Đọc bia Liêm
Pha Nguyễn Du qua sông Hoàng Hà đến Hàm Đan, Hà Bắc trên đường đi sứ trong khoảng
thời gian 21-9 đến 4-10 năm Quý Dậu (1813). Hàm Đan xưa là kinh đô nước Triệu
thời Xuân Thu Chiến Quốc. Nơi đây có các anh hùng lịch sử Trung Quốc: Liêm Pha,
Lạn Tương Như, Triệu Xa, Lý Mục. Chuyện thời
Xuân
Thu Chiến Quốc Trung Quốc, với những kinh nghiệm trị nước, là những bài học cha
ông ta ngày xưa thường nhắc đến, không chỉ ảnh hưởng các nước Đông Á, mà còn
được Voltaire, tư tưởng gia hàng đầu Cách Mạng 1789 Pháp nghiên cứu. Ta thử tìm
hiểu tư tưởng thi hào Nguyễn Du khi đọc Bia Liêm Pha.
Hàm
Đan, nơi đây Phạm Tuy mưu sĩ nhà Tần Chiêu Vương, dùng tướng Vương Hạt không
đánh bại nỗi Liêm Pha, lập mưu phản gián cho vua Triệu thay thế Liêm Pha bằng
tướng Triệu Quát. Vua Triệu mắc mưu thay Liêm Pha bằng Triệu Quát. Liêm Pha
trao quyền cho Triệu Quát trở về, rồi lìa xứ sang nước Ngụy. Nhà Tần thay Vương
Hạt bằng Võ An Quân Bạch Khởi. Bạch Khởi một tướng tài ba nhà Tần chiến thắng
trận Trường Bình (262-260 TCN) giết quân Triệu Quát vô số, kiểm điểm hàng quân
Triệu ước hơn hai mươi vạn. Bạch Khởi thấy số quân Triệu đông quá, sợ nổi lên
làm loạn, truyền đem giết hết, đầu quân Triệu chất thành núi, gọi là núi Đầu
Lâu. Bốn trăm ngàn quân Triệu tiêu vong trong trận này. Nguyễn Du qua Hàm Đan
đọc bia Liêm Pha, viết những dòng tư tưởng xúc cảm về cuộc chiến tàn bạo nhất
trong lịch sử Trung Quốc; về trách nhiệm nhà vua, nhà lãnh đạo chính trị không
biết dùng người, cách chức những người tài năng là tường thành bảo vệ đất nước
mình, dùng người non kém, thiếu kinh nghiệm cầm quân, trị nước để đi đến chổ
bại vong, bốn trăm ngàn quân bị giết, vài năm sau nước Triệu bị diệt, vua tôi
đều bị giết, lăng miếu nước Triệu bị tàn phá. Thơ chữ Hán Nguyễn Du, mở một
chân trời khác, Nguyễn Du không chỉ thương khóc một nàng Kiều, hồng nhan bạc
mệnh, mà qua những bài thơ như Đọc Bia Liêm Pha, Nguyễn Du đã đạt đến tầm cao
tư tưởng như thi hào Homère, suy nghĩ về thân phận con người trước sự tàn bạo
của chiến tranh, trách nhiệm người lãnh đạo.
Hàm Đan
xưa là kinh đô, ngày nay kể cả ngoại vi là 8 500 000 dân, thời Nguyễn Du đi qua
chỉ còn là một thị trấn thuộc tỉnh Hà Bắc. Nguyễn Du tức cảnh : Một dãi dương
liễu rủ trong khói sương chiều. Thắng cảnh Hàm Đan còn ghi trong sách sử xưa.
Trên bãi cỏ tốt tươi cao nguyên tiếng người đi săn huýt sáo gọi chim ưng. Núi
Vân Hòa nơi có tiếng đàn, tiệc vui cùng các nàng ca kỹ nay giờ nơi đâu? Vân
Hòa là tên núi có hòa nhạc. Sách Chu Lễ, Xuân cung đại ty nhạc: Vân Hòa chi
cầm sắt (Đàn cầm sắt núi Vân Hòa). Có lời ca chép trong chương Minh Đường đời
Bắc Tề: ‘Cô Trúc chi quán Vân Hòa huyền’, Tiếng sáo cô Trúc, tiếng đàn Vân
Hòa, chỉ nơi có hòa nhạc, ca kỹ, nữ nhạc. Trong mơ núi Hồng Lĩnh vắng những
cuộc đi săn. Đầu bạc rồi mà dấu chân còn in khắp núi sông. Nam bắc sông Hoàng
Hà đều ngập nước lũ mùa thu. Tin tức gửi về quê làm sao đưa đến bên chim nhạn.
TỨC
CẢNH HÀM ĐAN
Thùy
dương một dãi nửa chiều buông,
Thắng
cảnh Hàm Đan sách sử biên.
Cỏ lộng
cao nguyên ưng huýt gọi,
Vân Hoà
đâu đó tiếng ca xoang.
Trong
mơ Hồng Lĩnh đi săn vắng,
Dấu
bước bạc đầu dạo núi non.
Nam bắc
Hoàng Hà thu nước lũ,
Gửi
nhạn làm sao tin cố hương.
Nhất
Uyên dịch thơ
Nguyên
tác phiên âm Hán Việt:
HÀN ĐAN
TỨC SỰ
Nhất
đái thùy dương bán mộ yên,
Hàn Đan
thắng tích kiến di biên.
Cao
nguyên phong thảo hô ưng lộ,
Hà xứ
Vân Hòa hiệp kỹ diên?
Hồng
Lĩnh mộng trung hoang xạ liệp.
Bạch
đầu túc tích biến sơn xuyên.
Hoàng
Hà nam bắc giai thu thủy,
Hương
tín hà do đạt nhạn biên?
Liêm
Pha là lương tướng nước Triệu thời Chiến quốc, năm thứ 16 đời Huệ Văn Vương
(283 TCN) phá tan quân Tề được phong chức Thượng Khanh.
Năm 263
TCN đời Hiếu Thành Vương, Quân Tần đánh Triệu ở trận Trường Bình. Triệu sai
Liêm Pha làm tướng. Liêm Pha quân ít hơn cố thủ, quân Tần khiêu chiến cũng
không đánh. Triệu nghe lời gián điệp của Tần cho Triệu Quát con tướng Triệu Xa
thay Liêm Pha, Liêm Pha bỏ sang nước Ngụy rồi sang Sở. Triệu Quát lúc nhỏ học
binh pháp, nói việc binh, cho thiên hạ không ai bằng mình. Quát thường cùng cha
bàn bạc việc binh. Triệu Xa biết con nói không đúng nhưng bắt bẻ không được. Vợ
Triệu Xa hỏi tại sao, Xa đáp: "Việc binh là việc chết người mà Quát nói
một cách khinh thường. Nước Triệu không cho Quát làm tướng thì thôi, chứ nếu
làm tướng thì người phá vỡ nước Triệu nhất định là Quát." Mẹ Triệu Quát
khi nghe tin con được làm tướng dâng sớ ngăn vua Triệu, nhưng vua không nghe.
Khi
Triệu Quát được phong làm tướng, quân Tần cho tướng Bạch Khởi tước Võ An Quân
thay Vương Hạt lên làm đại tướng. Bạch Khởi dùng mưu trong một trận diệt 400
000 quân Triệu, chôn chung một mộ. Triệu Quát là đứa trẻ con miệng hôi sữa bàn
việc binh đã làm thảm bại nước Triệu. Trong Nguyễn Du toàn tập, Văn Học xuất
bản 1996 tr 469, GSTS Mai Quốc Liên sai lầm khi cho Võ An Quân là Lý Mục.
Đông
Châu Liệt Quốc, hồi 98 tr 1139 viết:
"Vương
Hạt ngày nào cũng dẫn quân đến đánh, nhưng trận nào cũng bị quân Triệu đánh
lui, không làm sao cướp trại được, bèn sai người về báo với vua Tần. Vua Tần
đòi Phạm Chuy đến hỏi kế.
Vua Tần
hỏi: - Thừa tướng có kế gì trừ được Liêm Pha chăng?
Phạm
Chuy nói: - Phải dụng kế phản gián mới được. Xin Đại Vương bỏ ra ngàn vàng, tôi
sẽ dùng lễ vật ấy trừ bỏ Liêm Pha.
Vua Tần
nhận lời. Phạm Chuy sai người môn khách tâm phúc, theo đường tắt, sang Hàm Đan,
dùng nghìn vàng đút lót cho kẻ tâm phúc vua Triệu để nói với vua Triệu rằng:
- Hàng
võ tướng nước Triệu chưa ai giỏi bằng Mã Phục Quân (Triệu Xa). Nay lại nghe nói
con Mã Phục Quân còn giỏi hơn gấp mấy. Nếu cho con Mã Phục Quân làm tướng, nước
Tần không ai chống lại.
Vua
Triệu lâu nay nghe tin Liêm Pha cố thủ không đánh, lòng không vui, bỗng có lời
nói ấy khiến cho vua Triệu tự nghĩ:
-
"Liêm Pha tuy là dũng tướng, song tuổi già sức yếu, sinh ra nhút nhát, chi
bằng sai con Mã Phục Quân thế cho Liêm Pha là hơn."
Liền
truyền lệnh đòi con Mã Phục Quân là Triệu Quát đến hỏi:
- Nhà
ngươi có thể lui được quân Tần chẳng ? Triệu Quát nói:
- Nếu
tướng Tần là Bạch Khởi thì tôi còn phải tốn công trù hoạch, chớ như Vương Hạt
là một tiểu tướng, khó gì mà không lui đặng. Vua Triệu hỏi:
- Bạch
Khởi tài cán thế nào? Triệu Quát đáp:
- Bạch
Khởi trước kia đánh Hàn, Ngụy ở Y Khuyết chém 24 vạn thủ cấp địch quân, lấy 61
thành, sau đánh Sở lấy Yên Dĩnh, định được Vu, Kiềm, tài năng Bạch Khởi bách
chiến bách thắng, vì vậy vua Tần phong làm Võ An Quân. Nếu tôi cùng Bạch Khởi
giao tranh thì khó định được hơn thua, vì vậy phải tốn công trù hoạch. Còn như
Vương Hạt mới ra làm tướng, bản lĩnh có là bao, chẳng qua Liêm Pha tuổi già sức
yếu, nên không thắng nổi đó thôi.
Vua
Triệu nghe nói lòng mừng, liền phong cho Triệu Quát làm Đại Tướng, ra thay Liêm
Pha.
Bà mẹ
Triệu Quát hay tin, thất kinh, cho gọi Triệu Quát về nói:
- Cha
mày khi sắp mất, có dặn mày chớ nên làm tướng nước Triệu, sao mày không từ
chối. Triệu Quát nói:
- Không
phải là con không muốn từ chối, song trong triều không có ai giỏi hơn Quát này.
Bà mẹ Triệu Quát liền dâng thư can vua Triệu, kể lại lời trối trăn của Triệu Xa
lúc lâm chung. Vua Triệu nói:
- Ý ta
đã quyết, không thể thay đổi được. Liền hối Triệu Quát kéo quân ra đi.
Bấy giờ
môn hạ của Phạm Chuy đã trở về nước Tần, thuật lại việc vua Triệu bỏ Liêm Pha
dùng Triệu Quát làm tướng.
Phạm
Chuy nói với vua Tần:
- Nay
phải dùng Võ An Quân ra quân mới được.
Vua Tần
liền sai Bạch Khởi làm Đại Tướng, kéo quân đến Kim Môn, cấm không cho binh sĩ
thố lộ việc ấy ra ngoài.
Khi
Triệu Quát dẫn quân đến Trường Bình, Liêm Pha liền trao quyền hành cho Triệu
Quát, rồi một mình dẫn một đội thân quân hơn mấy trăm người trở về Hàm Đan.
Triệu
Quát truyền lệnh cho quân sĩ chuẩn bị tác chiến, nhất thiết không ai được trái
lệnh.
Bạch
Khởi vừa đến Kim Môn, hay tin Triệu Quát bỏ lệnh cố thủ, liền sai một tướng ra
khiêu chiến. Triệu Quát dẫn quân ra đánh. Tướng Tần giả thua bỏ chạy. Bạch Khởi
lên chổ cao, nhận xét địch tình một lúc rồi nói với Vương Hạt:
- Tôi
có cách phá quân Triệu rồi. Vương Hạt biết Bạch Khởi là tay trí dũng, một lòng
tin tưởng.
Tối hôm
ấy Triệu Quát thắng được trận đầu, lòng phấn khởi, hoa chân múa tay, hạ chiến
thư cho quân bắn vào dinh Tần.
Bạch
Khởi viết thư đáp lại ngày mai quyết chiến. Đoạn truyền quân sĩ lui ra mười dậm
hạ trại. Triệu Quát tiếp được thư mừng rỡ, sai quân làm thịt trâu ăn mừng, định
ý hôm sau bắt sống Vương Hạt để làm trò cười cho chư hầu.
Bạch
Khởi hạ trại xong, họp các tướng sĩ để nghe lệnh: Vương Bí, Vương Lăng dẫn một
vạn quân bày trận, giao chiến với Triệu Quát, nhưng không được thắng giặc. Tư
Mã Thúc, Tư Mã Ngạnh mỗi người dẫn một vạn quân theo đường tắt, phục sau núi
Kim Môn để tuyệt đường lương quân Triệu. Hồ Thương dẫn một vạn quân phục nơi
phía tả, chờ quân Triệu kéo đến xông vào đánh, cắt làm hai đoạn. Mông Vụ, Vương
Tiễn, mỗi người dẫn một vạn quân phục nơi phía hữu, chờ lệnh tiếp ứng. Bạch
Khởi và Vương Hạt cùng kiêm giữ đại dinh.
Đêm ấy
Triệu Quát hay tin quân Tần rút lui mười dậm, liền bưng chén rượu cười lớn nói:
- Quân
Tần đã kiếp sợ ta rồi, chỉ một trận là thành công. Liền ra lệnh canh tư nấu
cơm, đầu canh năm kéo quân ra khỏi dinh, áp đến phá trại quân Tần.
Trời lờ
mờ sáng, Triệu Quát vừa kéo đại binh ra khỏi trại được ba dậm, thì gặp đạo quân
Tần. Hai bên đối địch một hồi. Tướng Tần là Vương Bí, Vương Lăng giả thua bỏ
chạy. Triệu Quát dốc binh đuổi theo. Phùng Đình can:
- Quân
Tần hay man trá, ta chớ nên đuổi theo mà lầm kế giặc. Triệu Quát không nghe,
kéo quân đuổi đến dinh Tần, xông vào cướp trại nhưng bên trong, Bạch Khởi và
Vương Hạt đốc quân chống giữ, không sao cướp trại được.
Trong
lúc đang hổn chiến, bỗng có tin quân Tần lẻn về phía sau chiếm mất dinh trại
nơi Kim Môn rồi. Triệu Quát liền giục đạo hậu quân dời dinh tiến đến.
Nhưng
đạo hậu quân chưa đến, đại binh của Triệu Quát đã bị tả đạo quân Tần là Hồ
Thương nổi dậy, xông vào đánh làm cho quân Triệu đầu đuôi đứt đoạn. Triệu Quát
nổi giận hét:
- Hồ
Thương dám vô lễ, đối địch với quân ta sao!
Nói
xong ra lệnh quay trở lại đánh Hồ Thương. Nhưng đánh chưa được bao lâu, hữu đạo
của quân Tần là Vương Tiễn và Mông Vụ xông ra tiếp ứng. Phùng Đình nói với
Triệu Quát:
- Quân
ta tuy thất thế, song binh lực hãy còn, xin Nguyên Soái mở đường thoát ra ngoài
cũng cố doanh trại, nếu ở đây sẽ không có lối thoát. Triệu Quát không nghe đốc
quân tiến tới. nhưng không làm sao tiến được, thế binh lần lần yếu ớt, phần
lương thực bị chận, không tiếp tế được, quân sĩ đói khát, rã rời chân tay.
Bấy giờ
Triệu Quát mới hay Bạch Khởi dùng quân, sợ hãi, muốn dẫn bộ hạ mở đường máu
chạy trốn, nhưng Bạch Khởi đã biết trước, tuyển một đội kỵ binh thiện xạ, phục
nơi phía đông, đoạn mở đường cho Triệu Quát chạy về phía ấy. Triệu Quát không
ngờ, vừa xông ra khỏi vòng vây bị phục quân bắn chết. Phùng Đình thấy vậy ngữa
mặt lên trời than:
- Bởi
Triệu Quát chẳng nghe lời ta, nên mới mang khốn như vầy. Than rồi rút gươm tự
vận. Binh tướng nước Triệu, lớp chết lớp đầu hàng không biết bao nhiêu mà kể.
chỉ có Tô Xa sống sót, thoát chạy qua được nước Hàn.
Giết
Triệu Quát xong, Bạch Khởi dựng cờ chiêu an, kiểm điểm hàng quân ước hơn hai
mươi vạn. Bạch Khởi thấy số quân Triệu đông quá, sợ nổi lên làm loạn, truyền
đem giết hết, đầu quân Triệu chất thành núi, gọi là núi đầu lâu."
Tường
thành của nước Triệu, là Liêm Pha chống giữ nước Tần, Lý Mục chống giữ Mông Cổ
phía bắc. Vua Triệu thiếu suy xét bị mắc lừa lời phản gián, cách chức Liêm Pha,
giết Lý Mục, những bậc lão thành, trong hiểu thế nước, ngoài hiểu địch tình.
Gặp địch đều thắng trận. Liêm Pha biết quên thù riêng mang roi gai đến tạ tội
với Lạng Tương Như. Vì biết rằng một nước có hai con hổ không ai có thể xâm
phạm. Lạn Tương Như tài ngoại giao lỗi lạc, hai lần khuất phục được vua Tần,
lần thứ nhất mang ngọc họ Hòa đến cho vua Tần để đổi 15 thành, biết vua Tần man
trá, nhưng vẫn ung dung lý luận sắc bén mang ngọc họ Hoà về an toàn. Lần thứ
hai đưa vua Triệu hội kiến với vua Tần. Vua Tần không dùng uy áp chế được vua
Triệu, vua Triệu không bị bắt như vua Sở, cũng không bị làm nhục, và trở về
nước an toàn.
Đông
Châu Liệt Quốc, Hồi 96 trang 1111 chép:
"Khi
về triều nghĩ cái công của Lạn Tương Như, vua Triệu nói với các quan:
- Ta
được Lạn Tương Như chẳng khác nào được ngồi trên tảng núi, chẳng lo gì sóng
gió. Nay ta phong cho Lạn Tương Như chức Thượng tướng tưởng cũng chưa xứng
đáng. Liêm Pha thấy vậy bất bình, về dinh hằn học:
-‘ Ta
có công to, đánh thành, cướp đất, còn Lạn Tương Như chỉ lấy chút công chót lưỡi
mà thứ vị lại ở trên ta. Vả lại hắn ta là một tên xá nhân của kẻ hoạn quan, xuất
thân hèn mọn, ta đời nào chịu đứng dưới hắn. Nếu ta trông thấy mặt hắn ta giết
ngay.’
Lạn
Tương Như nghe những lời nói ấy, mỗi khi gặp buổi chầu đều cáo bệnh không đến,
không chịu cùng Liêm Pha gặp mặt. Bọn xá nhân đều cho Lạn Tương Như là nhát,
nhìn nhau mỉm miệng chê cười.
Bỗng
một hôm, Lạn Tương Như ra đường, gặp Liêm Pha từ xa đi tới, trước sau có quân
sĩ ồ ạt theo hầu. Lạn Tương Như trông thấy đạo tiền đội Liêm Pha liền bảo tên
đánh xe tránh vào ngỏ hẽm, chờ cho Liêm Pha qua khỏi mới đi. Bọn xá nhân thấy
thế tức giận xúm nhau nói với Lạn Tương Như:
- Chúng
tôi bỏ làng xóm, xa thân thích, đến đây hầu hạ ngài; coi ngài là bậc trượng
phu. Ngày nay, ngày cùng Liêm tướng quân đồng phò một vua, ngôi thứ lại ở trên,
thế mà bị Liêm tướng quân nói một câu hăm dọa, chẳng dám đến triều, lại tránh
mặt cả ngoài đường nữa. Tại sao ngài lại sợ Liêm tướng quân quá vậy? Chúng tôi
xấu hổ thay cho ngài, mà không muốn theo phò ngài nữa.
Lạn
Tương Như buồn bã nói:
- Ta
tránh Liêm tướng quân vì một duyên cớ khác, chứ đâu phải kiếp sợ. Các người
chưa hiểu đó thôi. Bọn xá nhân hỏi :
- Xin
ngài cho biết duyên cớ gì lại làm cho ngài có thể chịu nhục như vậy ? Lạn Tương
Như nói:
- Các
người xem Liêm tướng quân, uy lực có bằng vua Tần không? Bọn xá nhân đáp:
- Không
bằng. Lạn Tương Như nói:
- Lấy
cái uy lực của vua Tần trong thiên hạ không ai dám chống, thế mà ta dám đương
nhiên mắng vào mặt vua Tần, làm nhục cả quần thần nước Tần nữa. Ta dẫu hèn, há
sợ Liêm Pha hay sao ? Tuy nhiên ta nghĩ lại, sở dĩ nước Tần sợ nước Triệu không
dám đánh là vì nước Triệu có ta và Liêm Pha. Nếu ta cùng Liêm Pha xung đột, hại
lẫn nhau, ắt Tần sẽ thừa cơ đánh Triệu. Vì vậy ta xem nước là trọng, mà thù
riêng là khinh. Bọn xá nhân nghe nói đều kính phục.
Cách đó
mấy hôm, bọn xá nhân họ Lạn và bọn xá nhân họ Liêm gặp nhau trong quán rượu.
Hai bên tranh chỗ ngồi. Xá nhân họ Lạn nói:
- Chủ
ta vì nước phải nhường cho Liêm tướng quân, chúng ta cũng nên vì ý chủ mà
nhường cho khách họ Liêm vậy. Liêm Pha từ đấy càng thêm kiêu ngạo, trái lại Lạn
Tương Như lại càng nhường nhịn, nhờ vậy hai bên không xích mích nhau.
Chẳng
bao lâu có người Hà Đông tên Ngu Khanh đến chơi nước Triệu, nghe bọn xá nhân
nói lại bèn vào yết kiến vua Triệu nói:
- Trọng
thần của Đại vương ngày nay có phải là Liêm Pha và Lạn Tương Như chăng? Vua
Triệu đáp phải. Ngu Khanh nói :
- Tôi
nghe các người bầy tôi ngày trước, đều một lòng yêu mến lẫn nhau, hiến thân cho
nước. Nay Đại Vương có hai vị trọng thần mà để cho họ thù ghét nhau thực không
có phúc cho nước Triệu. Vua Triệu ngạc nhiên hỏi:
- Có gì
xảy ra giữa Liêm Pha và Lạn Tương Như sao? Ngu Khanh đem lời nói của bọn xá
nhân kể lại và nói tiếp:
- Họ
Lạn càng nhường, họ Liêm càng làm cao. Ở triều có việc không cùng bàn, hoạn nạn
tất sẽ không cùng giúp nhau. Như thế Đại vương làm sao trông cậy vào họ được.
Tôi xin vì Đại vương tìm cách nối lại mối tình giữa hai kẻ ấy. Vua Triệu khen
phải, nhờ Ngu Khanh đến giàn xếp. Ngu Khanh đến yết kiến Liêm Pha, trước tiên
ca tụng công lớn của Liêm Pha. Liêm Pha mừng lắm. Ngu Khanh nói:
- Kể
công thì không ai bằng tướng quân, nhưng nói đến đức thì không ai bằng Lạn
Tương Như. Liêm Pha cao mặt nói:
- Lạn
Tương Như là kẻ hèn mạt, lấy chót lưỡi lập nên công, có gì mà gọi rằng đức?
Ngu Khanh nói:
- Lạn
Tương Như đâu phải là kẻ hèn nhát. Nếu hèn nhát đâu dám đương nhiên mắng vua
Tần trước mặt công chúng. Chẳng qua Lạn Tương Như nghĩ đến việc lớn mà nhường
nhịn cho tướng quân đó. Nói xong thuật lại mọi lời của Lạn Tương Như nói với
bọn xá nhân, và nói tiếp:
- Tướng
quân không đặt mình ở nước Triệu mà thôi, nếu muốn đặt mình ở nước Triệu mà hai
vị đại thần một người nhường, một người kiêu, tôi e tiếng tốt không về tướng
quân đó. Liêm Pha hổ thẹn nói:
- Nếu
tiên sinh không nói, tôi không bao giờ thấy được điều lỗi của tôi. Tôi thực kém
Lạn Tương Như nhiều lắm!
Nói
xong Liêm Pha tự trần vai áo, cầm roi đến tận cửa nhà họ Lạn tạ tội :
- Bỉ
nhân hẹp hòi, không hiểu đức khoan hồng của Tướng quốc rộng rãi đến thế. Bỉ
nhân này dầu chết cũng chưa đáng tội. Nói xong quì mãi ở giữa sân. Lạn Tương
Như chạy đến đỡ dậy nói:
- Hai
ta sánh vai chung phò xã tắc. Tướng quân hiểu lòng nhau thế đã là một ân huệ
đối với tôi rồi, xin chớ tị hiềm như thế. Liêm Pha nói:
- Tôi
tính thô bạo, đội ơn tướng quân bao dung, nghĩ lại lấy làm hổ thẹn. Liêm Pha
nói:
- Từ
nay đôi ta nguyện kết tình sinh tử, dù chết cũng không đổi lòng. Hai người thề
nguyền xong mở tiệc uống rượu cho đến sáng. Vua Triệu nghĩ công Ngu Khanh ban
cho trăm nén vàng và phong làm Thượng Khanh."
Nguyễn
Du viết tiếp: Một nước có hai con hổ không kẻ nào có thể xâm phạm được. Trên
hai mươi năm ai tranh nổi chức nguyên soái với Liêm Pha. Thời còn tướng quân,
nước Triệu được coi trọng. Thời tướng quân mất đi, nước Triệu bị coi khinh.
Đáng giận kẻ gièm pha kiếm đều thêu dệt. Sao lại bịa chuyện một bữa ăn ba lần
són phân.
Đông
Châu Liệt Quốc, Hồi thứ 105 tr 1205 chép:
"Vua
Tần muốn đánh Triệu trước, sai Hoàng Xỉ đem mười vạn quân kéo sang biên giới.
Vua Triệu sợ hãi họp quần thần thương nghị. Mọi người đều nói:
-Chỉ có
Liêm Pha mới lui được quân Tần. Trong số quần thần có Quách Khai vốn ghen ghét
Liêm Pha, trước đây lại ăn của lót nước Tần để báo tin tức, nghe nói vội quì
tâu:
- Liêm
tướng quân dẫu từng trải việc quân, nhưng tuổi hơn bảy mươi, gân lực đã suy,
Đại vương nên dùng người khác.
Bây giờ
Liêm Pha đang ở nước Ngụy. Vua Triệu chưa biết định liệu thế nào, liền sai
Đường Cửu đem một bộ áo giáp và một con ngựa tốt sang nước Ngụy xem hễ Liêm Pha
già yếu thì thôi, bằng còn mạnh khỏe thì rước về dùng.
Đường
Cửu vâng lời lãnh áo giáp và ngựa tốt ra đi. Quách Khai bèn đút tiền cho Đường
Cửu bảo dẫu Liêm Pha còn mạnh khỏe cũng chớ nên gọi về.
Đường
Cửu theo lời sang nước Ngụy vào yết kiến Liêm Pha thuật lại lời vua Triệu. Liêm
Pha hỏi: - Quân Tần sang đánh Triệu ư?
Liêm
Pha nói: - Tôi rời khỏi nước Triệu đã vài năm, không một kẻ hỏi han, nay bỗng
nhiên vua Triệu sai đem áo giáp và ngựa tốt đến tất có việc dùng tôi. Đường Cửu
hỏi:
- Tướng
quân không giận vua Triệu sao? Liêm Pha đáp:
- Tôi
ngày đêm tưởng nhớ đến Triệu, lẽ nào lại giận vua Triệu. Nói rồi giữ Đường Cửu
lại cùng ăn uống với mình. Trước mặt Đường Cửu, Liêm Pha cố sức ăn uống thật
nhiều, ăn một bữa hết một đấu gạo và mười cân thịt. Ăn xong lại mặc áo giáp lên
ngựa cỡi chạy như bay. Đoạn hỏi Đường Cửu:
- Tôi
so với tuổi trẻ không kém bao nhiêu, phiền ngài về tâu với vua Triệu, sức tôi
còn có thể giúp ích cho nước Triệu được.
Đường
Cửu thấy Liêm Pha tinh thần còn cường tráng lắm, nhưng đã trót nhận của hối lộ
với Quách Khai, đành trở về tâu dối với vua Triệu:
- Liêm
tướng quân dẫu tuổi đã già, song ăn uống và cỡi ngựa còn mạnh lắm. Chỉ có một
điều thỉnh thoảng lại són phân ra. Vua Triệu than:
- Khi
chiến chinh mà són phân như thế thì làm sao được Liêm Pha quả đã già rồi .
(Về sau
vua Sở thấy Triệu bỏ rơi Liêm Pha ở Ngụy, sai người rước về dùng. Nhưng Liêm
Pha thấy quân Sở không bằng Triệu, uất ức mà chết.)
Nguyễn
Du viết: Sau khi người đầu bạc ra đi không trở lại nữa. Việc Hàm Đan như thế
nào có thể biết được rồi. Triệu mất, Tần rồi đã ba nghìn năm. Tên tuổi của
tướng quân vẫn còn truyền để lại. Ta chùi bia xưa để đọc, than thở mãi, Tưởng
như thấy hùng khí tướng quân vẫn bừng bừng như lúc sống. Người thời nay không ít
kẻ ăn nhiều thịt (như tướng quân), Cơ hồ khiến cho không còn con gia súc nào
trong nhà. Gặp thời thanh bình không có chiến tranh, Đều nhất loạt nói năng
chẳng kể Liêm Pha, Lý Mục.
BIA
LIÊM PHA
Liêm
Pha lìa xứ, Võ An tướng,
Bốn
chục vạn quân một huyệt táng.
Trẻ con
hôi sữa bàn việc binh,
Một
nước trường thành tự bỏ lún.
Trọng
trách cõi bờ bậc lão thành,
Trong
hiểu thế nước, ngoài địch tình.
Sở dĩ
gặp địch đều thắng trận,
Vì quên
thù riêng mang roi gai.
Một
nước hai hổ ai xâm phạm.
Ai
tranh được nổi hai mươi năm.
Tướng
quân còn đó Triệu coi trọng,
Tướng
quân mất đi Triệu coi khinh.
Đáng
giận kẻ dèm pha thêu dệt,
Bịa
chuyện bữa ăn són ba lần.
Khi
người đầu bạc không trở lại.
Thấy
trước Hàm Đan số phận dành.
Triệu
mất, Tần tan ba ngàn năm,
Đến nay
tướng quân còn vang danh.
Ta chùi
bia xưa đọc than thở,
Tráng
khí trước mắt thấy rành rành.
Đời nay
lăm kẻ ăn nhiều thịt,
Trong
nhà luống chẳng còn gân sức.
Gặp
thời thanh bình chẳng chiến tranh,
Huênh
hoang coi thường Liêm Pha, Lý Mục.
Nhất
Uyên dịch thơ
Nguyên
tác phiên âm Hán Việt:
LIÊM
PHA BI
Liêm
Pha vong khứ, Võ An tướng,
Tứ thập
vạn nhân đồng huyệt táng.
Nhũ xú
tiểu nhi dị ngôn binh,
Nhất
quốc trường thành đồ tự táng.
Ký khổn
trọng nhậm tu lão thành,
Nội
thẩm quốc thế ngoại địch tình.Sở dĩ lâm địch năng chế thắng,
Đoan
tại quyên cừu tri phụ khinh.
Nhất
quốc lưỡng hổ bất khả phạm,
Nhị
thập dư niên thùy dữ tranh.
Tướng
quân tại thời, Triệu dĩ trọng,
Tướng
quân khứ thời, linh Triệu khinh.
Sở hận
sàm nhân chức thê phỉ,
Hà tu
nhất thực tam di thỉ.
Bạch
đầu khứ hậu bất trùng lai.
Hàm Đan
chi sự khả tri hĩ.
Triệu
vong Tần kế tam thiên niên.
Tướng
quân danh tự chí kim truyền.
Ma sa
cổ kiệt tam thái tức,
Bột bột
tráng khí tưởng kiến kỳ sinh tiền.
Kim
nhân bất thiểu thực đa nhục,
Cơ linh
gia dưỡng vô di súc.
Thanh
bình thời tiết vô chiến tranh,
Nhất
khẩu hùng đàm bất sổ Liêm Pha dữ Lý Mục.
Lý Mục
cũng là một tướng giỏi của nước Triệu, phòng thủ đánh quân Hung Nô, đánh tan
quân Tần được phong làm Vũ An Quân, trùng tước với Bạch Khởi nước Tần. Năm thứ
bảy đời vua Triệu Thiên (235-238 TCN) Tần đánh Triệu, lại bày kế phản gián, nói
Lý Mục mưu phản, vua Triệu thay Lý Mục, Lý Mục không vâng mệnh, bị bắt và bị
giết. Ba tháng sau nước Tần diệt Triệu.
Nước
Triệu bị diệt không vì thiếu những danh tướng mà vì tên gian thần Quách Khai,
ăn hối lộ nước Tần. Gian thần Quách Khai khi nhận tiền vàng đút lót của nhà
Tần, nào có nghĩ chuyện nước Triệu bị diệt, bốn trăm ngàn người chết chung một
mộ táng. Khi nước mất thì nhà cũng tang hoang, nhà Tần cho Quách Khai vàng rồi
lấy lại mấy hồi, Hồ Tôn Hiến mang bao ngọc vàng thể nữ đến cho Thúy Kiều, kết
cuộc nàng có hưởng được gì mà còn mất tất cả, lại bị gả bán cho một tù trưởng
phải trầm mình xuống sông Tiền Đường. Mồi ngon tiền vàng làm mờ mắt những người
suy nghĩ nông cạn. Liêm Pha lầm lỡ khi tức giận Lạn Tương Như, nhưng nghĩ đến
việc chung nước Triệu, mang roi cởi áo đến quỳ trước sân nhà họ Lạn xin tạ tội.
Quách Khai cũng có thù riêng với Liêm Pha, Lý Mục chỉ nghĩ đến quyền lợi riêng
tư của mình dèm pha, bậc công thần phải bỏ nước mà đi, người bị giết. Nước
Triệu đến đời con cháu mất nước, thiếu sáng suốt, dùng kẻ du nịnh, ngược đãi kẻ
hiền tài. Kết quả nước Triệu bị diệt, hiền tài, quân dân bị giết. Trung Quốc
thời Chiến Quốc chỉ khoảng 20 triệu dân, bảy nước đánh nhau, nhà Tần giết 400
000 người trận Trường Bình nước Triệu, thật kiếp đảm. Đọc lịch sử Trung Quốc
không chỉ một trận này mà còn nhiều trận khác, Bạch Khởi diệt Ngụy chém 240 000
thủ cấp, trận Hạng Võ diệt 200 000 quân nhà Tần. Trận An Lộc Sơn nhà Đường thời
Đường Minh Hoàng đưa dân Trung Quốc từ 60 triệu còn 19 triệu người. Thời xưa
giết người bằng gươm dao thôi mà tang thương như thế. Bản chất tàn bạo nhà Tần
hơn hai ngàn năm qua cũng không đổi. Hơn hai nghìn năm qua khoa học kỹ thuật
giết người càng tân tiến, nhưng đạo đức con người không tiến bộ hơn bao nhiêu.
Hai trận Đệ Nhất, Đệ Nhị Thế Chiến, hàng chục triệu người chết, 6 triệu người
Do Thái bị Đức Quốc Xã giết. 35 triệu người trong Cách Mạng Văn Hóa chỉ mới xảy
ra những năm 1960, ba triệu người ở Cam Bốt chỉ mới những năm 1970...
Đời nay
có những Quách Khai, nhận hối lộ để hãng xưởng thép nước ngoài thải ra chất
độc, hàng trăm cây số bờ biển cá chết. Những Quách Khai đời nay đang đào những
ngôi mộ lớn chôn cả dân tộc Việt Nam. Nghìn năm sau ai sẽ là người đi qua, chùi
bia những anh hùng khí khái như Liêm Pha khóc thương cho dân tộc Việt?.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét