Chủ Nhật, 26 tháng 1, 2025

Chốn vắng 4 00000

Chốn vắng 4

Chương 22
Sau ba tháng hai tuần nằm bệt trên giường, một sớm ấm trời Bôn mò tới nhà Xá chột. Anh chàng đang chổng tỉ trên chậu bột nếp. Cô vợ ngồi trong bếp đảo thịt nhân. Mùi hành băm lẫn thịt cùng mộc nhĩ nấm hương thơm ngào ngạt:
- Xong chưa hả, bột quánh lắm rồi?
- Sắp xong, sắp xong... Anh cứ nhấn thêm vài nhát cho dẻo.
- Cô này tham thật đấy, đêm cũng đòi nhấn thêm vài nhát, ngày cũng lại đòi nhấn thêm vài nhát...
- Này ông mãnh, có im mồm đi không? Ai đi qua nghe thấy thì đẹp mặt.
- Rõ rồi... Tôi chẳng đẹp trai bằng thiên hạ nhưng vai trò làm chồng tôi sắm rõ cừ. Không tin đêm nào chúng ta cùng tới rình những cặp vợ chồng trong xã xem được bao nhiêu gã nhấn giỏi như tôi?
- Ðồ quỷ, mồm miệng cứ oang oang như lệnh vỡ. Xóm giềng chưa kịp cười nhưng vợ chồng Xá đã rũ ra cười trước. Bôn phải đứng nép vào rặng rào dâm bụt hồi lâu cho câu chuyện của họ lắng đi:
Cặp này đến lạ, chuyện làm cho đến chuyện ăn ở nhà họ ồn ào như việc hàng tổng, chẳng biết lúc ngủ với nhau họ có hét toáng lên như lúc này hay không?
- Này, bột dẻo quánh ra rồi, quậy nặng trĩu cả tay.
- Nhân bánh của em cũng được rồi.
Xá bưng chậu bột vào bếp và từ trong đó, cuộc đối thoại của họ tiếp tục vọng ra:
- Ứm ừm ừm... Ðợt nấm hương mình kiếm lần này thơm thật. Ðiếc cả mũi.
- Phải, dễ chỉ nấm anh kiếm được là thơm, còn nấm của làng xóm thì thối. Ðúng là đồ mèo tự khen mèo dài đuôi.
- Ờ, nấm hương thiên hạ có thể thơm bằng nấm hương nhà tớ nhưng phục vụ vợ trên giường thì đố thằng nào dai sức hơn tớ? Về khoản này cả tiểu đội dũng sĩ diệt Mỹ tớ cũng chấp hai lần.
- Trông mặt cái đồ khoác lác kìa..
- Thật đấy, không tin cậu cứ thử cho mấy con đàn bà hàng xứ mượn tớ mấy đêm rồi nghe chúng nó phát biểu cảm tưởng...
Tới đó, Xá chột kêu thét lên rồi xuýt xoa:
- Ối giời ơi là giời... Ðúng là đồ chó dữ, cắn người ta sắp đứt thịt rồi... Này, nhìn vết răng xem. Con sư tử cái này quá quắt thật, người ta mới thử nói chứ đã làm đâu mà ghen tàn ghen bạo?
Và giọng Soan cao vói lên:
- A A A... Nói thử thì tôi cắn vào vai. Nếu giỏi có gan làm tôi cắn cụt con giống...
Bôn hắng giọng thật to, gọi vóng vào sân:
- Có nhà không anh Xá?
Xá từ trong bếp lao ra, một tay vẫn ôm bên vai bị cắn xoa lấy xoa để:
- A cậu... Lâu lắm mới thấy. Vào đây. Hôm nay vợ chồng tôi nghỉ việc làm bánh trứng ngỗng. Cậu thật tốt duyên ăn...
Soan hai má đỏ tưng bừng chạy ra lườm chồng:
- Rõ cái nhà anh này, ăn nói thô bỉ... May là anh Bôn chứ người khác mời kiểu ấy họ đổ muối vào ngõ.
Xá cười hì hì:
- Chúng tôi dân lính tráng không ăn nói được mềm mỏng tao nhã như thiên hạ.
Vừa dứt câu anh ta đã quay sang vợ ra lệnh với cái giọng nửa chánh tổng nửa phường tuồng:
- Xuống lửa mau kẻo hỏng mẻ nhân bánh bây giờ, cái đồ đàn bà vụng thối vụng nát này...
Soan chạy vào bếp, nhưng trước khi đi còn với tay phét lên đít chồng hai cái rõ mạnh. Xá lắc đầu:
- Ðấy, vợ con thế đấy? Cái thời dân chủ nhố nhăng này... Cậu xem, các cụ ngày trước oai phong lẫm liệt nên mới xếp vợ ngang hàng với con. Người đàn bà chỉ được bình quyền bình đẳng với chồng từ lúc lặn mặt trời. Chả là vì trong đêm tối từ quan cho đến thứ dân đều tự lột áo lột quần như lũ nhộng. Có câu vè
Ban ngày quan lớn như thần
Ban đêm quan lớn lần mần như ma...
Ðã lúc tối tăm, nhà ngói như nhà tranh, ai cũng lần mần cả. Nhưng khi mặt trời mọc thì người nào lại trở về vị trí của người nấy, vợ lại phải đứng vào thứ bậc của kẻ phục tòng:
Nàng rằng anh gọi em vâng
Tay nâng chén thuốc, tay cầm chiếc khăn...
Ðàn bà thời nay quên hết tôn ti trật tự. Có lẽ vì ông trời điên đảo, đêm kéo dài qua ngọ nên con vợ nào cũng nhung nhăng với chồng tuồng như họ tưởng rằng lúc nào đàn ông cũng lần mần trên bụng họ...
Dứt lời Xá cất tiếng cười sằng sặc, còn Soan kêu ré lên trong bếp:
- Ðồ quỷ...
Nhưng sau tiếng hét, người đàn bà cũng lăn ra cười, đầu cúi gục xuống gối. Xá bảo Bôn:
- Lên nhà đi cậu.
Tới bậc tam cấp, anh chàng quay xuống bếp bảo vợ:
- Này cô nàng, cười thế đủ rồi. Ðun cấp tốc cho tôi ấm nước pha trà rồi hãy nặn bánh.
Hai người ngồi xuống ghế, lúc ấy Xá mới nhìn vào mặt Bôn:
- Cậu đã thấy khá hơn chưa? Mỗi bữa ăn được mấy bát cơm?
- Hơn một bát.
- Chưa được. Làm thằng đàn ông mỗi bữa ít nhất cũng phải ba bát cơm vật mới đủ sức sống.
- Tôi còn nhạt miệng chưa thấy thèm ăn.
- Cô Miên khỏe chứ?
- Khỏe.
- Cô ấy ốm nghén lâu không?
- Tôi chẳng rõ.
- Phải, vì cậu cũng ốm lệt bệt, suốt ngày chỉ lo phục vụ thân mình, làm sao biết được nỗi khổ của người đàn bà.
- Miên đã từng có con, cô ấy biết cách tự bảo dưỡng. Còn tôi, đây mới là lần đầu...
Xá đưa mắt nhìn Bôn trừng trừng, dường như câu trả lời của anh khiến anh ta nổi dóa. Nhưng sau một khoảnh khắc, anh ta buông tiếng thở dài rồi đứng lên đi tới cuốn lịch treo tường bóc một tờ. Vo viên tờ giấy lại, Xá ném vào cái âu sành đựng chè và loanh quanh trong phòng tìm kiếm vật gì đó. Lát sau, vớ được một bao thuốc Ðiện Biên mới trong ngăn tủ và bao Lệ Nhật hút dở trong túi áo, anh ta đem cả hai quăng xuống mặt bàn:
- Cậu hút thuốc không?
- Không.
- Sáng ăn gì chưa?
- Sáng nay Miên nấu cháo cá.
- Cá biển hay cá sông?
- Cá chép. Hôm qua cô ấy đi chợ huyện mua con chép hơn hai cân.
Xá cúi xuống bập mấy hơi thuốc liền, thả khói um nhà. Khói thuốc lá nặng đục màu, cuộn như khói nùn rơm phủ kín gương mặt gân guốc của Xá. Bôn nhìn gương mặt đắm trong lớp khói, hơi ngả về phía sau, cặp mắt lim dim, gương mặt một người đàn ông đích thực kẻ biết mình có gì, muốn gì và phải làm gì...
Xá hoàn toàn hài lòng với những gì anh ta có và biết cách giữ gìn chúng... Ta thì không... Ta chẳng có gì và cũng không biết cách tìm những gì ta muốn. Trời bất công làm vậy. Ở điểm xuất phát, Xá còn thua kém ta. Gia đình Xá chẳng giàu sang và anh ta học hành không xuất sắc. Xá cũng chẳng bảnh trai... Vậy mà giờ đây anh ta có tất cả những gì người đàn ông thèm muốn. Trong lúc ta là kẻ trắng tay, ngoài cái mầm sống trong bụng Miên, cái canh bạc ta đã cược cả phần đời còn lại...
Anh nghĩ và bất chợt anh buông tiếng thở dài, nhớ lại cuộc xô xát vừa xảy ra giữa anh với Miên, vào chính khoảnh khắc ấy anh mới hiểu rằng cái mầm sống anh gieo trong cơ thể chị chẳng phải là một tài sản đáng tin cậy, nó có thể bị hủy diệt bất cứ lúc nào và kẻ hủy diệt có thể là chính người đàn bà đang dung dưỡng nó...
- Làm sao thở dài?
Xá chợt lên tiếng hỏi, gương mặt vẫn đắm trong màn khói thuốc. Bôn im lặng. Nghe giọng nói của Xá, anh biết Xá đã rõ mọi chuyện:
Ai có thể nói cho Xá biết việc này? Miên chăng? Không, Miên chưa từng đặt chân đến nhà Xá, thường gặp Xá ngoài đường cũng chỉ cúi đầu chào và nói vài lời xã giao... Hay vợ chồng Bình kều? Không. Từ ngày đưa vợ về, Bình lo làm ăn trả nợ. Nghe nói bà chị ruột Bình gửi cho cậu ta một số vốn đủ mua đàn dê giống, giờ đây suốt ngày cậu ta lang thang cùng bầy dê, bụng dạ nào để ý tới chuyện khác. Hay vợ Xá, cái cô Soan mau mồm mau miệng đó đã nghe được từ đám người chạy chợ, đám người lân la từ nhà nọ sang nhà kia lục mua trái cây, trứng gà đem xuống chợ huyện bán kiếm vài đồng bạc lãi? Có thể, chính lũ đàn bà tọc mạch này... Và cũng có thể chính Tá kể ra...
Vừa lúc, Soan tong tả chạy từ bếp lên tay xách ấm nước sôi. Xá dập điếu thuốc, đỡ ấm nước trên tay vợ rót vào phích. Rồi, đặt phích nước, anh ta thủng thẳng ra vườn lát sau mang vào một nắm hoa nhài:
- Ðây là kiểu ướp trà đốt cháy thời gian, chẳng được đượm như kiểu ướp trà chính thống nhưng thuận tiện, và mùi hoa tươi cũng có vị riêng...
Anh xúc ấm, bỏ trà, đổ nước sôi tráng trà rồi mới chế nước sôi pha thật. Vài phút, mùi trà thơm, Xá ném mắm hoa nhài vào rồi anh ta bước ra đầu hè, ra một cái lệnh:
- Nặn bánh đi nhé... Kiến bắt đầu bò bụng rồi đây...
Từ dưới bếp, tiếng Soan vọng lên:
- Em vắt bột rồi, chẳng cần phải nhắc. Người đâu như ma đói hiện hình ăn bữa trước chưa kịp xuôi đã giục bắc nồi bữa sau...
Những lời cuối Soan hạ giọng chắc để nói riêng với mình nhưng gian bếp lẫn mảnh sân đều vắng ngắt nên trong không gian yên ả những tiếng làu nhàu của người đàn bà trẻ vang rõ mồn một. Xá chột giỏng tai nghe, đoạn gân cổ lên hỏi:
- Tiếc cơm tiếc gạo hả? Nào, phát biểu đi, cô muốn tôi ăn được làm được hay thích tôi lử khử như thằng nghiện, mỗi bữa chỉ húp hết nửa bát cháo?
Soan im thin thít.
Xá đắc ý quay lại bảo Bôn:
- Thấy chưa? Cái giống đàn bà càng lắm lời càng nhát như cáy mới dọa cho một câu đã im như thóc...
Vừa nói anh ta vừa nở nụ cười tinh quái. Bôn nhìn Xá không rời mắt và lần nữa, cơn thèm muốn dâng lên:
Ta chẳng bao giờ có được quyền uy mà Xá chột đã có. Anh ta là ông vua trong triều đình của mình. Ta không phải là vua, cũng chẳng được là một gia chủ bình thường, ta là kẻ ăn nhờ ở đậu trong chính mái nhà tổ tiên để lại...
Anh biết chắc chỉ có Tá sung sướng dưới mái tranh ấy. Chị ta chẳng thể tìm được nơi trú thân nào khác, và nếu không có hai gian nhà tranh cha mẹ để lại ắt hẳn mẹ con Tá sẽ hoàn toàn trở thành đám hành khất ngày ăn xin hoặc làm thuê độ nhật, tối ngủ dưới mái hiên trụ sở ủy ban xã. Còn anh, anh không đến nỗi ngu xuẩn như thể có được niềm thỏa mãn của đám người hoang dã. Anh biết anh là kẻ sống bám vào gian buồng bé nhỏ đó mảnh ván cuối cùng trên biển lũ để anh bám víu, để anh có cảm giác mình cũng có được chút chủ quyền. Nhưng cảm giác ấy cũng giả dối như món nộm dân thành phố chỉ vài sợi thịt rắc trên đĩa rau chuối hay đu đủ, nó cũng bập bềnh như mảnh ván nát, có thể tuột khỏi tay anh bất cứ lúc nào. Anh hình dung một buổi sáng bất kì, Miên xách chiếc hòm gỗ lặng lẽ rời khỏi căn buồng không giải thích cũng chẳng lời từ biệt để trở về nơi chốn của chị. Vào lúc đó, chái nhà lá của anh sẽ trở lại thân phận cũ: một xó tối không sinh khí, một nấm mồ có mái che, có cửa ra vào...
- Uống nước đã cậu... Nước mới đun, trà ngấm mau...
Xá bảo. Anh ta bưng chén trà nóng, húp từng ngụm xuýt xoa:
- Ngon... Uống trà nóng vẫn khoái hơn mọi thứ khác. Tuy ở đất trồng cà-phê nhưng tôi chả thú vị cái thứ nước đen sì, pha chế lách cách ấy... Cậu thấy trà ngon không?
Bôn nhấp một ngụm nóng bỏng:
- Ngon.
Xá uống cạn chén rồi đặt xuống bàn:
- Nào, bây giờ hãy kể đầu đuôi câu chuyện... Tôi biết tỏng ra rằng nếu không rối ruột cậu không mò tới nhà tôi. Bôn hỏi:
- Sao anh biết?
Xá giương con mắt lành nhìn chòng chọc vào mặt anh kiểu như nhìn quái vật hoặc người từ sao Hỏa rơi xuống:
- Cậu tưởng làng xóm không để ý tới chuyện nhà cậu hay sao?
Bôn lặng im và Xá tiếp:
- Ở chốn sơn dã này, chẳng điều gì giấu nổi... Như lính cùng tiểu đội ngày xưa, thằng nào ưa tán gái, thằng nào hay mò xuống bếp ăn vụng, thằng nào bị bệnh đái dây ỉa dính, ghẻ lở, hắc lào, thằng nào tham ăn thằng nào thảo dạ... tất tật mọi thứ đều biết cả... Chỉ có điều hoặc người ta nói sỗ vào mặt hoặc thương tình ngoảng đi giả bộ làm ngơ.
Anh ta thẳng như một cây gậy tre, thứ tre đực già cứng như loài tứ thiết...
Mặt Bôn nóng lên, hai hai nóng lên, gáy nóng lên theo. Phản ứng cơ thể nhanh nhậy ngoài ý thức của anh. Những lời Xá nói như cơn gió dữ lôi tuột tấm màn che cửa để bao nhiêu giông bão ngoài trời ùa thẳng vào phòng, quăng ném đồ vật, quất vào mặt anh tối tăm xây xẩm...
Xá ơi, anh ác quá. Dẫu anh thương tôi, tốt với tôi hơn hết thảy mọi người. Nhưng anh sỗ sàng tàn nhẫn, mỗi lời anh nói như dao chém vào ruột, làm sao tôi chịu nổi?
Không hề biết đến những ý nghĩ thầm kín của Bôn, Xá tiếp tục nhìn xói vào mặt bạn mà nói tiếp:
- Vấn đề là phải chấp nhận thực tiễn, và phải nhìn thực tiễn với lòng can đảm... Cậu tưởng chỉ có một thứ can đảm khi đứng trước luồng đạn địch thôi ư? Lòng can đảm của thằng lính dễ thấy, dễ tuyên dương nhưng nó thua kém lòng can đảm của một người không có kẻ thù, không tiêu điểm trút đạn, không mục tiêu hành quân, không chiến dịch để chiến đấu dành thắng lợi... Không có gì hết....
Bôn lờ mờ đoán điều Xá muốn nói nhưng chính ý tưởng lờ mờ đó khiến anh cảm thấy nhục. Anh ngẩng lên cười nhạt:
- Anh nói gì văn chương chữ nghĩa quá, tôi không hiểu.
Xá nhìn xoáy vào mắt Bôn:
- Tôi chả văn chương con chó gì... Tôi chỉ nói sự thật. Và sự thật là...
Anh ta gõ gõ những ngón tay xuống bàn, con mắt độc nhất long lanh và hai gò má bắt đầu ửng đỏ:
- Sự thật là cậu hiểu hết, biết hết nhưng cậu cố tình giả đò không hiểu... Ðừng bịp tôi...
Lại rót chén nước uống một hơi cạn, Xá tiếp:
- Mà bịp tôi, cậu được cái gì? Tôi chỉ muốn giúp cậu thôi. Ngoài ra, chẳng mưu cầu gì hết. Lúc này, cậu chỉ có mỗi một quyền lực, ấy là quyền bỏ phiếu bầu đại biểu Quốc Hội năm năm một lần. Nhưng với tôi, cái thứ quyền của cậu chẳng đáng một gánh phân chuồng. Tôi không mơ làm ông nghị nên chẳng cần nịnh nọt cậu để kiếm thêm lá phiếu.
Xá dừng lời. Lần này, anh ta không uống nước mà vớ bao Ðiện Biên xé vỏ đánh roạt, móc điếu thuốc mới dù bao thuốc hút dở vẫn nằm trên mặt bàn.
Bỗng nhiên, gió thổi lồng đầy ắp ba gian nhà. Một hơi gió muộn xuân chớm hè như điệp khúc cuối cùng nhắc lại khúc ca của mùa săn xanh ngắt núi và là dấu hiệu mơ ảo đầu tiên đánh thức nỗi lo âu mùa khô cạn mới khi nắng dữ cùng gió Lào đốt cháy các sườn non, các dải đồi, các thung lũng và những bầy dê há mồm thở hồng hộc trên các sườn dốc, móng sượt qua những đám dương xỉ khô lụi, ròn như rơm phơi. Dường như hơi gió làm Xá nóng nực. Anh ta cởi mấy chiếc khuy áo ngực và lại tiếp tục rót trà, vừa hút thuốc vừa uống nước không ngừng tay.
Bôn đưa mắt nhìn qua những bụi cây ngoài vườn, lắng nghe những tiếng động thưa thớt từ đường thôn vọng vào, cảm thấy những bắp thịt nhức mỏi hơn, những đốt xương cổ xương sống như muốn rời ra, sụn thành một đống.
Tại sao ta vác xác đến đây nhỉ? Xá chột liệu giúp được gì ngoài những lời đay nghiến của một mụ già cay nghiệt? Hoặc giả anh ta sẽ lại khuyên ta đến nông trường có hơn hai trăm cô thanh niên xung phong quá lứa... Thật ngu dại. Lẽ ra ta nên ở nhà ngủ nướng cho giãn xương lưng hoặc ra thung lũng chơi cho thanh thản...
Bôn nghĩ. Nhưng anh biết ý nghĩ ấy cũng giả dối. Anh không thể ở nhà. Trong cái không gian ấy, anh bị ám ảnh bởi ánh mắt của Miên bị ám ảnh bởi mọi tình tiết trong cuộc xô xát và tất thảy tấn thảm kịch xảy ra giữa họ. Tấn thảm kịch xảy ra chính vào một buổi sáng vui vẻ, khi anh cảm thấy bớt cơn đau lưng, tự yên tâm với chính mình vì bất cứ tình thế nào anh cũng vẫn là cha thai nhi trong bụng người đàn bà anh yêu và khi nó xuất hiện trên cõi đời sợi xích vàng đó sẽ cột trói chị với anh mãn kiếp. Sáng đó Miên khó ở nên chị nằm nhà, ngủ muộn. Bôn dạy trước nấu cơm nếp đậu đen, món ăn ưa thích của Miên. Anh dọn mâm, lấy muối vừng ra một đĩa, đường cát ra đĩa khác bưng tới trước mặt vợ. Có lẽ cử chỉ ấy khiến Miên cảm động nên chị nhìn anh với cái nhìn thân thiện hơn thường lệ:
- Anh để lên bàn cho em xin. Lát nữa đánh răng xong em sẽ ăn. Chị nói, rồi lại ngả lưng nằm. Anh đoán rằng những người đàn bà mang thai cũng đau lưng như những gã đàn ông yếu thận, cạn kiệt sinh khí và họ cần bám lấy cái giường trong một khoảng thời gian cần thiết để hồi sức. Anh có phần vui thú khi nhìn vợ nằm dài, như thế chị không thể đón đứa con trai trở về ngôi nhà cũ, hòa nhập vào các thế giới không có anh và anh không thể kiểm soát, hơn nữa trong trạng thái ốm yếu dường như chị gần gũi anh, thuộc về anh nhiều hơn:
Ta thật tồi tệ, mọi người đàn ông đều mong cho vợ khỏe mạnh lúc mang thai, riêng ta có thú vui đốn mạt...
Anh tự xỉ vả. Nhưng rồi anh đuổi lòng ăn năn đi ngay mỗi khi nó định bén mảng tới và anh nhấm nháp cái niềm vui có vẻ bất lương của chính mình. Ðặt mâm xôi lên bàn, anh bước tới giường úp mặt lên bụng vợ như để ngửi hít mùi vị tương lai, giao hòa với đứa con, kẻ nối dõi tông đường và vị thần cứu mạng của anh. Miên nằm im như tượng. Những lần trước, mỗi bận anh có định ve vuốt chị, hoặc đặt tay lên bụng chị xem thai động cựa ra sao Miên đều quay phắt đi từ chối. Ấy là lần thứ nhất chị cho phép anh làm điều anh muốn.
Các cụ nói rồi: lửa gần rơm lâu ngày cũng bén... Dần dà, tình yêu sẽ quay lại với ta...
Cúi mặt trên bụng vợ, anh ngây ngất với ý nghĩ đó. Và anh mường tượng lại con đường đầy phượng vĩ thuở xưa, những chìm hoa đỏ tưng bừng điên đảo bầu trời... Ðúng lúc ấy bà dì Miên dẫn cu Hạnh bước vào:
- Miên đâu, thằng bé đòi đến thăm mẹ. Nó không chịu ăn sáng.
Miên đẩy phắt anh ra, ngồi dậy:
- Chết thật, dì đưa cháu tới đây làm gì?
Chị nói, nhưng mắt chị long lanh sáng rực và chị dang hai cánh tay ghì xiết đứa con trai vào lòng. Bôn đứng sững trong góc gian buồng, nhìn cảnh tượng đó. Gương mặt đứa con trai và gương mặt người mẹ vùi trong nhau, ngời ngời hạnh phúc:
Không bao giờ cô ấy sung sướng khi nhìn vào mặt ta... Dù chỉ một phần trăm cũng không có được. Một phần trăm tình yêu, Miên cũng không chia sớt. Cô ấy dành tất cả cho đứa bé kia...
Nỗi vui sướng trong anh tắt lịm. Tức khắc, anh nghĩ tới đứa con sắp ra đời. Có lẽ nó cũng chịu chung số phận với anh, chẳng bao giờ được hưởng một tình yêu như thế. Anh ghen tức và xa xót cho đứa con mình, hiểu rằng thằng bé khôi ngô đĩnh đạc trắng như hòn bột ăn mặc bảnh bao hơn cả đám trẻ thành phố kia thuộc về một kẻ khác, người đàn ông mặc quần thun xám giàu sang mạnh mẽ và độc chiếm trái tim Miên. Lòng ghen khiến mắt Bôn tối sầm. Khi cu Hạnh vòng tay chào:
- Chào ông ạ...
Anh không trả lời mà đi tuột ra ngõ. Ở đó anh hướng gương mặt bỏng rát về phía núi, chờ đón những cơn gió để nó thổi nguội cơn ghen buốt rát của anh, xoa vuốt tâm hồn quằn quại của anh. Anh đứng ở đó rất lâu, rất lâu, vừa muốn giỏng tai nghe đón câu chuyện của dì cháu Miên, vừa mường tượng ra cảnh âu yếm ve vuốt giữa người đàn bà anh yêu với đứa con kẻ khác và không thể chịu nổi cảnh tượng ấy... Bôn đã đứng như chôn chân trước ngõ, thấy mình như giống chim tự moi ruột, tự chiêm nghiệm và thụ hưởng cái chết của chính mình. Chỉ có điều, giống chim tự moi ruột là loài hải âu cái, moi ruột để nuôi con, còn anh loài đực, tự moi ruột mình một cách vô ích để làm vật hiến tế cho một mối tơ duyên đã chết. Mùa hè đỏ phượng đã phai. Lửa đã tắt. Những cánh hoa rữa nát nhiều năm. Tình yêu của anh chỉ còn là cái xác thối mủn đến dòi bọ và các loài sâu ăn xác cũng không còn. Cái xác giờ chỉ còn lại những mẩu xương vụn nát, lẫn trong đất bùn, những mẩu xương chẳng ai nhìn thấy, chỉ riêng anh tìm kiếm bòn móc đám bùn thối để vớt chúng lên, sắp xếp lại trong trí tưởng và dựng dậy một hình hài hư ảo... Anh phải làm gì bây giờ? Ra đi ư, với tấm thân bệnh hoạn không đồng xu dính túi, bữa ăn thường nhật không lo nổi, kể chi xây đắp ngôi nhà cho tương lai? Lời mỹ miều của những bài hát thời chinh chiến còn gửi trong gió xưa trong những khoảnh khắc mộng mị chập chờn những khoảnh khắc đu đưa trên cánh võng hoặc ngồi phơi lưng ven bờ suối nắng, phơi tất lính thối hoăng thiếu xà-phòng lười giặt trên những hòn đá lớn, mắt lãng đãng nhìn mây trời bay giữa khoảng lơ xanh...
Giá như ta có được một số vốn để mở trại. Giá như cha mẹ ta còn sống và giàu có. Giá như những người bạn đồng ngũ của ta hùng mạnh về tài chính hơn gã đàn ông to lớn kia và họ có thể ấn vào tay ta từng xấp tiền dày cộm như các nhà tư sản lớn... Hoặc giá trời cho ta một sức khỏe vô biên như thần Núi thần Sông có thể gieo hạt sống một lần cho ngàn người đàn bà, cả nữ thần lẫn ma đầu, yêu nữ...
Anh chợt nhận ra những câu chuyện thần bí, những cuốn tiểu thuyết anh đọc thời học sinh đã quay lại ám nhập hồn anh... Vào chính lúc ấy anh nghe tiếng Miên thét lên trong nhà, tiếng thét dữ tợn anh chưa từng nghe thấy. Thoạt tiên, anh ngờ rằng đó là tiếng hét của bà dì, nhưng khi anh lắng tai chăm chú, tiếng thét của Miên lại cất lên, và lần này là đích thực:
- Hạnh, mẹ bảo con thế nào? Ai cho phép con dây dưa với lũ người đó?
Bôn chạy vào. Miên đang túm đứa con trai phát lia lịa vào mông nó, cặp mắt chị long lên sòng sọc:
- Mẹ đã bảo phải đứng trong buồng, không được ra sân... Con không nghe lời mẹ, con dây với đám dòi bọ ấy làm gì?
Dì Huyên mang tới bát nước giếng, hối hả té vào mặt đứa bé lúc đó đang nhắm cặp mắt sưng phồng và khóc thét lên đau đớn:
- Nào, mở mắt ra... Mở mắt ra bà mới rửa được... Cu Hạnh, nghe bà nói đây...
Thằng bé chẳng nghe gì hết, nó bưng mắt. Cả dì Huyên lẫn Miên phải giằng tay nó ra. Bà già giữ chặt hai cánh tay, còn mẹ nó vành cặp mắt đỏ mọng để té nước lã cho trôi hết những mảy ớt nhỏ li ti bám đầy tròng và các vành mi. Cách họ hơn một thước, ngay cửa buồng, lũ con Tá đang đứng nhìn cảnh tượng ấy với những cặp mắt tò mò nửa thích thú nửa sợ hãi, đứa đút tay vào mồm, đứa há miệng ra cười. Bôn biết ngay những đứa cháu anh vừa chơi trò chơi dã man của chúng: Ném ớt bột vào mắt vị khách mới đến nhà. Lúc ấy, Bôn không mảy may tức giận những đứa bé lem luốc kia, anh cũng không thấy điều đó độc ác. Anh dửng dưng và dường như một chút thỏa mãn thầm kín nào đó khiến anh mát dạ tuy anh hiểu điều ấy là thấp kém và hèn hạ nhưng anh vẫn không ngừng khoái chí. Anh giữ vẻ mặt thản nhiên bước vào. Vừa thấy anh, Miên ngẩng phắt lên:
- Anh vào coi những đứa cháu anh, lũ dòi bọ nhà anh làm gì con trai tôi...
Anh đáp:
- Bởi cô đã gọi chúng là dòi bọ chúng phải làm như dòi bọ. Cô còn kêu ca nỗi gì?
Miên hơi sững sờ một chút. Rồi như chị chợt hiểu ra vẻ thù hằn cay độc giấu sau những lời bình thản của anh. Chị phác một cữ chỉ như muốn cào vào mặt anh nhưng kịp dừng lại. Toàn thân chị run bần bật, hai tay nắm chặt như để ghìm lại ý muốn lao ra xé xác lũ con Tá. Chị đứng trong khoảnh khắc như thế, run rẩy, điên dại và mặt chị từ đỏ tía sang tái nhợt như mặt kẻ cắt cơn sốt rét. Và, chị mỉm cười. Nụ cười anh biết rõ dành cho riêng anh, căm hờn và khinh bỉ. Ðoạn, nhìn thẳng vào lũ con Tá chị nói rành rẽ từng lời, vừa nói vừa lắng nghe từng tiếng như kẻ ném đá xuống hồ vừa ném vừa đếm vừa nghe tiếng rơi tõm của chúng trong lòng nước:
- Lũ dòi bọ kia. Chúng mày độc ác như lang sói. Mẹ chúng mày đẻ con ra cũng giống như loài lợn, loài chó đẻ con, chỉ biết nuôi không biết dậy. Từ rày đừng vác rá sang xin gạo, đừng vác bát sang xin đồ ăn. Tao có thừa của cũng không bố thí cho lũ nửa ngợm nửa người...
Nói xong, chị quay lại nhìn vào mặt Bôn, lại lần nữa mỉm cười nụ cười như lưỡi dao lam cạo xát cổ anh:
- Anh tưởng tôi tha thiết lắm với cái dòng giống nhà anh hay sao? Tôi sẽ đập vọt nó ra để trả cho anh tức thì...
Bôn không hiểu Miên nói gì. Chỉ bà già Huyên đoán biết được sự tình. Bà vội vã đặt bát nước xuống bàn rồi quay lại với Miên. Nhưng chị đã lao về phía trước quăng tấm thân với cái bụng vượt mặt vào cánh cửa, cố tình ưỡn bụng ra để thai có thể vọt ra sau cú đập tàn bạo đó. Dì Huyên hét:
- Giữ lấy con Miên. Giữ nó lại...
Lúc ấy Bôn mới hiểu được sự việc. Anh lao tới giật vai người đàn bà về phía mình để chị ngã ngửa ra đằng sau. Nhưng Miên khỏe hơn anh, chị đẩy anh ngã và đâm bổ vào cánh cửa buồng lần nữa. Lúc ấy, cu Hạnh đã mở được mắt. Nó hoảng sợ khóc thét lên:
- Mẹ... Mẹ ơi... Mẹ ơiii...
Chính nó chứ không phải ai khác tới ôm chân Miên. Và cũng chính nó khiến cho người đàn bà dừng lại. Miên quỳ xuống, áp mặt chị vào mặt thằng bé, nước mắt chan hòa. Cu Hạnh cũng khóc, cặp mắt sưng phồng đỏ mọng vì vết bỏng. Vào khoảnh khắc hai gương mặt đó kề sát bên nhau, Bôn hiểu rằng không kẻ nào có thể chiếm nổi vị trí của đứa bé kia trong trái tim người đàn bà anh yêu. Anh cũng biết rằng chính vì nó mà Miên dừng lại, bởi chị nghĩ rằng cuộc sống của chị còn cần thiết cho nó, cho riêng nó. Vào lúc anh còn đang bị hành hạ bởi những ý nghĩ ấy bà già Huyên bước sấn tới:
- Anh cư xử thế mà coi được hả? Lẽ ra anh phải biết răn đe dạy bảo lũ cháu anh, anh phải biết thân phận anh chứ? Thử ngửa mặt nhìn thiên hạ, có thằng chồng nào chẳng giống bố già cũng không giống thằng ăn vạ như anh không? Con cháu tôi hiền thảo bao dong mới chịu cái cảnh không ra vợ cũng chẳng ra vú nuôi này... Nếu anh cậy có công với nước với dân hãy dẫn xác tới trại thương binh cho nhà nước phụng dưỡng...
Mắt bà già quắc lên, long sòng sọc. Và mỗi tiếng té tát vào mặt Bôn bà lại xỉa mấy ngón tay về phía trước, dường như những bực tức khinh bỉ dồn nén trong một quãng thời gian dài đã chọn đúng lúc bật ra. Bôn đứng lặng. Lần đầu anh hiểu rằng cuộc sống của anh lâu nay phơi trần trước mắt thiên hạ, chỉ có điều họ thương tình ngoảnh mặt làm ngơ... Lẽ ra, anh phải biết gìn giữ sao cho họ đừng bao giờ ném thẳng sự thật vào mặt mình. Giờ đây, nơi trú ẩn cuối cùng của anh đã bị cào đổ. Tấm áo cuối cùng che thân đã bị xé rách để anh trần trụi trước mắt thế gian:
Trời hỡi trời sao ta ngu dốt. Ta đã tự đẩy mình xuống vực. Sau chuyện này, cuộc sống của ta sẽ ra sao? Xét cho cùng chị ruột ta chỉ là con ăn mày tà dâm vô liêm sỉ và ở bên họ ta không có tư thế ngước mắt lên...
Anh thấy xương sống mình bị sụt. Chắc mẩm vào cái thai nơi bụng Miên, anh tưởng tương lai anh đã đặt vào một vị thế khác và anh, cục đất phơi ngoài hiên đã được tô son thếp vàng để đặt lên bệ thờ. Anh đã vui quá sớm với những điều anh tưởng tượng. Và bây giờ anh hiểu rằng tương lai anh vẫn chìm trong sương mù, anh sống cuộc sống chông chênh, như mớ dây leo bám vào người đàn bà anh yêu với một tình yêu đơn phương khốn khổ... Tối hôm ấy anh quỳ sụp trước mặt Miên lạy van chị, xin chị hủy bỏ ý định phá thai, anh khóc như một đứa trẻ phạm lỗi bị đánh đòn trước mặt mẹ và cũng sợ hãi Miên như sợ hãi một người mẹ. Anh đã khóc với bao nhiêu nước mắt tích tụ trong những năm tháng trưởng thành. Miên ngồi im nhìn ngọn đèn, không khóc, cũng không nói nửa lời, và anh tưởng như chị cũng không coi anh như một người chồng khốn khổ trong cơn tuyệt vọng mà chỉ như một thứ đồ vật vô tri giác, như ngọn đèn, như cái bàn cái ghế hoặc cái chum đựng gạo nằm thu lu ở góc buồng. Sau hồi lâu van vỉ, Bôn bỏ ra sân, hướng vào bầu trời đen kịt của đêm thâu, cầu khẩn một Ðức Tối Cao nào đó, kêu gọi những hồn ma thân thiết mà anh dư biết rằng họ chẳng có chút linh thiêng nào, những vong hồn hèn mọn của cha mẹ anh, những kẻ khi sống đã sống một cuộc sống đói nghèo nhợt nhạt, chẳng để cho anh chút gia tài nào ngoài gánh nặng tủi nhục và thói mơ mộng vẩn vơ...
Một tiếng cạch khô khan khiến Bôn giật nảy mình, giã từ cơn mộng thức. Xá chột vừa châm điếu thuốc nữa, ném chiếc bật lửa cà cộ xuống mặt bàn. Bôn sực nhớ rằng anh chưa trả lời câu hỏi của Xá và gã đàn ông lỗ mãng này vừa chửi anh một trận ra trò. Xá hỏi anh:
- Này, cậu có nghe tôi nói hay không?
- Vâng, tôi vẫn nghe anh.
- Cậu có nghĩ rằng lối quanh co như thế thật chẳng hay ho gì hay không? Chúng ta, những kẻ may mắn sống sót quay về, cuộc sống của chúng ta đổi bằng một giá đắt, tình bạn giữa chúng ta cũng vậy...
Bôn không nhìn vào mặt Xá mà nhìn vào khoảng da cổ đỏ ửng của anh ta:
Một cái cổ lực lưỡng. Cứ nhìn cổ là biết sức khỏe của con người. Có lần Xá nói với đám cựu chiến binh trong làng rằng anh ta có thể ngủ với vợ ba lần trong đêm, sáng hôm sau vẫn vác rìu vác cưa với cánh sơn tràng như thường lệ...
Màu đỏ hừng hực trên cổ Xá gợi anh nhớ tới màu đỏ rám trên hai cánh tay và cặp đùi anh thuở xưa. Dù chẳng cao to hơn ai anh cũng đã từng có những bắp thịt rắn như lõi lim mỗi ngày thừa sức gánh hai gánh củi đầy chạy thẳng từ trong rú về xóm. Anh nhớ ánh sáng hồng hồng của ngọn đèn tân hôn, ngọn đèn anh thắp cho vui lòng Miên mặc Tá càu nhàu ấm ức. Ðêm ấy, anh đã làm tình bao nhiêu lượt? Chẳng làm sao nhớ nổi? Ai mà đếm xuể những cơn làm tình háo hức thời trai tơ, thêm nữa lại biết mình ngày mai ra trận. Sáng hôm sau, cánh bướm đêm rải trắng như xác đám phù du ai vớt từ hồ nước đem về...
Thấy Bôn im lặng, Xá tiếp tục;
- Cậu biết rằng dân làng luôn luôn ủng hộ những người lính cũ. Chẳng nhà nào không góp nhân mạng cho chiến trường, và vì thế bất cứ ai từ chiến trường trở về cũng được coi như một phần thân nhân của họ...
Giọng Xá không chì chiết nhưng nghiêm trang. Nó kéo Bôn về với thực tại. Anh chợt như muốn xỉu đi. Ðưa tay sờ lên cổ, Bôn thấy các khớp xương như muốn rã rời, dường như sống lưng anh không còn nữa và anh sắp đổ sụm xuống nền nhà. Xả thành mớ hài cốt trộn lẫn các mảnh da thịt thâm tím hệt như da thịt tiểu đội trưởng bị lũ kên kên xé trong cánh rừng khộp năm xưa...
- Nhưng sự ưu đãi nào cũng có giới hạn... Cậu tưởng rằng thiên hạ mãi mãi đứng về phía cậu hay sao?
- Không, tôi không nghĩ vậy.
- Nhưng cậu đã làm đúng như vậy... Cậu đã tiêu cạn những đồng tiền trong túi người khác, không hiểu rằng ở đời ngoài những mối thương cảm còn luật lệ, sự thiên vị nào cũng có giới hạn và không thể tiêu diệt hoàn toàn được lẽ công bằng... Cậu hãy thử đặt cậu vào tình cảm của cô Miên xem sao?
- Nhưng tôi không phải Miên, tôi chẳng thể...
Xá cau mày và giọng anh ta bất chợt rít lên, nửa bực tức nửa ngao ngán:
- Chính vì thế mà cậu sẽ làm hỏng mọi chuyện... Rồi ra, cậu sẽ là kẻ trắng tay...
Da thịt Bôn bất chợt lạnh đi:
Kẻ trắng tay... Ta sẽ là kẻ trắng tay thật. Nếu Miên hủy thai. Canh bạc cháy túi. Và chính ta chọc cho cơn giận trong lòng cô ấy bốc lên. Ta biết làm sao bây giờ?
Anh tự rủa sả mình. Nhưng cùng lúc, anh nhớ lại những lời rủa sả cay độc của Miên, nhớ lại gương mặt nhem nhuốc đói khát của lũ cháu anh, những đứa bé sống lây lất hoang dã như loài cỏ dại những người ruột thịt bởi có chung máu huyết với anh và dẫu sao anh cũng không có quyền chối bỏ...
- Chúng nó là những đứa cháu tôi... Anh cũng có người ruột thịt.
Xá quát:
- Chẳng những họ hàng, ngay con tôi rứt ruột đẻ ra mà độc ác thế tôi cũng đánh cho tuốt xác ra.
Bôn không nói gì thêm, và Xá dằn tiếp:
- Cậu có hiểu rằng từ ngày mách cậu cái phương thuốc độc hại cà-phê muối ấy, mỗi bận gặp cô Miên tôi đều phải tránh mặt hay không?
- Vì sao? Tôi không hiểu?
- Cậu không hiểu thật hay vờ?
Bôn không trả lời.
Xá hừm một tiếng trong họng:
Cái thằng cha dớ dẩn này, ngu dại thật hay ngu dại ăn người. Chẳng lẽ cậu ta không biết rằng sau một cú huy động tổng lực như vậy cái thân xác rệu rã của cậu ta sẽ chỉ còn là mảnh vải mục. Ðể giúp Bôn đạt sở nguyện ta đã buộc trở thành kẻ hãm hại Miên, đẩy người đàn bà đang thì xuân sắc vào cảnh góa bụa...
Xá nghĩ, và anh giương mắt nhìn chòng chọc vào mặt bạn. Trên gương mặt u ám cặp mày chữ nhất vạch một nét đen như mực Tàu, cặp mắt như vừa nhìn vừa không nhìn gì cả.
- Này Bôn.
Xá gọi giật giọng:
- Tôi thấy lúc nào cậu cũng như nửa thức nửa ngủ, mắt cậu hệt như mắt kẻ mộng du, sống giữa đám dân cổ cày vai bừa mà cứ lãng đãng như học giả... Quả tình, tôi đếch hiểu cậu là loại người gì?
Bôn thở dài:
- Tôi cũng vậy...
Xá lắc đầu:
- Vậy là tôi đang phải hầu chuyện ông nội hay ông ngoại gã Chí Phèo đây? Nhưng dù cho cậu có là ông tằng tổ của Chí Phèo cậu cũng phải có trách nhiệm với những hành vi của mình. Cậu từ chối mọi đường đi nước bước, cự tuyệt mọi khả năng thay đổi, cố tình bám riết lấy một người đàn bà không còn yêu mình nữa, làm đủ cách để có được với cô ta một đứa con. Vậy mà khi sắp tới đích, chính cậu lại đang tay phá đổ.
Bôn không trả lời nhưng hai tay bắt đầu run, đến hai ống chân rồi tới các cơ dọc sống lưng và chạy lan lên các cơ mặt. Những cơn run rẩy dồn dập xô đến, lan truyền khắp thân thể anh khiến những mạch máu co thắt hai bên thái dương và tim đập thình thịch như gõ trống trong lồng ngực. Cái ý nghĩ Miên có thể phá thai khi chỉ là ý nghĩ của riêng anh nó giống như một hình ảnh, một giả thiết khiến anh lo âu, hoảng hốt. Nhưng khi nó thốt ra nơi cửa miệng Xá, gã đàn ông rắn như thép kia, bỗng hiển hiện thành sự thật, như món đồ có thể sờ nắn được, như hung thần bằng xương bằng thịt đang lừ lừ tiến vào cửa cây búa trên tay, cây búa sẽ đập nát thành trì anh xây đắp...
Bôn ngồi trân trân nhìn vào khoảng trống nơi cửa, chờ đợi vị hung thần của trí tưởng, bao nhiêu hồn phách dồn tụ vào đôi mắt. Anh không biết Xá đang ngắm gương mặt nhợt như sáp của anh với con mắt duy nhất, với dáng vẻ vị thành hoàng làng và một chút xót xa của người bảo trợ trung thành không mệt mỏi. Xá ngồi lặng lẽ hồi lâu. Trong khi Bôn đưa mắt đón nhìn vị hung thần của tương lai, Xá nhìn làn môi tím đen của Bôn đang run giật, các cơ hai bên gò má lẫn quai hàm, cả những mạch máu nơi cổ cũng giật theo khiến gương mặt Bôn như mặt một thây ma vừa sống lại đang phân vân giữa hai bờ thế gian và địa ngục:
Thằng cha khốn khổ này, mười phần hồn chỉ còn sót lại ba, bẩy phần kia đã bán cho đọa quỷ. Giờ đây mình đọc kinh Phật hay dâm thư nó cũng coi như nhau. Mình có giảng giải lẽ đời đến tắt hơi nó cũng chẳng nhớ nổi điều gì... Kiểu này không khéo tâm thần mất...
Xá bối rối. Anh chưa từng bối rối như thế bao giờ. Ðời anh, mọi sự rõ ràng phân minh, không chút dùng dằng, không chút mù mờ. Làm việc, đi học, đi lính, phục viên, lấy vợ, đẻ con, dựng gia sản, giúp người này tương trợ người kia với những gì có trong tay. Làng xóm, họ mạc hai bên đều nể trọng anh, xem như Trương Phi tái thế, nhân hậu và khôn ngoan hơn ông Trương Phi trong chuyện cổ tuy không giỏi võ và to con. Mọi việc trong đời, Xá giải quyết minh bạch, đơn giản, hệt như người ta dùng lạt sắt tấm bánh chưng ngày Tết... Vậy mà... giờ đây anh bối rối. Anh không biết mình phải làm gì với người bạn ngồi trước mặt, người bạn từ thuở cởi truồng, rồi là bạn đồng môn, rồi cùng đi qua cuộc chinh chiến gã đàn ông anh vẫn xem là yếu đuối và cần có sự giúp đỡ của mình... Giờ đây, lòng nhiệt thành lẫn sự khôn ngoan của anh xem ra đã hết đất dụng võ. Bôn không còn sống chung một cõi đất với anh. Dường như cậu ta đã thuộc về một cõi nào khác, ở đó cậu ta nhìn thấy những ảnh tượng anh không thể thấy, cậu ta nghĩ những điều anh không hiểu được, và cậu ta hành động theo những nguyên cớ mà anh chẳng thể cắt nghĩa... Và nếu đã như thế, mọi sự khuyên nhủ, mọi lý lẽ của anh cũng sẽ vô nghĩa, sẽ hư ảo không thể cảm nhận được với Bôn. Và như vậy, hai người đã ở hai bên bờ sông người này đưa tay người kia không nắm được... Xá đưa mắt nhìn sâu mắt bạn một lần nữa, thấy trong đó đan xen chập chờn hai luồng ánh sáng. Một luồng sáng ngắn ngủi, đứt đoạn, mong manh, chợt lóe chợt tắt đưa dẫn Bôn trong cõi thực. Và luồng sáng kia ngàn ngạt, đắm chìm, hun hút như con đường vô cực, con đường trong sương mù, trong ánh hồi quang của những ngôi sao những vầng trăng những bầy đom đóm đã chết hàng triệu năm, con đường của những loài hồ ly núi hay của những thứ ma rừng ma cỏ từ đại ngàn gặp cơn bão lớn dặt dẹo tràn xuống... Xá chỉ có thể tưởng tượng lại những câu chuyện Liêu Trai thời học sinh đã đọc, và cộng thêm những huyền sử về các loại thần và quỷ mà dân vùng sơn dã nào cũng nhớ để giải thích cho chính anh tình trạng tinh thần của Bôn. Khi đã nghĩ đến cõi yêu ly đó, anh lại càng bối rối hơn. Anh đành uống thêm chén nước nữa và đứng dậy đi loanh quanh vài vòng trong nhà. Rồi, chợt ngửi mùi bánh chín từ dưới bếp bay lên, Xá mừng như vớ được thuyền ngày mưa lũ. Anh ra đầu hè, gọi:
- Bánh chín rồi hả? Cho lên ngay nhé...
Vợ anh đáp vọng lên:
- Tí tẹo nửa thôi...
Nhưng vừa dứt lời, Hoan lại tiếp luôn:
- Em bưng lên ngay đây...
Xá chờ sẵn đón khay bánh nóng Soan tong tả bưng lên. Mười hai viên bánh lớn đúng bằng quả trứng ngỗng đang bốc khói. Soan bảo:
- Em định chờ thêm bốn viên nữa cho đầy khay.
Xá lắc đầu:
- Không cần... Ăn ngần này cũng đã chán chê.
Anh bưng khay bánh vào nhà khi Soan quay xuống bếp và chỉ tích tắc sau chị mang cho anh chén nước chấm với bát đũa đã lau sạch.
- Nào... Chén đã...
Xá nói thật to để lôi Bôn từ đám sương mù trở lại cõi thực. Mùi bánh chín thơm, mùi nước mắm pha ớt, chanh, tỏi cũng bốc lên và trong phút chốc, hương vị của cuộc sống khiến anh tin cậy yên tâm với cái thế giới của mình, với ngôi nhà khang trang do chính tay anh xây dựng, với mảnh sân gạch lẫn dãy tường hoa do anh vẽ kiểu mua vật liệu và chỉ huy thợ lát, với những rặng mẫu đơn trắng và tường vi do anh ươm bên nhà bố vợ bứng về trồng, căn bếp lợp ngói vảy cá kia cũng chính tay anh xây cất, người đàn bà đang ngồi trong đó lúi húi nấu tiếp mẻ bánh khác cũng đích thực là người đàn bà của anh, sinh nở cho anh những đứa con trai và đêm đêm cùng anh ân ái... Tất thảy bờ cõi, giang sơn của anh hiện lên trong gang tấc nhìn thấy nghe thấy sờ thấy ngửi thấy... Cảm giác xác thực ấy xóa đi cơn bối rối của anh khi anh đứng trước cõi sương mù của người đồng đội và khiến anh lấy lại được sức mạnh quả quyết nơi mình:
- Ăn đi cậu... Phải ăn để sống, để làm những gì mình muốn làm và cần làm... Từ cổ chí kim, phép dưỡng sinh nào cũng coi trọng miếng ăn...
Anh so đũa, đặt trước mặt Bôn:
- Nào, lên đũa. Cậu có muốn làm tợp rượu không?
- Thôi.
- Sao lại thôi? Vài tợp rượu để khêu đói. Rồi cậu sẽ thấy ngon miệng hơn.
Anh rót rượu cho bạn trước, cho mình sau. Gắp một viên bánh trứng ngỗng vào bát, chan cho đủ nước chấm, anh bắt đầu thưởng thức món bánh cổ truyền. Hương gạo mới, nấm tươi, vị ròn sật của những sợi mộc nhĩ, mùi chanh thơm thoang thoảng lẫn vị ớt cay và vị tỏi... Tất thảy những thứ mùi vị ấy cùng lúc tan hòa, cùng gợi cho anh cơn ham ăn lẫn niềm hứng khởi:
- Ngon không cậu?
- Ngon.
- Ðể tôi múc thêm nước chấm cho cậu. Ăn thứ bánh này phải ngập nước chấm mới ngon... Cậu có cần thêm ớt không?
- Ðủ rồi.
- Ăn thêm cái bánh nữa... Phải cố mà ăn, không ăn mẻ cũng chết.
Bôn ngắc ngứ mãi mới ăn hết ba viên bánh. Lượng thức ăn đó ngang ngửa với hai bát cơm đầy. Người khỏe bình thường cũng chỉ ăn được bốn tới năm viên trứng ngỗng là no hết sức. Vậy mà Xá cuốn một lèo hết chín viên bánh còn lại. Khay sạch trơn, bát nước chấm cũng cạn nhẵn. Bôn nhìn Xá liếm môi sau bữa ăn mãn nguyện, vẻ hệt như con mèo:
Anh ta sung sướng thật. Trời cho anh ta đủ thứ khoái lạc. Cả trên giường lẫn trong bữa ăn...
Bôn đứng dậy:
- Tôi về đây.
Anh đã quên rằng anh đến đây để xin một lời khuyên chỉ còn thấy tủi nhục, anh không còn đủ sức kềm chế để chịu đựng hạnh phúc của người đời. Phần Xá, Xá cũng quên nghĩa vụ kẻ bảo trợ. Trạng thái bối rối vốn xa lạ với một người thực tế và cứng rắn như anh. Nó chứng tỏ rằng trong lĩnh vực nào đó, anh là kẻ bất lực, và anh, ông Trương Phi tái thế vốn không quen tự nhận là kẻ bất lực, vô năng nên khi Bôn cất tiếng chào, Xá vội chìa tay ra trước:
- Về nhá... Về nhá... Bữa nào rảnh tôi sẽ tới chơi...
Lần đầu họ bắt tay nhau, cái thể thức chỉ dành cho những người mới quen biết. Họ, những đứa bạn thời thơ ấu bỗng chào nhau như mấy ông ngoại giao chuyên nghiệp. Khi Bôn ra ngõ, Xá vẫn đứng tần ngần, hai tay buông thõng:
Sao bỗng dưng mình bắt tay cậu ta? Sao lại đẻ ra cái cử chỉ khách khí lố lăng ấy nhỉ? Thật điên rồ...
Anh tự hỏi. Và sau rốt, anh đành thú nhận rằng họ đã ở hai bờ cõi, suy nghĩ khác biệt, giống như hai kẻ có hai quốc tịch và hai ngôn ngữ khác biệt:
Khi không thể hiểu nhau thì người ta bắt tay bắt chân nhau, hệt mấy lão đóng tuồng câm... Buồn thật...
Ý nghĩ về nỗi buồn cũng là ý nghĩ hiếm hoi với Xá. Xá khó chịu nổi loại ý nghĩ như thế. Anh gọi:
- Mẹ thằng cu đâu?
Soan chạy lên:
- Gì thế anh?
- Xong bánh chưa?
- Chưa... Nhưng để lát nữa nấu tiếp cho nóng.
- Ngồi đây với tôi.
Soan tò mò nhìn chồng nhưng vẫn ngồi xuống bên anh, hai tay còn trắng lốp bột bánh:
- Bố thằng cu vừa mới nói chuyện gì với anh Bôn?
- Không.
- Ðiêu... Việc gì phải giấu em? Xưa nay em vẫn quan tâm đến bạn anh mà...
- Tôi chẳng hiểu... Nhưng không thể nói chuyện với cậu ta được.
- Em cũng định nói chuyện này với anh từ lâu... Em nhìn mặt anh Bôn thấy khang khác.
Xá bật tiếng thở dài:
- Khó cứu vãn.
Anh đưa mắt lơ đãng nhìn ra vườn hồi lâu, rồi hỏi vợ:
- Này Soan, tôi hỏi mình: Giá mình ở hoàn cảnh cô Miên, mình sẽ xử trí ra sao?
- Em hả?
Soan hỏi bật lại ngay tức khắc và chị rành rọt bắn một tràng liên thanh:
- Không đời nào. Không đời nào em quay về với anh Bôn. Chị Miên có yêu anh ấy nữa đâu... Chị ấy yêu anh Hoan, cả làng biết điều đó... Cả anh, anh cũng biết.
- Nhưng Bôn đã từng là chồng Miên trước ngày ra trận?
- Phải. Sự ấy đã đành. Nhưng hiện tại chị Miên không còn yêu anh ấy nữa... Người ta muốn sống chung trước hết phải yêu nhau.
- Vậy tại sao mình vẫn nhiệt tình giúp Bôn cho cậu ta trở lại sống với cô Miên?
Soan trợn mắt nhìn chồng:
- Ấy là vì anh... Vì anh Bôn là bạn anh và em có nghĩa vụ làm những gì anh muốn... Rõ là đồ ngốc, chẳng lẽ anh không hiểu được điều ấy hay sao?
Xá im lặng.
Phải, Soan đã hành động như vậy chỉ vì cô ấy muốn làm đẹp ý ta... Hóa ra trên đời bao giờ sự thiên vị cũng thắng lẽ công bằng, tình cảm mạnh hơn lý trí. Giờ, vợ ta tuyên bố thẳng thừng không đời nào cô ấy chịu hy sinh như Miên... Và cô ấy có lý... Người ta muốn sống chung trước hết phải yêu nhau...
Anh nhớ lại chuyện tình của họ. Nhớ cô gái dẫn anh lên sườn dốc giục anh trải tấm ca-pốt lính để họ làm tình:
- Em yêu anh. Em yêu anh... Mình nhất thiết phải có thai...
Vòng tay nóng hổi của Soan quàng qua cổ anh, gương mặt nóng và đẫm nước mắt của cô áp vào mặt anh, tấm thân mềm mại của cô dâng hiến cho anh... Phải, tất thảy những cái đó là tình yêu, và không gì so sánh nổi:
Nếu ta không gặp và yêu Soan mà yêu một người nào khác. Một cô Lý, cô Hoan, cô Hà, cô Lãm... Giống như Bôn gặp và yêu Miên. Liệu ta có đủ sức quanh lưng đi tới miền đất khác để lãng quên và chờ đợi người đàn bà mới? Có. Vào tình cảnh của Bôn ta sẽ rời Xóm Núi tới nông trường...
Anh nghĩ. Nhưng tức khắc anh lại nhớ tới những lần gặp Soan, họng nghẹn đắng, tâm hồn quằn quại vì ghen tuông ngờ vực và chẳng lần nào dám nói lời từ biệt như đám bạn đã khuyên:
Không thể nói mạnh được... Bởi trong chuyện này mọi lời khuyên đều vô ích. Vậy mà bao lần ta đã uổng công khuyên can Bôn. Thật ngu ngốc...
Anh hình dung gương mặt bạn, cặp mắt lãng đãng mộng du, nét cười ngơ ngẩn của một kẻ thân xác đang tồn tại giữa cõi đời nhưng hồn phách đã xiêu lạc sang một bờ cõi khác. Và bất chợt anh lạnh sống lưng khi nghĩ rằng ông Trời già có thể bắt anh chơi trò chơi sầu thảm như Bôn, bắt anh yêu mê một người đàn bà không chút tình ái với anh và anh sẽ phải đuổi theo cô ta như cái bóng, kéo lê cuộc sống đọa đầy.
- Này mình, lại đây với tôi.
Xá bảo vợ.
Soan tròn mắt nhìn chồng:
- Gì cơ anh?
Xá nói:
- Tôi bảo mình sang đây ngồi với tôi.
Soan đi vòng qua chiếc bàn tới cạnh Xá kéo ghế ngồi nhưng anh đẩy chiếc ghế đi, vỗ tay lên đùi:
- Ngồi đây.
Soan đỏ mặt:
- Thôi đi ông nỡm... Tây đầm người ta mới ngồi như thế.
Xá bảo:
- Tây đầm hay ai ai cũng xương cũng thịt. Ðàn bà cũng có một cái lỗ, đàn ông cũng có một cái đùi.
Vợ anh ngúng nguẩy nhưng cũng đành ngồi xuống đùi chồng:
- Nhỡ thằng cu lớn về học nhìn thấy thì xấu hổ chết.
Xá ôm chặt người đàn bà trong lòng anh, người yêu, người vợ, người mẹ của những đứa con anh, người anh tin chắc đem cho anh cuộc đời mãn nguyện:
- Chúng mình là vợ chồng. Nay mai thằng cu lớn, thằng cu nhỏ sẽ có vợ. Và chúng nó cũng sẽ ôm vợ chúng nó như anh ôm mình hôm nay.
Soan im lặng. Chị quay lại ghì riết cổ Xá. Và bất chợt thả một tiếng thở dài:
- Em nói anh đừng giận. Bạn anh đáng thương nhưng chị Miên mới là người khổ nhất. Em là đàn bà nên em biết.
Xá khẽ đáp:
- Tôi biết... Mình tưởng tôi sung sướng lắm khi lo vun vén cho cậu Bôn hay sao?
Rồi anh nắm tay Soan. Chị cũng nắm chặt tay anh, như đáp lời. Họ lặng im, mỗi người theo đuổi một ý nghĩ nhưng cùng cảm nhận được hạnh phúc của mình. Nó xác thực nhưng vẫn là canh bạc mà mọi rủi may đều nằm trong tay tạo hóa, họ đã may mắn rơi vào con số tốt lành khi quân súc sắc gieo xuống.
Hai vợ chồng ngồi yên lặng cho đến lúc đứa con trai lớn đi học về lù lù tiến vào tận giữa sân. Thấy cha bế mẹ trong lòng cái hình ảnh nó chỉ nhìn thấy trên phim ảnh hay sách báo, thuộc về xứ sở các ông tây bà đầm thằng bé trố mắt nhìn. Rồi, khi thấy bố mẹ không nhúc nhích, chính nó đâm ngượng. Nó cắp cặp lùi lũi chạy vào bếp và ở trong bếp nó cất tiếng gào tướng lên:
- Mẹ ơi, phần bánh của con ở trong chạn bát phải không?
Chương 23
Ở Xóm Núi, chuyện của mọi nhà đều bị đem ra bàn trong các câu lạc bộ gia đình. Dù họ là ai và bất kể muốn hay không các nhân vật nằm trong tầm quan sát của đám đông đều bị mô tả, phân tích, mổ xẻ phẩm bình và sau rốt phải nhận sự phán quyết. Những câu lạc bộ gia đình là những pháp đình xưa cũ nhất nơi làng quê. Xóm Núi vốn là một làng lớn nhưng vẫn giữ tên khởi thủy nên người ta chia nó thành ba đơn vị: Xóm Thượng, xóm Hạ và xóm Trung. Mỗi xóm có một tụ điểm, ấy là nơi hội họp, tán gẫu, nghe đài khi dòng đời bình lặng, để bàn cãi tranh cướp được thua và sau rốt tuyên án nhân vật nào đó khi trong làng xảy ra một sự kiện bất thường. Các câu lạc bộ gia đình đóng một vai trò quan trọng trong đời sống tinh thần của dân cư, chúng được hình thành lúc nào chẳng rõ, thường là ở những gia đình khá giả và hiếu khách, nơi xóm giềng có thể thả sức tụ bạ mà không sợ bà chủ sưng mặt hoặc ông chủ ném mèo quèo chó. Các gia chủ luôn luôn có vài món ăn vặt đãi khách. Nhà ông trưởng xóm Hạ có lạc rang với bỏng ngô. Nhà ông trưởng xóm Thượng có mía lùi hoặc mía ướp hoa bưởi. Nhà cụ Phiều ở xóm Trung có mứt sắn và bỏng nếp ngào mật. Không ai quy định lịch sinh hoạt nhưng người ta thỏa thuận ngầm rằng cứ năm sáu hôm một lần, tùy theo thời tiết trời ấm lạnh, quang quẻ hay mưa gió. Vào những ngày thuận trời, sau bữa cơn chiều gia chủ thắp cây đèn bão lớn đặt trước thềm đó là dấu hiệu báo trước một buổi tối sum họp. Nhưng trong vòng hai tháng nay, mọi sự đảo lộn. Không chờ cây đèn bão của gia chủ khêu lửa, người ta tự xách đèn nhà tới rồi mặc cho gia đình chủ nhà dang dở bữa cơm, khách đã ngồi đầy thềm, đầy sân, người kiếm ghế, kẻ mượn chiếu rải, mấy bà tự xách ấm xuống bếp đun nước, mấy ông tự rút trà đem theo trong túi ra pha, chuyện rào rào như ong vỡ tổ. Chẳng ai rào đón, chẳng ai vòng vo, họ đâm bổ ngay vào câu chuyện đang làm náo động cả vùng: Cuộc tình duyên oái oăm giữa một bà vợ với hai ông chồng. Giá như đó chỉ là một chuyện tình thuần túy hẳn mọi người cũng không đến nỗi bức xúc như vậy, nhưng chuyện này lại kèm theo một sự kiện hết sức trọng đại với cuộc sống của họ: Việc mọc lên một ngôi trường tiểu học mười hai lớp, đủ cả phòng thể dục lẫn giải trí cho cơ dân miền sơn dã. Bao đời nay Xóm Núi chỉ có một lớp vỡ lòng, đặt sau chái đình đổ nát. Ðình làng cũ đã bị phá một nửa thời kháng Pháp, sau hòa bình ủy ban phá nốt nửa còn lại và xây trên đó ngôi trụ sở ủy ban. Riêng chái nhà phụ của đình xưa vẫn đứng gù gù như kẻ tàn phế phía sau lưng trụ sở, trông cóc cáy bẩn thỉu với mấy bức tường lở lói không cửa sổ cũng không cửa ra vào, trống hoang huếch.
Trong chái đó kê dăm hàng ghế băng với tấm bảng đen cũ, ấy là nơi khai trí cho bọn trẻ Xóm Núi. Khi đã vỡ mặt chữ, lũ trẻ phải sang học tiểu học ở làng bên, tuy nhỏ hơn Xóm Núi nhưng gần huyện lộ. Bởi thế, đám trẻ Xóm Núi bỏ học cũng nhiều. Ba cây số đối với trẻ nhỏ không phải là ít, hơn nữa lại phải lội qua con suối. Ngày Hè đã vậy nhưng còn có mùa Ðông. Lúc tạnh ráo đã đành nhưng còn hồi mưa gió... Thế nên khi ủy ban xã ra thông báo tiếp nhận quà tặng của công dân Trần Quý Hoan gồm ngôi trường tiểu học mười hai lớp kèm khu văn phòng và thể thao giải trí dân cư Xóm Núi náo loạn cả ngày lẫn đêm. Cái tin đó, dù đã được in rành rành trên giấy trắng mực đen vẫn giống cơn mơ ban ngày hoặc chuyện thần thoại hơn là sự thật. Người ta nửa tin, nửa ngờ. Nhưng chỉ một tuần sau khi báo tin, hai tốp thợ được chở lên, mỗi tốp trên mười người.
Tốp thứ nhất xây trường tiểu học ngay trên đất dựng đình làng cũ, sau lưng trụ sở ủy ban. Tốp thứ hai dựng nhà cho Hoan trên khu Suối Nhỏ. Khu trại mới này rộng gấp ba lần khu trại cũ của Hoan và tiền thuế đất đã gần bằng tiền thu hoạch nông sản của anh ta hai vụ qua. Khu dinh cơ riêng của Hoan chẳng dính líu gì tới mọi người dù quy mô của nó khiến cả huyện nóng mặt. Nhưng khu trường tiểu học đúng là bài toán hiểm hóc. Không ai hình dung nổi một người bình thường bỗng dưng có thể bỏ tiền túi ra làm một công trình như vậy cho dù đang đứng trên núi của. Trước mắt dân Xóm Núi Hoan là kẻ điên khùng hoặc một tay thương gia cáo già xảo quyệt đang giăng một cái bẫy khổng lồ để chụp bắt một con mồi khổng lồ mà họ chưa thể mường tượng nổi. Trong dòng đời tẻ nhạt miền sơn dã, nơi ánh điện chưa tới, tiếng máy nổ một trăm bốn mươi mã lực của Hoan giống trận núi lở hoặc cơn mưa đá vài chục năm mới xuất hiện một lần. Khu trại thợ xây sáng rực cuốn hút đám trai trẻ và niên thiếu trong vùng lui tới. Còn dân làng đổ ra, xúm quanh các đoàn ô tô chở nguyên vật liệu. Những thứ gạch lát sáng bóng màu sắc rực rỡ họ chưa từng thấy, những thiết bị phòng tắm và vệ sinh bằng sứ trắng muốt, trắng hơn cả bát đĩa họ vẫn dùng, các tấm vải lớn thêu hoa lộng lẫy để căng trong nhà thể thao và giải trí... thảy thảy những thứ đó đập vào mắt họ, làm gan ruột họ nôn nao, xốn xang. Mọi thắc mắc đều trút vào buổi tối hội họp. Các gia chủ không dám chối từ, vả chăng chính họ cũng đầy tò mò thắc thỏm, cũng ở trong cơn lốc. Và như thế, các câu lạc bộ gia đình Xóm Núi gần như tụ tập hàng ngày. Không khí chẳng giống ngày giỗ tết, cũng không phải hội hè nhưng là một thứ nao nức bất thường, một nhu cầu bất thường, một niềm đam mê bất thường cùng một lần chi phối đời sống của đám cư dân miền sơn dã...
Vào một tối như thế, nhà cụ Phiều chuyện râm ran nở như ngô rang. Mới tắt mặt trời nhưng người ta đã hối hả ăn cơm, hối hả cài cây tăm vào miệng rồi xách đèn ra đi. Trước thềm nhà vị gia chủ, hơn một chục cây đèn đứng giăng hàng giống như cảnh nhà có đám. Cụ Phiều đã sai con dâu ngào bỏng nếp với mật từ chiều. Bỏng được đơm đầy có ngọn trong những chiếc đĩa sành cổ lớn vành. Gần chục phích nước sôi sắp hàng sẵn để khách pha trà. Sau khi đã chuẩn bị đầy đủ cả nước sôi lẫn ấm chén sạch gia đình chủ nhà mới kéo xuống gian nhà ngang ăn bữa tối. Ngoài sân, tiếng rít thuốc lào vang lên ròn rã và chuyện khởi đầu vẫn là câu hỏi về sự hào hiệp đến mức điên rồ của gã lái buôn gốc rễ thị thành:
- Trên đời này chẳng ai dám gánh vàng đi đổ xuống sông. Chắc chắn, anh ta phải có mưu cầu gì đấy... Người thành phố khôn ngoan lắm, đồng tiền bỏ trong túi họ sinh sôi nảy nở, mà đồng tiền thảy ra ngoài túi họ cũng phải đẻ lời đẻ lãi. Ðám dân quê chúng ta làm sao biết được?
- Hay khu Suối Nhỏ có mỏ vàng bên dưới?
- Ðúng... Tôi đã ngờ chuyện đó từ lâu. Hẳn tay Hoan cầm chắc bỏ túi hàng tạ vàng mới dám liều thảy ra vài chục thẻ xây trường cho đám dân Xóm Núi.
- Nếu Suối Nhỏ có vàng thì khu Suối Lớn và trang trại của gia đình bác Thới với tôi đây cũng có... Nhưng xin các ông đừng mơ mòng. Tôi đã đi xem nhiều khu vực đãi vàng, chẳng nơi nào sơn địa giống nơi đây. Tổ tiên chúng ta chẳng có số bắt được của, đành bới đất lặt cỏ mà ăn thôi....
- Ông nói thế nghĩa là tay Hoan bỏ ra một núi của chỉ để lấy tiếng thơm thôi à? Thời nay làm đếch gì có kiểu người như vậy?
- Tôi không biết. Nhưng tôi bảo đảm rằng khu Suối Nhỏ lẫn khu Suối Lớn đều chẳng có vàng. Tôi không nói liều, bởi tự tay tôi đã đào nát cùng đất ấy... Các vị có nhớ thằng cháu gọi tôi là cậu ruột ở tỉnh Thanh vào đây chơi hay không? Nửa năm trời hai cậu cháu tôi đi săn thỏ với đào trút... Nói vậy, nhưng chúng tôi không săn thỏ cũng chẳng săn cáo, chúng tôi bới đất tìm vàng. Chúng tôi đã mơ mộng và đã hành động trước các vị. Ðói thì đầu gối phải bò... Những thằng nghèo là những thằng hay mơ mộng và tìm kiếm...
- A... Ra thế... Ra anh cũng gớm thật. Vậy mà hồi đó tôi cứ ngỡ anh xách lưới đi bẫy cáo...
- Tôi cũng không tin vùng ta có vàng. Vả chăng, nếu có tay Hoan cũng không được tùy tiện khai thác. Anh ta nộp thuế đất để canh tác chứ không phải để đào quặng. Trong trường hợp phát hiện ra mỏ vàng, nhà nước sẽ thu hồi tức thì... Gì chứ tiền với vàng thì thiên hạ ngửi ra mùi nhanh lắm. Mà chính phủ thì còn thính mũi hơn dân...
- Thế ông bảo tay Hoan quay lại đây chỉ vì tiếc cô vợ hay sao?
- Trước mắt, tôi chưa tìm được lý do nào khác. Chính tôi gặp anh ta dẫn con trai vào nhà cậu Bôn sớm hôm ấy, sau đợt cô Miên từ bệnh viện thành phố trở về.
- Trông anh ta ra sao?
- Gày hơn chút đỉnh nhưng trắng hơn. Nom mắt anh ta cứ rầu rầu.
- Xì ì ì... Mắt thằng cha ấy lúc đếch nào chẳng mơ mơ như mắt lũ thầy dòng?
- Tôi lạ gì anh ta... Trước đây chiều chiều tôi vẫn uống trà trên sân thượng nhà ấy với cánh ông Chi, ông Trác... Nhưng rõ rành anh ta buồn hơn xưa...
- Người chứ gỗ đá đâu mà chẳng buồn... Gì thì họ cũng đang sống yên vui, đầu gối tay ấp, đứa con lại đẹp như tiên đồng, trẻ thành phố so với nó cũng chạy mất dép...
- Thế hôm ấy tay Bôn có nhà không?
- Có.
- Hai thằng đực rựa chạm trán nhau ra sao?
- Tôi làm sao biết được? Chẳng nhẽ đâm bổ vào nhà người ta hóa ra quân tọc mạch à?
- Vẽ... Tôi thì tôi cứ chạy vọt vào... Hàng xóm láng tỏi... Nếu không thế cũng là người trong làng ngoài xóm. Có gì mà ngại?
- Ông nói thối bỏ mẹ... Trong làng ngoài xóm? Vậy từ xưa đến nay đã có láng giềng nào nhảy bổ vào nhà ông lúc ông đang tụt quần bà ấy ra hay không?
- Thôi thôi... Vớ vẩn lại sinh sự, sự sinh bây giờ... Ðể tôi hỏi đã: Sớm ấy ông không nói chuyện với tay Hoan hay sao?
- Có chứ... Nhưng chỉ là vài lời thăm hỏi thông thường. Chỗ quen biết cũ làm sao tôi dám thọc vào chuyện riêng tư của họ... Anh ta cũng chỉ đáp vội vàng vài lời rồi chào tôi đi. Lúc đó, đã ở xéo ngõ nhà cậu Bôn. Tôi nhìn theo, thấy cậu Bôn xách ấm nước từ trong bếp đi ra đứng sững giữa sân như trời trồng. Tuồng như họ chưa bao giờ thấy mặt nhau và đó là lần đầu tiên hai anh chồng chạm trán.
- Rồi sao nữa?
- Chẳng sao cả. Tôi cút. Không lẽ đứng đó mà dòm ngó, nhỡ anh ta quay đầu lại mặt tôi hóa cái mo à?
- Bà xã nhà tôi nghe đám láng giềng bà Huyên kể rằng tay Hoan ăn nói rất nhún nhường nhã nhặn. Anh ta hỏi han tình hình sức khỏe lẫn việc làm ăn của cậu Bôn rồi mời cậu ta về nhà mình ở.
- Cùng với cô Miên?
- Có lẽ vậy.
- Thằng cha này điên là cái chắc.
- Ðiên cái con củ khẹc... Nó là thằng buôn giỏi nhất thành phố giàu nhất thành phố. Nó vờ vĩnh hỏi thăm thằng Bôn làm phép thôi. Ai chẳng biết cậu ta dặt dẹo, chưa kiếm nổi nửa đồng xu toàn sống bám vào váy vợ... Tôi cho cái giống thị thành là chúa đểu. Họ biết đủ cách làm nhục người nghèo.
- Chúa đểu anh ta cũng vẫn nuôi cô Miên và nuôi cả cậu Bôn ngần ấy tháng ngày... Ông tử tế vậy cả đời ông, ông đã cho ai được nửa bát gạo hay chưa?
- Tôi cắm mặt xuống đất còn chưa kiếm đủ cơm đủ cá bỏ vào lỗ miệng vợ con... Tôi móc cứt ra cho thiên hạ à?
- Thế thì đừng hàm hồ chửi người đời là đồ đểu... Mai mốt cái đồ đểu ấy nó xây xong trường, ông có cho con ông tới học hay không?
- Thôi thôi... xin các ông, dẹp cái máu cá nhân đi. Nếu ngứa lưỡi đã có sẵn mấy bụi dứa sau vườn...
- Tôi hỏi đã... Hôm đó cậu Bôn trả lời ra sao?
- Tất nhiên cậu ta từ chối. Nhà mình dẫu túp lều rách cũng vẫn là hương hỏa... Mặt mũi nào rúc dưới mái nhà kẻ tình địch...
- Họ có đánh nhau đâu mà gọi là tình địch?
- Không đánh nhau nhưng cùng yêu chung một người đàn bà, chẳng tình địch còn gọi là gì?
- Thế cô Miên nói sao với tay Hoan?
- Nghe đâu cô ta ôm chặt lấy anh ta mà khóc như mưa như gió.
- Trời đất... Ôm anh chồng thứ hai khóc trước mặt ông chồng thứ nhất? Ðàn bà thời nay lố lăng đến thế là cùng. Ngày trước chỉ đàn ông mới năm thê bảy thiếp. Bây giờ, chẳng ai được quyền hai vợ. Ông nào giỏi chấm mút cũng phải giấu cho kín, nếu không chính quyền làng xóm chẳng để yên. Vậy mà cô Miên một lúc ôm cả hai thằng đàn ông giữa thanh thiên bạch nhật...
Người đàn ông nói những lời cay cú ấy có một giọng riết róng, không ra thổ cũng chẳng phải kim, nghe như tinh nứa cạo vào nhau. Sau khi chép miệng một hồi ông tay quay chiếc cằm nhọn hoắt với chòm râu dê sang đám đàn bà con gái đang ngồi túm tụm trên hai manh chiếu rải trước cửa bếp:
- Thế nào? Các bà các cô có thèm được ôm hai thằng chồng một lúc không? Phát biểu thẳng thắn cho chúng tôi rõ... Ðám đàn bà Xóm Núi gần đây mới dám đặt chân tới các câu lạc bộ gia đình, nhưng họ không tự do như các ông chồng vì lúc nào cũng kéo theo vài cái đuôi con hoặc cháu. Ðến đâu họ cũng chỉ dám ngồi trong góc tối để có thể tỉ mẩn làm việc vặt và dỗ dánh lũ trẻ khi chúng lăn ra ngủ. Thường họ ngồi lặng lẽ, giỏng tai nghe chứ không dám lên tiếng. Tối ấy, các cô con dâu của cụ Phiều đã tranh thủ kéo ra hai bao tải lạc. Thế là hơn một chục bà và cô ngồi bóc lạc tí tách. Nghe gã đàn ông có chòm râu dê cao giọng hỏi, không ai biết đối đáp cứ lí nhí trong họng. Chỉ có tiếng vỏ lạc bị kẹp vỡ nổ lép bép một cách ròn rã hơn. Sau vài giây ngưng lắng một người nào đó giọng oang oang, trẻ trung và tự tin cất lên xóa vỡ sự im lặng:
- Thôi, để các bà các cô được yên tâm bóc lạc. Họ không nhiễu sự như cánh đàn ông chúng ta. Nhưng dù các ông có bình phẩm kiểu gì cũng mặc, tôi vẫn phải công nhận rằng khắp thiên hạ khó có người đàn ông thứ hai nào xử sự được như anh ta. Trừ phi Hoan có âm mưu lừa cậu Bôn về nhà mình để đầu độc hoặc giết hại ngấm ngầm...
- Ðứa nào dại dột làm chuyện đó để ngồi tù mọt gông?
- Biết đâu được ái tình? Ðã mê thì muội. Các cụ vẫn dạy từ xưa....
- Người ta giàu có, cái nhà với họ đáng là bao? Vả chăng, anh ta thương vợ. Anh ta không nỡ nhìn vợ sống nơi nhà tranh vách nát.
- Xin lỗi... Có của chất cao bằng núi cũng chẳng ai đi đón thằng đàn ông đã ngủ với vợ mình về sống dưới mái nhà do công sức mình tu tạo...
- Anh ta không biết ghen à?
- Ông đi mà hỏi anh ta... Tôi làm sao biết được...
- Lòng vả cũng như lòng sung. Ðã là người thằng chó nào chẳng có máu ghen.
- Mà tôi cũng lạ... Tại sao anh ta không lấy vợ khác? Thành phố có hàng tạ gái trẻ nõn nà như tiên giáng thế. Cô Miên có đẹp cũng vẫn là nái sề... Tôi mà giàu có lại bảnh trai như thế, tôi sẽ cưới một đứa còn trinh, mười bảy mười tám da thịt thơm tho óng ả... Không gì bằng gái trẻ. Một cái l... lạ bằng một tạ l... quen...
Tới đó đám đàn ông phá lên cười. Dứt tràng cười của họ, từ trong góc tối giọng một người đàn bà cất lên, khàn, lạnh như nước khe tháng chạp:
- Nói năng hay hớm nhỉ? Vậy từ rày đừng rúc vào cái l... quen nữa nhá... Tổ sư cái giống bạc tình, tài hèn sức mọn không bám vào váy vợ thì đến điếu thuốc lào cũng chẳng có mà hút. Ðã không biết phận biết thân còn thích nói thánh nói tướng.
Ðám đàn ông im bặt. Không một ai ho khan hoặc hắng giọng. Im lặng đến mức nghe rõ cả tiếng muỗi vo ve. Ðám đàn bà cũng ngừng tay bóc lạc và không ai bảo ai tất cả cùng dỏng tai lên nghe ngóng, chờ đón. Sau vài tích tắc ghê rợn đó, người đàn bà có giọng khàn khàn kia tiếp tục:
- Này, dựng tai lên mà nghe tôi nói cho tường. Các người túm năm tụm ba tối này đến tối khác bàn chuyện nhà cô Miên cũng chỉ vì ghen tị. Cả làng này đố thằng nào có túi tiền to hơn túi tiền của anh ta, đố thằng nào đẹp mã hơn anh ta, cũng đố thằng nào chiều vợ hơn anh ta. Bây giờ, bỗng dưng anh ta bỏ ra một đống tiền xây trường học cho con cái các người, ai nấy bụng sướng mê tơi nhưng mồm khép chặt như mồm cóc. Có mấy người dám công khai mở miệng khen ngợi anh ta, cảm ơn anh ta? Chả là khen người thì hóa ra mình hèn quá nhục quá... Nếu anh ta cũng ốm đau quặt quẹo như cậu Bôn, cũng đẻ con quái thai vì nhiễm chất độc da cam như cậu ta, hẳn các người sung sướng như mở cờ trong bụng. Miệng nói thương xót nhưng lòng bảo dạ: "Mày chẳng bằng ông". Xưa nay thiên hạ thường bảo giống đàn bà nhỏ nhen ghen tị. Thật ra lũ đàn ông còn nhiều lòng ghen hơn chúng tôi, chỉ có điều các ông biết giấu lòng ghen bằng nhiều cách... Như tôi đây này, chẳng quanh co gì, tôi ghen với cô Miên lắm. Nhưng tôi không ghét cô ấy vì như thế chẳng thêm được cái gì. Ai mà chẳng ghen với một người tốt số như vậy? Nhưng trời không cho mình nhan sắc mình đành phải lấy cái thứ đàn ông vô tài thiếu đức loại gà què ăn quẩn cối xay...
Bà ta nói đến đó, cụ Phiều từ trong nhà bước ra cao giọng hòa giải:
- Thôi thôi... tôi xin... chuyện đùa bỗng dưng hóa thật. Bây giờ đề nghị bà con chuyển mục cho. Chẳng hay hớm gì việc tò mò tọc mạch vào gia đình người khác. Tôi quen biết cả anh Hoan lẫn cậu Bôn, tôi quý cả hai người. Họ có nỗi riêng tư mà chúng ta không hiểu... Tốt hơn hết cứ để họ sống cuộc đời của họ.
Không ai đáp. Lại im lặng. Bóng một người đàn bà cao lớn, cứng nhẳng vụt đứng lên, ra ngõ. Chắc chắn đó là người vừa tuyên chiến với đám mày râu và sỉ nhục đức lang quân là loài gà què ăn quẩn. Không rõ mặt nhưng trong bóng tối nhập nhòa vẫn thấy được chị ta có dáng đi đầy nam tính lẫn mái đầu đồ sộ. Theo sau chị vài người nữa, kẻ cõng con người bế cháu. Ðám đàn bà còn lại tiếp tục bóc lạc. Chuyện bắt đầu cất lên lẻ tẻ rời rạc trong cánh đàn ông. Chuyện nương vườn, giống má, giá phân bón giá thuốc trừ sâu... Tiếng điếu cầy rít sòng sọc hết góc này sang góc kia và những đám khói trắng hăng xè lơ lửng tan dần trong không trung. Một ai đó ngáp rồi kêu lên:
- Ối... đêm nay sao đầy trời, chi chít như rắc vừng... Mấy giờ rồi nhỉ?
- Bấm cây đèn pin xem sao? Bảy giờ hai mươi lăm phút.
- Còn sớm chán.
Rồi ai đó chợt cao giọng hỏi:
- Tôi nghe người ta nói cái quái thai cô Miên đẻ ra không có đầu. Ông bảo thực hay đồn thổi?
Và thế là câu chuyện lại xoay về người đàn bà nhan sắc với hai ông chồng, bởi thời gian dài rộng quá và chốn sơn dã buồn tẻ này, nơi nhịp đời hiu quạnh trôi như dòng nước lẻ loi, dòng nước nhỏ nhoi không bến bờ không cầu không thuyền không sóng, không đến cả rong rêu và những đám xác vờ... Trong nhịp đời đơn lẻ ấy, người ta không thể chối từ một cơ hội quá may mắn quá hiếm hoi để trí não được hoạt động, và để dựng lại một pháp đình xưa cũ, một pháp đình vô ảnh vô hình nhưng bền vững nơi đó bất cứ kẻ vô danh nào cũng được quyền đội mũ khoác áo quan tòa...
Vào lúc tất cả các câu lạc bộ gia đình Xóm Núi náo động, nhân vật chính ngồi thả khói thuốc ngày ngày trong căn phòng nhỏ. Hoan được trời phú cho biệt tài chọn người và dùng người, ông già Lư tuy gắn bó chưa lâu nhưng giờ đã trở nên thủ túc nghiêm cẩn trung thành, anh có thể phó thác mọi việc lớn nhỏ không cần đong đếm. Ông đã thay mặt anh làm thủ tục, thuê mướn nhân công, tính toán công xá và cũng thay anh kiểm tra toàn bộ hai công trình. Hoan chỉ có mặt ở Xóm Núi ngày khởi công đào móng ngôi nhà mới trên khu Suối Nhỏ, bởi theo tục lệ chính anh phải đứng trước mâm lễ vật cống thổ thần xin các thần linh thâu nạp anh vào miền đất mới và phù hộ độ trì cho anh trong cuộc sống tương lai. Chiều hôm đó, anh đã quay lại thành phố để sáng hôm sau lấy vé máy bay vào Bảo Lộc. Hoan muốn nhượng cổ phần cho người khác, thu lại vốn vì đối với anh chỉ giữ một cửa hàng tại thành phố và mở mang khu trại Suối Nhỏ cũng đã thừa bận rộn. Anh biết trời luôn luôn mỉm cười với anh trong việc làm ăn. Và thêm nữa, anh muốn sống lại cuộc sống đích thực của anh sau quãng thời gian ngưng lặng. Cuộc sống đích thực của anh phải có người đàn bà đó, cùng với người đàn bà đó, và chỉ thế mà thôi... Tại sao? Tại sao? Tại sao? Tại sao? Chỉ gương mặt ấy thôi, chỉ dáng vóc ấy thôi, chỉ da thịt ấy thôi? Liệu có thể thay đổi được không, bởi mọi sự thay đổi đều ở trong tầm tay ta và cuộc sống sẽ bình ổn dễ dàng... Ðã nhiều lần anh cất tiếng tự vấn. Và lần nào cũng không tìm được câu trả lời. Hai bà chị anh đều biết anh đã qua lại Xóm Núi đã bỏ một số vốn rất lớn để xây trang trại và trường học, và tất thảy những việc đó đều ngầm chứa quyết định trở về sống chung với người vợ cũ. Cả hai bà đều lo ngại, nhưng không ai đủ can đảm lên tiếng ngăn cản. Hoan biết điều ấy. Anh còn biết rõ hơn là chính anh, anh cũng không hiểu vì sao mình đã quyết định đường đột như vậy... Một buổi sáng nào đó anh thức giấc trên giường, với tay bấm nút chiếc radio nghe tin tức, bỗng bắt gặp một điệu nhạc cũ, khúc nhạc anh từng nghe những ngày đợi cuộc khởi hành của con tàu lên phương Bắc. Ðiệu nhạc làm trái tim anh tan rỗng. Anh nằm bệt trên giường dù đã qua tám giờ sáng, hút thuốc lá như một kẻ mất trí, càng hút càng thấy chân tay rã rời, càng hút càng thấy trí óc mờ mịt. Một khoảnh khắc nào đó, anh bỗng muốn khóc, rồi một khoảnh khắc sau anh muốn đập nát căn phòng của mình muốn thấy những bức tường đang vây bọc anh đổ sụp, đổ sụp cả cả cái cửa hiệu đầy người mua kẻ bán, đổ sụp cả dãy phố quen, cả cái thành phố anh chán ngán đến từng chân sợi tóc. Anh mường tượng rằng anh có trong tay một cây búa lớn, kiểu búa tạ của thợ rèn, anh sẽ cầm cây búa đó đập nát cái thế giới tồn tại quanh mình, trước tiên là cánh cửa buồng có gắn cái chuông nhỏ bằng đồng đúc...
Chị Nền đứng bên ngoài cánh cửa đó cất tiếng:
- Gần chín giờ sáng rồi, Hoan ơi.
Anh muốn gầm lên nhưng kịp nén cơn rồ dại:
- Em mệt.
Anh đáp và bỗng dưng nước mắt anh từ từ chảy xuống hai đuôi mắt. Những giọt nước mắt lăn qua thái dương bò sâu vào đám chân tóc và lạnh dần đi... Tại sao, ta bỗng dưng muốn điên rồ, bỗng dưng ta muốn nhảy xổ vào bóp cổ bất cứ ai, muốn phá nát thành phố này, cuộc sống này... Anh không tìm được lời giải đáp. Anh nằm dán lưng xuống giường. Nước mắt tiếp tục chảy. Lúc đó, có tiếng gõ cửa rụt rè và lần này là giọng đàn ông:
- Thưa ông... Ông có mệt lắm không?
Giọng ông già Lư. Tức khắc một ngọn triều trào qua tâm hồn anh. Tức khắc trái tim anh thét lên tiếng thét câm lặng rợn hồn... Em... Chính là em. Em hành hạ trái tim đau đớn của tôi, em khiến tôi không thể sống cuộc sống an bình như những người đàn ông khác. Em chính là địa ngục đầy ải tôi, là... Khi tiếng thét chưa ngưng lặng, người đàn bà của anh đã quay về, bằng xương bằng thịt sát kề anh, mùi tóc, mùi áo, nét chân mày, những tia sáng ánh lên dưới rèm mi dầy nặng, và phía sau chị những nương vườn xanh thắm, những dải đồi, gió và nắng, đứa con trai bi bô ngọng nghịu, tất thảy cuộc sống quá vãng ùa về, đầy ngập, quay đảo, bùa chú, mê đắm khiến anh gần như tức thở... ta phải quay về. Cuộc sống của ta chính ở nơi đó. Với em. Cùng em. Bất chấp mọi thứ. Bất chấp tất thảy... Và sau tiếng kêu đó óc não anh nhẹ bổng đi, anh chống tay ngồi lên chòng chành như kẻ đang say sóng. Ngoài cửa, ông già Lư khẽ khàng nhắc lại:
- Thưa ông, liệu ông có tiếp tôi được không? Nếu ông mệt, tôi sẽ quay về Xóm Núi...
Hoan luống cuống tìm chiếc khăn tay lau nước mắt và anh cao giọng đáp:
- Ðược... được... Tôi ra ngay đây...
Anh quơ chân tìm đôi dép trong khi trái tim anh thét lên: quay về, quay về, quay về... Và anh lao xuống phòng tắm khi ông già Lư ngồi uống trà chờ đợi. Trong phòng tắm, anh xối nước lạnh vào thẳng đầu tóc, mặt mũi nghe da thịt rùng rùng chuyển động:.... Quay về, quay về, quay về... Ta sẽ trở lại Xóm Núi, sẽ sống lại cuộc sống của ta. Không gì ngăn trở được... Và trong lúc da thịt anh rộn ràng ca hát, bộ óc mẫn tiệp lên tiếng hỏi... Vì sao, vì sao mãi đến hôm nay ta mới nghĩ ra điều này? Vì sao ta cứ tự đầy ải hành hạ ta trong những lo âu vớ vẩn những ghen tuông đồi bại. Bởi chính ta mới là kẻ có chủ quyền. Chính ta mới là người được pháp luật ủng hộ...
Vừa lau khô tóc, Hoan vừa nhớ lại thời kỳ u tối mới trải qua khởi đầu bởi tin Miên có thai với người chồng cũ. Cái tin đó không phải ông già Lư mà chính hai bà chị anh mang lại, cả hai đều hớn hở một cách thầm kín khi báo tin cho cậu em trai, hy vọng nó đánh dấu chấm cho cuộc tình với người vợ cũ hy vọng mau mắn có cô em dâu mới để giữ chân anh lại thành phố và nhờ thế việc kinh doanh sẽ mở mang phát đạt hơn... Hoan hiểu rõ những mong muốn thầm kín của hai người đàn bà đó và không tránh khỏi mối ác cảm. Họ, những người ruột thịt của anh, không biết họ độc ác nhường nào khi báo cho anh cái tin sét đánh kia. Giống như cơn cuồng phong nó bật rễ, bẻ gẫy lá cành, thổi tan tác khu vườn nơi tình yêu của anh ẩn náu... Bởi, anh đinh ninh rằng Miên chỉ yêu anh, mình anh, riêng anh và cuộc trở về với người đàn ông đầu tiên chỉ là một sự trẫm mình là cuộc hiến tế cho tinh thần xả thân của những người đàn bà ở một xứ sở chinh chiến liên miên nơi cuộc sống của những người đàn ông chập chờn như cánh phù du và tất thảy sức mạnh của họ được gieo trồng nơi lòng chung thủy và sự cam chịu của những người vợ. Dáng đi lủi thủi của Miên trong buổi sáng sương mù tựa hình ảnh một cuốn phim được chiếu đi chiếu lại hoài hoài trong tâm tưởng... Người đàn bà yêu dấu ra đi, với bị cỏ thạch trinh hương và đôi mắt của một kẻ bước chân vào phòng tù cấm cố. Mỗi bước đi lát một viên gạch trên con đường dẫn tới xứ u tì. Hình ảnh ấy không phai nhạt theo thời gian. Càng ngày nó càng được khắc đậm hơn trong tâm trí anh. Càng ngày càng khiến anh đau đớn. Càng ngày càng thôi thúc phẫn nộ... Vì sao, và vì sao nữa? Em phải chấp nhận cuộc lưu đày và tôi trở về đây như thằng tù biệt xứ? Vì sao? Tuy nhiên, nỗi đau khổ ấy lại là một lý do cho cuộc sống của anh còn ý nghĩa. Giờ đây, bỗng dưng người đàn bà yêu dấu mang thai... Như vậy cuộc ra đi của em không còn là cuộc lưu đày mà là sự khai phá lại một mỏ quặng đã lấp vùi dưới bụi cát thời gian. Em đã từng yêu anh ta với một tình yêu mặn nồng hơn tôi tưởng, hơn ngàn lần những gì em đã nói với tôi... Hóa ra tôi là kẻ dại khờ, và em khôn ngoan hơn tôi nghĩ. Trái tim em già dặn hơn, dạn dĩ hơn, cặp mắt trong veo của em, da thịt em tham lam dâm đãng hơn màu da em thơ trẻ mịn màng... Tôi là kẻ bị lường gạt, dù tôi hơn em bảy tuổi. Người đời nói đúng: Mỗi ả đàn bà mang trong họ một mụ phù thủy già...
Hoan đóng cửa nằm lì trong buồng trễ nải mọi công việc. Nhiều lần Căng đến rủ anh đi vui thú nhưng anh cáo từ. Anh thấy từng sợi gân, từng thớ thịt đều nhão nhùng, mệt mỏi như tâm hồn chán chường rệu rã... Có lẽ họ đã đánh thức được những đắm say thời trước. Có lẽ ngọn lửa hồi ức đã khiến họ tìm kiếm được bóng dáng của chính họ thời thanh xuân. Và giờ là cuộc truy hồi quãng thời gian đánh mất... Anh nhắm mắt nhưng vẫn nhìn thấy Miên vác cái bụng nghễu nghện phía trước. Gan ruột anh buốt rát. Không người đàn ông nào muốn nhìn thấy người đàn bà họ yêu dưới bộ dạng ấy, khi mà cái mầm sống làm méo mó thân hình thanh tú kia không phải là sở hữu của họ. Hồi Miên mang thai thằng cu Hạnh anh say đắm biết bao, anh hân hoan như đứa trẻ được quà, và rồi càng gần tới ngày chị ở cữ, thân thể chị càng sồ sề, mặt và chân chị càng phù nề anh càng thấy chị quyến rũ và xinh đẹp... Giờ anh mường tượng thấy Miên dưới dáng vẻ nặng nề đó, mái tóc rũ bên vai, nhưng gã đàn ông ôm chị, vuốt ve hôn hít chị lại là kẻ khác... Người ta vẫn quý trọng mối tình đầu. Vẻ đẹp hiện lên trong bình minh cuộc đời, tựa ánh mặt trời lúc rạng đông... Câu văn cải lương này mình đọc trong cuốn sách nào nhỉ? Vậy mà thứ văn chương đó lại chính xác. Chỉ riêng ta thiệt thòi. Ta không có tình đầu... Nói cho đúng, mối tình đầu của ta chính là Miên. Này Miên, tôi yêu em và em yêu kẻ khác... Tựu trung trần gian là trò mèo đuổi chuột liên hồi... Em yêu anh ta vì lẽ gì vậy? Anh thầm thắc mắc và biết mình là kẻ ngu ngốc. Tình yêu là tình yêu. Nó chẳng có cơn cớ gì, chính anh hiểu điều ấy. Nhưng sau bao nhiêu dằn vặt anh vẫn không tìm được lối thoát và anh nhục nhã thú nhận với chính anh rằng anh ghen, anh thù cái gã anh chưa từng nhìn rõ mặt, một thanh niên dặt dẹo, đen đủi, bần hàn như người ta thường miêu tả với anh. Anh ghen với kẻ yếu đuối đó bởi vì... kẻ yếu có một thứ vũ khí không ai đọ nổi, ấy là lòng thương cảm họ dấy lên trong trái tim người khác... Này Miên, tôi biết tôi là kẻ chiến bại trong cuộc đọ sức, bởi anh ta có thứ vũ khí đầy ma lực kia... Và rồi anh mơ ước được trở thành một gã đàn ông nào đó, chẳng phải là anh, nghèo nàn và bất lực... miễn để kêu gọi nơi trái tim người đàn bà anh yêu niềm thương cảm...
Quãng thời gian đó kéo qua một mùa Xuân, rồi tới ngày bất chợt ông già Lư xuất hiện. Một nỗi lo âu trên gương mặt khắc khổ của người quản gia trung thành:
- Thưa ông, có việc đột xuất khiến tôi phải đến lĩnh ý của ông.
Anh bảo ông già ngồi uống trà rồi hỏi:
- Bác nói đi, có gì vừa xảy ra trên đó?
- Thưa ông, tôi vừa đưa bà từ bệnh viện về.
Anh cúi xuống châm thuốc để tránh ánh mắt của kẻ đối thoại, và sau khi kéo mấy hơi thuốc dài anh cất tiếng, vẻ bình thản lạnh lùng:
- Mọi sự tốt lành cả chứ?
Ông già nhìn anh dò hỏi:
- Thưa ông, ông muốn nói điều chi?
Hoan bảo:
- Bác chăm sóc cô ấy đầy đủ như tôi dặn chứ.
- Thưa vâng.
- Tốt.
Anh gật đầu và trong cử chỉ ấy tim anh đau nhói dường như một sợi gân nơi cổ được nối thẳng với quả tim làm nó thương tổn. Có lẽ người quản gia phát hiện được trên gương mặt anh điều chi lạ lùng, ông ta bối rối ngừng lời, còn anh, anh đứng lên sải bước trong phòng vài lượt rồi bất chợt quay lại hỏi:
- Trai hay gái?
Ông già Lư ngẩng lên nhìn anh. Nỗi bối rối. Nỗi bối rối khiến cặp mi bạc phếch chớp lia lịa:
- Thưa ông... Ông không hay biết gì sao?
- Biết gì nhỉ?
Hoan hỏi lại và đột nhiên anh thấy nhịp tim anh ngừng hẳn, dường như có một biến cố thật khủng khiếp sắp xảy ra, một biến cố không chờ đợi, cũng không thể đoán định:
- Nào, bác nói đi...
Anh dằn từng lời và ngồi xuống ghế, nhìn thẳng vào mặt người quản gia. Ông già Lư không chịu nổi ánh mắt đó, cúi xuống:
- Thưa ông, bà nhà không sinh con.
- Bác nói gì?
- Ông Bôn không có khả năng sinh con bình thường. Vả lại, chính bà nhà đã có lần tự hủy thai, và lần bạo động ấy đã khiến bà nằm ốm liệt cho tới ngày ở cữ.
- Tự hủy thai?
Hoan gần như quát.
Ông già Lư chưa kịp trả lời, anh đã nhắc lại câu hỏi:
- Bác nói cho rõ, tự hủy thai là thế nào?
- Thưa ông, bà nhà đã lao vào cánh cửa buồng nhà ông Bôn mấy bận cho cái thai trụy ra... Không riêng bà Huyên mà cả Xóm Núi biết rõ chuyện này...
... Cả Xóm Núi biết nhưng hai bà chị ta không hề cất tiếng... Những người đàn bà xảo quyệt này. Thật sự là họ đã đầy ải ta mấy tháng ròng. Ta sẽ trừng trị họ... Ta sẽ không tha thứ...
Ý nghĩ đó bật lên trước tiên. Hoan đưa mắt nhìn hai bà chị nhưng họ mải giao hàng cho khách. Anh uống một ngụm trà rồi nói:
- Ðáng tiếc thật.
Và anh châm điếu thuốc thứ hai với dáng điệu lạnh lùng điềm tĩnh trong lúc con tim hổn hển từng lời... Em không yêu anh ta, không yêu, không yêu... Em muốn xóa bỏ dấu tích của cuộc chung chạ. Chỉ tình yêu đích thực mới xứng đáng đơm hoa kết trái. Vậy cuộc chung sống của em với anh ta vẫn chỉ là cuộc lưu đầy. Trái tim em vẫn thuộc về tôi. Với tôi, bấy nhiêu là đủ...
Anh uống cạn chén trà và hỏi:
- Tại sao bác không nói chuyện này sớm hơn?
Người quản gia ngớ ra một khoảnh khắc, đoạn hạ giọng:
- Thưa ông, mọi chuyện xảy ra tôi không tiện nói thẳng với ông, nhưng có kể tường tận với bà Châu... Chính bà Châu yêu cầu như vậy...
- A... Có lẽ chị tôi quên mất... Ðợt vừa qua thay đổi nhiều mặt hàng...
Hoan trả lời nhưng một lần nữa cơn giận dữ lại sôi lên trong máu. Ông già Lư tiếp tục:
- Thưa ông, sức khỏe của bà không tốt. Tôi muốn đưa bà về nhà nhưng bà nhất quyết chối từ.
- Tại sao? Bác cần nói cho cô ấy hiểu rằng đó chính là nhà của cô ấy, và cô ấy có toàn quyền sử dụng.
- Tôi đã nói đi nói lại nhiều lần. Nhưng bà vẫn khăng khăng từ chối. Bà nói rằng bà không muốn làm ô uế căn nhà chung. Bà giữ sự thanh sạch đó cho cậu Hạnh...
Trời đất ơi, em muốn giữ cho ngôi nhà không ô uế? Nó là Thánh địa của em, là ngôi đền thờ phụng tình yêu không thể để rác rưởi lạc vào... Bởi thế em tự giam cầm mình trong căn nhà lá tồi tàn nhất vùng, trong gia cảnh bần hàn ti tiện...
Hoan mường tượng tới căn nhà tranh nơi Miên đang sống. Anh tin chắc nó cũng tựa như những nơi lụp xụp tồi tàn anh từng chứng kiến. Một mái lá sơ sài, ẩn chứa các loại sâu bọ gián kiến và côn trùng, thường gần kề bếp nấu và chuồng nuôi gia súc, mùi khói rơm ra lẫn mùi phân tẩm liễm không gian. Nơi đó, Miên sẽ phải gò lưng thổi lửa, sẽ ràn rụa nước mắt khi gió đổi chiều, sẽ chẳng có một góc tắm rửa kín đáo, kể chi đến than củi đun nước nóng thường xuyên... Vợ anh đã phải chịu cảnh sống bần hàn đó chỉ vì chị muốn giữ sự vẹn toàn của tình yêu cũ, không dám mang tấm thân chẳng còn trinh tiết trở về Thánh địa lưu giữ những di vật tình yêu.
Người vợ tội nghiệp của tôi, em muốn giữ ngôi đền thanh sạch nhưng thân xác chúng ta đều đã ô uế mất rồi...
Ý nghĩ ấy khiến anh mỉm cười chua chát. Qua đám khói thuốc anh thấy hiển hiện lên gian buồng nhơ nhớp che tấm màn đỏ, chum nước vắt tấm khăn ướt sũng, chiếc thau nhôm đựng nước tiểu meo móp dưới gầm giường, anh hình dung gương mặt mỏng quẹt với chiếc cằm nhọn hoắt của cô điếm, cặp mắt chó giấy tô vẽ, những chiếc móng tay sơn long lở bấu lên cánh tay anh... Liệu Miên có hình dung nổi những tình cảnh anh trải qua hay không? Chắc hẳn là không. Một người đàn bà chất phác, tâm hồn tẩm liễm những niềm tin tôn giáo như chị không thể tưởng tượng nổi cái cảnh "vào nhà xí công cộng đại tiện"... như anh đã cùng trải nghiệm với gã lái buôn Căng. Có lẽ trong suy nghĩ của chị, anh đang tìm kiếm một tình yêu mới, tiến hành một cuộc hôn nhân mới. Và hẳn trong niềm tin của chị, anh luôn luôn là người phong nhã, trang anh hùng mã thượng chứ không phải gã đàn ông vậm vạp hổn hển chạy theo Căng, chui qua mọi cánh cửa tăm tối, lách qua những con hẻm ngập ngụa nước cống lẫn nước tiểu, những mảnh sân dồn tụ rác thối, leo qua cây cầu thang bụi bặm để chui vào một ổ chứa mạt hạng nơi ngoại ô...
Trong giây lát, quãng đời đã qua như cuốn phim chiếu lại, các hình ảnh tiếp nối lướt trôi, cuộc diễu hành của dĩ vãng cuồn cuộn như nước thoát nơi cửa sông, và trong dòng chảy đó mọi cảm xúc đan chéo chồng chất xô đẩy, mạch thời gian hòa trộn, các đường dây đứt nối, gút thắt, rối ren... Hoan vừa ngửi thấy mùi ẩm mốc hôi hám nơi ổ điếm, lại vừa nhớ cung bậc giai điệu của các loài hoa trước sân ngôi nhà Xóm Núi, dạ hương góc này và hoàng lan góc kia... những mùi hương câm lặng bỗng dưng cùng cất tiếng thở than, hờ gọi. Anh vừa nhìn thấy anh trơ trọi trên bãi biển, thấy anh xanh xao phờ phạc trong góc một quán trà lại vừa thấy anh dạo bước trên những con đường Xóm Núi, trên mảnh sân xạc xào lá rụng, giữa những rặng cà-phê chín. Rồi anh nhớ những lưỡi lửa vàng liếm dưới đáy chảo, trong gian bếp ấm sực, nơi Miên thường nấu những món ăn quen, không biết tiếng cười của chị hay lửa đã làm tan sương giá mùa Ðông?
Khi em quay lưng đi, búi tóc xổ xuống đầy lưng... Suối tóc huyền... Ta thích cách nói của văn chương thời lãng mạn. Bởi cho dù cũ kĩ, chỉ nó mới tả được vẻ đẹp của Miên... Nhưng sao bỗng dưng ta lại nghĩ đến văn chương? Cuộc sống chẳng văn chương chút nào. Nó trần trụi và khốn khổ...
Phải, cuộc sống trần trụi khốn khổ, anh đón trước điều ấy vì anh hơn Miên bảy tuổi đời và anh là đàn ông, người có trách nhiệm lèo lái con thuyền. Anh đã phòng ngừa cái khốn khó và đểu giả của cuộc đời bằng sự mẫn tiệp lẫn lòng trắc ẩn. Vào cái tuần lễ cuối cùng họ chung sống, anh đã toan tính trước nỗi nhọc nhằn Miên sẽ phải gánh chịu. Dù họ chìm đắm hai lần vào cơn dày vò chia ly và đam mê tình ái anh vẫn đủ tỉnh táo để thu xếp các món tiền, món đưa trước, món đưa sau, đủ khôn ngoan thuyết phục người đàn bà anh yêu, bởi sự khẳng khái nơi chị khiến anh yêu chị bội phần. Giờ, anh thấy rằng tiền chỉ đỡ cho Miên những khốn khó vật chất nhưng không cứu chị khỏi sự bất hạnh. Còn anh, anh đã không đón trước nổi những dày vò của bản thân, không hình dung nổi cuộc đọa hành thân xác, nỗi đau đớn biệt ly, sự khủng khiếp của cô đơn khi con người bị hất khỏi lãnh địa tình yêu, nơi họ ký thác cuộc chọn lựa của mình... Anh đã không hình dung nổi... Phải, sự thật trần trụi và khốn khổ gấp bội những điều anh tưởng tượng và giờ đây khi ngoái nhìn quãng đời vừa qua anh không khỏi hãi hùng:
Tất thảy cái cuộc sống nhục nhã này, cho anh và cho em, từ đâu tới? Phải chăng chính từ chúng ta, chúng ta hèn nhát ngu muội, chúng ta là bọn lính bỏ chạy trước khi bóp cò súng, là kẻ lái thuyền buông tay trước lúc cầm chèo...
Trong giây lát, cơn bi phẫn lóe lên như tia chớp, soi rọi và xuyên suốt thời gian khiến anh nhìn rõ gương mặt thứ hai của chính anh, một gương mặt nhát nhúa ngu ngơ, vẻ nhẫn nhục vô minh và sự cam chịu của loài bò cày ruộng...
Hoan di mẩu dót thuốc vào chiếc gạt tàn. Cử chỉ ấy có một vẻ quả quyết bạo tàn khiến người quản gia đưa ánh mắt kinh ngạc nhìn anh. Nhưng ông vẫn im lặng. Ông đã giữ im lặng từ rất lâu, để anh đủ thời gian theo đuổi những suy tư thầm kín.
Ông già này quả là một người biết cách im lặng, và biết cách đợi chờ. Trời đã cho ta món quà vô giá...
Hoan nghĩ, và anh tức khắc phác ra kế hoạch hành động. Gần như tất cả mọi sắp xếp mọi toan tính đã được ghi trước nơi thầm kín nào đó trong óc não anh và lúc này các con toán chỉ cần hiện trên giấy trắng:
- Bác nhớ khu đồi Suối Nhỏ chứ?
- Dạ, khu đó cách vườn tiêu thứ ba chừng non hai cây số.
- Chúng ta đã cùng xem đất, đúng không?
- Dạ, ông nói thứ đất Suối Nhỏ thích hợp với giống tiêu Mã Lai.
- Còn gì nữa?
- Bên kia suối có thể san thành hai vườn cà-phê, độ chênh lệch chừng ba mươi lăm cen-ti-mét và người ta có thể đặt trạm bơm giữa hai vườn.
- Còn gì nữa?
- Cách chỗ lội chừng hai trăm thước có hỏm đất rộng, có thể cải tạo thành giếng lộ thiên tích nước. Và ông tính lượng nước chứa ở đó thừa thãi tưới cây ngay cả trong mùa hạn.
- Còn gì nữa?
- Phía dưới khu đồi xây trang trại là hẻm khuất gió, rất thuận lợi nếu đặt một chuồng nuôi gia súc và kho chứa cỏ khô.
- Cảm ơn. Trí nhớ của bác rất tốt.
- Ông quá khen.
- Tôi quyết định dựng khu trại Suối Nhỏ.
- Dạ, tôi nghe.
- Bác sẽ lên kế hoạch tỉ mỉ về việc này.
- Ông cần trong bao lâu?
- Càng sớm càng tốt.
- Tôi sẽ gắng.
- Thêm nữa, bác cũng phải lên kế hoạch xây trường tiểu học cho xã, ngay trên đất đình Xóm Núi. Việc này phải song song với việc xây khu trại. Ðây là món quà nhất thiết phải có với dân cư. Sau này chính có thể con trai tôi cũng sẽ học ở đó... Nhưng dù nó không học, trẻ trong xóm cũng cần đủ tiện nghi. Việc này với bác có khó khăn hay không?
- Thưa ông, không có gì đáng lo.
- Vậy bác quay về Xóm Núi ngay. Tôi muốn tất cả được thực hiện trong thời gian ngắn nhất.
- Tôi hiểu.
Người quản gia đáp.
Và ông ra về.
Hoan thầm hỏi. Nhưng anh không tìm câu trả lời. Toàn bộ kế hoạch cho cuộc quay về vừa chỉ hiện hình trong giây lát đã được thực thi tức khắc. Chưa bao giờ trong đời anh, anh có một quyết định đột ngột như vậy. Ngoại trừ lần gặp Miên trên đồi tiêu.
Lần ấy ngay tức khắc tim ta thốt tiếng kêu: Chính em là người tôi tìm kiếm, em là tình yêu của tôi cuộc đời của tôi. Và lần này cũng vậy. Quay về, đó là tiếng kêu của định mệnh...
Chương 24
Miên thức dậy lúc sáu giờ sáng. Chuông đồng hồ gõ thong thả từng tiếng một. Nằm trên giường, chị nhẩm đếm cho tới âm thanh sau chót. Tiếng chuông ấy, kèm theo khúc nhạc vui vẻ lảnh lót làm chị ngỡ ngàng. Chị ngồi dậy thầm nói với mình: Ðây chính là nhà ta, của ta, và tiếng chuông kia vốn là những âm thanh cũ... Tuy thế, Miên vẫn ra phòng ngoài, ngắm lại chiếc đồng hồ treo tường như chưa tin rằng nó đã treo ở đó từ lâu, từ lúc ngôi nhà này vừa được quét vôi còn khu bếp và nhà tắm đang xây dang dở. Chiếc đồng hồ treo tường cổ, khung gỗ chạm cực tinh xảo và điệu nhạc thánh thót khiến không gian như cũng muốn ngân nga theo. Hoan đã mua nó tận Nha Trang, một thành phố chị luôn nghe anh nhắc tới: Bây giờ có nhiều loại đồng hồ báo thức. Ðủ mặt hàng của Nga, của Pháp, của Mỹ, của Ðức, của Nhật. Nhưng anh mua cho mẹ con em chiếc đồng hồ Thụy Sĩ bởi trước đây cha ưa thích điệu nhạc báo giờ này... Miên không biết gì về các loại đồng hồ nhưng đối với chị, điều Hoan đã nói tức là chân lý. Và ngay tức khắc, khúc nhạc thánh thót báo giờ hòa nhập vào tâm hồn chị. Nó, cũng như ngôi nhà, khu vườn, căn bếp không chỉ là một thứ tài sản nhưng là một bộ phận tạo thành cuộc sống. Từ ngày Hoan đón chị trở lại, tất cả bỗng như mới mẻ ngỡ ngàng. Chính Miên cũng không hiểu vì sao chị có cảm giác kì lạ ấy. Lúc đang còn sống dưới mái nhà Bôn, ngày ngày dắt cu Hạnh trở về đây, chị thấy mình như kẻ bị nhốt dưới hầm được trồi lên mặt đất. Mỗi sáng, khi đi qua cổng, giật dây chuông, đẩy cánh cửa gỗ, một niềm vui sướng trẻ thơ xâm chiếm tâm hồn chị, và chị bước trên con đường nhỏ dẫn vào sân như kẻ được dẫn tới địa đàng. Chị thường tỉ mẩn nhổ những mầm cỏ trồi lên nơi kẽ gạch, thường cặm cụi tỉa lá cho các khóm địa lan và đứng hàng giờ ngắm những chùm hoa mong manh đọng đầy sương sớm. Chị cũng thường vun lá khô, lượm những trái cam rơi hoặc những đám hoàng lan chín nẫu rụng tơi bời quanh gốc...
Tất thảy những công việc vặt vãnh ông già Lư đã nhiều lần năn nỉ chị để đó cho ông... Bất cứ thứ gì liên quan đến ngôi nhà đều làm chị say mê. Dường như mọi vật có linh hồn, chúng chờ đợi chị. Và chị, bao lần thầm nói: Tất cả những gì nơi đây, trong khu vườn này, trên mảnh đất này, dưới mái nhà này là của tôi, thuộc về tôi...
Giờ đây, khi đã thật sự quay về, khi đã thật sự ngồi dưới mái nhà cũ, chị lại hoang mang. Một nỗi hoang mang câm lặng. Nó không dám cất lời dù là lời thầm trong óc não. Nó cũng không dám nghĩ, bởi nó chỉ là sự manh nha của ý nghĩ, vụng lén và nhát nhúa, nhát nhúa và hèn mọn đến mức cái manh nha đó mãi mãi đứng trong cõi mù mờ, không bao giờ khởi phát thành ngôn từ... Nhưng Miên biết rằng sự hoang mang đang ngự trị. Nó cũng như khí trời. Không nhìn thấy, nhưng biết rằng có. Ðang có... Chị đứng ngây dại ngắm chiếc đồng hồ, những đường trổ xung quanh mặt kính, và quả lắc đong đưa không mệt mỏi. Buổi tối đầu tiên từ nhà Bôn quay về chị mời dì Huyên ngủ lại. Hai người đàn bà nằm hai bên, đứa trẻ ở giữa. Nó là kẻ sung sướng nhất bởi nó được lấp đầy và nó ngủ tức khắc giấc ngủ thần tiên. Miên không ngủ. Chị nhìn ra vườn.
Khuôn cửa rộng với hai tấm rèm vừa giặt sạch. Bao đêm chị mơ được quay về đây, ngủ trên chiếc giường này nhìn vườn cam bên ngoài xao động. Ðêm không trăng. Và khuôn cửa im lìm. Ngọn nến cháy trên chiếc giá đồng đặt trên cây kỷ cũ. Vẫn chiếc tủ chân quỳ ba buồng, và bên kia là tấm gương lớn, nơi Hoan bắt chị thử lần lượt những tấm váy anh mua. Gian buồng được giữ nguyên như cũ. Ðồ đạc không đổi thay, không thêm bớt. Vật nào ở đúng vị trí vật nấy, không xê dịch một ly. Chị muốn như vậy. Hoan cũng muốn như vậy. Và người quản gia đã thực thi ý muốn đó một cách trung thành.
Như cũ... nguyên như cũ... Nhưng chẳng thể nào như cũ. Miên không còn là Miên ngày trước...
Chị giật mình khi thấy chị buộc miệng thành lời. Dì Huyên cựa quậy đôi vai, thở dài:
- Cố mà ngủ đi con.
- Con tưởng dì đã ngủ?
- Sao dễ dàng thế được...
- Con không hiểu rồi đây sẽ sống ra sao?
- Chỉ Trời Phật mới hiểu được mọi sự... Người trần mắt thịt sống đến đâu hay tới đấy thôi... Dì chỉ e xóm làng đàm tiếu.
- Con chẳng sợ đàm tiếu... Kẻ nào mở miệng nói kẻ ấy tự giỏng tai nghe.
Bà già thở dài lần thứ hai và sau một hồi yên lặng bà cất tiếng:
- Từ xưa cổ nhân đã dạy: Giơ tay mà hứng nước trời, tránh sao cho nổi những lời thế gian... Vậy mà cha ông ta cho đến đám con cháu bây giờ vẫn sợ nhất lời bấc tiếng chì của xóm giềng làng nước... Cứ nhớ lại hồi thằng Bôn mới về, đám đàn bà Xóm Núi rỉa rói, cạnh khóe mà ghê răng...
- Qua cái đận ấy rồi dì ạ... Giờ đứa nào xỏ xiên con mắng vào giữa mặt...
Dì Huyên không đáp. Thái độ cứng rắn của Miên làm bà kinh ngạc.
Lần đầu bà nhận thấy đứa cháu nhu mì đã thay đổi và sự thay đổi ấy khiến bà vừa ngỡ ngàng vừa kính nể. Nhưng vốn là người kín đáo bà im lặng.
Miên không nói gì thêm. Ðêm ngập đầy tiếng côn trùng than thở. Vài giờ nữa trôi qua, trong các xóm xa tiếng gà báo canh táo tác cất lên sau đó tiếng lạch cạch ngoài phòng khách vọng vào, kèm theo mùi trà ướp nhài thơm ngát. Người quản gia đã thức giấc pha trà uống. Trong gia tài còm cõi ông đem tới đây có bộ độc ẩm, đó là vật bất ly thân của ông cả ngày lẫn đêm. Giống loài hạc, ông ăn ít, ngủ ít, nhưng lúc nào cũng tỉnh táo và thường mỗi bận uống trà cặp mắt ông khép lại dường như chất nước kích thích kia không đem cho ông sự hưng phấn mà mang tới những cơn mơ thức cùng những giây phút mơ màng.
Sau tiếng gáy dáo dác của lũ gà trong xóm, bầy trống chuồng nhà nhất loạt gáy theo. Dì Huyên nhỏm dậy:
- Cố ngủ đi con... Tao ra kiếm chén trà vậy.
Bà già ra phòng ngoài, tiếng dép lê lệt xệt. Miên nghe tiếng người quản gia mở tủ kính, hẳn để lấy ấm lớn pha trà, rồi tiếng trao đổi thì thào của dì Huyên với ông, cả hai đều cố giữ yên lặng cho chị ngủ cho dù họ biết rõ giấc ngủ đó đêm nay không thể tới... Vì sao, vì sao nhỉ? Chị cất tiếng thầm hỏi mà không biết muốn hỏi điều gì, chỉ thấy một sự bất an, một nỗi tròng trành đang đu đẩy. Như chị không nằm trên giường mà trong một con thuyền không buồm không lái. Cu Hạnh trở mình. Miên lui ra một chút, nhắm mắt, bất chợt chị thấy hai cánh tay mình đang gác trên trán. Chị kéo tay xuống, một tay đặt lên đùi con trai, tay kia thả xuôi, ép vào hông... Vì sao nhỉ? Câu hỏi mơ hồ kia lặp lại như tiếng sóng từ con hồ xa ngái, con hồ thơ ấu miền quê xưa vọng tới. Miên lơ mơ ngủ, nhưng vài phút sau chị giật mình khi thấy cả hai cánh tay chị đã tự động gác lên trán, và thân chị cứng đơ trong tư thế xác chết chuẩn bị nhập quan... Hiểu rồi, hiểu rồi, giờ ta đã hiểu ra rồi... Một ý nghĩ vụt tới như dao chém khiến chị ngồi bật dậy. Cuộc chung sống với Bôn tuy không dài lâu nhưng đã tạo cho chị những thói quen gớm ghiếc. Chị đã quá quen với tư thế của một kẻ bất hợp tác, dù có đôi lúc phải tòng phục nhưng luôn luôn sống trong ý thức đối kháng và phòng ngừa. Chị không còn nhận thấy kiểu nằm ngủ cứng đơ, thẳng cẳng với hai cánh tay gác lên trán, vừa bất động như một xác chết vừa gìm giữ và chuẩn bị các khả năng phản công là kì quái đối với những người đàn bà bình thường. Trở lại căn phòng cũ chị mới thấy mình lạc lõng. Khi cánh tay chị vật xuống, nó không gặp tấm chiếu trải trên lớp ván gỗ như ở giường nhà Bôn mà là lớp vải phủ trên nệm dày mềm mại. Một bên vai và sườn chị luôn co cứng, bởi phía đó tiếp giáp với Bôn, các cơ bắp bị gắn còi báo động thường trực không dễ đàn hồi. Ðã mấy lần Miên cố tình nằm nghiêng, đè lên vai trái để xóa đi những tín hiệu cũ nhưng lát sau sự ngột ngạt và nỗi lo sợ cố hữu khiến chị phải đổi lại tư thế. Như vậy, không chỉ những chung chạ, không chỉ nỗi ê chề của lần thai nghén và kỉ niệm kinh hoàng khi sinh nở khiến chị không bao giờ còn trở lại là Miên ngày xưa mà ngay đến những thói quen nhỏ trong sinh hoạt cũng đã đẩy chị sang một con bờ khác...
Gà gáy sang canh hai, rồi gà gáy canh ba... Dì Huyên vẫn ngồi uống trà to nhỏ chuyện trò với người quản gia. Còn chị, chị ngồi nhìn nến cháy, nhìn đứa con trai say ngủ, những đồ vật trong căn buồng... vương quốc bị mất đi giờ đã chiếm lại được, duy chỉ có chủ nhân của chúng là không thể tìm lại niềm vui sướng và sự an bình đã mất...
Từ đêm ấy đến sáng hôm nay đã ba tuần hơn, sắp một tháng tròn, Miên vẫn chưa xóa được sự lạc lõng ngay chính trong tâm hồn chị. Chị đã tập, và đã kéo được một cánh tay xuống. Bây giờ chị chỉ gác một cánh tay phải lên trán khi ngủ, chị cũng đã nằm nghiêng được sang bên trái tuy chỉ một vào khoảnh khắc thôi. Nhưng nỗi hoang mang vô ngôn và mù mờ kia vẫn theo sát chị, nó như một thứ sương mù, một đám hơi ngưng đọng trong khe núi, không thể nắm bắt, không thể xua đuổi. Có những buổi sáng, khi mở mắt không nhìn thấy những đốm nắng lọt qua kẽ mái tranh đầu hồi nhà Bôn, chị ngơ ngác chẳng biết mình mê hay tỉnh. Cho tới khi cu Hạnh thức dậy hoặc nhõng nhẽo vòi ăn sáng, hoặc rúc vào đùi chị đòi ngủ nướng Miên mới tin rằng chị đã trở về nhà cũ và sống cuộc sống thật sự của mình. Nhưng ngay cả cái cuộc sống chị nhiều lần tự khẳng định với bản thân cũng tròng trành như con thuyền không lái...
- Thưa bà, bà có uống trà để tôi pha.
Người quản gia đã tới sang lưng chị, lên tiếng. Ông luôn có giọng nói nhẹ nhàng, bình thản. Không chờ Miên trả lời ông nói tiếp:
- Ðiệu nhạc của chiếc đồng hồ này hay lắm. Ông nhà thật sành.
Miên quay lại:
- Bác biết nhiều loại đồng hồ chứ?
- Thưa vâng... Tôi đã làm công cho rất nhiều chủ. Nhiều người giàu sang hơn ông, nhưng không sành, dù họ lớn tuổi và chán chê lăn lộn.
Miên không biết nói gì thêm. Thật sự chị cũng không thể nói gì thêm với ông bởi có lẽ ông còn hiểu Hoan và biết đánh giá anh rành mạch phân minh hơn chị. Chị chưa từng đi tới thành phố nào ngoài thành phố sinh ra anh, chưa từng biết chân trời nào ngoài những chân trời anh đã vạch ra cho chị. Anh là vũ trụ lớn lao bao bọc, che trùm và bởi thế vừa gần gụi vừa không sao đo lường cho thấu... Chừng như đọc được nỗi bối rối của Miên, người quản gia nói:
- Giờ đã sáng, bà dùng bữa trước hay đợi cậu nhà?
- Sao cũng được bác ạ.
- Vậy mời bà xuống bếp, tôi đã nấu sẵn nồi súp bò. Ông muốn bà chú ý tới các bữa ăn hơn.
- Bác không nên quá bận tâm vì tôi... Tôi tự lo được.
- Không có gì đáng bàn, thưa bà.
- Một mình bác phải toan tính cả khu Suối Nhỏ lẫn trường học.
- Mọi việc đã xong xuôi, tôi đã khoán và người thợ cả phải trông coi. Họ làm tới đâu, tôi sẽ ra nghiệm thu tới đó. Tiền công chỉ được trả sau khi nghiệm thu tốt.
Miên trùm khăn trước khi bước xuống sân. Chị vẫn chưa hồi sức. Buổi sáng thức dậy chị vơ được cả nắm tóc rụng trên mặt gối. Một gợn gió nhẹ cũng làm chị ù tai, những cơn ù tai kéo rất dài và đôi khi có tiếng rít ghê rợn tựa hồ có ai đặt bễ than lò rèn trong đầu chị. Lần sinh cu Hạnh, chị chẳng thấy mảy may những dấu hiệu đó. Lần này... Nhưng làm sao mà so sánh được? Sông nhiều khúc và đời nhiều ngả rẽ. Có lẽ kiếp trước chị đã nợ nần Bôn nên kiếp này chị phải trả anh... Mình đã từng thù oán, đã từng căm ghét con người đó nhưng bây giờ không còn như thế... Mình đã từng hả hê khi nhìn thấy anh ta đau khổ nhưng bây giờ... Chị nghĩ, khi kéo hai vạt khăn che kín tai kín cổ để đi qua khoảng sân rộng đầy gió. Sân rộng, vườn cũng rộng, ngõ sâu nên gió thổi lồng lộng như ngoài đường. Bước vào bếp, Miên khép kín cửa.
Ông già Lư đã đặt sẵn lò than sưởi dưới chân Miên. Chờ chị ngồi xuống ghế ông đem tới bát súp nóng. Mùi thịt bò ướp ngũ vị bốc lên đánh thức cơn đói và cùng với cơn đói, nó kéo đến một câu hỏi mơ hồ... Ăn gì nhỉ? Anh ấy ăn gì buổi sáng hôm nay? Những đồng tiền ta để lại chắc đã cạn từ lâu. Trong căn nhà đó không móc ra vật gì có thể bỏ vào nồi, nương tiêu với nương cà-phê đang còn lút cỏ... Khốn khổ cho Bôn. Cái câu hỏi mù mờ đó mỗi lúc mỗi rõ rệt hơn thoạt đầu nó giống như một âm vọng xa vời rồi dần dà nó cất thành tiếng, bật thành câu rành rọt và mạch lạc. Lúc Miên ăn hết bát súp, ông già Lư mang tới cho chị chén trà gừng nóng chị uống từng ngụm, cứ mỗi ngụm chị lại hình dung thấy gương mặt Bôn một cách sống động hơn... Ta không còn căm ghét Bôn bởi chính anh ấy cũng chẳng sung sướng nỗi gì, bởi anh ấy cũng biết phận mình nhục nhã... nếu ta ở trong tình cảnh của Bôn... Chị tự hỏi, và mường tượng lại buổi sáng khủng khiếp chị đã lao vào cánh cửa để trụy thai ra trước mặt Bôn, chị đã sung sướng hả hê, nỗi hả hê ác độc chị chưa từng biết, một sự sung sướng man rợ và tàn nhẫn chị chưa từng mường tượng sẽ nếm trải trong đời...
Hôm ấy Bôn đã quỳ xuống lạy sống chị ngay trước mặt dì Huyên. Nhiều ngày sau đó anh nhìn chị với cặp mắt kẻ tội đồ. Lưng Bôn còng xuống, mặt xám ngoét, nhiều lúc anh thở dốc và hụt hơi như một lão già sắp tới cõi. Ðêm đêm anh không còn dám trèo lên giường cùng lúc với chị. Anh thường quanh quẩn từ trong nhà ra sân, rồi từ sân lại vào nhà chờ chị lên giường trước. Miên yên vị hồi lâu anh mới rón rén trèo lên, nằm ép sát vào mép giường hệt như con gián. Những đêm ấy Miên khó ngủ, chị thường gác hai cánh tay lên trán, lặng lẽ quan sát anh. Một chút dửng dưng, một chút lạ lùng, một chút thương hại. Chị biết anh đã hoàn toàn kiệt sức sau một đêm rồ dại và giờ đây chỉ còn là bóng của chính cái mầm sống anh đã gieo trong thân xác chị. Rồi một đêm nào đó, chị ngủ thiếp đi. Khi chị bừng tỉnh giấc gà đã gáy canh hai. Bôn chưa ngủ, ngồi chồm chỗm dưới chân giường hai tay bó gối. Ánh đèn hắt vào cặp mắt u tối của anh.
Ðôi mắt ấy như hang động bị bỏ quên, chưa ai từng đặt chân tới chưa ánh đuốc nào soi rọi. Anh ngồi như tượng đá khiến chị không dám cựa mình. Thời gian tiếp tục trôi và chị tiếp tục theo dõi anh với nỗi tò mò khắc khoải. Chị thấy anh bắt đầu thầm thĩ vơi ai đó, như với ngọn đèn, với bóng tối ngoài sân, hoặc với chính anh. Những tiếng thầm thĩ rất khẽ, quá đỗi khẽ khàng, như không còn là tiếng người mà tiếng hồn ma. Từ hai hốc mắt anh, những dòng lệ từ từ chảy, ánh lửa soi vào chúng, lấp lánh. Bôn không đưa tay áo chùi, có lẽ anh không biết mình đang khóc. Những dòng nước mắt lặng lẽ chảy qua hai gò má, xuống cằm, sau rốt rớt xuống tấm áo quân nhân cũ anh thường mặc khi đi ngủ. Chị nao lòng. Tựa lúc anh đưa cho chị bánh xà-phòng thơm, món quà duy nhất anh mang về sau mười bốn năm chinh chiến...
Tội nghiệp cho Bôn... Giá ta là đàn ông, và ở vào tình cảnh của anh ấy... Ý nghĩ ấy bất chợt dấy lên chút xót xa. Sáng hôm sau thức giấc, nỗi xót xa kia biến mất khi tiếng chửi con của Tá vang lên tru tréo:
- A, tổ sư con đĩ non này, mày không dậy đi làm lấy cứt đổ vào mồm hay sao? Vào nhà xem có còn hột gạo nào dính dưới đáy nồi không? Không có phải lo ra đồng lên nương xem ai còn hột thóc rơi củ sắn thối lượm về... Mày có số làm đĩ ngồi dạng háng ra cũng sẵn của ngon vật lạ đổ vào mồm không hả? Mày có phận ăn trên ngồi trốc mưa không đến mặt nắng chẳng xuống đầu cũng ních tiền đầy túi, gạo đầy chum hay không?
Từ ngày những đứa con Tá ném ớt bột vào mắt cu Hạnh, Miên không cho mẹ con họ vay gạo nữa... Tôi không có phận sự nuôi lũ vô loài. Anh nghe nhân gian nói đấy, chẳng ai mặc áo cà sa đi với ma... Chị bảo thẳng vào mặt Bôn và anh giữ im lặng. Những đứa cháu Bôn và người chị lăng loàn của anh không chịu được sự đổi thay ấy. Món viện trợ thường trực bị cắt, cuộc sống của họ bỗng trở lại cảnh lao đao khốn đốn thuở xưa, cái thuở chưa lâu nhưng họ đã kịp quên lãng. Bôn hiểu rằng đối với người dân quê, cái ý tưởng: Một người giàu sang cả họ được nhờ là lẽ đương nhiên, đương nhiên một bà mợ giàu phải bao bọc những đứa cháu nghèo đói bởi nếu không bà ta sẽ phải chịu sự dè bỉu của thiên hạ... Cái quân xanh vỏ đỏ lòng, mặt tươi như hoa mà lòng sâu dạ hiểm. Ai lạ gì lũ chúng nó: keo cú thì mới có, tham lam như chó mới giàu... Nhưng chúng bay đừng tưởng đời đời kiếp kiếp như vậy, rồi diều quạ sẽ mổ sạch kho tiền, lang sói sẽ tha nhẵn của nả, tới lúc chúng bay trần như nhộng không mảnh khố che thân... Rút cuộc, không chờ người đời dè bỉu mà chính Tá nhảy dựng lên chửi.
Miên đáp lại bằng sự im lặng khinh bỉ và một nỗi thích thú ác độc mà trước kia chị chưa từng có... Chị thường mở toang cửa buồng ngồi điềm nhiên nhìn người đàn bà bẩn thỉu rạc rài lồng lộn ngoài sân. Không hiểu ánh mắt dáng vẻ đài các hoặc chính làn da nước tóc cái nhan sắc trời cho của chị đã khiến Tá điên cuồng. Thấy những lời lẽ ác độc của mình không hề chạm đến da thịt, không gây vết xước cỏn con nào trong tâm hồn người em dâu, chị ta có cảm giác tất thảy những lời lẽ gươm đâm dao cắt kia quay trở lại nhắm vào mình. Tá nhảy lồng lên túm tóc đứa con này hoặc nắm lưng đứa con kia trút túi bụi vào chúng tất cả sự phẫn nộ và oán thù chứa đựng trong tâm hồn hoang dã và dơ dáy.
Những lúc ấy Bôn lặng thinh. Hoặc anh quay mặt vào tường vờ ngủ hoặc anh vớ mấy tờ họa báo cũ nát giở ra xem. Nhưng đến bữa cơm anh cúi gằm mặt không nhìn ra sân, ở đó lũ cháu anh đang xúm quanh rổ khoai ngô nấu... Lúc ấy ta đã hả hê bởi những kẻ ác độc phải sống một cuộc sống tương xứng với chúng, bởi loại đàn bà vừa lười biếng vừa dâm đãng lăng loàn như Tá phải chịu cảnh bần hàn ti tiện họ không đáng được hưởng một cuộc đời may mắn hơn... Giờ đây ta không còn hả hê... Giờ đây ta đã quên... đã quên...
Miên tự nhủ, có lẽ chị đã quên cái kỷ niệm đau xót ấy? Thực ra, chị nhớ rõ như nó vừa xảy ra ngày hôm qua. Nhưng chị đã quên lòng hận thù. Chị quên rằng khi nhìn thấy cặp mắt sưng phồng của đứa con trai, chị đã tính đập nát đầu từng đứa cháu của Bôn, chị đã tính ném mồi lửa vào mái nhà tranh của họ, hoặc xô từng đứa trẻ xuống giếng cho chúng dãy dụa dưới đó và thay vì con chị bị bỏng mắt thì chúng sẽ chết đuối trương phình hoặc ít nhất cũng no bụng nước... Tất thảy những hành vi độc ác nhất mà trái tim đau đớn và hận thù của người mẹ có thể nghĩ ra. Nhưng vào phút chót, chị chợt hiểu rằng đối với đám trẻ hoang dã kia mọi sự trả thù đều vô nghĩa, bởi chúng chưa phải loại người biết đau khổ. Bởi chúng chưa hiểu sự nhục nhã. Mẹ chúng cũng gần như vậy. Trong gia đình họ, người có khả năng đau khổ và nhục nhã nhất chính là Bôn, và vì thế chị đã để mặc cho lũ trẻ độc ác, những tên tội phạm chính thức đứng ngoài sân và hướng toàn bộ ngọn đòn thù vào anh, biết rằng sự tính toán của mình hoàn toàn chính xác...
Trong buổi sáng này, kỷ niệm kia trở lại, giống cảnh đồi núi ngày Thu với những nét phân cắt rõ ràng và một nỗi buồn không minh bạch... Vì sao nhỉ? Vì sao? Trên những giải đồi xào xạc mùa Thu thường mọc loài cỏ khô màu xám bạc, lá dài như ngọn lau trổ bông li ti mỏng manh, những sợi tơ mảnh hơn tơ bồ công anh, mảnh đến mức mắt thường khó nhìn thấy, những đám tơ cỏ ấy theo gió bay, vương vào tóc, đọng trong nếp áo quần, khi trở về nhà mới biết. Miên nhận ra nỗi buồn đang giăng mắc trong không gian chị hít thở, vây bọc chị cũng tựa như loài bông cỏ kia, nhìn không rõ nhưng chúng lặng lẽ chất đầy những góc sâu kín, ngóc ngách trong tim chị... Vì sao nhỉ? Vì sao? Khi ở dưới mái nhà Bôn, lòng oán thù pha trộn nỗi xa xót. Có lúc chị thương anh, và tưởng rằng chị có thể nghiến răng sống nốt quãng đời còn lại cho kẻ đã một lần mắc nợ...
Nhưng những khoảnh khắc đó càng ngày càng trở nên hiếm hoi, trong khi nỗi hờn oán lớn dần, tích tụ không ngừng, ngày qua ngày, tháng qua tháng.
Cứ cho rằng kiếp trước ta có nợ với Bôn, nhưng nào ai chứng kiến được điều đó? Vả chăng, dù có nợ, ta cũng đã trả đủ. Ta không thể tiếp tục sống với một hồn ma nhập thể. Thà rằng nhảy xuống vực còn hơn sống kiếp dang dở này...
Ðã nhiều lần bụng bảo dạ, Miên mường tượng tới cảnh chị nhảy xuống vực sâu như một lối thoát chóng vánh, thuận tiện, và chị đã nghĩ sẵn những lời trăn trối với con trai, với dì Huyên, với Hoan. Trong cơn tưởng tượng đó, chị đã tự khóc than mình, tự đi sau quan tài đưa mình về nghĩa địa, tự đắp cho mình những nhát xẻng cuối cùng để nấm mộ được cao và chị đã tự do đếm xem trong đám tang của chị, ai sẽ khóc nhiều hơn cả, đau khổ nhiều hơn cả. Rồi những cơn tưởng tượng qua đi, chị lại từ đáy vực trồi lên, tới nhà dì Huyên bồng bế hôn hít đứa con xinh đẹp, dắt nó về nhà cũ chơi, làm cho nó những món ăn và không ngừng mơ tưởng tới người đàn ông dưới thành phố. Chị biết chị chưa thể chết, bởi chưng ông Trời chưa thuận. Và bởi phía sau hình ảnh oai nghiêm và cao vòi vọi của ông Trời, vẫn là một người bằng xương bằng thịt, gương mặt sáng ngời với món tóc xòa trên vầng trán, khuôn miệng đam mê và đôi mắt nhìn như ve vuốt. Lần nào trở về nhà cũ chị cũng tới giường ngủ, ôm con nằm lên đó khi đứa bé bi bô trò chuyện chị nhắm mắt lại truy tìm những cuộc ân ái trong quá vãng. Thi thoảng chị dắt con leo lên sân thượng, ở đó, chị đưa mắt nhìn về phía chân trời, mênh mang nghĩ một ngày nào đó hai mẹ con sẽ đi về phía Ðông, nơi mặt trời mọc, nơi thành phố giam cầm một gương mặt yêu dấu.
Trong đáy sâu tâm hồn chị, tiếng thét câm lặng vọt lên: Ta sẽ cùng nhau, ta sẽ sống cuộc sống xưa cũ... Bất chấp tất cả... Không còn gì có thể chia ly, không còn gì ngăn cách... Tiếng thét đó câm. Vì câm lặng, nó dồn tích ngày này qua tháng khác trong tim chị chẳng khác chi những viên đá ném chồng chất lên nhau trong một hang sâu. Vì là tiếng thét nó rạch lên tâm hồn chị những vết cắt buốt xót chằng chịt. Càng ngày Miên càng thấy chị bị dồn đẩy, bị xô dạt tới bến bờ nào đó mà chị không định hướng nổi.
Nhưng chị biết giông bão đã tích tụ và chị vừa sợ hãi vừa chờ đợi tiếng sét... Cho tới buổi sáng Hoan dắt cu Hạnh bước vào gian phòng của Bôn, ấy là buổi sáng định mệnh. Chị ngồi bật lên khi nghe tiếng động đầu tiên, tiếng giày cu Hạnh đá vào cánh cửa. Con trai chị có thói quen ấy, không biết ai dạy, và dù chị đã nhắc nhở rất nhiều lần thằng bé vẫn không bỏ đi được. Miên vừa định cất tiếng gọi con bỗng nhìn thấy Hoan. Anh đang cúi đầu chui qua khuôn cửa. Khi bước vào phòng, anh ngẩng lên và bốn mắt họ gặp nhau. Tức khắc, Miên đổ xuống như một cây chuối bị chặt, òa khóc, Hoan nhảy một bước tới giường, bồng vợ trên tay. Vậy là sấm đã nổ, sét đánh tan những đám mây giông tích tụ bao ngày tháng. Những dòng nước mắt được gìn giữ tuôn trào. Bao nhiêu buồn tủi, hờn oán bị dồn nén cất thành những cơn nức nở những tiếng kêu vô nghĩa vừa trẻ nhỏ vừa não nề. Miên không biết chị đã khóc trong bao lâu, chỉ nhớ rằng đó là một quãng thời gian dài rộng bù đắp lại những khổ đau đã phải chịu.
Thoạt tiên, con trai chị sợ hãi khóc theo. Nhưng Hoan dỗ dành nó và chắc hẳn nó đoán được đằng sau tiếng khóc ấy mẹ nó không chỉ đau đớn mà còn sung sướng. Ðã từ lâu lắm, trước mặt nó mới hiện diện cùng một lúc cả hai người, dấu hiệu trọng đại đó hứa hẹn những tốt lành mới mẻ. Nó đứng im lặng bên cạnh Hoan, nghiêm nghị như một ông lão, mặc dù những đứa bé nhà Tá và nhà xóm giềng đang đứng lô nhô lốc nhốc ngoài cửa buồng trong số đó vài đứa đang cố sức nghểnh cổ kiễng chân, lè lưỡi ra trêu cợt. Miên khóc như vậy cho tới khi những cơn nức nở dần nguôi giảm. Lúc đó, Bôn bước vào. Anh đặt siêu nước cạnh chân giường, bước tới trước mặt Hoan:
- Ðây là nhà tôi.
Hoan gật đầu:
- Ðúng. Tôi không có ý định chiếm nhà của anh.
Bôn lại bảo:
- Miên là vợ tôi.
Hoan cười:
- Ðiều ấy cần xem lại. Anh có thể cho tôi xem giấy kết hôn của anh với Miên?
Bôn tái mặt. Gần như anh đột ngột bị câm. Và anh đưa mắt nhìn chị. Lúc đó, Miên ngừng khóc, chị nói rành rọt từng lời, vẻ lạnh lẽo và đôi phần tàn ác:
- Giấy kết hôn của anh đã đốt cùng mấy tấm quần áo cũ, vào ngày giỗ đầu. Ngày đó, cả xóm cùng chứng kiến.
Hoan chờ chị ngừng lời, móc trong túi một tấm giấy gập làm tư:
- Ðây là giấy kết hôn của chúng tôi, anh có thể xem.
Mặt Bôn xám ngắt. Bỗng dưng những tia lửa dữ dằn vụt cháy trong đôi mắt sầu thảm của anh. Anh giật mảnh giấy trên tay Hoan xé tơi bời, ném xuống nền nhà. Miên chồm lên định giật lại nhưng Hoan ghìm vợ xuống thản nhiên nói:
- Anh vừa xé bản sao. Tôi còn bản chính với một đống bản sao nữa ở nhà... Hãy nhìn kĩ lại xem: bản sao nên con dấu in mực đen còn bản chính con dấu đóng bằng mực đỏ.
Tới đó, Bôn không nói được lời nào cặp mắt anh đờ dại dần và toàn thân anh bắt đầu run bắn lên trước hết là đôi bàn tay buông thõng bên mình sau đó tới đôi vai rồi sau chót tới cái cằm, những thớ thịt hai bên cổ và mi mắt. Cái nhìn mờ mịt của anh hướng tới Miên như tia sáng cuối cùng của chiều tà, như bàn tay cuối cùng của kẻ sắp chết đuối vói lên mặt nước. Lúc ấy, Miên chẳng mảy may động lòng, chỉ thấy bực tức, nôn nóng khó chịu, giống kẻ bị đầy ải sống trong hang sâu rừng rậm quá lâu muốn ra khỏi những vách đá bịt bùng để thở hít nơi khí trời thoáng đãng.
Chính chị đã lên tiếng trước:
- Mình đi thôi, anh Hoan.
Hoan đáp:
- Phải, anh tới đây để đón em.
Chị nói tiếp:
- Ðể em thu xếp áo quần.
Hoan lắc đầu:
- Bỏ tất cả lại. Miên đứng lên tức khắc cầm tay con trai và hai mẹ con bước ra cửa.
Chính lúc đó, Hoan dừng lại:
- Anh Bôn, chúng ta đều là những người đàn ông không oán thù không nợ nần. Tôi rất cảm thông với hoàn cảnh của anh, nhưng cuộc đời có đường đi nước bước riêng của nó cả anh lẫn tôi đều không thể chống lại... Nhưng anh hãy tin rằng tôi luôn sẵn sàng giúp anh khi cần thiết. Nếu có lúc nào đó anh thấy rằng không thể sống ở đây, cứ lại đằng kia. Nơi đó, bây giờ là nhà của riêng Miên.
Trên gương mặt u ám của Bôn cặp môi nhợt như môi tử thi mấp máy:
- Tôi sống dưới mái nhà của tôi.
Hoan bước ra cửa, nhưng trước khi đi còn ngoái lại:
- Anh cứ suy nghĩ thêm... Chào anh...
Ðám trẻ con tò mò xúm đông xúm đỏ trước cửa buồng giãn ra nhường lối cho họ. Ngoài cổng, chiếc xe máy quen thuộc của Hoan đã dựng sẵn. Anh quay lại bảo Miên:
- Nào, em hãy trùm khăn lên.
Chị lẳng lặng trùm khăn, ngoan ngoãn như xưa và anh đưa mẹ con chị về nhà, trước những cặp mắt tò mò ẩn nấp sau các rặng rào và những cánh cửa láng giềng...
Ngồi trên xe Miên thở như người sắp chết ngạt được truyền khí lành, như một tù binh vừa thoát khỏi nhà giam không còn can đảm ngoái lại một lần nhìn nơi chốn cũ. Chị đã nghĩ không bao giờ còn quay lại cái ngõ lầy lội với cánh cổng bằng tre đan sơ sài tiều tụy đó, rằng tất cả đã ở lại phía sau và không sức mạnh nào có thể bắt chị ngoái lại. Những ngày tháng chịu đầy ải đã khiến chị trở nên bạo dạn, lì lợm, biết mài nanh giũa vuốt để tự bảo vệ mình, chị sẵn sàng nhảy xổ vào bất cứ kẻ nào dám tấn công, hoặc chị sẽ bước lên đấu trường trước tiên nếu kẻ thù hiện diện. Buổi sáng đưa Miên về, Hoan đã dặn ông già Lư làm sẵn bữa cơm. Trưa hôm đó họ đoàn tụ trong gian bếp cũ, ngồi ăn bên chiếc bàn thênh thang cũ, Miên ngỡ rằng cuộc sống của chị sẽ tái sinh và nhịp điệu xưa của cuộc đời sẽ hồi thức không mảy may suy suyển. Nhưng sau bữa cơm, Hoan bảo chị:
- Anh phải quay lại thành phố ngay. Sáng mai anh bay vào Bảo Lộc thu xếp công việc. Em ở lại cùng con. Ðây sẽ là nhà của em...
Chị kinh ngạc nhìn anh:
- Nhà của em? Anh nói năng sao lạ lùng?
Hoan nở nụ cười thầm kín và thay vì đáp lời chị, anh cúi xuống xoa đầu đứa con trai:
- Ở nhà với mẹ ngoan nhé... Lần này ba sẽ mua cho con hộp xếp chữ.
Miên hỏi:
- Anh đi luôn sao?
Và chị nhìn anh với cái nhìn buồn tủi, dằn dỗi nhưng anh không ngẩng đầu lên cứ ôm riết lấy đứa con để lảng tránh tia nhìn trách móc đó:
- Em hãy giữ gìn sức khỏe... Mọi việc anh đã dặn bác Lư...
Hướng gương mặt ra sân, anh đặt bàn tay ấm áp lên lưng chị thay cho một lời chào rồi ra đi. Miên ngồi lặng, cố ghìm giữ để khỏi òa khóc trước mặt người quản gia:
Anh ấy đã đón ta về đây rồi bỏ xuống thành phố tức thì. Ta chẳng còn nguyên vẹn như xưa... Và cuộc sống cũ chẳng còn trở lại.
Chờ cho tiếng xe máy của Hoan xa hẳn, chị vào buồng thầm khóc. Khi đã khóc no nê, chị đành tự an ủi mình rằng dẫu sao ở dưới mái nhà cũ, chị sẽ có được cuộc sống đích thực của mình. Nhưng cái cuộc sống đích thực ấy cũng không đến dễ dàng như chị tưởng tượng. Cảm giác lạc lõng khiến nhiều lúc chị tự hình dung mình là khách trọ còn chủ nhân chính của ngôi nhà này là ông quản gia với đứa con trai.
Chị đã chuẩn bị chống lại những kẻ tò mò tọc mạch, những kẻ ghen ghét đố kị, những bóng ma cư trú trong tâm khảm, những vong linh đầy quyền uy từng ngự trị hàng vạn năm trên cõi đất này đã buộc chị phải quay lại sống với Bôn... Thậm chí, chị đã tự dàn ra trong óc cảnh tượng ngày nào đó ông chủ tịch xã ông bí thư đảng ủy hay bà chủ tịch huyện hội phụ nữ sẽ rung chuông gọi cổng gặp chị và tuôn ra những thứ lý thuyết tràng giang đại hải để kết án chị, để kêu gọi lương tâm, tinh thần trách nhiệm và đứa hạnh truyền thống... Và trong tâm hồn đau đớn, trong trái tim giận dữ của chị bỗng vọt lên một dòng thác ngôn từ không phải thứ ngôn ngữ của những kẻ uyên bác mà là dòng nham thạch của người đàn bà bị đầy ải trong cơn phẫn nộ... Giống như kẻ mài gươm, ngày ngày chị mài sắc mọi lý lẽ để chống trả thiên hạ, để bảo vệ quyền sống của mình... Nhưng kẻ thù không hiện diện, ông chủ tịch xã, ông bí thư đảng ủy xã, bà chủ tịch huyện hội phụ nữ không tới. Các bóng ma truyền thống không còn xuất hiện dù những sớm sương mù hoặc đêm trăng suông lạnh... Ngày nào đó chuông cửa rung lên nhưng là vài người láng giềng tới thăm hỏi, ngày khác họ tới xin ít dầu cạo gió hoặc thìa đường về pha nước chấm, ngày khác nữa họ tới mượn chiếc cối xay cà-phê.
Thật lạ lùng, trong tất cả những câu chuyện xóm giềng nói với chị không mảy may có nửa lời ám chỉ cuộc sống của chị với Bôn, dường như điều đó không có thật, dường như chưa bao giờ chị bước chân khỏi ngôi nhà này, rời bỏ xóm giềng này để tới sống dưới mái nhà khác, với người đàn ông khác và gần gũi những người láng giềng khác... Kẻ thù đã chết. Những người sống giữa vẻ bình thản vô can như họ chưa từng xém đen xúm đỏ trong ngôi nhà của chị ngày Bôn về, chưa từng soi vào chị những ánh mắt đầy soi mói ác độc chờ đợi, chưa từng cất những lời răn dạy chì chiết bóng gió... Và các hồn ma cũng hoàn toàn biến mất, hẳn là từng đoàn từng lũ bóng ma xưa đã bị nhấn chìm trong chuyến đò qua sông âm phủ... Nhưng nỗi hoang mang không theo kẻ thù ra đi, Miên chợt nhận thấy nỗi hoang mang đã thay thế các bóng ma quá vãng, đã thay thế cái sức mạnh áp đảo vô ảnh vô hình của đám đông, cái thứ quyền năng người ta thường gọi là công luận và giờ đây chính nó ám ảnh, chính nó dằn vặt con tim chị.
- Thưa bà, bà uống cạn chén trà cho nóng. Trà gừng đối với phụ nữ sau khi... ốm là tốt lắm...
Ông già Lư cất tiếng.
Miên biết rằng chỉ chút nữa ông đã nói: Phụ nữ sau cơn sinh sản nhưng ông kịp tránh đi. Chị vừa thầm cảm ơn ông, vừa buồn:
Ðó là sự thực, tất cả mọi người đều biết, dù nói hay không. Ta đã từng sinh con với Bôn, dù chẳng được làm người nó vẫn là một chút máu rơi... Ta chưa nhìn thấy nó, cái khối máu thịt ta đã mang trong dạ ngót chín tháng trời...
Chị nhớ gương mặt ngây dại của Bôn khi người ta đuổi anh khỏi phòng hộ sinh, đó không còn là gương mặt con người, đó là nấm mồ nơi niềm hy vọng lẫn niềm vui sống của anh đã chết đã chôn vùi đã thối rữa. Chị nhớ cặp môi tái tê của anh run rẩy và từng lời thoát khỏi cặp môi đó, rơi xuống, lăn rời rạc như ai đó lăn từng từng viên sỏi trên sườn dốc. Anh gọi tên chị, anh gọi cái thai nhi vĩnh viễn không được sống kiếp người với một giọng khiếp nhược đau đớn xa vời giống người ta gọi các hồn ma bởi chính anh cũng là hồn ma đối với chị, là thây xác vật vờ bị oán thù muôn kiếp đối với cái sinh linh bé nhỏ bất thành nhân dạng kia vì lẽ anh vừa là kẻ tạo tác lại cũng vừa là đao phủ đối với nó, anh chưa cho nó sống cuộc sống của con người đã đầy ải nó xuống cõi ma nơi ấy trong bóng tối vĩnh hằng nó sẽ lạnh lẽo côi cút mù lòa câm điếc muốn kêu nhưng không có âm thanh muốn khóc mà không có nước mắt muốn than thở nhưng không có lời, và vĩnh viễn trái tim nhỏ bé trong cái hồn ma bất toàn ấy phải cam chịu nỗi đau khổ vĩnh hằng của kiếp ma không đầu...
Tại sao ta không nhìn nó một lần, dù chỉ trong giây lát. Ta là người mẹ nhẫn tâm...
Ngoài sân, gió lạnh bỗng ào ào thổi tung những đám lá khô, bốc bay lên như lũ bướm rồi ném chúng sang góc sân khác. Những chiếc lá khô vàng gợi tới các khu vườn mùa hạ, nơi chúng còn đang tung tẩy vẫy gió, nô đùa cùng chim chóc và vẩy lên trời muôn ngàn tia diệp lục... Khu vườn mùa hạ và những cánh rừng xanh thắm vừa thay lá. Tuổi thanh xuân... ai cũng có một thời son trẻ... Bất kể ai. Bôn cũng vậy. Anh ấy từng là một chàng trai khỏe mạnh, nồng nàn những ngày đến với chị... Miên nhớ buổi sáng hạ nào đấy, khi họ mới chớm yêu nhau, Bôn tới rủ chị lên rừng hái củi. Họ đã phải đi thật sớm để tránh lũ bạn thóc mách. Buổi sáng đó Miên không nhớ tới kì kinh nguyệt, chị đã không đem theo đồ lót phòng bị. Như tất cả các cô gái quê nghèo khó, chị thường dùng những tấm vải xô mềm để thấm máu rồi lựa lúc vắng người đem giặt. Lần ấy, chị đã kinh hoảng vì không thể tìm được mảnh vải hay nắm bông giữa chốn rú sâu. Máu chảy ròng ròng, chị đành bỏ gánh củi xuống, đứng sững giữa lối mòn khép chặt hai đùi cho máu thấm vào chiếc quần lụa đen. Bôn đi sau thấy Miên đứng khổ sở trong cái tư thế kì quặc ấy mà không dám nói với anh nửa lời. Khi anh hỏi:
- Làm sao vậy?
Chị không đáp, nước mắt vòng quanh. Bôn đã cười phá lên rồi bảo:
- Ðằng ấy phong kiến bỏ xừ, có ai nề hà chuyện ấy?
Rồi anh cởi tấm áo sơ-mi đang mặc, xé phăng hai cánh tay áo đưa cho chị:
- Cầm lấy này. Tớ ngồi quay lưng lại cho mà thay.
Lúc đó, dáng vẻ của anh mới đĩnh đạc làm sao, cặp mắt anh long lanh niềm vui sống, tràn ngập sự tự tin và những tia sáng hắt lên từ cặp mắt đó vừa tươi rói trẻ trung vừa thăm thẳm như chứa đựng phía sau những miền đất miền rừng chưa khai phá. Bôn không đẹp nhưng cặp mắt đen của anh có sức cuốn hút. Dân làng vẫn bảo:
- Không biết tổ tiên thằng này có phải người Chàm không? Sao mắt nó giống hệt mắt dân Chàm vùng Thuận Hải...
Chị chưa từng đến Thuận Hải, cũng chưa gặp người Chàm, nhưng chị đã từng có lúc say đắm đôi mắt anh, bóng tối luân chuyển dưới rèm mi dầy đen ẩm ướt sầu buồn, chị đã có lúc nhớ nhung đôi mắt và hình dáng đó...
Sao bỗng dưng ta nhớ lại buổi sáng hôm ấy, cánh rừng ấy, con đường ấy và tiếng cười trẻ trung của Bôn. Mắt anh ấy long lanh như lửa khi đưa cho ta hai mảnh cánh tay áo. Hai mảnh vải phim xanh kẻ ô trắng, chiếc sơ-mi cũ Bôn thường mặc lúc làm vờn hoặc lên rú hái củi đốt than.
Sao trước đây ta không thể nhớ được điều này?
Chị ngạc nhiên bởi khi đang còn sống với Bôn dưới mái nhà anh, biết bao nhiêu lần chị tự thuyết phục rằng mình đã có với Bôn mối tình sâu nặng, rằng điều ấy khiến chị phải gắn bó với anh cho tới lúc xuống mồ, đã bao lần chị triệu hồi cuộc tình cũ, bới tro than quá vãng hòng vãn hồi ngọn lửa lụi tàn... Nhưng chị càng muốn phục sinh cho mối tình đầu nó càng chìm nghỉm dưới đáy vực đen, những vọng âm tắt nghỉm trong tiếng gió gào, những hình ảnh cũ tan thành bụi tro trong khung trời mờ mịt khói, vẩn đục sương mù, những khung trời cũng nát tan rạn vỡ cũng bị hủy diệt như ngôi lều tranh lửa thời gian thiêu rụi... Giờ đây, khi chị đã về ngôi nhà của chị tin chắc rằng không bao giờ còn trở lại chung sống với người chồng thứ nhất, đinh ninh rằng anh chỉ là một đống đổ nát ở lại sau lưng và chị không cần thiết ngoái đầu nhìn... Phải, vào chính lúc đó các hình ảnh xưa sống lại, kỉ niệm này kêu gọi kỉ niệm khác và quãng đời đã qua lần giở như cuộn chỉ, tuy không dài nhưng đủ làm rối ren gan ruột...
Không, ta đã trả đủ món nợ đời. Cả Xóm Núi không ai dám trách ta là người đơn bạc. Và nếu có ai dẩu miệng gây sự ta sẵn sàng cho họ nếm những lời chua chát. Ta chẳng còn nghĩa vụ phải quay đầu lại với Bôn...
Miên tự dằn lòng. Chị biết rằng đối với dân Xóm Núi sự cư xử của chị với Bôn là ngoại lệ. Không người đàn bà nào đủ khả năng tài chính lẫn sự hào phóng để nuôi một ông chồng bệnh như chị nuôi anh thời gian qua. Ðối với họ, tiền có giá trị rất lớn. Ðối với chị, chịu đựng những cuộc làm tình của Bôn mới là nỗi kinh hoàng, là cái giá thật sự phải trả cho quãng đời tòng phục luân lý truyền thống. Chị biết chị không còn yêu anh, không thể có khả năng yêu anh. Chị đã săm sắn ra đi cùng với đứa con trai, đã tự giải thoát, và giờ đây, khi ngồi trong căn nhà sang trọng của mình, bóng tối mái tranh tồi tàn kia trở về ám ảnh.
Anh ấy ăn gì nhỉ, trong buổi sáng hôm nay? Trời đã trở lạnh và Bôn không thể chỉ ăn cháo suông cho qua bữa. Không lẽ anh ấy lại tìm đến nhà Xá chột? Anh Xá tốt thật nhưng không giàu, và còn ba đứa con nhỏ sau lưng... Nhưng tại sao ta băn khoăn mãi chuyện này? Bôn phải tự lo liệu cuộc đời của anh ấy. Bôn bằng tuổi ta, không phải một ông lão tám mươi cũng chẳng phải đứa bé lên bảy...
Miên tự bực dọc vì những ý nghĩ quanh quẩn. Chị quay lại bảo người quản gia:
- Bác cho tôi ấm trà, tôi tự rót lấy.
Ông già Lư mang tới bình trà. Miên rót đầy một chén, uống hết rồi lại tiếp tục rót chén thứ hai và cũng uống một hơi dù bụng no căng. Chị muốn rót đầy chất nước gừng nóng ra vào dạ cho quên hết mọi suy nghĩ. Rồi chị trùm khăn, lên nhà, hy vọng trong không gian khác chị sẽ nghĩ tới những điều khác. Cu Hạnh vẫn ngủ say. Miên ngồi bên con, nhìn ra vườn. Những cành cam đã chuyển màu khi lá rụng, cành nào cũng như khô xác đi.
Màu nâu mốc kia sao giống màu da phượng. Hoa càng đỏ thân cây càng mốc thếch...
Miên bật lên ý nghĩ đó và lập tức chị nhớ lại con đường tới rặng phượng đầu thôn, những đồi dứa hai bên, bờ rào với những chùm lau phơ phất. Rặng phượng đó chứng kiến những nụ hôn đầu đời chị, cảm giác ngất ngây của da thịt chạm vào da thịt, những vết bầm đỏ Bôn để lại trên cổ và chị phải choàng khăn lên để che mắt thế gian... Một lần, dì Huyên bảo:
- Con ơi, trời nóng thế này mà suốt ngày quàng khăn làm sao cho tiện?
Nói xong, không chờ chị trả lời, bà bỏ đi. Chị trả lời sao được? Cơn lốc đam mê của tuổi mười bảy, chói chang như màu phượng, thiêu đốt như nắng hè... Tất cả đã xa xôi... Và giờ đây, tất cả lại như gần kề, như nắng trên thềm buổi chiều hôm trước... Phép lạ thần tiên hay bùa mê ma quỷ? Miên không hiểu. Chị chỉ biết rằng khi chị không còn nguy cơ trở lại với Bôn, khi chị đủ can đảm để sống cuộc đời như chị muốn, đẩy anh sang giải bờ bên kia và anh đã ở lại đó, lẻ loi, run rẩy, bị tước hết mọi ưu thế, bị tước hết hy vọng không còn mảy may năng lực để kéo chị quay lại, không mảy may cơ hội để đấu tranh, anh, lão già suy kiệt, đứa trẻ ngu ngơ, người đàn ông bất lực, con người vô năng toàn diện đó bất chợt gợi lại mùa hè thời thơ trẻ, trong sự cam chịu nhẫn nhục lặng lẽ, bóng ma anh triệu hồi những kỉ niệm ái ân, những hình ảnh tươi thắm của một rạng đông ngắn ngủi đã qua và đã vùi lấy dưới bao tầng tro bụi.
Ta đã từng ghê sợ và căm ghét Bôn. Vì sao vậy? Ta là một người đàn bà bất công và đỏng đảnh. Liệu ta còn có thể yêu chăng?
Nhưng mới chỉ nghĩ tới đó, trái tim chị thét lên kinh hoàng. Không, không, không, không bao giờ nữa...
Và chị hiểu rằng giờ đây nếu một sức mạnh ma quỷ nào ép buộc chị quay lại chung sống với anh, mọi chuyện sẽ diễn lại như xưa, chị sẽ nằm ngủ đêm đêm trong tư thế xác chết thẳng cẳng, hai cánh tay gác trên vầng trán, một nửa thân bên trái của chị sẽ trở lại trạng thái căng thẳng thường trực và đêm đêm chị sẽ hé mắt nhìn anh, cái hồn ma nhập thế, người đàn ông khốn khổ ngồi chầu hẫu dưới chân giường, với cặp mắt yêu mê tuyệt vọng nhục nhằn hờn oán, với hơi thở địa ngục, với thân xác không còn kêu gọi nơi da thịt chị niềm say mê hoặc sự hòa nhập mà chỉ còn nỗi ghê sợ hay sự xa lạ nhờm tởm...
- Không, không, không bao giờ nữa...
Tâm hồn chị lại thét lên, không chỉ kinh hoàng mà còn điên cuồng giận dữ. Giờ đây nếu ai đó ép chị phải sống lại cuộc sống lứa đôi với Bôn hẳn chị sẽ giết chết kẻ đó, hoặc chính chị sẽ kết liễu mạng sống của mình.
Vậy ta muốn gì? Ta không thể sống với Bôn vì điều đó ngang bằng cái chết. Nhưng ta cũng không thể bỏ anh ấy chơ vơ trong tình cảnh này... Giá như Bôn có thể yêu thương ai đó, nếu một người nào thuận tình sống với Bôn...
Chị gần như phát điên vì những ý nghĩ quanh quẩn, không thể xua đuổi chúng, cũng không thể dàn xếp chúng cho yên ổn. Rồi khi đã quá mệt, chị nằm vật xuống giường ngủ thiếp đi, không còn biết đứa con thức dậy lúc nào và ông già Lư hay dì Huyên đã dắt nó khỏi buồng...
Non chiều Miên mới thức giấc. Người quản gia đã đi. Dì Huyên cũng đã đưa cu Hạnh sang nhà hoặc chơi quanh quẩn trong xóm. Chị xuống bếp ăn phần cơm ông già Lư ủ trong chiếc ấm đựng bình pha trà. Thức ăn riêng cho chị là bắp bò gân bò kho nước mắm ngon với rất nhiều gừng, gần như hai phần thịt bò một phần gừng lại rắc thêm tiêu bột. Mùi gia vị thơm sực gian bếp. Người quản gia không có gia đình, nhưng ông biết nấu hết thảy những món ăn kiêng cho đàn bà đẻ và ông cũng biết cách thức săn sóc họ. Chính ông đã dạy Miên cách rửa chân nước gừng nóng trước khi đi tất, dạy chị cách nút hai lỗ tai bằng bông tránh gió, dạy chị cách day chân tóc và chải đầu một cách nhẹ nhàng để tóc khỏi rụng nhiều. Cũng chính ông bảo chị rằng chớ ăn rau cải, rau muống, rau dền, rau tàu bay trong thời gian kiêng cữ. Và lần nào đó ông đọc cho Miên nghe câu ngạn ngữ: "Ăn miếng ngon thì chồng con trả người." Lần ấy chị nhìn ông xiết bao kinh ngạc nghĩ rằng hẳn ông đã trải qua một cuộc sống gia đình lâu dài, kĩ lưỡng nhưng rút cục nó đã tan vỡ hoặc đã để lại cho ông những kỉ niệm quá đỗi đau buồn nên ông đã bịa ra một lịch sử độc thân để che giấu quá khứ. Làm như vô tình, chị bất thần cất tiếng hỏi:
- Bác gái cùng quê với bác phải không?
Người quản gia lúc đó đang lúi húi pha trà, ông không quay đầu lại, đáp với giọng bình thản, nhẹ nhàng:
- Tôi đã kể cho bà rồi mà... Ðời tôi chưa từng cưới vợ.
Miên đáp:
- Có lẽ lâu rồi nên tôi quên mất... Nhưng thời trẻ bác cũng phải yêu một người đàn bà nào chứ? Dù là cùng quê hay khác quê... Dù có hôn nhân hay là không...
- Thưa bà, đã là con người ai cũng trải qua ngần ấy cảnh khổ. Chỉ có điều mỗi phận mỗi khác thôi.
Ông đáp, cũng với giọng bình thản xa vời. Miên không dám hỏi thêm. Từ đó chị cũng không trở lại nỗi tò mò ấy mặc dù nó vẫn còn nguyên. Ðôi mắt người quản gia rất lạ. Cặp mi mỏng nhàu nát trên đôi tròng mắt sâu. Cái nhìn gần như bất động có một vẻ chăm chú, đau đớn và điều chi đó giống với sự dịu dàng. Từ ngày Miên trở lại đây, trong cái nhìn ông hướng về chị ẩn náu sự dò hỏi, niềm an ủi và cả sự nhẫn nại đợi chờ. Miên không hiểu sao chị có những cảm giác đó, những cảm giác hết sức rõ rệt tuy nhiên rất đỗi xa vời rất đỗi mơ hồ và chị không lý giải được.
Ông ta đợi chờ gì nơi ta? Trong cái nhìn khôn ngoan dò hỏi và câm lặng kia có bao nhiêu ẩn ý mà ta không đoán nổi. Nhưng chắc hẳn những điều đó liên quan tới Hoan. Ông ta là thủ túc trung thành thân tín của Hoan. Dường như trời sinh họ ra là để gặp nhau vậy...

Bỗng dưng chị thấy mình có nỗi ghen tuông thầm kín đối với người quản gia, dường như ông gần gũi thân thiết nhất với Hoan chứ không phải chị. Ông là một bộ phận của anh, đón biết mọi ý tưởng thầm kín của anh, thực hiện mọi mong muốn và toan tính ngầm ẩn của anh... Và tất thảy những điều đó ở ngoài chị. Rõ ràng là quá khứ đã đào một vực sâu ngăn cách chị với người đàn ông chị yêu dấu và giờ đây, tình yêu giữa họ vẫn còn, nhưng đã có nhiều điều không thể chia sẻ.
Nhưng vì sao ta lại đòi hỏi Hoan chia sẻ với ta mọi điều, khi ta sống dưới mái nhà này, ăn cơm trong gian bếp này, choàng tấm khăn do Hoan mua và ta xót xa cho Bôn, ta thương cảm cái người đã ở lại bên kia giải bờ phân cắt...
Chị nhìn thấy rõ rệt hình ảnh của chính mình. Một kẻ đứng bên ngoài khung trời của cả hai người đàn ông, bị nung nấu cả từ hai phía mặt trời bên này hay mặt trời bên kia đều bỏng rát tuy hai thứ lửa khác biệt nhau. Ðó là hình ảnh của một thứ tội đồ trọng đại, khủng khiếp xưa: tội ngựa xé thây.
Chính ta đã rời bỏ mái tranh của Bôn, và hành động đó là chuẩn xác. Ta phải quên Bôn đi. Ấy là điều duy nhất cần làm lúc này...
Chị hạ lệnh cho mình. Chị tìm công việc để khỏa lấy thời gian, hoặc nấu một món ăn nhẹ nhàng, hoặc đan chiếc mũ mới cho cu Hạnh nhưng chỉ một lát sau, chị lại thấy màu trời xanh lơ xa thẳm, vòm phượng nặng trĩu nghiêng đỏ khung trời, con đường mòn với ngọn cỏ leo phơ phất... chị lại thấy dòng suối thời con gái róc rách ngập tràn, những tảng đá bám đầy rêu, nơi chị ngoi ngóp thở và chàng trai mười bảy có cặp mắt u sầu chìa bàn tay cho chị, chị lại nhớ một buổi trưa nào đó, chim cu rừng gáy nức nở trong các vòm cây, Bôn đã hái cho chị một chùm vả chín và ngồi bó gối nhìn chị ăn vả, với ánh mắt xiết bao mê đắm dịu dàng...
Cứ như thế, người đàn bà đếm những buổi chiều với tâm trạng của kẻ bị phân thây. Hai tuần lễ trôi qua. Tới tuần trăng mới, mùi nhang khói từ nhà này bay sang nhà kia vương vấn thôn xóm. Miên đã cùng đám đàn bà đi chợ, mua hoa quả nấu xôi chè cúng tuần. Sức khỏe chị hồi phục trong khi trái tim chị càng ngày càng bị dày xé. Chị rất muốn hỏi thăm tin tức của Bôn nhưng không dám, những người láng giềng lại càng ý tứ hơn, họ lảng tránh tất thảy những chuyện dính líu hoặc có thể gợi tới Bôn và gia đình Tá. Thậm chí, ngay cả nhắc đến Xá chột, người bạn thân tín của Bôn họ cũng ngượng ngùng. Miên hiểu rằng mọi người đều chờ ngôi trường xây xong để con cái họ được cắp sách tới đó, thụ hưởng những tiện nghi mà ngay cả đám trẻ thành phố cũng mơ ước và nhờ vậy tương lai lũ trẻ Xóm Núi sẽ có cơ may cải thiện. Món quà tặng của Hoan là một thứ ở ngoài trí tưởng tượng của mọi người vì thế giờ đây anh có một sức mạnh ở ngoài họ. Không một ai dám chạm tới anh.
Tội nghiệp cho Bôn... Bôn lẻ loi, bần hàn. Bôn thành kẻ trắng tay... Nếu như ta cũng như Bôn, ra đi từ tuổi mười bảy rồi sau mười bốn năm trở về với chiếc ba-lô giống cái bị rách của gã ăn mày? Nếu ta là Bôn, là Bôn...
Tâm hồn chị rên rỉ và bỗng nhiên chị căm ghét tất thảy cái đám gọi là dân trong làng ngoài xóm. Ngày Bôn trở về họ đã từng ủng hộ anh cũng như họ thần phục Hoan ngày hôm nay. Chị lờ mờ thấy rằng đám đông không có lương tri mà chỉ tuân phục kẻ mạnh. Khi Bôn trở về anh là người anh hùng của họ bởi dưới cái thân xác như ma dại anh gợi lại một thời oanh liệt đã qua cái thời mọi gia đình mọi cá nhân đều muốn gá vào để chia phần kiêu hãnh. Giờ đây anh trở thành kẻ thất sủng. Người anh hùng của thời mới là Hoan.
Vậy mà ta đã ra đi vì khiếp sợ họ. Buổi sáng hôm ấy, ta bước chân đi óc tối như mây mù. Trời cũng đầy sương mù và ta cắm đầu bước chân theo Bôn, chẳng vì tình yêu mà vì sự tuân phục mù lòa như con thuyền trôi vào dòng lênh đênh không chèo không lái. Nguy xuẩn quá...
Chị thầm nghĩ và rồi chị muốn làm một điều gì đó để chống lại đám đông, để trả thù cái buổi sáng mù sương chị đã phải bỏ ngôi nhà của mình ra đi trên con đường vô định.
Ta không thể như họ, ta nhất định không hành động như họ...
Chị thầm nhủ sẽ làm một điều gì đó trái ngược lại đám đông để chứng tỏ họ là những kẻ hèn hạ:
Nhất định ta sẽ làm... Ta sẽ làm...
Nhưng làm cái gì, chị chưa nghĩ ra. Ðiều đó cũng hệt như kẻ đi kiếm đỏ ong rừng, đã tưởng tượng thấy bọng mật nhưng đi về hướng núi nào, chưa biết...
Năm ngày sau buổi chợ, dì Huyên sang sớm như thường lệ. Bà già chơi với cu Hạnh quanh quẩn dưới sân. Miên ngồi uống trà với người quản gia trong bếp. Khi uống xong tuần trà, ông già Lư ra công trường. Lúc đó, bà mới bước vào bếp, bảo Miên:
- Này, dì nghe nói thằng Bôn ốm lắm.
- Anh ấy ốm từ bao giờ?
- Ngót ngét mươi ngày thì phải. Chiều qua gặp thằng cu lớn con Xá chột xách âu cháo sang. Tội nghiệp, âu cháo loãng ngoét, có vài mẫu hành lá với mấy miếng thịt lều bều. Anh Xá đang lên rừng với cánh sơn tràng, có mỗi cô Soan ở nhà xoay xỏa.
Ta phải nuôi Bôn. Ta không thể để anh ấy chết mòn trong cái nhà tranh ấy...
Ý nghĩ đó bật lên tức khắc trong óc não người đàn bà. Và tức khắc những ý nghĩ khác nối tiếp xô đến như dòng nước:
Nếu có một người anh trai bất hạnh như Bôn, liệu ta có bỏ rơi anh ấy trong lúc khốn cùng không? Không. Không đời nào. Vậy sao ta bỏ rơi Bôn tàn nhẫn thế? Tình đã chết nhưng nghĩa vẫn còn. Phải cưu mang Bôn như cưu mang một người anh ruột thịt. Chính vào lúc này, lúc anh ấy không còn mảy may ưu thế cô độc lẻ loi bị người đời quên lãng...
Bởi nếu Bôn chết đi trong khốn cùng cô độc, ta không thể sống bình yên. Anh ấy là một mảnh đời quá khứ. Dù muốn hay không cũng chẳng xóa trắng được trang giấy đã viết. Dù muốn hay không ta cũng không thể làm Bôn biến khỏi trí nhớ của mình.
Nhưng còn Hoan, liệu Hoan có chấp thuận việc này không? Và nếu vì việc này, Hoan chẳng còn yêu ta nữa? Ta sẽ là kẻ bơ vơ giữa cõi đời lúc đó chính ta lại trắng tay:
Không, Hoan đón ta trở về, nghĩa là chấp nhận ta như ngày hôm nay, một người đàn bà có nợ trong quá vãng. Hoan thông minh hẳn anh ấy hiểu rằng thời chiến, rủi ro thua thiệt có thể rơi lên đầu bất cứ ai, chẳng riêng Bôn. Và anh ấy cần có đủ lòng khoan dung để xử thế. Nếu Hoan không chấp thuận điều kiện này, Hoan cũng chẳng còn đáng yêu, đáng tôn thờ như xưa...
Một khi anh ấy không còn đáng yêu, đáng tôn thờ, có xa cách cũng chẳng còn bao nhiêu đau khổ...
Những ý nghĩ mạch lạc và rõ rệt. Miên kinh ngạc. Chị không hiểu sao bỗng dưng chị suy nghĩ một cách quả quyết và mau lẹ như vậy. Giống như kẻ vừa kết thúc một họa phẩm lùi ra xa nhìn lại thành quả lao động của mình, chị cũng lùi ra xa kiểm định lại những ý tưởng vừa nảy sinh, không khỏi ngỡ ngàng:
Sao ta có thể vội vàng như vậy? Ta đã qua bao nhiêu cực nhục mới quay trở lại được nơi đây, giờ lại tự ý dấn thân vào cảnh rắc rối, trớ trêu... Phải chăng ta đã mua dây mà trói chân mình. Giá như Hoan chẳng còn yêu ta nữa? Ta sẽ sống ra sao?
Một ảnh tượng hãi hùng tràn ngập tâm hồn chị. Và người đàn bà cảm thấy nỗi sợ hãi khiến chị rùng mình ớn lạnh, nỗi sợ hãi như cơn gió đầu mùa làm con người run rẩy không phải vì nó quá lạnh mà bởi nó báo trước một mùa khắc nghiệt bạo tàn mà họ đã quên lãng. Nhưng khi nỗi sợ hãi lướt qua, một giọng thì thầm bướng bỉnh vang lên:
>Ta phải hành động theo lương tâm mình. Cha đã dạy rồi, con người nhiều khi yếu hèn hơn loài thú, nhưng họ trở thành người vì họ có lương tâm. Hoan chấp nhận hay bất bình, anh ấy còn yêu thương ta hay sẽ cạn tàu ráo máng, đó là việc của trời, chỉ có trời mới biết hết mọi ngả đi lối về của cuộc đời. Chúng ta, những kẻ phàm trần sống kiếp bọt bèo, nước chảy tới đâu bèo trôi tới đấy...
Tâm hồn chị bỗng dưng trong trẻo êm lặng tựa khung trời sau cơn mưa. Chị bảo dì Huyên:
- Dì bắt gà trong chuồng nấu giùm con nồi cháo. Con vẫn chưa dám nhúng tay vào nước lạnh.
Bà già đưa mắt nhìn chị với cái nhìn dò hỏi lưỡng lự nhưng không cất tiếng. Miên nhắc lại, giọng quả quyết lạnh lùng:
- Dì làm giùm con ngay đi. Chút nữa con sẽ mang nồi cháo sang cho Bôn.
Dì Huyên bước khỏi gian bếp. Miên nhìn theo bà vài giây rồi thắt lại tấm khăn trùm đầu, bước ra sân chơi với con trai trong tâm trạng của kẻ đã nhảy xuống sông dù sang được bờ bên kia hay bị sóng cuốn trôi cũng không thể quay lại chỉ còn cách duy nhất là bơi về phía trước.
Chương 25
Lúc Miên mở cánh cửa bước vào buồng đã non trưa. Như trời xui đất khiến, Bôn ngồi phắt dậy đạp tấm chăn xuống chân giường. Anh im lặng. Miên cũng im lặng. Chị đặt liễn cháo lên mặt bàn đưa mắt nhìn quanh để tìm cái bát sạch, không còn cái bát ăn nào trong gian buồng của Bôn, chạn bát lẫn đống bát đĩa chị đem tới mẹ con Tá đã tha lôi đi hết. Chị bước tới chum đựng gạo nhìn vào dù biết trước sẽ chẳng sót hạt nào. Một chiếc quần bẩn vắt lòng thòng trên miệng chum, vài chiếc may-ô lẫn sơ-mi bẩn cuộn thành nùi đặt trên nắp hòm quần áo của chị. Chiếc hòm được khóa cẩn thận, hẳn nó là vật duy nhất không bị lục lọi trong gian buồng này. Trên mặt bàn lẫn trên sàn nhà đầy những vỏ khoai lang khô và cứt chuột. Hai đứa con nhỏ của Tá ngồi chầu hẫu nơi cửa buồng nhìn chị dù trời đã lạnh chúng vẫn cởi truồng và con cu đen thủi đen thui chấm xuống nền gạch bẩn. Sau lưng chúng, ngay trên hè một rổ khoai lang rễ luộc ăn dở dang, vương vãi đầu mẫu lẫn những vụn khoai bị giẫm be bét... Không có gì thay đổi ở nơi đây, đúng như Miên dự đoán, có điều cảnh tượng còn tồi tệ hơn bởi khi chị không còn sống với Bôn, sự bần hàn dơ dáy kéo anh xuống với gia đình bà chị. Miên xuống gian bếp thấy đống bát đĩa đã bị tống vào cái trạn bẩn thỉu của mẹ con Tá, còn chiếc trạn của chị bị trưng dụng thành chỗ nhét quần áo của lũ trẻ. Chị lấy một chiếc bát đem rửa rồi mang lên múc cháo cho Bôn:
- Anh ăn đi.
Bôn không nói gì, lẳng lặng đón bát cháo từ tay chị xúc ăn. Cháo rất nóng vì chị ủ liễn cháo trong tấm khăn bông, hơi nghi ngút. Mồ hôi Bôn rịn trên trán, nơi hai thái dương. Miên kéo tấm khăn phơi trên dây đưa cho anh:
- Anh lau mặt đi, ra mồ hôi như thế rất tốt.
Bôn lau mặt. Chị nhìn những ngón tay khô xác run rẩy của anh và nghĩ tới mảnh đất xã chia cho anh đang còn rậm rì cỏ mọc:
Làm sao Bôn kiếm nổi miếng cơm với những ngón tay đó? Ðất đầy sỏi và cỏ tranh, không nước tưới và không tiền mua phân bón...
Chị đã từng vỡ đất trồng tiêu và trong vài năm đầu sống với Hoan họ cũng từng làm cỏ tưới nương như tất cả mọi người, chị biết rằng phải có sức khỏe mới vượt được giai đoạn khởi đầu gian nan ấy. Nghề trồng tiêu và cà-phê cũng từa tựa như buôn lớn, không hòng kiếm lãi ngay, vốn càng trường càng thắng đậm. Làm sao Bôn bước nổi vào chiếu của các ông chủ trại?
Không tiền, không kinh nghiệm, vốn tối thiểu là sức khỏe cũng không. Giờ đây, anh còn suy kiệt hơn cả những ông già sáu mươi trong Xóm Núi. Dạo chị mới quay về sống với Bôn, đang còn tràn đầy hy vọng và lòng hăng hái anh đã hai lần ra vỡ đất, lần nào anh cũng cảm nằm bệt cả tuần. Hồi đó, anh vẫn thường bảo chị:
- Thôi, mình đàng chờ cho tôi lại sức... Dù sao cũng phải có thời gian, chúng ta còn trẻ và rồi đây...
Và rồi đây... Ấy là câu cửa miệng của Bôn và mỗi lần lặp lại câu nói ấy, mắt long lanh như lửa rọi. Ngọn lửa đó đã tắt rụi chẳng còn mảy may tia khói từ lúc người hộ lý trong phòng hộ sinh chỉ cho Bôn thấy cái thai nhi không đầu. Khi bà ta xách xô đi, Bôn đã túm lấy chân chị, hai bàn tay anh lạnh như nước đá cặp mắt vô hồn và môi anh mấp máy ngọng nghịu như kẻ tật nguyền:
- Miên... Miên... Con đâu? Con đâu âu...?
Lúc đó chị không trả lời anh. Chị mệt mỏi sau cơn sinh nở. Chị cũng thấy hụt hẫng. Nhưng cùng với sự hụt hẫng còn có cả sự thanh thản và nơi đáy sâu con tim chị một niềm vui tăm tối mà chị không dám thú nhận ngay với chính mình.
Tội nghiệp cho Bôn. Ta chẳng muốn thế nhưng cũng không thể nào khác...
Bôn ăn xong đặt bát xuống giường mà không nhìn chị. Miên đem bát đi rửa rồi mang trở lại chiếc bát sạch đặt lên mặt bàn:
- Em để sẵn cho anh ăn bữa chiều.
Anh lắng nghe nhưng không trả lời đưa mắt thẫn thờ nhìn khuôn cửa. Trời không nắng. Gió đu mấy ngọn xoan xơ xác ngoài vườn. Trên sân hai đứa cháu tồng ngồng của anh đang chúi đầu chơi đáo. Miên thấy anh cứ nhìn mãi vào đám xoan, bèn đứng lên:
- Em về đây.
Lúc đó Bôn giật nẩy mình và đôi mắt thẫn thờ của anh chợt nhớn nhác nhìn chị:
- Miên đi đâu?
Chị đáp:
- Em về nhà em.
Trên gương mặt xa vắng của Bôn chợt thoáng qua một nét nhăn đau đớn, dường như anh vừa bị nghiến một ngón tay hoặc bị xé rách một thớ thịt:
- Miên về nhà...
Bôn lặp lại, không trả lời và cũng không để hỏi. Ðơn thuần chỉ là một câu lặp, một hồi âm, như tiếng dội khi ta cất tiếng kêu giữa một thung lũng bốn bề là vách đá. Miên nhìn anh và hồi nhớ tuổi trẻ của mình, hồi nhớ những ngày cùng lũ con gái trong xóm đi kiếm củi, họ thi nhau hét vào hang nghe xem tiếng vọng của ai âm vang hơn, ngân dài hơn. Rồi họ đứng bên này suối, xem đứa nào ném trúng bụi sơn trà. Rồi họ cùng nhau hái sim mùa sim chín, dải đồi nhấp nhô, nhấp nhô, tiếng cười lanh lảnh từ đồi này vọng sang đồi khác, mùi trái chín và những cặp môi nhỏ nhuộm màu sim... Không hiểu vì sao tiếng nói vô hồn của Bôn bỗng gọi về đầy ắp âm thanh và màu sắc thời con gái, những hồi nhớ đó khiến tim chị xót xa, và chị không còn muốn chấp nê sự câm lặng lạnh lùng của Bôn. Chị ngồi xuống ghế, kéo ghế gần lại trước anh và nói:
- Anh Bôn, hãy theo em về đằng kia.
- Không.
- Ðằng kia là nhà của em, của riêng em. Anh Hoan đang cất nhà trên khu Suối Nhỏ.
- Tôi ở nhà của tôi.
- Anh với em tình đã cạn, duyên đã hết. Chúng ta không thể là vợ chồng. Nhưng dẫu sao, cũng đã từng chia sẻ gối chăn. Một ngày nên nghĩa. Em không yêu anh nhưng em có thể chăm sóc anh như anh ruột mình.
- Không.
- Anh không thể sống ở đây. Chị Tá không giúp anh được. Sức khỏe của anh bây giờ còn tệ hơn hồi anh mới về. Anh Xá tốt thật nhưng còn cả một đàn con.
- Miên mặc tôi.
- Anh cứ nghĩ kĩ đi...
Chị nói tiếp một cách nhẫn nại:
- Anh cứ nghĩ kĩ đi. Chúng ta dù không có con sống nhưng cũng có chung con chết... Em vẫn còn nặng nghĩa với anh...
Nói xong, Miên đứng lên ngay, ra về. Chị không muốn ngồi lại thêm bởi sợ phải nhìn thấy Bôn khóc. Chị không muốn, không bao giờ muốn nhìn thấy nước mắt trên gương mặt một người đàn ông. Và chị nhớ lại cái đêm bất thần mở mắt, thấy anh ngồi chầu hẩu dưới chân giường, nước mắt tuôn như suối. Cảnh tượng đó não nề sao và nó có cái gì đó khiến cho chị vừa đau đớn vừa nhục nhã. Chị rảo bước khỏi căn ngõ, hai thái dương nóng bừng bừng trái tim chị cũng cháy như lửa bừng bừng nửa xót xa nửa vui sướng:
Không, không... ta không thể nào yêu Bôn được. Ta trở về mái nhà của ta là đúng. Giống như kẻ đã đến cửa địa phủ lại tìm được lối về cõi nhân gian... Nhưng ta sẽ cam lòng nuôi Bôn, như nuôi một người anh em bị tật nguyền, cam lòng gánh anh ấy cho tới ngày mãn kiếp...
Hôm sau, Miên quay lại gian buồng của Bôn từ sáng sớm. Chị lại đem cho anh liễn cháo với mấy tấm bánh nếp. Bôn rất thích ăn bánh nếp nhân mặn. Họ không nói chuyện gì bởi Miên phải vội trở về trông con. Người quản gia lên công trường ngay sau bữa ăn sáng còn dì Huyên theo mấy bà trong Xóm Núi xuống phố huyện:
- Anh gắng ăn cho hết mọi thứ. Mai em sẽ nhờ người xuống phố mua thuốc.
Anh không trả lời đưa mắt nhìn chị với cái nhìn âu sầu nửa như hờn dỗi nửa như chấp thuận.
Hôm sau nữa Miên bới cơm và thức ăn mặn đem cho anh. Chị ngồi chờ anh ăn xong bữa để thu dọn bát đĩa đem về. Liễn đựng cháo hôm qua lũ cháu Bôn đã mang ra sân thả cá con, chiếc thìa bị bẻ cong lên làm xẻng đào đất. Bôn ngượng ngùng nói:
- Tôi ốm nằm đây, không bảo được lũ trẻ.
Miên lặng im. Chờ anh ăn xong, chị nói:
- Hiện giờ em còn có thể mang cơm cho anh. Nhưng ít bữa nữa em sẽ phải coi sóc nương vườn vì ông già Lư hàng ngày lên công trường theo đám thợ.
Bôn im lặng. Miên nói tiếp:
- Nếu anh có gia đình thân quyến ăn nên làm ra như người khác đã đi một nhẽ. Nhưng hiện tình anh không thể bấu víu vào ai... Anh hãy nghĩ kĩ điều em nói.
Anh không trả lời. Họ cùng ngồi im lặng như thế hồi lâu, cùng đưa mắt nhìn ra sân vì không còn gì để nhìn trong gian buồng tăm tối đó. Ánh sáng trắng đục của một rạng đông không mặt trời tràn ngập không gian. Mảnh sân vắng con mèo láng giềng sang cào kẽ gạch tìm bắt dế. Mấy đứa con Tá đã rủ nhau đi chơi đâu không rõ để lại mấy mẫu khoai luộc lăn lóc trên chiếc đĩa nhôm đầu hè. Chỉ mấy ngọn xoan ngoài vườn là nhúc nhích trong khung cảnh ơ hờ buồn tẻ ấy. Những ngọn xoan đong đưa trong gió, đong đưa kiếp sống lắt lay của chúng trên đám thân cành khẳng khiu, trong khu vườn cằn lụi đến mức chỉ còn trơ những gân đất, cỏ cũng không buồn mọc. Gian nhà của Bôn không có tiếng động nào ngoài tiếng thạch sùng tắc lưỡi và thi thoảng, một con chuột rúc rích trong xó, sau chum đựng gạo, hẳn để kiếm một cách tuyệt vọng vài hột gạo rơi. Miên lắng nghe những tiếng động đó, lần đầu tiên chị chú ý tới chúng:
Vậy mà ta đã sống ở đây bao nhiêu ngày tháng. Chẳng ngờ được. Giờ quay lại nhìn cứ ngỡ chuyện của ai...
Miên thầm nghĩ và chị tự hỏi chị làm cách nào để nuốt trôi thời gian trong gian buồng này, với người đàn ông ngồi trên chiếc giường cách chị nửa sải tay đang đưa cặp mắt trống rỗng nhìn những ngọn xoan đong đưa trong gió. Ðôi mắt anh giờ này âm thầm quá. Nhìn vào chúng tựa nhìn vào những ngôi mả hoang nơi người sống không còn lai vãng. Anh nghĩ gì vào lúc này hoặc chẳng nghĩ gì hết? Chị thầm hỏi và không tìm được câu trả lời. Chị đành ngồi lặng lẽ chờ anh lên tiếng trước. Thời gian cứ thế trôi. Rồi có tiếng lao xao của đám người nào vẳng tới. Lát sau, gió đổi chiều đưa mùi khói bếp, lẫn mùi khói bếp là mùi tỏi phi mỡ thơm phức. Bất chợt Bôn cất tiếng bâng quơ:
- Nhà ai xào rau muống nhỉ? Ðiếc mũi...
Miên hỏi:
- Anh thích rau muống xào à?
Bôn gật đầu:
- Món tủ của tôi đấy. Hồi trước mỗi bận bị điều xuống làm bếp tôi với cậu Cảnh vẫn đi lùng tỏi xào rau muống. Tiểu đội trưởng thích nhất món ấy mà các thủ trởng lớn trên quân đoàn xuống đơn vị chơi cũng đòi ăn món ấy.
Dứt lời, anh chợt mỉm cười với ai đó trên ngọn xoan và cặp mắt vô hồn của anh thoáng qua ánh ngày. Miên chờ Bôn dứt cơn trầm ngâm, lên tiếng:
- Em cũng thích ăn rau muống xào tỏi. Nhưng rau bí non hoặc rau cải ngồng xào tỏi còn ngon hơn...
Bôn gật đầu:
- Ờ... ờ...
Miên nói tiếp:
- Anh định hôm nào lại đằng kia?
- Tôi... tôi chưa biết... Tùy Miên...
- Hôm nay trời không nắng, gió cũng êm... Chỉ e anh chưa chịu nổi...
- Chẳng sao. Tôi cũng dứt cơn sốt mấy hôm nay rồi.
- Ðể em đi thu xếp quần áo cho anh.
- Ờ, cứ mặc tôi...
Bôn ậm ừ, đưa mắt luống cuống nhìn chị. Nhưng Miên đã quay đi tức khắc. Chị đến góc buồng nơi chiếc ba-lô của Bôn nằm bẹp dí dưới đống đồ lặt vặt. Kéo chiếc ba-lô lên, Miên đập bụi xếp quần áo của Bôn và bỗng dưng một giọt lệ trào ra, qua gò má lăn xuống khóe môi chị vừa ấm vừa mặn:
Gia tài của Bôn đây, sau mười bốn năm rời làng xa xóm... Ngoại trừ bánh xà-phòng anh ấy đưa cho ta, phần còn lại đúng là chiếc bị ăn mày...
Chương 26
Ngày lại tháng qua, mọi sự kiện đưa đẩy theo dòng đời, vài ba sự kiện lưu lại lềnh bềnh như đám bèo trên mặt sóng còn đa phần cuốn trôi cùng làn nước. Ngày nào đó Xóm Núi râm ran tiếng pháo mừng khánh thành trường tiểu học, xe lớn xe nhỏ đậu ngổn ngang nơi bãi Ðồi, quan huyện quan tỉnh kéo về nườm nượp để chứng kiến phút cắt băng lụa đỏ, dân chúng mừng rỡ cuống cuồng nháo nhác từ trẻ đến già, đám học sinh trong xã được phát nào cặp mới, mũ mới, sách vở mới đi đi lại lại xốn xang, trống cà-rùng gõ đinh tai nhức óc... cái không khí hội hè lạ lùng tựa không khí trong chuyện thần thoại tưởng sẽ mãi mãi không phai nhạt... ngày đó đã qua, đã qua khá lâu, và dòng đời cô tịch lại trở về ngự trị miền sơn dã.
Ðã qua những đêm Thu tạnh ráo sao đầy trời, gạo nếp rang nở bung trong chảo, chuyện vãn của đám dân quê nở bung quanh các ấm trà, các bát điếu, những ngọn đèn thắp lên những đóa lửa hồng điểm tô cho bóng tối mênh mông nỗi an bình dịu ngọt. Cũng đã qua những đêm Ðông gió giật, nương vườn trở nên thâm u, bóng người đi lại trên các nẻo đường đong đưa cây đèn bão trông leo lắt chập chờn như lũ ma tội đồ đi rắc lửa địa ngục, lẫn cùng gió thi thoảng một con hoẵng kêu sương vọng về, nghe như tiếng của lạc loài của đơn côi của những nhục nhằn câm lặng. Bất chợt một sáng những mầm cỏ trắng li ti nở ra giữa các búi cỏ xám già và tiếng vỗ cánh của chim non trên ngọn cây lay động một góc cỏn con của bầu trời, chợt vỡ òa một màu lơ trong suốt như pha-lê, lấp lánh bọt nước và từ khoảng rạn vỡ của khung trời đó, một biển lơ xanh thắm tuôn tràn.
Dân Xóm Núi đổ ra nương vườn, điểm tụ bạ không còn là các câu lạc bộ gia đình mà là các bóng cây hoặc những lán tranh tạm trú, nơi họ ngừng tay uống nước hoặc ăn bữa cơm trưa. Sau bữa trưa từng đám người nằm duỗi dài trên cỏ khô, rơm khô hoặc các tấm cót rộng. Lũ trai trẻ có thể chợp mắt làm một giấc ngủ ngắn gọn nhưng ngon lành còn những người lớn tuổi thường chỉ nằm cho giãn xương lưng. Trong khoảng thời gian đó, các câu chuyện lại cất lên ròn rã và không bao giờ ngưng lặng nếu họ chưa dựng nên được một pháp đình và ai đó chưa được đóng vai trò của pháp quan, ít nhất một lần, trong cuộc đời bình lặng và buồn nản của họ...
Bây giờ, nhân vật thường được bênh vực lại là Hoan, chủ trại Suối Nhỏ, ân nhân chung thân của dân toàn xã:
- Suy đi tính lại chẳng ai thiệt như tay Hoan. Dinh cơ của mình bỗng dưng thằng khác tới ở, phải bỏ tiền xây nhà mới. Vợ con mình bỗng dưng phân cách, sáng nào cũng phải phóng xe vượt mấy cây số tới đón, lặn mặt trời lại phải vượt mấy cây số đèo về... Rõ ràng không phải trời đầy mà người đầy. Kiểu tù này là tù không án.
- Ờ, cũng lạ cho họ. Tại sao cô Miên không dọn về ở hẳn trại Suối Nhỏ với anh ta?
- Như thế, cậu Bôn còn danh nghĩa gì để trụ lại dưới mái nhà của cô ấy?
- Danh nghĩa có đem ra gặm được đâu? Sự thật sờ sờ trước mắt là cậu ta quanh quẩn suốt ngày với ông cụ Lư. Hai thằng đực rựa ăn cơm với nhau cả trưa lẫn chiều... Họa hoằn buổi sáng cô Miên mới ngồi cùng mâm vài phút.
- Nhưng người ta vẫn cần danh nghĩa. Ví như bà Huyên, sang trại Suối Nhỏ ở với tay Hoan từ lâu nhưng vẫn khóa trái ba gian nhà lại, ai hỏi mua cũng không bán. Ðó là đất lui chân. Như cậu Bôn vậy, đất lui chân của cậu ta là danh nghĩa vợ chồng với cô Miên.
- Cò súng của nó hỏng từ lâu, còn chó gì mà vợ với chồng.
- Con cu cậu ta không ngỏng lên được nhưng cái cổ cậu ta vẫn cần ngỏng lên. Phải có lý do để ngửa mặt nhìn thiên hạ chứ...
- Vẽ sự... Ðứa trẻ lên năm cũng biết cô Miên nuôi báo cô cậu ấy. Nghĩ cũng nhục... Tôi mà lâm cảnh ấy tôi chết mẹ nó đi cho rồi.
- Vậy ông thử chết xem sao? Chết chẳng dễ đâu. Chưa tới ngày tận số muốn chết trời không buông áo cho đi đất cũng không mở cửa cho đến.
- Ông rủa tôi đấy hả?
- Tôi không rủa nhưng đã nói chuyện phải nói cho cạn lẽ.
- Thôi thôi... Các ông thừa sức hay sao mà gây sự? Dễ hồ họ thuê tiền mướn bạc để các ông cãi nhau?
- Chẳng ai thuê nhưng thấy điều ngang tai chướng mắt vẫn ngứa lưỡi.
- Lưỡi ai cũng ngứa nhưng ở đời đâu dễ nhìn ra lẽ công bằng? Giờ tay Hoan thế mạnh như chẻ tre trong làng ngoài thôn không mấy ai không đến cậy nhờ, bênh anh ta cũng giống khen phò mã tốt áo... Có điều chỉ ai ăn nhạt mới biết thương mèo, rơi vào cảnh bần hàn mới biết sao là cùng khốn.
- A... Ông định ám chỉ tôi là kẻ dửng dưng không đủ lòng tương thân bác ái chăng? Vậy ngày cậu Bôn về làng không con trai tôi dẫn bọn trai tráng tới lợp mái trát tường cho cậu ta thì ai? Lúc đó đâu thấy mặt bố con ông?
- Này các ông, sao bỗng dưng cãi cọ như trẻ ranh... Ðầu hai thứ tóc mà còn háo thắng...
- Tôi chẳng háo thắng, nhưng tôi muốn chỉ ra đâu là cái tổ con chuồn chuồn...
- Thôi đi ông ơi, nói cách gì cũng phải công nhận tay Hoan là người quảng đại. Thiếu đâu kẻ giàu, càng giàu càng ăn bẩn... càng giàu càng đểu càng riết nghiệt.
- Ông nghĩ đúng. Nhưng tôi phải thêm rằng anh ta là người quá nhiều may mắn... Các ông nhớ hồi anh ta cưới cô Miên không? Lúc đó họ đâu sẵn của nả như bây giờ, hai vợ chồng cũng trần lưng ra làm như lũ chúng ta đây chồng một nón mê vợ một nón mê cặm cụi suốt ngày trên nương rẫy. Nhưng trời phù cho họ, ngón tay họ đụng đến đâu đất nảy vàng nén bạc thoi tới đó. Số người may mắn như thế chỉ đếm được trên đầu ngón tay, còn lại đa phần là bọn làng ngàng như lũ chúng ta đây hoặc những kẻ bất hạnh, thua thiệt.
- Ðúng đấy... Ở đời biết ngửa mặt trông lên song cũng cần biết cúi mặt nhìn xuống. Không phải cứ ăn kẹo uống trà của nhà giàu rồi chỉ biết khen trà nhà giàu thơm ngon mà chẳng thèm nếm nước vối của đám cùng đinh...
- Ông lại máy móc rồi... Ông đứng ở bụi duối nào rình tôi thế?
- Cả đời tôi chưa đứng bụi duối rình ai. Tôi đi trên đường thênh thênh thấy ông ôm lưng chủ tịch xã cưỡi xe vào nhà tay Hoan. Sao dám nói tôi rình?
- Ðúng, không riêng tôi mà cả đống người trong Xóm Núi đã trèo lên sân thượng nhà tay Hoan uống trà. Nhưng không phải vì mấy chén trà mà tôi ca tụng anh ta. Ðời ông, liệu ông có dám bỏ tòa ngang dãy dọc do chính tay ông làm ra đi để thằng đàn ông khác tới ở hay không? Hơn nữa đó lại chính là kẻ đã từng trèo lên bụng vợ mình?
- Ðời mỗi người mỗi cảnh chẳng ai ví được với ai. Bắt chúng ta sống như tay Hoan chẳng được mà bảo cậu Bôn phải đứng lên tự lo liệu tay làm hàm nhai như chúng ta đây hẳn cậu ta cũng chịu. Chính tôi đã cùng cậu ta lên nương vỡ đất. Chưa được một buổi nó đã lăn quay. Tôi phải bồng vào bóng mát, vã nước lạnh cho tỉnh rồi gọi người võng về... Sinh ra đời ai chẳng muốn bằng chị bằng em nhưng lộc trời vãi không đều may mắn chia không khắp, ta chẳng nên riết nghiệt với ai...
- Các ông nghe đây này: Tôi chẳng có con có cháu nên tôi là kẻ duy nhất không chịu ơn tay Hoan. Tôi cũng chẳng phải họ hàng nhà Tá vậy tôi đứng giữa chẳng thiên vị bên nào. Tình cảnh cậu Bôn đáng thương thật nhưng hàng trăm kẻ khác ở vào cảnh đó sẽ phải ra đường hoặc vào trại tế bần. Như thế, trong số những kẻ bất hạnh cậu ta là người trúng độc đắc. Còn tay Hoan, dù ăn một núi lộc trời, vẫn là trang quân tử đời hiếm thấy. Cứ cho xứ Việt Nam mình có một ngàn người rơi vào cảnh oái oăm như thế, tôi không dám chắc có tới người thứ hai cư xử như anh ta...
Những câu lạc bộ ngoài trời của Xóm Núi cứ thế hoạt động khiến chuỗi ngày bận rộn trở nên thơ mộng hơn và công việc bớt đi đôi chút nhọc nhằn. Vài tuần lễ qua rất nhanh, dường như không ai kịp nhận biết. Bất đồ một sáng tiếng kèn mơ hồ từ cánh rừng nào vọng tới. Trong những sóng âm xa vời man dại người ta tưởng nghe tiếng kêu của bầy nai đang soi mình trên suối, tiếng kin kít nặng nề của lũ đại bàng đất, tiếng gõ móng lóc cóc của sơn dương và những cặp hươu đa tình, tiếng thở hồng hộc của những con lợn lòi độc địa thường đi trên lối vắng vừa đi vừa dũi bật các gốc cây với nỗi buồn miên hành sự hung dữ trường cửu và khoái lạc tàn phá. Người ta rời khỏi mái nhà, chui từ những vườn tiêu, vườn cà-phê ra bãi trống hoặc đỉnh đồi nhìn về giải Trường Sơn.
Trong khung trời mênh mông họ mơ tưởng các lối mòn, giải cát ven suối, những bầy công múa trên vạt cỏ, lũ bướm hoang quay cuồng quanh lèn đá xám nơi thi thoảng vươn lên những bông hoa dại màu nhung đỏ và vọt ra những tia nước trong suốt tựa pha lê. Nỗi nhớ rừng mang mang lan tỏa cùng tiếng kèn mơ hồ kia. Một sáng nào đó cơn mưa bụi là là từ chân trời phía Ðông bay tới, là là bay từng đám bụi nước như sương trắng như tơ trời. Mùi ẩm ướt của hơi nước đọng trên da thịt khiến máu chảy rần rật trong huyết mạch những tay thợ săn, những chàng trai mới lớn và cả những người đã bước tới ngưỡng cửa tuổi già nhưng nỗi nhớ rừng và khao khát mùa săn chưa thôi cháy. Trưởng phường chưa ra lệnh nhưng khắp xóm các tay săn đã lôi súng ra lau, kiểm tra đạn và sửa soạn đồ lề khác. Vào lúc chiều nhạt nắng trên sân nhà trưởng phường họ tụ họp, uống trà. Bà chủ đem ra một rổ bánh mật nóng hôi hổi, lá gói còn bỏng rảy. Ðám thợ săn vừa bóc bánh ăn vừa thổi phù phù. Hết bánh họ uống trà hút thuốc và chuyện bắt đầu ròn như pháo nổ. Sự kiện trọng đại nhất là việc vắng mặt Xá chột. Anh ta đã hạ gấu ngựa năm trước nữa, lại hạ con lợn độc mùa săn vừa rồi, đầy hứa hẹn để trở thành trưởng phường tương lai vì dù sao người đang nhiệm chức cũng đã ngót nghét sáu mươi.
- Tôi tiếc cho cậu ta thật... Cậu ta xứng đáng hơn tất cả các cậu để giữ vai trò này. Tôi dù sao cũng đã mỏi gối chồn chân.
Ông trưởng phường lên giọng trước tiên, giống như lời nhắc nhở. Nếu Xá chột không thay thế vị trí của ông, ắt hẳn một ai đó phải cố gắng để làm chức phận ấy một chức phận không ít vinh hạnh nhưng cũng không dễ dàng gánh vác. Thường trong mỗi phường có dăm ba tay súng cứng xấp xỉ nhau và sự ganh đua giữa họ là thứ men kích thích cho mùa săn thêm sôi động. Những kinh nghiệm thu lượm được sau mỗi mùa, sự đánh giá ngầm ẩn nhưng sắt sói từng đường đi nước bước của kẻ cầm trịch, và các phẩm chất rèn tập lên bậc thủ lĩnh, ấy là tất thảy những gì các ứng cử viên nung nấu thèm muốn. Họ thường phải nung nấu sự thèm muốn đó trong nhiều năm, gắng gỏi trong nhiều năm, và cầu mong sự may mắn trong nhiều năm mới có cơ hội được bước lên ghế trưởng phường. Riêng với Xá chột, dường như mọi sự đều xảy ra ngược lại. Cái gã chột đó chưa kịp thèm muốn người ta nói xưng xưng ra cửa miệng rằng chức trưởng phường nay mai sẽ lọt vào tay gã không đối thủ, gã chưa kịp rèn tập tư cách thủ lĩnh người ta đã trầm trồ rằng gã sinh ra để làm thủ lĩnh nghề săn bắn, gã chưa kịp để tâm đến kinh nghiệm nghề nghiệp mọi người kể cả vị trưởng phường đương chức khả kính cũng phải công nhận rằng gã đầy thiên năng dường như mười kiếp trước gã đã luôn luôn là tộc trưởng một bộ lạc sống bằng săn bắn... Và tất cả những ưu thế đó chẳng phải do những năm chinh chiến đem lại cho gã bởi trong phường săn có tới ngót hai chục tay súng cựu chiến binh nhưng hoàn toàn bởi một thứ may mắn bẩm sinh đặc biệt người ta vẫn gọi là trời cho... Vậy mà Xá chột lại từ bỏ cái vinh quang trong tầm tay, từ bỏ niềm vui sảng khoái nhất, hào hùng nhất trong cuộc sống của gã... Và đó là điều đám thợ săn không mường tượng nổi cho dù sự vắng mặt của Xá đã đem lại niềm vui sướng và cơ hội cạnh tranh cho ít nhất năm tay súng, năm ứng cử viên hạng ruồi này đang thầm lén chuẩn bị và chờ đợi cuộc ganh tài trong mùa săn tới:
- Tôi tiếc thật nhưng dù sao cũng là chuyện đã rồi, không ai chọn được con đường đi cho kẻ khác...
Ông trưởng phường tiếp tục khi chẳng thấy tay súng nào lên tiếng:
- Giờ đến lượt các cậu ganh sức trổ tài. Hoa có lứa đàn bà có thì đàn ông có tuổi, tài giỏi đến mấy vào lúc tuổi già cũng thành kẻ bại trận. Tôi không muốn cầm cờ cho đến tận ngày ngã ngựa đâu. Các cậu hãy lo liệu mau mau...
Tới đấy ông ngừng lời và tất cả các ứng cử viên cùng các tay súng khác đều im lặng. Như vậy, lời tuyên bố đã được chính thức nêu lên và cuộc cạnh tranh được chính thức khởi động. Xá đã đứng ở giải bờ bên kia, hoặc nói cách khác ở lại mảnh đất sau lưng họ. Giờ, họ có thể bàn đến anh như nói tới một láng giềng:
- Vợ Xá nằm ổ được một tuần lễ chưa nhỉ?
- Hơn rồi chứ... Ðể tôi nhẩm xem... mười một... A, mười hai ngày rồi.
- Tội nghiệp anh chàng, chắc giờ đang lo méo mặt.
- Mày nói gì thế? Có méo cái con đầu b... nó... Nó đang sướng nhảy cẫng lên thì có.
- Tao đếch tin. Thời buổi này hai ba con nuôi đã mệt, giờ nó lại lòi ra đứa thứ bốn... Rồi là chết với chính quyền xã.
- Thằng này ù ù cạc cạc lại thích bình phẩm... Chết làm sao được? Nó tuyệt đối chấp hành chính sách sinh đẻ có kế hoạch, đưa vợ tới trạm xá ngày đầu tiên trong chương trình đặt vòng phòng tránh thai. Vậy thì không chủ tịch với bí thư nào dám hoạnh họe. Còn chuyện vài tháng sau vòng rơi ra và cô Soan có chửa là do trời xui đất khiến, bố ai hiểu nổi chuyện gì xảy ra trong cái nơi thăm thẳm hỏm hòm hom ấy? Bữa mới đón vợ từ trạm xá về, nó quạc mồm oang oang trêu vợ: Thế nào cô mình đã thấy con cu của anh đây oanh liệt hay chưa? Nó húc bắn vòng của chính phủ ra chui vào tận tổ con chuồn chuồn... Thế là bỗng dưng vợ chồng mình có tứ tử trình làng, oai nhất Xóm Núi nhé. Ðiểm mặt xem, dê xồm như cụ Phiều quanh năm tẩm bổ cao dê với hột dái dê cũng chỉ đẻ được ba mống con trai, còn lại cả tiểu đội thị mẹt. Vậy mà cò súng anh đây nổ liền bốn phát bốn thằng cu...
- Ð... mẹ cái thằng bố láo...
Cả đám phường săn phá lên cười. Ngớt cơn cười, người ta hút thuốc uống trà râm ran đủ thứ chuyện vặt rồi lát sau một người lên tiếng:
- Này, cái thằng cha Xá chột biến đằng nào không thấy? Lẽ ra cũng phải biện cái lễ tạ từ để bọn ta cùng nâng chén lên hạ chén xuống chớ? Làm thằng đàn ông dù hầu vợ hầu con cũng phải có lúc bỏ đi đàn đúm với chúng với bạn, không lẽ suốt ngày úp mặt ngửi hơi cái lò ướt ấy hay sao?
Cả bọn lại cười khành khạch, và người láng giềng của Xá chột cao giọng:
- Cái ông này nói tục bỏ mẹ... Làm như tất tật đàn ông trong thiên hạ đều thích ngửi con ba ba như ông. Xá chột không còn ở làng... Nó chỉ chạy đi chạy lại trông vợ còn công việc chính bây giờ là bán cửa hàng sắt và nguyên vật liệu xây dựng dưới thành phố.
- Ai thuê nó vậy?
- Không ai thuê. Nó giờ là ông chủ. Chủ cũ là chị họ của Xá, gái quá lứa lỡ thì. Những năm trước Xá chột thường qua lại trông nom cửa nhà giúp, hoặc khi thuê thợ sửa nhà chữa điện, hoặc coi sổ sách đỡ đần. Nó học hết cấp ba ngần ấy năm đi lính chữ chưa rơi vãi hết, vả lại nó vốn sáng dạ nên bà chị cũng nhờ vả được nhiều. Bất đồ năm ngoái bà ta vào Sài gòn vớ được ông tình nhân, một lão Tài già hơn bà ta đến hai chục tuổi nhưng còn bảnh bao. Lão này giàu sụ, có tới năm cửa hàng ở Sài gòn và lục tỉnh. Ba đứa con gái đã lấy chồng ở hết bên Tây còn mụ vợ già chết cũng ngót nghét mười lăm năm, vớ được người nhan sắc lão mừng hơn bắt được vàng, đòi tổ chức cưới liền. Cưới xong bà ta thu xếp vào Sài gòn ở hẳn với lão.
Vậy là bỗng dưng Xá chột được hưởng không căn nhà hai tầng với cửa hàng dưới thành phố.
- Người ta nói đúng thật: Số giàu đem đến dửng dưng, lọ là con mắt tráo trưng mới giàu. Khi chưa tới vận đỏ có làm thót hai hột cà cũng chỉ đủ miếng bỏ vào mồm. Khi đến vận đến thời của nả từ trên trời tự dưng rơi trúng cổ.
- Trời cũng chỉ một phần thôi chớ? Cái chính Xá chột là người tốt bụng, hẳn nó đỡ đần cái bà chị độc thân kia rất nhiều nên tới khi giàu sang người ta mới trả quả.
- Ðúng. Cứ xem nó giúp cậu Bôn thì rõ. Người dưng nó còn tốt được đến thế huống hồ có dây máu huyết? Giọt máu đào hơn ao nước lã...
- Nghe đâu cửa hàng khá lớn, phải thuê người coi sóc. Cái chỗ ấy là của cậu Bôn nếu cậu ta sáng suốt khỏe mạnh. Nhưng vì Bôn đã lẩn thẩn nên Xá mời Bình kều. Tay này chỉ nặng tình với bạn, còn anh em con chú con bác có cả đống trong làng nó chẳng thèm để mắt tới ai, không phải như ông nói: Giọt máu đào hơn ao nước lã đâu...
- Thế thì nó dại.
- Biết thế nào là dại với khôn? Cái ông cho là khôn thằng khác lại nghĩ là dại và ngược lại.
- Thôi đừng lý sự quèn... Dạo này cậu Bôn lẩn thẩn rồi ư? Tôi nghĩ là cậu ta khá hơn hẳn thời kì trước. Quanh năm suốt tháng ở nhà, mưa không tới mặt nắng chẳng tới đầu ăn uống thuốc thang tẩm bổ đều trông cậu ta vâm vạp lắm.
- Thân sướng đã chắc gì tâm nhàn. Con người ta cũng như cái máy lâu không chạy thì han rỉ.
- Tôi lại nghĩ con người ta như cái ống, có đầu vào phải có đầu ra... Ðầu ra của cậu ta bị nút chặt rồi.
- Thằng cha này lại tán bậy... Cậu ta có còn ngó ngoáy được đâu mà tính đầu ra với đầu vào?
- Ai biết được tổ chuồn chuồn ở chỗ nào? Nó còn trẻ thế, lại no cơm ấm cật sao khỏi có lúc dậm dật? Khốn nỗi cửa buồng cô Miên lúc nào cũng đóng chặt. Thêm nữa ba gian nhà giữa có một ông đứng lù lù canh gác, đố mon men được tới gấu quần vợ.
- Vợ hờ thôi... Cô ta có còn yêu nó nữa đâu. Cô ta sống với tay Hoan bụng chửa to bằng cái trống cà-rình cả làng nhìn rõ mười mươi, ai dám hồ nghi... Nhưng cô ấy vẫn nuôi cậu ta như nuôi một ông bố già. Như thế đã là tốt lắm, người đời khó theo được.
- Cậu ta tàng tàng từ hồi nào nhỉ? Trước gặp nó thấy ăn nói vui vẻ hoạt bát lắm.
- Nó tàng từ hồi vợ đẻ ra quái thai. Nghe họ nói cái thai đó là con trai đủ hai tay hai chân lẫn buồi dái nhưng không có đầu. Cổ nó rất to rất dài trên dính cái màng tròn như bọng đái lợn bên trong có đám gium trắng bò ngoằn ngoèo lẫn tia máu.
- Sao biết được?
- Bà chị dâu họ tôi bên xã Vinh Quang nằm viện với cô Miên một ngày. Ông chồng nghe đám y tá xì xào về cái quái thai nên lúc hộ lý xách đi chôn ông ấy chạy theo vạch xô ra xem.
- Lạ nhỉ? Xưa nay chỉ nghe quái thai thiếu hoặc thừa ngón chân ngón tay, hoặc sứt môi sứt mũi... Chưa nghe ai nói quái thai cụt đầu.
- Nghe như vậy thì chưa hẳn cụt đầu, nhưng không có xương sọ và mặt. Tôi cho rằng cái đám giun trắng bò ngoằn ngoèo chính là óc. Các ông ăn óc lợn có thấy hình dạng nó từa tựa như vậy không?
- Thôi đừng nói nữa nghe ghê tai bỏ mẹ... Này, lũ trẻ nhà tôi đi lùa dê nói rằng hồi này cậu Bôn thường luẩn quẩn trên bãi tha ma, có đúng không?
- Ðúng đấy, có lúc nó thủ theo con dao rựa. Bữa tôi đi ngang qua cậu ta chào hỏi tử tế còn rút thuốc mời.
- Ông thấy thế nào?
- Tôi đang vội nên chỉ ngồi với cậu ta được tàn điếu thuốc, thấy khẩu khí vẫn đàng hoàng tỉnh táo. Duy có điều đôi lúc đang nói cậu ta lại mỉm cười với ai đó, tuồng như cười với cái kẻ cậu ta đang tơ tưởng rồi sau đấy cậu ta lại tiếp tục nói chuyện như thường.
- Nó đem theo dao rựa làm gì nhỉ?
- Có lẽ cậu ta định chặt gai tầm ma hoặc cây dứa dại.
- Nhà nó có làm nghề phù thủy đâu mà chặt gai tầm ma với dứa dại? Khéo nó đào mồ đào mả của chúng ta thì nguy.
- Ðừng lo. Mấy ngôi mả nhà ông xây cả rồi chứ?
- Rồi.
- Vậy làm sao cậu ta đào được gạch xây xi-măng bằng con dao cùn như vậy? Muốn thế nó phải có xà-beng. Dân Xóm Núi dù giàu dù nghèo đều đã xây mộ. Duy chỉ còn gia đình cậu Bôn và ngoài ra là ba ngôi mồ vô chủ từ nhiều đời nay đã lún gần hết, chỉ còn núm cỏ lùm lùm trên mặt đất. Không lẽ Bôn lại tự tay đào mồ cha mẹ mình... Các ông cứ yên trí, dù ngây ngây chứ điên thật cũng chẳng đứa con nào đào mả bố mẹ mình.
- Ðã mất trí thì còn hay biết gì nữa?
- Bôn chưa phải người mất trí. Chỉ vì đau mất con nên cậu ta hóa ngơ ngẩn. Phần trí não nào của cậu ta bị mất thì linh hồn tiên tổ và cha mẹ cậu ta sẽ dẫn dắt. Tôi tin như vậy.
- Tội nghiệp... Hồi nhỏ, cậu ta học giỏi lắm, vẫn thường giúp thằng út nhà tôi làm bài...
Chuyện tới đó ông trưởng phường xách ra sân hai cây đèn bão vì trời đã nhọ mặt người. Ðặt hai cây đèn lên kệ xong xuôi, ông quay xuống bếp dõng dạc cất tiếng:
- Thế nào, đã xong mẻ bánh mới chưa? Xong rồi đem lên đây cho anh em.
Có tiếng dạ ran của đám đàn bà bao gồm cả vợ cả con gái cả con dâu của ông rồi không đầy phút sau hai cô con gái ông khiêng lên một thúng bánh bốc khói nghi ngút, nước từ thúng bánh nhỏ xuống sân thành một đường ngoằn ngoèo. Ông già quát:
- Chúng bay làm ăn thế hả? Sao không lấy cái chậu hứng bên dưới?
Hai cô con gái mặt đỏ bừng hơi lửa chưa kịp chống chế bà vợ ông đã nói vóng từ bếp lên:
- Chậu đâu... có chậu đây... Rồi bà tong tả xách chiếc thau đồng lớn đem lên, đặt ngay ngắn giữa sân để hai cô con hạ thúng bánh. Xong xuôi, ba mẹ con lại thụt xuống bếp, mảnh đất an toàn và vui thú nhất của họ. Vị gia trưởng lúc đó hài lòng tiếp tục nói:
- Này anh em, ăn bánh uống trà đi. Năm nay hơi hướng đất trời xem ra êm thuận, tôi đang xem giờ để chúng ta xuất phát. Chút nữa quên... Tôi báo một tin vui, phường săn chúng ta năm nay tuy thiếu cậu Xá nhưng lại có thêm hai tay súng mới: chủ tịch xã và anh Hoan, chủ trại Suối Nhỏ. Hai người cùng tới đây xin nhập hội một lần.
- Chủ tịch xã chiều nào chẳng uống trà trên sân thượng nhà tay Hoan. Thế nên họ xin nhập hội một lần cũng là lẽ thường. Phải nói gã nhà giàu này khéo ăn khéo ở thật.
Và thế là đám phường săn lại quay về những nhân vật chính của cặp vợ chồng tay ba giống như trò chơi đổi chỗ, người chồng thứ nhất, người chồng thứ hai và người đàn bà quyến rũ bùa phép cả hai gã đàn ông.
Xóm Núi nhỏ bé quá. Trong thế giới nhỏ bé và tù đọng ấy, niềm vui thoáng qua mau như ánh hồi quang như hơi gió thoảng, nỗi âu sầu quẩn quanh như thứ khí độc hại và mê say của bùa ngải, như thuốc phiện làm mê đắm và tê bại hồn người, bởi trong mỗi tâm hồn yếu ớt lẻ loi man dại đó đều chứa mầm mống bệnh hoạn một thứ thèm khát ngầm ẩn không thú nhận những bi kịch ghê gớm những giông bão đường đột dù rằng cùng với nỗi thèm khát đó, sự sợ hãi thường trực đeo đuổi như kẻ đồng hành...
Chương 27
Từ ngày về làng Bôn không nhìn dải Trường Sơn, nghĩ sẽ chẳng bao giờ còn quay lại nơi đó. Màu xanh điệp trùng ẩn chứa bao kinh hoàng. Như kẻ từ địa ngục quay về không dám ngoái nhìn con sông không bờ không đáy phân chia nhân gian với cõi u tỳ anh không muốn nhìn lại dải rừng già con quái vật vô song con ma cà-rồng thiên hình vạn trạng đã hút cạn máu đã hút kiệt nguồn sinh lực và tuổi trẻ của anh. Anh muốn nó vĩnh viễn là mồ chôn quá khứ. Tất cả những gì liên quan tới nó khiến anh hãi hùng. Vì thế khi đám cựu chiến binh trong làng rủ anh gia nhập phường săn anh từ chối phắt. Vì thế mỗi khi mùa săn lảng bảng tới tiếng kèn đâu đó vọng về da thịt anh lại sởn gai ốc. Trong tiếng kèn u uột đó anh nghe trập trùng tiếng kêu của lũ chim ăn xác tiếng thì thào của các bóng ma tiếng rít của bầy rắn đêm tiếng thở than não nề của gió trong hang sâu vực thẳm, anh lại nhìn thấy những đám cây quằn quại sôi nhựa xèo xèo trong lửa na-pan những khúc chân tay bị quăng ném những cái sọ vỡ toang óc trắng nhầy như cháo nếp... Tất cả những gì đã trải nếm là quá sức đối với tâm hồn và thể xác Bôn. Ðôi lúc anh hình dung mình đã bước vào dải núi xanh rì kia là một chàng trai trẻ và ra khỏi nó dưới bộ dạng của xác con cua lột, chẳng còn gì bên trong lớp vỏ xác xơ. Bôn thù ghét rừng già, vừa thù ghét vừa khiếp đảm. Nó quá lớn mạnh quá thiêng liêng quá bất trắc quá tàn bạo đối với anh. Anh thèm muốn biển khơi và bất cứ lúc nào rảnh rỗi anh cũng quay về hướng Ðông nơi mặt trời mọc nơi có biển có sóng có nghề chài lưới có những đám trai da rám nâu bắp tay bắp chân cuồn cuộn ngửi hít khí trời giông bão nổi ầm ầm như sóng và chắc chắn ngủ với đàn bà không mỏi mệt:
Nếu ta sinh ra trong một làng chài, ta sẽ trở thành...
Giấc mơ cỏn con và muộn màng vẫn thường lặp đi lặp lại.
Vậy mà mùa săn năm nay tiếng kèn xa xôi khởi đầu từ chân trời nào đó vọng tới đã khuấy động tâm hồn thiu thiu ngủ của Bôn. Thoạt tiên, nó là tiếng nức nở tuổi thơ anh âm vang trở lại. Tiếng nức nở nào? Anh không biết. Có thể là trận đòn oan uổng do lũ trẻ láng giềng mách bố mẹ anh hồi anh bé tí ti, có thể là tiếng khóc sau linh cữu khi họ theo nhau về chầu tiên tổ, có thể là lời nỉ non hồn tủi vào khoảnh khắc chông chênh khắc nghiệt khi tuổi niên thiếu chưa qua và tuổi thanh xuân sắp đến anh chợt nhận ra sự thua thiệt ghê gớm khi phải độc hành bước vào tương lai không một chút gia sản trong tay không cha nâng mẹ đỡ... Tiếng nức nở nào... anh không nhớ rõ nhưng chúng khiến tim anh thắt nghẹn:
Mẹ ơi, cha ơi... Tại sao sinh con ra rồi bỏ con trơ trọi lại cõi đời... Giá như...
Giá như, giá như... Anh mường tượng cha mẹ anh khỏe khoắn và giàu sang. Khi anh làm đám cưới cũng như lúc anh trở về họ sẽ dựng rạp lớn rạp nhỏ mổ bò mổ lợn giết dê mời làng xóm ăn mừng. Vợ chồng anh sẽ sống trong ngôi nhà khang trang cao rộng như những đứa con cụ Phiều, ông Hơn, bà Giá... Và rồi họ sẽ nuôi anh tiếp tục học đại học, theo đuổi giấc mơ thời trai trẻ bị đứt đoạn bởi chiến tranh trong lúc Miên ở nhà coi sóc nương vườn và đẻ cho anh những đứa con kháu khỉnh. Giá như những nương tiêu của cha mẹ anh đã xanh rờn, những nương cà-phê đã chín đỏ lúc anh quay về hẳn anh sẽ không phải cuốc đồi vỡ nương tới ngất xỉu, sẽ không phải sống nhờ đồng tiền của Miên và không phải cưu mang gia đình người chị bần hàn vô sỉ... Giá như giấc mơ đó là sự thật, tình thế sẽ khác đi... Giá như, nhưng anh biết chữ giá như đó không có. Cha mẹ anh hiền lành nhưng vô năng. Họ cần mẫn kiếm miếng cơm như lũ kiến kiếm mồi và tất thảy mọi ước mộng dồn trút lên vai anh từ khi anh bé tí... "Làm rạng danh tổ tông, làm dòng tộc nở mày nở mặt với thiên hạ."... Chao ôi giấc mộng lớn lao. Khủng khiếp. Họ đã ăn sắn và ăn ngô dành cho anh cơm trắng, họ ăn mắm tôm vằm ớt sả để xẻ vào bát anh con cá suối bé tẻo teo hoặc miếng thịt lợn vào ngày giỗ tết. Tình yêu của họ giằng trói anh. Tuổi thiếu niên anh đã gánh lệch vai giấc mơ khổng lồ kia cái ước nguyện khổng lồ thiêu đốt trái tim trong trắng như than đỏ trong lò, anh đã lệch vai gánh củi đốt than kiếm tiền đèn sách, anh đã học đến kiệt hơi như thằng rồ ngoài việc cắm mặt xuống trang sách không còn tơ tưởng đến bất cứ trò chơi nào thú vui nào khác... Và cánh cửa tương lai đã mở ra với anh. Vào buổi sáng anh xuống thành phố thi học sinh giỏi toàn diện của tỉnh, thầy giáo chủ nhiệm lẫn thầy hiệu trưởng đều đưa tiễn anh, đều nở nụ cười lạc quan và nụ cười đó, trên gương mặt hom hem với hàm răng ám vàng khói thuốc của họ giống như mảnh bùa hộ mạng dán vào trán anh suốt cuộc chiến tranh đinh ninh rằng khi ra khỏi cuộc chiến này ném đi tấm áo lính ám mùi khói súng anh sẽ mặc lại chiếc sơ-mi trắng để bước vào cửa trường đại học, tuy có chút muộn màng về tuổi tác nhưng vẫn dư thừa niềm tin và sinh lực...
Mười bốn năm trôi qua, trở lại Xóm Núi sinh lực chẳng còn nhưng niềm tin của anh vẫn đầy ắp. Có lẽ cha mẹ anh giàu mơ mộng và sự kế thừa cái tài sản phù du đó đem cho anh những thời khắc tột cùng sung sướng, bay bổng tột cùng trong cõi phù vân. Thay vì ước mộng bước vào trường đại học anh mơ tưởng sẽ trở thành chủ trang trại với người đàn bà anh yêu, anh mơ ngày anh giàu có đủ tiền xây mồ cho cha mẹ, đủ tiền làm một chuyến du lịch khắp đất nước thăm những gia đình bạn hữu, đồng đội, người còn cũng như kẻ mất trước hết là bà cô tiểu đội trưởng. Mơ mộng và mộng mơ... Không có chúng làm sao mà sống được? Nhưng có chúng người ta cũng chẳng thể sống bình an. Vào buổi sáng Hoan bước vào căn buồng tồi tàn của anh, anh biết mọi sự đã hết. Cái người đàn ông cao lớn da trắng môi đỏ mái tóc đổ xuống trán mềm và bóng như tóc đàn bà đó đã khiến anh đứng sững giữa sân, nghẹt thở. Chính hắn, chính anh ta, chủ sở hữu chiếc quần thun màu xám sọc đỏ. Trong giây lát, mắt mũi anh tối sầm, toàn thân anh run bắn, và mồ hôi bắt đầu toát dọc sống lưng. Phải, chính người đàn ông đó. Anh ta giống cái gì đó đã từng quen thuộc và từng làm anh khiếp sợ? Không phải một người bằng xương bằng thịt, nhưng là một thứ thật khủng khiếp, mơ hồ, vĩ đại, bí ẩn, đầy quyền năng... Sau cơn choáng váng dài, rất dài tưởng như không bao giờ chấm dứt, Bôn đã lấy lại được hơi thở và anh hiểu người đàn ông cao lớn đường bệ có vẻ quyến rũ dịu dàng đó là ai: Anh ta là dải Trường Sơn thứ hai, một thực tế toàn năng, một ông trời tàn bạo dưới dáng vẻ ôn hòa, kẻ sẽ thế chân dải rừng già khắc nghiệt kia phá hủy nốt phần đời còn lại của anh, con ma cà-rồng sẽ hút cạn tới giọt cuối cùng hy vọng và niềm vui sống còn rơi sót.
Thế là hết.
Những ngày sau đó trôi qua ra sao, anh không nhớ. Miên đi rồi gian phòng của anh chỉ còn là mái lều hoang, nơi lũ con Tá cùng đám gián chuột tha hồ kiểm soát, nơi thấp thoáng bóng ma xưa thăm hỏi khi là tiểu đội trưởng khi là cha mẹ anh hoặc một vài đồng đội cũ người nào cũng vội vàng người nào cũng câm lặng nhìn anh với cái nhìn xanh xao vàng vọt người nào cũng giơ lên những đốt xương tay vẫy chào anh khi đứng ở ngưỡng cửa buồng. Bao lần anh gọi họ, chẳng ai đáp lời, kể cả tiểu đội trưởng. Vì sao, anh không rõ, đồ chừng các bóng ma không thể cất lời ở những nơi nhiều dương khí. Lũ con Tá và đám trẻ láng giềng khiến họ câm nín và chắc hẳn anh phải ra bãi tha ma hoặc đồi hoang nếu muốn cùng họ chuyện trò. Nhưng anh ốm, không thể cất lưng khỏi giường, anh nằm ngày này qua ngày khác thi thoảng ăn bát cháo do cô Soan hoặc lũ con Xá chột đem tới, ăn vài củ khoai luộc do Tá mang vào. Những ngày ấy khung trời ngoài cửa bị chôn vùi trong mây khói. Anh không thấy màu trời, không thấy các đám mây không thấy cả những ngọn soan xác xơ vẫn thường đong đưa nỗi cô đơn sầu muộn. Anh chỉ hồi nhớ cánh cửa đã một lần hé mở trước mắt anh, cánh cửa tương lai. Anh nhớ cậu thiếu niên hăm hở xuống thành phố, nhận phần thưởng cuộc thi cả gương mặt lẫn hai mang tai nóng ran máu chạy rần rật như kiến bò, anh nhớ tiếng cười xưa cũ... Tất cả ở trên một chuyến tàu chuyến tàu đó chạy đã xa bỏ lại anh trên sân ga hoang phế.
Ta là kẻ lỡ tàu, chuyến tàu đó không bao giờ quay lại. Sân ga chỉ còn cỏ lẫn lá khô, không hành khách đợi tàu, không cả dấu vết con tàu cũ... Phải, ta đã nhầm, con tàu cuộc đời chỉ chạy một ca, đã rời ga không còn trở lại...
Anh đã mang quá nhiều ước vọng và niềm tin, thứ ánh sáng nổi trôi trên dòng nước, càng đuổi bắt chúng càng tuột khỏi tay. Mười bốn năm chiến tranh. Cánh cửa nào đóng trong mười bốn năm cũng rỉ sét không còn cơ mở được.
Ta là kẻ lỡ tàu. Kẻ trắng tay không còn cơ để tự lừa dối bản thân thêm một lần nữa...
Ðó là lần đầu tiên anh tự thú nhận rằng anh đã tự lừa, tự huyễn mình suốt thời gian qua. Vào lúc anh bấu chặt tay cánh tay người nữ hộ sinh gào lên:
- Con tôi đâu? Cô giấu nó ở đâu? Cô đánh tráo nó cho ai rồi?
Trái tim anh đầy tràn phẫn nộ và ráo rốt khao khát. Anh nóng lòng nhìn thấy đứa con trai, hy vọng duy nhất cây cầu duy nhất nối anh với tương lai, anh đinh ninh rằng người ta đã đánh tráo nó cho kẻ nào đó khát đứa con thừa tự người ta đã sắp đặt những âm mưu để lừa dối anh một gã đàn ông hiền lành miền sơn dã. Nhưng người nữ hộ sinh to lớn có gương mặt vuông đã quay lại nhìn anh với cặp mắt lạnh như nước đá. Cái nhìn đó rọi thẳng vào mắt anh, uy nghiêm. Rồi hất mái đầu lờm xờm một cách giận dữ, cô ta cất tiếng:
- Anh nói bậy bạ gì thế?
Bôn không đáp, chỉ lập lại câu hỏi:
- Con tôi đâu? Cho tôi xem....
Cô ta gằn giọng:
- Có thật anh muốn xem không?
- Có.
Bôn gào lên tức khắc. Người hộ sinh nắm lấy cánh tay anh kéo xềnh xệch vào phòng trong, căn phòng trắng toát như tấm khăn tang và rồi ở đó, cô ta kéo chiếc xô loảng xoảng trên nền gạch lát, mở chiếc nắp xô cũng với cử chỉ dữ dằn như vậy:
- Ðó. Con anh đó. Cúi xuống mà xem.
Anh cúi xuống. Cái đó. Cái vật đó. Cái thai đó. Con anh. Tất cả những gì còn lại trong tương lai và cho tương lai của anh... Anh không dám tin. Một khúc thịt đỏ bầm nằm giữa đám máu lầy nhầy, hai tay và hai chân co lại. Một bộ não hiện lờ mờ dưới tấm màng, như bộ óc người ngâm trong lọ phoóc-môn phòng thí nghiệm trường cấp ba tỉnh. Cái cổ bào thai phình to, giống như quả da ếch. Và không còn gì nữa. Trời ơi, anh đã tơ tưởng bao nhiêu ngày, thầm ước mắt nó giống anh, còn sống mũi làn da khuôn miệng và thân hình giống Miên bởi anh biết anh chỉ có một thứ khả dĩ là đôi mắt. Anh đã đợi chờ phút nó mở mắt để soi mắt anh vào mắt nó để nó hướng về anh cái nhìn trong trẻo bởi ánh sáng trong đôi mắt nó là tất cả nguồn sáng chiếu rọi tương lai anh, bù trả anh khung trời đã mất. Nó là sức mạnh của anh, là lý do để anh tồn tại. Ðôi mắt đó không có. Không có cả gương mặt của Miên, sống mũi và khóe môi của Miên. Không gì hết.
Tại sao con người không chết đi khi họ chẳng còn gì để sống?
Anh đã tự hỏi anh bao nhiêu lần. Bấy nhiêu lần anh ra lệnh: Mình phải chết. Cần phải chết. Càng nhanh càng tốt. Một sợi dây thôi. Xà ngang đủ chắc chắn để thực hiện điều đó...
Và sau bấy nhiêu lần anh vẫn nằm dán lưng trên giường, khi Soan đem cháo tới anh ngồi lên lau mặt bằng tấm khăn bông lâu chưa giặt ăn bát cháo nóng do người đàn bà hồn hậu kia nấu rồi lại tiếp tục lau mồ hôi bằng tấm khăn bông, vừa lau vừa lơ mơ cảm thấy một cơn khoan khoái nhẹ nhàng nâng đỡ tâm hồn cùng thể xác.
Mình yếu đuối quá. Mình nhát nhúa quá... Có lẽ vì cha mẹ đã ngăn cản, hoặc vì chưa đến số và trời phật chưa cho phép lìa bỏ cõi trần... Mẹ ơi, sao mà nhớ mẹ...
Anh nghĩ. Sau ý nghĩ đó anh ngủ thiếp đi.
Một sợi dây mong manh lung linh nối liền cuộc sống của anh với cõi xa mù, nơi đó có bóng dáng một người đàn bà. Mẹ anh, Miên, người đàn bà Lào câm điếc hay những cô thanh niên xung phong những thôn nữ anh gặp trong những cuộc gặp gỡ chóng vánh hối hả ven lề chiến tranh? Bôn không biết. Nhưng anh biết đó là đàn bà. Anh ngửi thấy mùi đàn bà. Anh cảm thấy từ trường của họ mùi mồ hôi mùi da thịt mùi tóc và hơi nóng thần bí toát ra từ thân thể họ. Sợi dây mong manh đó giằng trói anh.
Buổi sáng Miên quay lại đem cho anh liễn cháo gà nóng hổi anh đã nhìn chị như nhìn một người đàn bà mới lạ, vừa là người đã từng cùng anh chăn gối vừa như ai đó vừa bước tới từ một cõi đất khác chân trời khác. Buồn và tủi, vui sướng lẫn hững hờ, anh xúc cháo ăn không hiểu vì sao vị cháo ngon lành đến thế và gương mặt chị không còn khiến anh say đắm hãi hùng. Gương mặt đó đã ở ngoài khung trời của anh.
Miên và chẳng còn là Miên...
Anh nghĩ, không còn thấy tim đau thót không còn thấy các mạch máu đập dồn dập nơi thái dương và trên định đầu như trước kia mịi lần anh yêu đương hay hờn giận chị. Cảm giác đó khiến anh đỡ hồi hịp đỡ đau địn. Những cơn quặn thắt cồn cào trong gan ruịt dịu nhẹ dần.
Miên và chẳng còn là Miên...
Ý nghĩ đó được lặp lại, một cách mạch lạc hơn và thanh thản hơn. Mùi cháo thơm nức khiến anh bị lôi cuốn. Khi những giọt mồ hôi lớn toát ra đầy mặt, đầy cổ anh đặt bát cháo xuống rút khăn lau. Càng lau, anh càng thấy dễ chịu. Thân xác anh nhẹ bổng như mây, và tâm hồn anh bình lặng. Ngọn triều đã rút. Và bãi cát phẳng lì phơi trong nắng ấm.
Ngày thứ ba Miên tới, chị bảo anh hãy về cùng với chị. Bôn ư hử nhưng trong thâm tâm, một tiếng đáp tức khắc bật lên:
Sao không? Miên và chẳng còn là Miên ngày xưa. Nhưng một người đàn bà. Miền yên ấm. Giải cát phẳng lặng ven biển khi thủy triều đã lùi xa...
Anh thầm nghĩ và mường tượng giải bờ cát anh đã thấy hồi trai trẻ. Cái sợi dây mong manh lung linh kia nối anh với một người đàn bà, anh chỉ nhìn thấy tấm lưng mà không rõ mặt. Tấm lưng thon nhỏ với cái hông đong đưa mỗi bước chân... Miên, mẹ anh, người đàn bà Lào câm điếc, các cô gái dọc đường hành quân? Người đàn bà có thể mang bất cứ gương mặt nào bởi vì mặt họ ẩn giấu trong sương mù anh chỉ nhìn rõ eo lưng, cặp mông dày và cong, cái hông đong đưa theo nhịp bước.
Khi ngọn gió thổi tới mùi thơm của tỏi xào rau muống anh bỗng nhớ mẹ xống xang gan ruột. Anh xách ba-lô quần áo theo Miên, đúng hơn là theo sau cái người đàn bà vô tên tuổi đã níu giữ anh với trần thế bởi một sợi dây lung linh huyền ảo. Anh không để ý ánh mắt tò mò của làng xóm cũng không để ý tới bất cứ ai anh gặp trên đường, anh chào hỏi họ nhưng tâm hồn anh chìm đắm giữa sương mù kỉ niệm. Mùi rau muống xào tỏi đem lại cho anh nỗi êm dịu khôn cùng. Vừa đi anh vừa mỉm cười:
Mẹ biết không, bao nhiêu lần con đã được tiểu đội trưởng khen vì xào rau muống với tỏi ngon tuyệt... Ấy là nhờ món ăn tủ của mẹ. Hình như trước kia không phải bà ngoại mà là một người bạn lấy chồng dưới phố đã dạy mẹ cách xào rau?
Mẹ mỉm cười. Bà không trả lời nhưng lại vạch áo cho anh thấy bầu vú trái có một nốt ruồi lớn bằng nửa hạt gạo. Hồi nhỏ anh vẫn thích mân mê cái nốt ruồi đó... Anh đưa tay rờ vú mẹ và thấy tuổi thơ ấu tái hồi.
Mẹ ơi, con nhớ mẹ...
Anh kêu to. Mẹ vuốt tóc anh rồi bay đi, bay như một đám khói bốc lên từ miệng nồi cơm vừa bắc trên bếp than xuống. Anh đã sống dưới mái nhà của Miên, như người khách, như người thân, như người bạn cũ:
Ờ, có sao đâu? Chúng ta đã từng yêu nhau từng là vợ chồng và giờ đây là bạn. Như thời tiết luân chuyển, tàn hạ sang thu. Căn nhà này đặt trong từ trường của Miên, của người đàn bà, người thân thiết...
Anh dần quen cuộc sống mới. Ăn cơm sáng với ông Lư, ăn cơm trưa với ông Lư, ăn cơm tối với ông Lư. Khoảng sau bữa cơm tối, có tiếng xe máy ngoài cổng, và Miên dắt con trai vào. Chị vừa bước lên thềm vừa cất tiếng:
- Hôm nay ở nhà mọi người ăn gì thế?
Khi là ông Lư và khi là anh đáp lời:
- Chúng tôi ăn canh dưa nấu cá với lạc rang.
Hoặc:
- Chúng tôi ăn trứng tráng với rau luộc.
Hoặc:
- Hôm nay chúng tôi bắt con gà nấu cháo.
Miên rút trong làn khi vài trái cây mua từ thành phố, khi phong bánh mới hoặc gói kẹo đặt lên bàn:
- Bác Lư cất đi để hai người uống trà.
Sau thủ tục đó chị đem con xuống nhà tắm rửa ráy, thay quần áo cho cả hai mẹ con rồi vào buồng riêng. Bao giờ chị cũng xách theo cái bô tráng men để không phải rời khỏi buồng ban đêm. Sau đó chị gài chốt cửa và khóa lại. Bôn nghe rất rõ tiếng chốt cửa sau đó tiếng khóa xoay trong ổ. Những tiếng động đó đâm nhói vào tim anh, nhưng vì nỗi đau đớn nào, anh không muốn hiểu và không muốn nhớ. Sáng hôm sau, Bôn chưa thức giấc Hoan đã tới đón mẹ con Miên. Thường khi anh rời khỏi giường cũng là lúc tiếng động cơ từ ngoài cổng nhỏ dần rồi tắt hẳn.
Miên đi rồi. Nhọ mặt người cô ấy mới quay lại...
Anh thầm nghĩ rồi xuống bếp uống trà với người quản gia. Và ông Lư tức khắc bắt chuyện, lúc nào ông già gầy như hạc này cũng có chuyện để nói, cặp mắt già nua dường như không bao giờ mỏi mệt và đôi tai dường như không bỏ sót một tiếng động nhỏ nhoi nào. Bôn nghĩ rằng ông ta biết tất cả những gì anh nghĩ nhưng với vẻ câm lặng ôn nhu ông tỏ ra trìu mến với anh. Chính ông đã sắc thuốc cho anh uống, những thang thuốc Miên nhờ người cắt dưới thành phố. Chính ông hỏi và nấu những món ăn anh ưa thích. Cũng chính ông bày cho anh cách ngâm chân vào nước muối nóng trước khi đi ngủ cách xoa bóp lưng lẫn hai đùi khi vừa thức giấc. Trong ngôi nhà thênh thang lẫn vườn tược thênh thang ấy, mối gắn bó giữa hai người đàn ông côi đơn cũng dễ nảy sinh. Khỏe dần lên, Bôn theo ông lên coi sóc các nương tiêu nương cà-phê, một ngày ông chợt hỏi:
- Ông có còn giữ ý định làm nương riêng nữa không?
Bôn lúng búng không trả lời được. Khu đồi xã phân cho anh bỏ hoang lâu giờ đã cho một cặp vợ chồng trẻ khai phá tuy danh nghĩa chỉ là cho mượn. Cặp vợ chồng này đang tuổi trẻ bẻ gẫy sừng trâu lại đang cơn khát khao tát cạn biển Ðông nên họ làm ngày làm đêm và giờ đây những cây tiêu đã leo cao già non một thước. Tuy chẳng có văn bản, luật lệ nhưng dù muốn Bôn cũng không thể đòi lại đất, mảnh đất đang sắp sửa hái ra tiền nhờ tưới đẫm mồ hôi kẻ khác. Thấy anh lúng búng ông Lư nói tiếp:
- Tôi thấy bà Miên đối với ông rất tốt.
Biết người quản gia dò ý, anh đáp:
- Tôi rõ điều đó.
Ông cụ gật đầu:
- Ông là người đã từng luân lạc, chắc hiểu sự đời. Chẳng có nơi nào là cõi tiên dành cho đám người trần mắt thịt như chúng ta nhưng cũng có nơi đất lành nơi đất dữ. Chim đã mỏi cánh rồi gặp đất lành thì đậu lại.
- Tôi biết.
Bôn lặp lại câu trả lời cũ và hiểu rằng người quản gia đã nói lên ý nguyện của Hoan và Miên, họ sẵn lòng nuôi anh cho tới mãn đời trong vai trò người anh hoặc người bạn hoặc người quản gia thứ hai cùng ông Lư chăm sóc vườn tược, nhà cửa một khi anh đã hoàn toàn bình phục và muốn làm việc để tránh sự buồn chán trong cảnh ăn không ngồi rồi. Anh sẽ được chấp nhận dưới mái nhà này tới lúc chết nếu anh giữ đúng bản hợp đồng ấy.
Người chồng ngày xưa và người bạn ngày nay. Ta sẽ ăn cơm nơi Miên từng nấu cơm, ta sẽ sống dưới cùng mái nhà với Miên nhưng ở đầu này hồi nhìn sang đầu hồi bên kia như kẻ đứng bên này nhìn sang bờ sông bên kia và giữa hai bờ không phải dòng nước trôi mà là dầu cháy... Nhưng có sao, đời đẩy đưa đến cảnh trớ trêu này. Ta đã theo Miên về đây không phải như người chồng theo vợ mà là kẻ mồ côi đi tới nhà bảo trợ, như kẻ bị bỏ rơi tìm tới miền đất ấm...
- Ngày hôm nay trời đẹp thật.
Bôn bỗng thốt lên dù anh chẳng hề đưa mắt nhìn trời mà đang đăm đăm nhìn chùm cà-phê non nơi kẽ lá. Người quản gia chớp mắt rồi đáp:
- Dạ. Trời đẹp thật. Thời tiết thuận, mùa này hẳn bội thu.
Họ không nói gì thêm.
Từ ngày họ nói chuyện đó tới hôm nay bao nhiêu tuần trăng trôi qua. Bôn ngỡ rằng anh đã hoàn toàn thích ứng với cảnh sống mới nhưng chợt một đêm nào đó cơ thể anh nổi loạn. Anh không ngủ được. Những đợt sóng u cuồng râm ran nổi lên trong da thịt trong máu huyết. Những đợt sóng không thể làm an dịu. Không gì làm nguôi dịu. Chúng cuộn lên, cuộn lên dập dồn dập dồn khiến anh như tắc thở, chúng tràn qua tim anh nhận chìm nó dưới những xung đột hối hả không ngưng nghỉ, chúng vọt lên óc não anh đập tan mọi ý nghĩ, che phủ mọi hình ảnh và chỉ còn lại duy nhất cái hình ảnh trần tục và dâm đãng của những con đàn bà cởi truồng, những con vật giống cái lang thang trong rừng anh từng bắt gặp. Hình ảnh dâm đãng ấy mỗi lúc mỗi nở phồng lên, như được chiếu vào tấm gương phóng đại, nó choán hết tâm trí anh không cho anh lối thoát lui. Anh bóp chặt hai thái dương nóng rực, anh nằm úp mặt xuống chiếu cố tình dùng sức mạnh trấn áp cơn ham muốn, anh nghiến chặt hai hàm răng để khỏi bật ra tiếng rên rỉ. Tất cả đều vô hiệu. Những đợt sóng u cuồng chuyển sắc, từ màu đỏ sang màu đỏ bầm của máu đọng rồi màu tím dữ dằn của ráng mây chiều giông gió. Trong huyết mạch anh không còn máu mà chỉ còn những dòng chì nung lỏng, sôi sục, thiêu đốt khoan xoáy làm tê bại thân xác lẫn tâm hồn, và từ trong cái thân xác quằn quại đó trong cái tâm hồn điên dại ấy bỗng vụt lên tiếng thét:
Miên, Miên... Em là người đàn bà của tôi, của tôi...
Ngồi bật dậy, anh bóp chặt hai đầu gối để chống lại ý muốn chạy sang căn buồng gian hãm người đàn bà của anh, húc đổ cánh cửa dù nó được gài chốt và được khóa bằng ổ khóa lớn hơn cả bàn tay... Anh đủ sức đập tan bất cứ ổ khóa nào đủ sức khá vỡ bất cứ cánh cửa nào... Thời gian đã trả lại cho anh sức lực. Anh đang còn trẻ. Anh mới ngoài tuổi ba mươi... Nhưng anh vẫn bóp chặt hai đầu gối vì hiểu mình đã bị trói buộc bởi một hợp đồng.
Miên không còn yêu ta nữa... Mọi cố gắng đều vô ích... Bởi ta không thể cưỡng ép cô ấy yêu ta...
Phần lý trí sót lại trong anh lên tiếng. Nhưng tức khắc một tiếng nói khác mãnh liệt hơn hung dữ hơn rốt ráo hơn đáp lại:
Nhưng ta yêu Miên, ta đã tìm lại đường về, tìm vầng trăng bằng chính sinh mạng mình, những ngày chui lủi vượt rừng chống lại đói khát muỗi vắt và các bóng ma thù nghịch... những ngày ấy đã hút kiệt sinh lực của ta. Trái tim ta hàng ngàn lần tưởng vỡ vụn vì sợ hãi, ta đã phải tự trói mình vào thân cây ban đêm giấc ngủ mong manh mướt lạnh mồ hôi vì tiếng rít của trăn gió và rắn độc, ta đã phải sống như thú vật bằng cây củ và lá rừng... tất cả những nhục nhằn ấy là vì em... Em không có quyền đuổi tôi ra khỏi trái tim em. Tôi đã đánh canh bạc này bằng chính cuộc đời tôi, hoặc tôi phải được chia phần hoặc tôi chết...
Mắt anh mờ đi, mồ hôi anh vã đầy ngực lẫn hai bả vai. Anh giật cửa ra ngoài.
- Ông không ngủ được hay sao? Ra uống nước chè với tôi. Ðêm nay tôi cũng chẳng làm sao chợp mắt...

Người quản gia cất tiếng. Ông ta đang ngồi trước khay trà, ngọn đèn đêm đã được khêu to và dường như tất cả đã sắp đặt:
- A... bác đã dậy rồi ư ư?
Bôn lúng túng đáp hai thái dương vẫn nóng ran.
Ông già Lư đứng lên đổ thêm nước sôi vào ấm trà, ung dung đáp:
- Tôi chưa ngủ... Người già thường ít ngủ.
Và không chờ anh trả lời, ông nói tiếp:
- Trà ướp nhài đợt này thơm lắm, mời ông ra uống cho nóng. Tôi vừa bóc phong bánh đậu xanh bà Miên đưa ngày hôm qua. Ăn thứ bánh này với nước trà thật phải vị.
Bôn không nói được gì, anh đi tới kéo ghế ngồi đối diện với người quản gia tâm hồn sục sôi căm uất:
Thằng già này đúng là con chó săn của tay Hoan. Sẽ có ngày ta cho mi về chầu tiên tổ...
Anh uống trà, nói vài câu nhạt nhẽo với người quản gia hiểu rằng tất cả những thiện cảm ông ta dành cho anh chỉ là chút tình thương phổ biến giữa con người với con người và điều hệ trọng là chính ông, người gác ngục tận tụy trung thành sẽ không bao giờ cho phép anh được bước tới cánh cửa buồng của Miên, người đàn bà của anh hơn mười sáu năm trước, người đàn bà của Hoan bây giờ. Anh uống liên tiếp hai chén trà và tâm hồn anh rền rĩ:
Ðồ chó săn già, mi đã bao giờ yêu chưa nhỉ? Mi cũng có tuổi trẻ, không lẽ mi chưa từng yêu chưa từng thất tình chưa từng bị thân xác dày vò hành hạ?
Người quản gia đổ ấm trà cũ, tra nhúm trà mới rồi chế nước sôi, mọi cử chỉ khoan thai. Ðôi mắt ông chăm chú nhìn vào ấm pha trà nhưng Bôn biết rằng chúng không bỏ sót hành vi nào của anh và hẳn chúng cũng đọc thấu những gì anh nghĩ. Ngọn đèn đêm mọi ngày vẫn đặt trên nóc tủ chè, đêm nay được khêu tỏ đặt ngay trên mặt bàn uống nước, sát căn buồng của anh. Vẻ mặt ông già chứng tỏ ông đã thức dậy từ lâu, đã nghe rõ tiếng thở hổn hển và những cơn vật vã của anh. Mọi dáng nét, cử chỉ lẫn cặp mắt trầm tư bình thản kia chứng tỏ ông đã tính mọi đường đi nước bước để phòng thủ, và nếu anh có manh động hẳn cũng chẳng thu được chút hy vọng nào.
Ta không thể làm gì được sao? Ta phải sống trong ngôi nhà này như một bóng ma sao?
Trái tim anh tiếp tục rền rĩ và anh tưởng anh có thể chồm qua bàn dáng cây đèn pin hoặc chiếc giá nến đồng vào cái sọ già nua của ông Lư. Nhưng phần tinh khôn sót lại trong óc não anh run sợ. Anh biết con người đó mạnh hơn anh, khôn ngoan hơn anh, tỉnh táo hơn anh, nhiều ưu thắng hơn anh. Vài lần, đi ra nghĩa địa làng anh thấy lũ trẻ đi theo. Thoạt đầu, anh tưởng chúng cùng đi chơi nên quay lại vui vẻ chào hỏi, chuyện trò. Nhưng lần sau, anh chợt nhận thấy nỗi tò mò và sự sợ hãi trong mắt chúng, và dù đi theo anh chúng vẫn chuẩn bị sẵn sàng tư thế quay một trăm tám mươi độ để tháo chạy. Lúc đó, anh nghĩ người đời vốn sợ những kẻ hay lân la ngoài nghĩa địa cho rằng họ thường dắt lối đưa đường cho ma quỷ về thôn xóm trêu ghẹo dân chúng. Nhưng có một ý nghĩ khác lờ mờ ẩn núp sau ý nghĩ đó giống như bóng đen núp sau pho tượng trong chùa. Anh sợ. Anh không dám nghĩ tiếp...
Giờ đây, cái bóng đen phía sau ý nghĩ của anh lại hiện về:
Phải chăng lũ trẻ tò mò kia có lý? Ta điên chăng? Hay ta đã mắc căn bệnh bất thường nào đó mà tất cả mọi người cả Miên cả ông Lư đều không nói cho ta biết?
Một con bướm đêm to tướng bay qua cửa sổ vào nhà, chập chờn múa lượn quanh cây đèn ánh lửa xuyên qua đôi cánh bướm nhuộm thắm những nét vẽ những đốm màu khiến con bướm đẹp một vẻ đẹp anh chưa từng nhận biết. Bôn đặt chén nước xuống, mê mải nhìn con bướm chợt nhớ một mùa Xuân xa xôi, anh cùng Toàn béo, Hải đen đứng ngắm lũ bướm vờn quanh lèn núi. Hàng triệu con bướm cùng bay lượn hân hoan rối rít chấp chới lộng lẫy. Vũ điệu của chúng làm quay cuồng rừng núi. Ba thằng lính nhẩy cẫng. Lần đầu họ thấy một cảnh kì diệu đến thế. Những năm sau màu sắc rực rỡ của lũ bướm xuân không còn cuốn hút họ như trước, họ không còn đứng hàng giờ ngắm chúng múa lượn, lò dò trên bãi cỏ rình những đôi bướm giao phối rơi xuống. Lũ lính trẻ quay sang rình những cặp khỉ phủ nhau. Một lần, họ bắt gặp một cặp đười ươi trong cơn say mê tình ái. Cặp đười ươi đó rất giống người, động tác làm tình cũng vậy, chúng dai dẳng đến độ người ta thần phục và thèm muốn. Bôn hình dung lại cảnh tượng đó, anh nhìn thấy bộ mặt con đực nằm trên, tiếng rên, vành môi nhếch nhe những chiếc răng trắng nhởn... Trong giây lát máu trong cơ thể anh sôi trào lên, anh khép chặt hai đùi nốc cạn chén trà thứ ba rồi nói với người quản gia:
- Bác ngồi uống trà nhé... Tôi đi ngủ.
Ông già gật đầu:
- Ông đi đi. Ðêm nay chắc tôi không nhắm mắt được.
Anh vào buồng gài chặt chốt cửa như để tự ngăn cấm vì ngày thường không có lý do nào làm việc ấy. Ðoạn anh lên giường phủ phục mặt úp xuống gối như đứa trẻ sắp phải ăn đòn, hai bàn tay nắm chặt.
Thôi đi thôi đi thôi đi...
Anh tự nhủ. Nhưng không thôi được. Bộ phận kín cương cứng như con ngựa chiến sung mãn chờ phút sổng khỏi chuồng. Nó thống lĩnh tâm hồn cùng thể xác anh. Anh không thể nghĩ tới điều gì khác. Màn hình trong óc não anh chỉ hiện lên hình ảnh duy nhất là hình ảnh cặp đười ươi đang làm tình. Cặp vợ chồng khỉ đểu giả đó không ngừng lôi cuốn anh, kích thích anh, kể từ giây lát trí nhớ lôi cuốn chúng khỏi cánh rừng dĩ vãng. Anh nhớ lại từng tiếng kêu khoái lạc của chúng, từng động tác nhỏ nhặt trong giao phối, cánh mũi chúng nở to trong cơn hứng tình, vẻ mệt nhọc đờ đẫn sau khi thỏa mãn...
Trời ơi, sao tôi khốn khổ thế này?
Tâm hồn bầm giập của anh kêu thét lên. Và bỗng dưng anh căm ghét cái nhúm thịt thừa giữa hai bẹn mình, cái cục thịt thối tha đã hành hạ anh một cách giảo quyệt tàn nhẫn. Khi anh cần nó hùng mạnh, anh vỗ về chăm chút nó bằng đủ loại thuốc lẫn các món ăn bổ dưỡng thì nó rũ xuống như lá cờ buộc ở đầu gậy thằng chăn vịt. Khi anh cần nó an nhu, chấp thuận một đời sống êm lành chay tịnh thì nó dựng ngược lên, kêu gào cơn thỏa mãn dục tình:
Ðịt mẹ mày... Ðịt con mẹ mày nhé...
Anh thầm cất tiếng chửi, giống năm nào anh chửi lũ kền kền đã moi ruột tiểu đội trưởng trong rừng khộp xem như cách thức bắt buộc để khạc nhổ nỗi uất hận trong lòng. Nhưng nhúm thịt đểu cáng thối tha kia điếc đặc, nó không chịu nghe chửi, nó cứ ngỏng lên một cách lì lợm và tàn nhẫn. Bôn đành thọc tay vào trong quần, tìm mọi cách làm nguôi dịu cái bộ phận cơ thể đã phản bội đã trở thành một con vật xa lạ quái dị, ở ngoài mọi điều anh nghĩ và anh muốn.
Chiều hôm sau Bôn chờ Miên về. Anh vờ bế cu Hạnh mặc dù thằng bé luôn luôn giữ vẻ xa cách và dè chừng. Khi Miên xuống nhà tắm anh bế đứa bé xuống theo, chặn chị ngay ở cửa phòng tắm:
- Miên này, tôi có chuyện muốn nói.
Miên quay lại nhìn anh, anh biết chị đã hiểu điều anh muốn nói. Chính chị lên tiếng trước:
- Anh Bôn, em đã nói rồi. Chúng ta không còn tình nhưng còn nghĩa. Và em sẵn lòng coi anh như anh trai mình. Ngoài ra, không thể có gì hơn.
Anh gật đầu:
- Tôi vẫn biết thế. Nhưng tôi không thể sống mãi như thế này. Tôi biết Miên có người đàn ông khác nhưng tôi vẫn yêu Miên, tôi muốn có phần của tôi.
Chị nhìn anh bằng cặp mắt lạ lùng:
- Em không hiểu.
Anh gắng nuốt nước bọt, gắng ghìm giữ nỗi nhục và nói tiếp:
- Chuyện thường thôi... Ngày xưa người đàn ông có năm thê bảy thiếp. Giờ chúng ta cũng có thể chung sống hòa bình theo kiểu đó... Tôi không dám đòi hỏi nhiều... Nhưng tôi yêu em, tôi phải có phần của tôi.
Mặt Miên vutỳ đỏ dựng lên, chị đưa mắt rất nhanh nhìn về phía bếp như sợ người quản gia nghe thấy. Rồi chị nghiêm mặt lại, một vẻ lạnh lùng dữ tợn hiện trong đôi mắt:
- Anh đừng bao giờ nhắc lại chuyện này lần nữa, với bất cứ ai. Nếu không xóm giềng sẽ cho anh là kẻ điên dại hoặc vô luân. Không người đàn bà tử tế nào lại làm chuyện đó.
Anh không dám nhìn vào mắt chị, nhưng tiếp tục nói:
- Tôi không phải quan hoạn... Tôi không thể sống mãi như thế này.
- Vậy anh có thể rời khỏi đây...
Miên đáp, giọng lạnh lùng và gương mặt chị rắn lại như đá:
- Anh có thể về lại nhà, em sẽ gắng giúp anh vốn làm ăn. Rồi anh tìm người nào đó thương yêu anh xây dựng cuộc đời mới.
- Không. Tôi không muốn...
Anh đáp. Ðoạn đặt đứa bé xuống, bỏ lên nhà trên. Miên không gọi anh, không nói gì thêm, bế đứa con vào phòng tắm. Ở đó chị gọi vóng xuống bếp:
- Bác Lư xem giùm tôi nồi nước.
Tiếng người quản gia đáp lại tức thì:
- Nước được từ lâu. Bà chờ tôi đem lại ngay.
Dường như bất cứ lúc nào người quản gia cũng chờ đợi và sẵn sàng làm theo ý muốn của Miên. Bôn nhìn ông ta bưng nồi nước lá qua sân, cái bóng rắn rỏi hắt dài trên nền gạch và biết rằng ông Lư không chỉ là con chó trung thành của Hoan mà còn là kẻ tháp tùng tín cẩn của Miên. Ông ta cùng một lúc sùng phục cả hai, với người này có lẽ do gắn bó quyền lợi và với người kia là tự nguyện. Anh là kẻ đứng một mình trong ngôi nhà này. Và có lẽ anh là kẻ đứng một mình trên trái đất.
Ðêm ấy Bôn mơ giấc mơ siêu tuyệt. Giấc mơ đem cho anh cảm giác vẹn toàn về hạnh phúc, một thứ hạnh phúc sung mãn chưa bao giờ mon men tới trong đời sống thật. Anh mơ một cơn đại hồng thủy bao trùm toàn trái đất, nhấn chìm tất cả các châu lục, các quản gia, mọi giống người da vàng da đen da trắng đều chết sạch, duy mình anh được Ðấng Tối Cao ban cho cây bè. Trên mặt nước mênh mông có triệu triệu người chết đuối hoặc đang lóp ngóp một cách tuyệt vọng giữa các đám bọt nước anh đã kịp tìm thấy Miên, chị chìa bàn tay chới với trên mặt nước về phía anh, hướng đôi mắt cầu khẩn về phía anh và lần nữa anh trở thành người hùng cứu chị thoát khỏi cái chết. Anh ôm Miên vào lòng, người đàn bà của anh run rẩy nhợt nhạt vì sợ hãi. Anh vuốt ve an ủi chị, vắt kiệt những lọn tóc ướt sũng cho chị, cởi áo mình cho chị rồi lái cây bè vượt qua biển xác chết anh đưa chị tới mỏm đảo hoang duy nhất còn nhô lên trong cơn hồng thủy, biết rằng đó là mảnh đất Ðấng Tối Cao dành cho anh, để anh cùng người đàn bà anh yêu sản sinh ra một nhân loại mới. Trên đảo hoang trơ trọi giữa bốn bề nước và thây ma, tình yêu của họ sống lại, mãnh liệt gấp trăm lần thuở trước. Anh ái ân với Miên trên cỏ, dưới trời sao dưới cả nắng mai, những cuộc ái ân hung dữ hơn cơn động tình của hổ báo, dai dẳng hơn loài khỉ đột hoặc đười ươi, dường như trong thân xác họ chảy những dòng máu hòa trộn của muôn loài... Bôn thức giấc vào buổi sáng hôm sau, ngơ ngẩn tiếc, và rờ tay xuống chiếc đũng quần ẩm ướt, anh cố triệu hồi niềm hạnh phúc tót vời thứ khoái lạc tót vời vừa nếm trải...
Rồi ngày nọ tiếp nối ngày kia, anh vẫn lên đồi ra nương cùng người quản gia, ngồi tiếp ông uống trà ăn bánh đậu, vẫn cùng ông lúi húi nấu cháo gà hoặc bún bung những khi họ muốn đổi món, sống cuộc sống sung túc nhiều người dân Xóm Núi thèm muốn. Vào những đêm hứng tình, anh triệu hồi giấc mộng cũ, mơ tưởng mùa ái ân của các loài thú trong rừng, giải thoát cơn hành hạ dục tình một cách khốn khổ và không ngừng thèm muốn đập vỡ một cánh cửa buồng, bẻ gẫy một ổ khóa. Ðã đôi lần, anh nghĩ:
Hay ta ra đi... Hãy thử đến cái nông trường Xá chột đã nói. Hơn hai trăm cô thanh niên xung phong quá lứa đang ở đó, tha hồ chọn, còn hơn sống nhục nhã thế này... Như thế, ta cũng giải thoát cho cả Miên, Miên có thể lên trại Suối Nhỏ với Hoan hoặc gọi anh ta trở về ngôi nhà cũ. Hẳn Miên sẽ giúp ta đủ vốn liếng làm ăn. Người đàn ông kia không thiếu tiền, anh ta sẽ chẳng dè dặt khi trả giá cho một hạnh phúc vẹn toàn. Rồi mai đây, ta cũng sẽ có một mái ấm một đứa con với người đàn bà mới, người đàn bà ta tuyển chọn trong đám hơn hai trăm cô gái quá thì...
Thoạt đầu, ý nghĩ mình được quyền tuyển lựa một người đàn bà giữa đám hai trăm cô gái quá lứa làm anh sung sướng, lờ mờ thú nhận điều đó cho phép anh có được quyền năng và sự hãnh diện của một vị vua. Nhưng sau thoáng kiêu hãnh, anh chợt hiểu ra rằng hơn hai trăm cô gái quá lứa kia đối với anh chỉ là một đám bụi mịt mờ, một khối đen đặc không hình thù đường nét không gương mặt nào rõ rệt và lôi cuốn. Hai trăm cô gái chẳng phải là một số lượng ghê gớm bởi anh từng gặp đến ngàn cô gái trên lề chiến tranh... Và chẳng mảy may xúc động... Cũng có thể những cuộc gặp gỡ trong chiến tranh chỉ là những tụ hợp phù du, ít ỏi là vài giờ đồng hồ, nhiều nhặn lắm cũng hai ba ngày không bao giờ đủ thời gian để làm quen... nhưng cũng có thể vì con tim anh đã bị cột chặt với một người đàn bà, mối tình đầu ác hại, và rồi sau đó bởi chính anh đã đặt cược sinh mệnh vào người đàn bà đó, nên anh không còn chỗ tháo lui. Anh đã quăng thân vào bao nhiêu cuộc phiêu lưu đến suy kiệt tinh thần hao mòn thể xác giờ đây những cuộc phiêu lưu đó đọng lại trong anh như một thứ cặn lắng, bít bùng, mờ tối:
Không, không, không, ta không thể xách ba-lô tới một nơi xa lạ, tìm trong đám đông xa lạ kia một người đàn bà nào đó có thể trở thành thân thiết, hơn nữa có thể cùng chia sẻ gối chăn... Ta chẳng còn sức để lao vào một cuộc phiêu lưu như thế...
Chỉ mới nghĩ đến một con đường trải ra phía trước anh đã thấy gân cốt rã rời, những khớp xương muốn long rụng tơi tả. Chỉ mới mường tượng một cuộc ra đi da thịt anh đã ớn lạnh và những chân tóc anh dựng lên như chúng sắp sửa phải chống chọi với hơi giá rừng già, với gió độc lùa dưới vực sâu, với mưa sương trên những vòm lá dày rớt xuống... Không, anh không còn sức cho một cuộc phiêu lưu mới. Vả chăng, tại sao anh phải ra đi như một kẻ trắng tay, để người đàn bà anh yêu hoàn toàn thuộc về người đàn ông khác? Tại sao anh lại chịu thua cuộc nhục nhã và vô điều kiện như thế, sau bấy nhiêu nỗ lực gian truân? Và lờ mờ, trong đáy sâu con tim anh, niềm hy vọng tuy mong manh vẫn le lói chiếu:
Biết đâu đấy, biết đâu một ngày nào?
Anh tự nhủ. Nhưng ngày nào và có sự gì xảy ra, anh mơ tưởng điều gì... anh hoàn toàn không biết.
Và bỗng dưng mùa săn năm nay tiếng kèn xa xăm kia không còn làm anh run sợ. Những âm thanh lúc đều đều buồn tẻ lúc vót gắt rền rĩ của nó lay động góc trời tĩnh lặng trong anh, gọi về tuổi thơ, nức nở khúc ca sầu muộn. Anh ngồi trên đồi vắng khoanh tay nghe giờ này qua giờ khác. Rồi một chiều những âm thanh kia vang động hơn, xô dạt hơn, vừa như sóng biển vừa như nhịp quân hành vẳng lại. Bôn chợt nhìn thấy một khoảng trời trong veo trong vắt, những nương ngô trổ bông phơi dưới nắng chiều, những thân mía tím mập mạp cao trên đầu anh phủ đầy phấn trắng và bao trùm lên tất cả khung cảnh đó là một không gian trầm lặng, thanh sạch với tiếng ong rù rì êm ả...
Khung trời này ở đâu và những nương ngô kia ở đâu? Ta đã từng gặp, đã từng sống... Chúng ở đâu trên cõi đất này?
Anh lục tìm trí nhớ. Quá khứ như hang động mịt mù khói phủ. Lạnh. U buồn. Kinh hoàng. Da diết. Tan loãng. Tơi tả. Ngoài ra anh không thấy một cảnh tượng nào. Anh ngồi đăm đăm nhìn mặt trời từ từ chìm xuống núi. Khi mặt trời tắt trên các rặng núi phía Tây cũng là lúc mặt trời trong trí nhớ anh nhô khỏi cánh rừng u tối thổi tan lớp khói mịt mù, rọi vào cái hang sâu bị rấp lối. Và anh chợt bật lên tiếng kêu:
- Bản Kheo.
Tiếng kêu của anh vọng trên các nương tiêu nương cà-phê lẫn dải đồi xung quanh. Vài người chăn dê chăn bò đang lùa gia súc về làng giật mình đưa mắt nhìn anh nhưng anh không nhận thấy. Ðứng thẳng dậy, anh hét thật to cái tên vừa tìm thấy:
- Bản Kheo... Ðúng là Bản Kheo. Bản Kheo. Bản Kheo. Bản Kheo...
Và cùng tiếng vọng, âm vang trong anh tiếng xe trâu kẽo kẹt, tiếng gà gáy vọng qua thung lũng, tiếng bọt củi nổ lách tách tiếng sôi của mật nấu trong chảo, tiếng chim ríu ran thanh bình tiếng cười nói lao xao nghe thân ái và nhu mì dù rằng đó là thứ ngôn ngữ lạ lùng anh không rõ nghĩa. Giờ Bôn đã nhận diện được Bản Kheo, nơi anh sống với người đàn bà Lào câm điếc, người chưa cùng anh kết hôn theo thủ tục của Việt Nam nhưng đã kết hôn theo phong tục địa phương cô sinh thành. Bôn nhớ lại vị xôi trắng lẫn thịt nướng ngày đó, nhớ cử chỉ của trưởng tộc khi ông cầu chúc lễ hợp hôn của họ, nhớ gương mặt với cặp mắt xếch sáng loáng của người anh trai cô dâu và rọi soi trên tất cả các ảnh hình ấy, lung linh trên tất cả các ảnh hình ấy là ngọn lửa lớn, một bếp lửa chụm bởi các thân gỗ to hơn đùi người cháy suốt ngày đêm không tàn, ngọn lửa vĩnh cửu nơi Bản Kheo:
Phải, đó chính là nơi ta sống với người đàn bà có một rương đầy váy áo. Cô đã trải tất cả đám váy áo rực rỡ ấy lên sàn cho ta xem trước ngày làm lễ hợp hôn. Và đêm đó cô đã đun nồi nước lá thơm cao gần đến thắt lưng để hai người cùng tắm... Ðêm ấy ta đã hạnh phúc. Dẫu sao cũng vẫn là hạnh phúc. Mùi nệm mới ủ lá thơm bốc lên ngào ngạt sao...
Anh nhắm mắt lại, thấy mình được tắm rửa sạch sẽ thơm tho nằm trần truồng trên tấm nệm lanh thêu rực rỡ, thân thể trần truồng của một người đàn bà kề bên. Cách họ chừng vài thước bếp lửa cháy bừng bừng, lửa đỏ tỏa hơi ấm và rọi sáng... Anh nhớ lại cảm giác mãn nguyện khi người đàn bà tì đôi vú nặng của cô vào ngực anh, đôi tay cô ve vuốt cơ thể anh, và những động tác của cuộc làm tình đưa dẫn anh tới ngọn triều khoái lạc. Sự hồi nhớ khiến cơn thèm muốn dục tình trong anh bật dậy.
Ta đã từng được sung sướng với người đàn bà ấy... Tại sao ta rời bỏ cô ta? Giờ ta ao ước được như cặp đười ươi phủ nhau trong xó rừng... Tại sao con người ngu xuẩn như vậy?
Nỗi hối tiếc điên cuồng vò xé tim Bôn. Con giống anh đã dựng ngược lên trong quần. Cái con vật quái gở khốn kiếp đó càng lồng lộn hung dữ, cơn hồi nhớ càng gợi lại rõ rệt những khoái lạc anh từng nếm trải nơi Bản Kheo. Những đường chỉ thêu trên tấm nệm lanh hiện lên cùng cặp vú người đàn bà. Bộ phận thầm kín cùng cặp đùi rắn như sắt của người con gái miền sơn cước. Chính anh đã biến cô thành đàn bà, khi thấy những giọt máu in lên tấm nệm cô ngồi nhỏm dậy, giơ tay chỉ cho anh biết. Vào khoảnh khắc ấy, cô không còn xấu xí, vào khoảnh khắc ấy mắt cô long lanh và ánh lửa rọi biến cô thành một nữ sơn thần với mái tóc xõa quanh vai.
Tại sao ta đã quăng thân vào cuộc phiêu lưu để đến nỗi hơi tàn lực kiệt? Phải chăng ta là kẻ tham mồi bắt bóng, phụ người yêu mình để chạy theo một thứ không thể nắm được trong tay? Và những giây phút cực nhục này là sự trừng phạt xứng đáng? Anh hồi nhớ cặp mắt lạnh như băng của Miên khi chị từ chối lời cầu xin của anh, cầu xin một miếng cháy đáy nồi cơm, một vụn lẻ tình yêu nơi chị. Và anh lại hồi nhớ cặp mắt sưng mọng những tiếng van vỉ ú ớ của người đàn bà Lào, nhớ mái tóc xác xơ phủ phục dưới chân anh, nhớ bóng dáng thảm thê của cô ngồi trước cây cầu thang canh giữ. Không phải riêng cô mà cả gia đình người anh trai cả dân Bản Kheo, đám người khác ngôn ngữ và phong tục ấy đã níu giữ, vây bắt anh không vì một ác ý nào, chỉ vì anh cần cho người con gái thiếu may mắn kia...
Trong ngôi nhà sàn xếp ngay ngắn những dãy bịch đựng ngô đựng nếp, những chum mật, đường phèn xếp thành tầng trên dàn tre giữa các lớp lá chuối khô, bí ngô già chất thành đống. Những lùm cây trước sàn rất nhiều chim, cả rạng đông lẫn chiều hôm tiếng chim ríu ran làm đầy khoảng không gian yên ả. Bầu trời Bản Kheo trong vắt, khói bẩn của chiến tranh không bay tới rẻo đất hẻo lánh này... Tại sao đến tận giờ anh mới nhận thấy cảnh sống thanh bình như vậy đủ lấp đầy cuộc đời gian truân cơ cực của mình? Cái gì đã thúc đẩy anh ra đi, chạy trốn khỏi mái nhà sàn ấm áp đó? Bôn nghĩ mãi, nghĩ mãi nhưng không tìm được lời giải đáp. Anh cứ ngồi trên đồi cho tới lúc đêm đen vây phủ, mê man trong các hồi tưởng, quay quắt vì tìm kiếm lời giải đáp, quằn quại bởi cơn đói dục tình. Tất cả những nỗi dằn vặt ấy hòa trộn nhau, đồng hiện. Chúng căng anh ra như mảnh da bị kéo cả bốn bề. Thời khắc cứ thế trôi. Cỏ xung quanh đã ướt sương, tay Bôn quệt vào chúng. Anh thả tay áo sơ-mi gài cúc tay, gài cúc cổ. Anh quên lối về nhà. Co hai chân lên cho đỡ lạnh, anh bó gối ngửa mặt nhìn trời. Và rồi, trăng lên. Trên riềm núi phía Tây nó từ từ trồi lên như một khối bạc tròn trĩnh, như gương mặt an hòa, thanh thản...
Hằng Nga...
Một cái tên vọt lên giữa đáy vực sâu. Một con cá óng ánh đột nhiên nhảy khỏi mặt hồ ảm đạm. Một tia sáng vụt xuyên qua đường hầm tối trong óc não Bôn.
Anh vùng đứng lên, thét vang trời:
Hằng Nga... Mặt trăng, chính là mặt trăng... Chính nó...
Bây giờ anh đã nhớ. Chính những đêm Bản Kheo anh đã ngửa mặt nhìn trời. Giữa đường cắt hình cánh nhạn của hai trái núi, mặt trăng đã nhô lên như vầng trăng đêm nay. Chính vầng trăng quyến rũ ấy đã mê hoặc, đã bỏ bùa ngải vào trái tim anh, làm tê bại óc não anh và anh đã bỏ trốn đi theo nó, rời khỏi Bản Kheo. Anh đã bỏ người đàn bà hiền lành khốn khổ yêu mê anh, tôn thờ anh như bị thần giáng thế. Chính là trăng, kẻ đầu độc anh, dẫn anh tới nỗi thống khổ này. Anh phải tiêu diệt nó, nếu không có cung tên, anh sẽ dùng súng, và cũng có thể là thuốc nổ. Phải trả thù vầng trăng lừa lọc đó...
Nhưng nó chính là Miên... Sau khối tròn bạc ấy chính là gương mặt của Miên... Người đàn bà ta yêu...
Trái tim anh lên tiếng, và cơm uất hận trong anh như ngọn lửa bị nước dội. Bôn lại buông xuôi hai tay, ngồi xuống. Ðám cỏ đọng sương thấm ướt quần. Có lời thầm thì nào đó vừa thoáng qua tai, anh chưa kịp nghe thấy. Anh bó gối, giỏng tai lên chờ đón. Chỉ còn mình anh trên ngọn đồi tối đen này, xung quanh là nương vườn và các đồi dứa chưa tới mùa đơm trái. Gió khẽ rì rầm, rì rầm, nhẹ nhàng và mơn trớn. Côn trùng rỉ ran. Tiếng sột soạt đâu đó của những con chuột núi hoặc lũ chồn cáo. Tiếng rụng của các cọng lá khô... Nhưng anh vẫn kiên tâm chờ đợi tiếng thì thầm... Và sau rốt, lời thì thầm kia lặp lại:
Miên và có thể chẳng là Miên. Em là vầng trăng của tôi và kẻ kia lại là vầng trăng của em. Em đã quyến rũ tôi ra đi và hắn lại quyến rũ em rời bỏ tôi... Ðó là trò hoán chỗ...
Trái tim anh dường như ngừng đập. Óc não anh cũng gần như tê liệt trong cơn choáng váng. Khoảnh khắc đó qua đi, anh mới có thể tiếp tục nói với chính mình:
Phải, đó chính là trò chơi đổi chỗ. Ðiều đấy thật giản đơn mà sao giờ ta mới nghĩ ra? Nàng Thoọng khốn khổ không bắn nổi vầng trăng quyến rũ kia... Nhưng tôi, tôi sẽ bắn rụng vầng trăng của em, để không còn gì lôi cuốn em ra khỏi tôi, và chúng ta sẽ sống cùng nhau, cùng nhau mãi mãi...
Nỗi sung sướng khiến Bôn lặng đi. Lần này anh không hét lên mà cúi xuống hà hơi vào lòng bàn tay, thì thầm:
Bôn ơi là Bôn, sao mà mày ngu dại, sao mà mày chậm hiểu thế? Ðáng lẽ mày phải tính đến chuyện này từ lâu, từ lâu...
Trí óc anh trở nên tỉnh táo, sắc bén. Tức khắc, nó phác ra kế hoạch hành động một cách tường tận, tỉ mỉ:
Mai ta đến nhà Xá chột. May sao cậu ta vừa về thăm vợ đẻ. Ta hỏi mượn khẩu súng săn, nói rằng phường săn bên xã thiếu tay súng và vì trưởng phường có họ xa nên ta phải nể tình giúp họ. Xá đang sướng rơn vì cửa hàng mới, vì vợ đẻ con trai nên không thể nghi ngờ. Từ nhà Xá, ta sẽ theo cong đường vòng qua thung lũng Ớt để tránh gặp dân làng. Ta sẽ đón họ ở bìa rừng bên kia Suối Lớn. Ở đó, định hình rất lợi. Vả chăng hắn cao to nhất phường săn một mục tiêu như thế dễ dàng bị hạ. Trước kia, ta bắn cũng không đến nỗi nào. Chẳng là thiện xạ nhưng cũng hơn hẳn gã lái buôn dân thành phố... Ngày mai sẽ là ngày cuối cùng hắn được hưởng cuộc đời may mắn của mình...
Bôn đứng dậy, men theo lối đi đã thuộc trở về làng. Lẹ làng như một con mèo và gian manh như con cáo gã đàn ông đang mưu tính giành giật lại hạnh phúc mỉm cười. Hẳn đó là nụ cười đắc thắng...
Chương 28
Mùa săn Xóm Núi năm nay thật rủi ro.
Ngược lại những gì ông trưởng phường dự đoán, trong cái buổi tối vui vẻ rộn ràng trước ngày xuất quân họ đã hút thuốc ngon, uống trà ngon, ăn bánh mật nóng hổi và tuy chẳng ai nói ra lời nhưng mọi người đều mơ tưởng tới số thú rừng sẽ được cõng về làng. Nhưng thứ cống vật đầu tiên của mùa săn không phải lợn lòi, gấu ngựa, gấu chó, hươu nai, hoẳng, hay khỉ độc... Cống vật đầu tiên lại là người đàn bà chửa, người đó nằm trên chiếc võng đay sợi thưa, thứ võng thường được đem theo phòng ai đó bị lợn lòi húc hoặc bị gấu ngựa tát... Ðám phường săn cởi áo lót vào võng rồi đặt người bị thương lên. Vết thương không nghiêm trọng, chị bị súng cướp cò thổi cụt ngón tay trỏ và ngón giữa, nhưng vì mang thai đến tháng thứ bảy lại chạy một thôi đường dài nên lâm cơn đau sinh nở. Hai gã đàn ông trần trùi trụi khiêng cáng, một đầu là Xá chột, đầu kia là một chàng trai hai mươi mốt tuổi vừa được nhập phường mùa săn trước. Ði bên cáng phía trái là anh chồng thứ nhất, bên phải là anh chồng thứ hai. Một anh tái thâm. Anh kia trắng nhợt. Cả hai đều có cặp mắt lạc tròng. Chủ tịch xã lẫn trưởng phường săn đều nhất trí hủy chuyến săn để đưa Miên trở lại làng đoạn cử người phóng xe máy đi tìm ô-tô đưa xuống bệnh viện thành phố. Ở đó, chắc chắn họ phải băng lại vết thương cho chị rồi mới chuyển sang phòng hộ sinh. Miên nằm trên giường tái nhợt, mồ hôi vã đầy trán nhưng không rên một tiếng. Khi chủ tịch xã tới gần, hỏi:
- Cậu Bôn hay cô nổ súng?
Miên cười:
- Em đó mà... Bỗng dưng em táy máy... Không ngờ chạm phải...
Nụ cười nhợt nhạt nhưng cặp mắt đen láy của chị nhìn thẳng vào người đối diện, sáng một ánh sáng dị thường.
Chủ tịch xã dường như muốn hỏi thêm điều gì đó nhưng lại thôi. Ông trưởng phường săn bảo:
- Thôi, thôi... Ðể cho cô ấy nghỉ... Vết thương mất nhiều máu lắm.
Không ai nói gì thêm. Họ phải chờ xe.
Ngần ấy người đàn ông ngồi chen chúc trong một gian nhà gạch nhỏ, ngôi nhà ở bìa làng, địa điểm gần nhất có thể tìm một chiếc giường cho Miên nằm tạm. Chủ nhân còn trẻ là thợ săn mới, được nhập phường một lần với chủ tịch xã và Hoan. Anh ta hì hục đun nước pha trà vì cô vợ đã đưa con về chơi bên ngoại cách Xóm Núi ngót mười cây số. Cả nhà chỉ có bốn chiếc chén nên đám thợ săn phải thay nhau uống. Cái sự đợi chờ khốn khổ đó khiến người ta khó bình tâm. Bởi thế chủ tịch xã, sau khi uống một chén trà nóng bỗng cảm thấy bứt rứt không sao chịu nổi bèn sấn tới trước mặt Bôn:
- Này...
Bôn đang ngồi trên chiếc kệ ngoài hè. Anh ta nghiêng đầu nhìn xuống sân như để đếm gạch hoặc để tìm một cây cỏ mọc trong kẽ nứt.
- Này Bôn.
Người chồng thứ nhất ngước lên đôi mắt trống rỗng, trên gương mặt cũng trống rỗng như vỏ trái bầu khô. Anh ta không nói gì cả.
Chủ tịch gằn giọng:
- Cậu cầm súng hay cô Miên cầm súng?
Bôn lắc đầu:
- Tôi không bắn Miên... Tôi không bắn Miên... Tôi không bắn...
Chủ tịch gắt:
- Cậu hay nhỉ? Tôi hỏi cậu cầm súng hay cô Miên cầm súng?
Bôn lặp lại, khẽ hơn, gần như thì thầm:
- Tôi không bắn... Tôi không bắn Miên...
Và sau đó anh ta cứ lặp đi lặp lại mãi câu nói đó với một giọng khẽ khàng thầm thĩ, tựa giọng tâm tình giữa những cặp tình nhân. Trên gương mặt vô hồn, chẳng còn mảy may chút ánh sáng của ý thức.
Chủ tịch xã thở dài cau có quay vào nhà
- Tôi không bắn... Tôi không bắn Miên... Tôi không bắn Miên...
Bôn tiếp tục nói, không còn là nói mà như một kiểu nhai lại của trâu bò:
- Tôi không bắn... Tôi không bắn Miên... Tôi không bắn...
Những âm thanh phát ra đều đều liên tục, như tiếng phát ra từ cuốn băng ghi âm cũ. Những người thợ sơn im lặng đưa mắt nhìn anh ta. Tiếng Bôn lập đi lặp lại vang trong yên lặng. Dù anh ta nói rất khẽ nhưng tất cả mọi người đều lặng im, kể cả người bị thương nên tiếng nói của Bôn là âm thanh duy nhất khua động không gian.
- Tôi không bắn Miên... Tôi không bắn...
Cái điệp khúc vô tận đưa đẩy con người, như những con sóng nhỏ vô hình xô dạt họ vào nỗi bức bối. Nỗi bức bối tăng theo thời gian chờ đợi. Cuối cùng, chính ông trưởng phường, bậc trưởng lão của phường săn không chịu nổi đã gầm lên:
- Câm mồm đi... Cậu có câm mồm đi không hả?
Tất thảy mọi người đều giật nẩy vì tiếng hét của ông già. Bôn nhướng cặp mắt thất thần lên nhìn ông và ngậm miệng tức khắc, hệt chiếc máy bị rút điện. Sự im lặng trở lại ngự trị, lần này tiếng vo ve của lũ ong vườn vọng mơ hồ. Chủ nhà xách ấm nước sôi mới từ dưới bếp lên rót vào phích. Sau đó, tiếng suỵt soạt uống trà.
Người chồng thứ hai đã bình tâm tới ngồi bên giường với vợ. Anh tay nắm tay người bị thương, bàn tay trái lành lặn. Tay bên kia đã băng kín. Những đường băng thô dại của Xá chột. Chính Xá là người đầu tiên nhào tới lúc xảy chuyện, chính anh ta giằng khẩu súng khỏi tay Bôn, chính anh ta đỡ Miên và xé cánh tay áo sơ-mi của anh ra băng bó cho chị với nhúm thuốc lá. Chính Xá đã khiêng một đầu võng để đưa chị về làng. Nhưng từ phút đó anh lặng câm như nấm mồ. Giờ anh ngồi bó gối trong góc phòng đưa mắt nhìn Hoan và Miên. Người đàn bà vừa hé mắt nhìn chồng, môi lại nở nụ cười tái nhợt. Rồi chị nhắm mắt. Bàn tay còn lành nắm chặt tay Hoan. Màu hồng đã trở lại trên gương mặt người chồng thứ hai. Và cặp mắt hoảng loạn cũng đã bình thản. Anh ta mấp máy đôi môi nói gì đó với vợ. Chắc chắn chỉ riêng họ nghe được những lời thầm, thầm gần như câm lặng, những lời thuộc về riêng họ mà thôi. Xá chột đập vào lưng người ngồi cạnh xin chén nước. Rồi anh ta cúi xuống mê mải uống trà dường như đó là công việc duy nhất cần thiết.
Sau chót, xe đã đến. Tiếng còi inh ỏi ngoài đường thôn.
Người chồng thứ hai đứng lên, tới bên ông chủ tịch, nói vào tai ông ta với giọng vừa đủ cho ông ta nghe thấy:
- Xin anh bỏ qua cho chuyện này. Vợ tôi muốn thế.
Ðoạn anh quay lại giường, bồng vợ lên, nhẹ nhàng như bồng đứa trẻ lên ba.
- Tôi đi đây... Xin cảm ơn tất cả...
Hoan nói vội vã trong lúc đi qua sân, vừa nói vừa đưa mắt chào mọi người. Tài xế đã mở sẵn cánh cửa chiếc com-măng-ca leo núi, Hoan bế vợ chui vào trong xe, đôi vai vạm vỡ co lại khi luồn qua khuôn cửa giống như vai gấu. Một con gấu dịu dàng, khéo léo. Mọi người đều nhận thấy anh rất cố gắng để khỏi gây va dập, để giữ người đàn bà chửa và bị thương tránh khỏi đau đớn. Trên trái đất khó có người đàn ông thứ hai nào vừa mạnh mẽ vừa dịu dàng như Hoan. Tất cả những kẻ từng có cuộc sống vợ chồng, kể cả vị trưởng lão đều đứng ngây nhìn anh trong giây phút đó, đều thèm muốn được như anh với nỗi thèm muốn muộn mằn.
Xe đi. Tiếng máy tắt dần.
Ngôi nhà nhỏ trở lại yên tĩnh.
Những người còn ngồi lại không nhúc nhích, giống như bị bùa mê.
Ông trưởng phường rót trà uống.
Ông chủ tịch ngồi nhìn chiếc điếu cầy.
Chủ nhân khoanh tay tựa cửa, nửa như chờ đợi, nửa như đang nghĩ vẩn vơ.
Và rồi, Xá chột chợt như bừng tỉnh. Anh ta tụt từ trên phản xuống đất, bước ra hè. Bôn vẫn ngồi trên cây kệ. Mắt găm xuống mặt sân gạch. Nghe tiếng bước chân Xá chột, anh ta ngẩng mặt lên. Tiếng chân đó rất quen thuộc với Bôn. Không phải quen thuộc mà thân thuộc. Cái tiếng động anh ta thường trông ngóng, chờ đợi vào phút khốn khó nhất đời mình.
Hai người nhìn vào mắt nhau.
Xá chột dang tay tát vào mặt Bôn một cái tát nảy đom đóm. Và khóe môi Xá run giật.
Chương 29
Rồi một cơn mưa bụi là là bay tới. Từ chân trời phía Ðông nó mang theo hơi ẩm lẫn bóng mờ của những cơn giông hiếm hoi sầu muộn mùa Xuân. Giữa các lớp bụi xiên xiên trắng như sữa, len lỏi sương mù của một mùa Ðông xa vắng, một mùa Ðông trong cõi hoang kỉ niệm và trong những hồi ức đã chết cóng dưới tro bụi thời gian.
Ở bệnh viện tỉnh, người đi lại tấp nập. Dân chúng đau ốm liên miên vào dịp này. Lịch âm ghi ngày Kinh trập - ngày sâu nở. Trước phòng khám bệnh người xếp dãy dài. Bóng áo trắng lượn quanh các khu điều dưỡng, lướt dọc các hành lang. Phía sau viện, nhà xác chất đầy, từ đó thì thoảng một cỗ xe tang lăn ra con đường phía sau chở một linh hồn về cõi vĩnh hằng.
Trời này hút thuốc lá thơm thật tuyệt.
Từ sáng tới giờ Hoan đã hút hết già nửa bao Dulhil. Khói thuốc tỏa ra bay khỏi hành lang phòng chờ, nơi anh đứng, và tan lẫn vào mưa bụi. Anh ngửa mặt nhìn theo làn khói màu trắng đục của sương mù kia khiến tâm hồn anh khắc khoải hơn.
Sáng nay người ta đã đưa Miên lên bàn mổ. Bác sĩ quyết định lấy thai ra vì sợ Miên không đủ sức sinh đứa bé một cách bình thường. Hôm qua, sau khi băng lại vết thương cho Miên, họ đã kiểm tra huyết áp và các chỉ số khác. Sức khỏe của chị suy giảm không nhiều nhưng cũng không đảm bảo cho một cuộc sinh nở. Và họ đã thực thi các biện pháp cần thiết để an thai cho tới sáng nay. Miên rất bình tĩnh. Bất kỳ lúc nào có mặt anh chị cũng gắng nở một nụ cười. Nụ cười đó muốn nói:
- Không có chuyện gì đáng ngại, anh yên tâm.
Nhưng Hoan không yên tâm được. Người đàn bà đó là nửa cuộc đời anh, và nếu mất đi nửa ấy, nửa kia sẽ bất toàn.
Anh đã làm tất thảy những gì có thể làm được. Từ bác sĩ trưởng viện, trưởng khoa xuống tới đám y tá phụ mổ và y tá phụ trách giường bệnh, kể cả bà hộ lý già, một mụ đàn bà mặt rỗ thô bỉ thường vòi vĩnh trắng trợn... Tất thảy đều đã nhận được thù lao trước một cách hậu hĩnh... Nhưng anh vẫn không hoàn toàn yên tâm. Bởi sự nghiệm sinh đã dạy anh những nỗ lực của con người nhiều lắm cũng chỉ quyết định một nửa sự thành công. Phân nửa kia thuộc về một lực lượng huyền bí khác. Anh không quen cúng vái, không biết khấn các thần linh, anh chỉ thắp hương trước bàn thờ cha mẹ, cầu mong người đàn ông mảnh khảnh ngày xưa từng che chở anh trong cõi dương trần sẽ tiếp tục chở che anh khi ông đã ở dưới cõi âm. Sau đó, anh không biết làm gì hơn là đốt thuốc. Ðốt thuốc liên tục như mất trí, không còn ngửi thấy mùi thuốc, không cảm thấy hơi lửa nóng trên đầu ngón tay.
Trời vẫn mưa. Mưa bay. Những nhành mai trắng nơi khuôn viên nhòa trong bụi nước. Hoan nghĩ tới một lưỡi dao, thứ kim khí bén nhọn sẽ rạch làn da Miên, những thớ thịt đứt rời, máu chảy:
Em sẽ phải gánh chịu đau đớn một mình, và tôi bất lực không cách nào chia sẻ. Vậy mà em vẫn cười, cười như một đứa bé nhởn nhơ ở ngoài cuộc. Em vẫn khích lệ tôi, gã đàn ông khỏe mạnh cao và nặng gấp đôi em...
Anh tưởng bụi nước bay nhòa mắt. Những khóm mai gần như chìm lấy trong mưa. Chiều qua, Miên bảo:
- Em cụt mất hai ngón tay rồi. Mãi mãi không còn bàn tay lành lặn cũ... Anh còn yêu em không?
Anh nói:
- Bao giờ em cũng là người đẹp nhất với anh, em là người của anh, người anh yêu mãi mãi.
Chị nhìn anh với đôi mắt rầu rĩ:
- Anh có thể gặp nhiều người đàn bà khác, trẻ hơn và đẹp hơn em.
Hoan lắc đầu:
- Chúng ta đã qua thử thách. Chúng ta đã từng xa nhau và biết rõ những gì xảy ra trong quãng thời gian xa cách đó.
Chị muốn nói gì thêm nữa nhưng người y tá đã tới lấy chiếc cặp nhiệt độ. Câu chuyện dừng lại vì sau đó người ta yêu cầu anh đi ra cho Miên ăn chiều và nghỉ ngơi. Chị cần một giấc ngủ sâu trước ca mổ. Hoan nhớ lại cuộc đối thoại. Anh không hiểu vì sao trước phút hiểm nghèo Miên chẳng hề lo tới sinh mạng chính chị hay của đứa con trai mà chỉ băn khoăn vì hai ngón tay cụt và e sợ tình yêu của anh không còn nữa. Ðiều đó, cũng giống như chị đã xóa tội sát nhân cho Bôn bằng cách nhận lỗi táy mách nghịch súng, một thứ bịa đặt ngốc nghếch đến trẻ con cũng không tin nổi. Vậy mà tất cả đã phải lặng im nghe chị nói, lặng im chấp thuận sự dối trá ấy, trước tiên là anh kẻ bị sát hại, sau đó tới chủ tịch xã đại diện chính quyền rồi ông trưởng phường, vị trưởng lão trong nghề săn Xóm Núi... Tất cả. Không ai dám bẻ lại thứ lý lẽ ngô nghê của người đàn bà:
Người đàn bà là một thế giới bí ẩn. Không sao hiểu nổi. Họ không để tâm tới sự hợp lý theo lẽ thường mà nghe theo sự chỉ bảo của con tim. Và vì thế chẳng bao giờ đàn ông theo kịp... có lẽ người đàn bà sáng suốt hơn đàn ông chính ở nơi u tối nhất trong tâm hồn họ, nơi lý trí không làm việc và sự linh cảm giương lên những cần ăng-ten vô ảnh vô hình nhưng hữu năng.
Hoan nghĩ. Anh lần mối sự việc: Bôn tới nhà Xá chột mượn súng, anh chàng này đưa súng cho bạn mượn một cách sốt sắng rồi cưỡi xe máy xuống chợ huyện mua đồ ăn cho vợ. Lát sau, cô Soan thức dậy vô tình hỏi chuyện thằng cu lớn mới biết sự việc. Người đàn bà vừa đẻ dậy ấy ngửi ra mùi nguy hiểm, không kịp chải tóc bịt khăn chạy xổ đến báo tin cho Miên. Rồi Miên, cũng chẳng kịp thay xống áo chẳng kịp gọi ông Lư đã chạy tắt qua các nương tiêu, nương cà-phê để kịp đón bắt Bôn và chụp lấy cây súng vào khoảnh khắc nó sắp sửa ghim một viên đạn vào đầu anh. Không chút dữ kiện nào để đoán biết sự thật, ngoại trừ sự linh cảm. Vì lý do nào mà hai người đàn bà ở những hoàn cảnh rất khác nhau kia có cùng một suy đoán, một ý nghĩ? Anh không hiểu nổi. Nhưng anh biết Miên sẵn lòng hy sinh chính sinh mạng của chị để cứu sống anh. Và vì lẽ đó, anh đã chiều theo bất cứ ý muốn nào của chị:
Em muốn tôi tha bổng cho Bôn, tôi sẵn sàng tuân lệnh em như một tín đồ tuân theo giáo chủ... Nhưng liệu em có hiểu rằng điều đó sẽ nuôi dưỡng lâu dài mối hiểm họa, và cuộc sống tương lai của chúng ta bị đặt trong trạng thái bất toàn?
Chị đã nắm chặt tay anh, làn môi nhợt khẽ nhếch lên thì thầm:
- Bỏ qua chuyện này đi anh... Vì em, xin anh hãy bỏ qua...
Nếu như tôi không bỏ qua chuyện này, chính quyền sẽ thi hành phận sự. Bôn phải vào tù nếu anh ta được coi như một người bình thường, trong trường hợp thứ hai, anh ta sẽ bị nhốt vào bệnh viện dành riêng cho những con bệnh thần kinh, Hoan biết quá rõ những bệnh viện loại ấy. Nơi đó, con bệnh bị nhốt như cầm thú trong những căn phòng có các song sắt lớn rào chắn, họ ngủ trên những bậc thềm xi-măng rải chiếu, ăn trong những chiếc bát nhựa lớn và cơm canh đổ lẫn lộn như một thứ cám lợn. Các con bệnh khác phái thường lén lút quan hệ dục tình khi họ mang thai người ta phải trói lại để trục cái thai đó ra vì e đứa trẻ ra đời cũng sẽ mất trí hoặc tiên thiên bất túc.
Ở đó bệnh nhân rất hãn hữu được chữa khỏi. Thường họ nặng thêm lên và xét về phương diện thực tiễn, các viện tâm thần chỉ là những trại giam để cách ly người bệnh với xã hội, để hạn chế ảnh hưởng của họ. Trong cái không gian tù túng ấy, họ hành hạ những người thầy thuốc và đám nhân viên có nhiệm vụ coi sóc họ rồi lại bị chính đám người ấy hành hạ trở lại. Những con người khốn khổ, buộc phải lãnh công việc vừa hiểm nguy vừa buồn chán nhưng lại lãnh một đồng lương tồi tàn đến mức lòng từ thiện bị thui chột trong tâm hồn họ trở thành liều độc dược đầy đọa chính bản thân họ và đám người bất hạnh chịu sự coi giữ của họ. Giữ những bức tường thô bỉ, bẩn thỉu sơn quét lem nhem các cửa sổ và cửa chính đều kết song sắt như chuồng giam thú dữ, những cơn điên bị kích thích theo chiều hướng tồi tệ càng ngày càng tái phát dày đặc hơn, những hành vi phá hoại hoặc gây tội ác càng ngày càng tăng thêm sự man rợ khốc liệt, và tất thảy mau chóng đưa người bệnh tới cái chết.

Anh biết rất rõ điều này. Miên biết rõ cũng như anh. Dù Bôn ngồi tù hay bị nhốt trong viện tâm thần anh ta cũng sẽ đi đến nghĩa địa một cách chóng vánh. Bởi thế, Miên đã tìm cách gỡ tội cho Bôn.
Hành động ấy bởi lương tâm hay do chút ái tình rơi sót? Ta đã không nỡ hỏi Miên và sẽ chẳng bao giờ đủ can đảm hỏi Miên điều ấy...
Hoan bất giác thở dài. Anh rút tiếp điếu thuốc khác. Người đàn ông ngồi đối diện phía bên kia hành lang lục trong túi áo một điếu thuốc Hoa Mai Ðà Lạt nhàu nát vuốt cho thẳng rồi tới gần Hoan xin lửa:
- Anh cũng chờ vợ đẻ như tôi?
Người đàn ông gợi chuyện, anh ta có một chiếc răng khểnh nên hàm răng ố khói thuốc chợt mang chút duyên thầm.
Hoan gật đầu hỏi lại:
- Anh tới đây lần đầu?
- Không.
Anh ta đáp tức khắc, đoạn rít mấy hơi thuốc liền rồi mới nói tiếp:
- Ðây là bản tình ca thứ hai, người anh em ạ.
Bản tình ca thứ hai, anh ta lãng mạn thật. Trông bộ dạng như xã trưởng miền núi, vậy mà ăn nói văn hoa ra trò...
Hoan lặng lẽ mỉm cười, búng tàn thuốc ra ngoài trời. Người đàn ông kia cũng cười, và nói tiếp:
- Anh cười tôi ngót ngét năm mươi còn ăn nói lẳng lơ, có đúng không?
Dứt câu, anh ta phá ra cười, giọng cười ròn rã nửa ngạo nghễ nửa chua chát. Lúc đó Hoan mới thấy những nếp nhăn trên hai gò má và nơi đuôi mắt người nói chuyện. Anh ta tới tuổi năm mươi thật. Tóc hai bên thái dương và mang tai đã ngả muối tiêu. Hết cơn cười, anh ta cao giọng đọc một câu thơ hài hước quen thuộc, rõ ra điệu thách thức:
- Lẳng lơ thì cũng chẳng mòn
Chính chuyên thì cũng chẳng son mà thờ...
Cổ nhân đã dạy rồi, chúng ta chẳng sáng tạo được gì thêm... Mà nói cho chính xác, cứ sống được như người xưa dạy cũng đã bạc tóc.
Hoan bắt đầu có thiện cảm với anh ta. Sau cái vẻ chuyện trò bả lả, sau cái cười cao ngạo kia có cái gì đó giống như sự cay đắng, giống như một lời than, giống như sự trách móc hờn oán số phận. Hoan bảo:
- Anh nói hay lắm.
- Không phải tôi nói hay mà cuộc đời này lắm chuyện hay. Anh ta đáp.
Hoan cười:
- Vậy thì anh nói đi... Tôi đang cần giết thời gian và anh cũng vậy. Vợ anh đã vào phòng hộ sinh chưa?
- Không. Vợ tôi đang chờ lên bàn mổ. Viện chỉ có một phòng phẫu thôi. Hiện một sản phụ khác đang nằm trong đó. Nghe nói đấy là một người đàn bà rất đẹp và có cuộc đời tình ái ly kỳ.
Tôi và em, chúng ta bắt đầu trở thành những nhân vật để người đời đàm tiếu rồi đấy...
Hoan nghĩ với một chút chua chát, hai mang tai và cổ nóng lên. Nhưng anh vờ nhìn người nói chuyện với cặp mắt ngạc nhiên:
- Thế à? Chuyện gì mà ly kỳ như vậy?
Ngay lúc đó, bà hộ lý rỗ mặt chạy lặc lè tới:
- Này ông, bà nhà đẻ con trai. Thằng bé hai cân bảy kháu khỉnh ra trò... Nhưng bây giờ ông chưa vào được. Bác sĩ gây mê hồi sức đang làm việc. Con ông được đưa xuống phòng kính rồi.
- Cảm ơn bà.
Hoan nói. Bà ta quay lưng đi, vẻ thỏa mãn như đã trả xong món tiền hậu hĩnh nhận của anh chiều qua. Người đàn ông tóc muối tiêu nhìn Hoan:
- Vậy chính anh là người trong chuyện? Xin lỗi, tôi không ngờ.
- Anh không cần xin lỗi. Chuyện lạ nào chẳng kích thích trí tò mò. Ðó cũng là sự thường tình...
- Không...
Người đàn ông chợt gằn giọng:
- Không, không... Ðó là chuyện thường tình nhưng cũng chẳng thường tình. Trí tò mò không vô tội như anh nói. Bởi nó luôn đi kèm những định kiến và sự ác độc. Nhiều khi nó giết chết một con người, một tình yêu, phá nát một gia đình mà không phải đứng trước vành móng ngựa, không phải ngồi tù, cũng không có cái mặt dầy để thế gian phỉ nhổ... Cái gọi là trí tò mò, là dư luận, là lời đàm tiếu của đám đông thường vô ảnh vô hình nhưng khủng khiếp. Tôi đã từng là nạn nhân của chúng. Tôi đã từng là nhân vật trong một câu chuyện ly kỳ như anh ngày hôm nay... Vì thế, tôi thành thật xin lỗi anh...
Anh ta nói với vẻ nghiêm trang bất thường và những nếp nhăn khắc khổ hiện lên hai bên mép. Cặp mắt anh bỗng dưng mờ tối, vầng trán cau lại và cả gương mặt như xỉn lại, sạm đi khiến vẻ già nua tàn héo hiện hình. Hoan lúng túng. Anh không có thói quen tâm sự, chia sẻ tâm tình với ai, nhất là với một người vừa quen biết. Anh cũng không có tài an ủi hay khích lệ kẻ khác. Cái người đàn ông cợt cười lúc trước bỗng biến thành kẻ sầu muộn cay độc khiến anh bối rối thêm. Ấp úng mãi, anh mới cất nổi lời:
- Thôi, thôi... Chẳng có điều gì quan trọng đâu... Cái quan trọng là...
May mắn cho anh chính lúc đó bà hộ lý xuất hiện ở cuối hành lang, giơ tay vẫy. Hoan bảo:
- Tôi phải đi...
Anh ta tiếp luôn:
- Vợ anh xong xuôi rồi hả? Vậy thì đến lượt vợ tôi... Tôi cũng phải đi.
Nói rồi anh ta theo Hoan rảo bước tới phòng mổ và phòng hồi sức hậu phẫu. Bà hộ lý đưa Hoan vào căn phòng dành riêng cho Miên. Một phòng nhỏ xíu cỡ tám thước vuông kê hai chiếc giường sắt sơn trắng có đệm với một bàn nhỏ ở giữa. Các sản phụ khác phải nằm chung, cứ tám đến mười hai người trong một buồng. Anh đã trả một khoản viện phí khá lớn để Miên được xếp một mình trong gian phòng tám thước vuông này. Bà hộ lý chỉ:
- Ðêm nay ông có thể nằm lại đây để trông bà nhà.
- Cảm ơn...
Anh đáp và bước lại nơi Miên nằm với đứa con trai. Chị thiêm thiếp ngủ. Thằng bé nằm cạnh mẹ, bọc trong lớp tã trắng giống một cái kén lớn. Nó mở hé mắt nhìn Hoan. Một cái nhìn điềm tĩnh, bình thản, đầy tình bạn hữu:
- Cậu đấy à? Cậu chờ tớ có lâu lắm không? Ðừng lo lắng, tớ chẳng đến nỗi nào và mẹ Miên cũng vậy. Mẹ con tớ đều là những kẻ rắn mặt, mạng số rất cao...
Con trai nói thầm vào tai anh như thế. Nói xong nó nhếch mép như muốn cười. Cái nhếch mép đầy ngạo nghễ. Cặp mi nhỏ chớp chớp. Cách chớp mắt đó cũng mang dáng vẻ của kẻ trưởng thành. Hoan sững sờ. Ðứa bé hoàn toàn khác anh trai nó. Ngày sinh cu Hạnh, anh cũng đã vào chào đứa con ngay lúc nó rời phòng hộ sinh, và anh đã gặp một đứa bé sơ sinh như mọi đứa trẻ sơ sinh khác. Cu Hạnh nặng ba cân sáu da mặt đỏ ửng, có những nếp nhăn nhỏ trên trán, mũi lốm đốm trắng vì thai già ngày, nhưng cái nhìn và mọi cử chỉ của nó đều là cái nhìn và cử chỉ của một đứa trẻ lọt lòng, ngỡ ngàng, non nớt thậm chí hơi ngờ ngẩn... Còn thằng bé này, dù là thai đẻ non, nó có vẻ như một cụ già thu nhỏ, vẻ như tất thảy cuộc sống ở thế gian này nó đã thuộc lòng và giờ đây nó quay lại để sống thêm một lần thứ hai, gặp lại những gương mặt từng quen biết, đi lại những ngả đường đã mòn nhẵn gót chân, nhìn lại những phong cảnh không còn gì mới lạ...
- Chưa thấy đứa bé nào bảy tháng tuổi mà già dặn như con trai ông. Vừa lọt qua cửa sinh nó đã hét lên như còi. Xuống phòng thở ô-xy chưa đầy nửa tiếng nó đã quẫy như cá chuối... Thằng này lớn lên có trời trị...
Bà hộ lý cất tiếng sau lưng Hoan. Anh quay lại:
- Những đứa trẻ khác bảy tháng thường nặng bao nhiêu? Tôi sợ thằng bé này nhỏ quá...
- Không đâu. Những đứa trẻ đẻ non như con ông thường chỉ nặng hai cân mốt, hai cân hai. Nhiều lắm mới nổi hai cân rưỡi. Thằng bé này là vô địch. Không chỉ vì trọng lượng mà còn vì nó cứng cỏi khác thường.
Bà hộ lý đáp, chừng như sợ Hoan còn nghi ngại bà ta nói thêm trước lúc đi ra:
- Tôi làm việc ở đây ngót hai mươi lăm năm. Tôi không nói để lấy lòng ông đâu.
Hoan cúi xuống ngửi mùi da thịt đứa trẻ. Nó cũng thơm như da thịt cu Hạnh ngày trước. Mũi Hoan chạm vào mặt thằng bé, hơi thở ấm và nhẹ của nó phả một chút lay động bên má anh. Từ nơi đó, nỗi xao xuyến lan tỏa:
Con của cha, dẫu sao con cũng đã có mặt trên cõi đời. Và sự hiện diện của con đem lại cho ta sức mạnh. Con không chỉ là đứa con trai, con chính là bạn, là kẻ đồng hành, là người ta được quyền nương tựa. Bởi con đã ra đời trong nghịch cảnh, giống trái chín giữa mùa giông bão, con biết bám chặt thân cành biết đùa cợt với gió mưa...
Thằng bé vẫn nhìn anh, cái nhìn đầy vẻ hài lòng. Hoan đưa ngón tay út nhẹ nhàng rờ quanh khuôn mặt nhỏ xíu của nó, vờn qua hai gờ lông mày, chạy dọc theo sống mũi xuống bờ môi trên. Thằng bé hoàn toàn giống anh, giống như bản sao. Tất thảy mọi đường nét. Ðiều này cũng khác với cu Hạnh, bởi cu Hạnh là sự hòa trộn giữa hai gương mặt, hai làn da và hai mầu tóc. Hoan nhớ hồi có thai được bốn tháng, Miên bảo anh:
- Thằng bé này sẽ giống anh như lột.
Hoan hỏi:
- Sao em biết được?
- Em biết, vì em là mẹ nó.
Chị đáp gọn lỏn và sau đó bắt tay vào việc gì đó khiến anh không thể hỏi thêm. Một ngày khác chị lại bảo:
- Em sẽ đặt tên con là Hùng.
- Tại sao?
- Em thích thế.
- Ðừng làm anh hùng, anh hùng chẳng sung sướng đâu em.
- Nhưng đứa bé này phải đặt tên là Hùng. Không anh hùng, làm sao nó chào đời?
- Em không muốn con mình sung sướng hay sao?
- Em muốn... Nhưng mỗi người một phận. Ngày mình có thai cu Hạnh khác... Và giờ đây...
Miên không nói hết câu nhưng anh hiểu rõ điều chị muốn nói:
Vậy giờ đây ta sẽ đặt tên con là Hùng, đúng ý muốn của mẹ con. Và như vậy, chính con sẽ là cột trụ người phải gánh vác gia đình dòng tộc khi con trưởng thành...
Thằng bé chớp chớp mắt rồi lại nhìn anh, vẫn cái nhìn bình thản, an nhiên cũ. Vì hai tay còn bị bó chặt trong lớp tã hệt như cái bọc kén trắng tinh nên nó chỉ còn lại duy nhất phương tiện biểu cảm là gương mặt. Hoan ngạc nhiên vì từng đường nét, từng thớ thịt nhỏ xíu mong manh trên gương mặt ấy lại có thể truyền cảm một cách tinh vi nhạy bén đến thế. Hoặc vì anh quá xúc động nên hoang tưởng, hoặc vì nó là một trẻ sơ sinh phi phàm nên ý nghĩ của anh vừa chấm hết, hai mép nhỏ xíu đỏ hồng của nó nhích lên nhích xuống mấy lượt và đôi mắt vừa ngạo nghễ vừa vui tươi của nó cất tiếng:
Yên tâm đi hỡi anh bạn khổng lồ, tớ biết phận của tớ rồi. Mai đây tớ sẽ gánh tất tật những gánh nặng đời trút lên vai tớ. Hãy an hưởng hạnh phúc cho đến tận ngày bạc tóc răng long...
Mắt nó lại chớp. Cái chớp mắt ấy thay cho lời nói cuối, tràn ngập niềm tin và khoan dung...
Không lẽ mình điên. Hoặc mình tưởng tượng ra mọi sự?
Hoan kinh ngạc thầm hỏi. Nhưng rồi một tiếng nói khác cất lên:
Cứ cho là tưởng tượng đi, thứ tưởng tượng đó không mảy may xúc phạm đến sự thật. Bởi trong suốt quãng thời gian đã sống ta chưa từng rơi vào cơn rối loạn và trạng thái hoang tưởng. Rõ ràng những ý nghĩ bột phát trong ta là do nó gợi lên. Con trai ta, cái gã trượng phu tí hon này...
Một niềm kiêu hãnh ào tới, ngập tràn tâm hồn người cha và bỗng dưng nó khiến anh cay xè con mắt. Hoan chợt xấu hổ với chính mình. Anh lấy chiếc chăn len nhỏ chặn thêm cho đứa con dù người ta đã đặt nó nằm phía bên trong Miên, sát mé tường. Xong rồi, anh khép cánh cửa phòng ra hành lang. Ở đó, tìm một góc vắng anh tiếp tục đốt thuốc. Thuốc lá... cái thứ thói quen phiền toái này bỗng trở nên phương tiện hữu hiệu giúp anh giải thoát những cơn bối rối. Ngoài trời mưa bụi vẫn bay. Hoan đưa mắt tìm khóm mai, chúng đã chìm ngập dưới bụi nước. Dọc hành lang những y tá hộ lý và người nhà bệnh nhân lẫn người nhà sản phụ vẫn đi lại, mỗi người theo đuổi công việc và mục đích của mình. Hoan nhìn vào mặt họ, chợt nhận ra con người thật cô đơn. Mặt đất đông đúc, xã hội loài người không khác bao nhiêu xã hội loài kiến nhưng loài kiến sung sướng hơn họ bởi chúng
không cần chia sẻ tâm tình. Con người khốn khổ hơn con kiến vì suốt cuộc đời của họ, họ không thoát khỏi ước muốn tìm thấy kẻ đồng hành, cuộc tìm kiếm đó thường là cuộc tìm kiếm vô vọng:
Con chính là kẻ đồng hành của cha, con trai yêu dấu...
Anh nghĩ, với một niềm hạnh phúc lạ lùng, một hạnh phúc không chờ đón khiến con tim ngây ngất. Nào ai ngờ cái thằng bé tí ti kia lại gợi nên nơi anh cảm thức kỳ diệu ấy. Anh trai nó chỉ là một đứa con, kêu gọi nơi người cha sự chở che và tình âu yếm. Cái thằng bé này ngược lại, nó đã bước vọt qua cái ngưỡng đó, nó gợi nơi anh cảm thức kẻ đồng hành và ngay từ cái nhìn đầu tiên, nó che chở, nó dìu đỡ anh...
Hành lang chợt nhốn nháo:
- Nào, dẹp ra, dẹp ra cho xe đi.... Mọi người dẹp ra...
Tiếng quát của một người đàn ông vang lên, Hoan quay lại: từ phía đầu hành lang bốn y tá đẩy cỗ xe chuyển bệnh nhân tới phòng mổ. Trong bốn người ấy, y tá nam duy nhất luôn mồm hét:
- Dẹp ra, dẹp ra cho chúng tôi nhờ...
Sau xe, một người béo lùn mặc bờ-lu chụp mũ trắng bước đủng đỉnh. Hoan nhận ra ông ta. Ðó là một trong hai bác sĩ phẫu thuật giỏi nhất bệnh viện, người ta đã mách Hoan khi anh lo ca mổ cho vợ mình. Người số một là ông già ngót sáu mươi, cao gầy, tóc cắt trụi, râu cạo nhẵn, gương mặt đầy cao ngạo. Ông bác sĩ béo lùn này chính là nhân vật số hai. Hẳn ông ta nhận mổ cho vợ người đàn ông tóc hoa râm đã nói chuyện với anh lúc trước:
Trông bộ dạng túng bấn như vậy, làm sao anh ta đủ tiền phong bao cho cả đám người trong bệnh viện này?
Một khi người nhà bệnh nhân không lo đủ các thủ tục tài chánh, thân nhân họ ắt rơi vào vòng quay đen đủi, phần nhiều sẽ được dùng làm ca thử nghiệm cho tay nghề của đám bác sĩ mới ra trường hoặc của các thực tập sinh. Ðồng tiền quan trọng thật, không trách nhân gian điên đảo vì nó...
Chiếc xe lăn qua mặt Hoan, ông bác sĩ béo lùn đưa mắt nhìn anh hờ hững. Hoan mỉm cười. Tối qua khi anh tới nhà riêng ông ta, bộ mặt tròn vo kia đã nở ra, cặp môi đầy nhục cảm cười nụ cười thân thiện khi anh đặt món quà sang trọng lên mặt chiếc tủ chè. Vợ ông ta, một người đàn bà lùn tròn quay như chồng bưng tới trước mặt anh tách chè pha vội và sau khi lên tiếng mời anh uống trà bằng một giọng quá ư mềm mỏng cũng nở nụ cười đầy tình thân mến...
Ðó là cuộc đời...
Hoan búng tàn thuốc nghĩ tới người đàn ông tóc muối tiêu. Những lời lẽ văn hoa chua chát, điệu cười khinh mạn và cay độc, làn da tàn héo phong trần... Tất thảy ẩn giấu một bí mật nào đó, một nỗi buồn đã quá quen thuộc với nhân gian nhưng họ vẫn không sao chịu thấu:
Anh ta là ai nhỉ? Cái gã đàn ông có tâm hồn dịu dàng đã nhầu nát. Ta đoan chắc như vậy...
Hoan không phải chờ lâu. Gã đàn ông anh vừa đoan chắc có tâm hồn dịu dàng đã nhầu nát đó đang tiến đến trước mặt anh, sau cỗ xe chừng mươi thước. Ði sau anh ta quãng mươi thước là bà hộ lý mặt rỗ, tay vung vẩy một cái túi nhỏ bằng plastic lòe loẹt. Người đàn ông chăm chắm nhìn vào tấm lưng của ông bác sĩ béo lùn, anh ta đi qua mặt Hoan mà không nhìn thấy anh. Vẻ căng thẳng hiện lên từng nét nhăn nhỏ quanh mép, trên gò má. Hai món tóc bên thái dương bị vò rối, xác xơ. Chiếc sơ-mi nhàu nát lòi ra khỏi thắt lưng quần, hẳn anh ta đã qua đêm trên chiếc ghế băng hẹp kê dọc hành lang:
Tội nghiệp...
Anh nghĩ, và không hiểu vì sao gã đàn ông vừa quen biết kia gợi cho anh một hình ảnh thật sắc nét thật tiêu biểu về kiếp người. Bà hộ lý đã tới trước mặt anh, nở nụ cười cầu tài nhàm chán:
- Ông không chờ bà nhà tỉnh giấc hay sao?
Hoan lắc đầu:
- Tôi muốn vợ tôi được ngủ.
Bà nặc nô hỏi tiếp:
- Thằng bé vẫn thức chơi một mình à?
Hoan bảo:
- Có lẽ lúc này nó ngủ rồi.
Bà ta lắc đầu:
- Không đâu. Nó đã ngủ đẫy giấc. Mấy cô dưới phòng kính bảo con trai ông ít ngủ hơn trẻ sơ sinh khác, nó tỉnh như ông già.
Hoan ậm ờ, nhìn những múi thịt nhúc nhích trên bộ mặt phàm tục của mụ già, và bỗng dưng, anh không ghìm được cơn tò mò, một thói xấu trước đây chưa từng có:
- Này...
- Ông hỏi gì cơ?
- Vợ người đàn ông gày gò mặc áo xám kia sắp lên bàn mổ?
- Phải. Xương hông cô ta hẹp quá và huyết áp thấp dưới chỉ số bình thường. Ðẻ lần đầu mà khốn khổ như vậy.
- Họ là người ở đâu tới đây?
Mụ nặc nô bỗng giương đôi mắt tròn xoe nhìn Hoan:
- Ông không biết gì sao? Ông ta là thầy giáo Thông, thầy dạy Lịch Sử giỏi nhất trường cấp ba thành phố.
- Tôi không biết. Có lẽ ông ta tới đây sau năm tôi đã nhận bằng tốt nghiệp.
- Phải, phải...
Mụ già gật đầu lia lịa rồi tiếp tục mở máy:
- Ông ta dạy Sử, vợ dạy Sinh Vật. Họ từ ngoài Bắc chuyển vào trước năm chiến tranh. Hai người có ba con trai. Họ được nhà trường và học sinh rất trọng nể vì dạy giỏi. Nghe đâu có lần đích thân bí thư tỉnh tới tặng quà... Rồi sau năm giải phóng miền Nam, ông ta bỗng dưng bị một con học sinh bỏ bùa chài. Ông ta nhất định bỏ vợ con đi theo nó. Con bé kia cũng vậy, bố mẹ anh em chửi rủa đánh như bổ củi nhưng dứt khoát không chịu bỏ ông ta... Ðấy, kết cục là như thế: Ông ta bị buộc thôi việc phải rời thành phố đến huyện Sơn Quảng làm nghề nhuộm quần áo. Cô vợ đẻ khó nên mới thuê xe về. Ngu dại quá. Ðang là người sang cả được trọng vọng bỗng dưng trở thành đồ tiểu tốt vô danh, rách như tổ đỉa...
Nói tới đó bà ta chìa cái túi plastic cho Hoan xem:
- Ðây, anh ta dúi cái gói bánh chó nhà này vào tay tôi. Chẳng nhẽ lại quẳng ra vỉa hè?
Hoan nhìn bộ mặt cong cớn và tàn nhẫn đó, mỉm cười, nhớ câu nói cửa miệng của ông giáo Huy:
- Ðời là thế...
Ðời là thế,... đời là thế...
Bỗng dưng lời nói đó lặp đi lặp lại trong óc não anh. Bầu trời bên ngoài như mịt mù hơn, rộng rênh và lạnh lẽo. Khóm mã vĩ đỏ trồng ven hành lang được mưa rửa sạch bóng từng chiếc lá giống thứ cây cảnh làm bằng gốm đỏ. Màu đỏ của nó không sưởi ấm không gian mà ngược lại, chút lửa giả hiệu kia gợi nên cảm giác bất an cho cuộc đời.
Nếu tôi không tuân lệnh em, nếu tôi đẩy Bôn vào một nhà tù hoặc một viện tâm thần? Hẳn lương tâm em sẽ bị dầy vò và đó là chất độc dược hủy hoại tình yêu của chúng ta, hủy hoại cuộc sống chung phía trước...
Tôi tuân lệnh em, tương lai chúng ta đặt trong thách thức hiểm nghèo.
Vậy hạnh phúc chỉ là một món hàng trong tiệm cầm đồ, người ta phải chuộc nó bằng một nỗi khổ đau chọn lựa. Cũng giống như trước kia, tôi chấp thuận nhục nhã đặt chân tới ổ điếm để tránh cơn hành hạ dục tình. Giờ tôi chọn sự bất an để khỏi đương đầu với mặc cảm tội lỗi. Ðến hôm nay tôi mới hiểu con người mơ tưởng và tìm kiếm sự hoàn thiện chính bởi nó khuyết diện trên cõi đời...
Hoan đốt điếu thuốc khác và đột nhiên một giả thuyết nảy sinh:
Nếu Miên là người hành động quyết liệt chỉ để bảo vệ lợi ích và cuộc sống bản thân? Nếu chị không yêu cầu anh tha thứ cho Bôn mà thúc giục anh tống người đàn ông khốn khổ kia vào tù hoặc vào viện tâm thần, diệt trừ tới gốc rễ mối hiểm họa cho cuộc sống lứa đôi của họ, liệu anh có còn yêu mê chị như giờ đây hay không?
Hoan không biết. Cũng không giám trả lời. Anh hiểu lòng người quanh co, tình đời oái oăm và bất trắc. Tất cả những gì từng trải nghiệm đã dạy anh như thế. Anh biết anh thuần phục Miên bởi người đàn bà nhỏ bé ấy đầy sức mạnh. Chị chỉ nghe theo lương tri mình và sẵn sàng trả giá điều đã chọn. Anh cũng biết con người có thể vượt được ngục tù trên cõi đất, nhưng không thể vượt được ngục tù trong tâm hồn mình. Họ có thể đạp đổ mọi pháp đình trần thế nhưng sẽ không bao giờ đạp được pháp đình do chính họ xây cất trong tim. Anh biết. Anh biết rất rõ. Nhưng từ cõi sâu kín trong anh, vẫn vọng vang một lời than câm nín:
Vì sao, và vì sao?
Anh nhìn thấy một chân trời mong manh trong cơn mưa bụi bên ngoài, nơi đường phân cắt giữa cái sống và cái chết hạnh phúc và bất hạnh của con người vừa đủ như sợi tơ nhện phập phồng trước gió. Phải chăng vì sự bất an mà con người cô đơn sợ hãi và họ có nhu cầu thường trực tìm kiếm kẻ đồng hành?
Vậy ta đã có trong tay cái vưu vật mọi người thèm muốn. Con trai ơi, hãy mau khôn lớn, bởi chính cha sẽ tạo ra lịch sử của con, con hoàn toàn thuộc về cha, con không có nợ nần trong quá vãng. Con sẽ đồng hành với cha tới lúc xuống mồ...
Anh tưởng chừng chỉ vài ba tuần lễ nữa thằng bé đã lên năm, lên bảy. Anh sẽ đặt nó ngồi trước yên xe máy, trong chiếc ghế mây. Hai cha con sẽ cùng đi thăm các nương vườn, cùng xuống thành phố vào các quán cà-phê và các tiệm ăn lớn. Anh sẽ đặt nó ngồi đối diện với anh, sẽ chuyện trò với nó như với người bạn tâm tình ngang tuổi tác và nghiệm sinh, tin cậy và bình đẳng hơn bất cứ mối quan hệ nào từng có:
Không phải cha đối xử bình đẳng với con mà chính con tự giành lấy quyền bình đẳng ấy ngay từ cái nhìn đầu tiên... Con không chỉ là kẻ đồng hành lý tưởng mà còn là đấng nam nhi mạnh mẽ chở che ta. Chính con, người chở che chứ không phải kẻ cần che chở...
Hoan bất chợt thấy anh nhỏ dại, nhỏ dại, mềm yếu bên cạnh đứa con trai bé tí ti kia, đứa trẻ đẻ thiếu tháng nặng hai cân bảy. Anh thấy anh vững tin, được che chở và được an ủi khi nó có mặt trên cõi đời. Rồi mơ màng, anh tưởng thấy gã anh hùng tí hon kia đang cùng anh cưỡi xe máy phóng đi khắp nơi. Mái tóc mềm của nó cọ vào cằm anh, mùi thơm thơ dại từ da thịt tóc tơ nó tỏa lên làm anh ngây ngất. Anh thấy bàn tay bé xíu của nó giơ lên, xoa cái cằm đầy râu của mình... Anh ném đót thuốc, mỉm cười và trở lại căn phòng tám thước vuông, nơi kẻ bảo trợ cho anh vừa ra đời. Nụ cười sung sướng không rời khỏi môi anh, anh bước qua hành lang mà chẳng để tâm tới những cặp mắt tò mò nghi hoặc đuổi theo mình...
Vào lúc đó, ở Xóm Núi, Bôn cũng đang cười sung sướng. Mưa giăng trên nghĩa địa. Mưa che phủ, vây bọc anh. Không ánh mắt tọc mạch của lũ trẻ, không những lời hỏi thăm ấm ớ nhạt nhẽo của mấy gã chăn dê chăn bò. Một mình anh, yên tĩnh và thanh thản.
Nước lạnh thấm vào tóc, vào da thật dễ chịu. Nước dập tắt ngọn lửa cuồng nộ thường bốc cháy phần phật và gào rú trong anh bất cứ lúc nào nó muốn, không thể kiểm soát. Lớp bụi nước trắng bay là là xiên nghiêng kia đẹp làm sao, nó gợi nhớ cơn mưa thời trai trẻ, gợi tiếng cười rúc rích của đám thiếu nữ với dải đồi long lanh sương. Có một loài cỏ giống cỏ lau tên gọi cỏ đuôi chồn, bông cỏ trông như triệu triệu hạt mưa bụi trắng tinh kết lại. Ước gì anh được là mưa. Anh chảy trên lá cỏ trên khóe môi, giữa hai bầu vú đàn bà, chảy qua rốn xuống tận nơi thầm kín của họ. Ước gì anh vẫn còn trai trẻ chơi trò nhảy tưng tưng, vừa nhảy vừa lấy tay gãy con giống dựng ngược như gãy dây đàn, cái trò bọn lính động cỡn thường chơi vào thời kỳ được nghỉ chờ chiến dịch mới. Ước gì anh có phép lạ nhảy một bước lên tới ngọn cây cao và đong đưa trên đó như con diều... Nhưng ước với ao làm gì, thứ trò vớ vẩn. Tiểu đội trưởng đã đến đây từ lúc nào chẳng rõ, đứng sau lưng anh. Bôn cười ngượng nghịu:
- Em hay nghĩ ấm ớ... Toàn những chuyện chẳng ra gì.
Tiểu đội trưởng ngồi xuống bên anh, nói:
- Mưa đẹp quá... Hệt mưa xuân ngoài Bắc.
Bôn hỏi:
- Quê anh cũng có mưa bụi như ở đây?
Tiểu đội trưởng gật đầu:
- Như đây và còn đẹp hơn ở đây. Ngoài Bắc trời rét, mưa nhẹ bổng phất phới bay trên các khuôn viên các vườn đào. Cứ lên Quảng Bá, Nhật Tân là sa lầy vào cánh đồng hoa đào, không tìm được lối ra.
Nói đoạn anh im lặng, vẻ xa xăm. Hẳn anh ấy đang mơ những vườn đào Nhật Tân, Quảng Bá.
Bôn không dám hỏi gì thêm, chỉ đưa tay quàng qua lưng tiểu đội trưởng. Lát sau, anh ấy bảo:
- Cậu còn thuốc không? Trời này hút một điếu thuốc thật tuyệt.
Bôn móc túi:
- Em còn cả bao nguyên.
Anh đưa cho tiểu đội trưởng. Những ngón tay xương xẩu trong suốt của anh ấy gỡ một cách khéo léo lớp giấy bọc ngoài rồi xé góc bao:
- Cậu rút trước đi.
- Em không dám, nhường anh.
- Lễ phép cái con khỉ. Rút ra mau kẻo mưa làm ẩm thuốc bây giờ. Nào, được chưa? Lấy bật lửa ra... Ðược, chờ tôi bỏ mũ xuống che đã...
Tiểu đội trưởng ngả mũ xuống che cho Bôn châm lửa. Sau đó, tới lượt anh.
Anh ấy châm lửa với cùng một động tác như xưa, đầu nghiêng nghiêng bàn tay áp lên vành mũ...
Bôn thầm nghĩ. Người chết không bao giờ thay đổi thói quen kể cả những cử chỉ sinh hoạt nhỏ nhặt. Ngọn lửa vọt lên trên những ngón tay trong suốt, lơ lửng, nửa trắng bạc nửa xanh, lắt leo giữa lớp bụi mưa và hơi gió thoảng.
- Ðược chưa anh?
- Ðược rồi. Tắt lửa đi... À, cho tôi cái bật lửa này. Thỉnh thoảng muốn hút thuốc lại phải đi xin lửa.
- Anh cầm lấy mà dùng.
Bôn đáp và tiếp tục nhìn tiểu đội trưởng.
Anh ấy nhét chiếc bật lửa vào túi quần cũng với cùng một động tác cũ.
Sau khi thả chiếc bật lửa, anh giơ tay vuốt thẳng mép túi. Chiếc quần của tiểu đội trưởng mỏng tang như dệt bằng sợi dứa ma, thứ dứa dại chỉ mọc ngoài nghĩa địa. Bôn định hỏi tiểu đội trưởng vì sao không mặc quân phục mới nhưng anh chưa kịp lên tiếng tiểu đội trưởng đã nghiêng đầu lắng nghe rồi hỏi:
- Lạ thật, trời đang mưa bụi sao vẫn nghe tiếng gió hú?
- Dạ, có lẽ gió hú trong vực vọng về.
- Ờ, nghe như gió hú trên đồi A46 ở Chiềng Khan... Cậu nhớ cái chốt đó chứ?
- Dạ, em nhớ.
- Tôi vẫn thường quay lại đấy.
- Tiểu đội trưởng nhớ buổi tối thui bò dưới chân đồi không?
- Nhớ. Cậu Quang phệ làm món nước tương chấm thịt bò thui ngon tuyệt. Cậu ấy chết sau tôi hai năm rưỡi, xương vẫn ở chiến trường K.
- Quang phệ tử tế với em lắm. Lần nào trực bếp nó cũng dành cho em miếng cháy to tướng. Còn cậu Thiều, Thiều dân Thái bình, tiểu đội trưởng nhớ không?
- Nhớ.
- Hôm thủ trưởng lữ đoàn xuống ủy lạo anh em, đang nói chuyện nó tương phát rắm đánh bủm...
Hai người cùng bật cười. Bôn nhìn gương mặt tiểu đội trưởng kề sát bên anh. Làn da trong suốt, không đám nốt ruồi tụ như quần đảo trên gò má trái, không vết sẹo trứng cá nơi cằm, cũng không món tóc mai dài rậm thường uốn cong dưới trái tai...
Gương mặt tan loãng, không lông mày lông mi, miệng cười không bờ môi chỉ rõ hai hàm răng trắng...
Nhưng có hề chi? Chẳng hề chi? Ðó vẫn là gương mặt gần gũi nhất với anh, thuộc về anh, cùng anh.
Phía sau gương mặt ấy, những nương tiêu nương cà-phê những xóm làng nhấp nhô cao thấp và xa hơn nữa giải đồng lúa hẹp nối tới miền cát ven biển phía Ðông, tất cả với anh giờ đây là hoang mạc là chốn vắng.
Một cõi không người.
23/11/1998
Dương Thu Hương
Theo http://vietnamthuquan.eu/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Đỉnh cao chói lọi 5XXXX

Đỉnh cao chói lọi 5 NGƯỜI ANH EM (4) Nói rồi ông nhanh nhảu ra lệnh cho trợ lý. Anh này lục tìm cuốn danh bạ đơn vị, hí hoáy tẩy chữ Nôn...