Bảy năm về trước em mười bảy,
Anh mới đôi mươi trẻ nhất làng.
Xuân Dục, Đoài Đông hai cánh lúa,
Bữa thì em tới bữa anh sang.
Anh mới đôi mươi trẻ nhất làng.
Xuân Dục, Đoài Đông hai cánh lúa,
Bữa thì em tới bữa anh sang.
Lối ta đi giữa hai sườn núi
Đôi ngọn nên làng gọi núi Đôi
Em vẫn đùa anh sao khéo thế
Núi chồng, núi vợ đứng song đôi.
Đôi ngọn nên làng gọi núi Đôi
Em vẫn đùa anh sao khéo thế
Núi chồng, núi vợ đứng song đôi.
Bỗng cuối mùa chiêm quân giặc tới
Ngõ chùa cháy đỏ những thân cau
Mới ngỏ lời thôi đành lỗi hẹn
Đâu ngờ từ đó mất tin nhau.
Ngõ chùa cháy đỏ những thân cau
Mới ngỏ lời thôi đành lỗi hẹn
Đâu ngờ từ đó mất tin nhau.
Anh vào bộ đội lên Đông Bắc
Chiến đấu quên mình năm lại năm
Mỗi bận dân công về lại hỏi
Ai người Xuân Dục Núi Đôi chăng.
Chiến đấu quên mình năm lại năm
Mỗi bận dân công về lại hỏi
Ai người Xuân Dục Núi Đôi chăng.
Anh nghĩ quê ta giặc chiếm rồi
Trăm nghìn căm uất bao giờ nguôi
Mỗi tin súng nổ vùng đai địch
Sương trắng người đi lại nhớ người.
Trăm nghìn căm uất bao giờ nguôi
Mỗi tin súng nổ vùng đai địch
Sương trắng người đi lại nhớ người.
Đồng đội có nhau thường nhắc nhở
Trung du làng nước vẫn chờ trông
Núi Đôi bốt dựng kề ba xóm
Em vẫn đi về những bến sông.
Trung du làng nước vẫn chờ trông
Núi Đôi bốt dựng kề ba xóm
Em vẫn đi về những bến sông.
Náo nức bao nhiêu ngày trở lại
Lệnh trên ngừng bắn anh về xuôi
Hành quân qua tắt đường sang huyện
Anh ghé thăm nhà thăm núi Đôi.
Lệnh trên ngừng bắn anh về xuôi
Hành quân qua tắt đường sang huyện
Anh ghé thăm nhà thăm núi Đôi.
Mới đến đầu ao tin sét đánh
Giặc giết em rồi, dưới gốc thông
Giữa đêm bộ đội vây đồn Thứa
Em sống trung thành, chết thủy chung.
Giặc giết em rồi, dưới gốc thông
Giữa đêm bộ đội vây đồn Thứa
Em sống trung thành, chết thủy chung.
Anh ngước nhìn lên hai dốc núi
Hàng thông, bờ cỏ, con đường quen
Nắng lụi bỗng dưng mờ bóng khói
Núi vẫn đôi mà anh mất em.
Hàng thông, bờ cỏ, con đường quen
Nắng lụi bỗng dưng mờ bóng khói
Núi vẫn đôi mà anh mất em.
Dân chợ Phù Linh ai cũng bảo
Em còn trẻ lắm, nhất làng trong
Mấy năm cô ấy làm du kích
Không hiểu vì sao chẳng lấy chồng.
Em còn trẻ lắm, nhất làng trong
Mấy năm cô ấy làm du kích
Không hiểu vì sao chẳng lấy chồng.
Từ núi qua thôn đường nghẽn lối
Xuân Dục Đoài Đông cỏ ngút đầy
Sân biến thành ao nhà đổ chái
Ngổn ngang bờ bụi cánh dơi bay,
Xuân Dục Đoài Đông cỏ ngút đầy
Sân biến thành ao nhà đổ chái
Ngổn ngang bờ bụi cánh dơi bay,
Cha mẹ dìu nhau về nhận đất
Tóc bạc thương từ mỗi gốc cau
Nứa gianh nửa mái lều che tạm
Sương nắng khuấy dần chuyện xót đau.
Tóc bạc thương từ mỗi gốc cau
Nứa gianh nửa mái lều che tạm
Sương nắng khuấy dần chuyện xót đau.
Anh nghe có tiếng người qua chợ
Ta gắng mùa sau lúa sẽ nhiều
Ruộng thấm mồ hôi từng nhát cuốc
Làng ta rồi đẹp biết bao nhiêu.
Ta gắng mùa sau lúa sẽ nhiều
Ruộng thấm mồ hôi từng nhát cuốc
Làng ta rồi đẹp biết bao nhiêu.
Nhưng núi còn kia anh vẫn nhớ
Oán thù còn đó anh còn đây
Ở đâu cô gái làng Xuân Dục
Đã chết vì dân giữa đất này?
Oán thù còn đó anh còn đây
Ở đâu cô gái làng Xuân Dục
Đã chết vì dân giữa đất này?
Ai viết tên em thành liệt sĩ
Bên những hàng bia trắng giữa đồng
Nhớ nhau anh gọi em, đồng chí
Một tấm lòng trong vạn tấm lòng.
Bên những hàng bia trắng giữa đồng
Nhớ nhau anh gọi em, đồng chí
Một tấm lòng trong vạn tấm lòng.
Anh đi bộ đội sao trên mũ
Mãi mãi là sao sáng dẫn đường
Em sẽ là hoa trên đỉnh núi
Bốn mùa thơm mãi cánh hoa thơm.
Mãi mãi là sao sáng dẫn đường
Em sẽ là hoa trên đỉnh núi
Bốn mùa thơm mãi cánh hoa thơm.
VŨ CAO
Bài thơ là nỗi xúc động chân thực của tác giả về một câu chuyện
có thật ở vùng Xuân Dục trong kháng chiến chống Pháp. Giọng thơ tự sự đậm đà
phong vị dân gian làm đẹp thêm mối tình kháng chiến, đồng thời tạo xúc động trước
sự hy sinh của người con gái anh dũng.
Mối tình nên thơ gắn với hoài niệm về thời đẹp nhất của tuổi
thanh xuân:
Bảy năm về trước em mười bảy
Tác giả dẫn dắt vào không gian trong veo hương đồng nội, với
những địa danh thân thương gắn kết đôi bạn trẻ: Xuân Dục, Đoài Đông, Núi Đôi…giản
dị và tự nhiên tạo thành thương nhớ. Tình người, tình đất, tình quê lồng vào
nhau:
Em vẫn đùa anh sao khéo thế
Núi chồng núi vợ đứng song đôi
Câu chuyện tình hết sức riêng tư, chân thật đã được gắn vào với
hoàn cảnh quê hương ngày giặc chiếm đã đan cài vào đó bao tâm trạng uất nghẹn
căm hờn và lo lắng bồn chồn của người dân núi Đôi. Cảm xúc này từng được diễn tả
trong bài Đất Nước (1955) của Nguyễn Đình Thi:
Những đêm dài hành quân nung nấu
Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu
Từ tâm trạng chàng trai trong bài thơ, ta thêm hiểu vẻ đẹp
tâm hồn anh bộ đội trong kháng chiến chống Pháp luôn thắm đượm ân tình với quê
hương, người thân. Tâm hồn người chiến sĩ luôn tồn tại một không gian hoài niệm,
nhung nhớ đến cháy lòng – khơi lên tình cảm yêu thương và căm hờn trong lòng
chiến sĩ, làm rõ vẻ đẹp giàu chất nhân văn. Lời dẫn chuyện của Vũ Cao tái hiện
nguyên vẹn không khí những ngày kháng chiến, đánh thức bao cảm xúc của một thời
bi hùng mà cũng ắp tràn thương nhớ của bao người. Sự hiện diện thường
trực của hình tượng núi Đôi xuyên suốt những ngày chiến đấu là cách cắt nghĩa
trọn vẹn ân tình với quê hương và thổi bùng ngọn lửa tình yêu mãnh liệt với cô
gái Xuân Dục. Bao tâm trạng được diễn tả: khắc khoải ngóng đợi, “trăm nghìn căm
uất”, náo nức ngày trở lại. Tự thân những lời thơ đã làm đẹp thêm bao nhiêu
bóng hình người yêu trong tâm tưởng người chiến sĩ:
Núi Đôi bốt dựng kề ba xóm
Em vẫn đi về những bến sông?
Chính vì vậy mà nỗi đau xót sẽ làm người đọc càng day dứt,
như một sự tích tụ để vỡ oà trước sự mất mát. Hơn bao giờ hết, người đọc nhận
ra tội ác của kẻ thù một cách cụ thể đến từng số phận: bắt đầu từ sự xuất hiện
của chúng là một dự cảm mơ hồ, tiếc nuối:
Mới ngỏ lời thôi đành lỗi hẹn
Đâu ngờ từ đó mất tin nhau
để rồi trở thành sự ngóng đợi thắc thỏm: sương trắng người
đi lại nhớ người. Mong đợi cháy bỏng đến khi thành hiện thực thì lại phải
đối mặt với nỗi đau lớn nhất “giặc giết em rồi, dưới gốc thông”. Nỗi đau vụt đến
quặn xé đã được diễn tả xúc động:
Anh ngước nhìn lên hai dốc núi
Hàng thông, bờ cỏ, con đường quen
Nắng lụi bỗng dưng mờ bóng khói
Núi vẫn đôi mà anh mất em!
Hình ảnh kỷ niệm yêu thương đã vụt biến thành chứng tích đau
thương, nỗi đau rất thật ấy không của riêng ai bởi không chỉ là sự mất mát của
anh mà là của cả quê hương, bởi “em sống trung thành, chết thủy chung”. Đó
không hề là cảm giác bi lụy mà mang tính chất bi kịch, giúp người đọc ý thức được
giá trị của chiến thắng. Nỗi đau càng lớn hơn khi được kể lại, nhưng sự vô tình
ấy lại làm ta nhận rõ về người liệt sĩ - người yêu của anh chiến sĩ:
Mấy năm cô ấy vào du kích
Không hiểu vì sao chẳng lấy chồng?
Mỗi lời kể như dao cứa vào tim, nhưng lạ thay lại làm ta thêm
yêu mến, trân trọng người con gái sắt son anh dũng. Nỗi đau riêng hòa vào nỗi
đau chung, ta hiểu thêm hơn về bản chất của tình yêu trong kháng chiến, với những
con người bình thường mà cao cả đã vượt lên tình riêng, sẵn sàng cống hiến tất
cả cho quê hương. Hình tượng người con gái Núi Đôi còn để lại suy ngẫm sâu sắc
về sự hy sinh. Đó không phải là mất mát bình thường mà có khả năng biến đau
thương thành sức mạnh. Bóng hình người con gái hòa vào bóng hình quê hương,
thúc giục tâm tư của người còn sống, thành ý chí và quyết tâm vượt lên bất hạnh,
hồi sinh sự sống. Với ý nghĩa đó, cô gái núi Đôi đã thành biểu tượng bất tử:
Cha mẹ dìu nhau về nhận đất
Tóc bạc thương từ mỗi gốc cau
Nứa gianh nửa mái lều che tạm
Sương nắng khuây dần chuyện xót đau
Tình yêu bị kẻ thù hủy hoại nhưng không hề suy xuyển, mà hòa thành tình yêu lớn lao với quê hương, xóm làng, cha mẹ…Quê hương hồi sinh, đau
xót nguôi ngoai nhưng không đem đến với con người sự quên lãng mà đã nhân lên
thành tình cảm cách mạng, thành lời thề thiêng liêng trước Núi Đôi:
Nhưng núi còn kia, anh vẫn nhớ
Oán thù còn đó, anh còn đây
Và: Nhớ nhau anh gọi: em, đồng chí
Một tấm lòng trong vạn tấm lòng
Nhân vật trữ tình trong bài thơ đã hóa thân vào “vạn tấm lòng”,
tình cảm nâng tầm thành tình cảm cách mạng. Tác giả không hề mô tả nước mắt trước
bi kịch mà hình dung ra cuộc chiến đấu của người chiến sĩ lấp lánh ánh sáng bất
tử của người con gái núi Đôi – sao trên mũ là sao sáng dẫn đường,
em là hoa trên đỉnh núi thơm mãi bốn mùa. Làn hương ấy, vẻ đẹp ấy
còn kết đọng mãi trong lòng người, nhắc mãi vẻ đẹp kết tinh từ những ngày chống
thực dân Pháp hào hùng để làm nên sức mạnh chiến đấu chống đế quốc Mỹ, hướng về
tương lai toàn thắng của quê hương.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét