cũng nắm lại và ông ta phải cố gắng lắm để tự cưỡng chế mình. Bá thấy chiếc cằm đầy râu của ông ta giật liên hồi. Lúc đó, người đàn bà cúi đầu xuống. Không thấy gương mặt bà ta, vì khuất lấp trong bóng tối. Bá vội nói:

- Xin bảo đảm với ông bà là chưa có chuyện rủi ro nào xảy ra... Cô con gái ông bà vẫn còn nguyên vẹn... Ông bà hãy bình tĩnh, tôi kể trình tự câu chuyện. Hai chúng tôi không ham gái, nhưng mà tò mò nên đã gặp cô bé An, lúc đó đứng chờ sau gốc dương... Cô bé quá trẻ. Chắc chắn, trong gia đình ông bà, cô ta là một đứa con ngoan...

Người đàn bà chợt nức lên. Ông chồng ngồi im, gương mặt tê dại. Mắt ông ta vẫn nhìn chằm chặp vào mắt anh. Bá nói tiếp:

- Người dẫn mối đưa chúng tôi và cô gái tới nơi nào đó gọi là nhà hàng mụ Liên. Dọc đường, tôi bảo chị ta dừng lại, đòi đưa chúng tôi tới nhà cô gái. Nhưng cô ta cương quyết chối từ, đoạn khóc òa lên... Cuộc mua bán như vậy là đổ vỡ. Nhưng chúng tôi đã theo cô gái tới đây...như ông bà đã biết...cả người chồng lẫn người vợ đều im lặng. Bá cũng ngừng lời. Xóm mạc yên ắng theo. Chỉ còn tiếng sóng làm đầy không gian bởi những cồn cào. Ngọn đèn dầu hỏa nổ lách tách trong hơi gió lùa, sợi khói đen uốn ngoằn ngoèo theo... Lát sau, Bá hạ giọng tiếp:

- Vô tình, chúng tôi biết được tình cảnh ông bà. Vài hôm nữa chúng tôi xuống tàu, không bao giờ quay về thành phố này nữa. Vì thế, ông bà sẽ không bao giờ phải gặp mặt chúng tôi. Sự giúp đỡ của chúng tôi với ông bà hoàn toàn không kèm theo một điều kiện nào hết. Ông bà hãy nhận cho, trước hết để sinh sống trong vài tháng khó khăn. Và để tránh cho cô bé nỗi đau khổ.

Bá rút trong túi ra một xếp bạc, đặt trên bàn thờ, dưới chân con hạc gỗ. Hẳn anh không muốn họ nhìn rõ xấp bạc, nó quá lớn, nó là cả một gia tài đối với cảnh túng quẫn của họ. Vợ chồng chủ lều ngồi đờ ra như tượng gỗ. Ánh mắt của họ vừa như hoảng loạn, vừa như hồ nghi. Bá quay sang bảo Cường:

- Ta về đi.

Đoạn, anh đứng lên:

- Chúng tôi phải về cảng, xuống tàu. Xin chào ông bà. Chúc ông bà mọi sự tốt lành. Và chúc cho cô An hạnh phúc...

Cường đứng lên theo anh. Họ xoay lưng định vén tấm chiếu buồm bước ra sân. Tới lúc đó, người đàn ông mới choàng tỉnh. Ông ta hớt hải gọi:

- Hai ông... Hai anh... Xin mời quay lại đã...

Các chàng trai vẫn đứng giữa khuôn cửa nham nhở của căn lều, ngoái đầu lại nhìn chủ nhân. Ông ta tung tấm chăn, run rẩy quơ chân tìm đôi guốc gỗ dưới đất:

- Xin chờ cho...chờ tôi một chút... Tôi muốn gửi biếu hai anh một vật này...

Người vợ vội chạy lại, tìm đôi guốc đặt sẵn dưới chân chồng. Rồi bà ta choàng tấm chăn lên vai ông ta.

Người đàn ông lách vào sau lưng bàn thờ, cúi xuống mở chiếc hòm nào đó đặt trong bóng tối, lục lọi một cách hối hả. Chừng dăm phút sau, ông ta ngẩng lên, thở hồng hộc. Rồi ông ta đặt lên bàn thờ một cục giẻ lớn, buộc chằng chịt những sợi dây cước, thứ cước dân chài dùng dệt lưới trù. Dưới đôi tay trắng xanh, nổi chằng chịt những đường tĩnh mạch của người đàn ông, từng lớp vải rách được gỡ ra, hết lớp này tới lớp khác. Trong cùng, một mảnh lụa trắng đã hoen ố. Lớp lụa được giật lên, tức khắc hai chàng trai cùng nhào tới bàn thờ. Trước mắt họ là một pho tượng gỗ chạm tinh xảo. Một người đàn bà, thân thể mềm mại, tươi mát, những đường cong êm ái tạc nên một vẻ đẹp sung mãn đang rót bình rượu xuống hồ. Những con sóng say ngả nghiêng dưới dòng rượu tuôn chảy. Gương mặt tuyệt mỹ của người đàn bà tựa như bông lan cách diệu, tựa như niềm hạnh phúc và nỗi đau khổ cùng hiển hiện trong một thời khắc, nơi chân trời ngưỡng vọng, lừa mị thế gian...

Bá cất tiếng kêu:

- Đẹp quá.

Người đàn ông nói, giọng khản đục:

- Đã thất lạc hết cả. Chỉ còn được vài pho. Cái này, tôi thích hơn cả.

Bá hỏi, bỗng dưng giọng gay gắt:

- Sao bác không làm?

Người đàn ông nhìn anh:

- Ai cho làm?... Họ lùa tất cả chúng tôi lên vùng khai hoang, bảo cái nghề này không phục vụ gì cho sản xuất, không có lợi cho cách mạng... Trên đó chúng tôi trồng sắn, nhưng không đủ ăn. Gạo không có. Trước, còn bán cho năm cân mỗi tháng, sau rút xuống ba. Rồi chẳng còn. Vợ tôi sốt rét, mấy đứa con trai chết đuối dưới suối... Tan nát cả cơ nghiệp. Cha mẹ tôi đã trót sinh ra tôi với cái nghề này. Chúng tôi hèn lắm, không kiếm nổi miếng ăn bằng nghề nông... Ông ta đặt pho tượng vào tay anh:

- Xin tặng hai anh, gọi là một chút, để đa tạ tấm lòng nhân ái...

Bá xiết chặt bàn tay ông ta, hạ giọng:

- Thôi, chào ông...cảm ơn ông...

Nói rồi, anh hấp tấp bước khỏi căn lều. Cường đi theo. Họ lạc hồi lâu trong xóm chài mới tìm thấy lối ra. Hai người không ai nói với ai lời nào, men theo bờ nước mà đi. Lát sau, họ thấy ánh đèn thành phố.

 

Chương 4

Trọng thức dậy đã lâu, nhưng chưa xuống giường. Anh cầm chiếc bình gạt tàn vào trong màn, nằm hút thuốc. Những con muỗi ngày vo ve bên ngoài, có dăm con lớn gần như ruồi, bụng vằn đen. Thứ muỗi ấy đốt đau như chó cắn. Những ngày trở trời, muỗi từ các xó xỉnh bay ra từng đàn dày đặc như đám mây. Trọng không dám đọc sách hoặc ngồi cộng sổ buổi tối. Anh phải dong ngọn đèn điện vào trong màn, và làm mọi việc bên trên chiếc giường chiều dài hai mét, chiều rộng mét tư, hệt như một gái đẻ.

Trọng đã có quyết định chính thức về làm thống kê tại cửa hàng bách hóa huyện Sơn Thanh, cách thành phố hai mươi lăm cây số, nhưng cách nhà có ngót nghét một cây. Cả đi cả về chưa đầy nửa giờ.

Cửa hàng khá lớn, chừng hai chục nhân viên, đa phần là nữ. Bà trưởng cửa hàng trên năm mươi tuổi nhưng còn khỏe mạnh và tinh ranh. Từ hôm đầu tiên gặp Trọng, bà đã nửa nạc nửa mỡ bảo:

- Này, làm quen sẵn một tay công an quản tù đi... Đàn bà đến giết nhau vì cậu thôi.

Trọng đáp lại bà bằng nụ cười khiêm nhường, lặng lẽ. Anh ưa nhìn các cô gái đẹp, nhưng anh không có tính trăng hoa. Anh đã thương yêu Bích, thế là đủ.

Tổ ấm của họ đã xây xong. Tấm giấy ly hôn của Bích với người chồng cũ đã được ký ngày mồng tám tháng trước:

- Chờ qua vài tháng nữa, cho chuyện này cũ đi...

Bích bảo anh:

- Ở xã hội mình, vừa bỏ chồng mà đã lấy chồng ngay họ dễ dị nghị. Đến giáp tết Nguyên Đán, lúc thiên hạ đâm đầu đổ đuôi lo sắm sửa, bánh trái chúng mình sẽ làm lễ thành hôn.

Trọng bảo:

- Cưới vào dịp đó ai đi dự được?

Bích cười:

- Thế càng may chứ sao? Tội gì tốn chè tốn rượu cho thiên hạ được dịp vừa uống vừa đàm tiếu. Chỉ một mình anh với em đã đủ vui hơn cả địa cầu này...

Một câu nói cũ kỹ, nhưng làm anh cảm động. Chưa người đàn bà nào, chưa cô gái nào nói với anh những lời ngọt ngào đó trong đời.

Tuy nhiên, anh vẫn muốn cuộc sống chung của họ nhanh chóng được hợp pháp hóa, anh muốn đưa Bích đi chơi thành phố, ra quê anh, muốn cùng cô thăm thú lại những mảnh đất đầy kỷ niệm thời chiến tranh - nơi anh đã sống qua tuổi trẻ, đã trưởng thành, đã đổ máu.

Anh nói:

- Em đừng sợ thiên hạ dị nghị. Chúng ta yêu nhau, đã sống chung, đằng nào sự thật cũng không thể thay đổi.

Cô bảo:

- Có gì thêm vào trong cuộc sống của chúng mình đâu?... Cưới hay không cưới em vẫn là của anh, anh vẫn có em đêm ngày.

Trọng lắc đầu. Thường anh hay nhượng bộ cô, Nhưng đôi lúc anh gan lỳ:

- Khác chứ. Trong cuộc sống của ta hiện nay có cái gì đó khuất tất. Tại sao chúng ta không thể khoác vai nhau đi chơi như tất cả những cặp vợ chồng khác, không thể thăm thú xóm giềng, bè bạn, không thể hẹn người này người khác tới nhà dự một bữa ăn tươi hay tham gia với họ một ngày chủ nhật du lịch. Tại sao em không thể là cô Bích, vợ anh Trọng mà lại là cô Hường?...Bởi vì em không phải một nhà văn, hoặc phóng viên báo, hoặc chính khách... Trong ngôi nhà này, chúng ta biệt lập với cả thế gian. Dù em có đưa ba lên trông nhà, cuộc sống của chúng ta vẫn bất thường so với mọi cuộc sống lứa đôi khác... Bầu không khí lập lờ không minh bạch này không hợp với tính cách của anh.

Trước ngày em có quyết định ly hôn anh không dám nói. Giờ, việc chia tay của em với Nghĩa đã chính thức, chẳng còn trở lực chính đáng nào trong việc hôn nhân của chúng ta.

Bích lắng nghe anh một cách chăm chú. Cô đáp:

- Tất nhiên anh hoàn toàn có lý. Nhưng ngoài cái lý của anh, có cái lý khác nữa... Một trăm trường hợp ly hôn xong đã kết hôn ngay, cả một trăm trường hợp ngoại tình. Thiên hạ họ tinh khôn lắm. Họ đoán ra ngay.

Trọng cười:

- Cuộc sống chung của em với anh từ hơn một năm nay là cuộc sống ngoài hôn thú. Chẳng lẽ em không biết hay sao?

Mặt Bích đỏ lên, cô nói:

- Đã đành thế. Nhưng không ai muốn mặt mình có vết nhọ.

Trọng bảo:

- Thà rằng mặt có vết nhọ còn hơn ăn gian. Chúng ta đã yêu nhau ngoài luật pháp, chúng ta hãy chịu án ngoại tình. Như thế vẫn hơn chơi trò bạc bịp.

Bích kêu lên:

- Anh gàn lắm... Xã hội muốn mình thế nào, mình hãy sống như vậy. Thế là khôn ngoan nhất. Xem xem, thiên hạ đều sống vậy thôi.

Trọng bảo:

- Điều sỉ nhục cho con người là miệng họ nói những lời mô phạm, trung thực mà hành vi của họ lại đểu giả, gian dối. Xã hội nào còn dung nạp lối sống ấy, xã hội đó không thể phát triển. Sự gian dối có thể vì vụ lợi, cũng có thể vì hèn nhát, cả hai thứ đều xấu xa... Nói chung, anh không phù hợp với kiểu thích nghi này. Chiến tranh đã dạy anh những nguyên tắc quá đơn giản: viên đạn bao giờ cũng đi thẳng, nếu nhắm trúng đích thì anh thắng, nếu trệch anh sẽ bại và sự thất bại phải trả giá bằng máu hoặc sinh mạng của chính mình. Cuộc sống bây giờ phức tạp, viên đạn đi hình chữ chi...anh không hình dung được đồ thị của nó... Em đừng giận, đôi lúc anh cảm thấy hổ thẹn như mình là thằng ăn cắp khi buột miệng gọi tên em: Bích ơi... Và em quay lại lườm anh, giơ ngón tay ra hiệu phải gọi em bằng cái tên giả hiệu: Thanh Hường... Rồi mỗi lần bạn bè anh hỏi chuyện riêng tư, anh phải nhắc lại những câu chuyện, những lý lẽ em dặn. Em đã gà anh, như một thí sinh giỏi gà bài cho thí sinh kém, như đạo diễn tập vai cho diễn viên... Nhưng anh không có năng khiếu sân khấu. Anh là một diễn viên tồi... Anh không thể chịu cảnh sống tù túng và cắc cớ này mãi được...

Nói xong, Trọng hắt cả một cốc nước lọc để nguội vào mặt vì anh thấy máu nóng bốc phừng phừng hai bên thái dương. Bích tới bên anh, cụp đôi mắt xuống với vẻ cam chịu. Cô cầm hai tay anh đặt lên ngực, và nói như van:

- Em xin anh, anh đừng nóng giận...vì tình cảnh của ta ngang trái nên anh phải chịu nhiều thua thiệt. Nhưng cũng chính vì những thua thiệt ấy, em yêu anh gấp trăm lần... Trong đời, chưa người đàn ông nào khí phách như anh. Anh đã hy sinh quá nhiều cho em, nếu chúng ta cố sống với nhau một trăm năm, em cũng không đủ trả món nợ ân nghĩa đó.

Trọng im lặng, anh cảm thấy trái tim nồng nàn của người đàn bà đang đập thúc hối dưới hai bàn tay mình. Làn da thịt quen thuộc của cô truyền sang anh cảm giác bình an, dễ chịu.

Bích nói tiếp:

- Thực ra, em định nói với anh một điều từ lâu, nhưng không dám... Em sợ điều đó làm anh đau lòng...

Trọng bảo cô:

- Em cứ nói.

Bích cúi gằm mặt xuống, anh không nhìn thấy mắt cô, chỉ thấy món tóc phủ trên vầng trán:

- Nói đúng ra, không phải em sợ dư luận xã hội mà trì hoãn lễ cưới của chúng ta. Em sợ con gái em đau lòng. Nó chưa đầy sáu tuổi, chưa đủ khôn để hiểu rằng em không thể sống chung với ba con nó. Nếu vắng em nó sẽ thiếu thốn rất nhiều. Chưa biết chừng, nó sẽ bỏ học hoặc đổ đốn ra như nhiều đứa trẻ khác.

Trọng an ủi cô:

- Em đừng buồn. Đã nhiều lần anh giục em đón con lên đây. Chúng ta sẽ cùng nuôi nó. Nó sẽ có em bé làm bầu bạn. Rồi lớn lên, nó sẽ hiểu mọi sự.

Bích lắc đầu:

- Nghĩa thương con bé lắm. Không bao giờ anh ấy chịu để cho nó đi.

Trọng buông tiếng thở dài, đoạn anh nói:

- Thôi được, tình cảnh đã thế, chúng ta đành phải chờ đợi. Nhưng tại sao em không nói rõ nguyên do từ đầu. Nếu là chuyện lợi ích của đứa trẻ, anh không bao giờ phàn nàn cả.

Bích úp mặt vào ngực anh, thì thầm:

- Vì tình yêu bao giờ cũng muốn độc chiếm. Em muốn anh chỉ là của em. Và em biết anh cũng thế. Dù là con trẻ, việc san sẻ tình yêu dễ mấy ai chịu nổi...

Trọng định nói với cô ý nghĩ của cô sai lạc. Rằng anh yêu mẹ và bà cũng yêu anh bằng một tình yêu thấm sâu đến nỗi anh không thể hình dung được một người đàn bà trên cõi đời này ra sao nếu người đó không có một đứa con và không yêu nó với một tình yêu xương tủy... Nhưng anh im lặng. Anh vốn không thích nói nhiều, cuộc chuyện trò với cô vừa qua đã rút hết lòng hăng hái trong anh. Anh buông Bích ra để đi uống một cốc nước lạnh vì cổ họng khô rang. Rồi họ lại cùng nhau làm món bún bung sườn...

Cuộc chuyện trò ấy cách đây đã hơn ba tháng. Mùa thu sang thật sự rồi. Thoạt tiên, chỉ là hơi gió rung rẩy trên lớp cỏ làm rơi rụng những hạt cỏ may xuống vệ đường. Sau rồi, ánh nắng bớt chói chang, chuyển sang màu vàng rơm tươi tắn. Nó không nung chảy những con lộ trải nhựa, mà chỉ làm các sườn đồi óng ánh như lông nhung, cỏ đẹp như thế ngày mai sẽ tan biến trong bụi cát, những con chim lích chích nhỏ hơn nắm tay trẻ con nhảy từ sườn đồi này sang sườn đồi kia, tìm sâu trong các lùm cây gai quả đỏ. Các dòng suối cạn bớt, nước trong veo, chảy róc rách giữa các trái đồi cách đường cái chính không bao xa. Chiều chiều, lũ trẻ đi hái quả rừng và chặt cây chổi dừng lại ven suối tắm rửa, cất tiếng hát:

Chim là chim ơi

Sao mày rũ rối

Bao nhiêu là sợi

Của ông trăng Già.

Lác đác, đã có những nhà đốt pháo cưới. Cặp trai gái trẻ trung nào đó hối hả tìm hạnh phúc, hay cặp vợ chồng muộn nào đó cố gắng cướp lại thời khắc bất tuyệt của cuộc đời...tiếng pháo cưới làm người đàn ông buồn. Anh không muốn lặp lại chuyện cũ một lần nữa. Nhưng tháng ngày lần lữa trôi, và niềm khao khát một đứa con càng ngày càng vò xé. Trọng ít soi gương nhưng thi thoảng, anh đứng trước tấm kính tráng thủy ngân gắn vào cánh tủ, tần ngần nhìn mấy nếp nhăn vừa xuất hiện dưới đôi mắt. Hai món tóc bạc lẫn vào đám tóc đen dày, tựa như hai vành trăng liềm buồn thảm. Ba mươi tám rồi, liệu đến bao giờ anh mới được làm cha? Bích không nhắc nhở tới chuyện cưới xin. Dạo này, cô bận lắm. Cô đang phấn đấu vào Đảng. Với thế lực của cô, chỉ cần được kết nạp là trong vòng ba năm sau, cô sẽ trúng Đảng ủy của Ty thương nghiệp. Chưa biết chừng còn có thể lên tới tỉnh ủy viên. Khó khăn nhất vẫn là cái cửa ải đầu tiên: chi bộ, cái tổ chức Đảng còm cõi nhất bao gồm toàn những con người chung sống với cô ngày ngày..Bích ở lại dưới thành phố luôn. Cuộc sống chung của họ bị gián đoạn. May còn có ông bố của cô. Nhưng ông lão câm lặng như bóng ma. Suốt ngày ủ dột ngồi nhìn chai rượu, và đôi lúc lắng nghe tiếng còi tàu từ thành phố vọng lên. Ông nói như vậy, có lẽ đó là cơn vọng tưởng của người già. Kỳ thực, chưa bao giờ Trọng nghe thấy tiếng còi tàu. Cách thành phố những hai chục cây số đường chim bay, làm sao làn sóng âm truyền tới. Ông già như người mắc chứng mộng du, lang thang trong những cơn mộng tưởng về đứa con trai yêu dấu. Trọng chưa gặp mặt chàng trai đó. Còn mỗi Tân anh nói chuyện về Bích, ông thường giữ một vẻ im lặng bí ẩn, hoặc ông lảng tránh những câu hỏi của anh bằng lối trả lời vơ vẩn của người già...

Làn khói thuốc bay lên, vòng vèo trong không gian trước khi lẫn vào khí trời trong suốt. Sau những cơn mưa, muỗi nhiều nhưng trời lại trong như lọc. Cát bụi đã lắng xuống. Các vườn cây được tắm gội xanh thắm lại. Cả những bông hoa tàn ướt sũng nước, chỉ chực rời rã từng mảnh cũng đẹp. Còn những đám lá non bóng như được quang dầu. Trọng ném mẩu thuốc vào chiếc gạt tàn, xoay người nằm nghiêng. Anh thấy ngoài cửa sổ mấy ngọn nhài vừa vươn lên, run rẩy. Nắng sớm soi vào, nhìn rõ cả những đường gân nhỏ và thẫm chạy trên phiến lá non tơ. Mùi thơm tràn đầy căn phòng.

- Sao nó ngái lắm vậy...

Trọng thầm hỏi, cảm giác bực dọc rất mơ hồ len vào con tim. Lần đầu tiên anh thấy khó chịu bởi mùi hương lẳng lơ của loài hoa đêm. Bụi nhài ấy, chính anh đã đánh từ vườn cảnh của một người bạn thiết cốt từ trên nhà máy thủy điện An Hoa đem về. Bao nhiêu cây số đường trường gìn giữ một nắm đất được gói ghém bởi mấy lớp giây báo. Cũng chính anh đã xây bồn hoa đó, bằng những viên gạch vỡ thu lượm được sau khi xây nhà. Và bên ngoài lớp vữa trát, anh đã gắn những mảnh men kính vụn khiến bồn cây cảnh lúc nào cũng lấp lánh như mạ thủy ngân.

Ngoại trừ cụm nhài, anh còn trồng cả một bụi trúc vàng, vài gốc hồng xiêm với một luống hoa cúc đại đóa. Cái công trình tu tạo cho ngôi nhà hạnh phúc lấy mất của anh rất nhiều mồ hôi và sự say mê. Mồ hôi đã thấm xuống cát, còn niềm say mê đã bắt đầu rạn nứt. Trọng nhìn những ngọn nhài non vươn lên ngoài khung cửa, thấy xa lạ.

Trước kia, anh có thể bỏ từng giờ ngồi ngắm. Giờ, nó chỉ là vật vô hồn chẳng đáng ghét bỏ cũng chẳng đáng yêu. Một bộ phận của ngôi nhà này, cái thánh đường anh dành cho tình yêu của anh, niềm hy vọng của anh về một đời sống gia đình bền chặt và êm ấm, nó không còn ý nghĩ lớn lao như anh vẫn tưởng. Bất cứ người đàn ông nào cũng có thể nhặt một cụm nhài từ xó vườn của ai đó đem về trồng bên rãnh nước, bên sân, thậm chí bên chuồng nuôi lợn. Loài hoa mọc sàm sỡ như cỏ dại. Thứ hương thơm đĩ thỏa ban phát còn sàm sỡ hơn sức sinh thành của chúng. Vậy mà anh đã cất công đem từ mấy trăm cây số về...

Lão Ngạn hắng giọng ho ở phòng ngoài. Rồi cất tiếng:

- Anh Trọng thức dậy chưa?

Trọng đáp:

- Con dậy lâu rồi, còn hút thuốc. Có việc gì đấy ạ?

Lão Ngạn nói:

- Có lẽ tôi phải vào thành phố.

Trọng ngồi dậy, khoác chiếc áo sơ mi đi ra:

- Lần trước bác vào có gặp chú Cường đâu?

- Phải. Họ bảo tàu nó vừa nhổ neo ba tiếng đồng hồ. Nhưng hôm qua có người quen ghé qua đây tình cờ gặp tôi. Họ bảo gặp nó trong quán nước mía ven bờ biển.

- Mới được trên mười ngày... Không có chuyến đi nào ngắn thế. Có thể là họ nhầm chăng?

- Không, người quen cũ, thường cất hàng cho tôi từ hồi chúng tôi dinh tê về thị trấn Cam. Nói để anh rõ, hồi đó chúng tôi bỏ chiến khu vào vùng tề, năm bốn tám. Ông ta không nhầm được.

- Vâng, nếu bác muốn đi, con không dám cản. Nhưng thế nào Bích về đây cũng la lối. Trước khi lên xe, cô ấy dặn đi dặn lại rằng không để cho bác vào phố.

- Nó dặn anh phải giam tôi trong căn nhà này? Tôi làm sãi giữ chùa không công?...

- Bác đừng nói vậy, oan cho cô ấy... Bích ngại bác yếu, không thể đi xa mà không có người đi theo.

Lão Ngạn cười nhạt, đưa mắt nhìn Trọng như lần đầu gặp anh. Rồi lão hỏi:

- Mấy hôm nó chưa về đây nhỉ?

- Năm hôm rồi.

- Nó bảo với anh là bận việc gì?

- Cô ấy đang thu mua hàng cuối quý để hoàn thành vượt mức kế hoạch Ty thương nghiệp giao. Người ta đang thử thách Bích lần cuối trước khi kết nạp.

Lão già cúi xuống, trầm ngâm nhìn chén trà đã nguội lạnh trước mặt. Rồi, lát sau ngẩng lên:

- Này tôi hỏi thật, hình như anh yêu con Bích lắm?

Một câu hỏi chẳng ăn nhập gì với chuyện đang bàn.

Trọng đỏ bừng hai tai. Anh chưa bao giờ phải trả lời một câu hỏi thật thà đến thô bạo như thế. Anh lúng búng hồi lâu, sau khẽ đáp:

- Vâng.

Lão già không nhìn anh, hỏi:

- Trước đó anh chưa có chuyện...đàn bà phải không?

Mặt Trọng càng đỏ hơn, hai thái dương anh cũng nóng rực lên. Anh cúi xuống:

- Vâng.

- Đi lính từ năm mười sáu?

- Vâng.

- Thế thì tôi hiểu...

Lão nói rất khẽ, như để cho riêng lão nghe. Rồi đôi mắt đục của lão trở nên xa xôi, bí ẩn. Trọng biết rằng lão không mảy may nghĩ tới anh vào phút này. Lão đã lạc vào một thế giới riêng biệt, thế giới mộng mị và hồi tưởng, khu rừng cấm của mỗi người, đám rong rêu tối tăm và rối như tơ vò không ai lần được đầu mối... Nhưng sao anh bỗng thấy buồn nản, thấy chán chường, cảm giác chưa từng có. Vẻ ủ dột bí hiểm của lão già có mối dây nào đó hệ lụy tới anh, tình yêu, niềm hy vọng hoặc những đau khổ chờ đợi anh trong tương lai?... Tất cả chỉ như những ảo ảnh mờ nhạt hiện trong sương mù. Nhưng tim anh thấp thỏm...

- Bác ơi, bác đoán bao giờ Bích về?

Anh hỏi lão Ngạn, thầm mong lão quả quyết được một lần. Nhưng lão không nghe anh hỏi. Lão đang phiêu diêu trong cơn du mộng. Mắt lão như đầy sa mù.

Chương 5

Đang cọ rửa sàn tàu, chợt Cường nghe Tuấn hói gọi:

- Chàng còm, hình như ông già mày đang ở dưới kè đá.

Cường vứt nắm giẻ bẩn xuống, kiễng chân nhìn qua ô cửa tròn trong phòng. Anh thấy cha mình đứng dưới kè thật. Lão Ngạn khoác chiếc áo ca-pốt lính cũ, trông lướt thướt như cha cố trong bộ trùng thâm, cái dáng vóc thấp bé của lão trông càng nhỏ nhoi hơn.

Anh hốt hoảng bảo Tuấn:

- Anh làm ơn nói dùm là em đi vắng.

Tuấn hói ngạc nhiên:

- Sao lại thế?...

Vừa lúc trưởng máy Bá dưới khoang tàu leo lên. Cường túm lấy Bá van vỉ:

- Anh xuống kè nói với ba em là em đi vắng. Em không muốn gặp mặt ông cụ. Em rất sợ...

Bá không hỏi gì thêm, lau đôi tay dầu mỡ vào miếng giẻ khô anh đem theo, đoạn thong thả bước lên cầu tàu. Cường vào phòng, đứng nép bên ô cửa, ghé mắt nhìn xuống. Anh thấy lão Ngạn đứng ngơ ngẩn nhìn đám tàu dưới vùng biển, hết tàu này tới tàu kia, tìm kiếm. Gương mặt tái xám đầy nếp nhăn. Đôi lúc tiếng máy cẩu rú và những tay cẩu khổng lồ quay trục hàng khiến lão giật thót, mắt lão kinh hãi nhìn chúng như nhìn những con dã thú đầy sức mạnh chế ngự và quyền uy. Cằm lão không cạo, những sợi râu thưa thớt quăn lại, trông yếu ớt, bẩn thỉu. Chàng trai đau lòng. Đã lâu không gặp cha, anh không ngờ ông lão chóng suy kiệt như vậy. Anh thèm muốn ngồi với lão buổi tối, nghe mưa rơi ngoài mái hiên, nghe tiếng xe thổ mộ đi qua phố vắng, nghe tiếng rao quà vặt vọng vào. Anh thèm được đi song song với lão lên đồi đan tiêu những chiều tĩnh lặng, trời êm dịu nhưng gió biển từ dưới thành phố thổi lên còn đủ sức xao động những vòm lá đan tiêu, khiến chúng đỏ như lửa cháy, tỏa sáng và tỏa hơi ấm cho khung cảnh hoang liêu muôn đời nơi thị trấn. Anh thèm bưng cho lão một bát cháo nóng, có rắc hành và lá cây hao thái nhỏ... Anh thèm... Nhưng tất cả những khoảnh khắc hạnh phúc như vậy chỉ có được, khi lão là một người cha ngu ngơ, hiền thục, khi lão quên đi giấc mơ cuồng dại.

- Giá như không có chuyện đó. Giá như... Cường thầm nghĩ...

Dưới kè, lão Ngạn đang túm lấy hai người phu khuân vác, hỏi gì đấy. Họ lắc đầu, bỏ đi. Ông già đứng nhìn theo, dúm dó, chơ vơ giữa khung cảnh chẳng hòa nhập với con người như lão. Lão bước vài bước, tới sát mép kè đá, ngó xuống biển. Nước như thâm lại vì trời không nắng, đầy những vệt dầu loang, những đám rong nhớt nhát và rác rển. Anh thấy cha mình không dám cúi đầu thấp hơn, nhưng cũng không lùi lại một bước. Hình như làn nước mặn dơ dáy kia có sức hút kỳ lạ với lão, như lão bị thôi miên bởi vẻ đẹp mặn mòi và nguy hiểm của chính nó...

Bá đã xuống kè, đi dọc theo mép nước, tới sau lưng lão. Anh cất tiếng chào khá lớn, đứng trên tàu, Cường nghe rõ mồn một. Cha anh quay lại, đáp lễ với vẻ sửng sốt. Ông già đưa cả hai tay nắm tay Bá, ngửa mặt nhìn chàng thủy thủ vì lão chỉ đứng tới ngực anh. Bá mời lão tới căng-tin của cảng, phía gần cổng ra vào.

Hai người đi qua khoảng sân rộng mênh mông, qua những dãy kho tạm, những cần trục hàng và đám người khuân vác chạy đi chạy lại như đàn kiến. Mỗi lúc họ mỗi xa giống như hai cái chấm di động.

Cường bất giác buông tiếng thở dài rồi nắm lấy mảnh giẻ tiếp tục cọ sàn tàu... Tuấn hói đã cọ rửa xong sàn phòng, đang rống lên trong buồng tắm. Vừa xối nước ào ào, anh ta vừa hát. Giữa chừng lời ca, đột ngột Tuấn hỏi vọng ra:

- Mày có vào phố với tao không Cường?

- Không.

- Ở tàu làm gì?

- Em chẳng làm gì cả. Hoặc đọc sách.

- Mày không ngán mùi tàu sao?

- Bây giờ em cũng đã quen.

- Nếu thế thì tao chúc mừng chú em. Mày sẽ thành thủy thủ giỏi... Nhưng có lẽ điều đó không xảy ra. Vì đến tao cũng chẳng thú gì với mùi tàu, một thứ tổng hợp của mùi hàng hóa, mùi gỉ sắt, mùi dầu máy, mùi nước mặn và mùi phòng vệ sinh tiết kiệm nước rửa... Đúng không?

- Vâng.

- Thế thì xuống phố đi. Sao mày cứ ru rú suốt tháng trong phòng tàu.

Tuấn hói đã tắm xong, không thấy tiếng dội nước ào ào mà là tiếng vò xát quần áo. Ca sĩ nói tiếp:

- Đi với tao không lát nữa tàu vắng, thằng Đính về lại gây sự. Không có thằng Bá, không có tao thì nó nhai gỏi mày...

Cường bỗng thấy nóng mặt:

- Chẳng lẽ chỉ vì sợ anh ta mà em phải lánh mặt xuống phố hay sao?

Tuấn nói:

- Đừng tự ái. Tao bảo thật đấy. Thằng ấy thuộc loại sát nhân bẩm sinh. Không ai có thể đoán trước hành động của nó.

Cường đáp:

- Nếu anh ta thích đánh, cho đánh...

Nhưng nói xong, sống mũi chàng trai bỗng cay như ăn dưa cải xanh. Cường miết mạnh mảnh giẻ xuống sàn, cố ghìm nước mắt. Nếu anh có mẹ, chắc anh sẽ thầm gọi: Mẹ ơi. Nhưng vì mẹ anh đã chết ngay lúc anh cất tiếng khóc chào đời, nên đó chỉ còn là một danh từ hư ảo, một giấc mộng xa xôi dựa trên những đoán định và liên tưởng khác của đời sống. Cường nhúng mảnh giẻ bẩn vào thùng nước, vò thật mạnh để khỏi có những ý nghĩ mềm yếu. Tuấn hói đã giặt xong, bước ra trong bộ quần áo mới. Tóc anh ta chải bóng mượt, trông càng hói hơn. Nhưng vẻ mặt anh ta tươi rói, mãn nguyện vì sạch sẽ, vì tự tin ở thân mình. Hai vồng ngực Tuấn nổi phồng lên, tràn trề sinh lực.

- Chưa xong cơ à?

Anh ta hỏi Cường, đưa mắt liếc thùng nước bẩn, bảo chàng trai:

- Đừng sạch sẽ quá, vô ích. Cái phòng này có phải lầu kén chồng của các tiểu thư thời xưa đâu.

- Vâng.

Cường đáp, thèm khát vô biên cái vẻ mãn nguyện và tự tin của người đàn ông đứng trước mặt mình. Những người đàn ông khác nữa, sao họ khỏe khoắn thế, họ tự tin đến thế?... Cuộc sống với họ thật dễ dàng: làm việc họ thích làm, yêu người đàn bà họ ưng thuận, ăn món ăn họ chọn lựa.

Tuấn hói vào phòng riêng, lát sau anh ta bước ra, thơm sực mùi nước hoa. Tuấn giơ tay xoa đầu Cường:

- Thôi, ở nhà gác tầu vậy. Lát nữa về tao mua quà cho. Mày thích ăn bánh bao xá-xíu hay bánh dầy kẹp chả?

Cường đứng nhìn theo Tuấn hói, chàng ca sĩ kiêm võ sư ưỡn bộ ngực ra một cách kiêu mạn đi qua cầu tàu. Sau hình ảnh của một người đàn ông luôn luôn tự bằng lòng mình, anh ta còn là một thủy thủ giỏi. Bước trên cầu tàu, mắt Tuấn hói không hề ngó xuống dè chừng làn nước, cân nhắc bước chân trước khoảng rộng của tấm thép. Anh ta bước đi với vẻ ung dung của một chủ vườn dẫm trên các lối cát quen.

Bên kia cây cầu tàu, những con tàu khác đậu xin xít, tầu chờ cẩu hàng lên bờ, tầu chờ ăn hàng mới. Bờ kè đá chạy nửa đường cong pa-ra-bôn. Những chiếc cẩu rồ máy, trục quay ken két hết ngoạm lại nhả những kiện hàng khổng lồ.

Đám công nhân khuân vác chạy đi chạy lại không ngừng, làm khung cảnh sinh động, rộn rã hơn. Và trên tất cả, là bầu trời không giông gió, không chói chang nhưng vẫn quần tụ những đám mây xám lớn, giống như đàn ngựa hoang và những cánh chim âu chấp chới, dự báo một hiểm nguy không tính trước vì tính chất bất tường của biển cả, cái đặc tính không một vùng bình nguyên hay núi non nào có thể có. Khung cảnh ấy thật hợp với người đàn ông kia, như tấm áo vừa khít lưng của cô gái. Dường như anh ta sinh ra để sống với tàu bè, sóng nước, và thở hít làn không khí mặn của biển khơi...

Nắm giẻ lau bẩn vẫn nhỏ nước tong tong xuống thùng. Bỗng dưng, chàng trai thấy chán ngắt mọi thứ. Cả cái công việc khổ sai này nữa. Cường ném nắm giẻ vào thùng nước, khiến nó sánh ra sàn tàu. Anh nằm vật xuống giường...

...Trong hồi ức tuổi thơ của chàng trai, mặt trời lặn theo những chiếc nan gỗ trên bánh xe thổ mộ. Hồi ấy, người ta chưa dùng bánh cao su bơm hơi mà dùng bánh gỗ bọc cao su. Thị trấn Cam hẻo lánh chợt giòn giã vui vẻ trong tiếng nhạc ngựa lanh canh. Bánh xe lọc cọc lăn qua đường. Cường cùng đám con trẻ trong phố chạy theo xe, reo hò ầm ĩ. Những con ngựa béo mượt, đầu cắm lông trĩ nhuộm phấn sặc sỡ, có đủ yên cương, đai thắng ưỡn cái ức nở trước hàng trăm cặp mắt thán phục của lũ trẻ huyện ly. Cái mũi ướt của chúng phập phồng, và hai lỗ mũi như nở to ra. Mùa đông, từ hai lỗ mũi ấy tuôn ra hai làn hơi trắng xóa. Cường tròn mắt ngắm nghía luồng hơi nóng hực, có mùi ngựa, tưởng như hai ống khói của lò vôi được Phật Bà Quan Âm thu nhỏ. Thường, lũ trẻ chạy theo xe hàng cây số, mệt nhoài chúng mới quay về, tóc tai mướt mồ hôi và bụi. Và mỗi bận, chúng đều bị mắng, thậm chí còn xơi vài ngọn roi. Riêng Cường là không. Cha anh chiều anh. Anh là đứa con duy nhất, nguồn vui duy nhất của ông chủ cửa hiệu tạp hóa Mỹ Dung, một người đàn ông khá giả nhưng cô đơn, gương mặt lúc nào cũng ủ dột, tái xanh như mắc chứng thiếu máu. Trước, Cường cũng có một cô chị cùng cha khác mẹ, nhưng năm anh lên sáu, chị ta biến mất. Sau này, khi Cường đã trưởng thành, thi thoảng nọ mới gặp nhau. Kỷ niệm về người chị này, với Cường, chỉ là mùi phấn rôm thơm lừng được vỗ ra từ hộp phấn màu hồng. Cô chị rất thích lấy trộm phấn rôm của em dùng. Và thêm nữa, là những cái cấu véo thầm vụng. Chàng trai vẫn nhớ một lần Bích cấu trộm anh đã bị cha đánh mười roi phất trần rồi bắt quỳ vào xó nhà phía sau tủ đựng giấy bút và các loại mũ áo cho trẻ đi học. Mặc dù vú em chăm bẵm Cường rất cẩn trọng, bám sát anh như cái đuôi nhưng không lúc nào cha anh rời mắt khỏi đứa con trai. Kể cả khi ông nhận hàng hoặc bán hàng, hoặc ngồi cộng trừ những dãy số dài dặc sau chiếc bàn gỗ nhẵn bóng. Cha anh đã yêu anh với một tình yêu không bình thường. Ngay cả những người đàn bà đầu óc cạn cợt cũng không yêu con với tình yêu như thế.

- Con trai của ba, cưỡi lên bụng ba nữa đi... Vú xem này, thằng Cường nó lại đòi sờ tí tôi... A ha ha.

- Con trai ba khỏe quá nhỉ... Nào, đấm nữa, đấm nữa đi...

Ông chìa bộ mặt xanh xao ra trước con trai, cổ vũ nó đấm. Sau này, vú em kể lại chuyện ấy với anh. Cha anh nuôi anh bằng sữa hiệu Tổ chim, bằng nhân sâm Cao-ly chính phẩm bằng thịt bò ép nước hầm đậu xanh, bằng sườn lợn ninh gạo nếp... Tất cả các loại thực phẩm đắt tiền nhất mà ông có thể mua được. Nhưng cậu bé Cường vẫn là đứa bé còm cõi nhất trong phố. Anh gày, nhút nhát, đôi mắt lúc nào cũng như e ngại, như phòng hờ một tai nạn bất trắc. Cậu bé ít tham gia những trò chơi của lũ trẻ trong phố, phần vì cậu yếu sức, phần vì thấy không hấp dẫn. Bọn trẻ cùng tuổi với Cường thích tập trận giả, thích chơi trò cưỡi lưng ngựa, thích đấu kiếm gỗ, thích bơi... Trong lúc chúng tham dự trò chơi, cậu đứng ngoài xem, vỗ tay khích lệ. Cường khác hẳn chúng, cậu thích chơi búng nịt với lũ con gái, chơi chuyền, chơi búng hạt nóng hạt na...

- Thằng lai gái...ê ê ê...đồ mặc váy kia.

- Cường ơi, suốt ngày mày bám đít tụi con gái...xem tụi nó ị thối hay thơm... Ê ê è...

- Đuổi cổ thằng Cường lai gái đi, chúng mày ơi.

Không bao giờ anh quên nổi cảm giác cô đơn ngày ấy, khi lũ bạn trai độc ác giật tóc, đá đít anh đuổi đi... Anh lảng tránh bọn chúng. Hết giờ học, Cường thui thủi ở nhà. Anh học bài, làm thủ công rồi theo chú Hai, ông già láng giềng tốt bụng vào vườn cây. Chú Hai có hơn một mẫu vườn trồng toàn cây ăn quả. Những người lái buôn từ thành phố và các huyện ly lân cận đánh xe tới tận vườn mua trái chín. Mùa nào thức nấy, không lúc nào ông già vơi túi tiền. Ông làm một chiếc chòi sàn gỗ mái lá ở chân đồi dứa, nơi vườn cây được bao bọc bởi hàng rào gai găng, có cửa trổ ra dãy đồi bát ngát phía sau. Ông xách bầu rượu, túi thức nhắm lên chòi. Cường lẽo đẽo theo sau. Hai chú cháu ngồi, ông già uống rượu, Cường ăn lạc luộc, mực khô nướng hoặc bánh đa. Ông Hai không vợ không con, ông yêu thằng bé lúc nào chẳng biết. Thoạt đầu, Cường rạch hàng rào đỗ leo sang chơi với ông. Sau, tới lượt ông bước qua bờ dậu sang tìm thằng bé. Ngày nào Cường ốm hoặc đi vắng, ông ngơ ngẩn xách túi thức nhắm đi đi lại lại quanh chòi. Ông biết nhiều chuyện, ông đã kể cho anh nghe, ngày nọ qua ngày kia. Giữa những câu chuyện, ông thủ thỉ với anh về cách thức ươm hạt chiết cành, cách bón phân cho mỗi loại cây, cách lai ghép chúng... Rồi ông rèn cho Cường một chiếc xẻng tí xíu, cho đứa bé tập sự làm vườn... Như thế, ngày tháng trôi qua, cho tới năm Cường lên chín.

Một chiều hè, anh đang lúi húi cắt dán hình vẽ bằng giấy màu vào cuốn vở thủ công, chợt nghe gọi:

- Cường ơi, ra ba bảo.

- Thưa ba vâng.

Cường đáp. Cậu bé xếp thứ tự những tấm hình muông thú, hoa lá bằng giấy nến vào vở. Chiếc kéo bé tí xíu và lọ cồn Cường bỏ trong chiếc hộp gỗ. Xong xuôi, anh chạy ra ngoài. Cha anh vừa thu xếp hàng hóa xong, ngẩng khuôn mặt nhễ nhại mồ hôi lên:

- Lấy quần áo sạch, cha con mình đi tắm.

Ông bảo anh, và nói thêm:

- Chiều nay không tắm ngoài giếng. Cha con mình ra sông.

Lúc ấy, cậu bé Cường thích chí nhảy cẫng lên. Chưa lần nào Cường được cha cho hưởng thú vui ấy. Lũ trẻ cùng lớp ngày nào cũng ra sông bơi ùm ùm và chúng kể lại chuyện đó một cách thản nhiên, trước vẻ tò mò lẫn thèm muốn của anh. Cường vào nhà lấy quần áo. Từ năm anh lên bảy, vú em bỏ về quê. Người chồng tệ bạc của vú sau mười tám năm lăn lóc từ Nam ra Bắc với một ả tình nhân đã mất hết gia sản, trở về quê. Mắt ông ta mù dở nhưng lưỡi ông ta sắc như lưỡi dao. Ông tỉ tê thế nào mà chỉ vài giờ đồng hồ, vú đã quên mọi oán thù cũ, quên những trận đòn ác nghiệt ngày xưa, quên chuyện ông ta đã bán sạch vườn tược, nhà cửa, bán đến tận manh áo cưới của vú để gói cục tiền đi theo gái, và đẩy vợ vào tình cảnh lang thang suốt ngần ấy năm trời, nay ở đợ nhà này, mai ở vú cửa kia... Vú khóc, từ giã cha con Cường, trở về cày sâu cuốc bẫm nuôi gã đàn ông phụ bạc nay đã thành phế nhân. Tự ngày ấy, mọi việc Cường đều tự làm lấy. Cậu bé sắp xếp quần áo cho cha, cho mình rồi đứng chờ ông. Lão Ngạn hài lòng:

- Ta đi thôi.

Đoạn, lão nói thêm:

- Từ chiều nay, ba sẽ dạy con bơi.

Cậu bé nói:

- Con chỉ thích xem tụi nó bơi thôi. Con sợ lắm.

Cha anh đưa mắt lườm:

- Đừng ăn nói nhảm nhí.

Cường im bặt. Cậu bé không dám cãi cha nhưng cảm thấy ông mắng mình một cách bất công. Họ im lặng qua phố, qua giải đồi thấp, ngược lên sông Cam. Mặt trời chưa lặn, đỏ như trái bòng bong chín. Dòng sông tươi sáng, rực rỡ vì những làn phản quang hòa trộn. Nước sông trong và ấm. Lũ trẻ thị trấn bơi ùm ùm, vừa bơi vừa la hét, vừa té nước giỡn chơi. Cuối bến, các chủ ngựa đua và chủ xe tắm cho lũ ngựa, tiếng quát tháo ồn ĩ của họ vang động cả hai bờ. Cường đứng ngây người trước quang cảnh kỳ thú ấy, sửng sốt vì đám trẻ táo tợn đang nhào lộn như những con cá kình trên mặt nước, mê mẩn vì cùng lúc, cậu nhìn thấy hàng chục con ngựa tụ tập trên bến sông. Nhưng cha cậu đã vắt quần áo lên cành cây, chạy xuống:

- Cường.

-Dạ.

- Lại đây ba bảo.

Cường chạy tới. Ông cầm tay con trai lôi tuột nó xuống dốc lát toàn thứ sỏi nhỏ, trơn. Cường suýt ngã, loạng choạng trượt theo bờ dốc. Theo đà, cậu bé lội tõm xuống nước. Lão Ngạn vẫn cầm tay con:

- Nào, bơi đi.

Lão hét lên, ra lệnh một cách tự tin và vui vẻ. Sau đó, đẩy Cường ra xa. Làn nước ập tới, đột ngột tràn vào họng cậu bé:

- Ba ơi...

Cường hét to, uống một ngụm nước khác lớn hơn. Cậu bé nắm chặt tay cha, cuống quýt lội vào bờ. Lũ trẻ thị trấn thấy cảnh đó, cười rộ lên:

- A ha, thằng Cường lai gái tập bơi...

- Chúng mày trông kìa, nó chạy vãi đái ra quần... Ê.. ê.. ê...

Cha Cường quắc mắt nhìn con:

- Mày xem chúng nó bơi kia kìa.

Rồi giữ tay Cường, ông hạ giọng ôn tồn:

- Tay đập thế này nhé, chân choãi ra đạp nước theo, cổ ngoi lên hớp hơi thở...có gì đâu?. Con xem này...

Lão Ngạn nhào xuống nước bơi làm mẫu. Bơi được vài chục thước lão quay lại, thở hổn hển như vừa đánh vật, môi thâm xì. Cường nhìn cha, sợ hãi.

- Bây giờ con cứ làm như thế cho ba... Nào, bắt đầu.

Một tay lão nâng bụng con, tay kia cầm tay thằng bé quạt nước. Trong tay cha, đứa con trai cử động như một hình nhân, như thằng nộm đuổi chim trên ruộng lúa chín. Lúc ấy, Cường không nghe cha anh nói gì, không nhớ gì, chỉ cảm giác đau buốt hai bên màng tang khiến đầu óc tê dại. Làn nước mênh mông, dập dềnh như cái lưỡi của loài dã thú thời mông muội, nó sẵn sàng nuốt chửng cậu trong cái họng khổng lồ. Nỗi sợ hãi khiến cậu bé mờ mắt. Cậu không nghe tiếng người cha hạ lệnh bên tai:

- Chú ý, ba buông tay ra đấy nhé... Hai ba...

Ngay khi lão Ngạn rút bàn tay khỏi bụng đứa con trai, nó đã chìm nghỉm. Nó uống no nước, quẫy đạp một cách tuyệt vọng xuống lớp bùn nhão, cố dò tìm lối lội vào bờ sông. Lão Ngạn kéo con lên, mắt long sòng sọc:

- Sao mày ngu thế hả?... Tao đã tập bao nhiêu lần rồi?...

Cường khóc. Nước mắt chảy lẫn với nước nhỏ từ trên tóc xuống.

Tiếng la hò chế giễu của lũ trẻ làm nó nhục nhã thêm:

- Ông Ngạn ơi, bắt cho nó con chuồn chuồn... Ông có thuê, mai cháu bán cho con chuồn chuồn ngô cỡ bự?...

- Cường lai gái ơi, cho chuồn chuồn cắn rốn đi rồi hãy tập bơi.

- Lêu lêu lêu, khóc nhè chè thiu... Chịu khó gọi tao bằng cậu mai tao tập bơi cho...

Chúng cười ré lên, la hét ồn ĩ. Rồi dăm đứa té nước ràn rạt về phía cậu bé. Lão Ngạn gầm lên:

- Cút ngay, có muốn tao bảo bố mẹ chúng bay không hả?.

Mặt lão tái, mồi thâm xì. Một nỗi hổ thẹn không thể che đậy khiến chân tay lão run bắn lên. Xách tay Cường lôi lên bờ, lão Ngạn nghiến răng bảo:

- Hoặc mày chết, hoặc mày phải biết bơi, tao không thể đẻ ra một thằng hèn như vậy.

Buổi tối Cường sốt. Cậu bé phải nghỉ học liền một tuần lễ. Nhưng ngay khi Cường khỏi bệnh, tới trường cha cậu đã đưa cậu ra sông. Lần này, lão đưa con trai đi tập bơi vào buổi sớm, lúc lũ trẻ trong thị trấn đi học hoặc đi bán rong, quay bột hoặc quai búa phụ trong các lò rèn. Ông chủ hiệu tạp hóa Mỹ Dung đóng cửa hàng mười hôm liền. Thời gian đó, nhất quyết tập cho đứa con trai biết bơi. Ông dìm con xuống nước khi dỗ dành nó chán chê mà không được. Ông tát thằng bé, lấy roi quất hai mông nó đỏ nhừ những lằn ngang lằn dọc, ông sỉ nhục, ông van vỉ đủ trò. Cường đã năn nỉ, đã ương bướng từ chối, đã gào khóc, uống no nước, sặc sụa, quẫy lộn... Cuối cùng cậu bé học được cách ngoi lên mặt nước, thoát khỏi cơn chết ngạt... Nó biết bơi. Nhưng dòng sông với cậu là ám ảnh ghê rợn, là mối thù không phân xẻ...

Một tiếng nói đột ngột vang bên tai chàng trai:

- Cậu ngủ à?...

Cường ngồi nhỏm dậy:

- Không. Em vừa ngả lưng cho đỡ mỏi.

Bá ngồi xuống giường, tiếp tục rít điếu thuốc đang cháy dở:

- Ông cụ về rồi. Tôi nói rằng cậu được biệt phái sang tàu khác trong ba tháng.

Cường nhìn Bá:

- Ba em có tin không?

Bá gật đầu:

- Tin. Còn những niềm tin cao hơn thế.

Anh nhíu mày, rít nốt hơi thuốc cuối cùng. Cường buông tiếng thở dài. Bá hỏi:

- Chẳng lẽ cậu đã vun đắp cho ông già những giấc mộng ấy?

- Không. Em biết đó là chuyện hão huyền.

- Tự ông cụ đẻ ra chúng?

- Vâng.

- Tại sao?... ít nhất cũng phải có một căn đế?...

- Căn đế nào, chính em cũng không biết... Ba em là người đàn ông thất bại trong cuộc sống. Ông chỉ có một niềm kiêu hãnh, đó là quá khứ vẻ vang của gia đình. Con một thủy sư đô đốc lừng danh, giàu sang và được trọng nể khắp xứ. Thế thôi...

- Bây giờ, ông cụ tin chắc rằng cậu sẽ tiếp tục khả năng đem lại vinh quang cho gia tộc?

- Vâng. Tin chắc. Tin đến mức em không dám cho cụ biết sự thật

- Như thế, lại là cách tự sát hiệu nghiệm nhất.

- Nhưng giá có nói rõ sự thực, ba em cũng chẳng chịu nghe. Lần nào em về phép, cụ cũng thấp thỏm mừng rỡ, hy vọng rằng em đã được cất nhắc, được bổ nhiệm một chức trách nào đó quan trọng trên tàu. Lần nào gặp em, cụ cũng nhìn em với cặp mắt chứa chan hy vọng. Cụ thêu dệt nên những hy vọng ấy, không cho ai can thiệp, không cho ai phân giải, bất chấp mọi điều kiện có thực trong đời... Như người đi trong đám mù ông cụ lạc mãi. Còn em, em nhìn thấy mà đành bó tay.

Bá chăm chú nghe. Đoạn anh rút điếu thuốc khác, châm lửa hút. Hai người ngồi im lặng một lúc lâu, nghe tiếng bọt sóng vỡ quanh thân tàu. Rồi, Bá hỏi:

- Tại sao cậu lại chấp thuận sự lựa chọn ấy?... Vào phút đầu tiên, nhưng lại là quyết định cho cuộc đời?

- Em là con. Em phải tuân thủ ý muốn của ba em.

- Tuân thủ vô điều kiện?

- Vâng. Hồi ấy, em đã nộp đơn thi vào trường đại học Lâm nghiệp. Em thích làm vườn, thích sống như chú Hai, ông già láng giềng gần gũi. Một buổi trưa, từ trường trở về, em thấy ông cụ ngồi bó gối uống rượu trên giường, mặt tái xanh. “Ngồi xuống trước mặt tao, có chuyện.” Ông cụ bảo em với giọng cục cằn khiến em lạnh sống lưng. Em kéo ghế ngồi. Ba em nhìn em bằng đôi mắt đục ngầu của người say: “Mày nộp đơn vào trường Lâm nghiệp?” Em đáp: “Thưa ba, vâng”. Ông cụ bảo: “Mày định trở thành thằng làm vườn?” Em đáp: “Vâng. Con muốn...” Tới đó, ông cụ hét lên, tay chân run lật bật: “Khốn nạn... Thật khốn nạn, mơ ước trở thành đứa làm vườn... Sao mà hèn mọn thế... Mày là đứa con trai độc nhất của tao. Tao đã nuôi mày từ thuở lọt lòng. Tao đã chờ đợi hai mươi năm... Tao đã hy vọng... Giá như tao là kẻ thất phu mù chữ. Giá như tao là con cháu của một gia đình bần tiện, suốt tháng năm cắm mặt xuống bùn, móc hạt thóc ăn... Nhưng ông nội mày lại là quan thủy sư đô đốc, lừng danh khắp xứ. Các hải cảng từ Âu qua Mỹ, các thành phố lớn Viễn Đông, chẳng nơi nào ông cụ chẳng đặt chân lên...” Rồi ba em ôm ngực ho. Trước, ông cụ bị lao cắt mất một bên phổi. Từ dạo ấy, cứ mỗi lần xúc động, ông cụ lại ho từng cơn và nghẹt thở. Người ông cụ rũ xuống như tàu lá héo. Em hoảng hốt van xin cụ. Ba em bảo: “Con ơi, bất cứ thằng con trai đần độn nào cũng có thể trở thành gã làm vườn. Nhưng ba nuôi con ăn học bấy nay không phải để con làm nông phu hay điền chủ. Làm trai phải nuôi chí lớn. Con hãy noi theo nghiệp của ông nội, con sẽ trở thành thủy sư đô đốc, đem lại hiển vinh cho dòng họ Phạm chúng ta. Đời ba đã tàn tạ, mỏi mòn trong phố xép. Ba mong ngày nào đó, khi con hiển đạt, ta sẽ trở về thành phố xây lại ngôi nhà nguy nga của ông nội ngày xưa... Hãy nghe ba, ba xin con...” Rồi ba em khóc... Anh tính xem, làm sao em khước từ được lời kêu gọi ấy?... Em đã rút đơn khỏi trường đại học lâm nghiệp, xin thi vào trung cấp hàng hải. Ở trường, em là một học sinh trên trung bình, nhưng đặc biệt kém trong các môn thực hành. Nhờ sự đùm bọc dắt díu của mọi người, em vẫn có tấm bằng tốt nghiệp và trở về tàu sau thời gian mãn khóa.

Bá gật đầu:

- Ván cờ định mệnh của cậu nằm trong tay người khác. Dẫu rằng người đó là cha đẻ của cậu. Rồi đây, cậu sẽ toan tính ra sao? Bởi vì, người ta chỉ có một cuộc đời. Không ai được may mắn ban thêm một cuộc đời dự phòng khác.

Vừa lúc, tàu trưởng vào, gọi Bá đi bàn công việc. Ông từ công ty về, đang đầy ắp kế hoạch về các chuyến đi sắp tới. Ông đưa cho trưởng máy Bá hai bao thuốc nặng của Anh và cho Cường một nắm kẹo cao su. Cường ít hút. Tàu trưởng bảo:

- Để mà nhai cho đỡ buồn khi đọc sách.

Hai người đi khỏi, chỉ còn chàng thủy thủ ở lại buồng. Anh đổ xô nước bẩn, rửa tay rồi lấy cây đàn ghi-ta bên phòng ca sĩ Tuấn hói về gảy. Những nốt nhạc rời rạc không làm Cường đoạn tuyệt được dòng suy tư đang ám ảnh. Anh đập một hợp âm giọng Mi thứ rồi chán nản ném cây đàn xuống giường:

- Tại sao?...

Con người, đôi khi buông theo dòng đời như dám bèo bập bềnh trên mặt nước. Anh đã chấp thuận đời sống, đã cam chịu những thua thiệt, đã nhấm nháp nhiều đắng cay, buồn tẻ và đôi chút niềm vui mà số phận keo kiệt bố thí.

- Tại sao?...

Câu hỏi vang trong cõi u tối. Anh đã đuổi theo giấc mơ của người cha một cách vô vọng. Giấc mơ huy hoàng ông ký thác cho anh còn ở tít mù khơi. Anh là một thủy thủ hạng bét. Trên tàu, chẳng ai cần tới anh. Người ta dung nạp anh theo thói quen, một cơ số tổ chức, một sự đã rồi... Phía sau tất cả những lý do ấy là lòng thương hại...

Chương 6

Quãng này bờ biển vắng, khách du lịch và đám người tắm biển không xuống tới đây. Bãi cát vàng xỉn, nhiều sỏi không trắng và mịn như quãng trong thành phố. Gai trinh nữ bò từng đám, tới gần mép sóng. Những ngôi nhà nện đất thó nung lẫn đá hộc của dân chài tụ thành từng khóm, các hàng rào nứa bao vây một cách cẩu thả, phía trong là những mạn ván thủng kê nghiêng nghiêng làm bàn đổ đường. Ở đây ngoài nghề chài lưới người ta còn nấu đường mía và mật. Lúc này, các lò đường tạm nghỉ nên đỡ ruồi. Chỉ có nhặng vo ve không mệt trên những vại hoặc chum đựng mắm cá.

Giữa những khóm nhà dân chài, mọc lên vài quán ăn lụp xụp. Thường chúng thưng bằng gỗ, lợp lá. Mùa đông, chủ quán treo thêm những mảnh ni-lông hoặc tôn cũ rỉ. Quán ăn nhưng có cả nước trà và kẹo bánh. Cả thông phong đèn, bấc đèn, xà phòng, dấm chua nước mắm hoặc xì dầu... Tóm lại một thứ cửa hàng tạp-pí-lù theo tiếng gọi của người Tàu, để phục vụ đám thanh niên chưa vợ con trong các xóm chài, và những cặp tình nhân muốn tìm nơi vắng vẻ. Bích đã hẹn Trọng chờ cô trong một cái quán loại như thế, có cái tên mĩ miều: Lan Hương. Một chiếc mẹt cũ treo toòng teeng trên cây cọc tre, kẻ dòng chữ vôi ngoằn ngoèo:

Lan Hương,

Có đồ ăn và giải khát,

Hàng tiêu dùng.

Trước quán, một chậu cây xương rồng không có hoa. Một con chó mực gày nhom, mắt toét nằm thiu thiu ngủ ngay dưới chậu cảnh. Chủ quán, một người đàn bà lép dẹp, có đôi mắt sắc như dao ngồi sau tủ kính bày thuốc lá và bánh kẹo:

- Anh cần gì ạ?

Bà ta hỏi Trọng, vừa lê đôi dép nhựa mòn vẹt tới gần anh. Trọng tìm một chiếc ghế đẩu tựa vào vách quán, sát cửa sổ. Ở đấy, anh nhìn thấy biển.

- Bà bán những gì?

Người đàn bà liếc nhìn Trọng, đáp gọn lỏn:

- Gì cũng có.

Đọc được vẻ nghi ngờ trong mắt anh, bà ta tiếp luôn:

- Đồ nhắm. Rượu các loại: từ rượu quốc lủi tới Mác- ten, Na-pô-lê-ông, Bờ-lách. Bia hộp ngoại. Nếp đen... Anh muốn thứ gì?

Giọng tự tin của chủ quán khiến anh càng hồ nghi. Trọng hỏi:

- Bà lấy hàng ở tận đâu?

- Ở đây.

Bà ta đáp lại, giọng rắn như sành.

Trong túi Trọng có cả một mớ tiền lương, tiền thưởng, tiền mẹ anh vừa gửi bưu điện vào. Anh nói:

- Cho tôi vài hộp bia.

- A-sa-hi chứ?

- Vâng. Bà có đồ nhắm gì?

- Đặc sản: Cua biển luộc, tôm he bóc nõn tẩm gừng rang ngọt. Cả lạp-sường, mực khô. Lạc rang trong tủ kia.

- Bà làm một đĩa tôm he xem sao.

Anh chưa uống bia với món tôm này bao giờ. Quán trông xoàng xĩnh quá. Nhưng người ta bảo anh rằng những quán hàng vẻ nhem nhuốc thường lại có các món ăn ngon. Ngay ở thành phố, những hiệu cao-lâu của người Tàu trong phố cổ, vừa chật hẹp tối tăm vừa bẩn, lại là những cửa hiệu rút tiền túi khách ăn chơi như vơ vỏ sò.

Bà chủ quán đi tới chiếc giường kê sát vách gỗ, cuốn chiếu lên. Ném chiếc chiếu đã cuộn gọn xuống dưới sàn nhà, bà lật tấm ván. Hóa ra đó là chiếc hòm khổng lồ, vừa làm sập ngủ vừa làm kho chứa hàng. Trọng thấy trong đó tất cả những thứ bà chủ đã xướng lên với anh. Bà chủ nhặt lấy ba hộp bia, phủi bụi, xếp lên bàn. Rồi, thận trọng đậy mảnh ván lại, trải chiếu như cũ. Xong xuôi, bà mang bia tới cho anh, cùng với một đĩa lạc rang và chiếc cốc:

- Anh nhấm nháp tạm vài hột lạc, chờ tôi rang tôm. Nhanh thôi...

Bà vào gian bếp phía trong, ngăn cách với gian ngoài bằng tấm mành tre cũ. Trên tấm mành tre, có treo ảnh một cô đào hát, có lẽ là ảnh bóc ra từ cuốn lịch treo tường cũ. Khói ám vào gương mặt mĩ miều. Những vết cứt ruồi lấm chấm đen bám dầy tấm áo lụa hồng sang trọng và ba chuỗi hạt trai quấn quanh cổ cô. Trọng mở bia, uống một ngụm nhỏ. Anh nhấm phải viên lạc mốc, đắng cả lưỡi. Cô đào hát trong tấm ảnh nhìn anh bằng đôi mắt tô vẽ, đắm đuối một cách gượng gạo. Người đàn ông quay nhìn ra mặt biển, nỗi buồn dâng lên. Lát sau, bà chủ quán bưng lên một đĩa tôm rang ngậy mỡ và nước ớt, thơm ngào ngạt. Món nhắm mới lạ cũng không còn quyến rũ được anh.

Anh nhìn giờ lâu làn nước biển vô tình, không xao động, không thay đổi. Ngay những con sóng uốn lượn ven bờ cát cũng nhàm chán. Bà chủ quán lê dép lẹp kẹp phía sau:

- Anh thấy món tôm ngon chứ?

- Vâng.

Trọng đáp, hững hờ.

Bà ta hỏi, mắt nháy một cách tinh quái:

- Chắc anh chờ chị ấy, đúng không?

- Vâng.

Trọng đáp lần thứ hai, bỗng dưng khó chịu với bà ta. Phải, chẳng gì che dấu được cặp mắt sắc như dao kia. Loại quán này chỉ dành riêng cho những cặp tình nhân vụng trộm, những kẻ không dám công nhiên sống cùng nhau giữa thanh thiên bạch nhật, trước mắt người đời... Bích đã hẹn anh ở đây. Phải chăng nơi cô đã từng quen thuộc? Cái xó hẻo lánh không ai ngờ tới được trong thành phố. Một thoáng ngờ vực khiến tim đau nhói. Trọng hớp một ngụm bia lớn, vị đắng đọng lại nơi cuống họng. Anh vô tình dằn hộp bia quá mạnh, khiến chiếc cốc thủy tinh đặt cạnh đó lăn xuống vỡ tan.

Bà chủ quán cười, tươi roi rói.

- Không sao đâu. Thế là điềm lành. Người ta bảo rằng ở bên Tây tiệc càng vui họ càng đập vỡ nhiều các chén...

Bà cúi xuống, lượm những mảnh thủy tinh vỡ bỏ vào tấm tôn hốt rác, rồi đem ra phía sau. Khi bà ta đi, Trọng thấy lưng bà thẳng đứng lên như cột sống của bà không cấu tạo bằng các đốt xương mà bằng cây thép cứng. Ném các mảnh thủy tinh vào sọt rác, bà quay vào, kéo ghế ngồi trước mặt Trọng:

- Nếu anh không phiền lòng, tôi sẽ tiếp anh một lúc. Bờ biển này vắng lắm, ngày chỉ vài lượt khách tới thăm. Nhưng đã tới quán, chí ít cũng phải ngồi vài ba giờ đồng hồ...

Tới đó, bà móc trong túi áo cánh một nắm hạt bí, bắt đầu cắn. Vẻ tự nhiên của bà ta khiến Trọng không còn bực. Vả chăng nhìn mãi làn nước bất biến ngoài kia cũng mỏi mắt. Anh chọn vài hạt lạc chưa xám vỏ, nhấm nháp:

- Vùng này, ngoài quán Lan Hương tôi còn thấy năm sáu quán khác. Kiếm đâu đủ khách mà người ta mở nhiều như vậy?

- Đủ chứ. Anh tưởng vậy thôi. Chúng tôi chờ đón khách đêm. Đám dân buôn hàng chuyến từ thành phố ra hoặc từ nơi khác đến. Đám thủy thủ dưới cảng lên, cả đám con gái vô nghề nghiệp.

- Họ tới đây làm gì?

- Ngồi cắn hạt dưa, hạt bí. May mắn thì vớ được món tình nhân nào đấy. Không may thì qua đêm kiếm ít hào độ nhật.

- Thật xấu xa. Sao họ không chịu lao động?...

- Chẳng biết. Cũng có thể vì lười. Nhưng đa phần chúng là con nhà tử tế...Người tử tế cũng sa ngã được chứ anh?

- Tôi không nghĩ như vậy.

- Vâng... Nhưng nếu anh cũng rơi vào tình cảnh như chúng nó. Muốn đi buôn không có vốn, cũng chẳng có nghề. Muốn học cao lên không được tuyển chọn. Muốn kiếm chân thư ký hoặc văn thư trong cơ quan, xí nghiệp lại không có ai bảo đảm hoặc không có tiền đút lót. Ở thành phố này thứ con gái đó thừa hàng đống. Đứa nào đủ sức mạnh, đủ can đảm thì xin ở mãi đơn vị thanh niên xung phong hoặc công trường. Đứa nào ốm yếu, không chịu được khổ thì ra đường, vào quán.

Người đàn bà nói với giọng đều đều, bình thản, không nhìn anh. Chị ta ngó ra ngoài ô cửa. Gió biển bắt đầu thổi dữ, đập phần phật vào mái lá. Tấm mẹt trên cây cọc trước cửa quán vật vã. Con chó mực nghe gió lồng, đứng dậy sủa vu vơ vài tiếng. Sau đó, nó lại nằm xuống, gếch đầu lên chân lim dim cặp mắt toét. Bà chủ quán, sau hồi im lặng, buông tiếng thở dài. Trọng hỏi:

- Nhà chính của bà ở gần đây không?

- Có chỗ này thôi,- Vừa là quán bán hàng, vừa là nơi ăn ngủ.

- Ông nhà và các cháu cũng ở cả đây?

Trọng đưa mắt kín đáo liếc gian hàng chật hẹp. Duy nhất một nơi có thể nằm ngủ, là chiếc hòm khổng lồ chứa hàng trên ván trải chiếu hoa. Người đàn bà vẫn ngó ra ngoài biển, đáp:

- Chết cả rồi.

- Sao cơ?

- Đắm tầu.

- Họ đi đánh cá?

- Không. Vượt biển.

- Di tản?

- Vâng.

Trọng sửng sốt. Trước đây, anh hình dung những người vượt biển di tản ở phía Nam thường là những phần tử có nợ máu, hoặc dính líu sâu sắc với chính quyền cũ, hoặc lớp tư sản quen ăn trên ngồi trốc, khó hòa nhập vào cuộc sống mới. Ở miền Bắc, anh hình dung những người đó là loại đầu trộm đuôi cướp, bị truy nã, hay loại cán bộ cao cấp thoái hóa sau khi ăn cắp hoặc ăn hối lộ một khoản tiền khổng lồ, không thể sống yên ổn với luật pháp. Anh thầm kín đưa mắt liếc nhìn người đàn bà. Mặc dù đôi mắt sắc như dao cau, chị ta vẫn chỉ là một phụ nữ bình thường như nhiều phụ nữ anh đã gặp. Gương mặt, đôi vai gầy, hai bàn tay nổi những đường gân nhọc nhằn, dấu vết không dấu được của một thời gian khổ. Mái tóc chải gọn, búi thành lọn phía sau. Những vết tàn nhang lấm chấm trên hai gò má.

Sau một lát e dè, Trọng hỏi:

- Tại sao ông nhà và các cháu đi mà bà ở lại?.

- Không...

Người đàn bà lắc đầu:

- Lúc đó tôi không ở nhà. Nếu tôi ở nhà, mọi sự sẽ khác.

- Vì sao?

- Vì tất cả cha con họ, không ai muốn trái ý tôi. Mà tôi chẳng bao giờ bỏ đất này đi cả. Tôi có bà mẹ già dưới quê, cách thành phố ngót nghét năm chục cây số.

- Vậy lúc ông nhà và các cháu ra đi, bà còn ở đâu?

- Tôi đang làm ăn xa, tận biên giới Việt-Lào. Niêu cơm của cả nhà trông cậy vào cái tay nải hàng của tôi. Chúng tôi có năm người, toàn những kẻ long đong lận đận kết nghĩa chị em cùng hội buôn bán. Dạo ấy, chúng tôi đang chạy qua biên giới phía Tây. Hàng từ Lào về lãi nhất là đồng hồ đeo tay, quần áo bò, mì chính, áo phông... Hàng đem đi có nhang thơm, giấy bản Tầu, đồ hàng mã cao cấp, các loại vòng trang sức thật và giả. Thường, chúng tôi chỉ đi ô tô tới một thị trấn cách biên giới hai chục cây. Ở đó, ngủ trọ qua đêm. Sớm sau, thuê người địa phương dẫn tắt qua rừng, tránh đồn biên phòng và cửa khẩu. Không phải nộp thuế cửa khẩu, một chuyến hàng đủ nuôi chồng nuôi con vài tháng. Phải cúng cho mấy cha đẻ ở đấy, coi như đi công không. Vì thế, dù trèo đèo lội suối, vất vả mấy chúng tôi cũng tìm đường tắt qua rừng...

Chuyến hàng ấy, thằng bé dẫn đường bị ốm, phải nhờ người mới. Đó là một đứa con gái tuổi ngoài hai mươi, xinh xắn nhưng hơi đần. Đã hơn năm nó không qua rừng nên quên những lối đi hiểm. Nó chỉ thuộc đường chính, khá phảng phiu nhưng dễ lộ. Chúng tôi đụng toán bộ đội tuần tra, phải chạy tháo thân. Năm chị em mỗi người mỗi ngả. Nải hàng của tôi rất nặng nên tôi chạy chậm. Trong giây lát tôi chỉ còn lại một mình. Tiếng của đám người tuần tra đã nghe sát rạt ngay sau lưng. Hoảng quá, tôi vượt liều qua vực. Rồi tôi lăn xuống đó, mê man. Chị em cùng hội buôn tưởng tôi đã chết, về báo tin với gia đình.

- Tại sao ông nhà và các cháu không đi tìm bà?

- Họa có trời mới tìm nổi đường đi của loại dân buôn hàng chuyến. Đến chính chúng tôi cũng không đoán được trước đường đi từng đoạn chuyến hàng của mình. Nay lối này, mai lối khác, tùy theo người dẫn đường, tùy theo sự thay đổi của các toán lính tuần tra và cửa khẩu...

Đường chúng tôi đã đặt chân tới là thứ đường hiểm, cái chết cái sống kề nhau như hai chị em sinh đôi. Cái nghề của chúng tôi phiêu lưu lắm... Đàn bà con gái bình thường chẳng ai dám dấn thân vào.

Trọng mỉm cười:

- Nhưng trông bên ngoài, bà cũng chỉ là phụ nữ chân yếu tay mềm thôi.

Người đàn bà cũng mỉm cười đáp lại:

- Vâng. Nhưng tôi đã tới bước đường cùng. Đã tới bước cùng, thì con thỏ cũng trở thành sói độc... Tôi đã nói với anh rồi, niêu cơm của cả sáu cha con nó trông vào tay tôi. Một là nuôi nổi chồng con, hai là cùng chết. Tôi nghĩ thế. Nghĩ thế, khắc đủ can đảm làm mọi việc, trừ việc vô luân bại lý, ích kỷ hại nhân. Chuyến đó, cha con nó tưởng tôi chết, nên đắp mộ giả trong vườn, làm ma chín ngày liền. Sau đó, họ đi.

- Còn bà?

- Tôi mê man dưới vực hai ngày đêm. Ngày thứ ba, có người trong bản đi săn, bắt gặp. Ông ta hú gọi đứa con trai và người bạn phường săn tới. Họ khiêng cả tôi lẫn nải hàng về nhà, đổ thuốc nuôi dưỡng. Hơn tháng sau tôi mới lành bệnh, nhưng từ đó sống lưng bị tật, cúi xuống đau nhói như kim đâm, còn đi đứng thì thẳng đuỗn như bị cột chặt vào cây gậy. Nhưng tôi không oán trách gì trời đất, sống được cũng là may. Chuyến hàng ấy tôi được mẻ lãi to. Tôi biếu người thợ săn một nửa, một nửa đem về, ước tính mở một cửa hàng bán đồ khô và sửa lại mái nhà. Về đến nơi, nhà đã có người khác ở, chồng con mất tăm mất tích. Người chủ mới bảo tôi: “Ông ấy khóc mãi, khi nhận tiền bán nhà. Rồi sáng hôm sau, cha con kéo nhau đi sớm, nói là về quê. Tôi ngờ ông ấy về quê thật. Được mười hôm, công an thành phố thông báo là hai chuyến vượt biển, mỗi thuyền trên bốn chục người đã gặp bão đắm. Xác những thuyền nhân dạt vào các hòn đảo xung quanh... Đời người, sinh ly, tử biệt là lẽ thường. Nhưng cái tang của bà lớn quá, ai cũng ngậm ngùi thay. Giờ, bà có muốn lấy lại ngôi nhà, tôi xin chấp thuận...”

Bà ta ngừng lại vài giây, rồi tiếp:

- Ông ta tốt quá, phải không anh?... Nhưng tôi làm sao sống được trong căn nhà ấy... Tôi cảm tạ từ tâm của người đàn ông. Ông ta cũng góa vợ, chưa có con. Ra đây, mở quán bán hàng.

Dứt lời, người đàn bà đứng lên, thắp que nhang mới cắm vào bình hương trên bàn thờ. Lúc ấy, Trọng mới để ý đến cái bàn thờ gỗ đặt trên nóc chiếc tủ nhỏ, phía sau tấm mành.

Trên bàn thờ, đặt tấm ảnh phóng to của cả gia đình chủ nhân: Hai vợ chồng, năm đứa con trai vây quanh, tất cả các gương mặt đều tươi tắn, tràn trề tình tương thân tương ái... Chúng ta yêu nhau, chúng ta sống vì nhau, chúng ta đã có nhau trên cõi đời - điều đó đã là đủ, điều đó cao hơn mọi thứ. Dường như những con người ấy nói với anh như thế. Người đàn bà quay ra, mở tù lấy một bao thuốc, một phong bánh đặt lên bàn thờ, cạnh đĩa cam đã héo vàng. Trọng hỏi:

- Bà không kiêng ư?... Trong tấm ảnh đó còn có cả bà.

Người đàn bà lắc đầu:

- Cần gì mà phải kiêng?

Câu nói đó nghĩa như một lời thề độc: Cuộc sống hiện tại được đánh giá ngang bằng với cái chết. Trọng bất giác rùng mình, nhìn bà ta, gương mặt bà ta có gì khác biệt đâu... Một ý tưởng ập tới, anh không kịp đắn do đã buột miệng nói ngay:

- Chắc ông nhà phải yêu bà ghê gớm lắm?

Bà ta quay lại, nhìn anh có phần ngạc nhiên. Có lẽ, ít ai dám buông một câu hỏi suồng sã như vậy, nhất là khi mới gặp nhau. Trọng nóng hai tai, thầm nghĩ: Mình thật bậy, ăn với nói... Nhưng vẻ chân thành trên gương mặt anh đã thuyết phục người đàn bà. Bà nhìn Trọng chăm chú, ánh mắt trở nên ấm áp, tin cậy hơn:

- Vâng. Ông ấy yêu tôi lắm. Vì thế, tôi sẵn sàng chịu đựng mọi thứ.

Rồi sau khi đắn đo vài giây, bà thong thả nói tiếp:

- Anh đừng nghĩ rằng từ lúc cha sinh mẹ đẻ tôi đã là bà chủ quán hay người đi buôn chuyến như bây giờ. Tuổi trẻ tôi đã từng cố một thời thơ mộng sôi nổi. Mười sáu tuổi, đang học dở lớp mười, tôi bỏ vào văn công. Trước ngày vào đoàn, tôi về quê nói với bố mẹ rằng tình nguyện nhập ngũ. Bố mẹ tôi làm ruộng, gia đình căn cơ ngăn nắp, chỉ thích con gái con trai vào công nhân nhà nước hoặc vào bộ đội. Các cụ ghét nhất cái nghề xướng ca vô loài. Tuy thế, nghe tôi bỏ học bố tôi vẫn nghiêm giọng mắng:

“Đẻ mày bằng cái chai, cơm nhai sữa bú tới bây giờ mày dám tự quyền định đoạt, không hỏi qua chúng tao một câu, phải không?...

Tôi xoa dịu ông cụ một cách dễ dàng. Bố tôi quý tôi nhất trong ba đứa con, có lẽ vì hợp tính. Tôi chơi với đám bạn chăn trâu thủa nhỏ vài hôm, thăm thú chú bác họ hàng, rồi bố mẹ tôi thịt vài cặp gà thiến làm bữa cơm liên hoan cho tôi lên đường. Đoàn văn công của chúng tôi là Đoàn văn công quân khu. Tính về mặt công dân, chúng tôi được coi như người lính thật sự. Dạo đó, các đoàn chỉ có một số diễn viên được đào tạo chu đáo tại các trường nghệ thuật, họ làm nòng cốt trong các chương trình biểu diễn và cũng là người kèm nghề cho loại diễn viên tuyển ngang như tôi. Thời kỳ tập sự mười tám tháng. Nhưng tôi có năng khiếu, nên được tham gia biểu diễn sớm hơn lứa bạn cùng nhập đoàn.

Tôi là diễn viên múa. Chúng tôi biểu diễn múa Rồng- chiêng. Múa Ca-tu, Múa Chàm rông, Múa sạp, Múa nón...

Sau, người ta còn lấy nhạc những bài hát như “Tiếng đàn Ta Lư” hoặc “Cô gái Pa-cô” để soạn thêm các điệu múa khác. Ngoài các tiết mục múa, tôi tham gia đồng ca, tốp ca, có lúc đóng cả vai người giới thiệu tiết mục. Chồng tôi lúc ấy là nhạc công. Anh ấy học vĩ cầm tại trường nhạc trung ương, vừa tốt nghiệp trung cấp xong đã mặc áo lính về đoàn. Theo nội quy, trong thời gian phục vụ quân đội chúng tôi không được quyền yêu đương. Anh ấy, ba năm. Tôi, tính thêm mười tám tháng thực tập. Các buổi họp hành, trưởng đoàn đều nhắc đi nhắc lại nội quy và các hình thức kỷ luật đi kèm với những trường hợp phạm quy nặng nhẹ. Lúc ấy, yêu là trọng tội vì nó ảnh hưởng tới khả năng lao động nghệ thuật. Nhưng trong đám chúng tôi, chẳng mấy ai tránh được trọng tội ấy. Cách này hay cách khác, giấu diếm, thầm lén, vụng trộm, tự khắc chế...thì tình yêu cũng cứ đến. Tuổi trẻ với tình yêu như hai mảnh của cặp cá thờn bơn, làm sao tách được?... Nhiều người yêu nhau, trong đó có chúng tôi. Nhưng họ may mắn hơn chúng tôi vì họ không lọt vào mắt lưới của trưởng đoàn. Tôi chưa nói với anh về trưởng đoàn văn công quân khu ấy, ông ta mang hàm đại tá, vốn xuất thân là thợ in li-lô của phòng chính trị quân đoàn thời kháng Pháp, sau này theo thâm niên mà leo lên. Ông ta có bà vợ răng đen, váy ộp ở Hà Nam Ninh, vùng chiêm trũng. Cả đoàn, chỉ lái xe là được biết mặt bà ta. Thủ trưởng giấu vợ như mèo giấu phân, cả hai đứa con gái xấu như dạ xoa ông ta cũng không cho lên chơi đoàn... Không may cho chúng tôi, con người khe khắt ấy, ông đại tá mở miệng là phổ biến các loại nội quy và kỷ luật ấy lại yêu tôi. Ông ta kín lắm, nhưng cũng chẳng giấu được. Có lần, đoàn tập trung chỉnh quân tập luyện chương trình mới. Chúng tôi ở tại ký túc xá của một trường nghệ thuật quân đội. Doanh trại toàn nhà ngói một tầng, chia từng phòng nhỏ. Trưởng đoàn gọi tôi lên phòng riêng. Sau một hồi hỏi chuyện cha mẹ, anh em, giống như làm thủ tục khai lý lịch, ông ấy vội cúi xuống, nhét vào tay tôi một gói táo Tầu: "Em đem về...về bồi dưỡng...”

Ông ta thì thào, hơi thở nóng như lửa, mùi thuốc lào nồng nặc. Tôi chỉ dám đáp lí nhí: "Cảm ơn chú.”

Rồi chạy một mạch về phòng. Linh tính báo cho tôi biết sự chẳng lành sắp tới. Nhưng phần vì xấu hổ, phần vì sợ, tôi không kể lại điều đó với người yêu. Hôm sau, thấy tôi xanh xao, anh hỏi: "Có chuyện gì thế em?...”. Tôi đáp liều: “Em nhớ mẹ; suốt đêm không ngủ được...” Ngay buổi trưa hôm ấy, ông trưởng đoàn đi qua phòng chúng tôi, nói chõ vào: Đầu giờ chiều lên chú gặp." Lúc ấy tụi con gái chúng tôi đang ăn cơm. Mấy đứa lè lưỡi bảo tôi: "Chết cha rồi. Có chuyện gì thế?...” Tôi cúi mặt và cơm, đáp: "Không biết” Tim tôi thót lại vì sợ. Buổi chiều, cả đoàn lên phòng tập chương trình mới. Phòng tập ở cách gian buồng của ông trưởng đoàn ngót nửa cây số. Nói dại, nếu xảy ra sự gì, không biết tôi sẽ chống đỡ làm sao?... Trưa, lũ bạn ngủ ngon lành. Tôi buông màn nằm, nước mắt chảy ướt hai thái dương. Kẻng đầu giờ chiều, mọi người lên sàn tập, một mình tôi đi xuống phòng thủ trưởng. Ông ấy đã chờ tôi trong đó. Ông mặc dạ phục, đi giày sĩ quan bóng, đầu chải mượt, râu cạo nhẵn, còn đôi vết sứt lấm tấm máu đọng dưới cằm. Đến cả sợi râu mọc ngược trên cổ, chỗ gần yết hầu, ngày thường ông ấy để dài bằng que diêm hôm ấy cũng bị cạo nốt. Ông ấy còn bôi dầu thơm vào tóc, thứ dầu sả mùi nóng sực cả căn buồng... Không hiểu vì đâu, vừa nhìn thấy bộ dạng ông ấy như thế, hai đầu gối tôi đã khuỵu xuống. Tôi ngã quỳ ngay trước cửa buồng. Ông ấy chạy tới đỡ tôi lên, miệng rối rít: “Cháu làm sao?... Em, kìa làm sao thế?...” Tôi không nói được lời nào vì quá sợ. Nước mắt cứ thế trào ra. Ông ấy vực tôi ngồi lên ghế, thì thào: “Đừng sợ, đừng sợ... Lặng yên nghe anh nói...đừng...”. Hơi thở ông ấy thật kinh tởm, vừa nóng vừa hôi phả vào mặt tôi. Hai tay ông ấy vuốt tóc, vuốt má rồi lần xuống bả vai tôi. Lúc ấy tôi ngồi cứng như khúc gỗ, không biết gì. Nhưng khi cái cằm nham nháp của ông ấy áp sát vào mặt tôi, thì tôi chợt tỉnh. Tôi vùng đứng lên, xô ông ấy ngã ngửa xuống sàn rồi chạy ra cửa. Cứ thế, tôi cắm đầu chạy một mạch về phòng, vùi đầu vào đống chăn khóc. Khoảng hai giờ đồng hồ sau, tôi sợ mọi người đi tập về biết chuyện nên buông màn kín mít, nằm trùm chăn bên trong. Đám bạn gái trở về hỏi: “Sao vậy?” Tôi đáp: “Sốt”. Chúng cười: “Bị thủ trưởng cạo gáy phải không?.. sốt ăn cơm hay ăn cháo đấy? Tôi đáp: "Không ăn gì. Để cho tôi nằm yên...". Dạo ấy, chúng tôi sợ thủ trưởng lắm. Tương lai, sinh mạng của chúng tôi các ông ấy nắm trong tay. Nhất là thứ diễn viên tập sự như tôi, chưa được biên chế chính thức... Mọi người đi ăn cơm hết cả, tôi mới ngồi dậy lấy khăn ướt lau mặt. Vừa lúc, người yêu đến. Mặt anh ấy tái mét, anh ấy đã biết chuyện. Cậu lính văn thư mang công văn tới cho ông trưởng đoàn vô tình chứng kiến tình cảnh ấy. Cậu ta liền lánh ra một phòng khác, ngồi chờ. Thấy tôi chạy qua một lúc lâu, cậu ta mới dám mang công văn trao cho ông trưởng đoàn. Ông ấy đang ngồi, mặt cúi gằm, cau có. Ông kiếm cớ mắng cho cậu văn thư một trận, tất nhiên là vô lý. Cậu văn thư trở về doanh trại, nghĩ sao không biết lại vòng đến phòng tập, gọi người yêu tôi ra, thông báo... Tôi đã nói với anh rằng hồi ấy, người ta sợ những ai có quyền có chức hơn bây giờ. Chúng tôi là lính trơn. Cha mẹ chúng tôi cũng chỉ là dân thường tiền không, thế lực không. Chẳng có điều kiện nào cho phép chúng tôi tự bảo vệ mình. Chúng tôi ôm nhau khóc. Hai tuần sau, ông trưởng đoàn họp đơn vị, nhắc lại nội quy, kỷ luật như thường lệ. Sau đó, ông ném lên mặt bàn cuốn sổ của người yêu tôi. Đó là cuốn nhật ký. Nó chép lại trung thành tình yêu của anh với tôi, những lần chúng tôi đi chơi cùng nhau, những lời thề hẹn... Không thể nào chối cãi. Bọn trẻ bao giờ cũng ngu dại hơn đám người già, phải không anh?...

Người đàn bà dừng câu chuyện, mỉm cười với Trọng. Anh gật đầu, chợt nhận thấy làn môi nhỏ nhắn của bà ta rất đẹp. Chắc thời con gái, bà phải có một nụ cười mê hồn. Nhưng câu chuyện dang dở cuốn hút anh. Trọng giục:

- Rồi sao cơ?

