Lời trong đời sống và lời trong thơ,
Voloshinov là một trong những nhà tư tưởng quan trọng của thế
giới của thế kỷ 20.
Sinh năm 1895, ông học luật ở Petrograd trước khi chuyển đến
dạy học tại Izocha. Năm 1921, Voloshinov chuyển đến Vitebsk, dạy tại trường Đại
học Vô sản và viết cho tạp chí “Nghệ thuật” (đều do Medvedev sáng lập). Năm
1922, ông trở về Leningrad, học ngôn ngữ học. Tốt nghiệp năm 1924, ông được nhận
vào làm việc (cùng Medevedev) với tư cách nhà nghiên cứu về ngôn ngữ và văn
chương tại Viện Lịch sử So sánh Văn học và Ngôn ngữ Đông Tây (ИЛЯЗВ) và công bố
bài báo quan trọng Bên kia cái xã hội. Về học thuyết Freud (1925).
Năm 1926, ông công bố một bài báo quan trọng khác là Lời trong cuộc sống
và lời trong thơ. Hai bài báo này chứa đựng mầm mống những tư tưởng lớn (nguyên
lý đối thoại, diễn ngôn, liên văn bản, tính khác, tính lai, tiểu thuyết phức điệu,
lý thuyết phát ngôn, thể loại lời nói, siêu ngôn ngữ học...) mà ông phát triển
trong luận án tiến sĩ và công bố trong hai kiệt tác Học thuyết Freud:
một phác thảo phê phán (1927) và Chủ nghĩa Marx và triết học
ngôn ngữ (1929) cùng loạt bài viết công bố năm 1930: Về ranh giới giữa
thi pháp học và ngôn ngữ học và Phong cách học lời nói nghệ thuật. Những
tư tưởng vượt thời đại rất xa của ông là lý do khiến ông bị phái Marxist máy
móc ở Liên Xô phê phán dữ dội, và sau đó bị lãng quên một thời gian dài trước
khi được tái phát hiện ở phương Tây. Đầu thập niên 1930, bệnh lao phổi tái
phát, ông mất năm 1936.
Chúng tôi xin trân trọng giới thiệu bản dịch bài báo Lời
trong cuộc sống và lời trong thơ do Ngô Tự Lập dịch từ tiếng Nga.
I/ Phương pháp xã hội học, trong khoa học văn chương gần như mới
chỉ được sử dụng để nghiên cứu các vấn đề lịch sử, trong khi các vấn đề của
cái gọi là thi pháp học lý thuyết là cả một nhóm các vấn đề - liên quan đến
hình thức nghệ thuật, các yếu tố khác nhau của nó, phong cách, và nhiều vấn đề
khác - vẫn còn gần như chưa được tiếp cận bằng phương pháp này.
Có một ý kiến sai lầm, nhưng dù vậy ngay cả một số nhà
Marxist cũng chia sẻ, cho rằng phương pháp xã hội học hiện chỉ có thẩm quyền ở
nơi nào hình thức nghệ thuật thi ca, được phức tạp hóa bởi yếu tố tư tưởng - một
yếu tố nội dung - bắt đầu sự phát triển lịch sử trong các điều kiện của thực tế
xã hội bên ngoài. Còn bản thân hình thức thì có bản chất và quy luật riêng,
không mang tính xã hội, mà là đặc thù nghệ thuật.
Quan điểm này trái ngược một cách căn bản với các nguyên lý của
phương pháp Marxist: nhất nguyên luận và tính lịch sử. Sự tách rời
giữa hình thức và nội dung, sự tách rời giữa lý thuyết và lịch sử - đó là kết
quả của những quan điểm loại này.
Nhưng chúng ta sẽ nán lại nơi những quan điểm sai lầm như vậy
chi tiết hơn một chút: chúng quá đỗi đặc trưng cho toàn bộ nghệ thuật học hiện
đại.
Sự phát triển rõ ràng và nhất quán nhất của quan điểm này được
GS. Sakulin [1] đưa ra gần đây. Ông phân biệt trong văn chương và lịch sử của
nó hai chuỗi vấn đề: nội tại (bên trong) và nhân quả (lý do). “Hạt nhân nghệ
thuật” nội tại của văn chương có cấu trúc và quy luật đặc thù, riêng biệt của
nó; do đó nó có thể phát triển độc lập bằng cách tiến hóa một cách "tự
nhiên". Nhưng trong quá trình phát triển này, văn chương chịu ảnh hưởng của
những "nguyên nhân" ngoài nghệ thuật từ môi trường xã hội.
Với "hạt nhân nội tại" của văn chương, với cấu trúc và sự tiến hóa tự
trị của nó, nhà xã hội học không có gì để làm - ở đây chỉ có thi pháp lý thuyết
và lịch sử mới có thẩm quyền, với các phương pháp đặc biệt của nó. [2] Còn
phương pháp xã hội học thì chỉ có thể thành công khi nghiên cứu tương tác nhân
quả giữa văn chương với môi trường xã hội ngoài nghệ thuật xung quanh. Trong
đó, sự phân tích nội tại (phi xã hội học) về bản chất của văn chương và về quy
luật tự trị bên trong của nó phải đi trước sự phân tích xã hội học. [3]
Một nhà xã hội học Marxist, tất nhiên, không thể đồng ý với
khẳng định đó. Tuy nhiên, chúng ta cũng phải thừa nhận rằng, cho đến nay xã hội
học gần như mới chỉ khảo sát các vấn đề cụ thể của lịch sử văn chương chứ chưa
hề có một nỗ lực nghiêm túc nào trong việc vận dụng các phương pháp của mình để
nghiên cứu cái gọi là cấu trúc nội tại của tác phẩm nghệ thuật. Vấn đề này trên
thực tế bị phó mặc hoàn toàn cho thẩm quyền của các nghiên cứu sử dụng phương
pháp mỹ học, tâm lý học, và các phương pháp khác, không có gì chung với xã hội
học.
Để xác quyết điều này, chỉ cần lướt qua bất kỳ tác phẩm đương
đại nào về thi pháp, hay nói chung là về lý luận nghệ thuật. Chúng ta sẽ không
thể tìm thấy trong đó dấu vết gì của việc áp dụng các phạm trù xã hội học. Nghệ
thuật được diễn giải như thể nó "về bản chất" cũng phi xã hội như mức
độ phi xã hội của cấu trúc vật lý hoặc hóa học của cơ thể. Đa số các nhà nghiên
cứu nghệ thuật Tây Âu và Nga khẳng định đúng như vậy về văn chương cũng như
toàn bộ nghệ thuật và trên cơ sở đó họ khăng khăng rằng phải cách ly nghệ thuật
học như là một chuyên ngành khoa học khỏi bất cứ cách tiếp cận xã hội học nó.
Khi tuyên bố như vậy, động cơ của họ đại khái như sau. Mọi vật,
khi trở thành đối tượng cung và cầu, có nghĩa là trở thành hàng hóa, về mặt giá
trị và khi lưu thông trong xã hội loài người đều phải tuân theo quy luật kinh tế-xã
hội; Cứ cho là chúng ta biết rõ quy luật này, nhưng, thì ngay cả khi đó, chúng
ta vẫn hoàn toàn không hiểu được cấu trúc vật lý và hóa học của cái vật đã trở
thành hàng hóa đó. Ngược lại, chính sự nghiên cứu hàng hóa mới cần sự phân tích
vật lý và hóa học một cách sơ bộ. Và sự phân tích này chỉ một nhà hóa học - vật
lý học mới làm được, với các phương pháp chuyên biệt của họ. Với nghệ thuật,
theo các nhà phê bình, vấn đề cũng tương tự như vậy. Và nghệ thuật, khi trở
thành một yếu tố xã hội và chịu ảnh hưởng bởi các yếu tố xã hội khác, tất
nhiên, cũng phải tuân theo quy luật xã hội nói chung, nhưng từ quy luật này,
chúng ta không bao giờ có thể suy ra bản chất thẩm mỹ của nó, cũng giống
như chúng ta không thể suy ra công thức hóa học của một thứ hàng hóa nào đó từ
quy luật kinh tế của sự lưu thông hàng hóa. Nghệ thuật học và thi pháp lý thuyết
phải tìm kiếm đích thị cái công thức "chuyên biệt", độc lập với xã hội
học, như thế của tác phẩm nghệ thuật.
Cách hiểu như vậy về bản chất của nghệ thuật, như đã nói,
trái ngược từ cội rễ với các nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Marx. Các công thức
hóa học, quả thực, không thể tìm ra bằng phương pháp xã hội học - nhưng một
"công thức" khoa học trong bất kỳ lĩnh vực tư tưởng nào
cũng chỉ có thể tìm được bằng các phương pháp xã hội học mà thôi. Tất cả
những phương pháp khác - những phương pháp "nội tại" - đều luẩn quẩn
trong chủ nghĩa chủ quan, không thể thoát ra khỏi cuộc đấu tranh vô vọng giữa
các ý kiến và quan điểm, và càng ít có khả năng
để đưa ra một cái gì đó cho dù chỉ là hơi giống với một công thức hóa học chính
xác, nghiêm ngặt. Phương pháp Marxist, tất nhiên, cũng không hề có tham vọng
làm việc đó: trong lĩnh vực khoa học về tư tưởng, do bản chất của chính đối tượng
nghiên cứu, không thể có sự chặt chẽ và tính chính xác của khoa học tự nhiên.
Nhưng mức độ tiếp cận gần nhất đến tính khoa học thực sự trong nghiên cứu
về sáng tạo tư tưởng lần đầu tiên trở nên khả thi nhờ phương pháp xã hội học
theo quan niệm Marxist. Các vật thể vật lý và hóa học cả ngay cả bên ngoài xã hội
loài người - trong khi đó, mọi sản phẩm của sự sáng tạo tư tưởng đều nảy sinh
trong và vì xã hội loài người. Các khái niệm xã hội không đến với
chúng từ bên ngoài, như đến với các vật thể tự nhiên- các cấu
trúc tư tưởng có tính xã hội từ bên trong, một cách cố hữu. Khó có ai phủ
nhận điều đó khi bàn đến các hình thức chính trị và pháp lý: tìm đâu ra cái bản
chất phi xã hội học, cố hữu, của chúng? Các sắc thái hình thức tinh tế nhất của
pháp luật và hệ thống chính trị vẫn có thể, và chỉ có thể, nghiên cứu bằng
phương pháp xã hội học. Nhưng điều này cũng đúng cho các hình thức tư tưởng
khác. Tất cả các hình thức đó - tất thảy đều mang tính xã hội, mặc dù cấu
trúc của chúng, phức tạp và bất định, rất khó phân tích một cách chính xác.
Nghệ thuật cũng mang tính xã hội cố hữu như vậy: môi trường
xã hội bên ngoài nghệ thuật, khi tác động lên nó từ bên ngoài, tìm thấy trong
nó tiếng vọng trực tiếp bên trong. Ở đây, không phải một cái xa lạ tác động lên
một cái xa lạ khác, mà là một cấu kiện xã hội - tác động lên một cấu kiện xã hội
khác. Thẩm mỹ - cũng như pháp lý và nhận thức - chỉ là một dạng
của tính xã hội - Lý thuyết nghệ thuật, do đó, chỉ có thể là xã hội học
nghệ thuật [4] Không còn bất kỳ nhiệm vụ "nội tại" nào dành cho
nó cả.
II/ Để áp dụng đúng đắn và hiệu quả phân tích xã hội học vào lý
thuyết nghệ thuật, và vào thi pháp học nói riêng, cần thiết phải đoạn tuyệt với
hai quan điểm sai lầm, thu hẹp hết mức giới hạn của nghệ thuật, chỉ phân biệt một
vài yếu tố phiến diện của nó.
Quan điểm thứ nhất có thể định nghĩa như là vật hóa vật-tác
phẩm nghệ thuật. Thứ bái vật luận này hiện nay đang thịnh hành trong nghệ thuật
học. Tầm nhìn của nhà nghiên cứu được giới hạn bởi tác phẩm nghệ thuật, được
phân tích như thể nó gói gọn trong nghệ thuật. Người sáng tạo và người
cảm thụ nằm ngoài giới hạn xem xét.
Quan điểm thứ hai, trái lại, tự giới hạn bởi sự nghiên cứu
tâm lý hoặc của người sáng tạo hoặc của người cảm thụ (thường thì đơn thuần đặt
một dấu bằng giữa họ). Trải nghiệm của người cảm thụ hoặc người sáng
tạo nghệ thuật bao hàm toàn bộ bản chất của nghệ thuật.
Như vậy, đối tượng nghiên cứu, theo một quan điểm, là cấu
trúc của vật-tác phẩm, còn theo quan điểm kia, chỉ là tâm lý cá nhân của người
sáng tạo hoặc người cảm thụ.
Quan điểm thứ nhất đưa chất liệu lên vị trí cao nhất trong
nghiên cứu thẩm mỹ. Hình thức - được hiểu theo nghĩa rất hẹp, như là hình
thức của chất liệu, cái tổ chức nó thành một đồ vật hoàn chỉnh, duy nhất - trở
thành đối tượng nghiên cứu chính, gần như duy nhất.
Một biến thể của quan điểm thứ nhất này là cái gọi là phương
pháp hình thức. Tác phẩm thi ca đối với phương pháp này là chất liệu ngôn từ,
được tổ chức bởi hình thức theo một cách nhất định. Ở đây, “ngôn từ” được xem
xét không phải như là một hiện tượng xã hội, mà từ quan điểm ngôn ngữ học trừu
tượng bàng quan. Điều này hoàn toàn dễ hiểu: ngôn từ, nếu xét rộng hơn, như là
một hiện tượng giao tiếp văn hóa, sẽ không còn là một vật tự đủ và sẽ không thể
hiểu một cách độc lập với bối cảnh xã hội sản sinh ra nó.
Quan điểm đầu tiên không thể nhất quán đến cùng. Vấn đề là, một
khi vẫn còn nằm trong giới hạn của mặt vật chất của nghệ thuật, thì không thể
xác định được ngay cả ranh giới của chất liệu và các khía cạnh mang ý nghĩa nghệ
thuật của nó. Bản thân chất liệu cũng trực tiếp hòa lẫn với môi trường phi nghệ
thuật bao quanh nó và có vô số khía cạnh và tính chất: toán học, vật lý, hóa học,
và cuối cùng, ngôn ngữ học. Dù chúng ta có không phân tích bao nhiêu đi nữa các
tính chất của chất liệu và các kết hợp có thể có của các tính chất đó - chúng
ta cũng sẽ không bao giờ có thể tìm thấy ý nghĩa thẩm mỹ của chúng, nếu không
đưa lậu vào đó một quan điểm khác, không còn có thể gói gọn trong phạm vi của sự
phân tích chất liệu. Tương tự như vậy, cho dù chúng ta có phân tích bao nhiêu
đi nữa cấu trúc hóa học của một vật thể, chúng ta cũng sẽ không bao giờ hiểu được
ý nghĩa và giá trị hàng hóa của nó, nếu không vận dụng quan điểm kinh tế học.
Nỗ lực của quan điểm thứ hai nhằm tìm ra tính thẩm mỹ trong
tâm lý cá nhân của người sáng tạo hay của người cảm thụ cũng vô vọng như vậy.
Tiếp tục với phép tương tự về kinh tế học, chúng ta có thể nói, rằng điều này
cũng giống như nỗ lực thông quan việc phân tích tâm lý cá nhân của một người vô
sản để phát hiện các quan hệ sản xuất khách quan quy định địa vị của anh ta
trong xã hội.
Nói cho cùng, cả hai quan điểm đều mắc chung một lỗi lầm và một
nhược điểm: cả hai đều cố gắng tìm cái toàn thể trong cái bộ phận; cấu
trúc của cái bộ phận, bị tách rời một cách trừu tượng khỏi cái toàn thể, được họ
đưa lên thành cấu trúc của cái toàn thể. Trong khi đó, "nghệ thuật"
xét trong tổng thể của nó không nằm trong vật, cũng không nằm trong tâm lý được
xem xét một cách biệt lập của người sáng tạo hày trong tâm lý của người thưởng
thức - "nghệ thuật" bao trùm tất cả ba yếu tố ấy. Nó là một hình
thức đặc biệt của quan hệ tương hỗ giữa người sáng tạo và người thưởng thức,
gắn kết trong tác phẩm nghệ thuật.
Sự giao tiếp nghệ thuật đó nảy sinh từ sự giao tiếp
chung với các hình thức xã hội khác của hạ tầng cơ sở, nhưng đồng thời vẫn duy
trì, cũng như các hình thức khác, đặc tính của nó: đó là - một dạng giao tiếp đặc
biệt, với một hình thức đặc thù của riêng nó. Tìm hiểu hình thức đặc biệt
này của sự tương tác xã hội, được thực hiện và thể hiện trong chất liệu của tác
phẩm nghệ thuật, đó chính là nhiệm vụ của thi pháp xã hội học.
Tác phẩm nghệ thuật, xét bên ngoài và độc lập với sự giao tiếp
này, sẽ chỉ là một đồ vật vật lý hoặc một bài tập ngôn ngữ học - nó chỉ trở
thành nghệ thuật trong quá trình tương tác giữa tác giả và người cảm thụ như là
một yếu tố trọng yếu trong sự kiện tương tác này. Trong chất liệu của tác phẩm
nghệ thuật, tất cả những gì không thể tham gia vào sự giao tiếp giữa người sáng
tạo và người thưởng thức, tất cả những gì không thể trở thành "phương tiện"
hay môi trường của sự giao tiếp này - đều không thể có ý nghĩa nghệ thuật.
Mọi phương pháp mà bỏ qua bản chất xã hội của nghệ thuật, cố
gắng tìm bản chất và đặc trưng của nó thuần túy trong sự tổ chức tác phẩm-đồ vật,
trên thực tế đều buộc phải phóng chiếu quan hệ xã hội giữa tác giả và
người cảm thụ vào những khía cạnh khác nhau của chất liệu và thủ pháp xử lý chất
liệu. Cũng đúng như vậy, mỹ học tâm lý phóng chiếu những mối quan hệ đó vào tâm
lý cá nhân người cảm thụ. Sự phóng chiếu này bóp méo tính thuần khiết của các mối
quan hệ đó và đưa ra một sự hình ảnh giả dối cả về chất liệu lẫn về tâm lý.
Giao tiếp thẩm mỹ, gắn kết trong một tác phẩm nghệ thuật, như
chúng ta đã nói, hoàn toàn đặc thù, và không thể quy giản về các dạng giao tiếp
tư tưởng khác – như chính trị, pháp lý, đạo đức, v.v… Nếu giao tiếp chính trị tạo
ra các thể chế và hình thức pháp quyền tương ứng, thì giao tiếp thẩm mỹ cũng chỉ
tổ chức tác phẩm nghệ thuật. Nếu như nó từ chối nhiệm vụ này, nếu như nó bắt đầu
hướng tới việc tạo ra một tổ chức chính trị dù chỉ thoáng qua, hoặc bất kỳ một
hình thức tư tưởng nào khác, thì chính bằng cách đó, nó đã không còn là giao tiếp
thẩm mỹ nữa và đã đánh mất đặc trưng của mình. Đặc trưng của giao tiếp thẩm
mỹ là nó được hoàn thành trọn vẹn bởi việc tạo ra một tác phẩm nghệ thuật và bằng
sự tái tạo không ngừng của nó trong quá trình tiếp nhận đồng sáng tạo của độc
giả mà không đòi hỏi những sự khách quan hóa khác. Nhưng, tất nhiên,
hình thức giao tiếp đặc biệt này không biệt lập: nó tham gia vào dòng chảy
chung của đời sống xã hội, phản ánh trong nó cơ sở kinh tế chung và gia nhập
vào sự tương tác và trao đổi lực lượng với các hình thức giao tiếp khác.
Mục đích bài viết của chúng ta là cố gắng tìm hiểu hình thức
của phát ngôn thơ như là một hình thức của một sự giao tiếp thẩm mỹ đặc biệt,
được thực hiện trên chất liệu ngôn từ. Nhưng, để làm việc đó, chúng ta sẽ phải
phân tích chi tiết hơn một số khía cạnh của phát ngôn bằng lời nói bên ngoài
nghệ thuật - trong lời nói đời thường, bởi vì chính trong đó đã xác lập
các nền móng, tiềm năng (khả năng) của hình thức nghệ thuật tương lai. Ở đó, bản
chất xã hội của lời nói thể hiện rõ ràng hơn, sắc nét hơn, và việc phân tích mối
quan hệ của phát ngôn với môi trường xã hội xung quanh cũng dễ dàng hơn.
III/ Lời trong đời sống rõ ràng là không tự đủ. Nó phát sinh từ một
tình huống ngoài-lời trong cuộc sống và duy trì một liên hệ cực kỳ chặt chẽ với
tình huống đó. Hơn nữa, lời được lấp đầy trực tiếp bởi chính đời sống và không
thể tách rời khỏi nó mà không mất đi ý nghĩa.
Đây là những mô tả và đánh giá mà chúng ta thường đưa ra về
các phát ngôn đời sống cụ thể: "đó là nói dối", "đó là sự thật",
"nói vậy là quá liều", "không thể nói như thế được", v.v.
và v.v...
Tất cả những đánh giá như thế hoặc tương tự, bất kể chúng dựa
trên tiêu chí gì - đạo đức, nhận thức, chính trị hay các tiêu chí khác – đều
bao gồm xa hơn và nhiều hơn những gì chứa đựng trong bản thân yếu tố ngôn từ,
ngôn ngữ học, của phát ngôn: cùng với ngôn từ, chúng còn bao gồm cả bối cảnh
phi ngôn từ của phát ngôn. Những phán xét và đánh giá này thuộc về một chỉnh
thể, trong đó có ngôn từ tiếp xúc trực tiếp với sự kiện đời sống và hòa lẫn với
nó thành một thể thống nhất bất khả phân ly. Bản thân ngôn từ, xét một cách biệt
lập, như là một hiện tượng thuần túy ngôn ngữ học, tất nhiên, không thể đúng,
cũng không sai, liều hay nhút nhát.
Vậy lời trong đời sống liên hệ như thế nào với bối cảnh ngoài
lời sản sinh ra nó? Chúng ta sẽ phân tích điều này qua một ví dụ đã được đơn giản
hóa.
Hai người ngồi trong phòng. Im lặng. Một người nói: "Thế
đấy!" Người kia không trả lời.
Đối với chúng ta, những người không ở trong phòng tại thời điểm
diễn ra cuộc đối thoại, toàn bộ "cuộc trò chuyện" hoàn toàn không thể
hiểu nổi. Cái phát ngôn “Thế đấy” xét một cách biệt lập hoàn toàn trống rỗng
và vô nghĩa. Tuy nhiên, “cuộc trò chuyện” đặc biệt giữa họ, dù chỉ bao gồm một
từ, được phát âm, quả thực, bằng một ngữ điệu biểu cảm, vẫn đủ ý, nghĩa và khá
hoàn chỉnh.
Để khám phá ra ý và nghĩa của cuộc nói chuyện này, cần thiết
phải phân tích nó. Nhưng, nói chính xác, chúng ta có thể phân tích điều gì ở
đây? Dù chúng ta đang cặm cụi đến đâu trong việc phân tích phần thuần túy ngôn
từ của phát ngôn, dù chúng ta có tinh tế đến đâu trong việc xác định các yếu tố
ngữ âm, hình thái học, ngữ nghĩa học của từ "thế đấy" - chúng ta cũng
không tiến thêm được một bước nào tới gần hơn việc hiểu đầy đủ ý nghĩa của cuộc
trò chuyện.
Giả sử chúng ta biết được cả ngữ điệu, được dùng để phát âm từ
“thế đấy” - bực bội trách móc, nhưng được mềm hóa bằng một chút hài hước. Điều
này bổ sung phần nào khoảng trống rỗng ngữ nghĩa cho trạng từ "thế đấy",
nhưng ý nghĩa đầy đủ vẫn chưa hé lộ.
Chúng ta thiếu cái gì? - Chính là cái “bối cảnh ngoài lời",
trong đó từ “thế đấy” vang lên một cách có ý nghĩa đối với người nghe. Cái bối
cảnh ngoài lời của phát ngôn tạo thành bởi ba yếu tố:
1) tầm nhìn không
gian chung của những người nói (sự thống nhất của những gì nhìn thấy – căn
phòng, cửa sổ, v.v…);
2) kiến thức và cách hiểu chung về tình
hình, và cuối cùng,
3) đánh giá chung về tình hình này.
Vào thời điểm diễn ra cuộc trò chuyện, cả hai người đều
nhìn ra cửa sổ và thấy tuyết rơi; cả hai đều biết rằng
đã là tháng năm, đã là mùa xuân; cuối cùng, cả hai đều đã chán ngấy cái
mùa đông đằng đẵng; Cả hai đang chờ đợi mùa xuân và đều thất vọng vì
trận tuyết muộn. Phát ngôn của chúng ta trực tiếp dựa trên
tất cả điều này - "những gì cùng nhìn thấy" (những bông tuyết bên
ngoài cửa sổ), "những gì cùng biết" (ngày - tháng Năm) và "những
gì được đánh giá giống nhau" (chán ngấy mùa đông, mong ước mùa xuân) –
phát ngôn gộp tất cả những điều này vào ý nghĩa sống động của nó, được thấm đẫm
bởi nó - nhưng đồng thời, tất cả những điều đó vẫn không được ghi lại, không được
biểu đạt bằng ngôn từ. Bông tuyết vẫn ở bên ngoài cửa sổ, ngày tháng - vẫn ở
trên tờ lịch, và sự đánh giá - vẫn ở trong tâm trí của người nói - nhưng tất cả
điều này được hàm ý nhờ có từ "thế đấy."
Bây giờ, khi chúng ta đã làm quen với "những điều ngụ ý",
tức là với tầm nhìn không gian và ngữ nghĩa chung của những người đàm
thoại, đối với chúng ta ý nghĩa đầy đủ của phát ngôn “Thế đấy" hoàn toàn dễ
hiểu, và cả ngữ điệu của nó cũng hoàn toàn dễ hiểu.
Tầm nhìn phi ngôn từ ấy liên hệ ra sao với ngôn từ, điều không
nói ra liên hệ ra sao với điều được nói ra?
Trước hết, hoàn toàn rõ ràng, rằng ở đây ngôn từ nói chung
không phản ánh bối cảnh phi ngôn từ theo cách tấm gương phản ánh đồ vật. Trong
trường hợp này, có lẽ đúng hơn là ngôn từ phân giải bối cảnh như
thể đưa ra một kết luận mang tính đánh giá. Rất thường thấy là một phát
ngôn đời sống tích cực tiếp tục và phát triển bối cảnh, vạch ra kế hoạch cho hoạt
động tương lai và tổ chức nó. Đối với chúng ta, quan trọng là một khía cạnh
khác của phát ngôn đời sống: bất luận phát ngôn như thế nào, nó luôn luôn kết nối
những người tham gia vào tình huống, như những đồng sự, những người biết,
hiểu và đánh giá tình huống giống nhau. Điểm tựa của phát ngôn, do đó, là:
họ là một phần cách thực tế, vật chất của cùng một tiến trình của thực tại, đem
lại cho tính chung vật chất này một sự biểu hiện tư tưởng và sự phát triển tư
tưởng tiếp theo.
Tình huống phi ngôn từ, do đó, tuyệt đối không đơn thuần là
lý do bên ngoài của phát ngôn, nó không tác động vào phát ngôn từ bên ngoài,
như một lực cơ học. Không, tình huống tham gia vào phát ngôn như là một phần
thiết yếu của cấu thành ý ngữ của nó. Do đó, phát ngôn đời sống, như một chỉnh
thể có ý nghĩa, bao gồm hai phần:
1) phần thực hiện (hoặc hiện thực hóa) bằng
ngôn từ và
2) phần hàm ý. Vì vậy, có thể so sánh phát ngôn đời sống với
“enthymeme” (tam đoạn luận tỉnh lược) [5]
Tuy nhiên, đây là enthymeme loại đặc biệt. Bản thân từ
"enthymeme" (enthymeme được dịch từ tiếng Hy Lạp có nghĩa là
"tìm thấy ở linh hồn", "ngụ ý"), cũng như từ "ngụ
ý", có vẻ quá tâm lý học. Có thể nghĩ rằng tình huống được đưa ra như là một
hành vi tinh thần-chủ quan (hình dung, suy nghĩ, cảm xúc) trong tâm hồn của người
nói. Thật ra không phải vậy: tính cá nhân-chủ quan ở đây lùi lại phía sau
tính xã hội-khách quan. Những gì tôi biết, thấy, muốn và yêu, không thể ngụ
ý. Chỉ có những gì tất cả chúng ta, những người nói, đều biết, thấy, yêu và
công nhận, những gì chúng ta đều thống nhất với nhau, mới có thể trở thành phần
ngụ ý của phát ngôn. Hơn nữa, tính xã hội ở nền tảng của nó, là hoàn toàn
khách quan: bởi lẽ trước hết nó là sự thống nhất vật chất của thế giới,
bao gồm trong tầm nhìn của những người nói (căn phòng, tuyết bên ngoài cửa sổ -
trong ví dụ của chúng tôi), và sự thống nhất của các điều kiện đời sống thực
tế làm phát sinh tính thống nhất về đánh giá: những người nói
thuộc về cùng một gia đình, nghề nghiệp, giai cấp, một nhóm xã hội cụ thể nào
đó, và cuối cùng, cùng một thời gian - bởi lẽ, những người nói là những người
cùng thời. Sự đánh giá ngụ ý, vì thế, không phải là cảm xúc cá nhân, mà là những
hành vi cần thiết, theo quy luật xã hội. Những cảm xúc cá nhân, giống như
các âm bội, chỉ có thể đi cùng âm điệu cơ bản của đánh giá xã hội:
"Tôi" chỉ có thể thể hiện mình trong lời nói khi dựa vào "chúng
ta."
Như vậy, mỗi phát ngôn đời sống là một enthymeme xã hội-khách
quan. Nó giống như một "mật khẩu", mà chỉ những ai thuộc về cùng một
tầm nhìn xã hội mới biết. Đặc điểm của các phát ngôn đời sống là ở chỗ chúng được
dệt bởi hàng ngàn sợi chỉ vào tình huống đời sống ngoài lời, và khi bị tách ra
khỏi bối cảnh ấy, chúng gần như hoàn toàn mất đi ý nghĩa: những người không biết
bối cảnh đời sống gần nhất của phát ngôn, sẽ không hiểu được chúng.
Tuy nhiên, bối cảnh sát sườn này có thể rộng hay hẹp. Trong
ví dụ của chúng ta, nó cực kỳ hẹp: nó được xác định bởi tầm nhìn của một
căn phòng và một thời điểm, và phát ngôn chỉ có ý nghĩa đối với hai người.
Nhưng cái tầm nhìn chung mà phát ngôn dựa vào đó, có thể được mở rộng cả về
không gian lẫn về thời gian: có những điều "ngụ ý" của gia đình,
bộ tộc, dân tộc, giai cấp, của những ngày, những năm, và cả những thời đại trọn
vẹn. Cùng với sự mở rộng của tầm nhìn chung và của nhóm xã hội tương ứng với
nó, những yếu tố được ngụ ý của phát ngôn cũng trở nên ổn định hơn.
Khi tầm nhìn ngụ ý thực tế của phát ngôn nhỏ hẹp, khi nó, như
trong ví dụ của chúng ta, trùng với tầm nhìn thực tế của hai người đang ngồi
trong một căn phòng và cùng nhìn thấy những điều giống nhau, ngay cả một sự
thay đổi thoáng qua nhất trong tầm nhìn này cũng có thể được ngụ ý. Nhưng trong
một tầm nhìn rộng lớn hơn, phát ngôn chỉ có thể dựa vào những yếu tố ổn định, bền
vững và những đánh giá xã hội cốt yếu, căn bản.
Trong đó đánh giá xã hội là đặc biệt quan trọng. Vấn đề là ở
chỗ, tất cả các đánh giá xã hội chủ yếu nảy sinh trực tiếp từ các đặc điểm của
thực tại kinh tế của một nhóm người nhất định, thường không được nói ra: chúng
thẩm thấu vào máu thịt của tất cả các đại diện của nhóm người ấy; chúng tổ chức
các hoạt động và hành vi, chúng dường như gắn liền với những sự vật và hiện tượng
liên quan - và do đó không cần đến những cấu hình ngôn từ đặc biệt. Có cảm
giác, rằng chúng ta nhận thức giá trị của đối tượng cùng với tồn tại của nó,
như thể đó là một trong những tính chất của nó, rằng, chẳng hạn, cùng với sự ấm
áp và ánh sáng của mặt trời, chúng ta cũng cảm nhận giá trị của nó đối với
chúng ta. Cũng vậy, tất cả các hiện tượng của thực tại xung quanh ta gắn liền
cùng với sự đánh giá. Nếu sự đánh giá thực sự được sinh ra từ chính thực tại của
một tập thể, nó sẽ được công nhận một cách giáo điều như là hiển nhiên và không
cần phải bàn cãi. Ngược lại, ở nơi nào mà sự đánh giá chủ yếu được tuyên bố và
được chứng minh, thì ở nơi đó nó đã trở thành đáng ngờ, đã tách khỏi đối tượng,
đã không còn tổ chức cuộc sống và, do đó, đã mất sự liên hệ của nó với các điều
kiện thực tại của tập thể đó.
Một đánh giá xã hội lành mạnh sẽ còn lại trong cuộc sống, và
ngay từ khi đó nó tổ chức hình thức của phát ngôn và ngữ điệu của nó, nhưng tuyệt
nhiên không hướng tới việc tìm một cách biểu đạt phù hợp trong khía cạnh nội
dung của ngôn từ. Một khi sự đánh giá chuyển từ các yếu tố hình thức vào nội
dung, có thể nói không hề mạo hiểm rằng đang có sự chuẩn bị đánh giá lại. Sự
đánh giá cốt yếu, do đó, hoàn toàn không nằm trong nội dung ngôn từ của phát
ngôn và không thể được chiết xuất từ nó, mà chính nó quy định sự lựa
chọn ngôn từ và hình thức của chỉnh thể lời nói; biểu hiện
tinh khiết nhất sự đánh giá là ở ngữ điệu. Ngữ điệu thiết lập một mối liên
hệ mật thiết giữa ngôn từ và bối cảnh ngoài lời: ngữ điệu sống động dường như
kéo ngôn từ ra ngoài giới hạn lời nói của nó.
Chúng ta hãy dừng lại phân tích chi tiết hơn về mối liên hệ
giữa ngữ điệu với bối cảnh đời sống trong trường hợp phát ngôn nêu trên. Điều
này sẽ cho phép chúng ta đưa ra một loạt quan sát quan trọng về bản chất xã hội
của ngữ điệu.
IV/ Trước hết, cần phải nhấn mạnh rằng từ "thế đấy" gần
như trống rỗng về mặt ngữ nghĩa - nội dung của nó không thể tiên quyết ngữ điệu,
dù ở mức độ nào: mọi ngữ điệu đều có thể được áp dụng tốt và tự nhiên khi nói từ
này - hân hoan, buồn rầu, khinh bỉ, hay bất kỳ ngữ điệu nào khác - tất cả phụ
thuộc vào bối cảnh trong đó nó được nói ra. Trong trường hợp của chúng ta, bối
cảnh quyết định ngữ điệu- bực bội, hơi than trách, nhưng được làm mềm đi
nhờ sự hài hước - là cái tình huống ngoài lời mà chúng ta phân tích bên trên, bởi
vì hoàn toàn không có bối cảnh ngôn từ sát sườn nào. Có thể nói trước rằng,
ngay cả khi có một bối cảnh lời nói sát sườn, và hơn nữa, và bối cảnh ấy là đủ
nhìn từ mọi quan điểm khác, thì ngữ điệu vẫn đưa chúng ta vượt ra ngoài giới hạn
của nó: chúng ta chỉ có thể hiểu nó trọn vẹn nếu được biết những hàm ý đánh giá
của nhóm xã hội, bất kể nhóm đó lớn đến đâu. Ngữ điệu luôn nằm ở ranh giới
của ngôn từ và phi ngôn từ, của cái nói ra và cái không nói ra. Trong ngữ
điệu, từ tiếp xúc trực tiếp với cuộc sống. Và trên hết, chính ở trong ngữ điệu,
người nói tiếp xúc với người nghe: ngữ điệu mang tính xã hội par excellence (điển
hình). Nó đặc biệt nhạy cảm với tất cả các biến động của môi trường xã hội xung
quanh người nói.
Trong ví dụ của chúng ta, ngữ điệu hình thành từ lòng khao
khát mùa xuân, chung giữa hai người đối thoại, và từ sự buồn chán chung vì mùa
đông kéo dài. Ngữ điệu, và cả tính rõ ràng và sự tự tin trong giọng điệu chủ đạo
của nó, đều dựa trên ngụ ý đánh giá chung này. Trong khí quyển của sự đồng cảm,
nó có thể tự do triển khai và phân hóa trong khuôn khổ của giọng điệu cơ bản
này. Nhưng nếu như không có “sự ủng hộ đồng thanh" được giả định một chắc
nịch như vậy, ngữ điệu hẳn là đã đi theo một hướng khác, nó hẳn là đã được phức
tạp hóa bởi những giọng điệu khác: có thể là giọng điệu kêu gọi, bực tức đối với
người nghe, hay cuối cùng, đơn giản là gắt, quy giản đến mức tối thiểu. Khi một
người giả định ở một người khác sự không đồng tình, hoặc ít nhất là không tin
chắc, nghi ngờ sự đồng ý, anh ta sẽ thay đổi ngữ điệu khi nói, và nói chung là
sẽ xây dựng phát ngôn của mình theo cách khác. Sau đây chúng ta sẽ thấy rằng
không chỉ ngữ điệu, mà cả toàn bộ cấu trúc hình thức của lời nói, ở một mức độ
đáng kể, phụ thuộc vào quan hệ của phát ngôn với những ngụ ý đánh giá chung của
môi trường xã hội, mà lời nói hướng tới. Một ngữ điệu tự tin, giàu có và năng sản
sáng tạo chỉ có thể có trên cơ sở một "sự ủng hộ đồng thanh." Ở nơi
nào không có sự ủng hộ đó, giọng nói sẽ bị trật khấc, sự giàu có ngữ điệu của
nó giảm đi, như là trường hợp với một người đang cười đột nhiên nhận thấy rằng
anh ta cười một mình: tiếng cười im bặt hoặc tắt ngấm, trở nên rời rạc, mất hẳn
sự tự tin và tính rõ ràng, và không còn có thể sản sinh ra những từ hài hước, vui vẻ. Tính chia sẻ của các ngụ ý đánh giá cơ
bản - đó chính là thứ vải trên đó lời nói sống động của con người thêu dệt các
hoa văn ngữ điệu.
Nhưng sự định hướng ngữ điệu tới sự đồng cảm có thể có, tới sự
“ủng hộ đồng thanh” có thể, vẫn chưa phải là tất cả bản chất xã hội của nó. Đó
chỉ là một mặt của ngữ điệu, mặt hướng tới người nghe - nhưng bên trong nó còn
có một yếu tố khác cực kỳ quan trọng đối với xã hội học ngôn từ.
Nếu chúng ta xem xét ngữ điệu của phát ngôn trong ví dụ của
chúng ta, chúng ta sẽ nhận thấy trong đó một đặc điểm "bí ẩn", đòi hỏi
một sự lý giải đặc biệt.
Thực ra, trong ngữ điệu của từ "thế đấy” không chỉ vang
lên tâm trạng bất mãn thụ động về những gì đang xảy ra (tuyết rơi), mà cả sự tức
giận chủ động và sự trách cứ. Trách cứ ai vậy? Rõ ràng, không phải là người
nghe, mà là một người khác: hướng chuyển động ngữ điệu này hé mở tình huống và
cho phép một bên thứ ba tham dự. Bên thứ ba đó là ai? Ai là người bị
trách cứ? Tuyết? Thiên nhiên? Hay, có lẽ, số phận?
Tất nhiên, trong phát ngôn đời sống đơn giản hóa của chúng
ta, kẻ thứ ba ấy - nhân vật trong tác phẩm ngôn từ - vẫn chưa được
xác định đầy đủ: ngữ điệu đã chỉ rõ vị trí của anh ta, nhưng anh ta vẫn chưa nhận
được cái tương đương ngữ nghĩa và vẫn còn chưa được định danh. Ở đây, ngữ điệu
xác lập mối quan hệ sống động với đối tượng, khách thể của phát ngôn, gần như
chuyển thành sự hướng tới nó như là hướng tới hiện thân một kẻ có lỗi
sống động, trong đó, người nghe - người tham gia thứ hai - dường như được gọi tới
với tư cách nhân chứng và các đồng minh.
Hầu như mọi ngữ điệu sống động của lời nói do cuộc sống tạo
ra đều chảy theo cách như thể đằng sau các đối tượng và sự vật, nó hướng tới những
người tham gia sống động và tới những động cơ của đời sống - rất đặc trưng cho
nó là xu hướng cá nhân hóa. Nếu giọng điệu không được tiết chế, như trong
ví dụ của chúng ta, bởi một chút mỉa mai nhất định, nếu nó ngây thơ và trực tiếp,
thì sẽ nảy sinh trong nó một hình ảnh thần thoại, một câu thần chú, một lời cầu
nguyện - sự việc đích thị là như vậy ở những bậc thang sớm nhất của văn hóa.
Trong trường hợp của chúng ta, chúng ta đang xem xét một hiện tượng cực kỳ quan
trọng của sự sáng tạo ngôn từ - sự sáng tạo bằng các ẩn dụ ngữ điệu: ngữ
điệu vang lên như thể lời đang trách móc một thủ phạm sống động gây ra đợt tuyết
muộn - mùa đông. Trong ví dụ của chúng ta, chúng ta đang đối diện với một ẩn dụ
ngữ điệu thuần khiết, không hề vượt ra ngoài ngữ điệu, nhưng trong nó, như
trong chiếc nôi, đang thiu thiu ngủ một tiềm năng của ẩn dụ ngữ
nghĩa thường thấy. Nếu tiềm năng này được thực hiện, thì từ "thế đấy"
sẽ mở ra thành một phát ngôn đại loại như sau: "Vậy đó, mùa đông bướng
bỉnh, không chịu từ bỏ, mà lẽ ra đã đến lúc rồi!". Nhưng cái tiềm
năng nằm trong ngữ điệu này vẫn chưa được thực hiện: phát ngôn tạm hài lòng với
một từ gần như rỗng nghĩa, "Thế đấy".
Cần lưu ý rằng, nói chung, ngữ điệu của lời nói trong đời sống
nhiều ẩn dụ hơn từ - dường như trong nó linh hồn sáng tạo thần thoại cổ
xưa vẫn sống. Ngữ điệu vang lên như thể thế giới xung quanh người nói vẫn còn lấp
đầy các lực lượng có tri giác: nó đe dọa, tức giận hoặc yêu thương và vỗ về các
vật thể và hiện tượng vô tri vô giác, trong khi đó các ẩn dụ thông thường của
ngôn ngữ nói đa số là xói mòn, và ngôn từ nghèo nàn, tầm thường về mặt ngữ
nghĩa.
Rất gần gũi với ẩn dụ ngữ điệu là ẩn dụ cử chỉ (bởi
lẽ chính ngôn từ thoạt đầu cũng là ngôn ngữ cử chỉ, một thành phần của cử chỉ
cơ thể phức tạp) - ở đây chúng ta hiểu cử chỉ theo nghĩa rộng, bao gồm cả nét mặt
như là cử chỉ của khuôn mặt. Cử chỉ, cũng như ngữ điệu, cần có sự ủng hộ đồng
thanh của những người xung quanh: chỉ trong một bầu không khí của sự đồng cảm
xã hội, cử chỉ mới tự nhiên và tự tin. Mặt khác, cử chỉ, cũng như ngữ điệu, hé
mở tình huống, đưa vào một bên thứ ba - nhân vật. Trong cử chỉ bao giờ cũng có
hai nhi đang thiu thiu ngủ của sự tấn công hay phòng thủ, dọa nạt hoặc dỗ dành,
trong đó người thưởng thức và người nghe đóng vai trò đồng minh hoặc nhân chứng.
Thường thì "nhân vật" của cử chỉ chỉ là những vật vô tri vô giác, những
hiện tượng hay một số tình huống trong đời sống. Rất thường thấy, trong một cơn
giận dữ, chúng ta vẫn đe dọa ai đó bằng nắm đấm hay đơn giản bằng cái nhìn hăm
dọa vào không trung trống rỗng, và chúng ta có thể mỉm cười ngụ ý với mọi thứ:
ánh nắng, cây cối, suy nghĩ.
Cần phải luôn luôn ghi nhớ điều sau đây (mà mỹ học tâm lý thường
bỏ quên): ngữ điệu và cử chỉ có khuynh hưởng chủ động và khách quan. Chúng
không chỉ thể hiện trạng thái thụ động của tâm trí người nói, trong chúng luôn
luôn hàm chứa mối quan hệ sống động, mạnh mẽ với thế giới bên ngoài và với môi
trường xã hội - những kẻ thù, bạn bè và đồng minh. Khi dùng ngữ điệu và cử chỉ,
mỗi người giữ một lập trường xã hội tích cực đối với các giá trị nhất định, dựa
trên chính những nền tảng của thực tại xã hội của mình. Chính khía cạnh xã hội-khách
quan này, chứ không phải là khía cạnh tâm lý chủ quan, của ngữ điệu và cử chỉ,
là cái mà các lý thuyết gia về các nghệ thuật có liên quan cần phải quan tâm, bởi
lẽ chính trong nó chứa đựng các lực lượng sáng tạo thẩm mỹ, xây dựng và tổ chức
hình thức nghệ thuật của sức mạng của các hiện tượng này.
Như vậy, mọi ngữ điệu đều được định hướng theo hai hướng:
tới người nghe như là đồng minh hoặc nhân chứng, và tới đối tượng của phát ngôn
như là một bên thứ ba sống động; ngữ điệu la mắng nó, dỗ dành, hạ thấp hoặc ca
tụng. Định hướng xã hội kép này xác định và giải thích tất cả các khía cạnh
của ngữ điệu. Nhưng điều này cũng đúng với các yếu tố khác của phát ngôn bằng
lời nói: tất cả chúng đều được tổ chức và được định hình toàn diện trong cùng một
quá trình định hướng kép của người nói - chỉ có điều là ở ngữ điệu,
như là yếu tố nhạy cảm, linh hoạt và tự do nhất của lời nói, cái nguồn gốc xã hội
đó dễ thấy nhất.
Như vậy (ngay từ bây giờ chúng ta đã có quyền nói), tất
cả những gì thực sự được nói (hoặc được viết một cách chủ ý), chứ không phải
là những ngôn từ ngủ yên trong từ vựng, là sự biểu hiện và sản phẩm của
sự tương tác xã hội giữa ba bên: người nói (tác giả), người nghe (người
đọc) và một bên, người (hay vật) mà họ nói đến (nhân vật). Từ - đó là
một sự kiện xã hội, nó không tự đủ, như là một đại lượng ngôn ngữ học trừu tượng,
cũng không thể được chiết xuất theo cách tâm lý học từ ý thức chủ quan xét một
cách biệt lập của người nói. Chính vì vậy, cách tiếp cận ngôn ngữ học hình thức
và tâm lý học đều bắn trượt đích: bản chất xã hội học, cụ thể, của từ, cái duy
nhất làm cho nó đúng hay sai, đê tiện hay cao quý, cần thiết hay không cần thiết,
với cả hai quan điểm này đều là không thể hiểu nổi và không thể tiếp cận. Hiển
nhiên, cũng chính cái "linh hồn xã hội" như vậy của từ làm cho nó có
giá trị nghệ thuật - đẹp hay xấu. Thực ra, khi chịu khuất phục trước cách tiếp
cận xã hội học căn bản và cụ thể hơn, cả hai quan điểm trừu tượng - ngôn ngữ học
hình thức và tâm lý học - đều vẫn có giá trị của mình. Sự hợp tác của chúng thậm
chí là điều hoàn toàn cần thiết, nhưng tự thân chúng, xét riêng rẽ, cả hai đều
đã chết.
Một phát ngôn cụ thể (chứ không phải là sự trừu tượng hóa
ngôn ngữ học) được sinh ra, sống và chết đi trong quá trình tương tác xã hội của
những người tham gia phát ngôn. Ý nghĩa và hình thức của nó chủ yếu được xác định
bởi hình thức và đặc điểm của sự tương tác đó. Tách rời phát ngôn khỏi mảnh đất
thực tiễn đó, mảnh đất nuôi dưỡng nó, chúng ta sẽ mất đi chìa khóa để hiểu cả
hình thức lẫn ý nghĩa của nó - trong tay chúng ta chỉ còn lại cái vỏ ngôn ngữ học
trừu tượng hoặc cái sơ đồ cũng trừu tượng như vậy của ý nghĩa (cái "ý đồ của
tác phẩm" khét tiếng của các lý thuyết gia và sử gia văn học ngày trước) -
hai sự trừu tượng hóa này không được kết nối với nhau, bởi vì không có nền tảng
cụ thể cho sự tổng hợp sống động của chúng.
Bây giờ cần phải tóm tắt kết quả sự phân tích nhỏ của chúng
ta về phát ngôn trong đời sống và những tiềm năng nghệ thuật, những mầm mống
của hình thức và nội dung tương lai, mà chúng ta đã phát hiện trong nó.
Ý nghĩa trong đời sống và nghĩa của phát ngôn (bất luận chúng
như thế nào) không trùng khít với cấu trúc thuần túy ngôn từ của phát ngôn. Những
từ được nói ra thấm trong nó những điều ngầm ẩn và không được nói ra. Cái vẫn
được gọi là "hiểu" và "đánh giá" phát ngôn (đồng ý hay bất
đồng), luôn luôn bao hàm tình huống đời sống ngoài lời đồng thời với ngôn từ. Đời
sống, do đó, không tác động lên phát ngôn từ bên ngoài: nó thẩm thấu phát ngôn
từ bên trong, cũng như sự thống nhất và tính chia sẻ của thực tại xung quanh những
người nói và của những đánh giá xã hội thiết yếu nảy sinh từ thực tại đó mà
không một phát ngôn nào có thể đứng ngoài. Ngữ điệu nằm ở ranh giới giữa đời sống
và phần ngôn từ của phát ngôn, nó dường như bơm năng lượng của tình huống đời sống
vào ngôn từ, nó mang lại cho tất cả những gì bền vững về mặt ngôn ngữ học một sự
vận động và tính đương đại lịch sử sống động. Cuối cùng, phát ngôn phản ánh
trong nó sự tương tác xã hội của người nói, người nghe và nhân vật, là một sản
phẩm của, và vật cố định bằng chất liệu ngôn từ, sự giao tiếp đời sống của họ.
Lời - giống như "kịch bản" của một sự kiện nào đó.
Một sự hiểu sống động ý nghĩa đầy đủ của lời phải tái tạo sự kiện này
của mối quan hệ tương hỗ giữa những người nói, như thể "trình diễn" nó,
trong đó người hiểu đóng vai của người nghe. Tuy nhiên, để thực hiện vai diễn
này, anh ta phải hiểu rõ cả lập trường của những người tham gia khác.
Theo quan điểm ngôn ngữ học, thì không tồn tại, tất nhiên, cả
sự kiện này lẫn những người tham gia sống động của nó - nó quan tâm đến cái
ngôn từ trừu tượng, trần trụi, và những yếu tố cũng trừu tượng của nó (ngữ âm,
hình thái, vv); do đó, ý nghĩa chỉnh thể của lời và giá trị tư
tưởng của nó - nhận thức, chính trị, thẩm mỹ - nằm ngoài khả năng tiếp cận
của quan điểm này. Cũng giống như không thể có logic ngôn ngữ học và chính trị
ngôn ngữ học, cũng vậy, không thể có thi pháp ngôn ngữ học.
V/ Điều gì phân biệt một phát ngôn ngôn từ nghệ thuật - một tác
phẩm thơ hoàn chỉnh chẳng hạn - với một phát ngôn trong đời sống?
Ngay từ cái nhìn đầu tiên cũng rõ, rằng ở đây từ không ở
và không thể ở trong cùng một mối quan hệ chặt chẽ như vậy với tất cả các yếu tố
của bối cảnh phi ngôn từ, với tất cả những gì được nhìn thấy và nhận biết trực
tiếp, như trong đời sống. Một tác phẩm thi ca không thể dựa vào các vật và sự
kiện của môi trường xung quanh như một cái gì đó đương nhiên, mà không đưa vào
đó dù chỉ là một gợi ý đến chúng trong phần ngôn từ của phát ngôn. Về mặt này,
ngôn từ trong văn học, tất nhiên, phải đáp ứng những đòi hỏi lớn hơn nhiều: nhiều
điều vẫn nằm trong đời sống ngoài ranh giới của phát ngôn bây giờ phải tìm được
một đại diện bằng ngôn từ. Từ quan điểm đối tượng - thực dụng, trong tác phẩm
thơ không thể có sự không nói hết.
Liệu từ đó có thể suy ra, rằng trong văn chương, người nói,
người nghe và nhân vật, khi lần đầu tiên gặp nhau, không hề biết gì về nhau,
không hề có một tầm nhìn chung, và do đó họ không hề dựa vào một cái gì và
không hề ngụ ý bất cứ gì gì? Một số người, trên thực tế, có khuynh hướng nghĩ
đúng như vậy.
Thật ra, ngay cả tác phẩm thơ cũng được đan kết chặt chẽ với
bối cảnh không được nói ra của cuộc sống. Nếu quả thực là tác giả, người nghe
và nhân vật gặp nhau lần đầu tiên như là những con người trừu tượng, không hề
được gắn với nhau bởi bất kỳ một tầm nhìn chung duy nhất nào, mà chỉ lựa chọn
các từ trong từ vựng, thì hầu như sẽ không có ngay cả một tác phẩm văn xuôi, và
dĩ nhiên là không có một tác phẩm thơ nào. Khoa học, ở một mức độ nào đó, đến gần
với giới hạn này - một định nghĩa khoa học chứa tối thiểu những ngụ ý; nhưng có
thể chứng minh được, tuyệt đối không có ngụ ý là không thể.
Trong văn chương, vai trò của hàm ý đánh giá là đặc biệt quan
trọng. Có thể nói rằng tác phẩm thơ - là một bộ tích tụ mạnh mẽ những đánh
giá xã hội không được nói ra thành lời: mỗi từ đều lấp đầy các đánh giá như vậy.
Chính những đánh giá xã hội như vậy tổ chức hình thức nghệ thuật như
là biểu hiện trực tiếp của mình.
Đánh giá là cái chủ yếu xác định sự lựa chọn ngôn từ của tác
giả và cảm giác của người nghe về sự lựa chọn này (đồng-lựa chọn). Bởi lẽ, nhà
thơ lựa chọn ngôn từ không phải từ trong từ điển, mà từ bối cảnh đời sống, nơi
chúng lắng đọng và thấm đẫm sự đánh giá. Như vậy, nhà thơ lựa chọn những sự
đánh giá liên quan đến các từ, và từ quan điểm của những người hóa thân thành
người mang các đánh giá này. Có thể nói, rằng nhà thơ luôn luôn làm việc với sự
đồng cảm thông hoặc không đồng cảm, đồng ý hay bất đồng với người nghe. Thêm nữa,
đánh giá còn chủ động cả trong mối quan hệ với đối tượng của phát ngôn - với nhân vật. Ngay cả việc đơn thuần lựa chọn một tính từ hoặc một ẩn dụ đã là
một hành vi đánh giá tích cực, đồng thời hướng tới hai hướng: người nghe và
nhân vật. Người nghe và nhân vật - đó là hai thành viên thường trực của sự
kiện sáng tạo, mà không một khoảnh khắc nào không là một sự kiện giao tiếp sống
động giữa họ.
Nhiệm vụ của thi pháp xã hội học hẳn sẽ được giải quyết nếu
chúng ta có thể giải thích mỗi yếu tố của hình thức như là một sự biểu hiện
tích cực của sự đánh giá trong hai hướng đó - tới người nghe và tới đối tượng của
phát ngôn - nhân vật. [5a] Nhưng để hoàn thành nhiệm vụ này, ở thời điểm hiện
nay, chúng ta có quá ít dữ liệu. Chúng ta chỉ có thể cố gắng phác thảo nhiều nhất
là những tuyến đường sơ bộ theo hướng này.
Mỹ học hình thức chủ nghĩa hiện đại định nghĩa hình thức nghệ
thuật như là hình thức của chất liệu. Việc thực hiện nhất quán quan điểm
này buộc người ta phải bỏ qua nội dung - trong tác phẩm nghệ thuật không còn có
chỗ dành cho nó; trong trường hợp tốt nhất, nó là một yếu tố của chất liệu và
do đó chỉ gián tiếp được tổ chức bởi hình thức nghệ thuật, cái trực tiếp thuộc
về chất liệu. [6]
Với cách hiểu như vậy, hình thức mất đi tính chất đánh giá chủ
động của mình và trở thành cái gợi nên những cảm giác dễ chịu hoàn toàn thụ động
ở người cảm thụ.
Hình thức, tất nhiên, được thực hiện nhờ chất liệu, được gắn
liền trong chất liệu - nhưng trong ý nghĩa của mình, nó vượt ra ngoài
ranh giới của chất liệu. Ý, ý nghĩa của hình thức không thuộc về chất liệu,
mà thuộc về nội dung. Chẳng hạn, chúng ta có thể nói rằng hình thức của một
bức tượng không phải là hình thức của đá cẩm thạch, mà là hình thức của cơ thể
con người, và nó "nhân vật hóa" người được mô tả, hay "ca tụng",
hoặc có thể, “hạ thấp” anh ta (phong cách biếm họa trong nghệ thuật tạo hình),
tức là nó thể hiện một sự đánh giá nhất định về người được mô tả.
Nhưng đặc biệt rõ ràng là nghĩa đánh giá của hình thức trong
thơ. Nhịp điệu và các yếu tố hình thức khác thể hiện rõ ràng một thái độ chủ động
nào đó đối với đối tượng được miêu tả: hình thức ca ngợi, than khóc hay chế giễu
anh ta.
Mỹ học tâm lý gọi đó là "yếu tố tình cảm" của hình
thức. Còn đối với chúng ta, điều quan trọng ở đây không phải là khía cạnh tâm lý
của vấn đề, điều quan trọng là chính xác những sức mạnh tâm lý nào tham gia vào
sự sáng tạo hình thức và sự tiếp nhận đồng sáng tạo nó - quan trọng là ý nghĩa
của những trải nghiệm này, tính chủ động của chúng, và tính định hướng của
chúng vào nội dung. Nhờ hình thức nghệ thuật, người sáng tạo giữ một lập
trường chủ động nào đó trong mối quan hệ với nội dung. Hình thức bản thân
nó không nhất thiết phải dễ chịu – giải thích nó một cách khoái lạc chủ nghĩa
là việc làm vớ vẩn - hình thức phải là một sự đánh giá thuyết phục về
nội dung. Chẳng hạn, hình thức của kẻ thù thậm chí có thể là kinh tởm - trạng
thái tích cực, sự hài lòng của người cảm thụ mà hình thức đó cuối cùng dẫn đến
là hệ quả của điều sau: hình thức đó xứng đáng với kẻ thù và nó được
thực hiện thuần túy mặt kỹ thuậtbằng chất liệu. Nghiên cứu hình thức cần
phải đi theo cả hai hướng này: trong quan hệ với nội dung như là sự đánh giá tư
tưởng của nó, và trong quan hệ với chất liệu như là sự thực hiện về mặt kỹ thuật
của sự đánh giá này.
Sự đánh giá tư tưởng được biểu hiện bằng hình thức tuyệt đối
không thể di chuyển vào nội dung dưới dạng một phán quyết, dù là đạo đức, chính
trị hay loại nào khác. Sự đánh giá phải ở trong nhịp điệu, trong chính chuyển
động giá trịcủa tính ngữ, của ẩn dụ, trong trình tự triển khai của sự
kiện được miêu tả; nó phải được thực hiện chỉ bằng các phương tiện hình thức của
chất liệu. Nhưng đồng thời, tuy không đi vào nội dung, hình thức vẫn không đánh
mất liên hệ với nội dung, sự gắn kết với nó - nếu không như vậy, nó sẽ trở
thành một thí nghiệm kỹ thuật, bị tước đi mọi ý nghĩa nghệ thuật thực sự.
Cái định nghĩa chung của phong cách, được thi pháp cổ điển và
tân cổ điển đưa ra, và sự phân chia phong cách thành hai loại cơ bản,
"cao" và "thấp", phản ánh chính bản chất đánh giá chủ động
đó của hình thức nghệ thuật. Cấu trúc của hình thức, trên thực tế, có
tính thứ bậc, và về mặt này nó gần gũi với sự phân cấp chính trị và pháp
lý. Cũng tương tự như vậy, nó tạo ra trong nội dung được tạo hình một cách nghệ
thuật một hệ thống phức tạp các mối quan hệ thứ bậc: mỗi yếu tố của nó - ví dụ,
một tính ngữ hay ẩn dụ - hoặc là đề cao cái được mô tả, hoặc là hạ thấp hoặc
đánh đồng nó. Sự lựa chọn nhân vật hay sự kiện xác định ngay từ đầu cao độ
chung của hình thức và chấp nhận thủ pháp này hay thủ pháp khác để tạo hình -
và nói đến yêu cầu cơ bản về tính thích hợp của phong cách là nói đến tính
thích hợp thứ bậc đánh giá của hình thức và nội dung: chúng phải tương
thích với nhau. Sự lựa chọn nội dung và sự lựa chọn hình thức - đó là một
và cùng một hành vi xác lập lập trường cơ bản của người sáng tạo - và trong nó
phản ánh cùng một sự đánh giá xã hội.
VI/ Một phân tích xã hội học có thể xuất phát, tất nhiên, từ
thành phần lời nói, ngôn ngữ học thuần túy, của tác phẩm, nhưng nó không nên và
không thể tự đóng kín trong các ranh giới của thành phần đó, như trong cách tiếp
cận của thi pháp ngôn ngữ học. Bởi lẽ, cả việc tiếp nhận nghệ thuật một tác phẩm
thơ khi đọc cũng xuất phát từ các ký hiệu viết (Tức là từ hình ảnh trực quan của
các từ được viết hoặc in), nhưng ngay ở khoảnh khắc tiếp theo của sự tiếp nhận,
hình ảnh trực quan ấy đã được mở ra và gần như đã bị hấp thụ bởi những yếu tố
khác của từ - phát âm, giọng nói, ngữ điệu, ý nghĩa - và những yếu tố này, tiếp
đó, sẽ dẫn chúng ta vượt ra ngoài ranh giới của từ. Và như vậy, chúng ta có thể
nói, rằng quan hệ giữa yếu tố thuần túy ngôn ngữ học của tác phẩm với chỉnh
thể nghệ thuật cũng giống hệt như quan hệ giữa ký hiệu viết với chỉnh thể
lời nói. Và lời trong thơ - đó là "kịch bản" của sự kiện -
một sự tiếp nhận nghệ thuật từng trải sẽ trình diễn nó, trong khi dự
đoán một cách tinh tế trong ngôn từ và các hình thức tổ chức của nó những mối
quan hệ tương hỗ cụ thể sống động giữa tác giả với cái thế giới được anh ta
miêu tả, và với bên thứ ba tham dự vào mối quan hệ này - người đọc. Ở nơi nào
mà sự phân tích ngôn ngữ học chỉ nhìn thấy các từ và mối quan hệ giữa các yếu tố
trừu tượng của chúng (ngữ âm, hình thái học, cú pháp, và những yếu tố khác),
nơi đó những mối quan hệ giữa con người, được phản ánh và kết tinh
trong chất liệu ngôn từ, được bộc lộ ra cho sự tiếp nhận nghệ thuật sống động
và sự phân tích xã hội học cụ thể. Ngôn từ - đó là bộ xương mà chỉ được bao bọc
bởi thứ da thịt sống động trong quá trình tiếp nhận sáng tạo, do đó, chỉ trong
quá trình giao tiếp xã hội sống động.
Trong phần tiếp theo, chúng ta sẽ cố gắng phác thảo, dưới
hình thức ngắn gọn và sơ bộ, ba yếu tố căn bản trong mối quan hệ giữa các bên
tham gia vào sự kiện nghệ thuật, những yếu tố xác định các đường hướng cơ bản,
sơ lược của phong cách thi ca như một hiện tượng xã hội. Việc chi tiết hóa các
yếu tố ấy trong phạm vi bài viết này, tất nhiên, là không thể.
Chúng ta không bao giờ xem xét tác giả, nhân vật và độc giả
bên ngoài sự kiện nghệ thuật, bởi vì cả ba đều tham gia vào bản thân sự tiếp nhận
tác phẩm nghệ thuật, và bởi vì cả ba đều là những yếu tố cấu thành thiết yếu của
tác phẩm. Đó là những sinh lực quyết định hình thức và phong cách, và một người
cảm thụ có kinh nghiệm cảm nhận hoàn toàn rõ ràng. Tất cả những đặc tính mà một
sử gia văn chương và xã hội có thể đưa ra về tác giả và nhân vật - tiểu sử tác
giả, sự mô tả nhân vật chính xác hơn theo trình tự thời gian hay mang tính xã hội
học, v.v…, - Ở đây, tất nhiên, được loại trừ: chúng không trực tiếp gia nhập
vào cấu trúc của tác phẩm, mà vẫn nằm bên ngoài nó. Chúng ta cũng chỉ xét người
đọc nào được chính tác giả tính đến và tác phẩm hướng đến, và do đó xác định từ
bên trong cấu trúc của nó - nhưng tuyệt đối không phải là công chúng thực tiễn
mà trên thực tế là lượng độc giả của một nhà văn.
Yếu tố đầu tiên của nội dung xác định hình thức là thứ hạng
giá trị của sự kiện được miêu tả và kẻ mang nó - nhân vật (được gọi tên hoặc
không được gọi tên), xét trong mối liên hệ chặt chẽ với thứ bậc của tác giả và
độc giả. Ở đây chúng ta có một quan hệ hai chiều, cũng giống như trong đời
sống pháp lý và chính trị: chủ nô - nô lệ, người cai trị - người bị trị, bạn -
bạn, v.v…
Giọng điệu cơ bản của phong cách phát ngôn, như vậy, được xác
định trước hết bởi ai là người đang được nói tới, và quan hệ của người đó với
người nói như thế nào: đứng trên, dưới, hoặc ngang hàng với anh ta trong hệ thống
phân cấp xã hội. Nga hoàng, cha, anh, tôi tớ, bè bạn - với tư cách nhân vật của
phát ngôn - cũng xác định cả cấu trúc hình thức của nó. Đến lượt mình, trọng
lượng thứ bậc riêng của nhân vật lại được xác định bởi bối cảnh giá trị cơ
bản bối cảnh không nói ra, trong đó hòa quyện cả phát ngôn thi ca. Cũng tương tự
như cách "ẩn dụ ngữ điệu" trong ví dụ đời sống của chúng ta xác lập mối
quan hệ sống động với đối tượng phát ngôn, mọi yếu tố phong cách của tác phẩm
thi ca thấm đẫm mối quan hệ đánh giá của tác giả đối với nội dung và thể hiện lập
trường xã hội cơ bản của anh ta. Xin nhấn mạnh một lần nữa, rằng chúng ta đang
nói không phải về các đánh giá tư tưởng, được đưa vào nội dung phát ngôn dưới
hình thức phán quyết và kết luận của tác giả, mà về sự đánh giá bằng hình
thức, căn cốt hơn và sâu sắc hơn, được phản ánh trong chính cách nhìn và sắp xếp
chất liệu nghệ thuật.
Một số ngôn ngữ, đặc biệt là tiếng Nhật, có một kho phong phú
và đa dạng các hình thức từ vựng và ngữ pháp đặc biệt, mà cách sử dụng phụ thuộc
chặt chẽ vào thứ bậc của nhân vật trong phát ngôn (kính ngữ). [7]
Chúng ta có thể nói, rằng: cái mà đối với người Nhật vẫn còn
là một vấn đề ngữ pháp, thì đối với chúng ta đã là một vấn đề phong
cách. Những thành phần thiết yếu của phong cách sử thi anh hùng ca, bi kịch,
thơ ca ngợi, v.v… được xác định bởi chính địa vị thứ bậc như vậy của đối tượng
phát ngôn trong mối tương quan với người nói.
Không nên nghĩ rằng văn chương hiện đại đã đánh mất mối
tương quan thứ bậc như vậy giữa người sáng tạo và nhân vật: nó chỉ trở nên phức
tạp hơn, sự phân tầng chính trị - xã hội cùng thời với nó không còn được phản
ánh trong nó với cùng một độ nét như, chẳng hạn, trong chủ nghĩa cổ điển -
nhưng nguyên tắc thay đổi phong cách phát ngôn tùy theo sự thay đổi
giá trị xã hội của nhân vật thì, tất nhiên, vẫn còn nguyên hiệu lực. Bởi lẽ,
nhà thơ không thù ghét một kẻ thù riêng, không yêu thương và trân trọng một người
bạn riêng, không vui hay buồn vì những sự kiện trong cuộc đời riêng. Ngay cả
khi các nhà thơ có vay mượn một phần đáng kể cảm xúc của mình từ số phận của cuộc
đời riêng tư của mình, thì anh ta vẫn phải xã hội hóa cảm xúc đó, và,
do vậy, phải làm cho sự kiện tương ứng với nó sâu sắc thêm đến mức độ nó
có ý nghĩa xã hội.
Yếu tố thứ hai của mối quan hệ tương hỗ giữa nhân vật và tác
giả quyết định phong cách, là mức độ gần gũi giữa họ với nhau. Khía cạnh
này, ở tất cả các ngôn ngữ, còn có một biểu hiện ngữ pháp trực tiếp: ngôi thứ
nhất, ngôi thứ hai và ngôi thứ ba, cùng cấu trúc thay đổi của mệnh đề tùy thuộc
vào việc ai là chủ ngữ ("Tôi", "Bạn" hay "Nó").
Hình thức của phán xét về ngôi thứ ba, hình thức hướng tới
ngôi thứ hai, hình thức của phát ngôn về bản thân mình (và biến thể của các hình
thức này) - về mặt ngữ pháp đã là khác biệt. Do đó, ở đây, bản thân cấu
trúc của ngôn ngữ phản ánh sự kiện quan hệ tương hỗ giữa những người nói.
Trong một số ngôn ngữ, các hình thức thuần túy ngữ pháp còn
có khả năng linh hoạt hơn trong việc truyền đạt các sắc thái của mối quan hệ xã
hội giữa những người nói và những mức độ gần gũi khác nhau giữa họ. Về mặt này,
rất thú vị là hình thức số nhiều trong một số ngôn ngữ: cái gọi là những hình
thức "bao gồm" và "loại trừ" (inclusive và exclusive). Ví dụ,
nếu người nói, khi sử dụng từ «мы», muốn nói đến cả người nghe, anh ta sẽ bao gồm
cả người nghe vào chủ ngữ của phát ngôn bằng cách sử dụng một hình thức (trong
tiếng Việt là “chúng ta” - NTL); nếu anh đang nói đến bản thân mình và một người
khác («мы» với ý nghĩa là "tôi" và "anh ta"), thì ông ta lại
sử dụng một hình thức khác (trong tiếng Việt đó là “chúng tôi” - NTL). Tương tự
như vậy là cách sử dụng dạng kép của số nhiều trong số ngôn ngữ Australia. Cũng
vậy là sự tồn tại hai hình thức riêng biệt cho số ba: một hình thức nghĩa là
"Tôi, Bạn, Nó", một hình thức khác nghĩa là - "Tôi, Nó, Nó"
("Bạn" - tức người nghe - bị loại trừ) [8]
Trong các ngôn ngữ châu Âu, những quan hệ này và những quan hệ
tương hỗ tương tự giữa những người nói không có sự biểu hiện ngữ pháp riêng biệt.
Đặc điểm của những ngôn ngữ này trừu tượng hơn và ít khả năng hơn trong việc phản
ánh tình huống phát ngôn bằng các cấu trúc ngữ pháp của chính nó. Nhưng bù lại,
những mối quan hệ tương hỗ này được thể hiện - cực kỳ tinh tế hơn và có sự phân
biệt hơn rất nhiều - trong phong cách và ngữ điệu của phát ngôn: bằng các
thủ pháp thuần túy nghệ thuật, tình huống xã hội của việc sáng tạo được phản
ánh đầy đủ trong tác phẩm.
Hình thức của tác phẩm thơ ca, do vậy, trong rất nhiều yếu tố,
được xác định bởi cách tác giả cảm nhận nhân vật của mình như là
trung tâm tổ chức của phát ngôn. Hình thức trần thuật khách quan,
hình thức hướng đến (cầu nguyện, thánh ca, một số hình thức trữ
tình), hình thức tự thoại (xưng tội, tự truyện, hình thức tự thú trữ
tình- hình thức quan trọng nhất của thơ tình) - được xác định chính bởi mức độ
gần gũi giữa tác giả và nhân vật.
Cả hai yếu tố mà chúng tôi đã chỉ ra - giá trị thứ bậc của
nhân vật và mức độ gần gũi của nhân vật với tác giả, xét một cách riêng rẽ, biệt
lập, vẫn chưa đủ để xác định hình thức nghệ thuật. Vấn đề ở chỗ, tham gia vào
trò chơi bao giờ cũng có bên thứ ba - người nghe, kẻ làm thay đổi mối quan hệ
giữa hai bên kia (tác giả và nhân vật).
Bởi lẽ, mối quan hệ tương hỗ giữa tác giả và nhân vật không
bao giờ thực sự là mối quan hệ riêng của họ: hình thức bao giờ cũng tính đến
bên thứ ba - người nghe - kẻ có ảnh hưởng rất căn bản đến mọi yếu tố của tác phẩm.
Người nghe có thể xác định phong cách của phát ngôn thi ca
theo hướng nào? Cả ở đây, chúng ta cũng phải phân biệt hai yếu tố chính: thứ nhất,
sự gần gũi của người nghe với tác giả và, thứ hai, quan hệ của anh ta với nhân
vật. Không có gì tai hại cho mỹ học hơn là sự bỏ qua vai trò độc lập của người
nghe. Có một ý kiến, rất phổ biến, cho rằng người nghe phải được coi là bình đẳng
với tác giả, trừ một điểm về mặt kỹ thuật, rằng lập trường của một người nghe
có kinh nghiệm là phải tái tạo một cách đơn thuần lập trường của tác giả. Trong
thực tế, vấn đề không phải như vậy. Đúng hơn, có lẽ phải khẳng định ngược lại:
người nghe không bao giờ bình đẳng với tác giả. Người nghe có một vị
trí riêng, độc lập, trong các sự kiện sáng tạo nghệ thuật; người nghe phải
giữ một lập trường đặc biệt, lập trường hai mặt, trong sự kiện đó: trong mối
quan hệ với tác giả, và trong mối quan hệ với nhân vật - và lập trường này sẽ
quyết định phong cách của phát ngôn.
Tác giả cảm nhận người nghe của mình như thế nào? Trong ví dụ
phát ngôn trong đời sống, chúng ta đã thấy sự đồng ý hay bất đồng của người
nghe có mức độ quan trọng quyết định như thế nào đối với ngữ điệu. Điều này
cũng đúng đối với mọi yếu tố của hình. Nói một cách hình ảnh, người nghe thông
thường ở bên cạnh tác giả như là đồng minh của ông ta; nhưng trường hợp
cổ điển như vậy về vị trí của người nghe còn xa mới thường xuyên xảy ra.
Đôi khi người nghe bắt đầu tiếp cận với nhân vật của phát
ngôn. Biểu hiện rõ nhất và điển hình nhất của việc đó là phong cách bút chiến,
đặt nhân vật và người nghe vào cùng một mặt phẳng. Thể loại châm biếm cũng có
thể nắm bắt cả người nghe - xem anh ta như là gần gũi với nhân vật bị chế nhạo,
chứ không phải gần gũi với tác giả đang chế nhạo: điều này giống như một hình
thức chế nhạo bao gồm, khác biệt căn bản với hình thức chế nhạo loại trừ, trong
đó người nghe đồng tình với tác giả là người chế nhạo. Một hiện tượng thú vị có
thể quan sát thấy ở chủ nghĩa lãng mạn, nơi thường thấy tác giả có vẻ như liên
minh với nhân vật để chống lại người đọc (F. Schlegel - “Lucinde”; trong
văn học Nga, một phần của "Nhân vật thời đại chúng ta").
Rất độc đáo và thú vị nếu phân tích cảm giác của tác giả về
người nghe dưới các hình thức xưng tội và tự truyện. Mọi chuyển đổi cảm giác từ
sự quy phục ngoan ngoãn trước người nghe như trước quan tòa được công nhận, đến
sự ngờ vực khinh bỉ và sự thù địch đối với anh ta - có thể quyết định phong
cách của lời thú tội và tự truyện. Một tư liệu vô cùng thú vị minh họa cho điều
này có thể thấy trong tác phẩm của Dostoevski. Phong cách tự thú của những
"Ghi chép" của Iippolit (trong "Thằng ngốc") được quy định
bởi mức độ gần như tột cùng của sự ngờ vực khinh bỉ và sự thù địch đối với tất
cả những ai sẽ lắng nghe lời thú tội lúc lâm chung này. Cũng giọng điệu như vậy,
nhưng được mềm hóa đôi chút, quyết định phong cách của "Những ghi chép dưới
hầm". Sự tin tưởng và công nhận lớn hơn nhiều về quyền của người nghe được
thể hiện bởi phong cách của "Những lời tự thú của Stavrogin", mặc dù
cả ở đây đôi khi vẫn bùng phát thái độ gần như hận thù đối với anh ta, tạo nên
những sự đột biến phong cách. Sự điên dại, như một hình thức đặc biệt của phát
ngôn, quả thực, đã nằm ở ranh giới của nghệ thuật, được xác định trước hết bởi
xung đột vô cùng phức tạp và khó hiểu giữa người nói và người nghe.
Đặc biệt nhạy cảm với tư thế của người nghe là hình thức thơ
trữ tình. Điều kiện chính của ngữ điệu trữ tình là sự tự tin không thể lay
chuyển vào sự đồng cảm của người nghe. Chỉ cần sự nghi ngờ len lỏi vào
tình huống trữ tình, phong cách trữ tình sẽ lập tức thay đổi. Mâu thuẫn như vậy
với người nghe biểu hiện sinh động nhất trong cái gọi là "mỉa mai trữ
tình" (Heine, trong thơ mới - Lafarge, Annensky, v.v…) Hình thức mỉa mai
nói chung được hình thành bởi xung đột xã hội: đó là sự gặp gỡ hai cách đánh
giá điển hình trong cùng một giọng nói và sự giao thoa của chúng, sự loạn nhịp.
Mỹ học hiện đại đã đưa ra một lý thuyết đặc biệt, gọi là lý
thuyết "tố tụng” về bi kịch, bản chất của nó rút lại là cố gắng hiểu cấu
trúc của bi kịch như là cấu trúc một phiên tòa. [9]
Mối quan hệ tương hỗ giữa một bên là nhân vật với dàn đồng
ca, và bên kia là lập trường chung của người nghe - quả thực có tuân theo, ở một
mức độ nhất định, sự giải thích pháp luật. Nhưng, tất nhiên, vấn đề chỉ có thể
là sự tương tự. Cái chung căn cốt giữa bi kịch - và mọi tác phẩm nghệ thuật - với quá trình tố tụng rút lại chỉ là sự hiện hữu của "các bên", tức
là, sự hiện diện của một những bên tham gia với những lập trường khác nhau.
Những cụm từ rất thường được dùng để nói về nhà thơ, như "vị quan
tòa", "người vạch mặt", "nhân chứng", "người bảo
vệ" hay thậm chí là "đao phủ" (cụm từ của phong các «trào phúng
đả kích» - Juvenal, Barbier, Nekrasov, và những người khác), và tương ứng là những
mô tả nhân vật và người nghe - dưới hình thức tương tự hé lộ cùng một cơ sở xã
hội của thơ. Trong mọi trường hợp, tác giả, nhân vật và người nghe không bao giờ
hòa trộn vào một sự thống nhất lãnh đạm nào đó, mà luôn giữ những lập trường
độc lập; đó thực sự là "các bên", nhưng không phải của một phiên tòa,
mà của một sự kiện nghệ thuật với cấu trúc xã hội riêng biệt, và tác phẩm nghệ
thuật chính là “biên bản” của nó.
Ở đây, sẽ không thừa khi nhấn mạnh thêm một lần nữa, rằng
chúng ta luôn luôn nói đến người nghe như một thành viên nội tại của sự
kiện nghệ thuật, kẻ quy định hình thức tác phẩm từ bên trong. Ngang với tác giả
và nhân vật, người nghe là một yếu tố thiết yếu bên trong của tác phẩm và hoàn
toàn không trùng với cái gọi là "công chúng", nằm bên ngoài tác phẩm,
với các yêu cầu và thị hiếu nghệ thuật mà ta có thể trù tính một cách có ý thức.
Việc trù tính có ý thức như vậy không có khả năng xác định một cách trực tiếp
và sâu sắc hình thức nghệ thuật trong quá trình sáng tạo sống động của nó. Hơn
nữa, nếu sự trù tính có ý thức về công chúng như vậy giữ bất kỳ vị trí nghiêm
túc nào trong công việc sáng tạo của nhà thơ- nó chắc chắn sẽ mất đi sự thuần
khiết nghệ thuật của nó và suy thoái thành một kế hoạch xã hội thấp kém.
Sự trù tính bên ngoài này nói lên, rằng nhà thơ đã đánh mất người
nghe nội tại của mình, đã bị tách rời khỏi chỉnh thể xã hội, cái có
thể, từ bên trong, ngoại trừ tất cả những suy tính lạc đề, xác định những
sự đánh giá của anh ta cũng như hình thức nghệ thuật của những phát ngôn thi ca
của anh ta - cái hình thức biểu hiện những đánh giá xã hội căn bản đó. Nhà thơ
càng bị tách rời khỏi sự thống nhất xã hội của nhóm của mình, sẽ càng có khuynh
hướng trù tính đến các yêu cầu bên ngoài của một công chúng nhất
định. Chỉ có một nhóm xã hội xa lạ đối với nhà thơ mới có thể quy định
sự sáng tác của anh ta từ bên ngoài. Bên trong nhóm của mình, sự quy định
từ bên ngoài như vậy không cần thiết: nó ở trong chính giọng nói của nhà thơ,
chủ yếu trong giọng điệu của anh ta, trong các ngữ điệu - cho dù nhà thơ muốn
hay không muốn. Nhà thơ tiếp nhận ngôn từ và học cách ngữ điệu hóa chúng suốt
cuộc đời mình trong quá trình giao tiếp toàn diện với môi trường
của anh ta. Những ngôn từ và ngữ điệu này, nhà thơ bắt đầu sử dụng ngay từ lời
nói bên trong để nghĩ và nhận biết bản thân mình, thậm chí ngay cả khi anh
ta không nói ra. Cho rằng có thể nắm bắt một thứ lời nói bên ngoài đi
ngược với lời nói bên trong của mình, rằng có thể dùng những thủ pháp ngôn
từ-bên trong để hiểu rõ bản thân và thế giới - là ngây thơ. Nếu trong một vài
trường hợp nào đó trong cuộc sống ta có thể tạo ra nó, thì khi bị tách rời khỏi
những cội nguồn nuôi dưỡng nó, nó cũng sẽ không có bất kỳ tính năng sản nghệ
thuật nào. Phong cách của nhà thơ được sinh ra từ phong cách không thể
kiểm soát được của lời nói bên trong của anh ta, và lời nói bên trong
này là một sản phẩm của toàn bộ đời sống xã hội của anh ta. "Phong cách - đó là con người"; nhưng chúng ta có thể nói: phong cách - đó ít nhất là
hai người, hay chính xác hơn, ít nhất là một người và nhóm xã hội của anh ta
thông qua một đại diện có thẩm quyền của nhóm - người nghe - một thành viên thường
trực của lời nói cả bên trong và bên ngoài của người đó.
Vấn đề là ở chỗ, mọi hành động ý thức ít nhiều rõ ràng đều là
không thể thiếu lời nói bên trong, không thể thiếu ngôn từ và ngữ điệu - đánh
giá, và, do đó, đã là một hành động xã hội, một hành động giao tiếp. Ngay cả một
sự tự ý thức riêng tư nhất cũng đã là một nỗ lực để chuyển dịch bản thân mình
vào ngôn ngữ chung, trù tính đến quan điểm của người khác, và, do đó, đã bao gồm
trong nó sự định hướng tới người nghe. Người nghe đó có thể chỉ là một kẻ mang
sự đánh giá của nhóm xã hội mà người nhận thức thuộc về. Về mặt này, ý thức,
trong chừng mực chúng ta không bị phân tâm bởi nội dung của nó, đã không
chỉ là một hiện tượng tâm lý, mà trên hết là một hiện tượng tư tưởng, một
sản phẩm của sự giao tiếp xã hội.
Thành viên thường trực đó của tất cả các hành vi ý thức
của chúng ta quy định không chỉ nội dung, mà - điều chính yếu đối với chúng ta- cả bản thân sự lựa chọn nội dung, lựa chọn chính những gì được
chúng ta nhận thức, và, do đó, quy định những đánh giá - những đánh
giá thâm nhập vào ý thức và thường được tâm lý học gọi là "giọng điệu xúc
cảm" của ý thức. Người nghe, kẻ xác định hình thức nghệ thuật, được sinh
ra từ chính thành viên thường trực này của tất cả các hành vi của ý thức chúng
ta.
Không có gì nguy hại hơn việc hình dung cấu trúc xã hội tinh
tế này của sự sáng tạo ngôn từ theo cách tương tự với lối tư biện nhận thức luận
và trơ trẽn của nhà xuất bản tư sản, luôn "tính đến tình hình của thị trường
sách" và áp dụng, khi mô tả cấu trúc nội tại của tác phẩm, những phạm trù
như "cung và cầu". Thật đáng buồn, nhiều “nhà xã hội học" cũng
có xu hướng đồng nhất sự phục vụ xã hội của nhà thơ với các hoạt động của một
nhà xuất bản năng động.
Trong điều kiện kinh tế tư bản, thị trường sách, tất nhiên,
"điều chỉnh" các nhà thơ, nhưng điều đó trong bất cứ trường hợp nào
cũng không thể đồng nhất với vai trò điều tiết của người nghe như là một yếu tố
cấu thành thường trực của sáng tạo nghệ thuật. Đối với một sử gia văn học thời
đại tư bản chủ nghĩa, thị trường là một yếu tố rất quan trọng, nhưng đối với
thi pháp lý thuyết, ngành nghiên cứu cấu trúc tư tưởng cơ bản của nghệ thuật, yếu
tố bên ngoài này là không cần thiết. Nhưng cả trong lịch sử văn học cũng không
được phép nhầm lẫn lịch sử của thị trường sách và ngành xuất bản với lịch sử
thơ ca.
VII/ Tất cả các yếu tố mà chúng ta đã khảo sát quy định hình thức
của phát ngôn nghệ thuật:
1) Giá trị thứ bậc của nhân vật hoặc sự kiện, cái là
nội dung của phát ngôn;
2) Mức độ gần gũi của nhân vật với tác giả;
3) Người
nghe và mối quan hệ tương hỗ của anh ta, một mặt, với tác giả, và, mặt khác, với
nhân vật – chính tất cả những yếu tố này là những điểm bổ sung các lực lượng
xã hội của hoạt động ngoài nghệ thuật vào thơ ca.
Chính nhờ cấu trúc xã hội-bên
trong như vậy, từ mọi phía, sự sáng tạo nghệ thuật chịu ảnh hưởng
xã hội của các lĩnh vực khác trong đời sống. Các không gian tư tưởng khác, đặc
biệt là hệ thống chính trị-xã hội, và, cuối cùng, nền kinh tế, quy định
thơ không phải chỉ từ bên ngoài, mà dựa trên các yếu tố cấu trúc bên trong
nói trên của nó. Và ngược lại: sự tương tác nghệ thuật giữa tác giả, người nghe
và nhân vật có thể tác động đến các lĩnh vực khác của giao tiếp xã hội.
Để lý giải đầy đủ và toàn diện các câu hỏi về việc ai sẽ là
nhân vật điển hình của văn học trong một thời đại nhất định, định hướng hình thức
điển hình của tác giả trong mối quan hệ với anh ta ra sao, mối quan hệ tương hỗ
giữa nhân vật, tác giả và người nghe trong chỉnh thể sáng tạo nghệ thuật phải
ra sao, đòi hỏi phải phân tích toàn diện các điều kiện kinh tế và tư tưởng của
thời đại.
Nhưng những vấn đề lịch sử-cụ thể này vượt ra ngoài giới hạn
của thi pháp lý thuyết, và nó còn có một nhiệm vụ quan trọng nữa. Cho đến nay,
chúng ta mới chỉ đề cập đến những yếu tố quy định hình thức trong mối quan hệ của
nó với nội dung, tức là, như là biểu hiện của đánh giá xã hội về chính nội dung
đó, và chúng ta đã thấy rằng mọi yếu tố của hình thức đều là sản phẩm của tương
tác xã hội. Nhưng chúng ta cũng đã chỉ ra, rằng hình thức còn phải được hiểu từ
một phương diện khác - như là hình thức được thực hiện nhờ một chất liệu
nhất định. Điều này mở ra một loạt dài những câu hỏi liên quan đến mặt kỹ
thuật của hình thức.
Tất nhiên, những vấn đề kỹ thuật này chỉ có thể khu biệt
một cách trừu tượng từ các vấn đề xã hội học của hình thức: không thể phân biệt
một cách thực sự giữa ý nghĩa nghệ thuật của một thủ pháp
nào đó - chẳng hạn, một ẩn dụ liên quan đến nội dung và thể hiện sự đánh giá bằng
hình thức về nó (ẩn dụ hạ thấp đối tượng hoặc tôn vinh anh ta đến tột bậc) – và
một mô tả thuần túy ngôn ngữ học về thủ pháp này.
Ý nghĩa phi ngôn từ của ẩn dụ - sự tổ chức lại các giá
trị và vỏ ngôn ngữ của nó – sự chuyển dịch ngữ nghĩa - chỉ là những
điểm nhìn khác nhau về cùng một hiện tượng thực tế. Nhưng điểm nhìn thứ hai phụ
thuộc vào điểm nhìn đầu tiên: nhà thơ sử dụng phép ẩn dụ để tái tổ chức các giá
trị, chứ không phải để làm các bài tập ngôn ngữ học.
Tất cả các vấn đề của hình thức có thể được nắm bắt trong mối
quan hệ với chất liệu, trong trường hợp này, là nối quan hệ với ngôn ngữ được
tiếp nhận về mặt ngôn ngữ học; sự phân tích kỹ thuật, như vậy, quy về câu hỏi, nhiệm
vụ nghệ thuật - xã hội của hình thức được thực hiện nhờ những phương tiện ngôn
ngữ học nào. Nhưng nếu thiếu kiến thức về nhiệm vụ này, nếu trước hết
không làm sáng tỏ ý nghĩa của nó, sự phân tích kỹ thuật sẽ là vớ vẩn.
Các vấn đề kỹ thuật của hình thức, tất nhiên, vượt ra ngoài
giới hạn nhiệm vụ mà chúng ta đặt ra. Thêm nữa, sự khảo sát chúng đòi hỏi
tiền đề là một sự phân tích sâu sắc và chuyên biệt hơn rất nhiều về mặt xã hội-nghệ
thuật của thơ: ở đây chúng ta chỉ có thể phác ra những hướng chính của một phân
tích như vậy.
Nếu chúng ta đã chỉ ra được dù chỉ là khả năng của một cách
tiếp cận xã hội học đối với cấu trúc nghệ thuật nội tại của hình thức thi ca,
thì nhiệm vụ của chúng ta cũng có thể coi là đã hoàn thành.
Ghi chú:
[1] Xem: Sakulin P.N. "Phương pháp xã hội học trong nghiên
cứu văn học." M. 1925.
[2] "Các yếu tố của hình thức thi ca (âm, từ, hình ảnh,
nhịp điệu, kết cấu, thể loại), chủ đề thi ca, phong cách nghệ thuật nói chung -
tất cả đều đã được nghiên cứu sơ bộ một cách nội tại, sử dụng các phương pháp
được thi pháp lý thuyết phát triển, dựa trên tâm lý học, mỹ học và ngôn ngữ học,
và những phương pháp đang được vận dụng trên thực tế bởi, chẳng hạn, cái gọi là
phương pháp hình thức "(Sakulin P.N. "Phương pháp xã hội học trong
nghiên cứu văn học", tr. 27).
[3] "Xem văn chương là một hiện tượng xã hội, chúng ta
không thể không đến với câu hỏi về lý do xuất hiện của nó. Đối với chúng ta, đó
là – tính nhân quả xã hội học. Chỉ đến bây giờ, một sử gia văn học mới có quyền
đứng ở vị trí của nhà xã hội học và đưa ra câu hỏi "Tại sao", để bao
gồm các sự kiện văn học vào quá trình chung của đời sống xã hội trong một thời
đại nhất định, và sau đó để xác định vị trí của chúng trong sự vận động lịch sử
chung. Và khi phương pháp xã hội học đó cũng thể hiện sức mạnh của, mà khi được
ứng dụng vào lịch sử văn học, trở thành phương pháp lịch sử-xã hội học.
Trong giai đoạn nội tại đầu tiên, tác phẩm được quan niệm như
một giá trị nghệ thuật theo nghĩa xã hội và lịch sử của nó" (Sakulin P.N.
"Phương pháp xã hội học trong nghiên cứu văn học," tr. 27, 28).
[4] Chúng tôi chỉ phân biệt giữa lý thuyết và lịch sử nghệ
thuật về mặt phân công lao động kỹ thuật. Không có khoảng cách phương pháp luận
nào có thể có giữa chúng. Các phạm trù lịch sử được sử dụng một cách mạnh mẽ, tất
nhiên, trong mọi lĩnh vực của khoa học nhân văn, cả lịch sử lẫn lý thuyết.
[5] "Enthymeme" (Tam đoạn luận tỉnh lược), trong
logic học, là tên gọi của một phép suy luận, trong đó một tiền đề không được thể
hiện mà chỉ ngụ ý. Ví dụ: Socrates là người, do đó ông phải chết. Hàm ý -
"mọi người đều phải chết."
[5a] Chúng ta tạm gác lại những vấn đề về kỹ thuật của hình
thức, về mà chúng ta sẽ bàn sau đây.
[6] Quan điểm Zhirmunsky.
[7] Xem: Humboldt W. Kawi-Werk. II, 335, và trong sách giáo
khoa tiếng Nhật: Hofmann IV Japan Sprachlehre. S. 75.
[8] Xem: Matthews G.H. Aboriginal languages of Victoria; xem
thêm: Humboldt W. Kawi-Werk.
[9] Sự phát triển thú vị nhất của quan điểm này, xem:. Cohen
H. Ästhetik des Reinen Gefühls, Bd. 2
Nguyên bản: ВОЛОШИНОВ BH: “Слово в жизни и слово в поэзии. К вопросам социологической поэтики”Звезда, 1926, № 6, стр. 244-267.
Voloshinov
Ngô Tự Lập dịch
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét