Thứ Hai, 27 tháng 1, 2025

Tiểu thuyết vô đề 1 000000

Tiểu thuyết vô đề 1

Chương 1
Suốt đêm tôi nghe gió hú ngoài vực cô hồn.
Tiếng rên rỉ triền miên, tiếng nức nở, đôi lúc tiếng rít hỗn hào như ngựa cái hí ngày động cỡn. Mái lán rung bần bật, những ống tre nứt thổi sáo từng hồi, tấu lên giai điệu thê lương của đám tang vùng thôn dã. Cây đèn chai của chúng tôi phập phù như muốn tắt. Tôi thò cổ khỏi chăn, thổi tắt ngọn lửa, mong bóng đêm sẽ bịt hết mọi giác quan.
-... cành cạch... cành cạch... cành cạch...
Một cành khô đập hoài vào vách liếp... Tôi vẫn không ngủ được. Tiếng gió bên ngoài cuồng dại như tiếng vật vã của ác thú!
"Chị em ơi...
Tôi lẩm nhẩm khấn: "Chị em sống khôn chết thiêng, xin đừng ám ảnh chúng tôi. Xin các hồn ma phù hộ cho chúng tôi cứng cáp chân tay, sáng láng đầu óc, đánh đâu được đó... Bao giờ thắng trận, đất nước an bình, chúng tôi nguyện sẽ rước chị em về quê cha đất tổ..." Khấn xong, tôi trùm chăn kín đầu, cố quên tiếng gió. Nhưng gió vẫn luồn qua tấm chăn, đuổi theo... vực cô hồn. Cách đây nửa tháng, chúng tôi đã chôn sáu cô gái!
Buổi sáng ấy, tôi cùng tiểu đội của Lành đi kiếm măng.
Khoảng non trưa, cả bọn mò tới vực cô hồn. Chợt thấy từng đàn diều hâu chấp chới, con bay lên, con bổ xuống, kêu náo loạn. Lành dừng lại, hỉnh mũi đánh hơi:
- Có con vật não chết gần đây. Thối quá!...
Thối thật! Mùi thối mỗi lúc mỗi nồng nặc hơn. Chúng tôi định bỏ đi nhưng chính Lành cản lại:
- Biết đâu chẳng phải là xác người? Mà nhỡ là người bên...
Tôi bảo:
- Ờ, thử xem sao...
Chúng tôi hướng vào góc rừng đã tỏa ra mùi thối khủng khiếp mà đi. Tới vực cô hồn, gặp sáu cái xác truồng. Xác đàn bà. Vú và cửa mình bị xẻo, ném vung vãi khắp đám cỏ xung quanh.
Nhờ những tấm khăn dù, nhờ những chiếc cổ áo sơ mi kiểu lá sen tròn và hai ve nhọn mà chúng tôi nhận ra đấy là những người con gái miền Bắc. Có lẽ họ thuộc một binh trạm hoặc một đơn vị thanh niên xung phong cơ động nào đó bị lạc. Cũng có thể họ đi kiếm măng hoặc rau rừng như chúng tôi rồi vấp bọn thám báo.
Chúng đã hiếp các cô tàn bạo trước khi giết! Những cái xác bầm đập méo mó! Da thịt con gái nõn nà tươi thắm vậy mà khi chết cũng thối rữa y như da thịt một lão già phung lỡ hay một con cóc chết!
Đám dòi lúc nhúc trong các vết thương, trong các hốc mắt, hốc miệng. Những con dòi trắng nhở, béo tròn. Chúng tít trên các tử thi, ngoi lội, trồi lên trụt xuống, vẻ viên mãn của loài dòi bọ.
Một cậu lính nhăn mũi:
- Tiên sư loài dòi bọ, không ở đâu không có chúng...
Tôi bảo anh em:
- Đào huyệt đi.
Lũ diều hâu lượn vòng trên đầu chúng tôi kêu la như là ăn cướp. Trời nóng, không gian tù đọng quấn đầy mùi tử thi.
Mồ hôi chảy ròng ròng trên mặt lính. Đào huyệt xong, chúng tôi nhặt nhạnh xác chết, giành giật với lũ diều hâu và bọn dòi từng mảnh thịt rữa của các cô gái xấu số, cho tất cả vào tăng. Túi áo các cô không có giấy tờ chỉ có mấy sợi len xanh đỏ và vài miếng cau khô. Chắc lén để buộc tóc và cau để đánh răng. Các cô vẫn nuôi hy vọng ngày nào đó được cười với chàng trai của mình...
Khoảng đất ở vực hẹp nên chúng tôi chôn sáu ngôi mộ thành vòng tròn. Chôn cất xong, quay lại đám cỏ vẫn thấy dòi vón thành cục. Lành vơ một ôm lá khô ném vào rồi châm lửa đốt. Dòi nổ lép bép... lép bép.. Chúng tôi đứng quây đống lửa, nhễ nhại mồ hôi, người nào người nấy rã rời.
Ném lại những gùi măng, chúng tôi trở về. Không rau, không măng, cơm độn sắn khô với muối vằm xả ớt... Đời lính mà! Tất cả sẽ qua... Vậy mà những ám ảnh không chịu qua. - Anh Quân ơi, anh Quân...
Tiếng Lũy gọi rền rĩ.
Tôi nằm im không đáp. Lũy gọi nữa:
- Anh Quân ơi... Anh đã ngủ đấy à?
Tôi im lặng, vờ ngủ... Một lúc sau, tôi ngủ thật. Giấc ngủ như con tàu chạy vật vờ, trật trưỡng trên đường rầy, luôn luôn đe dọa trượt bánh đổ. Con tàu không hành khách, chở những giấc mộng thời hoa niên. Trong các toa tàu trống rỗng, rơi rải rác những tờ giấy lem nhem mực tím, những mảnh khăn quàng đỏ, dăm viên phấn gãy, một mẩu bút chì... Con tàu lừng lững chạy như kẻ lữ hành câm điếc. Hai bên là đồng hoang trơ trọi. Tôi muốn gọi người lái tàu, tôi muốn kêu to, tôi muốn kéo phanh hãm... Nhưng tôi câm, tôi trong suốt, vô ảnh, vô hình. Gương mặt tôi tan biến giữa không gian, gió nuốt mất tiếng nói...
- Anh Quân, anh Quân...
Cú đập mạnh khiến tôi bật dậy từ đáy nước. Gương mặt tôi vỡ tan nghìn mảnh tử những gợn sóng lăn tăn xô dạt về, đọng dần từng giây khắc. Tôi mừng rỡ nhìn gương mặt của mình hiện lên.
- Anh Quân... anh Quân... dậy đi anh...
Cánh tay tôi tê bại. Tói cố cử động để kéo mép chăn lên:
- Gì thế mày?
- Dậy mau anh, em thấy một con dộộc (một loại khỉ) to lắm.
Tôi cuốn chăn, nằm im. Tôi đã tỉnh hoàn toàn, không còn tê dại vì thấy mình tan biến dưới đáy nước. Nhưng tôi muốn tận hưởng cảm giác êm ái giữa chăn ấm, để thấy rõ ràng tôi vẫn là tôi, yên ổn, đầy đủ xương thịt, ba mươi hai chiếc răng trong miệng, chân đi tất thum thủm mồ hôi, và giữ nguyên thắt lưng khi ngủ...
- Dậy đi anh... Còn khối thời gian ngủ. Con dô ộc to lắm. Bỏ rẻ cũng mười lăm ký lô...Dậy mau anh...
Tôi nằm im.
Lũy nằn nì:
- Dậy đi anh... Lâu lắm không có chất tươi. Bước đi run cả đầu gối.
Tôi vẫn nằm im.
Lũy thúc hối:
- Đi đi anh... Cả đơn vị sẽ được bữa no nê.
Tôi tung chăn:
- Sao mày không đi đi?
Lũy nhăn nhó:
- Một mình... rợn lắm... Anh đi với em. Em bắn. Em bắn chỉ có từ trúng trở lên thôi.
Tôi ngồi dậy:
- Thằng khỉ, làm gì mà mò dậy sớm thế?
Lũy đáp:
- Đói, bụng em réo ào ào... Nào, ông anh xỏ chân vào. Mau mau kẻo con dô ộc biến mất thì toi công.
Tôi khoác dây giầy, khoác áo, theo Lũy ra đi.
Rừng mờ sương. Những đám cỏ ướt quệt vào tay lạnh buốt. Cây cối xen thành bức màn âm u rung động bởi tiếng vượn kêu bầy xa tít.
Tôi hỏi Lũy:
- Tối thế này sao măy thấy được dô ộc với khỉ?
Lũy cười:
- Thủ trưởng không nhớ rằng mắt em tinh nhất đơn vị hay sao?... Cái bận mình bắn hai con nai bên núi Bồ cào ấy... Với cái bận săn sơn dương trên núi Khế, chẳng em thì ai điểm hỏa?
Tôi ậm ừ:
- Ờ, ờ.
Lũy nói:
- Thủ trưởng chóng quên thế... Chính là hồi ở núi Khế, Thủ trưởng đã tập ăn thịt dộ ộc lần đầu...
- A... ạ... à...
Tôi vô tình thốt tiếng kêu. Tôi không quên nhưng tôi chẳng muốn nhớ tới điều đó.
Lũy không chiu buông tha tôi. Nó nheo mắt cười nụ cười đồng lõa:
- Thủ trưởng chiu em nhớ dai không?
Tôi im lặng cúi xuống móc một con vắt trong cổ giầy.
Dù trời chưa sáng rõ, vẫn thấy vết máu dây trên tay. Mùi máu tỏa trong hơi sương lạnh, vừa tanh vừa ngát như lẫn thuốc mê của người vùng núi.
Lũy bước dấn lên:
- Đoạn này đường hẹp, để em đi trước... Anh em mình cố lên, thế nào trưa nay cũng có một nồi cháo to... Rồi Lũy quay lưng, rảo bước. Tôi hình dung nồi cháo sôi sùng sực ở chân núi Khế.
Đám lính khua hăng-gô thìa bát ngồi vây quanh. Những đôi mắt hau háu nhìn làn khói bốc lên. Thỉnh thoảng bếp trưởng lấy chiếc muôi gỗ khoắng lên một chất nước trắng sóng sánh lẫn những hạt gạo nở to... Và những... bàn tay bàn chân dộ ộc trông hệt như bàn tày bàn chân đứa trẻ lên hai.
- Tuyệt... tuyệt...
- Mươi phút nữa là được... ngon hơn cháo yến ngày xưa đấy nhé...
Đám lính xuýt xoa...
Tôi nhìn những bàn tay bàn chân bé xíu của tổ tiên loài người nhào lộn trong nồi cháo, kinh hãi...
Ngày xưa, khi đi chợ phiên vùng núi phía Bắc, tôi đã từng kinh hãi nhìn những chảo thắng-cố vĩ đại sôi sùng sục trên ba lảng đá đen. Một ngọn lứa vàng rực ôm quanh
miệng chảo, - chụm bởi những khúc củi lớn như cây cột nhà, - reo phần phật.
Trong chảo, nước nổi váng bọt ngầu, lồng cồng từng bộ xương bò, xương trâu lẫn những chùm gan, lá sách, lá lách, cả móng trâu, móng bò, móng ngựa.
Người bán thắng-cố bận quần áo đen nhờn mỡ, mắt xếch, đầu trọc, dùng một cây tre đực vót nhọn xuyên từng tảng thịt lớn trong chảo đặt lên miếng ván gỗ, thái thịt bằng
con dao phảng - thứ dao có thể chém đứt phăng cái cổ lực lưỡng nhất theo luật xứ An nam xưa.
Dạo ấy tôi đã ngắm nhìn chảo thắng-cố với nỗi hãi hùng và sự khâm phục lén lút, bởi vì tôi được nuôi dưỡng trong nền văn minh nghèo đói của sông Hồng, - nơi người ta chỉ được ăn thịt trong những ngày giỗ, ngày Tết, hưởng một chút khoái lạc nương nhờ sự hiện diện của các hồn ma, học thói bày thịt điêu toa, thái miếng thịt càng mỏng càng được khen là tài, bày thịt càng lừa được mắt thế gian càng được khen là khôn.
Do những lẽ đó, tôi thấy món thắng-cố như thứ thực phẩm của những kẻ khổng lồ từ trong rừng đi ra, một thứ thức ăn man rợ và hùng tráng, gợi đến những hắc điếm nổi tiếng, các tay lục lâm thảo khấu thích nghe đàn tì bà và có tâm hồn cao thượng... Nhưng... thắng-cố là một nỗi kinh hãi. Cháo dộ ộc lại là nỗi kinh hãi khác.
Dộ ộc là loài khỉ lớn, giống người hơn cả trong mọi loài khỉ. Nó ít đi thành bầy đông đảo như khỉ lửa, khỉ đen, - có thể nặng từ mười tới mười lăm ki-lô, thịt ngon ngọt một cách lý tưởng đối với dạ dày lính.
Nhưng loài thú này có ánh mắt hệt như ánh mắt người. Cái nhìn của nó cũng tươi cười lấp lánh, cũng thù hận, cũng đớn đau ai oán... Và nhất là hai bàn tay, hai bàn chân nhẵn
nhụi, trắng trẻo hệt như hai bàn tay bàn chân đứa trẻ lên hai.
Đơn vị tôi có nhiều tay súng khá. Chúng tôi thường tổ chức săn trong những dịp rảnh rỗi. Thịt nai, thịt gấu, thit chồn hương, gà gô... chẳng thiếu thứ gì. Nhưng cũng có những nơi bom đạn đã xua đuổi mọi loài. Bếp đơn vị, hàng tháng ròng không có mùi thịt thú.
Dạo ở núi Khế, chúng tôi hạ được hai con sơn dương. Sau đó, bao nhiêu tay súng tài ba cũng chịu. Tám tuần liền, cơm chỉ muối trộn ớt và môn thục nấu canh suông. Bọn lính
bèn săn khỉ.
Ngay hôm đầu tiên, chúng đã hạ được một con dộ ộc. Lần ấy, có năm thằng tổ săn cùng hai cậu bếp dám ăn món cháo. Nhưng lần thứ hai, con số gấp đôi. Lần thứ ba, nửa đại đội. Lần thứ tư, toàn thể đơn vị, trừ một mình tôi...
Lúc ấy, cả bọn đổ đi săn dộ ộc.
Chúng không chỉ nấu cháo mà còn bày ra món nhúng, món gỏi... Tất cả xúm vào gạ gẫm:
- Thủ trưởng không biết chứ đã ăn thịt dộ ộc rồi thì hươu nai gà vịt đều nhạt như nước ốc. Loài dộ ộc sắp thành người, thịt mới ngọt như vậy...
- Đừng tưởng tượng, thủ trưởng ơi... Nay mai hành quân, đầu gối long ra là hỏng chuyện. Cứ coi nó như miếng lòng lợn là xong...
- Thủ trưởng ơi, thử một lần xem sao. Một bát cháo dộ ộc bổ hơn một lạng cao khỉ đấy...
Trong tập thể, người di biệt giống như cái đinh chòi ra.
Ai cũng muốn bẻ cái đinh ấy đi, dù kẻ mạnh hay thằng hèn, dù kẻ háo thắng hay thằng nhẫn nhịn... Tôi biết mọi người muốn tôi khuất phục, ít nhất là để chứng tỏ sức mạnh của số đông...
Chiều đó Lũy hạ được con dộ ộc nặng gần hai yến. Tổ nấu bếp lọc thịt làm món nộm với các loại lá thơm rừng và sả ớt. Còn xương đem nấu cháo. Tối đến, trời rất lạnh. Hơi cháo thơm bốc trắng xóa. Lính ngồi chầu hầu xung quanh, mắt sáng rực. Tếu, cậu binh nhì quê Tiền hải, kéo áo tôi:
- Xếp trưởng ăn với chúng em bát cháo nhá?...
Tôi lắc đầu:
- Không.
Tếu nằn nì:
- Xê trưởng thấy đấy, cháo độc thơm hơn thịt nai.
Tôi bảo:
- Tao không thích.
Tếu lắc đầu:
- Không phải không thích. Chỉ vì xê trưởng sợ... Đúng không?
Tếu lấy muôi khoắng, vớt lên bàn tay con khỉ:
- Nó hệt như bàn tay trẻ con mà... Xê trưởng hốt... Nhưng em bảo đảm, thử một lần, lần sau sẽ nghiện...
Đám linh xung quanh reo hò:
- Thủ trưởng can đảm lên... Thử đi... thứ đi...
- Anh em ơi, lần này không tha cho Thủ trưởng...
- Quyết bắt Thủ trưởng ăn cháo dộ ộc với chúng ta...
Mặt tôi nóng bửng. Tôi nhón bàn tay con dộ ộc trong chiếc muôi gỗ, bỏ vào miệng nhằn lấy nhằn để, rồi phun ra một nắm xương.
- Hoan hô... hoan hô... Có thế chứ...
- Thủ trưởng muôn năm...
Bọn lính reo hò, gõ bát, gõ hăng-gô ầm ĩ. Gáy và lưng tôi nóng rực. Tôi ném cho bọn chúng một cái nhìn ngạo nghễ rồi bước ra khỏi hang. Đêm đen. Tôi mò mẫm xuống suối vốc nước súc miệng, cố móc cho cái bàn tay độc vọt ra. Nhưng món ăn bổ béo ấy đã trôi qua cổ họng tôi, không có phép thánh nào làm nó nhảy ra được. Cảm giác tanh lợm làm tôi ghê sợ. Tôi hối hả châm thuốc hút. Đốm lửa đỏ rực trong đêm. Tim tôi ấm dần lên. Làn khói vương vấn trên mặt tôi, ve vuốt. Trí não tôi cũng ấm dần lên... Ngày tôi năm tuổi, có một ngọn đồi xa thẳm. Ngọn đồi xanh với những vòm mít vòm nhãn trùm lên nốc chùa rêu mốc. Nửa mái tam quan đổ nát nhô lên khỏi lùm cây.
Một chiều nào đấy, nắng ấm bò quanh những luống sắn nghiêng ngả dưới chân đồi.
Mẹ tôi dẫn tôi leo lên con dốc sỏi dẫn đến chùa. Bụng mẹ to gần bằng chiếc thúng trồi lên dưới hai vạt áo nhuộm vỏ dà. Vừa đi mẹ vừa ôm bụng nhăn nhó. Mặt mẹ tái nhợt, mồ hôi vã đầy hai thái dương. Con nhớ túm chặt miệng túi kẻo rơi hết áo quần, tã lót. Mẹ bảo.
- Vâng...âng âng...
Tôi cố hét to để trấn áp cơn sợ hãi. Tôi chưa thấy mẹ như thế bao giờ. Mẹ tôi xinh đẹp, tươi thắm, cười lanh lảnh như chuông, đu đưa tôi trên võng tay, bế bồng tôi lên trời...
Mẹ tôi như dòng nước trong veo chảy vào chum, qua chiếc mo cau trắng nõn. Mẹ yêu tôi. Tôi yêu mẹ. Chúng tôi yêu nhau. Khi tôi ôm cổ mẹ, không còn gì làm tôi sợ hãi, dù là tiếng súng, tiếng tù và, tiếng rú hay bóng ma...
Vậy mà lúc ấy mẹ có bộ mặt trắng nhợt của kẻ chết trôi. Bụng mẹ kềnh càng giống bụng cóc, trông kỳ dị, xấu xí.
Mẹ đi lom khom như bà còng. Tôi chạy theo mẹ, mặt nhễ nhại mồ hôi... - Quân...uấn uấn... mau lên...
Bất chợt mẹ thét lên làm tôi ríu cả chân. Mẹ tôi chống tay vào hông, ngửa bộ mặt ướt đẫm lên trời:
- Ối giời ơi i i...
Những giọt mồ hôi của mẹ lăn dài trên cổ. Cha tôi đã lên an toàn khu, một mình bơ vơ nơi quê chồng, mẹ tôi đành lên chùa nhờ một sư nữ vốn là bà mụ-vườn và có họ hàng xa giúp đỡ. Ông bà nội tôi đã mất, ông bà ngoại ở tít xa nơi chân trời - nơi những lượn lúa vàng nhòa đi trong khói súng, tiếng đạn bắn qua bắn lại giữa bọn tề với Việt minh thi thoảng lại vang rền.
Tôi biết nhưng điều ấy nhờ những ngày mẹ tôi nghỉ đi chợ, chờ sinh nở. Những ngày ấy, mẹ thường ôm tôi vào lòng, thủ thỉ, ve vuốt, cái bụng nhọn và ấm của mẹ chạm vào tôi. Nếu tôi tò mò đặt bàn tay lên, tôi thấy vật gì đó trồi lên, trụt xuống. Mẹ tôi cười:
- Em con đấy... Nó đạp khiếp không?... Đấy, nó lại đạp nữa rồi. Chắc chắn sau này nó sẽ nghịch hơn con. Hồi ở trong bụng mẹ, con không đạp liên hồi như thế...
Tôi không hiểu lời mẹ nói. Nhưng tôi cảm nhận lờ mờ rằng trong cái bụng tròn và ấm của mẹ có một sinh vật gần gũi với tôi...
- Quân uấn uấn... khéo không rơi túi quần áo...
- Vâng... âng âng...
Bỗng nhiên mẹ tôi phủ phục giữa đường, kêu rống lên:
- Giời ơi i i... Tôi chết... tôi chết mất...
Mặt mẹ vục xuống cát. Tôi ôm cái hông to bè của mẹ, mếu máo:
- Mẹ ơi...
Mồ hôi mẹ tháo chảy ướt đầm lưng áo. Tóc bết quanh cổ, mẹ tôi đưa tay cào dứt những búi cỏ bên đường. Tôi đứng trơ trọi, run rẩy:
- Mẹ ơi i i...
Mẹ tôi lại gào:
- Chết mất... Tôi chết mất thôi...
Tôi ôm tấm lưng ướt đẫm. Rồi... không hiểu thần linh nào xui khiến, tôi bỗng cất tiếng nói dịu dàng:
- Mẹ ơi, con lạy mẹ... Mẹ đừng chết. Mẹ sống nuôi con...
Mẹ tôi từ từ ngẩng đầu lên, ánh sửng sốt lướt qua khóe mắt, làn môi thoáng cong lên như chạm tới một nụ cười:
- Con trai của mẹ...
Mẹ thì thầm. Một nụ cười nở trên gương mặt méo xệch. Rồi, mẹ cúi mặt, cắm cúi bò lên phía trước. Tôi xốc túi quần áo, chạy theo... Tôi không còn nhớ mẹ con tôi đã leo qua cổng tam quan bằng cách nào. Mấy bậc đá vừa cao vừa trơn như bôi mỡ.
Sư nữ đưa chúng tôi ra căn nhà hoang tít sau vườn, nơi các bụi cỏ leo mọc trùm lên các bậc đá và bụi kết từng đám trong phòng, trên các gờ cửa, trên bàn thờ gỗ, ngay cả những tấm mạng nhện khổng lồ như mạng nhện của loài yêu quái trong chuyện cổ cũng xám xịt vì bụi.
Mẹ tôi nằm trên cái nong cũ trải lá chuối và vải thưa. Giữa hai đùi mẹ, dòng máu thắm vọt ra, thắm đỏ như huyết con trâu bị chọc tiết ngày lễ... Cuối cùng là tiếng khóc oe oe và những bàn tay bàn chân đỏ hỏn quờ quạng giữa không trung.
- Mẹ mày đẻ em trai rồi... Sao không ra mừng mà đứng run như giẻ thế kia?
Giọng một người đàn bà quát vào tai tôi.
Và tiếng của một người đàn bà khác:
- Mô Phật, thằng bé dễ yêu quá, đừng làm nó sợ... Này cu Tý... lại đây xem em trai...
Bà chĩa trước mặt tôi một sinh vật đỏ hỏn. Tôi sợ cái mặt cau cớ như mặt cụ già, mấy nếp nhăn trên vầng trán ướt nhoẹt, vài sợi tóc lưa thưa... Hai bàn chân nó quẫy đạp vào mũi tôi. Lúc ấy mẹ tôi quay lại:
- Con trai mẹ, em đấy mà...
Nắng chiều hắt ngoài vườn vào mắt mẹ, ánh mắt êm đềm. Giọng nói mẹ trở lại lảnh lót như xưa. Tôi trút đi được cơn sợ hãi. Túm lấy bàn chân đỏ hỏn của cái sinh vật xa lạ ấy tôi cọ vào má:
- Em em em...
Nhà sư và bà phụ đỡ cùng cười. Mẹ tôi cũng cười, răng trắng ánh lên như ngọc. Tôi yêu nụ cười của mẹ. Tôi sung sướng reo:
- Em ơi i i...
Em tôi khóc oe oe. Tôi buông chân nó ra để các bà mụ đem đi tắm. Trong chiếc chậu sành, nó khóc kịch liệt, đạp kịch liệt khiến nước bắn tóe ra xung quanh... Điếu thuốc đã tàn một nửa. Bên kia đốm lứa đỏ là bóng cây chập chùng. Một con thằn lằn trượt qua, ánh lên vệt lân tinh. Tôi lại thấy buồn nôn. Tôi muốn móc cái bàn tay con dộ ộc ra. Tôi rít mạnh hơi thuốc, tự nhủ:
- Chẳng có gì liên quan, chẳng có gì...
Nhưng bàn chân nhỏ xíu của đứa em trai ngày sơ sinh vẫn quẫy đạp trước mắt tôi. Một váng mây trong suất phập phồng giữa không gian. Tôi rít nốt hơi thuốc rồi ném mẩu chót xuống suối, cổ họng đắng ngắt. Có cái gì đó đã rớt lại phía bên kia... rớt lại phía bên kia đường chân trời...
- Anh nghĩ gì thế?
Lũy hắng giọng rồi huých vào sườn tôi.
- Chẳng nghĩ gì cả.
- Thế thì anh nói chuyện đi. Hai anh em cứ lùi lùi như gấu mò... ghê bỏ mẹ...
- Tại sao mày không gọi tao là anh, có dễ nghe không?
- Được một lát lại thủ trưởng... xê trưởng...
Lũy cười khì khì:
- Lúc nào em muốn nịnh anh thì tự nhiên cái lưỡi nó phun ra hai từ thủ trưởng...
- Ra thế... thủ trưởng, xê trưởng... Khều được tao chui khỏi chăn, khoác súng vào rừng là từ thủ trưởng biến thành thủ viên?... Đồ đểu... - Anh đừng giận, em có lừa anh cũng chỉ lừa được những cái tí ti, bõ bèn gì?... Cẩn thận... đoạn này em nghi còn mìn lá...
Trời đã rạng. Lũy vượt lên đi trước. Hai cánh vai ngang bè giương ra như gọng xương con dơi. Lưng Lũy gù gù, nó cao tới một thước bảy mươi lăm. Cơ thể nó đòi chất sống. Lâu nay chúng tôi chỉ ăn mắm tôm khô với rau rừng, rêu đá nấu suông. Da thằng bé nhợt đi. Bữa nào nó cũng ngồi nhặt từng hột cơm rơi bỏ vào miệng. Miếng cháy quá lửa đen như nhọ chảo nó cũng không tử, ước gì được một bữa no. Một chõ xôi trắng với nửa cái chân giò luộc... hay một rá bún chấm mắm tôm chanh.
- Anh Quân ơi, cho em xem cái hộp đường...
Tối nào Lũy cũng nhắc lại cái điệp khúc ấy. Tôi bực mình:
- Đàn ông gì thứ mày?... Cái hộp đường vét nhẵn hôm nọ rồi còn gì?
- Chưa, chưa đâu... Hôm nọ em mới vét sơ sơ...
- Thế thì ra ba-lô mà lục...
Lũy moi hộp đường của tôi ra, lúc đầu dùng thìa, sau dùng lưỡi vét. Cuối cùng, nó đổ nước suối, lắc òng ọc lên rồi ngửa cổ uống cạn...

Qua buổi tối hôm đó, Lũy không còn biết hành hạ thứ gì cho đỡ đói. Những giấc mơ thực phẩm càng làm nó khốn khổ. Ở nhà, Lũy được chiều. Nó là con một. Mẹ vừa làm ruộng vừa buôn vặt nên rủng rỉnh tiền. Mỗi bữa Lũy ăn tám chín bát cơm.
- Cẩn thận anh Quân, xuống vực đấy...
Chúng tôi bám những chùm rễ cây, lần từng bước xuống vực. Vực này rộng và nông hơn vực cô hồn. Quanh các thân cây già, quấn quít loài dây leo màu tím nhợt, hoa to như hoa loa kền xanh lơ điểm chấm đen. Giữa các ống hoa phủ đầy phấn, vươn lên những chiếc vòi mềm mại và hiểm ác như vời bạch tuộc, gần như không màu sắc, lấm tấm những giọt mỡ nhớt nhát vàng, mùi hương bầm dập như hoa bào tây lẫn với mùi tanh của máu.
- Đây rồi. Anh chờ em.
Lũy xăm xắn chạy lui chạy tới kiếm cho tôi một khúc gỗ mục làm ghế ngồi:
- Thế nhé. Anh cứ việc vuốt râu mà ngắm cảnh. Mọi việc để em. Con dộ ộc này không thể thoát khỏi đây. Em đã để ý kỹ. Nó cứ lẩn quẩn trong đám cây dưới khe. Chắc nó đói.
Tôi ngồi, co vai cho ấm. Ánh lê-minh len lỏi qua lớp sương rắc từng vệt sáng màu bạc lạnh. Tử vực có một khe nước nhỏ dẫn tới hang đá, lô nhô những thân cây khắc khoải, cành thưa và đen, xù xì những u, như bướu của kẻ tật nguyền.
Không lẽ loài dộ ộc kiếm ăn ổ đây? Cây khắc khoải có trái nhỏ và bùi, vừa tựa như trái trám lại vừa tựa như trái đậu-keo. Nhưng thứ trái cây này hiếm dẫu rằng hoa nở tràn lan vào mùa thu, hết đợt này qua đợt kia, dùng dằng cho tới cuối đông chưa dứt và những cánh hoa li ti màu khói rơi thành lớp dày trên mặt đất bốc lên một mùi thơm nôn nao quằn quại. Chưa ai tìm được ba trái cây khắc khoải. Người leo giỏi nhất cũng chỉ hái được hai trái. Ai cũng muốn nếm một lần, không phải vì hương vị ngon ngọt bổ béo mà vì tò mò. Loài trái cây này ăn ngon nhưng ăn xong, tim đập lúc nhanh lúc chậm, óc não vấn vương những giấc mơ thần bí và con người bỗng thấy sự bất tường trước đời sống, nảy nở ra mối khoái cảm lạ kỳ là: thắc thỏm đợi chờ cái chết... Không có lẽ loài khỉ rừng kia cũng muốn tìm cảm giác bất tường, cũng muốn được phập phồng chờ đợi tử thần...
Lũy bỗng đứng lên một mỏm đá, giơ tay ra hiệu cho tôi. Theo hướng tay Lũy chỉ, tôi nhìn thấy một bóng đen lẩn khuất trong đám cành cây khắc khoải. Giữa sương mờ, nó giống hình dáng của một con gấu ngựa mới trưởng thành, lần đầu đi ăn trộm mật ong.
Lũy ra hiệu tôi ngồi im, xách súng lom khom chạy về phía trước. Một giải sương trắng đục che khuất. Tôi không trông thấy Lũy, tôi khoanh tay, chờ đợi. Cái bóng trên cây khắc khoải đang di chuyển. Nó chuyền sang một cây khác và trèo ngược lên.
- Đoàng.
Súng nổ. Một tiếng kêu đập vào các vách núi vọng tới khiến tôi rợn gai ốc. Tôi đứng vọt dậy như bị ai quất: Tiếng kêu ấy không giống tiếng kêu loài thú, cho dù loài thú ấy đã được liệt vào hạng tiền sử của loài người. Và những hồi âm từ các vách đá gần xa ném lại, nhân lên bởi các khe lũng, bồi tiếp những âm hưởng dài và sắc như vết thương khứa bởi một mảnh nứa cật.
Lũy quay đầu, xách súng chạy bổ lại phía tôi. Mặt nó tím xanh:
- Anh Quân... anh Quân...
Tôi không dám nhìn vào cặp mắt láo liên của nó.
Chính tôi cũng run lên.
- Làm sao thế?
- Em không biết... Tiếng con dộ ộc kêu y như tiếng người... Anh Quân, em sợ... Anh đi với em...
Lũy tụt lại phía sau, mũi súng trút xuống. Chúng tôi đi dọc theo lòng khe, về đám cây khắc khoải. Những viên sỏi trượt dưới đế giầy làm tôi lao chao muốn ngã, - mỗi lần như thế, mồ hôi rin ra thấm đẫm lưng.
Sương vắn quẩn giữa đám lá cành trên đầu chúng tôi, mát như thạch. Chân tôi vướng vào một bụi gai. Đột nhiên, phía sau bụi gai bật lên tiếng rên:
- Thủ trưởng... ương...
Lũy bóp chặt cánh tay tôi. Chúng tôi lao về phía bụi gai. Phía sau đám cây rùm ra, phơi ra hai chiếc cẳng chân gầy quắt queo, giầy đã rách, bên có tất, bên không. Tim tôi đập lồng lộn, tôi kéo Lũy chạy tới, thấy người bị thương đang ôm bụng, mảnh dù pháo sáng kẹp ở nách nhuộm đẫm máu tươi. Máu thấm đẫm cả phần bụng dưới, một bên túi và cửa gài khuy quần. Tôi nhận ra Phiến, cậu lính nhút nhát nhất đơn vị. Phiến thấy chúng tôi ngồi xuống thì cố nghển cổ lên:
- Anh Lũy... bắn ăn ăn... nhầm em rồi... ì...ì...
Cậu ta cố mỉm cười, chiếc răng khểnh chìa khỏi vành môi, nhưng hai mép run giật đau đớn. Phiến nhìn tôi, thều thào:
- Thủ trưởng ương... đừng... đừng kỷ luật em... Em trót ót trót đi... kiếm iếm... dù cho...o...
Phiến nấc lên giữa chừng câu nói, cổ ngoẹo sang một bên, mềm oặt... Tôi đặt tay lên ngực trái Phiến, không thấy động tĩnh gì. Tôi nhổ một sợi tóc đặt trước lỗ mũi cậu ta. Sợi tóc im phăng phắc. Lũy rú lên, vùi mặt xuống ngực Phiến khóc rưng rức. Tấm thân to lớn kềnh càng của nó run bần bật.
- Giời ơi, giời ơi... giời ơi...
Mắt Phiến vẫn mở, không còn ánh lên nỗi vui mừng hay buồn khổ. Trước đấy một phút, khi nói lời cuối cùng, nó còn dán vào mặt tôi, nhịn nhục sợ hãi:
- Thủ trưởng đừng kỷ luật em... em... em...
Cậu lính này đã lẻn dậy sớm, đi kiếm dù pháo sáng. Nó kiếm dù cho ai nhỉ?... Nó đã lẻn đi như thế này bao nhiêu hôm rồi? Tại sao tôi không biết?... Trong cuốn sổ danh bạ của viên chỉ huy hạng bét hiện lên dòng chữ:
- Nguyễn văn Phiến. Tuổi: Mười chín.
Quê quán: Làng Nèo, Gia viễn, Ninh bình.
Cao một thước năm mươi.
Mặt rỗ hoa, có răng khểnh.
Tính nhẫn nhịn, nhu mì.
Bất cứ nơi nào, dù trong rừng hay đóng quân ở nhà dân, những việc nặng nhọc bẩn thỉu đều có mặt Phiến: lấy củi, kiếm rau, nặn than đun bếp, móc cống, làm vệ sinh lán trại...
Gặp đám gái làng xinh tươi, những cậu bẻm mép lăn vào tán tỉnh, trăng gió. Nhưng hễ có hậu quả tai hại, bao giờ Phiến cũng được cử đi dàn xếp. Bộ mặt Phiến có cái vẻ của kẻ chịu tội bẩm sinh. Dù hung đồ đến đâu, nhìn vào bộ mặt tuẫn nạn ấy cũng khó xuống tay đao. Dạo còn ở ngoài tiền duyên, Phiến thường kè kè bên mình cây nhị. Lúc nào rỗi lại thấy cậu ta ra gốc cây cò cử:
"Trèo lên Quán dốc, ngồi gốc cây đa... ì...a..."
Lũy vẫn phục xuống khóc. Tôi quát:
- Đứng lên... Đứng...
Cậu ta ngẩng mặt, ngơ ngác nhìn. Máu và nước mắt tèm lem.
Tôi điên tiết lên:
- Mày khóc cái gì?... Mày sẽ phải ra tòa án binh, chờ lĩnh một viên đạn vào đầu.
Lũy đứng im. Một giọt nước mắt đỏ ngầu rơi từ má trái xuống cổ áo.
- Mù-xoa đâu, lau mặt đi. Dù có phải ra tòa án binh, mày cũng không thể giữ cái bộ dạng như thế.
Lũy thò tay vào túi quần, lục tìm, lấy ra một chiếc mù-xoa bẩn thỉu, vo viên thành cục. Cậu ta gỡ tấm khăn nhàu nát ra, đờ đẫn lau mặt.
- Mày tính thế nào?
- Đằng não cũng phải lĩnh một cái án tử hình... Hay tao bắn cho mày một phát?
- Vâng.
Lũy gật đầu, tiến lên đúng im trước mặt tôi:
- Anh bắn em đi. Đằng nào cũng thế.
Cậu ta nhắm mắt lại. Tôi liếc xuống tử thi: Khốn nạn, thằng sống thì nhắm mắt chờ đạn, thằng chết mắt lại mở trừng trừng...
Lũy nói:
- Anh bắn đi... Thế nhẹ nhõm hơn...
Mắt Lũy vẫn nhắm nghiền. Trời đã sáng hẳn nên tôi nhìn rõ những nếp nhăn hằn trên má, dưới mí mắt. Bộ mặt tái xám ấy là bộ mặt của một lão già. Thằng khốn nó đã già đến thế ư? Có lẽ chính tôi cũng đã già đi nhanh như nó. Nhưng chúng tôi không có thời gian để nhớ kỹ gương mặt mình. Hai tay tôi rũ xuống. Thân thể tôi như không còn xương cốt. Tôi bảo:
- Lũy, mở mắt ra.
Nó mở mắt, đờ đẫn.
- Mày tưởng tao có thể giơ súng bắn mày hay sao?
Luỹ im lặng. Đám cây khắc khoải in vào đôi mắt bất động của nó những vệt xanh đục. Tôi nhắc lại:
- Mày tưởng tao có thể giơ súng bắn mày sao?
Nước mắt lại ứa ra, trào qua mi, lăn xuống hai gò má Lũy.
- Chuyện nãy xảy ra, chỉ tao với mày biết. Không ai muốn. Cũng không ai lường trước. Tai họa như sấm sét nổ trên đầu, chẳng ngăn được. Giờ, đưa mày ra tòa án binh, nhận án tử hình hay tù cấm cố, được cái gì nào?... Vả lại mẹ mày sẽ...
Lũy bật khóc nức nở. Mẹ nó... người đàn bà ở góa nuôi con. Bà ấy sẽ chết dần chết mòn, nếu nó hy sinh. Nhưng bà ấy sẽ phải treo cổ hay nhảy xuống sông tự tử nếu nó bị tuyên án tử hình hoặc tù cấm cố.
Tôi đã gặp bà ta một lần, ngày nhận lính. Ngày ấy, Lũy trẻ măng, hai má tơ hồng mơn mởn, trắng như con gái. Nó khép nép đi sau một người đàn bà khổng lồ, bơi kềnh càng trong tấm áo lụa mỡ gà... Mẹ nó, vị thần hộ mệnh, nô lệ và người bạn thân thiết. Người đàn bà xấu xí, con voi cái đơn độc chỉ có niềm tự hào duy nhất, nguồn vui sống duy nhất là đứa con trai...
- Thế nào?...
Lũy vẫn khóc nức nở. Tôi gắt:
- Im mồm đi... Mày thấy chưa?... Nếu mày chết nhục nhã như thế, mẹ mày sẽ chết theo... Cho nên, phải im như tờ. Giờ về lán, sinh hoạt như thường. Trưa, tới giờ cơm, tao sẽ bảo Khuê kiểm quân số. Sẽ cử người đi tìm. Anh em sẽ bắt gặp nó như sáu cô gái ở vực cô hồn thôi. Hiểu chưa?
Lũy mếu:
- Em hiếu... Nhưng anh cứ bắn cho em một phát... Thế này em cũng không sống được đâu...
Tôi nắm tóc nó giật giật:
- Này, tĩnh trí lại đi... Lộ chuyện này ra, cả tao với mày cùng chết... Nhưng như thế thì được ích gì? Tao với mày không phải kẻ phản bội, cũng không phạm tội cố ý... Lẽ ra, tao chẳng bày ra cái trò này làm gì. Kệ mày lĩnh một viên kẹo đồng cho nhẹ xác. Nhưng tao thương mẹ mày, hiểu chưa?... Tao thương bà ấy chứ không phải thương mày...
Câm mồm, không được bật ra một tiếng thút thít nữa. Và lau mặt cẩn thận. Trông mặt mày gớm ghiếc như mặt ma... Trưa hôm ấy, giờ cơm, tôi bảo Khuê kiểm điểm quân số.
Anh em thì thầm:
- Thằng Phiến lẩn đi đâu?...
- B quay rồi... Sai, cứ đem cổ tao ra mà chặt.
- Thằng ấy sao mà đào ngũ được?
- Rất có thể đấy. Thường những thằng nhu mì nhất lại hay gây ra những cú động trời...
Trong ba lô của Phiến có một chiếc dù hoa to và tám mảnh dù pháo sáng.
Buổi chiều, trong khi Khuê cử anh em đi tìm Phiến thì liên lạc sư đoàn mang công văn xuống, triệu tôi lên họp gấp.
Lũy tiễn tôi một đoạn đường. Cậu liên lạc, trong lúc chờ, lẻn vào chỗ khuất đái. Tôi hỏi Lũy:
- Tại sao thằng Phiến nó tích lắm dù thế không hiểu?
Lũy đáp:
- Mọi người lấy dù làm khăn quàng cổ, làm kỷ niệm.
Nhưng nó kiếm dù để sau này đổi vải may áo. Ở quê nó, ai cũng thích có một chiếc khăn dù...
- Sao mày biết?
- Nó kể với em... Nó bảo: Sau chiến tranh, không biết làm gì ra tiền, có ít mảnh dù đem đổi lấy vải may áo quần cũng tốt... Anh Quân, anh không biết đâu... Nhà Phiến nghèo lắm. Bố mẹ nó chết từ lúc em nó lên hai. Hai anh em chăn vịt thuê, mót thóc, đánh dậm nuôi nhau. Nó thương em gái lắm... Lũy lại khóc nức lên...
Tôi bảo:
- Thằng liên lạc nó đến bây giờ... Im đi... Giờ mà mày làm lộ chuyện thì tao chết trước, hiểu chưa?
Lũy im bặt, quay về. Tôi cùng cậu liên lạc lên sư đoàn.
Chương 2
Người đợi tôi không phải Sư đoàn trưởng mà lại là Lương, sư phó. Chúng tôi cùng làng, bạn từ thuở cởi truồng, nhà cách nhau một hàng dậu thưa trồng dâm bụt. Lương hơn tôi hai tuổi. Người tầm thước, mặt vuông, cằm vuông, mày ngang, dù hạ hay đông, môi cũng đỏ thắm như hoa hồng. Mười năm chiến tranh, sốt rét quật lên quật xuống, màu đỏ có phai nhưng, so với người khác, vẫn còn tươi.
Anh có vẻ tư lự. Chúng tôi lẳng lặng uống rượu với món nộm chuối rừng và vài con cá trích hộp.
Một giờ sau, anh rủ tôi ra suối tắm.
- Tôi mới tắm hôm qua. Mà trời lạnh bỏ xừ, nó giáng cho một trận viêm phổi hay cảm hàn thì rách việc.
Lương hạ giọng:
- Không tắm thì ngồi chơi. Tôi có chuyện muốn nói với cậu.
Tim tôi giật thót: Chẳng lẽ anh ta đã biết việc sáng nay?... Không, không... họa có là Thánh sống. Nếu có Thánh thì bom đạn mịt mùng, tử khí tụ đầy rừng núi cũng đủ cho các vị Thánh phải bay tới những phương trời khác... Yên trí, tôi gật đầu:
- Ta đi đi.
Chúng tôi rời lán vào lúc hoàng hôn. Vượt khỏi hầm chứa lương chừng ba trăm thước thì tới cửa rừng, nơi các ngọn cây nhuộm ánh trời rực rỡ. Chẳng ai bảo ai, chúng tôi cùng ngửa cổ ngắm những vòm lá xao động gió chiều, hít từng hơi dài khoan khoái làn khí thoáng đãng.
Lương đưa tôi qua giải đất thoai thoải men theo cửa rừng, mọc đầy loài gai nhỏ như cây ruổi với những chùm quả chi chít màu nghệ. Loài cây này mọc lan tới ven suối. Anh bảo tôi:
- Ngồi đây.
Chúng tôi ngồi bên nhau hồi lâu, hút thuốc, không ai nói với ai một lời. Ráng chiều đọng thành vũng trên suối cạn tựa mặt hồ nơi khuất gió, không gợn sóng. Từ màu vàng thếp, vũng suối cạn đã chuyển sang màu hồng, rồi màu tím.
Tôi nói:
- Sắp tối rồi.
Lương gật đầu hờ hững:
- Ờ, ờ
Anh rít liền hai hơi thuốc rồi nói:
- Này Quân, nhớ làng không?
Tôi đáp:
- Nhớ chứ. Sao lại không?
Lương nói:
- Ờ, nhớ nhất là con sông... Mỗi lần gặp suối, chân tôi ríu lại... Ghê gớm hơn cả là dịp qua con suối Phiêu bồng... Cậu cũng đến đấy rồi nhỉ? Tôi đáp:
- Thằng lính nào đến vùng này mà chẳng phải qua suối Phiêu bồng.
Lương gật gù:
- Đẹp thật...
Tôi nói:
- Đẹp thì hẳn đi rồi. Nhưng anh gọi tôi ra đây chỉ để nói chuyện nhớ làng hay sao?...
Lương há miệng:
- Ơ ờ
Chẳng ra thú nhận cũng chẳng ra tán đồng, anh châm điếu thuốc khác rồi nói:
- Không thể để lính nó nghe thấy... Chiến tranh mà...
Tôi cười:
- Ờ, chiến tranh...
Chúng tôi cùng nhập ngũ với nhau một ngày. Sau mười năm, Lương là cán bộ sư đoàn, hơn tôi ba hàm. Lăn lộn không thể hơn tôi, nhưng anh biết ghìm giữ con người mình. Hồi chúng tôi còn là tân binh, có một lần anh bị cán bộ huấn luyện giáng cho một bạt tai vì chuẩn bị số đạn ra thao trường không đủ.
Tôi điên tiết định lao ra cho thằng cha một cú đấm nhưng Lương kéo ngay tôi lại:
- Tôi van cậu... đứng im... Tôi van cậu...
Anh thì thầm vào tai tôi, giọng rít lên quyết liệt trong khi mặt vẫn cúi gầm.
Thằng cha cán bộ huấn luyện đứng cách chúng tôi mươi thước vẫn tiếp tục phun ra những lời chửi rủa lỗ mãng. Tôi còn nhớ mặt hắn: đen đủi, cằm bạnh, lỗ mũi huếch, có một chiếc răng vàng.
Tối hôm đó, đi xem xi-nê về bắt gặp Lương ngồi quay mặt vào tường, im lặng. Khi tới gần, tôi thấy những dòng nước mắt bò ngoằn ngoèo trên hai má anh. Một chiếc thìa xúc cơm bị bẻ vụn từng mảnh rơi trên giường...
Mười năm đã qua. Giờ Lương là một cán bộ có uy tín trong sư đoàn. Tuy là Sư phó nhưng được cấp trên tin cậy, trọng dụng. Đám sĩ quan cùng cấp thầm lén ghen tị anh. Họ xì ra với tụi lính tráng các đơn vị. Ai cũng biết ngày một ngày hai Lương sẽ được kéo lên quân đoàn. Anh là người của chiến tranh. Phẩm chất dầu tiên của chiến tranh là phải từ bỏ mình.
Vũng suối cạn đã ngả sang màu tím sẫm. Những viền cỏ đen chập chờn trên cao. Lương bỗng đưa tay sờ quai hàm và nói:
- Tôi gọi cậu lên vì chuyển cậu Biền.
Tôi hỏi:
- Sao cơ?
Anh vẫn đưa tay sờ quai hàm. Hàm anh cân đối, vuông, và tôi biết bộ râu quai nón của anh tuyệt đẹp. Nếu anh chàng cạo, râu anh sẽ dày và rậm không thua gì râu Các- Mác, vị Thần ngự trị trên tất tật các trang sách giáo khoa, các bản kinh thề nguyền thường nhật và những lời tuyên thệ. Nhưng Lương không biết mình có hàm râu ưu thế, anh đang mân mê cằm vì mải nghĩ:
- Biền bị điên. Hôm qua có người vượt tiền duyên vào đây báo tin cho tôi biết.
Tôi buột miệng:
- Láo, thằng Biền làm sao mà điên được?
Lương từ tốn đáp:
- Người đưa tin nói rành rẽ như thế. Hiện cậu ấy bị giam tại trạm xá chờ kiểm tra. Nếu đúng họ sẽ chuyển đến bệnh viện tâm thần.
Tôi nói:
- Tôi không tin. Nếu điên thì nó phải điên từ hồi gặp tôi ở Phải khen. Dạo ấy nó bị sốt rét ác tính.
Lương im lặng. Anh có thói quen giấu ý nghĩ của mình. Nhưng chắc chắn anh cũng ngờ vực như tôi. Chúng tôi đều là bạn cùng làng, cùng chung nhau một cánh đồng, lô nhô gò mả, để chăn trâu, móc cua hay đánh vật, cùng chung nhau một mái trường thơ ấu, cùng bị ông giáo Khuê, biệt hiệu Khuê Khùng véo tai. Nhà anh Lương với nhà tôi vùng chung hàng dậu. Nhà Biền cách chúng tôi ba nóc, ở rìa làng. Biền bằng tuổi tôi nhưng cao hơn tôi nửa cái đầu, nặng bẩy mươi cân rưỡi, có thể gánh lúa từ tinh mơ sáng tới nửa đêm, gánh nào cũng như gánh nào, ngót nghét một tạ.
Ba chúng tôi đã chung một niềm hân hoan trong ngày nhập ngũ. Ngày ấy, sân ủy ban đỏ chói những cờ. Khẩu hiệu treo la liệt trên các bức tường thôn:
"Hoan nghênh anh em tân binh lên đường cứu nước"
"Trai làng Đông tiến quyết trung thành với truyền thống của Cha ông!”
“Chủ nghĩa Mác-lê-nin bách chiến bách thắng muôn năm"
Đội thiếu niên đánh trống cà-rùng từ tinh mơ cho tới lúc đứng mặt trời. Những cô gái mặn mà nhất làng được tuyển vào đội văn nghệ phục vụ công tác nghĩa vụ quân sự.
Các nàng giấu những tấm khăn hồng khăn xanh trong túi, rủ nhau tới trước máy phóng thanh véo von: "Yên tâm vững bước mà đi, hỡi người mà em yêu..."
Chúng tôi đứng thành hàng nghiêm ngắm, mắt nhìn thẳng về phía trước trong lúc các bà mẹ lén lút hỉ mũi vào vạt áo ghìm tiếng nức trong họng, để rồi mỗi khi có vị đại điện nào tới thăm hỏi thì lại cố giương đôi mắt đỏ hoe lên, trệu trạo cười:
- Dạ, thưa bác, cháu nó được lên đường, chúng em phấn khởi lắm ạ...
- Dạ, báo cáo với bác, em xin hứa: Giỏi tay cày, Hai tay súng, xứng đáng với người ruột thịt ở chiến trường...
- Dạ, phụ nữ làng Đông tiến quyết giật cờ đầu của huyện về phong trào ba đảm đang...
Mẹ tôi mất sớm, hồi tôi tám tuổi. Nhưng tôi chứng kiến các bà mẹ khác ngồi thâu đêm trong căn bếp, trước ánh lửa leo lét của những đống trấu dấm, khóc thầm. Nước mắt họ thấm đẫm những vạt áo vỏ dà, những tấm khăn tay nát nhàu, nhem nhuốc.
Rồi, sớm hôm sau, những vạt áo của họ loang lổ ngấn trắng và mắt họ đỏ mọng lên. Còn lũ trai trẻ chúng tôi đang bị lôi cuốn bởi một sứ mạng vĩ đại, bởi một vinh quang sáng chói.
Cuộc chiến tranh này không đơn thuần là cuộc chiến đấu chống quân xâm lược. Nó là cơ hội vinh thăng cho toàn dân tộc. Đất Việt nam đã được lịch sử chọn lựa để hiển thánh. Sau cuộc chiến, Tổ quốc chúng tôi sẽ trở thành Thánh đường của nhân loại, nhân dân chúng tôi sẽ trở nên những con người khác biệt, được tôn vinh và kính nể... Bởi lẽ đó chúng tôi đã quay mặt đi, lảng tránh những giọt nước mắt yếu mềm...

Từ đó tới nay đã mười năm. Chẳng ai nhắc lại, nhưng không ai không nhớ. Càng tiến sâu vào chiến cuộc, kỷ niệm ngày nhập ngũ càng sâu đậm. Những giọt nước mắt của các bà mẹ mặn thêm với mặc cảm thầm kín về sự vô tình của lũ con trai đi tìm kiếm vinh quang. Mặc cảm ấy liên kết chúng tôi lại với nhau, như các kỷ niệm thời chăn trâu, cắt cỏ.
- Tôi không thể đi được...
Lương chậm rãi nói tiếp:
- Cậu hãy ra ngoài đó xem hư thực ra sao. Tôi có viết thư riêng cho Sư trưởng Nguyễn văn Hảo, Chính ủy Đoàn Trọng Liệt, tùy theo tình huống cụ thể mà cậu giải quyết. Xong việc, cậu có thể tranh thủ đi phép luôn. Từ miền tây Quảng bình ra Thanh hóa theo đường dây binh trạm. Đến Thanh hóa là có xe rồi. Giấy tờ của cậu tôi đã bảo người chuẩn bị. Mai về đơn vị bàn giao công việc cho cậu Khuê. Tôi nghĩ cậu ấy cũng là một tay kha khá, đủ khả năng đảm đương mọi thứ trong lúc cậu vắng mặt...
Tôi ngồi lặng đi, ân huệ lớn quá không thể ngờ. Tôi cố trấn tĩnh, lấy giọng bình thản hỏi:
- Từ chỗ cậu Biền về quê mình còn xơi đường. Anh tính làm sao tôi đi được?
Lương đáp:
- Cứ đi đi. Thời gian tôi lo. Miễn là cậu đừng có đào tẩu.
Tôi cười:
- Đào tẩu thì đã có trạm thu dụng chờ đón, lo gì?
Lương cũng cười. Tôi nghe anh móc túi lấy cây đèn pin cỡ nhỏ, thứ hàng xa xỉ của mặt trận, rồi anh bấm thử công- tắc tách tách... Tôi hỏi:
- Anh Lương... Tại sao anh cho tôi về phép?
Vì chuyện cậu Biền. Việc của cậu chỉ là tiện dịp mà thôi.
Anh đột ngột đứng lên bảo tôi:
- Về lán.
Tôi lẳng lặng bước theo anh. Tới trước cửa rừng, tôi kéo áo anh lại:
- Chiến tranh còn kéo dài lắm, phải không anh?
Lương im lặng, - tôi nằn nì:
- Ở đây chỉ có tôi với anh thôi, nói đi.
Lương đứng im một lát, không nói nửa lời. Rồi anh đột ngột quay đi. Tôi theo anh. Chúng tôi vào sâu trong rừng. Không khí trở lại ẩm ướt và ngột mùi lá mục. Bóng tối đổ xô tới vây quanh. Những con chim rừng buông tiếng kêu rời rã. Tôi muốn gọi anh Lương ơi... Tôi muốn khoác vai anh... nhưng kịp ghìm mình lại... Thời gian đã qua, chúng tôi không còn là những chàng trai trần truồng, bình đẳng, cùng nhảy xuống sông buổi chiều, cùng la hét, bơi lội và té nước trêu đám con gái... Mười chín ngày đêm ròng rã, tôi mới vượt qua đường tiền duyên. Sáng ngày thứ hai mươi, người liên lạc của trạm bảo:
- Tới vùng phễu rồi, từ đây trở đi, đồng chí có thể dựa vào dân mà sống. Tôi phải quay về trại, một đoàn chuyên gia nghiên cứu tâm lý chiến đang chờ. Tôi có nhiệm vụ dẫn họ vào vùng sâu. Từ đây tới K cũng còn gay go. Tôi đã vẽ sẵn sơ đồ cho đồng chí. Anh ta rút trong túi mảnh vỏ bao thuốc nhàu nát, trên đó có những đường kẻ tay ngoằn ngoèo, những dòng chữ nhỏ li ti như kiến. Tôi gật đầu:
- Thế này cũng tốt rồi. Cảm ơn đồng chí nhé. Không biết chúng ta có còn gặp nhau không?
- Có. Lần vào tôi sẽ đưa anh. Số tôi khó chết lắm. Qua ba trăm mười bảy trận bom rồi.
Tôi thọc tay vào ba-lô, tìm hộp thịt:
- Chỉ còn mỗi thứ này là có thể dùng được. Đồng chí cầm đi. Người liên lạc trạm ngắm nghía món đồ hộp, gật gù:
- Ờ, thứ này với lính là xôm lắm... Chào đồng chí.
Anh ta nhét hộp thit vào ba-lô rồi quay đi. Anh ta có cái mũi khoằm và đôi mắt lộ tròng, lởn vởn những tia máu đỏ. Người ta bảo mắt như vậy thường dễ gặp tai ương.
Phảng phất trên gương mặt anh ta như có làn mây xám làm cho một cảm giác tê rợn xâm nhập vào tôi. Đó là một người giao liên cần mẫn, một người đàn ông hiền lành tử tế... Lạy trời... dầu sao anh ấy cũng đã qua ba trăm mười bảy trận bom...
Mặt trời nở bửng như một quả cầu lửa trên cao. Người giao liên vào hút trong rừng sâu. Tôi bước ra tráng cỏ. Lâu lắm tôi mới được tắm mình vào khoảng không thừa thãi ánh sáng và khí trời. Không còn bầu khí quyển tù hãm, không còn khoảng trời bịt bùng bởi các vòm cây. Không còn những luồng khí độc lướt qua da thit khiến lông tóc dựng đứng lên. Trên đầu tôi, trời xanh lơ trọn vẹn, không gợn mây. Trước mắt tôi, cỏ ngút ngàn. Tôi ném ba-lô và súng sang một bên, nằm xoài xuống... Ôi đất, ôi cỏ, ôi ánh nắng... óc não tôi vang lên những tiếng kêu, những thán từ cũ kĩ của trường tiểu học. Chính ông giáo Khuê khùng đã xoắn tai tôi đau điếng: "Mẹ sư mày, người ta dùng thán từ trong những trường hợp nào? Than ôi! gió lạnh trăng buồn, một xác thân khô, nửa mảnh tâm hồn, anh lê gót trên nẻo đường tha hương gập ghềnh gió bụi... Câu ấy hay nhất trong vở Mạc Tuyết Lan đấy, nhớ chưa?... Ví dụ thứ hai: Ôi! Tổ quốc Việt nam giàu và đẹp, bốn ngàn năm văn hiến, đang chờ bàn tay xây đắp của chúng ta...”
Câu mở đầu bài tập đọc: “Tổ quốc Việt nam, phần chủ điểm mùa thu ấy, nhớ chưa? Chẳng lẽ tao rót cho mày con zê-rô, mẹ mày lại khóc lóc khốn khổ... Một điểm... Thôi về chỗ. Nhớ làm bài tập thán từ..." Vâng, thưa thầy, bây giờ tôi đã thuộc bài... Ôi! Hạnh phúc... áo quần tôi ướt đẫm sương. Những lá cỏ sắc cứa vào da thịt, buồn nôn, son sót. Nắng chiếu vào tóc, vào lưng, vào đám da gáy vừa cạo nhẵn. Trong luồng sáng ấm nóng ấy tôi thấy nhảy nhót lao xao triệu triệu hạt màu quang phổ, chúng đậu vào tóc tôi, chúng chạm vào thân xác tôi, chúng nhuộm lên da thịt xanh tái, nhợt nhạt của tôi màu sắc hoan lạc của đời sống. Tôi lật mình, nằm ngửa lên. Tức khắc tôi thấy vùng ánh sáng cuồng nhiệt qua mi mắt hồng hồng. Hai gò má, cổ, vùng ngực và hai cánh tay tôi ấm dần lên, như màu hồng đang lan chảy, truyền sinh lực tới. Tôi nằm như thế giờ lâu, không buồn ngủ chút nào, nhưng lại lơ mơ trong trạng thái đắm chìm, mộng mị. Qua lớp mi mắt hồng hồng, lần lượt lướt qua mọi gương mặt, mọi hình ảnh, những lời thì thầm, tiếng cười ánh ỏi. Tất cả đều bồng bềnh trong khói. Tất cả đều bi rọi chiếu bởi những lằn sáng mảnh và dài, tựa những sợi thủy tinh chói lọi và mong manh. Tôi chưa biết thế nào là hạnh phúc... Có lẽ giây phút này là hạnh phúc?... Tôi chưa từng biết đến tự đo. Có lẽ khoảnh khắc này tôi đã có tự do?... Trời mà hiểu... Những thứ chữ nghĩa như thế trơn tuột như con cá quẩy. Tưởng nắm được trong tay thì nó đã sụp xuống tận đáy bùn. Nhưng cỏ sắc quanh tôi là có thật. Khoảng trời lơ trên đầu tôi là có thật. Tôi sung sướng... Tôi nằm mãi... Đất đã nóng sực lên, ngây ngất. Sương đã khô hết và những sợi cỏ xanh thẫm lại. Có tiếng máy bay. Kệ xác... Tôi thầm nghĩ: Chạy cũng thế mà không chạy cũng thế. Đạn tránh người chứ người không tránh được đạn. Tôi nhỏm lên, đưa mắt nhìn thảm cỏ mượt mà, nguyên vẹn, không một gò ổ, không vết bom nào. Mười năm qua, tôi chưa gặp thảm cỏ nào như thế. Làm sao nó còn tồn tại qua bao nhiêu đợt oanh tạc của các loại máy bay?... Vẻ đẹp bất thường. Giống như một mụn sa-tanh vá trên tấm áo thô nháp, rách rưới của chiến tranh. Lũ máy bay rú lên, ào ào bay qua. Tôi nằm vùi trong cỏ. Cỏ cao chấm lưng người. Cỏ che chở cho tôi, ít nhất màu diệp lục cũng đem tới sự bình ổn trong tâm hồn. Bầy máy bay lao về phía tây nam, lấp lóa dưới nắng. Rồi từng loạt bom nối nhau rơi. Chúng rơi chênh chếch, từ từ, thản nhiên như đó không phải là bom mà là một đàn mối khổng lồ bi gẫy cánh đang rớt xuống mặt đất.
Chừng nửa giờ sau, cơn giông tố qua đi, rừng núi trở lại yên tĩnh và âm u. Mặt trời đã lên tới đỉnh, trời sáng lóa. Đất quanh tôi bỏng rẫy, bốc hơi ngùn ngụt. Tôi bóc gói lương khô dở, ăn nửa phần, uống nước rồi đi. Thảm cỏ rộng hơn tôi tưởng. Bươn bả đi mãi trong biển cỏ đến lúc chiều tà tôi mới tìm thấy con đường mòn dẫn qua cành rừng thưa mang ký hiệu N22 trên tấm sơ đồ của người giao liên. Từ cửa rừng đi vào ba trăm mét có chứa dấu chữ thập, bên cạnh ghi chữ: "Lán". Tôi cầm tấm sơ đồ, cắm cúi đi. Quả nhiên, chừng trên bốn trăm bước chân, con đường mòn phình rộng thành một khoảnh sân, có lát những tấm gỗ và sắt lấy từ thùng xe hỏng.
Từ mảnh sân đó có vài bậc thềm lót đá, dẫn lên một chiếc lán dựng áp sát vào vách núi.
Tôi khum lòng tay làm loa, cất tiếng gọi:
- Có ai trên lán không...ông...?
Trời lặng gió, tiếng gọi của tôi dội vào rừng núi nghe rợn sống lưng. Ngay sau đó, có tiếng vọng đáp lại:
- Đợi …ợi ….với …ới… ới …
Tôi thầm nghĩ: “Cũng còn may".
Bỏ chiếc mũ khỏi mái đầu ướt đẫm mồ hôi, tôi rút khăn tay lau mặt, yên tâm chờ. Mươi phút sau có tiếng chân bước huỳnh huỵch và một bóng đen to lớn tiến đến. Trời đã tối hẳn, không thể nhìn rõ khuôn mặt người vừa tới. Tôi nói:
- Chào đồng chí. Tôi ở tuyến 3, vượt tiền duyên tới. Xin đồng chí cho ngủ nhờ đêm nay. Mai tôi đi sớm.
Bóng đen cất giọng khàn khàn:
- B quay à? Giấy tờ đâu? (B: chiến trường miền nam, B quay: ám chỉ việc đào ngũ)
Tôi cười:
- Không phải lính đào ngũ. Tôi có nhiệm vụ ở K. Giấy tờ đây.
Bóng đen móc túi lấy chiếc đèn pin nhỏ xíu hệt như đèn của Lương, bật lên xem công lệnh và thẻ quân nhân. Nhờ ánh sáng hắt lên, tôi thấy một khuôn mặt vuông bẹt, rất to, lấm tấm mụn đỏ hai bên má. Hàm răng trên vổ đau vổ đớn chìa khỏi môi. Ánh đèn vụt tắt. Một bàn tay to lớn dúi xếp giấy vào tay tôi. Và cái giọng khàn khàn cất lên:
- Anh đi theo em.
Chút nữa thì tôi bật tiếng kêu: “Đàn bà, đó là một người đàn bà!"
Người dẫn đường đã quay lưng bước đi, dẫn tôi lên lán. Chiếc đèn pin trong tay lúc bật lúc tắt, quét loang loáng trên các bậc đá gập ghềnh.
- Cẩn thận kẻo ngã anh ạ. Bữa trước có một anh quê Lào Cai ngã gãy cả bốn cái răng.
- Cảm ơn đồng chí...
Tôi đáp khẽ, lí nhí trong kẽ răng.
- Tới rồi... Chủ nhân vừa nói vừa đưa tay kéo tôi qua khung cửa ghép bằng gỗ thùng.
- Anh chờ một lát nhé... Quái lạ, cái bật lửa vừa để đây mà... A, đây rồi...
Có tiếng quẹt của bánh xe bật lửa, rồi ánh sáng bùng lên. Nữ chủ nhân châm ngọn đèn xăng pha muối, khiến làn khói đen cuồn cuộn bay. Lửa đỏ cháy hửng hực soi rõ mọi vật trong lán: chiếc giường cá nhân kê bằng các hòm đạn trải tấm tăng, chiếc bình-toong treo trên vách, mảnh gương nhỏ gắn một bông hoa giấy, hình các nữ diễn viên Ba lê và các chàng ca sĩ nổi tiếng dán la liệt khắp nơi.
Tôi nhìn quanh quẩn rồi bỗng nhiên buột miệng nói một câu vu vơ:
- Đèn sáng khiếp thật. Có sợ máy bay không?...
- Máy bay thấy thế nào được. Phải bảo đảm an toàn chứ? Còn cái khoản xăng thì anh đừng lo! Ở đây, cánh lái xe cung cấp xăng cho em dư dả.
Nữ chủ nhân nói đoạn, liền tong tả khuân mấy chiếc vỏ hòm đạn từ phía trong lán đem ra. Tôi hỏi:
- Đồng chí làm gì thế?.
- Làm giường cho anh. Ở đây ối vỏ hòm đạn. Tha hồ...
- Cảm ơn. Nhưng tôi có võng rồi.
- Có võng sao anh không ngủ quách ngoài rừng? Đã chui vào lán mà còn đánh võng có họa điên. Vừa nói cô vừa hì hục tráo đổi, sắp xếp lại mấy chiếc vỏ hòm đạn. Khi chúng đã được kê thành dãy phẳng phiu, cô rút mình tăng vắt trên sợi dây căng sát vách, bảo tôi:
- Anh trải ra, em vào hang khuân ít củi.
- Hang nào?
- Hang ở phía sau lán. Đó là cái kho.
Nói đoạn, cô lùi lùi chạy đi. Bóng tối nuốt mất cái dáng to lớn, kềnh kàng như con gấu ngựa. Tiếng củi rơi lích kịch vọng ra. Tôi trải tấm tăng, quăng ba-lô và súng vào một góc rồi ngồi xuống, duỗi dài đôi chân mỏi nhừ, nóng ran từ hông cho tới tận gót.
Lúc ấy, nữ chủ nhân mang củi ra. Khi cô quỳ xuống bên bếp, ánh lửa rọi thẳng vào mặt cô. Tôi rùng mình vì cô xấu khủng khiếp! Cô ngẩng lên bảo tôi:
- Em bắc cơm, anh ở nhà chụm lửa nhá... Em xuống suối tắm ù một cái rồi về.
Tôi nhìn khung trời tối đen bên ngoài:
- Giờ này còn xuống suối à?
- Quen đi chứ... Mà em cũng phải tắm mới được...
Lúc ấy tôi mới biết bộ quân phục cô đang mặc lấm đất, loang lổ từng đám như nhựa đen. Chúng bốc mùi tanh, mùi mồ hôi...
- Quần áo cô sao thế, máu à?
- Ừ máu... Từ trưa đến giờ, vật nhau với ba cái xác còn lại.
- Sao vậy?
Cô định cười nhưng chợt mím môi lại, hai cánh mũi huếch rung rung:
- Có gì lạ?... em gác nghĩa trang N22. Có nhiệm vụ thu lượm những tử thi trong vùng. Phía sau núi là mộ các chiến sĩ chưa kịp liệt kê theo đơn vị hành chính. Cả ba người bị dính bom trưa nay cũng thế. Một tay em chôn hết. Hang sau lán là kho chứa quân trang, quân dụng của tử sĩ. Chờ ban công tác tới thì giao nộp.
Nới xong, cô nhanh nhẹn mở chiếc xoong nhôm đặt sẵn trên bếp, xúc gạo trong chiếc thùng đựng bột trứng cũ gần đó và róc nước từ chiếc ống nứa đật sát cửa vào nồi:
- Đừng vo gạo anh ạ. Vo hết cám, người phù lên thì chết. Ở đây không kiếm được thuốc chữa phù đâu.
Đoạn cô đứng lên:
- Anh nhóm bếp đi. Bật lửa đây, lấy gỗ thông làm mồi. Chẻ nhỏ ra thì nó cháy như hột trám ấy, chỉ chợp mắt là cơm sôi.
Nói xong, cô vớ mấy chiếc quần áo trên giường rồi chạy vọt ra ngoài. Tiếng lạo xạo của sỏi đá vẳng lại. Tôi chẻ nhỏ mấy thanh gỗ thông, châm lửa rồi chất thêm củi, chăm chút cho tới khi nồi cơm sôi lục bục. Cơm vừa cạn, nữ chủ nhân bước vào. Cô đã thay bộ quần áo mới, tóc vừa gội quấn thành búi trên đỉnh đầu. Một tay cô vắt mớ quần áo ướt. Cô liếc tôi và bảo:
- Gạt than ra mà hạ nồi cơm kẻo khê.
Tôi làm theo lời cô như cái máy. Trong lúc ấy, cô đã kịp phơi mớ quần áo ướt lên sợi dây căng sát vách lều. Một mùi gây thoang thoảng lan tỏa rất gần gụi. Bất giác tôi khít khịt mũi. Cô tiến đến gần tôi, hất mái tóc ướt về sau gáy và nói:
- Ba tháng nay em hết xà-phòng. Thiếu xà-phòng, tài thánh cũng không tẩy được mùi máu... Anh đốt lửa to lên, khói sẽ át đi, lát nữa là quen thôi...
Cô chải tóc. Trong cách ve vuốt mái tóc cô rất đàn bà, dẫu thân xác cô giống như vị hộ pháp. Tôi chất thêm củi vào bếp, chăm chắm nhìn những lưỡi lửa phập phồng uốn lượn.
Bên ngoài đã có sương. Một vài váng sương chập chờn trong khoảng không đen thẳm. Có lẽ trời lạnh lắm.
Nữ chủ nhân đã ngồi xuống bên tôi, mái tóc chải mượt xõa trên lưng. Cô đặt lên bếp chiếc chảo nhỏ và bỏ vào đó chút mỡ:
- Em đãi anh món rau mì chính vừa hái được ban sáng trước lúc bọn chó xả bom. Còn có cả một hộp thịt năm trăm gam nữa, tha hồ ăn...
Cô ném vào chảo rau nắm ớt rừng với chút muối, cô đảo lìa lịa như người ta đảo thóc rang. Đoạn cô bắc chảo xuống cạnh bếp:
- Anh gắp rau vào hăng-gô.
Tôi ngoan ngoãn thực hiện. Cô đứng bật dậy rất nhanh, đi vào phía hang và trở ra tức thì, tay cầm hộp thịt:
- Thịt hộp Trung quốc, vua đồ hộp đây... Chắc anh ăn nhiều lần rồi. Nạc ơi là nạc...
Cô đặt hộp thịt bên bếp lửa. Tim tôi thót giật. Đó chính là hộp thịt tôi tặng người giao liên buổi sáng! Trên nắp còn hằn rõ vết dao cắt dở. Hộp thịt Lương đưa cho tôi trước lúc lên đường, nhưng tôi định mở ra đãi mấy chiến sĩ của anh. Vết cắt ấy là vết con dao nhíp Mỹ của cậu trợ lý.
Lúc ấy Lương giữ tay tôi lại, cằn nhằn vì cái tính vô lo...
- Cô lấy đâu ra thứ này?
Tôi bật ra một câu hỏi vô tích sự. Cô gái nhìn tôi ngạc nhiên và bảo:
- Thực phẩm thì được phép xử dụng. Chỉ phải kiểm kê những đồ vật khác trong ba~lô tử sĩ thôi. Anh chưa được xem bao giờ phải không? Mai em sẽ cho anh xem... Vui đáo để: Có anh chàng gom hàng tá khăn tay tới su-chiêng, xi~líp cho người yêu. Có người lại cất giấu từ hòn cuội đến quả thông khô khắc chữ. Chẳng ai giống ai. Nhật ký mười cuốn thì đến tám cuốn long cả bìa lẫn gáy... Mà thôi, ăn đi anh, em đói...
Cô lật nắp hộp thịt xuống, đẩy tới trước mặt tôi. Rồi cô xới cơm, đưa tận tay tôi, hệt như một người vợ xới cơm cho chồng. Tôi lí nhí:
- Mời đồng chí...
Cô không đáp, cúi gầm mặt xuống và cơm. Tôi biết cô chờ đợi một lời mời khác: Mời em... Nhưng lưỡi tôi bị cứng. Tôi đói nên tôi cũng cắm cúi ăn. Giữa chúng tôi, thời gian lặng lẽ trôi. Tiếng lửa reo đếm nhíp thay cho tiếng tích tắc của quả lắc đồng hồ. Chợt một lát sau, cô ngẩng lên:
- Ơ, sao anh ăn toàn rau thế? Sĩ quan cấp mấy mà chê thịt hộp?
- Tói sót ruột. Lâu nay toàn ăn khan.
- Chỗ anh không kiếm được măng à?
- Thỉnh thoảng, nhưng ít lắm.
Cô đón bát xới cơm tiếp cho tôi. Không khí dần dần bớt đi sự gượng gạo:.
- Các anh lười bỏ cha. Rừng nào mà chẳng có măng?
- Rau thì vô số!
- Vâng, tụi lính đực vẫn vô tích sự hơn đàn bà.
- Các anh vẫn gọi tôi em là lính cái phải không? Đồ đểu A, mà anh tên gì nhỉ? Lúc nãy đọc xong, quên rồi.
- Tôi là Quân.
- Quân... Tên đẹp ghê! Em tên Viếng. Anh ăn nữa đi. Thôi à? Lính tráng mà ăn thế thì kém tài. Em ăn hơn anh hẳn hai bát đấy nhé.
- Cảm ơn đồng chí...
- Cảm cúm hả... Khách sáo? Anh Quân người Hà nội phải không?
- Tôi trai làng Đông tiến.
- Anh chẳng có vẻ trai làng tí nào cả... Mất gốc rồi. Đây nước cơm cháy rang, uống mát lắm. Bát đũa cứ dẹp sang một bên, mai rửa. Đi ngủ đi thôi, em mỏi dừ xương ra rồi.
Cô ngửa cổ uống một hơi hết bát nước rồi nằm vật ra giường. Chỉ tích tắc sau cô đã ngáy.
Chiếc gối trắng có điềm chỉ đỏ tuột khỏi đầu. Miệng cô há và những chiếc răng vổ chĩa thẳng lên trời. Tôi lén lút nhìn cô, một chút sợ hãi, một chút tò mò, một chút thương hại... Rồi tôi chốt cửa lán, lên chiếc giường của mình và chìm vào giấc ngủ, - giấc ngủ mài miệt, an toàn, đem lại cho tôi sự phục hồi sức khoẻ cùng sự mẫn tiệp... Không mơ mộng gì hết, nhưng khi bị một vật nặng đè lên bụng, tôi tỉnh giấc ngay. Tôi biết rằng cô đã đến, nằm bên tôi, tóc cọ vào vai tôi, cánh tay vạm vỡ của cô vắt lên bụng tôi. Hình như cô đang tính toán, do dự, hơi thở phả nóng hổi. Thỉnh thoảng cô cựa quậy. Thỉnh thoảng cô thở dài lẩm bẩm gì đó nghe không rõ.
Tôi nằm im,. đóng vai kẻ ngủ say. Nhưng toàn bộ giác quan đều căng thẳng như dàn ra-đa pháo binh trong khoảnh khắc đón chờ cuộc oanh kích của máy bay địch. Tôi biết cô đang nhìn chăm chắm vào mặt tôi, chờ động tĩnh.
Dưới chân giường đống than hồng rực tỏa một thứ ánh sáng dễ chịu nhưng bất lợi cho tôi. Tôi đành nhắm nghiền mắt. Cô trăn trở, cục cựa mạnh hơn lên, hơi thở cô dồn dập.
Rồi, không kiên nhẫn được nữa, cô túm lưng quần tôi, lay. Tôi ậm ừ, giả bộ ngáy ngủ, xoay mình đi. Động tác đó thật sai lầm. Cô hiểu ngay rằng tôi đã thức. Cô gọi:
- Anh Quân...
Tôi im lặng.
- Anh Quân.
Tôi không đáp.
Cô buông lưng quần tôi, ngồi lên:
- Anh Quân, sao anh ác thế? Em ở đây một mình, buồn thối ruột gan. Anh mở mắt ra em bảo cái này.
Tôi không dám mở mắt nhưng tôi xoay người lại, nói ôn tồn:
- Đồng chí Viếng ạ... Chính vì đồng chí ở đây một mình nên tôi không dám gây phiền phức. Lỡ có chuyện gì không may xảy ra thì chết mất... Cô thốt lên một tiếng kêu khe khẽ rồi đổ ập xuống người tôi:
- Chẳng có gì mà chết cả. Có nghén với anh càng tốt...
- Anh Quân, anh Quân...
Người cô uốn cong lên, cô rền rĩ, quằn quại.
Tôi bảo:
- Đồng chí bình tĩnh lại. Phải làm chủ được bản thân. Dại dột thế thì chết.
- Không... không...
Cô bật kêu khe khẽ:
- Em đang muốn chết đây. Anh hãy giết em đi. Anh hãy làm cho em chết đi...
Rồi cô siết chặt lấy tôi, ôm bồng lên bụng mình. Một cảm giác xộc lên khiến tôi như tê bại. Thoáng qua tiếng tặc lưỡi: "Thôi nhắm mắt cho xong... Nhắm mắt..." Chân tay tôi
đờ ra. Một nỗi sợ hãi mơ hồ chập chờn, một cơn đói nhục thể chập chờn. Đúng lúc ấy cô lại thở hồng hộc và cất tiếng gọi:
- Anh Quân... anh Quân...uấn...
Trong ánh sáng hồng hồng của lửa than, tôi thấy cô nhắm nghiền hai mắt, miệng há ra, lắp bắp, hổn hển, những tiếng nói rời rạc lọt qua kẽ răng dị hình:
- Anh Quân, anh giết em đi..i..i...
Cái tiếng kêu quằn quại ấy thúc dậy trong tôi một cảm giác ghê tởm. Nó thiêu cháy các nhục cảm và làm tôi bỗng nhiên ráo hoảnh. Mặt nóng ran vì hổ thẹn, tôi đẩy người đàn bà sang một bên và ngồi dậy:
- Đồng chí Viếng... không nên thế...
Cô chồm đến bên tôi, gục đầu xuống:
- Anh Quân, anh chê em xấu phải không?... Hay để em... tắt lửa đi nhá...
Cô vùng đứng lên, chạy tới bên đám than hồng rực. Cô tìm thanh cời, tấp tro. Dáng điệu hối hả, tận tụy. Tôi nhìn tấm lưng cong cong của người đàn bà:
- Đồng chí Viếng...
Chạy đến bên cô, tôi bảo:
- Hãy ngồi xuống, tôi nói cho mà nghe...
Cô ngoan ngoãn bước theo tôi, đôi mắt ngước lên vẻ ưng chịu và thuần phục. Mọi đường nét trên khuôn mặt thô kệch: cái mũi hếch, vầng trán quá ngắn, những chiếc răng chĩa khỏi cặp môi lúc nào cũng như thiếu hụt... tất thảy toát ra vẻ chờ đợi nhục cảm, vẻ hân hoan dành cho mọi loài vật
giống cái, từ con hoẵng tới người đàn bà.
Trời đất! Sao tôi không có cái can đảm của Tô Vũ? Trong một chuyến đi sứ, lạc vào hoang đảo, ông đã kết duyên với con vượn cái. Sao tôi không đủ lòng quả cảm của một quân vương xưa, vì phẩm hạnh của một người đàn bà đã tôn xưng nàng lên ngôi hoàng hậu, quên đi cái dung nhan quỷ sứ Chung Vô Diệm? Ôi, những người đàn ông hiếm có ấy hoặc họ phải là tột bậc Thánh nhân, hoặc họ phải vô cùng thú vật!
- Đồng chí Viếng này...
Tôi vẫn nắm tay cô để giữ một khoảng cách an toàn giữa hai người, và tôi cố gắng nhìn thật lâu vào gương mặt cô, để cô khỏi có cảm giác tủi hổ:
- Đừng giận tôi Viếng nhé. Tôi không muốn cho đồng chí buồn, nhưng quả thực... tôi không thể...
Cô nhìn tôi, giọng run run, nghẹn ngào:
- Anh Quân...
- Mong đồng chí hiểu cho, tôi không thể...
Viếng vụt đưa mắt hồ nghi nhìn tôi rồi bất chợt thọc tay vào bụng dưới tôi, khoảng giữa hai đùi... Lúc ấy, rõ ràng cô đã thấy tôi là thằng đàn ông vô dụng! Cuộc khám nghiệm có hiệu quả đảo ngược tình thế. Nữ chủ nhân thu tay về, đưa mắt nhìn tôi im lặng, cái nhìn đầy vẻ bao dung và khinh bỉ.
Kẻ bị thương hại bây giờ là tôi. "Thế là may rồi? Thật hú vía!" Tôi thầm nghĩ và cố nặn ra bộ mặt tủi hổ:
- Mong Viếng thông cảm... tôi cũng không muốn thế.
Cô gái đứng lên, ngẩng mái đầu đồ sộ một cách tức giận:
- Chắc là tại chất độc hóa học... Tổ sư thằng Mỹ...
Rồi cô quay lại bảo tôi:
- Thôi, anh đi ngủ, mai lấy sức mà cuốc bộ.
Nói xong cô trở về giường. Tôi không ngủ được. Tôi nhen lửa, tiếp thêm củi rồi nhìn lửa đăm đăm như một con vượn già nhìn mặt trời. Nỗi khấp khởi mừng thầm đã tan biến, tâm hồn tôi đắng ngắt. Tôi có lỗi gì đâu? Nhưng cái trò dối gian kia thật bần tiện. Muốn hay không tôi cũng chẳng gạt bỏ được cảm giác tự xỉ. Nó mọc như thứ rêu vô hình, tăng trưởng, bám chặt vào những đường rãnh sâu trong óc não. Nó dần dà trùm phủ tâm hồn tôi bằng thứ bóng râm nhớt nhát, âm hiểm, khiến những ý nghĩ trong tôi trở nên rối loạn. Tôi là kẻ thiếu lực chăng! Một gã đàn ông thiếu chất đực tới mức phải quy hàng trước một cuộc kết hợp man sơ? Tôi là kẻ ích kỷ, thiếu sự vị tha tới mức tàn nhẫn? Tôi là nô lệ ngu tối, trung thành với những định kiến xửa xưa, với những quan niệm đức hạnh xửa xưa, với những ước mộng trong sạch về ái tình... Những giá trị xa lắc xa lơ, lạc lõng giữa một cuộc sống ngập ngụa máu và bùn. Hay là...
Tôi không dám nghĩ nữa... Tôi đã chối từ người đàn bà đón tôi giản đi, nồng hậu, khao khát tôi như khao khát một mảnh đời chân thực - cái đời sống chúng tôi đã đánh mất lâu rồi và chỉ còn nhận biết nhờ khả năng trực cảm mong manh... Có lẽ vì cô quá xấu xí?... Không chỉ có thế... Người đàn bà đã vác ba tử thi đi qua một buổi chiều, một mình vuốt mắt cho ba người tử sĩ, một mình chôn họ ra sau đồi, lựa giữ các kỷ vật và cai quản các bóng ma như một phần tài sản của cuộc sống... Cô là người đàn bà của chiến tranh. Tôi từ chối cô không chỉ vì cô quá xấu xí mà vì tôi còn hèn yếu hơn, tôi sợ hãi đối thủ. Mười năm mặc áo lính, nếm đủ vinh và nhục, biết mọi trò chơi oái oăm của kiếp người thời loạn lạc, cho tới lúc gặp cô tôi mới tự hiểu mình. Tôi bại. Tôi không bao giờ nhập cuộc. Chú bé mười tám tuổi năm xưa hăm hở lao vào con đường binh nghiệp, giờ vẫn chỉ là một đứa bé đứng bơ vơ bên kia đường chân trời.
Lửa cháy mỗi lúc mỗi to hơn, tỏa ánh sáng rực rỡ khắp lán. ấm áp thật! Người đàn bà đã ngủ lại, nhíp thở đều đều. Một cánh tay cô vắt qua trán, trông bình yên. Tôi trầm ngâm nhìn cô, lòng thầm nguyện cầu cho cô may mắn. Chắc chắn có những người đàn ông đích thực của chiến tranh. Họ sẽ đem lại hạnh phúc cho cô.
Ghi vài dòng cảm ơn trên bìa cuốn sổ liệt kê đồ vật của tử sĩ, tôi đeo hành trang ra đi. Lúc ấy bốn giờ ba mươi hai phút. Trời tối mịt mờ, lạnh thấu xương. Tôi phải đọc kỹ sơ đồ rồi vừa đi vừa dò đường.
 
Chương 3
Cái đói tấn công tôi khiến hai đầu gối bủn rủn, mồ hôi vã ướt đầm lưng. Hai hôm nay, tôi đi lòng vòng như bị ma ám giữa một thung lũng um tùm cây môn thục. Sớm nay lại đi vã mồ hôi. Cuối cùng tôi thấy trước mặt bụi môn có ba hòn đá tảng ở điểm xuất phát.
Nghỉ nửa giờ, tôi tìm đường ra theo hướng khác. Đi ròng rã hơn hai tiếng nữa, vào đúng ngọ lại thấy lù lù ba hòn đá tảng với bụi môn thục ấy. Không còn hồ nghi gì nữa, giữa thung lũng hoang lạnh này có hồn ma!
Tôi đặt ba-lô trên một hòn đá tảng, sục sạo xung quanh. Từ lối mòn lan sang hai bên, mọc dầy đặc thứ cỏ leo hoa tím, lá có ánh bạc. Dây cỏ đâm ngang đâm dọc, dai hơn dây thừng, quấn quít với những loài gai lùn và dương xỉ. Tôi rút dao phạt những đám gai lơ lửng ngang đầu, phòng loài rắn lục. Từ đám gai ấy, chúng có thể phóng tới làm một cú mổ trong nháy mắt và thế là toi đời.
Quanh quẩn mãi, chỉ gặp loài gai và cỏ leo. Khoảng tiếp giáp giờ Mùi, một làn gió âm u thổi từ phía bắc tới. Trong hơi gió như có tiếng vi vu của sáo tre sáo trúc. Tôi nổi da gà đứng khựng lại giờ lâu, mồ hôi lạnh lưng áo. Rồi định thần, tôi nhìn lại cây cỏ bốn xung quanh. Tất cả xanh um, tĩnh lặng. Tôi đi về phía bắc. Chừng hơn một trăm bước, chân tôi gặp đám môn thục vĩ đại. Chúng cao gấp đôi thứ môn thục thường, cỡ chừng gần hai mét, che lút đầu người. Mỗi cuống môn lớn gấp đôi bẹ chuối, xanh bóng. Dọc lá quận thành gốc, cỡ bằng gốc chuối ngự. Kích thước khổng lồ của chúng làm tôi e ngại. Dường như chính từ trong bóng râm ướt át, u tối của chúng, làn gió lạnh lẽo kia đã được phát sinh... Tôi vung dao, chặt rào rạt. Những dọc môn ngã rạp xuống. Chừng non nửa thước, hiện ra những tảng đá lớn, màu trắng xám, xếp một cách công phu.
Theo bức tường đá, tôi lần lần phạt trụi đám môn thục vây quanh. Đám rừng môn ngã xuống, hiện ra một chiếc nhà quàn bằng đá tảng. Các tảng đá lớn nhỏ, góc cạnh được sắp xếp chồng khít lên nhau làm thành bốn bức tường khép kín, một cái hộp không đáy và không nắp.
Giữa bốn vách đá là tấm võng dù mắc sang hai cây dồi ở hai đầu. Trên võng, một bộ xương người nguyên vẹn, trắng rợn, sạch như lau! À, người anh em... hóa ra người anh em đã giữ chân tớ lại... Tôi lầm rầm khấn. Cái đầu lâu hoác miệng như cười. Hai hàm răng trắng, đều tăm tắp, đủ ba mươi hai chiếc. Đó phải là hàm răng của một chàng trai. Chắc anh ta cũng đã bị lạc nhiều ngày, cũng như tôi, không thế nào thoát khỏi cái thung lũng ma quái này, bị sương khói bốn phương chập chùng vây hãm.
Khi mọi cố gắng đã tan rã, mọi hy vọng đã tàn lụi, chàng vẫn còn một hy vọng cuối cùng: Hy vọng giữ được bộ hài cốt của mình. Chàng không muốn các loài thú xâu xé thân xác, chàng muốn lưu lại, dù một chút bóng dáng thảm thê, vì hình hài nguyên vẹn mà cha mẹ chàng đã tác tạo ra.
Tôi tin rằng chàng đẹp hơn tôi, khỏe mạnh và ý chí hơn tôi. Nếu không, với hơi tàn của kẻ sắp chết đói, người lính này đã không thể tự xây cho mình một nhà quàn kiên cố, công trình kiến trúc để cho kẻ hậu thế phải ớn lạnh sống lưng:
- Người anh em ơi, tớ biết người anh em ở đây quạnh hiu lắm. Tớ biết cuộc sống trong cái thung lũng khốn nạn này chẳng ra gì... Đằng ấy cũng như tớ, khi ra đi không hình dung được con mèo nào sẽ đón đợi số phận...
Làn hơi lạnh quẩn quanh trên mặt đất khẽ lùa qua hai nách, qua gáy tôi. Nghe vi vút mơ hồ tiếng sáo của một chiều thôn dã:
"Trăng đã lên ngang đồi...
Dòng sông ngập ánh trăng soi
Đàn bò thong thả qua nương lúa ơi hò... "
Ôi, âm nhạc diệu vợi... Hai hàm răng trắng nhởn của cái đầu lâu ngoác ra cười. Xương tay, xương chân xếp thẳng băng như nặn bằng thạch cao trong phòng thí nghiệm trường phổ thông trung học. Lão quản lý thấp bé, mặc bờ-lu trắng, gườm gườm nhìn lũ học sinh chúng tôi, qua hai tròng mắt kính tròn xoe: "Các trò cẩn thận, không được sờ vào hiện vật. Hãy ghi nhớ các vị trí trong bộ xương người: Xương đầu, xương tay và xương chân... Trò Quân, anh không được ngọ nguậy, cái xương bánh chè bên trái đã bị lớp 6E làm vỡ năm ngoái..."
Đấy là lần thứ nhất tôi thấy bộ xương người. Và giờ là lần thứ hai. Xương thạch cao dễ vỡ. Xương người thật khỏe chắc hơn.
Bố mẹ chúng ta đã sản sinh được những tạo vật đáng giá! Tôi nhìn từ đầu xuống chân bộ xương người trải dài trên tấm võng ni-lông, hình dung tới một chàng trai: Anh lịm dần trong cơn đói, trong trạng thái tàn lạnh khi máu khô cạn trong các huyết quản, như một thứ keo, đọng dần dần chất mủ đặc tanh của cái chết, và luồng khí nóng của sự sống đi qua nó bị nguội đi, màu hồng chuyển sang máu xám. Chắc chắn vào khoảnh khắc đó những giấc mơ sẽ trôi qua như cuộn hình trong cây đèn kéo quân: giấc mơ an bình, giấc mơ thù hận, giấc mơ ấu thơ, giấc mơ tình ái... đó sẽ là bữa ăn cuối cho kẻ tử tù, niềm an ủi cuối cùng của người lính rủi ro. Tới lúc chất mủ tanh hôi của cái chết lấp đầy các huyết mạch, những giấc mơ kia sẽ lụi tàn.
Từ đấy bắt đầu bữa tiệc của các loài thú. Trước hết là chim ưng, kên kên và quạ. Thứ hai đến các loài kiến, các loại bọ, các loại dòi. Sau cùng, mưa rừng sẽ hoàn thiện nốt công trình phá hủy, phần sót lại của cơ thể tan hòa thành phân loãng tưới xuống đám môn thục khiến chúng lớn vụt lên, trở thành loài thực vật ăn thịt người kiêu hãnh và vĩ đại! Bộ xương trắng sạch bong nhìn tôi như cười: "Tớ còn nguyên vẹn đấy chứ?... Thật là tuyệt phải không người anh em?" Tấm võng ni-lông cũng còn nguyên vẹn. Nền văn minh nhựa dẻo của con người trong các thập kỷ này cũng tuyệt diệu. Tôi thầm thì: “ Người anh em ơi, ngả nào đằng ấy cũng đã phải chịu cảnh đơn côi. Hãy cho tớ ra đi... Tớ còn nhiều việc phải làm. Một thằng trai trẻ đang mắc chứng điên. Nếu họ tống nó vào trại điên thì rồi đời... Vả lại, tớ còn ông bố và thằng em. Nghe nói nó cũng đã tòng quân, chẳng hiểu sống chết ra sao... Người anh em sống khôn chết thiêng, hãy chứng cho lòng thành của chiến hữu...”
Khấn xong, lòng tôi nhẹ nhõm. Tôi chắc vong linh kia đã thấu cho mình. Nhưng chân tôi vẫn nặng như đeo đá, không thể nhấc nổi. Tôi đập đập vào hai cẳng chân lạnh buốt, thầm nghĩ: "Còn một cái gì đó... Chắc hẳn còn vấn vương gì đó..." Và tôi chợt hiểu rằng chàng trai đã tự kiến tạo cho mình một cái chết sang trọng như thế hẳn là phải gửi gấm lại những lưu vật.
Tôi ngồi thụp xuống, vạch cỏ, chặt dây. Chỉ dăm phút sau, thấy lộ ra một nấm mộ nhỏ xếp bằng đá nằm dưới võng, từ chiếc đầu lâu dọi thẳng xuống. Tôi ném đi lần lượt từng viên đá rồi tôi đào. Đất rất mềm, lưỡi dao ăn ngọt lịm. Hồi đào ước chừng nửa mét dài, nửa mét rộng, căn theo độ lớn của chiếc ba-lô. Đào sâu ba gang thì vấp lớp nhựa xám. Tôi khoét rộng ra bốn xung quanh rồi lôi bọc ni-lông lên. Chúng được chằng kỹ bằng dây ni-lông, nút chặt không thể cởi. Tôi dùng dao cắt vụn, mở gói vải nhựa ra. Bên trong còn ba lớp vải nhựa nữa mới tới ba-lô. Ba-lô còn nguyên, mùi vải hăng sực như vừa được lôi ra từ một chiếc rương gỗ. Một khẩu liên thanh báng gập với hai băng đạn rưỡi, đạn chưa rỉ. Tôi mở ba-lô, sửng sốt vì cùng với làn hơi xám bay lên, lơ lửng điệu nhạc của tre trúc:
" Dòng sông ngợp ánh trăng soi
Con diều đứt dây nơi lưng trời
Gió, gió ơi thổi bên kia đồi... "
Hệt như có gã trai làng ngồi thổi sáo bên bờ đê, vào lúc chiều chạng vạng. Tôi kéo rộng nắp ba-lô, nhặt được mảnh bìa, viết nguệch ngoạc dòng chữ: "Đồng chí nào nhặt được ba-lô, xin cố gắng mang về cho mẹ tôi, bà Đào thị Lý, 68 tuổi, thôn Em Mơ, xã Phùng... Xin cảm ơn."
Bên dưới có ba bộ quân phục, một Thu-đông, hai Xuân-hè. Giữa các lớp quần áo giấu cây sáo trúc, thứ trúc quí, vàng màu tơ tằm, bóng như gương. Sau rốt là cuốn nhật ký. Nhật ký lính chiến, long bìa, rách gáy, nhiều vết hoen. Trang đầu dán tấm ảnh một thiếu phụ quê mùa, vẻ nhút nhát, nét khá xinh. Trang sau là một chàng trai mười tám, mười chín, mặc quân phục mới, cười toe toét, mắt ánh lên niềm hăm hở. Tấm ảnh đó hệt như tấm ảnh tôi chụp ngày tòng quân, cái ngày long lở vì tiếng trống giục giã và chói lọi màu cờ, cái ngày lũ trai trẻ chúng tôi ngây ngất trước lúc lên đường, đăm đăm tìm kiếm hình ảnh của chính mình nơi chân trời.
Nơi ấy, ẩn hiện trong lớp khói là gương mặt những người anh hùng hân hoan và kiêu hãnh, ngực lủng lẳng từng dãy huân chương...
Tôi ngồi bệt xuống, sục tay vào lớp áo quần mát lạnh.
Cơn đói bắt đầu gào réo khiến tôi hoa mắt. Từng bầy đom đóm sặc sỡ bay lượn như những đóm lửa pháo hoa, thứ pháo hoa tởm lợm... Tôi gục đầu xuống gối, nhắm mắt lại, cố nghĩ tới một việc gì đó thật trọng đại, thật vui tươi, một kỷ niệm thật êm đềm... Nhưng, cuối cùng, vẫn hiện lên trong óc não hình ảnh (ra xôi trắng với nửa cái chân giò luộc, một rá bún với bát mắm tôm...) Cơn mơ thực phẩm! Tôi đã lây cái bệnh tồi tệ của thằng Lũy.
Chất cường toan sủi bọt trong dạ dày tôi, cắn rút từng tế bào, ăn mòn mỗi đường gân, mỗi thớ thịt. Trong bụng, nhói lên những cơn co bớp liên hồi. Tôi cong lưng, thở dốc từng hồi và dần dà nằm ngửa xuống lúc nào không rõ. Kéo một tấm áo che đầu, tôi chìm vào giấc ngủ.
Như thế, thời gian đi lẳng lặng, xa xa, như tan dần thành khói. Lúc chập chờn tỉnh, tôi có cảm giác một bàn tay ai đó nhẹ nhàng ve vuốt bên má... Mở mắt, tôi thấy mình nằm gối đầu lên chiếc ba-lô của người đã chết, tấm áo thu-đông trùm đầu lạnh toát sương, ba-lô của tôi ném ngay dưới chân. Trên đầu tôi vẫn bộ xương trắng im nguyên nằm trong tấm võng.
Nắng đã lên đặt trên má tôi bàn tay ấm áp, sự sống vuốt ve êm dịu. Tôi ngắm những dây cỏ leo trong suốt như thủy tinh giữa buổi rạng đông. Tôi nhìn giải mây hổ phách phía dưới vầng mặt trời, bỗng nổi lên nỗi thèm khát.
Nắng nhuộm một màu hồng đắm đuối. Thân thể tôi nóng dần, máu trào lên tim như ngọn triều, phấp phỏng. Tim tôi cũng đập phấp phỏng, nuối tiếc, tưởng chừng như chỉ qua buổi sáng này nó không bao giờ còn đập. Tôi chợt hiểu nỗi thèm muốn ám ảnh tôi: Tôi thèm sống... Tôi không hiểu những gì chờ đợi tôi, nhưng tôi thèm sống. Như con trâu bị thương trong cuộc chọi, tưởng đã cắm sừng vào đất bãi, chợt vùng lên lao vào hiệp mới, tôi ngồi dậy sảng khoái vì niềm khát sống gia tăng sức mạnh trong tôi với ngọn đũa của thần linh...
Ngồi bật dậy nên đầu tôi va vào chiếc đầu lâu đau điếng. "Ôi chao, người anh em cục đầu tớ đau làm vậy?" Tôi nhăn nhó nghĩ thầm và bắt đầu thu xếp hành trang. Cuốn nhật ký của người đã chết rơi xuống, lật trang, ngẫu nhiên hiện trước mắt tôi dòng chữ lớn nguệch ngoạc:
- Mẹ ơi... Mẹ ơiii...

Thốt nhiên, tâm linh tôi bật lên tiếng kêu đồng điệu, tiếng kêu làm thung lũng chao đảo rung rinh, làn sóng âm vang tới tận chân trời. Mẹ ơiii... Nơi chân trời lãng đãng khói sương vầng mặt trời bỗng nhòa nước mắt.
"Mẹ ơi, con sắp chết... Chắc con không về với mẹ được chẳng có ai lợp lại mái nhà...!"
Tôi đọc tiếp dòng chữ ngoằn ngoèo trong cuốn nhật ký. Bộ xương kia cũng như tôi, những gã trai chưa vợ. Chưa người đàn bà nào thay thế được hình bóng mẹ trong tim... Chúng tôi vẫn chỉ là những thằng bé con...
- Mẹ ơiii...
Tôi lại thấy nụ cười tươi, mái tóc dài, mùi mồ hôi lẫn mùi thơm quen thuộc.
Đặt cuốn nhật ký giữa lớp áo quần tôi gấp lại cho chúng phẳng phiu. Tôi lấy chiếc khăn mặt cuốn cây sáo trúc cẩn thận rồi xếp tất cả vào ba-lô. Còn sợi dây dù dài, tôi cột chặt chiếc ba-lô của người đã khuất vào lưng ba-lô của mình. Khẩu tiểu liên báng gập nằm phơi trên tấm vải nhựa với các băng đạn. Nắng sớm chiếu vào lấp lóe. Tôi xách khẩu súng lên: “Mẹ kiếp, thằng chó đẻ nào làm ra cái thứ này... nặng như cối đá..." Tôi thầm nghĩ, ước lượng: "Họ bảo súng này có bảy cân, sao giờ mình thấy như một tạ! Lại còn đạn nữa chứ... Có ngậm sâm cũng chẳng tha được của quỷ này." Tôi lẳng khẩu súng sang bên phải, thuận chân đá đám đạn sang bên trái.
Chỉ vài tháng nữa, tất cả sẽ vùi dưới rừng môn thục. Lại một rừng môn thục mới trên đám cây thối rữa, trên mảnh đất thấm đẫm chất thối rữa của da thịt người. Chúng sẽ lại gieo xuống thứ bóng râm nhớt nhát, lạnh lẽo và thổi qua thung lũng ngọn giờ âm u của tử thần.
Thôi, chào nhé...
Tôi đứng trước võng, nhìn bộ xương sạch bóng, ba mươi hai chiếc răng đều tăm tắp, nguyên vẹn. Đầu lâu không cười mà ngoác miệng ra như mếu... “Thôi đằng ấy ráng chịu vậy. Đời mà, biệt ly là chuyện thường. Tớ sẽ mang những vật kỷ niệm này giao tận tay mẹ. Nếu rủi bà cụ không còn nữa tớ sẽ đem đến trước mộ, làm lễ chiêu hồn, cúng siêu linh. Tớ sẽ đọc nhật ký của đằng ấy cho vong nghe, không sót một dòng nào để vong được hởi lòng mát dạ... Chúng mình là những thằng con vô tích sự, làm khổ mẹ khi mẹ còn sống, chỉ an ủi được các hồn ma...”
Tôi chụp mũ lên đầu ra đi. Đi một mạch tới quá trưa, vượt khỏi thung lung tới vùng đồi bao la, mọc các loài gai nhỏ, cây chổi và cây chạc-chìu. Đến đây bắt đầu phải chịu gió Lào, thứ gió khô khan, tàn nhẫn hút kiệt cả mồ hôi lẫn nước bọt.
Không ngụm nước, không hạt cơm, chân bước bồng bềnh như trong mây... Cứ thế tôi mải miết qua không biết bao nhiêu ngọn đồi. Mắt mờ đi, cổ họng sưng, nóng bỏng, tôi lê bước như kẻ mộng du. Vào lúc mặt trời đã chìm một nữa sau giải đồi xa, tôi chợt nhìn thấy một khuôn cửa hầm hình chữ A bên khóm chuối. Không còn đủ hơi để cất tiếng gọi, tôi thu hết tàn lực, lảo đảo tới miệng hầm, nằm vùi xuống đó...
Chương 4
Ơ chú...
- Chú ơiii...
- Ơ chúúú...
Một tiếng gọi lặp đi lặp lại như con sóng đập vào tai tôi. Giọng nhỏ nhẹ êm ru... Tôi cảm thấy dễ chịu.
- Ơ chú... dậy di chú...
- Ơ chú... mở mắt ra đi chúúú...
Tiếng gọi khẩn thiết, run run như muốn khóc. Tôi chợt hiểu rằng tôi phải mở mắt ra, dù điều đó thật khó khăn. Tôi đang muốn chìm vào một cơn mê mới.
– Ơ, ơ, ơ, chúúú...
Tôi gắng cựa mình, làm đà để mở mắt. Vệt nắng chói khiến tôi vội nhắm chặt lại. Vài giây sau, tôi tử từ hé mắt nhìn. Trước mặt tôi có hai con mắt đen long lanh. Hai con mắt đó chăm chú nhìn tôi, ánh sáng viền quanh một mái tóc tơ với nửa khuôn má. Lát sau tôi mới nhận ra khuôn mặt nó. Đó là một khuôn mặt nhỏ, cân đối, hơi nghiêm trang. Thấy tôi đã hoàn toàn tỉnh táo, con bé lên tiếng:
- Chú làm tui sợ.
Giọng nói hãy còn run. Tôi định cất tiếng hỏi nhưng lưỡi như bị dính chặt vào hàm. Dường như hiểu ý tôi, nó nói tiếp:
- Tôi gọi chú từ đầu hôm tới chừ, khản cả giọng. Chú cứ nằm im như chết... Chừ hết sợ rồi. Tôi đút cháo cho nghen...
Nó tụt khỏi bộ ván, chạy vào phía trong. Nháy mắt sau, nó quay ra bưng một tô mẻ với chiếc thìa cụt đuôi. Có một làn hơi mỏng mảnh bay trên miệng tô cháo. Con bé trèo lên ván, đặt tô cháo cẩn thận bên chỗ tôi nằm, rồi nó nhấc đầu tôi lên đặt vào một bên đùi và múc từng thìa cháo bón cho tôi. Một chất nước sanh sánh, ấm, tỏa mùi thơm của cám mới lẫn với lúa non. Những hạt gạo nở chưa nhuyễn nghe lật sật trong hai hàm răng và mắc nghẹn nơi cổ họng sưng bỏng. "Cơm tẻ mẹ ruột", tôi sực nhớ tới lời mẹ tôi thường nói hồi xưa. Tôi cố gắng nuốt.
- Ráng lên, ráng lên đi chú...
Con bé, chừng như đoán ra tình trạng khó khăn của tôi nên cất tiếng dỗ dành:
- Chú sốt cao lắm. Sốt cao thì nước miếng nhạt như nước hồ. Nhưng phải cố ăn kẻo đau nữa. Cháo gạo mới đấy, ngon hung!
Hẳn là nước cháo đã kịp thấm vào cái dạ dày lép kẹp của tôi nên tôi thấy tỉnh táo hơn. Con bé nhanh tay xúc vì thấy tôi nuốt được dễ dàng.
- Vài muỗng nữa thôi... ráng lên chú, ráng lên... sắp hết tô cháo rồi.. sắp... hết...
Nó vét thìa quèn quẹt. Tô cháo chắc nhẵn như chùi.
Con bé kéo vạt áo lau miệng cho tôi đoạn chuồi khỏi bộ ván, mang tô và thìa đi. Nó lục sục gì đó phía bên trong không rõ. Một lát sau, ước chừng quãng thời gian hút tàn điếu thuốc, con bé trở lại, hai bàn tay bưng chiếc chén sành khói bốc nghi ngút:
- Nè chú, ráng uống chén mật này rồi hãy ngủ... Ráng chút xíu. Nào, nhấc đầu lên.
Chén nước bốc mùi thơm của mật ong hòa với các loại lá đồi những thứ lá dân ở đây thường nấu nước uống và bọn lính chúng tôi thường cắt để ngụy trang pháo và xe. Chất nước ngọt ấm nóng lan tỏa trong tôi cảm giác êm dịu. Tôi nhắm mắt. Đùi con nhỏ mềm mại dưới đầu tôi, quần áo nó bốc mùi nắng khét. Cặp mắt đen đau đáu lo âu của nó chăm chú đưa theo chiếc thìa nhỏ khiến tôi không thể nào không hình dung đó là người mẹ trẻ, - nó chính là người mẹ thứ hai tôi tình cờ bắt gặp từ khi mẹ tôi bỏ tôi xuống tuyền đài.
- Hết rồi. Chừ thì chú ngủ đi, nghen.
Vị nữ thần hộ mệnh của tôi cất tiếng nói, đoạn lấy vạt áo lau miệng cho tôi. Rồi bò qua chân tôi, nó rút một mảnh chăn dù:
- Chú ngủ cho ngon, nghen, đừng cục cựa mà chăn rớt. Độ này ông nội mắc việc chưa dọn hầm được...
Tôi thấy nó trải tấm dù trên thân thể tôi, cẩn thận ém dưới chân và bên lưng. Tôi chưa thể cất lời. Con bé đặt bàn tay lên trán tôi rồi nó chuồi xuống hầm. Lúc ấy, tôi he hé nhìn. Con bé trạc sáu tuổi là cùng, mặc chiếc quần hoa vá miếng vải đen, chiếc áo xanh bạc phếch. Da đen mịn như phấn. Môi nhỏ xinh. Một bà cụ non tơ! Săn sóc tôi xong rồi, gương mặt nó trở nên nhẹ nhõm.
Nó rút trong túi mảnh gương vỡ, mảnh lược dùa bằng nhôm máy bay, bắt đầu chải tóc. Bàn tay nhỏ xíu đưa nhát lược đều đặn, chải chuốt tựa một thiếu nữ. Mái tóc tơ xoè những mối nhỏ hoe hoe nhuộm nắng sau gáy khiến tôi liên tưởng tới bầy Chúa hài đồng vây quanh Đức Mẹ. Gác chuông nhà thờ vút lên sau đồi...
Lão Bỏ già mặc quần áo thâm chùng đưa mẹ con tôi đi qua nhà nguyện vào cái ngày khốn khổ mẹ tôi sắp sinh nở. Chúng tôi đã nhờ cậy vị cha xứ quen thân ông bà ngoại tôi tìm cách liên lạc với Hà nội và xin viện trợ ít tiền... Cái ngày xa xôi... Nhưng gương mật xinh tươi của Chúa hài đồng... Gương mặt vị thần hộ mệnh tôi vừa xuất hiện... Thế giới của các ảnh tượng cũ và mới nhảy múa, ru tôi đi mãi...
Trong giấc mơ thoạt tiên thanh bình rồi sau thảng thốt, tôi thấy nạn hồng thủy: Một đợt sóng lừng từ chân trời cuồn cuộn dâng ngọn thủy triều đen ập tới trùm phủ khắp nơi... rừng núi, khe suối, thành phố, làng xóm, - mặt trận bên đông, mặt trận bên tây, - những người lính chiến đấu cho quốc gia lẫn chúng tôi, đội quân chiến đấu cho chủ nghĩa xã hội, - những con chim tước và sơn ca, những con thỏ và những con cáo, những con chim kên kên chuyên ăn xác chết, - và các loại dòi bọ, các loại kiến mối... thảy thảy đều chìm. Ngọn thủy triều đen xóa mọi biên giới. Cả những đỉnh non đầy sao, cả những ngọn cây đầy nắng. Các gác chuông nhà thờ và các kho lưu trữ chồng chất các tuyên ngôn, các hệ thức luận, các biên bản bút chiến giữa những ông lớn đầu hói râu dài, những nghi quyết đẻ lổm ngổm từng đàn cừu đam mê và suy tưởng... Tất cả.
Trong nụ cười lặng lẽ và ngạo mạn, thủy triều đen trải lên mặt nước vô cùng tận những bọt sóng màu lam xám. Và mặt trời trên cao rọi sáng, phản chiếu lên vẻ đẹp thê thảm của thế gian những giọt nước mắt xanh lơ rơi từ một tinh cầu xa lạ. “Thế là hết - Không còn ai - Luật công bằng dành cho con người. Quà tặng cuối cùng của tạo hóa..." Nhưng mà không! Nơi chân trời đen thẳm, bỗng hiện lên những chiếc mảng bập bềnh. Và tôi thấy khắp nơi, ngoi ngóp dưới làn nước màu chì, những con người tuyệt vọng trồi lên cố bám lấy những mảnh bè hy vọng. Có tôi trong đám đông ấy. Tất cả chúng tôi lúc nhúc như kiến bọ, chen chúc nhau trên những con thuyền. Nô-ê mỏng manh ghép bằng tre nứa. Tất cả chúng tôi đều trần truồng, ướt nhẳng, kẻ ít tóc thì phơi lớp da sọ, kẻ râu rậm tóc dài thì lướt thướt như lũ dê già lội sông. Toàn bọn đực rựa, không mảnh vải che thân, ngồng ngồng phơi bày các loại của nợ...
Giữa cảnh ấy, chúa hài đồng nhỏ bé của tôi hiện ra trong tấm áo xanh bạc ngắn cũn, chiếc quần hoa cũ vá mụn đen, món tóc hoe vàng vì phơi nắng. Nàng tiên giản dị ấy lần lượt nhặt từng gã đàn ông nhỏ bé và trần truồng như con chuột nhắt, nàng tắm cho từng người trong một chiếc chậu sành. Những gã đàn ông ấy, bi cơn hồng thủy phù phép, trở thành thứ sinh vật nhỏ bé khốn khổ đã ngoan ngoãn ngồi trong chiếc chậu sành như thuở mới lọt lòng...
– Ô, ông đã về... ông ơiii...
Tiếng reo bất thình lình đập tan cơn mê. Tôi choàng dậy. Một ông già đứng giữa hầm, xây lưng lại phía tôi. Con bé ôm chặt lưng ông, kêu lớn:
- Răng mà ông đi mô rứa? Ông làm cháu sợ cả đêm...
- Chui cha, ông đi mô mà đi hoài vậy?...Hu hu hu...
Con bé khóc, khóc nức nở, tức tưởi như bị đòn oan.
Ông già ve vuốt nó:
- Thôi mà... ông xin... Cho ông xin...
- Hu hu hu... hu hu...
Con bé càng khóc to hơn, chen vào từng cơn là những tiếng nức nở. Tấm thân nhỏ bé rung lên, ông già ngồi phục xuống, ỏm đầu nó mà hôn hít, thiết tha:
- Cho ông xin mà. Ông xin con... Lặng nghe ông nói này: ông qua thăm ông Kiến, mẹ Kiến với đám con cháu trúng đạn cối chết cả lượt. ông phải ở lại giúp đám ma. Sau ông phải rẽ qua dì Hường, cho tụi nhỏ vài ký gạo. Rồi ông tạt lên rừng kiếm ít mật ong... Con xem nè, đõ ong nguyên. Còn cả ong non, lát nữa ông cháu mình ăn nghen...
Con bé vẫn còn nức nở, dụi đầu vào cổ ông. Ông già vuốt ve nó gượng nhẹ. Chăm chú như trong mỗi cái vuốt ve ấy ông phải cố gắng chống lại sức nặng và thói quen của bàn tay người làm việc nặng. Tôi nhắm mắt, vờ ngủ. Cuộc đối thoại tiếp tục:
- Con đừng khóc nữa nghen.
- Dạ.
- Sớm mai tới chừ con ăn chưa?
- Con ăn cháo.
- Sao không nấu cơm? còn gạo mà?...
- Không.
- A... ông biết rồi. Con nấu cháo cho chú bộ đội ăn...
- Đau hả?
- Dạ.
- Chú ấy đau sao?
Khi hôm, con ra sau vườn kiếm rau nấu canh. Lúc quay vào, thấy chú nằm úp dưới gốc chuối. Con kêu hoài chú không thưa. Con qua bên o Lài nhờ o Lài bồng chú xuống hầm. O ấy xoa dầu cho chú xong phải về cho thằng Lanh bú. Mình con ngồi canh. Mãi ông không về. Con đốt đèn cả đêm, hết kêu lại rứt tóc chú, chú chẳng thưa.
- Sợ hả?
- Con sợ chú chết luôn. Chết xuống dưới mồ, chẳng bao giờ dậy như cha.
- Chú ấy không mở mắt, không thưa nên con không dám ngủ...
- Chui cha, cháu ông ngoan quá. ông thương cháu nhất đời...
Hai ông cháu lịch kịch giờ đồ đạc, sửa soạn nấu ăn. Vị thần hộ mệnh của tôi đã trở lại là một đứa bé được nuông chiều. Nó ăn ong non, mật, nhõng nhẽo đòi ông kết tóc đuôi sam. Thỉnh thoảng nó lại kêu to:
- Không cơ...
Ông già xoa suýt:
- Đừng kêu... đừng kêu, chú bộ đội mất giấc ngủ... Lặng nghe ông bảo nè...
Tôi lại ngủ tiếp giấc thứ hai cho tới tận hoàng hôn.
Ngoài trời chạng vạng, trong hầm đã phải thắp đèn. ông lão cho tôi ăn cháo nấu với mật ong. Sau đó, ông ép tôi uống một bát nước đen đặc, gồm những lá cỏ, - một bài thuốc dân giã lưu truyền. Mồ hôi toát ra ướt như tắm, người tôi nhẹ bỗng như vừa xông hơi nước xông. Ông cụ đem tới mảnh nồi đất vỡ, chứa than hồng:
- Lát nữa, khô hết áo quần con sẽ tỉnh... Nào, đã thấy đủ hơi nóng chưa? '
Tôi gật đầu. Hơi than tỏa trong hầm rất nhanh, làn gió ấm thoang thoảng chờn vờn trên da thịt. Tôi trôi tiếp vào một cơn mê khác, một giấc mơ an bình.
Sáng hôm sau, khi mở mắt, tôi thấy mình lọt giữa một đám người. Bộ ván rộng đặc kín những chăn dù, vải tăng.
Vào lúc tôi tỉnh ngủ, mọi người cũng thức giấc. Lần lượt, những tấm chăn tung lên. Tôi thấy bên trái mình là ba cô thanh niên xung phong, còn bên phải là hai anh thông tin kỳ cựu. Hai ông cháu nằm trong cùng.
Căn hầm hừng hực hơi người, ấm nhưng ngột thở. Mọi người ngồi dậy. Các cô gái chải tóc, sửa sang quần áo một cách hồn nhiên trước mặt các chàng lính già. Hai anh thông tin tóc muối tiêu hí hởn chuyện trò, biết chẳng được xơ múi gì nhưng có âm có dương, đời thêm chất ngọt.
Tiếng bom dội từ hướng tiền duyên vẫn ầm ì vọng đến.
Ông lão bưng ra một nồi khoai khô nấu đậu:
- Các con ăn buổi mai cho no, lấy sức lên đường.
Vị chúa hài đồng bé xíu của tôi đem ra chồng bát đủ loại: bát sứ, bát sành, bát sắt Trung quốc, bát B.52... Bom đã phá vỡ hết thảy những đồ gia dụng quí bằng pha lê hoặc bằng sứ. Nhà nào cũng ước ao cớ được một chiếc hăng-gô lính và một chục bát sắt tráng men.
Các cô thanh niên xung phong vừa đùa giỡn hai anh lính vừa xúc khoai nấu đậu ra bát. Họ mời nhau rầm ran:
- Chúc anh ăn no, dẻo chân hành quân nhá. Từ đây vào tới trạm còn xơi đường đấy...
- Chúc em ăn nhiều, chóng thành trục lăn nhé... Bao giờ chiến thắng, về quê em chơi, có mời tụi anh thịt gà không đấy?
- Có chiến thắng, về quê, em thịt hẳn con nhái bén làm cỗ mời hai anh...
Họ vừa ăn vừa cười rinh rích, vừa đấm lưng nhau thùm thụp. Bữa sáng xong, người nào người nấy chào chủ nhân rồi lên đường. Tôi nghe tiếng họ ngoài cửa hầm lẫn với tiếng rền của một đợt bom từ chân trời phía tây vọng tới:
- Các anh đi, thắng lợi nhé...
- Chào... Chào...
- Tụi em chòng ghẹo quá lời, đừng giận nghe không?
- Không... Không...
Một bàn lay lạ, rất ấm và đầy sờ lên trán tôi. Một vật gì đó khá nặng đặt bên cạnh:
- Bọ ơi, con chào bọ... Có hộp sữa để cho anh bộ đội bị ốm. Bọ nói tụi con gửi lời chào anh ấy, chúc anh ấy chóng khỏe.
- Bọ ơi, đêm qua con nằm cạnh anh ấy. Thế là duyên trời đã định, như Chữ Đồng Tử hiện dưới màn chúa Tiên Dung. Bọ bảo anh ấy phải ghi tên tuổi con. Bao giờ chiến thắng, về làng Nga Mi đem trầu cau ăn hỏi...
Họ đi xa dần, tiếng cười lanh lảnh vọng lại. Cả ngày hôm ấy, chập chờn những cơn mơ màng, tiếng cười trẻ trung inh ỏi của họ ám ảnh tôi. Tối đến, tôi dứt hẳn cơn sốt. Sáng hôm sau, tôi chào chủ nhân lên đường. Nhưng ông lão đã dằn ba-lô của tôi xuống tấm ván:
- Con chưa đi được.
- Thưa bọ, con phải tới K. Việc quan trọng không thể trì hoãn.
- Từ đây tới K sức bò tót mới đi bộ được. Con xa lạ không biết, nhưng bọ biết. Ngày trước, người ta đi ngựa tới đó. Có khi ngựa chết dọc đường nếu không chọn giống ngựa khỏe!
- Con sốt ruột lắm. Thời gian...
Ông già nghiêm nghị bảo:
- Chiến tranh còn dài. Con phải giữ sức chiến đấu. Con là người lính của nhân dân.
Tôi im, ông nói tiếp:
- Ở lại vài ngày. Bọ bồi dưỡng cho. Hồi hôm, bọ đã đổi chai mật ong, lấy con gà. Hôm nay đem nấu cháo. Sớm mai bọ vào khe bắt vài con cá về nướng. Cá nướng chấm mắm ăn chóng lại sức lắm... Thế, kha khá lên con mới đủ sức mà bò.
Nói đoạn, ông lão lui cui vào hầm xách bu gà. Trong chiếc bu gà dẻo đó, một con gà mái tơ dương mắt thao láo nhìn tôi. Cái mào mới nhú, đỏ tươi... Chắc nó chưa kịp đẻ lứa đầu. Tôi nằm xuống ván, gối đầu lên tay, đăm đăm nhìn kèo hầm. Dọc theo kẽ nứt của cây kèo, một đàn rệp béo mọng xếp hàng nằm nghỉ. Lũ rệp thời chiến là những ông hoàng bà chúa. Chúng được tự do và luôn luôn no đủ. Người ta hiến máu cho chúng một cách vui vẻ vì, so với lệ phí của bom đạn thì đó chỉ là những khoản thuế còm...
Tôi thờ ơ lướt qua lũ chúng, lặng nhìn khoảng trời bên ngoài. Hôm nay nắng. Trời tơ thắm tươi không gợn mây. Tôi thầm cầu mong cho sức khỏe mau chóng trở lại để lên đường... Chắc giờ này, Lương đang nhắc tôi.
Tấm sơ đồ của người giao liên quá đơn giản! Nếu không gặp anh chàng Vân kiều Te Chiêng, tôi dám chắc không thể tìm đến K. được. Tôi gặp Chiêng trong lúc anh ta ngồi bên bờ suối, phơi la liệt những lá thư bị thấm nước.
- Làm sao thế?
Mình bị ngã, ướt hết gùi thư. Bộ đội đi đâu?
- Tới K.
- Thế cùng đi. Mình gùi thư tới cho lũ ở K.
- Từ đây tới đó bao nhiêu cây số?
Mình không hiểu. Cây số là cái cây gì?
- A... Chừng một hay hai ngày đường?
- Không, bộ đội có đi nhanh bằng ngựa được không? Con ngựa khỏe đi hết ba ngày đêm mới tới.
Chúng tôi cùng đi, băng qua hai cánh rừng và một con suối lớn. Đêm xuống, hai chúng tôi chui vào một chiếc hang nhỏ vừa đủ kín tới khuỷ chân. Sáng hôm sau, một luồng ánh sáng đỏ rọi vào mắt khiến tôi bừng tỉnh. Tôi ngồi dậy, bàng hoàng. Không gian đỏ rợn như pha sắc máu vây phủ bốn bên. Tôi đập vào lưng Chiêng:
- Dậy, dậy...
Anh chàng Vân kiều trở mình, vùi đầu vào cánh tay:
- Ngủ nữa đã, mình mệt lắm... chưa đi được đâu...

Chiêng lại ngủ. Tôi tựa vào anh ta. Hơi ấm truyền từ con người hoang dã ấy cho tôi thêm sức mạnh. Tôi choáng váng trước cái không gian lộng lẫy khủng khiếp này. Nơi chúng tôi ngủ là rẻo núi đá cuối cùng, cái hang nhỏ như hang của con cáo độc. Từ hang đó trở đi là giải đất lởm
chởm cỏ gai, dài ước chừng dăm chục mét. Sát mép cỏ là cát. Cát đỏ như máu, chạy xô tới tận chân trời. Một hoang nguyên cát đỏ. Một sa mạc máu kết tinh. Màu đỏ phản chiếu ánh rạng đông, hắt lên sắc hồng ma quái. Bầu trời nhuốm hồi quang trở nên tím rịm.
Gió thổi từ chân trời trơ trụi cát, phả lên không trung những ngọn triều đẫm máu. Những ngọn triều xô dạt, rượt đuổi, phiêu du dưới những tia mặt trời tê quết. Cảnh tượng ấy đắm trong một giai điệu âm u, xa tít tắp, rì rầm không ngớt tựa hồ có bài kinh nguyện vô cùng, có bài ca cám dỗ vô cùng, có những lời rủa nguyền độc dịa vô cùng, tất thảy giao hòa trong phức điệu đẫm máu của thời gian, tồn tại từ niên kỷ này qua niên kỷ khác, và rắc xuống mặt đất những giọt máu oan khốc. Từ những giọt máu ấy, nảy sinh ra loài cây dại hình thù từa tựa như cây duỗi, quả kết chùm màu huyết làm chốn quanh quất cho những bầy bướm ma là loài bọ hóa thân của những oan hồn...
- Chiêng, Chiêng...
Tôi đập túi bụi vào vai anh chàng Vân kiều. Hắn ngồi dậy, dụi cặp mắt đỏ kè. Tôi bảo:
- Nắng quá rồi.
Chiêng lè nhè:
- Thì nắng cả ngày mà... Có trốn được đâu?
Chiêng đã quen thuộc vùng này, anh ta bình thản.
Nhưng tôi sợ. Nơi chân trời, từng làn bụi đỏ bay, kéo lê trên mặt đất cái bóng mờ ảm đạm. Ngọn gió lo âu, phấp phỏng chờ... ai đó?... Có thể là tôi... Rất có thể là chính tôi. Bầu không gian tẩm máu tử trong các huyền sử đã thổi về hơi thở lạnh buốt của ân oán. Thịt da các tử thi nguội lạnh đi, tan rữa qua các thiên niên kỷ nhưng bóng dáng các âm hồn vẫn lảng vảng đi về...
- Bộ đội làm sao xanh lét?... ốm à?
- Vâng, tôi khó chịu.
- Mình cho bộ đội uống thuốc nhé?
- Thôi, cảm ơn.
Tuổi trẻ của chúng tôi kiêu hãnh làm sao! Ngày lên đường, mười năm trước đây, tôi không mường tượng tới cảnh này. Lúc ấy, chúng tôi chỉ muốn hát khúc khải hoàn.
Dù phải bắn cối, bắn liên thanh, gài mìn, đâm lê, thọc dao găm... các kiểu giết người đều tốt... miễn là được ca khúc khải hoàn... Bóp cò, băm vằm không chán tay trong hứng khởi thù hận và đòi công bằng trong thù hận.
Bây giờ, hai mươi tám tuổi, tóc có dăm sợi bạc, tôi đi qua mảnh đất xưa kia chính là khải hoàn môn của tổ tiên mình. Bao nhiêu niên kỷ trước, có thể ông tổ tôi đội nón dấu, vác súng hỏa mai và đeo mã tấu đến đây, và hát khúc khải hoàn, và uống rượu khao quân trong những chiếc bát loe bằng đất, và sung sướng khôn cùng, và kiêu hãnh vô hạn...
Anh chàng Vân kiều đái tồ tồ một bãi ngay bên tôi, không thèm bước quá vài bước chân. Rồi bảo:
- Ta đi thôi.
Tôi đeo ba-lô, lặng lẽ đi theo Chiêng, Mỗi bước, tôi phải bấm chân xuống cát vì không gian rung rung xung quanh như sóng... Nó làm tôi chòng chành, nó khiến tôi ngột thở. Chân trời cát đỏ tóe máu lên chân mây. Cả những gợn mây trắng li ti cũng nhuốm sắc đào. Những bụi gai xương rồng mọc ven tráng cát cũng có màu máu loãng. Những chùm hoa xương rồng ngậm sương, trông giống hệt những giọt máu vẩy trong ống thủy tinh... Tuổi trẻ cơ cực của tôi, tuổi trẻ tội nghiệp của tôi, cớ sao bắt tôi cảnh tượng này... Bất chợt, Chiêng dừng lại:
- Bộ đội thấy đẹp chưa, sau cái gò cát đó.
- Cái gì?
Anh chàng Vân kiều giơ tay chỉ...
Tôi nhìn thấy sau một gò cát nghiêng nghiêng, lởm chởm những búi cỏ mặt trời, hiện lên một cái tháp Chàm.
Chương 5
Người tiếp tôi không phải sư trưởng Nguyễn văn Hào, cũng không phải chính ủy Đoàn Trọng Liệt! Uổng công tôi gìn giữ hai lá thư nọ phẳng phiu, khô ráo. Cả sư trưởng lẫn chính ủy đã rời K từ mười hai ngày trước, đi dự một hội nghị quan trọng trên quân đoàn.
Người tiếp tôi là Đào Tiễn, thấp béo, mắt ti hí, giọng nói rổn ráng sang trọng. Ông ta cỡ ngoài năm mươi tuổi, đầu hơi hói. Sau khi đọc xong cả hai lá thư của Lương gửi sư trưởng và chính ủy, Tiễn bảo:
- Ba chúng tôi như anh em một nhà. Đồng chí cứ xem xét tình hình rồi đề xuất biện pháp. Việc gì đồng chí Hào, đồng chí Liệt giải quyết được, tôi cũng giải quyết. Đừng ngại.
Thấy tôi nóng ruột muốn gặp Biền ngay, ông ta cản:
- Chín ngày đêm đi bộ không phải chuyện bỡn. Hãy nghỉ ngơi đã. Cậu ấy chẳng thăng thiên cũng không độn thổ được đâu.
Nói xong, ông cười hềnh hệch. Con mắt bé tí ánh lên vẻ ranh mãnh của một thằng ôn vật hơn là một người chững chạc đã tới tuổi ngũ tuần. Tôi đành xuống phòng khách sư đoàn ngủ. Nhưng chưa kịp mắc màn, ông sư phó đã mò vào:
- Đồng chí uống nước chè chưa?
- Cảm ơn, không cần đâu.
- Tôi có mang chè xuống đây. Chè Tây Nguyên uống tạm. Nước đen thui như nước gạo rang.
Ông ta lúi húi pha chè vào chiếc ca quân dụng rồi rót ra hai chiếc bát sắt tráng men cỡ nhỏ:
- Mời đồng chí.
- Vâng, cảm ơn.
– Ơn nghĩa gì! Đồng chí trẻ tuổi mà sao khách sáo thế. Dân Hà nội à?
- Không, tôi người làng Đông tiến.
- Trông như người thành phố ấy!
- Bề ngoài thôi. Cái bề ngoài hay làm người ta nhầm.
- Có vẻ như cả bề trong nữa. Tôi ít khi nhầm lắm. Cả sư đoàn biết điều đó.
Tôi mỉm cười:
- Trường hợp này thì đồng chí nhầm.
Ông ta cười:
- Ư thế cũng hay. Đồng chí bao nhiêu tuổi?
- Hai mươi tám.
- Tuổi con khỉ, đúng bằng thằng em út tôi. Nó cũng bộ đội.
- Anh em gặp nhau chắc toàn chuyện lính, tha hồ vui.
- Chẳng vui lắm đâu... Trước nó cứ đòi đi học đại học y làm bác sĩ. Tôi phải chỉnh cho nó một trận nên thân nó mới chịu vào lính.
Tôi nói:
- Thành bác sĩ cũng có ích cho xã hội. Cứ gì phải làm lính mới nên người. Trong đơn vị tôi chẳng hạn, có một gã tên là Hùng... đánh trận giỏi, giết năng xuất nhưng...
Đào Tiễn giơ tay, xua lấy xua để:
- Thôi thôi, tôi biết luận điệu của đồng chí rồi. Y như thằng em trai tôi. Bọn trai trẻ bây giờ suy nghĩ nông cạn lắm. Chỉ nhìn thấy cái lợi trước mắt, không nhìn thấy cái lợi lâu dài. Chỉ nhìn thấy vinh quang của bản thân, không nhìn thấy vinh quang của Tổ quốc.
“ Đ. mẹ thằng già, lại bắt đầu lên lớp." Tôi cười nhạt:
- Vâng, tuổi trẻ chúng tôi ngu dốt, đồng chí cứ phân tích cho.
Sư phó Tiễn nhìn xói vào mắt tôi:
- Này, đừng riêu nhá... Tôi không lạ gì tụi lính trẻ bây giờ.
Tôi uống một ngụm chè đen, đỡ mệt. Tôi bảo ông ta:
- Tôi tỉnh ngủ rồi, xin tiếp chuyện đồng chí. Thực ra ai mà chẳng có cái ngu. Nhưng chắc chắn cái ngu của người này khác cái ngu của người kia. Bọn tôi lớn lên, đến tuổi thi hành nghĩa vụ thì đăng lính. Ai cũng có máu Việt nam trong tim cả. Cứ có một thằng giặc khác dòng giống nào trên đất của mình thì sống chết cũng phải đánh bạt chúng đi. HọTrần ngày xưa diệt quân Nguyên cũng thế. Họ Lê ngày xưa diệt quân Minh cũng vậy.
Ông ta gật gù quấn một điếu thuốc, thứ thuốc lá đen của dân Vân kiều, nhựa đặc sánh như mật gấu, người không quen, hút một hơi là lăn quay! Cuốn chặt lá thuốc, Tiễn lè lưỡi liếm cho mép lá dính chặt thành sâu kèn. Vẻ mặt ông ta toát ra niềm tự đắc và viên mãn:

- Cũng đúng. Nhưng chỉ là một nửa sự thật thôi. Các đồng chí ít tuổi mà không chiu học tập chính trị. Tổ tiên chúng ta dũng cảm nhưng không có may mắn được lịch sử lựa chọn và trao gửi một trọng trách như chúng ta bây giờ. Đồng ý là nhà Trần, nhà Lê, nhà Nguyễn đã có những chiến thắng oanh liệt, nhưng đó chỉ là những cuộc chiến tranh bảo vệ tổ quốc đơn thuần. Chúng ta khác: Chiến thắng của chúng ta không chỉ là chiến thắng của một dân tộc nhược tiểu với lũ đế quốc mà còn là chiến thắng của hệ tư tưởng Mác-xít. Chỉ có hệ tư tưởng Mác-xít mới thiết lập được chủ nghĩa cộng sản trên toàn trái đất, thực hiện được giấc mơ...
- Có tôi nhớ rồi... thiên đường của loài người.
Đào Tiên vội hỏi:
- Các đồng chí không qua các đợt học tập à?
- Có. Nhưng chúng tôi học cách đánh hơi kẻ thù, thăm dò độ cứng của đất, bố trí các ổ hỏa lực nhiều hơn... Thành ra chúng tôi quên béng những bài học kia.
Đào Tiễn nhường cặp mắt ti hí lên:
- Ơ hay, đồng chí chỉ huy đơn vị mà...
- Vâng, đơn vị chúng tôi chiến đấu cừ lắm nên được cấp trên cưng chiều, chúng tôi ít phải học tập chính trị. Hết đánh trận thì chúng tôi đánh bạc bôi râu và đi săn thú cải thiện...
Đào Tiễn thở dài:
- Lạ thật!
- Em trai đồng chí chắc cũng giống tôi. Tuổi trẻ mắc tật hay quên là thường chứ đâu có gì lạ.
Ông ta cau mày:
- Vấn đề chính là sự nghiêm túc trong tư tưởng. Không thể quên những điều hệ trọng như thế được!
- Sự lãng quên không có tư tưởng...
Ông ta trả lời gần như gắt:
- Đồng chí không hiểu ý tôi!
- Vâng...
Hai chúng tôi ngồi im lặng. Ngọn đèn săng nổ lép bép.
Tôi buồn thầm, riêng nghĩ "Thôi, trêu chọc lão ta làm gì? Dầu sao lão cũng hiền lành, tử tức. Vả, ngày mai, chính lão sẽ giải quyết chuyện thằng Biền..." Bên ngoài, tiếng cú rúc vọng tới. Rồi sau đó, âm điệu mơ hồ của đêm.
Tôi nói vớ vẩn:
- Chè đen của đồng chí ngon đấy.
– Ơ, thứ này ngon nhất trong các loại chè đen. Nhưng không thể sánh được với chè Thái nguyên miền Bắc.
- Vâng, chè Thái tuyệt thật.
Tôi hình dung thứ nước chè trong vắt, màu vỏ chanh hượm hượm chín, róc vào chén sứ men ngọc. Tôi thấy thứ chén chè sang trọng như thế, lần đầu tiên tại nhà một thằng bạn quê ở Hà nội. Chúng tôi quen nhau vì nó sơ tán, ở nhờ nhà dì Huyên trong xóm. Thái nguyên, Trung du... Cỏ chơ vơ đợi nắng trên các mỏm đồi. Con đường rải đầy rơm tươi, nồng nàn mùi lúa chín... Chúng tôi là những người đồng hương. Ôi,... miền Bắc... tôi hỏi:
- Em trai anh tên gì?
- Đào Khánh. Hồi mới sinh, ông cụ tôi đặt Đào Bảo Khánh. Sau, nó tự ý bỏ tên lót đi. Cái thằng bố láo.
- Khánh ở sư đoàn nào?
- Z 702. Hình như cách đây vài tháng, đơn vị nó chuyển tới thung lũng Ba cây sồi.
Tôi giật thót trong tim:
- Đồng chí nói sư đoàn nào?
Đào Tiễn đáp:
- Sư đoàn Z 702. Tên khó nhớ nhỉ?... Cái thằng tính oái oăm, vào đơn vị có con số cũng oái oăm! Rõ thật nồi nào vung ấy.
Tôi ngồi lặng. Z.702... Z.702... không thể nhầm được, đúng con số đã ám ảnh tôi cũng như nhiều anh em trong đơn vị từ ít lâu nay.
Ba tháng trước đây, chúng tôi bị rơi vào vòng vây của ngụy. Bọn chúng khống chế các điểm hỏa lực ưu thế hơn tụi tôi. Lực lượng cũng hơn tụi tôi ít nhất ba lần. Trận đánh diễn ra từ lúc mờ sáng cho đến nửa đêm. Số thương vong quá lớn, không còn hy vọng tải thương ra và tìm đường thoát thân. Chúng tôi vừa hứng chịu các làn đạn của địch, vừa chiến đấu một cách tuyệt vọng với ý muốn cuối cùng là nhích đến sự cân bằng phương trình hủy diệt. ít nhất cái chết của mỗi chúng tôi cũng phải đổi được dăm bảy sinh mạng đối phương. Chúng có thể mạnh hơn, ưu thế hơn, nhưng bọn công tử ăn trắng mặc trơn ấy không thể có được chí quyết tử. Tinh thần quyết tử là phẩm chất đầu tiên của người lính, của bất cứ đội quân nào muốn chiếm lĩnh khải hoàn môn.
Mặc dầu bóng đêm dãy đặc đã bao phủ, các điểm hỏa lực không ngừng róc. Khả năng chịu đựng bền bỉ cuộc đấu thì chắc chắn chúng tôi hơn hẳn mọi đội quân trên thế gian.
– Cho ngụm nước.
Cậu nào ghé tai tôi. Hóa ra Phiến! Tôi bảo:
- Bi-đông tao dắt sau đít ấy.
Phiến gỡ bi-đông, uống ừng ực, rồi cậu ta mò mẫm thắt lại vào dây lưng tôi.
- Anh Quân, mình bắn dính thật!
- Sao biết?
- Nghe tiếng chúng hộc lên thì biết. Tai em thính nhất đơn vị mà! Sao anh điểm hỏa tài thế
- Tao ngửi mùi.
- Ngửi mùi!
- Tại tao cầm tinh con chó, gì tao cũng ngửi mùi hết.
- Thôi, về vị trí đi. Sắp sửa rồi đấy...
Tôi vừa nói xong thì “Thụp!!”... một quả cối cá nhân rớt rất gần. Chúng tôi chúi đầu, nghe mảnh pháo rít sột sạt ngang tai. Lại một trận đối khấu của các họng súng...
Khoảng hai giờ sáng, các hỏa điểm của địch yếu dần, bọn chúng giàu đạn nhưng có lẽ đã cạn người... Chúng tôi kiểm điểm lại số quân chiến đấu và số thương vong. Thái không nói gì, tôi cũng không nói gì nhưng trong lòng không khỏi kiêu hãnh. Nghệ thuật cân bằng phương trình hủy diệt là nghệ thuật siêu đẳng của chiến tranh. Một ta bằng bảy nó. Kẻ địch bao giờ cũng bị định giá rẻ mạt như thế. Ai tìm được cách cân bằng phương trình sẽ thắng.
- Thèm thuốc quá!
Thái ghé sát tai tôi thì thào. Giọng cậu ta khản đặc.
Tôi bảo:
- Nhịn tí nữa.
Thái nói:
- Anh chì thật.
Tôi lặng im không đáp. Tôi đang tranh thủ chợp mắt. Tựa lưng vào mô đất, kẹp súng giữa hai đùi, tôi lơ mơ ngủ. Trong mọi cuộc chiến, tôi đều chóng vánh ngủ được ngon lành như thế. Chỉ cần năm phút, bảy phút, mười lăm phút... thư giản toàn bộ thần kinh, tự cắt bỏ cảnh trạng quanh mình, tự ru mình vào cơn phiêu lãng ngắn ngủi, tự đắm chìm vào những cơn mơ đẹp nhất. Và liền ngay sau đó tôi sẽ lại hồi sinh. Lúc này đây, tôi đang mơ thấy một mảnh ruộng xanh. Khoảnh đất gần đình, nơi dành riêng gieo mạ ngày mùa, và, những chiều rảnh rỗi, bọn trẻ làng ra đá bóng. Tôi ngửi thấy mùi mạ non. Tôi nhìn rõ những nhánh mạ lốm đốm vệt bùn...
Chợt một tràng trung liên rộ lên phía nam, âm vang theo khu Bỏ chữa. Tiếp nối là những tràng súng khác. Thái quát:
- Bọn chó đến tiếp viện!
Tôi nhỏm dậy:
- Bình tĩnh đã.
Thái bảo:
- Nó tới đông đấy. Mình điểm hỏa luôn, thi uy trước.
Tối thế này, nhà ngói như nhà tranh. Nếu để tụi nó đến gần, lúc trời rạng sáng, biết chỉ có một dúm người là chúng nó nghiền mình thành bột. Thái vừa nói xong, hai ổ trung liên của mấy cậu phía sau đã khạc lửa đỏ lòe. Thái huých vào lưng tôi:
- Định hướng cho chính xác nhá. Đạn cứ ăn giữa khe là thế nào tụi chúng cũng dính.
Một trận bắn quyết liệt giữa hai bên. Nhưng có một ý nghĩ lởn vởn khiến tôi bối rối. Tôi không hiểu mình nghĩ gì.
Phút chốc, tôi đứng đờ ra nhìn những đường đạn đi vàng khè. Bóng đêm bị cày nát, bị xé rách tơi tả vì vệt đạn băm.
- Anh Quân...
Tôi quay lại:
- Cậu nào?... à, Phiến.
Phiến thở hổn hển:
- Anh Quân, dừng lại đi... Em nghi ta bắn nhầm!
Tim tôi khựng lại. Một tia sét bổ đôi óc tôi ra và tôi chợt hiểu cái ý tưởng lù mù từ nãy như đám sương lởn vởn:
- Tại sao?
Tôi quát hỏi Phiến, nhưng trong lòng đã xác định một sự thật hiển nhiên. Phiến run run đáp:
- Toàn tiếng súng của ta. Không có cối cá nhân. Không có một phát cối cá nhân nào.
Tôi hô:
- Dừng lại, tất cả dừng lại...
- Dừng lạiii...
Thái ngừng tay trước hết. Sau đến các tay súng khác.
Tất cả im bặt, chờ lời giải thích. Tôi nuốt nước bọt, lên tiếng:
- Có thể là quân tiếp viện của chúng ta.
Tất cả im lặng. Nghe rõ tiếng chân Thái đạp lên chiếc vỏ đồ hộp. Lát sau, Lũy run run nói:
- Thảo nào em cứ ngờ ngợ... Bắn cứ ghê ghê tay!
Thái hỏi tôi:
- Giờ làm sao?... án binh bất động, chờ đến sáng chăng?
Đến sáng thì từng bầy trực thăng sẽ đổ quân tiếp viện xuống. Lúc ấy mới thật cùng đường.
- Thế anh định sao?
- Ta chủ động khai hỏa. Mục tiêu ở phía tây, chúng ta không có đạn cối. Nếu ta nhận được tiếng đạn của quân tiếp viện thì các đồng chí ấy cũng sẽ đoán được tiếng đạn của ta và tập trung hỏa lực vào mục tiêu. Xong, phải tìm cách rút ngay. Rút về hướng nam, dọc theo khe Bỏ chửa. Tất cả làm công tác thương binh, tử sĩ cho tốt.
Có lẽ, vào khoảnh khắc ấy, sự nghiệm sinh đã cho tôi khả năng nhận định tình thế một cách minh mẫn. Sau khi chúng tôi khai hỏa được chừng vài phút, có tiếng súng hiệp đồng quả nhiên phát động bên phía nam. Hàng ngàn tia lửa đạn rạch như pháo thăng thiên chụm về tuyến quân dịch. Hỏa lực của chúng rất yếu. Thi thoảng mới có vài phát cối cá nhân. Liên thanh bắn từng tràng rồi đứt đoạn. Một giờ hai mươi lăm phút sau, tiếng súng bắn trả ngưng lặng.
Chúng tôi hối hả kiểm điểm thương binh tử sĩ, phân công nhau cõng và tải thương rồi rút lui. Rạng sáng, chúng tôi gặp quân tiếp viện tại cánh rừng lùi sau khe Bỏ chửa chừng non cây số. Đơn vị này mang số hiệu Z.70Z... Đó là kỷ niệm u ám nhất trong những kỷ niệm của đời tôi!...
Tôi nhìn sư phó Đào Tiễn, lén lút lục soát trí nhớ xem trong đám thương vong của Z.702 có gương mặt nào na ná giống ông ta không. “Hai mươi tám... Tuổi con khỉ... Ngang bướng lắm...”
Biết đâu em trai ông ta đã chẳng dính đạn mà tử vong trong cái đêm kinh hoàng ấy?
Nhưng gương mặt lính sau cuộc chiến đều nhem nhuốc khói súng, máu, đất bụi... Tử thi nào cũng giống nhau.
Đào Tiễn chợt cất tiếng hỏi tôi:
- Tôi có bản tin mới, đồng chí đã đọc chưa?
- Vâng, tôi đọc rồi.
Trước đây, tôi chăm đọc các bản tin của mặt trận. Nhưng có lần, tình cờ nhặt được ở binh trạm 88 một mảnh báo Nhân Dân cũ. Trên mảnh báo ấy, người ta tán tụng những thắng lợi của mặt trận B5 năm Mậu Thân, đúng là mặt trận của chúng tôi. Và đúng cái năm quỉ khốc thần sầu này, một tay tôi đã chôn không biết bao nhiêu đồng đội. Cái năm tôi đã cõng tử thi cậu bé Hoàng, - vị thiên thần lạc lõng của chiến tranh, - khỏi vòng tử điạ, cậu bé chỉ còn một cánh tay, một cẳng chân và cuốn nhật ký miên man những giấc mộng vàng...
Tôi xé vụn mảnh báo ném xuống suối.
Tất nhiên tôi không nói sự thật kia với ai cả.
Nhưng từ dạo ấy, tôi biết nói dối là trò chơi thường nhật của con người và những kẻ càng cao đạo lại càng thích đùa giỡn với lương tri. Tôi không đọc báo nữa. Huống chi là các bản tin! Nhưng tôi hiểu đám đông không được biết sự thật thì sung sướng miên man trong các chiến thắng thật cũng như các chiến thắng rởm. Và chính mù quáng đã tạo nên một sức mạnh phi thường nơi họ...
Đào Tiễn há miệng ngáp thật to rồi nói:
- Ta đi ngủ. Mai sẽ bàn việc cậu Biền.
- Vâng.
- Đồng chí có cần để đèn không?
- Sao cũng được ạ.
Đào Tiễn bảo:
- Thế thì tắt đi nhá... Cho đỡ tốn xăng...
Rồi ông ta đi ra.
Hôm sau, Đào Tiễn đến đánh thức tôi dậy. Hình như vịsư phó này cũng buồn và thèm có người nói chuyện. Ông ta mời tôi ăn cơm với đu đủ xào mắm tôm. Có tráng miệng bằng hai lát khoai dẻo.
- Đồng chí hút thuốc không? Tôi còn một bao Điện biên.
- Vâng.
Đào Tiễn châm lửa cho tôi. Chắc cử chỉ đó với ông ta rất hiếm!
Tôi ôn tồn:
- Tối hôm qua, tôi nói gì, đồng chí đừng để bụng nhé. Tụi trẻ chúng tôi không mấy khi nhã nhặn.
Đào Tiễn lắc đầu:
- Đồng chí đánh giá tôi thấp quá! Các đồng chí là tương lai đất nước. Lớp già chúng tôi có nhiệm vụ uốn nắn tư tưởng cho thế hệ đi sau. Chúng tôi không có quyền ghét bỏ mà phải thương yêu đàn em mình.
- Vâng.
Đào Tiễn trinh trọng hơn nữa, nói tiếp:
- Như thằng em tôi chẳng hạn. Khi nó hiểu rõ phải trái, bỏ trường y nhập ngũ là tôi lại vui vẻ thuận hòa... Không góp phần tạo dựng một sứ mệnh cao cả như thế cho đất nước thì thật tệ hại.
- Vâng.
Tôi dáp và nhìn một con châu chấu vừa nhảy thóc qua. "Góp một phần cho sự cao cả!... Phải tham dự vào bữa tiệc vinh quang của ngày mai….”
Từ hòn xôi miếng thịt trong làng vinh thăng lên tới phần cỗ trong sứ mệnh lịch sử!?...
Mười năm trước, tôi đã choáng váng vì những ảnh tượng này. Các danh từ ấy làm tôi mê mẩn. Lần đầu ngủ với gái tôi cũng không mê mẩn đến như thế! Ấy là bận hành quân qua Nghệ an, một làng nhỏ ven núi. Con gái vùng ấy thật dễ dàng. Các cô sán đến cấu chí, chỉn đùi cọ vú vào bọn tôi. Tối đến, chúng tôi lần mò lên đồi Gió thổi mát rượi đưa những tiếng cười rúc rích, lướt qua những thảm cỏ mịn màng ấm nóng nấp sau những tiếng thì thầm, tiếng rên, tiếng nấc của những bụi sim hổn hển, chao đảo, nhấp nhô.
Trong vòng tay tôi, cô ta vừa ôm chặt lấy tôi, vừa líu ríu nói gì đó tôi nghe không rõ... Tôi đã mê mẩn những danh từ trang trọng kia hơn cuộc kết hợp chợt gặp này. Nhưng rồi năm tháng qua trong bùn và máu, các danh từ ấy bị mài dũa, sờn mòn đi như đôi giầy cũ của chú linh già...

Tôi ngán những trò vinh thăng, phong thánh. Tôi nhìn đăm đăm vào khoảng hư không mà chẳng biết mình tìm gì nơi đó. Con châu chấu quay lại, nhảy thóc vào cổ tôi. Nó bám những móng chân sắc lém vào da, tôi vội lấy tay vuốt mạnh. Đào Tiền cười:
- Quê đồng chí có nhiều châu chấu không?
- Cũng khá nhiều.
- Quê tôi cũng vậy... Hồi bé ở nhà, chị tôi chúa ăn châu chấu rang. Tôi sợ nhất món ấy. Mẹ tôi bảo: Con nhà lính, tính nhà quan... Chẳng nói ra chứ lòng vả cũng như lòng sung, ai chẳng thích làm quan, ai chẳng thích ăn trên ngồi trốc?
Tôi hờ hững:
- Vâng.
Đào Tiền nhìn đồng hồ rồi phẩy tay:
- Đi đi. Giờ này, mấy cậu y tá đã dậy rồi.
Vi sư phó đi trước, tôi theo sau. Chúng tôi đi qua dãy lán dài, qua đồi, sang một căn lán chơ vơ giữa bãi cỏ.
Tôi hỏi:
- Trạm y tế sư đoàn ở đó?
- Phải. Trước định làm sát khu doanh trại. May mà chính ủy có sáng kiến đấy, nếu không thì rắc rối to!
- Sao cơ?
- Sao nữa?... Mấy cậu sốt rét ác tính điên rồ, cởi hết áo quần ra mà nhảy múa, la hét. Còn cậu Biền thì điên thật.
- Có ai chết không?
- Có. Đã mấy trường hợp nhiễm trùng và sốt rét ác tính chuyển không kịp. Tụi tôi làm báo cáo và chôn họ ở kia kìa.
Tôi nhìn theo tay Đào Tiễn chỉ. Lướt qua những đám gai dại và cỏ kim, có chừng dăm nắm đất lô nhô. Mỗi mộ cắm một tấm biển bằng tôn lá hoặc sắt đóng vào cọc gỗ. Giữa khu nghĩa địa với trạm có chằng dây thép gai. Xung quanh trạm cũng chăng dây thép gai, cả thứ thẳng lẫn thứ vòng, trông như một ấp chiến lược. Dọc theo hàng rào, treo lủng lẳng những chuỗi ống bơ và những vỏ đồ hộp. Cảnh kỳ cục nửa như trò chơi, nửa như trại tù binh. Tôi hỏi sư phó Đào Tiễn:
- Sao hàng rào lại treo lỉnh kỉnh các thứ đồ vớ vẩn ấy?
- Phòng mấy ông điên bỏ trốn. Húc đến hàng rào, các thứ ống bơ kêu rủng rẻng, y tá mới biết đuổi theo...
Tôi không hỏi thêm gì nữa, lặng lẽ cùng đi tới cổng trạm, cổng đóng bằng gỗ đẽo sơ sài. Đào Tiễn thò tay qua khe hở, đầy cây chốt bên trong. Ông mở cửa cho tôi đi qua rồi đóng lại như cũ.
Chúng tôi đi về phía gian phòng cuối, nơi nhốt Biền. Cách phòng chừng mươi thước đã ngửi thấy mùi phân và nước tiểu. Phòng thương gỗ ván, dầy và chắc. Có một khuôn cửa sổ không cánh, trông thô kệch. Tôi bước thẳng đến cửa sổ nhìn vào.
Một gã trai trần truồng, bẩn thỉu đang ngồi gục đầu xuống hai gối. Nghe thấy tiếng động, gã ngẩng lên. Vì mặt trời rọi từ sau lưng tôi chiếu tới nên gã không nhìn được rõ mặt tôi. Đôi mắt gã âm u, trống rỗng. Vẻ mặt tiều tụy, hai gò má nhô cao. Tóc gã kết từng món xù ra như lông nhím khiến đầu gã to dị thường so với cái thân thể vốn cũng đã rất vạm vỡ. Xung quanh nơi gã ngồi, ngổn ngang trên nền đất là phân, rác, nước tiểu đóng thành váng trắng. Một tờ lịch nhàu nát với nửa lon nước lã... Phải, gã chính là Biền, người bạn thuở thiếu thời của Lương và của tôi. Cố nén cảm giác tởm lợm vì mùi khai, mùi thối, tôi cất tiếng gọi:
- Biền.
Và tôi đứng lùi sang một bên, chếch ánh nắng. Biền ngẩng phắt lên lần thứ hai. Lần này, gã nhận ra tôi. Trong khoảnh khắc, ánh mắt Biền lóe lên mọi thứ tình cảm mà một con người lành mạnh có thể có được. Sau khoảnh khắc ấy gã lại cúi gầm mặt xuống hai gối, cất tiếng khóc hu hu.
Khóc một hồi rồi gã hát sẩm:
"Sáng trăng sáng cả vườn chè
Một gian nhà nhỏ đi về có nhau...
Tam thiệp phải lụy dâu
Chúng thiệp phải qua cầu đắng cay... "
Dứt tiếng hát sẩm, gã hét:
- Xung phong... Anh em đâu, xung phong. Tiểu đội I theo tôi... Giương lê lên, nhằm phía trước đâm cho trúng...
Trận này, ta đánh giáp lá cà...
Hò hét xong, gã nhảy dựng lên, đập đầu đôm đốp vào vách gỗ. Đập như thế được vài phút, máu chảy đầm đìa từ chân tóc rơi xuống.
Đào Tiễn nói:
- Ván có đinh. Cậu ta cứ dọi đầu vào mấy cái mũ đinh, không tiếc máu... Mà thế là còn may đấy! Dạo chưa nhốt được vào phòng này, ngày nào cậu ấy cũng nhảy vào đám dây thép gai vòng mà lăn, gai thép đâm toàn thân thể nát như tương, máu chảy đỏ lòm từ đầu xuống chân, anh em trong đơn vị nhiều người phải ngoảnh mặt đi, không dám nhìn...
Tôi kéo tay ông ta:
- Đi đi thôi.
Đào Tiễn bảo:
Cậu ấy điên nặng như thế, đồng chí định ra sao?
- Điên mấy cũng có lúc tỉnh. Tôi sẽ đến vào lúc ấy, chắc cậu ấy sẽ nhận ra tôi.
- Hồi xưa, nhà đồng chí ở cạnh nhà cậu Biền?
- Vâng.
- Nhà cậu ấy có dòng điên không?
- Không... à... à mà cũng có thể... Tôi không rõ lắm...
Hình như họ hàng bên ngoại...
- Đồng chí hãy nhớ kỹ lại đi... Tôi bảo đảm rằng nếu không họ nội thì bên họ ngoại cậu ấy có máu điên.
– V… vâng... có lẽ...
Không phải có lẽ mà chắc chắn! Tôi biết chuyện này: “Trước nhà tôi là một ông giáo hẳn hoi, một ông dạy cấp ba, người nho nhã đường hoàng, vợ con nề nếp sang trọng... Bỗng dưng cảm hàn một trận. Khỏi ốm, phát điên luôn. Suốt ngày cởi truồng, bò lông nhông như con vện ngoài đường, mồm sủa gâu gâu... Ông ta đến đâu, chó nhảy cớn lên sủa đến đấy. Cả làng khiếp. Có người bảo vì anh ruột ông ta làm chánh án tòa án tỉnh, một tay ký không biết bao nhiêu án tử hình... Tôi duy vật, tôi không tin mấy thứ lý luận ba láp, tôi dò hỏi... Hóa ra họ ngoại ông ta có máu điên.
- Vâng, chắc bên họ ngoại cậu Biền có máu điên.
Hồi đầu, tôi cứ nghi là cậu ta giả tảng...
- Tại sao?
- Cậu ấy đang khỏe mạnh, hăng hái như mọi người. Chỉ đôi lúc bần thần. Rồi bỗng một hôm cậu ta mò xuống trại bò và bị bò đá. Anh em khiêng vào trạm y tế, săn sóc. Được hôm trước thì hôm sau cậu ta phát điên. Trời rét cắt ruột, cậu ta cởi hết quần áo, trần như nhộng nhảy múa ngoài trời. Lúc thì cầm mảnh vải hô to: “Cắm cờ lên cứ điểm.” Lúc lại cầm gậy đập đôm đốp vào đầu. - Anh em xì xào bàn tán. Người cho cậu ấy mắc bệnh tâm thần, người bảo cậu ấy giả điên vì xấu hổ.
Tôi hỏi:
- Cậu Biền có làm gì mà xấu hổ?
Đào Tiễn tủm tỉm cười:
- Có chứ. Tại sao bỗng dưng cậu ấy mò xuống trại bò? Cái trại ấy tổ cấp dưỡng quản lý. Cứ dịp tổng kết, chúng tôi lại cho thịt khao quân. Toàn bò chưa đẻ nên không thể vắt sữa trộm. Người ta cho rằng cậu ấy khỏe quá, máu rực lên như lửa, lại bốn năm năm không tìm được gái, đành xuống trại bò...
- Chuyện nhảm nhí!
- Đồng chí không tin à?... Chuyện ấy cũng đã có: “ở làng Hắc môn giáp làng tôi, có một thằng 'Tây" lai mười bảy tuổi. Tụi giặc càn, mẹ nó gánh hàng xáo chạy chậm nên bị một thằng Ma-rốc hiếp. Nó lớn lên, cao đến gần hai thước, tóc quăn tít như bụt ốc, da đen thui, răng trắng nhởn. Ngoài mẹ nó ra, không ai dám gần. Đã thế, nó lại khùng khùng. Đám đàn bà con gái trong làng khiếp nó như khiếp thú dữ! Rồi đến một hôm, mấy đứa chăn trâu hớt hải chạy về gọi mọi người. Cánh đàn ông tay dao tay thước chạy ra nghĩa địa, nơi trẻ làng vẫn thả trâu. Họ thấy thằng khùng đang làm cái trò khỉ đó với một con bò. Ai nấy kinh hoảng. Có người định đánh nó. Nhưng ông bác tôi, - một ông già làm nghề bốc thuốc, hồi xưa đăng lính leo đến chức xuất đội, - đã khuyên mọi người để mặc: “nếu không sẽ có ngày nó phạm tội loạn luân. Lúc đó Thành hoàng làng sẽ bỏ đình mà đi dân chúng sẽ sa vào cảnh khốn quẫn..."
Tôi bảo:
- Chuyện của đồng chí nghe như chuyện ma quái?
Đào Tiễn lắc đầu:
- Không đâu. Tôi sống nhiều năm hơn đồng chí, qua trải nhiều cảnh, chí dù ít tôi cũng nhận ra nhiều điều...
- Nhưng cậu Biền không phải thằng Ma-rốc lai.
Vi sư phó cười xuýt xoa:
- Thôi, thôi, đừng tranh luận... Thoạt tiên tôi cũng nghi. Nhưng khi cậu ấy lăn vào vòng thép gai như con thiêu thân lao vào lửa, tôi tin là cậu ấy điên thật.
- Thật không ngờ... A, mà bây giờ tôi nhớ: Biền có một bà dì điên? Bà ta thường quấn lá chuối quanh bụng mà đi dọc theo bờ đê. Hồi đó tôi còn nhỏ. Lớn lên, tôi không thấy bà nữa. Chắc bà ấy chết rồi...
Im lặng một lát, tôi chậm rãi nói thêm:
- Thật đáng buồn là Biền đã không được dòng giống của ông bố di truyền. Họ bên nội của cậu ấy toàn là những người khỏe mạnh, làm việc quanh năm không nghỉ một ngày...
Đào Tiễn lắc đầu, chép miệng:
- Ở đời, có ai học được chữ ngờ đâu?
Lúc này, nét mặt ông ta thật hiền. Tôi không ngờ mình đã dắt câu chuyện được ngọt ngào đến thế! Chúng tôi đi qua một bãi gai trinh nữ nở tràn những bông hoa tím phơn phớt. Một nhành gai mắc vào gấu quần Đào Tiễn. ông ta cúi xuống gỡ. Lưng ông đã hơi gù, phị mỡ. Nước da bủng của người ở rừng lâu.
Tôi tự hỏi: “người đàn ông này đã xa vợ con bao năm và có lúc nào lòng khắc khoải?... Hay ông ta chỉ là một bộ máy hăm hở tiến về phía trước, nơi hứa hẹn một Khải-hoàn-môn và những phần Cỗ-vinh-quang?
Tôi bảo:
- Khí hậu vùng này độc ác thật.
Đào Tiễn gật:
- Ờ, trời trở mặt như bàn tay. Khối cậu chết vì cơn sốt ác tính.
Tôi nói:
- Chúng ta ăn cơm rồi đồng chí nghỉ đi. Đến tuổi này, đồng chí đừng coi thường sức khỏe. Chiều, tôi sẽ xuống trạm một mình.
Chúng tôi ăn cơm, lại đu đủ xào mắm tôm, ớt mọi. Cũng không còn khoai dẻo tráng miệng nhưng bù vào đó, tôi kể cho vi sư phó nghe những câu chuyện tầm xàm của bọn lính trẻ.
Rõ ràng ông đào Tiễn buồn và thèm nói chuyện. Ở đây, đóng vai trò lãnh đạo, ông ta không được
phép bả lả với lính tráng. Tôi chia tay ông với một chút tình cảm rồi trở về nhà khách sư đoàn.
Đồng hồ chỉ mười hai giờ ba phút. Tôi nằm vật xuống giường. Còn một giờ năm mươi bảy phút nửa tôi mới có thể được đến trạm y tế.
Mùi phân lưu cữu... mùi nước tiểu lưu cữu... Những dòng máu đỏ chảy dàn dua trên khuôn mặt hốc hác, bẩn thỉu... Tôi không ngờ Biền đến nông nỗi ấy... Nó là một mảnh đời tươi sáng của tôi:
“Những ngày mùa. Gió thu rợn tới chân mây trong lẻo. Lũ trai làng chúng tôi ngả lưng trên đống rơm tươi, chuyện gẫu. Chuyên rôm nhất bao giờ cũng là chuyện huê tình.
- Này, Biền ơi, sao mày bỏ con Hòa?
- Em có bỏ đâu, anh Lương khủng bố tinh thần em nhá.
- Tao nghe Hòa kể...
- Phịa!
- Chú bảo tao phiạ hả?
- Không. Cái Hòa nó phịa. Lỗi tại nó đấy.
- Lỗi thế nào?
- Nó cứ ngùng ngoằng với em.
- Nó bảo nó yêu chú mày.
- Yêu gì mà yêu ì ì...
Hòa là em ruột Hoa, người con gái tôi để mắt. Tôi hiểu chị em nhà ấy. Nhút nhát, mảnh dẻ, sợ bộc lộ tâm tình đến mức như gàn dở. Chắc chắn Hòa không thể chịu được tình yêu khủng khiếp của Biền. Đó là gã trai nặng cân nhất làng, cao nhất làng, ngày gánh trăm gánh lúa chạy veo veo, gánh nào cũng ngót nghét một tạ. Bữa sáng mờ sương, Biền ăn hết năm bát vật. Bữa trưa, tám chín bát. Bữa chiều cũng tám chín bát. Đi chơi lỡ chừng trăng mọc lại phải làm vài bát chè đỗ đen hoặc lưng rá khoai. Da thịt Biền chắc như gỗ lim. Môi đỏ, răng trắng đều tăm tắp. Tóc gã đen, dày tới mức chỉ nắm chỏm tóc đầu đã chặt chét tay. Mắt gã long lanh, lúc nào cũng long lanh. Gã cười như nước reo ở cửa cống thủy lợi. Biền thửa hưởng những đặc tính ấy của cả bố lẫn mẹ. Ông Biên bà Nhàn là cặp vợ chồng kỳ lạ, tiếng đồn khắp vùng. Cả hai đều cao lớn như hai đô vật. Ông Biên tóc đen, râu rậm, nước da đồng hun, mắt xếch như mắt tướng Tàu. Bà Nhàn da trắng, tóc dài, giọng lanh lảnh như chuông, môi tròn như hai trái mận chín. Cả hai đều làm giỏi. Tay họ đứng đến đâu ra tiền đến đấy. Họ trồng hành tây một vụ bằng nhà khác cày sâu cuốc bẫm cấy lúa mười năm. Lúc họ bỏ hành tây sang trồng cà chua, một vụ thu vài bị tiền. Khi cả vùng trồng cà, trồng hành, vợ chồng ấy đã lại xoay sang nấu rượu, nuôi lợn nái... Thiên hạ cứ nhìn họ cũng đủ chóng mặt! Thêm nữa, họ đẻ những mười sáu đứa con, đứa nào cũng nên tấm nên đần. Thêm nữa, họ công nhiên bày tỏ cảnh yêu đương đến nỗi thiên hạ sững sờ. Chẳng có cặp vợ chồng nào ngần ấy tuổi mà còn mặn nồng đến thế, quấn quít đến thế! Bà dinh cho ông be rượu, ông mua cho bà nắm xôi. Đôi khi giữa chốn tụ tập họ hàng, ông bà lại cũng vẫn còn cấu chí thì thầm, khúc khích nhấm nháy. Ở nông thôn, người ta đã quen với kiếp sống lầm lủi, tối tăm, ăn con gà cũng phải ăn thầm, ăn lén. (Sư bố nó, nhà ấy ghê thật, chẳng giỗ kỵ gì cũng đè gà ra mà thịt). May được tấm áo mới cũng phải cất đi, chờ ngày Tết hoặc dịp lễ chùa (Mẹ bố cái con ớ Soạn, đang mùa cày cấy cũng diện áo xanh áo đỏ như con cào cào.) Trai gái yêu nhau phải chờ đêm tối, hẹn hò nơi bụi cây bờ ruộng, mặc kệ cứt trâu, lá ngứa, đè nhau ra mà vật cho thỏa cơn nhớ cơn thèm. Còn giữa thanh thiên bạch nhật, chớ có đầu mày cuối mắt, nếu không, thế nào cũng được nghe chửi đến ủng óc... Cho nên, chẳng vì cớ gì mà thiên hạ cứ thù ghét vợ chồng ông Biên. Ghét nhưng mà sợ, vì bắp tay ông ta nần lên như bắp cày. Rồi... một bận, có mụ đàn bà nào đó không nhịn được cơn nanh nọc, thấy ông Biên đi qua bèn chửi đổng:
- Cha tiên nhân cái giống dê già.
Ông Biên nghe thấy, lừ lừ quay lại:
- Dê già hả?... Đúng thế. Xưa nay tao toàn dê với vợ ở nhà. Giờ, tao thử con đàn bà lăng loàn này xem nó to hay miệng nó, tay ông dứt phăng dây rút quần mụ nọ. Mụ đàn bà tô hô đứng... chưa kịp hiểu ngô khoai ra làm sao... Ông Biên thuận tay lột tuột tấm áo cánh của mụ, phân bua với đám người xung quanh:
- Các ông các bà nghe đấy nhé. Con mụ này nó đòi tôi phải dê. Mọi người làm chứng để thằng chồng mụ biết.
Đoạn ông vật mụ ngay xuống vệ đường.
Lúc ấy mụ đàn bà khốn khổ mới hiểu tình thế của mình. Hai tay che bảo vật, chân đạp loi choi như nhái bén, mụ la hét:
- Ôi giời ơi, ối đất ơi i i... Các ông các bà cứu tôi...
Mọi người xúm đến khuyên can:
- Thôi mà... người ta trót nhỡ miệng...
– Ông anh ra tay thế là họ kệch đến già, thôi, xin ông anh tha cho mụ ấy.
Trong thâm tâm, đám người ấy cũng van vỉ cho chính họ.
Ông Biên dận một chân lên cái bụng đen sì dăn dúm của mụ đàn bà, sẵng giọng nói:
- Mụ đen đủi xấu xí như con cóc già thế này, làm sao tao dê với mụ được. Từ giờ khôn hồn, có miệng thì cắp, có nắp thì đậy, kẻo ta không dê với lỗ trôn mà tao dê với cái lỗ miệng mụ, nghe chưa?
Nói đoạn, ông Biên bỏ đi. Người làng xanh mặt, họ đành nén lòng đố kỵ. Dần dần về sau, bồ thóc nhà ông lớn quá, nhiều kẻ tới vay, túi tiền nhà ông to quá, lắm người đến mượn, thiên hạ đành phải chấp nhận kiểu sống ngông ngược của ông. Biền là con trai lớn của ông Biên. Cơ thể ngùn ngụt lửa sống của nó không thể cam chiụ cảnh tình suông như tôi với Hoa: Vài khóe mắt đưa tình, dăm bảy lá thư, dăm lần chuyện gẫu trong những cuộc sinh hoạt tập thể, hoặc cắt lúa, hoặc làm thủy lợi... Biền đã bỏ Hòa để đi theo Vinh, cô gái làng Xuân viễn. Tôi bảo:
- Anh Lương ơi, anh không biết nhưng tôi biết. Thằng Biền nó cắp tráp theo em Vinh rồi.
Lương hỏi:
- Vinh nào, Vinh chèo làng Xuân viễn phải không?
Tôi đáp:
- Đích thị.
Lương cười:
- Thế thì tao giơ tay hàng chú mày. Táo gan thật...
Một cậu trai làng đang nằm vắt chân chéo khoeo chợt ngồi phắt dậy, cười hô hố:
- Thằng Biền dại quá, hứng của thừa thằng Sính làng Xuân viền. Hai đứa ấy cặp với nhau suốt vụ mùa năm ngoái, đêm nào đi lưới tao chẳng gặp?...
Một cậu khác chắc lưỡi:
- Cũ người mới ta, miễn là đẹp.
Cậu kia gân cổ:
- Đẹp? Gái làng mình đẹp hơn chán vạn mấy con Xuân viễn. Tao không hiểu mắt chúng mày để đâu... Mà báu gì cái con Vinh chèo, ớ rạc ớ dài...
Lương cắt ngang lời bọn chúng:
- Các cậu rõ thật buồn cười! Nồi nào vung nấy chứ, thì cứ lo chọn vợ cho mình đi hẵng...
Biền im lặng. Cậu ta hiền, không ưa tranh cãi. Ai nhờ việc gì, dù nặng nhọc đến mấy cũng nai lưng ra làm. Nhưng đấu khẩu thì sẵn sàng thua đứa bé mười hai... Chúng tôi mến nó. Cả cái năng lượng tình dục ngùn ngụt như núi lửa của nó bị coi là điều dị hợm với một xã hội khô héo, cay nghiệt, chúng tôi cũng chấp nhận. Tôi nhớ một đêm rạng rỡ sáng trăng. Ba chúng tôi nằm hóng mát trên một bãi cỏ bên hồ. Cả buổi chiều, chúng tôi đã nô giỡn sau mẻ quăng chài đánh cá. Ngoài phần đem ra chợ, người nhà có bớt lại một mớ cá cho chúng tôi nướng ăn. Em trai tôi mang ra một ấm chè nụ và một óc cơm. Tôi cho nó vài đồng mua kẹo rồi đuổi về làng.
Ba thằng nằm gác chân lên nhau, nhìn trời màu pha lê tím. Dăm vì sao óng ánh như vảy cá dắt trong mắt lưới. Không gian lồng lộng làm chúng tôi ngây ngất. Cách đầu chúng tôi hai sải tay, đống lửa nướng cá còn ngún cháy, trổ những bông than đỏ thắm...
Bỗng nhiên, Biền cất tiếng:
- Anh Lương ơi.
- Gì thế?
- Anh có bao giờ nghĩ đến thánh thần không?
Không. Làm sao cơ?
- Em tưởng tượng cảnh này hay lắm.
Cảnh thế nào?
- Anh bảo thần có to lớn không?
- Tao không biết... Nhưng theo các cụ kể thì thần thánh cao gấp đôi gấp ba người thường.
Không phải gấp dôi gấp ba mà gấp trăm nghìn lần!
- Sao mày biết?
- Dễ biết lắm chứ...
Tới đó, Biền hi hí cười, vẻ thú vị lắm. Khi chúng tôi hỏi cười gì thì cậu ta lại cười sằng sặc to hơn, cười rũ rượi đến dàn cả nước mắt.
Tôi quát:
- Thằng điên. Lặng im đã nào...
Lương bảo:
- Mày kể cho nghe đi.
Biền chùi nước mắt, nói:
- Này nhé. Các cụ có câu: Cái... của bà Nữ Oa bằng ba mẫu ruộng. đi... của ông Tứ Tượng bằng mười bốn con sào. Thế rõ ràng là các vị thần thánh to lớn gấp trăm nghìn người thường, phải không?
Lương ậm ừ ra chiều tính toán rồi bảo:
- Ừ. Cũng có thể.
Biền nói:
- Dứt khoát là thế... Anh Lương ạ, em tưởng tượng ra một cảnh hay lắm...
- Cảnh gì? Hay ho thế nào?
- Cảnh bà Nữ Oa với ông Tứ Tượng... ối giời ơi, họ ngủ với nhau hẳn là phải mây mưa lở đất, sấm sét long trời!
Tôi ngớ người: Cái thằng lành như đất mà nghĩ ra những trò oái oăm... Lương cười, thủng thẳng nói:
- Chú mày ôm con Vinh chèo chưa thỏa hay sao mà lại còn vẽ ra cảnh bà Nữ Oa ôm ông Tứ Tượng... Thật quá thể!
Biền cười hình hích rồi co giò ngồi nhỏm lên:
- Anh Lương ơi, em đói rồi...
Nó quay lại, vỗ vai tôi:
- Quân ơi, tao với mày chia nhau con chép nhá...
Tôi ngồi dậy. Dưới lớp than đỏ rực kia, tôi vùi con chép nặng cân rưỡi. Chép tươi giãy đành đạch, để nguyên ruột, nguyên vảy, bọc lá chuối tươi, ngoài đắp bùn. Cứ thế nướng cho tới khi bùn khô trắng, nứt nẻ. Bấy giờ đem ra đập vỡ bùn, lật lá, tuột lớp vảy đi. Thịt con cá chép hiện ra, trắng nõn nà, thơm phưng phức... ôi chao...
Hình như tôi thiếp đi được mươi phút. Lúc tôi mở mắt, đã đúng hai giờ. Tôi xuống trạm y tế. Mấy cậu y tá phụ trách thấy tôi đã đi với Đào Tiễn buổi sáng nên mặc tôi tự do. Tôi đi thẳng tới cửa chính, mở then chốt ngoài... Mùi thối nồng nặc xộc thẳng vào mũi tôi. Biền đứng choàng lên. Nó định nhảy. Tôi khẽ dằn từng tiếng:
- Đứng im!
Biền đứng im. Tôi nói tiếp, giọng nhỏ hơn:
- Những vết thủng trên đầu mày buổi sáng chưa lành đâu.Mày có khỏe như trâu, tim mày cũng chẳng phải cái thùng không đáy.
Biền lặng nhìn xuống đất. Tôi bảo:
- Ra đây. Tao không muốn ngửi mùi cứt.
Biền đưa mắt nhìn xung quanh. Tôi nói nhẹ:
- Tao xuống đây có một mình. Đi ra...
Nó đi ra, theo tôi. Chúng tôi rời khỏi căn phòng xú uế.
Mấy cậu y tá thò đầu ra nhìn. Hẳn là họ kính nể tôi như... một ông bác sĩ tâm thần siêu đẳng!
Chúng tôi đi khá xa. Quãng đường từ trạm y tế đến lạch suối, gần nhất cũng già một cây số. Suối cạn, nước chỉ đến ngang ngực người vóc cao trung bình. Nước khá trong và chảy nhanh. Tôi bảo Biền:
- Xuống tắm đi.
Móc trong túi quần, tôi đưa cho nó một miếng xà phòng với chiếc quần đùi sạch:
- Tắm nhanh lên kẻo lão sư phó của mày mò ra đấy.
Biền lẳng lặng xuống suối lặn ngụp, tắm. Đầu nó kết đất, bọt xà phòng nổi lềnh bềnh trên mặt nước đặc như bọt cua. Trên mình nó, chằng chịt những vết sẹo - không biết bao nhiêu lần lăn trong vòng thép gai. Lưng trồi cả đãy xương sườn. So với ngày nhập ngũ, nó gầy đi nhiều lắm. Lúc đợi mặc quần áo lính, trong gian đình làng, cả bọn tồng ngồng, thằng nọ nhìn thằng kia, cười sằng sặc. Dạo ấy, những thớ thịt nổi vồng trên ngực và trên lưng Biền như những con chuột đồng vĩ đại...
- Xát xà phòng vào gáy toàn ghét đen thui kia kìa...
Tôi bảo nó. Biền ngoan ngoãn xát xà phòng sau gáy, hai bả vai, dọc theo sườn lưng. Ghét vón lại từng đám.
Tôi hỏi:
- Mấy tuần rồi chúng nó không đưa mày đi tắm?
Biền đáp:
- Hai tháng.
Bỗng nó ngước mắt nhìn qua vai tôi. Tôi quay lại thấy

Đào Tiễn đang lúc lắc tấm thân nặng nề đi tới. Điều tôi dự đoán không sai. Tôi nói nhỏ, dặn Biền:
- Mày phải giữ bộ mặt diên dại.
Biền gật đầu. Tôi đứng dậy, thong thả đón ông sư phó.
Ngủ được một giấc đầy, ông ta vui vẻ hẳn lên, niềm nở:
- Đồng chí tài thật! Làm sao dỗ được cậu Biền ra đây?
- Người điên nào cũng có lúc tỉnh. Cách đây vài năm, tôi vớ được một cuốn sách nói về các loại bệnh tâm thần. Tôi biết cách chuyện trò với những người điên khi họ tỉnh và khi họ sắp chuyển từ trạng thái tỉnh sang trạng thái mê.
Đào Tiễn nói:
- Cẩn thận, cậu ta khỏe ghê gớm. Hồi trước, khi cậu ấy lên cơn, năm người giữ không nổi đâu!
- Giữ người điên, giữ bằng mẹo. Không dại gì mà đem đọ sức
Đào Tiễn cười tít:
- Đồng chí thông minh ra trò, thằng em tôi cũng thế. Tuổi con khỉ phải cái vất vả nhưng mà đầu óc thì sáng láng.
Tôi nói:
- Tuy thế, tôi vẫn phải chuẩn bị sẵn sợi dây để trói hai cổ tay vì chỉ chừng nửa giờ nữa, cậu ta sẽ chuyển sang trạng thái điên...
Miệng nói, tay tôi rút sợi dây dù trong túi quần. Đoạn, tôi xuống suối dắt Biền lên, dụ cậu ta mặc quần rồi trói nghiến hai cổ tay lại. Biền nhìn tôi bằng đôi mắt đờ đẫn. Thi thoảng, Biền lại nhếch mép cười.
Ba chúng tôi về nhà khách sư đoàn. Tôi hỏi Đào Tiễn:
- Đồng chí có thuốc ngủ không?
- Có. Thứ nhẹ nhất: Xê-luy-xen.
- Tốt rồi. Tôi xin đồng chí ba viên cho cậu ta uống.
Đào Tiễn lắc đầu:
- Không ăn thua. Hồi trước, y tá đè cổ cậu ấy ra cho
uống cả vốc...
Tôi ngắt lời:
- Ăn thua là ở chỗ kết hợp với biện pháp trị liệu tâm lý.
Đào Tiễn lẳng lặng đi lấy thuốc cho tôi. Không ngờ mấy danh từ lang băm học mót lại có hiệu quả!
Trong bữa cơm chiều hôm ấy, tôi đã trổ hết tài khua môi múa mép để vị sư phó vui lòng. Buổi tối, tôi khéo léo đề xuất một phương án rất linh hoạt với tương lai Biền: Có thể cậu ta sẽ được điều trị nếu bệnh điên không có cơ vãn hồi. Có thể cậu ta sẽ được giải ngũ nếu không còn khả năng khôi phục trạng thái tinh thần. Có thể cậu ta sẽ được chuyển sang một đơn vị nào đó thích hợp hơn với sức khỏe trong tình huống tốt nhất. Đào Tiễn tỏ ra dễ tính:
- Tôi chiù đồng chí hết mức đấy nhá.
Tôi đáp:
- Thưa vâng.
Ông ta cười hề hề:
- Cậu Biền có mả tống táng hàm rồng nên mới có bạn hiền.
- Chiến hữu mà anh... Bọn tôi cùng sống với nhau từ thuở tắm truồng. Lại cùng vào lính...
Đào Tiễn bảo:
- Chả phải ai cùng vào lính cũng tốt với nhau như thế. Tôi có cậu bạn cùng nhập ngũ một ngày... Đồng chí biết không, - nói ra lại bảo tiêu cực, - lúc bị vây còn bao nhiêu thực phẩm nớ cuỗm hết rồi chuồn, bỏ lại mình dưới gốc tre...
Tôi cười:
- Đồng chí biết hơn tôi chứ: lụa dệt cũng có mặt trái.
Đào Tiễn bỗng thở dài:
- Biết, nhưng mà vẫn chẳng biết...
Tôi đặt tay lên vai ông ta, người đàn ông to béo này thật thà và duy cảm. Có lẽ ông ta khao khát một tình bạn nhưng không tìm được nó. Tôi nói nhẹ nhàng:
- Người tốt như đồng chí sớm muộn cũng gặp bạn hiền. Trời không phụ... Kỳ này tôi về ngoài Bắc sau khi giải quyết việc cậu Biền. Đồng chí có gửi gấm gì cho gia đình không?
Mắt Đào Tiễn sáng lên:
- Đồng chí giúp tôi nhá?
- Vâng.
- Đêm nay tôi sẽ viết thư. Sớm mai tôi gửi đồng chí. Thế nào chúng ta cũng còn phải chia tay...
Nói đoạn ông ta hấp tấp quay về buồng.
Hôm sau, vào giờ cơm sáng, Đào Tiễn đưa cho tôi một phong bì nặng trịch. Có lẽ ông ta đã thức suốt đêm mới viết được ngần ấy. Kèm theo bì thư là một chiếc lược làm bằng mảnh máy bay cho con gái, một tấm dù trắng làm khăn choàng cho vợ, một chiếc bút bi ba màu của Mỹ cho con trai.
Chương 6
Nhà bếp đem cho tôi cơm nắm, xôi nếp với muối lạc. Chắc theo lệnh của vị sư phó. Đào Tiễn theo chúng tôi đi tới nửa cây số, ông ta nắm chặt tay tôi, mắt ươn ướt:
- Đồng chí nói chuyện với vợ tôi... và...
- Xin đồng chí yên tâm.
- Thôi lên đường bình an nhá.
Rồi ông ta quay lưng đi, cái đầu chúi về phía trước, điệu bộ cung cúc của những kẻ tận tụy bẩm sinh. Chờ ông ta đi một đoạn, tôi bảo Biền:
- Đi thôi.
Hai chúng tôi lặng lẽ đi, đi mãi cho tới khi khuất hẳn những trái đồi trơ trụi, những mái lán cheo leo với những hàng cỏ gai lưa thưa đâm lên chân trời. Rồi chúng tôi qua những mảnh nương hẹp của dân trong vùng, trồng toàn một thứ sắn còi cọc, thân cây bé bằng chiếc đũa. Non một giờ sau, chúng tôi đến một cánh rừng. Yên trí không còn cặp mắt thứ ba nào nữa, tôi cởi trói cho Biền. Lằn dây dù thắt thành vệt tím bầm trên cổ tay. Tôi ôm nó, nước mắt chảy dài trên má.
Có lẽ lâu lắm rồi tôi mới lại khóc... từ ngày mẹ tôi khuất núi: “Bãi tha ma làng ngổn ngang những lỗ huyệt cũ và mới, những mảnh ván thối mục, những đám gai cào cào ma, gai trinh nữ... Tôi ngồi rúc trong bụi chuối cổ thụ cuối nghĩa điạ ôm đầu khóc. Họ hàng thân quyến không tìm được tôi. Bận mọi việc tang ma bối rối, mọi người bỏ mặc tôi ra về. Tôi đã khóc. Khóc một lần cho tuổi thơ côi cút. Khóc một lần cho người đàn bà tôi yêu hơn cả thế gian. Tôi khóc no, từ lúc mặt trời ngang đỉnh núi cho tới khi lửa ma trơi lập lòe khắp nghĩa địa, lơ lửng trên các ngọn dứa dại và gai cào cào ma... Bấy giờ tôi mới mò về làng. Năm đó tôi lên tám.
Hai mươi năm qua, giờ tôi mới lại khóc. Nước mắt Biền nhỏ ướt nóng vai tôi. Nó cũng cố nuốt đi tiếng nức nở. Hai chúng tôi âm thầm khóc như thế giờ lâu... Rồi tôi bảo:
- Ngồi xuống đây.
Chúng tôi ngồi bệt xuống rừng trải đầy những lá mục lẫn loài dương xỉ lăn tăn như vảy ốc. Những vệt nước mắt chảy dài trên má Biền đục ngầu bụi đỏ.
Tôi hỏi:
- Giờ mày định sao?
Biền lặng im. Tôi nói tiếp:
- Mày biết vì sao tao mò được tới đây không?... ông Lương ra lệnh đấy.
Biền chau mày:
- Chắc ông Hào hay ông Liệt nói chuyện.
Tôi hỏi lại:
- Giờ định sao?
Biền cúi đầu lau nước mắt vào ống tay áo. Tôi bảo:
- Hay mày về làng mà cưới vợ. Con Vinh chèo chắc chẳng đợi đâu nhưng thiếu gì con gái trẻ. Đàn bà thời chiến, cưới một lúc ba đứa cũng không sao.
Biền lắc đầu. Tôi khuyến khích:
- Tao sẽ lo cho mày giấy chứng thực tình trạng tinh thần không ổn định, cần giải ngũ.
Biền lại lắc đầu. Tôi phân giải:
- Hay mày sợ người ta chê cười?... Về mặt chính trị, chỉ mấy thằng đào ngũ mới nhục. Còn mày, đau ốm, bệnh hoạn, nếu không coi là vinh thì cũng bình thường. Đứa nào lấy mày, nó khắc dần dà hiểu rõ. Lúc ấy, chỉ lo nó sẽ ôm khư khư lấy mày như giữ hũ vàng ròng.
Biền nói:
- Tao chịu thôi.
Tôi gắt:
- Chịu cái gì?
Biền ấp úng:
- Về làng bây giờ... không biết nói năng ra sao... không biết...
Nó cúi mặt xuống, một đường gân đỏ chạy rần rần từ sơn căn lan sang bên trán và thái dương. Nhìn gần mới thấy da nó không còn tươi rói như xưa, lấm tấm những lỗ chân lông đen, những vết sẹo gai cào và sẹo trứng cá. Dưới mi mắt, thịt đã hơi chảy.
Tôi bảo:
- Nói năng gì? Cứ cày sâu cuốc bẫm mà sống, cần gì phải nói?
Biền đáp:
- Nhưng mà... tao nghĩ mãi rồi... không thể được...
Tôi lặng im. Tôi hiểu. Con gà chết tức vì tiếng gáy.
Cùng một lượt ra đi, nay Lương đã ngấp nghểnh cán bộ quân đoàn, đeo hàng cấp tá. Ngang ngược chày bửa như tôi cũng được phong hàm đại úy từ ba năm nay. Chỉ nó vẫn là thượng sĩ... Lại thêm cái án tâm thần. Nó không thể bỏ cuộc về làng, chí ít cũng để tránh điều tiếng. Và... sau nữa... lẩn lút trong những thèm khát của nó... Tôi biết chắc rằng ở đâu đó sâu kín nhất trong tâm hồn ngây dại của gã trai quê, sừng sững một khải-hoàn-môn mộng tưởng... Nó chẳng thể bỏ cuộc. Thà nó rúc ở xó xỉnh nào đó, không ai biết tới trên mặt trận mênh mông trùng điệp này... Nó chờ đợi ngày chiến thắng, khi bước chân rầm rập của đoàn quân bước qua khải-hoàn-môn... Tới lúc ấy, nó lẻn bước theo. Hoặc giả, nó sẽ trở về làng, mượn ánh sáng của thắng lợi để trang hoàng cho cái lịch sử nhỏ mọn và buồn tẻ của bản thân.
Tôi bảo:
- Thôi được, tao sẽ gửi mày sang đơn vị thằng Húc. Một đơn vị đặc nhiệm có kí hiệu M.035.
Biền ngẩng lên:
- Đặc nhiệm à?... Nhiệm vụ gì đây?
- Chính tao cũng chưa rõ. Chỉ nghe nói thôi. Nhưng thằng Húc, đại đội trưởng là chỗ quen biết từ lâu... Giờ, tao đưa mày lên F. Rồi từ đó làm thủ tục...
Biền nói:
- Thế thì tao yên tâm... Cơm đâu mày, lấy ra ăn không tao đói.
Tôi bỏ túi thực phẩm, nhìn nó xăm xắm ăn... Tôi thương tiếc gã má hồng môi đỏ ngày xưa, đã từng gánh trăm gánh lúa mỗi ngày, đã từng gác chân lên chân tôi để ước ao chuyện tình ái giữa các thần linh, với tâm hồn trong trắng và hùng vĩ...
Khi tôi đặt chân lên đồng bằng tỉnh Thanh, trời bỗng đổ mưa rào. Bốn phương trắng xóa. Có lẽ đó là nước mắt nhớ thương của mẹ tôi dưới mồ đã hiển hiện về. Những người qua đường ngạc nhiên thấy tôi đi lừng lững dưới mưa, không áo, không mũ. Thân thể và tâm hồn tôi đầm nước.
Lính tráng bao giờ cũng thêu dệt trong tưởng tượng mọi cảnh mặn nồng về ngày trở lại. Quê hương, tóm gọn trong hai từ ấy là tất cả những gì anh đã từng hít thở, từng ôm ấp, từng thờ phụng. Nhưng tôi không còn tình cảm ấy. Mẹ tôi chết từ lâu. Cha tôi, với tôi luôn luôn là người xa lạ.
Tôi nhớ không nguôi ngày xách bọc áo quần đưa mẹ lên chùa đẻ. Cơn đau quằn quại khiến mẹ tôi gục mặt xuống đất đầu tóc lấm lem bụi cát và cỏ khô, mồ hôi ướt đẫm tấm lưng, cái bụng nở phồng như bụng ếch nhô lên dưới vạt áo vỏ dà...
Trong những lời kêu la, có lần mẹ thét: “ối anh ơi, anh ở đâu mà để mẹ con tôi khổ sở thế này... Anh ơi i i..." Tôi biết mẹ gọi tên một người đàn ông nào đó. Người ấy là cha tôi.Từ hôm ấy, tâm hồn non dại của đứa bé lên năm ngóng chờ. Ngóng chờ, một chút tò mò xen lẫn chút tự hào, xen lẫn chút ganh tị. Cái người tôi gọi là cha ấy chắc được mẹ yêu hơn cả tôi...
Tuy thế, mỗi khi bọn trẻ hàng xóm hoạnh hoẹ, tôi thường giơ ngón tay cái lên: “Sư nhà mày, cứ chờ đấy nhá... bố ông về rồi biết tay… Vỗ lộp độp lên ngang hông, tôi bảo: “Bố tao đeo súng lục ở đây này này... Rút ra bắn: “pằng pằng” sáu viên liền, chết từ ông bà mày đến anh chút chi chít của mày nữa...”
Thằng Quang em tôi mới đầy tuổi, bám đít tôi nghe thế cũng bập bẹ: “pằm pằm” theo.
Em Quang tôi được một tuổi rưỡi thì hòa bình. Làng tôi ở, thuộc vùng tự do nên các đêm vui được tố chức liên miên. Những đoàn người nắm tay nhau mê man nhảy múa bên đống lửa:
"Thắm thiết tình Việt-Trung-Sô.
Đế quốc nghe một nỗi lo
Lo vì tình người lao động... "
Rồi một tối nhá nhem, người đàn ông tôi mong đợi đã về: Một chú bộ đội vác ba-lô, đội mũ bọc vải, người nồng nặc mùi thuốc lào và mồ hôi. Mẹ kêu lên, chạy vào buồng ôm mặt khóc. Chú bộ đội chạy vào theo:
- Mình nín đi, mình...
Hai anh em tôi nắm chặt tay nhau, đứng ngơ ngẩn ở ngưỡng cửa. Lát sau, mẹ vùng chạy ra:
- Quân ơi, Quân... bế em vào chào bố...
Mẹ thắp đèn. Chú bộ đội tay bế thằng Quang, tay níu vai tôi:
- Ra đây với bố...
Mùi mồ hôi và thuốc lào lạ hoắc. Tôi dằng khỏi tay ông. Ông nhìn tôi cười:
- Lạ hả?... Bố bận đi đánh giặc. Lại đây rồi bố con mình làm quen nhau...
Lúc ấy, vẻ mặt ông dễ chịu.
Tối, nhà tôi chật khách. Mẹ tôi nấu ba ấm chè xanh, bày năm bảy kẹo lạc. Anh bộ đội đã trở về. Tiếng cười râm ran từ tối đến nửa đêm. Hai anh em tôi ngủ rồi, khách còn ngồi chuyện dòn như pháo...
Ba bốn hôm sau mẹ tôi lại khóc. Nhưng không khóc vì sung sướng. Lúc ấy đã xế chiều. Hai người ngồi đối mặt nhau qua chiếc bàn kê giữa đôi tràng kỷ trúc. Mặt bố tôi hầm hầm, ông cầm chiếc bật lửa gõ cành cạch xuống bàn.
Mẹ tôi vừa quệt nước mắt lã chã rơi, vừa nói:
- Đường xa như thế, bọn lính bên tề đi vơ vẩn luôn, tôi mới nhờ chú ấy đưa một đoạn...
Bố tôi đập cái bật lửa xuống:
- Thôi đi i
Mẹ tôi òa nức nở:
- Khốn khổ thân tôi thế này...
Thằng Quang nằm trong lòng mẹ bỗng thức giấc nhỏm dậy. Mẹ tôi vừa lau nước mắt vừa dỗ dành nó. Trong lúc cặp mày bố tôi chau lại thành vết đen trên tinh mũi, hai mép ông rung rung, tôi len lén bước lại gần mẹ nắm vạt áo. Mẹ ghì đầu tôi vào lòng, hôn hít, nước mắt mẹ rơi đầy mặt tôi:
- Quân ơi, mẹ con mình khốn khổ chưa?... Lúc đói khát, lúc qua sông vượt cạn chỉ thui thủi một mẹ một con, đồng xu dính túi không có... Nay tưởng tới lúc yên lành thì sự lại sinh.
Tôi không biết nói gì. Tôi vuốt ve hai bên má ướt đẫm của mẹ. Bố tôi hầm hầm bước ra sân. Tôi nhìn theo ông, vụt tan biến chút cảm tình cỏn con vừa nhen nhúm. Lúc ấy, với tôi, ông là một gã khổng lồ độc ác, một lực lượng hùng vĩ nhưng chỉ đáng để căm thù.
Những cuộc cãi vã ngày một nhiều hơn. Mẹ tôi khóc nhiều hơn. Dần dà, mẹ không nức nở mà chỉ ngồi lặng thinh, nước mắt âm thầm chảy. Tôi đã nhiều lần thấy dòng lệ câm lặng khi mẹ ngồi cời lửa, khi mẹ ngồi sàng gạo, khi mẹ nhổ cỏ vườn. Mắt mẹ thờ thẫn nhìn đâu đó... Trái tim nhỏ của tôi run lên. Nhưng tôi bất lực. Dẫu sao tôi cũng chỉ là một thằng bé con chưa tròn bảy tuổi.
Qua năm sau, mẹ tôi mất sau trận cảm hàn. Người ta bảo tại mẹ tôi tham việc quá. Nhưng tôi không chiụ tin điều đó. Trong trí nhớ nguyên vẹn của tôi, có một người đàn bà xinh đẹp mặn mà, tiếng cười lanh lảnh. Một người đàn bà trong bất kỳ cơn khốn cùng nào cũng giữ được gương mặt nhẫn nại, tươi rói. Người ấy yêu thương chúng tôi không mệt mỏi. Người ấy cho chúng tôi sinh lực nồng ấm không mệt mỏi. Càng cho lại càng đầy...
Người ấy đã chết, đã bắt đầu sự chết khi hai vệt lông mày của bố tôi nhíu trên tinh mũi, khi cái bật lửa có bánh xe khoá của ông gõ cành cạch xuống bàn. Sự chết được hoàn tất sau mười tám tháng não nề, dài dặc, cuộc hành trình qua những dòng nước mắt.
Từ ngày mẹ tôi chết, bố tôi sống như cái bóng. ông nuôi hai chúng tôi, chăm sóc vừa phải như mọi người bố nhưng ơ hờ. Có lẽ ông cảm thấy giữa ông và tôi, đứa con trai lớn, có mơ hồ một bóng đen thù hận. Tôi không cãi ông, không trái lời ông nhưng không khi nào nhìn vào mắt ông.
Ba năm sau ông lấy vợ, một cô gái già ba mươi tư tuổi, người đòn đòn như con cá rô đực. Hình như họ chẳng yêu đương nhau cho lắm. Được năm năm, không có con chung, dì ghẻ tôi bỏ lên thành phố buôn chuyến. Năm ấy tôi mười sáu.
Người làng kể cho tôi nghe chuyện cũ: Bố tôi cả ghen nên mất trí.
Hồi em Quang tôi bảy tháng, mẹ tôi không biết vay ai gạo mà sống nên đành gửi con cho hàng xóm, liều mạng vượt vào vùng tề tìm ông bà ngoại. Đường xa nguy hiểm, bọn cướp thì ít nhưng tụi lính đểu thì nhiều. Mẹ tôi nhờ chú Quyến đi theo. Chú Quyến ở cuối làng, mồ côi, nghèo rớt mồng tơi nhưng được cái sáng dạ và biết chơi tay thước. Chú đưa mẹ tôi tới giáp Rãnh rồi quay lại. Chuyến ấy mẹ tôi được ông bà ngoại trợ cấp kha khá tiền. Về làng, mẹ đãi chú Quyến ba gánh thóc... "Đàn bà, một nách hai con, đứa ấp đứa bú, cấy cày không được, những lo ăn lo mặc đã quắt cả gan, còn hơi sức đâu mà đú đởn... Chẳng qua vì lão Hán, anh họ bố mày vay thóc không được nên đặt điều phá chơi..." Chuyện kể thủng thẳng như mái tranh ngày mưa nhỏ giọt. Sau này, tôi nghiệm rằng mọi tội ác và sự đểu giả của con người đều diễn ra một cách bình thản, đủng đỉnh như mưa nhỏ từ mái tranh...
Năm tôi mười tám tròn, nhập ngũ, bố tôi bảo: "Trước khi đi, mày có ra đồng thắp hương cho mẹ hay không?" Tôi chợt bùng cơn uất đáp: “Không!” Mặt bố tôi tái xám. ông cười gằn, lẳng lặng cầm cây cuốc mỏng ra nạo cỏ vườn. Tôi nhìn cái lưng gù gù của ông, tự hỏi: “không hiểu cơn gió nào đã đẩy mẹ tôi vào tay ông, để đến nông nỗi tủi hờn như thế. Mẹ tôi vốn gốc dân Hà nội. Ông ngoại tôi dạy tiểu học. Bà ngoại là thợ thêu. Hai anh em tôi giống bố một cách khốn khổ. Đến nỗi thấy thằng con trai nào giống mẹ là tôi lại thèm.
Đêm hôm ấy, tôi mua hương hoa ra bãi tha ma làng. Nghĩa địa lập lòe lửa ma trơi. Gió thổi những đóm lửa ma phiêu diêu, lúc tung bông lưng trời, lúc là là trên cỏ. Tôi đặt hoa rồi cắm hương trước mộ. Cả nắm hương cháy đỏ như than trong lò. Tôi nhìn những ngọn cỏ leo phơ phất trong ánh lửa tím hồng, mơ tưởng thêm một lần úp mặt vào mái tóc nồng mùi hương như lá xả...
Khi tôi ra về, một bóng đen lù lù làm tôi giật thốt! Bố tôi đứng cách tôi vài bước chân, núp sau bụi dứa hoang. Tôi không nói gì cả. Ông cũng lặng im. Cho đến tận sáng hôm sau, khi tiếng trống làm náo loạn làng xóm...
Tôi đến làng lúc trời nhá nhem. Kéo sụp mũ xuống trán, tôi đi thẳng về nhà, cầu trời khấn phật đừng gặp ai. Tôi đang đau bụng muốn chết! May thay, đường làng vắng teo. Lũ trẻ đã dong trâu về chuồng và mọi nhà đang xáo xác chuẩn bị bữa cơm tối. Nhà tôi tối om. Bố tôi chưa thắp đèn.
Đặt ba-lô xuống gốc cau, tôi chạy thẳng ra cầu tiêu ở ngoài vườn. Lối đi vẫn như cũ. Cây cối vẫn như cũ. Tôi bước lên mấy cái bậc cầu tiêu, thoáng có cảm giác như mình vẫn còn là thằng bé mười năm trước. Lát sau, xong xuôi, tôi vào giếng múc nước rửa. Trong nhà, có tiếng bố tôi quát vọng ra:
- Con nhà Si tắm phải không?
Tôi im lặng, tiếp tục thả gầu xuống. Tiếng gầu xúc nước lõm tõm vọng lên. Bố tôi làu bàu:
- Đúng là đồ giặc cái! Cứ ầm ầm như thế thì đến lở cả giếng nhà người ta ra...
Nghe giọng nói, tôi biết bố tôi đã yếu đi nhiều. Ngày xưa, ông không làu bàu như thế. Có thể, thay vì mắng chửi, ông sẽ lẳng lặng đi ra bợp cho con bé hàng xóm một cú long óc.
Rửa mặt xong, tôi lại gốc cau lấy ba-lô rồi vào nhà. Bố tôi đang ăn cơm, không đèn không lứa. Tôi hỏi:
- Bố ăn cơm à?
Ông quay ra, ngưng một phút rồi hỏi:
- Quân phải không? Mày mới về?...
- Vâng, con vừa về.
Giọng tôi vang khắp mấy gian nhà. Tôi hỏi thêm:
- Sao bố không thắp đèn lên?
- Có mấy con nhộng với bát canh, thắp đèn làm gì cho muỗi?
Tôi ngồi xuống phản. Bóng tối ngập tràn mắt tôi. Một gợn sóng chua cay trong tim trào lên. ông ấy là bố tôi. Hồi mẹ tôi còn sống, kinh tế gia đình một tay mẹ nắm: Phần nhà ngoại viện trợ, phần mẹ xoay sở vừa làm vườn, vừa làm ruộng, vừa chung vốn đi buôn với mấy người bạn gái...
Từ ngày mẹ tôi mất, cảnh nhà lụn bại dần. Bố tôi không phải là loại người có đầu óc. Cả đời, ông ấy chỉ cày khi bốn nhà xung quanh rủ ông cày, chỉ giồng khoai tây khi cả làng đã giồng khoai tây... Đi theo voi, hít được bã mía. Thứ nhẫn nại của đám người như thế, không mấy hơn sự nhẫn nại của con bò... Nhưng ông ấy là bố tôi...
- Bố buồn cười nhỉ! Sống dầu đèn, chết kèn trống...
Tôi gắt. Bố tôi ngồi lặng thinh lúc lâu, rồi đáp:
- Nhà hết dầu mấy hôm rồi. Tao chưa được lĩnh lương hưu.
A... Tôi sực nhớ món tiền còm trả cho anh cán bộ thời kháng Pháp. Tôi hỏi:
- Lương bố bây giờ được bao nhiêu?
- Cũng đủ mua được sáu lít dầu.

- Thôi, bố ăn cơm xong, con sang bên bác Hưởng mượn cây đèn.
Tôi chải lại dầu, bước qua hàng dậu sang nhà Lương. Nhà anh đang ăn cơm, sáu bảy người xúm xít quanh mâm, trên đầu treo cây đèn ba dây bóng thủy tinh lau muội trong suốt ánh sáng ấm, khác hẳn thứ ánh sáng của đèn nê-ông ngoài thành phố.
Bác Hưởng trai thấy tôi, tíu tít sai con cháu lấy thêm bát đũa, rót rượu. Bác gái xăng xở chạy quanh nói nói cười cười. Tôi phải trình bày kỹ lưỡng là tôi đã bị ép mua mấy quả trứng thiu trên ô-tô thế nào, bị đau bụng ra sao... hai ông bà mới chiụ ngồi im. Cả nhà mắt sáng rực hau háu nhìn vào miệng tôi, chờ đợi. Lương là con trưởng, được cả bố mẹ lẫn các em kính nể. Mặc dầu vắng mặt, anh vẫn là linh hồn của gia đình họ Lê.
Tôi bắt đầu kể về Lương... Lúc ấy, lục tục bên hàng xóm có người kéo sang. Rồi người nọ gọi người kia, chỉ mươi phút sau, cả làng đã tụ tập đông đủ. Bố tôi cũng sang, ông ngồi ngoài thềm với mẹ con chị Si. Bác Hưởng sai đốt thêm hai cây đèn nữa. Cả trong nhà lẫn ngoài sân sáng choang. Tôi đứng giữa vòng vây, lần lượt trả lời câu hỏi của mọi người.
Từ mặt trận bên Đông sang mặt trận bên Tây. Từ chiến trường A qua chiến trường B, chiến trường C, chiến trường mang mật danh X... Chuyện tôi biết, chuyện tôi nghe kể, chuyện tôi mường tượng ra. Mặt trận mênh mông trải trên còi đất, số phận con người cũng mênh mông trong các bước thăng trầm... Ở làng này, lính tráng rải khắp nơi, chẳng nơi não thiếu mặt.
Mười hai giờ rưỡi đêm, khách khứa mới chịu về hết.
Một mình tôi ngồi với bác Hưởng giữa sân. Bác Hưởng bảo:
- Bố mày dạo này lẩn thẩn rồi... Không chiụ làm ăn gì cả suốt ngày ngồi nhìn ngọn cau, không thì lại ra bãi tha ma.
Tôi nói:
- Sao bỗng dưng ông cụ dở chứng ra như vậy?... Năm ngoái, thằng Quang viết thư cho cháu báo tin ông cụ vẫn cày cấy bình thường.
Bác Hưởng sửng sốt nhìn tôi. Trí não tôi chợt tê buốt. Ông già cúi xuống, lấy thanh đóm gạt mãi chiếc nõ điếu. Tôi im lặng chờ đợi. Cuối cùng, ông nói:
- Có nhẽ ở mặt trận cháu không biết. Em cháu đã có giấy báo tử rồi... Giấy báo tử đến xã hồi tháng năm...
"Thế là hết!..." Tôi cười nhạt. Rồi tôi đứng lên:
- Bác cho cháu mượn cây đèn.
Tôi xách cây đèn ra về. Ông già bước theo đến bờ dậu:
- Mai bác sang.
Tôi đáp:
- Vâng.
Vào nhà, tôi đặt cây dèn lên bàn thờ. Rồi, tôi bó gối ngồi nhìn đăm đăm cái đốm lửa vàng vui vẻ kia như một kẻ mất trí. “Thế là hết... hết hẳn..." Trí não tôi lặp lại. Một tiếng vang âm u như tiếng vang trong hậu cung chùa. Tôi chợt nhận thấy hai tay tôi run lên. Rồi cả hai cánh tay, hai chân. Sau cùng, toàn thân tôi run bần bật như đang bị hành hạ bởi con sốt ác tính. Tiếng thét rợn hồn trong cơn sinh nở của mẹ vụt xé trong tôi. Cái chậu sành sóng sánh nước. Bàn chân đỏ hỏn của đứa em trai quẫy đạp... Quẫy đạp… Nó mất công quẫy đạp như thế để làm gì?... Cuối cùng, cái chết đã nhặt nó đi, như nhặt mảnh giẻ rách vương trên nẻo đường lắm bụi...
- Pho pho pho... Phi pho, phi pho...
Bố tôi bắt dầu cất tiếng ngáy. Cằm ông trễ xuống, râu đã bạc, ánh đèn chấm một vệt bóng trên chóp mũi.
- Phi pho, phi pho pho...
Giờ thì ông ngáy vang như sấm. Chỗ xương vai nhô lên thụt xuống đều đều theo nhịp thở. Gương mặt ông lấp trong bóng tối. Giấc ngủ an nhiên. Ngọn lửa vàng nhảy nhót không ngừng, đùa dỡn, xoay bồng bềnh làn ánh sáng ấm áp trong không gian quạnh hiu của mấy gian nhà, cái bàn thờ rộng rỉnh, phủ bụi, lờ mờ bóng mấy cây giá nến đồng với cái đỉnh đen ám khói, một nhành hoa giấy trong cái cốc, bẩn thỉu vì muội lửa và vì dán gặm... Tôi nhìn không rời ngọn lửa đèn... ngọn đèn mượn nhà người khác...
- Phi pho... phi pho pho....
Tiếng ngáy đổ hồi. Toàn thân tôi vẫn run lên, không ngừng run lên trong cơn bức xúc. Chưa bao giờ tôi run đến như vậy. Lính tráng lẫn các cấp chỉ huy gọi tôi là "Quân lý".
Anh em nửa sợ nửa khoái. Cấp trên nửa gờm nửa ghét. Hiểm nguy, đói khát, máu chảy... tất cả đã no nê đến tận cùng...
Chưa bao giờ tôi run như thế. Tôi kinh hoảng vì thấy như cơ thể tôi sắp chồm lên - như con hổ vồ mồi, sắp nhào xuống - như con rái cá vọt xuống nước, sắp làm điều gì đó... mà tôi cũng không thể biết... Tôi không nhìn ngọn đèn mà cúi nhìn xuống chân tay mình, kinh hoảng vì chúng tựa như tay chân ai đó, không kiểm soát được...
- Phi pho... phi pho pho...
Tiếng ngáy lại dội lên lần nữa... Lần này, cây kim trên cán cân đã lệch sang bên phải. Tôi chồm đến phản:
- Bố...
Ông cụ ú ớ. Tôi đập vào vai bố tôi, gọi dồn dập:
- Bố dậy... bố dậy ngay...
Tôi không hiểu vì sao tôi làm như vậy. Nhưng nếu không làm như vậy, chắc tôi sẽ điên. Hoặc tôi sẽ cởi trần truồng cắm cổ chạy ra cánh đồng, hoặc tôi sẽ vác dao chặt hết hàng cau trước nhà, hoặc tôi sẽ đạp đổ bức thành để lấp giếng. Có lẽ đó là sự lựa chọn theo bản năng:
- Bố ngồi dậy cho con hỏi...
Ông cụ ngồi dậy, đưa tay dụi mắt. Mắt ông đỏ kè. Bố tôi thuộc loại người u mê trong giấc ngủ. Những ông già khác không như thế. Họ thường ít ngủ, tỉnh táo, dường như trong chặng cuối, năng lượng sống của họ dồn tụ lại các giác quan. Họ muốn thâu nhận mọi tín hiệu của cuộc đời trước khi từ giã nó...
Bố tôi ngáp liền bốn năm cái, rồi bảo:
- Đưa tao cái điếu cày.
Tôi đem chiếc điếu lại cho ông. Bố tôi rít một hơi thuốc dài, rồi hỏi:
- Chuyện gì thế?
Tôi nhìn mặt ông. Nó như bức tường, không phản chiếu điều gì. Một vẻ cù lì thâm căn cố đế. Chân tay tôi vẫn run bần bật. Phải tự chế ngự lắm tôi mới giữ được một giọng nói bình thường:
- Giấy báo tử của em con đâu?
Ông cụ ngồi im vài giây. Rồi bố tôi đứng lên, đi đến bàn thờ, rút dưới chân cây giá nến đồng bên trái một chiếc phong bì mang lại cho tôi.
- Đây!
Chiếc phong bì nhẹ bỗng trên tay tôi. Loại phong bì cẩu thả gập bằng giấy xấu, hồ dán lem nhem ngoại mép, sờ nham nháp vì bụi.
Bố tôi lại ngồi xuống phản, vớ cây điếu.
Tôi bảo:
- Bố hút như thế đủ rồi... cho con hỏi chuyện đã.
Ông cụ ném thanh đóm xuống phản:
- Hỏi gì thì hỏi đi.
Tôi thấy ruột đau căn cắt... Tôi hỏi:
- Sao bố lại bình thản như thế?
Bố tôi cau mày hỏi lại tôi:
- Thế mày bảo tao phải như thế nào?...
Tôi im lặng. Có lẽ ông cụ không bao giờ hiểu điều tôi muốn nói. Chúng tôi mãi mãi là những kẻ xa lạ với nhau. Như hai mảnh dầm trong hai cánh đồng, không đòng mương, con lạch nào nối lại. Quang đã chết. Sợi dây liên lạc cuối cùng giữa chúng tôi đã đứt...
Tôi nói:
- Con nghĩ, bố phải hiểu vì sao thằng Quang vào bộ đội?
- Thế mày?... mày vào bộ đội vì cái gì?
- Con làm nhiệm vụ với đất nước.
Bố tôi cau có:
- Dễ thằng Quang nó không nghĩ được như mày?
Tôi nói:
- Gia đình ta chưa có ai góp phần xương máu trong chiến tranh chống Mỹ. Con là đứa con lớn, con phải đi... Nhưng thằng Quang lại khác. Nó học toán giỏi thứ nhì trong tỉnh và vẫn ước ao theo nghề điện toán... Dạo ấy, con đã viết thư về...
Bố tôi cắm cảu:
- Thư từ gì, tao không biết.
- Bố có biết nhưng giờ bố không chịu nhận.
- Mày vu vạ cho tao hả?....
- Không. Con đã nhận thư thằng Quang. Nó viết rằng nó muốn đi học điện toán nhưng bố động viên nó đi bộ đội. Bố bảo:” Thời chiến, chỉ đi bộ đội mới có tương lai...” Họp chi bộ, bố xung phong ghi tên động viên một trăm phần trăm con cái lên đường làm nghĩa vụ quân sự. Lúc nhận thư nó, con đang ở Tà chống.
Bố tôi cắm mặt xuống nhìn cái nõ cày. Tôi nói tiếp:
- Con đã viết thư về ngay cho em Quang... Nhưng chắc đường giao liên tắt... Nó đã lên đường...
Bố tôi vẫn đăm đăm nhìn cái nõ cày, bàn tay trái lần sờ thanh đóm. Tôi nói thêm:
- Không ai có được trí nhớ ghê gớm như nó... Nếu không, nó có thể trở thành một người...
Bỗng dưng, tôi không thể nói được nữa. Phần vì tôi nghẹn ngào, phần khác tôi bỗng hiểu nói với bố tôi là việc vô nghĩa... Tôi bỏ dở câu chuyện, đi ra sân.
Dãy cau giăng hàng đứng trong đêm như những chiếc bóng thân ái, u sầu. Tôi ngồi xuống thềm đá... “Em ơi...” Hình dung lại cái bóng nhỏ lũn cũn của nó ngày thơ ấu, những ngày cơ cực, nó đeo lấy cổ tôi như một con ếch và chúng tôi lẵng nhẵng tha lôi nhau từ vệ đường, gốc ổi cho tới sân đình. Tại sao nó lại tuân thủ người cha cộc cằn thiểu trí như cha tôi?... Cái thằng bé ngay từ phút chào đời đã quẫy đạp dữ dội khiến nước trong chiếc chậu sành bắn tung tóe?... Thế là hết... Tất cả đã quá muộn." Bức thư rủi ro của tôi nằm mắc ở chặng đường nào đó khi gặp cơn mưa lũ, hoặc bi vứt bỏ ở một binh trạm vô danh khi người giao liên hy sinh. Đã quá muộn, cái ước mong khôi phục lại sự hưng thịnh của gia đình, dòng giống. Em trai tôi thông minh, nó có thể trở thành một con người xứng đáng trong xã hội an bình... Tất cả đã được quyết định vào một khoảnh khắc, khi người cha giơ cánh tay lên trong cuộc họp chi bộ: "Tôi xin xung phong động viên một trăm phần trăm con cái lên đường...” Toàn bộ gia sản ký cược vào canh bạc binh đao!
Hóa ra, con người dù đầu óc tối tăm đến đâu cũng không chịu từ bỏ dục vọng. Bố tôi muốn xí phần vinh quang trong bữa tiệc chiến thắng ngày mai...
Gà gáy canh một. Con gà trống siêng năng nào từ xóm trại gáy vọng vào. Sau đó, gà trong làng nhất loạt hòa tấu theo. Một ngôi sao xanh lợt nhấp nháy làm tóa ra những tia sáng màu mạ non. Tôi nhớ mẹ điên cuồng. Hàng cau làm tôi nhớ mẹ diên cuồng. Những chiều lãng đãng, hoa cau cải xuống thềm, mẹ tắm cho tôi trong chiếc chậu đồng sóng sánh thứ nước thơm hương bưởi. Nếu mẹ tôi còn, cuộc đời sẽ khác.
Một khi tôi đã đi bộ đội, Quang sẽ ở nhà.
Với người mẹ, không có thứ vinh quang nào sánh bằng sự tồn tại của đứa con, không có thứ giáo lý nào cao cả bằng việc làm cho con hạnh phúc. Nhưng ở làng này, quyền uy thuộc người cha. "Thời chiến, đi bộ đội có tương lai hơn cả..." Bố tôi đã kết luận!
- Cúc cù cu cu cu …
Gà gáy canh hai. Lần này, từ xóm tôi lan ra khắp làng.
Ngôi sao màu lá mạ đã biến khỏi chân trời, thay vào đó là làn khói nhè nhẹ bay vì cơn gió xua đuối. Hàng cau khẽ rì rầm xoa dịu nỗi đau của tôi và làm mờ cái ý định vừa nảy sinh: “Dù định tự hủy hoại thân mình..” Có lẽ, sẽ còn một cái gì đây... Tôi cô độc. Nhưng tôi mong muốn tôi sẽ tìm được một cái gì đấy, sau những mất mát...
Sáng hôm sau, bà Nhàn mang đến một thúng quà: Nào xôi nào chuối, nào bánh gai, bánh cốm. Tôi vừa ngủ được một giờ đồng hồ, bố tôi đã đánh thức dậy:
- Dậy, bà Nhàn sang kia kìa... Đội cả thúng gạo chắc...
Mắt tôi cay xè. Bà Nhàn đon đả từ ngoài sân:
- Anh Quân đã dậy chưa đấy?... Tôi quấy quả đây...
Tôi thèm ngủ nhưng phải ngồi dậy tiếp khách. Tôi nói:
- Bác Nhàn đem lễ sang ăn hỏi chắc? Tiếc là cháu không phải con gái đồng trinh!
Bà Nhàn cười tít:
- Có đáng gì đâu?... Xôi chuối để anh ăn sáng. Còn bánh cốm bánh gai, nhân thể tôi đặt cưới con Thoa. Sáng ngày kia, mời cả bố con sang dự.
Tôi sửng sốt:
- Con Thoa mà lấy chồng!?
- Nó mười tám rồi còn gì?... A, mười tám tuổi ta, mười bảy tuổi tây. Nhưng nhà trai muốn cưới thì tôi cho cưới.
- Kinh thật! Hồi cháu với thằng Biền đi, nó còn trèo lên cổ cháu chơi trò cưỡi ngựa.
Bà Nhàn gật đầu:
- Kinh chứ sao không kinh? Tháng, năm, thấm thoát thoi đưa mà. Anh soi gương mà xem, vết chân chim đầy hai đuôi mắt rồi đấy! Lần này về, có cưới vợ không tôi góp trăm cau?
Tôi cười:
- Bác hãy lo cưới vợ cho thằng Biền trước. Biết đâu sang năm nó chẳng đùng đùng về phép?
- Chẳng phải lo. Nó cứ đặt chân đến đầu làng là tôi khắc lo xong mọi chuyện.
Tôi hỏi:
- Cô vinh chèo làng Xuân viễn à?
Bà Nhàn bĩu môi:
- Các cậu cứ tưởng bở! Nó lấy chồng tám năm nay, tay bồng tay bế lại còn lẵng nhẳng hai đứa nữa sau lưng.
Tôi cười:
- Đẻ gì mà khiếp thế!
- Tám năm bốn đứa con có gì mà khiếp? Tướng con ấy mắn như gà ri: đít cong chân ngắn, đẻ cho hết trứng cũng ngót nghét hai chục... Nhưng tiếc gì nó? Cả anh, cả thằng Biền cứ về làng vơ tay trái cũng được dăm cô... Nhưng thôi, chuyện vợ con hãy gác lại đã, tôi sốt ruột quá, chẳng thấy thằng Biền viết thư về...
Tôi bảo:
- Cháu vừa gặp nó cách đây mười một ngày...
Mắt bà Nhàn sáng rực:
- Thế à! Phúc đúc quá! Nó có nhắn gì tôi không?
- Nó vội quá không viết thư kịp. Nó gửi lời cho cháu, mong hai bác và cả nhà bình an.
Mũi bà đỏ huẩy, hai tròng mắt đã rân rấn nước:
- Nó mong cả nhà bình an!... Thực là người leo cây lo cho người đứng dưới gốc. Chúng tôi mong nó bình an mới phải, nó ở nơi mũi tên hòn đạn, biết sống chết lúc nào?
Bà sụt sịt, lấy khăn tay lau mũi. Tôi pha trò. Rồi mô tả cảnh tượng đời sống chúng tôi: Có gian khổ nhưng luôn luôn vui, cơm ăn áo mặc không thiếu thứ gì, lại có văn công văn nghệ lưu động phục vụ các mặt trận... Tóm lại, tất cả những khía cạnh tươi sáng nhất của cuộc sống thời chiến...Bà Nhàn nghe một lúc, tỏ vẻ an tâm. Bà xếp bánh trái lên bàn, te tái:
- Tôi đi chợ đây. Tối, anh sang uống rượu với ông Biên nhà tôi nhé... ông ấy dặn anh nhất thiết phải sang chơi.
- Vâng, cháu cũng muốn gặp bác trai.
Bà chào bố tôi rồi cắp thúng đi.
Tôi ngủ lại. Khoảng sáu giờ chiều tôi mới thức giấc.
Tựa hồ kẻ lặn dưới nước lâu vừa ngoi lên, tôi hít thở hoài hoài làn không khí nhẹ bỗng nơi làng thôn. Mọi thứ hương của cỏ cây, hoa trái hòa trộn với mùi xú uế, mùi bùn, mùi súc vật tạo thành thứ mùi quen thuộc, thú mùi đã tẩm đẫm vào tôi từ thuở ấu thơ.
Bố tôi hỏi:
- Mày ăn cơm không, tao nấu?
- Con đã hẹn sang nhà ông Biên.
- Thế thì tao cũng sang cụ Chấn ăn tiết canh cháo lòng. Nhà cụ ấy hôm nay ngả lợn.
- Vâng.
- Khóa cửa rồi hãy đi. Chìa khóa đem qua nhà cụ Chấn cho tao.
- Nhà có gì nữa mà phải khóa?
- Dạo này hay có trộm vặt. Mâm thau, nồi, xoong nó cũng lấy.
Thế thì con cũng đi luôn. Bố khóa cửa mà giữ lấy chìa.
Tôi đi trước. Bố tôi kì cạch khóa rồi đi sau. Chúng tôi cùng đi một đoạn đường nhưng chẳng ai nói với ai một lời nào. Rồi bố tôi rẽ vào nhà cụ lang Chấn. Tôi đi thẳng đến nhà ông Biên.
Tòa nhà ông Biên khang trang vào loại nhất làng. Thềm năm bậc lát đá, hiên rộng có hàng cột đỡ. Ở căn nhà ngang, ông vượt lên hai gian gác, đổ mái bằng, chạy những đường hoa văn tỉ mỉ trông vui mắt. Lúc tôi đến, cơm nước đã sẵn sàng, đèn thắp sáng choang.
Bà Nhàn trách:
- Anh sang chậm thế, suýt nữa tôi bắt con Thoa đi đón.
Tôi cười, tạ lỗi:
- Cháu ngủ quên.
Lúc ấy, một cô bé má hồng, mắt đen nhanh nhánh đứng ôm cây cột bên hàng hiên, ngước lên:
- Anh Quân trông lạ ghê!
Tôi quay lại, chưa kịp nhận ra ai thì bà Nhàn đã nói đón:
- Con Thoa đấy... Chào anh chưa?
Thay vì chào, cô bé lè lưỡi ra. Tôi bật cười:
- Mày vẫn nghịch thế mà hai ngày nữa đã lấy chồng rồi
Thoa đỏ bừng mặt, cười khanh khách:
- Nghịch là một việc, lấy chồng là một việc chứ anh?... Thiên hạ thích lấy em thì em cho nó lấy...
Lúc ấy, ông Biên bước ra:
- Vào đi anh Quân...
Ông bảo tôi, đoạn quay lại mắng con:
- Con ranh này, lại dám trêu anh Quân... Hỗn...
Thoa nháy mắt với tôi rồi chạy biến ra ngõ. Lúc ấy, tôi mới nhận thấy nó đã thành một thiếu nữ, xinh đẹp không ngờ! ông Biên dắt tôi lên mâm rượu, chỉ có hai ông bà và tôi. Đám con cái dọn mâm riêng, ăn dưới nhà ngang. Bà Nhàn rót rượu ra ba cái chén sứ trắng nõn:
- Rượu thuốc đấy anh Quân ạ. Các anh uống thì tốt lắm.
Ông Biên liếc bà:
- Thế bà uống có tốt không?
Họ nhìn nhau đồng lõa, cùng cười. Không trách đám đàn bà trong làng ghen lồng lộn với bà Nhàn! Riêng việc bà cứ ngồi sánh vai với chồng uống rượu tiếp các loại khách, từ bậc lão trượng xuống hàng con cháu đã đủ cho mấy người đàn bà suốt đời ngồi ăn vụng, uống lén dưới bếp phải tím ruột bầm gan.
Hôm ấy cuối tháng nên bà Nhàn thịt hai con vịt. Làm hai cử tiết canh. Một con vịt hầm hạt sen, một con luộc chấm muối giã tỏi. Con nào con nấy ngót nghét ba cân. Rau thơm để tràn ra cả vành mâm. Loại trừ thứ chén sứ uống rượu và loại bát thường dùng, mâm cỗ ấy khiến tôi nghĩ là mâm cỗ đãi Trí Thâm hoặc Lý Quỳ tái sinh!
Ông Biên bảo:
- Anh Quân dùng tay nhé. Nhà tôi thích ăn thế cho tiện. Kí ca kí cách chặt tốn thì giờ mà nước thịt chảy ra ăn mất ngon... Nào, bà nó dùng đi... Anh Quân dùng đi... đừng
khách khí...
Nói đoạn, ông vặt cánh con vịt luộc, chấm muối, ăn ngon lành.
Chuyện của chúng tôi lan man từ việc làng sang việc nước. Không thấy ông Biên hỏi gì tới thằng con trai. Ông có mười sáu đứa con, sáu trai, mười gái. Biền là con trai trưởng, ngày đẻ cu cậu, ông ngả con lợn ngót tạ đãi họ hàng. Tôi xa nhà đã lâu nên nghe hai ông bà kể chuyện về những người lân bang, họ mạc cứ như nghe kể chuyện cổ tích. Chuyện đang dòn thì ông Lý, bí thư đảng ủy xã đi vào:
- Chào cả nhà. Chào người chiến sĩ anh hùng từ mặt trận trở về...
Lại vẫn là bà Nhàn tụt xuống phản, te tái ra đón khách:
- Chào bác Lý, mời bác vào uống rượu.
Ông Biên vẫn ngồi như bụt mọc trên phản, miệng nói:
- Mời bác Lý vào đây.
Tôi thấy mặt ông Lý tối sầm lại khoảnh khắc, có vẻ bất mãn. Rồi ông cười được ngay:
- Vui vẻ quá!
Tôi nói:
- Mời bác xơi chén rượu.
Ông Lý bảo:
- Không khách khí gì đâu nhưng có cuộc họp quan trọng của đảng ủy xã đang đợi tôi... Anh Quân, mười năm nay anh mới về làng, tôi muốn mời anh tới nói chuyện với các đảng viên, sau đó với dân làng.
Tôi đáp:
- Cháu có học nghề nói chuyện bao giờ đâu?... Tụi cháu là lính, ăn no vác nặng...
Ông Lý tợp ngụm rượu, thò tay vặt cái tỏi vịt, đoạn cười hề hề:
- Chính thế mới hay đấy... Cánh cán bộ tuyên huấn của Đảng nói mãi rồi. Giờ, các anh nói dân họ tin hơn. Đề nghị anh phổ biến những tin thắng trận để động viên bà con có khí thế tiến công vào vụ mới...
Đến đó, ông ngừng lại để gặm cái tỏi vịt. Tôi nói:
- Hôm nay cháu trót nhận lời làm khách của bác Biên. Vừa kíp nhấc chén rượu lên, chưa nói được chuyện gì... Bác biết, cháu với Biền là bạn...
Ông Lý gật dầu:
- Biết, tôi biết... Thế tôi hẹn anh tối mai nhá?
Tôi đáp:
- Bác Lý thông cảm cho. Cháu chỉ biết đánh giặc, không biết thuyết giảng.
Ông Lý uống nốt chén rượu, giơ tay:
- Yên trí, yên trí... tôi sẽ làm việc trước với anh về cái đề cương... Cốt nhất là phải thông qua cái đề cương.
Tôi góp ý:
- Hay cháu đứng ra chào bà con, rồi bác nói?
Ông Lý ậm ừ:
- Để tôi nghiên cứu đã...
Lúc ấy, ông Biên bóc miếng lườn vịt to tướng bỏ vào bát ông Lý:
- Bác dùng tự nhiên.
Bà Nhàn róc chén rượu đầy:
- Rượu thuốc đấy bác Lý ạ... Bắc đùng tốt lắm...

Đoạn, cả hai ông bà cùng ngừng lại, chờ ông bí thư xã ăn uống. Tôi thấy ngượng nên nhấc chén lên cùng uống với ông. Chẳng còn chuyện gì để nói. Ông bí thư xã ăn xong cái lườn vịt, quẹt đũa lau miệng đứng lên:
- Tôi vội lắm, kiếu các vị nhá... Anh em ban thường vụ đang chờ. Anh Quân cứ nghĩ kỹ đi, phương án nào tối ưu thì ta thực hiện...
Ông Lý xuống sân, bà Nhàn chạy theo chào với:
- Bác Lý đi họp ạ ạ...
Cái bóng ông bí thư xã khuất dần trong quầng đèn.
Ngày chúng tôi nhập ngũ, ông đọc bài diễn văn động viên lính mới hùng hồn. Hồi ấy, tôi thấy ông oai vệ. Giờ, ông nhỏ bé hẳn đi... Mười năm trôi qua...
Ông Biên rót cho vợ chén rượu rồi cười khẩy:
- Chưa thời nào đám hào lý mất tư cách như thời này...
Bà Nhàn gạt đi:
- Ông nói làm gì chuyện ấy, mất vui...
Ông Biên trầm ngâm:
- Thời xưa, cứ mười người là phải có bảy tám người là con nhà tử tế, có lễ nghĩa. Muốn làm bậy cũng còn sợ nhục. Bây giờ, đa phần là bọn phong học cương thường đạo lý. Họ học luân lý Mác-lê. Cướp vườn cướp ruộng nhà người ta cũng là theo sách Mác. Lột quần vợ người ta mà ngủ cũng là vì lợi ích của đấu tranh giai cấp...
Bà Nhàn giật áo chồng:
- Thôi đi, đừng dây với bọn họ. Tay dao tay thước trong tay đám ấy cả, họ muốn làm gì ta mà không được?...
Bà vặt chiếc cánh bỏ vào bát ông:
- Cánh con vịt này nơm những mỡ, ông nhắm đi.
Chúng tôi nói sang chuyện mùa màng, đồng đất. Tàn bữa rượu thì cậu Bảo, con trai út ông Biên bước lên thềm:
- Bố ơi, đêm nay bố hay là con ra trông vịt cho anh Bình?
Ông Biên đáp:
- Tao đi. Chúng bay lo sửa soạn bài vở rồi mà ngủ sớm.
Đoạn, ông quay sang bảo tôi:
- Lâu lắm anh mới về làng, đêm nay ra ngủ đồng với tôi. Ta tha hồ nói chuyện.
Rồi ông bảo vợ:
- Bà pha cho tôi ấm chè, ủ vào giỏ. Rót bình rượu với nướng con mực nữa nhé...
Bà Nhàn tụt xuống phản:
- Có ngay đây ông ạ...
Chờ bà sắp xếp xong mọi thứ, chúng tôi ra đi. Nửa giờ sau mới tới nơi. Khi tôi trông rõ túp rạ nhọn hình chữ A, cũng là lúc vang lên giọng “Oà Oà” của một thiếu niên:
- Bố à?
- Tao đây. Đói bụng chưa con?
- Cũng kha khá bố ạ... Ai đi với bố vậy?
- Anh Quân, mày không nhận ra ư?
Từ trong túp lều, một bóng đen lao ra. Một chàng trai chạy tới ôm chầm lấy tôi:
- Anh Quân… uân...
Tôi đứng lặng trong hai cánh tay rắn chắc, nồng ấm của nó, tưởng như vòng tay em trai mình. Rồi, tôi nâng mặt nó lên và nhận ra thằng Bình, trên con Thoa một tuổi:
- Mày lớn thế ư?...
Bình cười ngượng nghiu, rồi nói:
- Anh gặp anh Biền em không?
- Có gặp.
- Anh ấy thế nào?
Cũng như tao đây này. Già hơn tuổi chúng mày... (và đùa thêm:) Mà cũng chẳng ai cho đi chăn vịt để... bán trộm trứng!
Bình cười hưng hức, dúi đầu vào vai tôi. Ngày trước, tôi và Biền đi chăn vit, thường bán vụng trứng cho mấy mụ buôn chợ huyện để lấy tiền mua kẹo, dầu chải tóc và thuốc bôi trứng cá. Bình đi theo, thường được chia vài đồng. Nó lấy tiền ấy mua nịt cao su và dây thung làm ná bắn chim...
Ông Biên bảo nó:
- Về ăn cơm không đói.
Bình nói:
- Em về đây, mai anh Quân phải chơi với em cả ngày đấy nhá.
Nó đi dọc theo bờ mương và chẳng mấy lúc biến vào bóng đêm. Trời đẫm sương, lành lạnh. Chúng tôi ngồi trong lều, nhìn chân trời nhủ nhòa mây nước, nghe tiếng vạc xào xạc trên mặt đầm. Ông Biên rót chè nóng ra chén. Chúng tôi lặng lẽ uống, hết chén này tới chén khác. Lúc lâu sau, ông Biên nói:
- Thằng Biền ra sao?
Tôi lặng im. Ông nói tiếp:
- Tôi biết là có chuyện, nếu không, nó đã gửi thư về.
Anh nói cho thật. Thằng Biền làm sao?
- Bác đừng lo. Biền còn sống.
- Tôi không phải như những người cha khác, thúc con ra chiến trường: “Một là xanh cỏ, hai là đỏ ngực”. Tôi cũng chẳng ích kỷ, hèn nhát, xui con đào ngũ. Nước có ngoại xâm, dù đứt ruột cũng phải cho con ra đi.
- Vâng.
- Sáng qua bà Nhàn về kể chuyện lại. Tôi lặng thinh. Anh nói với mẹ thằng Biền như vậy là tốt. Đàn bà cũng như con trẻ, ưa điều nói dối hơn là chịu sự đắng cay. Nhưng tôi là bố nó...
Trong ánh sao, tôi thấy ông hướng gương mặt cương nghị về phía trước. Bóng tối che khuất đôi mắt sáng và xếch như mắt quan võ Tàu, nhưng tôi biết nó đang đăm đăm nhìn khoảng hư không, với những tia sáng lạnh lùng. Trước một người cha như thế, không còn cách nào khác. Tôi uống nốt chén chè rồi bắt đầu kể chuyện...
Đêm trôi. Cánh đồng yên tĩnh, xột xoạt tiếng cỏ lay. Thi thoảng có vài tiếng vịt các cạc trong đàn quây bên lều. Tôi cũng không còn nhận ra tiếng nói của mình. Đấy như là giọng nói của một kẻ xa lạ, bình thản, một cái máy hát vô hồn xướng lên những cảnh đắng cay cùng một giọng như bản tụng ca. Tôi vừa kể chuyện, vừa đằm mình trong giấc mộng phiêu bạt của quá vãng, từ ngày lên năm tuổi nghe tiếng súng nổ đì đọp nơi chân trời khói lửa tới năm hai mươi nhăm tuổi, lội qua những thung lũng nhầy nhụa thịt và bùn... Suốt quãng thời gian ấy, có một thằng tôi đang sống, có một thằng tôi đứng bên lề cuộc đời, ngơ ngác nhìn gió bão đi qua... và... ngắc ngoải đợi chờ...
Ông Biên chợt hừm một tiếng trong họng:
- Nó không nói gì nữa?
Tôi đáp:
- Thưa vâng. Nó rất buồn.
- Tại sao nó không chịu giải ngũ?
- Biền không chiụ... Cháu nghĩ là tại nó ngại anh em làng xóm...
- Phải, nó thương chúng tôi. Không ai không sợ miệng đời mai mỉa?
- Thưa vâng.
- Nó sống kham khổ ở vùng ấy đã bao lâu?
- Cháu nghe ông sư phó nói lại là ngót nghét sáu năm.
- Khổ thân con tôi, trai đương thì hơ hớ... Anh Quân này, lũ dân thường như chúng ta, chịu cực đủ điều, bóp miệng bóp mồm, bóp cả đến con c... Tụi tướng lĩnh nó có khổ như thế đâu? Ra Bắc vào Nam, đâu đâu chúng nó cũng có đàn bà. Ngày xưa thì là phi là thiếp, giờ thì các đồng-chí-nữ phục vụ! Trò đểu, thời nào cũng giống nhau là thế!
- Vâng.
- Biết vậy mà có ai dám nói đâu?... Như tôi, ngang ngược bậc nhất làng này cũng phải kéo anh ra đồng trò chuyện. Kiếp dân đen, miên man cơ khổ. Bao nhiêu người chết đi, từ cụ Đề, cụ Phan tới ông Nguyền Thái Học... Bao nhiêu sinh linh mới đổi được lá cờ độc lập. Nhưng bọn thực dân da trắng cút đi thì lại mọc lên bọn cường hào, ác bá da vàng!?
- Vâng.
- Nhưng ta hiểu riêng với nhau thế thôi, anh Quân nhé... Chớ để cho ai biết. Anh em, họ hàng, bè bạn bây giờ rình mò tố cáo nhau còn hơn chồn cáo. Thời này, gương mặt người cũng biến dạng đi, không còn giống cái mặt người...
Tiếng một con vịt trời cô lẻ rơi trong đêm. Mặt đầm xa ánh lên gợn bạc. Làn sương mỏng trên cánh đồng bay bảng lảng khiến tôi rùng mình vì lạnh. Tôi nói:
- Năm nay có lẽ rét sớm, bác nhỉ?
Ông Biên gật đầu:
- Rét lắm đây. Hoa màu sẽ hỏng vì sương muối.
Im lặng một lát, tôi nói:
- Cháu nhớ mẹ cháu quá.
- Tôi hiểu. Tội nghiệp cho anh. Bà ấy đẹp cả nết lẫn người. Trời già cay độc.
Ông Biên thở dài...
Hơi sương ẩm ướt làm nhờn mắt tôi...
Hồi lâu, ông Biên nói:
- Hay anh cưới vợ đi? Tôi với bà Nhàn sẽ đứng ra lo liệu.
Tôi lắc đầu:
- Cháu còn đi.
Ông Biên nói:
- Kiểu này, chiến chinh chưa biết đến bao giờ mới hết... Đừng chờ.
Tôi nói:
- Chẳng để làm gì bác ạ. Lại đèo bòng thêm khổ cho người đàn bà.
- Anh gàn lắm... Chớ nghĩ thế. Đàn bà không có ai rờ đến cũng khổ chẳng kém gì chờ đợi! Cứ cưới rồi gieo cho nó đứa con, mình có kẻ nối dõi tông đường mà nó có đứa bế ẵm... Lợi cả đôi.
Tôi lắc đầu:
- Cháu chịu.
Ông hỏi:
- Bận trước, tôi vẫn thấy anh hay cập kè với đứa nào ấy nhỉ? A... cô Hoa... Tôi nhớ rồi: Cái Hoa là chị cái Hòa, nhà ông Tiến... Tưởng ai. Đám ấy tôi khuyên anh nên quên đi. Hỏng rồi!
- Cô ấy đã lấy chồng?
- Lấy chồng thì đã tốt phúc! Loanh quanh hai ba đám, lão Tiến gàn, thách cao dao bầu, không chịu gả... Đến năm ngoái, ủy ban xã lấy nó lên chạy việc vặt. Được đầy năm thì cái bụng ễnh ra. Chẳng ai chiụ nhận, con bé cũng không chiụ khai. Vợ chồng lão Tiến xấu hổ, đánh đuổi con bé đi... Giờ nó túp mái lều trên ngọn đồi trọc, gần xóm trại, ngoài bờ sông ấy...
Tôi rùng mình. ông Biên bảo:
- Lạnh hả... Ta uống rượu cho ấm người.
Ông lấy bình rượu với con mực nướng bày lên cái bát sắt tráng men. Ngọn đèn hột lạc treo ở góc lều tỏa ra thứ ánh sáng mờ đục. Ông Biên rót hai chén rượu đầy. Chúng tôi uống cạn một hơi.
Chương 7
Có một dòng nhựa nóng bò vào các huyết quản của tôi, trong khi trí não trở nên lạnh buốt. Tôi mường tượng thấy một mái lều cô lẻ trên đồi, dưới kia là dòng sông vắng...
Thiên hạ hay nói đến người đàn bà lý tưởng. Tôi chẳng biết Hoa có phải người lý tưởng của tôi hay không, nhưng tôi đã yêu cô hết thời niên thiếu. So với đám gái làng, cô thuộc loại xinh. Hơn nữa, cô lại được chiù. Vợ chồng ông Tiến không có con trai, chỉ có hai cô gái. Con nhà nông, nhưng cả Hoa lẫn Hòa đều không phải chăn trâu, cắt cỏ. Họa hoằn, các cô mới ra ao vớt bèo cho mẹ rải chuồng lợn, hoặc cắp giỏ theo đám bạn gái hội cá ở ao đình. Ông Tiến dạy Hoa đánh đàn. Cây đàn măng-đô-lin reo tính tang những chiều rỗi rãi: "Đây đó, đây trong rừng, đây cánh đồng, kìa bao phóng khoáng..." Mái tóc đen như than đổ nghiêng xuống má mỗi khi cô ngồi gảy đàn. Da cô mịn như là, ánh lên nâu nâu hồng hồng ngon như ổi chín. Hoa học dưới tôi một lớp. Bọn trẻ làng chế. "Thằng Quân mà lấy con Hoa. Mang thai tám tháng đẻ ra thuồng luồng". Không biết ai dạy bọn nó. Câu hát làm tôi sợ. Trong trí não chúng tôi, thuồng luồng là loài yêu quái chuyên làm hại dân lành. Tôi hết đuổi đánh lại van xin tụi bạn, nhưng chúng không tha. Một lần, thằng đầu xỏ gọi tôi lại:
- Này Quân, mày muốn chúng ông thôi chế không?
Tôi gật đầu:
- Muốn.
Thằng trùm nhe răng cười:
- Nếu thế, tí nữa con Hoa đi qua đây, mày phải ném vào lưng nó một nắm cứt trâu...
Tôi sững sờ. Thằng trùm bĩu môi:
- Ông biết ngay mà. Mày yêu nó. Mày muốn cưới nó làm vợ.
Tôi cãi yếu ớt:
- Đâu nào?
Thằng trùm bảo:
- Nếu mày không yêu nó, mày phải ném vào lưng nó một nắm cứt trâu thật to. Hễ mày không ném, chúng ông cứ đặt vè, lại còn lấy than vẽ mày với nó lên sân đình nữa...
Sân đình... Cái sân gạch mênh mông, suốt ngày người lớn và trẻ con qua lại... Tôi toát mồ hôi hột, nói:
- Ném thì ném, sợ gì...
Thằng trùm bắt tất cả núp sau bụi chuối. Hoa đang đi trên đường tới chỗ chúng tôi. Chắc mẹ nó sai đi trả cái chảo rang bánh phồng khoai. Tay cầm chiếc chèo, Hoa vừa đi vừa khe khẽ hát, mắt liếc đôi chích chòe đang hót nhịp trên ngọn tre. Thằng trùm lấy đầu gối thúc vào đít tôi:
- Kìa, mày?
Mặt tôi nóng ran, không biết vì sợ hãi hay tủi hổ, tôi cúi xuống, bốc một nắm cứt trâu tươi, ngay sát bụi chuối, dang tay ném thẳng vào người Hoa. Nắm cứt trâu tới trúng ngực áo trắng của nó thành một bãi nhoe nhoét bắn lên vai và cổ con bé. Thằng trùm và bọn trẻ cùng rú lên cười.
Tôi đứng ngây thộn nhìn Hoa. Con bé, sau khi hét lên một tiếng hãi hùng, kịp đưa mắt qua bụi chuối, nơi bọn trẻ nhảy cỡn lên reo hò, và nhận ra thủ phạm. Nớ nhìn thẳng vào mắt tôi một tích tắc, rồi òa khóc và bỏ chạy. Cái nhìn ấy, làm bỏng mặt tôi đến bây giờ... Đã có một ngọn gió u hoài, thổi từ thời thơ ấu, từ kỷ niệm nhục nhã ấy đến hôm nay. Nhưng dẫu sao, chúng tôi cũng đã yêu nhau. Hoa nhút nhát. Tôi sợ hãi. Vả chăng, tôi lại là một thằng bé nghèo, mồ côi mẹ. Tôi luôn luôn sợ hãi... Tôi nhớ không nguôi cái đêm chúng tôi đi qua cánh đồng. Lúa sắp chín, uốn câu. Bờ cỏ lút giữa những mảnh ruộng thơm ngát. Hoa đi trước, tôi theo sau. Hoa nhủ:
- Anh viết thư luôn nhé.
- Anh sẽ viết thư luôn.
- Anh đi khắp nơi, thiếu gì người. Rồi anh sẽ quên em.
- Không, anh chỉ có em thôi.
Hoa ngoái dầu lại, cười. Vì thế vấp ngã. Đang đà bước, tôi ngã chồm lên cô. Trời tối, trăng hạ tuần chưa lên, sao khuất lấp trong mây. Nhưng tôi thấy rõ gương mặt Hoa kề dưới cổ tôi, khuôn ngực phập phồng lọt dưới vòng tay tôi... Tôi choáng váng, xây sẩm mặt mày, lần đầu tiên thân thể chúng tôi gần gụi đến thế. Lần đầu tiên tôi thèm muốn điên cuồng... Tôi đã là một thằng trai. Chuyện thầm kín giữa đàn ông và đàn bà như một trái cây chín đong đưa ngay trước miệng. Tôi là bạn thân của Biền, tôi biết cuộc tình của nó với cô Vinh chèo có cặp mắt lá dăm và bộ đít cong như đít bọ ngựa. Có lẽ đây là cơ hội đầu tiên tôi có thể trở thành đàn ông một cách toàn vẹn. Nhưng tôi nghe Hoa thì thào:
- Đừng anh...
Tay cô vẫn đặt trên ngực tôi, môi cô vẫn kề môi tôi trong nụ hôn mê man. Khi chúng tôi ngừng lại để thở, cô nói với tôi, lần này rành mạch hơn:
- Đừng anh... Chúng mình chưa cưới. Bố mẹ sẽ đánh đuổi em nếu mà...
Thân xác tôi cuồng lên như ngọn triều điên dại, nhưng trí não tôi thoáng qua hình ảnh một người đàn bà trẻ, bụng chửa vượt mặt, cắp nón lủi thủi trên đường... Tôi đi …và Hoa sẽ là người đàn bà bị xua đuổi!? Người con gái tôi yêu lơi lả!? Tim tôi đau nhói. Tôi ghì riết Hoa. Vừa thương vừa thèm muốn. Hoa nói:
- Bao giờ... bao giờ mình cưới?...
- Tiếng cô rời rạc, hổn hển.
Tôi xiết chặt hai vai cô:
- Phải, mình sẽ cưới...
Hoa nép vào ngực tôi. Cử chỉ đó khiến tình thương trong tôi trào lên. Tôi kéo cô ngồi dậy:
- Anh sẽ về phép... một ngày gần nhất. Chúng mình sẽ làm một lễ cưới, đời sống mới, đơn giản.
Hoa đáp:
- Vâng.
Tôi vuốt ve hai cánh tay cô:
- Em chờ anh chứ?
Hoa khẽ gật đầu:
- Em chờ anh...
Mười năm qua. Hồi âm "Em chờ anh" rung trong tôi những con sóng xa vời. Giờ, tôi trên đường ra ngọn đồi xóm trại. Cuối cùng, người con gái tôi yêu cũng vẫn bị xua đuổi, nhưng không phải vì lầm lỗi với tôi...
Mặt trời đã lặn từ lâu, không có trăng. Sao mờ. Tôi đã chọn thời khắc thuận tiện nhất, lẩn tránh mọi gặp gỡ, dò hỏi. Tôi lén lút đi. Đường ngoằn ngoèo qua đồng, dọc theo những bờ mương. Bốn xung quanh lúa ngan ngát mùi hương quá vãng. Tiếng côn trùng rỉ ran yếu ớt, khác hẳn ngày tôi ra đi. Thuốc trừ sâu đã diệt chúng, cũng như bom đạn làm tiêu tan những luồng sinh khí siêu nhiên. Không còn nghe thấy tiếng đập cánh của cào cào, cà cuống. Không còn bắt được những con muỗm muỗm nõn nường. Cả lũ chim đêm cũng lìa xa cánh đồng, tìm góc trời nào đó...
Tôi vén quần lội qua dòng mương, đề tới cánh đồng cỏ giáp xóm trại. Xóm này, hồi tôi còn ở nhà chỉ lơ thơ vài túp lều tranh. Giờ, cớ dễ tới hai chục nóc nhà. Chó sủa râm ran từ sau những bụi tre chưa kịp kết lũy, trông lụn vụn. Thoáng mùi hoa móng rồng đưa... Tôi ngại gặp người quen nên đi vòng quanh xóm. Phải nửa giờ nữa tôi mới đến giải đồi phía sau.
Đó là giải đồi trơ trụi, mọc toàn cỏ lau, cỏ cứng và cây hắc bà. Xưa, tôi chưa bước chân tới. Có một lối mòn lách qua những vườn ớt, vườn cà, những khu ruộng dứa. Mắt đã thuộc bóng đêm, tôi mò mẫm theo. Lối mòn vượt qua gò đất nhỏ, tới ngọn đồi hình bát úp. Dưới chân đồi, dòng sông lặng lờ chảy. Trong đêm, trông như mảnh gương màu thiếc, có vẻ cám dỗ kinh rợn như vẻ đẹp của một nữ ma đầu. Thoảng mới có tiếng cá quẫy. Tôi trèo lên đồi, tin chắc đó là nơi Hoa ở. Leo đến gần đỉnh mới thấy lều. Nó im lìm trên nền trời đêm. Không ánh lửa, không tiếng động. Tôi ném một hòn sỏi, hy vọng có tiếng chó sủa đáp lại.
Tiếng chó sủa cũng không! "Chẳng lẽ Hoa đã trốn đi đâu?" Tôi nghĩ nhưng tôi vẫn tin là cô ở trong gian lều tối tăm đó. Cô ấy không thể trốn đi đâu được. Bụng chửa vượt mặt. Không có giấy giới thiệu của chính quyền, không có hộ khẩu... chưa kể là không có tiền dắt lưng. Tất thảy những điều kiện buộc con người không thể tìm lối thoát.
Chân tôi vấp phải một cái cọc. Cây cọc tre đóng xuống đất đồi, có sợi dây thép buộc lên chóp lều. Người đàn bà chuẩn bị cho mùa mưa bão sắp tới. Tôi bước qua mấy luống sắn, cây mọc ngang bắp chân, qua mảnh sân lát lỏng chỏng vài viên gạch vỡ tới khuôn cửa. Liếp cửa chống một cây sào xiêu vẹo.
- Hoa ơi...
Tôi cất tiếng gọi. Dù rất khẽ, tiếng vọng vẫn âm vang trên khu đồi. Không có tiếng trả lời.
- Hoa ơi, Hoa...
Tôi gọi lần thứ hai, da diết. Rồi tôi lắng nghe những hồi âm tan vẳng trong không gian. Bóng đêm và hoang vắng bao phủ quanh tôi. Tiếng gọi của tôi cô đơn quá! Tôi bước thêm một bước:
- Hoa... trả lời anh đi i i...
- Hoa oa oa...
Tới đó, một giọng khẽ khàng, ráo hoảnh cất lên:
- Anh đến đây làm gì?
Tôi sững lại một giây. Rồi tôi hướng theo tiếng nói, bước vào lều:
- Hoa ơi...
Hai tay tôi quờ quạng dò đường hệt như thằng mù.
Chợt tiếng quát:
- Đừng vào!
Tiếng quát tuy khẽ nhưng gay gắt. Tôi dừng lại:
- Sao lại thế, Hoa...
Lặng yên.
Tôi nhào vào khoảng tối phía trước, nơi vừa phát ra giọng nói khô cằn, lỗ mãng, giọng nói vô cùng xa lạ với giọng nói cô gái tôi yêu. Giờ, tôi nhận thấy bóng người trải dài trên chiếc giường hoặc chõng đặt ở góc lều. Tôi bước thêm hai bước, xô tới. Tay tôi chạm vào cái bụng căng phồng, ấm nóng...
- Đừng!
Người đàn bà hét lên, đẩy tay tôi ra. Cùng lúc ấy, bật lên tiếng khóc. Tôi rờ rẫm ngồi xuống mép chõng, tay sờ thấy những nan tre nhẵn nhụi. Tôi quàng tay qua hông cô:
- Hoa... em bình tĩnh...
Người đàn bà nấc lên, rồi, như cơn lũ tràn, khóc nức nở dồn dập, hết cơn này tới cơn khác... không sao ngừng lại được. Tôi nằm xuống bên Hoa, ôm tấm thân nóng rực, run bần bật như đang sốt. Những sợi tóc cô vướng trên mặt tôi.
Chúng có mùi chua của mồ hôi. Trong đêm, tôi im lặng vuốt ve cô. Từ gương mặt ướt đẫm, xuống cần cổ gáy, bờ vai mảnh... Tôi tránh không chạm tới cái bụng kềnh càng của Hoa, đoán chắc nó sắp tới ngày sinh nở. Có như thế, tôi chờ Hoa khóc cho hết nước mắt, cho hết cơn oan khổ mười năm... Thời gian trôi qua một cách trì đọng trong tiếng rỉ ran thưa thớt của côn trùng, trong âm vang mơ hồ của dòng sông... Rồi tiếng gà canh một dừng dả. Tôi lau nước mắt cho người đàn bà:
- Nín đi em...
Hoa vẫn còn nức nớ, tuy nhiên, chừng như vơi bớt cơn đau, cô thở đều đặn hơn. Tôi dỗ:
- Nín đi em. Chúng mình đều lớn rồi... Ngày anh đi, anh mười tám. Giờ, anh sắp sang tuổi hai mươi chín. Tóc đã có sợi bạc.
Hoa úp mặt vào cổ tôi. Một tay cô lùa vào tóc lôi. Tôi cầm tay cô, vuốt nhẹ:
- Em cũng sang tuổi hai mươi bảy rồi. Các cụ bảo Tam thập nhi lập...
Không hiểu Hoa nghĩ gì, cô lắc đầu và tiếp tục vuốt tóc tôi. Tôi nói tiếp.
- Chúng mình không còn ở tuổi trẻ con...
Hoa lại lắc đầu. Và cô vẫn im lặng ve vuốt tóc tôi.
Tôi nói:
- Chúng mình không có lỗi... Em không có lỗi... Anh cũng không cớ lỗi... Điều quan trọng hơn cả là... anh yêu em...
Tôi nắm tay Hoa.
Cô lại khóc nức lên, rung chuyển toàn thân. Hai cánh tay nóng hổi quấn chặt lấy tôi.
- Em đừng khóc... Hãy nghe anh nói...
Tôi lắp bắp. Tôi không còn nói mạch lạc được. Tôi ôm người đàn bà trong vòng tay, xiết bao gần gũi và vô cùng xa lạ, vừa thương yêu, vừa nghe xa xót. Tôi kinh hoảng nhận thấy mỗi lúc, những cám giác trái ngược đó càng lớn hơn, căng rõ rệt hơn trong tâm hồn mình.
Tôi ghì chặt Hoa, vùi mặt tôi trong mặt cô, trộn tóc tôi vào tóc cô, áp ngực tôi vào ngực cô... Tôi muốn lấp đi khoảng trống ngăn cách của mười năm. Tôi muốn chôn vùi dĩ vãng.. Môi chúng tôi tìm nhau. Nụ hôn điên dại mặn vị nước mắt. Da thịt tôi tìm da thịt cô, trong ước muốn điên dại được hòa nhập. Trí tưởng tượng của tôi căng ra, để phục hồi những cảm giác đã phai mờ trong khoảng thời gian nhòa nhạt... cánh đồng... bờ cỏ đầm hương... cơn ngây ngất đầu tiên... ước muốn ngày hôn lễ...
Một tia chớp lóe lên niềm đam mê đau đớn. Tôi thấy đầu tôi như u mê đi, các giây thần kinh nhức nhối. Tôi nhắm thật chặt đôi mắt lại, để đêm đen dầy đặc hơn, thẳm sâu hơn, mịt mùng hơn, xóa nhòa các ý nghĩ, các cảm giác, các hồi ức và chỉ còn tràn lên duy nhất ngọn triều nhục cảm... Tôi nhắm thật chặt đôi mắt lại...
Gà gáy sang canh!
Tiếng gà gáy làm không gian rung rinh, rạn vỡ. Tôi đoán chừng Hoa đã ngủ say. Tôi ngồi dậy, ra khỏi lều. Vành trăng lạc loài như móng tay quỉ sứ cắm trên nền trời. May thay trong túi áo tôi còn vài điếu thuốc nhàu nát.
Tôi móc chúng ra, vuốt thẳng từng điếu một, châm lửa hút.
Mùi khói thuốc khiến tôi tự trấn tĩnh. Tôi nhìn làn khói trắng bay lơ lửng, tan hòa trong đêm. Đêm an bình. Nhưng nơi chân trời, những ngọn mây tím nứt nẻ gợi lại chân trời của những bãi chiến trường nồng nặc máu và khói súng.
Cảnh tượng quen thuộc tái sinh, cộng với tiếng ngáy của người đàn bà trong lều vẳng ra khiến óc não tôi lạnh giá. Tôi rít từng hơi thuốc dài, nhìn vào khoảng trời mông lung để tìm lại một cánh đồng thơm ngát, nơi chúng tôi mê man trong những nụ hôn đầu, tâm hồn sáng rực lên bởi hình ảnh của ngày hôn lễ với đôi gối trắng tinh, thêu những con bồ câu bạc...
Nhưng tôi đã đến với người đàn bà đầu tiên ở một ngọn đồi miền Trung, một người béo nần lên như khúc dồi, nhễ nhại mồ hôi, dâm đãng!
Còn Hoa... với ai đó, cái kẻ tôi không muốn hỏi tên, tác giả đứa bé nằm trong bụng...
Tất cả, không thể quên đi, không thể đánh mất, không thể đổi thay. Người ta không sửa chữa được quá khứ. Không có cách nào bắt dòng sông quay lại nguồn nước ban đầu, từ khe núi vọt ra, mát lạnh và trong suốt. Dòng sông đã qua các bờ bến, các thành phố, nó chở theo rác rến và bùn nhơ...
Tôi lắng nghe, thấy tiếng ngáy của Hoa đều đặn hơn, mạnh hơn... Ngày mai, tôi biết làm sao?... Tôi sẽ lại lén lút tới đây, trong bóng tối?... Có thể tránh được mọi người nhưng không thể tránh được chính tôi. Ngày mai, tôi biết chắc tôi không còn yêu thương dào dạt như hôm nay vì, trong lần ân ái thứ hai, cái bụng kềnh càng của Hoa sẽ nhắc nhở tôi cái ám bóng kẻ tình địch và tố cáo rằng giấc mộng đẹp nhất giữa chúng tôi không còn nữa.
Bác Hưởng tổ chức một bữa cỗ tiễn tôi, nhân thể thông báo tin anh Lương sắp sửa lên chức. Họ hàng, láng giềng, người nào người nấy tươi cười hê hả. Cỗ mặn bảy món, cỗ chay ba bốn bát lại thêm xôi gấc đỗ xanh như cỗ cưới hạng nhất ngoài phố.
- Nhà bác Hưởng phúc to bằng cái đình, chẳng mấy chốc cậu Lương lên cấp tướng!
- Tôi biết mà, dòng họ Lê đời nào cũng có người nên danh nên giá. Thời bình làm đến chức thượng thư, thời loạn ngồi đến ghế súy. Mỗi làng chỉ được một dòng họ cũng đủ vẻ vang rồi!
- Bao giờ anh Lương về làng, ông bà phải ngả bò khao.
- Tôi sẽ đút lót cánh trên huyện cho nó dòng điện về. Thắp được mươi cái bóng đèn trăm "oắt” thì cứ gọi là lóa mắt!
Ông Biên ngồi góc trong cùng, lặng lẽ nghe mọi người bàn tán. Vẻ mặt ông kín bưng.
Xung quanh, người ta rót rượu òng ọc. Cốc nâng lên rồi đặt xuống. Đũa gắp liên tục. Những gương mặt đỏ rực như say nắng. Nào tướng, nào tá, nào úy... những danh từ nở như pháo trong dòng miên man của giấc mơ chung, niềm khao khát chung. Ông Biên không ăn uống gì, nhâm nhi từng hột lạc. Mọi người quên ông. Có lẽ, ở một bữa tiệc khác ông sẽ là nhân vật chính...
Nếu đám đông cần tới một thủ lĩnh dạy họ trồng lúa, trồng mầu, nuôi gia súc. Nếu đám đông cần tới một bậc huynh trưởng dạy họ biết làm một người chồng biết thương yêu, một người cha khoan dung biết dẫn dắt. Nếu đám đông cần một người bạn lớn dạy họ biết thưởng thức mọi cung bậc của đời sống, biết chắt giọt rượu nồng ấm vào tiết xuân sang, biết ngắm nhìn ngọn lửa ngày đông giá, biết tận hưởng hương vị của sen hạ, cúc thu... Vâng, nếu vậy... Nhưng ngày đó chưa tới.
Giờ, ông thu mình trong một góc yên lặng, lắng nghe. Tôi nhớ tới cánh đồng bảng lảng sương bay, đêm chúng tôi trò chuyện cùng nhau. Nỗi buồn dâng trong tôi, tan hòa cùng men rượu.
Có ai đó huých rất mạnh vào vai tôi:
- Mai lên đường, phải vui lên cho có khí thế chứ anh Quân?
Tôi quay lại: Một cái miệng ngoạch ra cười, bóng lọng.
- Vâng, chào đông chí Lý.
Ông Lý ngồi ghé bên phản:
- Nào, dịch vào... Tôi thay mặt anh em địa phương cạn một cốc rượu với vị sĩ quan quân đội nhân dân. Mong rằng đồng chí sẽ làm cho làng Đông tiến vẻ vang.
- Thưa đồng chí, tôi không dám.
Ông Lý quay lại:
- Sao lại không?
Tôi cười:
- Báo cáo, tôi không được như anh Lương. Tôi kém...
Ông Lý bảo:
- Đồng chí phải có tinh thần quyết thắng. Ta đã có truyền thống anh hùng. Lại có duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác làm vũ khí. Cái gì mà ta không thắng?...
Tôi đáp:
- Vâng. Mời đồng chí lên đũa.
- Tôi ăn mâm ngoài kia rồi. Vào nói chuyện với đồng chí cho vui. Tiện thể cảm ơn cuộc gặp gỡ hôm trước.
- Có gì mà cảm ơn.
- Có chứ! Các đồng chí ở chiến trường về, người thực việc thực. Có các đồng chí, công tác tuyên truyền của Đảng thắng lợi rực rỡ hơn. Đợt này, hai mươi tám thanh niên tình nguyện làm nghĩa vụ quân sự. Bên thôn Hạ, dân số đông gấp rưỡi Đông tiến mà chỉ có bảy người ghi tên tình nguyện thôi!
Bác Hưởng vào mời mọi người uống chè. Chè Thái, bác Hưởng gái tự ướp sen, thơm đáo để. Các mâm khác tiếng đũa bát vân va nhau lách cách. Tôi cáo từ bác Hưởng ra về. Bác gái bảo đến tối sẽ sang nhà tôi chơi, để gửi thư và quà cho Lương.
Mãi gần nửa đêm, khách mới ra về. Tôi mò ra xóm trại thăm Hoa. Cô ngồi ở sân chờ tôi, tóc rũ xuống lưng đen như đêm tháng chạp. Tôi đưa cho Hoa ít tiền phòng ngày sinh nở. Cô khóc hoài, khóc mãi. Tôi bảo Hoa:
- Em nín đi. Anh đã khóc, cũng chứng kiến nhiều người khóc. Mà toán là lính, những người dày dạn với chuyện tử sinh. Anh muốn em đừng khóc nữa. ít nhất cũng để cho anh cảm thấy đôi phút yên vui...
Hoa không nín mà lại khóc òa lên, nức nở từng cơn như bi đòn oan. Tôi ngồi im, bực tức. Đàn bà là cái giống quái gì không biết. Chẳng hiểu họ ra sao... Một lát, tôi cố ôn tồn:
- Nghe anh này, khóc cũng không được ích gì đâu...
Hoa vùng đứng lên chạy vào trong lều. Cô vật mình xuống chõng.
- Hoa, anh bảo...
Tôi chạy theo Hoa.
Một cây cọc đập vào mặt tôi, giữa sống mũi! Khoảng tối phía trước bỗng nảy ra những vòng tròn ngũ sắc, đom đóm bay loạn xạ. Đứng giữa lều, tôi ôm mặt đau điếng, hai thái dương nhức buốt lên tận đỉnh đầu. Cùng với cảm giác đau đớn, một cơn hung dữ chồm lên.
Tôi kinh hãi vì nhận thấy mình đang ở trong trạng thái say máu chiến: Thù hận, thèm chém giết, khao khát hủy diệt... Luồng khí nóng bốc bừng bừng trong tim, thiêu đất óc não. Tôi nắm cây cột, định giật xuống. Chợt tôi hình dung thấy cả mái lều sẽ sập theo. Ngày mai, khi tôi lên đường người đàn bà bụng mang dạ chửa kia sẽ làm gì với đống tre pheo tranh nứa ngổn ngang?...
Tôi dừng tay lại, và càng kinh hoảng vì nỗi khát thèm hủy diệt cứ cháy bừng bừng trong tôi như ngọn lửa tưới dầu, không thể dập tắt. Hai bàn tay tôi co quắp lại vì chúng thèm muốn bóp chặt một cần cổ nào đó, thèm xóc lưỡi lê vào một tấm thân nào đó, thèm khạc lửa liên thanh vào một tiêu điểm nào đó... bất cứ vật gì liên quan tới cõi đời khốn khổ này, liên quan tới những mất mát của tôi, liên quan tới những sức mạnh vô hình dày vò, đày đọa tấm thân và tâm hồn rách nát của tôi...
- Trời ơi, trời ơi là trời i i...
Hoa rên rỉ. Cô vẫn không ngừng khóc. Mắt tôi mở trừng trừng hướng về phía người đàn bà. Toàn thân tôi căng như sợi dây dàn lên hết cỡ. Chỉ một tích tắc, chỉ nửa tích tắc nữa thôi nó sẽ đứt. "Thế là hết... Không còn gì tồn tại". Một ý tưởng rạch ròi, buồn thảm tới. Nó tới chậm chạp, uể oải tựa hồ một con trăn no bụng trườn trên đám lá khô, tìm chỗ ngủ. Và bỗng nhiên, ý tưởng đó khiến cơn hung hãn trong tôi tắt ngấm. Cả những cảm xúc, cả những dự tưởng cũng tắt theo. Tôi biết tôi không thể nói một lời an ủi, hay có một cử chỉ khích lệ người đàn bà. Thậm chí, tôi chẳng thể tới ngồi bên cô. Tôi không thể làm gì hết... Tôi bỗng hoang vắng như một nhà ga bị loại bỏ. Tôi bỗng trơ trọi như mỏm đá nhô giữa làn nước biển. Tôi bỗng chán nản và cạn kiệt sinh khí như một lão già trụy lạc đã quá tuổi tám mươi ngồi nhìn những mảnh vỡ sau bữa tiệc túy lúy của cõi đời... Tôi quay lưng bước khỏi lều.
Cuộc chia tay không lời chào, không lời hẹn.
Đêm tối thui. Lũ chó xóm Trại sủa ầm ĩ.
Hà Nội, 11/12/1990
Dương Thu Hương
Theo http://vietnamthuquan.eu/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Bùi Phan Thảo với khúc ca bi tráng

Bùi Phan Thảo với khúc ca bi tráng Trường ca “Những ngọn khói về trời” của Bùi Phan Thảo là cuốn truyện bằng thơ, kể lại một thảm họa lịch...