Người đàn bà kể tiếp:

- Ông ta đã sai một cậu bạn của anh ấy, ăn cắp cuốn nhật ký. Cậu ta là diễn viên tốp ca bị hỏng giọng chuyển sang chuyên kéo phông màn và làm những việc lặt vặt ở hậu dài. Hết buổi kiểm thảo, thủ trưởng bảo tôi: “Đồng chí lên làm việc với tôi...” Làm việc với ông lúc bảy giờ rưỡi tối, lúc mọi người đang diễn thử chương trình mới. Người yêu tôi bị phân công đi lấy dầu ma-dút về chạy máy nổ tại một địa điểm cách doanh trại ba mươi cây số. Tôi ngồi đối diện với ông, sau chiếc bàn rộng. Ông hỏi tôi: “Đồng chí đã nghiêm khắc tự kiểm thảo tội lỗi của mình chưa?.” Tôi đáp: “Thưa có”. Ông lại hỏi: “Đồng chí có nhận thấy hành động của mình ngược lại với lợi ích cách mạng, phản bội lời thề của quân nhân không?” Tôi đáp: “Thưa có.” Ông lại hỏi: “Đồng chí có biết hiện giờ đồng bào miền Nam đang chiến đấu chống đế Mỹ, bao nhiêu chiến sĩ đang đổ máu không?”. Tôi đáp: “Thưa có”. Ông lại hỏi: “Đồng chí có thấy hổ thẹn với đồng bào miền Nam với các chiến sĩ anh dũng diệt Mỹ không?” Tôi đáp: “Thưa có.” Tới đó, ông ngừng lại, hút thuốc lào rồi quay ra nói: “Đồng chí có thể bị tước quân tịch, đuổi về địa phương vì đã không giữ gìn kỷ luật, đã vi phạm nội quy quân đội nhân dân nặng nề... Rõ chưa?...” Tôi im lặng. Điều ấy tôi chưa nghĩ tới. Tay chân tôi bắt đầu run. Tước quân tịch, đuổi về quê?... Ở quê tôi, những người lính đào ngũ, những người bị tước quân tịch đuổi về không có chốn dung thân. Thường họ phải sống lẩn lút trong rừng hoặc lang thang nơi quán chợ. Về làng, đi đâu cũng bị chỉ vào mặt: “Đồ đào ngũ.” Trẻ con kéo từng đàn từng lũ chạy theo như cái đuôi, reo hò: “Ê ê ê...đồ hèn, trốn bộ đội…đồ sợ chết.” Cha mẹ, anh em không dám ra khỏi ngõ. Chốc lát, người làng đi qua lại gióng tiếng lên: “Nhục lắm... Có con như thế thà đâm đầu xuống giếng...” Nếu tôi bị tước quân tịch đuổi về, số phận cũng vậy thôi. Hơn nữa, tôi lại là gái, và án kỷ luật sẽ ghi thêm trọng tội: Mất phẩm cách quân nhân, và biết đâu, sẽ kèm theo hai từ khủng khiếp: Hủ hóa... Bố mẹ, hai anh trai tôi sẽ sống ra sao?... Mắt tôi bỗng dưng hoa lên, sống lưng lạnh toát. Bộ mặt thủ trưởng bỗng to phình ra, nhân lên mãi, như có một trăm cái mặt chồng lên nhau. Sau một hồi im lặng, ông ấy nói: “Đồng chí là một diễn viên nhiều triển vọng, tôi rất tiếc...” Tôi không đáp vì vẫn bị ám ảnh vì cảnh sống nhục nhã đe dọa tương lai. Ông ấy không chờ tôi trả lời, tiếp tục nói: “Tôi có thể giúp cho đồng chí... Nếu đồng chí tỏ ra tiến bộ, cũng có thể xin với cấp trên cho đồng chí đi biểu diễn ở nước ngoài...” Tôi đã nghe những lời nói đó như nghe những hạt cát rơi, thoảng bên tai, chẳng nhớ gì, chẳng hiểu có ý nghĩa gì. Tâm trí tôi vẫn bị tê cứng vì lo sợ. Tôi không để ý nhìn ông ấy. Cái cằm ông trễ xuống, để hở hàm răng ám khói. Chợt ông ấy vươn qua mặt bàn, nắm tay tôi: “Tôi rất quan tâm tới em... Đã từ lâu... Rồi, nhanh như mèo, ông ấy vồ lấy gương mặt tôi, cắn chặt một bên má: ”Em ơi i i..." Không phải vì cảm giác đau đớn khi bị cắn, mà chính vì cái tiếng rên: “Em ơi...” thều thào ấy làm tôi nhảy bật lên. Thật tanh tưởi và dâm đãng. Phút chốc, tôi quên hết sợ hãi, quên hết mọi lo âu. Niềm căm giận làm tôi trở nên can đảm và hung hãn. Tôi dang tay tát ông ta một cái trời giáng, rồi sau đó, chưa đã hờn, tôi bê cả chiếc ghế ngồi ném vào mặt ông ta. Ông ấy tránh kịp, chiếc ghế rơi xuống sàn, dứt đứt tấm ri-đô bằng vải hoa che chiếc giường cá nhân. Tiếng động ầm ĩ làm cho hai người ở gần đó chạy tới. Họ ở cách thủ trưởng đoàn chúng tôi một phòng. Cả hai cùng là cán bộ tổng cục về kiểm tra tình hình hoạt động trường nghệ thuật. Thấy họ tới, ông trưởng đoàn đứng lên, mặt tái mét: “Đồng chí này...đồng chí này...” Sau một hồi lắp bắp ông ấy trỏ vào mặt tôi nói: “Đồng chí này hành hung tôi. Đồng chí ấy vừa bị kiểm thảo ban sáng. Trước tập thể, đã ngoan cố không nhận tội, giờ lại còn hành hung cán bộ đơn vị. Đề nghị gọi cảnh vệ tới đây.”

Lúc ấy, tôi đã gào lên: “Gọi đi, gọi cảnh vệ tới đi...đồ khốn nạn...”

Hai người cán bộ tổng cục đưa mắt nhìn ông ấy, rồi nhìn tôi. Sau, một người nói:

“Đồng chí nữ trở về doanh trại, đừng làm ầm ĩ. Còn đồng chí - ông quay sang bảo trưởng đoàn - Đồng chí cũng nên vào phòng, và giữ trật tự chung...”

Sau này, tôi biết nhờ hai người cán bộ ấy mà chúng tôi không bị tước quân tịch, không bị đưa ra tòa án binh.

Chúng tôi chỉ bị buộc thôi việc, ra khỏi đoàn, lý lịch ghi: “Không hoàn thành nghĩa vụ quân nhân, không chấp hành nội quy kỷ luật nghiêm chỉnh, không có thái độ thành khẩn khi tiếp thu phê bình của tập thể...” Vừa lên ô-tô, chồng tôi đã ném cả hai cái hồ sơ lý lịch ấy xuống vệ đường: “Cho gió cuốn chúng mày đi, đồ chết tiệt...” Anh ấy không đưa tôi về quê anh, cũng không về quê tôi. Chúng tôi lên một tỉnh miền núi, nhờ ông anh trai xin cho vào làm ở xưởng chế biến cần câu và gừng xuất khẩu. Sáu tháng sau, chuẩn bị được xét duyệt biên chế chính thức, phòng tổ chức xưởng nhận được công văn của đơn vị cũ. Lão đại tá dê già chưa nguôi mối thù. Lão truy lùng chúng tôi. Trưởng phòng tổ chức là người nhát nhúa, ông ta quý vợ chồng tôi nhưng không dám bảo lãnh cho những công nhân có quá khứ nguy hiểm như vậy. Lần nữa, chúng tôi từ giã công việc của nhà nước. Lần này, không còn tìm tới nơi nào khác, chúng tôi về quê, sống cuộc sống dân thường. Vốn liếng không có, tôi rang bỏng thuê, xay bột thuê. Chồng tôi làm mũ, cắt tóc, đạp xích lô. Ngày tháng lần hồi, rồi cũng dựng được mái nhà trú náu. Từ ngày có đứa con trai thứ ba, tiền bạc dư dả, tôi theo bè bạn đi buôn. Chồng tôi ở nhà chăm sóc con cái cho tới ngày xảy ra tai nạn mà tôi đã kể với anh.

Người đàn bà ngừng lời, đưa mắt nhìn lên bàn thờ. Que nhang sắp tàn. Bà ta tới châm que tiếp. Đúng là lúc đi, lưng bà cứng lựng như cây gỗ. Lúc cúi, bà phải nhún gối, mặt nhăn lại vì đau. Trọng nhìn người đàn bà bé nhỏ, héo úa một cách chăm chú. Với anh bà ta không còn là người chủ quán bình thường, bà ta là một chiến sĩ tranh đấu cho tình yêu của mình, một người can đảm chấp nhận mọi thua thiệt, mọi đổ vỡ, mọi đau đớn để gìn giữ một giá trị đã chọn lựa... Thật sung sướng cho người đàn ông đã được bà yêu thương. Giờ đây, thi thể ông ta đang rữa nát dưới đáy bùn, nhưng linh hồn ông vẫn quẩn quanh trong lớp khói ngào ngạt kia, biết rằng mình tồn tại, mãi mãi tồn tại giữa một trái tim yêu dấu.

- Gió mạnh quá...

Người đàn bà chợt cất tiếng, mắt nheo lại: Thuyền đi khơi chắc phải quay về...

Trọng im lặng, quay mặt đi. Lòng anh trào lên mối cảm tình với người đàn bà xa lạ đó. Không phải tình yêu lứa đôi, không phải tình yêu mẫu tử, tình huynh đệ... Cũng không phải tình bạn. Tình yêu của con người với con người. Nỗi thương cảm lòng kính trọng, mối khao khát thầm kín được sở hữu một gia tài vô giá.

Anh đứng dậy:

- Xin bà tính tiền.

Người đàn bà ngạc nhiên nhìn Trọng:

- Anh không đợi nữa à?

Trọng đáp:

- Tôi có việc phải đi.

Bà ta nói:

- Hai trăm tư.

Trọng đặt cả năm trăm lên bàn:

- Gửi cả bà.

Người đàn bà cau mày, trả lại số tiền dư:

- Không được. Tôi chỉ lấy đúng số tiền của tôi.

Trọng cảm thấy hai tai anh nóng lên vì xấu hổ. Anh nói:

- Thôi, chào bà.

Bà ta gật đầu, nói nhẹ nhàng:

- Vâng, anh đi cho may mắn. Có dịp lại tới quán chơi.

Anh xách chiếc cặp, bước ra. Con chó mực đưa cặp mắt toét liếc nhìn người khách cao lớn như hộ pháp, vẻ lãnh đạm. Đoạn nó há miệng ngáp. Tấm mẹt treo trên cây cọc gió đánh lắc lư. Trọng đi xuống bãi biển, nơi thủy triều đã nện lớp cát cứng lại như đất rắn, khiến chân anh không còn sục trong cát lún và vỏ sò. Anh đi ngược về phía thành phố. Tới ngả đường rẽ, Trọng dừng lại tìm một chỗ ngồi thuận tiện dưới rặng dương. Từ đây, anh có thể nhìn thấy bất kỳ ai, dù đi xe đạp hay xe thổ mộ trên con đường ngoại vi thành phố. Người đàn ông xem đồng hồ:

- Ba mươi phút nữa, nếu cô ấy không đến thì ta bỏ đi...

❆❆❆

Từ buổi tối cùng Bá bắt gặp cô bé định bán thân bên bờ biển, Cường không dứt được mối băn khoăn. Chàng trai rất muốn, nhưng không dám tìm gặp An. Thứ nhất, vì Bá dặn:

- Cậu biết tại sao tối hôm đó, tôi đã nói với gia đình cô gái rằng chúng ta sẽ không còn trở lại thành phố hay không? Vì những kẻ mang ơn rất sợ phải gặp lại người đã ban ơn cho mình trong điều kiện họ chưa thể trả được món nợ đó, dù không phải tiền bạc mà chỉ là món nợ ân tình. Mặc cảm chịu ơn giống như mặc cảm mắc nợ, làm người ta day dứt, nhất là những người giàu tự trọng... Bây giờ, chúng ta phải lánh mặt họ, chứ không phải họ lánh mặt chúng ta.

Thứ hai, chính anh cũng sợ hãi cuộc gặp mặt ấy, dù nó chỉ được tạo ra trong tưởng tượng, trong ước muốn thầm kín và đơn phương của anh. Gương mặt thơ trẻ, ánh mắt hờn oán lóe lên dưới ánh đèn và đường nét bí ẩn của đôi vai, của cần cổ khuất lấp dưới làn tóc đen thoáng ẩn thoáng hiện trong tâm trí chàng trai, dai dẳng. Có lần, anh thấy cô đi bên anh, trên đồi đan tiêu đỏ rực. Bao nhiêu là gió cuồn cuộn thổi, khiến tóc cô bay tung, như cái bờm ngựa đen nhánh, một cái bờm ngựa tuyệt mỹ khiến vẻ đẹp của cô ngạo ngược. Lần khác, anh bắt gặp cô dưới bóng râm của vườn cây. Cũng khu vườn vừa quen vừa lạ như vườn cây của chú Hai thuở trước. Anh tìm gương mặt đó, nhưng nó lấp sau các vòm lá, sau lối cát nhỏ. Cái chòi gỗ mái lá của chú Hai ngất nghểu trên đầu, anh đã trèo lên cây cầu thang nhìn xuống, nhưng bất chợt cô cất tiếng cười ngay bên vai anh... Những thời khắc sung sướng. Trí tưởng tượng cuồng phong ban phát hạnh phúc cho chàng trai không keo bẩn như những niềm vui có thực trong cuộc sống thường ngày. Cường đắm chìm trong những giấc mơ, cho tới khi tiếng gọi của ai đó quát bên tai:

- Đi chơi mày, ngồi đần mặt ra làm gì thế?... Nếu không chạy xuống buồng máy làm đỡ thằng Hiếu một tay...

- Cường, kéo căng sợi xích ra... Mau lên... Làm ăn như cứt...

- Cường, ra ngoài phố mua cho tao hai lít rượu. Đang vui thì cạn bình xăng...

Anh đã chấp thuận cuộc sống như thế, phẫn uất mà làm gì?... Nhưng chàng trai biết mình lẻ loi. Anh ngồi thừ hàng ngày trên boong tầu, dán mắt vào chân trời, chẳng thấy gì ngoài vệt mây ướt nhòa trên mặt biển. Trong căn buồng nhỏ ngột ngạt mùi dầu máy, anh nghiến ngấu hết cuốn truyện này tới cuốn truyện kia để khi gập sách lại, càng thấy chơ vơ. Cuộc đời những chàng nhạc sĩ trong sách: Nào Giăng Crít-stốp, nào Su-be, nào Bét-tô-ven chẳng mảy may dính líu tới số kiếp thủy thủ tồi. Những thăng trầm của bọn thám tử, tội phạm da màu, sự oán cừu của những kẻ bị tước đoạt gia sản, tội ác của chủ nô...thảy thảy đều xa lạ... Họ chẳng dạy anh làm gì trong cuộc sống buồn tẻ này.

Không kìm giữ được mình, Cường xuống bờ biển, tìm đến xóm chài bữa trước... Hôm ấy tầu đã ăn xong hàng mới, chỉ bốn mươi tám giờ sau là nhổ neo. Các thủy thủ xuống phố chơi lần cuối. Họ đi từ sớm, riêng Cường chần chừ mãi non trưa mới thay quần áo, rời khỏi tầu. Ra khỏi khu vực cảng, Cường cứ men theo lối cát mà đi. Trời sáng trắng nhưng không có nắng. Vì không phải ngày chủ nhật nên bờ biển vắng. Chỉ có một nhóm du khách nằm ngồi trên bãi tắm, quanh họ ném ngổn ngang mấy chiếc phao cao su. Đám trẻ bán kem rong, lạc rang, mía róc vỏ túm tụm lại chơi bài trên ghế đá. Chàng trai rẽ vào một quán bán giải khát, mua gói thuốc. Không hiểu sao, anh thấy cần hút một điếu thuốc để lấy lại thăng bằng.

- Vớ vẩn thật. Chẳng có chuyện gì mà tim mình cứ đập thon thót. Giống như kỳ thi sát hạch các bộ môn trong trường... Đồ hèn... Chàng trai tự mắng mình dữ dội, nhưng không vì thế mà anh can đảm thêm.

Anh vượt qua bãi tắm, giải rừng dương, tới chân mỏm núi đá nhô sát mép sóng. Lại những đám dây rau muống biển, bãi sỏi và những dòng suối nhỏ, chảy róc rách như reo...

Chừng mười lăm phút, sau khi đã dừng lại đắn đo dưới chân mỏm đá, anh tiến về xóm chài. Ban ngày, trông nó còn sơ sài hơn buổi tối hôm trước. Lũ trẻ con trần truồng vọc cát ngay trên lối đi. Người lớn đã đi lộng, đi khơi hoặc vào chợ. Xóm vắng hiu hiu, tiếng hát cải lương sai lạc từ căn lều nào đó vọng ra:

“Em ơi, chớp bể mưa nguồn, đời anh như manh áo rách không còn manh vải vá, như con thuyền mục nát...” Chàng trai tới gần lũ trẻ:

- Cho chú hỏi với...

Cả ba đứa con trai trạc chín mười tuổi đang đào cát cùng ngẩng lên. Cường nói:

- Ở đây có nhà cô An không?

Một trong ba thằng nhỏ hỏi lại:

- An nào? An thọt hay An béo? An thọt gánh cá đi chợ từ lúc đài thể dục, còn bà An béo đang ru con ở nhà... Chú tìm bà ấy phải không?

Nó nhấp nhổm đứng lên, trong tư thế sẵn sàng của người dẫn đường. Cường vội vã đặt tay lên vai thằng bé:

- Không, không...An...cô ấy mười sáu, mười bảy tuổi. Tóc dài tới ngang lưng này này.

Anh mô tả cô, bối rối vì thấy đám trẻ nhìn mình chòng chọc. Ánh mắt chúng tò mò, hồ nghi. Rồi chúng quay ra hỏi nhau:

- Ai nhỉ?... Mày biết không?

- Làm đếch gì có An như thế?...

Cường nói thêm:

- Nhà cô ta ở trong xóm này, vì chú đến buổi tối nên không nhớ rõ... Nó ghép bằng hai chiếc thuyền hỏng.

Thằng bé lanh lợi nhất bọn cau mày nghĩ, vẻ mặt già đanh như ông cụ. Rồi nó chợt reo lên:

- A...a...biết rồi, đám kinh tế mới chuồn về, phải không?

- Phải, phải đấy.

- Thế thì chú đi lối này, đến bụi mía đỏ nhà bà Mưng rẽ trái..., Dễ ợt ấy mà.

Nói xong, không chờ Cường đáp nó kéo hai thằng bé kia ngồi xuống, tiếp tục đào cát. Lũ trẻ đã đắp ba cái nhà bằng cát ẩm với vỏ sò. Giờ, chúng đào các đường hầm từ nhà nọ sang nhà kia. Cường rút ví, lấy tờ giấy năm chục:

- Cho các cháu mua kẹo lạc này.

Vẫn thằng bé láu lỉnh ngẩng lên. Nó nhìn đồng bạc trên tay anh rồi nhìn bao thuốc lá trên túi áo ngực. Sau vài tích tắc đắn đo nó quả quyết:

- Thôi, lấy điếu thuốc hút chơi.

Nói đoạn, nó nhổm lên rút điếu thuốc trong bao, kẹp giữa hai ngón chờ anh mồi lửa. Cường rút bật lửa châm thuốc cho nó nói: cảm ơn nhé, rồi anh đi. Theo ngả đường đứa bé chỉ, Cường qua vài chục ngôi nhà. Tới một vườn mía đỏ còi cọc, anh rẽ trái. Đến khúc đó, anh nhớ lại vị trí các mảnh sân, những chum chượp mắm, bụi mía ven bờ rào...khung cảnh buổi tối anh bị chó rượt và đã đến ngôi lều của cô gái... Nó kia rồi, vẫn còn nguyên vẹn... Ngôi lều ấy... Những đám bìa cát-tông cũ, kẹp lẫn những mảnh cót ép và những tấm ni-lông rách lem nhem phơi dưới ánh ngày. Cả vết hà ăn trên mạn thuyền mục. Tấm chiếu buồm nặng trĩu nước trận mưa đêm, thâm xì treo phía trước. Nơi cô gái ôm mẹ khóc là một đám gạch vỡ lát cẩu thả trên mặt sân cát. Góc sân, một chiếc chum sứt miệng đựng nước ăn, chiếc gáo dừa có cán úp ngang. Chàng trai đưa mắt nhìn qua khung cảnh ấy, bồi hồi. Anh thu hết can đảm vén manh chiếu buồm lên:

- Ông bà có nhà không ạ?...

Lều tối lờ mờ, có tiếng người đáp:

- Anh hỏi ông bà nào.

Cường đứng ngẩn, lát sau quen mắt anh thấy một bà già đang lúi húi nướng cá khô trên nồi than nhỏ bằng bàn tay. Bà già nhắc lại:

- Anh hỏi ông bà nào cơ?

Chàng trai đáp lúng túng:

- Cháu hỏi ông bà...trước ở đây. Họ làm nghề khắc gỗ, ở khu kinh tế mới về.

Bà già gật đầu:

- Vâng, mời anh vào chơi.

Bà đẩy chiếc ghế mời anh ngồi. Chàng trai nhận ra bộ ghế cũ của nhà An. Chiếc giường cũng còn lại. Nhưng chiếc bàn thờ chạm khắc cầu kỳ và gãy một chân đã mang đi.

Bà già nói:

- Tôi cũng ở khu kinh tế mới về đây. Trên đó, tôi với vợ chồng ông Ân là chỗ láng giềng. Vậy anh là thế nào với họ?

- Cháu chỉ là chỗ quen thuộc.

- Ông bà ấy đi, mà cũng chẳng nói lại là đi đâu. Hai người thu vén đồ đạc, gọi tôi sang cho cái lều và mấy thứ vặt vãnh rồi đem con bé An đi. Anh biết chứ, ông bà ấy được năm đứa con, ba thằng chết đuối dưới suối. Đem nhau về dưới này, cậu con trai lớn chạy chợ lại bị tai nạn ô tô chết trên đèo. Rút cuộc còn mỗi mống con gái...

Bà ta buông tiếng thở dài:

- May mà nó cũng ngoan, vừa được nết, vừa được cả người.

Nói đoạn, bà đứng lên:

- Để tôi rót nước mời anh uống.

Cường đáp:

- Cảm ơn bà, cháu không khát.

Bà già nhìn anh ái ngại:

- Anh có định nhắn gì ông bà ấy không?... Mà có nhắn, tôi cũng chẳng biết tìm họ ở đâu bây giờ.

Cường đứng dậy:

- Thôi, cháu xin phép.

- Vâng, anh đi.

Cường ra tới sân, nghe bà ơi ới gọi sau manh chiếu. Rồi bà hăm hở chạy theo:

- Tôi nhớ ra rồi... Bà vợ có người em họ, tên là Lan, ở ngay thành phố này... Anh cứ ra bờ biển khắc gặp chị ta... Chị ta làm cái nghề, xin anh bỏ quá cho, chẳng hay ho gì cái nghề đưa gái lầu xanh... Nhưng nếu anh cần tìm gia đình họ, chắc chị ta sẽ mách...Cường đi, bà còn đứng ở sân nhìn theo, vẻ băn khoăn. “...Dầu sao cuộc đời cũng còn những người có từ tâm. Đối với mình, không phải gương mặt nào cũng là gương mặt của Đính...” Chàng trai nghĩ, anh quay về bờ biển, thoáng có ý muốn tìm người đàn bà dẫn mối kia nhưng lại tự gạt bỏ ngay. Đám người tắm biển đã về. Chỉ còn sóng nô đùa trên bãi cát. Cường kiếm một quán giải khát, uống cốc cà-phê. Rồi anh vào thành phố, lang thang qua các phố rẽ vào chợ vơ vẩn không mua bán gì, nhìn ngắm các tiệm may cắt, các tiệm ăn, các tiệm uốn tóc như một gã trai quê lần đầu ra tỉnh mà không hiểu nhìn ngắm cái gì. Mọi vật lướt quanh anh, như phim, chật chội, chất chồng những hình ảnh mà không mảy may ý nghĩa. Sáu giờ rưỡi tối, anh về tầu, biết rằng anh đã yêu người con gái đó, hối tiếc vì đã không tìm gặp cô trước lúc cô biến mất, tự giận mình vì bản tính nhát nhúa và tòng phục như một thằng trò nhỏ trước mệnh lệnh của mọi người...

Chương 7

Ngày Bích hẹn Trọng chờ cô ở quán Lan Hương, cô đã không tới. Anh chờ cô đúng mười hai giờ trưa, bỏ vào phố, đi lòng vòng chán rồi quay về bãi dương, ngồi tới tận tối sẫm. Mệt mỏi, người đàn ông vác cả xe đạp lên một chiếc xe Lam chạy chợ, trở về nhà.

Sáng hôm sau Bích về sớm. Cô đon đả nói từ ngoài sân:

- Em xin lỗi anh hôm qua cuộc họp chưa xong... Sốt ruột quá mà không bỏ được. Chẳng lẽ giao cho người khác điều khiển hội nghị. Họp đến sáu giờ tối lại phải dự liên hoan...

Khi anh dắt chiếc Hon-da nữ của cô vào góc sân, cô tới sau anh, áp bộ ngực nồng ấm vào lưng anh và thì thầm:

- Anh không giận em chứ?...đừng giận em, tội nghiệp...

Thấy anh im lặng, cô nói thêm:

- Nào em có muốn thế đâu?...

Trọng làm sao còn giận hờn được?... Anh đã tha thứ cho cô, mau lẹ như tất cả những người đàn ông trung thực khác... Sáng nay Trọng có việc trên thành phố, anh phải dự cuộc họp thống kê toàn ngành. Anh rất muốn sau cuộc họp căng thẳng, họ sẽ cùng nhau tới ăn ở một tiệm Hoa kiều trong phố cổ, rồi xem phim. Dẫu sao, thành phố vẫn vui hơn cái huyện ly họ sống:

- Em phải chiếu cố anh chứ?...

Trọng nói với cô: Ngày nào em cũng đi đi về về, còn anh bị cầm tù ở đây...

Bích cười:

- A...Ừ nhỉ...

Dường như cô vừa chợt nhớ tới hoàn cảnh sống của anh, nhưng cô khỏa lấp ngay bằng một lời âu yếu:

- Anh muốn thế nào em cũng chiều. Họp xong anh chờ em ở tiệm cà phê Bông Lau trên bãi biển nhé. Tiệm cà phê treo hộp đèn màu xanh phía trước.

- Mấy giờ?

- Cuối giờ chiều.

- Được, anh sẽ chờ em...

...Bây giờ, anh ngồi đây, đã uống tới chén cà phê thứ ba trong một buổi chiều. Thành phố lên đèn và tín hiệu sáu giờ tối trên đài phát thanh đã phát từ lâu.

Trọng nhìn ra cửa, chờ một dáng quen thuộc. Cô sẽ xách chiếc túi nhỏ bước vào, mềm mại trong bộ đô lụa: quần đen áo đen hoa tím... Người đàn bà của riêng anh... Định nghĩa ấy anh đã nghe ai nói một lần, quyền sở hữu cao nhất của người đàn ông trong cõi đời hạnh phúc hoặc khổ đau của riêng họ, không phân xẻ, không chia xớt với một ai... Những tốp người ra vào, đi qua tiệm giải khát khiến anh mỏi mắt. Trọng ghìm nén nỗi bồn chồn, buông tiếng thở dài: “Chúa là sai hẹn... Cô ấy không biết sốt ruột hay sao?”

Anh đói. Nhưng không phải vì cơn cồn cào của cái dạ dày mà đâm giận Bích. Cô đã quen sai hẹn với anh, hồn nhiên, không mảy may suy nghĩ. Phải chăng vì từ lần lỡ hẹn đầu tiên, anh đã tha thứ cho cô một cách dễ dàng?...

Có tiếng líp xe nảy tanh tách bên ngoài. Trọng ngẩng lên: Bích dựa chiếc xe đạp nữ vào cửa, khóa cẩn thận rồi mới bước vào. Cô đội nón sùm sụp. Trọng ngạc nhiên bước ra:

- Có chuyện gì thế?... Xe em đâu?...

Cô không ngẩng lên, đáp:

- Xe em cho chị Thìn mượn. Anh vào quán rồi nói chuyện.

Anh đưa tay định gỡ chiếc nón trên đầu Bích, nhưng cô gạt đi:

- Đừng.

Họ vào ngồi trong chiếc bàn ở góc phòng, nơi ánh sáng của cây đèn chụp thủy tinh đục màu xanh chỉ rọi tới chút ánh sáng lờ mờ, yếu ớt. Lúc ấy, Bích mới bỏ nón xuống. Trọng thấy hai mắt cô sưng húp, chắc cô vừa khóc xong.

- Có chuyện gì thế em?

- Có, chuyện dài lắm. Anh hãy gọi cho em một cốc nước cam. Đang chết khát rồi đây.

- Được, có ngay bây giờ.

Anh gọi cho cô cốc nước cam, lấy cho mình một miếng bánh sừng bò vì cả ba cốc cà-phê đang cào xé cái dạ dày rỗng tuyếch. Rồi anh trở lại chỗ ngồi:

- Em có muốn rửa mặt không? Anh gọi chủ quán lấy cho em thau nước ấm?

- Không cần. Chỉ một lát là mắt em sẽ trở lại bình thường.

Người hầu bàn bưng khay nước cam và bánh ra. Cô cầm cốc nước uống một hơi. Trọng ăn bánh, vì đói quá nên bụng anh đau quặn và bắt đầu sôi.

- Em ăn bánh nhé?

- Không. Ruột em đang đầy ứ vì tức đây.

Bích nói, và bắt đầu kể lể:

- Cái lũ tồi tàn ấy làm hại em. Chúng nó đã họp ba cuộc họp liền mà không ngã ngũ. Lỡ thời cơ này thì em vỡ hết kế hoạch, toi bao nhiêu công sức..

Trọng nói:

- Anh chẳng hiểu gì cả. Đầu đuôi chuyện ra sao chứ?

Cô vùng vằng đưa mắt lườm anh:

- Có thế anh cũng không hiểu. Chúng nó họp ba lần mà không quyết định kết nạp Đảng cho em. Cái chi bộ thối hoắc, nửa phiếu thuận, nửa phiếu chống, lượt nào cũng vậy. Đảng ủy cử người xuống tham gia cũng không dứt điểm. Mà thằng chống em quyết liệt nhất, anh biết ai không?... Chính là Quỳ, cái thằng loẻo khoèo mình đã mời cơm hồi sau Tết... Lần nào, nó cũng nói: Đồng chí Bích cần phải thử thách thêm, vì phẩm chất chưa rõ ràng. Vậy mà hồi đầu, chính nó đề nghị chi bộ nhận em là đối tượng Đảng và nhận là người giới thiệu thứ nhất cho em.

- Hồi đó cách đây bao lâu?

- Hai năm.

- Trong hai năm ấy, giữa em và anh ta có chuyện khúc mắc à?

- Không... Anh nhớ hồi sau Tết, mình còn mời nó đi ăn cơm ở tiệm bò non bảy món không?...

- Thế thì vì sao?...

Cô bĩu môi:

- Biết được?... Chúng nó có quyền phán xét, chúng nó cứ phán xét. Lấy gì làm tin?

- Hay anh ta yêu em?

- Không thèm...

Trọng im lặng, sự hàm hồ của người đời anh từng chứng kiến. “Không thèm...” đó có thể là câu trả lời lửng lơ vô tội của bất kỳ người đàn ông hay người đàn bà sĩ diện nào. Anh chỉ đặt câu hỏi ấy ra vì vô tình, và coi như một giả thiết không mấy khả năng hữu hiệu... Nhưng anh thấy buồn, tâm trí nặng trĩu. Anh nhớ lại buổi chiêu đãi vui vẻ dạo đầu năm. Một quán ăn ấm cúng, biển vẽ cái đầu bò nhe răng cười, với dòng chữ kẻ diệu đàng: Xin kính mời bò non bảy món. Cặp vợ chồng chủ quán vừa nấu thức ăn vừa phục vụ khách tận bàn. Cả hai ăn mặc nhăng nhố, vui vẻ, cười ha hả luôn miệng và nấu khá ngon. Hôm đó, ba người cùng hài lòng. Quỳ là một chàng trai mảnh dẻ, yếu ớt, gương mặt trắng xanh với đôi mát to, trông thông minh nhưng kém từng trải. Với đôi mắt ấy, người ta ngỡ anh một thày dòng bẩm sinh hơn là một cán bộ quản lý từ quân đội chuyển sang. Quỳ đã có người yêu, một cô gái kém anh tám tuổi, học trung cấp y. Nếu chưa có, chắc anh cũng không yêu Bích. Trọng đoán. Chất người Quỳ không thích hợp với tình yêu kiểu như vậy. Anh là loại người chỉ chấp thuận mọi nguyên tắc giản đơn, mọi mối quan hệ không gợn vẩn, không phức tạp, mọi bản ma-két (bản kiểu) về đời sống rành mạch, phân minh. Loại người như anh tin ở những nguyên lý đạo đức và luân lý cổ truyền như những tín dồ đạo Gia tô tin rằng Jesu là con đường độc đạo của tín ngưỡng... Không, Quỳ không thể có mối hiềm khích cá nhân với Bích... Hôm đó, cô đã nói bao nhiêu lời tốt đẹp để khen ngợi Quỳ, đến mức Trọng cũng nóng mặt vì ngượng và vì đôi phần ghen tị... Anh thú nhận điều đó, mỉm cười buồn... Anh cất tiếng hỏi Bích:

- Anh ta nhận định về em ra sao?

- Nó nói rằng...

Những ý nghĩ thoáng qua đôi mắt hẹp của cô rất nhanh. Cô ngắc ngứ, chọn lựa ngôn từ hay ý tưởng... Cô nói:

- Nó nói chung chung...cần phải có thời gian, để kiểm nghiệm các hành động, động cơ hành động...vân vân và vân vân...

- Họp chi bộ, làm sao em biết được?

- Chị Thìn nói với em. Nhưng anh phải giữ kín điều này đấy nhé. Nguyên tắc bí mật tổ chức mà...

Cô quay vào trong, gọi:

- Cho cốc nước cam nữa.

Trọng hỏi:

- Cái bà em cho mượn xe máy phải không?

- Vâng.

Chủ quán bưng ra cốc nước cam thứ hai cho Bích. Cô uống, liếm mép một cách thỏa mãn rồi cười:

- Em có cách rồi.

Trọng thấy gương mặt cô trở lại vui vẻ. Anh hỏi:

- Chuyện gì thế?

- Đã có cách trị cho thằng Quỳ một mẻ.

-Sao cơ?

- Em sẽ báo cáo với Thích, bí thư đảng ủy rằng chính Quỳ tiết lộ bí mật tổ chức với em, rằng chính nó cho em biết nội dung ba cuộc họp vừa rồi... Mọi người sẽ tin sái cổ vì xưa nay Quỳ là người nhận giúp đỡ em vào Đảng, chúng em thân nhau.

Trọng sửng sốt nhìn Bích. Anh chưa tin hẳn những điều cô nói. Anh hỏi:

- Nhưng em vừa bảo rằng chị Thìn đã cung cấp tin tức các cuộc họp vừa qua.

- Chính thế... Nhưng em sẽ nói ngược lại hết. Gậy ông sẽ đập lưng ông.

- Đừng vội, em ạ... Anh nghĩ là em sẽ lấy gậy của bà Thìn để đập vào lưng Quỳ.

- Anh ngây thơ lạ.

Cô đưa mắt nhìn anh và lại cười:

- Chẳng lẽ bỗng dưng mụ Thìn lại ngứa lưỡi kể với em những tin tức quan trọng thế?... Không, chính mụ ấy đã trao vũ khí vào tay em để em giết thằng Quỳ. Xưa nay, mụ ấy có ưa em đâu?... Nhưng Quỳ mới là đối thủ của mụ. Hạ được Quỳ, chắc chắn mụ ấy sẽ được bầu vào Đảng ủy kỳ này... Còn em...

Cô uống một ngụm nước cam hạ giọng:

- Em sẽ nhẫn nhục với từng đứa một trong chi bộ... Mụ Thìn đang có chuyện kiện tụng tranh chấp vườn đất dưới quê, em cho mụ ấy mượn xe máy hẳn ba tháng. Con mụ Lan làm thi đua có bà mẹ ốm thập tử nhất sinh, lão chồng bộ đội đi biền biệt, em sẽ tặng vài củ nhân sâm và tán ông Thích cho nghỉ thêm phép. Còn lão Phùng già thì dễ thôi, lão ưa nịnh...xưa nay mình bận nên chưa dịp nào tới thăm nhà lão... Rồi đấy anh xem, kỳ họp sau thế nào số phiếu bầu cho em cũng quá bán phải em sẽ nhẫn nhục, và sau khi kết nạp, em sẽ tiêu diệt từng đứa một...

Mắt cô hằn lên vẻ oán thù, một quyết tâm cay độc, sự khinh ghét và lòng kiêu mạn... Sao từ trước tới nay, anh chưa nhìn thấy những ánh lửa đen tối trong đôi mắt kia. Phải chăng vì nó chỉ hiện lên, những khoảnh khắc anh xa vắng?... Lòng hờn oán của đàn bà, chuyện nhỏ nhen, vặt vãnh... Những người đàn bà đều thế chăng?... Có lẽ anh không nên bắt cô phải sống theo khuôn mẫu của mình, vì anh một người lính...và cô, một người đàn bà lớn lên trong thành phố, cuộc sống thời hoa niên đã nhào nặn họ theo những hình vẻ khác nhau.

- Cuộc họp chi bộ kỳ tới khoảng đầu tháng sau... Nhất định không thể chậm trễ.

Bích vẫn đang nói. Tiếng cô như tiếng trống gõ rất xa, nghe ầm ào nhưng không rõ lời.

- Cái thằng ấy...làm sao hơn em được?... Nó sẽ biết tay... Tới ngày nào đó, không xa...em sẽ bắn rụng từng đứa một...

Trọng nghĩ vớ vẩn... “Bắn rụng...” Cái từ vô tình lọt vào trí não anh... Tim Trọng nhói lên. Anh chợt nhớ người bạn của mình, trung sĩ Quất, người được phiên chế cùng tiểu đội với anh mười sáu năm. Một người bạn chân tình, xẻ chia nửa điếu thuốc cuối cùng, húp với nhau miếng canh rau bay cuối cùng, bẻ mảnh lương khô cuối cùng... Hồi mới nhập ngũ, Quất trung sĩ là tiểu đội trưởng, Trọng hạ sĩ tiểu đội phó. Họ đã sống với nhau bao nhiêu chiến dịch, bao nhiêu đợt chỉnh huấn chỉnh quân. Họ đi với nhau bao nhiêu cây số đường rừng đường biển. Họ ngủ cùng nhau bao nhiêu đêm đông trong khe núi hoặc những ngày mưa ẩm ướt dưới hầm... Quất rất thích bài hát: Nguyễn Viết Xuân. Suốt ngày anh nghêu ngao hát bài ấy, tới mức mọi người xung quanh phát bực: “Có hàng nghìn bài hát sao cậu cứ hát quanh quẩn mỗi một câu?...” Quất cười hiền lành như có lỗi: “Tớ chỉ thuộc câu ấy thôi...” Trọng hay nạt nộ Quất...hay vòi vĩnh Quất xem như đứa em trai vòi vĩnh người anh mặc dù họ xưng hô với nhau là cậu tớ. Quất là bí thư chi bộ, người đã giúp đỡ và kết nạp Trọng ngay ở chiến trường, sau một chiến dịch mà thắng lợi được mua bằng giá quá cao: một nửa phiên chế trung đoàn hy sinh và mất khả năng chiến đấu. Quất hy sinh năm 72, dưới chân thành Quảng Trị. Cái câu hát mà Quất nghêu ngao suốt ngày lại làm anh đau:

“Nguyễn Viết Xuân lời anh nói thiết tha, theo ngọn gió bay xa: Nhằm quân thù mà bắn... ”

Tim Trọng nhói lên tầng nữa: Dù sao anh vẫn là người lính, cái ẩn ức về quãng đời quá khứ không bao giờ tan được.

Anh ngước mắt nhìn Bích, người đàn bà anh yêu vẫn đang nói. Bất giác anh rùng mình... “Quất ơi, hạ hồi là như thế này hay sao? Giờ... người ta đã dùng cái từ xưa kia chúng ta coi là thiêng liêng nhất: Bắn trúng...vào cái mục đích chẳng ai ngờ...”. Anh chợt nhớ lại cánh rừng gió ràn rạt thổi, những hàng quân đi như nước cuốn, như thủy triều, tiếng cười của đám lính, những lời trò chuyện, tán tỉnh, những lời ca...và mặt trời, xuyên qua các vòm lá dày đặc tung tóe vung vãi muôn ngàn đốm sao.

- Anh nghĩ gì thế?

Bích đập vào tay anh. Trọng giật mình ngẩng lên:

- Có gì đâu?

Cô lườm:

- Chuyện với anh chán chết. Đầu óc để tận đâu đâu. Anh chẳng quan tâm gì tới em.

Trọng đáp, yếu ớt:

- Anh vẫn nghe em nói. Anh biết làm gì bây giờ?

Cô đứng lên, cầm túi và chiếc nón:

- Đi đi. Giờ, tới tiệm hủ tiếu ăn rồi xem phim nhé?

Trọng bỗng thấy mỏi rã tới từng đốt xương lưng:

- Tùy em.

Cô đưa mắt nhìn anh:

- Chán rồi phải không?... Thế thì ăn xong ta về vậy. Mình sẽ gửi xe đạp nhà cái Thương rồi mượn xe máy của chồng nó. Thằng ấy dạo này trúng quả liên tục. Nó vừa đổi chiếc Sim-sơn lấy chiếc Hon-đa đời mới.

Họ đi. Cả buổi tối, anh làm theo mọi mệnh lệnh của cô như cái máy. Họ đi ăn hủ tiếu, đi đổi xe, về nhà...

Ngôi nhà sáng trưng. Lão Ngạn đã uống rượu trước, ngồi trên đi-văng xem truyền hình. Chiếc đồng hồ Thụy Sĩ treo tường thánh thót... Ban đêm, mùi thơm của bụi nhài ngoài cửa sổ bay nồng nàn. Trọng nhận thấy mùi thơm ấy làm anh tức giận. Cách đây không lâu, vào một buổi sáng cô đơn, anh cũng đã để ý tới bụi hoa ấy và thấy nó không còn gợi cho anh niềm say mê như ban đầu. Nhưng giờ này, nó lại dấy lên một cơn bực bội vô cớ.

Trọng khép hai cánh cửa sổ.

Bích quay lại nhìn anh ngạc nhiên:

- Ô hay, mở cho thoáng.

Trọng đáp:

- Anh không thích.

Bích im lặng. Cô đang thay quần áo. Cô hỏi:

- Anh no chưa. Em rán cho anh ít trứng với bánh phồng tôm nhé. Anh còn cả chai rượu Ba Lan chưa mở, phải không?...

Cô xăng xái xuống bếp. Lúc này, cô trở lại làm người đàn bà chu đáo, tận tình. Nửa giờ sau, khi Trọng vừa rửa mặt, thay quần áo, cô bưng lên một mâm rượu ngon lành: Trứng rán, lạp sườn hấp, bánh phồng tôm với đĩa dưa chua. Cô mở chai rượu khai vị của Ba Lan họ vẫn dành từ tuần trước. Lại rót thêm chén rượu rắn cô tự ngâm.

Và, sau mọi động tác chuẩn bị, cô ngồi bên anh, như một khán giả trung thành với sân khấu chờ xem vở kịch hay.

Người đàn ông nguôi giận. Anh bị cuốn vào dòng trôi của cuộc đời thường.

❆❆❆

Trọng đã đi làm được nửa giờ đồng hồ. Bích trở dậy từ sớm lo nấu xôi cho anh, nhưng khi anh chuẩn bị đi làm cô lại vào giường ngủ tiếp. Chút giờ rưỡi người đàn bà mới tỉnh giấc. Cô ngồi nhỏm lên, khoác áo, chải sơ qua mái tóc rồi ra phòng ngoài - Lão Ngạn như thường lệ ngồi uống trà - "Ba ơi, con cần nói chuyện với ba".

- Chuyện gì?

Bích tới ngồi kê lão Ngạn, không đáp mà lại hỏi:

- Ba gặp cậu Cường chưa?

- Chưa. Hai bận nó đều vắng. Gặp mỗi anh trưởng máy thôi.

- Vậy lần nào không gặp cậu ấy ba cũng vào chỗ anh Nghĩa?

- Tao vào làm gì?

Lão Ngạn trừng mắt:

- Chồng mày gặp tao trên đường, nó cứ kéo bằng được về thăm con bé.

- Ba thương gì con mà thương tới cháu?... Người ta có câu “Nhất con, nhì cháu, thứ sáu người dưng...” Từ ngày đẻ nó đến giờ đã lần nào ba hỏi tới một câu?.

- Phải.

- Đã thế, sao ba không từ chối?

- Tao từ chối nhưng không được.

- Ba nói dối.

- Cho là tao nói dối, đã sao?

- Ba muốn hại con. Không người cha nào phản bội lại lợi ích của con cái.

- Mày muốn nói tới thứ lợi ích nào?

- Ba đừng vặn vẹo. Ba thừa hiểu con không muốn cho anh ấy biết cuộc sống chung với Trọng. Con không muốn mất anh ấy. Chính ba cũng nhận rằng Nghĩa là người tốt...

- Nó tốt, vậy cớ gì mày bỏ?... Chưa thằng chồng nào lo cho vợ con chu tất hơn nó? Cũng chưa thằng chồng nào ngu hơn nó, như con đà điểu rúc đầu vào cát, để không nhìn thấy vợ cắm một bó sừng lên đầu... Mày còn tìm đứa nào hơn?...

- Đó là chuyện riêng của con. Có những lý do...con không thể nói với mọi người, kể cả ba...

- Những lý do hả?... Tao thì tao biết tỏng cái...

Lão Ngạn định buông một tiếng tục tằn, nhưng kịp ghìm lại. Lão không nhìn vào bộ mặt sưng sỉa của cô gái. Trong không trung, mấy con nhặng rõ to lượn ve ve. Lão đưa mắt đuổi theo lũ nhặng rồi cúi xuống, uống nốt chén trà đã nguội. Con gái lão bắt đầu sụt sịt phía sau. Con quỷ cái, còn vãi được nước mắt thì cũng lạ. Không hiểu nó khóc vì can cớ gì? Uất ức lão chăng? Hay thương thằng chồng bị phản bội? hay thương thằng tình nhân bị lừa dối? hay vì chính nó không thể sống mà không gian trá với cả hai người?...

Phải, chính lão đã chủ động gọi Nghĩa chứ không phải anh nhìn thấy lão. Anh ta lúc nào cũng mải mốt, lo âu, đi đâu cũng cắm đầu về phía trước, mắt nhìn thẳng.

Nghe tiếng gọi, anh ngơ ngác nhìn quanh. Nhận ra lão Nghĩa mừng rỡ chạy tới:

- Ba ra thành phố từ lúc nào? Sao con không biết?

- Tôi ra đây dăm sáu tuần lễ... Nhưng ở gần bến xe phụ. Chắc con Bích không bảo anh?

Lão đáp thủng thẳng, nhìn vào đôi mắt ngay thật của chàng rể, nhận thấy đôi mắt ấy còn rất nhiều chất thơ ngây trong khi hai bên thái dương tóc trắng xóa. Nghĩa vẫn nắm chặt hai tay lão trong tay mình, vồn vã:

- Bích không nói gì với con. Có lẽ dạo này bận công việc nên cô ấy đãng trí. Ba ở đằng ấy với ai?... Chẳng lẽ cậu Cường lấy vợ mà không cho chúng con biết?

Lão Ngạn đáp tỉnh khô:

- Tôi ở với vợ chồng con Bích.

Nghĩa tái mặt. Lão thấy đôi mắt anh ta như mờ đục trong giây lát, những giọt mồ hôi rịn hai bên má và quanh ria mép. Nghĩa nhìn lão, cố gượng cười:

- Nhà con vẫn ở khu tập thể mà... Con đã tới...

Lão Ngạn không nhìn vào làn môi nhợt nhạt của Nghĩa. Lão biết rằng người đàn ông cả tinh thần lẫn thể xác quá mong manh kia không chịu nổi ngọn đòn của mình. Lão thấy mình độc, lão thương anh. Lão mỉm cười khi nhận ra rằng dối trá không chỉ là độc dược mà đôi khi lại là món thuốc cứu chữa con người công hiệu. Lão nói, giọng vẫn tỉnh khô như cũ:

- A à à...nó nói rằng đón tôi lên là để giữ nhà cho vợ chồng nó sau này. Giờ, mới chỉ có mình tôi làm ông sãi quét chùa thôi.

- Vâng...vâng...

Nghĩa lắp bắp, làn môi nhợt của anh ta mấp máy dưới hàng ria mép dược cạo tinh tươm. Trong đám ria, lấm tấm nhiều sợi bạc. Hai gò má Nghĩa đã có ngấn, thịt nhão ra với những nếp nhăn, làn da xưa màu dâu chín nay chuyển sang vàng khè... Nó sắp thành ông lão rồi- Lão nghĩ - Và lần nữa, mối cảm thương khiến lão se lòng. Lão vờ hỏi:

- Nó ở khu tập thể của cơ quan?

- Vâng. Gần sân đá bóng thành phố. Cô ấy chưa mời ba tới?

- Mời làm gì?... Tôi ở đầu kia, vài ngày nó lại về thăm. Mà dạo này tôi cũng suy nhược, chẳng dám đi đâu. Lâu nay thằng Cường biền biệt không về. Nhớ nó quá nên tôi liều lên đây...

- Vâng, ba xanh thật đấy...

Chàng con rể gật đầu ái ngại, trong lúc lão nói, anh ta đã đưa mắt ngắm nhìn dáng vẻ tiêu tụy của lão một cách xót xa:

- Ba về chỗ con... Đã mấy năm rồi ông không thăm cháu. Dạo này nó lớn, trông lạ hẳn đi... Người ta vừa biếu con mấy lạng cao hổ. Ông mang về ngâm rượu...

Nghĩa gọi cậu lái xe vẫn chờ anh ta cách đó chừng một chục thước. Cậu lái xe lùi chiếc La-đa, mở cửa đón khách. Lão Ngạn lên xe, cảm thấy oai oai. Ít nhất, đám người qua lại hai bên phố cũng thấy lão được đón tiếp trịnh trọng thế nào. Lão bảo Nghĩa:

- Dạo này anh cũng còm đi đấy, liều liệu mà giữ sức.

- Vâng ạ.

Chàng rể ngoan ngoãn đáp. Rồi anh ta đưa lão về nhà. Một căn hộ ba phòng, sạch sẽ, xinh xắn. Hồi lão tới lần đầu tiên, gần bảy năm trước nó còn trống trải. Giờ, đầy ắp các loại tiện nghi: Nào bàn ghế, giường tủ, nào máy truyền hình, máy thu âm, máy lạnh, lò sưởi điện...

Riêng đồng hồ báo thức đã có tới sáu bảy chiếc bày trong tủ, từ loại chìa khóa vàng bé xíu đến loại quả chuông lớn bằng trái bí ngô non. Nghĩa đi nước ngoài luôn luôn và anh ta thích sưu tập các thứ đồ đạc vặt. Con cháu gái của lão có một tủ gần hai chục con búp bê. Nó lớn, lạ lẫm nhìn ông ngoại, vòng tay cúi đầu chào ông với giọng êm ái như giọng hát của các Thánh nữ:

- Con chào ông ngoại ạ ạ...

- Chào...chào cháu...

Lão Ngạn đáp lại, có đôi phần cảm động và bối rối. Vẻ đẹp trong trắng, thánh thiện của đứa bé khiến lão bồi hồi: “Nó giống bố như đúc, nhưng đẹp hơn cả trăm lần, như tranh các Thánh nữ trong Nhà Thờ, như người cõi tiên giáng thế... Chao ôi, không thể tin được một đứa bé như vậy lại lọt lòng từ thân thể của một con quỷ cái như mẹ nó. Không biết trong máu huyết của nó, trong da thịt như bông lan, bông huệ có ẩn giấu cái mầm đen u tối nào của dòng máu kia không?...”

Nghĩa chuẩn bị rất nhanh mấy món nhắm mời bố vợ, rồi anh ta khê nệ bưng ra vò rượu Ngũ xà có năm con rắn lớn cuộn khúc bên trong, phơi qua lớp thủy tinh các sọc trắng sọc vàng dữ tợn của chúng.

Lão Ngạn vội nói:

- Cảm ơn anh, tôi không uống được thứ này đâu... Tợn nhất tôi cũng chỉ dám uống tới rượu ngâm tắc kè.

- Thế ạ, con không biết.

Nghĩa cất bình rượu rắn, lại lấy ra một lọ rượu nhỏ hơn ngâm tắc kè. Có tới một tá tắc kè co quắp nằm trong. Anh nói:

- Bích cứ bắt con uống rượu rắn. Thực với ba, con sợ lắm, nhưng đành bịt mũi uống một hơi.

Hai người uống rượu, nói chuyện thời thế, chuyện nhân gian. Rồi có ai tới đó gọi Nghĩa vào tỉnh ủy có việc. Anh ta xin phép lão đi. Trước khi đi, chàng rể tận tụy còn gói một hộp quà tặng lão: cao hổ cốt, cao sơn dương, sâm nước Liên xô và hai củ sâm Triều tiên chính hiệu...Anh ta bảo lái xe đưa bố vợ ra tận bến xe Lam rồi mới được quay về...Tiếng sụt sịt, tức tưởi của Bích khiến lão nhoi nhói như bị gai đâm. Lão quay lại:

- Làm sao mày khóc, oan lắm à?

Cô con gái không đáp, cúi đầu hỉ mũi vào khăn tay. Đôi mi mắt lẫn chớp mũi đỏ huẩy.

Lão Ngạn hỏi tiếp:

- Mày với chồng mày đã ký giấy ly hôn, tòa đã xử, sao còn tiếc?...

Bích ngẩng lên, đưa cặp mắt hờn căm nhìn bố:

- Đó là chuyện của riêng con, ba không cần hỏi. Xưa nay, ba vẫn coi con như đứa con rơi, không thèm đoái hoài. Chỉ riêng thằng Cường là...

Cô dừng lại, chợt như nhớ ra điều gì đó. Cô im bặt, không nói nữa.

Lão Ngạn nhe hai hàm răng xám xịt ra, cười nhạt:

- Biết thế, sao mày cứ cố sức lôi tao lên đây?

Bích mím môi, không đáp.

- Mày tưởng nuôi tao ngày hai bữa rượu thì tao phải làm bố già giữ nhà, mồm câm như hến, đúng không?.

Bích im, cúi mặt xuống. Lão tiếp:

- Mày nhầm... Nhà cửa, tài sản của riêng tao vẫn còn nguyên, chưa cầm đợ, bán chác cho ai. Đời người chỉ nên bị lừa một lần. Lần ấy, dù cách đây mấy chục năm, tao nhớ như ngày hôm qua... Còn bây giờ, tức khắc, tao sẽ xách túi ra bến xe, trở về.

Cô con gái ngẩng bộ mặt sưng húp, cười cay độc:

- Ba về cũng được. Nhưng từ đó tới cảng thăm thằng con trai thì xa quá...

Lão Ngạn chợt khựng lại giây lát, mặt đờ ra. Rồi lão gầm lên, mắt long sòng sọc:

- Mày câm đi, đừng châm kim vào ruột tao... Tao sẽ đi... Và từ đây lên cảng, tao sẽ bỏ tiền ra thuê...dù phải thuê người cáng...

Lão đứng lên, cử chỉ đường đột và quyết liệt. Cô con gái không khóc nữa. Cô vội đứng lên theo:

- Ba ơi, đừng đi như thế... Người ta cười cho...

Lão Ngạn quay lại, hỏi:

- Cười cái gì?

Bích hạ giọng nài nỉ:

- Dù sao ba cũng là cha đẻ của con... Ba xử thế, thiên hạ chê cười...

Lão Ngạn lại nhe hai hàm răng ra:

- Là cha đẻ của mày nghĩa là phải câm như hến nhìn mày dắt trai về ngủ trước mũi chồng, hay phải đóng vai ông bố hợp pháp cho một cuộc tụ bạ không hôn thú?...

-Ba.

Bích kêu lên, hai bàn tay xiết chặt vào nhau trong một cử chỉ lạ lùng, nửa như vò xé, nửa như kìm lại một cơn đập phá.

Lão Ngạn xăm xăm mở tủ, lấy túi quần áo của mình xếp vào đấy vài thứ đồ lặt vặt. Bích đứng nhìn cha, vẻ nghĩ ngợi. Rồi cô con gái tới gần ông bố:

- Ba thư lại cho con nhờ... Chiều, anh Trọng về, anh ấy sẽ nghĩ cha con mình ra sao?.

Lão Ngạn cười nhạt:

- Mày thiếu gì lý lẽ?... Cứ đổ tại ông bố nghiện rượu, hoặc mắc chứng tâm thần, hoặc giở thói trăng hoa sàm sỡ với một mụ hàng xóm nào đó khiến mày phải đuổi về quê để bảo toàn danh dự. Cũng như trước kia mày đã kể với anh ta rằng mày phải chịu cảnh dì ghẻ con chồng cơ cực, rồi năm mười bốn tuổi bị đánh đuổi khỏi nhà?

Tới đó, lão cất tiếng cười khành khạch. Còn cô con gái thì mặt từ đỏ chuyển sang tím, từ tím chuyển sang đỏ. Hai con mắt hẹp đảo tròng như người bị lên đồng thiếp. Lão già nhìn con gái với vẻ ranh mãnh, hả hê, đoạn hạ giọng nói tiếp:

- Thôi, hãy để tao về... Ở lại cũng chẳng lợi lộc gì cho mày đâu... Bởi vì, thế nào cũng có lúc hạ màn. Dù mày có là con đẻ của tao, cũng sẽ tới lúc tao lật tẩy tấn trò kia, để rửa oan cho người nằm dưới mộ.

Nói rồi, lão cài kín khuy cổ, xách túi quần áo đi ra. Cô con gái lặng lẽ đứng giữa phòng, không đưa tiễn. Hai người nhìn nhau lần cuối, với con mắt của những kẻ tử thù...

...Hơn một giờ đồng hồ sau, lão Ngạn đã vắt vẻo ngồi trên xe thổ mộ. Bên phải, một bà bán cá, bên trái ba cô gái buôn trái cây từ miệt vườn nào đó chất chồng đây những sọt trái cây mang lên thành phố. Các cô đều béo nẫn, mặc áo xẻ nách, sức nước hoa thơm lừng. Họ ngồi cắn hạt dưa, nhổ vỏ đầy sàn xe. Bà bán cá nhắm mắt gà gật ngủ. Lão Ngạn rũ hai vai, ngồi như tàu cải héo. Lúc lên xe, máu nóng phừng phừng, lão hăng hái lắm. Nhưng cơn tức giận qua đi, tiếng móng ngựa gõ lộp cộp triền miên như một điệp khúc từ vạn cổ đưa về, khiến lão tê tái. Hai bên đường những mảnh đồng trôi êm êm qua, những gò đất, vạt vườn, tấm áo của một thằng bù nhìn bay phấp phới, dòng sông nhỏ dưới chân cầu, mấy đứa bé chăn trâu nghênh mắt nhìn, một con sáo lẻ loi nhảy trên vạt cỏ... Cảnh vật như muôn thuở... Lão nghe tiếng lục lạc reo, tưởng như nó từ hoang mạc nào đó xa vời vợi trong tâm tưởng, như nó là những quân súc sắc gieo vào thời gian dài đặc, mỗi quân rơi xuống, là tiếng gõ của định mệnh, rút ngắn chuỗi đời tàn: - Oan nghiệt...

Lão thầm nghĩ. Cha con đấy mà vẫn thành cừu địch... Muốn tránh cũng không tránh được. Nhiều lần nghĩ ngợi, lão đã tự nhủ rằng lão có nhiệm vụ bảo vệ con mình, cho dù nó hư hỏng, cho dù nó man trá, cho dù hình hài hay tâm tính nó có giống mụ Ngọc Bảo, nó vẫn cứ mang nửa dòng máu của lão. Biết đâu, nó chẳng mang hạt mầm bệnh tật hay tai ương tinh thần của lão di chứng lại?... Biết đâu, thói trăng hoa hay tính biển lận của nó không chỉ thừa hưởng của dòng mẹ mà còn thừa hưởng của ông tổ ba đời nào đó chính trong dòng họ Phạm mà lão không biết tới? Biết đâu?...

Nhưng cho dù lão cố lục tìm hàng trăm lần một dáng nét nào đó của lão, của ông bố hay bà mẹ lão, thậm chí của đám anh chị em lão phảng phất trên gương mặt, trên dáng hình đứa con gái kia, lão cũng chỉ thêm thất vọng... Thật cay đắng, Bích giống mẹ như chính cô ta đã là một phiên bản khác được tạo chế từ mẫu hình gốc. Mỗi khi cô ta cúi gằm mặt xuống hay ngước mắt lên, mỉm cười hay liếm môi một cách mài miệt, lão sởn gai ốc. Dường như trong đứa con gái kia, bóng ma của mẹ nó trở về...

Bà buôn cá từ nãy lim dim mắt, nhưng miệng vẫn bỏm bẻm nhai trầu. Bỗng nhiên bà ta mở choàng mắt, nhỏm người qua thành xe nhổ quết trầu: - Toẹt...Cả một bãi nước trầu đỏ choét phun xuống dường, một phần lan vào bờ cát, một phần nữa dây xuống sàn xe. Ba cô con gái la choe chóe:

- Khiếp quá...

Bà buôn cá dẩu mỏ đáp:

- Nước cốt trầu chứ cứt đái gì mà khiếp?... Rõ thối nhà các chị. Thời bây giờ chứ ngày xưa thì khỏi nói, chả nhai bem bẻm cả ngày.

Các cô gái gân cổ lên, định đấu khẩu, nhưng thấy vẻ mặt nanh nọc của bà nên thôi.

Lão Ngạn im lặng quay đi. Đám nước cốt trầu khiến lão liên tưởng tới những bãi máu tươi vọt ra, bắn tóe trên miệng sứ trắng của chiếc ống nhổ, trên sàn đá hoa... Đỏ tươi, như máu ròng ròng chảy từ vết thương. Chiếc ống nhổ sứ trắng lớn bằng nửa chiếc đôn kê chậu cúc cảnh, là tặng phẩm của một tỉnh phía Nam cho ông thủy sư đô đốc, hồi ông còn sống oanh liệt. Chiếc ống nhổ ấy được chuyển cho lão từ khi lão có đứa con gái và bị bệnh lao. Nó đặt ở cuối giường. Đêm đêm, trong ánh sáng xanh mờ của cây đèn ngủ, màu men sứ trắng bóng lên vẻ đẹp ghê rợn. Phòng ngủ của lão thời ấy sang nhất thành phố. Các tấm rèm màu tím hồng rủ kín khuôn cửa. Tấm gương chạm lẵng hồng được mua từ Pa-ri đem về, cả bộ sa lông bọc nhung tím cũng vậy.

Nửa giờ một lần, chiếc đồng hồ treo tường Thụy Sĩ lại ngân nga khúc nhạc quen. Sau hồi nhạc thánh thót, mụ vợ lão ngồi bật lên:

- Anh Ngạn, ngồi lên tôi hỏi. Tại sao anh dám bán đám đất vườn Vĩnh Xá không có lệnh tôi? Con mụ Hồng bỏ thuốc lú phải không? Anh em kiến giả nhất phận, mụ ấy đã có chồng mụ ấy lo, ai khiến anh đem oản cho sư vô lối như vậy?

- Anh Ngạn, ngồi lên tôi hỏi. Ai cho anh mua một lúc ba toa thuốc của đốc-tờ Nhân?... Cái thằng đại bịp ấy vẽ chuyện kiếm tiền. Tiền của tôi có phải vỏ ốc đâu? Cứ sẵn đấy mà vốc... Có cái nhà đã bán đi hầu bà mẹ quý. Giờ sống nhờ kẻ khác thì phải biết thân...

- Anh Ngạn, hôm nay anh nói gì với lão già Nhu?... Ở hội chợ, lão ấy lu loa rằng ma-đam Ngọc Bảo mỗi ngày cho chồng ăn một củ sâm với một bát yến sào nên ông Ngạn sắp khỏi bệnh, đứng lên coi sóc đại lý Thủy Tiên và hãng kem Đại Dương được rồi?.

Bằng giọng nói lí nhí người bên ngoài rất khó nghe được, mụ rít bên tai lão tiếng rít của loài rắn. Cặp mắt lờ đờ trở nên linh hoạt, đưa đẩy trong hố mắt hẹp và dài. Sau khi hỏi đốc thôi mà lão không trả lời được, mụ móc chặt hai sườn lão khiến lão ngạt thở. Mắt lão tóe đom đóm. Và mồ hôi lão toát ra thấm ướt lưng:

- Tôi xin mợ, tôi van mợ...tôi xin...

Cái điệp khúc ấy lặp đi lặp lại hoài hủy. Lâu dần, tiếng thánh thót của chiếc đồng hò treo tường trở thành tiếng vọng địa ngục báo giờ lão chịu hành tội.

Cơn điên giận của người đàn bà ngày càng trở nên ghê gớm. Lão không còn gì cho mụ, mà vẫn cứ danh chính ngôn thuận là người chồng, mụ phải đèo bòng lão như mang miếng thịt thừa, mang món nợ truyền kiếp... Mà mụ, mụ không muốn phải gánh chịu bất cứ thứ gì... Không thể công khai đánh lão, mụ cấu chí, gằn hắt, nhục mạ... Mỗi bận lão bật ho, mụ hét lên:

- Câm miệng, câm miệng cho tôi ngủ... Người với ngợm sao không chết quách đi cho rồi?.

- Ho này, ho này...cái cây đã thối rễ thì chặt đứt đi cho rảnh. Ho này...

Cùi tay mụ giáng vào sườn, khiến lão buốt tận óc. Lão ngồi dậy, cố nén cơn ho. Nhưng cổ họng ngứa ran như có hàng ngàn con kiến đốt. Lão nhịn không được lão bật lên, và máu nóng vọt khỏi lồng ngực hư nát... Cái miệng trắng xanh của chiếc ống nhổ bằng sư giống con mắt tử thần, mỏ ra lạnh lẽo. Lão ôm ngực, trừng trừng nhìn vào nó, như kẻ bị hành hình nhìn đao phủ khoét cái huyệt chôn mình. Sớm dậy, lão rũ ra như mảnh giẻ rách. Mụ Ngọc Bảo ngồi trước gương chải tóc, gióng giả sai lũ người làm:

- Đứa nào đi mua phở cho ông phải nhớ ủ nóng. Lát nữa, sắc thuốc xong nhớ nhắc ông uống đúng giờ.

Có lẽ, lão đã chết nếu người anh cả không khôi phục được gia tài bí mật sai người về thành phố đưa em trai đi. Ông mua cho Ngạn một ngôi nhà nhỏ, một mảnh vườn xinh xắn ở một vùng hẻo lánh.

Vùng này, người ta làm nghề nung vôi, nung gạch. Lão đã sống ở đấy, thở hít bầu không khí của các lò vôi, ăn cá nước ngọt và thịt bò tươi, uống đều dặn các loại thuốc người anh gửi đến. Một lá phổi tàn phế của lão được cắt bỏ. Lá kia trở nên lành lặn và khôi phục khả năng hoạt động.

Khi lão khỏe mạnh, người anh mua một tiệm tạp hóa cho lão trông coi. Sau đó, ông còn kịp thu vén cho lão một món gia tài trước khi bốc cả gia đình đi Căm-pốt.

- Hây, đứng lại...đét...

Tiếng quát ngựa, cùng tiếng roi của người chủ xe khiến lão giật mình. Xe đã tới một dãy phố nhỏ, không tên. Những dãy phố như thế ngày càng mọc lên nhan nhản ven các trục đường chính. Người chủ xe nói:

- Tôi phải mua ít thóc cho con ngựa. Ai nấy tùy nghi di tản. Một giờ sau cơm nước xong xuôi rồi đi... Nói đoạn, ông chụp chiếc mũ da bạc phếch lên đầu.

Cả bốn người đàn bà đã nhảy xuống đường. Trên xe, chỉ còn lão Ngạn với đám sọt trái cây và vài bì cá khô. Người chủ xe bảo:

- Bác đi kiếm cái gì ăn cho nóng bụng. Lên phố rồi ta ngủ trọ qua đêm, sáng mai chạy sớm.

Lão Ngạn đáp:

- Có lẽ tôi là người đi xa nhất trong đám khách của ông?

Chủ xe đáp:

- Vâng. Nhưng mai đến phố thế nào cũng có thêm khách mới. Dạo này, đón người lên Cam cũng dễ...

Nói rồi, ông ta ấn cái mũ da cũ xuống trán, bước đi. Chủ xe ngược về phía đầu phố mua thóc.

Lão Ngạn nhảy xuống xe, đờ dẫn nhìn mái phố, tâm trí vơ vẩn trăm chiều. Lão nhớ căn nhà quen thuộc ở thị trấn Cam, mong được nhìn thấy nó, mong được thở hít không khí trong lành và hoang liêu nơi phố cổ, vẻ tĩnh lặng êm đềm mà bấy lâu nay lão thiếu vắng. Nhưng lão cũng biết rằng ở đấy những chuỗi ngày chờ đợi lão sẽ buồn chán, khắc khoải nhường nào. Lão đã không gặp được Cường, đứa con trai duy nhất, nguồn hy vọng duy nhất. Chuyến đi thành phố thật cay đắng. Lão đưa mắt nhìn chân trời khoáng đãng, như mong muốn tìm thấy ở nơi đó, bóng dáng đứa con trai. Nhưng chân trời trong như lọc, không gợn mây, phân cắt bởi đường rèm của núi non với bình nguyên vàng thắm. Chợt, một ý nghĩ thoáng hiện lên:

- Nếu nó không về... Không bao giờ về nữa?

Lão lạnh toát chân tay, hơi thở như nghẹn lại. Lão vội nắm chặt tấm gỗ ván bên thành xe, thầm nói:

- Nhảm nhí, nó sẽ về... Nó sẽ về.

Tim lão đập thon thót trong lồng ngực. Và một giọt nước mắt tràn qua khóe mắt, rơi xuống.

❆❆❆

Đúng lúc ông bố đứng trong dãy phố vô danh, cậu con trai đang ở trên boong tàu. Một mình chàng trai ngồi đọc sách. Nhưng giữa những dòng chữ, chợt hiện lên mái nhà thời thơ ấu. Chàng trai đành bỏ cuốn sách xuống. Cái khung cảnh được tạo dựng nên trong những trang tiểu thuyết không còn lôi cuốn được anh: Nào lâu đài của quận chúa Min Pho, nào những dãy hào có lính bồng súng gác, nào những sĩ quan tùy tòng đeo kiếm dài, cưỡi ngựa nòi Noóc-măng, nào những công nương mặc váy phồng tha thướt... Tính hiếu kỳ chợt mệt mỏi, chàng trai không còn háo hức săn tìm những cuộc đời xa lạ của vương tôn công hầu châu Âu... Cường chợt nhớ cha, lão già đau ốm và xấu xí, con người gần gũi nhất mà cũng đáng sợ nhất với anh, con người yêu thân mà phải trốn tránh như trốn tránh bệnh truyền nhiễm. Giờ này lão làm gì?... Hồi tàu chưa nhổ neo, lão đã lên cảng tìm Cường hai lượt. Lượt nào anh cũng tránh được. Không gặp anh, chắc cha anh đã trở về Cam. Cường biết lão không yêu thích, thậm chí còn ghét bỏ một cách bất công đứa con gái người vợ trước. Nhiều lần, Cường nói với lão:

- Ba ơi, chị Bích cũng là giọt máu của ba xẻ ra. Ba đừng cư xử như vậy.

Lão gắt:

- Mày biết gì?

Cường đáp:

- Mọi người trong thị trấn đều bảo rằng ba thiên vị. Đa phong kiến.

Lão gật đầu:

- Tao phong kiến, như vậy được chưa?... Và từ rầy mày im đi, đừng bao giờ nhắc tới nó trước mặt tao nữa.

Cha anh bao giờ cũng dịu dàng, âu yếm với anh. Trừ việc ép Cường tập bơi để sống chết cũng phải thành thủy thủ. Và việc anh đã dám động chạm tới quan hệ của lão với Đích. Cả hai trường hợp lão đều tỏ ra độc ác, thô bạo. Từ lối xưng hô mày tao rất khó nghe tới ánh mắt cay độc. Ngoại trừ những giây phút nghiệt ngã ấy, tình yêu của lão khiến anh xót xa.

Chàng trai không thể quên, từ thời anh thơ bé, ánh mắt trìu mến vô song của người cha. Lão nhìn anh khi anh cúi đầu nắn nót tô dòng chữ cái, khi anh tỉ mẩn cắt dán các hình thủ công, nặn những con giống đất thó, chế tạo những thuyền lớn thuyền nhỏ bằng bìa và giấy, làm những buồng chiếu phim tự quay bằng vỏ hộp bánh quy và sữa bột trẻ em.

Ngay cả khi Cường ngủ, không chỉ lúc anh năm sáu tuổi mà hồi anh đã thành chàng niên thiếu lão vẫn ngồi ngắm con như người đàn bà lần đầu làm mẹ. Không đơn thuần là niềm trìu mến, thương yêu của cha với con, ánh mắt lão chứa chan những kỳ vọng của một nô lệ với chủ nô, của một kẻ cuồng tín với Thần tượng được thờ phụng. Niềm sung sướng do các ảo tưởng tạo nên làm mắt lão như mờ đi vì mãn nguyện, hệt mắt kẻ đang yêu. Những cuồng vọng nung nấu trong tâm trí khiến tình yêu của lão với đứa con trai trỏ nên bất thường. Hồi nhỏ, Cường không hiểu được nguồn cơn, nhưng một mặc cảm mơ hồ khiến anh sợ hãi:

- Con yêu của ba, cục vàng của ba ngồi lên đây...

- Đứa nào làm đứt tay con, hoàng tử của ba, ba sẽ chặt đứt tay nó cho con hả dạ... Thằng quỷ ác độc nào nỡ làm hại thằng bé hiền như thỏ này...

- Lại đây cho ba thơm, con trai ơi i i...

Thằng bé Cường tới gần cha, ôm cổ cha, thụ hưởng mọi trìu mến, nhưng càng ngày, nỗi lo âu mơ hồ càng trở nên rõ rệt và ám ảnh tâm trí nó một cách dai dẳng. Chú bé thấy phía sau tình yêu ấy ám khí của một vòm trời giông gió.

- Thưa ba, con đây ạ...

- Thưa ba, vâng...

Cường luôn luôn ngoan ngoãn nhưng luôn tìm cớ lảng tránh mọi vồ vập, âu yếm của người cha. Nhất là khi chú bé chín tuổi, và lão đã ném đứa con trai xuống dòng sông Cam một cách độc ác bất tường. Từ năm đó, tâm hồn chàng trai bị lôi cuốn bởi bóng mát của vườn cây. Anh tìm thấy trong ông già láng giềng một tình cảm ôn hòa, thấm thía. Những câu chuyện ông kể ánh mắt điềm đạm nhìn khoảng chân trời xao động, ánh nắng đùa rỡn trong đó như những con thuyền nhỏ rỡn rượt nhau trên hồ nước, cái run rẩy nhè nhẹ của hàng mi... cả cách ông cầm chén rượu uống từng ngụm một, dáng điệu vừa trang nhã vừa kiêu mạn như ông hoàng. Cả cách ông bửa trái cây chín một cách dịu dàng, cách ông nheo mắt lại nhìn vòm lá bên ngoài khuôn cửa chòi... Tất thảy, tất thảy đều chinh phục anh. Đó là một người đàn ông đích thực, một người cha đích thực, cây cổ thụ tỏa bóng hạnh phúc cho bất kỳ ai trú náu. Ngày lại ngày, những ý tưởng đó một sâu đậm hơn. Dù không thú nhận, Cường cũng đã coi ông Hai như người cha đích thực về mặt tinh thần. Và như vậy, anh hãi hùng khi thấy cha đẻ của mình, càng ngày trở nên nhợt nhạt, thảm thê. Anh thương xót lão, anh tự giận mình, tự thuyết phục mình bằng nhiều lẽ, nhưng trái tim anh, như một thứ hướng dương, cứ bị quyến rủ bởi mặt trời ấm nóng của ông già ở bên kia hàng đỗ leo, một người hoàn toàn dửng dưng về máu huyết. Lão Ngạn cảm thấy điều đó, một cách không chắc chắn nhưng hiển nhiên, thiếu bằng cớ cụ thể nhưng lại vô cùng rõ rệt. Lão không dám nói thành lời vì khiếp sợ ông Hai, nhưng trong tâm can, lão thù oán và không bao giờ tha thứ cho ông cái tội quyến rũ Cường. Ngày anh rút đơn ở đại học nông lâm để nộp đơn vào trung cấp hàng hải, ông Hai gọi anh lên chòi uống rượu. Hôm đó trời lất phất mưa, vườn cây chìm trong lớp bụi trắng. Gió ẩm ướt, buồn. Chàng trai ngồi bó gối, bóp mãi những hạt lạc rang cháy trong tay. Ồng Hai lặng lẽ uống hết chén, rồi ông hỏi:

- Cháu đã nghĩ kỹ chưa?

Cường đáp:

- Cháu nghĩ mãi, nhưng không còn đường nào khác?

Ông Hai đăm đăm nhìn mưa, khẽ hỏi:

- Thật à?

Cường đáp:

- Vâng.

Ông rót chén rượu thứ hai, uống một ngụm rồi nói bâng quơ:

- Nghiệp chướng.

Lúc đó Cường không hiểu ông định nói gì... Tới bây giờ anh cũng chưa hiểu. Ông không giải thích gì thêm.

Tới chiều, mưa tạnh, hai người xuống chòi trở về nhà, ông mới thủng thảng nói:

- Người ta, đôi khi nhắm mắt xuôi tay cũng vẫn còn u tối... Chàng trai ngỡ ông nói một câu triết lý chung chung về cuộc đời. Giờ này, Cường sực nhớ. Anh chợt giật mình:

- Có thể là lúc đó ta ngu ngốc, hoặc ta vô tình?...

Làn nước bao la vây quanh con tầu. Nước, nước, không có gì ngoài nước. Biển quạnh hiu đến tê bại cả tâm hồn. Con tầu đi như con thú cô lẻ trên sa mạc. Con thú câm lặng vì nó cũng chẳng thể bỗng dưng gào lên một tiếng khi bốn bề là đại dương câm lặng vây quanh. Trong kia mấy thủy thủ đang ngủ. Số còn lại đánh bài. Giết thời gian buồn tẻ, họ đánh bài ăn tiền, nhưng ăn tiền xu. Mỗi quân ăn một xu, vậy mà suốt ngày dài qua đêm thâu, tuần nọ tiếp tuần kia, tháng này sang tháng khác, có người thua bài phải gán cả xe máy. Đấy là những ngày an lành. Nhưng còn những cơn giông tố, những tai biến của biển khơi...

Nghĩ tới, Cường đã rùng mình. Cơn ám ảnh khủng khiếp nhất với anh, một chàng thủy thủ tồi. Những cái chao lắc ghê rợn, những cơn sóng chồm như thú dữ, tiếng gào hú của gió và sóng, mùi tàu, mùi dây xích gỉ, mùi những bãi nôn... Đó chưa phải địa ngục. Địa ngục của anh là ánh mắt khinh miệt của người đời, lời chửi rủa tục tằn, những bãi nước bọt khạc bắn ra của Đính.

- Đ. mẹ... thủy thủ chó gì thằng ấy? Lúc nào tầu cần, là nó nằm sóng sượt như thây ma.

- Mẹ kiếp sao chúng ta lại phải chịu đựng mãi một thằng thối thây thế này... Các ông báo cáo với tổ chức công ty, đổi lấy một đứa làm ăn được về tàu chứ?

Phải, gã có lý, dù gã ác độc. Anh không phải con người của sóng nước. Thượng đế sinh ra anh không để giao cho những con tầu. Đại dương, tứ thơ của các thi sĩ, niềm ước vọng của nhiều chàng trai, với anh là một sa mạc, chôn rải rác xương cốt của khát vọng sống, ước mơ, niềm tin và ý chí tạo dựng cuộc đời. Cứ mỗi lần va đập với biển, con người thực trong anh lại chết đi một ít.

- Ê, khiêng cho tao cái hòm, Cường.

- Làm sao lúc nào mày cũng như bị ma làm thế, sánh mẹ nó dầu ra ngoài rồi kia kia.

- Cường, tao nghĩ mày sẽ có một cái nghề thực sự dưới tầu này đấy. Nghề giết chuột. Sắm lấy một cái bẫy chuột tốt và chuyển hẳn xuống hầm tầu mà ở.

Một lần, Cường đi xem ca múa trong thành phố. Hôm ấy, người ta biểu diễn chương trình ca nhạc nhẹ. Người giới thiệu chính của đoàn vừa bị đưa tới viện vì bị viêm ruột thừa. Một diễn viên học nghề được cử lên thay. Một cô gái khá cao, lưng hơi hơi gù, có giọng ấm. Có lẽ cô ta là diễn viên thanh nhạc vừa từ trường nhạc nào đó được gửi về. Cô ta chưa quen sân khấu. Và chắc hẳn mãi mãi cô sẽ không quen được sân khấu. Cô bước lên, trước công chúng, với ánh mắt khiếp nhược. Cô không dám nhìn một ai, cũng không dám nhìn khoảng không trung lửng lơ trên đám đông mà dán mắt vào tờ chương trình. Tấm thân thô tháp bó trong bộ quần áo dài trắng, cứng dơ, vụng dại. Dường như vừa đi cô vừa lo âu, vì tấm áo lỗi mốt, vì lưng gù, vì đôi giày gót to quá so với chiều cao của mình... Toàn bộ vẻ thiếu tự tin của cô phô bày không che giấu. Cô cúi chào khán giả, mỉm cười...lập tức công chúng ồ lên:

- Cười với cợt, trông như mếu... Khiếp, sao đoàn này chọn đứa giới thiệu tồi đến thế?...

- Xấu lắm, đọc mau mau rồi biến đi em...

- Tối nay coi như lỗ mất năm xu vì tiết mục giới thiệu.

Không hiểu cô gái nghe rõ những lời phẩm bình tàn nhẫn đó hay chính vì sự khiếp nhược tự thân mà giọng cô run bắn lên, lời nọ nhầm tiếng kia. Dưới ánh đèn, tờ giấy trong đôi tay đánh phấn trắng rung bần bật. Cường nghe rõ từng hơi thở đứt quãng của cô từ máy phóng âm vọng ra. Cô gái chưa đọc hết, vài khán giả lỗ mãng đã vỗ tay đèn đẹt. Cô hoảng hốt, đọc vội vàng cho hết câu rồi chạy vào sau cánh gà. Có lẽ, trong đó cô sẽ gục đầu vào xó tối, khóc tức tưởi. Hay cô sẽ ôm mặt như một con cu ly tội nghiệp để khỏi thấy mọi người?... Chàng trai suy đoán. Anh không còn tâm trí nào lắng nghe các bài hát hoặc xem các cô ca sĩ mới vừa đánh mông toanh toách vừa gào lên một tràng tiếng Anh... Chàng thủy thủ chợt nhận ra chân dung của chính mình qua cô diễn viên xấu số kia... Phải, chính anh cũng thế, anh đã chọn con tầu như cô gái thiếu may mắn kia chọn sân diễn. Giá chi cô hiểu được mình. Cô có thể là ca sĩ dài phát thanh, ca sĩ lồng tiếng cho kịch phim, hoặc đóng các vai múa rối... Bất cứ loại nghề nào chỉ cần tới tiếng hát mà không cần phô diễn thân thể trước đám đông. Nếu thế, rất có thể cô sẽ trở thành người lỗi lạc, với cái giọng trời cho kia. Một giọng nói, chỉ cần nói thôi đã êm mượt như nhung, đã gọi cả một niềm rung động sâu lắng của tâm hồn... Đến tiết mục thứ hai, đoàn ca nhạc đổi người giới thiệu. Một diễn viên múa trong trang phục bước ra. Chị ta khoảng ngót nghét bốn chục tuổi, xuân xanh qua nhưng còn nhan sắc. Vả lại, trời phú cho người đàn bà ấy cái duyên riêng biệt của sân khấu. Nhỏ nhắn, cơ thể tròn trịa, hấp dẫn, gương mặt vui tươi và đầy tự tin chị bước ra sân khấu, chinh phục đám đông từ giây phút đầu tiên. Cường ngắm người phụ nữ ấy, chứng kiến ma lực của chị trên sân khấu, chứng kiến cách chị thụ hưởng thắng lợi của mình như mọi gã đàn ông nhấm nháp một chén rượu hoặc rít một hơi thuốc ngon. Anh thương cô gái thất bại, như thương chính mình. Cường bỏ ghế, vòng ra phía sau sân khấu, với ý định tìm cô để ngỏ một lời cảm thông, để chia xớt nỗi buồn. Nhưng bản tính nhút nhát, vơ vẩn một lát trong hành lang rồi anh lại quay ra cửa, bỏ về...

Đêm ấy, Cường đã đi lang thang mãi trước khi xuống tầu. Gương mặt thất thần của cô diễn viên xấu số ám ảnh anh. Gương mặt của chính định mệnh ám ảnh anh. Cây cầu tầu run rẩy, những làn sóng ngoằn ngoèo như lũ rắn màu chì, những vỏ hộp đồ ăn, vỏ trái cây, bao thuốc và rác rền dập dềnh trên mặt nước sặc mùi dầu. Gió mặn ngoài khơi thổi về, kéo dài rộng mãi một chân trời hiu quạnh... Cường lại nghe tiếng cười của Đính từ phòng nào đó vọng ra:

- Quy nhép, bê lên... Chết cha mày rồi nhé... Nào, bốc đi xem được quân gì?

Tiếng Tuấn hói tiếp theo:

- Được rồi, nhưng hết ván cũng nghỉ thôi. Nhanh thật, mười một giờ kém ba phút... Ông Bá này, thằng Cường chưa về à?

Bá đáp:

- Chắc thế, nó bảo tôi là đi xem.

Đính lại quật lá bài xuống chiếu cười hô hố:

- Át bích hết đường lui chưa?... Thằng Cường đi xem à?... Hôm nay con gián của hai ông bò khỏi cống. Bão cấp chín đến nơi rồi đấy.

Bá bảo:

- Đánh tiếp đi, đừng nói nhiều.

Đính cười to hơn, giọng châm chọc:

- Sao, cứ động tới thằng mọt sách ấy là ông lại nhảy dựng lên với tôi?... Tốt hơn cả ông sắm cho nó một cái bẫy chuột và bảo nó ôm chăn chiếu xuống ở dưới hầm tàu. Sáng kiến của tôi hợp lý quá phải không?... Ha ha ha... Hơ hơ hơ...dũng sĩ diệt chuột, huân chương kẽm của tàu An Khánh đơn vị được kế thừa tên tuổi chiến hạm Pô-chôm-kin...

Tiếng cười của gã ném vào không trung, va đập vào các vách tường vang lên như đá lở. Gió bỗng thổi lồng lên như lũ ngựa hoang. Trong hơi gió ẩm ướt làm sởn da thịt, chàng trai thấy gương mặt của cô đơn, của bất hạnh... Gương mặt đối diện với anh, gã trai hèn kém, nhẫn nhục - kẻ cứu chuộc thân phận bằng sự cam chịu, bằng cách chấp thuận tình thương bố thí của người đời... Có thể, có những lối rẽ khác trên mặt đất này chăng?... Có thể, có những phiên bản khác cho một số kiếp chăng?... Cô ca sĩ Trương Chi kia, giá đừng bao giờ bước lên sân khấu. Còn anh, giá anh không trở thành một thủy thủ hạng bét như bây giờ?...

“Con ơi...

Đã bao nhiêu lần cha anh rên rỉ: Hãy nghe lời cha, phải nuôi chí lớn... Như ông nội ngày xưa, lừng danh khắp cõi. Mỗi bận ông từ cảng trở về, cả thành phố trầm trồ. Ông mặc đồng phục dạ xanh, vai đeo ngù, mỏ neo vàng dính trên mũ. Năm chiếc xe Xi-tờ -rô-oen mới chở hết quà... Bao giờ con nối được nghiệp ông, ba con ta sẽ quay về thành phố, dựng lại tòa nhà xưa..."

Tương lai người cha đã định đoạt cho anh giống con tàu trắng cuối chân trời, đẹp nhưng lạnh lẽo, huyền hoặc. Từ giải bờ ấm nóng này tới con tàu xa cách ấy phải vượt qua cả một đại dương. Anh sợ sóng, sợ bão, sợ làn nước man trá lừa lọc.

“... Ba ơi, tại sao cha con ta không thể sống yên vui như mọi người. Một mái nhà, một nghề nghiệp lương thiện và chắc chắn, tiếng đứa cháu nhỏ reo cười trước mảnh sân, mùi thơm của trái vườn... Con sẽ luôn ở bên cha, những ngày hạ oi nồng nhiều giông gió, những ngày mưa... Ba không còn đơn chiếc, con cũng không lẻ loi... Tại sao ba không chấp thuận một hạnh phúc an nhiên như thế?... Ba hãy quên giấc mơ thủy sư đô đốc kia đi... Chúng ta sẽ tìm được bao nhiêu niềm sung sướng...”

Anh thấy Lão Ngạn chồm tới, gương mặt ủ ê chợt vằn lên những đường gân:

“... Một là mày chết, hai là mày phải trở thành thủy sư đô đốc, đưa dòng họ Phạm đến hiển vinh. Tao không thể sinh ra một đứa con hèn kém, an phận thủ thường...”

Chàng trai ôm mặt. Anh chợt choáng váng như người đang leo dây qua vực, nhìn xuống khe sâu hun hút dưới chân. Tiếng cười vang vang của ông thủy sư đô đốc từ cõi vĩnh hằng vọng về:

- Chào cháu... Mày là kẻ sẽ kế nghiệp ta trong dòng họ Phạm phải không?... Ha ha ha...

Cường ngước mắt nhìn ông, một người khổng lồ mặc đồng phục xanh, mũ xanh đính mỏ neo vàng, ve áo cổ cũng gài chiếc mỏ neo nạm kim cương, bộ mặt rực rỡ, mắt sáng như sao:

- Lại đây, chàng thủy sư đô đốc tương lai...

Ông cất tiếng gọi oang oang. Cường khiếp sợ cất tiếng kêu:

- Không, xin ông tha cho cháu...

Chàng trai muốn nói rằng mình không thể gánh cái khát vọng kinh hoàng đó, cái trách nhiệm vinh quang nhưng quá ác nghiệt, rằng anh muốn sống như tất cả những con người bình thường đã được sinh ra trên cõi đất, anh muốn...

Nhưng Cường líu lưỡi, không nói hết câu.

Điệu cười ha hả của ông thủy sư đuổi theo anh, cái bóng khổng lồ của ông trùm lên mọi ngả đường. Chiếc mỏ neo nạm kim cương óng ánh trên ve áo. Ông, con người ngạo nghễ nhất sáu tỉnh trong vùng, hiện thân của chiến thắng và vinh hiển. Ông sải chân, bước những bước dài trên mặt đất:

- Đừng bỏ chạy... Đứng lại, mày sẽ là kẻ kế nghiệp ta...

Ông nhấc chiếc mũ đô đốc khỏi đầu mình, chụp lên đầu đứa cháu trai. Cường kinh hãi thét lên:

- Cháu xin ông, cháu không thể... Cháu không xứng đáng.

Nhưng ông không nghe anh nói, ông đã bỏ đi, những bước chân gõ nhịp nhàng trên đường chân trời rồi khuất lấp sau đám mây trắng. Chiếc mũ của ông vẫn còn trên đầu anh, lạnh toát và nặng như chì. Chàng trai bủn rủn chân tay, anh vội lên gân dựng cứng sống lưng chạng hai chân lấy thế chống đỡ. Chiếc mũ thủy sư lạnh như tảng băng nhấn chìm anh xuống bằng sức nặng yêu ma của nó, mỗi lúc mỗi sâu hơn. Đất dưới chân chàng trai đã hóa đầm lầy...

- Cứu tôi với.

Cường hét to. Hai tay đưa lên gỡ chiếc mũ. Nó đã thít chặt đầu anh như vòng kim cô của Đức Phật Tổ chụp lên đâu Tôn hành Giả.

Mồ hôi Cường chảy đầm đìa. Anh cố vẫy vùng lần nữa:

- Cứu tôi với...cứu tôi...

Nhưng bốn bề hoang vu, không một bóng người. Và chàng trai chìm dần xuống mặt bùn.

-...Ha ha ha...hôm nay ông Bá có thần tàu phù hộ...

Tiếng cười của ca sĩ Tuấn hói vọng từ đám đánh bài ra. Cường giật nảy mình, đưa tay lau mồ hôi trán... Một cơn mê giữa ban ngày, một giấc mê chính ngọ...

Tiếng Đính quát:

- Chia bài đi... A, đứa nào còn thịt bò sấy đem ra một túi, vừa đánh bài vừa nhai thịt nghe có lý hơn...

Đám người vui vẻ lại tiếp tục. Xung quanh, đại dương tĩnh lặng đến không cùng. Làn nước trải tới chân mây như tấm thảm kỳ bí, ánh tà dương lấp sau các tầng trời. Vài con chim âu nặng nè sải cánh bay qua... Chưa bao giờ mình cô đơn như lúc này... Cường nghĩ. Anh cầm cuốn truyện lên, vùi dầu đọc tiếp. Nhưng những dòng chữ cứ trượt hoài khỏi mắt... Mái nhà ấu thơ, tiếng lục lạc xe thổ mộ gieo trong phố vắng, giải đồi đan tiêu như đám lửa nô rỡn nơi chân trời... Quá khứ là nỗi buồn khắc khoải... Còn tương lai, những tháng năm tới sẽ đem lại cho anh niềm vui nào và nỗi bất hạnh nào?. Một lần nữa, giấc mơ kinh hoàng kia lại trở về. Giọng nói oang oang của ông thủy sư từ cõi vĩnh hằng vọng đến:

- Đừng bỏ chạy...đứng lại...mày sẽ là kẻ kế nghiệp ta.

Lần này, Cường biết rõ đó chỉ là hình ảnh tái hiện của trí tưởng, anh không còn sợ hãi. Nhưng một nỗi lo kinh hoàng hơn ám ảnh: Ai sẽ cứu anh khỏi cái tương lai buồn thảm và bất thường kia?...

Hà Nội, 15/12/1983

Dương Thu Hương
Theo http://vietnamthuquan.eu/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Bùi Phan Thảo với khúc ca bi tráng

Bùi Phan Thảo với khúc ca bi tráng Trường ca “Những ngọn khói về trời” của Bùi Phan Thảo là cuốn truyện bằng thơ, kể lại một thảm họa lịch...