Chủ Nhật, 26 tháng 1, 2025

Chốn vắng 1 00000

Chốn vắng 1

Giới thiệu và lời bạt

Dương Thu Hương nổi tiếng với các tác phẩm "Thiên Đường Mù," "Khải Hoàn Môn"... và là một trong những nhà văn được biết đến nhiều tại Việt Nam cũng như trên thế giới. Từ khi bà bị giam bảy tháng tù, vào năm 1991, tác phẩm của bà không còn được xuất bản tại Việt Nam.

Được sự đồng ý của tác giả, Người Việt trân trọng giới thiệu cùng độc giả tác phẩm mới nhất của nhà văn, là tiểu thuyết "Chốn Vắng." Nhà văn hiện đang sống tại Paris, và tiểu thuyết "Chốn Vắng" đã ra mắt độc giả người Pháp với tựa đề "Terre des oublis" do nhà Sabine Wespieser xuất bản; bản tiếng Anh "No Man's Land" do nhà Hyperion East xuất bản. Tại Hoa Kỳ, "Chốn Vắng" do nhà xuất bản Như Khanh hợp tác với nhà sách Tự Lực, in và phát hành.
"Chốn Vắng" có ba nhân vật chính, là Miên, Bôn và Hoan. Miên lấy Bôn trước khi Bôn lên đường vượt Trường Sơn vào Nam. Lúc chiến tranh lên cao điểm, Miên sống với Hoan. Chiến tranh chấm dứt, Miên đang hạnh phúc bên Hoan, một người tử tế, làm ăn thành công, thì Bôn trở về với thương tật, cả tâm hồn lẫn thể xác. Miên quay về với Bôn, vì nghĩa, dù chỉ tìm thấy hạnh phúc bên Hoan. "Chốn Vắng" lên án chiến tranh và biểu dương tình yêu!.

Miên trước hết trung thành với bản thân mình. trong đạo đức cổ truyền, bất trung chủ yếu được hiểu là bất trung với vua. Nhưng chính Mạnh tử đã từng hiểu bất trung với một nghĩa hoàn toàn khác: bất trung còn có nghĩa là "không trung thành" với chính mình. Cũng "nhân" đấy, "lể" đấy nhưng mình bất trung với chính mình, tức là không chân thành thì làm sao cảm hóa được người khác. (xem Mạnh tử, chương VIII, A, 28). Tội "bất trung với vua" có khi không nặng bằng "bất trung với chính mình".
Bôn thuộc một mẫu người tương phản với mẫu người của Miên. Chẳng những anh không có nơi "tự tại", "an trú" trong lòng của mình, anh còn là "kẻ ăn nhờ ở đậu ngay trong nhà của mình". Càng ngày anh càng thấm thía trạng thái côi cút. Anh nguyền rủa thảm trạng côi cút bằng những lời hằn học: "cái từ ngữ ác độc này còn dữ hơn hổ báo, độc hơn rắn rết, làm tâm hồn con người tàn lụi, tan mủn nhanh hơn hết thảy các chất cường toan...". Nguy cơ khốn đốn nhất của thân phận Bôn là bị hút vào "chốn vắng", bì rơi tõm vào "cõi không người". Có một sức mạnh huyền bí đã níu giữ Bôn lại: đó là tình đồng đội, đó là hình ảnh người tiểu đội trưởng "sống khôn chết thiêng", "gương mặt gần nhất với anh, thuộc về anh, cùng anh...", đó là Tân, Kha, Thanh, Trấn, Tương, Phiên, Trà... những tên đồng đội anh thất thanh gào lên trong cơn nguy kịch... Tình đồng đội là một trong những di sản thiêng liêng nhất mà cuộc chiếc tranh khốc liệt nhất ở Việt Nam trong thế kỷ vừa qua để lại cho nền văn hóa Việt Nam.
Hoàng Ngọc Hiến
Chương 1
Tháng sáu tưới một cơn mưa lạ lùng quá đỗi.
Cùng một lúc, nước xối xả trút xuống và hơi nóng rùng rùng từ vách đá nắng nung xông lên. Nước lạnh và hơi nóng giao hòa, bốc bụi sương mù mịt. Mùi khét nồng man dại tỏa trong không gian hòa quyện mùi nhựa cây khô, hương các loài hoa héo, mùi nước dãi chim gọi tình khô kiệt suốt mùa hè, mùi cỏ tím mọc trên các đỉnh núi cheo leo. Tất thảy tan lẫn vào làn nước tưới xuống.
Tạnh mưa, gió đột ngột ngừng thổi, nước cuồn cuộn réo dưới lòng khe, những bờ cây nẫu nà bắt đầu bị nung nóng trở lại. Mặt trời sau các đám mây vọt lên chiếm trọn khoảng xanh lơ cao vời. Dường như sau khoảnh khắc cách biệt, tình yêu mù dại với đất với rừng càng sôi sục, lửa ghen tuông thiêu đốt vạn vật như cơn ái ân cào cấu. Lũ bướm, lẽ ra đã bay đầy các lèn đá, sợ mặt trời trốn biệt trong các xó xỉnh. Cả đàn ong khốn khổ cũng ngừng kiếm mật. Trong tĩnh lặng nồng ngột chỉ những bông hoa chuối nở bung, màu đỏ mê man thành lửa, như muốn bốc qua không gian oi ngạt lên tít mấy tầng trời.
Lúc ấy, Miên cùng đám đàn bà Xóm Núi đứng trong hang đá. Chị ngỡ mình sốt nhưng sờ trán lạnh tanh. Tim Miên đập bồn chồn. Chị thoáng lo cho đứa con trai:
... Thằng bé ngã vào chum nước chăng? Hay cái que nhọn nào chọc vào mắt? Không, không... dì Huyên cẩn mật lắm, rõi theo từng bước chân đứa cháu. Vả chăng, gương mặt thằng bé tươi tắn thế, rủi ro không tới được. Con trai ta có gương mặt ngời ngời chữ phúc, cả quỷ lẫn thần đều sẽ chở che...
Chị không còn lo cho đứa con trai nhưng vẫn bồn chồn, khắc khoải. Một bất an nào đang đợi ở cuối đường?
- Thôi, về nhà... Ngày hôm nay coi như gặp vận rủi.
Miên lên tiếng.
Không ai đáp. Ðám đàn bà vẫn đứng bá vai nhau nhìn trời. Hôm nay là ngày đầu tiên trong năm, họ rủ nhau lên rừng tìm mật ong. Ðầu ngày đã không may mắn. Vừa lên núi, một cô ngã trẹo chân phải dìu vào trại kiểm lâm. Ði hết hai trái núi lại gặp cơn mưa rừng. Giờ này, mặt đất hầm hập như lên cơn sốt. Hơi nóng thoát từ các khe lạch, từ các lối mòn chồng chất lá mục, từ những đám lá dập nẫu những đám hoa nhàu nát bị mưa táp rơi đầy gốc cây... và thảy đều xông lên mùi hương độc địa.
Chúng ta về đi.
Miên giục. Lần này, một cô trong bọn giơ tay chỉ ra ngoài hang:
- Mày muốn làm mồi cho rắn hả? Mở to mắt mà nhìn...
Miên lặng thinh. Chẳng cần mở to mắt chị cũng biết lúc này lũ rắn đang trườn qua các lối mòn, quăng thân như ném bóng trên các vòm cây và bất cứ con mồi nào xuất hiện cũng sẽ khiến chúng nổi xung. Tiếng thằn lằn tắc lưỡi vang lên ngay nóc vòm hang. Miên bất giác ngẩng lên: Rất có thể con rắn chửa nào đó vì tức thở sẽ lao xuống mổ vào trán họ... Một cô to béo cầm gậy quất vào đám cây trước cửa hang:
Mỗi đứa bẻ sẵn một cây gậy đi lỡ rắn đàn xô tới.
Không ai chờ ai mỗi người đều tìm một gậy làm vũ khí. Rồi họ đứng tựa vào nhau nhìn những làn hơi trong suốt rung rinh như sóng, nhìn lũ rắn bóng nhãy trườn qua lối mòn, lắng nghe tiếng chim tức tưởi xa vời vẳng tới. Sự im lặng mê mệt trùm lên họ. Họ vừa mở mắt nhìn rừng cây chờ khoảnh khắc nguy hiểm trôi qua vừa như ngái ngủ chẳng ai nói với ai một lời. Cứ thế, thời gian chảy trôi. Nắng hun dần tầng lá mục bên trên khiến đám cây nẫu nà thoát ra làn hơi ngái, lớp vỏ se lại. Ðám cỏ bết bùn ven suối ngỏng lên những mầm lá nhọn giống những lưỡi gươm thanh mảnh yêu kiều. Khóm hoa chuông lúc lắc nhè nhẹ. Gió nổi lên xua làn hơi ma quái tù đọng và thổi những người đàn bà khỏi cơn mộng mị. Họ đưa mắt nhìn nhau. Một cô ném gậy kêu to:
- Mất một ngày vô tích sự. Thôi đừng mơ mòng mật với ong nữa... Về, về thôi.
- Về. Giờ có đi cũng muộn rồi.
Một cô khác tiếp lời, buông tiếng thở dài.
Và cả bọn kéo nhau về Xóm Núi.
Khi họ ra khỏi cửa rừng, trời đã ngả chiều. Mặt trời như mảnh thủy tinh màu hường, có vân li ti như vân cánh hồng tường vi. Hoàng hôn đỏ thắm. Miên bước theo đám bạn, nỗi khắc khoải quay trở lại càng thêm nặng nề. Chị không hiểu vì sao thấy thi thoảng, hơi thở tắc nghẹn nơi cổ họng, và tim chị co thắt như bị một bàn tay vô hình bóp chặt:
... Vì sao nhỉ? Phải chăng Hoan gặp bất trắc đã đưa đoàn thuyền quay lại? Trời không giông bão và chẳng có lý do nào khiến chồng ta gặp hiểm họa, trừ phi có cướp biển... Lâu rồi, chẳng nghe ai nói tới chuyện cướp biển. Bao năm nay bọn cướp biển đã tan biến trong đám vỏ sò mục ải tấp vô bờ... Hoặc là Hoan ốm? Kể chi người đá cũng có lúc đổ mồ hôi...
Nhưng cả lý do ấy, Miên cũng không tin nổi. Chị chỉ còn biết bước đi mải mốt, ruột nóng như cào, con tim thấp thỏm phỏng đoán điều bất an nào đã ám ảnh chị suốt ngày hôm nay.
Nhà Miên dựng ngay trên đường vào rú. Hoan dựng ngôi nhà này sau tất cả mọi người và vào thời khắc đó, nó là rẻo đất hẻo lánh. Nhưng giờ đây đã có hai vợ chồng trẻ nữa vừa dựng nhà mới, thế nên ngôi nhà của chị đã thoát khỏi cảnh rìa làng. Nhà cất trên đỉnh đồi, bốn bề vườn cam bưởi vây quanh. Xa hơn nữa dọc theo dải đồi phía tây là các nương tiêu, nương cà-phê, nương nọ nối tiếp nương kia, giữa chúng là các lán nhỏ lợp lá, nơi Hoan đặt máy bơm và cho thợ làm thuê ngồi nghỉ uống trà. Dinh cơ của họ đồ sộ nhất vùng, chẳng ai dám so sánh. Hoan là người mẫn tiệp. Vườn tiêu và cà-phê của anh bao giờ cũng trồng loại giống quý nhất đòi hỏi kĩ thuật chăm bón phức tạp và giá bán cao nhất. Các chủ trại trong vùng xô tới học hỏi kĩ thuật của anh. Sau mùa thu hoạch, họ lũ lượt kéo tới xin anh cho nhập bọn thuê thuyền chở hàng vào bán tận Ðànẵng, Sàigòn. Không mấy kẻ ở Xóm Núi không chịu ơn Hoan. Ðám đàn bà biết rõ điều đó. Vì thế, khi tới cổng nhà Miên, thấy người túm tụm từ ngõ đến sân, họ liền kéo nhau vào tuốt luột:
- Có chuyện chi mà đông người thế hả Miên?
- Tôi cũng đi từ sớm với các chị, làm sao tôi biết được?
- Ờ, tôi rõ thật vô duyên.
- Vào đi, vào đi, khắc rõ chuyện. Có vài phút cũng không dằn lòng chờ nổi...
Cái đám đông lao xao như ong vỡ tổ đó chợt im bặt khi họ tiến vào. Miên thấy tất cả mọi người đều nhìn chị, từ con nít tới bà già, những láng giềng cùng xóm và cả những người thôn khác, ánh mắt của họ thật kì lạ, vừa như tò mò vừa như sợ hãi vừa ẩn chứa sự thăm dò lẫn lời thách thức.
Chưa bao giờ mọi người nhìn mình với cặp mắt lạ lùng này... Có điều gì đó vừa xảy ra nơi đây?
Trong nhà, vẳng ra tiếng khóc tiếng hờ của một người đàn bà, nghe như quen, cũng như lạ... Cái giọng đó, dường như chị đã từng nghe một thời, cái thời mà chị đã quên lãng. Những người ngồi hai bên lối dạt ra khi chị đi qua. Khác hẳn lệ thường, không ai chào ai. Ngay đám con nít cũng nín lặng không nhí nháu đùa cợt. Trên sân và trước khuôn cửa ra vào chi chít những tấm lưng áo đen còn đọng ngấn muối của đám người vừa từ nương rẫy trở về. Những tấm áo đó xen lẫn những tấm lưng trần, những tấm áo xuân-hè bạc màu, sơ-mi trắng và sơ-mi xanh của đám trai mới lớn.
Không lẽ họ triệu tập thôn ở đây trong lúc mình vắng nhà? Nhưng trụ sở thôn đã sửa xong. Họ chỉ đảo ngói quét vôi tường và thay mấy bộ cửa sổ. Rõ ràng hôm khánh thành chủ tịch xã cắp cặp xuống ăn liên hoan...
Lúc Miên băn khoăn với giả định mới, giọng than hờ của người đàn bà nào chợt ré lên như xé tai:
- Ôi em ơi, khốn khổ thân em, lưu lạc góc rừng bãi bể cho tới tận giờ? Người ta tốt số được hưởng an bình hạnh phúc chỉ em chịu phần cơm hẩm cà đen...
Cái thanh âm eo éo như mài sắt đó khoan xoáy vào óc Miên. Chị bước vào nhà. Bóng tối ập vào mắt khiến chị không nhìn rõ ai, ngoại trừ cái khối đen đặc của đám đông lô nhô kẻ đứng người ngồi. Trong đám đông ấy một người đàn ông cất giọng trầm trầm gọi:
- Miên!
Miên không nhận ra ai nhưng chắc chắn đó không phải là Hoan... Chồng ta không trở về. Ðoàn thuyền chở tiêu đang yên lành vượt biển...
Người đàn ông kia lặp lại:
- Miên!
Lần này, Miên đáp:
- Tôi đây.
Rồi chị quay lại phía người vừa lên tiếng gọi. Mắt đã quen dần với bóng tối, Miên thấy một gương mặt đen đúa, vuông, u buồn, cặp mày chữ nhất chạy ngang trên đôi mắt sâu, sáng, thứ ánh sáng của lửa đêm thu tàn trên núi.
- Miên!
Anh ta lặp lại lần thứ ba, và lần này tiếng gọi kia như dằn mạnh một thứ đồ vật xuống.
- Dạ, chào anh tới chơi.
Miên đáp lại rồi nhìn quanh quẩn tìm chỗ ngồi. Ngày nay chị đã đứng quá lâu trong hang. Một ông già lưng trần đứng lên nhường chỗ cho chị. Bàn tay khô khẳng của ông đặt lên vai Miên, ấn chị ngồi xuống ghế, đối diện với người đàn ông có cặp mày hình chữ nhất. Người đàn ông ấy nãy giờ vẫn chăm chăm nhìn Miên, gương mặt căng thẳng trong cái nhìn ấy, những đường nét như co rúm lại và cặp môi xám run giật từng hồi. Những lằn run rẩy trên cặp môi xám của anh ta khiến Miên ngơ ngẩn, chúng gợi nhớ một hình ảnh nào khác trong sương mù mà chị không thể nhìn ra. Chúng gợi một cái tên dưới vực sâu, vực âm u sương giá, chỉ nghe rõ tiếng gió luồn. Cặp mày chữ nhất của người đàn ông kia đột nhiên châu lại trên tinh mũi những sợi lông mày mọc trên sơn căn dựng ngược như lông nhím đen như sơn nối hai tràng mày thành vệt thẳng. Một tiếng thở dài từ vực sâu kia vọng tới... Một thanh âm bật mí. Một gương mặt mờ ảo trôi... Những giọt mồ hôi rịn trên trán người đàn ông. Cặp môi xám của anh run rẩy mỗi lúc mỗi mau hơn rồi trong tíc tắc, chúng tách rời nhau, khuôn miệng hé mở... Miên thấy lạnh chân tay: Khuôn miệng hé mở đó, cặp mắt u buồn với ánh sáng tràn qua hai hàng mi hẹp chị từng thấy trong một mùa hè. Mùa hè mỏng manh như tàn lửa. Ngắn ngủi như hồi quang. Bay vèo qua khung trời...
- Miên!... Tôi đã về đây...
Người đàn ông chợt vươn qua mặt bàn, gạt đổ những chén trà dở rồi cất giọng riết róng:
- Miên... Tôi đã về... Tôi đã về...
Miên đưa một bàn tay về phía trước như mắt chị không còn nhìn được, tai chị không nghe được và giống người mù bẩm sinh chị hướng lòng bàn tay để sờ soạng các âm thanh:
- Anh đã về? Anh là...
- Tôi đây... Bôn đây.
- Tôi... Anh là Bôn?
- Tôi là Bôn. Chồng của em.
Ba gian nhà im như mồ. Ðám đông nín thở. Người ta chờ câu trả lời của Miên. Miên lặp lại câu nói của người đàn ông như mê sảng:
- Anh là Bôn, chồng của tôi? Chồng tôi?
- Phải, Bôn đây...
Người đàn ông gằn giọng và thốt nhiên, anh ta gần như rống lên:
- Tôi đây. Bôn đây... Tôi đã quay về...
Miên ngồi im, đờ đẫn...
Chồng của ta ư? Hoan đang đưa đoàn thuyền chở tiêu vào Ðà Nẵng, anh ấy hứa khi về sẽ mua cho cu Hạnh chiếc xe đạp ba bánh và mua cho ta mấy mảnh lụa tơ tằm... Cái đêm trước khi đi Hoan bảo: Em thích màu chi đây, lục biếc, tím than hay màu lông gà con mới nở? Em còn thích gì nữa? Không, không, em chẳng còn muốn gì hơn, thế đã là quá đủ. Trời trong, biển lặng chỉ tuần sau chồng ta sẽ quay về...
- Miên!
Người đàn ông lại cất tiếng gọi không mỏi mệt. Nhưng Miên không nghe thấy tiếng gọi ấy. Chị đang hồi nhớ một gương mặt khác. Một gương mặt sáng ngời, đôi mày lưỡi kiếm trên vầng trán rộng, sống mũi cao như sống mũi người phương Tây, cặp mắt dịu dàng, làn môi ấm mềm cuốn hút...
- Miên, tôi đã về đây...
Lần này, không còn là tiếng rống gọi mà là lời cầu khẩn. Một thứ âm thanh sẽ sàng, trầm ấm như tiếng thì thào của những rặng cây thung lũng mùa xuân. Ðôi mày chữ nhất rướn lên một chút. Cặp môi xám lại run rẩy:
- Miên, tôi đã trở về...
Miên thu bàn tay lại. Chị đã hiểu. Tiếng nói kia va đập vào lòng tay chị. Người ta vẫn nói lòng bàn tay lưu giữ cảm xúc lâu bền hơn tất thảy những giác quan khác như thính giác loài voi lưu giữ được những âm thanh từ bảy kiếp trước. Miên đã hiểu người đàn ông ngồi đối diện với chị là ai.
- Anh Bôn?
Chị cất tiếng, thẫn thờ.
- Tôi đây... Tôi đã về.
Anh đáp.
Người chồng của chị mười bốn năm trước. Cái hồn ma chị thờ phụng lâu nay bất chợt quay về trong hình hài đen đủi, với màu da và cặp môi đầy tử khí. Bôn đã trở về. Không là chàng trai từng là chồng chị trong một mùa hè ngắn ngủi. Cũng không là một hồn ma. Anh ở giữa hai thứ ấy. Miên hiểu rằng chị đã rơi vào khúc kẹt. Chị không biết mình sẽ sống ra sao khi cái hồn ma trên bàn thờ tổ quốc ghi công bất chợt khoác quần áo bước xuống ngồi trước mặt chị, uống ừng ực từng chén trà rồi nhìn chị đăm đắm... Anh ấy từng là chồng ta. Nhưng ngót mười năm nay ta đã sống với Hoan và cuộc hôn nhân đã được trời và người chấp thuận... Bôn nhập ngũ năm năm mới có lệnh báo tử. Hai năm sau ngày nhận giấy báo tử ta mới lấy Hoan. Chúng ta đã có thằng bé Hạnh. Ta không thể từ bỏ Hoan. Anh ấy là hạnh phúc thật sự của ta...
Người đàn bà ngồi lặng trong bóng tối. Bóng tối phủ đầy căn nhà. Một ai lên tiếng:
- Thắp cho cô ấy cái đèn.
Một cánh tay vươn qua mặt chị, với chiếc giá nến đặt trên tủ đựng ly tách:
Thắp nến cho nhanh... Không thấy đèn đâu cả... Bà Huyên đâu nhỉ?
Bà ấy ngồi ngoài ngõ. Từ lúc thấy cô Miên về đã đưa thằng bé đi rồi.
- Cho tôi mượn hộp diêm. Bật lửa của tôi hết đá...
Từ bên kia bàn, Bôn lại cất tiếng gọi:
- Miên!
Bây giờ, không còn là lời cầu khẩn mà là lời van vỉ. Miên thấy anh nhìn chị ngay cả trong bóng tối. Ðó là ánh mắt của kẻ sắp chết đuối giữa dòng:
... Bôn đã từ mặt trận trở về. Ðời này qua đời khác, có người đàn bà nào dám quay lưng ngoảnh mặt trước một người chồng từ mặt trận trở về?
Miên biết một hồn ma quay lại cõi đời ba lần khát sống hơn những người bình thường khác. Người từ mặt trận trở về đương nhiên hưởng đặc ân trong lòng cộng đồng và khi họ lên tiếng đòi phần hạnh phúc các đối thủ khác không thể cạnh tranh. Hồi nhỏ, Miên đã chứng kiến những cuộc vận động thanh nữ kết hôn với thương phế binh sau cuộc chiến tranh chống Pháp. Lúc đó, chị đang còn ở làng quê cũ, cha chị còn sống và mặt trời còn tỏa rạng trong mái nhà của họ. Hàng xóm kề nhà Miên là một cặp vợ chồng già chuyên nghề đẽo đá. Họ có cô con gái mười chín tuổi tên là Hiền. Hiền là phó bí thư chi đoàn thanh niên nên khi huyện ủy phát động phong trào xung phong kết hôn với thương phế binh để đền ơn đáp nghĩa những người có công với tổ quốc cô giơ tay trước tiên.
... Chị sắp làm vợ một thương binh. Gia đình chị sắp được đền ơn đáp nghĩa tổ quốc...
Hiền bảo cô bé Miên như thế và hứa hôm làm lễ thành hôn sẽ đưa Miên theo...
... Em sẽ tha hồ xem. Nghe nói hội trường huyện treo đèn kết hoa đẹp lắm. Chị em mình sẽ được đi trên thảm nhung đỏ, nhung thật chứ không phải thứ vải láng giả nhung của cô thợ may bên xã Lý hòa đâu...
Hai chị em cười sung sướng, mơ ngày được bước trên thảm nhung.
Hai tuần sau, đúng ngày được thông báo lên huyện nhận chồng, Hiền đã giữ lời hứa dẫn Miên đi theo. Trong xã cũng có vài thanh nữ khác cùng xung phong một lần với Hiền. Họ ăn cơm từ mờ sương, rồi dắt díu nhau đi. Khoảng non bảy giờ sáng tất cả đến huyện. Ðúng như Hiền đã nói, huyện đường treo lồng đèn kết hoa đỏ. Hành lang giăng từng dãy cờ đuôi nheo và các giải phướn ngũ sắc. Gió thổi cờ phướn bay phất phới khiến huyện đường giống sân đình ngày hội. Những phụ nữ và thanh nữ tình nguyện kết hôn với thương phế binh được mời lên ngồi hàng ghế danh dự phủ nhung đỏ. Lễ tân mặc quần áo trắng áo dài bưng các khay bánh kẹo và nước trà mời từng người. Âm nhạc nổi lên. Sau lễ chào cờ bí thư huyện ủy đọc một bài diễn văn dài đặc. Cô bé Miên lúc đó nắm chặt trong tay những chiếc kẹo bọc giấy bóng xanh đỏ đến nỗi chúng chảy nước ra mà không dám bóc ăn. Chẳng hiểu bài diễn văn kia nói gì, nhưng không khí trang trọng lạ lẫm khiến cô sợ hãi. Miên chờ ông bí thư huyện kết thúc bài diễn văn để bóc kẹo ăn. Nhưng khi ông ta vừa đi xuống bà chủ tịch huyện Hội phụ nữ đã bước lên diễn đàn. Bài diễn văn của bà còn dài hơn nữa. Hết bài diễn văn đó, một đoàn thiếu nhi theo tiếng trống tiến vào, mỗi em ôm một bó hoa để tặng những người tình nguyện, họ sắp trở thành vợ mãn đời của các phế binh. Tiếng trống đập ầm ầm giữa hai hàng cột kết hoa đỏ, vang lên tận vòm trần như muốn khuấy động không gian và làm nao nức lòng quả cảm. Lúc đó, Hiền đưa tay nắm chặt tay Miên. Cô thấy bàn tay người thanh nữ lạnh toát, run run. Khi tiếng trống nhỏ dần, người ta chuyển những chiếc cáng phủ chăn hoa sặc sỡ từ căn phòng phía sau sảnh lớn. Các phế binh nằm trên cáng, chìm lút dưới tấm chăn, chỉ nhô lên cái đầu và cặp vai. Mặt anh nào cũng được thoa phấn hồng và môi to son đỏ. Bà chủ tịch huyện hội phụ nữ tuyên bố rằng các cán bộ huyện đã nghiên cứu kĩ lưỡng. Vì thế, việc mai mối sẽ dựa trên các cơ sở chắc chắn và hợp lý tùy lứa tuổi, hoàn cảnh gia đình và tính tình các cá nhân.
Ðoạn, bà rút trong chiếc túi dết đeo bên hông bản danh sách, sang sảng đọc... Chị Hiền được gả cho một phế binh hơn chị ba tuổi ở cách hai xã. Anh ấy mồ côi nên chị được quyền đón chồng về nhà mình. Lúc đó, Miên thấy Hiền tái nhợt. Chị đứng túm lại với đám bạn gái. Các chị cũng tái nhợt như vậy, người nọ đưa mắt lơ láo nhìn người kia. Một bàn tay Hiền bấu chặt lấy cánh tay Miên. Cứ như thế cho tới lúc bà chủ tịch huyện hội đọc:
- Ðào Thị Hiền...
Hiền giật bắn lên, không nói được lời nào. Bà chủ tịch tươi cười tiến đến, dắt tay Hiền tới nhận chiếc cáng định mệnh:
- Ðây... Người của em đây... Tôi hy vọng em sẽ vui lòng đền ơn trả nghĩa người chiến sĩ đã hiến dâng đời mình cho đất nước...
- Dạ... Em vui lòng...
Miên thấy chị lắp bắp đáp lại. Sau đó người ta khiêng cáng lên một chiếc xe Jep. Hiền dắt Miên theo. Chiếc Jep đưa họ về tận làng. Người phế binh đã tháo khớp hai bên háng và cánh tay trái. Tay phải cụt tới nửa cùi chỏ. Anh giơ chiếc cùi chỏ ấy lên, lúc chạm vào Hiền, lúc chạm vào Miên, thay cho cử chỉ vuốt ve hoặc tỏ bày tình thân thiện. Trên chuyến xe đó, họ mới nói với nhau những lời đầu tiên...
Kỉ niệm tuy xa nhưng chẳng phai mờ. Cho tới ngày cha mất và mấy chị em phải rời xa làng ra đi Miên thường vẫn sang chơi với Hiền. Người con gái ấy đã chấp nhận cuộc sống lứa đôi theo tinh thần tuẫn đạo:
- Này Miên, hôm nay anh ấy đã ăn được bát cơm. Khi nào anh ấy ăn thêm được lưng cơm nữa là chị yên tâm. Ông lang bên xã Lý Hòa chiều qua sang chơi thăm bệnh bảo chị rằng cái đó còn nguyên. Mai rày chị cũng kiếm được đứa con...
Một lần Hiền mừng rỡ khoe với Miên như thế. Lúc ấy, Miên còn nhỏ, chị chưa thể hiểu rõ tường tận câu chuyện giường chiếu của Hiền. Sau này, tưởng tượng tới cảnh ấy, Miên vẫn thường rùng mình xa xót cho người hàng xóm... Bây giờ, chị không ngờ một thứ quả đắng tương tự rơi trúng vào mình:
Dẫu sao, ta cũng còn may mắn hơn Hiền. Bôn đã từng là chồng ta và anh ấy còn nguyên vẹn chân tay...
Miên hình dung lại cặp mắt mịt mờ của cặp vợ chồng người thợ đẽo đá khi nhìn chiếc băng-ca phủ kín chăn được khiêng vào nhà. Và gương mặt Hiền lúc lật tấm chăn lên:
Dẫu sao ta cũng còn may...
Cây giá nến đã được đặt lên nóc tủ đựng ly tách. Năm ngọn nến chiếu sáng. Ba gian nhà vẫn lặng như nấm mồ. Miên vặn vẹo hai bàn tay, mặt cúi xuống. Hai bàn tay chị cọ xát mãi không ấm lên được. Gió cũng ngưng lặng ngoài vườn. Sự im lặng như chất nước thủy ngân. Không chỉ riêng Miên đám người xung quanh cũng đờ đẫn. Mãi sau, người đàn ông ngồi bên trong Miên mới đứng lên:
- Anh Bôn này...
Sơ-mi trắng, quần màu cỏ úa. Chiếc cặp da đen dựng sau lưng, sát tay ghế. Miên nhận ra ông chủ tịch xã, nhưng gương mặt mờ nhạt bồng bềnh. Ông ta khác hẳn mọi ngày:
- Anh Bôn này, hãy nghỉ ngơi cho lại sức rồi sẽ định đoạt mọi chuyện. Như tôi đã nói, sau khi nhận giấy báo tử hai năm chị Miên mới lấy chồng. Như thế cũng đã trọn tình trọn nghĩa. Vợ anh không có lỗi.
Một người đàn bà thấp bé đen đủi ngồi trên bỗng vụt đứng lên:
- Vậy ông chủ tịch nói em tôi có lỗi hay sao?
Miên nhận ra Tá, chính kẻ đã than khóc, hờ gọi lên bổng xuống trầm như hát. Chính cái giọng eo éo kia mà chị đã từng biết một lần trong quá vãng và đã lãng quên. Thấp bé hơn Bôn nhưng cùng sắc da nâu, cùng kiểu mày chữ nhất, lúc này Tá đang giương vây xù lông vẻ như sẵn sàng xả thân để bênh vực em trai, kẻ nối dõi dòng họ Vũ. Chủ tịch xã vốn hiền lành nhưng cứng cựa, ông ta đưa mắt liếc nhìn người đàn bà nhem nhuốc kia với cái nhìn của kẻ bề trên, phẩy cánh tay như để đón lời nói của chị ta không thể chạm vào tấm áo trắng tinh vừa giặt:
- Chị Miên không có lỗi. Anh Bôn cũng không có lỗi. Kẻ duy nhất có lỗi là chiến tranh.
Nói xong, ông quay lại đám đông:
- Bà con ta đến đây thăm anh Bôn như thế là đủ. Xin mọi người ai về nhà nấy để chủ nhân được nghỉ ngơi, trò chuyện. Về phương diện chính quyền xã sẽ thực thi chính sách với anh Bôn như với mọi quân nhân phục viên khác. Hy vọng bà con sẽ giúp đỡ anh Bôn đúng theo tinh thần: Lá lành đùm lá rách và uống nước nhớ nguồn.
Ðám người nghe rõ nhưng chưa quay đi. Họ nấn ná chờ màn cuối. Màn cuối đã diễn ra đúng tinh thần họ chờ đợi, đúng với truyền thống đã lưu cữu trong trí nhớ trong suy tưởng trong cảm thụ của họ: Chủ tịch xã quay lại phía người vợ, nói với giọng nghiêm trang trịnh trọng vừa xa xôi vừa đầy hàm ý:
- Chính quyền cũng như đảng ủy xã không can thiệp vào chuyện riêng tư của bất cứ công dân nào. Chị và anh Hoan đều là những người lương thiện, chấp hành đúng mọi pháp luật của nhà nước. Nay, do tình cảnh éo le chị phải đứng trước sự lựa chọn. Chỉ có chị mới có quyền quyết định cuộc đời của mình. Chúng tôi hy vọng chị sẽ biết suy xét trước khi đi tới quyết định cuối cùng. Như chị đã thấy, anh Bôn là người trực tiếp góp xương máu, cho cuộc chiến tranh chống Mỹ, giải phóng đất nước. Chúng ta có được cuộc sống thanh bình thịnh vượng, đất nước được độc lập tự chủ là nhờ sự đóng góp của những chiến sĩ như anh Bôn.
Dứt lời, ông xách chiếc cặp đen, bước ra.
Ðám đông lục tục đi theo.
Bôn đăm đắm nhìn Miên. Ánh lửa nến soi ngọn lửa khao khát đang cháy trong mắt anh.
Miên bất giác run sợ khi không còn ai ngồi bên chị. Chị cúi xuống nhưng vẫn nhận biết ngọn lửa dục vọng đang cháy trong mắt anh. Không dám thú nhận nhưng một tiếng thì thầm mách bảo chị rằng anh vẫn chỉ là một hồn ma, hoặc một thứ gì đó tương tự như thế. Một hồn ma biết uống nước trà biết thèm khát đàn bà. Sự ghê rợn luồn lách trong da thịt chị.
Bôn ngượng nghịu lên tiếng:
- Miên vẫn... vẫn khỏe chứ?
Miên ấp ứng đáp.
- Vẫn... Dạ, vẫn...
Hai người lại lặng yên. Người đàn ông run run hỏi:
- Miên, em có... nhớ tôi?
- Dạ...
Người đàn bà bối rối, vừa không dám nói dối vừa không thể nói thật. Ánh khát thèm long lanh trong hai hố mắt anh càng khiến chị kinh hãi hơn. Vài phút lặng lẽ trôi qua. Rồi, cầm lòng không đậu người đàn ông vươn mình chồm qua mặt bàn vồ lấy gương mặt người đàn bà trước đây mười bốn năm đã là vợ anh:
- Miên... Anh nhớ em... Anh yêu em...
Miên co rúm người lại. Chị không dám thẳng tay đẩy gương mặt Bôn đang chồm tới, đành né sang một bên. Nhưng chị đã ngửi thấy hơi thở nóng hổi của anh phả trên da, hơi thở rừng rực như hơi thở kẻ đang lên cơn sốt, lạ hoắc và rất nặng mùi. Chị ghê sợ khi nghĩ rằng ngày mai ngày mốt, tuần sau, tháng sau, năm sau, và mãi mãi chị sẽ phải chung sống với anh, người đàn ông đã trở thành bóng ma trong tim chị, người đàn ông có hơi thở không thể nào chịu đựng...
Không, không...
Bôn thu mình ngồi, lặng lẽ.
Miên không nhìn anh nhưng chị biết anh sẽ ngồi đó, kiên nhẫn, lì lợm, ngày nọ qua tháng kia dai dẳng hơn tất thảy những dai dẳng của cõi đời. Linh tính bảo chị rằng đối với kẻ từng là một hồn ma, cuộc đời dương thế sáng giá hơn trăm lần và họ sẽ chiếm đoạt nó bằng mọi giá. Chị không còn lối thoát. Người đàn ông đen đủi kia sẽ đòi bằng được điều anh ta muốn. Mọi người sẽ đứng về phía anh ta. Dù chủ tịch xã tuyên bố trước đám đông rằng chị có quyền lựa chọn phần đời phía trước của mình nhưng đó chỉ là những lời cho phải phép. Sau những lời lẽ đó, họ bỏ phiếu cho Bôn. Họ thương Bôn. Người lính. Kẻ lưu lạc. Kẻ bị đọa đầy. Kẻ đã hiến tuổi trẻ cho dân tộc, trong một cuộc chiến tranh vô tiền khoáng hậu. Bôn, người thua thiệt. Kẻ đã đánh mất một phần đời giờ quay lại đòi phần đời còn sót...
Họ có lý của họ. Chị biết vậy. Bởi chị cũng thương Bôn. Nhưng vì sao mọi người không nghĩ tới cái lý của chị? Chị đã yêu Hoan. Cuộc sống của chị, cả tâm hồn lẫn thân xác đều đã gắn bó đã hòa nhập với người đàn ông mới... Chị không còn yêu Bôn nữa. Mối tình le lói thời con gái chưa kịp nở đã tàn trụi đã rữa nát với thời gian. Làm sao một người đàn bà đang sống cuộc sống nơi dương thế có thể còn ôm ấp, và sẻ chia giường chiếu với một thây ma đã rữa nát dưới mồ?
Miên biết không ai thèm để tâm tới những gì chị nghĩ. Không ai trả lời chị.
Người đàn bà gục mặt xuống, khóc như đứa bé bị đuổi khỏi nhà.
Chương 2
Khoảng tám giờ tối dì Huyên sang. Bà nói dáo dác từ giữa sân:
- Sao hai người ngồi im như bụt mọc thế? Chẳng cơm nước gì à?
Nói rồi bà bước lên bậc tam cấp. Bôn hỏi:
- Dì đi đâu lâu thế?
Bà nói:
- Tôi phải đưa thằng bé đi chơi. Nó quen chơi rong, ngồi nhà không yên.
Nói rồi bà mở cửa gian buồng bên trái, đối diện với phòng ngủ của Miên, nơi bà thường ngủ trưa với cu Hạnh. Vừa đẩy cánh cửa bà vừa lẩm bẩm:
- Quái lạ, không biết cây đèn để đâu?
Lục sục trong đó một lát bà lại quay ra, tay cầm cây đèn pin:
Phải thắp đèn lên. Cả sân lẫn bếp tối mò. Chút nữa tôi trượt chân ở cổng.
Nói đoạn bà bấm cây đèn pin, xuống bếp. Ánh đèn pin quét qua quét lại loang loáng trên khoảng sân rải rác lá úa. Vườn nhà rộng, đủ loại cây, lá rụng quanh năm. Vài phút sau, hai ngọn đèn được bật sáng. Dì Huyên đặt một ngọn trên bờ tường hoa, và ngọn kia treo nơi cửa bếp. Xong xuôi, bà gọi:
- Này Miên, muốn sao cũng phải nấu cơm, đừng bỏ bữa.
Miên lên tiếng:
- Dạ.
Bà nói tiếp:
- Cu Hạnh ngủ rồi... Hay đêm nay để nó ngủ lại với dì?
Không, không được.
Miên bật đứng dậy tức khắc:
- Ðể cháu sang đón nó.
Dì Huyên nói:
- Không cần... Giờ cháu hãy rửa mặt cho tỉnh, nấu cơm đãi anh Bôn. Chẳng gì, cũng là người đi xa mới về... Khi nào cơm nước xong, dì sẽ cõng thằng bé sang. Tôi cầm cây đèn pin đây rồi. Không sợ ngã.
Bà nói thong thả, khô và gọn như lấy dùi gõ từng nhịp xuống mõ. Nói xong bà quay lưng đi. Ánh đèn ve vẩy theo tay bà ra lối ngõ. Miên đứng dậy, rút chiếc khăn mặt phơi trên sợi dây căng trước hiên, đi ra bể nước. Chị múc vào chiếc thau đồng, vục mặt vào thau nước lạnh vừa rửa mặt vừa tiếp tục khóc. Hơi thở chị làm sủi từng tràng bong bóng trong chậu nước. Người đàn bà vục mặt vào thau nước lạnh hồi lâu chờ cơn khóc nguôi mới lau khô mặt quay lên nhà. Tới trước Bôn, chị hỏi:
- Anh muốn ăn cơm hay ăn cháo?
Giọng chị khô lạnh và bình thản như mười bốn năm qua chỉ là giấc mộng trôi vèo, như chị vẫn thường hỏi anh như vậy vào lúc chiều buông:
- Anh muốn ăn cơm hay đi đường mệt, cần phải ăn cháo?
Bôn ấp úng. Dường như không hiểu Miên nói gì. Dường như cái câu nói thường nhật kia anh đã chờ đợi mười bốn năm qua xẹt tới như tia sét ngang tai khiến anh choáng váng:
- Anh muốn... muốn...
Anh lắp bắp, ngẩng nhìn chị:
Tùy... tùy Miên, ăn chi cũng được...
Nếu Miên nhìn vào mắt anh lúc ấy, chị sẽ thấy bao nhiêu âu yếm dâng đầy. Sẽ thấy trong ánh mắt anh không chỉ tình yêu mà còn sự tòng phục không chỉ lời van nài mà còn sự quỵ lụy không chỉ cơn khát thèm mà còn sự hoảng loạn của nỗi cô đơn trường niên tất thảy những thứ tình cảm pha trộn đó, chị sẽ nhận ra ánh lửa của mùa hè mười bốn năm trước đang tỏa rọi. Thời gian không làm ngọn lửa ấy tàn phai mà thổi bùng lên đám cháy rực rỡ của một trời phượng đỏ.
Nhưng Miên không nhìn anh. Không mảy may dừng ánh mắt lại trên gương mặt trên thân hình thậm chí cả khoảng không gian bao bọc anh. Chị chờ Bôn buông vài tiếng, liền quay đi rất nhanh. Chị xuống bếp lấy gạo vo gạo soàn soạt nơi bể nước. Chị nổi lửa đặt nồi cơm. Nồi cơm cạn, chị gạt than đoạn đi tới chuồng gà. Mở cửa chuồng, thò tay khoắng một nhát tóm gọn bất cứ con vật xấu số nào lọt tầm tay. Gài chốt cửa chuồng gà, trói chân con gà bằng một đoạn dây gai, một chân chặn cả chân lẫn cánh con vật khốn khổ, một tay nắm cổ nó, tay kia vặt lông, và sau đó cắt tiết. Con gà chỉ dãy được hai giây là chết hẳn. Miên lấy phích nước sôi lớn đổ ra chậu làm lông gà. Khi gà làm xong, chị vớt vài củ măng ngâm trong vại ra thái. Tay đưa dao đều đặn, ngọt xớt không sai một ly. Những miếng măng mỏng tăm tắp rơi xuống rổ. Thái xong, chị hất măng vào chiếc xoong nhôm, đổ nước đặt lên bếp luộc. Lửa lại bùng lên, bọt của sôi xèo xèo, ánh lửa phản chiếu trong đôi mắt thủy tinh của chị. Cặp mắt đông cứng, giá buốt. Chúng nhìn vào cõi nào đó bên ngoài thế giới chị đang tồn tại.
Trên nhà, Bôn ngồi im nhìn vợ. Mọi cử chỉ của chị khiến anh sợ hãi. Tất thảy đều chính xác, dứt khoát, thành thục... Nhưng tất thảy là cử chỉ của cái xác không hồn. Miên vừa đổ nồi măng xuống chiếc rổ tre. Làn hơi bốc lên vây phủ gương mặt chị. Khi hơi nước tan đi, Bôn lại thấy những bắp thịt đông cứng nơi cằm, trên hai gò má Miên. Gương mặt chị như đẽo bằng đá, không mảy may rung động:
Miên, em đã hoàn toàn quên tôi, em đã quên khoảnh khắc em trở thành cô dâu và tôi trở thành chú rể. Với tôi, nó thiêng liêng biết bao. Tôi đã ghi nó trong trí não tôi suốt mười bốn năm dài. Còn em, chắc em không muốn nhớ... Lẽ nào em đã quên cái đêm đầu tiên... Ðêm ấy, những con bướm trắng lao xuống cây đèn đặt trong góc căn phòng, và sáng hôm sau chính em lấy chổi vun xác chúng lại...
Bôn thấy sợ hãi, thấy chônh chênh. Làm sao anh dám hôn lên cặp môi mím chặt kia, hôn lên gương mặt đông cứng như nước đá. Anh rót một chén trà, uống cạn, chất nước nóng làm hồi lại các mạch máu tê cứng trong tim anh, đem cho anh chút can đảm...
Có thể Miên đã quên và cũng có thể Miên chưa quên nhưng không muốn quay lại nhìn quá khứ... Mười bốn năm đâu phải quãng thời gian ngắn ngủi... Miên đã chung sống với một người đàn ông khác và họ đã có đứa con trai. Ðàn bà vốn sợ đổi thay. Họ không muốn xáo trộn cuộc sống... Ta phải chờ đợi... Phải học cách chờ đợi. Thời gian sẽ làm tình yêu cũ sống lại... Phải biết chờ. Rồi những mầm cỏ tranh sẽ nảy mầm khi mùa Xuân tới, qua mọi lớp than tro... Tiểu đội trưởng bảo ta nhiều lần: "Chiến tranh, thằng nào lì đòn thằng ấy thắng. Cuộc đời cũng như trận mạc, thằng nào lì đòn thằng ấy thắng".
Ý nghĩ sau chót khiến anh trở lại bình tĩnh. Anh rót thêm chén trà nữa và lại uống cạn. Ngoài sân, tiếng nước xối ào ào. Miên rửa mớ măng luộc trước khi nấu. Anh thấy chị xóc rổ măng vài lần cho ráo nước rồi mang vào bếp. Lần này, ánh lửa rọi thẳng vào mặt người đàn bà khiến anh nghẹt thở. Niềm lạc quan anh vừa lấy được bỗng tan biến. Gương mặt thạch cao của Miên đã gợi cho anh hình ảnh một bãi mìn: Bãi đất trống trơn, cồn ụ lô nhô, bờ cỏ vụn xen những hàng dây thép gai nghiêng ngả và những hố bom cỏ chưa kịp phủ dầy... Bãi mìn. Vùng đất hoang. Anh có thể nào cư trú?
Không, không, không... ta không được để những ý nghĩ u ám tấn công. Có thể đó là di chứng của những cơn trầm uất năm xưa, khi ta sống giữa rừng hoang, cũng có thể là di chứng bệnh gan và sốt rét. Khi máu cạn, tim sẽ lạnh theo và tâm hồn trở nên tăm tối. Ta trở về quê hương, vượt qua bao năm tháng chết chóc đói và bệnh... Ta phải tìm lại hạnh phúc đã mất, ta phải tìm nó với bất cứ giá nào...
Bôn nhớ lại những lần làm lễ xuất quân. Ðám lính cũng như các sĩ quan đều giơ tay tuyên thệ dưới cờ: Quyết thắng. Tiếng hô của họ âm vang rừng già, không còn là tiếng người nữa mà giống lời sấm truyền của một vị thần linh hiển...
Hồi ức về các buổi lễ xuất quân khiến Bôn nao nức. Anh thề với chính mình, tựa hồ làm một cái lễ xuất quân đơn lẻ cho riêng anh, chính anh: Anh thề tìm lại những gì đã mất.
Ngoài ngõ có tiếng chân bước. Rồi dì Huyên nói vọng ở đầu sân:
- Nào, cơm nước xong chưa, tôi cõng thằng bé sang đây.
Miên đáp vọng dưới bếp lên:
- Con đang giở tay chặt gà, dì đặt cháu vào giường cho nó ngủ.
Bà già cõng thằng bé trên lưng, cẩn trọng quét ánh đèn pin lên từng bậc tam cấp trước khi bước. Ðứa bé vẫn ngủ ngon lành đầu ngoẹo trên vai bà hai tay buông thõng. Ánh nến soi làn da trắng nõn như mỡ đông, như vỏ trứng gà.
Nó có màu da của Miên, cũng có thể màu da cha nó, cái người đã là chồng Miên hơn bảy năm nay. Kẻ may mắn ấy hẳn có làn da trắng, chẳng giống như da mình...
Bất giác Bôn giơ cánh tay lên soi dưới nến. Da anh vốn đen. Thời anh trẻ, nó là màu đen ròn ánh hồng máu huyết và sinh lực. Năm tháng qua đói khát và những cơn sốt rét đã hút vơi máu trong huyết mạch, pha vào làn da anh sắc chì ảm đạm khiến nó xỉn đi, như mảnh vải thâm cũ ải.
Dì Huyên đã cõng đứa bé vào buồng. Nó ú ớ vài tiếng:
- Mẹ... Mẹ... Miên... iên...
Rồi lặng im. Hẳn nó đã ngủ lại. Khoảnh khắc sau, dì Huyên bước ra. Bà hỏi:
- Sao anh còn ngồi đấy? Không đi tắm cho sạch bụi đường?
- Cháu chờ Miên?
- Chờ đợi làm gì cho rách chuyện? Người nào việc nấy chứ? À mà tôi quên mất, phải đun cho anh nồi nước lá tẩy trần. Ðó là phép các cụ đã dạy...
Nói đoạn bà tong tả đi xuống bếp:
- Còn gì để tôi làm nốt, đun cho anh Bôn nồi nước lá.
- Chỉ còn việc dọn mâm thôi.
- Ðược, đưa đĩa thịt cho tôi. Thái lá chanh rồi hả, rắc lên đây. Ðể tôi lấy đĩa muối tiêu đã...
Bóng hai người đàn bà đi đi lại lại trong khuôn cửa bếp. Bếp ở đây còn cao hơn những nóc nhà bình thường. Chắc hẳn đồ vật trong đó sang trọng như những phòng ăn và bếp nấu ở các thành phố anh từng thấy.
Bà già lại cất tiếng hỏi:
- Hai người ăn cơm ở đây chứ?
- Không.
Tiếng Miên đáp tức thì:
- Ăn trên nhà khách. Dì cứ để đấy lát nữa con bưng lên.
- Thôi được.
Dì Huyên đáp và trở lại nhà trên. Bà thay những ngọn nến sắp tàn, đoạn ngồi xuống ghế, đối diện với Bôn:
- Anh cứ uống trà mãi mà không thấy cồn ruột hay sao? Thôi, để bụng ăn cơm.
Bôn đang đưa chén trà lên môi vội ngừng tay hạ xuống. Quả thật, anh đã liên tục uống trà từ sáng tới giờ như cái máy. Bối rối trước những lời lẽ thân tình của bà, anh lúng búng hỏi:
- Dì vẫn mạnh khỏe chứ ạ?
- Khỏe, tôi vẫn khỏe...
Bà đáp. Bôn chợt nhớ từ lúc bước vào ngôi nhà này tới giờ anh đã lặp lại lời hỏi thăm lạt lẽo đó bốn lần. Thực ra, giữa những gương mặt ít ỏi sót lại trong trí nhớ của anh, không có bà, mặc dù bà là đại diện nhà gái duy nhất trong lễ cưới của họ. Bà là người gần gũi duy nhất với Miên ở xóm Núi. Theo quan niệm thông thường, gia đình Bôn tuy nghèo nhưng vẫn là dân gốc sở tại. Miên là người ngụ cư, sau khi bố mẹ chết dì Huyên đã đón mấy chị em cô tới đây. Một lát bối rối, Bôn chợt nhớ dì Huyên vốn có nghề nuôi tằm, anh hỏi:
- Dì vẫn nuôi tằm ạ?
- Phải, khắp vùng này chỉ còn bà Xuyến thôn Hạ và tôi nuôi tằm kéo tơ. Chẳng bán được cho ai, chúng tôi đem tơ xuống huyện thuê người dệt. Ðược tấm nào chúng tôi may áo quần tấm nấy, thế cũng sung sướng hơn người.
Ðúng như bà nói, bà mặc bộ quần áo thuần tơ nhiên vàng óng, chẳng giống chút nào những sơn dân lam lũ quanh năm mặc quần áo đen ở nơi đây.
Bà già này đài các thật. Dường như số bà luôn may mắn. Khi ta ăn hỏi Miên, bà đã tỏ ra lạnh nhạt vì gia cảnh của ta bần hàn. Giờ đây, so với bà hẳn ta còn bần hàn hơn nữa... Nhưng cần phải lấy lòng mụ già này, ấy là người có ảnh hưởng rất lớn với Miên.
Dì Huyên đưa mắt nhìn Bôn, cái nhìn bình thản nhưng không che đậy vẻ dò xét:
- Ngày nay đông người quá không tiện hỏi. Vậy anh đã được lệnh phục viên?
- Ðúng ạ
- Sao hồi trước gửi giấy báo tử? Vẫn cùng một bàn giấy làm ra hay sao?
- Dạ. Cũng vẫn quân đoàn nơi đơn vị cháu trực thuộc. Hồi trước, cháu bị lạc, kẹt mất hơn sáu năm trên đất Lào. Sau giải phóng mới tìm cách liên lạc với đơn vị cũ...
- Tôi hiểu. Xưa các cụ kể có ông quan đi xứ, lạc vào đảo khỉ lấy khỉ làm vợ, đẻ được hai mặt con mới có thuyền ghé ngang đón về quê... Vậy anh làm đến chức nào trước khi xuất ngũ?
- Dạ... cháu kém tiến bộ, chỉ mới tới hàm thượng sĩ thôi.
Ngập ngừng một chút anh nói thêm:
- Cháu bị thiệt hơn sáu năm kẹt ở xứ người... Rồi lại mất hơn một năm đơn vị điều tra mới xác minh được lý lịch...
- A... a...
Bà già cất tiếng kêu bâng quơ, không hỏi gì thêm nữa. Cũng vừa lúc Miên bưng mâm cơm lên:
- Anh ăn cơm hay chờ tắm?
- Tùy Miên... Tôi thế nào... cũng được...
Dì Huyên bảo:
- Hãy bỏ mâm cơm ở đó. Tắm sạch bụi đường ăn cơm mới ngon.
Miên lặng lẽ quay ra không ngó vào mặt Bôn. Anh cúi gằm mặt xuống nhận biết rõ rệt nỗi nhục xuyên qua lưỡi dao nhọn qua tim mình. Nhưng anh cắn răng, nuốt nước bọt. Thân thể nồng ấm của người đàn bà đang chuyển động. Chị càng rời xa anh, mùi hương nhục cảm càng theo gió bay lại, đậm đặc hơn, rạo rực hơn. Như chị là một loài công, loài trĩ lạ kì. Những con con công, con trĩ truyền hơi hám dục tình lên sắc lông rực rỡ. Còn chị, chị truyền dòng điện mê hồn vào không gian vây quanh, biến nó thành một từ trường nhiễm đầy mùi da thịt của chị, hơi thở của chị, cả mùi chua thoang thoảng của mồ hôi đọng sau gáy và trong hai kẽ nách. Miên đã xuống hết bậc tam cấp, ra sân, nhưng những luồng sóng nhục cảm đầy nữ tính trộn mùi thơm của nhành hương nhu gài nơi búi tóc chị làm không gian đặc sánh ngây ngất:
... Cô ấy không thèm ngó vào mặt ta, dù một lần... Cô ấy đã trở thành người xa lạ, hoàn toàn xa lạ...
Người chồng đau đớn thú nhận, nhưng ngay khoảnh khắc ấy anh cũng hiểu rằng giờ đây anh còn đam mê, thèm muốn và ngưỡng vọng Miên hơn trăm lần cô gái mảnh mai anh đã cưới mười bốn năm về trước:
Em không thèm nhìn tôi một lần. Sao em ác thế? Chẳng lẽ tôi đã thay hình đổi dạng tới mức em không còn nhận ra chút bóng dáng nào của người đã từng là chồng em? Không, dù năm tháng đã qua nhưng tôi vẫn nguyên thân xác cũ, nguyên vẹn chân tay, không vết thương mặt, không bị lửa na pan đốt da cũng không xém thuốc đạn - thứ vết thương bắt con người mang suốt đời những mảnh da sần sùi, lỗ chỗ hạt đen... Tôi may mắn hơn nhiều đồng đội, còn nguyên dạ dày lẫn gan, lách, chỉ một vết thương phần mềm giờ sẹo đã mờ. Nước da tôi có xấu đi nhưng đâu đến nỗi thành quỷ khiến em phải sợ hãi? Vậy vì lý do nào em ngoảnh mặt đi?.
Người chồng cất tiếng hỏi, rồi anh tự đáp lời:
Cô ấy đã quên ta, trái tim cô ấy đã chứa đầy hình ảnh người đàn ông khác. Còn ta, ta vẫn mang cô ấy đi theo suốt gần ấy năm ròng... Ngu muội. Bất công...
Những lời giải đáp cất lên rất sẽ sàng, yếu ớt, và Bôn làm như không nghe thấy. Ðối với anh đó là khung cảnh ghê rợn anh không dám mở to mắt nhìn, là chiếc rương lớn giam giữ nguy hiểm và tai họa anh không dám mở...
Miên vào bếp. Chị bưng một xoong lớn đặt lên bếp. Hẳn đó là nồi nước lá tẩy trần của anh. Nồi đó ước phải nặng hơn trái đạn B40. Cánh tay người đàn bà trắng ngần nhưng rất khỏe. Lúc này Bôn mới nhận ra Miên cao lớn, đẫy đà hơn ngày họ cưới nhau nhiều. Cặp mông tròn đầy, nây nẩy theo bước đi khiến lớp lụa quần sóng sánh. Ðôi vú qua thì sinh nở căng đầy dưới tấm áo màu lam. Khoảng da cổ hở ra trắng nõn nà, trắng hơn hết thảy những người đàn bà từng gặp trong các thành phố phương Nam: Ðà Nẵng, Quy Nhơn, Nha Trang, Sài Gòn, Phan Rang, Phan Thiết... Người đàn bà dưới chân giải Trường Sơn, nơi gió Lào táp lửa se xém cỏ cây lẫn da thịt, vậy mà Miên trắng lạ lùng. Nhất là khi ánh lửa rọi vào tấm áo lam, cát lụa bắt sáng hắt vào khoảng da cổ Miên thứ màu sắc ngon lành khiến họng anh tắc lại:... Em đẹp hơn xưa nhiều. Em đã sống qua bao nhiêu giờ phút trong tay người đàn ông đó? Ðã bao nhiêu lần anh ta hôn lên cần cổ trắng ngần kia? Một, hai, ba, bốn, năm trăm hay tới cả nghìn lần? Hơn bảy năm, hơn hai ngàn năm trăm ngày đêm. Mỗi đêm họ hôn nhau bao nhiêu lần và trong khoảng thời gian ấy họ đã làm tình bao nhiêu lượt?
Bôn lại nuốt nước bọt. Cơn ghen làm anh xây xẩm mặt mày. Anh tưởng tượng cảnh ái ân giữa Miên với người ấy. Sau đó tự sỉ nhục mình. Rồi sự tò mò đau đớn kia lại cắm ngập móng vuốt của nó vào tim anh. Và anh nhổ những chiếc móng sắc nhọn đó ra, ròng ròng máu chảy:
Sao ta ghen tuông nhỏ nhen nhục nhã? Ta đã từng chung chạ với những người đàn bà xa lạ dọc đường chiến tranh. Ta cũng đã sống cuộc sống chồng vợ với người đàn bà ở bản Kheo trên đất Lào ngót sáu năm trời... Ta không có quyền ghen với Miên... Miên không có lỗi và ta cũng không có lỗi.
Nhưng sau những dàn xếp với bản thân, trái tim anh vẫn bật lên lời than van, ấm ức:
Nhưng em, người vợ của tôi, sao em nỡ nhạt tình đến thế? Không lẽ em đã đánh mất hoàn toàn trí nhớ, không lẽ em đã quên cái đêm đầu tiên của chúng ta... Quên ngọn đèn và lũ thiêu thân vờn quanh ánh lửa?
Tâm hồn anh rên rỉ, bởi với anh, đó là đêm thiêng liêng nhất đời người. Cái đêm lấp đầy anh, đêm ám ảnh anh suốt quãng thời gian xa cách...
Ðêm ấy trăng hạ tuần lên muộn. Hầu như không có trăng. Tối mù. Ðám cưới tan, ai xách đèn về nhà nấy. Ông chủ hôn hô hào lũ thiếu niên thu dọn những tấm bạt che, những bình hoa giấy, đoạn dẫn họ về trụ sở thôn ăn cháo. Buổi sớm phường săn ngả được con nai đem cho ông một đùi. Ông có ý dành đãi bọn trai làng đã phụ giúp đám cưới của Bôn và Miên. Khi ông kéo lũ trai đi rồi, người chị ruột của Bôn cũng gọi lũ con vào buồng ngủ. Chị ta tắt đèn. Căn nhà chợt tối om. Lúc đó, Bôn đang ôm chặt Miên, mê mẩn:
- Miên, Miên ơi, Miên ơi...
Anh tiếp tục gọi dù Miên không đáp lời, thân thể cô cứng ngắc và hai tay bấu chặt vào tay anh cũng cứng ngắc. Bôn phải gọi lượt thứ ba, và trùm tấm thân nóng rãy của anh lên cô Miên mới bật kêu:
- Ðừng... Ðừng. Em sợ.
Anh dừng lại:
- Em sợ gì?
- Em sợ... Em không quen ngủ trong bóng tối... Em sợ ma...
- Nhưng em đã là vợ anh... Em không ngủ với dì Huyên mà ngủ với anh. Chẳng có gì đáng sợ...
- Không... Không thể được. Dì Huyên vẫn quen để đèn đêm... Em sợ bóng tối.
Bôn ngẫm nghĩ một giây:
- Thôi được.
Anh mò mẫm tụt xuống giường, mò mẫm quơ đôi dép rồi tìm cây đèn châm. Khi anh quẹt lửa, tiếng người chị từ buồng bên vọng sang:
- Thắp đèn làm chi cho tốn dầu?
- Mặc tôi.
- Ðồ dở hơi, đêm động phòng còn khêu lửa...
Bôn không đáp, anh đặt cây đèn vào góc khuất, lại lấy cuốn vở che thêm. Như thế, ánh sáng không thể rọi thẳng vào chiếc giường hợp hôn của họ.
- Nào, đã hết sợ chưa?
Anh thì thào.
- Ðược rồi.
Miên đáp và thở một hơi dài nhẹ nhõm.
Bôn cúi xuống mở chiếc nút đầu tiên nơi cổ Miên. Lúc ấy, cô đang ngoảnh mặt nhìn ngọn đèn nói:
Ở đây nhiều bướm đêm hơn nhà em... Xem kìa, lũ bướm đã xoay kín bóng đèn...
Nhưng Bôn không nghe hết lời Miên nói, anh đã mở hết hàng cúc áo, anh lột tấm vải vô tích sự ấy đi, và anh quên hết mọi thứ trên đời...
Ðêm ấy, ngọn lửa đèn thiêu chết bao nhiêu con bướm trắng dại khờ, Bôn không rõ. Anh đã làm tình thâu đêm tới lúc trời rạng sáng. Khi nhìn rõ vòm lá soan đung đưa trên vòm trời, trắng đục, anh bước xuống tắt đèn, rồi sau đó hai người mê mệt ngủ...
Nếu không có chiến tranh và chúng ta lại tiếp tục cuộc sống lứa đôi. Tôi và em, vẫn mặn nồng như xưa, hơn xưa... Bây giờ, cần phải có thời gian để khôi phục lại...
Ngày ấy, tình yêu tuổi mười bảy và sức lực của gã trai làm tình mà không đếm nổi lượt làm tình... Dĩ vãng ngắn ngủi xa xôi. Quá xa xôi. Thời đó những cuộc kết hôn của lính trẻ trước ngày ra trận thường vội vã và họ cũng vội vã tận hưởng ái tình với vòng quay của những con thiêu thân quanh lửa... Bôn biết vậy. Nhưng dẫu sao những đêm si cuồng ngắn ngủi đó đã in dấu quá sâu đậm trong tâm hồn anh, chối bỏ tất cả những gì làm thương tổn chúng. Anh đã mang những đêm say đắm ấy suốt bao năm ròng. Anh tin chúng tồn tại mãi mãi... Mãi mãi...
... Ngày xưa, có một vị tướng già đã trải gần hết cuộc đời ngoài trận mạc. Khi đất nước thanh bình, nhà vua hỏi ông muốn phong tước hầu hay muốn đất đai. Vị tướng già từ chối tước hầu. Vị vua thắc mắc: Vì sao khanh đổi bổng lộc chốn đỉnh chung lấy thân phận một viên chúa đất? Ông liền đáp: Thần cần đất bởi đất nuôi người. Thần muốn có ba chục đứa con. Ðất bệ hạ ban sẽ được cắt thành ba mươi mảnh, dựng ba mươi ngôi nhà. Sau này, ba mươi đứa con thần sẽ theo gương cha chúng mà làm. Hai trăm năm sau dòng họ của thần sẽ cai quản cả xứ... Vua cười ngất và bảo: Nay râu khanh đã dài tới rốn mà còn ước đẻ ba mươi đứa con trai... Khanh có phép thần nào vậy? Vị tướng nghiêm trang đáp: Lũ con thần bị nhốt trong bụng cha chúng suốt mấy chục năm qua đang nôn nóng chờ đợi, giờ chỉ cần chọn ngày lành tháng tốt cho chúng qua cửa... Quả nhiên, vị tướng già đã sinh đủ ba mươi đứa con trai mới chịu nhắm mắt giã biệt cõi đời... Câu chuyện này tiểu đội trưởng thường kể... Miên ơi. Tôi không phải là tướng, tôi chỉ là một thượng sĩ quèn nhưng vẫn đủ sức cho em ba bốn đứa con trai... Chỉ cần em quay mặt lại...
Miên vẫn đứng trước nồi lá tẩy trần. Nước bắt đầu sôi, hơi phun phì phì nơi mép xoong. Mùi hương nhu, lá sả, cỏ thơm tỏa ngát lừng.
Dì Huyên lên tiếng:
- Kìa, anh chuẩn bị mà đi tắm.
Bôn giật mình. Trong lúc anh đắm chìm vào cơn suy tưởng, bà già vẫn ngồi nhâm nhi uống nước trà và hẳn không ngừng quan sát anh. Không chờ anh đáp, bà nói tiếp:
- Nước thơm rồi, anh đi mà tắm... Tôi về ngủ đây.
- Cháu chào dì.
Bà vung vẩy cây đèn pin, xuống sân. Từ dưới bếp, Miên vùng chạy ra:
- Dì, dì ơi... Dì ngủ lại với cháu...
- Thôi, để dì về...
Và rất nhanh, bóng bà chìm trong đêm tối.
Bôn thầm hớn hở: Giờ chỉ còn Miên với anh trong ngôi nhà này và như thế, mọi chuyện sẽ dễ dàng hơn. Mùi thơm hăng ngái của nồi nước lá làm không gian như nóng sực lên, tựa mùi tóc đàn bà trộn lẫn mùi giường chiếu gối chăn, mùi những đêm xuân và những cánh hoa ngọc lan héo dần trong túi áo...
Nước được rồi. Anh đi tắm.
Miên đã bưng nồi nước vào phòng tắm. Chị đặt thêm cây đèn rồi lên nhà trên vào buồng. Bôn nghe tiếng then cài cửa buồng và con chốt vang lên khô khốc. Một cảm giác nửa hẫng hụt nửa buồn tủi len vào tâm hồn anh. Nhưng anh cúi xuống chiếc ba-lô dưới chân, rút ra bộ quần áo thu đông còn khá mới, cùng chiếc quần đùi phin trắng vừa mua trên sân ga Nha Trang, rồi đi xuống phòng tắm.
Cây đèn rọi sáng căn phòng rộng chừng sáu thước vuông, quét vôi trắng.
Rộng gần bằng gian buồng của ta ngày xưa, nhưng cao hơn và có trần...
Bôn nghĩ. Anh ngửa mặt nhìn trần nhà phẳng lì quét vôi trắng lốp, không vết ố nhỏ hoặc màng nhện chăng. Sạch và sang trọng quá. Trước đây khi cưới Miên, anh đã đón chị về gian buồng tồi tàn của mình. Cha mẹ anh để lại ba gian nhà gạch xây mộc, tường không trát vữa, trên lợp lá gồi. Một tấm liếp tre dán giấy báo cũ ngăn đôi giang sơn. Ngày cưới Miên, đám trai làng dán đầy những chữ Hỉ bằng giấy đỏ và những đôi chim câu lên tấm liếp ấy.
So với gian buồng cũ phòng tắm của em sang trọng hơn nhiều. Em đã sống một cuộc sống khác xưa. Cuộc sống ấy tôi biết không bao giờ chạm tới?
Ý nghĩ đó khiến Bôn bủn rủn chân tay... Gian buồng cũ, cái thiên đường nhỏ bé của riêng anh chỉ rộng hơn phòng tắm này chút ít, kê vừa chiếc giường đôi với chiếc kệ gỗ trên đó chất chồng những thúng đựng bắp đựng lạc, đựng ớt khô. Góc buồng là chum gạo. Trên nắp chum, đặt chiếc giỏ mây của Miên, nơi cất giữ tư trang của người đàn bà trẻ. Bôn vẫn thường lục lọi chiếc giỏ mây đó, xem những tấm mù soa thêu, sổ tay Miên chép bài hát và dán ảnh. Có một lọn tóc của Sương, em gái Miên. Con quay gỗ của An, em trai út. Mấy chiếc cặp tóc và vài sợi len đỏ... Căn buồng nghèo nàn, tường gồ ghề gạch vữa ấy từng là thế giới thần tiên của anh. Vào thời khắc yêu đương, vệt nắng lọt qua khe cửa hay ánh trăng rọi từ lỗ thủng mái gianh đều là ánh sáng thiên đường... Giờ đây, trong căn phòng tắm sạch sẽ thơm tho này, anh hồi nhớ cảnh cũ, nhớ những hình cắt lòe loẹt dán trên lớp giấy báo ố vàng, nhớ cái màn cuốn như vó tôm trên chiếc giường gỗ mộc, trên đó bụi, mủn lá rụng, màng nhện xác thiêu thân cũng những con cuốn chiếu đọng đầy....
Liệu ta có đủ can đảm đưa Miên về sống lại trong gian buồng cũ hay chăng?
Anh nghĩ. Và không còn dám nghĩ tiếp. Óc não anh quay đảo. Một cơn gió đẩy cánh cửa gỗ khiến anh hoảng hồn. Anh vội quay lại gài chốt cửa. Cánh cửa gỗ gụ đánh véc-ni bóng nhẫy khiến phòng tắm này mang dầy nét thôn dã. Nếu ở thành phố, hẳn người ta đã dùng cửa nhôm hoặc nhựa sáng màu. Nhưng đây là miền thôn dã, và dân giàu có ưa dùng đồ gỗ. Phần còn lại, hoàn toàn giống các phòng tắm sang trọng trong khu nhà ban chỉ huy quân đoàn ở: Thay vì sợi dây sát tường để vắt quần áo là hai hàng giá móc bằng thép không rỉ. Thay vì chum nước đặt góc buồng là một vòi nước lớn bằng đồng gắn hẳn vào tường, ăn thông ra bể chứa nước lớn phía sau. Một thau men mới tinh và chiếc khăn mặt còn nguyên nước hồ chưa giặt. Trên bức tường đối diện với nơi gắn vòi nước, treo tấm gương hình bầu dục, phía dưới gắn một hộp gỗ dài đựng bàn chải, thuốc đánh răng và vài bánh xà-phòng thơm. Bôn treo quần áo lên móc, chợt nhìn thấy một chiếc quần đùi. Tim anh thót nảy lên:
Chắc chắn đây là quần của người ấy...
Miên vô tình không thu cất. Nghe nói anh ta xuống thuyền đã vài hôm, đưa tiêu vào Ðà Nẵng bán. Chiếc quần đùi bằng hàng len màu xám viền sọc đỏ. Nó hút lấy mắt Bôn. Bởi anh đã trót treo chiếc quần đùi vải phim của mình bên cạnh. Sự khác biệt giữa hai đồ vật tố cáo một cuộc so đo không ngang sức, một tỉ thí bất ngờ không định trước mà trong cuộc tỉ thí ấy thắng bại đã được ấn định từ khi các đấu thủ chưa kịp ra đòn.
Bôn đứng lặng, trân trân nhìn chiếc quần đùi của tình địch như con bệnh tâm thần rồi khoảng khắc sau, không nén được lòng anh giơ tay kéo nó xuống. Lớp vải dệt mềm mại chạm vào da anh những đường chỉ may khéo léo đập vào mắt anh. Bôn thọc hai bàn tay vào hai ống quần, giằng rộng ra xem kích cỡ người mặc. Anh biết hai bắp đùi người đàn ông này rất lớn. Bộ mông anh ta ít nhất cũng to gấp ba lần bộ mông teo tóp rúm ró của anh. Và cùng với bộ mông và cặp đùi ấy anh hình dung đến bộ phận truyền giống của đối thủ:
Khốn nạn, khốn nạn thật... Tại sao mình lại làm cái trò khốn nạn này cơ chứ?
Anh chửi rủa mình. Nhưng óc não anh lại hiện về khung cảnh những phiên chợ xưa, khi anh còn bé tẻo teo. Trong các phiên chợ ấy, người ta mua trâu bò, heo giống, chó mèo giống... Khách thò tay nắn bóp hạ bộ con vật, xem hai hạt tinh hoàn của nó cân hay lệch, mềm hay rắn, nây tròn hay méo lép... Rồi họ xoạc gang tay đo chiều dài dương vật...
Khốn nạn, khốn nạn, khốn nạn, cớ sao mình lại nhớ đến những cảnh chết tiệt ấy?
Bôn đau đớn nghĩ rằng chính anh vừa so đo, nắm bóp kiểm soát mình như khách mua kiểm soát một con vật làm giống: Thôi đi thôi ngay cái trò đê tiện ấy đi.
Nhưng anh không thôi ngay được. Treo chiếc quần đùi của người đàn ông vắng mặt lên móc, anh vẫn phải đưa mắt liếc qua chiếc quần đùi phin trắng của mình. Nó là thứ đồ rẻ tiền người ta vẫn bày bán trên các vỉa hè bụi bặm, dưới chân khách bộ hành. Nó được cắt bằng những nhát kéo xiên xẹo vụng về, thứ vải phin qua một mùa là rách, những đường chỉ láo liên mũi dài tới hai ly. Thôi đi, thôi đi, thôi đi...
Bôn quát lên như để trấn áp một con vật đau đớn tủi hổ hèn nhát nào đó vừa trỗi dậy trong lòng, hòng kéo anh xuống vực thẳm của thất bại. Anh mở vung nồi nước lá. Làn hơi xông thẳng vào mặt anh bỏng rát. Nhưng cảm giác đó lại khiến anh tỉnh táo và làm vơi nhẹ tâm hồn. Anh giơ cao hai cánh tay, nhắm mắt để hơi nước trùm phủ toàn thân, luồn qua hai nách, mùi thơm của hương nhu lá sả cúc tần xoa dịu trái tim đau đớn của anh thấm đẫm thịt da anh tẩy rửa đi mọi đắng cay mệt nhọc....
Chương 3
Trăng càng đêm càng ngời trên các vòm cây.
Sau mưa, những phiến lá trơn bóng như những mảnh gương nhỏ bằng đồng. Chúng phản chiếu ánh trăng nhân lên hàng vạn đốm lửa xanh rắc lổ đổ khắp nơi khiến vườn đêm xao động. Miên chăm chăm nhìn vườn cây ngoài khuôn cửa. Bóng lá lẫn ánh trăng nô rỡn tạo nên những hình thù kỳ bí. Một lũ đom đóm đuổi nhau, chui luồn qua kẽ lá. Những viền sáng bất chợt hắt lên khi ngọn gió thổi qua... Vườn của chị, nhưng chưa lần nào chị để mắt tới một cách kỹ lưỡng. Ðêm nay là lần đầu. Bởi chị sắp lìa xa.
Miên biết chị sắp phải rời ngôi nhà thênh thang này, vườn cây thênh thang này trở về gian nhà cũ nát của Bôn, nơi mười bốn năm qua chị chưa một lần ghé mắt. Gia sản của Bôn chỉ có vậy và một khi quay lại sống với anh chị phải chấp thuận cái phần hẩm hiu số phận đã dành cho mình. Lúc đun nồi nước tẩy trần cho Bôn, chị nhìn những tàn than tung bay trên ngọn lửa tự hỏi mình một trăm lần vì sao đã quyết định quay lại sống với người chồng cũ. Một trăm lần, câu trả lời bật lên tức khắc, không đắn đo không ngập ngừng: Ta phải quay về, không có con đường nào khác.
Ý nghĩ đó đã bật ra ngay sau lời tuyên bố của ông chủ tịch. Ông xách cặp quay ra sân, tấm lưng ông bỗng biến thành bản cáo thị, trên đó chạy chi chít những dòng chữ đen xì. Những con chữ tựa hồ những chiếc móc sắt nối vào nhau. Và bên dưới in hình con triện. Con triện ấy tròn hay vuông, Miên không định nổi. Chị chỉ biết rằng tấm cáo thị kia đã chỉ định phần đời phía trước của chị. Và con triện kia là dấu hiệu của quyền uy, của mệnh lệnh không ai được phép cưỡng.
Ðã mấy lần trái tim ương bướng của chị lên tiếng:
Rõ ràng tấm cáo thị đó là do trí tưởng tượng đặt bày. Chẳng ai ra lệnh cho ta. Cũng chẳng ai có quyền xui khiến ta rời bỏ cuộc sống ấm êm này. Cuộc hôn nhân giữa Hoan và ta được cả trời lẫn người chấp nhận...
Lần nào cũng có tiếng đáp tức thì:
Cuộc hôn nhân thứ nhất cũng được trời và người chấp nhận. Thêm nữa, trời đã tạo ra sự dở dang trời sẽ lại lấp đầy. Người được cuộc sẽ là kẻ từ mặt trận quay về. Cứ nhìn vào mắt đám đông vây quanh ta là thấy...
Ngồi trước bếp lửa nhưng Miên lạnh toát. Mồ hôi thoát đầy hai bả vai chảy theo rãnh lưng. Chị ngỡ mình bị nhấn chìm dưới dòng nước. Không con thuyền lai vãng. Không mảnh ván trôi. Trong cơn tuyệt vọng ấy trái tim nhỏ bé của chị vẫn nhắc chị rằng chị đã thuộc về người chồng thứ hai, cả tâm hồn cùng thân xác, rằng chị sẽ chẳng bao giờ có được hạnh phúc nếu rời bỏ anh, rằng anh là người đàn ông tài ba và cao thượng, may mắn lắm chị mới gặp được anh trên cõi đời và lìa xa anh là hành động điên rồ hay ngu xuẩn... Miên biết những gì trái tim chị mách bảo đều là sự thật. Nhưng trái tim chị quá nhỏ bé. Nhỏ bé và lẻ loi. Nó đơn độc, dai dẳng tuyệt vọng trong cái góc cỏn con của cõi đời. Phần còn lại, không gian bao la kia thuộc về những kẻ khác. Trên phần đất mênh mông ấy, trùng điệp người. Ức triệu người. Những người lính xếp thành đội ngũ rùng rùng chuyển động dưới lớp lá ngụy trang. Những tổ tiên xa xưa của chị, người quần vải áo lĩnh người váy sồi áo đũi, người xách ô kẻ vấn khăn... đi thành đám như trẩy hội. Giữa hai đám người ấy là những kẻ cùng thời: chủ tịch xã bận sơ-mi trắng, bí thư đảng ủy vận áo sọc bỏ ngoài quần lính bạc màu, lũ trẻ choai choai mặc áo dệt kim in hoa lòe loẹt. Ðám đàn bà xóm Núi vẫn mặc bộ đồ đồng màu như thường nhật. Và tất thảy đều hướng cặp mắt soi mói về phía chị:
Thế nào, chị không bỏ rơi người anh em của chúng tôi chứ? Chúng tôi đi giết giặc. Tuổi xuân của chúng tôi mòn mỏi, máu chúng tôi đổ xuống, thân xác chúng tôi vùi dưới đất và khắp mọi miền cỏ cây xanh tốt nhờ thịt xương chúng tôi rữa nát trong đất đen... Những kẻ may mắn quay về không lẽ bị chính người thân ruồng rẫy?
Những người lính lên tiếng trước tiên. Bởi họ đi thành hàng trùng trùng điệp điệp, tiếng nói của họ được lặp đi lặp lại như chúng vọng qua ngàn vạn hang sâu:
Nào, người đàn bà xinh đẹp, hãy trả lời đi, chị không cắt phần hạnh phúc người đồng đội của chúng tôi chứ?
Người lính già ở hàng đầu tiên ngẩng lên nhìn Miên, mắt anh ta bắn thẳng vào mặt chị những tia lửa bỏng rát, giọng nói nửa như chòng ghẹo nửa như huấn lệnh.
Rồi nheo mắt thay cho một lời chào, anh ta tiếp tục bước, gương mặt lấp dưới vầng lá ngụy trang. Người thứ hai ngẩng lên nhắc lại câu hỏi cũ. Người thứ hai ngừng lời, tiếp đến người thứ ba. Rồi người thứ tư, thứ năm. Hai người tiếp theo lần này là hai người lính già râu ria tua tủa giọng nói dữ dằn vang ồm ồm như tiếng sấm khan... Ðoàn quân rùng rùng bước. Những người lính không ngớt lập đi lập lại câu hỏi. Cái điệp khúc ghê rợn không mệt mỏi ấy hòa nhịp quân hành xoáy vào óc não Miên. Miên bủn rủn chân tay. Những ánh mắt lạnh buốt của họ vừa cảnh cáo vừa hứa hẹn sự trừng phạt. Miên không thể cất lời, không thể bịt chặt lỗ tai, không thể né tránh ánh mắt gươm dao của những hồn ma oan nghiệt chưa từ bỏ lòng khát khao trần thế giờ đây trút lên vai chị tất cả cừu thù của những cơn nuối tiếc chưa nguôi. Họ vẫn rùng rùng bước đi trong cuộc hành quân bất tận. Lời họ nối nhau vang rền trong nhịp trống âm u tàn khốc, nhịp trống chờ đợi chị, kẻ tội phạm bước ra pháp trường.
Ngọn lửa bếp nhảy nhót trước mặt Miên. Chị nhìn thấy trong ngọn lửa ấy, hình ảnh của những ngọn lửa thiêu phạm nhân thời xưa cũ, và phía sau ngọn lửa trừng phạt đó, sừng sững những pháp đình xưa cũ, những pháp đình được dựng nên trong những hoàng hôn thời ly loạn và trong những Mùa Ðông đầu tiên của loài người, khi họ vừa biết nhóm lửa biết sống tụ thành đoàn trong các hang đá lớn.
Khi các đoàn quân xa khuất, đám người cổ xưa đủng đỉnh tiến đến. Khăn the áo lĩnh, váy chùng sát đất, êm nhẹ sẽ sàng. Ống tay áo rộng phất phơ của họ vẫy trong không gian những bóng sáng mờ ảo xen màu tím chết và màu đen, ánh mờ trắng giao thoa một rạng đông phôi thai với một đêm rừng tàn úa. Ðám người đó tiến đến gần chị, đường bệ uy nghi, thủng thẳng buông lời:
Thế nào, con suy tính kĩ chưa? Phận làm người phải biết quên thân vì nghĩa. Người đàn bà đoan trang trước tiên hãy học chữ nén lòng. Làm theo lẽ phải khó khăn lắm, nhưng cần biết theo lẽ phải. Trời đã sinh ra người đàn bà để làm cây cột cái đỡ mái nhà, truyền nhân tính và giáo lí cho thế hệ sau qua dòng sữa. Người đàn bà không biết đến đức hy sinh, lòng cao thượng, không giữ đức hạnh cho tôn nghiêm không thể làm tròn chức phận của mình.
Các bà già không nhau trầu, lặng lẽ nghe các ông già răn dạy, rồi họ kéo vạt áo tứ thân một cách nhẹ nhàng đường bệ quay lưng bước đi. Những ông già khô đét, mắt long lanh, giọng chậm rãi âm u, thả mỗi lời như thả một con chim sầu buồn băng giá. Nói xong, họ chống ô bước về góc trời mù sương phía đông. Lời họ nói, giống như những con chim u sầu đập cánh trong hang đá, khiến các vách đá truyền mãi những âm thanh huyền bí đầy quyền năng...
Ðoàn người cổ xưa trôi dạt như mây nơi chân trời, những mép quần vải trắng của các cụ ông xen mớ váy lĩnh đen nhức của các cụ bà tạo thành bức ảnh trắng đen chuyển động. Giờ tới lượt của những kẻ cùng thời. Họ ào tới vây quanh chị như sóng bủa vây từ bốn phía. Cả những kẻ gần gũi lẫn những người quen biết sơ sài. Mọi gương mặt, mọi ánh mắt bỗng dưng trở nên lạnh lùng, nghiệt ngã. Miên kinh hãi khi thấy những kẻ bình thường vẫn lui tới nhà chị, khi xin viên thuốc kháng sinh cho đứa con viêm phổi, khi xin mật ong cho bà mẹ ngậm ho, khi nhờ chị cho mượn chiếc máy bơm tưới nương, khi lân la vay tiền đi chợ... Những kẻ thường nhật tỏ ra thân tình hoặc quỵ lụy bỗng dưng có bộ mặt quan tòa. Dường như việc Bôn trở về đã cho phép họ thay đổi ngôi bậc. Giờ đây chị là người chịu sự phán quyết của họ, người đàn bà giàu sang nhất xóm Núi bỗng sa cơ, biến thành kẻ đứng trước vành móng ngựa của tòa án lương tâm:
Thế nào, chị đã hiểu phận sự của mình rồi chứ? Hay cuộc sống giàu sang đã khiến chị tối tăm mắt mũi, khiến chị quay lưng lại với người chồng thuở hàn vi? Ðừng quên rằng tất thảy mọi gia đình trên dải đất Việt Nam đều có người ra trận, số phận của Bôn cũng là số phận chung của những người trai đã hy sinh tuổi trẻ nơi trận mạc, đã lãnh phần thua thiệt cho kẻ khác an hưởng thanh bình. Trong nỗi mất mát của anh ấy có một phần đau khổ của thân nhân chúng tôi. Chúng tôi đứng về phía Bôn.
Phải, họ không nói ra lời chi cũng biết họ đứng về phía Bôn. Tất cả. Ðám người quây lấy chị vòng trong vòng ngoài, từ ngõ đến sân, từ sân vào trong nhà... Tất cả nhìn chị hau háu. Ánh mắt họ giống những mũi tên bịt sắt chọc thủng lớp da mặt chị, khoan xoáy vào thớ thịt. Miên chợt nhớ lần nào đó, chị quan sát con chó săn của ông già hàng xóm rình mồi suốt buổi sáng. Lần ấy chị xiết bao kinh ngạc, và chị đã thán phục sự kiên trì quyết liệt của con vật. Giờ đây, chị thấy ánh mắt nó giống hệt ánh mắt của những kẻ đang vây quanh mình. Cũng những tia sáng bắn tóe lên, háo hức, chăm chú, không lơi lỏng một giây, cũng vẻ bồn chồn dai dẳng, sự tàn nhẫn và khoái cảm đợi chờ... Niềm khoái cảm của những kẻ chăng lưới, chờ con mồi sa bẫy...
Sẽ không còn con đường nào khác.
Số phận giơ tay bỏ phiếu cho Bôn. Chị sẽ chết nếu chống lại phán quyết của định mệnh. Phải quay lại với Bôn, sống cuộc sống vợ chồng chắp nối mối tình nguội lạnh phôi pha, mối tình giống như một hồn ma chỉ lai vãng quanh mộ chí:
Ngày xưa, ngày xưa ta đã sống cuộc sống vợ chồng với Bôn ra sao nhỉ? Ðã có một trưa hè oi nóng, đám con gái xóm Núi chòng ghẹo ta và Bôn tới...
Chị nhớ rặng phượng vĩ chạy theo bìa đồi, trên lối vào rừng. Rặng phượng trổ hoa suốt mùa hè, đỏ hung hãn một trời lửa đỏ. Hồi ấy Miên gầy bé yếu ớt. Một lần đi kiếm củi, đám bạn xô chị xuống khúc suối sâu rồi bỏ chạy. Cô nào cô nấy gánh gánh củi trên vai, vừa chạy vừa cười như nắc nẻ:
- Miên ơi, cố lội lên mai tao cho nắm bỏng rang.
- Miên ơi, bơi chó mà vào mai tao dạy bơi kiểu ếch...
Các bạn Miên không hiểu trò đùa tai ác của họ đã bẻ quặt đời chị sang lối rẽ không lường định. Miên vốn không biết bơi. Kẻ nào không biết bơi cũng sợ nước. Thuở nhỏ, cha chị thường dẫn chị tới con hồ Trăng Nguyền cách nơi họ ở vài quãng đồng. Ông dạy Miên bơi bằng đủ cách: Ném xuống nước, buộc dây bụng, cho chuồn chuồn cắn rốn, cột lưng vào thuyền... Miên vẫn không học nổi. Có lẽ năm bảy kiếp trước chị từng là loài thủy quái bị đầy ải ngàn năm dằng dặc dưới biển sâu nên khi trở thành người chị không còn muốn nhìn lại nơi tiền oan nghiệp chướng...
Bố Miên dạy mãi không xong, đành thở dài bảo mẹ chị:
- Con bé này hẳn sẽ sống trọn đời miền sơn cước.
Vài năm sau ông qua đời. Ðiều tiên cảm của ông đã thành sự thực Miên đưa các em về sống với dì Huyên nơi xóm Núi. Chị không ngờ rằng ngay nơi miền sơn cước chị cũng phải đối mặt với dòng nước, sự hiểm nguy và nỗi lo âu thường trực theo suốt cuộc đời những kẻ không biết bơi.
Lần ấy đám bạn Miên tưởng chị sẽ lóp ngóp lội vào bờ và hôm sau cả bọn được mẻ cười rũ rượi. Nhưng Miên đã trượt chân, sa xuống lòng suối. Khúc suối không quá sâu nhưng có rất nhiều tảng đá rêu phủ trơn nhầy. Từ tảng đá này trượt xuống tảng đá kia, càng trượt càng xa bờ và càng uống no bụng nước. Miên thu hết can đảm sờ soạng lối lên. Nhưng nước đã xộc lên sống mũi, óc chị choáng váng và mắt nảy hoa cà hoa cải... Chị không thể cất tiếng kêu bởi làn nước đã dềnh lên sống mũi. Chị ngỡ chị sắp sửa chìm xuống, chìm mãi mãi... Ðúng lúc ấy, Bôn gánh củi tới. Chàng trai nhảy thoăn thoắt qua bãi đá, lội xuống kéo Miên lên. Ðến bờ, một lúc lâu Miên mới hết cơn choáng váng. Bôn bảo chị cách nhảy lò cò nghiêng tai cho nước chảy ra, cách bịt mũi thở mạnh để tống hết nước còn đọng trong đường hô hấp, cách xoa nóng hai thái dương và sống mũi để tránh cơn cảm lạnh. Hai người ngồi ven suối đến non chiều Miên mới hoàn hồn. Lúc đó, Bôn cười:
- Ấy sợ quá hả?
- Sợ.
- Ðể mai tớ ghè cho lũ ranh một trận.
- Thôi.
- Tại sao?
- Tôi chẳng muốn mua thù chuốc oán...
Quần áo Miên đã se, chị bảo:
- Về đi.
Họ đứng lên. Mắt Bôn nhìn chằm chằm vào khoảng da cổ của chị:
- Ấy trắng gớm nhỉ?
- Trắng gì mà trắng?
- Trắng thật đấy, nõn như bông... Cả cổ tay cũng trắng như bông.
Tới đó, Bôn ngâm nga một câu ca dao quen thuộc:
Nói rồi anh nắm cổ tay
Ai nặn nên trắng, ai xây nên tròn.
- Ðằng ấy có bằng lòng cho tớ nắm cổ tay không?
Miên nóng bừng mặt, chị lặng thinh. Bôn đưa ánh mắt xuống, nơi cặp vú dậy thì của Miên phập phồng dưới làn áo ướt.
Cuộc tình của họ bắt đầu từ buổi chiều ấy. Những ngày sau đó ra sao chị không còn nhớ rõ... Họ đã hẹn nhau nhiều lần dưới gốc cây phượng vĩ cuối đồi. Con đường làng đầy cỏ leo, hai bên là đồi dứa. Lúc phượng nở cũng là mùa dứa chín. Lần nào Bôn cũng ngửi hít khoảng da cổ trắng nõn của Miên như con lợn háu ăn sục mũi vào máng cám. Anh giục cưới. Dì Huyên không thích Bôn nhưng cũng chấp thuận. Hai người bằng tuổi nhau nên Bôn bắt Miên thề sau đám cưới phải gọi Bôn là anh...
Ðám cưới thời chiến, giống nghĩa vụ hoặc món quà của dân làng tặng cho các chàng trai trước ngày anh ta ra trận...
"Ngày mai anh lên đường, ngày mai anh ra chiến trường..." Câu hát ấy cất leo lẻo trên miệng đám đàn bà con gái, dù còn son hay đã tới tuổi nạ dòng. Chủ hôn do ủy ban chỉ định. Nam thanh gồm các thiếu niên mười bốn, mười lăm. Nữ tú kéo từ tuổi mười bảy tới ba lăm, tất cả áo xống gọn gàng, đầu con trai chải mượt, tóc con gái gài hoa. Chú rể Bôn là chàng trai mười bảy tuổi duy nhất còn lại trong xã, sau đám cưới bốn mươi hai ngày anh sẽ tòng quân...
Rồi ta đã sống ra sao sau đám cưới sơ sài ấy? Ta chẳng còn nhớ. Ta đã rời căn buồng của Bôn ngay sau ngày anh ấy lên đường. Ta ghê sợ cảnh sống bê tha của Tá... Ngoài ra, không còn chút kỷ niệm nào. Trí nhớ ta mịt mù như khói đốt nương...
Miên lục vấn, truy tìm quá khứ. Nhưng ngoài lần bị xô xuống suối và màu hoa phượng đỏ, Bôn chẳng còn để lại trong tim chị tình cảm nào sâu đậm hơn. Kỷ niệm cũ quá mong manh, quá xa vời, tựa cây đa trên bến đò cũ. Bến đò ở tít thượng nguồn. Con thuyền đời chị xuôi theo dòng nước, qua sông, ra biển...
Người đàn bà vươn tay qua song cửa, vít một cành cam. Cành lá ướt sương, mát lạnh. Vườn cam này chị nhớ từng gốc được vạch vôi đánh số. Giống Bố Hạ đưa vào từ miền Bắc, giống Miến Ðiện gửi mua từ hải cảng miền Nam. Mồ hôi, tiền bạc, và ước mộng của vợ chồng chị. Như ngôi nhà, như nương tiêu, nương cà-phê, trải khắp các khu đồi chung quanh, như bể nước mưa sau bếp, như cái giếng khoan trong veo trong vắt, như rặng mẫu đơn và thạch thảo trước sân, như gốc dạ lan hương nơi góc vườn, và những cây mộc sát mé tường hoa bên trái... Tất thảy đều ghi nhận một cuộc sống chung mặn nồng, tất cả đều là dấu vết của tình ái lẫn hy vọng...
Vì sao, vì sao số phận du đẩy ta đến cảnh trớ trêu này? Ta chưa từng ác độc với ai, chẳng biết dối lừa, cũng không tham lam kiếm chác trên lưng người khác?
Miên rên rỉ. Biết rằng chẳng ai trả lời chị. Chị sắp phải từ bỏ cuộc sống ấm nồng này để bơi ngược dòng sông, tìm lại một bóng hình mờ ảo, tìm tro tàn của mối tình cũ, tìm gốc đa già trên bến nước mười bốn năm xưa. Chị biết chị sẽ chìm nghỉm dưới dòng sông ấy, nhưng vẫn phải liều thân nhảy xuống, phải cam chịu điều số phận đã đặt bày:
Có lẽ kiếp trước ta có nợ với Bôn, và kiếp này chưa trả hết...
Chương 4
Quãng chín giờ tối, trăng vàng rực rọi qua song cửa chiếu thẳng vào mặt Bôn. Trăng sáng quá khiến anh phải mở choàng mắt dẫu rằng anh vẫn nhắm để đấy chứ chưa hề ngủ. Trăng sáng lạ như mọc dậy một rạng đông giữa đêm đen. Bôn khoanh tay gối đầu nhìn. Tay anh áp xuống mặt gỗ trơn lì, mát như thạch. Tấm phản Bôn nằm đóng bằng loại gỗ tứ thiết, mặt phản nhẵn tới mức tưởng đó không còn là gỗ mà là đồ sứ hoặc huyền thạch phiến đem mài. Ánh trăng rọi vào những hình chạm cẩn xà cừ nơi góc. Mỗi chi tiết của hình chạm đều sống động, từ chùm nho tới đóa cúc, từ con ly tới con phụng... Ánh tím, màu hồng nhạt và màu vỏ trứng thay nhau hắt lên những tia phản quang mờ ảo. Thứ xà cừ vỏ ốc này đắt lắm, anh biết thế. Anh mới được nhìn thấy đôi lần trong thành phố Sài-gòn. Anh tự nhủ:
Sang hay hèn nó cũng chỉ là tấm phản để ngả lưng. Khi yêu nhau người ta ngủ trong ổ rơm cũng thấy hạnh phúc.
Cảm giác mát lạnh từ mặt gỗ trơn bóng truyền vào da thịt anh, nhưng là thứ mát mẻ gai góc.
Trong buồng, Miên thu dọn vật gì đó. Hình như chị gấp quần áo. Nghe tiếng cửa tủ kẹt ra kẹt vô mấy lượt. Hình như chị còn lục soát hòm xiểng, có tiếng vật nặng rơi, cũng lại có tiếng sột soạt của giấy tờ. Bôn không dám gọi, cũng không dám gõ cửa. Ðó là căn buồng của người đàn ông kia, nơi Miên ái ân với anh ta nơi đứa con trai năm tuổi của họ đang ngủ. Ðã nhiều lần anh xua đuổi ý nghĩ đó, nhưng nó vòng trở lại khiến ruột anh quặn đau như những lúc bị kiết lị hành.
- Ta cũng đã ngủ với những người đàn bà khác,... Cớ sao quanh quẩn ghen tuông?
- Không, không thể so sánh như vậy. Không thể so những bữa ăn đầy cao lương mĩ vị với miếng ăn sống sít dọc đường hằng lấp đầy cơn đói. Ðó chẳng qua như củ khoai hà, khoai thối mót sau mùa.
- Phải. Cứ cho là như thế. Nhưng Miên không có lỗi.
- Cô ấy không có lỗi nhưng cô ấy đã được quyền chọn và được sống theo ý muốn của mình. Cô ấy đã được thụ hưởng tất thảy những gì người đàn bà thèm muốn... Cô ấy đã hạnh phúc với người đàn ông kia. Không hề khốn khổ như ta...
- Anh đã ghen tị với một người đàn bà, lại là người anh yêu... Liệu anh có còn xứng là đàn ông chăng, chưa nói tới một người lính?
- Tôi bất cần là người đàn ông xứng đáng, cũng chẳng cần được tặng danh hiệu người lính chân chính... Tôi là một người bình thường. Tôi muốn được phần cơm gạo của tôi. Tôi đã từng là chồng Miên. Sao giờ đây tôi phải chịu khốn khổ như vầy?
- Mọi oán trách đều vô lý và vô nghĩa. Vợ anh chẳng có lỗi trong chuyện này.
- Tôi biết, Miên không có lỗi. Nhưng vì sao lúc này cô ấy không lấp đầy khoảng trống trong tôi? Cô ấy không san sẻ nỗi cô đơn dằng dặc mười bốn năm trời riêng tôi gánh chịu? Bưng mâm cơm lên, cô ấy khêu đèn để tôi ngồi ăn một mình rồi đi gội đầu hong tóc. Chờ tóc khô cô ấy chui tọt vào cửa buồng với đứa con trai khóa trái cửa lại... Cô ấy không muốn đối diện với tôi. Tôi là kẻ thừa ra trên cõi đời...
Sau những cơn dày vò như thể một thứ muối vừa chát vừa mặn đọng trong tâm hồn anh.
Trăng vẫn sáng vòm trời lắng mây trong như thủy tinh. Tiếng vỗ cánh của lũ chim vườn vọng vào. Sau đó, lại là sự yên tĩnh.
Miên ngủ rồi chăng? Sao chị nỡ đối xử với anh cạn tàu ráo máng? Dầu sao họ cũng từng chia sẻ gối chăn. Mười bốn năm, bao tháng ngày mong nhớ. Anh kẻ thèm khát trường niên nay đứng bên dòng suối mà không dám nhúng môi.
Hay cô ấy mệt quá nên ngủ thiếp đi? Ðàn bà con trẻ thường ngủ sau cơn no khóc.
Anh nằm cứng đơ trên phản, hai tay chắp lên bụng. Riêng đôi tai dỏng lên hết cỡ đón nghe từng tiếng động nhỏ nhặt nhất bên kia bức tường. Gian phòng lặng tờ chỉ con lắc đồng hồ gõ nhịp. Bôn tiếp tục nhìn mảnh trăng dãi trên ngực trên bụng mình tựa hồ từ khoảng sáng đó có một cơ may nào đấy sẽ nảy lên. Nhưng chẳng có gì, ngoại trừ tiếng côn trùng, càng về đêm càng hòa tấu một cách say sưa, suồng sã.
Chừng nửa giờ sau, thằng bé ú ớ nói mê và ê a khóc. Miên cất tiếng:
- A a... ngủ ngoan, ngủ ngoan nào...
Người mẹ vỗ về rồi cất tiếng ru:
Bao giờ cạn phá Tam giang...
Giọng trong trẻo, nhẹ nhàng.
Vậy là cô ấy chưa ngủ. Cô ấy ôm chặt đứa con trai, chẳng đoái hoài tới ta. Ta như kẻ bộ hành tới đây xin bữa ăn, ngủ nhờ góc phản.
Bôn ngồi phắt dậy. Cơn nhục nhã làm máu dồn lên mặt. Anh đột ngột xông tới, gõ cửa buồng:
- Miên... Miên... Ra ngoài này nói chuyện...
Chị không đáp.
Luồng máu uất ức làm mặt Bôn quay đảo. Mắt anh nhìn mọi vật xây xẩm đi. Anh không gõ mà lấy nắm tay đấm vào cánh cửa buồng và gào lên:
- Miên... Miên... Có nghe tôi gọi không?
- Có nghe.
Miên đáp. Giọng bình thản, lạnh tanh. Giọng nói ấy xối nước lạnh xuống cơn điên giận của anh. Bôn đứng chết lặng trước cửa buồng. Giây lát sau, Miên nói tiếp:
- Anh ra ngồi ở bàn nước. Và thắp nến lên.
Bôn nấn ná đứng lại, không thể cưỡng được một thèm muốn mãnh liệt. Anh chờ chị qua cửa, để được đứng gần chị được ngửi mùi da thịt chị được thấy hơi thở chị lướt qua mặt anh...
Nhưng Miên đã lặp lại, lần này giọng chị như gằn lại:
- Anh thắp nến lên.
Mặt Bôn bỏng rát nhưng anh quay lưng tiến về phía bàn nước, đưa tay rờ rẫm tìm bao diêm và sau đó quẹt lửa châm nến. Lúc ấy, có tiếng chìa khóa xoay trong ổ, tiếng con chốt di động, và Miên đẩy cánh cửa buồng bước ra.
- Anh ngồi xuống đi.
Chị nói. Và chị ngồi xuống, đối diện với anh, bên kia bàn. Bôn cũng ngồi, nhưng tâm hồn sôi sục:
Tại sao ta lại hành động theo sự sai khiến của cô ta, như một con rối, hoặc tệ hơn nữa, như thằng ở với bà chủ nhà? Cô ấy có quyền gì buộc ta ngồi?
Vừa chạm xuống mặt ghế, anh lại đứng phắt lên. Và không biết làm gì anh thọc hai tay vào túi quần theo đúng kiểu của tiểu đội trưởng ngày xưa, đi loanh quanh trong phòng. Bôn thấy bóng mình trong gương, trong tấm kính nơi tủ chè, trong các ô kính cửa sổ. Một gã đen gầy, gương mặt sầu muộn. Anh vô tình đi sát lại tấm gương lớn treo tường và ngước mắt lên. Trong gương, một đôi mắt hoảng loạn dưới cặp mày chữ nhất nhìn lại anh.
Thôi đi, thôi đi, hãy ngồi xuống ghế và đừng giở trò gì nữa...
Năm ngọn nến như năm con mắt lửa năm đốm sáng có linh hồn. Chúng nhảy nhót phập phồng múa lượn nên hàng trăm con mắt khác trong các tấm kính, tấm gương và thảy thảy những ly cốc, những đồ vật bằng thủy tinh. Ba gian nhà lộng lẫy và uy nghi như điện thờ còn người đàn bà bận bộ đồ lụa màu lục sẫm ngồi sau chiếc bàn thênh thang bỗng trở thành bà lớn nào đó, quý phái và xa lạ. Bôn nhụt chí nhưng ngay lúc đó, kẻ phẫn uất liều thân trong tâm hồn anh đứng đậy.
Bất kể hoàn cảnh nào cô ấy vẫn chỉ là Miên. Cô gái nhút nhát ta đã kéo lên từ dòng suối, ngưòi đàn bà nằm bên dưới bụng ta không chỉ một lần mà hàng trăm lần. Ta biết rõ nơi vú trái cô ấy có nốt ruồ i son, ta biết rõ...
Anh bước thêm vài bước nữa, cố tình khuỳnh đôi tay ra theo điệu bộ kẻ bất cần đời nhưng rồi tự anh thấy ngượ ng nên đành ngồi xuống, trước mặt chị. Suốt khoảng thời gian đó Miên vẫn khoang tay nhìn vườn cam ngoài cửa sỗ. Khi anh đã ngồi yên một lúc lâu, chị vẫn không quay mặt lại. Làn da trắng hồng ngời lên trong ánh nến. Đuôi mắt phải của Miên có mụn ruồi, trước đây nhỏ và nâu nhạt, giờ nó lớn hơn đen hơn, thành một dấu chấm đen tô điểm cho đôi mắt đen huyền bí, đôi mắt đã ám ảnh anh suốt mười bốn năm dài.
Chờ đợi mãi, Bôn đành hắng giọng nói:
- Nào, Miên nói đi.
Chị vẫn không rời mắt khỏi khuôn cửa vàng rực ánh trăng:
- Anh gọi em ra đây nói chuyện cơ mà... anh nói trước...
Bôn ắng họng:
Phải, cô ấy có lý... chính ta gọi cô ấy ra đây...
Nhưng bắt đầu câu chuyện ra sao, anh chưa biết. Trong lúc óc não anh còn loanh quanh dò lối, cơn khát yêu đương đã dâng đầy. Anh nhìn vào mắt Miên nhưng lại mường tượng đến khoảng trăng sáng nhễ nhại trên phản, nơi anh sẽ lột quần áo chị để được nhìn da thịt trắng ngần của chị và sẽ ái ân ngấu nghiến cho thỏa những năm mong nhớ.
Không kịp trù tính mở đầu câu chuyện cho phải lý, anh bổng cất tiếng dập dồn, hối hả:
- Chúng ta là vợ chồng, chúng ta đã là vợ chồng... tôi không thể...
Nhưng khi nghe chính tiếng mình vang lên trong ba gian nhà Bôn không còn biết nói gì hơn đành cuối mặt ngồi im. Miên không đáp. Dường như chị mệt và chán ngán. Chị vẫn đăm đăm nhìn về khuôn cửa sáng ánh trăng. Khi thiêu thân lao vào làm tắt một ngọn nến chị quẹt diêm châm lại.
Tiếng tích tắc của chiếc đồng hồ treo tườn g vang lên điểm nhịp. Một khoảng khắc rất dài trôi qua. Miên thong thả lên tiếng:
- Mười bốn năm trước anh với em là v ợ chồn g. Giờ đây anh Hoan với em là vợ chồng. Hai việc đó rõ ràng làng xã đều chứng kiến. Em lấy anh có đăng ký, có hôn lễ. Em lấy anh Hoan cũng có dấu chính quyền, cheo cưới đàng hoàng. Bây giờ anh trở về, anh định tính sao?
Giọng chị bình thản, có đôi phần lạnh lẽo và khinh bỉ, anh hiểu rằng chính anh đang bị đặt trước sự lựa chọn của danh dự.
Không, không, ta chẳng cần danh dư. Ta cần được ôm đàn bà ta yêu. Ta cần Miên. Danh dự ư, từ ngữ đó nghe hay ho nhưng quá hão huyền. Không danh dự nào sánh được lạc thú với người đàn bà mình ao ước.
Anh hắng giọng, thấy hai tay bắt đầu run? Cơn run lan truyền khắp toàn thân. Anh hiểu Miên có quyền chọn lựa giữa anh và người chồng hiện tại. Rằng dù làng xã và đạo đức truyền thống có là khối đồng minh vững chắc đứng sau anh, nhưng người quyết định vẫn là Miên. Anh cố nén cơn run rẫy, cất tiếng:
- Anh... tôi yêu Miên... tôi yêu Miên. Suốt ngần ấy năm trời tôi chẳng quên em một ngày... và tôi không hề biết chuyện báo tử.
Đó không phải một câu trả lời. Đó là lời van nài, cầu khấn. Một thứ dãi bày đơn phương bất kể hồi âm. Bôn biết điều anh đã làm giống như kẻ đi nước cờ sau chót.
Miên im lặng.
Trong tâm hồn nhục nhã của anh, những tiếng nói vang lên chồng chéo, hỗn loạn:
- Can đảm lên anh lính. Vào tình cảnh của anh người khác đã bỏ đi. Dưới vòm trời này bất cứ nơi đâu cũng có thể kiếm được một miếng cơm, tìm được một người đàn bà trong danh dự. Cớ sao anh không thể hành động như một bậc trượng phu?
- Không, không, tôi bất cần những kẻ trượg phu và tôi cũng chẳng thể hành xử như họ. Bởi họ còn có cơ làm lại cuộc đời, tôi thì không. Người đàn bà này là tất cả nhừng gì tôi còn lại trên đời. Tôi phải có được cô ấy bằng mọi giá.
- Nhưng người ta đã có chồng đã sống cuộc sống êm ấm. Anh không thể phá vỡ ngôi nhà cô ta đang nương náu.
- Chúng tôi sẽ xây ngôi nhà khác. Tôi còn trẻ, tôi và Miên bằng tuổi nhau, với thời gian chúng tôi sẽ có tất cả...
- Anh có ảo tượng không? Cô ấy đang sống trong dinh cơ lớn nhất vùng. Nương vườn của cô ấy lớn cỡ đầu tỉnh. Liệu anh đào đâu ra ngần ấy tài sản để đảm bảo cho cô ấy cuộc sống như người đàn ông kia?
- Nếu tôi không đi lính, trong mười bốn năm qua tôi cũng có thể tạo dựng cuộc đời tôi như người đàn ông khác. Tôi có sức lực. Tôi có chữ. Tôi cũng có tấm bằng phổ thông trung học như anh ta. Tôi yêu Miên và tình yêu sẽ giúp tôi vượt qua mọi thử thách.
- Có thể. Nhưng nếu cô ấy không còn yêu anh nữa?
Đến đây, Bôn không dám tiếp tục cuộc đối thoại.
Linh tính mách bảo anh rằng Miên đã thuộc về người đàn ông khác nhưng con tim anh không thú nhận điều đó. "
Ta trẻ hơn anh ta bảy tuổi, và tuổi trẻ là thứ của cải vô giá, tiền bạc không mua được. Đám đông đứng sau lưng ta. Họ không giơ tay ủng hộ cái gã trơn lông đỏ da, kẻ thụ hưởng quá nhiều may mắn. Lòng đố kị ngầm ẩn sẽ trở thành đồng minh đắc lực của ta trong lúc này.
Quả thực con tim si mê của anh đã tìm được ưu thế. Lòng đố kị là bản năng tiềm ẩn thường trực trong người dân quê. Sức mạnh của sự tầm thường và nhỏ nhen còn đáng kể hơn sức mạnh của các bậc hảo hán bởi nó bất chấp luật lệ và nó xảo trá hơn bất cứ sự xảo trá nào. Từ cổ chí kim bất cứ kẻ nào sống trong làng xã cũng phải tuyệt đối tuân theo ý muốn ngầm ẩn của đám đông nếu họ không muốn bị cô lập và bị tấn công từ mọi phía. Phép vua thua lệ làng. Một người đàn bà như Miên không thể kháng cự thứ luật lệ cao hơn luật lệ ấy. Những người đàn bà dám chống lại đám đông xưa nay đều phải bỏ làng ra đi, hoặc buôn xuôi bán ngược hoặc làm gái chơi trong thành phố. Và cho dù đã rời bỏ làng xóm, khi quay về họ vẫn phải nếm chịu sự áp chế hà khắc không thuyên giảm theo thời gian. Thứ luật lệ ghi trên giấy trắng mực đen không đáng kể, không bõ bèn gì so với luật tắc vô hình không văn bản... Bôn hiểu rằng quyền lực đứng về phía anh, ấy là thứ quả chín cho mười bốn năm gieo trồng, là phần thưởng cho mười bốn năm cam khổ.
Tại sao tôi không thể tận hưởng sự ưu đãi của xã hội đối với tôi một khi tôi đã hy sinh tuổi trẻ của tôi vì lợi ích cộng đồng? Tôi là con người bằng xương bằng thịt, tôi muốn hưởng phần hạnh phúc như mọi người, kẻ nào muốn làm thánh nhân mặc họ.
Vậy anh đã lạm dụng ưu thế của anh để buộc người đàn bà anh yêu phải quay về. Hành động như thế là thiếu danh dự.
Danh dự là thứ không sờ mó nổi còn hạnh phúc cầm nắm được trong tay. Khẩu phần danh dự của tôi, tôi đã xài hết trong những năm chiến tranh, tôi không phản bội tổ quốc, không đào ngũ, không bắt trộm gà đào trộm sắn của dân khi đói... Tôi yên tâm về điều đó. Giờ đây, tôi cần người tôi yêu.
Tâm hồn anh bình lặng. Anh đã quyết. Anh hiểu số phận con người thường được quyết định trong tích tắc. Họ có thể đứng trên non cao, cũng có thể rơi xuống vực thẳm và thời khắc của định mệnh chỉ kéo dài trong chớp mắt hoặc một khoảnh khắc đủ cho ngọn gió thổi qua. Anh không thể chơi cái trò chơi quân tử của người đời. Anh phải bám lấy bờ vực, dù phải cạp cỏ, cắn đá, dù phải đánh đổi bất cứ thứ gì còn lại... Anh không thể mất Miên. Tim anh đập đốc thôi như nhịp trống ngày tòng quân, thứ nhịp điệu của những trò chơi nguy hiểm...
Miên vẫn im lặng, thẫn thờ nhìn khoảng trăng sáng trên sập giờ thu hẹp chỉ còn men theo song cửa. Năm cây nến cháy gần hết, sáp chảy đầy những chiếc lá nho đồng. Rồi tiếng gà cất lên. Thoạt tiên, tiếng lẻ loi xa xôi từ đâu vẳng tới. Rồi lũ gà trong xóm gáy theo, đến gà chuồng nhà cũng tranh nhau tao tác. Tiếng gà báo canh lặng dần, vọng âm thung lũng bên kia những dải đồi vẳng tới râm ran mênh mang như có cả ngàn con gà rừng cất tiếng hòa lại.
Tiếng gà khiến người đàn bà bừng tỉnh. Chị lấy cây kim đồng gài dưới chân nến gạt tàn bấc. Ðoạn chị thong thả cất lời:
- Thôi được... Em sẽ làm tròn phận sự của mình với một người có công với dân với nước... Em sẽ quay lại sống với anh. Nhưng em cần thu xếp việc nhà trong một tuần lễ. Tuần sau, anh Hoan sẽ quay về. Tuần sau nữa em sẽ dọn tới gian buồng của anh. Ðêm nay, anh ngủ lại đây như khách, không được đụng tới em. Trong ngôi nhà của vợ chồng em, em không làm những điều vô sỉ.
Nói xong, Miên đứng dậy:
- Nếu anh chưa ngủ cứ để nến cho sáng. Khi nào ngủ hãy tắt đi. Phòng của em đã có đèn.
Rồi chị bước vào buồng, khép cửa. Bôn nghe rõ tiếng chìa khóa xoay trong ổ, rồi tiếng chốt cài khô khốc, dằn dữ. Anh nhục. Nhưng anh cắn lưỡi, tự nhủ:
Thôi được, thế cũng đã là may mắn cho ta. Phải biết cách chờ đợi. Thời gian sẽ trả lại cho ta những gì đã mất. Tiểu đội trưởng nói rồi: "Trong cuộc đời này, thằng nào lì đòn, thằng ấy thắng".
Bôn tắt nến, lên phản nằm, chắp hai tay trên bụng.
Ðèn trong phòng Miên lọt ra ngoài một vệt sáng. Anh nhìn vệt sáng ấy, mơ một ngọn đèn xác bướm đêm rải trắng quanh chân, mơ một khoảng trời có đám cành xoan đung đưa, và những vẩn mây trắng đục của một buổi lê minh lặng lờ, ngơ ngẩn...
Chương 5
Ðám trai làng tụ tập ở sân nhà Bôn từ rạng sáng. Toàn những gã trai to con, lực lưỡng được chọn trong xã. Ấy là đội thanh niên tình nguyện của xã đoàn chuyên lo giúp các gia đình liệt sĩ thương binh vào kỳ gặt hái hoặc những lúc có công việc lớn. Bôn chẳng là thương binh, nhưng do gia cảnh anh quá neo đơn bần hàn nên đảng ủy quyết định điều họ đến giúp anh sửa lại gian nhà trước khi đón Miên về chung sống. Lũ trai đã tự lo liệu bữa sáng ở nhà họ, tới đây chỉ đòi uống nước chè ngon trước khi bắt tay vào việc. May mắn cho Bôn, chiều qua cụ Phiều đem cho gói chè Thái nguyên hảo hạng:
- Tôi biết anh không thể kiếm được loại chè này. Cầm lấy sáng mai đãi thợ.
Quả tình Bôn không thể kiếm được thứ chè xứ Bắc ngon tuyệt này, nó vốn là của hiếm đối với sân sơn cước miền Trung những người trồng cà-phê nhưng chỉ quen uống chè tươi hoặc nước vối. Trà pha xong, hương bay thơm ngát, nước vàng màu hổ phách, đám trai vừa xì xoạp vừa tán như pháo nổ:
- Không biết chú Bôn làm đến chức gì, nhưng hôm nay chú được phong lên cấp soái. Dưới quyền chú có hai mươi lăm tốt hỉn, xin cứ việc phân công.
- Ðề nghị bí thư chi đoàn hạ chức chú xuống chức anh. Anh Bôn mới ngoài ba mươi, gọi chú tức là đẩy anh ấy gần tới hàng bô lão.
- Ðúng đấy... Sửa nhà xong đón chị Miên về còn sản xuất tí nhau. Gọi là chú làm anh ấy xúi quẩy.
- Xin lỗi các cậu, đừng nói hàng chú, hàng bác, ngay đến hàng ông nội ông ngoại vẫn cứ cho ra lò được tốt... Tháng trước cụ Phiều chẳng sinh quý tử ở tuổi sáu mươi chín hay sao? Người ta gọi như thế là: Lão bạng sinh châu đấy...
- Nói ngon thật, ai bì được với cụ Phiều? Nương vườn nhà cụ ấy bát ngát, đàn dê lúc nào cũng tám chín chục con, tháng vài lần cụ ấy chọn con khỏe nhất chọc tiết hứng vào hũ rượu uống còn dái với hai hột cà đem hấp thuốc nam, thuốc bắc, thơm điếc mũi hàng xóm.
- Cậu ngớ ngẩn thật, thuốc nam thuốc bắc là hai thứ khác nhau bài bản khác nhau, làm sao dùng ẩu xị như thế được?
Bôn vừa pha trà, vừa lắng nghe bọn trẻ bàn tán. Những điều họ nói hoàn toàn xa lạ, chúng đánh thức nỗi tò mò trong anh. Ðời người có quá nhiều điều cần phải biết. Anh đã tách xa cuộc sống bình thường quá lâu để hội nhập vào một cuộc sống khác, trong cuộc sống ấy anh phải thuộc lòng cách sử dụng vũ khí, cách tránh các loại bom mìn, các tư thế đâm kẻ địch trong lúc giáp lá cà, cách tự băng bó vết thương, cách dò tìm dấu vết địch, cách phân biệt chất đất để đào hào hoặc chôn mìn bẫy... Giờ, anh chợt nhận ra rằng có một loại kiến thức khác: kiến thức về cách nấu tinh hoàn lẫn dái dê với thuốc nam hoặc thuốc bắc để có thể sinh một đứa con vào tuổi bảy mươi:
Biết đâu chẳng có lúc ta cần đến những bài thuốc ấy? Một vùng đất chưa hề trồng trọt, cần khai phá.
Nỗi lo ngại tràn đến, nhưng Bôn cao giọng trấn an mình:
Ðừng sợ. Ta còn trẻ. Nếu kiên trì ta sẽ học được tất cả những gì muốn học. Trước kia ta vốn là niềm hy vọng của các thầy, các cô giáo trong trường. Giờ, ta có Miên. Một tuần nữa cô ấy sẽ về đây, ta sẽ có một mái ấm như mọi người. Ta sẽ khai phá những miền đất trắng...
Lũ trai uống xong nhất loạt đứng lên:
- Nào tướng quân, hãy biết tận dụng thời giờ. Chúng cháu chỉ giúp chú được ba buổi sáng thôi. Sau đó, sẽ phải sang thôn khác...
Lũ trai bắt tay vào việc rồi, Bôn ra vườn hì hục dãy cỏ. Anh dự định trồng luống hương nhu trước hết. Buổi tối ở nhà Hoan, anh ngửi mùi nước gội đầu của Miên thơm lừng. Thứ nước ấy đun bằng cây hương nhu già, hoa hương nhu, lá bưởi và vỏ bưởi khô. Vườn nhà anh hẹp, không có bưởi nên anh phải cấp tốc trồng hương nhu cho chị có lá gội đầu. Anh không thể xây cho chị ngôi nhà lộng lẫy, sáng trưng đèn nến như người đàn ông kia nhưng anh có thể lấy tình yêu và sự tận tụy bù đắp lại:
Tôi sẽ làm tất cả vì em. Miễn là em ở bên tôi, chúng ta còn trẻ và chúng ta sẽ cùng nhau xây đắp cuộc sống mới.
Cuốc được hai giờ đồng hồ, Bôn thấm mệt, đành ngồi nghỉ. Mấy cô gái trong đội thanh niên tình nguyện đang vo gạo, vỗ rá bồm bộp chuẩn bị nấu ăn trưa. Chính quyền xã kêu gọi những gia đình khá giả trợ giúp anh lương thực lẫn thực phẩm đủ cho mấy chục người ăn trong ba ngày. Cụ Phiều cho ba chục cân gạo với nửa con dê, bà Hơn cho hai chục cân gạo, mười cân nếp, bà Giá cho hai luống cải trong vườn. Anh chỉ bỏ tiền mua mắm muối và vài cân mỡ lợn cho họ nấu nướng. Xoong nồi bát đĩa mượn láng giềng. Gia đình Tá không có chút đồ dùng nào khả dĩ nhìn vừa mắt. Bôn nhục. Nhưng anh không biết làm cách nào. Chiều qua, anh bảo Tá:
- Mai họ sửa nhà cho tôi, cũng là sửa luôn cho mẹ con chị. Hãy lo việc bếp núc với mấy cô trong đội.
Tá lắc đầu:
- Tôi mắc nợ người ta. Mấy mẹ con tôi phải làm khấu nợ.
Bôn biết không ai có thể thuyết phục chị anh, người đàn bà hoang dã, kẻ làm bung xung cho tất thảy những câu chuyện tục tĩu của đám đàn ông trong vùng. Tá sống như cây cỏ, chẳng cần biết đến lời đàm tiếu. Trời phú cho chị một đời sống tình dục dồi dào như muông thú, bất chấp tuổi tác, thời gian, và sự khốn cùng. Năm mười lăm tuổi, Tá đi củi, bắt gặp một gã sơn tràng quê tận tỉnh Thanh xứ ngoài. Chị dẫn anh ta về. Lúc đó, cha mẹ đã chết Bôn chúi đầu vào việc học và việc kiếm tiền mua giấy bút. Anh cũng chẳng thể can ngăn hoặc khuyên bảo chị ruột của mình. Họ ngăn đôi căn nhà, Tá lấy hai gian, để cho anh một gian phía trong. Lúc đó, Bôn đã nghĩ:
Ta chẳng cần chút gia sản còm này. Ta phải tìm mọi cách thi đỗ đại học và về thành phố...
Cuộc sống vợ chồng của Tá bắt đầu ngay sau đó, chẳng cheo cưới. Chính quyền xã đành quay mặt đi trước cảnh tảo hôn. Nhưng dân xóm Núi tò mò đổ tới nhà họ xem mặt anh thợ sơn tràng tỉnh Thanh như xem vật lạ. Anh chàng hai mươi lăm tuổi, to như gấu ngựa hai vai nổi u đen bóng, ngực đầy lông gáy cũng đầy lông. Mình anh có thể chấp ba tay sơn tràng khác kéo cưa từ sáng đến tối. Bữa, anh ăn hết mười hai bát cơm vật với mắm cá dầm ớt chẳng cần thịt cần rau. Các ông bà già trong xóm thì thoảng gọi Bôn tới:
- Coi chừng con chị mi, lấy thằng nớ khéo ba bốn năm là chui vào hòm ngủ.
- Này, cha chết con trai là trụ cột gia đình. Phải bảo con chị mi liệu lấy thân. Tốt trống ắt phải tốt mái... Coi chừng...
Tá còn thấp bé hơn Bôn, người bằng chét tay. Dân làng sợ chị chết yểu vì gã sơn tràng lưng hùm dáng gấu... Vậy mà chính người đàn bà loắt choắt ấy đã quật chết gã khổng lồ. Sau hai năm chung sống, da anh ta nhợt hẳn đi, lưng và vai không còn nổi cuồn cuộn những bắp thịt cứng như sắt nguội. Lớp lông trước ngực và sau gáy rụng thưa hẳn. Ðầu năm thứ ba họ có đứa con trai. Tá đẹp nõn da mỡ màng, mắt long lanh. Anh chồng càng xuống mã nhanh. Anh không còn dám thách đấu với các thợ sơn tràng khác. Thậm chí cưa gỗ với một người bằng tuổi, anh cũng phải ngồi năm bảy lần uống nước, đấm lưng. Hễ ai bóng gió trêu:
- Gái một con, mòn con mắt, tốn đàn ông lắm...
Anh chỉ lắc đầu quầy quậy.
Mùa Hạ năm thứ tư, họ có thêm đứa con gái. Anh sơn tràng tỉnh Thanh không còn cầm nổi cưa lớn chuyển sang học đóng tủ đóng giường, đóng hộc chứa lúa, trạm bát và các thứ đồ lặt vặt khác. Cuối năm ấy anh mắc chứng ho khan. Gã đàn ông lực lưỡng như thần núi trước kia bỗng gày lép, cao lêu nghêu, chiều chiều ôm ngực húng hắng ho mắt lúc nào cũng long lanh như đang sốt. Mùa Hạ năm sau, anh chết. Tá không lo nổi vài mâm cơm đãi những người tới làm ma cho chồng. Lúc đó đang chiến tranh, người ta liệm gã đàn ông xấu số bằng một tấm dù hoa bên ngoài quấn chiếu.
Tá gầy rộc. Chị ta phải lo ba miệng ăn. Tá phàm ăn không kém chồng. Thoạt tiên, chị ta bán mấy chiếc tủ đứng, tủ chè rồi đến giường hộp. Thời chiến, mọi thứ đều rẻ mạt. Người có tiền mua quăng vào một xó coi như đánh bạc với trời. Khi chẳng còn thứ gì để bán Tá bòn tiền xuống biển mua cá mắm mang sang bên kia núi bán cho người Vân kiều hoặc dân Lào. Hai đứa con nhếch nhác đói khát bỏ lại cho bà lão Ðọt, chị gọi là già, người ruột thịt duy nhất trên cõi đời. Mỗi chuyến đi của Tá kéo dài hàng tháng. Càng ngày chúng càng kéo dài hơn. Dân làng thấy Tá béo đẹp trở lại. Qua ba năm chịu tang chồng Tá lồng như ngựa vía tìm đàn ông. Gặp bất cứ người nào góa bụa hoặc gia cảnh bất hòa Tá đều xáp tới. Nhưng đàn ông khắp vùng kháo nhau về ma lực tình dục của Tá, cho rằng hễ dính với chị ta sớm muộn cũng chui vào mả nên họ tránh chị như tránh bệnh dịch hạch. Sau rốt, nhờ trời thương Tá cũng lấy được tấm chồng. Lần này là một lão già hơn chị hai mươi tuổi, vốn dân biển, vì mắc tội loạn luân nên phải bỏ quê hương phiêu bạt tới xóm Núi, xin chính quyền cho dựng lều vỡ đất trồng tiêu. Lão tuy già nhưng dai sức, lại có dấn vốn. Tá lấy lão, cuộc hôn thú mãn nguyện. Duy hai đứa con người chồng trước là bất bình. Lúc đó đứa con trai mười ba tuổi và đứa con gái mười hai. Một lần, ông bố dượng vác củi đánh thằng bé. Nó hắt cả nồi cám sôi vào lưng lão già và bỏ đi. May mắn lão ta tránh kịp chỉ bị tuột một bên bắp chân. Nửa tháng sau đứa bé quay lại rủ em gái trốn theo. Từ đó tới nay chẳng ai thấy bóng dáng của chúng. Người ta đồn chừng chúng đã dắt díu nhau ra tỉnh Thanh, nương nhờ gốc rễ người cha. Tá không đi tìm con, cũng chẳng đau buồn nhiều. Chị đã kịp thời chửa và đẻ cho lão chồng sau một đứa con trai. Khi đứa bé đầy tháng bỗng xuất hiện một gã Vân kiều thấp bé đen thui. Gã đóng khố, đeo gùi, nói thứ tiếng Kinh ngọng nghịu. Gặp Tá gã ôm chặt lấy chị, khóc rống lên. Họ nói với nhau bằng thứ tiếng líu lường không ai hiểu. Hẳn gã là người tình của Tá trong thời gian chịu tang, và hẳn Tá đã thề non hẹn biển khiến gã trèo đèo lội suối tìm kiếm khốn khổ như vậy. Bấy giờ dân làng mới hiểu những chuyến buôn cá dài ngày của người đàn bà hoang dại. Vào lúc Tá đang phân bua với gã Vân kiều, lão chồng già trở về. Lão đứng hồi lâu chờ cho gã đàn ông đen đủi khóc lóc rồi lừ lừ tiến thẳng đến, giáng cho kẻ địch tình một cú đấm hiểm ác, đoạn nắm cổ gã như nắn cổ con gà, quẳng ra ngoài cổng.
Tá ăn ở với lão thêm được hai đứa con nữa. Lão chết. Giờ chị nuôi ba đứa con nhỏ, một gái hai trai, chẳng đứa nào được học hành, sống như loài chồn cáo...
Cha mẹ đã để lại gánh nặng cho con, một mối nhục không cách nào lẩn tránh. Sao lại sinh ra một kẻ đồi bại dơ dáy đến như thế trên đời?
Bôn thầm oán những kẻ đã sinh ra anh. Nhưng anh biết điều đó vô nghĩa. Họ chỉ là những bóng ma yếu ớt, những hạt bụi trong cõi trần cũng sẽ là những hạt bụi dưới cõi âm. Họ bất lực. Anh cũng bất lực. Hôm nay trai làng đến sửa nhà cho Bôn, nghĩa là sửa luôn cho Tá. Nếu là một người đàn bà khác dù ngu đần vụng dại đến đâu, họ cũng sẽ ở nhà thu vén nấu nướng...
... Thật nhục nhã khi chung máu huyết với một người như thế. Nhưng chẳng ai thay đổi được lịch sử bản thân và dòng tộc. Dẫu sao Tá cũng vẫn là người ruột thịt của ta. Chúng ta san sẻ một huyết thống, lớn lên dưới một mái nhà, và từng có chung ngày êm ấm...
Quả là khi cha mẹ anh còn sống. họ đã cùng hưởng những giây phút êm đềm. Anh nhớ tới những buổi tối vui vầy, hai đứa trẻ ngồi ăm bắp rang ngào mật, Bôn trong lòng mẹ và Tá trên đùi ông bố. Chảo bắp rang ngào mật còn nóng, bốc hơi thơm lừng. Mẹ Bôn bốc từng nắm bỏng bỏ vào tay anh, và mỗi bận cúi xuống bà lại ngửi hít mái tóc hoặc hôn lên má đứa con trai yêu dấu:
... Ôi cu con của mẹ, cục vàng của mẹ. Mai sau lớn lên con sẽ xây nhà cao cửa rộng cho cha mẹ, sẽ tu tạo mồ mả tổ tiên, con sẽ làm dòng họ Vũ chúng ta mở mặt mở mày...
Ðiệp khúc ấy mẹ anh đã nhắc hàng trăm lần trong khi cha anh ngồi nhìn anh ngây ngất...
- Chú Bôn, lại đây đã...
Tiếng gọi giật giọng của một chàng trai vang đến. Bôn giật mình vùng đứng dậy bước vào sân:
- Chú Bôn, chú muốn ngăn bằng vách nứa hay xây gạch? Nếu xây tường gạch, chúng cháu sẽ đan tấm liếp để cắt mái.
- Các cậu đã tính số gạch chưa?
- Ðã tính. Vừa đủ. Vừa đủ bức tường, nếu xây con kiến. Còn chú chỉ ngăn bằng vách nứa số gạch đó đủ bó thêm hai thước sân. Chú hãy suy tính trong năm phút, anh em cháu nghỉ tay uống nước rồi làm. Mấy gã trai ngồi nghễu nghện trên mái hút thuốc. Họ xách ấm nước lẫn chiếc ca nhôm theo. Bôn đưa mắt nhìn mảnh sân lở lói dưới chân anh. Trông nó thật tang thương với những lỗ gạch bị nạy mọc lổ đổ rau dền dại và cỏ ba chạc, gạch đã ngả màu thâm, các mạch vữa trát rã rời thành cát.
Không ai có thể phơi phóng trên mảnh sân này. Dù trồng tiêu hay cà-phê ta cũng cần một khoảng sân phẳng phiu, sạch sẽ...
Bôn nghĩ. Nhưng rồi anh đưa mắt nhìn mái tranh mới lợp. Ba gian nhà thông thống kia, nếu chỉ ngăn bằng vách liếp dán giấy báo như xưa, liệu anh có thể sống được cuộc sống chồng vợ với Miên? Tá chưa già, lại vốn là kẻ dâm đãng. Ðứa con trai của Tá sáu tuổi, đứa con gái lên năm, chúng đã có cái nhìn tò mò quỷ quái. Ngày cưới Miên, chỉ thắp cây đèn dầu cũng gây xích mích. Giờ đây, cuộc sống chung sẽ càng khó khăn hơn. Anh hình dung cảnh Miên sẽ đặt chân lên mảnh sân bẩn thỉu này, bước qua khuôn cửa vào gian buồng tăm tối của anh với những bức tường mộc cũ ám đầy bụi và khói...
... Khốn nạn thay cảnh bần cùng...
Một tiếng chửi và lời than cùng lúc bật lên trong anh. Từ năm mười một tuổi, lệch vai gánh củi gánh than kiếm tiền mua sách bút anh đã mơ tưởng về thành phố và cùng với ánh đèn thành phố, cuộc sống của anh sẽ bừng sáng thoát khỏi cảnh bần hàn. Nhưng lúc này, anh vẫn phải đương đầu với nó. Số tiền xuất ngũ anh mua gạch, vôi vữa xây xin ủy ban. Họ vừa sửa sang trụ sở, còn thừa chút vật liệu tuy không tốt nhưng cũng chưa đến nỗi bỏ đi. Ngoài số gạch, anh chỉ còn đủ tiền mua một tấm chăn mới, tấm chăn đỏ màu hoa phượng vĩ, in hình những bông thược dược lớn bằng miệng bát ăn cơm. Anh sẽ dùng tấm chăn ấy vào mùa thu này, tin những bông thược dược chói lọi kia sẽ giúp anh vãn hồi hạnh phúc...
Bôn cất tiếng:
- Các cậu cứ xây tường chắn cho tôi... Còn khoảng sân tôi sẽ tự lo sau...
Lũ trai cười sằng sặc:
- Hoan hô, chúng cháu biết thế nào chú cũng phải đi đến quyết định ấy... Ðiều kiện tiên quyết là phải có sân chơi đẹp mới sút nổi bóng vào khung thành... Xem ra chú còn sáng suốt lắm. Kết luận là chúng cháu sẽ sử dụng số gạch này xây tường ngăn, phía trên chắn liếp. Như vậy tổ ấm của chú sẽ kín từ chân tường lên đến tận mái tranh...
Chương 6
Hoan biết tin dữ lúc anh đặt chân lên cầu tầu.
Ðứa cháu Hoan, con trai lớn của chị Châu đang xách những thùng hàng từ dưới thuyền lên kè, chợt bạn nó cất tiếng gọi:
- Ớ Hòa, ớ Hòa...
Hòa ngẩng lên. Một thiếu niên mặc quần soóc áo thun đang chạy tới, tóc bay ngược về phía sau. Cậu ta vừa chạy vừa tiếp tục gọi dốc thôi:
- Ớ Hòa, ớ Hòa... Mi nghe chuyện chi chưa?
Hòa đặt thùng hàng xuống kè, ngẩng lên:
- Mi mù răng không trộ? Tau vừa đặt chân lên đất liền tức thì.
- Cậu mi sắp mất vợ.
- Mi nói răng?
- Chồng mự Miên về... Cái người đã báo tử hồi trước đó.
- Cha thằng nào nói láo. Người chết gần chục năm răng đội mồ về được?
- Ừa, cha thằng nào chửi láo... Rồi mi sẽ trộ.
Cậu bạn nói xong quay lưng định chạy đi, nhưng Hòa đã túm gọn lưng áo, kéo lại:
- Thôi mà, tau xin lỗi... Mi với tau, hờn giận làm chi? Chuyện ra răng kể cho tau nghe.
- Ừa, bữa đó tau phóng Hon-đa lên xóm Núi, vào nhà mệ ngoại...
Hoan đứng dưới chân kè, hai chàng thiếu niên không ngờ anh đã nghe từ đầu tới cuối cuộc đối thoại của chúng. Lúc Hòa nhìn thấy anh đưa tay cấu bạn và hai đứa im bặt. Hoan thong thả leo lên kè, đoạn bảo đứa cháu:
- Cháu buộc thùng đồ lên xe cho chú.
Hòa ngoan ngoãn chạy đi lấy chiếc xe máy trong nhà gửi xe nơi bến cảng, cậu bạn cung cúc chạy theo. Cả hai đứa đều là cư dân xóm Núi trong những năm chiến tranh, sau ngày ngừng chiến mới trở về thành phố. Tuổi thơ của chúng đã trải qua ở nơi đó. Thành phố quê hương tan thành bãi gạch vụn chỉ là một kỉ niệm nhạt nhòa. Xóm Núi là cuộc đời thực. Dẫu góc đất hẻo lánh luôn rung động bởi bom trên đường Trường sơn dội lại, nhưng vẫn có những khu vườn um tùm râm mát. Ðó là những vườn địa đàng nhỏ bé thời thơ dại, nơi chúng có thể dính ve, bắt chim, đào dế, chơi những trò chơi dân dã, nơi chúng có thể lượm ổi chín, hái mãng cầu hay khế ngọt... Và vì thế mấy năm nay, tuy đã trở về sống cuộc sống mới nơi thành phố, thi thoảng lũ trẻ vẫn thường kiếm cớ quay lại xóm Núi chơi. Hoặc là, người ruột thịt còn ở lại miền sơn dã, hoặc chính những kỷ niệm trồng cấy ở mảnh đất ấy mời gọi chúng vào những thời khắc chúng rơi vào cơn trữ tình.
Cỡ mười phút sau, Hòa quay lại trong chiếc xe phân khối lớn. Không chờ anh lên tiếng nó lặng lẽ buộc các thùng đồ. Hoan bất giác đưa mắt liếc nhìn những thứ đồ gia dụng anh vừa sắm trong chuyến đi: Thùng các-tông vuông kia đựng chiếc máy xay hoa quả. Hoan rất thích uống trái cây xay với nước đá vào mùa Hè. Vườn nhà đầy cây ăn trái. Anh sẽ cho trồng thêm vài cây bơ, vài cây vú sữa để đủ thứ quả dùng. Vài năm nữa, khi người ta kéo điện dưới thành phố lên, không cần chạy máy điện riêng để tưới cây và làm việc trọng đại, lúc ấy anh sẽ đưa chiếc tủ lạnh từ thành phố lên và sắm thêm chiếc máy truyền hình. Cuộc sống của họ nơi xóm Núi sẽ hoàn toàn đủ tiện nghi như cuộc sống dân thành phố. Chiếc thùng gỗ kia đựng chiếc xe ba bánh cho con trai anh. Còn thùng đồ thứ ba, được buộc dây kĩ lưỡng và vẽ mũi tên chỉ đồ dễ vỡ đựng lô cốc chén, bát đĩa quý mà anh đã lùng sục khắp các cửa hàng ở Ðà Nẵng để mua về cho Miên. Miên thích bày đồ ăn trong những chiếc bát đĩa đẹp. Và niềm mê say có tính con trẻ ấy không có điểm dừng. Nhà anh có đủ thứ bát đĩa, từ loại thuần sứ trắng mộc tới loại vẽ hoa rực rỡ, từ đồ sứ Giang tây cổ viền chỉ vàng tới những chiếc bát cô tiên loe như hoa leo kèn, rồi những đĩa men xanh rạn lẫn những đĩa sứ Tầu thời mới giả cổ vẽ bầy tiên áo xống phất phơ múa lượn. Anh chiều theo mọi ý muốn của Miên, tựa hồ chị không chỉ là vợ mà còn là một đứa em gái hoặc con gái nhỏ của anh và những niềm say mê của chị khiến anh thích thú...
- Cậu ơi, chiếc túi này treo vào tay lái hỉ?
- Ờ, treo vào đó cho cậu.
Chiếc túi giả da nâu có đường hoa văn nhỏ kia đựng mấy mảnh lụa cho Miên may bộ đồ mới, thêm vào đó là xấp váy ngủ. Hoan đã phải mất hàng giờ đi theo đám đàn bà thành phố trong chợ Hàn, chờ họ trả giá rình xem họ chọn váy áo, tìm thứ nào tương xứng với cỡ người Miên, rồi mua theo. Vợ anh đẹp gấp trăm lần những người đàn bà trát đầy son phấn nơi thành phố. Tuy chẳng phải một gã đàn ông lọc lõi trong chuyện bướm ong, nhưng Hoan thừa đủ sự tinh ranh của kẻ từng trải nghiệm để đọc trên gương mặt những người đàn bà anh gặp bao nhiêu phần trăm nhan sắc thiên phú và bao nhiêu phần trăm sự đắp đổi của son phấn lụa là lẫn các đồ trang sức. Trong tình yêu của anh với Miên vừa có lòng sùng bái một vưu vật của trời đất vừa xen lẫn lòng kiêu hãnh của một kẻ hiểu biết và may mắn. Khi xếp những chiếc váy ngủ kia vào túi, anh đã sung sướng bao nhiêu khi mường tượng lúc bắt vợ thử lần lượt từng chiếc, trước gương. Và anh, kẻ đầu tiên, kẻ duy nhất chiêm ngưỡng và đánh giá...
Giờ đây... Mọi sự sẽ chấm dứt...
Không một lời nhắn nhe, không điềm báo triệu:
Tại sao trời nỡ đối xử với ta như vậy? Ta chưa hề làm hại ai, chưa từng lường gạt dối gian, chưa từng xâm phạm manh cơm miếng áo người khác? Ta cũng chưa từng quay lưng đi khi kẻ khác chìa tay. Ðã phải qua nhiều năm đau đớn, ta mới tìm thấy hạnh phúc của mình...
- Xong rồi, cậu nè.
Hòa đã buộc xong mọi thứ, kiểm tra các nút thắt, nổ máy sẵn cho anh. Hoan đứng lên, phủi bụi kè bám sau lưng quần:
- Cháu chạy bộ về nhà sao?
- Ðược thôi cậu, một khúc đường ngắn à...
- Nói với mẹ mấy bữa nữa cậu xuống.
- Dạ, cậu đi... cho may mắn...
Thằng bé ấp úng, mắt lảng nhìn nơi khác. Hoan nhảy lên xe:
Nó vẫn nói mấy lời khách sáo dù biết rõ ta đang chịu rủi ro... Cũng chẳng trách được thằng bé, liệu nó biết nói với ta điều gì? Thần may mắn bắt đầu ruồng bỏ ta. Nếu có thần, hẳn ông ấy là một kẻ bạc bẽo... Ta đã làm gì để đến nỗi chịu cảnh biệt ly này?
Chiếc xe phân khối lớn chạy êm ru nhưng vóc dáng kềnh càng hung dữ của nó khiến những người đi xe máy khác phải dạt sang lề đường. Hoan chạy qua những phố quen thuộc, trên lộ trình về xóm Núi. Lộ trình ấy, bắt buộc anh phải đi qua tiệm cà-phê kẻ hàng chữ đen: Kim Kim - cà-phê Bar lồng trong hộp kính thắp đèn đỏ. Lần nào từ thành phố lên xóm Núi hoặc từ xóm Núi quay về Hoan cũng phải nhìn thấy tấm biển xấu xí ấy, nó là biểu hiện của nỗi dơ dáy mọc trong quá khứ anh như cây xương rồng ma không chịu lụi tàn, ám ảnh và làm thương tổn tâm hồn anh một cách không mệt mỏi:
Khốn nạn thật, chẳng lẽ lại một lần nữa số phận đầy đọa ta? Chẳng lẽ trời không có mắt và thích gieo nỗi bất công xuống cõi trần? Nhưng có lẽ chẳng có Trời. Chỉ có người với người còn cái vòm xanh trên đầu chúng ta chỉ là điều hư ảo... Miên ơi, trên thế gian chỉ có em đối mặt với anh, có lẽ em mới chính là trời của anh, một ông trời bằng xương bằng thịt... Ðừng bỏ anh...
Hoan chợt nhận ra anh vừa bật tiếng rên, bánh xe bập lên một hòn đá nhỏ lạng sang cột mốc cây số rồi theo đà vọt tới, nghiêng trên ta-luy chỉ chút xíu là rơi xuống con hồ bên dưới. Hoan dừng xe. Mồ hôi anh vã đầy trán. Anh rút mù-xoa lau trán, lau cổ, lau hai hố mắt mồ hôi bốc mờ cả kính. Cái chết vừa chạm lướt da thịt anh. Làn nước hồ dưới kia gợn sóng lăn tăn như mỉm cười. Nụ cười tao nhã và xảo quyệt. Người đàn ông đăm đăm nhìn xuống mặt nước giờ lâu, dòng máu lạnh từ từ bò vào óc não:
Nguy quá, chỉ gang tấc là ta về chầu Diêm vương... Không, ta không được quyền chết. Con trai ta còn quá nhỏ. Ta không thể để nó sống kiếp mồ côi. Ta đã có một tuổi thơ mãn nguyện. Cha ta đã yêu dấu, đã nương dìu ta tận tình biết bao. Giờ tới lượt mình, ta không được quyền sao lãng...
Anh quay lại, lấy mũ bảo hiểm cột phía sau đội lên đầu. Vừa gài quai mũ vừa hình dung thấy gương mặt người cha, gương mặt hiền dịu với những nếp nhăn nhíu lại nơi đuôi mắt và hai bên tinh mũi mỗi bận ông cười, ánh mắt ngập tràn tình phụ tử lẫn tình bạn hữu ông thường nhìn anh, vào những buổi chiều hai cha con bơi ngoài bãi biển Ðông Hời, vào những sáng Chủ Nhật mưa rào ông chơi cờ với anh trên tấm phản gụ, vào những đêm đông ông đặt anh lên đùi và kể chuyện Tráng sĩ Yên ly tiết tháo, chuyện tình Ngu Cơ Hạng Võ hay chuyện Trưng Nữ Vương... Những kỉ niệm ngọt êm cùng lúc xô về, đan gài bao nhiêu ảnh hình, âm thanh, màu sắc, hương vị dâng trong anh niềm xa xót:
Ta phải sống để nuôi cu Hạnh thành người bởi tuổi thơ là nền tảng chắc chắn nhất để xây đắp con người thành cốt cách...
Cho dù không còn Miên, ta vẫn còn một mảnh đời thật sự, một mảnh hạnh phúc cầm nắm được trong tay...
Hoan kiểm tra lại nút gài mũ lần chót rồi lên xe. Một đoàn ô tô tải từ phía sau vọt lên cướp đường, thả bụi mù. Hoan nhìn làn bụi, nghĩ:
Không còn Miên... Nhưng cớ sao ta lại tin ngay điều rủi ro ấy? Cớ sao ta chấp nhận nó như sự đã rồi, như kẻ nhắm mắt nhảy xuống sông không dò mực nước. Cái tin đó vẫn chỉ là một tin đồn... Và nó còn ở phía trước...
Cần nhìn đến tận nơi, dù là nỗi bất hạnh. Anh là kẻ trưởng thành hơn Miên bảy tuổi, và bởi thế không được quyền hành động hồ đồ hay mù quáng. Anh nghĩ đi nghĩ lại tình thế của mình. Càng nghĩ niềm xác quyết về tình yêu càng khiến anh đau xót...
Hoan là dân thành phố Ðông Hời, thành phố biển mộng mơ với những ngôi nhà cổ, dài và hẹp như ống tre. Phía trước là cửa hiệu giống như mọi thứ cửa hiệu nơi phố xá. Nhưng phía sau cửa hiệu là các gian buồng chứa hàng, và sau nơi chứa hàng lẫn phòng ngủ là mảnh vườn có tường vây bọc. Dường như nhà nào cũng có một mảnh vườn đủ rộng dù hẹp. Tường bao vườn leo rậm rịt cây móng rồng lẫn hồng tường vi. Mùi hương của hai loài hoa quyện lấy nhau, tẩm ướp không gian vây bọc thành phố, hòa cùng gió mặn tạo thành một thứ hương bâng khuâng như trộn lẫn biệt ly và tao ngộ, tựa tâm hồn kẻ lữ hành dạn dày và mệt mỏi vừa muốn tiếp bước phiêu lưu vừa muốn quay về. Tên thành phố là tiếng gọi lẫn tiếng thở dài: Ðông Hời, ơi hời biển Ðông... Tên ấy có nỗi phiền muộn, nhớ nhung, có âm vang của chân trời cuộn sóng. Xưa kia, các thi sĩ qua đây, nhớ Hàn Mặc Tử đã đặt tên cho nó là Thành phố hoa hồng. Cái tên ấy dường như có lý. Mùi tường vi nồng dại thường dậy lên vào những sớm se lạnh hoặc sau các cơn mưa. Vườn nhà Hoan trồng cả tường vi lẫn hoa móng rồng như mọi nhà. Ngoài ra còn có hồng xiêm với mãng cầu, có hòn giả sơn mọc đầy rêu và trúc cảnh. Vào những ngày tế đất trời hoặc lễ xá tội vong nhân, người nhà đặt các mâm cỗ quanh hòn giả sơn, cắm hương vào các bát sứ cao chân, mẹ anh mặc áo dài quỳ trên chiếu xì xụp lễ. Cha anh, bao giờ cũng ngồi trên chiếc ghế mây đặt phía sau, khoanh tay ngắm đất trời. Ông là nhà giáo, đồng lương của ông không thể đặt lên đĩa cân so với xấp tiền vợ ông thu được từ cửa hàng, nhưng ông vẫn là vị chúa tể, kẻ quyền uy số một dưới mái nhà của họ. Hoan nhớ khúc nhạc đón bình minh trong suốt tuổi thơ của anh, ấy là giai điệu của chiếc đồng hồ treo tường Thụy Sĩ cổ. Sau khúc nhạc ấy, ông giáo pha cà-phê. Bà giáo cùng chị Nền xuống bếp lo bữa điểm tâm, còn hai đứa trẻ chuẩn bị tới trường. Ngày ấy, họ sống dưới một thứ quan niệm hà khắc của chủ nghĩa vô sản. Thói quen uống cà-phê sáng của ông giáo được coi là tàn dư của giai cấp tiểu tư sản, cho dù bữa điểm tâm của họ chỉ là bún chan nước xáo hoặc mì nấu với lá hành. Nhiều lần, Hoan nghe mẹ van xin cha:
- Anh hãy nhớ lại thời cải cách ruộng đất, rồi cải tạo tư sản... Thời đó chưa xa. Nhà nước có thể lặp lại những cuộc chà xát đó bất cứ lúc nào. Chúng ta may mắn vì có người che chở nên dù cửa hiệu bị kinh doanh hóa em vẫn còn được chân bán hàng để kiếm miếng cơm... Nhưng mắt thế gian vẫn không ngừng dòm ngó... Em xin anh thay đổi thói quen...
Và lần nào, cha anh cũng đáp lại một cách chậm rãi:
- Chúng ta là những người tử tế, bao đời sống thanh sạch. Không có gì khiến chúng ta khiếp sợ. Hoặc chúng ta chết, hoặc chúng ta sống như mình muốn... Tôi thích uống cà-phê, tôi sẽ cứ uống cà-phê, tôi không thay đổi thói quen để làm vừa lòng lũ quan lại thích uống nước vối hay tu nước lã...
Người đàn ông mảnh mai ấy thật gan lì. Lúc nào ông cũng tắm rửa sạch sẽ, xức nước hoa, áo quần chỉnh tề, tóc chải gọn và mái đầu ngẩng cao một cách đường bệ. Hình ảnh ấy quá lạc lõng giữa một xã hội sợ sệt bần hàn, giữa đám đông ăn mặc dơ dáy nhớp nhúa hoặc cố tình dơ dáy nhớp nhúa theo chủ thuyết vô sản hóa, giữa những gương mặt đói khát và nhớn nhác những mái đầu cắm sụp xuống tô phở mậu dịch không người lái tanh tưởi thìa xúc bị đục lỗ thủng như máng ăn của gia súc được đánh dấu... Hoan lờ mờ cảm thấy nghi thức tắm gội và cách ăn mặc sang trọng kia cha anh đã cố tình thực hiện một cách thái quá để biến chúng thành sự thách thức với xã hội đương thời. Nhưng thiên hạ phải làm lơ. Có lẽ ông là một nhà giáo giỏi và tận tụy với nghề. Hoặc vì mạng số của ông quá lớn khiến những kẻ khó chịu ấm ức với ông đành phải nén lòng. Trong gia đình họ, ông đã gieo cấy một lối sống khoan hòa nhưng nghiêm nhặt, sự tôn kính được coi như lễ nghi tôn giáo, đức bao dung được xem như phẩm chất cốt yếu, đạo làm người được truyền thụ trong từng ngụm nước uống, từng miếng cơm ăn. Suốt quãng thời gian yên bình ấy, mùi hoa móng rồng và hương tường vi dịu nhẹ tẩm ướp tâm hồn họ, lưu giữ họ trong một không gian thanh sạch riêng biệt, cuộc sống dối gian hèn hạ bên ngoài không thể xâm phạm tới... Tinh thần người cha ngự trị tuyệt đối nên phần đời dơ bẩn của thế gian bị đẩy khỏi cánh cửa gia đình. Cha Hoan yêu cầu vợ và đứa cháu họ không được phép kể những chuyện xấu xa tồi bại trước mặt chị em Hoan. Ðược đào luyện như thế, anh đã trở thành một chàng trai đúng như ông giáo Huy mong ước: thông minh, cần mẫn, tốt bụng, bao dung và đôi khi ngờ nghệch trước sự đời. Một thiên thần cao lớn vạm vỡ với những bắp thịt lực sĩ và đôi mắt trẻ thơ. Cha anh yêu anh, có phần hơn chị Châu, hài lòng với tạo tác của mình. Ông giáo mực thước và thơ ngây ấy không ngờ có ngày con trai ông rơi vào cạm bẫy của cái đời sống gian dối và ô trọc mà chính ông đã đánh đuổi một cách kiên trì và quyết liệt khỏi ngưỡng cửa gia đình...
Năm Hoan hai mươi hai, đẹp như tài tử điện ảnh, được gái cả thành phố ước nguyện. Mỗi bận anh tới sân bóng rổ, họ nhất loạt trở thành cổ động viên cuồng nhiệt với môn thể thao này. Dù họ đứng sát vạch vôi hay kín đáo nép vào một góc, dù reo hò lộ liễu hay thì thầm cấu chí mắt họ cũng bị hút về một hình ảnh duy nhất: chàng trai duy nhất của ông giáo Huy. Hoàng tử mang tất trắng, ấy là biệt danh gái thành phố gán cho Hoan mà chính anh không biết. Anh không để ý đến ai. Ðỗ đầu khóa khi tốt nghiệp trung học lẫn khóa thi vào đại học, anh nôn nóng đợi ngày rời thành phố ra thủ đô. Như con thuyền bập bềnh trên bến cảng chân trời vẫy gọi mời mọc, trái tim anh tràn ngập mộng mơ và trí tưởng tượng của anh bị thống trị bởi hình ảnh một con tàu chạy thẳng về hướng Bắc. Con tàu đó sẽ hú lên hồi còi tàu dài trên ga Thuận lý, dư âm của hồi còi còn kéo dài mãi, và cùng làn khói trắng bay về phía Nam thay lời giã biệt... Cha anh biết tâm trạng thắc thỏm của Hoan nên thường để cho anh tự tay bóc lịch hàng ngày. Một bận, ông mỉm cười bảo anh:
- Hóa ra con cũng không đến nỗi yếu mềm như ba tưởng... Có lẽ ba đã già và chính ba mềm yếu...
- Không, không... Con không đến nỗi yếu mềm. Nhưng con biết con sẽ buồn khi sống xa ba mẹ.
Ông giáo gật đầu:
- Chẳng con thuyền nào muốn neo mãi trong cảng... Nếu thế, nó sẽ mục nát một cách vô ích và làm uổng công Tạo hóa...
Rồi ông tự tay thu xếp hành lý cho Hoan. Những bộ quần áo mùa hè được xếp một chồng và bên kia là mớ quần áo rét. Góc va-li, ông xếp bộ dao cạo râu mới tinh vừa được một người bạn tặng cùng với tá khăn tay:
- Sẽ có lúc con cần tới những chiếc mù-xoa này... Hồi trẻ, ba có xem bộ phim Mỹ tựa đề "Cuốn Theo Chiều Gió"... Nhân vật nữ rất đẹp, rất tinh ranh... Nhưng không bao giờ cô ta đem theo mù-xoa trong túi nên mỗi bận khóc người tình lại phải rút khăn cho mượn... Nếu may mắn con gặp được một người đàn bà đẹp như vậy, những chiếc khăn này sẽ có ích...
Nói rồi, không ghìm được, ông đưa tay vuốt nhẹ mớ tóc trước trán Hoan. Anh đứng lặng như phỗng, muốn ôm cổ cha mà ngượng nghịu không dám. Anh đã quá lớn, cao hơn cha đến một cái đầu. Anh không thể kiễng chân ngửa mặt để ôm hôn cha anh như hồi anh năm tuổi... Còn cúi xuống, ôm ông như ôm một người yếu ớt cần chở che anh cũng không dám. Trong trái tim anh, người đàn ông mảnh mai ấy vẫn là vị thần khổng lồ... Và anh muốn mãi mãi, mãi mãi suốt cuộc đời anh, giữ gìn hình ảnh đó...
Những tấm khăn tay ông giáo Huy chuẩn bị đã không được sử dụng một cách hợp lý như ông mường tượng. Và con tàu chở chàng trai lên phương Bắc nấu sử sôi kinh chẳng bao giờ lăn bánh... Sau buổi chiều đáng ghi nhớ ấy một tuần, Hoan tới sân bóng rổ chơi như thường lệ. Lúc về, anh bỗng gặp mưa. Mưa rào tháng hạ cộng thêm gió biển giật khiến đất trời mù mịt nước xối. Mưa dày tới mức như chẳng còn là mưa mà là thác nước trút thẳng từ trên cao xuống đầu kẻ bộ hành. Chẳng ai đem theo áo mưa. Mọi người chạy táo tác đi khắp ngả. Hoan từ biệt đám bạn ở sân bóng men theo những mái hiên dọc phố về nhà. Toàn thân chàng trai ướt đẫm. Gần ngã tư đầu tiên, một người đàn bà nhô khỏi cửa, vẫy gọi:
- Hoan... Hoan... Cháu Hoan, lại đây.
- Này cháu Hoan. Hoan... oan...
Tiếng gọi lanh lảnh, át cả tiếng mưa lẫn tiếng gió thúc. Hoan vuốt nước ròng ròng trên mặt và nhận ra bà trưởng cửa hàng. Anh chạy tới. Bà vẫn đứng đó chờ anh, một tay không ngừng vẫy, tay kia che cây dù:
- Vào nhà... vào nhà mau đi cháu... Dầm mưa thế không khéo cảm lạnh thì nguy...
Hoan vừa tới nơi, bà lập tức kéo anh vào nhà, rồi đưa ngay anh tới căn phòng tắm:
- Tắm mau đi cháu, tắm mau không cảm lạnh... Trong đó đã sẵn nước nóng, xà-phòng...
Chàng trai còn đứng ngờ ngẩn. Anh chưa từng đến tắm nhờ nhà ai, dù lạ hay quen, huống chi bước vào phòng tắm của người đàn bà này... Bà Kim Lan, trưởng cửa hàng có cái tên rất sân khấu, đẩy Hoan vào phòng tắm:
- Sao cháu còn đứng đần ra thế? Tắm ngay kẻo cảm lạnh bây giờ.
Hoan không biết từ chối cách nào đành phải bước vào phòng tắm, khép cửa lại. Nhưng ngay lúc anh đang cởi bỏ bộ quần áo ướt, bà Kim Lan đã xông tới gõ cửa ầm ầm:
- Này Hoan, mở hé cánh cửa để bác đưa cho bộ quần áo khô.
Chàng trai thoáng sững sờ: ở nhà anh, chỉ ông giáo Huy mới có quyền thân mật sỗ sàng như vậy, vào những dịp anh bất cẩn vào phòng tắm rồi lên tiếng gọi cha. Ngay mẹ anh cũng không làm việc này từ khi anh mười sáu tuổi. Anh lúng túng nhưng cũng đành mở hé cửa để bà trưởng cửa hàng chuồi cánh tay vào:
- Cháu cảm ơn bác, bác chu đáo quá...
- Ôi chao, đừng khách sáo... Chẳng gì mẹ cháu với bác cũng cùng làm việc với nhau.
Giọng bà chả chớt, ngọt ngào. Thật ra, tuy họ biết nhau từ lâu nhưng gia đình anh không có thiện cảm với người đàn bà này. Khi cửa hiệu của gia đình anh bị quốc doanh hóa, bà Kim Lan được cử tới làm cửa hàng trưởng phụ trách mười hai nhân viên trong đó có mẹ anh. Bà là người ăn nói sắc sảo nhất đám các trưởng cửa hàng và chủ nhiệm hợp tác xã của thành phố, cũng là người biết cách ăn diện và cách sử dụng quyền thế hơn người. Chồng bà là phó chủ tịch thành phố, nhưng ông ta cũng là bạn nối khố với bí thư tỉnh ủy và ấy là điểm tựa vững chắc của bà ai ai cũng biết. Hồi nhỏ, chị em Hoan không có ý thức rõ rệt về vấn đề tài sản nên việc cửa hàng của ông bà nội để lại bỗng dưng biến thành của kẻ khác, một đám người khác ào ào tới chiếm lĩnh cũng không khiến họ mang nhiều hiềm khích. Nhưng ý thức về sự bị cai trị, và kẻ cai trị là hạng người lố bịch hèn hạ, hai đứa trẻ đều nhận biết rõ ràng. Thường ngày chúng thường nhìn thấy bà cửa hàng trưởng vênh bộ mặt lên sai bảo cắt đặt đám người dưới quyền, đặc biệt là với bà giáo. Tất thảy mọi hành vi của bà Kim Lan đều kèm theo ý thức thỏa mãn quyền hành. Hoan càng lớn càng hiểu rõ điều đó. Vì thế anh thường tránh mặt bà ta mỗi khi đi ngang qua. Gần đây, khi anh đã trở thành một thanh niên tráng kiện, giấc mơ của các cô gái thành phố, đôi ba lần bà Kim Lan nở nụ cười với anh, đôi ba lần bà toan bắt chuyện làm thân nhưng anh đã lẩn tránh trước khi bà đủ thời gian cất lời.

Lời bạt

Sống bên Bôn, người chồng bất đắc dĩ, Miên - nhân vật trung tâm của tiểu thuyết Chốn vắng - "chìm đắm trong cõi riêng" của mình. Miên có chốn để "tự tại, an trú" ngay trong lòng mình, từ đó "đôi mắt chị phóng thắng vào khoảng trời riêng". Đức hạnh của Miên được "an trú" ngay trong lòng mình nên trở thành tự tĩnh bản ngã, bản thể, thường khi quá nhập tâm đến trở thành vô thức. Tác giả đặc biệt nhấn mạnh những nét bền vững trong đức hạnh của Miên: "bản tính trinh nữ trường cừu", "những nét quý phái bẩm sinh"... Với đức hạnh tự tính những quyết định đạo đức được quyết bằng cái đầu của mình (chứ không phải do tuân theo người khác), nên đã quyết là hành động, đã hành động là hành động đến cùng, không giao động, ngả nghiêng. Trong tiểu thuyết, dư luận và đàm tiếu của xóm làng có sức ép ghê gớm. Miên đang sống yên vui vơi Hoan thì Bôn trở về. Cuối cùng thì Miên xách hòm trở về với Bôn, không phải vì sợ dư luận. Mà vì nghĩa. Miên là một người có nghĩa. Ở mặt này nhân vật Miên khác hẳn nhân vật Loan và những cô gái mới khác trong Tự lực văn đoàn. Cũng như mọi đức hạnh khác, nghĩa của Miên có gốc rễ bền vững. Điều này càng rõ về sau, khi thấy Bôn đau ốm và cô đơn. Miên đưa anh về nhà của mình tận tình chăm sóc, mặc dù trong công luận không hề có sự đòi hỏi này, hơn nữa, hành vi này của Miên có nguy cơ gây sự nghi ngờ ở Hoan, làm tan vỡ hạnh phúc đương chắp nối giữa hai người. Miên đã làm hết sức mình để trọn nghĩa, nhưng không phải vì vậy mà có sự chiếu cố về tình. Tuyệt đối không một sự chiếu cố nào. Chung chăn chung gối với Bôn, Miên lúc nào cũng "nằm bất động như khúc gỗ" và về sau này, Bôn được đối đãi tử tế nhưng cấm chỉ không dược bén mảng đến buồng của Miên. Trong hoàn cảnh nào thì Miên vẫn cứ là bản thân mình.

... Vậy mà cơn mưa rào đường đột đã dẫn anh bước qua ngưỡng cửa nhà bà, hơn thế nữa lại tắm trong phòng tắm của bà và mặc bộ áo quần do chính bà đưa tới...
Dẫu sao, anh cũng cảm thấy thoải mái sau khi được tắm nước nóng được mặc bộ quần áo khô và anh đành tặc lưỡi:
... Cũng chẳng có gì nghiêm trọng. Coi như đây là món nợ và ta sẽ tìm cách trả...
Hoan nghĩ vậy khi rời phòng tắm. Bà Kim Lan đã pha sẵn ấm trà:
- Cháu uống trà và ăn sô-cô-la cho ấm bụng. Ðồ của Liên Xô đấy. Ðoạn bóc thêm một gói kẹo, bà nói:
- Còn kẹo này của bạn thân bác trai vừa đi Tiệp Khắc về biếu. Cả thành phố chưa ai được nếm đâu...
Ðã quá lâu chàng trai không được hưởng mùi vị của những thứ đồ ăn xa xỉ đối với cái xã hội bần hàn anh sống. Thêm nữa, vị trà nóng thật dễ chịu sau cơn dầm mưa như thế. Anh uống hết chén trà này tới chén trà khác, nghe người đàn bà thao thao nói và thấy bà cũng không đến nỗi đáng ghét như anh vẫn tưởng. Bà bạo dạn, khéo chuyện, biết pha vào câu chuyện những mảnh tiếu lâm hoặc những lời bình chú nửa dân giả nửa học trò. Nhận xét sắc sảo của bà khiến những chuyện đầu Ngô mình Sở chắp vá vẫn mặn mà. Trong lúc nói, bà không ngừng tay rót nước và bóc kẹo mời anh. Cuộc chuyện trò của họ kéo dài tới sẩm tối, thành phố lên đèn và chồng bà trở về. Bà Kim Lan mời Hoan ở lại ăn cơm nhưng anh từ chối:
- Cháu chưa xin phép ba mẹ cháu. Xin bác để khi khác.
- Thôi được, một lời hứa là một món nợ... Thế là cháu nợ bác rồi nhé...
- Ba cháu cũng dạy như thế. Cháu xin cảm ơn bác.
Hoan định bụng vài hôm nữa sẽ tới trả bộ quần áo và ăn cơm tối với bà. Nhưng ngay chiều hôm sau khi anh từ sân bóng về, bà giáo đã đưa cho anh mảnh giấy:
Cháu Hoan thân mến,
Mới chuyện trò với cháu một lần nhưng bác đã mến cháu vô cùng. Bác xin phép ba mẹ cháu cho cháu dùng cơm với bác tối nay. Chẳng có gì linh đình chỉ là bữa cơm gia đình thân mật. Mong cháu không từ chối.
Chữ ký: Kim Lan nắn nót kèm theo. Hoan bắt đầu lo ngại. Cách cư xử, vẻ ào ạt thân tình như giông bão của bà không thích hợp với tâm hồn anh, với khuôn phép mực thước cuộc sống anh đã tu dưỡng từ thuở lọt lòng. Anh hỏi mẹ:
- Bà Kim Lan đã nói gì với ba mẹ?
- Chẳng nói gì ngoài những lời khen ngợi con.
- Sao ba mẹ nhận lời mời dễ dàng thế?
- Ba mẹ không nhận lời. Nhưng bà ấy nói rằng chính con đã hẹn tới nhà bà ăn cơm.
- Nhưng không phải tối nay. Con định vài hôm nữa kiếm món quà để cảm tạ bà ấy đã cho con tắm nhờ hôm gặp mưa và ăn cơm một thể.
Bà giáo thở dài:
- Mẹ chẳng có cách nào hơn là cầm thư của bà ấy.
Hoan đi tìm cha. Ông giáo ngồi đọc sách ngoài vườn nhưng dường như đoán trước thế nào anh cũng tới nên vừa nghe bước chân ông đã quay lại:
- Sao thế con trai?.. Khó xử lắm à?
Hoan im lặng. Cha anh nói tiếp:
- Trước khi hỏi ý kiến ba mẹ, bà ta khẳng định rằng chính con hứa tới thăm bà ấy, rằng con tắm táp thỏa thuê ở nhà bà ấy sau cơn chạy mưa và cuộc nói chuyện giữa hai người vô cùng tương đắc.
Thấy anh đứng đần mặt, ông an ủi:
- Thôi, đừng cả lo... Chẳng có gì nghiêm trọng. Họ săn đón con cũng là điều dễ hiểu... Theo cha, nhiều bà mẹ có con gái đến tuổi trưởng thành đều muốn săn đón như vậy. Nhưng chắc họ không thể táo gan và trơ tráo như bà trưởng cửa hàng.
Hoan ấp úng. Anh không thể cắt nghĩa cho cha mình hiểu rằng mối sợ hãi đang lởn vởn trong tâm trí anh. Anh không rõ nguồn cơn nhưng cảm thấy sự bất an như con rắn núp trong vòm lá rậm rạp, cặp mắt nham hiểm của nó dõi theo từng bước đi của anh trong khi anh hoàn toàn không nhìn thấy nó.
Ông giáo thấy anh ấp úng, liền nói tiếp:
- Thôi, con cứ đến nhà họ. Ðó chẳng phải thứ người mình ưa nhưng là hạng người mình không thể tránh mặt... Vả lại, kẻ sẽ quyết định mọi sự chính là con. Xưa nay, nam nhi hỏi vợ chứ chẳng phải nữ nhi cưới chồng. Dẫu thời đại tân tiến đến đâu, luật tắc ấy cũng khó thay đổi.
Ðoạn ông tủm tỉm nhìn anh pha trò:
- Xem ra con trai ba cũng đắt giá phải không?
Hoan cười theo ông. Anh đi tìm quần áo. Hoan định mặc chiếc áo ngắn tay nhưng ông giáo bảo anh đổi lấy chiếc sơ-mi trắng dài tay:
- Con hãy mặc nó với chiếc quần ka-ki xám. Ðến nhà hạng người ấy hãy mặc thứ trang phục nghiêm khắc, già hơn tuổi.
Ðoạn ông bảo anh thay đổi săng-đan bằng đôi giày da. Hoan hỏi:
- Con còn phải làm thủ tục nào nữa không ba?
- Thế là đủ. Cầm theo hộp bánh trên bàn, ba đã bảo mẹ con mua sẵn.
Chàng trai cầm hộp bánh có buộc sợi nơ hồng đi đến nhà bà trưởng cửa hàng. Bà đang bầy bàn ăn. Nhìn thấy Hoan, bà reo như đứa trẻ:
- Có thế chứ... Quý tử của ông giáo Huy rất biết giữ lời...
Căn nhà của bà sực mùi nước hoa. Chắc bà đã vẩy cả nước hoa lên tường vôi khiến không gian thơm quay quắt. Dường như không chỉ có tóc tai quần áo bà chủ và các bức tường mà đến rèm che, ghế nệm, khăn trải bàn đều bốc mùi thơm ấy. Mùi nước hoa Tàu rẻ tiền xộc thẳng vào khứu giác như các món xào nấu của dân Quảng Ðông Quảng Tây ngụ cư trong thành phố.
- Cháu ngồi đây chờ bác, chút xíu nữa là xong.
- Thưa bác, ba mẹ cháu biếu bác hộp bánh.
- Trời ơi, ăn vài bát cơm rau mà tặng hẳn hộp bánh thượng hạng này...
- Bác trai chưa về ạ?
- Không, không... Sáng nay ông ấy vừa lên máy bay ra Hà Nội họp. Trung ương triệu tập đột xuất cuộc họp các chủ tịch tỉnh, ông chủ tịch tỉnh đang điều trị vết mổ ruột thừa, ông chủ tịch thành phố đang nghỉ mát tại Liên Xô nên bác trai phải đi thay. Hôm nay chỉ có hai bác mình và em Liên thôi...
Dứt lời, bà cao giọng gọi:
- Kim Liên... Ra chào anh đi con...
Và có tiếng cô gái vọng từ bếp ra:
- Chút nữa đã, con đang dở tay món cá...
A, đúng như cha dự đoán, đây là con át chủ bài... Hẳn họ muốn chinh phục trái tim ta qua cái dạ dày...
Hoan nghĩ, nửa khoái trá nửa bực tức vì tấn trò đang diễn. Cái cô gái tên là Kim Liên kia anh đã nhìn thấy nhiều lần, khi cô ta còn nhỏ. Một đứa bé đanh đá quen nhõng nhẽo. Mỗi bận cô ta đến cửa hàng bà Kim Lan lại có dịp đóng vai một bà mẹ phẩm giá vừa biết chiều chuộng vừa biết dạy bảo cô tiểu thư cành vàng lá ngọc. Còn cô bé kia được dịp biểu diễn quyền uy của đứa con duy nhất biết rằng cha mẹ nó không dám từ chối bất cứ thứ gì nó yêu cầu. Mấy năm nay không thấy cô ta đến cửa hàng, nghe bà Kim Lan nói cô đã ra Hà Nội học ngoại ngữ để du học bên Ðức... Và đột ngột, giờ cô lại xuất hiện, trong vai cô gái nhu mì làm món cá đãi khách:
Chẳng biết loại con gái nhõng nhẽo như vậy nấu nướng có ngon không? Nhưng nhan sắc và đức hạnh của cô nàng thật đáng lo ngại...
Anh thầm nghĩ với một thoáng riễu cợt trong khi nhìn bà Kim Lan xăng xái đi lại, xăng xái khoe tất cả những thứ gì có thể khoe được trong căn nhà sang trọng của bà. Hoan thấy khó chịu vì vẻ lộ liễu của người đàn bà ấy. Ðối với anh chẳng cuộc phiêu lưu tình ái nào cuốn hút hơn cuộc phiêu lưu của con tàu ngược lên phương Bắc. Không gương mặt cô gái trẻ nào quyến rũ trái tim anh hơn những chân trời mộng tưởng, những chân trời tím chân trời xanh, những chân trời ở nơi hút tầm mắt và những chân trời phiêu diêu giữa cơn mơ rộn ràng của tuổi trẻ... Thêm nữa, mùi thơm của thứ nước hoa Tàu rẻ tiền trong nhà bà lại bốc lên gay gắt quá khiến anh muốn tắc thở:
- Dù là dân biển nhưng bác vẫn ngại làm các món cá vì tốn thời gian. Nhưng tối nay sẽ có món cá chim hấp nấm, canh chua cá cam với dứa và rau thơm, cá thu kho gừng. Thêm gà tần hạt sen trắng.
- Bác cầu kì quá. Có ba người cần chi bày vẽ...
- Bác đâu có cầu kì... Nhưng muốn hay không tối nay cháu cũng là thượng khách.
Bà cười. Mắt bà ướt long lanh và cặp môi dầy run run như sắp sửa co thắt lại. Hoan cúi mặt. Anh không quen nhìn những người đàn bà lứa tuổi mẹ anh lại có nụ cười như thế. Bà Kim Lan đặt đĩa hoa quả lên bàn, xoa hai tay:
- Xong cả rồi... Chờ bác rửa tay và em Liên thay quần áo. Bếp nóng quá mồ hôi ra ướt cả lưng.
Bà quay vào.
Hoan vớ cuốn họa báo trên kệ, lật xem. Dạ dày anh sôi sùng sục. Giờ ăn theo thường lệ đã qua từ lâu. Hơn nữa, chiều nay anh đã đánh tới năm séc bóng liền. Ở nhà anh giờ này mọi người đã ăn xong bữa cơm thường nhật. Không cao sang nhưng luôn có món ăn quen miệng và ưa thích. Bà giáo lẫn chị Nền, đứa cháu họ của bà, đều là những tay nấu ăn cự phách. Dù chỉ là món tôm rang hành tiêu hay món thịt kho nước dừa vào tay họ cũng thành những món ăn hấp dẫn khiến anh có thể đánh bay măm bát cơm đầy, thêm đĩa nộm hoa chuối, tô canh chua, món rau cải xào dầu hàu, bữa cơm của họ càng hấp dẫn. Và sau đó sẽ là bát chè tráng miệng mát như thạch:
Thật xui xẻo cho ta, thật đáng nguyền rủa cái cơn mưa chết tiệt chiều qua. Nếu không, giờ này ta đã có thể ngả lưng trên giường đọc sách...
Anh tự nguyền rủa mình, cảm thấy chất cường toan trong dạ dầy thấm đến từng thớ thịt khi hai mẹ con bà trưởng cửa hàng vẫn nhí nháu chuyện trò trong buồng tắm. Hoan ngước mắt nhìn đồng hồ treo tường, bốn mươi nhăm phút đã qua... Chắc chắn không phải họ thay quần áo mà họ cố tình đùa bỡn cái dạ dày khốn khổ của anh, hành hạ nó tới mức tất thảy mọi món ăn họ nấu đều biến thành nem công chả phượng...
Khốn kiếp thật... Không có thứ chủ nhà nào đãi khách kiểu này...
Chàng trai gò lưng xuống để chống lại cơn gào thét của bao tử. Mồ hôi anh vã chạy dọc sống lưng. Tay anh lật báo liên tục mà chẳng đọc nổi dòng nào. Và anh cứ ngồi trong cái tư thế kì quặc ấy cho đến khi mẹ con bà chủ xúng xính bước ra. Bà mẹ mặc bộ đồ lụa hồng còn cô con gái áo váy lòe xòe. Hoan không còn muốn nhìn vào mặt họ, anh phải cố gìm lại ý muốn xô mâm cơm xuống rồi bỏ về. Nhưng cuối cùng, chàng thiếu niên được giáo dục trong anh vẫn thắng. Anh vẫn buộc lòng phải nở nụ cười tươi khi bà hỏi:
- Khổ thân vị khách quý, cháu đói lắm phải không?
- Dạ... không... Cũng thường thôi ạ.
- Tối nay cháu bị xơi món Mầm Ðá... Cháu biết truyện Trạng Quỳnh đãi chúa Trịnh món Mầm đá hay không?
- Cháu biết.
- Kì lạ, dân Việt Nam mình thật thà chất phác thế mà đẻ ra cái ông trạng tinh ma quỷ quái kia... Này Hoan, cháu thích uống rượu gì? Bác có sâm-banh Nga lẫn rượu nếp quê nhà.
- Cảm ơn bác, cháu không biết uống rượu.
- Không được, không được, nam vô tửu như kỳ vô phong... Liên, đưa chiếc ly tròn kia cho mẹ...
Bà rót vào chiếc ly tròn thứ nước đỏ sẫm rồi giơ lên ngắm nghía dưới ánh đèn:
- Không ra sao cả... Rượu nếp than phải rót vào ly pha-lê Tiệp mới nổi sắc... Kim Liên, đổi cho mẹ mấy chiếc ly Tiệp ra đây.
Cô con gái lại xoay váy chạy vào, bà mẹ lại đổ rượu, thay ly, lại giơ lên ánh đèn ngắm nghía...
Hoan đói mờ cả mắt, và cơn tức giận còn khiến thần kinh anh căng thẳng hơn. Nhưng anh vẫn cố dặn mình:
Phải húp ít nước canh trước cho dịu cơn đói. Nếu không họ sẽ ép ta uống rượu và ta sẽ bị say...
Anh nhăm nhăm chờ bà chủ nhà khai mạc bữa cơm để chắt bát nước anh uống. Nhưng bà chủ nhà đã nâng ly rượu đỏ lên, nói gì đó anh chẳng còn nghe rõ, đoạn đặt ly rượu vào tay Hoan yêu cầu cụng ly với mẹ con bà trước khi ăn:
- Không người đàn ông nào lại đặt ly rượu đầy trước mặt trong bữa tiệc. Cháu phải cạn chén đầu tiên.
Hoan đặt chén rượu lên môi, dốc một lần đến đáy cốc rồi anh đặt chiếc ly kia xuống, anh tìm bát canh cá chắt sang bát ăn của mình. Một hơi nữa chàng trai húp cạn bát canh, không còn cảm nhận nổi mùi vị. Lúc đó, cơn đói mới bắt đầu dịu xuống. Nhưng cùng với bát nước canh, ly rượu đỏ của bà Lan thấm vào cái dạ dầy đói khát của anh khiến anh chếnh choáng. Hoan chưa từng uống rượu bao giờ. Ở nhà anh, thi thoảng được phép ăn rượu nếp nhưng là sau bữa cơm. Cha anh không cho anh uống rượu vì anh cũng giống hệt như ông, chỉ cần đụng môi tới chén rượu mặt đã đỏ như gấc. Lần đầu tiên Hoan bị đẩy vào cuộc phiêu lưu này. Anh không phân biệt được mùi vị các món ăn. Anh ăn như cái máy, lùa tất thảy những gì bà Kim Lan và cô con gái bỏ vào bát anh xuống dạ dày. Anh cũng không nhớ đã trả lời những câu hỏi của họ ra sao. Anh nhớ rằng đã nói khi họ nói, anh cất tiếng cười theo khi họ cười, toàn thân anh nhẹ bổng, tròng trành như con thuyền rỗng không neo trên hải cảng. Mỗi lần bà Kim Lan giơ cao lên chiếc ly đỏ sóng sánh, con thuyền anh tròng trành chao đảo dữ dội hơn. Dường như chất nước đỏ thắm kia khiến hải cảng bình yên nổi sóng. Hoan nhắm mắt lại, kệ cho các ngọn sóng đong đưa thân xác anh, và những tiếng ru xa vời từ khơi xa vọng lại xô đẩy anh vào một giấc ngủ đắm chìm mộng mị...
Ðến thời khắc nào đó, Hoan chợt thức giấc. Nhưng anh vẫn nhắm nghiền mắt vì một biển lam mênh mông trải dưới thân mình. Biển cuốn hút vời gọi anh trong cái yên lặng mơ đắm dịu dàng khôn tả, trong những luồng sáng kì dị tựa những lằn thủy tinh tím sẫm óng ánh lướt qua lướt lại. Ðại dương mênh mông phẳng lặng không sóng không thuyền không cánh buồm không mây phủ không cả lũ hải âu, loài chim biển đa tình... Anh như chiếc thuyền nhỏ dứt đứt dây neo, rời hải cảng lênh đênh giữa mênh mông, giữa màu lam mơ ảo, rượt theo những vệt sáng tựa những lằn thủy tinh tím đen long lanh ánh trai ngọc.
Hãy bơi ra xa, hãy đi qua cuộc phiêu lưu này trước khi lên tàu xa xứ Bắc... Lần đầu tiên ta thấy biển kì lạ nhường này...
Hoan đã bơi rất xa, thấy yên lặng khôn cùng bao phủ quanh mình. Thuyền anh nổi trên làn nước bao la vô định. Bất chợt màu lam biến mất. Mất cả những vệt tím óng ánh thủy tinh. Trên đầu anh là trời đêm không trăng không sao. Cực yên tĩnh. Tâm hồn anh cũng yên tĩnh. Anh đã nằm im lặng như thế rất lâu. Một thế kỷ trôi qua. Anh ngỡ trời sắp sáng, chân trời yên bình không giông bão sẽ rực rỡ dưới vầng dương, và lúc ấy, anh bơi về hải cảng.
Rồi anh nghe ba tiếng chuông thong thả rót xuống từ vòm trời đen thăm thẳm kia. Hoặc anh đang mơ hoặc tiếng chuông kia vòng từ những con tàu bị đắm dưới bùn sâu, vọng âm truyền qua các tầng nước nỗi tiếc thương chưa dứt:
Ðã có lần ta đọc về đời sống của những tên cướp biển. Vong hồn những kẻ bị sát hại đêm đêm trở về vây quanh khu đảo bọn cướp cùng vợ con trú ngụ, gào thét và nguyền rủa. Tiếng hú của các hồn ma khiến hoa trong vườn lũ cướp chưa kịp nở đã rụng hết cánh, lũ chó giữ nhà của chúng chỉ qua một đêm đã rụng hết lông rồi hóa điên cứ dựng đứng hai chân lên mà hú... Nhưng sao bỗng dưng ta nhớ lại câu chuyện ghê rợn này... Phải quên đi, quên đi...
Anh trở mình, nằm nghiêng.
Vùng biển lam lại hiện lên trong suốt, an bình. Tâm hồn anh trở lại thơ thới. Bất chợt vật gì đó lướt nhẹ trên da thịt anh. Hoan chưa kịp hiểu từ đâu và vì sao những cảm giác se sẽ kia cứ lặp đi lặp lại. Những dao động êm ái đó khiến anh sung sướng lạ kì chưa từng biết:
Phải rồi, người ta gọi cái đó là ve vuốt. Ve vuốt, ấy là cử chỉ của những cặp tình nhân, của Ðes-dê-mo-na với Ô-ten-lô, của Mas-lô-va với người yêu nàng... Vậy thì những vuốt ve đang mơn trớn thịt da ta, em từ đâu tới? Có lẽ những nàng Xi-ren vẫn còn tới thế kỷ hai mươi này?
Trong trí não anh băn khoăn tìm kiếm, da thịt anh đã cháy rực lên dưới những vuốt ve câm lặng vô danh. Những vùng cấm kỵ nơi sâu kín nhất của chàng trai đồng trinh được những ngón tay thần bí của nàng Xi-ren thức dậy. Ngay tức khắc, con mãnh thú trong thân thể cường tráng của anh chồm lên. Nó duỗi căng gân cốt như loài mèo thức dậy, và trong bóng tối huyền bí kia nó đáp lại những ve vuốt vô danh rất nhạy bén và mãnh liệt. Sau những ve vuốt khởi đầu ấy, nó nhảy xổ vào thao tác tình ái một cách bài bản, thành thực, hoàn thiện như bậc thầy xuất sắc của nghệ thuật làm tình...
Rồi Hoan tỉnh mộng. Không phải vì nàng Xi-ren xô con thuyền của anh về hải cảng mà vì tiếng gọi của bà chủ nhà:
- Hoan... Hoan... Tỉnh dậy đi cháu...
Hoan mở choàng mắt, thấy gương mặt ân cần của bà Kim Lan đang cúi xuống. Anh định ngồi dậy nhưng đã kịp nhận ra mình trần như nhộng chỉ có một mảnh khăn tắm trùm ngang bộ phận kín. Nằm cạnh anh là cô con gái bà chủ nhà. Cô mặc chiếc váy ngủ mỏng như mạng nhện, mặt vẫn trát đầy son phấn. Mồ hôi chảy ra trong cơn làm tình khiến son chảy phấn loang nhơm nhếch và trông cô như ả đào cải lương gặp mưa. Chiếc giường họ nằm là giường đôi, họ gối lên cặp gối trắng tinh thêu những con chim câu tung cánh. Cảnh tượng hoàn toàn là cảnh khuê phòng còn họ sắm vai cặp uyên ương ngày đầu trăng mật. Hoan đã đoán được bảy tám phần câu chuyện. Tim anh lạnh ngắt:
Ta đã bị lừa lên chiếc giường này đêm qua... Ta đã sập bẫy...
Bà trưởng cửa hàng nhắc lại:
- Hoan, dậy đi cháu... Ba mẹ cháu đang chờ ở phòng ngoài.
Chàng trai lặng đi. Ông bà giáo Huy đã bị triệu tới đây, buộc phải chứng kiến và lãnh nhận hậu quả này: Hai con người khả kính đó, anh chưa đền ơn trả nghĩa được ngày nào, đã du đẩy họ vào nỗi nhục nhã không thể gột rửa:
Cha ta sẽ nói sao? Ông sẽ nhìn ta với con mắt buồn nản. Và mẹ ta sẽ phải cúi đầu vì hổ thẹn trước mặt phố phường...
Anh nhìn sang bên cô con gái bà trưởng cửa hàng đang oằn oại trong cơn ngái ngủ, miệng há ra ngáp không buồn che đậy. Ðứa con gái tuổi mới mười lăm mà trông đã rạc dày. Hoan kinh tởm. Anh ngẩng cổ tìm quần áo của mình. Bà Kim Lan biết ý, nói:
- Quần áo của cháu bác đã mang vào phòng tắm. Cháu tắm rửa thay đồ trước em Liên. Rồi cả hai ra phòng khách nói chuyện. Dứt lời, bà quay đi.
Hoan quấn tấm khăn quanh hông, bước vào phòng tắm kề sát gian buồng của họ. Anh tắm nước lạnh, kì cọ đến trầy da mà chẳng hiểu làm như vậy để làm gì, đầu anh nóng như cỗ máy đã khởi động nhưng bộ phận truyền cơ bị hãm chốt nên chẳng nghĩ nổi một ý nghĩ nào rành mạch ngoài nỗi sợ hãi: Ba mẹ anh đang chờ ngoài phòng khách, anh sẽ ăn nói với họ ra sao? Nhất là cha anh, người suốt đời chưa hề nói năng sàm sỡ, chưa hề có một cữ chỉ bất nhã, chưa làm điều chi nhỏ nhặt tầm thường dù là chuyện đồng tiền phân bạc, chuyện rượu chè hay chuyện bướm ong...
Liệu cha ta sẽ xử sự ra sao trước họ hàng thân quyến và xóm giềng nơi phố xá? Ông sẽ tuyên bố từ bỏ ta trước bàn thờ tổ tiên rồi trục xuất ta khỏi gia đình hoặc sẽ lẳng lặng nhìn vào mặt ta cái nhìn lạnh lùng khinh bỉ...
Hoan thầm nghĩ và biết rằng trong trường hợp thứ hai anh buộc lòng sẽ phải rời bỏ gia đình, chính anh ra đi trước, bởi anh không thể sống trong sự khinh bỉ, cho dù đó là sự khinh bỉ của người đã tác tạo nên anh.
Có tiếng gõ cửa, sau đó là tiếng gọi của cô con gái:
- Anh ơi, anh tắm xong chưa?
Cái tiếng gọi đó khiến anh nổi cơn điên. Anh quát:
- Ai? Hỏi gì?
Sau đó xối nước ào ào như để khỏa lấp cơn giận dữ. Khi anh ngừng tay, tiếng nói kia lại cất lên và lần này giọng nói rắn đanh lại, đầy vẻ thách thức:
- Anh tắm mau lên mà ra phòng khách. Ba mẹ anh đang chờ anh ở đó. Ðể phòng tắm cho người khác nữa chứ... không ngủ ở trong ấy được đâu...
Hoan sững người:
A, con bé này ghê gớm thật. Chính nó đã tham gia sắp đặt tấn tuồng chứ không riêng gì mụ Kim Lan. Kinh khủng mới mười lăm tuổi mặt non choẹt mà đã biết lọc lừa. Vậy nàng Xi-ren đêm qua đã hiện hình thành con hồ ly thứ thiệt...
Chàng trai nghĩ và bắt đầu căm ghét cái người đàn bà mười lăm tuổi. Trong trí nhớ của anh lần lượt diễu qua những gương mặt khả ái, những cô bạn đồng học, các cô bé dưới lớp, đám bạn gái cùng phố...
Khốn nạn cho ta, đứa con gái xấu xí nhất trong đám bạn gái còn xinh xắn hơn con bé lăng loàn. Thêm nữa, tính tình nó cũng xảo trá, cũng trơ trẽn như người mẹ...
Hoan mặc quần, đẩy cửa phòng tắm bước ra. Cô Kim Liên lập tức bước vào, không ai chào ai. Bộ mặt vênh váo của cô ta đầy thách thức:
Muốn hay không anh cũng phải cưới tôi, anh có chạy đằng trời...
Anh đưa mắt liếc nhìn cái gương mặt choắt cheo, chiếc cằm nhỏ chẻ đôi, môi mỏng và hai hàng lông mày chạy xiên xẹo kẻ những đường chì quá đậm... ấy là gương mặt của định mệnh. Ấy là lưỡi gươm đã cắm sâu vào trái tim thù hận của anh. Gương mặt ấy đã ám ảnh anh suốt chín năm trường, ba ngàn hai trăm tám mươi lăm ngày, từ khoảnh khắc họ gặp nhau trên ngưỡng cửa phòng tắm, số phận đã kết trói họ trong một cuộc cộng sinh mà mỗi ngày thù hận kết thêm những gút dây cho đến nỗi ngay cả sau khi ly hôn, những gút mắt đó vẫn kêu gọi cuộc trả thù...
Tuổi trẻ của anh, ước mộng của anh đã bị tước đoạt một cách oan uổng do cuộc hôn nhân ấy, và vì thế, anh không thể thủ tiêu gã sát nhân thường trú ngụ trong anh... chỉ mãi sau ngày gặp Miên, tình yêu mới xóa mờ những mối thù hận cũ.
Hoan đã ngỡ có thể chia tay hoàn toàn với quá khứ đau buồn, với nỗi bất hạnh. Anh những tưởng hạnh phúc của anh sẽ mãi mãi bền chặt vì nó được xây cất trên nền móng của nghiệm sinh, của tình yêu thuần khiết và của những khổ đau anh đã trả. Vào lúc anh ngỡ không còn hiểm họa nào đe dọa con thuyền hạnh phúc của mình, bão giông ập tới... đường đột hơn cơn mưa rào mười sáu năm về trước. Mà anh, anh không còn là chàng trai hai mươi hai tuổi... anh thấy lòng nao núng:
Miên ơi, em nghĩ gì lúc này? Em tính sao đây? Em sẽ không bỏ anh mà đi chứ?
Một đoàn ô-tô nữa từ phía sau vọt lên, phà bụi mù mịt. Hoan chợt nhận ra anh vừa rên rỉ thành lời. Anh vội dừng xe lại, khạc miệng đờm đầy bụi, rút khăn mù-soa lau hai lỗ mũi đen sì rồi lại chụp mũ bảo hiểm lên đầu. Từ đây về Xóm Núi chỉ còn mươi cây số. Mười lăm phút nữa anh sẽ có mặt ở nhà. Vợ anh ở đó, con trai anh ở đó, cuộc sống thật sự của anh ở đó... và mọi chuyện sẽ tính sau.
Dẫu đã tự trấn an như vậy, nhưng khi về tới Xóm Núi, Hoan vẫn không nhìn thấy đám láng giềng đứng bên đường chào hỏi, cũng chẳng kịp đáp lễ những người đi ngược đường cho tử tế. Anh phóng thẳng xe qua cổng, vừa phóng xe vừa dùng chân đạp cho cánh cổng mở rộng hẳn rồi lao thẳng tới trước thềm.
Miên ngồi kia, con trai ta ngồi kia... tất cả vẫn đều nguyên vẹn...
Anh nghĩ vậy rồi cứ ngồi trên chiếc xe còn sình sịch nổ máy nhìn vào nhà. Miên đang chơi với con. Chị quay lại:
Gương mặt em đó, hồng hào như mọi ngày, đôi mắt em đó, đôi mắt của mọi ngày...
Anh tắt máy, bước xuống xe. Thong thả, cởi chiếc mũ bảo hiểm treo vào tay và bước lên bậc tam cấp. Vợ anh đứng sững nhìn anh, không cười như mọi ngày, cũng không hỏi anh một câu vu vơ như mọi bận.
- Sao anh đi lâu thế?
- Sao anh chẳng nhắn nhe gì?
- Sao anh không chờ tạnh mưa hãy về... ướt hết rồi còn đâu...
Ðại loại những câu hỏi chỉ để hỏi, tựu trung chúng chỉ nhằm che giấu nỗi vui mừng nhằm làm dịu nhớ nhung và khỏa lấp niềm mong chờ ân ái...
Miên không hỏi những câu vu vơ nữa, không lặp lại cái điệp khúc giản dị của hạnh phúc, không bước những bước hấp tấp lại đón anh để bộ quần áo lụa tạt về sau làm nổi khuôn lên cái thân hình óng ả mà anh quen thuộc và đắm say từng ly tấc. Vợ anh đặt lên bàn chiếc bát rồi buông xõng hai tay chăm chăm nhìn anh. Ðôi mắt đen của chị hút về anh run rẩy, đói khát, đau đớn. Ánh mắt ấy là con thú hoang uống lần cuối dòng suối trước khi bước vào sa mạc, là kẻ mót lượm vơ vét mảnh ruộng sau chót trước lúc sang đông, là kẻ tử thù thụ hưởng bữa cơm đặc ân trước giờ hành quyết...
Hoan tiến thêm mấy bước nữa về phía vợ. Chị cũng bước lại để ngả vào ngực anh. Họ ôm nhau. Và cùng khóc.
Chương 7
Ðêm yên bình quá.
Yên bình đến tiếng giun dế nỉ non, tiếng kêu thảng thốt và tiếng hót thơ dại của các loài chim đêm cũng chỉ làm tăng thêm vẻ yên bình đó. Im lặng tan chảy trên những phiến lá cam bạc trắng, những ngọn cau, những đóa mẫu đơn đọng đầy sương, những búi cỏ leo dưới chân tường. Gió như chẳng còn là gió mà chỉ là tiếng thở dài trộm lén của kẻ nghi kị và sợ hãi tất thảy nhân gian đành ngấu nghiến nỗi buồn của mình. Càng về khuya, trăng càng sáng. Nhưng chẳng phải ánh vàng lộng lẫy mà là thứ ánh bạc trộn cùng các tia lửa dạ quang. Trăng mênh mông trùm phủ núi rừng, thôn xóm, các dải đồi hoang, các nương rẫy, tất thảy các đường nét hình khối hòa trộn thành một niềm mờ ảo, một đại dương giao hòa bóng tối, ánh trăng, lửa lân tinh thoi thóp ven rừng, những dải sương trắng đục kéo từ vực sâu qua thung lũng. Ðại dương ấy phân cắt với bầu trời bởi một đường viền đen thẫm phía tây, ấy là dải Trường Sơn. Phía sau rặng núi, trời đêm ánh lên màu lá mạ.
- Nhà nhà đã tắt đèn.
Hoan lên tiếng.
- Chỉ nhà mình có thói quen để đèn đêm.
Miên đáp.
Rồi họ lại yên lặng.
Ðây là lần đầu tiên hai người cùng trèo lên sân thượng cùng ngắm nhìn khung cảnh xung quanh. Khung cảnh quen thuộc mà chưa có lúc nào họ có thời gian để mắt tới. Ngôi nhà Hoan xây theo kiểu cổ, tường cao, cột cao, lợp ngói dày không có gác. Nhưng khi xây khu nhà kho, nhà bếp và nhà tắm, anh cho đổ một sân thượng rộng trên năm chục thước vuông để Miên lấy chỗ phơi quần áo và buổi tối ngồi uống trà. Sân thượng có lan can bao quanh, đứa con trai họ tha hồ nhảy nhót. Trên sân đặt sẵn đôi tràng kỉ và chiếc bàn nhỏ, thường khi, cơm chiều xong, hàng xóm đến uống trà hoặc đánh cờ. Thêm nữa, họ có thể mở đài nghe tin tức thế giới, tán gẫu và phóng tầm mắt đến tận chân trời. Vào giờ những người đàn ông tụ họp, Miên bận tắm rửa cho con hoặc thu vén nhà cửa, bởi thế, trừ những lúc phải trèo lên sân thượng để phơi quần áo, chưa bao giờ Miên đặt chân lên đây vào buổi tối. Ðêm nay bất chợt Hoan bảo:
- Trăng sáng quá, mình lên sân thượng đi em.
- Dạ.
Chị gật đầu tức khắc, nhưng chưa hiểu anh muốn gì. Khi Hoan đưa tay dắt chị lên cầu thang. Miên bỗng tràn đầy hối tiếc:
Mình sắp phải xa ngôi nhà này, mà chưa biết ban đêm khung cảnh ra sao... cũng như buổi tối Bôn về đây, mình mới để mắt tới vườn cam sau nhà... cái gì ta bắt đầu nhận biết, là ta sắp mất...
Ý nghĩa ấy khiến chị hụt hang, và chị ngả đầu vào vai chồng. Hoan ôm vợ. Tấm thân cao lớn của anh là bức thành che chắn cho chị. Vòng tay anh quàng qua lưng chị, cử chỉ quá đỗi thân thuộc khiến chị muốn khóc. Anh đã ôm chị như thế vào những ngày họ mới yêu nhau, vào lúc chị bị ngất xỉu trong thời kì ốm nghén, vào ngày đưa chị tới trạm hộ sinh, vào một tối ba mươi Tết lúc chị bưng nồi chè lên nhà giẫm phải vỏ cam suýt ngã, và một lần... chị từ buồng tắm ra anh đã ôm thốc chị trở lại để bắt chị tắm cùng anh lượt nữa trong gian phòng tắm nghi ngút hơi nước, Hoan cười như nắc nẻ và bên ngoài, trời rét tái tê. Còn bao lần như thế nữa? Hoan đã ôm chị bất cứ lúc nào anh có thể, những kỉ niệm ấy không thể đếm xuể trong quãng thời gian họ chung sống và lẽ ra nó có thể kéo dài tới lúc hai người đầu bạc răng long...
- Em có lạnh không?
- Không.
- Em làm sao vậy?
- Không.
- Nước mắt em nhòe ướt áo anh.
- Không.
- Mù-soa đâu, đưa anh lau cho.
Một con chim lợn bỗng buông tiếng kêu đầu ngõ. Tiếng kêu vãi trong không gian một thứ âm thanh cục cằn, u ám. Miên ôm riết lấy chồng:
- Người ta bảo chim lợn kêu là sắp có người chết.
- Vậy thì dân sống ven rừng sẽ chết quanh năm... em đừng tin điều đó.
Hoan dừng lại một khoảnh khắc rồi tiếp:
- Nhưng đêm nay tiếng chim lợn rơi đúng ngõ nhà mình... có thể lần này nó báo đúng.
- Anh muốn nói ai?
- Không phải em, không phải anh, càng không phải con trai chúng mình... đó là hạnh phúc của chúng ta... nó cũng như con người, có số kiếp, có sinh và có tử.
Anh thở dài, đoạn ghì xiết Miên trong vòng tay khiến chị gần như nghẹt thở:
- Miên, không thể khác được sao?
-...
- Anh chẳng biết anh sẽ sống thế nào khi không có em.
- Bất cứ cô gái trẻ nào cũng mơ ước lấy được anh Hoan ạ...
- Như bất cứ người đàn ông nào cũng cầu trời khấn phật nếu lấy được em... nhưng nói tới chuyện ấy làm gì?
- Anh bảo em nói gì bây giờ?
Hoan im lặng. Và Miên tiếp:
- Anh ngỡ em sung sướng lắm ư?
Chị cao giọng đay lại anh và bắt đầu nghẹn. Hoan cúi xuống, mùi hương nhu lẫn mùi tóc Miên xộc vào mũi anh, như mùi hương anh đã hít thở từ ngàn kiếp trước đến tận bây giờ, lại như một ảo ảnh thắm tươi sắp tan theo gió... Anh bỗng nhớ điên cuồng mùi hương đó, tựa hồ anh đã đánh mất nó từ lâu vừa tìm lại được và rồi sắp sửa phải rời xa trong khoảnh khắc. Anh cúi thấp hơn nữa vì anh cao hơn Miên một cái đầu, rồi ngồi xuống tràng kỉ anh đặt vợ lên đùi hôn mái tóc chị ngấu nghiến. Tóc Miên đen lánh, mượt như tơ, dài quá khoeo chân. Hồi con gái, tóc Miên dài qua gót chân hơn gang tay mỗi bận gội đầu phải đứng lên ghế chải. Sau khi lấy chồng, dì Huyên cắt bớt vài gang:
- Hết thời bẻ gãy sừng trâu rồi con ạ. Hớt bớt đi kẻo ăn được ba hột cơm nó nuôi tóc hết, chẳng còn gì nuôi da nuôi thịt. Miên kể chuyện ấy với anh với giọng tiếc nuối. Còn anh, anh cười và bảo vợ:
- Chuyện đã qua đừng nhớ cho thêm phiền... nhưng giờ tóc em cũng vô địch hoàn cầu rồi... anh chưa từng thấy ai có mái tóc đẹp hơn.
Ðã nhiều lần anh tự tay chải tóc, búi tóc cho chị. Anh thích thọc tay vào suối tóc dày mát rượi ấy để cảm giác êm dịu thấm vào da thịt, thấu tới tận tâm hồn... Giờ anh sắp phải lìa xa mái tóc ấy, mùi hương ấy... Hoa lùa mấy ngón tay vào búi tóc Miên trong lúc bên tai anh vang lên tiếng thì thầm: Lần cuối rồi, lần cuối cùng rồi đây...
Hoan gỡ nút tóc, và cả mái tóc nặng trĩu của Miên xổ ra, đầy xòa lòng tay anh, trùm lên vai chị rồi chảy tràn xuống sàn gạch. Anh úp mặt vào mái tóc vợ, như muốn ghi nhận một cách rõ rệt từng sợi tóc tơ mềm, trơn láng và mát như thạch. Hoa bưởi lẫn hương nhu hòa trộn, tỏa mùi hương nồng nàn xa vắng, tựa như mùi hương đó cũng là loài bướm sắp vỗ cánh bay đi:
- Miên... em là của anh...
Anh buột miệng rên rỉ, không kịp cắn lời. Nỗi nuối tiếc lồng lộn trong tim anh, như con ngựa cuồng muốn day dứt hàm thiếc. Có cái gì đó giống như nỗi oan ức, như sự bất công khiến tim anh đau thắt từng cơn. Những cơn đau nối tiếp nhau, cơn này chưa nguôi cơn kia đã tới. Hoan ghì riết vợ, rúc mặt vào mái tóc êm mượt của chị, hôn chi chít lên cần cổ và món tóc tơ sau gáy, càng yêu mê mùi hương thân thuộc từ mái tóc và da thịt người đàn bà càng bốc lên như men rượu khiến nỗi khát khao lẫn đau đớn một lần dập dồn cấu xé.
- Miên ơi i i...
Anh đã cắn chặt hai hàm răng nhưng tiếng rên vẫn cứ bật ra. Anh thấy anh sắp sửa mất tự chủ. Có lẽ anh sắp gào rống lên, sắp đập nát một vật nào đó, hoặc lay đổ cánh cổng hoặc nhổ bật một gốc cam... Có lẽ anh sẽ tìm thứ vũ khí nào thích hợp để bổ đôi bầu trời yên bình kia, để đốt cháy bóng đêm tĩnh lặng kia, tất thảy núi đồi nương rẫy vườn tược thôn xóm, tất thảy cái không gian âm hiểm cái trật tự gian manh ngự trị cõi đất, cái luật tắc vĩnh định an nhiên... Toàn thể cái sức mạnh sắp sửa nghiền nát hạnh phúc của anh, tàn phá cuộc đời anh.
Miên, em là người đàn bà của anh, vợ anh, người yêu anh và người anh yêu. Em là mẹ của con trai anh... vì những điều đó chúng ta không thể lìa xa nhau một cách vô lý như thế này...
Trái tim đau đớn của anh gào thét, nhưng chẳng ai đáp lời. Người đàn bà của anh đang áp gương mặt đầm đìa nước mắt vào mặt anh, những ngón tay run rẩy của chị luồn trong tóc anh, không ngớt rên rỉ gọi tên anh...
Khuya hơn, trăng dịu đi như lọc. Những đường vân trên mặt nguyệt rối ren như nét bút của một chàng đệ tử lưu linh phóng bút lúc đang say. Trong khoảng không mênh mông chợt có tiếng hoẵng kêu vọng tới. Tiếng hoẵng nghe rõ mồn một. Tiếng kêu đơn lẻ, bơ vơ, khao khát như tiếng kêu của kẻ mồ côi lang thang về già vẫn hành hương tìm xuất xứ. Có lẽ đó là tiếng kêu của một con vật bị thương hoặc bị bạn tình ruồng rẫy. Âm thanh da diết, vọng qua các dải đồi hoang, các nương rẫy tới Xóm Núi đánh thức cặp vợ chồng. Họ nằm im nghe tiếng hoẵng, tay trong tay, tóc vùi trong tóc. Rồi tiếng hoẵng tắt đi, còn lại thứ im lặng điệp trùng ngự trị. Ðể lay động cái im lặng đầy uy lực ấy, chỉ những giọt sương thi thoảng rơi lộp bộp trên tàu chuối.
- Em có lạnh không?
- Không.
- Quá nửa đêm rồi.
- Dạ.
- Trời bắt đầu lạnh, nhưng tóc em quá dày nên không thấy. Tóc người cũng ấm thật, chẳng thua kém một tấm chăn. Miên, em biết rằng anh yêu em.
- Em biết.
- Anh yêu em hơn tất cả những gì anh đã từng yêu trên đời.
- Em cũng vậy.
- Mình đành xa nhau thật hay sao?
Chị im lặng.
Anh mò mẫm gài những chiếc cúc áo cho vợ. Tay anh đụng vào bộ ngực tròn đầy của chị và cảm giác ấy lại đánh thức niềm ham muốn trong anh. Hoan nhớ cặp vú của Miên thật tròn, trắng hồng với những núm vú nhỏ. Màu da thịt chị rực như ngọc trai trong những đêm ân ái. Màu sắc ấy đã vĩnh định trong trí nhớ của anh. Giờ đây, chúng khiến anh háo hức. Hoan choàng dậy, lần lượt mở những chiếc nút áo anh vừa gài. Anh muốn nhìn vợ dưới ánh trăng. Những năm tháng qua anh đã nhìn khuôn ngực này dưới ánh lửa nến hoặc đèn dầu. Giờ anh muốn thấy nó dưới trăng. Khi Hoan mở chiếc khuy cuối cùng, dém gọn mớ tóc Miên sang một bên khuôn ngực người đàn bà lồ lộ như tạc bằng đá trắng. Màu trắng cao sang lạ lùng khiến anh thấy chị biến đổi, dường như chị là nữ thần núi hạ thế cùng anh kết duyên chồng vợ và giờ đây thời hạn đã hết, chị sắp giã biệt anh để quay về chốn núi thẳm rừng sâu... Miên thấy anh ngơ ngẩn giờ lâu, đưa bàn tay lên rờ cằm anh:
- Anh làm sao thế?
- Không.
- Cài nút áo cho em.
- Ðừng.
- Anh phải giữ sức chứ.
- Giữ sức? Em muốn anh giữ sức? Nhưng để làm gì và để cho ai?
Miên giơ tay ôm đầu anh như chị vẫn thường ôm đầu thằng cu Hạnh, rồi chị vuốt ve cằm anh, hai má anh, món tóc trước trán anh cùng cử chỉ thường vuốt ve đứa con trai:
- Hoan ơi, anh còn trẻ và anh sẽ phải xây đắp cuộc sống mới. Anh là người đàn ông, trụ cột gia đình phải lo chèo chống với đời. Và rồi, anh sẽ còn có những đứa con khác...
- Sao em lo cho anh nhiều quá vậy. Anh chẳng cần thứ lòng tốt đó.
- Em lo cho anh vì em yêu anh... bề nào chúng ta cũng chẳng thể sống với nhau.
- Ðó là do em quyết định... anh lại dày vò em... vậy bây giờ anh quyết định đi, và em sẽ hoàn toàn vâng phục...
Hoan im lặng.
Vợ anh cao giọng nhắc lại:
- Anh quyết định đi.
Hoan không dám đáp lời. Miên nhắc lại lần thứ ba với giọng run rẩy chực như òa khóc:
- Nào anh quyết định đi và em sẽ làm theo ý anh...
Người chồng gục đầu vào ngực vợ và chính anh òa khóc trước. Anh biết rằng vợ anh có lý, rằng anh không thể tiếp tục sống với chị khi người chồng cũ quay về...
Hoan đã từng đăng lính vào thời gian tất cả trai tráng đều phải ra trận mạc và việc trở thành quân nhân là cách duy nhất để chứng tỏ phẩm giá con người. Ban tuyển quân từ chối anh bởi anh có khuyết tật bẩm sinh: gan bàn chân anh quá dày không có khoảng lõm nên không thể đi bộ và chạy nhanh như những người bình thường khác.
Hoan biết rằng nếu anh đi lính, anh cũng có cơ trở thành thứ người bị rủi ro thu nhặt, bị xóa tên trên sổ sinh ghi vào sổ tử bị lưu lạc sống vất vưởng nơi góc rừng xó núi như loài thú hoang và ngày nào đó quay trở lại quê hương với chiếc ba lô rúm ró rách nát như một kẻ ăn mày. Vì những điều ấy, chính lương tâm anh cũng không cho phép anh giành giật Miên, một khi người chồng cũ quay về và ở trong tình thế kẻ thất cơ lỡ vận. Vả chăng, ngoài vị quan tòa nghiệt ngã của lương tâm, sẽ còn biết bao pháp quan khác trên cõi đời, những kẻ nghiễm nhiên được quyền phán xử họ. Nhưng dù lý trí anh đã thấu hiểu, con tim cay đắng của anh vẫn khắc khoải, ấm ức và anh vẫn cảm thấy cuộc chia ly này quá tàn nhẫn đối với anh không sao chịu nỗi...
Gà gáy canh đầu. Vầng trăng giật mình nhợt mặt đi. Sương rụng lộp cộp trên các tàu chuối. Người đàn bà lấy khăn lau nước mắt cho chồng:
- Xuống nhà đi anh... em sợ con thức dậy.
Chị đứng lên, kéo tay anh. Họ xuống cầu thang và lần này Miên dắt người chồng vạm vỡ như dắt đứa con trai chị trên khúc đường dốc. Cu Hạnh vẫn ngủ say, ngọn đèn vẫn cháy nơi góc phòng trên chiếc kỷ cao chân. Bất giác cả hai người cùng đưa mắt nhìn đứa con đến những thứ đồ vật: Chiếc tủ đứng hai buồng có gương soi. Chiếc tủ nằm ba buồng đựng quần áo với giấy tờ quan trọng cùng tiền bạc. Ðồ nữ trang của Miên cũng cất trong đó. Hộp đựng lược và các thứ kẹp tóc bằng sơn mài đặt phía trên. Sát đó, bình hoa thủy tiên đặt trên kỷ đối diện với chiếc kỷ đặt cây đèn. Khuôn cửa sổ treo những tấm rèm bằng hàng thêu ren Hoan mua năm trước.
- Em buồn ngủ không?
- Em tỉnh hẳn rồi.
- Anh cũng vậy.
Người chồng xì mũi vào chiếc khăn tay rồi ném nó vào chiếc thau đặt nơi chân tường. Anh đi tới cây đèn khêu cho sáng:
- Em muốn uống trà không?
- Em không khát... nhưng nếu anh muốn, ta sẽ pha một ấm.
- Ðể anh pha... em muốn trà mua ở hiệu hay trà nhài em tự ướp?
- Em uống trà nhà.
- Ờ, anh cũng vậy.
Hoan ra phòng khách pha trà. Lát sau, anh bưng vào bộ đồ song ấm với chiếc dĩa đựng vài phong bánh đậu xanh. Miên nói:
- Em đánh răng rồi. Ăn bánh vào chua miệng.
- Ăn rồi lại đánh răng tiếp... mình đâu có thiếu thời gian...
Miên im lặng nhìn chồng chợt hiểu rằng từ nay về sau sẽ chẳng còn bao giờ họ còn được ngồi bên nhau với bộ trà song ấm, rằng từ nay mỗi khoảnh khắc sống sẽ qua đi không trở lại và chị quá ngu ngốc nên mới quên rằng chỉ còn năm ngày sáu đêm nữa chị sẽ phải rời xa anh, xa ngôi nhà này vĩnh viễn...
Người đàn bà ngồi xuống giường, chăm chú nhìn chồng, và biết rằng anh còn đáng yêu hơn chị vẫn tưởng:
Hoan ơi, kẻ nào lấy được anh thật tốt số... mà anh sẽ lấy ai... hẳn anh sẽ quay về phố. Ở đó, thiếu gì gái trẻ, má phấn môi son...
Chị mường tượng gương mặt người sẽ là vợ Hoan... hẳn là một cô gái thị thành, sung sướng từ thuở lọt lòng, da trắng môi đỏ. Cô ta trẻ hơn chị, được học hành nhiều hơn chị, giàu sang hơn chị... người đàn bà đó sẽ chia sẻ giường chiếu với Hoan, sẽ buôn bán cùng chị Châu của Hoan, sẽ theo Hoan đi tới những thành phố lạ. Ðương nhiên cuộc sống mới của anh sẽ được định đoạt như thế. Trong lúc chị phải chui rúc dưới mái nhà tăm tối của Bôn, ngủ dưới tấm màn võng như vó tôm đầy bụi bặm và xác con cuốn chiếu, bên một mụ đàn bà dâm loạn, bẩn thỉu nhếch nhác không hơn một mụ ăn mày... Cảnh tượng vừa so sánh khiến Miên tủi hơn, sống mũi chị cay xè như ăn ớt:
- Em nghĩ gì vậy?
- Không.
- Sao em khóc?
- Ðâu có...
Hoan lẳng lặng mở tủ lấy chiếc khăn sạch đưa cho Miên, rồi anh ôm vợ vỗ về:
- Nín đi em.
-...
- Em đã kịp xem mớ quần áo mới chưa?
- Chưa.
- Chờ anh lấy.
Hoan mở túi, lấy xấp váy ngủ mua cho Miên, giăng từng chiếc cho chị ngắm:
- Nào, mặc thử cho anh xem.
- Thôi.
- Ðể anh xem mình chọn có chuẩn hay không?
- Thôi mà...
Những thứ đồ này trở thành vô dụng với cuộc sống đọa đầy sắp tới của em... sẽ chẳng bao giờ em còn cần tới chúng...
Miên nghĩ vậy nhưng không dám nói với chồng. Còn anh, anh nhất quyết ép chị làm điều anh muốn. Sau cùng, Miên cũng phải đứng dậy, lần lượt thử từng chiếc váy. Họ cùng đứng trước gương, người chồng ngắm nghía vuốt ve từng nếp lụa, tỉ mỉ xem từng viền đăng-ten mà anh đã tốn phí bao nhiêu thời gian để chọn lựa. Hai người đang cùng chơi cái trò mê mải ấy, đứa con chợt thức giấc. Nó ngồi nhỏm dậy dụi mắt:
- Mẹ, mẹ... mẹ làm gì thế?
Miên chưa kịp trả lời, cu Hạnh đã nhìn thấy đĩa bánh đậu. Thằng bé tức khắc thay đổi mục tiêu:
- Con ăn bánh.
Hoan bước tới:
- Ðược thôi, nhưng ăn xong con phải đánh răng.
Thằng bé ngần ngừ suy tính giây lát, đoạn nó lắc đầu:
- Thôi thôi... mai con ăn.
Nó nằm xuống và ngủ lại ngay tức khắc.
Miên nhìn con hồi lâu, quên rằng Hoan đang chờ chị thử nốt chiếc váy cuối cùng:
- Thằng bé ngoan quá... rồi em sẽ sống ra sao khi xa nó?
- Em cứ lại nhà dì Huyên với con vài ngày. Tới Chủ Nhật anh mới lên thăm nó.
- Anh không mang con về phố chứ?
- Không. Anh biết em không thể sống thiếu con.
- Anh tử tế với em quá.
- Anh yêu em.
Anh đáp và nhìn sâu vào mắt chị. Miên không dám ngước nhìn chồng, cụp đôi mi rưng rưng xuống, nhìn như dán vào hàng đăng-ten chạy dưới gấu váy. Sau đó, chị lột chiếc váy đó ra, mặc chiếc sau chót cho anh toại nguyện:
- Tất cả đều vừa xinh... anh mua khéo.
- Không phải vì anh mua khéo, mà vì em rất đẹp... em đẹp hơn đám đàn bà dưới phố nhiều.
- Anh đừng nói vậy.
- Anh nói sự thật.
- Chiếc váy nào em cũng thích... Nhất chiếc màu lam hoa trắng. Nhưng em sẽ chẳng bao giờ chạm đến chúng...
- Tại sao?
- Em sẽ gấp tất cả lại và xếp vào ngăn tủ này. Xưa nay, đó vẫn là nơi cất quần áo của mẹ con em...
Miên gấp từng chiếc váy một cách nắn nót, xếp thành chồng. Ðoạn chị mang tới chiếc tủ ba buồng:
- Trong này, em cũng xếp lại tất thảy những thứ áo quần em đang mặc chỉ mang đi vài bộ đồ cũ.
- Không được, những bộ cũ nhất phải để lại cho bố con anh... em mang quần áo tốt đi.
Miên quay lại nhìn Hoan, nói chậm rãi:
- Tất cả những gì mang hơi hướng của anh của con đều thuộc về cuộc sống chung dưới mái nhà này... em phải để lại cho chủ nhân của chúng.
- Không... em mới chính là chủ nhân của ngôi nhà này. Ðiều đó chính em biết rõ.
- Trước kia... đó là chuyện trước kia... còn từ nay em thuộc về một mái nhà khác... mình phải chấp nhận sự thật đó.
Hoan im lặng, và anh từ từ cảm nhận điều vợ anh vừa nói. Tâm hồn anh hoang hoải, tựa gian lều gió táp bốn bên...
Ra thế, đó là chia tay... chia ly, ta vẫn chưa hình dung nổi... một người sẽ sống nơi này, và người khác nơi kia. Căn nhà cũ biến thành nấm mồ chôn kỷ niệm...
Anh đốt một điếu thuốc mong hơi khói cuốn đi cảm giác lạnh lẽo đang ngự trị tâm hồn. Mùi vị thuốc đã biến đổi theo nỗi buồn, trở nên đắng ngắt. Người đàn ông lại ném điếu thuốc vừa châm ra vườn:
- Này Miên...
Anh cất tiếng gọi khi thấy chị loay hoay mãi với mớ quần áo:
- Em sẽ không thể làm gì được với mớ quần áo đó, bởi tất cả đều mang hơi hướng hạnh phúc của chúng ta. Tốt hơn cả là ngày mai, em hãy mang xấp lụa anh vừa mua tới cho thợ may, trả công họ gấp đôi gấp ba để họ may cho kịp.
- Nhưng xấp lụa anh mua thuần màu đẹp... màu sắc đó không hợp với cảnh sống mới của em.
- Miên, sao bỗng dưng em kiếm cớ hành hạ mình?
- Mặc kệ em, mặc kệ em...
Bất chợt chị quát tướng lên rồi cúi xuống, lôi hết ngăn kéo ngăn kéo trên, hết nhấc lên lại đặt xuống như một kẻ điên khùng bất cứ thứ đồ vật, thứ quần áo nào chị vớ được. Dường như mỗi lần định cắt bỏ một thứ đồ vật lìa khỏi không gian cũ, lịch sử yêu đương lại lật trang, phơi bày những kỷ niệm và nỗi đau khiến chị không làm gì nổi... Sau cùng, Hoan thấy vợ lôi bộ quần áo đen bằng vải cũ, mốc thếch, kiểu bà già, bộ quần áo chị đã nhét trong xó tủ gần mười năm nay không hề đụng tới:
- Miên, em định mang bộ đồ đen cũ ấy đi sao?
- Em mang đi...
- Cho anh xin... đấy là bộ quần áo anh quý nhất... anh sẽ đền em một trăm bộ quần áo màu đen nếu em thích màu đen.
Chị cúi gầm mặt xuống ngăn tủ, không trả lời.
Hoan hỏi:
- Em nhớ bộ quần áo đó em mặc lúc nào không?
Miên vẫn quỳ trước các ngăn tủ, không trả lời. Hoan bước tới sau lưng vợ, cao giọng nhái theo tiếng địa phương:
"Mệ ơi, mệ có nác cho tui xin một miếng..."
Hơn tám năm về trước một trưa nắng quay quắt, gió Lào thổi ràn rạt qua các dải đồi hoang, Hoan đã lang thang thang khắp vùng tìm đất làm trang trại theo ý nguyện của cha anh. Suốt năm tiếng đồng hồ, anh không gặp một sơn trại hoặc một lạch suối nào có thể kiếm nổi ngụm nước. Cơn khát hành hạ chàng trai khiến anh muốn lả, chân anh bước nhưng không còn định hướng nổi giữa vùng nắng lóa mênh mông. Sau cùng, Hoan nhìn thấy một bà già đang cuốc trên đồi. Hẳn bà lão cũng mở trại vì trên mảnh đất bà ta đang cuốc chỉ đựng vài hàng cột chưa gá dây tiêu. Nhìn từ phía sau, Hoan thấy bà lão khá cao, mặc bộ đồ vải đen vạt thẳng không cài khuy, chiếc nón mê trên đầu trùm thêm tầng lá ngụy trang trông lười xười kì cục.
- Mệ ơi, mệ ơi... bớ mệ...
Anh gọi theo tiếng địa phương vì biết dân vùng sơn dã không quen nghe tiếng phổ thông.
- Mệ ơi i i... bớ mệ...
Hoặc bà lão điếc đặc, hoặc gió thổi tạt tiếng anh gọi về phía sau nên bà lão vẫn cắm cúi cuốc, chẳng mảy may tỏ ra biết sự hiện diện của người thứ hai trên giữa khu đồi vắng vẻ. Hoan nghĩ rằng anh đã quá khát nên khan cổ, và anh lấy hết sức gào to:
- Mệ, bớ mệ...
Vừa gào, Hoan cố sức leo lên đỉnh đồi và khi chỉ còn cách bà lão vài bước chân anh gần như quát vào tai bà lão:
- Mệ có nác cho xin một miếng?
Bà lão kia buông rơi cây cuốc, kêu:
- Úi cha cha...
Và nhẩy cẫng lên như con sơn dương, bà với theo cây cuốc vừa rơi khiến Hoan sửng sốt. Nắm được cây cuốc rồi, bà lão liền quay lại và anh thấy dưới vành nón mê một cặp mắt đen nhanh nhánh lòng trắng xanh biếc trong veo, một khoảng da hở ra dưới tấm khăn che mặt trắng nõn, trắng như không phải da người mà là mảnh sứ hoặc cánh hoa lan, hoa huệ. Cặp mắt đen nhánh ấy nheo lại và tiếng cười phát ra dưới tấm khăn đen:
- Trời ơi, té ra anh gọi tôi từ nãy... vậy mà tôi chẳng biết chi...
- Xin lỗi, xin lỗi... tại vì tôi, lỗi ở tôi...
Trong lúc Hoan còn phân bua "Mệ" đã quay lưng đi về phía bụi mâm xôi, nói gọn lỏn:
- Nước tôi cất dưới bụi kia, anh lẹ chân lên.
Hoan đi theo "Bà mệ", chẳng còn thấy cơn khát hành hạ như lúc nãy, chỉ sững sờ trước tấm nhan sắc kỳ lạ nơi Xóm Núi, lòng thắc thỏm cầu mong "Bà mệ" bỏ tấm khăn đen che mặt kia xuống cho anh được thỏa cơn tò mò.
Bụi mâm xôi cao hơn ba thước, tốt um tùm. Nắng khiến đám lá héo rũ, mùi nhựa ngào ngạt nhưng bóng râm của nó vẫn che đủ cho dăm người tránh nắng. Bình nước đặt trong làn tre, bên ngoài phủ cỏ trắng, thứ cỏ sợi dài như rơm, dai ngoách, khi phơi khô có sắc trắng như phoi tre và tỏa mùi thơm ngòn ngọt. Bà mệ nhấc bình nước ủ trong đám cỏ lên, rót vào chiếc bát sứ đem theo thứ nước chè tươi xanh ngắt:
- Anh uống đi.
Hoan biết trong làn chẳng có chiếc bát thứ hai, nên nói:
- Mời chị uống trước...
- Gọi em là Miên... thôi khách sáo làm chi, anh uống trước đi. "Bà mệ" vừa đáp vừa cởi tấm khăn bịt mặt, rải xuống hai đầu gối hong gió. Và anh đặt bát nước chè xanh lên môi, ngẩn ngơ nhìn gương mặt của nàng Lọ Lem trong chuyện cổ...
Ðã bao nhiêu ngày tháng trôi qua... hồi ức quay về.
Như cơn bão bị giam cầm trong hẻm núi, không thể vượt ra một khoảng không rộng rãi để phóng xả cơn bức bối, đành lồng lộn quay cuồng dưới khe sâu, luồn lách trong các bờ cây, hú gáo giữa vực thẳm... trái tim anh đau nỗi đau của cơn giông bị giam cầm...
- Mệ ơi, mệ có nác cho tui một miếng...
Hoan bất giác lặp lại lần thứ hai. Lần này, không phải chỉ để Miên nghe mà cho chính anh nghe... anh muốn nghe vọng âm đó thêm một lần nữa. Một lần nữa cho tường tận hạnh phúc cùng đau khổ. Giống ngày cha anh qua đời anh đã túc trực bên ông suốt quãng thời gian ông hấp hối để tường tận phút ông vĩnh biệt thế gian, dù phút đó với anh thật tàn khốc.
Người ta không phải loài đà điểu nên cần đối mặt với cuộc sống, dù hạnh phúc hay bất hạnh, dù sang hay hèn, dù an bình hay hiểm nguy... Thượng đế cho con người tư thế đứng khác loài vật là để con người có thể nhìn thẳng về phía trước...
Cha anh đã dạy anh điều đó không chỉ một lần.
Khi bị mẹ con bà Kim Lan lừa vào bẫy, anh đã phải cưới cô Kim Liên nhưng rồi anh xử sự với cô theo đúng cách một kẻ đứng thẳng và nhìn thẳng. Mẹ anh sợ hãi nhưng cha anh tán đồng.
Một lần nữa, người đàn ông mảnh khảnh đó lại dìu đỡ anh, lại đưa bàn tay vuốt món tóc trước trán anh:
Con trai ba khá lắm. Người ta có thể chết nhưng không thể thua. Chúng ta chẳng phải những con vật cho kẻ khác sai khiến...
Ðúng thế. Ngày ấy anh đã quyết liệt chống lại số mệnh. Giữa đêm cưới chính anh đứng lên trước hai họ tuyên bố mình là kẻ bị lừa, chính anh đã mô tả lại toàn bộ câu chuyện một cách bình thản, kĩ lưỡng với vẻ lạnh lùng khinh bỉ không che giấu. Như thiên hạ nói anh đã rắc tro lên mặt gia đình lẫn họ hàng nhà gái, và hơn thế nữa, lên uy tín và danh dự của ông phó chủ tịch thành phố, kẻ thế lực còn hơn chủ tịch tỉnh nhờ nương bóng các đồng chí ban chấp hành trung ương đảng mà người bạn chí thiết đương kim bí thư tỉnh ủy tỉnh nhà. Sau đám cưới, anh sang thôn Bảo, một làng chài ven sông Nhật Lệ, sống...
Nhưng ngày ấy, số mệnh có gương mặt khác. Kẻ thù hiện diện dưới những xúc thịt có tên gọi, khoác áo quần có sổ đăng kí, hộ khẩu và đủ mọi phụ tùng khác của loài thú đi bằng hai chân. Còn giờ đây, số mệnh mang gương mặt khác. Chẳng ai lừa đảo anh, chẳng ai phản bội anh, chẳng ai hãm hại anh...
Anh biết chống lại số mệnh bằng cách nào?
Anh thấy mình bất lực.
Anh bất giác lập lại lần thứ ba:
- Mệ ơi... cho tui miếng nác.
Lần này, không để cho Miên cũng không để cho anh. Lần này, là lời kêu than của chính quá khứ, ánh viễn quang rong ruổi suốt chặng đời họ vừa trải nghiệm, bật sáng lên những chớp lóe để bao nhiêu hình ảnh tươi thắm cũ, bao nhiêu kỉ niệm êm ái cũ cùng một lúc hội tụ trong căn buồng này.
- Anh yêu em, Miên...
- Em cũng vậy.
- Mình đành xa nhau thật ư?
-...
- Miên.
- Em sẽ để tất cả lại đây. Mai em mua vải may vài bộ đồ mới.
- Miên.
- Em chỉ xin anh đừng để ai đụng tới những đồ vật mà em dùng. Như thế, coi như anh đã giữ mãi tình yêu của chúng ta. Vợ anh cất tiếng đều đều, âm thanh ảm đạm như cất lên từ cõi vắng, như vọng từ một nghĩa địa hoang vu nơi chỉ những bóng ma qua lại và các vệt sương mù chuyển động theo gió hoặc theo tiếng hú gọi của thầy mo.
Em đã chấp nhận số phận, giọng nói của em không còn là giọng nói của một người tỉnh táo mà là những âm thanh vô chủ, là mệnh lệnh của thầy mo kí thác nơi cửa miệng hồn ma... em đã cam tâm chịu sự sai khiến của một sức mạnh ngoài mình trong lúc trái tim chưa thôi tiếc nuối...
Hoan nghĩ, khi nhìn Miên quỳ gối trước đống quần áo, và cặp mắt chị ánh lên vẻ thê lương khi xin anh gìn giữ những kỉ vật trong cuộc sống chung. Hẳn chị đang hình dung tới người đàn bà sẽ thế chân chị sống trong ngôi nhà này:
Mà ai có thể thế chân em được? Và nếu có, kẻ đó là ai?
Anh không hình dung được một người đàn bà nào đây sẽ hít thở bầu không khí anh đã cùng Miên hít thở, ái ân với anh ở nơi anh đã cùng chị ái ân, cùng nhìn ánh trăng bên ngoài song cửa, cùng giật mình khi nghe gà gáy báo canh, kẻ nào sẽ mở cánh tủ kia lấy quần áo cho anh khi anh tắm và lúc nào đấy sẽ quỳ gối thu dọn những xấp quần áo như Miên đang thu dọn lúc này?
Ai nhỉ?
Anh không hình dung nổi. Người đàn bà của anh xếp bộ quần áo sau chót vào ngăn kéo. Với một cử chỉ nhẹ nhàng chị đóng ngăn kéo lại. Trong tư thế đó, cần cổ trắng nõn của chị vươn dài ra và ánh lửa hắt lên mái tóc trơn bóng những lằn sáng nhấp nhánh. Búi tóc sơ sài và đồ sộ sau gáy tạo một dáng nét nghiêm trang và kiều diễm. Tim anh đau nhói lên nước mắt sắp trào ra. Nhưng anh biết không được quyền khóc sụt sùi như đứa trẻ. Bởi điều đó là sự lố bịch. Bởi điều ấy không xứng với người đàn ông:
Này con, con có biết kẻ thù nào đáng sợ nhất với kẻ làm trai không? Ấy chẳng là phải kẻ bạo tàn, quân giặc giã hoặc bọn giàu có bất lương nhưng là sự lố bịch... mà sự lố bịch bao giờ cũng do ta tự chuốc cho mình...
Anh cắn răng nuốt nước mắt. Anh cũng không muốn Miên cam chịu dù biết mình bất lực. Anh nắm lấy hai vai Miên, kéo vợ lại với mình, nhìn sâu vào cặp mắt thê lương của chị và nói:
- Anh hứa rằng sẽ không có người đàn bà nào chạm tới những đồ vật của em...
Chương 8
Vào những ngày cuối cùng họ chung sống, không người khách nào lai vãng. Kể cả những ông láng giềng nghiện trà và thích đánh cờ trên sân thượng nhà họ. Hoan vốn hiếu khách, không lúc trong nhà không có trữ trà ngon, các loại bánh để đưa trà và kẹo cho trẻ nhỏ. Khắp miền, chẳng ai thường xuyên đi đến các thành phố lớn như anh nên đồ thực phẩm dùng trong nhà anh sang trọng bậc nhất. Khi Hoan ở nhà, trừ những ngày mưa bão, không chiều nào vắng khách. Tuần lễ này, mọi người đều biến mất. Ngay khi lỡ gặp anh ở ngoài đường, họ cũng cất tiếng chào hối hả rồi rẽ sang lối khác. Sáng sớm, dì Huyên sang đón cu Hạnh và giữ nó cho tới trời tối mịt mới cõng trả Miên. Tất cả đối đãi với cặp vợ chồng trẻ như đối với tử tù trước giờ hành quyết. Anh hiểu rằng tuần lễ trăng mật muộn mằn này là bữa cơm thịnh soạn trước lúc họ phải rơi đầu. Thế nhưng Miên vẫn có một số việc phải làm trong những giây phút hiếm hoi ấy, khiến anh cảm thấy thời gian như bị đánh cắp. Một ngày, anh phải đưa chị đi mua vải mới, loại trang phục "thích hợp với hoàn cảnh mới" như chị nói. Miên may một lúc ba bộ đồ đen, hai bộ màu xanh dương. Chị cũng mua vài chiếc áo len dệt và một chiếc áo bông kiểu bà già, tất cả đều đen. Gương lược cũ lẫn mớ kẹp tóc rất đẹp anh mua cho chị ở các thành phố, cả những giải lụa màu và những dây thun buộc tóc, chị xếp lại nguyên vẹn trong chiếc hộp sơn mài. Rồi chị mua một chiếc lược sừng nhỏ với vài chiếc kẹp tóc rẻ tiền ngay trong cửa hiệu bán dầu hỏa, muối mắm cùng những thứ lặt vặt của xã. Và chị xếp tất cả vào chiếc hòm gỗ nhỏ, bằng thứ gỗ bộp, có nẹp nhôm to tướng với hàng mũ đinh thô bỉ quét sơ sài lượt véc-ni.
Hoan hỏi:
- Em có hai chiếc va-ly cơ mà... sao không đem một chiếc theo?
Chị đáp:
- Kệ em.
Vẻ mặt lì lợm của chị khiến anh không dám hỏi thêm. Khi những phút cáu bẳn đột ngột như vậy qua đi, vợ anh trở nên dịu dàng hơn bao giờ hết, không phải thứ dịu dàng của người đàn bà an nhiên trong hạnh phúc mà thứ dịu dàng đắm đuối rồ dại của kẻ sắp bị đuổi khỏi thiên đàng. Hàng giờ liền trong thâu đêm, chị vuốt ve không mỏi món tóc trước trán anh, vành tai anh, những sợi lông trên ngực anh, mụn ruồi sau gáy anh, phía trên đốt sống cổ. Ðôi khi chị nằm ép mình hàng giờ liền như con thằn lằn ép mình trong kẽ đá khiến anh tưởng chị ngủ nhưng bất thần chị len lén đưa tay quơ khăn lau nước mắt anh rờ mặt gối thấy ướt đầm. Những đêm ấy, tiếng gà rót từng canh, canh nọ gọi canh kia càng về sáng càng vội vã tới lúc bên ngoài trời chuyển sắc, sương trắng lặng tan và ánh lê minh nở dần trên nõn lá:
- Hoan, sau này anh có nhớ em không?
- Anh nhớ em từ bây giờ...
- Nhưng rồi anh sẽ quên... dần dà anh sẽ quên...
- Thế em cũng sẽ dần dà quên anh chứ?
- Không, không bao giờ...
- Vậy tại sao lại tin chắc điều đó ở nơi anh?
- Vì rằng... vì rằng...
Câu hỏi không tìm được hồi âm nhưng cứ lặp đi lặp lại một cách rồ dại mỗi đêm và khi ánh nắng rọi qua song cửa chiếu tới nơi họ nằm cả hai cùng choàng dậy. Hoan đi ra khép hai cánh cửa sổ:
- Quỷ thật, loại rèm này đẹp thật nhưng vô tích sự... biết thế mình mua thứ sẫm màu...
Anh lẩm bẩm khi kéo các tấm rèm lại, hình ren thêu nổi bật trong ánh ngày. Anh đã mua chúng cho cuộc sống yên vui xưa, không để cho cái tuần lễ trăng mật độc địa này, khoảng thời gian mà anh cầu mong mặt trời đừng bao giờ mọc.
- Em đi đâu?
- Em chạy sang nhà dì Huyên một lát.
- Em sang làm gì?
- Em nhờ dì thuê lũ trẻ hàng xóm lên núi cắt thạch trinh hương. Anh cứ nằm nghỉ thêm, chỉ mười phút sau em quay lại.
Thạch trinh hương là loài dương xỉ trên núi đá, lá dài nhọn như hoa lúa, thứ cây dành riêng cho những kẻ tu hành. Người ta cắt cỏ về phơi khô ém trong bồ, mỗi lần tắm lấy một nắm thả vào nồi nước đun sôi vài khắc là được. Thứ nước tắm nấu bằng thạch trinh hương là thứ nước tẩy trần, mùi hương ấy dành cho những ai từ bỏ cuộc sống dục tình và chốn đông vui để ẩn mình trên những đỉnh núi cheo leo, những am cỏ hoặc những ngôi chùa u tịch... vậy mà vợ anh tầm nó về phơi. Lẽ nào chị biết trước cuộc sống chung của chị và người chồng cũ là một cuộc cộng sinh không tình ái hay chị quyết sống với anh ta cuộc sống nữ tu dù thân xác bị trói buộc? Hoan không dám hỏi Miên vì rất có thể chị lại nổi khùng và đáp lại bằng cái điệp khúc chị vừa sáng tạo ra trong mấy ngày vừa qua: Kệ em!
Trưa hôm sau hơn một chục đứa trẻ gánh thạch trinh hương về, rải đầy ngõ lẫn sân khiến ngôi nhà họ giống như xưởng nhồi nệm cỏ. Từ bếp lên nhà, từ nhà ra ngõ giày dép đều mắc vào thứ dương xỉ thơm hắc này. Cứ hơn một giờ Miên đảo cỏ một lần, mùi nhựa cỏ bốc nửa như mùi mía lùi nửa như mùi thuốc bắc.
- Miên ơi.
- Em đây.
- Nhựa cỏ dây đầy các ngón tay em rồi... vất vả thế làm gì?
- Em cần mang cỏ theo đun nước tắm.
- Em mang xà phòng theo... tất cả là của em.
- Không.
- Những gì dưới mái nhà này là của chúng ta, chẳng riêng ai. Sao em cứ đặt bày như vậy?
- Em muốn thế.
- Ðừng muốn như vậy nữa, anh xin em.
- Không.
- Em ương bướng với anh để làm gì? Từ ngày chúng ta yêu nhau, chưa một lần anh bắt buộc em.
- Anh không bắt, nhưng em bắt buộc em.
- Em vô lý.
- Tất cả những gì có ở đây, trong ngôi nhà này là của con trai chúng ta... Nó mới chính là chủ nhân và em để lại tất cả cho nó...
Ra thế... đó là lý do khiến chị chuẩn bị cuộc ra đi giống cuộc ra đi của kẻ lưu đầy. Anh nhìn vợ thoăn thoắt chạy đi chạy lại đảo cỏ trên sân, muốn ứa nước mắt. Trò chơi cay nghiệt này của tạo hóa thật không chịu nổi.
Ðêm sau là đêm cuối cùng của họ.
Mặt trời đậu mãi trên rặng Trường Sơn không chịu lặn, và khi đã lặn những đám mây đỏ rực còn hắt sáng. Chưa chịu tắt. Hoàng hôn oi nóng, dài đặc như muốn trêu cợt hai kẻ bất hạnh. Miên không nấu cơm, giá có nấu cũng không ai nuốt nổi. Cu Hạnh ăn cơm chiều và ngủ bên dì Huyên.
- Anh có ăn cháo em bắt con gà?
- Ðừng... đừng tốn thời gian vào chuyện bếp núc.
- Anh có đói không?
- Không.
- Em nấu nồi chè đỗ xanh nhé?
- Em không làm gì hết... lại đây, chúng ta chẳng còn nhiều thời gian...
Anh nắm tay vợ, kéo xuống bên mình. Và họ nằm im lặng.
Ngoài kia, hoàng hôn đã tắt, trời tím khói chuyển sang tro sẫm. Không còn trăng và những vòm lá cam thu mình trong bóng tối. Sao Hôm cũng không mọc như mọi ngày. Căn nhà chìm trong bóng đêm. Ðêm như độc dược thấm thấu qua da thịt vào gân cốt, khiến họ bủn rủn chân tay, bải hoải tâm thần. Họ chẳng còn sức để khóc, để than thở, để ái ân. Những con sóng dục tình như ngọn triều đã rút lại để trên bờ cát rong rêu mệt mỏi. Nỗi buồn tựa loài dơi vô hình bay lượn, vỗ cánh quạt vào mặt họ khiến họ ngộp thở. Miên gối đầu lên cánh tay chồng, cả hai nằm đờ như khúc gỗ. Bóng tối mỗi lúc mỗi nặng dần trong tiếng rên rỉ của côn trùng, tiếng thạch sùng tắc lưỡi và thi thoảng tiếng chim đêm tác tác. Ðêm bước qua. Và trên lối đi, thần đêm rắc những cánh hoa bùa ngải dụ con người vào cõi mộng. Như thế, giờ lâu cặp vợ chồng mệt mỏi thiếp đi. Lúc gà gáy canh đầu họ giật mình tỉnh giấc, nhận ra họ đã bỏ bữa cơm tối và ngủ ngay không kịp mắc màn. Vài con muỗi vo ve mãn nguyện hẳn chúng đã tận dụng cơ hội hiếm hoi để kiếm một bữa no phè.
Miên ngồi lên trước:
- Em thắp đèn nhé.
- Ờ, em thắp đèn lên.
- Anh khát nước không?
- Khát, nhà mình còn nước sôi không nhỉ?
- Tối qua em chưa kịp đun.
- Ðể anh đun.
- Không, anh cứ nằm nghỉ thêm. Em sẽ đun tức thì.
- Ðược rồi. Chúng ta cùng xuống bếp.
Họ xuống bếp, nhóm lửa. Khi lửa cháy, bọt củi xèo xèo vào những đốm lửa than bắn tí tách bất chợt hai người quay lại ôm choàng lấy nhau:
- Hoan, anh có nhớ ngày làm căn bếp này không?
- Anh nhớ.
- Lúc đó, anh hứa với em điều gì?
- Ðiều gì vậy?
Hoan đưa tay nhè nhẹ vuốt lưng vợ, không hiểu vì sao chị lại nhắc anh cái kỷ niệm rực rỡ ánh lửa vào chính lúc này, lúc gà gáy canh hai và chỉ còn vài giờ nữa là chị ra đi...
Anh nhớ ánh lửa rừng rực trong căn bếp mùa Ðông năm trước, khi họ hoàn tất ngôi nhà chuẩn bị một bữa linh đình thết khách theo tục lệ: Tiệc rửa nhà. Hai vợ chồng anh đã lo mua sắm từ mấy hôm trước. Hoan nhờ người tìm một con bê béo làm món bê thui món mặn thứ nhất. Món mặn thứ hai là gà luộc lá chanh do Miên đảm nhiệm. Chị đã tầm các chuồng gà trong xóm đặt mua sẵn ba chục con gà mái tơ nhờ đám bạn gái làm. Món mặn thứ ba là cá thu khô hấp mỡ lợn với gừng do chính chị làm bởi dân Xóm Núi thèm ăn cá quanh năm bất cứ cỗ bàn hay giỗ chạp người ta cũng chọc đũa vào đĩa cá dù các loại thịt ê hề thừa mứa. Thêm nữa, Miên cũng sắm đủ thứ rau và thịt để làm thêm vài món xào và hai tô canh đặc biệt. Ðồ tráng miệng được chỉ định làm thứ bánh bột lọc, nhân đỗ xanh, dừa và vừng đen ngào nhuyễn. Những việc khó khăn nhất đã xong, đêm đó họ chỉ lo coi nồi bánh tét và đóng khuôn bánh in, thứ bánh làm bằng bột gạo nếp rang ngào đường nhân đỗ xanh nấu lẫn mứt bí, hạt dưa. Ðây là hai thứ bánh dùng chia phần cho những ai tới ăn cỗ, có chút quà cầm về cho con cháu ở nhà. Dẫu không phải món ăn chính trong bữa tiệc nhưng chẳng thể sơ suất. Ðêm ấy, Hoan đã thắp cây đèn măng-sông lớn trên chính cửa bếp, ánh sáng của nó đủ soi cho một đám cưới hoặc một cuộc họp trăm người. Lửa nấu nồi bánh tét hắt thêm khiến căn bếp sáng trưng. Bếp mới, vôi quét tường còn hăng, mọi thứ đồ gỗ sực nức mùi vẹc-ni, trông giống một phòng khách. Khác với đám nhà giàu Xóm Núi, những người thích xây năm gian nhà ở thật cao, tường dày, cột kèo thuần gỗ tứ thiết, ngói phủ nêm như ngói đình nhưng gian bếp chỉ nhỏ bằng nửa chuồng nuôi heo buồng tắm dài rộng cỡ vài sải tay lại xây cẩu thả tùng tiệm bằng những thứ vật liệu đầu thừa đuôi thẹo, Hoan xây gian bếp cũng như phòng tắm và vệ sinh bằng thứ vật liệu tốt nhất, xây cất kỹ lưỡng nhất, tốn kém nhất. Anh muốn gian bếp phải là nơi đẹp nhất sang trọng nhất và sạch sẽ nhất. Bởi đó là vương quốc của Miên. Anh không để vợ khổ sở như những người đàn bà thôn quê khác, đến bữa phải chui vào gian bếp thấp lè tè, cúi đầu chổng mông thổi lửa, nấu xong bữa cơm hai mắt nhòe nhoẹt vì khói. Anh cũng không muốn chị phải rửa ráy, tắm táp vội vàng trong căn nhà tắm sơ sài được che bằng vài tấm liếp vừa tắm vừa hốt hoảng vì sợ ai đó ghé mắt nhìn vội hoặc vị khách vô tình tìm nơi tiểu tiện lầm đường, hoặc đứa trẻ nào rình mò nhìn trộm. Những cảnh ấy quá quen thuộc nơi làng quê. Hoan là dân thành phố nên anh hiểu giá trị của tiện nghi và anh muốn người đàn bà của anh được hưởng tất thảy những gì chị đáng hưởng...
Thời trai, khi chuyến tàu ngược lên phương Bắc hú gọi anh chẳng mảy may để tâm tới chuyện áo cơm và những vấn đề thiết thực của đời sống. Anh hài lòng với số phận, chỉ mơ tưởng duy nhất thứ người đời gọi là sự nghiệp. Nhưng cái cây mộng tưởng ấy đột nhiên bị sét đánh gãy. Cuộc hôn nhân gian lận do mẹ con bà Kim Lan áp đặt khiến cuộc đời anh bẻ quặt sang ngả khác. Anh sang làng Bảo kéo vó. Anh theo học nghề buôn gỗ sau khi bị từ chối không được tòng quân. Chiến tranh xảy ra, anh cùng gia đình rời thành phố lên chân núi Trường Sơn. Trước khi chết ông giáo đột ngột gợi ý:
Này con, làm trang trại là một nghề vui. Tuy có nhọc nhằn nhưng nếu khôn ngoan biết tính toán thì nỗi cơ cực nơi sơn dã lại trở thành những thú vui chốn thị thành không mua nổi. Ở xứ ta, chưa ai làm nghề đó một cách tận tình. Thời xưa, chỉ bọn Tây mở đồn điền nhưng chúng tham quá, chúng không học được câu: Biết đủ, Biết dừng của người phương Ðông. Chúng hút mồ hôi người làm công quá sức nên trước sau cũng bại. Còn nông trường tập thể của nhà nước này là thứ trang trại không điền chủ, rắn không đầu làm sao bò nổi? Con hãy thử xem... hẳn sau này người ta phải cho mở trang trại tư nếu họ không muốn dân chết đói. Con sáng ý, có một ít kinh nghiệm buôn bán của mẹ con, có kiến thức về máy móc, có ý nguyện tự cường. Sớm hay muộn con cũng sẽ thành đạt...
Ðối với anh, mỗi lời nói thốt ra từ con người mảnh khảnh dịu dàng ấy là một huấn lệnh. Ông giáo chết chưa đầy nửa năm, anh đã lên đường tìm đất làm trang trại... và anh đã gặp Miên... anh đã thấy nửa kia của mình. May mắn là gì? Và rủi ro là gì? Nhiều lần anh nghĩ, và lần nào anh cũng thấy chúng không tách biệt rạch ròi. Sự nghiệp là gì? Cũng nhiều lần anh tự hỏi? Và anh phác họa những sơ đồ cho giải đáp: Nếu con tàu lên phương Bắc chuyển bánh suôn sẻ như mọi người dự tính, anh trở thành sinh viên đại học bách khoa. Một sinh viên giỏi có thể được giữ ở lại trường làm giáo viên phụ giảng rồi chính giảng, cũng có thể được cử đi học nước ngoài, khi trở về mang theo chứng chỉ tiến sĩ hoặc phó tiến sĩ được bổ nhiệm và nhận đồng lương theo thang bậc quy ước... rất có thể cái con người thành đạt kia sẽ phải đổi sự nghiệp trong tay bằng những năm dài tự giam mình giữa bốn bức tường phòng thí nghiệm hoặc mài đũng quần trong thư viện, bằng chỉ số cặp kính cận tăng lên đến mứa nếu bỏ kính ra anh ta sẽ hoàn toàn mù... cái kẻ thành đạt ấy hẳn không bao giờ nhìn rõ làn da thật của người đàn bà anh ta yêu vì chẳng thể đeo cặp kính dày cộm lúc làm tình, cũng có thể anh ta sẽ chẳng bao giờ đề cập đến niềm mê say ân ái vì cuộc sống mọt sách khổ sai làm gân cốt chùng nhão, và máu nguội lạnh đi. Không, cái giá đó anh không muốn trả. Sự nghiệp, giấc mơ long lanh ấy cũng giống ánh sáng hắt lên từ mảnh vỏ trai, vẻ đẹp trang trí không thể thay thế cuộc đời. Hoan biết trời đã cho anh tìm được người đàn bà của anh, anh hài lòng với số phận, anh muốn tận hưởng những nguồn vui lương thiện và lành mạnh. Những nguồn vui giản dị, thậm chí nhỏ nhặt như người đời thường gọi. Anh muốn được thấy Miên đi lại trong một gian bếp sang trọng hơn phòng khách của người khác, với những thứ đồ gia dụng thật sạch và đẹp. Anh muốn chị mặc những bộ quần áo bằng lụa mỏng đứng trước ngọn lửa bếp, với thứ ánh sáng ấy làm gương mặt chị sáng ngời, thân thể chị mềm mại và rực rỡ như lửa. Anh muốn họ thết khách quanh chiếc bàn hình bầu dục, đủ một lần cho hai mươi người. Vì thế anh đã tự vẽ kiểu và thuê người đóng bàn ăn ngay khi chưa xây móng gian bếp. Anh cũng tự mua tủ đựng bát đĩa và giá đặt các loại xoong nồi, hài lòng vì Miên sung sướng. Dù đã có một thời thơ ấu gian nan nhưng vợ anh không thích cóp tiền. Giống như anh, chị thích đãi khách, thích ngôi nhà họ tưng bừng vui vẻ và cái không khí hội hè đó làm cho cuộc sống của họ nơi Xóm Núi chẳng kém náo nhiệt so với đời sống của đám dân phố phường...
Cái buổi tối hai người vừa canh nồi bánh tét, vừa đóng khuôn bánh in như mới xảy ra hôm qua. Ánh lửa rạng rỡ, mùi thơm của nồi bánh tét đang sôi ầm ĩ trên bếp, mùi thơm của bột nếp rang của đỗ xanh ngào đường, với những lời thủ thỉ của Miên. Vào lúc nồi bánh tét đã sắp đủ độ rền, phải cời bớt lửa chị bỗng cất tiếng hỏi:
- Em đố anh mình sẽ có bao nhiêu con?
- Trời cho bao nhiêu được bấy nhiêu, đất còn rộng tha hồ lập trại.
- Sao lại trời? Có hay không do mình định chứ?
- Do mình nhưng cũng phải được trời ưng thuận.
- Anh không sợ người đời chê cười hay sao?
- Không, anh là dân thường, chẳng phải quan nha, chẳng cần chức sắc anh đẻ con theo ý muốn.
- Anh muốn bao nhiêu?
- Anh muốn đủ hai trai hai gái, ta sẽ lập thêm vài khu trại nữa và khi về già sống với đứa con út.
Hoan nói xong, đưa mắt nhìn vào mắt vợ. Miên đỏ ửng mặt, cụp đôi mi xuống cúi đầu dỗ bánh (gõ bánh in-bánh khảo cho rơi khỏi khuôn) không nói gì thêm. Dù lấy nhau đã lâu nhưng chị vẫn thường đỏ mặt trước những lời yêu đương của anh khiến anh cảm thấy chị vẫn chưa hết lớn, còn ngây ngô thiếu nữ và nỗi e thẹn dai dẳng đó khiến chị thêm phần quyến rũ. Hoan biết rằng không cứ loại đàn bà trơ trẽn như cô Kim Liên mà có vô số những kẻ khác cũng thiếu hụt cái bản tính trinh nữ trường cửu, và điều đó biến họ thành một thứ lụa nhung bị rụng hết tuyết, một loài bướm cánh bị cạo hết lớp phấn màu...
Lúc đó, anh đã nhìn chăm chắm gương mặt hồng rực của Miên rồi đưa ngón tay lên khẽ cọ vào má chị:
- Thế còn em? Em muốn bao nhiêu? Bốn, năm, sáu, bảy hay làm cả tiểu đội đủ mười hai đứa cho tiện?
Và vợ anh, mặt càng đỏ tía lia, nguây nguẩy lắc đầu:
- Em làm sao biết được? Mọi việc là tùy ở anh chứ?
Vẻ ngượng ngùng của chị khiến anh trào lên một cơn yêu không thể kìm giữ, anh vồ lấy vợ hôn ngấu nghiến và họ ái ân ngay trên sàn bếp dù chị từ chối, chống đỡ một cách yếu ớt và vô hiệu...
Sao bỗng dưng Miên nhớ lại kỷ niệm đó? Phải chăng vì họ đang ngồi trong chính không gian cũ, và chỉ vài giờ nữa họ sẽ phải chia ly... hay chị hối hận đã không kịp đẻ thêm một đứa con nữa sau đứa con trai đầu lòng? Thực ra, hai người đã trù tính tích lũy thêm tài sản chờ năm sau, khi cu Hạnh lên sáu họ sẽ cho ra đời đứa thứ hai. Cuộc sống lứa đôi đã được hoạch định trước khi sự chia lìa đổ ập xuống.. Hoan vẫn không ngừng vuốt lưng vợ, nói:
- Anh hứa với em rằng, chúng ta sẽ có đủ bốn đứa con cho đầy mâm cỗ. Lời hứa ấy vẫn còn. Anh mắc nợ em ba...
Miên bổ nhào vào lòng chồng, ôm chặt lấy anh. Mạch đập nơi ngực chị dội sang tim anh từng nhịp. Rồi tiếng nước sôi trào xuống lửa xèo xèo khiến người đàn bà bừng tỉnh. Chị gỡ tay anh:
- Nước sôi rồi, để em rót vào phích.
Gương mặt chị không vết nước mắt, trầm tĩnh, có một vẻ xa xôi mà anh không dò đoán nổi.
- Mình uống trà ở đây nhé?
- Cũng được.
- Em muốn thêm một lần nữa trong gian bếp này.
- Anh lên nhà lấy trà.
- Em thắp mấy ngọn đèn cầy lên đã.
Khi Hoan mang trà và mấy gói bánh từ nhà xuống. Miên đã tắt cây đèn dầu để thắp một giá nến đủ năm ngọn. Chị thích câu ngạn ngữ: Sống dầu đèn, chết kèn trống. Ấy là lý do khiến đám đàn bà đố kị thường gọi sau lưng chị là "Con đàn bà hoang tàng," còn anh, anh tự nhủ rằng vợ anh là người quý phái bẩm sinh. Thời thơ ấu cam khổ chẳng để lại dấu vết nào trên gương mặt trong phong thái sinh hoạt cùng dáng đi nét đứng của chị. Hồi họ mới lấy nhau, đang dang dở cuộc chiến tranh, cuộc sống vật chất vô chừng kham khổ nhưng anh thấy Miên chấp nhận sự khổ ải đó với một phong cách khác biệt mọi người. Chị chẳng than phiền, cũng không bực dọc, cũng chẳng cúi đầu lầm lũi cam chịu như vẫn sẵn sàng thú nhận rằng cuộc sống tăm tối cam khổ là lẽ đương nhiên của kiếp người. Miên có thể ngồi ăn bát khoai khô với vẻ thanh thản, nhai ngẫm ngon lành như đó chẳng phải thứ khoai ngô nấu với đậu cua mà là một món ăn hoàng tộc. Một hạt sạn nhỏ xíu, một mảy trấu lẫn trong cơm chị cũng nhằn ra bằng được và chị làm động tác đó thật ung dung, đầu ngẩng cao, mắt nhìn thẳng về phía trước như loài hạc tiên luôn ngẩng cổ cao nhìn trời để tìm khoảng không gian tiền kiếp của mình.
- Anh muốn ăn chè không?
- Ăn bánh đậu cũng đủ rồi. Anh không thấy đói.
- Anh lấy loại trà nào vậy?
- Trà nhà em ướp.
Miên đi tới tủ bát đĩa, lựa chiếc đĩa sứ trắng viền chỉ vàng chuyên đựng bánh uống trà. Ðoạn chị lấy tấm khăn bông lau đĩa rồi bóc bánh, xếp vuông vắn. Xong xuôi, chị tráng ấm pha trà. Trong lúc Hoan lặng lẽ chống tay lên cằm chờ đợi:
Miên ơi, rồi em sẽ sống ra sao trong căn nhà mới, không phải nhà mà chỉ là gian buồng lợp tranh tăm tối, bên cạnh một người đàn bà bẩn thỉu buông tuồng và nghèo khổ nhất vùng. Nơi đó, làm sao có được một gian bếp tử tế cho em nấu ăn, có lẽ cũng chẳng có nhà vệ sinh và phòng tắm... tính em sạch sẽ, liệu em có chịu nổi một cuộc sống thiếu đến những điều kiện tối thiểu như vậy không?
Anh nhìn tấm khăn bông trắng muốt trên tay vợ, nhìn động tác chị gấp nó làm tư và đặt lại vị trí cũ, cách chị kéo tấm cửa kính tủ đựng bát đĩa, cách chị vén tà áo trước khi ngồi xuống ghế đối diện với anh... tất thảy đều đẹp và chua xót.
- Anh uống đi, trà đã ngấm.
- Ờ, em cũng uống đi.
- Nhài chưa thật ngấu.
- Thế cũng thơm lắm rồi. Bụi nhà nhà mình dạo này nhiều hoa không nhỉ?
- Lạ thật, hoa thơm điếc cả mũi hàng xóm mà anh không ngửi thấy ư?
- Ừ, có thể là anh quên... mà quanh năm hết hoa bưởi hoa ngâu hoa lan lại hoa nhài hoa sói... anh cũng chẳng phân biệt được. Anh không phải là người có tuổi chó nên mũi không thính lắm... bánh có ngon không?
- Ngon anh ạ, chỉ phải cái hơi đậm đường.
- Ừ, họ ngào nhiều đường để bánh lâu mốc... thế nên anh vẫn thích ăn bánh em làm hơn.
Miên im lặng. Mỗi lần anh khen, chị thường giữ im lặng. Không từ chối, không lên tiếng cám ơn, chị cúi đầu ngượng ngùng và thầm sung sướng. Ðó, chính là người đàn bà của anh. Của riêng anh. Những lúc họ làm tình, vào khoảnh khắc tột vời của đam mê chị vẫn im lặng như thế, chỉ hơi thở là dồn lên và đôi lần anh thấy cặp môi xinh xắn của chị hé ra.
Chuông đồng hồ trên nhà thong thả gõ bốn tiếng. Chuông vừa dứt, gà trong chuồng gáy ran. Hai người nhìn nhau. Hoan thấy rõ nét thê lương hiện lên trong mắt vợ:
- Em uống thêm chén trà nữa đi.
- Em uống đủ rồi.
- Em đã chuẩn bị đủ những thứ cần mang theo chưa?
- Dạ đã đủ.
- Anh kiểm tra giúp xem còn thiếu gì không nhé?
- Không cần đâu anh.
- Thôi được, nhưng có một yêu cầu.
- Yêu cầu gì vậy?
- Em hãy chấp thuận trước khi nghe anh, anh xin em.
- Không, anh nói đi đã.
- Miên, anh đã xin em rồi.
- Em không thể chấp nhận điều em chưa biết.
- Vì thế, anh mới cất tiếng xin em. Ðây là lần đầu tiên anh xin em, kể từ khi chúng ta lấy nhau.
Miên im lặng hồi lâu, rồi nói:
- Thôi được, em chấp nhận.
Hoan nắm cổ tay vợ:
- Ngôi nhà này bao giờ cũng là của em, và toàn bộ tài sản chúng ta có được cũng là của em. Em có thể về lấy chúng đi bất kể lúc nào.
Miên rút phắt cánh tay đứng dậy:
- Không được, em không thể làm như vậy được.
- Như vậy, em là người thất hứa. Em không tôn trọng danh dự của chính mình...
- Mọi chuyện khác em có thể nhân nhượng... nhưng nhà cửa và tài sản... tất thảy những thứ đó là của cu Hạnh, con trai chúng ta...
- Con trai em từ máu thịt của em mà ra. Nó còn quá nhỏ. Nếu khôn lớn, nó cũng không cam lòng nhìn mẹ đẻ của mình sống một cuộc sống khổ ải... thêm nữa, con trai em chính là con trai anh, nếu nó đủ nhẫn tâm sống sung sướng khi mẹ thiếu thốn nó không còn xứng đáng là con anh và trong trường hợp ấy anh sẽ đuổi nó ra khỏi cửa...
Giọng Hoan rắn đá và căng thẳng, khác hẳn lệ thường. Và đôi mày lưỡi kiếm của anh vếch cao hơn trên vầng trán rộng. Vẻ cứng cỏi bất chợt đó khiến Miên nhụt chí. Chị buông thõng hai cánh tay, không còn giữ được bộ mặt gan bướng. Hoan kéo tay vợ ngồi xuống và hạ giọng:
- Anh biết em yêu con, muốn hi sinh tất cả cho con, nhưng làm người phải biết cho và biết nhận. Nếu em không chấp nhận tình yêu của bố con anh, em là kẻ bạc tình... dù em không còn là vợ anh nữa, nhưng mãi mãi em vẫn là mẹ của con trai anh. Cu Hạnh không thể có một người mẹ đói khát lam lũ.
Anh đứng lên:
- Chờ anh một phút, anh quay lại bây giờ.
Anh đi lên nhà trên. Vài phút sau anh quay lại với gói vuông vắn như viên gạch nhỏ, bên ngoài bọc ni-lông và chằng bởi những sợi dây cao-su:
- Ðây là tiền anh chuẩn bị cho em mang đi. Em hãy chú ý ăn uống đầy đủ vì đàn bà đã qua sinh nở dễ xuống sức. Người ta chẳng phải thánh thần, không thể ăn hương và ngửi gió mà khỏe mạnh được. Trong trường hợp cần nữa, em hãy về nhà lấy thêm. Ở đây, mỗi tấc đất mỗi viên gạch đều có mồ hôi của em. Chúng ta có một số tài sản kha khá. Sau khi em đi rồi, anh sẽ thuê quản gia lên đây coi sóc nương trại. Anh xuống phố mở lại cửa hàng với chị Châu. Dì Huyên sẽ trông coi cu Hạnh. Anh ngừng lại một lát, rồi thêm:
- Em biết đấy, anh không thể nào ở lại đây... anh không thể...
Miên nhìn anh, bất chợt mắt chị lóe lên những tia sáng điên cuồng hoảng loạn, rồi chị gục mặt xuống hai cánh tay khóc rồ lên như đứa bé.
Sáu giờ rưỡi sáng, chuông vang lên ngoài cổng.
Miên bảo Hoan:
- Em đi đây... thôi anh đừng bước ra.
- Cũng được.
- Anh vào giường ngả lưng cho đỡ mệt.
- Cũng được. Ðể anh mang chiếc hòm cho em.
- Không, em xách được.
- Thế anh xách bị cỏ khô cho em vậy.
- Không, cỏ nhẹ bổng, chẳng ăn thua gì.
- Em làm sao xách một lần cả hai thứ?
- Em sẽ mang làm hai lượt.
- Sao em cứ thích hành hạ mình?
- Em muốn thế... kệ em...
Chị lại nổi cơn gan bướng lên. Cặp mắt sưng húp lại ửng đỏ.
- Thôi được, anh vào buồng đây.
- Em ra mở cổng.
Chị xách bị cỏ khô ra trước rồi quay vào đưa chùm chìa khóa cho anh:
- Anh giữ lấy khóa.
- Ðấy là phần của em. Nhà ta có hai chùm mà...
- Không, bây giờ em đã hết quyền giữ khóa.
Chị đặt chùm chìa khóa lên chiếc kỷ thường đặt cây đèn đêm rồi quay ngoắt lưng bước ra:
- Thôi em đi.
Anh thấy bóng chị vút qua khuôn cửa buồng trong chớp mắt. Anh nằm vật xuống giường, nghe cánh cổng quay ken két vọng vào. Không có tiếng đối thoại. Miên đã trở về với người đàn ông kia trong sự im lặng đó. Chỉ có tiếng lao xao của những đám lá tre rụng bị gió lùa, hoặc tiếng chân họ khua động hoặc chính anh tưởng tượng ra thứ âm thanh đó... Phải chăng tiếng xào xạc kia chính là vọng âm của một hạnh phúc đã ở sau lưng mà đam mê còn phía trước?
Ta sẽ sống ra sao bây giờ... ra sao, ra sao?
Hoan tự hỏi.
Và không thể tự trả lời anh chạy nhào ra sân, hối hả trèo lên cây cầu thang sân thượng. Trên cao, anh nhìn thấy người đàn bà của anh cùng người đàn ông kia đi trên đường làng. Chị xách chiếc hòm đi trước, anh ta xách bị cỏ khô theo sau, người nọ cách người kia chừng dăm bước chân. Miên nghếch mắt nhìn thẳng, cổ vươn cao, lưng dựng đứng. Trong dáng đi ấy, chị đang hướng tới cõi riêng của chị. Cõi ấy, thuộc về anh và đứa con trai. Hoan tin chắc điều ấy. Người đàn ông xách cỏ lầm lũi phía sau kia có biết điều đó chăng? Liệu anh ta có hiểu rằng anh ta sẽ phải chung sống với một người đàn bà thuộc về một cõi khác và anh ta chẳng có chỗ trong cõi ấy, hoặc anh ta tin vào khả năng chinh phục lại của bản thân?
Kẻ yếu có sức mạnh và mánh khóe riêng của họ. Sức mạnh ấy dựa trên lòng trắc ẩn của người đời. Biết đâu, mưa dầm lâu thành lụt, sự tận tụy và niềm đam mê của anh ta lại chẳng khơi được ngọn lửa trong tro tàn của mối tình đầu?
Hoan nghĩ, và bất giác lòng ghen tị chọc một mũi kim vào tim anh... mối tình đầu... bao nhiêu cuốn sách đã mô tả các trạng thái, và sức sống tiềm tàng của nó... dầu sao chăng nữa, giờ đây, người đàn ông kia cũng được sống với Miên, đàng hoàng trong tư cách ông chồng. Còn anh, anh sẽ sống ra sao? Anh biết sống làm sao?
Anh đứng nhìn theo tới lúc hai người kia khuất sau các khu vườn mút tầm mắt mới xuống thang. Ngôi nhà rộng hoang rộng huếch như anh chưa từng xây một ngôi nhà thừa không gian như thế. Anh bất chợt bắt gặp bóng mình trong gương, một gã đàn ông vậm vạp, có gương mặt ngơ ngác và dáng vẻ của một con gà chiếp lạc bầy...
Chương 9
Miên... Miên ngồi xuống đây.
Bôn đặt bị cỏ vào góc buồng, đoạn lấy chiếc may-ô cũ lau lại mặt ghế. Cặp ghế gỗ của già Ðọt cho, cùng chiếc bàn cũ từ thuở cha mẹ anh còn sống vừa được chàng Xá chột sửa lại mộng và thay cặp chân mới. Nước gỗ mun đen vá đôi chân trắng lốp trông như con lừa khoang vừa buồn cười vừa vui mắt. Bôn xin Xá chiếc bình đất nung anh ta ném lăn lóc trong xó bếp đem về cọ rửa sạch, đặt lên bàn, cắm vào đó mấy bông hoa riềng đỏ lẫn mấy cành thạch thảo khiến gian buồng tưng bừng rạng rỡ hẳn lên. Ngày trước, tiểu đội trưởng dạy:
Dân quê các cậu cứ lấy câu ăn chắc mặc bền mà dọa thiên hạ. Người ta cần no cơm ấm cật thật. Nhưng cũng còn cần nhiều thứ khác. Con hổ, con hươu, loài chồn, loài khỉ cũng tự tạo cho chúng được no và ấm dù chúng không cấy lúa dệt vải như người. Con người là loài khác, vì thế phải biết cần những thứ khác thú vật.
Bôn thầm cám ơn người đã chết bởi nhờ vài cành hoa riềng đỏ với mấy bông thạch thảo li ti tím kia mà gian buồng của anh bớt đi vẻ lạnh lẽo, nghèo nàn. Anh tự hài lòng với mình:
Rồi ta sẽ cắm hoa ngày ngày, ta sẽ trồng một luống hoa trong vườn nhà và bẻ hoa trang hoa cúc dại trên đồi. Ta sẽ trang trí căn buồng này cho xứng với cuộc sống mới. Ta còn trẻ và ta có thời gian.
Và lúc nghĩ điều đó, anh không khỏi thoáng qua niềm kiêu hãnh thầm nghĩ: Anh bằng tuổi Miên, trẻ hơn người đàn ông kia bảy tuổi. Tạo hóa cho anh gần một thập kỷ để anh chiếm lĩnh lại những gì đã mất và xây đắp những gì muốn xây đắp. Ấy là ưu thế độc nhất anh có thể tìm được cho mình.
- Miên ngồi xuống cho đỡ mỏi.
Bôn nhắc lại lần thứ hai, vẻ như chủ nhà mời khách hơn là chồng nói với vợ. Chẳng hiểu sao, mỗi lần định há miệng định gọi Miên là em anh vẫn cứng lưỡi lại. Một nỗi rụt rè, một thoáng nghi hoặc nào đó khiến anh không thể xác lập được cách xưng hô... Mười bốn năm trước, Miên đã thắp hương thề trước cây phượng già rằng sau hôn lễ chị sẽ gọi Bôn là anh. Giờ đây, cây phượng nhân chứng cho lời thề năm xưa vẫn còn, vẫn đâm bông đỏ rực nhưng anh đã mất niềm tự tin ngày ấy... Họ bằng tuổi nhau, đó là sự đã rồi, nhưng còn lẽ khác, anh không dám cắt nghĩa...
- Khát nước không Miên?
- Em không khát.
- Ðể tôi đặt chiếc hòm của Miên lên kệ gỗ.
- Ðược rồi.
- Miên ngồi đây.
- Dạ.
- Tôi đón Miên sáng sớm để thiên hạ khỏi tò mò thóc mách.
- Dạ.
- Dù sao... thì cũng đã hơn mười bốn năm, chúng ta phải bắt đầu lại cuộc sống.
- Dạ.
- Tôi biết Miên rất có tình với tôi. Ở đằng kia, Miên sống rất giàu... và rất đầy đủ.
- Cũng không sao.
- Nhưng chúng ta còn trẻ, chúng ta có thể làm giàu với đôi tay mình.
-...
- Tôi rất yêu Miên.
-...
- Tôi muốn... tôi muốn chúng ta... như ngày xưa...
Nói tới đó, thốt nhiên anh tắc họng...
Như ngày xưa...
Lời ước ấy khiến anh trào nước mắt. Ngày xưa, anh không có gì ngoài tuổi trẻ, sức trẻ và tình mê say người con gái kiều diễm nhất vùng. Nhưng bây giờ cô ấy đã trở thành người đàn bà cao lớn hơn, lộng lẫy hơn, quyến rũ hơn... giàu sang và xa lạ hơn cả ngàn lần. Sao cô ấy không nói gì ngoài những tiếng: Dạ điểm nhịp và sự lặng im? Anh biết đó là tiếng đáp làm vì, là thứ lời không nghĩa. Miên ngồi yên trên ghế, đưa mắt nhìn gian buồng. Chẳng có gì đáng kể nhưng anh đã xây tường ngăn, có liếp chắn bên trên, để cuộc sống lứa đôi của họ hoàn toàn biệt lập với mẹ con Tá. Cánh cửa gỗ đã được thay và bạn anh, Xá chột đã dốc cả lọ vẹc-ni của anh để đánh bóng. Bôn cũng đã mua ổ khóa. Xá chột lại cho anh tiền mua chiếc giường đôi mới gắn hộp gỗ ở đầu giường. Ðấy là chỗ cho Miên cất gương lược kim chỉ, những thứ đồ vặt vãnh của đàn bà và anh dự tính họ sẽ chụp ảnh chung lồng kính đặt trong đó. Chiếu trải giường mới tinh, cuối giường là chiếc màn nguyên nước hồ và tấm chăn in những bông thược dược. Tất cả sự cố gắng của anh, tình yêu, niềm trìu mến và những đồng tiền dành dụm sau một cuộc chiến. Liệu chị có hiểu được điều đó không?
- Tôi đun nước Miên uống nhé?
- Em không khát. Nếu khát em sẽ đun... Chị Tá với lũ trẻ đâu?
- Chị ấy đưa lũ trẻ sang nhà già Ðọt từ chiều qua, mai mới về.
- Chúng ta sẽ nấu chung căn bếp với mẹ con chị ấy phải không?
- Ừ, trước mắt ta tạm dùng chung căn bếp cũ. Sau này làm ăn khấm khá...
Miên đứng dậy đi lại góc buồng, lật nắp chiếc chum sành:
- Gạo vẫn đựng trong chiếc chum này phải không anh?
- Ừ, sao Miên biết?
- Vì mùi gạo mới mà mùi chum đầy mốc bụi. Sao anh không lau sạch chum trước khi đổ gạo vào?
- Tôi vội... tôi quên...
Bôn lúng túng. Trong mọi sự chuẩn bị để đón Miên về anh đã quên rằng Miên rất sạch. Chị không chịu được sự bẩn thỉu và coi đó như một đặc tính chung ai ai cũng phải chấp nhận. Khi về làng, Bôn mới biết rằng sau khi anh nhập ngũ, Miên đã trở về dì Huyên, ngay không giây phút chần chừ. Chị không chịu được gia đình Tá, không chỉ sự dơ dáy trong tâm tính mà cả sự bẩn thỉu toát ra đầu tóc, quần áo, da thịt người chị ruột của anh. Bôn nhìn Miên, hai tai nóng bừng. Chị vẫn đứng quay nghiêng lại phía anh cúi đầu nhìn vào chum gạo. Chiếc chum đó, họ đã đựng gạo hồi cưới nhau. Mười bốn năm qua, nó vẫn còn. Dạo chiến tranh, người ta lăn mọi thứ chum vại xuống hố hoặc xuống ao. Hết thời bom đạn, họ lại móc chúng lên. Những thứ đồ đất nung này thiên niên vạn cửu như khí cụ bằng đá của người nguyên thủy.
Bôn không chỉ coi nó là một kỉ niệm của cha mẹ anh để lại mà cũng là kỉ vật từng chứng kiến những ngày ái ân của họ trước kia... Nhưng với Miên, có lẽ đó chỉ là thứ đồ cóc cáy, xoàng xĩnh và hết sức bẩn thỉu.
Tại sao ta không lau rửa cho đàng hoàng trước khi đổ gạo. Ta thật vô tích sự...
Anh thầm chửi rủa mình khi nhìn đôi mày Miên cau lại trên tinh mũi. Anh vội nói:
- Ðể anh... để tôi lau lại. Cũng chẳng nhiều nhặn gì, chỉ có năm cân gạo thôi...
Miên không đáp, chị lẳng lặng vần chum gạo ra giữa căn buồng rồi gọi:
- Anh tìm cái thúng đem ra đây.
Bôn lao sang buồng Tá, đổ mớ quần áo của lũ trẻ ra mới tìm được chiếc thúng lành. Anh đem trở lại. Miên đổ gạo ra thúng. Bôn nhìn hai tay Miên vốc gạo, thầm nghĩ:
Số gạo kia không đủ ăn một tuần. Sau đó ta sẽ sống bằng cách nào đây? Ta đã tiêu đến đồng bạc cuối cùng. Vài tờ giấy lẻ sót lại trong túi chỉ đủ mua hai gói thuốc lá. Nhưng không thể không mua gạch sửa lại gian buồng, không thể không mua đôi chiếu mới và sắm chăn màn mới. Ðó là những món chi tiêu bắt buộc. Ðể làm đẹp lòng Miên. Có Miên, rồi ta sẽ có tất cả. Ta sẽ vay tiền Xá chột, Bình kều hay già Ðọt để làm vốn canh tác và sống trong thời gian trước mắt. Mọi thứ sẽ toan tính sau...
Miên gọi:
- Nào anh vét nốt gạo ra.
- Tôi làm ngay đây. Xong rồi.
- Anh vần chum ra sân phơi cho hết mọt. Khi nào chum nóng rẫy, mọt mới chết hết được. Sau đó hãy lấy giẻ lau.
- Ðược rồi.
- Phải sàng sảy lại chỗ gạo này... nhà chị Tá có sàng sảy không?
- Có... Hình như có. Miên để tôi đi tìm.
Anh xuống bếp, không muốn Miên phải thò tay đụng đến mớ gia tài mục nát của Tá. Quả nhiên, anh bới toát mồ hôi mà không tìm được cái dần hoặc cái sàng nào nguyên vẹn. Tất thảy đều đã hư hỏng, không tuột vành cũng gẫy nan. Bôn cảm thấy ánh mắt Miên đang nhìn anh ẩn chứa sự khinh bỉ. Anh biết sự khinh bỉ ấy không chỉ riêng Miên có. Cả làng này, đàn ông lẫn đàn bà đều khinh bỉ người chị ruột của anh. Nhưng riêng sự khinh bỉ của Miên khiến anh đau và nhục. Hai mang tai nóng ran lên, anh quay lại, lắp bắp:
- Miên chờ tí... tôi sang hàng xóm mượn.
Lát sau, Bôn quay về, thấy Miên đang cặm cụi nhặt những hạt thóc và sạn lẫn trong gạo. Chị lặng thinh đỡ bộ dần sàng trong tay anh, bắt đầu làm công việc của người đàn bà xứ quê một cách nhẫn nại. Anh đứng nhìn chị ngỡ như mơ...
Người đàn bà đang ngồi sàn gạo trước hiên kia là vợ anh, là người đàn bà của anh người anh yêu mê, ngưỡng vọng đã ở dưới mái tranh này, bằng xương bằng thịt, món tóc tơ trước trán, cái gáy trắng hồng hở ra dưới búi tóc gài cây trâm sừng, da thịt nõn nà như chẳng phải da thịt người mà thịt da tiên nữ. Từ nơi chị ngồi đến chiếc giường đôi mới kia chỉ vài bước chân. Những bông hoa thược dược sẽ trả lại cho anh tuổi trẻ đã mất. Ðêm nay họ sẽ cùng nhau. Ðêm nay, anh sẽ uống thỏa thuê cơn khát mười bốn năm ròng.
- Gạo nhiều sạn quá.
Chị cất tiếng đột ngột khiến Bôn giật mình. Anh cười:
- Tôi đàn ông, đàn ang chỉ mua được thứ gạo ấy thôi. Từ rày về sau Miên sẽ mua.
Nhưng ta lấy đâu ra tiền cho Miên mua gạo và đi chợ? Không lẽ vay mãi Xá chột? Cậu ấy chẳng giàu có là bao, lại ba đứa con lóc nhóc. Xá đã tặng mình cặp chân ghế lẫn cánh cửa, cho vay tiền mua chiếc giường đôi, sao phiền nhiễu thêm được. Ngoài Xá chột, còn có thể trông cậy vào ai? Chính quyền ư? Sự giúp đỡ tới đó là chấm dứt, xã còn cả đống gia đình thương binh liệt sĩ, đồng tiền bố thí bao giờ cũng là vốc tiền xu. Ta còn có thể hỏi già Ðọt, người đã bao dung mẹ con Tá ngần ấy năm ròng. Nghe nói hồi trẻ bà có nhan sắc và rất phong tình, khối đàn ông mê mẩn cho tiền bạc. Ta cũng có thể đến hỏi Bình kều... Dẫu sao cũng phải có tiền để sống. Ngày mai, không lẽ ăn cơm với muối rang, con gà nhép kia kho mặc cũng chỉ được hai bữa...
Bôn đưa mắt liếc con gà nhép trong lồng, chỉ độ bảy tám lạng thịt, luộc lên khéo không đầy một đĩa, nhưng anh sẽ bảo Miên rang mặn để ăn cho đủ một ngày. Con gà ấy không phải anh mua là gà nhà Xá. Cô Soan, cô vợ thơm thảo của Xá đã vào vườn bắt cho anh để "làm bữa cơm đón nàng về dinh..." sau khi phàn nàn "rủi cho bác quá, hơn hai chục con gà tơ vừa thịt hết cho bố cháu, tẩm bổ trước khi lên rừng. Chỉ còn lại mụ mái già với hai con nhép..." Giá như Soan không lo chuyện đó, anh cũng đành cười trừ và đón Miên bằng bữa cơm rau suông.
Vậy mà bữa ta về. Miên đã bưng lên một mâm thịnh soạn...
Anh nhớ lại chiếc mâm đồng đầy tú ụ đồ ăn thức uống chị đã đặt trước mặt anh, vào đêm anh trở về. Mâm thức ăn đó được đặt trên bàn, dưới ánh sáng của năm ngọn nến. Ðó là một không gian khác, không gian ấy không thuộc về anh. Nhưng giờ đây, chị đã chấp nhận quay về, như vậy chị sẽ phải hòa nhập với cuộc sống mới, và thở hít trong không gian của chính anh.
Em là người đàn bà của tôi, sống dưới mái nhà của tôi, trong vòng tay của tôi...
Cái tiếng dõng dạc đầy xác tín ấy cất lên trong anh, âm vang của từng lời dội vào óc não đường gân thớ thịt trên thân xác anh và anh bỗng cảm thấy mình lớn mạnh lạ thường, oai nghiêm lạ thường. Anh đi đi lại lại trước hiên, trong khi Miên không ngừng tay sàng gạo. Ngước nhìn những ngọn soan đung đưa trong vòm trời anh bắt đầu mơ đến những nương tiêu của mình trong tương lai. Anh đã quyết không trồng cà-phê, khoảnh đất xã chia cho, anh sẽ vỡ nương và trồng tiêu hoàn toàn dù rằng tiền đầu tư vào nương tiêu sẽ nhiều hơn.
Ngả nào ta cũng phải vay tiền làm vốn ban đầu, nếu quyết định sai, sau này có hối cũng muộn...
Miên đã sàng xong mớ gạo, ngẩng lên hỏi:
- Cái giếng nhà mình còn nhiều nước không anh?
- Còn, nước sẵn lắm.
- Nước sạch không?
- Nước trong, nước rất trong... à tôi chưa kiểm tra lại nhưng mọi người vẫn dùng. Tôi cũng đã nhờ người dựng cho Miên cái nhà tắm cạnh giếng. Miên có xem qua không?
- Thôi, đằng nào nấu cơm xong, em cũng phải tắm.
Chị phủi quần áo, đoạn xếp đống dần sàng gọn ghẽ:
- Anh mang trả người ta, đồ dùng như chân tay không thể phiền nhiễu hàng xóm.
Lúc anh mang mớ dần sàng đi, Miên bê thúng gạo vào buồng. Anh định bụng khi quay về sẽ hôn chị một nụ hôn dài cho bõ những ngày chờ đợi. Nhưng khi Bôn quay về, Miên đã đứng trước hiên, trong tư thế sẵn sàng lao vào một công việc mới.
- Bát đĩa để đâu? Em mang đi rửa lại.
Bôn tiu nghỉu. Anh bắt đầu hiểu rằng Miên cố ý lảng tránh anh và chị sẽ nghĩ ra đủ thứ công việc để không còn khoảng thời gian rảnh rỗi.
Ðược cô ranh ma lắm. Nhưng sớm hay muộn rồi mặt trời cũng xuống núi, đêm sẽ tới và chẳng còn lý do nào để lảng tránh tôi. Cô đã là người đàn bà của tôi và cô sẽ là người đàn bà của tôi, có đất trời chứng giám...
Anh thầm nghĩ vậy và dõng dạc đáp:
- Bát đĩa tôi chưa mua được. Mình hãy dùng tạm bát đĩa nhà chị Tá.
- Không, trước hay sau cũng phải có đồ dùng riêng, bát đĩa riêng, không nên dây dưa phiền hà người khác. Bây giờ anh rẩy cỏ vườn, em ra cửa hàng của xã mua vài thứ lặt vặt.
- Không cần. Chị em trong nhà, mượn tạm vài hôm đã sao?
- Em không muốn ăn vay ở mượn.
Chị đáp lại, giọng vắn tắt và lạnh lùng.
Bôn buộc phải xẵng giọng:
- Nhưng tôi chưa lo kịp tiền. Có đồng nào đổ vào chuyện sửa nhà với sắm giường chiếu mới. Ấy là chưa kể đến...
Chút nữa anh nói: Chưa kể đến món tiền nợ Xá... và những thứ cậu ta đã cho... nhưng anh đã kịp cắn lại lời. Nói hết ra ê chề quá. Anh không đủ muối mặt và anh biết rằng phận người đàn ông phải gánh vác chuyện chi tiêu trong gia đình.
Miên đứng như trời trồng trước hiên, chị đưa mắt nhìn anh thong thả buông từng lời:
- Chúng ta sẽ bắt đầu cuộc sống thế nào đây? Không xoong nồi, bát đĩa, không củi đuốc đèn dầu, chỉ mấy cân gạo trắng.
Mỗi lời chị buông ra như một sợi dây cột chặt vào cổ anh khiến anh ngạt thở. Bôn thấy mắt mờ đi và anh đáp hối hả:
- Em đừng lo. Bạn tôi ở làng bên, cùng giải ngũ một lượt với Xá đã hứa cho tôi mượn tiền, đủ sắm nông cụ và mướn thợ làm nương tiêu... nhưng tôi bận thu xếp nhà cửa đón em nên chưa có thời gian đi lấy...
Nói xong, mồ hôi Bôn vã đầy gáy:
Sao ta lại nói khoác như vậy? Chỉ còn hai nơi bấu víu: già Ðọt và Bình kều. Hai nơi đó chưa nơi nào chắc chắn. Lỡ Bình không thật giàu như đám lính về vườn đồn thổi, làm sao ta có thể vay được một món tiền lớn như vậy? Rồi ta sẽ phải kiếm cách dối quanh? Bắt đầu bằng một lời khoác lác, sau đó trở thành kẻ dối trá. Và có thể phải dấn thân vào trò lừa đảo, đó là con dốc nhiều kẻ đã trượt qua...
Càng nghĩ, anh càng hoảng loạn. Mồ hôi không chỉ vã ra nơi gáy mà toát đầy lưng. Anh không có thói quen nói khoác hay nói dối. Ðây là lần đầu. Chính anh cũng không hiểu vì sao những lời lẽ dối trá vừa tuột khỏi đầu lưỡi mình trơn như bôi mỡ. Giá anh có muốn cũng không thể ghìm giữ nổi. Bôn đưa mắt nhìn vợ xem nét mặt chị biểu lộ gì? Chị tin anh và hy vọng vào tương lai mà anh đã tưởng tượng ra? Hoặc chị biết tỏng anh là kẻ dối trá không hổ thẹn và chị giấu đi sự khinh bỉ ngầm ẩn? Nhưng chị đang nhìn đâu đó, chẳng tin cũng chẳng ngờ, chị đang phiêu diêu trong cõi riêng của chị. Ðiều đó khiến anh đau đớn nhưng lúc này nó cứu gỡ anh khỏi cơn khốn khó. Mắt chị đang lướt hờ hững trên bờ dậu nhà hàng xóm, nơi những dây tơ hồng vàng ươm leo rối rít trên những bụi cúc tần, còn những khóm cúc tần cố vươn lên những túm lá non phất phơ màu ngọc thạch phủ phấn trắng bạc. Dường như vẻ đẹp e dè và mong manh đó đang gợi cho Miên những kỷ niệm những suy tưởng chỉ riêng chị biết. Và anh hiểu rằng anh đứng ngoài cái thế giới chị đang chìm đắm. Nhưng anh không thể làm gì để đổi thay. Anh đứng im lặng, chờ. Sau một khoảnh khắc dài, Miên đưa tay vén món tóc mai một cách lơ đãng và nói:
- Anh sang nhà dì Huyên mượn cho em chục bát. Lấy loại bát Hải Dương.
Anh hiểu đó là mệnh lệnh. Miên không muốn dây dưa chung đụng với Tá. Chị ghê sợ sự dơ dáy. Anh đưa mắt liếc chiếc chạn gỗ đã mục ải, long nan mà mấy mẹ con Tá vẫn dùng úp bát. Chạn thấp lè tè ba gang tay, bất cứ con gà nào cũng có thể nhảy lên ỉa, bất cứ con chó, con lợn rông nào cũng có thể sục mõm vào. Lũ bát đĩa úp trong đó càng thảm hại hơn. Lẫn lộn nào bát sứ mẻ, bát sắt móp, cái sơn trắng, cái sơn xanh, cái nào nước men cũng ghẻ lở... ấy là mớ của cải cùng khốn gom nhặt từ mọi xó xỉnh đem về...
Miên có lý. Cô ấy không thể ăn cơm bằng thứ bát bẩn thỉu đó. Cô ấy đã quen với một cuộc sống đàng hoàng...
Anh tự thuyết phục mình. Bởi ngày họ cưới nhau, Miên cũng đã đem về nhà anh thứ bát đũa chị quen dùng và tấm chăn chị đang đắp. Nhưng ngày đó họ còn trẻ, họ đang yêu và trước mắt họ là chiến tranh. Cuộc chia ly phía trước xóa mờ mọi ranh giới, trùm phủ lên mọi cách biệt và dồn ép không gian lẫn thời gian trong ánh chớp ngắn ngủi của thứ tình ái thuở ban đầu... năm tháng đã qua và giờ đây anh có dịp hồi tỉnh, có dịp nhìn lại những gì từng trải nghiệm.
Không chỉ chiến tranh mà cuộc sống cũng phân ly con người. Sự phân ly trong chiến tranh khốc liệt và được giải quyết bằng vũ khí... sự phân ly trong đời thường khốc liệt không kém nhưng người ta không thể xử lý bằng đạn hoặc lưỡi lê...
Bôn nghĩ. Nhưng anh không dám nghĩ tiếp. Bởi anh biết rằng, nếu anh nghĩ tiếp, đi đến tận cùng sự việc cũng có nghĩa là đi đến tử địa của chính mình.
- Anh nhớ mượn thêm một cặp bát lớn để đựng canh.
Miên lên tiếng khiến anh giật mình. Bôn nhảy khỏi cơn suy tưởng và nhìn vào mặt vợ:
- Ðược rồi, tôi sẽ sang dì Huyên mượn bát. Miên còn cần gì nữa?
Chị vẫn nhìn rặng cúc tần, nói:
- Anh lấy thêm năm chiếc đĩa sứ Hải Dương. Ðừng ngại, của dì cũng như của em, dì không tiếc đâu...
- Tôi đi đây.
- Anh cũng đem về đây chiếc chạn bát đúc bằng nhựa. Chính em đã mua cho dì hai chiếc. Hãy nói dì san bớt một nửa...
Bôn đi rồi, Miên vào buồng mở chiếc hòm gỗ lấy bọc tiền mà Hoan đã gói ghém cho chị. Chị mở lớp ni-lông gói ra. Ðồng tiền được gói chặt như cục gạch, thuần giấy bạc lớn mà Miên dư biết rằng một gã trai làng làm cật lực một vụ cũng chỉ kiếm được vài ba tờ. Rõ là một tài sản lớn chứ không phải món tiền tùy thân. Hoan đã đoán định trước mọi điều, và lo trước cho chị. Miên nhớ lại thái độ gàn bướng của chị, vẻ mềm mỏng nhưng cương quyết của Hoan và hiểu rằng không có anh, chị sẽ rơi vào một hang sâu không lối thoát. Anh đối với chị hơn cả một người chồng, một người yêu, và một người cha cộng lại. Và có lẽ suốt cuộc đời của chị, chị sẽ chẳng bao giờ bước khỏi cái bóng của anh, người đàn ông khổng lồ và dịu dàng nhất cõi đời.
Chương 10
Ngày hôm ấy với Bôn dài hơn thế kỷ. Bữa cơm thứ nhất đã qua trời mới đứng bóng, mặt trời bỏng rẫy hắt thứ ánh sáng hừng hực chói chang như thù hận nhân gian. Nhà vừa lợp lại, mái lá dày nên không đến nỗi quá nồng nực nhưng cửa sổ nhỏ lại không đúng hướng gió nên gian buồng ngột ngạt. Vả chăng, dù không gian chẳng ngột ngạt Miên cũng sẽ kiếm cớ để không nằm chung giường với anh. Bôn nghĩ vậy nên anh im lặng khi sau bữa cơm, chị ra ngồi dưới gốc ổi ngoài vườn, phe phẩy chiếc quạt nan. Miên đã nhổ sạch các đám rau chua me dại với đám cỏ ấu. Chị cũng đã vun luống hương nhu anh trồng. Chẳng còn việc gì để làm trên mảnh đất hẹp xiên xẹo mấy cây ổi già và mấy cây khế. Tất thảy đều cằn cỗi còi cọc, cây nào cây nấy không thể đâm lá trổ nhành vì hàng mấy thập kỷ chẳng được bón phân, thêm nữa đất quanh gốc cây nhẵn lì vì lũ trẻ chạy nhảy. Miên nhớ hồi chị tới đây, vườn còn khá tươi tốt. Còn có rặng chanh hương, thứ chanh nhỏ quả nhưng thơm nức, có một gốc mít xum xuê và xung quanh rào giậu vẫn kín. Dọc theo bờ dậu, dây mồng tơi leo nặng trĩu tha sức hái nấu canh. Giờ, mảnh vườn tàn lụi đi, tàn lụi đến mức ngao ngán...
Nằm thượt trên giường, Bôn vừa thở vừa nhìn Miên đang tựa vào gốc cây, gà gật ngủ, chiếc quạt nan rời khỏi tay chị rơi xuống: Cô nàng tự thân làm tội đời. Ðàn bà đúng là giống lừa ưa nặng. Họ thích nhiễu sự, thích rắc rối, thích quanh co... nhưng muốn hay không cũng vẫn là đàn bà, đái không qua ngọn cỏ...
Ý nghĩ ấy khiến cơn tức giận của anh vơi nhẹ đi. Anh nhíu mắt nhìn mặt trời, thấy nó mất dạng chỉ còn lại một khối lửa trắng chói chang trên vòm trời xa tắp. Khối lửa đó dường như rất nặng và rất có thể ngày nào đó nó sẽ rơi vỡ, nó sẽ tan thành muôn mảnh, trái đất sẽ tối tăm như cõi u tì. Tưởng tượng đến cảnh ấy, anh bỗng thấy lòng khoan khoái: Không còn ánh sáng, nhà ngói nhà tranh cũng như nhau, lâu đài của vua chúa cũng giống lều thằng chăn vịt. Trong bóng tối ấy, hẳn con người sẽ sống với những kỷ niệm thời thơ ấu, và như thế, Miên sẽ hoàn toàn thuộc về ta...
Anh nhớ những cuộc hẹn hò cũ. Tiếng cười của cô bé gầy gò nhút nhát có tên là Miên. Anh nhớ màu phượng đỏ lộng lẫy tung hắt lên bầu trời nỗi hoan hỉ và niềm say đắm không nguôi dịu của tuổi trẻ. Anh nhớ... và anh nhớ... những hình ảnh êm dịu dẫn anh vào giấc ngủ.
Lúc ấy, ở ngoài vườn Miên cũng lơ mơ ngủ. Nhưng ngay trong giấc ngủ chập chờn ấy, những ý nghĩ vẫn liên tục diễu hành:
Có lẽ ta phải thuê người làm nương, có bỏ công sức vào mảnh vườn này cũng vô ích. Hình như nó đã tới hồi mạt vận, đất không đâm bông đơm trái nổi... và có lẽ ta cũng phải bỏ tiền xây một ngôi nhà nhỏ riêng biệt, không thể sống dưới cùng một mái tranh nhà Tá...
Nhưng vì sao ta lại tự nguyện gánh vác công việc nặng nề đó. Dù làm nương hay xây nhà ta cũng sẽ tiêu những đồng tiền Hoan đưa. Và không lẽ ta yêu Bôn đến độ phải làm những điều ngu xuẩn ấy?
Ta không yêu Bôn, cuộc trở về này là một phận sự, cái phận sự đã được quy ước từ thời xửa thời xưa dù chẳng ghi rõ trên giấy trắng mực đen nhưng đã thành luật lệ. Nếu ta chống lại luật lệ ấy dù bỏ làng ra đi cũng chẳng được sống bình yên...
Nhưng sống chỉ vì phận sự còn khổ hơn kẻ tu hành. Làm sao chịu nổi?
Người ta có thể quen với mọi sự. Ta phải chấp nhận... cu Hạnh còn quá nhỏ dại, và ta không thể để nó bơ vơ trên đời... nhưng cớ sao ta phải chịu duyên nghiệp oan trái này. Phải chăng vì mối tình từ mười bốn năm trước? Hồi ấy, ta có yêu Bôn thật sự hay không, ta chẳng còn nhớ nổi. Ðã có một lần Bôn chìa tay cho ta trên dòng suối... sau đó, là những cuộc hẹn và một đám cưới gấp gáp trước lúc Bôn tòng quân... hình như ta cũng đã từng yêu Bôn nhưng sao mọi kỷ niệm nhạt nhòa như mây khói. Chỉ biết chắc chắn rằng hồi ấy mọi sự đều khác... mắt Bôn không tối tăm như bây giờ, môi không thâm sì và hơi thở Bôn không đáng sợ như bây giờ. Tuy không đẹp nhưng Bôn tươi cười vui vẻ... và còn có tài gảy đàn bầu. Có bận, ta đã nghe Bôn gảy đàn, đám trẻ làng túm tụm xung quanh...
Bất giác, chị buông tiếng thở dài rồi vì mặt trời quá chói chị nhặt chiết quạt rơi lên che mắt. Tựa đầu vào gốc cây chị cố lục tìm trong trí nhớ một tiếng đàn, một âm vang nào đó khả dĩ gợi được trong tim chị niềm yêu dấu ngày xưa. Nhưng hồi ức chỉ là đám tinh vân nhừ nhòa với các chấm sáng tối hòa trộn. Sau cùng, lờ mờ hiện lên một con đường viền cỏ rậm, đồi dứa chạy hai bên. Một rặng hoa phượng vĩ. Bên trên rặng hoa ấy, những đám mây mùa hè trôi nổi, quay tròn và vòm trời lơ giống như chiếc dù lớn. Và rồi, những hình ảnh ấy tan biến trong khoảnh khắc và Miên không còn thấy gì hết. Chị cảm thấy mình đang ngủ...
Tiếng chim hót trong bụi cây nào đó vẳng tới khiến người đàn bà bừng tỉnh. Chị mở mắt. Tức khắc, ánh sáng ngũ sắc xuyên qua những nan quạt rọi vào chói nhức.
Miên vội nhắm mắt lại rồi xoay lưng sang hướng khác. Khi tỉnh ngủ hoàn toàn chị nhìn thấy Bôn đang nằm sống sượt trên giường. Căn buồng mở toang, yên tĩnh. Hẳn anh cũng đã ngủ, người đàn ông tội nghiệp đó. Anh đã phải kiên tâm chờ đợi, không dám xấn xổ, không dám để chị phật lòng, Nhưng ánh mắt thèm khát của anh dán vào da thịt chị, rình mò từng cử chỉ vợ anh. Ðêm nay, chắc không thoát khỏi phận sự xẻ chia chăn gối. Nhưng mới chỉ nghĩ tới điều ấy, chị đã rùng mình. Lạy trời, xin đừng bao giờ xuống núi...
Rồi mặt trời ngả về phía Tây đúng thời khắc quy định, mặc cho người chồng cầu xin mặc cho người vợ nguyền rủa. Bữa cơm chiều qua rất mau, dường như họ chẳng nói với nhau lời nào. Ðêm nay không có trăng.
- Miên để tôi rửa bát cho.
- Thôi.
- Ðã qua đời lính ai cũng phải rửa bát. Ðể mâm cơm đấy cho tôi.
- Miên cứ đi tắm đi. Tôi múc nước đầy ang rồi đấy.
- Anh cứ mặc em.
- Tôi có bánh xà-phòng của Mỹ dành cho Miên... Tôi nhặt được trong lúc đánh đồn...
Bôn dừng lại vài giây rồi mắt nhìn chị và nói thêm:
- Ðể dành đã gần chín năm nay rồi đấy...
Trong ánh mắt yêu đương và quy lụy của anh, có một nỗi thiết tha rồ dại khiến chị mủi lòng. Chị lúng túng:
- Sao anh cầu kì thế... em tắm gì mà chẳng được.
Nói rồi không dám nhìn anh, chị lấy quần áo ra nhà tắm ngay. Gọi là nhà tắm, thực ra chỉ là một khoảng đất vườn rộng chừng hai thước vuông được lát bằng những viên gạch đầu thừa đuôi thẹo, xung quanh quây liếp. Nhóm thanh niên tình nguyện đã làm giúp trong dịp sửa nhà. Cái ang đã được cọ rửa sạch, kê trong góc, đầy nước. Một đoạn dây dù chăng ngang cành cây làm nơi vắt quần áo. Bánh xà-phòng thơm Bôn đặt trên chạc ba cây ổi. Miên cầm lên xem. Nó là loại xà-phòng tắm đề chữ Camay, giấy gói trắng đã ố vàng rách sờn các mép gấp. Ở nhà Miên, Hoan thường mua từng tá xà-phòng tắm loại này. Vậy mà Bôn đã giữ nó suốt chín năm trong ba-lô để mang về cho chị. Món quà duy nhất của anh sau một cuộc chiến tranh. Chị bỗng ứa nước mắt.
Ngoài bờ giếng, Bôn đang rửa bát. Tiếng nước xối và tiếng lách cách của bát đĩa chạm nhau nghe rõ mồn một. Miên ngồi thừ người trong nhà tắm, nghe tiếng Bôn bưng mâm bát đĩa vừa rửa vào nhà, nghe tiếng dép anh đi lại trên sân trong lúc ánh le lói chiều tà tắt dần. Chị ngửa mặt nhìn trời, những rạn mây đang sẫm dần và bầu trời như được ghép bằng những mảnh vỏ trứng vỡ nhuộm màu. Mồ hôi chị đã khô trong lưng áo. Gió lướt qua lang thang mang mùi vị đêm. Óc não rỗng không Miên chẳng nghĩ được điều gì rành mạch, nói cho đúng hơn chị chẳng còn nghĩ, chẳng còn lo âu hồi hộp cũng chẳng hoang mang chờ đợi, tâm hồn chị như đám da bị tiêm thuốc tê mất mọi cảm giác. Chị vục mặt xuống thau nước lạnh và bắt đầu xối nước không ngừng tay.
Trong lúc đó Bôn đã vào nhà, đang loay hoay tìm mảnh các-tông che cây đèn. Anh đã cặm cụi cả ngày trời để đóng hộp, vừa tránh gió vừa che bớt ánh sáng, nhưng mấy mảnh gỗ bị hụt nên cái hộp đèn cũn cỡn như kẻ mặc quần đùi. Mấy đứa con Tá chẳng học hành gì nên không thể kiếm nổi tờ bìa hoặc cuốn vở cũ. Sau cùng, Bôn chợt nhớ tới mấy tờ báo anh đã mua trên tàu, còn nhét trong ba-lô. Anh lôi ra cuộn thành hình loa kèn, chụp lên hộp đèn.
Vậy là anh đã tạo được cây đèn ngủ vừa ý Miên. Hồi họ cưới nhau, chỉ vì chuyện dầu đèn mà Tá to tiếng với anh. Những hôm sau, chị ta còn chì chiết, bóng gió dai như đỉa khiến Miên giận dỗi. Giờ anh đã sắm cây đèn mới, mua dầu riêng cất trong buồng. Không gì có thể ngăn cản hoặc làm rầy những cuộc ái ân của họ.
Xong việc, Bôn khoanh tay ngồi nhìn ra sân. Dẫu là mùa hè nhưng đêm miền sơn cước đã tối rất mau, bóng đêm mỗi lúc dày, đen như mực Tàu. Tim anh đập náo nức trong lồng ngực, cổ họng anh nghẹn thắt. Anh đã chờ đợi, chờ đợi và đây là khoảnh khắc con thuyền cập bến. Trong gang tấc, chỉ giơ tay sẽ với tới bờ...
Miên đột ngột bước vào. Chị đã tắm xong, toàn thân toát ra mùi nước và mùi của sự quyến rũ. Bôn nhắm mắt hít thở cái không khí tẩm liễm mùi người đàn bà anh yêu. Chị lặng lẽ tới góc buồng, thu dọn gì đó trên chiếc bàn nhỏ. Chị thu dọn rất lâu, lâu đến mức anh không còn kiên nhẫn được. Anh đứng lên:
- Miên còn ra ngoài nữa không?
- Không.
Anh đi ra chốt cánh cửa buồng rồi quay lưng lại. Khoảnh khắc ấy, có ai đó hét trong đầu anh:
Ðây là nhà của tôi, rộng hay hẹp cũng vẫn là lãnh địa của tôi. Và kia là vợ tôi, người đàn bà của tôi...
Của tôi... của tôi... của tôi...
Tiếng hét đó lặp đi lặp lại nhiều lần cứ như ai đó đứng nơi lèn đá hét vọng vào. Bất chợt, anh nghi hoặc sự thật. Anh quay ra rờ lên con chốt cửa, đẩy đi đẩy lại mấy lần cho tới khi con chốt gỗ kêu khục một tiếng khô khan anh mới hoàn toàn yên tâm. Anh đi về phía Miên. Chị vẫn cắm cúi thu dọn gì đó quay lưng lại ánh đèn.
- Miên...
Anh bộc phát gừ lên một tiếng rồi xông tới bế thốc vợ lên giường. Búi tóc Miên xổ ra, tung một suối đêm, vướng vào tay ghế. Chị kêu:
- Ái ái...
Nhưng anh không còn tỉnh trí để nghe rõ tiếng kêu ấy. Anh đặt chị lên giường, chụp xuống thân thể chị những trận hôn như giông như gió vừa hôn vừa rít lên những tiếng kêu ai oán:
- Tôi yêu em... Tôi yêu Miên... tôi yêu Miên...
- Tôi yêu... tôi yêu em... tôi yêu...
Miên lặng lẽ kéo mái tóc lên, cuộn lại sau gáy để tránh anh co kéo. Mái tóc quá dày nên xòa khỏi lòng tay chị và chị buộc phải giữ chặt lấy nó. Ánh đèn hắt lên gương mặt trắng hồng của chị, gương mặt mà mỗi đường nét đều khiến anh điên đảo. Sao Miên cứ lặng im hoài như vậy... mười bốn năm trước chị đâu có câm nín như khúc gỗ... chị cười, hoặc chị giơ ngón tay chọc khẽ vào má anh, điệu bộ vừa rụt rè vừa nghịch ngợm.
- Tôi yêu Miên... Miên biết không... lúc nào tôi cũng nhớ Miên, dù là...
Chút nữa anh đã buột miệng nói ra: Dù là lúc nằm trên bụng người đàn bà khác. Nhưng anh đã kịp ghìm giữ. Và rồi sợ chị đoán ra sự thất thố của mình anh cúi xuống cởi những chiếc khuy trên tấm áo màu xanh dương của chị.
Miên không để tâm tới điều gì. Chị nằm như pho tượng, hoặc bằng thạch cao hoặc bằng cao-su, kiều diễm như tạc bởi bàn tay nghệ nhân tài tình bậc nhất, lạnh lùng như khí núi mùa đông. Cặp mắt chị không nhắm nghiền cũng không mở rộng. Chúng hé mở vừa đủ cho chị đăm đăm nhìn vào một điểm nào đó trên mái nhà. Anh cúi xuống hôn bụng vợ quanh cái rốn nhỏ mà anh nhớ có mụn ruồi đỏ bằng hạt vừng ở chếch bên trái trong lúc tiếng thét điên cuồng lại vang lên:
Tôi yêu em và em phải yêu tôi... chúng ta sẽ như ngày xưa. Như ngày xưa làm tình thâu đêm suốt sáng, như ngày xưa em ôm chặt cổ tôi mà ngủ, như ngày xưa em sẽ phải mỉm cười với tôi sau mỗi lượt. Như ngày xưa xác lũ thiêu thân sẽ rải trắng quanh hộp đèn cho tới rạng sáng, khi chúng ta tàn cuộc... như ngày xưa...
Tiếng thét cuối cùng dội vút lên, thúc vào tim anh và lóe lên ánh chớp. Dưới ánh chớp lóa ấy, anh nhìn thấy những con đường vùn vụt chạy, cây số này tiếp cây số khác, dải đồi nọ tiếp dải đồi kia, cánh rừng sau lưng cận kề cánh rừng trước mặt, thảy thảy những vùng anh đã đi qua, thảy thảy những đêm dài mong nhớ, quằn quại trên võng vì cơn đói dục tình, quằn quại trong hang sâu vì sốt rét, người lả đi như tàu lá úa mà nhìn mấy cô giao liên đi qua con giống vẫn dựng ngược lên như mãnh hổ chực vồ mồi... Và sau tất thảy những đói khát, nhọc nhằn ấy vẫn chỉ nhớ duy nhất người anh yêu, gương mặt ấy, làn da ấy... Và giờ đây, hạnh phúc đã nằm giữa lòng bàn tay:
Chúng ta sẽ yêu nhau cho lấp đầy những năm dài xa vắng. Chúng ta sẽ yêu nhau như ngày xưa, tôi mười bảy và em mười bảy. Sau mỗi cuộc ái ân tôi chỉ ngủ nửa giờ rồi lại dựng em thức dậy vào cuộc mới, nguồn suối sinh lực dâng lên không vơi cạn, ánh mắt ngái ngủ của em càng khiến em xinh đẹp hơn lên...
Chiếc quần lụa của Miên mỏng tang, mặt lụa mát lạnh, Bôn vo tròn chiếc quần lại vừa trong chét tay, và bằng cử chỉ ấy anh có cảm giác thâu tóm được người đàn bà anh yêu một cách dễ dàng. Sau khi đã bóp chặt chiếc quần đó vài ba lần một cách khoan khoái anh ném nó sang một bên và đặt tay lên chiếc quần lót trắng: Trắng như bông và mềm hơn cả lông mèo. Sao mọi thứ ở nơi Miên đều đẹp đến thế.
Có tiếng rên rỉ thầm thì kèm theo tiếng thở dài đâu đó... Trái tim đau của anh mơ hồ e ngại cái nhan sắc lộng lẫy của Miên sẽ là vực sâu vô đáy và anh sa chân xuống đó không có đường lên:... Ta còn trẻ. Ta còn trẻ và ta còn dư thừa sức mạnh...
Một giọng nói khác cất lên át tiếng thở dài lo âu của con tim, Bôn tự nhủ:
Ta sẽ yêu Miên và sẽ sinh con. Ta sẽ có cả đàn cả đống con như câu chuyện về vị tướng già tiểu đội trưởng đã kể... Tình yêu sẽ hồi sinh và sẽ lớn dần theo năm tháng, trong sự gắn bó với những đứa con... Nhất định ta phải có con đàn con đống.
Cơn thúc hối làm Bôn mờ mắt. Anh chỉ còn thấy tấm thân trắng nhễ nhại của Miên, một động tác cánh tay chị vừa phác... Rồi anh chìm sâu vào chị.
Những con sóng khoái lạc nối nhau dồn lên bờ cát. Anh như muốn tan biến dưới ngọn triều. Biết ái ân sau mười bốn năm xa cách vừa như cuộn trở lại vừa như tới lần đầu. Hăm hở, ngỡ ngàng, mê man, cuồng dại... Một đại dương dào dạt cuộn lên, những con sóng phôi sinh không ngơi nghỉ, không mệt mỏi sẽ xô thuyền đắm say ra tít khơi xa, nơi muôn trùng sóng...
Ta yêu Miên, yêu Miên... Người đàn bà ta yêu đang cùng ta, da thịt trong da thịt... Chúng ta sẽ ái ân như ngày xưa ân ái...
Trong khoảng ngắt giữa hai hơi thở, lời rên rỉ buột khỏi môi anh. Anh nhắm mắt lại để nhìn cho thấu đại dương say đắm trong mình, thấy mênh mông chân trời khoáng đãng thấy thuyền anh nô giỡn trên những con sóng dục tình, thấy lại diện mạo tuổi trẻ của anh...
Nhưng bỗng nhiên một luồng khí bị dồn nén chạy dọc sống lưng, xuyên suốt thân xác anh như mũi tên, khoái lạc và mộng mơ cùng lúc vọt ra rồi tắt ngấm. Con thuyền đắm say rơi từ đỉnh sóng xuống bờ cát, nằm vật vờ như mảnh ván mục. Biển yêu đương rút cạn, chỉ còn trơ đáy bùn lồi lõm, ngập ngụa xác loài thủy quái và rải rác những tàu đắm cùng rong rêu...
Anh dốc một cơn thở dài không thể ghìm nén:
Sao lại thế nhỉ? Có lẽ vì ta hồi hộp quá... Hoặc có lẽ vì ta đã chờ đợi quá nhiều ngày...
Rồi bỗng dưng bộ phận truyền giống của anh đi vắng, nó chẳng còn là của anh, mà như một thứ đồ vật ngoài thân thể ngoài ý muốn và sự điều khiển của anh. Nỗi sợ hãi cùng hổ thẹn cùng lúc khiến sống lưng anh lạnh toát trong khi hai thái dương và đầu anh nóng phừng phừng như lửa đốt. Anh lặng lẽ tụt xuống dưới chân Miên, không dám nhìn vào mặt chị, cười gượng gạo:
- Có lẽ ta chưa quen, có lẽ vì... Tôi xa Miên lâu quá...
Miên không nói gì. Chị chẳng nhìn anh. Chị dửng dưng như ở ngoài mọi sự.
Anh vơ chiếc quần đùi mặc vội để che đi cái phần héo rũ trên cơ thể:
- Lát nữa chúng ta sẽ... Miên ngủ một giấc đi cho khỏe. Ðêm còn dài... Lát nữa chúng ta lại...
Chị vẫn không nói gì lẳng lặng mặc quần. Mái tóc đổ xuống che kín lưng khiến chị như nữ thần rừng.
- Miên.
Anh cất tiếng gọi rồi không biết nói gì thêm. Anh cũng biết anh chẳng nói được điều gì vào lúc này. Anh mặc áo rồi nằm xuống rụt rè đưa tay vuốt tóc chị.
Tóc Miên đẹp quá. Người đàn bà tôi yêu có mái tóc đẹp nhất thế gian. Lát nữa, ta sẽ lật mái tóc ấy lên để hôn vào gáy em, trước khi ân ái. Và ta sẽ... Ý nghĩa chưa dứt, anh đã ngủ thiếp đi.
Giấc ngủ của anh giống con tàu bị đánh đắm, từ từ chìm xuống đáy nước. Cho tới lúc gà gáy canh ba Bôn mới tỉnh dậy. Thoạt tiên anh lơ mơ tưởng mình ngủ võng nên đưa tay quơ gốc cây trên đầu. Tay anh đụng vào ngăn hộc đồ vặt và anh nhớ lại tất cả. Ngọn đèn dầu vẫn cháy trong hộp với chiếc chao làm bằng tờ báo quấn hình loa kèn. Tấm chăn ở cuối giường in những bông thược dược. Anh nhớ những kỳ vọng khi mua nó bằng số tiền già lính rồi mang về, giặt sạch phơi trên cành ổi"... Những bông thược dược sẽ vãn hồi tuổi trẻ. Hơi ấm sẽ mang trả tình yêu, và mùa đông trong tưởng tượng nồng nàn hơi lửa ân ái..."
Tiếng gà gáy lan khắp các xóm, đồng vọng. Mùa đông chưa tới. Giờ vẫn đang hè và cuộc làm tình thất bại. Anh khép cặp đùi, len lén lùa bàn tay xuống dưới thám thính. Cửa hé mở, Miên đã ra sân và chắc chị không quay lại tức thì, nhưng anh vẫn sợ. Nỗi sợ không biết từ đâu tới, cũng không tường diện mạo. Nhưng anh vẫn sợ. Và anh len lén luồn tay xuống dưới háng như một thằng ăn cắp. Chẳng còn gì nữa để hồ nghi. Nó đã rũ xuống như tàu cải héo, một nhúm da vặt vẹo giữa hai bẹn. Anh biết ngay bây giờ, giá như Miên thay đổi thái độ, bỗng nhiên vuốt ve hôn hít anh bỗng nhiên tự lột bỏ quần áo và chủ động bế thốc anh lên bụng chị... Giá như thế, anh cũng không thể nào đánh thức được cái nhúm da chẳng gân cốt kia.
Sao lại thế nhỉ? Khốn nạn thật... Ta chẳng ngờ đến nông nỗi này...
Anh muốn khóc nhưng cố nghiến hai hàm răng. Khóc thì hèn quá. Anh đâu phải đồ hèn? Trước khi bị lạc nhiều trận đánh anh được khen ngợi hoặc nêu tên làm gương. Con đường binh nghiệp nếu chẳng gặp rủi ro hẳn sẽ đem cho anh vinh hạnh. Nhưng đây không phải trận mạc. Ðây là cái giường đôi:
Ta chẳng còn mười bảy tuổi. Không như xưa, chẳng thể như xưa...
Lời thú nhận câm nín ấy nảy ra từng mũi kim vô hình, mũi nọ nối tiếp mũi kia lần lượt cắm vào gan ruột anh. Bôn ngồi dậy, nhìn hình vẽ trên tấm chiếu trân trân. Anh không hiểu ý nghĩa cái vòng tròn ghép bằng những nét chữ Tàu mô phỏng. Nó tượng trưng cho cái gì trong kiếp nhân sinh mà họ in lên mặt chiếu thế kia? Anh không hiểu. Ðó là mê cung, và càng nhìn anh càng thấy đầu óc u mê, tâm hồn tan nát. Vào phút nỗi thất vọng sắp sửa dìm anh xuống vũng bùn oan nghiệt một cái tên bỗng bật lên:
Cụ Phiều...
Lập tức, anh nhớ lại câu chuyện về ông lão bảy mươi sinh quý tử phương thuốc tinh hoàn dê chưng thuốc Bắc và rượu huyết dê. Mê cung tối tăm kia chợt lóe sáng:
Ta sẽ đến cụ Phiều... Ta sẽ học hỏi những kiến thức trong chuyện dưỡng sinh và chuyện gối chăn... Một cõi khác, một mảnh đất khác phải cày xới...
Bôn sờ nắn lại lần nữa cặp bìu thõng thẹo rồi rút tay ra và đứng lên. Máu anh dần dần ấm lại. Anh đẩy cánh cửa, bước ra ngoài. Ðêm mát lạnh. Mấy cành củi nhỏ đang cháy cạnh bờ giếng rọi sáng khoảng sân, mái nhà lẫn đám cành ổi. Mùi thạch trinh hương tỏa đầy không gian. Bôn dừng lại giữa sân, chết lặng: Miên đun nước tẩy trần để tắm sau lần chung đụng với anh. Từ nhỏ, Bôn cũng đã dăm lượt theo bạn lên núi cắt thạch trinh hương đem bán cho nhà chùa dưới huyện lỵ. Ðó là thứ nước để rửa trôi những dơ bẩn trong kiếp người trần tục, trước khi họ muốn bước vào cửa tam quan:
Cô ta đã dành cái nghi thức này để đối đãi với riêng ta. Với người đàn ông kia mọi sự sẽ khác... Với người kia chắc là...
Hình ảnh chiếc quần đùi thun sọc đỏ treo trong phòng tắm của Miên lại hiện lên rõ mồn một. Rõ mồn một hơn nữa, sắc xói hơn nữa là những gì anh tưởng tượng phía sau mảnh quần lót ấy, và anh bỗng muốn giết Miên, muốn giết người đàn bà đang tắm sau tấm liếp kia, nơi ánh lửa rọi vào:
Một lưỡi lê xọc từ phía trước ra sau lưng, trên vú trái nửa đốt tay. Hoặc một lưỡi dao rừng phang từ sau gáy...
Anh như nhìn thấy máu chị phun từng vòi dài đỏ thắm, và cảnh chém giết ghê rợn đó khiến những hơi thở tức tối của anh như hổ đói vừa phút trước nhe nanh múa vuốt, phút này đã mỏi mệt quy hàng. Và một ý nghĩa khác từ từ chảy tới như nước trong con lạch cạn:
Cô ấy có lý để làm thế... Ta chẳng làm ăn được gì. Chính ta là kẻ vô tích sự khiến người đàn bà chẳng nhận được mảy may hạnh phúc. Lỗi tại ta. Cần phải có những phương thuốc phục hồi sinh lực và tuổi trẻ. Phải nhẫn nhục, ấy là con đường duy nhất đưa hạnh phúc trở về...
Anh không dám đi mạnh chân e rằng Miên biết anh đã thức. Rón rén như một tên ăn trộm, anh vòng ra đầu hè đi tiểu rồi lại rón rén quay vào buồng.
23/11/1998
Dương Thu Hương
Theo http://vietnamthuquan.eu/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Đỉnh cao chói lọi 5XXXX

Đỉnh cao chói lọi 5 NGƯỜI ANH EM (4) Nói rồi ông nhanh nhảu ra lệnh cho trợ lý. Anh này lục tìm cuốn danh bạ đơn vị, hí hoáy tẩy chữ Nôn...