Đà Lạt năm ấy đón chúng tôi bằng một đợt áp thấp nhiệt đới
dài. Mưa không lớn, chỉ rả rích, nhưng ở lưng chừng phố núi, hình như những hạt
nước dày hơn, nặng trịch một niềm cô độc lạnh giá. Những kiếp mưa bay trên núi
lúc nào cũng vậy. Không theo gió viễn du giữa mênh mông đại dương, không phiêu
lãng cùng những chuyến mây xa để rơi xuống đồng bằng, làm bạn với nương ruộng,
song hành trình của chúng rất có thể phải dừng lại trên một đỉnh đèo hoang dại,
trơ trọi cây cỏ hay giữa một con suối độc hành nơi rừng sâu. May mắn lắm những
hạt mưa núi cao mới có thể kết thúc vòng đời vội vã của mình giữa bạt ngàn sóng
nước hồ Xuân Hương, đêm đêm nghe mùi khoai lang nướng thơm và tiếng người huyên
náo vọng ra từ chợ Âm phủ.
Trong màn mưa thênh thang giữa cao nguyên Lâm Viên năm ấy,
chúng tôi đến thăm Trúc Lâm thiền viện.
Chùa nằm trên một ngọn núi cao, quanh năm trầm mặc say ngủ
trong sương mây. Dưới làn mưa mỏng, tòa thiền viện do sư thầy Thích Thanh Từ đặt
đá xây dựng từ năm 1994 càng thêm vẻ bí ẩn mơ màng như đang vân du trong cơn mơ
trời đất. Những bụi hoa rừng được trồng dày trước sân chùa chưa vội bung nở như
cố e ấp những giọt nước của trời, níu giữ một giấc ngủ vô ưu.
Vậy mà, khi vị sư già trong chánh điện thiền viện trầm ngâm lấy
tay dùi bằng gỗ màu nâu sẫm gõ mạnh vào cái chuông lớn, màu đồng sáng choang
trên ban thờ tam bảo, thì một thanh âm thăm thẳm kéo đến, vang động ra mênh
mông, khiến rặng hoa ngủ quên và những quầng mây xám ngoét trên đỉnh Phụng
Hoàng như bừng tỉnh. Tiếng chuông vang đi rất nhanh, vượt qua màn mưa mỏng và bầu
khí rét ngọt, sanh sánh hơi ẩm của cao nguyên chiều chớm thu, tỏa đi chung
quanh. Một phần vọng ra làm lao xao trảng rừng thông u mặc bên bờ hồ Tuyền Lâm
rồi dần lan về phía những thung lũng huyền hoặc thâm u dưới chân đèo Prenn. Phần
bay dìu dặt về phía thành phố.
Trong một khoảnh khắc mơ hồ, chẳng hiểu vì sao những lữ khách
nơi núi cao, dù đang mê say chiêm ngắm sắc vẻ thanh tú của những khóm hoa rừng,
lại chợt chững lại, vô thức lắng tai nghe tiếng chuông vọng đến. Ban đầu là một
thứ âm vang trong vắt, thanh khiết, từng sợi âm mỏng nhưng đầy uy lực ngay lập
tức kích tạo một thoáng run rẩy kỳ diệu nơi màng nhĩ. Rồi sau đó, rất nhanh,
xung động ấy nhường chỗ cho một chuỗi các nốt trầm vang, càng về sau cao độ
càng thấp dần, âm lực cũng nhỏ lại để cuối cùng tan đi giữa thinh không, hệt
như một làn sương mỏng âm trầm biến mất mỗi khi bình minh bắt đầu rực rỡ. Lắng
tai nghe tiếng chuông bay trên đỉnh Trúc Lâm, người ta bỗng thấy cái thân xác
thô kệch và những nỗi đoạn trường của đời mình thu bé lại chỉ còn bằng một hạt
bụi nâu, trơ trọi giữa mênh mông xa xôi, giữa cái khoảng không vô tận thoát
thai từ những vọng âm của tiếng chuông sơn tự. Tiếng chuông càng vang xa, càng
nhỏ lại thì khoảng không ấy càng lớn rộng, nhưng hình nét của nó lại nhòe tan
đi để cuối cùng chìm vào một vùng sa mù. Đứng chơi vơi giữa trời đất thiên thu ấy,
các ý nghĩ tạp nhạp trong đầu như được tẩy rửa, chợt nhẹ hẫng, vút lên giữa trời
cao rồi bay biến đi đâu mất trong một cõi hư vô tĩnh tại. Tâm trí tịnh sạch, trống
rỗng như một lạch nước mơ màng trôi đi giữa rong rêu và mây khói, chưa một lần
biết đến trần ai…
Nghe tiếng chuông thiền viện vọng vang trên đỉnh Phụng Hoàng
năm ấy, mới hay có một chân lý giản dị mà không nhiều người nhận ra, rằng một
âm thanh sinh ra là để vang đi. Đời sống của nó, dù đôi khi rất ngắn ngủi, song
không chấp nhận một số kiếp quẩn quanh tù đọng. Nó cho thấy sự hiện hữu của
mình giữa đời chính bằng cái cách mà nó tỏa đi, vang động ra chung quanh và kiến
tạo nên những khoảng đồng vọng bát ngát.
Một thứ âm thanh tuyệt mĩ không cần phải là những vang động
đa sắc, những xập xình giần giật kích thích tai nghe, mà ngược lại, nó thường ẩn
mình trong một thù hình mộc mạc, bé nhỏ hoặc đơn điệu song lại có khả năng kích
nhạy không chỉ thính giác mà còn mời gọi toàn bộ ngũ quan, máu nóng, xác thịt
và tâm cảm người ta rầm rộ bước chân vào một vũ điệu bất tận của tưởng tượng, mở
ra một khoảng mênh mông của ký ức và những nỗi xúc động diệu kì, không khác gì
một vụ Big Bang thánh linh mà ở đó, từ một tồn tại bé nhỏ có thể bùng vỡ thành
một vũ trụ khổng lồ sâu thẳm. Chính từ đây, vẻ đẹp của một âm thanh mới thực sự
phát lộ. Một vẻ đẹp vô hình huyễn ảo vượt lên trên mọi giác quan và tri giác
thường nghiệm. Cái đẹp của minh triết trầm sâu.
Ngoái nhìn lại di sản hàng ngàn năm của thơ ca phương Đông,
ta không khó để nhận thấy ít nhiều những hình bóng tương chiếu lối tư duy ấy.
Các thi nhân xưa thường kỳ khu thiết đặt những không gian rộng lớn, mang tầm
vóc vũ trụ mỗi khi muốn nhắc đến, muốn khắc họa một âm thanh đặc biệt. Ngược lại,
chính những thanh âm ấy vừa là nguồn khơi mở, thổi hồn vào cái bát ngát của thực
tại, vừa tạo dựng nên trong hồn người những cõi tri cảm mênh mông.
Hơn ngàn năm trước, có lữ khách đậu thuyền nơi bến Phong Kiều,
giữa giấc mộng tịch mịch chợt nghe một tiếng chuông thoảng bay đi từ ngôi chùa
Hàn San nằm cheo leo trên một đỉnh mây trắng ngoài thành Cô Tô: Cô Tô thành ngoại
Hàn San tự/ Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền (Ngoài thành Cô Tô có chùa Hàn
San/ Tiếng chuông nửa đêm vẳng đến thuyền khách). Giữa lập lòe những đốm lửa
thuyền chài, cái thanh âm thanh thoát loang ra khắp mặt sông đêm đầy sương làm
dịu lòng một kẻ cô sầu thất thế, khiến hồn thơ bụi bặm chợt ngân rung một mỹ cảm
diệu kỳ.
Nhưng trong Đường thi còn có một lữ khách nổi tiếng khác,
cũng lỡ độ, đậu thuyền lại ở bến sông khuya và cũng nghe thấy một chuỗi thanh
âm vang vọng. Nhưng bến sông ấy là bến Tần Hoài, cách thành Cô Tô trong thơ
Trương Kế hơn 200 cây số về phía Đông, và cái âm thanh mênh mông mà kẻ lữ thứ ấy
nghe được cũng không phải là một tiếng chuông thiền an giải những mối sầu lụy,
mà là khúc Hậu đình hoa bay ra từ một quán rượu ven sông: Yên lung hàn thuỷ
nguyệt lung sa/ Dạ bạc Tần Hoài cận tửu gia./ Thương nữ bất tri vong quốc hận/
Cách giang do xướng Hậu đình hoa (Khói lồng nước sông lạnh, trăng lồng cát/ Đêm
đậu thuyền ở bến Tần Hoài cạnh quán rượu/ Ca nữ không biết nỗi hờn mất nước/
Bên kia sông còn hát khúc Hậu đình hoa). Hẳn là người ca nữ vô danh ấy nào có
biết, rằng khúc nhạc mà nàng đang hát, từ phía bên kia sông, đã chấp chới bay
sang đến tận bến thuyền này. Giữa cái mông mênh huyền ảo của sương khói đan cuộn
vào nước sông lạnh, bóng trăng lồng bãi cát dài, khúc Hậu đình hoa nức tiếng
cung đình xưa, gợi nhắc những cuộc đàn điếm đến nỗi mất nước của Trần Hậu Chủ -
vị Vua cuối cùng của triều đại nhà Trần thời Nam - Bắc triều, lảnh lót vang lên
làm thổn thức tấc lòng của kẻ sĩ ái quốc. Tiếng hát ấy, khúc Hậu đình hoa ấy,
trong suốt nhiều năm, có lẽ đã cất lên hằng đêm để phục vụ những tửu khách lỡ
đường, và rất có thể sẽ còn cất lên vào đêm mai, đêm kia hay một đêm nào đó nữa.
Nhưng chính vào cái đêm Đỗ Mục neo thuyền ở bến Tần Hoài, tiếng hát ấy trở
thành một thanh âm huyền thoại, tương vang vào hồn thi nhân để rồi mời gọi mấy
trăm năm lịch sử cùng thức dậy, khơi động những mối sầu cảm cho quá vãng và cho
cả thực tại. Âm thanh ấy bay ra giữa bến sông, bước vào Bạc Tần Hoài để rồi đi
vào cõi mênh mông của vĩnh cửu.
Ở Nhật, thơ Haiku dù rất ngắn, chỉ có 17 âm tiết, song vẫn
luôn có ý thức dựng tạo một khoảng không đủ rộng cho những thanh âm kỳ diệu
vang đi. Những vọng âm trong thơ Nhật thường là tiếng nói của đồng hoang, rừng
sâu, suối thác, của những loài côn trùng, sâu bọ, chim chóc, những tiếng động
bé nhỏ, vi tế đến nỗi chỉ cần một thoáng vô ý, ta cũng có thể bỏ qua. Tuy
nhiên, không vì lẽ ấy mà những âm thanh kia không thể truyền tỏa ra mênh mông.
Trong cảm nghiệm của những thi nhân Nhật Bản, những thanh âm như thế ngược lại
mới chính là thứ có sức vang động lớn lao, bởi chúng là tiếng nói tự tính của một
nhiên giới đượm vẻ thiền. Người ta khó quên được tiếng nước xao như tiếng vũ trụ
vọng vang khi con ếch nhỏ nhảy vào ao cũ, hay tiếng ve cô tịch thấu xuyên qua
đá núi để bay ra thinh không trong thơ Basho. Và người ta cũng không khỏi ngạc
nhiên, một nỗi ngạc nhiên vui sướng, khi nghe tiếng con ếch của Issa, con ếch
đã cất tiếng hát như cái cách Saigyô, một thi tăng nổi tiếng cuối thời Heian,
thả thơ thiền vào đất trời: Con ếch bên hồ/ ngồi yên ca hát/ như là Saigyô (Nhật
Chiêu dịch).
Nhưng thế giới linh thiêng của âm thanh không dừng lại ở những
khoảng mênh mông hữu hình như thế. Chẳng phải là vô ý khi những sách vở Trung
Hoa xưa thường nhắc đi nhắc lại một ngữ đoạn đã trở thành kinh điển: “huyền ngoại
chi âm”. Sự huyền vi của một âm thanh đôi khi không nảy nở trong lúc nó bắt đầu
phát ra, loang đi và bay vào đôi tai thế gian, mà lại hiển lộ ở chính cái lúc
nó hóa thành một ngọn gió câm lặng thổi về phía hư không. Im lặng hay hư không
cũng là một khoảng mênh mông. Nhưng cái mênh mông ấy không là gì khác ngoài cái
cõi vô hình sâu thẳm mà từ đó, những thứ hữu hình được tạo sinh và nuôi nấng.
Nói cách khác, chính trên con đường trở về với nguồn cội của hiện hữu, một âm
thanh sẽ bùng vỡ sức mạnh huyền diệu của mình.
Nhưng nói đi cũng phải nói lại. Trộm nghĩ, có cần phải viện dẫn
những lời khó nhằn xa xôi của thánh hiền như thế làm chi đâu. Đời sống này luôn
biết cách cho ta những con đường giản dị hơn để thâm nhập vào căn nguyên của tất
cả. Giống như trong một buổi trưa hè đầy nắng nào, trên chiếc xuồng ba lá mỏng
mảnh trôi lững lờ giữa những rặng dừa nước rũ bóng, chúng tôi nghe một tiếng hò
phù sa bay chấp chới giữa đất trời sông Hậu. Âm thanh ngọt lịm, trong vắt, lửng
lơ đôi phút giữa lưng chừng sóng nước rồi vút lên, mất hút giữa một cõi ruộng
vườn bát ngát. Hồn phách của chúng tôi cũng theo câu hò miền Tây bay đi đâu…
Tháng 8/2018
Nguyễn Đình Minh Khuê
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét