TIỄN CHỒNG CỦA VƯƠNG TRỌNG
Gửi con sang hàng xóm
Mang ba lô tiễn chồng
Đến ga tàu chưa đến
Đồng ngả chiều sau lưng
Có gì mà gửi gắm
Ngoài gói cơm thấm vừng
Dấu bàn tay chị nắm
Sẽ theo anh ngược rừng
Có gì mà căn dặn
Chị chịu đựng, lo toan
Qua bao mùa lụt hạn
Cấy cày và nuôi con
Đứng bên nhau phút chốc
Đối mặt dễ mủi lòng
Chị nhìn lên hướng bắc
Anh ngoái trông về làng.
- Đã mình em xa chồng
- Đừng để con đợi mẹ!
Anh nói, lòng rưng rưng
Chị gật đầu lặng lẽ
Rồi quay đi chậm rãi
Bóng đổ dài xiêu xiêu
Ngang đồng ngoảnh đầu lại
Còn thấy anh nhìn theo
(1987)
Đọc bài thơ, ta biết người vợ trẻ này ở nông thôn một mình
nuôi con, chồng đang ở trong quân ngũ. Anh nghỉ phép về thăm vợ con mấy hôm,
hôm nay lên đường, chị đưa tiễn anh ra ga.
Nếu như người phụ nữ nông thôn tiễn chồng những năm đầu chống
Pháp trong "Thăm lúa" của nhà thơ Trần Hữu Thung còn ngượng ngùng, e
ấp khi đi sau chồng thì người con gái nông thôn này đã được hai cuộc chiến
tranh làm cho dày dạn:
Gửi con sang hàng xóm
Mang ba lô tiễn chồng
Việc chồng ra đi, vợ đưa tiễn, với người Việt Nam mình đã trở
thành quá quen thuộc, bình thường, không có gì phải xúc động, hồi hộp nữa. Chiến
tranh đã làm cho con người quen với chia ly. Hai vợ chồng hiểu lòng nhau quá
nên không phải "gửi gắm", "căn dặn" gì nhau:
Có gì mà gửi gắm
Ngoài gói cơm thấm vừng
Dấu bàn tay chị nắm
Sẽ theo anh ngược rừng
Có gì mà căn dặn
Chị chịu đựng, lo toan
Qua bao mùa lụt hạn
Cấy cày và nuôi con
Hai khổ thơ như lời nói thường mà lại rung động, thấm thía.
Đó là thứ ngôn ngữ của cõi lòng, của tình yêu. Con người của hậu phương và con
người của tiền tuyến hòa với nhau làm một, yêu thương, cảm thông và đầy trách
nhiệm.
Nói như thế, không có nghĩa là họ hoàn toàn vô cảm trong giây
phút sắp phải xa nhau. Không, lòng hai người đều đang xúc động:
Đứng bên nhau phút chốc
Đối mặt dễ mủi lòng
Chị nhìn lên hướng bắc
Anh ngoái trông về làng.
Hai người nhìn về hai nơi nhưng hai nơi có dụng ý: vợ
"nhìn lên hướng bắc" nơi chồng đóng quân, còn chồng thì "ngoái
trông về làng", nơi họ mạc, vợ con, xóm làng anh sinh sống.
Dù hiểu nhau đến mấy, tin nhau đến mấy, người chồng vẫn nói với
vợ một câu, một câu thật nặng tình:
- Đã mình em xa chồng
- Đừng để con đợi mẹ!
Anh nói, lòng rưng rưng
Chị gật đầu lặng lẽ
Rồi người vợ "quay đi chậm rãi/ bóng đổ dài xiêu
xiêu". Quay đi, lòng còn ngoảnh lại, gặp chồng mình cũng đang ngoảnh lại
nhìn mình:
Ngang đồng ngoảnh đầu lại
Còn thấy anh nhìn theo
Bài thơ "Tiễn chồng" của nhà thơ quân đội - đại tá
Vương Trọng không có gì đặc biệt về ý tưởng, về ngôn từ hay thi pháp, nhưng từng
câu, từng khổ đều tự nhiên, đều thấm thía. Nỗi nọ, niềm kia của hai nhân vật trữ
tình trong bài thơ cũng chính là nỗi niềm người lính mà anh đã sống, đã cảm nhận,
rung động trong những năm chống Mỹ cứu nước. Bài thơ tự nhiên như không có sự...
làm thơ vậy.
Lời bình của Nguyễn Bùi Vợi
ANH VỊN VÀO MÀU HUẾ ĐỂ YÊU EM...
Với Huế, nhà thơ Trương Nam Hương không phải là người xa la.
Đã rất nhiều lần nhà thơ dành cho Huế những vần thơ rất đẹp. Tôi nhớ mình đã được
đọc bài thơ "Màu Huế" trên báo Văn nghệ vào mùa xuân năm 2001, lúc đó
tôi là một sinh viên văn khoa thích tìm hiểu thơ về Huế. Trong thơ Trương Nam
Hương, tình yêu quê hương cũng giống tình yêu đôi lứa, bởi nếu không có quê
hương, không có những đêm hao gầy thề hẹn thì không có anh và em, không có những
vần thơ run rẩy.
Anh vịn vào màu Huế để yêu em
Trước thành quách bao đời em cứ trẻ
Sông Hương chảy thon mình qua dâu bể
Anh mượn vành nón Huế buổi về thăm.
Nhẹ nhàng mà sâu lắng. Trách khéo thôi mà làm người đọc trăn
trở. Tại sao nhà thơ lại mượn một thứ vô hình để thể hiện tình yêu? Có gì thẳm
sâu trong màu rêu Huế? Nhà thơ đã hóan đổi thời gian bằng lời thơ bình dị của
mình.Thời gian đang ngưng đọng trên những thành quách rêu phong cổ kính của Huế.
Cũng có thể nhà thơ chỉ lấy "em" làm ví dụ, làm đối tượng thơ để diễn
đạt ý thơ. Nhưng ở đây, nhân vật "em" lại là nhân vật chính trong câu
chuyện tình đầy lãng mạn này. Có em trong từng hơi thở ở Huế, có em trong hình dáng
mẹ, có em để anh thao thức về Huế đêm ngày. Giờ về Huế chỉ thấy dòng Hương ngơ
ngẩn chảy, như muốn níu kéo điều gì rất thực mà lại mờ ảo.. "Anh mượn rêu
Huế để yêu em.." rồi "Anh mượn vành nón Huế buổi về thăm". Không
gian như chững lại giữa câu thơ cho nỗi nhớ niềm thương lan tỏa. Tình yêu trong
bài thơ cũng chính là mối tình sâu nặng của tác giả đối với Huế - quê hương
mình. Tình yêu đó có trong tâm thức anh, em và Huế. Trương Nam Hương đã viết rất
thật, điều này đã làm cho bài thơ có độ bền, sức nén:
Anh vịn vào màu mắt những ngày xa
Những uẩn khúc trong điệu hò mẹ hát
Những đèo dốc trong đời cha bất trắc
Mắt Huế nhìn thăm thẳm tới ngày xưa.
Quá khứ được tái hiện bằng "Mắt Huế". "Mắt Huế"
chính là em. Câu thơ buồn lắng như nước mắt, lại cồn cào như chính trái tim
anh. Đó là thông điệp mà nhà thơ muốn gửi lại cho người đọc, để sẻ chia cho vơi
bớt nỗi buồn. Vành nón Huế, tà áo trắng nữ sinh, những con đường thơ mộng... Tất
cả là kỷ niệm đối với nhà thơ.
Điệp khúc "Anh vịn" được lặp lại những bốn lần. Một
sự khẳng định, biến cái không thể thành cái có thể. Làm sao con người có thể vịn
vào những cái phi vật thể? Vậy mà lại có thể, bởi tình yêu. Trương Nam Hương đã
đúng khi cầm, nắm, nhớ, thương những gì chỉ hiện hữu trong một trái tim với
tình yêu tha thiết. Tình yêu đã là vĩnh hằng muôn thuở. Đó chính là "mắt nhớ"
trong chuỗi ký ức ngọt ngào của mỗi người về quê hương. Trương Nam Hương đã yêu
từ những câu hò mái nhì, mái đẩy của mẹ, đến những dốc đèo người cha đã đi qua.
Đó là cái tài của một ngòi bút không biết mệt mỏi khi đi tìm và lý giải cặn kẽ
những thắc mắc về tình đời, tình người. Tất cả là sự dồn nén đến cháy bỏng đầu
ngòi bút. Ý thơ được trải rộng và như đang đập cùng một nhịp với trái tim, với
hình bóng em trong màu Huế.
Anh vịn lên trăng khuyết tuổi em chờ
Đỡ chống chếnh câu thơ buồn xa Huế..
Thời gian như hao gầy bên cánh cửa. Em đã đợi anh, chờ anh hết
trăng khuyết đến trăng tròn. Vòng xoay của thời gian không đổi. Cỏ vẫn non tơ,
sương vẫn đậu đầy từng ngọn cỏ nhưng em thì khác. Tuổi già chăng? Nỗi buồn đang
tỏa ra trong từng câu chữ, Huế gọi anh về lại bên em, để được giãi bày tâm sự.
Trương Nam Hương trút xúc cảm của mình xuống trang thơ như lời tình tự. Tình yêu
đôi lứa đã biến thành tình yêu quê hương. Tác giả đã gửi vào bài thơ tâm trạng
của những người con xứ Huế đang ở xa bằng một tình cảm chân thành sâu lắng. Ta
nghe trong giai điệu thơ Trương Nam Hương một nỗi nhớ vô bờ:
Anh mượn màu nắng Huế để thương em
Từ màu rêu đến màu nắng có bao nhiêu khoảng cách? Sao tôi thấy
tất cả cứ lung linh, mờ mờ, ảo ảo... gần mà lại xa? Bởi nắng, mưa xứ Huế không
giống bất cứ nơi nào.
Lời bình của Nguyễn Thị Anh Đào
“Chút chút” của Lương
Trọng Minh
Hôn em chút chút lấy tình
Em hôn chút chút một mình anh thôi
Thế rồi chút chút lên ngôi
Lâu ngày chút chút thành đôi vợ chồng.
Tôi có rất nhiều bạn thơ, nhờ vậy mà tôi được đọc, được nghe
rất nhiều bài thơ viết về nhiều góc nhỏ của cuộc sống. Chính những góc nhỏ ấy của
cuộc sống đã cho tôi rất nhiều nghị lực, để những hoài bão của mình trở thành
hiện thực. Tôi đọc bài thơ "Chút chút" của nhà thơ Lương Trọng Minh
(Hội viên Hội VHNT Đà Nẵng) từ cách đây đã hơn mười năm, có lẽ như vậy tôi thuộc
lòng bài thơ này đến từng chữ. Được vậy là nhờ bài thơ viết chân thực, gần gũi
với tâm lý con người. Tôi nghĩ nhà thơ Lương Trọng Minh quá giỏi, ông đã khắc họa
hết sức cô đọng về sự thủy chung của tình yêu chỉ vẻn vẹn bốn câu thơ lưục bát
với 28 ký tự, trong đó đã có tới 8 ký tự của từ láy "chút chút". Đáng
nói hơn cả là điệp ngữ "chút chút" có mặt trong cả bốn câu thơ không
hề làm cho người đọc nhàm chán. Ngược lại, nó lại ánh lên rất nhiều sắc màu của
cuộc sống, thậm chí còn người lên sự đa dạng của ngữ pháp trong tiếng Việt.
"Chút chút" có thể là động từ, có thể là tính từ. Nếu là động từ sẽ
cho chúng ta sự tha thiết, nếu là tính từ sẽ cho chúng ta sự dịu êm. Tất cả trạng
thái tâm lý đó đã làm đẹp hơn tình yêu chân chính.
Bài thơ được tác giả đặt tên là "Chút chút", cũng
là từ láy chút chút xuất hiện trong cả bốn câu thơ như đã nói. Như vậy, chúng
ta dễ dàng hiểu rõ hơn ý định của tác giả là muốn nêu bật nét đẹp của tình yêu
bằng sự chắt chiu, chăm chút của con người nói chung, giữa người con trai và
người con gái nói riêng. Thật vậy, để có tình yêu cao đẹp không gì hơn là sự vun
đắp của đôi bên.
"Hôn em chút chút lấy tình", phải chăng tác giả muốn
đề cập đến cá tính của người con trai. Có thể giây phút đầu tiên người con trai
còn dò tính, tìm hiểu. Thế nhưng, khi biết rằng bạn gái của mình nhất quyết yêu
mình - "Em hôn chút chút một mình anh thôi" thì người con trai cảm thấy
yên lòng. Mỗi ngày thêm một chút yêu, mỗi ngày thêm một chút thương, cứ thế...
tình yêu lớn dần trong trái tim, tâm hồn hai người, "Lâu ngày chút chút
thành đôi vợ chồng". Đó là đỉnh cao của tình yêu.
Những lúc trà dư tửu hậu, tôi thường đọc bài thơ này cho bạn
bè nghe. Bài thơ "Chút chút" đã để lại nhiều bất ngờ cho họ. Họ không
nghĩ nhà thơ Lương Trọng Minh có tài viết tình sử hay như thế. Từ giây phút gặp
gỡ ban đầu, để ý nhau, rồi yêu nhau, sau đó là sự nuôi dưỡng tình yêu cho tới ngày
thành vợ thành chồng. Kết quả cuộc hôn nhân ấy có được là nhờ biết vun đắp tình
yêu mỗi ngày một chút. Nếu như viết bằng văn xuôi thì chắc có lẽ phải tốn khá
nhiều giấy mực. Thế mới biết làm thơ hay không phải dễ. Có lần nhà thơ Đông
Trình nói với tôi rằng: "Cả đời làm thơ, chỉ cần ai đó nhớ thơ của mình dầu
chỉ một câu, một chữ thôi, cũng hạnh phúc lắm rồi..."
Hạnh phúc của người làm thơ khi được mọi người nhớ thơ của
mình, cũng là hạnh phúc của người yêu thơ khi gặp những ý thơ hay để đồng cảm với
tình yêu. Chỉ cần chút chút thôi cũng đủ để chúng ta hiểu nhau hơn, cùng vượt
qua gian nan, thử thách của quy lưuật cuộc sống.
Xin gởi đến các bạn và nhà thơ Lương Trọng Minh chút chút tâm
tình này của tôi - người yêu thơ đất Quảng.
Lời bình của Huỳnh Trương Phát
“TRĂNG KHUYẾT” CỦA PHI TUYẾT BA
Anh ngỏ lời yêu em
Vào một đêm trăng khuyết
Bởi tình yêu tha thiết
Biết tròn trước đêm rằm.
Em vui lúc trăng tròn
Chạnh lòng khi trăng khuyết
Anh ơi anh có biết
Trăng hay tình lứa đôi
Sao anh lại ngỏ lời
Vào một đêm trăng khuyết
Để bây giờ thầm tiếc
Một vầng trăng không tròn
Nhiều người tìm đến bài thơ "Trăng khuyết" của Phi
Tuyết Ba như là một niềm an ủi bởi gặp tình yêu không thành. Câu chuyện trăng
khuyết vấn vít cùng chuyện khuyết vẹn của tình yêu thì có gì lạ đâu. Nguyễn Du
cách đây hơn 200 năm đã viết:
Vầng trăng ai xẻ làm đôi
Nửa in gối chiếc, nửa soi dặm trường
Thế nên, sức hấp dẫn của bài thơ này hẳn là đặc biệt lắm. Nếu
không, làm sao người ta đọc, người ta hát nó nhiều đến thế được.
Lại vẫn là tình yêu. Tình yêu không có một kết thúc trọn vẹn.
Và giữa trăm ngàn nguyên cớ chia tay, người con gái vin vào một cái cớ tưởng
như chẳng có gì, ấy là vầng trăng khuyết.
Anh ngỏ lời yêu em
Vào một đêm trăng khuyết
Bởi tình yêu tha thiết
Biết tròn trước đêm rằm
Chỉ có trái tim nhạy cảm và đa cảm thì mới có những câu thơ
thật trong sáng, đáng yêu. Lời tỏ tình đầu tiên lại rơi vào một đêm trăng khuyết.
Người con trai có lẽ chẳng bao giờ để ý tới chuyện này đâu. Nhưng là một cô
gái, chuyện tự nhiên trời đất thôi cũng trở thành tâm sự của lòng mình. Điều đó
là dễ hiểu.
Hạnh phúc vì đón nhận tình yêu, cô muốn bộc bạch những ngổn
ngang trăm mối, lại vẫn chuyện vầng trăng tròn khuyết, và hình như, cài vào bao
nhập nhằng, hư ảo khuyết- tròn ấy là những dự cảm, âu lo không thể nào nói hết
được:
Em vui lúc trăng tròn
Chạnh lòng khi trăng khuyết
Anh ơi anh có biết
Trăng hay tình lứa đôi
Vầng trăng lúc này không chỉ là một thực tế của vũ trụ nữa. Vầng
trăng là chứng nhân cho lời tỏ tình đêm trước. Thật xót xa, đó lại là một đêm
trăng không tròn:
Sao anh lại ngỏ lời
Vào một đêm trăng khuyết
Để bây giờ thầm tiếc
Một vầng trăng không tròn
Cô muốn trách móc. Mà câu thơ buông ra lửng lơ, chẳng biết
trách ai. Trách anh? Không! Trách đêm trăng khuyết? Có lẽ chỉ trách sự vô tình,
không may mắn. Dẫu rằng vầng trăng cứ khuyết tròn theo quy luật muôn đời vẫn thế
nhưng cái tròn trặn của vầng trăng, cái tròn trặn của tình yêu thì không vĩnh hằng,
mãi mãi.
Tôi thích cái "đổ lỗi" này. Nó khiến cho tình yêu,
dù không trọn vẹn, dù đứt gánh nhưng vẫn đẹp và nhân văn. Đọc bài thơ, cứ mong
lời ngỏ yêu kia diễn ra vào một trăng tròn vành vạch. Để cô gái, để chàng trai,
để vầng trăng không phải thầm tiếc cho sự dang dở của một mối tình.
Bài thơ làm người ta chạnh lòng, buồn nỗi buồn man mác. Ba khổ
thơ là sự hồi tưởng liền mạch về tình yêu, từ buổi đầu đến ngày kết thúc. Dẫu
tình yêu vơi vẹn đi nhưng trên hết, ta bắt gặp tâm hồn của một cô gái rất thiết
tha và nhân hậu khi nghĩ về mối tình lỡ dở của mình, nghĩ về lời tỏ tình vào một
đêm có vầng trăng khuyết nửa. Là lời tâm sự nên câu chữ bài thơ cũng miên man
theo dòng cảm xúc và rất mức tự nhiên. Mà những gì chân thành, tự nhiên thì rất
dễ hấp dẫn được nhiều người.
Lời bình của Nguyễn Thị Thanh Hiếu
“MỘT ANH CHÀNG YÊU MỘT CÔ NÀNG” CỦA HAINDRICH HAINƠ
Một anh chàng yêu một cô nàng
Nhưng cô nàng lại yêu người khác
Và người khác lại yêu cô khác
Cùng cô này kết mối tơ duyên
Và cô nàng uất ức, ưu phiền
Cưới luôn kẻ đầu tiên, tốt nhất
Trên đường đời mình vừa bắt gặp;
Còn anh chàng đau khổ triền miên.
Đấy là câu chuyện cũ, xưa rồi
Nhưng nghe ra còn luôn mới mẻ;
Ai gặp phải cảnh đời như thế,
Trái tim mình cũng vỡ mà thôi.
(Bản tình ca 1822
-1823)
Tình yêu là gì? Với nhiều người, tình yêu là có thật song
cũng có biết bao người cả đời loay hoay kiếm tìm mà chẳng ra. Haindrich Hainơ,
chàng ca sĩ của ái tình nằm trong số đó. Khi 25 tuổi, nhà thơ đã tư lự đặt bút
viết: Một anh chàng... cô khác. Phải chăng đó là sự sắp xếp của vị thần ái tình
trong trò chơi Tình yêu? Hối hả và gấp gáp làm sao trong cuộc kiếm tìm sợi dây
đồng điệu, để rồi lại thường xuyên đón nhận những tình huống trớ trêu: Và cô
nàng uất ức... triền miên. Một kết cục xiết bao cay đắng và tàn nhẫn, cắt đứt
hoàn toàn sự chờ đợi mơ hồ, bẻ gẫy niềm hy vọng mong manh đang nhen nhúm. Hainơ
viết cho người con trai ấy hay cho chính mình: Ai găp phải... vỡ mà thôi.
Cảm nhận tình yêu của gần 200 năm về trước nay còn nguyên giá
trị nên càng thôi thúc người yêu thơ tiếp tục tìm đến với Hainơ.
Haindrich Hainơ (1797-1856) là một nhà thơ cách mạng dân chủ,
bạn của Các Mác và là một cây bút trữ tình của nền văn học Đức. Ông được mệnh
danh là ca sĩ của ái tình với gần 10.000 tác phẩm, trong đó có niềm hân hoan của
hạnh phúc và muôn nỗi khổ đau của một trái tim tràn trề khát vọng.
Huỳnh Mai Liên
ĐÊM SÔNG CẦU
Anh qua sông Hồng, sông Đuống
Mùa mưa bọt nước đỏ ngầu
Không biết ở nơi em ở
Êm êm một khúc sông Cầu
Tiếng một con tôm búng nước
Vó bè ai cất sau lưng
Sao trời lọt qua mắt lưới
Rơi đầy xuống cả mặt sông
Con sông của người quan họ
Suốt đời nước chảy lơ thơ
Em ơi! Em là cô gái
Từ lâu anh đợi anh chờ
Em là cô Tấm thảo hiền
Đến giữa đời anh trẩy hội
Tình đã trao nhau êm đềm
Mà vẫn mắt nhìn bối rối
Sông Cầu khi đầy khi vơi
Chảy ngang qua câu quan họ
Vạt thương ướt cùng vạt nhớ
Em nói nhẹ như hơi thở
Anh nghe để nhớ suốt đời:
Giữ tình yêu như giữ lửa,
Đừng quên, đừng tàn, đừng nguôi!
Tình yêu có từ phương em
Đi qua tháng năm chờ đợi
Tình yêu cũng từ phương anh
Lửa rừng bồn chồn góc núi
Tình yêu có từ hai ta
Chẳng đủ gần mà giận dỗi
Nhà xa, mặt trận càng xa
Gặp nhau lần nào cũng vội
Ngày mai chắc là nhiều nắng
Nên sao giăng khắp trên đầu
Ngày mai chặng miền ải Bắc
Tựa lưng vào đêm sông Cầu
(Đỗ Trung Lai)
Cái duyên của bài thơ này là duyên thầm. Với 9 khổ thơ vừa
kín đáo, vừa gợi mở, tác giả giống như người lái đò trong đêm, lặng lẽ đưa bạn
đọc trôi như mơ trên con sông của người quan họ. Ngay vào đầu bài thơ, thi sĩ
đã thú nhận sự vô tâm của mình: "Anh qua sông Hồng, sông Đuống; Mùa mưa bọt
nước đỏ ngầu - Không biết ở nơi em ở - Êm êm một khúc sông Cầu". Tác giả thú
nhận "không biết" cũng chính là để lưu vào vị trí bạn đọc mà cùng
nhau "khám phá" đó thôi. Dám thú nhận sự "vô tâm" là chính
bởi "nội tâm" của thi nhân mạnh lắm. Nội tâm không mạnh, làm sao mà
nghe được: Tiếng một con tôm búng nước - Vó bè ai cất sau lưng. Và còn nhìn thấy
được: Sao trời lọt qua mắt lưới - Rơi đầy xuống cả mặt sông. Có lẽ không phải
sao trời, mà là cảm xúc của Đỗ Trung Lai rơi đầy xuống mặt sông thì đúng hơn. Rồi
cuối cùng, điều muốn đã được nói:
Em ơi! Em là cô gái
Từ lâu anh đợi anh chờ
Sau khi thốt ra được hai câu thơ khó khăn ấy, "người lái
đò" hình như "bỏ rơi" bạn đọc để quay sang tâm sự riêng với cô Tấm
thảo hiền. Bạn đọc cũng đành nín thở ngồi nghe, chứ biết làm sao nữa:
Em nói nhẹ như hơi thở
Anh nghe để nhớ suốt đời
Giữ tình yêu như giữ lửa
Đừng quên, đừng tàn, đừng nguôi!
Hóa ra tác giả không quên bạn đọc, không quên ngọn lửa rừng bồn
chồn góc núi- bởi trái tim của anh là trái tim đập cạnh chiếc ba lô: Tình yêu
có từ hai ta - Chẳng đủ gần mà giận dỗi - Nhà xa, mặt trận càng xa - Gặp nhau lần
nào cũng vội. Lời thơ buông ra như không, mà sao đọc đến đây, lòng ta thấy nhói
cả lên. Có thể người lính ấy không trở về lắm chứ? Nhưng dù muốn dù không, tôi
vẫn tin tình yêu chảy ngang qua câu quan họ là tình yêu bất tử.
Những ngọn lửa trận mạc đã tắt và nếu điều tôi tin là có thật-
thì ước ao một ngày nào đó, tôi và người lính ấy sẽ mở "đôi lối" về
Hà Bắc- để cùng nhau: Tựa lưng vào đêm sông Cầu.
Lời bình của Hoàng Nhuận Cầm
“BỜ SÔNG VẪN GIÓ” CỦA TRÚC THÔNG
Lá ngô lay ở bờ sông
Bờ sông vẫn gió
Người không thấy về
Xin người hãy trở về quê
Một lần cuối... một lần về cuối thôi
Về thương lại bến sông trôi
Về buồn lại đã một thời tóc xanh
Lệ xin giọt cuối để dành
Trên phần mộ mẹ, vương hình bóng cha
Cây cau cũ, giại hiên nhà
Còn nghe gió thổi sông xa một lần.
Con xin ngắn lại đường gần
Một lần... rồi mẹ hãy dần dần đi.
Theo tôi, đây là bài thơ hay nhất của Trúc Thông. Bài thơ là
tiếng khóc thăm thẳm của người con mất mẹ, biết là mẹ không bao gìờ còn nữa mà
vẫn cầu xin một lần mẹ trở về: "Con xin ngắn lại đường gần/ Một lần... rồi
mẹ hãy dần dần đi..." Bài thơ tự nhiên và chân thành đến nỗi khiến tôi
không nghĩ anh đã làm ra thơ, mà chính "thơ đã làm ra anh". Tôi thuộc
ngay bài thơ đó khi đọc lần đầu tiên.
Nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo
Bài thơ tặng vợ
Mình vừa là chị là em
Tấm lòng người mẹ, trái tim bạn đời
Mai này tới phút chia đôi
Hai ta ai sẽ là người tiễn nhau?
Xót mình đã lắm thương đau
Tôi xin làm kẻ đi sau đỡ mình
Cuộc đời đâu phải phù sinh
Nước non chan chứa nghĩa tình mình ơi.
(Hồ Dzếnh)
Hồ Dzếnh được các nhà nghiên cứu văn hóa ghi nhận là một
trong các nhà thơ có chân tài. "Bài thơ tặng vợ" in trong Tuyển tập
thơ Việt Nam 1975¬2000, không ghi năm tháng sáng tác, nhưng cũng có thể đoán là
ông viết vào những năm cuối đời (từ 1985 đến 1990) ở cái tuổi con người đã phải
tính đến chuyện... “đi, ở". Chỉ có 4 câu lục bát với tám dòng thơ, ai yêu
thơ chỉ đọc hai lần là thuộc, Hồ Dzếnh đã thể hiện thanh thoát lòng yêu thương,
quý trọng người bạn đời của mình rất đằm thắm, da diết.
Nhà thơ Nguyễn Bùi Vợi
Mẹ qua những vần thơ Haiku
Mẹ là thơ. Mẹ và thơ mãi mãi khắn khít nhau như hình với
bong. Hình ảnh mẹ càng cần cù, mộc mạc bao nhiêu lại càng nên thơ bấy nhiêu. Trong ngôn ngữ thi ca của thế giới, dân tộc nào cũng có những vần thơ chứa chan
tình mẹ. Mẹ hiển hiện trên đường về, trên từng ngõ hồn sâu kín. Mẹ là chất liệu
kết tinh của tất cả những thiên anh hùng ca, những đại sử thi, những trường
thiên tình sử và cả trong những vần thơ Haiku đơn sơ, thâm thúy.
Với dân tộc Nhật Bản, Haiku được xem như tinh hoa của văn hóa
dân tộc. Dưới góc nhìn của Thiền tông, Haiku là thể thơ đặc biệt có thể hàm chứa
được thực tại nhiệm mầu trong vỏn vẹn 17 âm tiết, vừa sâu lắng uyên thâm, lại vừa
đơn sơ giản dị. Nghe qua, người ta khó tưởng tượng được rằng một thứ tình cảm dạt
dào, mơn man bất tận như tình mẹ lại có thể ẩn mình trong những vần thơ gãy gọn
nàỵ Không! Hoàn toàn ngược lại: Hình ảnh mẹ trong thơ Haiku lại càng bát ngát,
phiêu diêu hơn bao giờ hết.
Haiku (Hài cú) là thể thơ đặc biệt của Nhật Bản, kế thừa từ
các dạng liên ca truyền thống. Từ Haiku được rút gọn từ Haikai và Hokkụ Người
có công đầu lập nên con đường "Tiêu phong" (Shofu) này, và đưa đến đỉnh
cao nghệ thuật thi ca thế giới là Thiền sư Matsuo Bashọ
Sau Basho, có ba nhà thơ lớn của Haiku lần lượt xuất hiện, hợp
cùng Basho thành tứ trụ của Haiku Nhật Bản:
Basho 1644 -1694.
Buson 1716 -1784.
Issa 1762 - 1826.
Shiki 1867 - 1902.
Ngoài bốn vì sao đó, còn có vô số người đi theo con đường
này, họ đưa Haiku lên bình diện niềm vui nghệ thuật và lấy làm lẽ sống đời
mình, cũng như trà đạo, hoa đạo, nhu đạo... với một triết lý sâu thẳm hơn, có
thể gọi là Hài cú đạo (Haiku đô).
Ngoài những mảng đề tài về thiên nhiên, Haiku còn có đề tài về
mẹ. Hình ảnh Mẹ hiện lên với tất cả xúc cảm của khổ đau và vẻ đẹp nhẹ nhàng của
sự giải thoát, chúng ta sẽ tìm thấy ở thơ Issa và thơ Basho
Những hình ảnh vừa nhỏ nhoi vừa mong manh như hạt sương, giọt
lệ đến với thế giới thơ Haiku trở nên lung linh, vĩ đại, như ẩn chứa một linh
hồn.
Issa là người bất hạnh, năm lên 3 mất mẹ. Hơn ai hết, Issa hiểu
Mẹ quan trọng biết dường nào.
Một ngày hội, trẻ nhỏ nô đùa với bạn bè, tung tăng trong vòng
tay mẹ, Issa thấy mình lạc lõng cô đơn, nỗi buồn ập đến, và Issa tìm về với bầy
chim để được chia xẻ:
Ore to kite asobe yo oya no nai suzume. Đến đây nào, với tôi cùng chơi đùa chim sẻ không còn mẹ trên
đời (*)
Mất mẹ là mất đi một phần quan trọng tạo thành sự sống. Cuộc
đời Issa trở nên lang thang, lang thang khắp nước Nhật, kiếm sống đủ mọi nghề,
những vẻ đẹp trên đời dường như vô nghĩa đối với Issa, thậm chí còn như địa ngục
ám ảnh suốt cuộc hành trình:
Aki no kaze Gió ware wa nairu wa dono jigo ku
Gió mùa thu địa ngục nào đây cùng tôi giang hồ
Khi Issa có dịp trở về với biển, do ngoại dáng mênh mông và
mùi hương đậm đà vị mặn của biển, nhà thơ đã tìm thấy hơi ấm và tình thương của
mẹ:
Naki haha ya umi miru tabi na miru tabi ni
Mẹ yêu ơi! mỗi khi nhìn thấy biển khi thấy biển khơi
Một khám phá mới làm thăng hoa tâm hồn Issạ Mẹ được hóa thân
vể biển, một cảm giác vừa bao la của tình mẹ, vừa mặn mà ấm áp của vòng taỵ Về
với biển, Issa và Mẹ không còn ranh giới nữa, cùng hòa vào bản thể nhiệm mầu. Giờ
đây, trước mắt Issa, một Thiền sư, tất cả đều có cuộc sống, có Phật tính, có sự
bình đẳng trong ánh sáng và trong cát bụi. Nơi hạt bụi chứa tam thiên đại thiên
thế gión Mỗi hình ảnh pháp trần là hiện thân của Mẹ:
Tsuyu no tama hitotsu hitosu ni furusato ari
Ôi những hạt sương trân châu từng hạt hiện hình cố hương
Mẹ là tất cả, tất cả đều là hiện thân của Mẹ. Issa đã chấm dứt
nỗi cô đơn! Bên cạnh những bài thơ về mẹ của Issa, Basho cũng có một bài thơ về
mẹ rất xúc động:
Te ni toraba kien namida zo atsuki aki no shimo
Tóc mẹ còn đây tan trong lệ nóng sương mù thu bay
Một đoạn Basho viết trong cuốn nhật ký năm 1684 như sau:
"Cuối cùng tôi về đến quê nhà vào đầu tháng 9, cây hoa
hiên mà mẹ thường trồng trước phòng bây giờ không còn nữa, có lẽ đã chết vì
sương giá. Tất cả mọi thứ khác cũng đã đổi thay - Gương mặt anh tôi đã hiện nếp
nhăn trên trán và tóc bạc nơi thái dương.
Chúng ta vẫn còn sống, anh chỉ nói thế. Rồi, không lời nào nữa,
anh mở một chiếc túi kỷ niệm mà nói: Hãy nhìn mớ tóc sương của Mẹ đây nàỵ Đây là
chiếc hộp linh thiêng của Urashima đấy, ta cũng sẽ bạc đầu".
Urashima là chàng ngư phủ huyền thoại, đã cưới công chúa thủy
cung mà còn nhớ nhà. Chàng về quê, mang theo chiếc hộp của công chúa tặng, dặn
đừng mở ra, nhưng chàng đã mở, và tuổi già đã ập xuống, tức thì tóc bạc và da
nhăn.
Mỗi chúng ta là một Urashima, nghĩa là một kẻ nhớ cố hương,
muốn ngược thời gian để tìm lại mẹ. Nhà thơ, Urashima và chúng ta không thể
không mở chiếc hộp nàỵ
Tóc mẹ còn đây tan trong lệ nóng sương mùa thu bay
Basho đã khóc khi nhìn thấy tóc sương của mẹ, lệ nóng của nhà
thơ nhỏ xuống, và nhà thơ không dám nâng tóc mẹ lên vì sợ tóc ấy sẽ tan đi như
sương mùa thu. Tóc sương của mẹ và sương mùa thu lẫn vào nhau, chúng ta khó lòng
phân biệt được tóc mẹ tan hay sương mùa thu tan vì lệ nóng, có lẽ cả hai!
Mẹ không còn nữa! Nỗi dằn vặt giữa mất và còn làm những giọt
lệ hiếm hoi của Thiền sư rơi Để chuyển hóa nỗi đau, Thiền sư thi sĩ đưa mẹ về với
thiên nhiên, tóc mẹ trở về với sương mùa thu, tất cả hòa vào vũ trụ bao la ở thế giới vô ngã. Để rồi, nơi những cánh hoa đào, những bông tuyết tráng, những cỏ
cây... đều có phần của mẹ.
Mẹ không còn, nhưng bài thơ bất hủ của Basho, của Issa vẫn
còn đó. Nó tỏa những vầng sáng dịu hiền trên nền trời thi ca thế giới
Mẹ trở thành vĩ đại!
Ghi chú:
(*) Những vần thơ Haiku trong bài này đều do Phan Nhật Chiêu
dịch
(Theo Internet)
“Khoảng cách giữa lời” của Bằng Việt
Biết làm sao chúng quá nhiều lời
Ở những chỗ lẽ ra cần nói ngắn
Bao lần em phẳng lặng
Đủ khiến tôi bàng hoàng
Khi phần nói lấn hết phần được sống
Lấn hết mọi điều tiềm ẩn giữa câu
Thì vạn câu thơ cũng thành rẻ rúng
Liệu còn gì vang vọng ở trong nhau
Lời nói chẳng mất tiền mua
Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau
Bài học người xưa dạy càng chiêm nghiệm càng thấy thấm thía.
Đó là cách đối nhân xử thế giữa con người với con người trong xã hội. Trong
tình yêu và cuộc sống gia đình, lời nói là một trong những cách để gắn kết hơn
tình cảm. Trái lại, những ngôn từ mà người ta nghĩ rằng "lời nói gió
bay" lại khiến cho biết bao người phải suy ngẫm, trăn trở:
Biết làm sao chúng ta quá nhiều lời
Ở những chỗ lẽ ra cần nói ngắn
Trong cuộc sống đầy rẫy những phức tạp, những bộn bề, lo
toan, con người sao tránh khỏi phút buồn bực. Nỗi cáu giận đó lại chỉ có thể
trút vào lời nói, giải tỏa bằng lời nói. Thế mới gây ra nghịch lý "nhiều lời"
"ở những chỗ lẽ ra cần nói nói ngắn". Nghịch cảnh thay, có khi lại
là:
Bao lần em lẳng lặng
Sự thay đổi nhanh đến không ngờ như thế khiến "tôi bàng
hoàng". Làm sao có thể lý giải hết được là vì sao! Cuộc sống và lòng người
thật quá phức tạp. Trong tình yêu và cuộc sống gia đình, dù có yêu nhau đến mấy,
hiểu nhau đến mấy cũng không thể tránh khỏi những tình huống như vậy. Sự mâu
thuẫn trong một con người, một lời nói khiến người bạn đời của mình sững sờ, ngạc
nhiên và rồi băn khoăn khó hiểu tự hỏi lòng "biết làm sao". Những lúc
như thế người ta cần phải có cách ứng xử thật khéo léo, thật mềm dẻo để không
làm tổn thương đến tình yêu, tình cảm gia đình. Ngược lại, coi đó là một cách để
cùng hiểu nhau, xây dựng tình yêu bền vững.
Những chiêm nghiệm của "tôi" càng thêm sâu sắc và
có phần chua xót:
Khi phần nói lấn hết phần được sống
Lấn hết mọi điều tiềm ẩn giữa câu
Thì vạn câu thơ cũng thành rẻ rúng
"Khoảng cách giữa lời" mà Bằng Việt chỉ ra không gì
khác là "điều tiềm ẩn giữa câu". Những gì chất chứa, lắng đọng, ẩn
sâu mới là ý nghĩa thực và sâu xa của lời nói. Phần lắng sâu đó cũng như
"hạt ngọc minh châu ẩn giấu trong tâm hồn con người" (Nguyễn Minh
Châu) có phải ai cũng dễ dàng nhận ra! Nhất là trong những giây phút lòng người
không bình yên như thế thì thật khó. Bằng Việt có cách biểu đạt thật độc đáo:
"Thì vạn câu thơ cũng thành rẻ rúng". Thơ ca vốn được coi là mật ngọt
của cuộc sống, nơi hội tụ những tình cảm, cảm xúc chân thành trong những lời ngắn
gọn, hàm súc. Thực tế chua xót như thế thì những gì còn lại liệu có ý nghĩa gì?
Những băn khoăn của người trong cuộc mãi không thôi, lòng người đầy day dứt, trở
trăn:
Liệu còn gì vang vọng trong nhau
Câu thơ đượm buồn và nỗi niềm lo lắng. Chút "vang vọng ở
trong nhau" hay là sự tôn trọng, niềm tin yêu còn lại? Có thể lắm khi những
vang vọng không còn thì những lời lẽ kia trở thành kẻ thù của hạnh phúc, tình
yêu. Vì thế mà khoảng cách giữa lời cần phải có. Đôi khi khoảng lặng đó lại
giúp cho đôi lứa hiểu nhau nhiều hơn bới "Lá thư của trái tim được đọc
trong đôi mắt" (Tục ngữ Ai Len)
Tình yêu có muôn hình vạn trạng và ngôn ngữ tình yêu cũng
muôn màu muôn vẻ. "Khoảng cách giữa lời" của Bằng Việt khiến chúng ta
phải suy ngẫm, nhìn nhận lại cách cư xử của mình đâu chỉ đối với người mình
yêu, với gia đình mà với con người trong toàn xã hội.
Lời bình của Lê Thùy Linh
“TIẾNG THU” CỦA LƯU TRỌNG LƯ
Em không nghe mùa thu
Dưới trăng mờ thổn thức?
Em không nghe rạo rực
Hình ảnh kẻ chinh phu
Trong lòng người cô phụ?
Em không nghe rừng thu,
Lá thu kêu xào xạc,
Con nai vàng ngơ ngác
Đạp trên lá vàng khô?
(1939)
Bằng kết cấu cú pháp: điệp ngữ phủ định và câu hỏi tu từ,
"Tiếng thu" đã được Lưu Trọng Lư thể hiện tới toàn bích hơi thở của
văn học lãng mạn. Điệp ngữ phủ định "Em không nghe" được sử dụng làm
mô típ chính để phát triển toàn bộ cảm xúc của tác giả, gợi ra không khí quạnh
vắng cổ điển của Chinh phụ ngâm... Câu hỏi tu từ đã được tác giả sử dụng để gợi
ý, định hướng cho độc giả lắng về phía cô đơn ấy mà tác giả không muốn trực tiếp
trả lời. "Tiếng thu", tiếng của nỗi cô đơn, bơ vơ của con người thời
không phương hướng trong cảnh nước mất nhà tan, còn ẩn giấu một dự báo về sự
"cùng tắc biến" của xã hội ta thời ấy. Hãy lắng nghe "Tiếng
thu" mà thấy...
Nhà thơ Nguyễn Thụy Kha
“Gửi cô gái đỏng đảnh
của tôi” của Nguyễn Quang Hà
Em đừng tưởng chỉ mình em là thiếu nữ
Chỉ mình em mắt biếc với môi hồng
Cho em tha hồ tô son điểm phấn
Không có anh thì đẹp mấy cũng bằng không
Không có anh đam mê em làm gì bằng kiều diễm
Không có anh đắm say em đâu thấm men đời
Nói thật nhé, không có anh đối tác
Em sẽ vô tình như lá rơi.
Bỗng đâu anh biến mất giữa đời
Em sẽ thấy giường chiếu gối chăn là vô nghĩa
Em sẽ thấy thừa tay thừa chân thừa môi thừa má
Thấy đời vật vờ như hạt mưa bụi mồ côi
Em yêu ơi anh nói cho oách thôi
Anh sẽ chẳng là cái đinh gì nếu thiếu em đỏng đảnh
Và anh sẽ là một thằng trời đánh
Nếu bất đồ để em lọt khỏi tay
Nào hai đứa mình cứ bát ngát trời mây
Em như bán cầu Nam, anh như bán cầu Bắc
Khi chồng khít lên nhau thành trái đất
Một hành tinh xanh vi vu giữa vũ trụ, sinh thành
Bài thơ quen mà lạ. Trong đời, thiếu gì những cô gái đỏng đảnh.
Nguyễn Quang Hà "chơi" trực diện, thẳng thừng, không cần ý tứ, vòng
vo: Em đừng tưởng chỉ mình em là thiếu nữ/ Chỉ mình em mắt biếc với môi hồng/
Cho em tha hồ tô son điểm phấn. Hồn vía của bài thơ đã bộc lộ đầy đủ trong khổ
thơ này. Tác giả nêu lên một định đề về quan hệ xã hội. Cái định đề ấy chắc như
đinh đóng cột: Không có anh thì đẹp mấy cũng bằng không. Ừ nhỉ. Rồi chữ "đối
tác" mới cao thủ làm sao! Ngon xớt mà hợp tình, hợp cảnh, hợp lý. Và tiếng
"thừa" được lặp lại một cách cố ý, mỗi chữ đọc lên như nhói vào tim
cô gái một lần. Sự cô đơn mới thấm thía làm sao.
Hết khổ thơ thứ ba, nhà thơ có vẻ... run. Những từ
"oách", "cái đinh", "thằng trời đánh" là ngôn ngữ
đường phố được đặt vào đúng văn cảnh nên dễ chịu. Khổ thơ thứ tư thật xuất thần,
mê đắm. Sự tưởng tượng, so sánh rất khéo. Người viết có bản lĩnh mới dám dùng
những từ "nguy hiểm" là "chồng khít" ấy thoải mái. Đây là
bài thơ bắt được của nhà văn Nguyễn Quang Hà.
Nguyễn Bùi Vợi
“DẠ THƯA THẦY” CỦA VÕ THANH AN
Dẫu biết rằng: "Một sự nhịn là chín sự lành"
Dạ thưa thầy, con đã nhịn đến quên mình
Sao sự lành hiếm thế?
Vâng! Thì cõi luân hồi là bể dâu, dâu bể
Con vẫn nhớ lời thầy diệt oán bằng ân
Dạ thưa thầy, viên phấn trắng đã đổi màu
Ngày nay bảng đen có nơi thay tấm foóc mi ca màu trắng
Buộc lòng viên phấn là bút dạ màu đen
Run lên trước cuộc đời như đã từng run lên khi thầy kêu lên bảng
Dạ thưa thầy, con tin sự nhịn là cứu cánh
Bao giờ cuộc đời lành hơn?
Dạ thưa thầy...
Từ ngàn xưa Nhất tự vi sư, bán tự vi sư đã là một truyền thống
tốt đẹp của dân tộc ta. Và biểu hiện cao nhất của lòng kính trọng, biết ơn thầy
là luôn lắng nghe và làm theo lời thầy dặn. Không biết trong một hoàn cảnh cụ
thể nào mà người học trò nhỏ (sau này trở thành nhà thơ Võ Thanh An) được nghe
lời khuyên Một sự nhịn là chín sự lành của thầy nhưng chỉ biết lời khuyên ấy đã
đi theo nhà thơ suốt cuộc đời và anh đã cố gắng thực hiện lời khuyên ấy để mong
có một cuộc sống bình yên. Nhưng cuộc đời vốn đầy nghịch lý. Ngỡ rằng một nhịn
- chín lành, hóa ra nhiều lúc chín nhịn không được một lành. Thấm nhuần quan điểm
của Phật giáo: Kiếp người là cõi luân hồi đầy bể dâu, cần phải diệt oán bằng
ân, anh đã nhịn đến quên mình mà sự lành vẫn ít đến với anh. Phải chăng cuộc đời
đã đổi thay: viên phấn trắng được thay bằng bút dạ đen cho phù hợp với tấm bảng
fooc mi ca màu trắng, mà những quan điểm xử thế thày dạy ngày xưa không còn
phù hợp nữa? Nhưng những gì đã được gieo vào tâm hồn anh từ thuở ấu thơ, anh
không thể nào nhổ lên và vứt bỏ đi được. Quá nửa đời người bươn chải, anh phải
chịu phần thiệt thòi về mình, chỉ còn biết nuôi một niềm tin: sự nhịn là cứu
cánh, nuôi một hy vọng: cuộc đời sẽ lành hơn.
Giọng thơ chân thành như lời tâm sự của người học trò với thầy
giáo sau bao nhiêu năm xa cách, sao lại xao động lòng người đến thế. Sau bốn lần
Dạ thưa thầy để giãi bày tâm sự, đến lần thứ năm ngỡ như tác giả không còn cầm
lòng được nữa... May thay, bài thơ buồn mà không lụy, bởi tác giả đã biết nhen
lên ngọn lửa niềm tin: Bao giờ cuộc đời sẽ lành hơn?
Lê Quốc Hán
“DIÊM” CỦA NGUYỄN KIM ANH
Có người ví tình yêu như vỏ với que diêm
Nhưng em không nghĩ thế
Bởi que diêm chỉ một lần sáng lóe
Còn vỏ bao cháy đến trăm lần.
Em không thể là phần sẫm nơi vỏ kia
Nơi hết lần này đến lần sau lấp lánh
Rất đa tình rồi phụ bạc như không.
Nhưng em sẵn sàng làm chiếc que
Dám đốt cả trái tim diêm sinh bé xíu
Cháy đến tận cùng của thân tăm trắng trẻo
Dù kiếp tàn nhưng hiểu: Đã được yêu!
Dẫu cho anh có tham đến bao nhiêu
Và sau những cuộc tình chỉ dăm ba vết xước
Không oán hờn đâu vì em tin mình được
Chứ yêu nhiều, bạc phếch có gì đâu.
Nếu muốn suốt đời ở mãi bên nhau
Thì câu ví kia xin người rút lại
Bởi cái ngắn ngủi khác xa cái còn mãi mãi
Mà tình yêu cần đi suốt cuộc đời.
Khi viết bài thơ này, tác giả chắc còn rất trẻ và chưa phải
đã quen thuộc với thơ ca.
Bài thơ có chỗ còn hơi vụng về, câu chữ chưa thật nhuần nhuyễn,
nhưng toát lên một sức sống mãnh liệt, một tình cảm cháy bỏng, trẻ trung,
nguyên sơ, thô nháp.
Tác giả không đồng ý với so sánh tình yêu như vỏ và que diêm:
Bởi que diêm chỉ một lần sáng lóe
Còn vỏ bao cháy đến trăm lần.
Và cũng thêm lý do này nữa:.
Bởi cái ngắn ngủi khác xa cái còn mãi mãi
Mà tình yêu cần đi suốt cuộc đời.
Như thế, bắt nguồn từ một nhận thức về tình yêu, tác giả đã
biết xoáy vào hình tượng que diêm và vỏ diêm để bày tỏ nỗi lòng mình. Và đó là
một nỗi lòng đầy trách nhiệm, đầy đam mê. Dám yêu và dám đốt cháy hết một lần
cho tình yêu đích thực:
Nhưng em sẵn sàng làm chiếc que
Dám đốt cả trái tim diêm sinh bé xíu
Hình ảnh chiếc đầu que diêm được nhìn nhận như trái tim bé
xíu quả là một sáng tạo đáng trân trọng. Nó làm cho que diêm sống động hẳn lên.
Cách nhìn được như thế hẳn không phải nhìn bằng mắt!
Yêu mến, trân trọng que diêm "sáng lóe một lần" bao
nhiêu thì tác giả khinh ghét, rẻ rúng sự "lấp lánh" "đến trăm lần"
ở "phần sẫm nơi vỏ kia"!
Nơi hết lần này đến lần sau lấp lánh
Rất đa tình rồi phụ bạc như không.
Cái được và mất không tính theo thời gian. Một giây là cả cuộc
đời. Tham lam nhiều hóa ra nhạt nhẽo cả thôi!
Chứ yêu nhiều, bạc phếch có gì đâu!
Một nhận xét, hay là lời chê trách? Thật thảm hại cái hình ảnh
và mầu sắc vỏ diêm sau bao lần "lấp lánh"!
Với tình cảm chân thật và đam mê cháy bỏng, tác giả dường như
đã hóa thân thành que diêm. Và que diêm đó sáng chói chân lý của tình yêu đích
thực: Đó là sự hết mình.
Hóa ra, vấn đề "bàn thêm" của bài thơ lại trở thành
chủ đề chính. Phủ nhận so sánh diêm và vỏ diêm với tình yêu hóa ra lại làm cho
tình yêu được nhìn nhận sáng rõ hơn qua chiếc que diêm nhỏ bé mà có trái tim với
những vết xước sau một cuộc tình nơi vỏ diêm trăm lần lấp lánh...
Cái "đắt", "độc" của bài thơ cũng còn là ở
đó nữa.
Lời bình của Phạm Đức
Người đàn bà trong thơ Ý Nhi
Có lẽ chẳng cần thiết viết đôi dòng giới thiệu, bởi nhà thơ Ý
Nhi đã có hẳn một bài Tiểu dẫn về người đàn bà trong thơ của chị. Tôi chỉ xin lược
ghi những điểm chính: người đàn bà không ưa đồ trang sức kể cả nhẫn vàng và các
chức năng; không coi tất cả đều quan trọng cũng không xem thường mọi thứ, rất
ít bạn bè và không thường giao du với các đồng nghiệp; ngại các tiệc vui, nhiều
khi khóc vì chính cái khiến mọi người chung quanh vui sướng và lại muốn thét
lên khi mọi người yên lặng; yêu thơ Nguyễn Du và Nguyễn Gia Thiều. Và là người
đã bị lừa dối, phản trắc, đã được tin cậy yêu thương, đã lội qua bùn, đã đi
trên cát, đã tới những ngõ cụt và cũng đã tới biển.
Vâng! Đó là người đàn bà mà ta gặp trong các tập thơ: Trái
tim và nỗi nhớ (in chung), Đến với dòng sông, Người đàn bà ngồi đan, Ngày thường...
của nhà thơ ý Nhi - người con của mảnh đất "chưa mưa đà thấm..."
Mang trong mình trái tim phụ nữ, người đàn bà của chị cũng chịu
thương, chịu khó như bao người mẹ, người vợ, người chị mà ta đã gặp ngoài đời.
Ngày thường cũng loay hoay với bao công việc của gia đình, xã hội:
Loay hoay trang sách cũ lời bình từ năm xưa thơ cộng tác viên
dày cộp đọc từ mùa nắng sang mùa mưa quần của con cần xuống gấu gạo hết lo xếp
hàng
(Ngày thường)
Và cũng giữ lấy sự thăng bằng trong cuộc sống để làm tròn
thiên chức của người vợ, người mẹ. Thế nhưng người đàn bà đó đã có một thời
trai trẻ
"chân đi qua gai góc những dặm đường", đi qua cuộc
chiến đẫm máu và nước mắt, đi qua ranh giới mong manh của sự sống và cái chết:
Nơi bom nổ trơ vơ thành Đồng Hới em đắp đường, vá áo tóc vàng
hoe (Quảng Bình)
Để rồi "sau xa cách lặng im, không hò hẹn" của thời
bình, ngày trở về sững sờ và "chợt hiểu giữa cuộc đời ta sống, có những điều
chưa thể nhận ra đâu"
Từng trải và ý thức rất rõ về cuộc đời mình, người đàn bà
trong thơ ý Nhi giống như một vận động viên "trong những cuộc thi của đời
mình" mà cơn khát và tiếng súng lệnh hầu như bao giờ cũng đến cùng một
lúc, để rồi:
giữa hàng vạn người riêng mình chị biết không phải chỉ vượt
qua thời gian vượt qua những đối thủ chị phải vượt qua cơn khát luôn dày vò như
một chứng bệnh một nỗi đau tinh thần (Vận động viên)
Phải chăng khi "mỉm cười đáp lại niềm hân hoan của hàng
vạn người xem" chị đã giấu vào bên trong "nỗi đau của chị, sự dày vò
của chị"?
Khát khao đi tìm vẻ đẹp đích thực, chân giá trị của cuộc sống,
nhà thơ ý Nhi đã thực sự nhẫn nại tạo dựng trong thơ mình hình tượng người đàn
bà sống chân thật, không giả dối, nửa vời...; "chấp nhận cái nghèo, chấp
nhận đơn độc như người ta chấp nhận cái khuôn mặt vốn có của mình" (Gửi bạn).
Sống thâm trầm, lặng lẽ nhưng lại rất tỉnh táo nhận biết những mâu thuẫn, những
đối lập trong từng số phận. Chị đã tìm thấy vẻ đẹp của người nghệ sĩ khi cố thu
mình lại "tránh hết mọi chào mười đưa đón, xa lạ với những khen chê báo
chí, những tranh luận dài dòng, xa lạ chức tước, tiếng tăm" để có thể: đến gần cái đẹp đến gần các nguyên mẫu không ràng buộc không
tô vẽ (Họa sĩ)
Biết sống và chiêm nghiệm những được mất, hơn thua của đời
người, người đàn bà đó có được sự cảm thông và biết chia sẻ những cay đắng và bất
hạnh của con người:
Chợt đằng sau ánh nhìn gay gắt nọ tôi nhận thấy nỗi u buồn. Đằng
sau những lời lẽ ồn ào, cay nghiệt tôi nhận biết nỗi cô đơn (Cái chết của nhà thơ)
"Cầm giữ lẽ phải trong đôi tay của mình và đưa cao lên
mãi mãi", chị đã đi đến cùng của sự tương phản, cái đối chọi của cuộc sống
mà phân biệt trắng đen, thật giả... để có một lần "đứng nghiêm trang trước
cát bạt ngàn" phát biểu quan điểm nghệ thuật của mình:
Dù chỉ có một lần bước đi trên cát nóng chỉ một lần hiểu thấu
khúc ca kia suốt đời tôi chẳng thể bao giờ đặt bút viết những điều dối trá (Cát)
Dường như người đàn bà mà ta gặp trong thơ của ý Nhi là bóng
dáng của con người chị - Cái hình hài được tái sinh cùng với ước muốn tận hiến,
dâng tặng cả niềm vui, nỗi buồn cho cái đẹp của cuộc sống.
Biết có ai trong chúng ta - những bạn đọc yêu quý của chị - cảm,
hiểu và có tiếng nói tri âm khi đọc thơ chị? Giá mà có thể "đọc" được
những nỗi niềm giấu đằng sau "vẻ vừa vội vã vừa nhẫn nại" của Người
đàn bà ngồi đan:
Giữa chiều lạnh
Người đàn bà ngồi đan bên cửa sổ
Dưới chân chị
Cuộn len như quả cầu xanh
Đang lăn những vòng chậm rãi.
(Người đàn bà ngồi
đan)
Lời bình của Nguyễn Mậu Hùng Kiệt
NGỒI BUỒN NHỚ MẸ TA XƯA
Bần thần hương huệ thơm đêm khói nhang vẽ nẻo đường lên niết
bàn chân nhang lấm láp tro tràn xăm xăm bóng mẹ trần gian thuở nào.
Mẹ ta không có yếm đào nón mê thay nón quai thao đội đầu rối
ren tay bí tay bầu váy nhuộm bùn áo nhuộm nâu bốn mùa...
Cái cò... sung chát đào chua câu ca mẹ hát gió đưa về trời ta
đi trọn kiếp con người cũng không đi hết những lời mẹ ru.
Bao giờ cho đến mùa thu trái hồng trái bưởi đánh đu giữa rằm
bao giờ cho tới tháng năm mẹ ta trải chiếu ta nằm đếm sao
Ngân hà chảy ngược lên cao quạt mo vỗ khúc nghêu ngao thằng bờm
bờ ao đom đóm chập chờn trong leo lẻo những vui buồn xa xôi
Mẹ ru cái lẽ ở đời sữa nuôi phần xác hát nuôi phần hồn bà ru
mẹ... mẹ ru con liệu mai sau các con còn nhớ chăng.
Nhìn về quê mẹ xa xăm lòng ta - chỗ ướt mẹ nằm đêm mưa ngồi buồn
nhớ mẹ ta xưa miệng nhai cơm búng lưỡi lừa cá xương...
(Nguyễn Duy)
Trông ra bờ ruộng
Trông ra bờ ruộng năm nào
Mưa bay trắng cỏ, cào cào cánh sen
Mẹ tôi nón lá bước lên Mạ non đầu hạ, trăng liềm cuối thu
Quanh quanh vẫn một mảnh bờ
Bao nhiêu toan tính đến giờ chưa yên
Mẹ tôi gạt cỏ bước lên
Cỏ dày, cây lúa phải chen nhọc nhằn
Xòe tay tính tháng tính năm
Tính người, nào biết xa xăm cõi người
Gié thơm ai đã gặt rồi
Đồng quang, bóng mẹ nắng nôi một mình
(Hữu Thỉnh)
Trong các bài thơ lục bát thời hiện đại, tôi đặc biệt cảm động
và cảm phục hai bài thơ của hai tác giả: Bài "Ngồi buồn nhớ mẹ ta
xưa" của Nguyễn Duy và bài "Trông ra bờ ruộng" của Hữu Thỉnh. Quả
thực, tôi không biết bài thơ nào hay hơn bài thơ nào. Nguyễn Duy thì Nhìn về
quê mẹ xa xăm qua những chờn vườn của Khói nhang vẽ nẻo đường lên niết bàn; còn
Hữu Thỉnh lại Trông ra bờ ruộng năm nào với đôi mắt đau đáu dáng Mẹ tôi nón lá
bước lên. Giữa một người mẹ đã lên niết bàn và một người mẹ đang bước lên bờ ruộng -
đành lòng, tôi không thể xếp bài thơ nào hay hơn.
Mẹ của Nguyễn Duy đội nón mê, còn mẹ của Hữu Thỉnh thì đội
nón lá, từ bao đời nay vẫn thế - các bà mẹ Việt Nam vẫn chỉ lấy cây lá trong vườn
để che nắng che sương. Bà mẹ nón mê nhắn các con:
Mẹ ru cái lẽ ở đời sữa nuôi phần xác hát nuôi phần hồn
Bà mẹ nón lá xòe hai bàn tay nhọc nhằn của mình ra và đếm:
Quanh quanh vẫn một mảnh bờ
Bấy nhiêu toan tính đến giờ chưa yên
Một mẹ yên nghỉ trong cõi vĩnh hằng và một mẹ nữa vẫn chưa
yên trước mạ non đầu hạ, trăng liềm cuối thu. Cùng dùng hai tiếng xa xăm, Nguyễn
Duy thì viết:
Nhìn về quê mẹ xa xăm lòng ta - chỗ ướt mẹ nằm đêm mưa
Còn đây là Hữu Thỉnh:
Xòe tay tính tháng tính năm
Tính người, nào biết xa xăm cõi người
Một đằng là xa xăm của đất đai quê hương, một đằng là xa xăm
của biền biệt cõi người - Quả thực tôi nào rõ, nào hay cái xa xăm nào là xa xăm
hơn....
Lời bình của Hoàng Nhuận Cầm
“ĐỐC THÚC” CỦA E. BAGRIANA
Khi em hờn tủi, ốm đau Xin anh đừng đến... lụy sầu sang anh
Một mình chịu khổ, cũng đành! Thú kia giấu vết thương mình hang sâu Một mình liếm
lám niềm đau Một mình gồng sức phía sau gian phòng Lệ ngưng chảy thấm vào lòng
Bao nhiêu máu độc lại hồng qua tim Gieo thành ngôn ngữ lặng im Nơi xa anh có
nghe em tự tình? Đã quen đau khổ một mình Sầu em trĩu xuống vai anh làm gì Trán
đừng nhăn nếp nghĩ suy Thôi đừng tóc rũ hàng mi muộn phiền Một mình chịu khổ đã
quen Nhưng khi vui sướng lại thèm có anh Rót vui từ trái tim mình
Sang tim anh để vẹn tình lứa đôi
Tràn đầy giếng mắt em vui
Mắt anh phản chiếu, với lời hát em
Từ đôi môi mọng dịu mềm
Câu ca đậu xuống êm đềm môi anh
(Lữ Huy Nguyên dịch)
Giới mày râu thường phàn nàn rằng: phụ nữ lắm lúc thật là khó
hiểu, khi mình quan tâm tới họ thì họ tránh né, khi không quan tâm thì họ lại tỏ
ra không vừa ý. Thật chẳng biết đâu mà lường! Vậy phải làm thế nào đây? Có lẽ
bài thơ "Đối thúc" của E. Bagriana sẽ phần nào giúp phái mạnh hiểu được
tâm tư, tình cảm của chị em phụ nữ.
Xét về cấu trúc, bài thơ được chia làm hai phần tương ứng với
hai nửa tâm trạng của người con gái: khi đau buồn, cô cố gắng chịu đựng một
mình; còn khi vui, cô lại muốn san sẻ niềm vui với người yêu. Hai tâm trạng ấy
thoạt liên tưởng chừng như trái ngược nhau, đối lập nhau nhưng thực chất chúng
là hai nửa bổ sung cho nhau, hòa vào nhau trong trái tim cô gái. Mở đầu bài
thơ, cô đã lên tiếng với một giọng thiết tha, gần như là van lơn:
Khi em hờn tủi, ốm đau
Xin anh đừng đến... lụy sầu sang anh
Một mình chịu khổ, cũng đành!
Thường thường, đối với phụ nữ, những khi buồn bã, đau ốm, họ
không muốn người yêu của mình phải nhìn thấy mình trong bộ dạng sầu não, tiều
tụy. Nhưng hơn thế là họ không muốn người yêu cũng phải sầu não, phiền muộn
thay mình. Bởi vậy, họ thường ép lòng, nín nhịn, chịu đựng một mình. Ở đây nhà
thơ Bagriana đã cụ thể hoá sức chịu đựng của cô gái thông qua hình ảnh so sánh
"Thú kia giấu vết thương mình hang sâu". Nếu như loài thú kia khi bị
thương thường đơn độc tìm tới một cái hang thật sâu, ẩn mình ở đó, liếm láp vết
thương cho đến khi nào khỏi mới thôi, thì cô gái trong bài thơ cũng vậy.
Những lúc như thế, ai dám bảo phụ nữ là yếu đuối? Không! Có
những lúc họ yếu đuối như người ta vẫn hằng nghĩ về họ. Có chăng chỉ là một
chút yếu mềm thoảng qua trong lòng (yếu mềm chứ không phải là yếu đuối). Người
ta thường nói những lúc cô đơn, yếu mềm, mà cảm thấy sợ hãi thì hay nói thật
to, thật nhiều để xóa đi nỗi sợ. Có lẽ bởi vậy mà ta chỉ nhận ra một chút yếu mềm
ấy trong lòng cô gái thông qua việc tác giả sử dụng điệp ngữ "một
mình" hay "một mình chịu khổ, cũng đành!", "Đã quen đau khổ
một mình", "Một mình chịu khổ đã quen". Dường như cô đang muốn
khẳng định lại sức chịu đựng của mình đồng thời để trấn an lòng mình. Nhưng
nhìn chung, ta vẫn không thể phủ nhận được một sức mạnh phi thường đang ẩn chứa
trong lòng cô. Chúng ta cũng đã từng được biết chính sức mạnh ấy đã đem lại cuộc
sống tự do và hạnh phúc đến cho My trong truyện ngắn "Vợ chồng A Phủ"
của Tô Hoài. Và giờ đây cũng chính là cái sức mạnh tiềm tàng ấy đã giúp cho cô
gái của Bagriana vượt qua được mọi đớn đau về thể xác:
Một mình liếm lám niềm đau
Một mình gồng sức phía sau gian phòng
Điều gì đã mang lại cho cô sức mạnh phi thường ấy? Phải chăng
là tình yêu? Chỉ có tình yêu chân thành, không vị kỷ mới là sức mạnh giúp cô
chiến thắng mọi nỗi đau. Ngược lại, mọi nỗi đớn đau được cô dồn nén lại rồi
chuyển hoá thành thứ ngôn ngữ của tình yêu, để bồi đắp cho cây tình yêu thêm
xanh tốt:
Bao nhiêu máu độc lại hồng qua tim
Gieo thành ngôn ngữ lặng im
Nơi xa anh có nghe em tự tình?
Nhờ vậy mà mặc dù ở xa, cô vẫn có thể trò chuyện, tâm sự cùng
người mình yêu. Nếu biết cô đang ốm đau, buồn tủi, liệu chàng có yên lòng
không?... Chắc là chàng sẽ lo nỗi lo của cô! Chàng sẽ đau với nỗi đau của cô! Vậy
thì vì cớ gì cô lại gieo vào lòng chàng bối bận tâm ấy?
Biết là khi mình tránh né có thể người yêu sẽ giận dỗi, hoặc
lo âu, phiền muộn, cô đã nhẹ nhàng lên tiếng:
Đã quen đau khổ một mình
Sầu em trĩu xuống vai anh làm gì
Trán đừng nhăn nếp nghĩ suy
Thôi đừng tóc rũ hàng mi muộn phiền
Nghe được những lời nói chứa đầy tình cảm này liệu người yêu
cô còn có thể phiền muộn được nữa không?
Nếu như nhịp thơ đều, chậm ở đoạn thơ đầu rất phù hợp với tâm
trạng buồn bã, trầm lắng thì sang đến đoạn thơ thứ hai nhịp thơ nhanh, không đều
lại phù hợp với tâm trạng vui tươi của cô gái. Những khi ốm đau, buồn tủi, cô cố
gắng nín nhịn, chịu đựng một mình, ấy vậy mà khi có chuyện gì đó vui vẻ thì cô
lại không thể giấu, không thể vui vẻ một mình được. Vậy mới nói phụ nữ quả thật
là lạ!
Một mình chịu khổ đã quen
Nhưng khi vui sướng lại thèm có anh
Rót vui từ trái tim mình
Sang tim anh để vẹn tình lứa đôi
Khi đem niềm vui cùng chia sẻ với người yêu, niềm vui trong
cô như được nhân lên gấp bội. Tràn ngập trong niềm vui, tràn ngập trong ánh mắt
thương yêu của người bạn trai, tâm hồn cô như được chắp thêm đôi cánh để bay
lên giữa không gian rộng lớn của niềm hạnh phúc:
Tràn đầy giếng mắt em vui
Mắt anh phản chiếu, với lời hát em
Và rồi lời ca tiếng hát càng góp phần làm cho hạnh phúc của họ
được trọn vẹn hơn, dịu êm hơn:
Từ đôi môi mọng dịu mềm
Câu ca đậu xuống êm đềm môi anh
Đọc thơ của Bagriana, ta thấy ở hồn thơ của bà có một chút gì
đó tương đồng với hồn thơ của Xuân Quỳnh mặc dù họ là hai người phụ nữ ở hai đất
nước khác nhau và đặc biệt là họ sống cách xa nhau cả thế kỷ. Phải chăng đó là
những tâm hồn phụ nữ yêu thương nồng nhiệt, lúc nào cũng dành trọn tâm sức để
chi chuốt cho cái hạnh phúc bình dị của đời thường?
Tóm lại, tình yêu luôn có quy lụât riêng của nó. Nếu ta chỉ
biết lý giải những vấn đề của tình yêu như những vấn đề thông thường khác trong
cuộc sống thì quả là rất khó khăn. Nhưng nếu ta biết dùng ngôn ngữ của tình
yêu, biết lắng nghe tiếng nói từ chính trái tim yêu thương chân thành thì ta sẽ
dễ dàng có được lời giải đáp xác đáng.
(Mai Dịch, tháng
5/2002)
MẸ
Con về thăm mẹ chiều mưa
Mới hay nhà dột gió lùa bốn bên
Hạt mưa sợi thẳng sợi xiên
Cứ nhằm vào mẹ những đêm trắng trời
Con đi đánh giặc một đời
Mà không che nổi một nơi mẹ nằm
(Tô Hoàn - Tuyển tập
thơ lục bát Việt Nam tái bản-2000)
Bài thơ này vừa được tuyển chọn vào "Tuyển tập thơ lục
bát Việt Nam" tái bản tháng 7 năm 2000, Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin ấn
hành.
Chúng tôi có bài thơ này nhờ một lần nhà thơ quân đội Trần
Đăng Khoa chép và gửi cho báo Giáo dục và Thời đại. Khoa bảo: "Bài thơ in ở
báo Quân khu 3, Khoa nhớ và chép cho anh". Tôi sững người vì tiếc. Giá bài
thơ được in vào trang thơ dự thi của báo chí thì giải là cầm chắc. Hôm Trần
Đăng Khoa đưa bài "Mẹ", cuộc thi đã khép lại rồi! (cuộc thi thơ lục
bát, báo Giáo dục và Thời đại).
Đây là một bài thơ hay với mọi người đọc dù người đó thích
thơ truyền thống hay thơ hiện đại, dù người đó thích thơ Việt vần điệu mượt mà
ngân lên như hát hay theo thứ thơ "lai Tây" lủng ca lủng củng, lục cục
lào cào! Bài thơ hay vì nó giản dị, ít lời và truyền cảm.
Con về thăm mẹ chiều mưa
Mới hay nhà dột gió lùa bốn bên
Cái "chiều mưa" đúng là cái kíp nổ của bài thơ. Nếu
hôm anh về thăm mẹ mà trời nắng thì tinh ý một chút anh cũng có thể biết là nhà
dột nhưng không cảm được tận đáy lòng cái nỗi.... dột này!
Câu thơ có một chút thảng thốt ở hai từ "mới hay".
Thì ra trước đây, anh không biết gì, anh cứ tưởng...
Cái sự "gió lùa bốn bên" là anh viết thật. Mái dột
nhưng cả phên cũng rách thì gió mới "lùa bốn bên" được, nghĩa là cái
nhà của mẹ thật tồi tàn.
Hai câu tiếp theo thật rát:
Hạt mưa sợi thẳng sợi xiên
Cứ nhằm vào mẹ những đêm trắng trời
Hình như có bản đâu đó in "Hạt mưa sợi đứng, sợi
xiên", cũng không sao vì sắc thái biểu cảm của câu thơ không thay đổi. Người
đọc cảm thấy những hạt mưa ấy cũng đang làm buốt lòng mình. Đời người ta có khi
ăn mặc đói rách nhưng trời còn cho ngủ ngon lấy sức, đằng này mưa dột, giọt mưa
hắt, bắn vào người làm cho mẹ không ngủ được mà ác nghiệt thay, đấy là những
"đêm trắng trời" mẹ nằm nhớ đứa con đi đánh giặc ở chiến trường xa!
Câu kết như một niềm ân hận và cao hơn nữa là một sự phản tỉnh
của lương tri:
Con đi đánh giặc một đời
Mà không che nổi một nơi mẹ nằm
Người con thương mẹ, giật mình mà nói vậy chứ đâu chỉ có lỗi
của anh? Câu thơ ghim vào lòng người đọc, vào mỗi chúng ta, nhắc chúng ta rằng
hạnh phúc của con người thiết thực, cụ thể, có khi tưởng là nhỏ bé nhưng thật
ra lớn lao vô cùng. Có khi ai đó mơ ước những cái cao xa trên chín tầng mây mà
quên đi mái nhà còn dột của người mẹ chiến sĩ.
Tác giả bài thơ này - nhà thơ Tô Hoàn là một sĩ quan cấp tá về
hưu ở Bắc Giang. Tôi chưa gặp anh lần nào nhưng cũng đã hơn một lần đồng cảm với
những nỗi niềm nhân bản trong thơ anh.
Bài thơ đi cheo leo trên một sợi dây mỏng mảnh, một bên là
thơ lục bát và một bên là một bài ca dao mới. Nó là bài thơ lục bát vì cái tứ
thơ rất rõ. Chỉ có ba cặp lục bát không hơn không kém mà nó nói được với chúng
ta bao nhiêu điều về tình mẹ con, về hậu phương và tiền tuyến.
Ám ảnh và day trở, bài thơ hay vì được viết ra bằng một phút
xuất thần của tác giả. Đọc xong, người đọc có thể nghĩ: hay quá nhưng cũng... dễ
quá, có gì cao siêu đâu nhỉ mà sao mình lại không nghĩ ra?
Lời bình của Nguyễn Bùi Vợi
“VỚI ANH” CỦA PHẠM THU YẾN
Dẫu biết rằng anh rất yêu em
Vẫn có lúc lòng em trống trải
Yêu em đấy nhưng lòng anh e ngại
Trái tim đa cảm nơi em
Biết làm sao em vẫn dễ vui buồn
Rưng rưng mãi trước một bài hát cũ
Một câu thơ hay trái tim nức nở
Khát khao bao nhiêu trước một buổi bình minh
Em sẽ ra sao nếu chẳng là mình
Quên lãng hết ước mơ thời thiếu nữ
Chỉ làm ăn, nuôi con, giặt giũ
Chắc chẳng còn đáng được anh yêu
Nếu cho em làm lại từ đầu
Người em chọn vẫn chỉ là anh đấy
Anh là cuộc đời em, giản đơn sâu sắc vậy
Bài thơ bình ở đây nếu kỹ tính chắc chưa thể ưng ý để gọi là
một bài thơ hay theo nghĩa toàn bích. Bài thơ còn ở dạng khá đơn giản (không phải
là giản dị), các ý tưởng được trình bày trực tiếp bằng ngôn ngữ của tác giả chủ
yếu lại là thứ ngôn ngữ khái niệm, ít hình tượng và các thủ pháp nghệ thuật.
Bài thơ “Với anh” của Phạm Thu Yến không tràn ngập cảm xúc, cũng không nói lên
một điều gì mới mẻ, tuy nhiên phải công nhận rằng đây là một ý tưởng hay, ý thú
và bổ ích nhãn tiền trong đời sống tình cảm gia đình. Và với vẻ thành thực, dịu
dàng rất phụ nữ, bài thơ đã đặt ra và giải quyết được một trong những tình huống,
hay đúng hơn là một tâm thế rất thường gặp trong quan hệ vợ chồng, người yêu.
Xét trên phương diện ấy, có thể nói tác giả đã thành công và như thế cũng đã là
đủ cho một bài thơ.
Bài thơ không những nhắc ta phải biết quý trọng thế giới
riêng cũng như bản sắc tâm hồn của người mình yêu mà còn khuyến cáo ta phải biết
giữ lấy những nét riêng và bản sắc ấy trong suốt cuộc sống chung đôi, vì một
trong những bản chất làm nên sức kỳ diệu không cùng của tình yêu chính là sự bí
ẩn của cả thể xác lẫn tâm hồn
Tô Hoàn
Khi lấy anh, chị mười tám tuổi
Hai mươi năm cài then cửa chờ chồng
Hai mươi năm nước mắt đầm áo gối
Đêm mùa nào với chị cũng mùa đông
Mỗi ngày nhớ mỏi mòn đôi mắt chị
Hai mươi năm mong một lá thư về
Hai mươi năm chờ tay anh gõ cửa
Ngọn đèn đùa lừa chị những canh khuya
Người vợ xưa chờ chồng hoá đá
Nước mắt rơi núi trắng sương mù
Chị chờ anh buồn đau hơn kiếp đá
Ôi cuộc đời đâu cần lắm Vọng Phu
Dường như đối với các văn nghệ sĩ, người mẹ, người chị là cả
một niềm thơ. Nếu như khi hướng về mẹ, ngòi bút của họ thường rưng rưng, cung
kính, thì khi đối với chị, đó là cả một niềm trân trọng, thiết tha. Ngay cả
trong một bài thơ đầy bi phẫn và quyết liệt như "Tống Biệt hành", người
ly khách ấy khi nhắc về chị cũng ngậm ngùi thương cảm, xót xa. Ta đã từng có một
người chị giàu đức hy sinh như "Chị tôi" của Trọng Đài, của Ngọc
Châu, nay lại gặp một "chị tôi" rất đỗi phiền ưu của Tô Hoàn. Người
chị ấy không đau nỗi đau muộn mằn, mà người chị ấy đau vì nỗi phải làm người
chinh phụ trông chờ một khách chinh phụ đằng đẵng, biền biệt... Bên cạnh đó,
hình ảnh người chinh phụ khắc khoải bóng kẻ chinh phu không biết tự lúc nào đã
trở thành nguồn cảm tác của bao thế hệ thi nhân, nổi tiếng là "Chinh phụ
ngâm" của Đoàn Thị Điểm, hay một nét cảnh trong "Tiếng thu":
Em không nghe rạo rực
Hình ảnh kẻ chinh phụ
Trong lòng người cô phụ
(Lưu Trọng Lư)
Và đặc biệt, nhà thơ Hữu Loan đã từng cảm thán:
Ôi lấy chồng chiến binh
Lấy chồng thời chiến chinh
Mấy người đi trở lại?
Sợ khi mình đi mãi
Sợ khi mình không về
Thì thương người vợ bé nhỏ....
(Chuyện hoa sim)
Thế nhưng, "người em nhỏ hậu phương" trong "Chuyện
hoa sim" đã ngã xuống, thể hiện sự tàn bạo của chiến tranh, để lại bao đau
đớn, xót xa cho "người trai khói lửa". Người con gái ấy đã ngã xuống,
thanh thản, nhưng còn người chinh phụ trong "Mong chờ" không được sự
thanh yên đó, chị đã phải sống, sống lay lắt, sống mòn trong một niềm hy vọng,
một niềm tin vô bờ với người viễn phu.
Tuy gọi người cô phụ ấy bằng "chị", nhưng chắc gì
người phụ nữ ấy thực sự là chị của nhà thơ? hay đó chỉ là một thủ pháp nghệ thuật
tăng niềm xúc cảm cho bài thơ? hoặc là nhà thơ đã cảm kích trước tấm lòng son sắt
của người chinh phụ để rồi trân trọng gọi bằng "chị" với một niềm
kính thương tha thiết?
Khi lấy anh, chị mười tám tuổi
Hai mươi năm cài then cửa chờ chồng
Hai mươi năm nước mắt đầm áo gối
Đêm mùa nào với chị cũng mùa đông
Ngày lấy chồng, chị vừa trong xuân sắc. Thế nhưng, trong thời
binh loạn, hạnh phúc chung đã mất thì hạnh phúc riêng đâu còn. Anh bồng súng đi
gìn giữ hạnh phúc lớn của đất nước, và cũng để bảo toàn hạnh phúc con của mình.
Thời chinh chiến, người ta không đo thời gian bằng ngày nữa, người ta cũng chẳng
đo bằng năm, mà là chục năm. Và chị, ngót 20 năm trời, búi tóc chờ chồng. 20
năm, đó là một khoảng thời gian không dài nếu so với thời gian trường kỳ kháng
chiến, nhưng cũng chẳng phải là ít đối với một đời người, nhất là đối với tuổi
xuân. Đối với phụ nữ bây giờ, thời gian quả là kẻ thù của sắc diện, nhưng vào
cái thời ấy, thời gian chính là kẻ thù của lòng tin. 20 năm đằng đẵng trôi qua,
mà bóng anh vẫn mịt mù nơi góc biển. Thương thay người cô phụ quạnh quẽ phòng
không, lạnh lẽo một mình. Thế cho nên:
Hai mươi năm cài then cửa chờ chồng
Hai mươi năm nước mắt đầm áo gối
Đêm mùa nào với chị cũng mùa đông
"Hai mươi năm cài then cửa chờ chồng", câu thơ ấy
không thuần chỉ thông tin về chị, không chỉ là một câu thơ "vật liệu"
để xây dựng bài thơ. Câu thơ ấy sâu sắc biết bao, nó ca ngơi lòng thuỷ chung,
son sắt, một lòng một dạ của người chinh phụ. câu thơ ấy là hàm súc, và hay hơn
cả trong tất cả các câu thơ "thông tin" về 20 năm của chị:
Hai mươi năm cài then cửa chờ chồng
Hai mươi năm nước mắt đầm áo gối
Hai mươi năm mong một lá thư về
Hai mươi năm chờ tay anh gõ cửa
Sự cô đơn, lạnh lẽo hằng đêm lại xéo quằn trái tim chị, nỗi
mong chờ khắc khoải ngày ngày lại đọa đày đôi mắt chị. Dường như trong mắt chị,
người ta chỉ thấy một màn thương nhớ bao phủ, ngự trị; tuyệt nhiên không có điều
gì khác có thể đục thủng màn nhớ thương ấy, vương đọng nơi mắt chị nữa.
Đêm mùa nào với chị cũng mùa đông
Thế rồi, trông chuyện nay mà nghĩ đến chuyện xưa. Câu chuyện
ngàn đời "chờ chồng hóa đá" sao quá thực? quá đớn đau? Thế nhưng người
vợ xưa còn có thể hóa đá Vọng Phu bồng con ngày ngày vọng dõi trông chồng, người
vợ nay không thể trở thành đá, mà chị cứ vẫn phải sống, sống mòn trong nỗi khắc
khoải, nhớ thương, cô lẻ, lủi thủi đi về tuyệt một mình. Hóa ra, thành đá đôi
khi lại giúp người ta bớt sầu muộn hơn?
"Ôi cuộc đời đâu cần lắm Vọng Phu". Câu thơ cuối
bài kêu lên như một tiếng cảm thương đầy đau xót cho số phận của những người phụ
nữ chờ chồng. Câu thơ ngân lên một niềm cảm xót, tiếng ngân ấy như đập vào vách
thành núi đá Vọng Phu sừng sững giữa bài thơ, âm vang, đồng vọng tạo nên một dư
ba trong lòng người.
Yến Vy
“VÔ LÝ” CỦA GIÁNG VÂN
Cũng chẳng biết vì đâu mà khóc
Khi anh đi qua không kịp thấy mình
Bước vội vã, có điều gì phía trước
Có điều gì mà không phải vì em?
Nỗi mủi lòng cứ thế ngập trong tim
Không biết gió cứ ào lên từng đợt
Cũng chẳng hiểu vì sao mình không tan thành nước
Chảy ngược chiều đường anh.
Tôi mạnh dạn gọi đây là một bài thơ hay, tuy có vẻ như từ
ngày ra đời nó chưa thực sự gây ấn tượng gì đặc biệt cho công chúng yêu thơ, vì
nó không tung ra được một chất liệu hay thủ pháp thơ nào thật mới mẻ, độc đáo,
ngay cả nguồn cảm xúc ở đây cũng dìu dịu, nhè nhẹ với những từ ngữ hiền lành...
rất dễ bị chuội đi trong lòng người đọc vào cái buổi thơ tuôn ra như thác lũ
hiện nay. Ấy vậy mà xin bạn cứ nhẫn nha đọc kỹ, nghĩ kỹ một chút, bạn sẽ thấy
trong cái vóc dáng bé nhỏ vẻn vẹn có tám câu thơ, bài thơ vẫn động đến không biết
bao nhiêu điều về thế giới tâm hồn của con người trong tình yêu cũng như trong
cuộc sống nói chung.
Anh Ngọc
Xin.....
Em đem thân hành khất
Khất thực thuở sơ sinh
Em xin gì thế nhỉ???
Chút sữa cho ấm lòng
Hay xin tình mẫu tử
Đừng bỏ bé bơ vơ
Lạc lõng giữa sương mờ
Em nằm đấy má hồng phơn phớt thắm
Chiếc nôi xinh là nón lá kẻ ăn mày
Môi chúm chím tái cùng sương tuyết lạnh
Trơ trọi lắm, thế đời bao bất hạnh
Em bé quá để biết đời đau khổ
Em ăn xin trong nỗi niềm bất tận
Trái tim non em nào biết đời đau
Đôi môi thơ thỉnh thoảng chúm chím cười
Em mỉm cười cho nhân gian khóc bởi vì em
Em thơ quá để cho trời ứa lệ
Khúc dạo lòng ai rao bán nữa... tình thương
(Nhân Phong)
Trẻ con luôn là niềm thương, niềm hạnh phúc của tất cả mọi
người. Trẻ con là biểu tượng của sự vui tươi, hòa bình. Trẻ con là "mầm",
là "búp" mà mọi người đều nâng niu, chăm chút. Thơ ca nói về trẻ em,
cũng đều đề cập đến những đặc điểm ấy của các em:
Trẻ em là búp trên cành
Được ăn, được ngủ, được học hành là ngoan
Thế nhưng, có phải tất cả trẻ em đều có thể "được ăn, được
ngủ, được học hành" như thế không? Một lần rong ruổi trên phố, Phong đã bắt
gặp một cảnh tượng hết sức đau lòng về một "búp măng" sớm bị vùi dập;
đấy là một đứa bé hành khất nằm trơ trọi bên hiên vắng. Thương cho em sớm phải
"mang thân hành khất, khất thực thuở sơ sinh", anh băn khoăn mãi một
nỗi niềm "Em bé ấy xin gì?", và nỗi ray rứt ấy cứ khắc khoải, quặn thắt,
trở thành đầu đề của bài thơ "Xin...". Tiêu đề còn bỏ lửng như mong mỏi
một sự hoài đáp, thể hiện sự cùng cực bế tắc trong việc tìm kiếm lời giải đáp.
Phải, anh hoang mang là phải. Bởi lẽ, khi con người ta thiếu
thốn, vô phương mới bất đắc dĩ đi con đường mạt vận, tủi nhục nhất là đi xin mà
thôi. Thế mà... em bé ơi, em thiếu thôn gì? em mong mỏi gì? Tiền ư? Em đâu cần.
Vậy em cần chi? "Em xin gì thế nhỉ???" Một câu hỏi đi kèm ba dấu hỏi
chấm thể hiện sự cùng cực của nỗi thảng thốt, hoang mang. Anh liên tiếp đưa ra
những phỏng đoán
Chút sữa cho ấm lòng
Hay xin tình mẫu tử
Đừng bỏ bé bơ vơ
Lạc lõng giữa sương mờ
Dường như những phỏng đoán ấy, cái nào cũng hợp lý cả, cũng
làm cho người ta thắt lòng cả. Nhưng nếu em xin sữa, điều ấy thật không khó,
cái khó là bé không xin sữa, bé xin chút tình thương của người mẹ đã để bé cù bất
cù bơ nơi vỉa hè, dưới trời sương giá. Chẳng biết em có chịu đựng được cái rét ẩm
của "sương mờ" đang từ từ thẩm thấu qua lớp da mỏng manh, lan toả khắp
thân thể nhỏ bé, yếu đuối không? Chẳng biết mẹ của em có chạnh lòng khi để em
cô độc giữa trời sương gió thế này không? Chẳng biết... Sao mà nhiều điều ta
"chẳng biết" thế nhỉ? Đối diện với em, ta chỉ thấy em thật thiên thần.
Một thiên thần lạc lõng giữa chốn phù không.
Kiếp hành khất không tàn ác đến nỗi đoạt mất của em sự ngây
thơ, hồn nhiên, vô tư
Em nằm đấy má hồng phơn phớt thắm
Chiếc nôi xinh là nón lá kẻ ăn mày
Môi chúm chím tái cùng sương tuyết lạnh
Trơ trọi lắm, thế đời bao bất hạnh
Em bé quá để biết đời đau khổ
Em ăn xin trong nỗi niềm bất tận
Trái tim non em nào biết đời đau
Đôi môi thơ thỉnh thoảng chúm chím cười
Em mỉm cười cho nhân gian khóc bởi vì em
Em thơ quá để cho trời ứa lệ
Khúc dạo lòng ai rao bán nữa... tình thương
Giữa dòng đời cuộn trôi, em vẫn bình thản nằm đấy, dấu yên
bình trên gương mặt em còn đọng, một nụ cười màu tím của em đã mang đến cho em
một giấc mộng dịu êm trong "chiếc nôi xinh", nơi giang sơn riêng mà
em ngự trị; một nụ cười màu tím của em đã làm chùn bước chân kẻ lữ khách, đã
làm rơi lệ cả nhân gian. Em không phù hợp với nơi này, sự trái khoáy ấy em nào
biết, bởi lẽ "em bé quá", "em thơ quá"; chỉ có những người
"biết đời đau khổ" mới vì "đôi môi thơ thỉnh thoảng chúm chím cười"
của em mà "ứa lệ" "khóc bởi vì em" mà thôi.
Câu thơ cuối cùng chốt lại bài, nhưng không chốt lại cảm xúc
lòng người. Khúc hát rong của người hành khất đã trở thành "khúc dạo
lòng" những kẻ vị nhân, cay đắng ở chỗ, "khúc dạo" ấy lại là lời
"rao bán tình thương". Lời hỏi rao bán ấy là của ai phát ra? Không thể
là em, thiên thần bên lề, hay là của người đã dùng em làm món hàng để bán tình
lấy tiền? Không, đấy là của người vừa chứng kiến đôi môi em nhoẻn nụ cười trong
mơ. Dường như anh sợ tình thương của mình chưa đủ trải đắp cho em giữa đêm
sương, anh cầu mong tình thương của bao người qua lại rủ chút cho em. Thế
nhưng, có ai đoái hoài, có ai cho không em? Đành phải mua mà thôi, dùng lòng mà
mua lòng. Thật xót xa!.
Yến Vy
ĐIỀU CÓ THẬT
Em cứ nghĩ đó là trong cổ tích
Chuyện hai người thời trẻ yêu nhau
Rồi xa cách bởi cuộc tình ngang trái
Để nhớ thương đi bạc mái đầu
Em vẫn nghĩ đó là huyền thoại
Chuyện nàng Tô hóa đá trông chồng
Đôi trai gái thương cuộc tình dang dở
Mà hóa thành núi Cốc sông Công
Nhưng khi đã xa anh ngàn ngày lẻ
Dửng dưng qua bao khuôn mặt trong đời
Em mới hiểu đó là điều có thật
Trong mỗi người chỉ có một người thôi.
Chuyện kể rằng: ngày xưa có một đôi trai gái yêu nhau thắm
thiết, nhưng tạo hóa trớ trêu đã chia uyên rẽ thuý, đôi người đôi ngả. Thế
nhưng khoảng cách không là rào cản tình yêu. Dũ mỗi phương một phương, nhưng họ
vẫn luôn hướng về nhau, dẫu thời gian phủ sương lên tóc, nhưng tình yêu vẫn
trinh nguyên thuở ban đầu. Lại có chuyện người chinh phụ chờ khách chinh phu
mòn mỏi thành đá,... Những câu chuyện ấy bước ra từ huyền thoại, từ cổ tích đi
vào lời kể, truyền miệng qua bao đời, thế nhưng đã ai từng chứng kiến bao giờ?
Thê là truyền thuyết vẫn là truyền thuyết, thêm ý vị cho đời, cho cuộc sống,
nhưng chẳng ai hề mục kích sở thị bao giờ, nên những câu chuyện ấy đối với
"em" đơn thuần chỉ là "truyện" mà thôi. Ai mà ngờ sự tích
thành sự thật, những "vẫn nghĩ" của "em" đã hoàn toàn đổi
khác khi mà "đã xa anh ngàn ngày lẻ".
Có người nào đó đã nói rằng: "thời gian là thuốc thử của
tình yêu". "Ngàn ngày lẻ" mà cô gái thốt lên thật nhiều ý nghĩa:
hoặc là một thời lượng không xác định, chỉ một thời gian rất dài, dài đằng đẵng,
hoặc là cô gái đã ngồi đếm từng ngày trôi qua kể từ khi chàng trai cất bước. Hiểu
theo cách nào đi chăng nữa, cũng rõ ràng hiển hiện một tấm chân tình đáng trân
trọng: "dửng dưng qua bao khuôn mặt trong đời". Dường như tâm trí cô,
trái tim cô đã ăm ắp một bóng hình, không thể thay thế, không thể chất chứa
thêm. Từ đó, cô mới ngỡ ngàng nhận ra: "Trong mỗi người chỉ có một người
thôi"; thì ra những câu chuyện thuỷ chung, thắm thiết trong truyền thuyết,
cổ tích thuở nào là điều có thật, thật, rất thật. Và nó đang xảy ra với cô đây,
mà thế gian này đâu chỉ mình cô yêu, biết yêu? Vậy là bao câu chuyện nồng hậu
xa xưa thuở nào, qua bao trải nghiệm tháng năm vẫn hoàn nguyên giá trị và mãi
sáng tươi.
Yến Vy
“CHO MỘT NGƯỜI” CỦA ANH NGỌC
Tiễn người ra cửa rồi
Tôi quay vào lặng lẽ
Chợt thấy mình cô đơn
Giữa ngổn ngang bàn ghế.
Khi người không yêu ta
Buồn đã đành một nhẽ
Khi ta không yêu người
Sao cũng buồn đến thế?
Như đánh mất điều gì
Lòng bâng khuâng khó tả
Như thể mắc nợ ai
Món nợ không thể trả.
Có lẽ ta thương người
Giờ này đang lủi thủi
Hay là ta thương ta
Từng chịu nhiều hắt hủi
Ngỡ chẳng có gì đâu
Mà sao thành rắc rối
Tất cả chỉ một lời
Nói hay là không nói?
Đọc thơ Anh Ngọc như chợt được một lần bắt gặp cảm xúc của
chính mình, mà đâu phải của riêng mình:
Khi người không yêu ta
Buồn đã đành một nhẽ
Khi ta không yêu người
Sao cũng buồn đến thế?
Khổ thơ như trải ra trước mắt chính trái tim và những điều
còn ẩn giấu. Ai lại không biết nữa: Yêu mà không được yêu thì đau khổ là chuyện
của muôn đời. Yêu đơn phương một người mà chuốc lấy nỗi đau cho riêng mình rõ
ràng là chuyện của không ít người. Còn:
Khi ta không yêu người
Sao cũng buồn đến thế?
là của riêng ai?
Xin đừng giấu cảm xúc của mình nữa. Xin đừng cố tỏ vẻ thờ ơ
trước những lời yêu dành cho mình dẫu mình "Không yêu người". Có tiếc
nuối, có bâng khuâng, có hụt hẫng như vừa đánh mất cái gì đó của mình, dẫu mình
còn chưa nhận. Nghĩ thật hay người ta trao tặng mình không muốn nhận nhưng trả
đi rồi lại thấy bâng khuâng, liệu không muốn nhận hay không thể nhận? Để nhắm mắt
tiếc nuối:
Như đánh mất điều gì
Lòng bâng khuâng khó tả
Như thể mắc nợ ai
Món nợ không thể trả
Mắc nợ? Nợ ân tình người trao tặng cho ta, nợ một tình yêu.
"Không yêu người" mà như thể mình mắc nợ, cái món nợ có nguyên do. Ai
đủ can đảm để cắt xử rạch ròi cái món nợ kia, món nợ của riêng mình hiểu và tự
mình nhắc mình. Câu thơ như một sự day dứt, dằn vặt. Chỉ "như thế"
thôi nhưng rõ ràng không thể là sự buông xuôi hờ hững trước món quà được tặng.
Từ trong sâu thẳm những tiếc nuối day dứt bâng khuâng ta bắt
gặp một sự so sánh quả hơi lạ ẩn sau chút màu sắc vị kỷ:
Có lẽ ta thương người
Giờ này đang lủi thủi
Hay là ta thương ta
Có lẽ phải thế, nghĩ mình rồi ắt sẽ nghĩ đến người cái vị kỷ
của Anh Ngọc dắt người đọc đến sự đồng vọng cảm xúc của con tim. Thế mới hiểu,
ta thương kẻ ăn mày bởi ta sợ một ngày kia ta cũng lâm vào cảnh ăn mày như họ
(ý của một nhà thơ dặn con). Còn Anh Ngọc thương người bởi ta từng chịu chứ
không phải sẽ chịu. Câu thơ nhờ đó toát lên một tâm sự kín đáo nhưng không kém
phần chân thật. Thì ra "cho một người" nhưng cũng là để cho mình.
"Hay là ta thương ta" câu thơ chợt buốt đau một câu tự hỏi dành cho
mình, một sự hiểu mình đến thương người sâu sắc.
Cái làm cho cả bài thơ chợt khó hiểu và trở nên như bài toán
đố, là ở khổ thơ cuối cùng, khổ thơ khép lại bài thơ, dẫn người đọc về với cái
nơi bắt đầu của nó. Cứ tưởng hiểu hết phần nào chợt trở nên mông lung không
tài nào đi sâu hơn được nữa là thế này đây:
Ngỡ chẳng có gì đâu
Mà sao thành rắc rối
Tất cả chỉ một lời
Nói hay là không nói?
Nói gì? Không nói gì? Nói những bâng khuâng khó tả, nói những
tiếc nuối day dứt, nói cái ngổn ngang khi "chợt thấy mình cô đơn",
hay sẽ nói về "ta thương ta từng chịu nhiều hắt hủi?". Chỉ có thế
thôi mà trở thành rắc rối, chỉ có thế thôi mà làm thơ tặng "cho một người",
nhưng cũng chỉ dừng lại được ở đó.
Khi tôi nhìn bóng người ấy khuất xa, mới biết mình thương đến
tột cùng câu thơ và những điều Anh Ngọc muốn "nói hay không nói".
Không, không thể nhận món quà người ấy tặng cho ta, cả trái tim và tình yêu
chân thành nhất nhưng nói lời chối từ đâu dễ phải không ai? Để mãi còn day dứt:
Tất cả chỉ một lời
Nói hay là không nói?
Lời bình của Nguyễn Thị Thu Hải
“Không đề” của Văn Cao
Con thuyền đi qua để lại sóng đoàn tàu đi qua để lại tiếng,
đoàn người đi qua để lại bóng, tôi không đi qua tôi để lại gì?
(Tuyển tập thơ Việt
Nam 1975-2000)
Thơ cũng như gương mặt người con gái. Có vẻ đẹp trời cho, có
vẻ đẹp cha mẹ cho. Có cái đẹp sắc sảo, có cái đẹp thuỳ mị. Một cái nốt ruồi
xinh xinh đặt ở đâu đấy trên mặt tạo nên một sự hài hòa, nhưng nếu đặt không
đúng chỗ sẽ tạo nên sự phản cảm....
Thơ hay cũng có nhiều cách: hay vì lời đẹp, hay vì tình nồng,
hay vì ý sâu, hay vì ý tưởng mới. Có bài thơ tác giả viết, chữ trào ra đầu bút,
bụng dạ như sắp phát cuồng. Có bài thơ đến nhanh như một bài thuộc lòng chép sẵn.
Có bài thơ như tự nhiên nhặt được. Có bài thơ là sự chiêm nghiệm một đời, sự
đau đớn trăn trở một đời, sự ám ảnh một đời. "Không đề" của nhạc sĩ
Văn Cao thuộc loại đó chăng?
Nghe ra thì thật dễ và tưởng như không có gì:
Con thuyền đi qua để lại sóng đoàn tàu đi qua để lại tiếng
đoàn người đi qua để lại bóng.
Có khả năng quan sát đời sống là có thể có được những ý thơ
này-ba câu thơ cùng một cách diễn đạt, một mô típ. Đấy là sự quan sát bằng mắt,
bằng tai nhưng đến câu cuối "Tôi không đi qua tôi/ để lại gì?". Chữ
"tôi" ở đầu dòng xác định tác giả là chủ thể, chữ "tôi" cuối
dòng là bản thể. Chữ "tôi" cuối câu là "nhãn tư", "thần
tư" của cả câu và cả bài. Không có chữ "tôi" ấy, bài thơ không
có lý do tồn tại.
Theo cách lý giải đơn giản ở trên "Con thuyền đi qua để
lại sóng/ đoàn tàu đi qua để lại tiếng/ đoàn người đi qua để lại bóng..."
người đọc sẽ hơi khựng lại một chút khi đọc câu cuối "tôi không đi qua
tôi/ để lại gì?" rồi tâm tưởng òa vỡ trong niềm thú vị, cảm thông, gật gù
tán thưởng: Văn Cao muốn nói đến đời sống tâm hồn, tình cảm, tư tưởng của người
nghệ sĩ mà từ cá nhân mình ngẫm ra, ông đã thấy. Người nghệ sĩ không thể chỉ
"đi qua" cuộc đời như con thuyền (cũng đủ để lại sóng!) như con tàu
(cũng đủ để lại tiếng) như đoàn người (cũng đủ để lại bóng) mà phải đi qua mình
nghĩa là lắng nghe, cảm nhận, sàng lọc, đánh giá, rung cảm, kiểm nghiệm, vật vã
với chính lòng mình, tâm can mình mới mong để lại cho đời một chút tinh chất của
tài hoa sáng tạo.
Đây không phải loại thơ dùng trí thông minh, ngồi một lúc
nghĩ ra mà là đã trăn trở, day dứt, ngẫm nghĩ một đời đến một lúc nào đó, câu
thơ vọt ra, có lúc người đẻ ra nó, cũng còn thấy bất ngờ, huống chi người đọc!
Phàm bài thơ hay, câu thơ hay, đọc xong, mình lại thấy không
có gì ghê gớm cả, sao mình lại không nghĩ, không cảm, không viết được như thế
nhỉ? Bài thơ hay là bài thơ ai cũng thấy là... của mình.
Lời bình của Nguyễn Bùi Vợi
“HOA CỎ MAY” CỦA XUÂN QUỲNH
Cát vắng, sông đầy cây ngẩn ngơ
Không gian xao xuyến chuyển sang mùa
Tên mình ai gọi sau vòm lá
Lối cũ em về nay đã thu
Mây trắng bay đi cùng với gió
Lòng như trời biếc lúc nguyên sơ
Đắng cay gửi lại bao mùa cũ
Thơ viết đôi dòng theo gió xa
Khắp nẻo dâng đầy hoa cỏ may
Áo em sơ ý cỏ găm đầy
Lời yêu mỏng mảnh như màu khói
Ai biết lòng anh có đổi thay?
Bài thơ mang tên một loài hoa cỏ không nhằm vào đối tượng hoa
để miêu tả hay nhân đó mà đàm đạo một điều gì. Cái bình thường đến mức tầm thường
của chất liệu sống ở đây là để gợi về một ý tưởng khác, một cảm xúc khác: Đó là
sự xúc động bâng quơ trước những tác động vu vơ và không đâu của ngoại cảnh, nó
chỉ rõ ràng hơn một chút cái mà Xuân Diệu từng nói: "Tôi buồn không hiểu
vì sao tôi buồn".
Bài thơ không định nói một điều gì thật rõ ràng, mạnh mẽ, một
ý tưởng sâu sắc hay một cảm xúc to tát, dâng trào... Nó chỉ là một câu hỏi bâng
quơ, hay đúng hơn là một tiếng thở dài nhè nhẹ. Tất cả chỉ có thế thôi.
(Sưu tầm)
THI SĨ HÀN MẠC TỬ VÀ TRĂNG
Năm hai mươi bốn tuổi, Hàn Mạc Tử cho ra mắt tập thơ đầu tiên
với cái tên hết sức bình dị "Gái quê". Âm điệu chung của tập thơ êm đềm,
nhẹ nhàng, du dương, man mác. Giữa cái âm điệu chung ấy đột ngột xuất hiện đôi
câu, đôi hình ảnh khác lạ gây ấn tượng mạnh như là điềm báo một hồn thơ dị biệt.
"Bẽn lẽn" được nhiều người nhắc nhở một phần do cách nói khác lạ ấy:
Trăng nằm sóng soải trên cành liễu
Đợi gió đông về để lả lơi
Lần đầu tiên trong thi ca Việt Nam xuất hiện hình ảnh:
"Trăng nằm sóng soải...". Xưa nay ta chỉ thấy trăng treo, trăng đậu,
trăng lấp ló... chưa từng ai thấy "trăng nằm" cả. Nhìn thấy
"trăng nằm" quả là khác thường. Dấu hiệu của sự khác thường đó đã có
mầm mống từ bài thơ đường luật "Thức khuya" với hình ảnh "Bóng
nguyệt leo song sờ sẫm gối" của Tử. Từ "bóng nguyệt leo..." đến
"trăng nằm sóng soải...", đã hé mở một cách nói về trăng không giống
ai. Thực ra Hàn Mạc Tử không phải là người đầu tiên nhân cách hoá trăng...
Nhưng nhìn thấy "trăng nằm", "trăng leo" thì chỉ có Hàn Mạc
Tử.
Cách nói của Tử lạ nhưng không kỳ bí. Một đôi nhà thơ muốn
làm lạ thơ mình bằng cách đưa vào những cách thể hiện bí hiểm. Tử không hề bí
hiểm. Cái dáng "nằm sóng soải" của trăng rất gần gũi, quen thuộc.
"Nằm sóng soải" là một kiểu nằm hết sức thoải mái, tự nhiên. Trăng
không chỉ "nằm sóng soải" mà còn: "Đợi gió đông về để lả
lơi". Trăng cũng thèm khát như người, cũng đa tình như người. Phải chăng từ
cách thể hiện này của Hàn Mạc Tử mà Hoài Thanh, Hoài Chân trong cuốn "Thi
nhân Việt Nam" cho rằng "Gái quê" của Hàn Mạc Tử "không có
vẻ mơ màng, thanh sạch"? Còn Vũ Ngọc Phan thì so sánh: "Cái quan niệm
về tình yêu của Hàn Mạc Tử không được thanh cao như Thế Lữ". Một đằng tả
tình yêu ở chốn bồng lai tiên cảnh, ở cõi mộng; một đằng tả tình yêu nơi cõi trần
khác nhau là chuyện bình thường. Có thể cái quan niệm về tình yêu của Hàn Mạc Tử
không thanh sạch như Thế Lữ nhưng đổi lại tình yêu của Tử đời thường hơn, gần
gũi hơn, chân thật hơn. Tử không hề giấu giếm khát vọng trần tục của mình. Điều
đáng nói là Hàn Mạc Tử trần tục nhưng không dung tục. Tử không dung tục ngay cả
khi tả trăng trong tư thế "trần truồng":
Ô kìa, bóng nguyệt trần truồng tắm,
Lộ cái khuôn vàng dưới đáy khe
Nếu thay từ "trần truồng" bằng cái từ mà người ta
hay dùng "khoả thân" thì ý có thể không đổi nhưng sắc thái biểu cảm
đã giảm đi đáng kể. "Khỏa thân" nghe có vẻ chữ nghĩa quá không hợp với
cách nói tự nhiên nhưng rất ấn tượng của Hàn Mạc Tử. Phải "trần truồng"
mới hợp với "sóng soải" với "lộ" để làm nổi bật "cái
khuôn vàng dưới đáy khe".
Nguyễn Du từng tả Kiều tắm:
"Rõ ràng trong ngọc, trắng ngà
Dày dày sẵn đúc một tòa thiên nhiên"
Hồ Xuân Hương cũng đã từng hoạ bức tranh thiếu nữ ngủ ngày:
"Đôi gò bồng đảo sương còn ngậm
Một lạch đào nguyên suối chửa thông"
Tất cả đều nhằm tôn vinh cái vẻ đẹp mà tạo hoá đã ban tặng
cho người phụ nữ. Trong bài viết: "Hàn Mạc Tử, anh là ai?". Nhà thơ
Chế Lan Viên đã lên tiếng bênh vực cho Hàn Mạc Tử: "Khi ta thích" dày
dày sẵn đúc một tòa thiên nhiên" của Nguyễn Du, ta phải thích "bóng
nguyệt trần truồng tắm" của anh. Và chả lẽ cô Hồ Xuân Hương có quyền mà
"bóng trăng anh thì bị cấm?". Công bằng mà nói ít ai trên thế gian
này tôn vinh vẻ đẹp trời ban cho "bóng trăng" như Hàn Mạc Tử. Hàn Mạc
Tử đã không ngần ngại gọi đó là cái "khuôn vàng" cái khuôn được đúc bằng
vàng ròng. Thế thì có gì là dung tục, là không thanh cao?
Trong "Gái quê" cách nói, cách thể hiện của Tử đang
còn chân chất, hiền lành "lời thơ dễ dàng, tứ thơ bình dị", "Bẽn
lẽn" chính là khởi đầu cho thiên tài thơ ca Hàn Mạc Tử. Đến "Hương
thơm", "Mật đắng" và đặc biệt là "Máu cuồng và hồn
điên" ta bắt gặp "nguồn sáng lạ tỏa ra từ một linh hồn vô cùng khổ
não". Ta như lạc bước vào một thế giới của trăng. ở đó không chỉ trăng
leo, trăng nằm, trăng còn bị cắn, trăng tự tử... Hàn Mạc Tử say trăng, uống
trăng, ngủ với trăng, chơi trăng, tắm cùng trăng... Trăng của Hàn Mạc Tử là
"trăng vàng, trăng ngọc". Có những câu thơ toàn trăng: "trăng,
trăng trăng là trăng, trăng, trăng..." Hiếm thi sĩ nào trên thế giới từ
xưa đến nay nói nhiều đến trăng như Tử. Người ta lý giải vì trăng liên quan đến
căn bệnh mà Tử mắc phải nhưng ít ai thấu hiểu sự cô đơn của Tử. Bị đẩy vào hoàn
cảnh cô độc, Tử chỉ còn biết lấy trăng làm bạn. Hình tượng trăng trong thơ Hàn
Mạc Tử đã góp phần tạo nên một hồn thơ dị biệt mà "Bẽn lẽn" có vị trí
hết sức quan trọng trên con đường phát triển tài năng thi ca của Hàn Mạc Tử.
Theo Vov.news
HỒ DZẾCH “TÌNH YÊU TÔN THỜ”
Đêm qua ta gục đầu lên sách
Mộng thấy hồn đau thổn thức buồn
Ta chợt nhớ ra ngày viễn cách
Là ngày em sẽ xa ta luôn.
Mai mốt mây thu lạc cuối trời
Tình thu khôn chết, nhớ khôn nguôi
Quỳ lên chồng giấy chưa thành sách
Ta sẽ kêu thầm: "Em gái ôi!..."
Ngực nghe đau nhói buổi chia ly
Ta khóc đời ta chẳng nghĩa gì!
Một thoáng hoa bay, vài dải nắng
Đã tàn chầm chậm kiếp thơ đi.
Từ xưa, ta đã hẹn ta rồi:
Xuân sắc, xa nhìn lưu luyến thôi,
Mà bạn, chỉ nên là bạn mãi
Đừng vương hoa bướm, luỵ cho đời.
Vẫn tưởng em là bạn của ta
Xuân về lạnh lẽo giống xuân qua
Vui chân theo rõi đường mong ước,
Ta giật mình hay: lệ đã nhòa!
Em sẽ đi và ta sẽ đi.
Mai này, ta chết giữa chia ly..
- Mây Nam nếu lạc về phương Bắc,
Xin nhớ, đời thơ chẳng nghĩa gì!
Tiêu đề của bài thơ là "Tặng", vậy, Hồ Dzếnh tặng
ai? Cho mình hay cho người? Nếu cho người, ắt Hồ Dzếnh đã đề tên người mình muốn
tặng; còn ở đây, đối tượng trữ tình sáng tạo đã ẩn đi, chỉ trơ lại mỗi chữ
"tặng", đơn độc, vô phương, vô vọng như chính tâm trạng của Hồ Dzếch
trong bài thơ. Như vậy, có thể hiểu Hồ Dzếnh đã viết bài thơ này để tặng cho
mình, cho mối "duyên ý" (1) của mình.
Đêm qua ta gục đầu lên sách
Mộng thấy hồn đau thổn thức buồn
Ta chợt nhớ ra ngày viễn cách
Khi màn đêm buông xuống: là lúc mọi xúc cảm con người trở nên
lắng đọng, một thời điểm dành riêng để con người tự vấn lòng mình, trăn trở với
bao nỗi niềm, bao nghĩ suy. Và vào chính ngay thời lúc ấy, nhà thơ đã miên man
nghĩ đến một "ngày viễn cách" sắp xảy tới
Duy Sơn, một nhà thơ hiện đại, đã từng bộc bạch:
Khi trầm tư trước trang giấy trắng
Là cảm xúc anh sâu lắng chín dần
Như người thợ trộn từng mẻ vữa
Xây những công trình bằng các vần thơ
Thế nên, khi "gục đầu lên sách", miên man "mộng
thấy hồn đau thổn thức buồn", Hồ Dzếch đã "quỳ lên chồng giấy chưa
thành sách" mà kêu lên: "Em gái ôi!..." Bao nhung nhớ, nghẹn
ngào, bao cảm xúc quay quắt về "em" dâng trào, bật lên thành tiếng gọi
thê thiết ấy!
Chẳng biết từ bao giờ mùa thu đi vào thơ ca với một hình ảnh
ước lệ cho nỗi buồn, sự hiu hắt, tàn tạ. Xuân Diệu, một nhà thơ rối rít, cuồng
si tình yêu, cuộc sống đã phải có lúc dừng bước chân hối hả của mình nơi vườn
thu ảo não
Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang
Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng
Đây mùa thu tới! Mùa thu tới!
Với áo mơ phai dệt lá vàng
Thu mang buồn gieo rắc nơi nơi, từ vườn thu đến bến đò (2), từ
mặt hồ đến chiếc lá (3). Vạn vật đậm buồn thu, thu phủ buồn lên vạn vật. Chủ thể
và khách thể, một tạo buồn, một hứng chịu nỗi buồn, gắn kết với nhau, càng làm
cho sự sầu u càng tột bậc. Một trong những khách thể của sầu thu ấy là:
"mây thu". Ở đây, "mây thu" chẳng những trĩu sầu mà còn rơi
vào trạng thái cô độc, "lạc loài cuối trời", càng thê thiết, càng tội
nghiệp biết bao nhiêu! Như mây thu trơ trọi cuối trời xa, "tình thu"
càng khắc khoải với nỗi "khôn chết", "khôn nguôi", đau đớn
biết dường nào! Tựa như vết cố thương thỉnh thoảng lại nhức nhối, ảo tưởng về mối
tình viễn cách lại nhói lên đôi khi; mà vết thương cũng có lúc lành, còn kỷ niệm
thì làm sao chối bỏ? làm sao chôn chết? Không quên được, không phai được, cứ phải
quặn đau với mối tình chôn kín, "khôn chết", khôn nguôi" chính
là sự đọa đày cao nhất của con tim.
Bao đau thương ùa đến ngập tràn trong tâm tưởng, khiến cho
nhà thơ:
Ngực nghe đau nhói buổi chia ly
Ta khóc đời ta chẳng nghĩa gì
Cái cuộc đời "chẳng nghĩa gì" mà Hồ Dzếch khóc ấy
chỉ là:
Một thoáng hương bay, vài dải nắng
Đã tàn chầm chậm kiếp thơ đi
"Hoa", "nắng" là những sự vật rất đỗi mộc
mạc trong đời thường. Cuộc đời của Hồ Dzếnh là tập hợp những sự vật bình dị ấy.
Như thế, tưởng đã sơ sài, xoàng xĩnh lắm rồi, mà còn "một thoáng",
"vài dải" thưa thót ít ỏi, lại còn "đã tàn" héo úa, phôi
pha khiến cho cuộc đời Hồ Dzếnh đã yên ắng, câm lặng lại hiu hắt, chán chường
"chầm chậm kiếp thơ đi".
Thêm vào đó, Hồ Dzếnh đã dụng công nghệ thuật bẻ đôi ý thơ, rải
tràn ra hai câu: "một thoáng hương bay, vài dải nắng đã tàn/ chầm chậm kiếp
thơ đi", cùng với vần "i" với âm điệu buồn thương có sức lan toả,
có độ âm vang làm cho trạng thái "chầm chậm" của kiếp thơ càng lê
thê, kéo dài, thấm sâu vào tâm tưởng người đọc.
Thật ra, sự xa cách ấy chưa xảy ra, mà chỉ là "viễn
cách", "mai mốt", "sẽ xa ta luôn", "sẽ kêu thầm",
vậy mà nhà thơ đã da diết, đã trăn trở, đã đau đớn. Dường như Hồ Dzếnh đã nhận
ra cái ngày đau buồn ấy đã không xa, là cái kết quả tất yếu của cuộc tình mình.
Như vậy, ta thấy được bao tình cảm của Hồ Dzếnh đã dành trọn cho mối tình này bởi
lẽ không yêu tha thiết, không thể có những tư tưởng âu lo, khiếp hãi sự mất mát
của "một mai", không yêu tha thiết, sẽ không vật vã nghẹn ngào khi buổi
chia ly dần tiến tới.
Sự bồn chồn, âu lo ấy bắt nguồn từ lời hẹn ước xa xưa giữa
"ta" và "ta"
Từ xưa, ta đã hẹn ta rồi:
Xuân sắc, xa nhìn lưu luyến thôi,
Mà bạn, chỉ nên là bạn mãi
Đừng vương hoa bướm, luỵ cho đời.
Hoá ra, đây chỉ là mối tình đơn phương của Hồ Dzếnh mà thôi!
Nhà thơ không muốn làm vẩn đi mối tình thơ trong sáng mà "ta" và
"em" đã gìn giữ bao lâu cho nên đã dặn lòng như thế. Câu thơ ắp đầy
những hư từ "đã", "rồi", "thôi", "mà"
như một tiếng thở dài đành đoạn...
Thế nhưng, làm sao dối được lòng mình, cho nên có đôi khi nhà
thơ vẫn ngỡ ngàng với tình cảm của mình:
Vẫn tưởng em là bạn của ta
"Tưởng" là thế, còn sự thật ra sao? Cố tỏ ra vô ý lại
thể hiện rõ ý tình của mình muốn che giấu, với nhà thơ, thời gian đã trở nên vô
cảm, mặc dù vẫn "vui chân theo rõi đường mong ước" thế nhưng khi sực
bừng tỉnh, lại thảng thốt:
"Ta giật mình hay: lệ đã nhòa!"
Câu thơ tận cùng bằng vần "oa" như tiếng vỡ của bao
dửng dưng nơi vỏ bọc, nhạt nhòa cả thực và ảo, nơi lý trí và tình cảm.
Cho đến lời chia phôi cuối bài, mặc cảm dở dang, chia lìa vẫn
còn in đậm trong từng câu từng chữ:
Em sẽ đi và ta sẽ đi.
Mai này, ta chết giữa chia ly...
- Mây Nam nếu lạc về phương Bắc,
Xin nhớ, đời thơ chẳng nghĩa gì!
"Tặng" là một khúc hát biệt ly, đầy ắp hoa, nắng,
tiếng thở dài nỗi xót xa, cay đắng. Và "Tặng" cũng chính là một trong
những bài thơ tiêu biểu cho hồn thơ, cho quan niệm tình yêu của Hồ Dzếnh:
"Tình yêu là thứ để tôn thờ chứ không để hưởng thụ (...), không tin rằng
mình có thể gìn giữ mãi một tình yêu tuyệt diệu sau khi chiếm hữu được nó"
(4):
"Tình mất vui lúc vẹn câu thề
Đời chỉ đẹp khi hãy còn dang dở"
cho nên mặc cảm chia phôi luôn in đậm trong thơ ông.
Yến Vy
(1): tên một bài thơ của Hồ Dzếnh
(2): lấy ý từ trong bài thơ "Đây mùa thu tới" của
Xuân Diệu
(3): lấy ý từ trong bài thơ "Thu điếu" của Nguyễn
Khuyến
(4): Kiều Văn
THƠ TẾ HANH
Tế Hanh (sinh 1921), chàng thi sĩ nhập cuộc cùng một lượt với
nhiều thi sĩ khác vào phong trào Thơ Mới. Như chúng ta đã biết, đó là một thời
kì thơ ca bồng bột bừng nở, như một rừng hoa muôn sắc màu. Những thời kỳ như vậy
chính là đột biến sau một quá trình dài những ngưng đọng, dồn nén, và bế tắc của
lịch sử. Nó chính là thời của những "cơn sốt vỡ da" của tuổi "dậy
thì" ở con gái, thời "vỡ tiếng" ở con trai.
Một đặc trưng nổi bật của phòng trào Thơ Mới là mỗi thi sĩ đều
hoàn toàn tự do tìm kiếm và thể hiện cá tính của mình trong sáng tác. Những cá
tính ấy là điều đặc biệt quý báu trong thế giới thơ ca và nghệ thuật. ở Tế
Hanh, cá tính ấy được thể hiện một cách rõ nét ngay trong bài thơ đầu tiên. Và
vì vậy, thơ Tế Hanh tỏ ra có một sức quyến rũ riêng đối với đông đảo bạn đọc,
nhất là những thanh niên học sinh thành thị. Tập thơ: "Nghẹn ngào" của
Tế Hanh được giải thưởng của Tự Lực Văn Đoàn, và được các nhân vật lừng danh
trong làng văn chương đương thời đánh giá cao.
Tế Hanh sinh ra đời chỉ để làm thơ trữ tình. Bởi chất trữ
tình vừa là điểm mạnh nhất vừa là điều duy nhất có của nhà thơ. Tế Hanh hầu như
không làm thơ tự sự, cũng không ham hố "ôm" những đề tài to tát.
Thơ Tế Hanh - đúng như tên nhà thơ - đặc biệt tế nhị, giản dị,
có nét trong trẻo, non tơ hệt như tính cách một cậu học trò nhà quê cực kỳ đa cảm
lên tỉnh trọ học.
Mẹ ơi chiếc áo con đã rách
Con biết làm sao trở lại nhà
Để mẹ vá giùm? Con thấy lạnh
Gió lùa nỗi nhớ thấm vào da
(Chiếc rổ may)
Thơ Tế Hanh bao giờ cũng biết "gãi" tuy nhẹ nhưng
mà trúng vào những sợi dây đàn mảnh dẻ nhất mắc sẵn trong lòng người. Nói cách
khác, thơ Tế Hanh đã "đụng" được tới những khía cạnh nhân bản thầm
kín nhất, nhỏ nhặt nhất nhưng "thực" nhất ở con người:
Không có khi nào gặp gỡ em
Mà anh giữ được vẻ điềm nhiên
Dáng anh bẽn lẽn, lời anh ngượng;
Em thử đôi lần nhớ lại xem!
(Hờ hững)
Hoặc:
Người ta mạnh mẽ biết bao nhiêu
Lo lắng cho nhau thật đủ điều
Anh chỉ đem tấm lòng yếu ớt
Như nhờ như dựa ở tình yêu...
(Kể lể)
Bất cứ độc giả nào cũng dễ dàng cảm thấy Tế Hanh là một nhà
thơ, một con người rất mực dịu dàng. Thậm chí nhà thơ có vẻ... "lây nữ
tính" như V.Hugo đã phát hiện ở không ít đàn ông. Đó là những đàn ông. Đó
là những con người "không táo tợn giằng giật, mà rụt rè lấy lén những đặc
ân của mình " (Rousseau):
Vui không giám vui nhiều
Miệng cười như thể mếu!
Lo lắng nỗi đìu hiu
Vấn vương người yểu điệu.
(Đắng cay)
Trải qua thời "tiền chiến" dòng thơ Tế Hanh tiếp tục
chảy trong giai đoạn lịch sử mới với hai cuộc kháng chiến và một giai đoạn đất
nước ta trở lại hòa bình. Theo thời gian, thơ Tế Hanh trưởng thành hơn, già giặn
hơn. ý thơ và đề tài thơ không chỉ là những chuyện nhỏ, mà đậm đặc hơn ở nhân vật,
sự việc, ở chất đời và ở tính triết lý nhẹ nhàng:
Em là một biển đầy
Anh đứng trên bờ rợn ngợp
Em là một pho sách
Anh mới đọc mấy trang đầu
Anh gửi nơi em những mối tình ngày qua mà anh không còn nữa
Anh gửi nơi em những mối tình ngày mai mà không thể có.
Em là nghìn trận gió
Anh là một làn mây
(Văn xuôi cho em)
Tuy nhiên so với thời kỳ, phong cách thơ của Tế Hanh căn bản
không thay đổi. Chúng ta nhận thấy, trước sau chỉ có một Tế Hanh. Thiết tưởng
đó cũng là một điều đáng ghi nhận ở nhà thơ. Vào những năm 50-60, Tế Hanh có những
câu thơ nổi tiếng.
Cơn bão nghiêng đêm
Cây gẫy cành bay lá...
... em đã xa xôi
Và cơn bão lòng ta thổi mãi...
(Bão)
Và:
Trăng Tây Hồ vời vợi thâu đêm
Trời Hàng Châu bốn bề êm ái
Mùa thu đã đi qua còn gửi lại
Một ít vàng trong nắng trong cây
Một ít buồn trong gió trong mây
Một ít vui trên môi người thiếu nữ.
(Bài thơ tình ở Hàng
Châu)
Những câu thơ "thơ" hết chỗ nói! Tế Hanh quả là người
"hiểu mình", bởi thế nhà thơ đã không đánh mất hoặc bóp méo mình. Tế
Hanh thuộc mẫu người như ca dao đã khuyên:
Hãy cho bền chí câu cua
Dù ai câu chạch câu rùa mặc ai!
Suốt hơn nửa thế kỉ, thơ Tế Hanh như mưa dầm, mưa tuy nhỏ,
như bão rớt, cứ rong hiu hiu mãi, không mấy ồn ào, nhưng mưa lâu thì ướt áo, và
rồi thì... ướt sũng hết cả lúc nào không biết.
Và lòng mến mộ của độc giả bốn phương với Tế Hanh cũng xanh mởn
như câu thơ đầy "tiên tri" của ông:
Ngàn năm sau, chỗ đôi ta.
Yêu nhau có lẽ lá hoa mọc đầy...
Kiều Văn
THƠ TÌNH XUÂN DIỆU
Ngay từ buổi đầu bước chân vào làng thơ, Xuân Diệu dường như
đã tự chọn cho mình một tôn chỉ: sống để yêu và phụng sự cho Tình yêu! Phụng sự
bằng trái tim yêu nồng cháy, bằng cuộc sống say mê và bằng việc hăm hở làm thơ
tình! Xuân Diệu ví mình như một con chim bay hay hát.
Tôi réo rắt, chẳng qua Trời bắt vậy.
Trước kia Nguyễn Công Trứ nói:
Trời ban ta, đất trở ta
Thì quả vậy. Trời đất sinh ra thi sĩ Xuân Diệu trên xứ sở hữu
tình này để ca hát về tình yêu -cái đề tài mà từ ngàn xưa người Việt Nam chúng
ta đã say mê, giống như nhà sư nọ mê một cô nàng đội gạo:
Sư về sư ốm tương tư
ốm lăn ốm lóc cho sư trọc đầu
Vì Xuân Diệu sống hết mình cho tình yêu cộng với tài thơ
thiên phú, lại gặp buổi "gió Âu mưa Mỹ", những khát vọng yêu đương của
trai gái được tháo cũi sổ lồng, cho nên trong thơ tình của Xuân Diệu có tiếng
máu dồn mạnh trong huyết quản, có dòng nhựa sống tràn trề mãnh liệt của cả thế
hệ đang vươn dậy. Có những vần thơ được viết ra cách đây hơn nửa thế kỷ mà đến
nay vẫn còn khiến chúng ta bàng hoàng vì sự mới mẻ và táo bạo của nó:
Với trăm ma, tôi hẹn những mười nguyền
Những Tây Thi, Lộng Ngọc, những Điêu Thuyền.
Hồn đông thế, tôi sợ gì cô độc?
Ma với nhau thì ôm ấp cùng nhau...
Cái "nhân bản yêu đương" trong thơ tình Xuân Diệu
thật là nồng cháy và bền bỉ cho đến tận lúc nhà thơ của chúng ta nhắm mắt xuôi
tay! Nửa thể kỷ thơ tình Xuân Diệu là một quá trình khám phá không ngừng vào
cái thế giới kỳ diệu của tình yêu.
Thuở ban đầu thường chỉ là thứ tình yêu thực ít mộng nhiều:
Chúng tôi lặng lẽ bước trong thơ
Lạc giữa niềm êm chẳng bến bờ...
Thế rồi, mộng như sương sớm, tan dần dưới ánh nắng ban ngày,
và khoảng giữa trưa thì chỉ còn lại cuộc đời thực! Xuân Diệu, với trái tim yêu
như điên dại, tiếp tục khám phá cái thế giới tình yêu "thực" ấy. Té
ra chẳng cần phải là thứ tình yêu đầy bão táp, đầy kịch tính hoặc đầy nước mắt,
mà thứ tình yêu chồng vợ rất mực "đời thường" nhưng son sắt, đạt tới
sự hòa hợp vô cùng du dương. Xuân Diệu chứng minh cho chúng ta thấy rằng đó
chính là một thế giới vô cùng đẹp đẽ, vô cùng thánh thiện, vô cùng mê ly nếu ta
biết nhìn nhận và thưởng thức nó!
Trên thế giới hiếm có một nhà thơ nào mô tả tình cảm vợ chồng,
mô tả người vợ yêu của mình một cách tinh tế và sâu sắc như Xuân Diệu. Có thể
nói: Cái tình yêu có thì thơ Xuân Diệu có. Từ khát khao cuồng nhiệt đặc trưng của
tình yêu trai gái:
Ôi mắt của người yêu, ôi vực thẳm!
Ôi trời xa: vừng trán của người yêu!
Ta thấy gì đâu sau sắc yêu kiều
Mà ta riệt giữa đôi tay thất vọng
Những ghì xiết say sưa:
Hãy sát đôi đầu! Hãy kề đôi ngực!
Hãy trộn nhau đôi mái tóc ngắn dài
Những cánh tay! hãy quấn riết đôi vai!
Hãy dâng cả tình yêu lên đôi mắt!
Hãy khăng khít những cặp môi gắn chặt.
Những thương yêu trìu mến:
Anh quạt cho đôi tay
Anh hằng ngày yêu mến
Anh quạt đôi lông mày
Sáu năm nay quyến lưu luyến.
Rồi những tôn thờ sùng bái:
Từ lúc yêu em ngay sau buổi gặp đầu tiên
Anh đã tạc hình ảnh của em trên nền thương nhớ
Ở đâu có nhớ thương, anh đã đặt tượng em vào đó.
Những lo âu mất mát:
Nếu ngày nào em hết ở cùng anh
Nếu đến khi anh không còn em nữa
Anh biết tạc đâu ra một người như thế?
Và bất chợt, một cơn đau khủng khiếp:
Tại em cố chấp,
Tại anh đã mất
Con đường đi tới trái tim em!
Anh đã giết em rồi, anh vẫn ngày đêm yêu mến
Em đã giết anh rồi, em vứt xác anh đâu?
Phát hiện đắt nhất của Xuân Diệu chính là sự khẳng định rằng:
cây tình yêu giữa cuộc đời thực, sẽ mãi mãi xanh tươi, còn những thứ
"tình" được nặn ra từ lý trí khô cứng hoặc từ mộng mị sẽ tàn lụi, xám
xịt.
Và quả là như vậy. Xuân Diệu không còn nữa nhưng cây tình yêu
trên mảnh đất này có hư hao đi chút nào màu xanh muôn thuở? Trong khi nhà thơ, ở
một cõi khác, có thể đang ôm ấp những hồn ma xinh đẹp nào đó, thì ở trên thế giới
này, những chàng trai, những cô gái, những cặp tình nhân, những cặp vợ chồng vẫn
đang sống, đang cảm xúc, và hưởng thụ tình yêu sống động và bất tuyệt!
Kiều Văn
LƯU TRỌNG LƯ VỚI BÀI THƠ "TIẾNG THU"
Lưu Trọng Lư là nhà thơ tiên phong của phong trào Thơ mới. Nhận
định về nghệ thuật thơ ông, nhà phê bình thiên tài Hoài Thanh đã có những nhận
xét thật chuẩn xác: "Tôi biết có kẻ trách Lư cẩu thả, lười biếng, không biết
chọn chữ, không chịu khó gọt giũa câu thơ. Nhưng Lư có làm thơ đâu, Lư chỉ để
lòng mình tràn lan trên mặt giấy". Nhận định này dường như đã thành nỗi ám
ảnh. Và rồi suốt đời, Lưu Trọng Lư cứ loạng choạng, cứ bập bỗm bước trong cái
vòng kim cô mà Hoài Thanh đã tiên đoán và vạch ra ngay từ khi ông mới xuất hiện
trên thi đàn. Còn về con người Lưu Trọng Lư, thiết tưởng cũng chẳng có ai hiểu
ông hơn Hoài Thanh: "Cả đời Lư cũng là một bài thơ. Nếu quả như người ta vẫn
nói, thi sĩ là một kẻ ngơ ngơ ngác ngác, chân bước chập chững trên đường đời,
thì có lẽ Lư thi sĩ hơn ai hết".
Quả đúng vậy. Và nếu chọn một bài thơ thơ nhất của Việt Nam,
nghĩa là ngoài thơ ra, nó không có gì bấu víu, thì đó chính là Tiếng thu. Đây
là bài hay nhất trong đời thơ Lưu Trọng Lư, cũng là bài thơ thơ nhất của thi ca
Việt Nam hiện đại:
Em không nghe mùa thu
Dưới trăng mờ thổn thức
Em không nghe rạo rực
Hình ảnh kẻ chinh phu
Trong lòng người cô phụ
Em không nghe rừng thu
Lá thu kêu xào xạc
Con nai vàng ngơ ngác
Bài thơ vẻn vẹn có 9 câu, chia làm ba đoạn, mỗi đoạn lại so
le, các ý trong bài thơ rời rạc, khấp khểnh, chẳng ý nào ăn nhập với ý nào. Nếu
cứ theo cách hiểu máy móc của những nhà phê bình quen thói bắt bẻ, cứ đè thơ ra
mà tìm tư tưởng, tìm ý nghĩa thì đây là bài thơ "Đầu Ngô mình Sở". Đã
thế, tác giả còn tỏ ra vụng về. Tỳ vết của sự thô vụng ấy nằm trong hai câu chẳng
thơ tý nào, nó như câu văn xuôi bình giảng văn học của học sinh phổ thông:
Hình ảnh kẻ chinh phu
Trong lòng người cô phụ
Ấy vậy mà khi gộp tất cả lại, nằm trong một tổng thể, bài thơ
hay đến lạ lùng. Người ta không còn thấy dấu vết thô vụng đâu nữa. Đây là điều
duy nhất xảy ra ở văn học Việt Nam và chỉ xảy ra có một lần. Cái hay của bài
thơ này không nằm ở câu chữ. Nó hoàn toàn siêu thoát, là cái hồn phảng phất đâu
đó đằng sau những con chữ rất sáng tỏ mà lại vời vợi mông lung kia. Người ta chỉ
cảm thấy được, chứ không thể nói ra được một cách rạch ròi. Đây là bức tranh
thiên nhiên được vẽ bằng hồn, bằng cả điệu nhạc rất riêng của tâm hồn thi sĩ. Bởi
nó, chứ không thể ngắm nó bằng lý trí tỉnh táo. Đã không ít nhà phê bình nghiên
cứu mang lý trí ra để làm con dao cùn mổ xẻ những con chữ rất ngơ ngác này. Có
người còn viện đến cả thi pháp học để cố hiểu cho bằng được bài thơ, lấy thi
pháp làm chìa khóa mở cánh cửa thực dụng, đi vào cõi mù mờ tâm linh này. Bằng
cách vận dụng thi pháp, có người cho đây là bài thơ nói về nỗi cô đơn không có
sự chia sẻ. Không phải ngẫu nhiên bài thơ có 9 câu mà đã có đến 3 câu điệp
"Em không nghe":
Em không nghe mùa thu
Em không nghe rạo rực
Em không nghe rừng thu...
Em không nghe, còn anh thì nghe thấy hết. Nghe thấy hết mà
không nói ra được. Đây là cuộc đối thoại mà kẻ đối thoại lại ẩn sau sự câm lặng.
Hoặc giả em cũng đã nghe thấy, nhưng anh vẫn hỏi như vậy, nghĩa là anh không hiểu
em. Đằng nào thì cũng vẫn cứ là thiếu niềm đồng cảm. Một bên thì thổn thức, rạo
rực, kêu xào xác, một bên thì không nghe, không nghe, không nghe, cả con nai
ngơ ngác, đạp trên lá vàng khô, nghĩa là nó cũng không nghe nốt.
Hiểu một cách sống sít như thế thì thật thô thiển. Nhà phê
bình đã kéo những đám mây ngũ sắc đang bay bảng lảng trong không trung, rồi rải
xuống đường làm rơm rạ lót chân, và như thế còn đâu cánh rừng thu, tâm hồn thu
cho con nai vàng trú ngụ. Mấy câu điệp khúc ấy thực chất chỉ để tạo giai điệu rất
đặc biệt cho bài thơ này. ở đây, nhạc điệu cũng là một phần nội dung chính làm
nên hồn vía bài thơ còn ở góc độ khác, cũng nhìn bằng com mắt lý trí, có người
còn cho rằng đây là bài thơ Lưu Trọng Lư thâu cóp của nước ngoài. Thực tế trong
bếp núc sáng tác, có thể có sự trùng hợp ngẫu nhiên. Người bình luận còn việc
cớ rằng: "Thực tế Việt Nam làm gì có khu rừng vàng. Đấy là rừng châu Âu. Rừng
Việt Nam là rừng luốm nhuốm.
Mùa thu Việt Nam đúng như Nguyễn Du mô tả trong Kiều: "Rừng
thư từng biếc chen hồng". Và con nai Việt Nam cũng nhanh nhẹn lắm, tinh
ranh lắm, nó đâu có ngơ ngác "đạp trên lá vàng khô"! Ơ hay, Lưu Trọng
Lư có nhìn thiên nhiên bằng con mắt thịt đâu! Lại phải mười Hoài Thanh về làm
luật sư bào chữa cho ông thôi: "Trong thơ Lư, nếu có cả chim kêu, hoa nở,
ta cũng chớ tin. Hay ta hãy tin rằng tiếng ấy, màu kia chỉ có ở trong mộng. Mộng!
Đó mới là quê hương của Lư. Thế giới thực của ta với bao nhiêu thanh sắc huy
hoàng, Lư không nghe thấy gì đâu. Sống ở thế kỷ 20, ngày ngày nện gót trên các
con đường Hà Nội mà người cứ mơ màng thấy mình gò ngựa ở những chốn xa xăm
nào".
Tương truyền khi viết bài thơ này, Lưu Trọng Lư đến thăm nhà
một người bạn. Rồi nhân cớ thấy cái bình gốm cổ có vẽ con nai đứng giữa núi
non, Lưu Trọng Lư bèn vịnh ngay bài thơ này.
Thực chất, nếu chuyện đó là thật, thì con nai trên bình gốm
chỉ là cái cớ rất nhỏ, là tiếng động rất nhỏ đánh thức con nai vàng và khu rừng
vàng trong tâm hồn đánh thức con nai vàng và khu rừng vàng trong tâm hồn Lưu Trọng
Lư thức dậy và tỏa hương. Nhờ thế, thi ca Việt Nam đã có một kiệt tác thật hiếm
có, ngỡ như đó là khúc nhạc huyền bí của thần linh, chứ quyết không phải là tiếng
ca phàm tục của người đời...
Trần Đăng Khoa
TIẾNG CUỐC
Không dễ nhìn thấy con cuốc, nhưng dường như ai cũng từng
nghe tiếng gọi hè khắc khoải của loại chim này. Xưa nay, tiếng cuốc không chỉ
ám ảnh nhiều văn nhân thi sĩ, mà còn trở thành tiếng lòng nhớ nước của những
người xa quê.
Tuy không dễ gặp con cuốc nhưng ta thường nghe tiếng cuốc kêu
khắc khoải như từ cõi xa xăm nào đó vọng về. Loài chim này có ở nhiều vùng nông
thôn Việt Nam. Nó thường lặn lội ở ven sông, rạch, bờ ao, bờ ruộng, bìa rừng.
Bước đi của chim cuốc dài và nhanh, tất bật và hối hả. Khi có bóng người hoặc
tiếng động, cuốc sải bước thật nhanh, lủi vào bụi rậm mất tăm. Cuốc lủi là để tự
vệ, khác với cử chỉ lấm la lấm lét chui lủi của kẻ buôn gian bán lận trốn tránh
pháp luật, mà dân gian ta quen gọi "lủi như cuốc".
Ngoài cái tên "cuốc" nôm na, trong văn cổ loài chim
này còn có các tên "đỗ quyên", "đỗ vũ"...
Xưa chim cuốc gắn với câu chuyện huyền thoại về Thục Đế mất
nước khi chết hóa thành chim cuốc kêu hoài nỗi đau mất nước. Hình ảnh con chim
cuốc và tiếng kêu "cuốc cuốc" là hồn nước lúc ẩn, lúc hiện thăng tỏa
với thời gian, không gian đời đời:
Khúc đâu êm ái xuân tình
Ấy hồn Thục Đế hay mình đỗ quyên
(Nguyễn Du)
(Nhân đây nói thêm: ở làng quê ta, cùng với tiếng "cuốc
cuốc" còn nghe tiếng "da da" của loài chim khác mà tiếng Hán gọi
là "gia gia", nhắc về điển Bá Di, Thúc Tề - bề tôi nhà Thương thà chết
chữ không chịu sống với nhà Chu (triều đại đã diệt nhà Thương) và không ăn thóc
nhà Chu. Nó là loài chim hiện thân hai vị ấy, luôn luôn kêu "bất thực cốc
Chu gia" (dân gian gọi là "bắt tép kho cà") tức là "không
ăn thóc nhà Chu"; nhưng "gia gia" thường dùng để nhắc đến nhà).
Lọt lòng thuở nằm nôi, lời ru của mẹ, của bà rót vào cõi tâm
linh và đưa ta vào giấc ngủ trưa hè dưới bóng tre:
Cuốc kêu tiếng nhỏ tiếng to
Nửa thương phận nước nửa lo phận nhà
Hay:
Đêm khuya dưới đất trên trời,
Một mình cô đứng cô ngồi cô nghe
Cô nghe hết giọng con ve
Đến lời con cuốc gọi hè tiếc xuân!
Chung quanh điển tích về chùa Giải Oan, suối Giải Oan ở Hương
Sơn có nỗi đau của con người dĩ vãng lưu lại đây qua bốn câu thơ khuyết danh giải
thích hiện thực thời ấy:
Giải Oan chùa suối nổi danh
Người đời mê mẩn loanh quanh nực cười
Oan mà giải được ai ơi
Đêm đêm cuốc chẳng hoài hơi kêu sầu
Đau, sầu, khổ ải, oan khiên là bể trầm luân của kiếp người
xưa:
Nắng mưa, sương tuyết bấy chầu
Cho đau lòng cuốc, cho sầu lòng ve
Tiếng cuốc vừa là tiếng đồng hồ thiên nhiên báo mùa - thời
gian, không gian, vừa điểm nhịp tâm trạng con người:
Trong tiếng cuốc kêu xuân đã muộn
Đầy sân mưa bụi nở hoa xoan
(Nguyễn Trãi)
Cùng với sắc mầu của trăng, của hoa, tiếng cuốc là âm thanh đặc
sắc góp cho bức hội họa thiên nhiên của tiết hè thêm diễm lệ:
Dưới trăng quyên đã gọi hè
Đầu tường lửa lựu lập lòe đâm bông
(Nguyễn Du)
Qua đèo Ngang nghe tiếng cuốc kêu, Bà Huyện Thanh Quan nghĩ về
niềm chung và tình riêng:
Nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia
"Cuốc cuốc" và "gia gia" là các âm thanh
biểu tượng cho nước và nhà đều thân thiết và mật thiết như máu với thịt, vừa hiện
hữu, vừa quá khứ - nó là lịch sử.
Nhiều người ở độ tuổi sáu mươi còn nhớ bài học thuộc lòng
trong sách Quốc văn giáo khoa thư lớp đồng ấu của Nha học chính Đông Dương in
năm 1948 và trong sách của Nhà xuất bản Trẻ tái bản sau đó có bài Vào hè giống
từng câu từng chữ bài Vào hè ở sách giáo khoa Văn lớp 4:
Ai xui con cuốc gọi vào hè
Cái nóng nung người nóng nóng ghê
Ngõ trước vườn sau um những cỏ
Hồng rơi thắm rụng tiếc cho huê
Trên cành gọi bạn chim xào xạc
Trong tối đua bay đóm lập lòe
Nay được nồm nam cơn gió thổi
Đàn ta ta gảy khúc nam nghe
(Vào hè chính là bài thơ hay có lời thơ, điệu thơ giống một
bài thơ của Dương Bá Trạc - vốn là một nhà thơ hồi đầu thế kỷ 20).
Nhà thơ Chế Lan Viên sinh thời đã kêu lên: Thế sao lại nhớ
mày hở con chim cuốc - Cái cuốc gọi hè là ở trong sách giáo khoa thư?
Con cuốc và tiếng cuốc kêu là có thật. Còn đâu là nguyên nhân
sâu thẳm về hoài niệm da diết ấy? Nguyên nhân tâm lý, tâm linh hay cảm hứng?
Tiếng cuốc không chỉ ám ảnh văn nhân thi sĩ, những người giàu
cảm xúc. Tiếng cuốc còn gây xúc động tận đáy lòng mỗi người Việt Nam, nhất là
người Việt xa xứ. Tiếng cuốc đêm đêm ngấm vào thịt xương thành một thứ tình yêu
trên tất cả mọi thứ tình yêu, đó là tình yêu Tổ quốc:
Nhủ điều chi ơi tiếng cuốc đêm sương
Kêu da diết suốt một mùa nước nổi
Bông điên điển mở cánh vàng nóng hổi
Là nắng chiều đẫm lại giữa lòng tay
Đất nước ngấm vào ta đơn sơ
như Tháp Mười không điểm trang
đầy im lặng
trên tất cả tình yêu - tình yêu này đi thẳng
đến mỗi đời ta
bất chấp những ngôn từ
Từ xưa, tiếng cuốc ngoài đời vào sách vở, văn chương thành biểu
tượng của lòng yêu nước, yêu nhà. Tiếng cuốc thời chiến là lời thúc giục mang về
chiến thắng, tiếng cuốc thời bình khiến ta xúc động tự hào về những năm tháng
hào hùng của quá khứ, nhắc ta sải bước nhanh hơn trong hiện tại để dựng xây đất
nước.
(Theo TT&VH)
TÚ XƯƠNG - KHI CƯỜI, KHI KHÓC, KHI THAN THỞ
Có thể gọi trong thơ, thần đồng của tiếng Việt là các bậc
Nguyễn Du, Cao Bá Quát, Nguyễn Khuyến, Tản Đà, Hồ Xuân Hương tới Hàn Mặc Tử,
Nguyễn Bính... Trần Kế Xương, thường gọi là Tú Xương, dường như lại là một thần
đồng đặc sắc, thêm một lần kỳ lạ.
Các nguyên tắc thi pháp cổ điển và dân gian của thơ Việt Nam,
tất thảy pháp thuật tu từ được sử dụng ở tần số đậm đặc, nhưng người đọc thấy
Tú Xương như xuất khẩu thành thơ. Hết sức tự nhiên, thanh thoát đến mức như lời
nói hàng ngày, như khẩu ngữ - dĩ nhiên vẫn là thơ, hơn thế, còn là thơ hay, thơ
trác tuyệt. Thơ của Tú Xương không thể lặp lại, ngôi sao sáng trưng trên bầu trời
Thành Nam, thắp lên vằng vặc tiếng Việt ta yêu dấu. Những động từ vang mãi
trong thời gian; không gian tiếng Việt:
Đì đẹt ngoài sân tràng pháo chuột
Om sòm trên vách bức tranh gà
Những trạng từ đắt tới mức chỉ có thể trầm trồ, suýt soa:
Ở bể ngậm ngùi khi tới lạch
Được voi ngỏng ngảnh muốn đòi tiên
(Hai từ thuần Việt đã dựng lên hai khuôn hình diễn đạt chính
xác và sống động hai trạng thái tâm lý đang diễn ra ở hai gam trầm và bổng, đặt
mau thoắt trong hai câu thơ sát nhau).
Những trạng từ được biến thành động từ mạnh như chất axít:
Đau quá đòn thù
Rát hơn lửa bỏng
Tủi bút tủi nghiên
Hổ lều hổ chõng
Những từ láy hay tới mức muốn đọc đi đọc lại:
Có một cô lái
Nuôi một thầy đồ
áo quần rách rưới
ăn uống xô bồ
... Sao dám khinh mình, thầy đâu thầy vậy
"Cô lốc cô lô", Tú Xương đã làm nảy lên những con
chữ ấy để biến nghĩa, gán nghĩa hài hước cho chúng, khiến chúng lăn đi mãi
trong thưởng thức văn chương tiếng Việt.
Trong tổng số thơ, phú, câu đối chỉ ngót một trăm bài, ta có
thể thống kê, mô tả, phẩm bình xiết bao vẻ sắc sảo âm vang, biến hiện, giản dị
và huy hoàng... của tiếng Việt ta đã được tài năng kỳ lạ của Tú Xương "nấu
nướng", "pha chế" thành những mâm cỗ vô giá truyền đời. Nhưng Tú
Xương không phải một thợ khéo, còn cao hơn thợ cả nữa, ông là một bậc thầy, một
nhà thơ bậc thầy - thần đồng của tiếng Việt.
Những người khéo, thậm chí giỏi chơi chữ, xuất khẩu thành
chương không hề quá hiếm trong lịch sử văn học và cả trong đời thường ở nước
ta. Nhưng những người có tài ấy không bao giờ đạt tới phẩm chất thần đồng - thi
sĩ. Một bậc thi sĩ thần đồng, qua chữ, qua thơ, bao giờ cũng ghi được hồn vía của
thời đại người ấy sống, cao hơn còn thấp thoáng tiên báo những điều gì... Tú
Xương đã ghi lại không phải bằng những lời lớn lối, kỳ lạ là ông đã làm cho cả
một thế kỷ lẻ bâng khuâng, bồn chồn, day dứt, chiêm nghiệm, nghĩ ngợi..., bằng
những chữ, những lời, những âm điệu và hình ảnh không thể giản dị hơn.
Chúng ta đọc lại bài thơ ông giới thiệu, than thở cho quê
hương Vị Hoàng của ông:
Nô nức qua chơi đất Vị Hoàng
Ấy nơi phong vận chốn nhiều quan
Trời xui khiến vậy, sông nên bãi
Ai khéo xoay ra phố cả làng
Khua vỗ trống, chuông, chùa vẫn vắng
Xì xèo tôm tép chợ gần tan
Việc làng, quan lớn đi đâu cả
Chỉ thấy dăm ba bác xã bàn
Một không khí cứ đi xuống dần, từ "nô nức" đến
"xì xèo tôm tép", rồi hạ xuống, xẹp xuống nữa chỉ còn "dăm ba
bác xã bàn". Của cải và chất lượng người cứ vắng vẻ dần, tàn dần. Đó là
toàn bộ quang cảnh xã hội đất nước ta cuối thế kỷ 19 khi thực dân Pháp đã xong
cuộc bình định, làm rã dần giềng mối xã hội phong kiến. Vàng son chỉ còn lưu
ánh lại trong có một câu "ấy nơi phong vận, chốn nhiều quan". Linh hồn
thời đại đau thương ngơ ngác đã chọn nhập vào người thơ thần đồng nơi góc phố
hàng Nâu ngắn ngủn thành Nam Định. Và ông đã chiết xuất, thở dài thành thi phẩm
bảy tiếng tám câu tiếng Việt chẳng ai nhớ nó vốn gốc gác ở thi pháp Trung Hoa.
Và người thuộc thơ Tú Xương lập tức nhớ đến những bổ sung thời thế cụ thể mà rất
khái quát về sự đảo lộn, đổ vỡ nhà thơ ném tiếp ra:
Nhà kia lỗi phép con khinh bố
Mụ nọ chanh chua vợ chửi chồng
Keo cú người đâu như cứt sắt
Tham lam chuyện thở những hơi đồng
Đạo lý Khổng - Mạnh, nền nếp ăn ở của dân tộc ta đã bị xé
rách, chà đạp, mọc ra những tính cách mới, mẫu người mới dị tướng, dị hình để nổ
ra những dị cảnh. Hàng loạt chân dung tự họa và biếm họa các nhân vật Thành Nam
của ông đã dựng nên một bức tranh xã hội và lịch sử sắc sảo, đau đớn. Trái tim
thi sĩ của ông bị dồn đuổi chỉ còn xa vắng vọng lên trong một tiếng gọi đò đã
thuộc về quá khứ.
... Đêm nghe tiếng ếch bên tai
Giật mình còn tưởng tiếng ai gọi đò
Chỉ có ba mươi bảy năm nhập vào vai sĩ tử lận đận, vai nhà
nghèo, vai người chồng, ông bố, thầy đồ, vai tay chơi lịch lãm và nghịch ngợm.
Cốt để Tú Xương làm trọn một cách vinh quang vai trò nghệ sĩ, thi sĩ thần đồng
của tiếng Việt.
Theo SGGP
XUÂN VỀ
Đã thấy xuân về với gió đông
Với trên màu má gái chưa chồng
Bên hiên hàng xóm cô hàng xóm
Ngước mắt nhìn giời đôi mắt trong.
Từng đàn con trẻ chạy xun xoe
Mưa tạnh giời quang nắng mới hoe
Lá nõn nhành non ai tráng bạc
Gió về từng trận gió bay đi.
Thong thả dân gian nghỉ việc đồng
Lúa thì con gái mượt như nhung
Đầy vườn hoa bưởi hoa cam rụng
Ngào ngạt hương bay, bướm vẽ vòng.
Trên đường cát mịn một đôi cô
Yếm đỏ khăn thâm trảy hội chùa
Gậy trúc dắt bà già tóc bạc
Tay lần tràng hạt miệng nam mô.
(Nguyễn Bính)
Từ thuở còn đi học, nhất là khi rời thành phố về sống hẳn ở
thôn quê, tuổi chớm lớn với chút tình cảm khác lạ le lói ở trong lòng, tôi bắt
đầu biết đến Nguyễn Bính với đôi câu thơ tình của ông vơ vẩn trong đầu. ở vào
thời ấy, những năm sáu mươi, thơ Nguyễn Bính không mấy phổ biến trong sách giáo
khoa, còn sách in thì hiếm lắm, sở dĩ tôi biết được là qua miệng lớp anh chị lớn
tuổi. Thế rồi, bầu không khí thời cuộc và sách học cho cả thế hệ chúng tôi tiếp
cận với những bài thơ, câu thơ hào hùng, hoành tráng. Phải nói rằng, những năm
tháng ấy, văn học nghệ thuật nói chung và thi ca nói riêng đã xốc cả thế hệ
chúng tôi vào cuộc hoặc trên mặt trận chống xâm lược nơi tiền phương, hoặc trên
mặt trận học tập, nghiên cứu và lao động sản xuất ở hậu phương, tuy trong sâu
thẳm cõi lòng, với chút tình cảm riêng tư, tình yêu đôi lứa, không ít người vẫn
bị ám ảnh bởi những câu thơ tài hoa của Nguyễn Bính.
Những năm gần đây, hàng loạt những tuyển tập của lớp các văn
nghệ sĩ tiền chiến được các nhà làm sách, nhà xuất bản in tới tấp. Riêng thơ
Nguyễn Bính đã có đến mấy tuyển tập khác nhau. Không hiểu thế hệ trẻ bây giờ -
thế hệ của những vi tính, ngoại ngữ, có màng gì đến hồn thơ quê mùa Nguyễn
Bính? Vào một chiều một chạp trời trở gió mùa, mây xám ùn ùn kéo kín đặc cả bầu
trời và gió bấc nổi ào ào, lá cây trên phố phường Hà Nội như trút bay rối bời
thinh không. Mọi người đi trên đường như gấp gáp hơn, dáng vẻ họ tuy vội vã
song tuyệt không mấy lo lắng gì, bởi ai cũng biết, chỉ ít ngày nữa thôi trời sẽ
ấm lên, mưa xuân sẽ rơi nhẹ và lộc nõn sẽ ứa đầu cành. Tôi đi giữa dòng người hối
hả như vậy và đầu chợt vang lên một câu thơ Nguyễn Bính "Lá nõn nhành non
ai tráng bạc/ Gió về từng trận gió bay đi...". ờ mà sao đến tận lúc này
mình vẫn chưa hề có trong tay một tập thơ nào của Nguyễn Bính nhỉ? Bèn rẽ vào một
hiệu sách ngay gần đấy...
Nguyễn Bính cảm và viết nhiều về mùa xuân. Với Mưa xuân, là hội
chèo làng Đặng, là cô gái trong khung cửi phơi phới tình xuân, thế nhưng tình
duyên cũng lỡ làng, để rồi mẹ già phán bảo "Mùa xuân đã cạn ngày". Với
Mùa xuân xanh, thì mọi chuyện cũng mới chỉ gợi mở "... Bắt đầu là cái thắt
lưng xanh". Trong xế mùa xuân, chiều xế xuân...". Sang với Nhạc
xuân, xuân là của vạn vật và thi sĩ có reo lên đi chăng nữa thì cũng chỉ là:
"Mùa xuân, mùa xuân, mùa rôi rồi/ Giờ đây chín vạn bông trời nở/ Riêng có
tình ta khép lại thôi". ở Rượu xuân, chỉ còn là xuân của sự phiền muộn nhớ
nhung "Uống đi! Em uống cho say/ Để trong mơ sống những ngày xuân
qua". Đến Xuân tha hương thì cảnh ngộ thật thê lương, Nguyễn Bính đã hơn một
lần rên rỉ: "Chao ôi! Tết đến mà không được/ Trông thấy quê hương thật não
nùng" và "Chị ơi! Tết đến em mua rượu/ Em uống cho say thật não
nùng!", để rồi sau đó "Không than chắc hẳn hồn tươi lại/ Không khóc
tha hồ đôi mắt trong/ Chị ơi! Em cưới mùa xuân nhé...". Có chăng riêng với
Thơ xuân, bầu không khí tươi vui hơn, tình xuân lai láng hơn, nhưng rồi với thi
sĩ, riêng mình với mình chỉ còn mỗi "... Một áng thơ đề nét chẳng
phai".
Vâng, chỉ riêng với Xuân về, Nguyễn Bính thật sự vui tươi với
cảnh sắc thiên nhiên, làng xóm, con người... và có lẽ trước hết bởi tự trong
lòng thi sĩ hân hoan, thơ thới tình xuân. Ngẫm toàn bộ bài thơ, từ đầu đến cuối
cứ như là có sự hiện diện lần lượt của ba ông Phúc - Lộc - Thọ. Hãy xem, Phúc với
màu hồng trên má cô gái chưa chồng, với đàn con trẻ ríu rít trong cảnh mưa tạnh,
giời quang, nắng mới hoe. Lộc với lá nõn, lưúa thì con gái, với đầy vườn hoa bưởi,
hoa cam ngào ngạt hương... Và Thọ với đôi cô trẩy hội chùa và một viễn cảnh đối
với các cô là bà già chống gậy trúc, miệng nam mô, tay lần tràng hạt...
Mỗi xuân về, mỗi lời cầu chúc Phúc, Lộc, Thọ đâu chỉ riêng niềm
mong mỏi của Nguyễn Bính hơn nửa thế kỷ trước, mà từ cổ chí kim, ai còn mong muốn
gì hơn thế?!.
(Theo Vov.news)
THƠ XUÂN NGUYỄN BÍNH
Nguyễn Bính (1918-1966) là một trong những người viết rất nhiều
thơ xuân. Nhà nghiên cứu Nguyễn Hiến Lê từng đánh giá, "chưa có bài thơ
nào tả cảnh xuân thôn quê và tình xuân thôn nữ Bắc Việt đúng và hay như bài
Xuân về" của Nguyễn Bính. Nguyễn Bính trải qua nhiều cái Tết xa nhà, vì vậy
thơ xuân của ông thường mang niềm hoài cảm và tâm trạng cô đơn.
Chắc là tôi không lầm, khi nói: So với các nhà thơ xưa nay của
chúng ta, Nguyễn Bính (1918-1966) là người làm thơ về mùa xuân nhiều nhất.
Có thể giải thích bằng mấy lý do: nhà thơ yêu mùa xuân hơn
các mùa khác trong năm; hơn nữa, miền quê Nam Định - nơi ông sinh trưởng - giàu cảnh
sắc và thơ mộng, thi vị - nhất là trong những ngày xuân - đã hấp dẫn ông; lại nữa,
trong nhiều năm trước Cách mạng Tháng Tám, Nguyễn Bính phải tha hương, trôi nổi
từ bắc đến nam, phải sống nhiều cái Tết xa nhà - mà, hơn bao giờ hết, Tết lại là
thời gian dành cho gặp gỡ, sum họp...
Đây là cảnh Xuân về (1937) ở một miền quê qua cái nhìn của
Nguyễn Bính:
Từng đàn con trẻ chạy xun xoe
Mưa lạnh, trời quang, nắng mới hoe
Lá nõn nhành non, ai tráng bạc?
Gió về từng tận, gió bay đi...
Thong thả dân gian nghỉ việc đồng,
Lúa thì con gái mượt như nhung,
Đầy vươn hoa bưởi, hoa cam rụng,
Ngào ngạt hương bay, bướm vẽ vòng.
Trên đường cát mịn, một đôi cô
Yếm đỏ, khăn thâm, trẩy hội chùa
Gậy trúc dắt bà già tóc bạc
Tay lần tràng hạt, miệng nam mô.
Cảnh xuân đẹp làm nhà thơ hồn nhiên tạo một câu thơ có cấu
trúc lạ như là thơ viết cho trẻ con: Gậy trúc dắt bà già tóc bạc (chứ không phải
cách nói thông thường: bà già tóc bạc chống gậy trúc). Nó gần như sự hồn nhiên
trong cấu trúc một câu thơ Xuân Diệu thời bấy giờ, nói về tình yêu: Bữa nay lạnh,
mặt trời đi ngủ sớm vậy. Cho dù còn có đôi câu xa với tình quê (không trích ở
đây) và vài từ dùng chưa đắt, Xuân về vẫn là một bài thơ đẹp. Nhà nghiên cứu
Nguyễn Hiến Lê (1912-1984) viết trong hồi ký của ông: "Tôi chưa thấy bài
thơ nào tả cảnh xuân thôn quê và tình xuân thôn nữ Bắc Việt đúng và hay như bài
Xuân về".
Ở Mùa xuân xanh (1937) lại cũng vẫn cảnh quê êm ả, thanh
bình, nhưng gắn với tình yêu trai gái và được choán ngợp bởi một mầu xanh: xanh
của bầu trời, cây lá, đồng lúa, bãi cỏ, lũy tre, chiếc thắt lưng của cô thôn nữ
cũng mầu xanh:
Mùa xuân là cả một mùa xanh,
Giời ở trên cao, lá ở cành;
Lúa ở đồng tôi và lúa ở
Đồng nàng và lúa ở đồng anh.
Cỏ nằm trên mộ đợi thanh minh,
Tôi đợi người yêu đến tự tình,
Khỏi lũy tre làng tôi nhận thấy
Bắt đầu là chiếc thắt lưng xanh.
Dẫu sao, đó mới là dáng vẻ bên ngoài của tự nhiên, của con
người vốn chưa phải là nét chủ đạo trong thơ Nguyễn Bính. Tâm tư, tình cảm của
những người dân quê và của chính nhà thơ mới là dấu ấn đậm của thơ ông. Cô thôn
nữ trong Mùa xuân (1936) xin phép mẹ sang thôn Đoài xem chèo, thật ra là để đi
gặp người yêu, mà không gặp được! Lúc đi thì vui phơi phới với cả đất trời: Mưa
bụi nên em không ướt áo và Thôn Đoài cách có một thôi đê! Lúc về thì vì
"người buồn" cho nên "cảnh" cũng buồn áo mỏng che đầu mưa nặng
hạt và Có ngắn gì đâu một dải đê! Cô lái đò (1940) trong tâm trạng Xuân đã đem
mong nhớ trở về, mà "người khách tình" thì Đã mấy lần xuân trôi chảy
mãi/ Đi biệt không về với bến sông, cô đành "đi lấy chồng", và "từ
dạo ấy" Để buồn cho những khách sang sông! Chén Rượu xuân (1940?) người
con trai mười người con gái uống là một cách từ biệt, để cô đi "dệt mộng
cùng người", để "Lẻ loi riêng một góc trời riêng anh"... (Câu
thơ này, theo tôi, hay hơn hẳn câu ở bản cũ: "Lẻ loi xuân một góc trời
riêng anh").
Tuy nhiên, những mùa xuân xa quê mới đem lại cho Nguyễn Bính
một nỗi buồn ghê gớm. Ông có bài Xuân tha hương - 1941 viết ở Huế, đề "Gửi
chị Trúc", nói cảnh một mình đón xuân:
Thiên hạ đua nhau mà sắm Tết,
Riêng mình em vẫn cứ tay không.
và nhất là đón xuân trong tâm trạng
Chao ôi, Tết đến, em không được
Trông thấy quê hương, thật não nùng!
cũng vì vậy mà
Chị ơi, Tết đến, em mua rượu,
Em uống cho say đến não nùng.
Uống say cười vỡ ba gian gác...
Cái tên bài thơ này - Xuân tha hương - đã được người ta lấy
làm tên chung cho một tập thơ Nguyễn Bính viết về mùa xuân!
Một mùa "xuân tha hương" khác, nhà thơ ngồi trong Quán
trọ (1942) mà than thở:
Dang dở một thân nơi đất khách
Tết này ta lại ngắm hoa suông!
Nguyễn Bính còn trải qua một cái Tết biên thùy - 1941 buồn
bã, với tư thế Ngồi xếp bằng tròn trong ải lạnh ở một khung cảnh không còn gì
não nề hơn:
Ải xa không pháo giao thừa nổ,
Mưa rét tươi bời, mưa rét thêm!
Tiêu biểu cho những mùa "xuân tha hương" của Nguyễn
Bính chính là lời than này:
Chẳng đợi mà xuân vẫn cứ sang!
Đôi khi gặp lúc tâm hồn thư thái lắm, Nguyễn Bính mới có được
một giọng điệu thanh thản, như trong bài Tết của mẹ tôi (1942?) Nhà thơ kể lại
khá tỉ mỉ công việc của người mẹ từ mấy ngày cuối năm đến hết ba ngày Tết, với
giọng thương cảm, và vẫn không thoát được nỗi buồn, có điều đây là một nỗi buồn
có tính chất khác:
Xong ba ngày Tết, mẹ tôi lại
Đầu tắt mặt tối nuôi chồng con...
Chắc là bài thơ được viết vào một buổi nào của năm mới, nhà
thơ bất giác nhớ đến mẹ mà hình dung ra, chứ như ta biết, Nguyễn Bính mồ côi mẹ
từ lúc mới sinh được có mấy tháng!
Có lẽ, trước Cách mạng Tháng Tám, chỉ có một lần Nguyễn Bính
thực sự vui khi Tết đến. Giọng thơ hồn nhiên và nghịch ngợm, trong bài Bướm đi
chợ (1940), chưa bao giờ thấy trong thơ Nguyễn Bính viết về mùa xuân:
Có hai chị bướm đi chơi chợ,
Chị áo hồ lơ, chị áo điều.
Chị áo hồ lơ thầm hỏi bạn:
"- Mùa xuân, mày biết giá bao nhiêu?"
Chị áo điều nghe, cười ngặt nghẽo:
"- Mùa xuân đắt lắm, cô mình ơi!
Trăm quan hồ dễ mà mua được!
Cố áo mà mua, tớ chịu thôi!"
Sau Cách mạng, Nguyễn Bính vẫn làm nhiều thơ xuân, như Trở về
quê cũ và bài thơ dài hơn hai nghìn câu Tiếng trống đêm xuân (1957), hay Bạch
đào và Xuân mới gửi bạn cũ (1959)... ở đó, tình quê, cảnh quê ngày xưa, ngày
nay quyện với nhau trong những kỷ niệm. Nguyễn Bính còn có những bài thơ gửi
vào miền nam, nơi đó có vợ con ông, mà lại một lần ông phải cách xa, trong nỗi
đau đất nước bị chia cắt: Thư Tết (1955), Xuân nhớ miền nam (1956)... Còn bài
Mưa xuân (1958) thì thơ mộng như những gì thơ mộng Nguyễn Bính đã từng viết về
đồng quê xứ bắc trước Cách mạng:
Bãi lạnh bờ dâu sẫm lá tơ
Làng bên ẩm ướt giọng chuông mờ
Chiều xuân lưu luyến không đành hết
Lơ lửng mù sương phảng phất mưa...
Đọc thơ xuân Nguyễn Bính - những bài thơ viết trong suốt một
phần tư thế kỷ với tình cảm vui buồn của nhân tình thế thái, dù còn gặp những
chỗ chưa được như ý về câu, về chữ, về tình, ta vẫn được sống lại khá đầy đủ với
cảnh sắc và con người thôn quê mà đời sống thị thành thời hiện đại nhiều khi
làm ta quên mất...
Hồng Diệu
ĐỌC VIẾNG LĂNG BẮC CỦA VIỄN PHƯƠNG
Trong những đất nước đang tiến hành cuộc kháng chiến chống Mỹ
cứu nước, giải phóng miền Nam sắp đến thắng lợi hoàn toàn, nhà thơ Viễn Phương
được ra Bắc viếng lăng Bác. Trước khi chia tay, nhà thơ đã để lại một bài thơ
bày tỏ niềm cảm xúc sâu xa, tình yêu thương vô hạn và lòng cảm phục, tôn kính của
mình đối với Bác Hồ vĩ đại-người từng lái con thuyền cách mạng Việt Nam đi từ
thắng lợi này đến thắng lợi khác:
"Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng"
Đoạn thơ mở đầu gợi ra cảnh tượng thiêng liêng, thành kính.
Tác giả xưng "con" - đứa con bao năm xa cách nay mới được trở về đứng
trước lăng mộ của vị cha già dân tộc. Cách xưng hô đó còn gợi lên một tình cảm ấm
áp gần gũi tình cảm trong gia đình. Tình cảm gần gũi ấm áp đó còn được thể hiện
qua hình ảnh" hàng tre bát ngát" trong sương. Hàng tre quen thuộc biết
bao. Từ bao đời nay tre vẫn được xem là bản lĩnh, cốt cách con người Việt Nam.
Một hình ảnh thật có ý nghĩa.
Tác giả tiếp tục mạch suy tưởng khi đứng trước lăng Người:
"Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ
Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ,
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân..."
Mặt trời ngày ngày đi qua trên lăng là mặt trời của vũ trụ, của
thiên nhiên. Mặt trời soi sáng tất cả thế gian. Mặt trời thượng tượng trưng cho
chân lý. Dưới ánh mặt trời, mọi vật, mọi việc đều sáng rỏ. Chỉ mặt trời đỏ mới
nhìn và "thấy mặt trời trong lăng rất đỏ". "Mặt trời trong
lăng" chính là hình ảnh Bác Hồ vĩ đại với trái tim rực đỏ. Trái tim ấy, mặt
trời ấy mãi mãi soi sáng cho dân tộc Việt nam, mặt trời thiên nhiên, mặt trời
vũ trụ được nhân hoá thể hiện niềm cảm phục của nhà thơ đối với sự nghiệp, con
người, cuộc đời của Bác. Nhà thơ còn sáng tạo hình ảnh dòng người kết thành
"tràng hoa" dâng bảy mươi chín mùa xuân để thể hiện tấm lòng nhân dân
cả nước hướng về Bác.
Khi vào trong lăng tác giả lại tiếp tục suy tưởng:
"Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim"
Với dân tộc Việt Nam, Bác Hồ không bao giờ mất, Bác vẫn sống.
Nằm trong lăng chỉ là giây phút nghỉ ngơi của Bác. Bác ngủ bình yên thanh thản
bới Bác đã cống hiến tất cả cuộc đời mình cho đất nước, cho dân tộc. Bác đang nằm
"giữa một vầng trăng sáng dịu hiền. Đây cũng là hình ảnh ẩn dụ "vầng
trăng sáng dịu hiền” chính là tấm lòng của nhân dân đối với Bác. Tác giả bày tỏ
niềm tiếc thương vô hạn đối với Bác: "Vẫn biết trời xanh là mãi mãi".
Vẫn biết Bác không bao giờ mất nhưng sự thật là sự thật! Bác đã vĩnh viễn ra
đi. Cái "đau nhói trong tim" không chỉ là nỗi đau của riêng nhà thơ
mà là nỗi đau của tất cả mọi người.
Tác giả chia tay Bác trong niềm cảm xúc dâng trào:
"Mai về miền Nam thương trào nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng.."
Viễn Phương bộc lộ một cách thành thực ý nghĩ, tình cảm của
mình đối với Bác. Đó là phong cách của đồng bào Nam Bộ: rõ ràng, dứt khoát. Đó
cũng là tình cảm của nhân dân miền Nam đối với Bác. ước nguyện của tác giả hết
sức giản dị mà sâu lắng: muốn làm con chim, muốn làm đóa hoa, muốn làm cây
tre... ước nguyện ấy thật chân thành và cảm động. Đó là sự vấn vương lưu luyến của
tất cả những ai đã có dịp viếng lang Người.
Mở đầu bài thơ là hình ảnh hàng tre, kết thúc bài thơ là hình
ảnh cây tre hiền lành, quen thuộc. Nhưng đây cũng là một lời hứa của tác giả
trước an linh của Bác: luôn giữ mãi cốt cách, phẩm chất của người Việt Nam!
"Viếng lăng Bác" của Viễn Phương vừa giàu hình ảnh,
vừa giàu trữ tình đằm thắm. Bài thơ đã thể hiện một cách chân thành sâu sắc
tình cảm của tác giả, của đồng bào miền Nam đối với vị lãnh tụ kính yêu.
"Viếng lăng Bác" đã được phổ nhạc trở thành một trong những bài hát
được nhân dân cả nước yêu thích.
ĐỌC LẠI BÀI THƠ NGUYÊN TIÊU CỦA BÁC HỒ
Bài thơ này được Bác Hồ sáng tác vào đúng dịp Rằm tháng
Giêng, năm Mậu Tý (1948), miêu tả cảnh đêm trăng, và buổi họp bàn việc quân của
Bác bí mật trên sông nước ở chiến khu Việt Bắc, khởi đầu kế hoạch cho cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp lúc đó đang bước sang năm thứ ba. Bài thơ
"Rằm tháng Giêng" còn là một bài thơ tả cảnh để tả tình-bài thơ của một
bậc thi nhân - bài thơ của một chiến sĩ cách mạng lỗi lạc.
Nguyên tác của Bác viết:
Kim dạ nguyên tiêu nguyệt chính viên
Xuân giang, xuân thuỷ, tiếp xuân thiên
Yên ba thâm xứ đàm quân sự
Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền
Ông Xuân Thủy dịch bài thơ trên của Bác như sau:
Rằm xuân lồng lộng trăng soi
Sông xuân nước lẫn màu trời thêm xuân
Giữa dòng bàn bạc việc quân
Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền
Cảnh mùa xuân của Bác trong bài thơ "Rằm tháng
Giêng" là một bức tranh, sao vô cùng khoáng đạt:
Rằm xuân lồng lộng trăng soi
Sông xuân nước lẫn màu trời thêm xuân
Chỉ trong hai câu thơ tả cảnh đó, Bác dùng tới ba từ xuân
liên tiếp một cách ngẫu nhiên mà rất có dụng ý nghệ thuật. Mỗi từ xuân để tả một
hình ảnh: Trăng Sông Bầu trời. Miêu tả ba hình ảnh đó, Bác dùng từ "lồng
lộng" và "lẫn" chính xác và khéo léo thuần thục trong ngôn từ
như một hoạ sĩ danh tiếng có tài pha màu, phác thảo cảnh vật... vẽ nên một bức
tranh xuân hài hòa và trải rộng khắp mênh mông.
Mùa xuân đến không chỉ trên những chồi non lá biếc, mà tất cả
vầng trăng đến dòng sông, bầu trời trong thơ Bác lúc này đều đầy sức sống của
mùa xuân: "Rằm xuân lồng lộng trăng soi".
Rằm xuân cũng là ngày Rằm tháng Giêng - một đêm trăng rằm tuyệt
đẹp một vẻ đẹp đến ngỡ ngàng.
Trăng trở thành trung tâm kỳ vĩ của vũ trụ trong đêm rằm
xuân - trăng trải rộng trên dòng sông - đem mùa xuân kỳ diệu đến cho dòng sông.
Mùa xuân có chiều cao và chiều sâu tận cùng trong ánh trăng soi. Một mùa xuân
bát ngát trong tầm mắt của Bác. Vượt ra khỏi khung cảnh Việt Bắc trở thành hình
tượng đẹp đẽ của bầu trời tự do, của mùa xuân đất nước mà Bác cảm nhận thấy từ
ánh trăng rằm trong những tháng ngày còn gian khổ. Có nghĩ đến điều ấy, ta mới
càng thấy được phong thái ung dung và lạc quan cao đẹp của Bác. ẩn sau cảnh
trăng xuân đó là hình ảnh của ngày mai tươi sáng đang đến gần. Ngày mai đó được
bắt đầu bằng những kế hoạch và công việc rất cụ thể, rất thực tế của Đảng ta và
của Bác:
Giữa dòng bàn bạc việc quân
Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền.
Đêm trăng rằm vắng lặng, êm dịu như bức tranh thuỷ mặc, trở
nên sống động và thơ mộng bởi có sự góp mặt của những con người bất tử, đang
chèo lái con thuyền cách mạng đi đến thắng lợi hoàn toàn. ở đó, có Chủ tịch Hồ
Chí Minh - nhà thơ và người chiến sĩ cách mạng kiên cường đang "bàn bạc việc
quân". Bài thơ kết lại bằng một câu ngân vang cao vút và đầy thi vị:
"Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền". Đêm khuya không hề có bóng
tối, ánh trăng tỏa sáng khắp cả không gian. Hình ảnh con thuyền trở thành một hình
ảnh liên tưởng và lãng mạn tuyệt đẹp - con thuyền như chở đầy ánh trăng. Đó là
hình ảnh của con thuyền cách mạng đang chở đầy chiến thắng, chở đầy niềm tin,
đang đi tới tương lai rực rỡ huy hoàng.
Dường như bài thơ nào của Bác cũng kết thúc bằng những câu
thơ bất ngờ và tuyệt đẹp như thế. Từ vẻ đẹp của nghệ thuật, vẻ đẹp của thiên
nhiên đã toát lên sức mạnh tinh thần mãnh liệt của người chiến sĩ cách mạng.
Lời bình của Nguyễn Duy Cách
YẾN LAN - BẾN SÔNG VÀ PHỐ HUYỆN
Bến My Lăng của Yến Lan là cái bến sông huyền ảo vang bóng
trên thi đàn, gắn liền với tên tuổi của nhà thơ mỗi khi người ta nhắc đến. Đã
hơn một lần Yến Lan giải thích rằng nó bắt nguồn từ một bến đò thật, bến Trường
Thi, cách thị trấn Bình Định nơi ông ở khoảng mấy dặm đường. Mỗi lần qua bến
sông này, nhìn đồi cát cong cong tựa bờ mi thiếu nữ, lòng khách văn chương
không thể không thao thiết cùng những dòng thơ xa xăm:
"Bến My Lăng nằm không thuyền đợi khách
Rượu hết rồi ông lái chẳng buông câu
Trăng thì đấy rơi vàng trên mặt sách
Ông lái buồn để gió lén mơn râu..."
Đó là một bến sông đẹp, đẹp đến não lòng, nơi xưa kia người
cha của Yến Lan đã lần theo tiếng hát để đến với mẹ ông, một thôn nữ quay xa, dệt
lụa, thường gửi hồn bằng những khúc dân ca say đắm. Mối tơ duyên đẫm đầy thi vị
ấy đã sản sinh ra một người con, thi sĩ ngay thuở mới vừa lọt lòng:
"Quê ngoại bên kia bãi cát vàng
Mẹ tôi về lỡ chuyến đò ngang
Cơn đau trở dạ không giường chiếu
Năm Yến Lan lên sáu, mẹ ông ốm nặng, nằm liệt giường. Gần 3
năm Yến Lan được cha sai hàng ngày đưa cơm cho mẹ và thỉnh thoảng xế chiều lại
thêm bình tích bánh canh. Cha Yến Lan làm nghề đậu hoa trên vải. Một hôm, cha
ông nhận được một mẫu hàng từ Thượng Hải, hoa văn rất phức tạp. Hai ngày liền,
cha ông không đậu được hoa. Mẹ ông từ buồng bệnh bước ra cửa hỏi và dùng tay ra
hiệu cho chồng cách đậu hoa. Quả nhiên cha ông hoàn tất được mẫu hàng. Như mọi
hôm, Yến Lan đưa cơm vào cho mẹ. Nhưng hôm đó, mẹ ông không còn ăn được nữa.
Máu bà ra từ mũi, miệng. Đến cuối chiều thì bà đã lạnh cứng chân, tay.
Đêm đó, Yến Lan đi cùng người láng giềng đưa tin về quê ngoại.
Đến đoạn đường qua Gò Tập là nơi người ta đồn đại rất nhiều về chuyện ma
đưa võng. Yến Lan quýnh chân. Người láng giềng cất tiếng gọi đò. Ông cậu của Yến
Lan nằm ngủ trong thuyền giật mình chống đò hớt hải sang. Ấn tượng về tiếng gọi
đò não ruột trong đêm trăng sương lạnh lẽo ấy ám ảnh Yến Lan đến suốt đời. Những
năm vào tuổi bát tuần, ông vẫn còn thường nhắc đến chuyện này với đôi mắt rấn lệ.
Ông thú nhận rằng ngày xưa bài thơ Bến My Lăng của ông ra đời trong lúc xuất thần
của ấn tượng tiếng gọi đò thuở bé.Mẹ Yến Lan mất ít lâu, cha ông lấy vợ kế, Yến
Lan phải chịu đựng cảnh mẹ ghẻ con chồng. Ông chia bùi sẻ ngọt với cây thị chùa
Ông, nơi ông trải qua tuổi thơ cay đắng. Cây thị ngót trăm tuổi như người bạn lớn
vỗ về, chở che và lòng ông ràn rụa thương cảm:
"Đêm mưa tí tách nhà tranh dột
Thị nới mình che nửa mái ngoài
Sáng dậy nghe chim run tiếng hót
Mới hay cây lạnh suốt đêm dài..."
Và cậu bé Yến Lan rách rưới thiếu thốn, nhờ cây thị mỗi mùa
trái, hái bán dành dụm tiền may áo:
"Trái ra chợ bán lành thân áo
ơn thị thay phần mẹ dưỡng nuôi..."
Thị trấn Binh Định có thành cổ rêu phong, có vó ngựa rời rạc,
có tiếng trống thu không, có những trái thị vàng đầy ân tình như thế là nơi Yến
Lan tạo dựng nghiệp thơ.
"Đây là chốn nương mây và cậy nguyệt
Đàng chờ xe sông nước ước mong thuyền
Tịch dương liễu không biết mình đương biếc
Tương tư trời tương tư nhạc triền miên"
Yến Lan đã mô tả về một Bình Định 1935 như thế. Một Bình Định
có người con trai đơn lẻ:
"áo chàng xanh lam lũ
Trời ơi trời đừng mưa"
Trước cuộc tình rụt rè không giám nói. Một Bình Định với
không khí trầm buồn nhưng đầy quyến luyến, trăn đi trở lại trong thơ Yến Lan
ngày ông tập kết, sống trên miền Bắc:
"Thương tuổi nhỏ ta nghèo
Thầy giáo già nghiêm khắc
Đời phố huyện đìu hiu
Trăng tình lên ngơ ngác
Những vần thơ ban đầu
Từ bóng cô hàng xén
Đến tiếng vọng còi tàu
Không một lời hứa hẹn"
Bến sông cũ phố huyện xưa mở rộng vòng tay đón người thi sĩ
sau cuộc chiến tranh trở về. Cuộc sống đã đổi khác nhưng khung trời kỷ niệm còn
đó, những mùa bông gòn bay, những cánh chim mòng két thiên đi, chuyến xe ngựa mỗi
hoàng hôn và sớm mai leng keng tiếng nhạc. Giống như nhà Quách Tấn bên chợ Đầm
Nha Trang, nhà Yến Lan kề ngay chợ Bình Định, hai ông đều thường nhắc câu
"Thị náo cư di tịnh" của bậc tiền bối Đào Tấn như một phương pháp sống.
Bởi vậy dù khi ốm đau thiếu thốn hay giữa huyên náo của quang cảnh ông vẫn tìm
được chất thơ của đời:
"Nhà không vườn không gác không sân
Tôi nợ đời rau trái tôi ăn
Nợ hàng xóm trưa hè bóng mát
Nợ em cài bên cửa một vầng trăng"
Trên mảnh đất này, vầng trăng của Yến Lan, cái "vầng
trăng vẫn thường ám ảnh các nhà thơ Bình Định" như Hoài Thanh đã nhận xét
trong Thi nhân Việt Nam, lại khi hao khuyết, khi viêm mãn theo từng cung bậc của
hoài niệm và dự tưởng. Trong những vần thơ của ông, bóng trăng vừa lay động vừa
an tĩnh trong từng hơi thở. Và bản thân nó toát lên linh hồn của con người, con
người đa đảm và dầu dãi trong khung cảnh vừa thanh thoát vừa trần thế. Những
tâm tình thật sâu thật nặng của trọn một khiếp người mặn nhạt chua cay ngọt bùi
từng nếm trải, Yến Lan gọi là Chút lòng để lại:
... Đi còn ngoảnh mặt ngùi trông
Cái qua đã khuất biệt dòng thời gian
Lòng thôi tròn khuyết theo trăng
Tình còn cắn Bến My Lăng gọi đò
Trăm năm làm mộc hẹn hò.
Nguyễn Thanh Mừng
DIÊM
Có người ví tình yêu như vỏ với que diêm
Nhưng em không nghĩ thế
Bởi que diêm chỉ một lần sáng lóe
Còn vỏ bao làm cháy đến trăm lần
Em không thể là phần sẫm nơi vỏ bao kia
Để làm sáng
Rồi đốt lịm những que diêm mỏng manh
Nơi hết lần này đến lần sau lấp lánh
Rất đa tình rồi phụ bạc như không
Nhưng em vẫn sẵn sàng làm chiếc que
Dám đốt cả trái tim diêm sinh bé xíu
Cháy đến tận cùng thân tăm trắng trẻo
Dù kiếp tàn nhưng hiểu đã được yêu
Dẫu cho anh có tham đến bao nhiêu
Và sau những cuộc tình chỉ dăm ba vết xước
Không oán hờn đâu vì em tin mình được
Chứ yêu nhiều, bạc phếch có gì đâu
Nếu muốn suốt đời ở mãi bên nhau
Thì câu ví kia xin người rút lại
Bởi cái ngắn ngủi khác xa cái còn lại
Mà tình yêu cần đi suốt cuộc đời.
(sưu tầm)
"Đố ai định nghĩa được tình yêu"
(Xuân Diệu)
Tình yêu đủ mọi cung bậc thanh âm, biến hoá thâm trầm, và là một
khái niệm trừu tượng nhất trong phạm trù nghệ thuật.
Thế mà tự cổ chí kim, từ Đông sang Tây, lại có bao người lặn
lội cả cuộc đời để tim cho mình một định nghĩa về tình yêu.
Không kể chiếc lá diêu bông của cậu bé 8 tuổi Hoàng Câm, biết
bao đôi lứa yêu nhau cũng tìm riêng cho mình một câu định nghĩa thật hay để rồi
thì thầm vào tay anh chàng (cô nàng): "Đố anh (em), tình yêu là gì?"
trong số vô vàn những lý giải tình yêu đó, "có người ví
tình yêu như vỏ với que diêm", bởi lẽ hai vật ấy phải đi đôi với nhau, có
cọ xát với nhau mới phát huy tác dụng; còn không chỉ là vật vô dụng => thể
hiện cho sự gắn bó mật thiết với nhau.
"Nhưng em không nghĩ thế
Bởi que diêm chỉ một lần sáng loé
Còn vỏ bao làm cháy cả trăm lần"
"Em" suy nghĩ đến mặt khác của cái gọi là tình yêu
kia: Khi hai người yêu nhau, có lẽ họ không đòi hỏi sự công bằng: anh phải yêu
em nhiều như em đã yêu anh, hay ngược lại; nhưng sự bất bình đẳng chính là cái
chấm rạn cho tình yêu.
Em không thể là phần sẫm nơi vỏ bao kia
Để làm sáng
Rồi đốt lịm những que diêm mỏng manh
Nơi hết lần này đến lần sau lấp lánh
Rất đa tình rồi phụ bạc như không
Nhưng em vẫn sẵn sàng làm chiếc que
Dám đốt cả trái tim diêm sinh bé xíu
Cháy đến tận cùng thân tăm trắng trẻo
Dù kiếp tàn nhưng hiểu đã được yêu
Cô gái không bằng lòng làm một chiếc bao đa tình, mồi lửa cho
bao que diêm cháy sáng, thế nhưng cô sẵn sàng làm chiếc que, thà một phút có
anh rồi vĩnh viễn ra đi còn hơn không bao giờ có anh trong đời. Đức tin, đức hy
sinh ấy đẹp quá, đó chính là bằng chứng cho tình yêu đích thực. Rõ ràng, không
cần phải thề ước cao xa, một câu nói đơn giản thôi cũng đủ sáng tỏ cả tấm lòng
cao rộng.
Khi đến với tình yêu, người con trai thường trông đợi những
giây phút nồng nàn, còn người con gái lại khắc khoải một nỗi bình yên. Cô gái
trong bài thơ này cũng vậy, cô khao khát được yêu, và đó phải là một tình yêu
chắc chắn, bền vững.
Sưu tầm
























Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét