Thứ Bảy, 24 tháng 7, 2021

Đà Lạt du ký năm 2010

Đà Lạt du ký năm 2010

Trước năm 1960, có nhiều tư liệu viết về Đà Lạt phần lớn là của người Pháp, có nhiều đề tài viết về Đà Lạt không gây nhàm chán vì không bị rơi vào cảnh biết rồi nói mãi khổ lắm. Những bài khảo cứu, thơ văn nhạc về Đà Lạt của người Việt Nam chưa nhiều. Có lẽ tác phẩm xưa nhất của người Việt viết về Đà Lạt là quyển Lâm Viên Hành Trình Nhật Ký của quan Thượng Thư Đoàn Đình Duyệt. Tác phẩm này viết vào năm 1917 bằng chữ Hán. Ngày nay có hàng trăm ngàn bài khảo cứu, thơ, văn, nhạc mô tả nhiều khía cạnh của Đà Lạt, do vậy, chọn một đề tài viết về Đà Lạt không dễ. Tôi nhớ, anh bạn Cao Hoàng đề nghị tôi nói về Đà Lạt trong mười phút tại một buổi họp văn nghệ.  Anh chị em tham dự buổi họp hôm đó không ai là đã không đến Đà Lạt vài lần. Có người sinh ra tại Đà Lạt, có năm cựu sĩ quan xuất thân từ trường Võ Bị Đà Lạt, nhiều anh chị có thơ văn nhạc viết về Đà Lạt. Tôi từ chối vì không biết nói gì để tránh cảnh múa rìu qua mắt thợ. Nhưng vì anh Cao Hoàng giới thiệu tôi đến ba lần nên không thể chối từ.  Hôm đó, tôi đã nói về Phở Đà Lạt, đề tài ít được ai nhắc tới. Mọi người chăm chú nghe và sau đó đã có nhiều ý kiến tranh luận sôi nổi. 
Tháng bảy năm hai ngàn mười, tôi trở lại Đà Lạt mục đích chính là để thăm anh bạn cùng phòng trong thời gian chúng tôi học tại Viện Đại Học Đà Lạt và thăm lại trường xưa Viện Đại Học Đà Lạt, quê hương tinh thần của tôi. Ở lại Đà Lạt ba đêm bốn ngày chỉ đủ để hai chúng tôi tâm tình và đi thăm một vài nơi. Tôi muốn ghi lại một vài kỷ niệm của chuyến đi. Viết về những hoài niệm xưa, thủơ chúng tôi sống tại thành phố Đà Lạt thì bạn bè tôi đã viết rất nhiều. Bạn bè gập nhau nói về kỷ niệm thì không hết và không chán. Viết về những kỷ niệm mà nhiều người đã viết thì chẳng khác gì bắt độc giả ăn cơm nguội. Anh bạn tôi nói thà có cơm nguội ăn còn hơn không. Tôi cố ghi lại đôi điều ít được đề cập đến.
Bát cơm nguội ghi lại cảm xúc và suy nghĩ của tôi về chuyến đi Đà Lạt ngắn ngủi đã để lên mâm. Xin mời các bạn xơi. 
Đà Lạt Thành Phố Không Đèn Xanh Đèn Đỏ
Tôi đến Đà Lạt khoảng năm giờ chiều. Đà Lạt có nhiều biệt thự mới to, những con đường lớn, những bồn hoa, nhiều biểu ngữ và cờ treo dọc theo những con đường. Tôi không nhận ra Đà Lạt ngày xưa. Tôi khen Đà Lạt sạch, đẹp và trật tự hơn thành phố Sài Gòn. Tôi thêm:
- Đà Lạt sạch đẹp hơn nhờ mỗi năm có Festival Hoa cũng như Huế mỗi năm khá hơn nhờ mỗi hai năm có Festival Huế…
Anh bạn tôi nói:
- Đang đại hội đảng và thành phố có hội nghị Năng Lượng Quốc Tế nên thành phố sạch chứ bình thường thành phố cũng bẩn.
Ngày hôm sau, tôi được anh bạn cho đi thăm một vòng quanh thành phố. Thành phố đông đúc xe gắn máy và nhiều xe khách của công ty Thành Bưởi, Phương Trang và những công ty du lịch khác. Đà Lạt là thành phố có hạng ở Việt Nam về dân số và số lượng xe. Tôi không thấy đèn xanh đèn đỏ trên các ngã ba, ngã tư, ngã năm tại thành phố Đà Lạt. Ngay cả khu vực trung tâm thành phố đông đúc xe cộ cũng không có đèn xanh đèn đỏ. Những thành phố to nhỏ tôi đi qua như Huế, Đà Nẵng, Đồng Hới, Sông Bé… đều có đèn xanh đèn đỏ. Đà Lạt nghèo nên không có kinh phí để xây dựng những cột đèn xanh đèn đỏ chăng? Chắc chắn là không. Nhìn bảng hiệu to lớn quảng bá những công trình xây dựng cho thành phố du lịch Đà Lạt tương lai, chứng tỏ Đà Lạt là thành phố giàu. Hay vì Đà Lạt là thành phố cao nguyên nhiều đồi dốc nên không cần đèn xanh đèn đỏ. Điều này cũng không đúng.  Thành phố Seattle của tôi nhiều đồi dốc dài và cao hơn Đà Lạt vẫn cần đèn xanh đèn đỏ. Tôi nêu thắc mắc này với anh bạn tôi. Anh bạn tôi trả lời:
- Đà Lạt có ba cái không: Thành phố không đèn xanh đèn đỏ, không xe xích lô và không máy lạnh. Không đèn xanh đèn đỏ là đặc trưng của Đà Lạt. Người Đà Lạt hiền lành, lịch sự thì cần gì phải có đèn xanh đèn đỏ. Đất lành sinh trái ngọt. Ở đây không khí trong lành, khung cảnh thiên nhiên xinh đẹp hiền hòa, con người ăn mặc đẹp. Đến Đà Lạt tự nhiên thấy tâm hồn thanh thản, mọi buồn phiền tạm lắng, con người trở nên thánh thiện hơn. Như vậy cần đèn xanh đèn đỏ làm chi.  Có đèn xanh đèn đỏ mà con người không biết tôn trọng luật giao thông cũng như không.
Tôi đồng ý với anh bạn nặng tinh thần địa phương. Tôi đồng ý với bạn tôi vì tôi cũng mang nặng tinh thần địa phương như bạn tôi. Đà Lạt có viện đại học Đà Lạt quê hương tinh thần của tôi không cần đèn xanh đèn đỏ vì con người Đà Lạt hiền lành lịch sự.              
Đỉnh Lâm Viên
Ngày xưa tôi có mơ ước: Cắm cờ Hướng Đạo trên đỉnh núi Lâm Viên. Bạn tôi biết mơ ước của tôi nên đưa tôi tới khu du lịch Lang Biang.  Trước khi đi anh ta nói với tôi:
- Lên đỉnh Lâm Viên bây giờ khỏe lắm. Có xe đưa lên tận đỉnh…
- Tao muốn trèo lên đỉnh Lâm Viên. Đi xe thì còn có ý nghĩa gì nữa.
- Thân lừa ưa nặng. Bây giờ đâu có còn phải trèo leo gì nữa. Đường trải nhựa lên tận đỉnh núi. Đường dài sáu cây số mi có đi bộ nổi không? Mi đi bộ thì mi đi một mình. Tao đưa mi tới, rồi tao về nhà. Khi nào mi xuống gần đến chân núi thì phone cho tao ra đón.
Tôi bỏ ý định trèo lên đỉnh Lâm Viên.
Khi lên đường, bạn tôi nói:
- Mi có bị đau tim không?
- Không. Nguy hiểm lắm sao?
- Cháu gái tao nói: ”Lên đỉnh Lâm Viên không sợ không ăn tiền.”  Sau chuyến đi, mấy bà sợ xanh máu mặt. Mi đi, mi sẽ biết.
Chúng tôi đến khu du lịch Lang Biang. Đám đông đang tranh nhau mua vé. Một anh nhân viên nói với chúng tôi:
- Mua vé bây giờ cũng phải chờ khoảng một tiếng rưỡi đến hai tiếng mới có xe.
May mắn, bạn tôi có anh học trò là nhân viên của khu Du Lịch Lang Biang. Anh học trò nói với chúng tôi:
- Thầy muốn đi thì em giúp. Thầy trả tiền xăng cho tài xế.
- Tổng cộng phải trả bao nhiêu?
- Thưa, một trăm hai mươi ngàn.
Chuyến xe chỉ chở hai chúng tôi thay vì sáu người. Có nghĩa là chúng tôi phải trả tiền cho cả chuyến xe. Đúng là nhất thân nhì thế. Chúng tôi được lên núi ngay trong khi nhiều người mua vé trước chúng tôi phải chờ. Tôi tự an ủi thế mới là cõi trần, nếu công bằng thì làm gì có câu đầu lưỡi thời xưa sinh viên chúng tôi thường nói C’est La Vie.
Chiếc xe Jeep chở chúng tôi chạy trên con đường nhựa chỉ đủ cho hai xe du lịch chạy ngược chiều tránh nhau. Đường dốc quanh co, xe lên, xe xuống chạy với tốc độ nhanh. Đúng như cô cháu bạn tôi nói: Không Sợ Không Ăn Tiền. Tài xế lái xe quá giỏi, thật đáng khâm phục. Bạn tôi cho biết chưa hề có tai nạn xảy ra từ ngày khai trương.
Khoảng mười phút chúng tôi đã đến đỉnh núi. Chúng tôi có bốn mươi lăm phút trên đỉnh núi. Đỉnh núi đã được san bằng chỗ thấp chỗ cao để xây những công trình như bãi đậu xe, nhà hàng ăn uống, nhà bán đồ lưu niệm, những kiến trúc cho du khách chụp ảnh. Chúng tôi đi quanh khu du lịch để ngắm cảnh và chụp ảnh. Bạn tôi nói trong bài Lâm Viên Hành Trình Nhật Ký, cụ Đoàn Đình Duyệt có viết: Đứng trên đỉnh núi nhìn về phía tây thì thấy Kon Tum, phía đông thì thấy biển. Chúng tôi đi ra phía tây chỉ thấy núi và rừng thông đến tận chân trời. Đi ra phía đông cũng chỉ thấy núi và thông không thấy biển. Về nhà, tôi mở computer để tìm đọc bài Lâm Viên Hành Trình Nhật Ký. Nguyên văn bài dịch của Phạm Phú Thành như sau: Lại nghe nói gần Lâm Viên có một ngọn núi cao 2.200 thước tây là núi cao nhất Trung Kỳ. Đã mở một con đường nhỏ để tiện lên núi ngắm cảnh. Nếu đứng trên đỉnh núi này nhìn qua kính viễn vọng thì phía Tây thấy được nhà cửa của cư dân tỉnh Côn Tung (Kon Tum), phía Đông thấy tới biển. Đây cũng do quý Khâm Sứ đại thần cho biết.
Tôi nói với bạn tôi:  Mấy ông quan Tây nói dối để dọa quan Ta.
Những ngày ở Huế, tôi đến thăm ông cậu vợ. Cậu vợ tôi là cựu huynh trưởng Hướng Đạo. Tôi khoe với cậu vợ tôi về chuyến đi lên đỉnh Lâm Viên. Ông cậu vợ nói với tôi:
- Đỉnh mà xe đưa cháu lên là đỉnh thấp không phải là đỉnh cao nhất của rặng Lâm Viên. Từ ngọn núi thấp đi qua một cánh rừng nguyên sinh mới tới núi đỉnh cao nhất. Trước 1975, sinh viên sĩ quan Đà Lạt phải leo lên đỉnh núi này mới được gắn Alpha.
Nghe ông cậu vợ nói, tôi sững sờ vì mình đổ tội oan cho mấy ông quan Tây. Tôi nói: “Cháu mừng hụt tưởng mình đã đặt chân lên đỉnh Lâm Viên, nhưng thật ra mới chỉ được xe đưa lên ngọn thấp của dẫy núi Lâm Viên. Thôi thì hẹn lần khác hay hẹn kiếp sau, ta sẽ cắm cờ Hướng Đạo trên đỉnh Lâm Viên”.
Viện Đại Học Công Giáo Đà Lạt Không Còn
Viện Đại Học Công Giáo Đà Lạt may mắn hơn Viện Đại Học Phật Giáo Vạn Hạnh và Viện Đại Học Hào Hảo. Viện Đại Học Đà Lạt chỉ đổi tên thành Trường Đại Học Đà Lạt và vẫn là một cơ sở giáo dục cấp đại học với đầy đủ các phân khoa. Viện Đại Học Vạn Hạnh trở thành cơ sở 2 của trường Đại Học Sư Phạm. Viện Đại Học Hòa Hảo một cơ sở biến thành Trường Đảng, một cơ sở biến thành Sở Thông Tin.

Từ một viện đại học Công Giáo biến thành trường đại học của nhà nước Cộng Sản nên những di tích về tôn giáo cũng dần dần biến mất.  Trước hết là cây thánh giá của Nhà Nguyện được thay bằng ngôi sao đỏ trong năm 1976 để kịp ngày khai giảng khóa đầu tiên của Trường Đại Học Đà Lạt. Trong email gửi lên diễn đàn Thụ Nhân ngày 16 tháng 7 năm 2008 anh B, CTKD 7 viết: “Cuối năm 2005, khi làm Đặc San khóa 7, 35 năm sau nhìn lại. Giáo sư Phó Bá Long trao cho tôi bài viết bằng tay Cây Thánh Giá Trên Tháp Năng Tĩnh mà tác giả là bác Hương Bình, người trông coi sửa chữa các phòng ốc trong VĐH Đà Lạt trước 1975. Sau đó, tôi đánh máy bài viết này và in trong ĐS K7, trang 196 - 197. Đây là một tài liệu xác thực về cây thánh giá trên nóc Năng Tĩnh, do chính người làm “ngôi sao” để phủ cây thánh giá tường thuật lại các chi tiết. Xin hạ tải bài đính kèm”.
Cuối bài Cây Thánh Giá Trên Tháp Năng Tĩnh, tác giả Hương Bình viết: “Ngày nay đã 30 năm trôi qua, cây thánh giá vẫn đứng vững trong lòng ngôi sao và dang hai cánh đỡ ngôi sao đứng sừng sững giữa khung trời đại học”. Nghĩa là cây thánh giá vẫn còn cho đến ngày nay.  Xin đọc nguyên văn bài Cây Thánh Giá Trên Tháp Năng Tĩnh trong phần chú thích.

Những năm sau, tôi không biết vào năm nào, tượng Đức Mẹ Maria bằng thạch cao trên bức tường trong Nhà Nguyện bị xóa bỏ.

 
Và tượng Mẹ Maria trước giảng đường Spellman không còn thấy nữa.

Nay Viện Đại Học Công Giáo chỉ còn lại một ít di tích trong khuôn viên Trường Đại Học Đà Lạt. Thứ nhất là những bức ảnh của những vị linh mục cựu viện trưởng Viện Đại Học Đà Lạt được trưng bày vào năm 2008 trong Thư Viện mới cùng với những bức ảnh của các vị hiệu trưởng Trường Đại Học Đà Lạt. Thứ hai phòng vi tính Frere Nguyễn Văn Kế, Phó Viện Trưởng kiêm Giám Đốc Đại Học Xá Viện Đại Học Đà Lạt, được xây dựng năm 2008 do tiền của một cựu sinh viên trường CTKD, Viện Đại Học Đà Lạt tặng. Thứ ba là những phần học bổng của cựu sinh viên Viện Đại Học Đà Lạt tặng cho sinh viên Trường Đại Học Đà Lạt. 
Ngày nay Trường Đại Học Đà Lạt có những giảng đường và một thư viện mới to lớn đồ sộ. Những giảng đường, những khu đại học xá cũ kỹ nhỏ bé như Thụ Nhân, Spellman, Hội Hữu, Lầu I, II, III, IV, V đã được thay tên và chiếc cầu gỗ nhỏ mầu đỏ xinh xắn gần giảng đường Spellman rồi trong tương lai có lẽ sẽ được thay thế bằng những tòa nhà to hơn, tân tiến hơn để đáp ứng với nhu cầu sinh viên gia tăng từ ba ngàn sinh viên trước năm 1975 lên tới hai mươi hai ngàn sinh viên hiện nay.
Cũng cần ghi nhận điều lạ là năm 2008, nhà trường làm lễ kỷ niệm 50 thành lập Trường Đại Học Đà Lạt. Có nghĩa là người Cộng Sản công nhận trường Đại Học Đà Lạt và Viện Đại Học Đà Lạt là một. Trường Đại Học Đà Lạt là trường tiếp nối của Viện Đại Học Đà Lạt. 
Viện Đại Học Đà Lạt đã đổi thay, nhưng có hai điều chắc chắn không thay đổi. Một là tình yêu của tôi với Viện Đại Học Đà Lạt vẫn còn mãi, Viện Đại Học Đà Lạt vẫn là quê hương tinh thần cho tôi nương tựa.  Thứ hai là khi tôi bước thong thả trên con đường dốc ngắn ngủi từ cổng viện đến ngã năm viện đại học. Tôi còn nhớ tiếng nổ dòn của những chiếc xe Lambretta ba bánh đang đổ sinh viên trước cửa viện, tôi còn nhớ những hình bóng của những bạn ở khu Võ Tánh đang thả bộ trên đường đến cổng viện. Hôm nay, tôi không thấy xe Lambretta ba bánh, nhưng tôi thấy những xe gắn máy hai bánh chạy trên đoạn dốc này và vào cổng trường. Tôi thấy những sinh viên đang đi về phía cổng trường. Điều không thay đổi trong hai hình ảnh này đó là tinh thần hiếu học. Hiếu học là truyền thống của dân tộc ta. Truyền thống hiếu học đã vượt lên mọi tranh chấp và đã giúp đất nước Việt Nam mãi mãi trường tồn. Con đường lên dốc Viện Đại Học đối với sinh viên chúng tôi lúc nào cũng giống như La Rue Vers L’or của dân Mỹ hướng về tương lai tự do và giàu có.
Khu Mả Thánh sắp trở thành Trung Tâm Thể Dục Thể Thao
Ngày xưa ra vô khu B vào những lúc chạng vạng tối đôi khi cũng thấy lạnh xương sống, nổi da gà. Đi trên con đường nhỏ tối tăm. Một bên là mả thánh, một bên là những ngôi nhà xoay lưng vào mả thánh. Con đường có nhiều truyện ma nghe kể ban đêm không dám tung chăn bước xuống giường chứ đừng nói đi ra khỏi phòng để đi tiểu. Hôm nay, đi trên con đường này, tôi nhớ đến hai người bạn đã quá vãng. Trần Phước Tuyển, CTKD 2, theo học nghề bói toán với ông thầy bói Chiêm. Thầy Chiêm dẫn Tuyển lên mả Thánh để dậy cho Tuyển nói chuyện với ma. Đêm đầu Tuyển nằm một mình trong mả Thánh. Đêm thứ hai Tuyển trốn không tới gập thầy Chiêm. Đáng tiếc cho Tuyển, thầy bói Chiêm là một nhà chiêm tinh đã tạo nhiều huyền thoại cho cá nhân ông và Đà Lạt trước 1975 và sau 1975.
Trước 1975, nhiều vị tướng và quan chức Vùng II Chiến Thuật là thân chủ của thầy Chiêm. Anh D, bạn học, kể một huyền thoại về thầy Chiêm trước năm 1975. Cô Pauline Phụng nữ sinh trường Yersin, cháu nội của tướng Cao Đài Năm Lửa, là người yêu của Sơn Beattle.  Sơn Beattle là tay anh chị giang hồ trấn giữ vùng Đà Lạt.  Cô Pauline Phụng không có tin tức của Sơn Beattle một thời gian nên cô cùng bạn của Sơn Beattle tìm đến thầy Chiêm để hỏi. Cả bọn đến nhà thầy Chiêm thì gập thầy Chiêm đang đi ra khỏi nhà. Thầy Chiêm dừng lại hỏi: ”Tụi mi muốn biết tin thằng Sơn phải không? Thằng Sơn chết rồi.”  Cả bọn lạnh xương sống. Cô Pauline Phụng khóc sướt mướt. Đó là một trong những huyền thoại đưa thầy Chiêm lên tuyệt đỉnh nghề tướng số. Đến năm 2008, D gập lại Sơn Beattle tại Atlanta, Hoa Kỳ. D nói với tôi: “Thầy Chiêm đoán đúng 75%. Thằng Sơn Beattle vẫn còn sống. Sơn Beattle không chết chỉ bị mất tích. Nó như chết đi sống lại. Năm 1966 Sơn đầu quân lôi hổ tại Đà Nẵng. Trận ra quân đầu tiên, Sơn bị bắt làm tù binh và bị đưa ra giam tại những trại tù ngoài Bắc.  Sơn được qua Mỹ theo diện HO. Hiện nay Sơn Beattle đang làm báo tại Atlanta.
Anh C, bạn học, kể: Sau 1975 thầy Chiêm bị bắt vô trại tù cải tạo vì bị nghi làm việc cho CIA. Trong trại cải tạo, ông vẫn được mọi người gọi bằng thầy. Một số trại viên hỏi ông: ”Thầy cho biết số phận chúng tôi ra sao“ Bằng giọng Huế, ông trả lời: Đ.M. tụi mi, số phận tao, tao còn chưa biết, làm răng tao biết số phận tụi mi“. Một thời gian sau ông được thả vì vô tội. Ông tiếp tục nghề coi bói và tướng số. Lần này ông bị bắt về tội buôn thần bán thánh. Trên xe chở thầy Chiêm đến trại cải tạo, anh thượng sĩ công an người miền Bắc nói với thầy Chiêm: ”Anh là thầy bói. Nếu anh đoán đúng thì tôi nói với cấp trên của tôi tha anh, anh nói trật anh ở trại cải tạo lâu dài”. Thầy Chiêm đồng ý. Thầy Chiêm nói về quá khứ, hiện tại và tương lai của anh thượng sĩ công an đúng đến nỗi anh thượng sĩ công an khâm phục, gọi ông bằng thầy và xưng con. Giữ đúng lời hứa, anh thượng sĩ đã vận động để cấp trên thả thầy Chiêm. Hai tháng sau, thầy Chiêm được thả. Trần Phước Tuyển và thầy Chiêm gập nhau tại suối vàng, chắc nay Tuyển đã biết tài năng thầy Chiêm có thật hay không.
Người thứ hai là Lê Đường, CTKD I. Thân mẫu anh Lê Đường an táng tại mả Thánh. Dự lễ an táng, chúng tôi mới biết tên Lê Đường được ghép bởi họ Lê của thân phụ và họ Đường của thân mẫu anh. Lê Đường là một tài năng của khóa I CTKD.  Anh là Hướng Đạo sinh có bằng rừng ngành tráng duy nhất tại Đà Lạt. Anh thành lập tráng đoàn Hùng Vương và có cao vọng làm một cuộc cách mạng ngành tráng.  Tráng đoàn Hùng Vương có toán tráng nữ. Sau khi tốt nghiệp, anh được tuyển làm phụ khảo của trường CTKD. Năm 1970 anh được học bổng du học Mỹ trong một chương trình đào tạo những người lãnh đạo sau này cho VNCH của người Mỹ. Năm 1991, tôi gập lại Lê Đường tại Seattle. Tôi ngạc nhiên và không hiểu lý do cuộc sống của anh Đường thay đổi một trăm tám mươi độ. Từ một người có tương lai đầy hứa hẹn trở thành một người có đời sống của kẻ lang bạt kỳ hồ, không vợ con. Anh đi khắp nước Mỹ, làm đủ thứ nghề như bán McDonald, khuân vác, dọn dẹp, quản thủ thư viện… Sau cùng anh trở về sống với người em gái, cô Thoại Anh, tại tiểu bang Massachusetts. Anh đã biến lầu hai nhà của người em gái làm nơi tu thiền. Thỉnh thoảng lắm anh mới trả lời điện thoại của tôi và chúng tôi nói chuyện mỗi lần khoảng hai ba tiếng. Nhiều lần tôi nói với anh: ’’Sinh ra là người có tài, anh không làm việc giúp đời là không công bằng“. Một lần, trong khoảng năm tháng, tôi điện thoại cho anh nhiều lần, nhưng anh không bắt máy. Tôi điện thoại cho anh vào lúc một giờ sáng, giờ Boston. Lê Đường giọng hốt hoảng:
- Có chuyện gì mà Quang gọi giờ này
- Tôi gọi anh nhiều lần, anh không trả lời. Bây giờ tôi biết anh còn sống. Chúc anh ngủ ngon.
- Quang à, bây giờ mình nói chuyện được không.
Chúng tôi nói chuyện hơn hai tiếng đồng hồ tối hôm ấy.
Mỗi lần viết xong một quyển truyện, tôi thường gửi cho Lê Đường. Tôi đã gởi cho anh hai quyển truyện: Quyển truyện dài Mưa Xứ Huế và quyển gồm nhiều truyện ngắn Seattle Việt Nam Đâu Có Xa. Viết xong quyển Trọc Sĩ Quyển I, tôi quên gởi cho anh. Mấy tháng sau, một hôm tôi chợt nhớ đến anh. Tôi vội vàng gởi quyển Trọc Sĩ Quyển I cho anh.  Một tuần sau khi gởi quyển Trọc Sĩ Quyển I, tôi được tin anh từ trần.  Cô Thoại Anh kể cho tôi về cái chết của anh. Lê Đường ở nhà cô Thoại Anh tại thành phố Worcester cách xa chỗ cô Thoại Anh làm việc tại Boston khoảng hai giờ lái xe. Hai anh em chỉ gập nhau vào hai ngày cuối tuần. Hàng ngày cô Thoại Anh điện thoại cho Lê Đường. Tuần lễ khai giảng niên học vì bận việc nên cô Thoại Anh không điện thoại cho anh. Thứ bảy cô trở về nhà. Kêu cửa nhiều lần không được, cửa khóa bên trong nên không mở cửa được, cô gọi cảnh sát phá cửa để vô nhà. Anh Lê Đường nằm ngay ngắn trên giường, mặt bình thản, không thở, người còn ấm. Khám nghiệm y khoa cho biết anh từ trần vì bệnh quên thở khi ngủ. Hai ngày sau anh qua đời, người đưa thư mới giao quyển Trọc Sĩ đến cho anh. Tôi nói với cô Thoại Anh rất tiếc quyển Trọc Sĩ đến chậm hai ngày. Nếu quyển Trọc Sĩ đến trước hai ngày có khi anh Lê Đường không chết. Anh đọc, suy nghĩ để viết thư cho tôi, anh quên ngủ chứ không quên thở. Tôi yêu cầu cô Thoại Anh, trong lễ tang của anh Lê Đường, cô đọc dùm tôi lá thư tôi gởi kèm theo quyển Trọc Sĩ để coi như tôi có mặt trong buổi lễ tiễn đưa anh. 
Hôm nay, tôi đi trên con đường trải nhựa rộng thênh thang. Một bên là mả thánh nằm trên đồi như ngày xưa. Một bên là cửa hàng chạy dài theo dọc con đường. Người dân ngày nay không còn sợ ma như ngày xưa. Họ dám mở cửa trước trông thẳng ra nghĩa địa. Sợ ma thì vẫn sợ, nhưng văn hóa ngày nay tại Việt Nam là văn hóa mặt đường. Nhà quay ra mặt đường để mở tiệm buôn bán làm ăn.
Về Sài Gòn, tôi gập anh bạn K. Anh K và con trai đang làm việc cho công ty Đầu Tư Phát Triển tại Sài Gòn. Anh cho tôi biết công ty anh hiện đang thực hiện hai công trình lớn tại Đà Lạt. Một công trình tại khu mả Thánh. Công ty anh đã di dời được hơn một ngàn ngôi mộ.  Sau khi hoàn thành việc di dời mộ, công ty sẽ xây Trung Tâm Thể Dục Thể Thao Đà Lạt tại khu mả Thánh. Công trình thứ hai là xây biệt thự tại khu bờ hồ đối diện với vườn Bích Câu. 
Mả Thánh sẽ không còn. Đà Lạt sẽ có một trung tâm thể dục thể thao to lớn. Người dân ở đối diện với mả Thánh sẽ vui mừng. Duy có một điều tôi lo ngại không biết mộ của thân mẫu anh Lê Đường được dời chưa? Về đến Mỹ, tôi điện thoại cho Thoại Anh. Cô Thoại Anh cho biết cách đây hơn mười năm, người bạn cô ở Đà Lạt báo cho cô biết chính quyền đang có kế hoạch giải tỏa khu mả Thánh. Cô đã về Đà Lạt để hốt cốt thân mẫu và anh ba của cô. Thoại Anh đã đem tro cốt của hai người để trong chùa Vĩnh Nghiêm.
Dấu Chân Trên Lối Cũ, Tưởng Nhớ Người Xưa
Tôi nhớ những câu thơ Ly Sa Nguyễn Văn Sơn viết:
Còn chăng là giấc chiêm bao
Nhặt bao nhiêu lá, lá nào còn xanh?
Phải chăng khi đã lìa cành
Lá nào cũng mất màu xanh lâu rồi!
• Trước 1975, bà thị trưởng Nguyễn Thị Hậu đã xuất tiền mua hạt giống hoa rải khắp hai bên đồi thông của dinh thị trưởng. Đồi lúc nào cũng đầy hoa: Cúc dại, glaieul, bồ công anh xen lẫn mùi hoa thông, trắc bách diệp, mimosa. Thỉnh thoảng lại có mùi lan rừng, ổ rồng. Hôm nay đi qua con đường trải nhựa phía sau dinh thị trưởng, nhà cửa nhấp nhô san sát đã lấy mất mùi thơm của cỏ cây hoa lá…
• Hôm xưa đi trên con đường được chúng tôi đặt tên là con đường tình yêu Route D’amour, con đường dốc nhỏ dẫn từ Lữ Quán Thanh Niên đến Hồ Xuân Hương. Con đường yên tĩnh, hiền hòa, đầy màu xanh của thông và dương sỉ. Tôi đi và nhớ người con gái xóm ga xứ Huế.  Hôm nay đi trên con đường này, con đường vẫn nhỏ, không thay đổi, nhưng có nhiều nhà nhỏ xây chen lẫn những biệt thư cũ. Một biệt thự biến thành quán cà phê. Hỏi ra đây là của Huỳnh Chùm, một cựu sinh viên của Viện Đại Học Đà Lạt và là một nhà thơ của xứ sương mù.  Xưa và Nay, tôi không biết con đường này tên gì. Ngày xưa chúng tôi gọi là con đường Tình Yêu. Học sinh, sinh viên Đà Lạt hiện nay có gọi đường này là Con Đường Tình Yêu như ngày xưa chúng tôi đặt tên cho nó không?…
Tôi đi trên đường và nhẩm lại từng tên những bạn bè sống cùng tôi ở Lữ Quán Thanh Niên, nhớ hình ảnh xóm ga Huế và người con gái tôi yêu… Tôi vẫn nhận ra đây là con đường Tình Yêu ngày xưa. Tôi biết tôi vẫn còn yêu Đà Lạt, người con gái xóm ga Huế và bạn bè tôi…
• Đi qua khu Ngọc Lan. Nhớ bát phở với những miếng nạm dầy mềm và hũ hành ngâm dấm. Bạn tôi nói: ông chủ tiệm phở Ngọc Lan đã qua đời. Con ông không nối nghiệp được nghề nấu phở của cha.
• Đến khu Hòa Bình nhớ người ăn mày mặc áo hoàng bào mặt lúc nào cũng đỏ gay, miệng lúc nào cũng chửi lũ ăn hại đái nát. Bạn tôi nói: Ông vua Hòa Bình đã băng hà rồi.
Ngày xưa ông vua Hòa Bình chửi lũ ăn hại đái nát. Ngày nay ai nối ngôi ông…
• Vô uống cà phê Tùng. Vẫn ghế da cũ, vẫn ba bức tranh xưa. Chủ nhân mới nối nghiệp cha. Bạn tôi nói:
- Đà Lạt bây giờ có rất nhiều quán cà phê. Cà phê Tùng là quán cà phê của giới nghệ sĩ. Cà phê Tùng có giá rẻ nhất Đà Lạt.
- Tại sao?
- Giới nghệ sĩ nghèo làm gì có tiền để chém. Ngày nay giới sinh viên học sinh ít vô cà phê Tùng.
- Tại sao?
- Mấy ông nghệ sĩ tóc dài coi cà phê Tùng như trụ sở của hội nghệ sĩ nên ngồi cà kê dê ngỗng hàng tiếng đồng hồ, nói ồn ào đủ mọi truyện trên trời dưới đất. Có xe khách xuất hiện, mấy ông tất bật xách túi máy ảnh chạy tưởng như có biến cố gì lớn…
• Xuống chợ Hòa Bình, trên vỉa hè phía đối diện với vũ trường Tulipe xưa, buôn bán trái cây nhộn nhịp. Người bán toàn là người Việt. Tôi không thấy một người Thượng bầy bán những bó củi nhóm bếp, hoa lan hay món đồ khác. Bạn tôi nói: Ngày nay nhà nào cũng dùng bếp ga, bếp điện thì cần gì đến bó củi nhóm bếp nữa. Hoa lan thì người ta sản xuất hàng loạt trong các nhà kính vừa rẻ vừa đẹp…
• Nhìn lòng hồ Xuân Hương và cầu ông Đạo còn bộn bề ngổn ngang lòng nôn nao buồn. Sớm muộn gì, một năm, hai năm Hồ Xuân Hương cũng lại có nước, cầu Ông Đạo sẽ to hơn. Nhưng… xin ghi lại lời của một ông già Đà Lạt: ”Trước 75 và sau 75 người ta đều gọi là cầu Ông Đạo. Hiếm ai gọi là đập Ông Đạo. Đập cầu Ông Đạo thì dễ.  Đập đập Ông Đạo thì khó. Đập xây vững chắc hơn cầu cả vài chục lần. Nếu cứ để đập Ông Đạo và xây thêm bên cạnh một cầu to bằng đập Ông Đạo thì vừa nhanh vừa đỡ tốn công quỹ. Nhất là không phải làm một con đường giữa hồ…” Không biết trước khi thực hiện công trình, nhà nước có công bố cho dân biết để góp ý không?    
• Nhìn lên Đồi Cù, lòng ngao ngán. Biết bao giờ người dân Đà Lạt mới được đi, được nằm trên Đồi Cù như chúng tôi ngày xưa. Tôi chắc chắn không một người dân Đà Lạt nào muốn biến Đồi Cù thành sân Golf.  Cũng như không một người Huế nào muốn biến đồi Vọng Cảnh thành trung tâm khách sạn, khu giải trí vui chơi. Đồi Cù đã mất, đồi Vọng Cảnh vẫn còn…

• Bạn tôi dẫn tôi đến tiệm phở Bằng, quán phở lâu đời nhất của Đà Lạt. Cô con gái nối nghiệp bố mẹ. Ăn xong, bạn tôi hỏi :
- Thế nào?
- Không ngon bằng ngày xưa.
- Mi là thằng hoài cổ. Hơn nửa thế kỷ rồi làm sao mi nhớ được vị phở ngày xưa mà so với sánh.
- Khác xưa rõ ràng. Nhìn đĩa rau thì biết. Ngày xưa, đĩa rau chỉ có húng quế, ngò tây và xà lách đắng. Bây giờ, húng quế và giá sống…
• Đi qua phở Đắc Tín. Phở Đắc Tín không còn. Nhắc tới ba cô con gái của ông bà chủ quán. Bạn tôi trả lời: Không biết ông bà Đắc Tín đi đâu, sống hay chết. 
• Đi đến ngã ba chùa Linh Sơn Võ Tánh. Hỏi quán cơm Ba Dế đâu.  Bạn tôi trả lời: “Ba Duế bán nhà và đi đâu không biết”. Ai nấu cơm cho sinh viên ngoại trú?
• Vô viện Đại Học nhìn phòng ăn của sinh viên Đại Học Xá ngày xưa, nay được sửa chữa và xây thành hình chữ U để làm thành khu liên hợp gồm phòng học và phòng thí nghiệm. Hỏi ông Thầu còn sống hay đã chết. Bạn tôi trả lời: “Cách đây không lâu có gập bà thầu. Không thấy ông thầu. Chắc ông thầu đã mất. Bà thầu đã già lắm rồi”. Ai nấu cơm cho sinh viên nội trú?
• Hỏi những người cũ nay còn ai làm việc cho trường Đại Học Đà Lạt?  Bạn tôi trả lời: Tất cả nhân viên cũ hoặc đã qua đời hoặc đã về hưu.
Đà Lạt thay đổi. Nhiều người bạn tôi thất vọng. Họ thất vọng vì Đà Lạt phát triển lộn xộn không có kế hoạch, rừng Đà Lạt bị tàn phá, Đà Lạt không còn lạnh như xưa, Đà Lạt không còn sương mù.  Đà Lạt không còn đẹp như xưa. Đà Lạt ngày nay không còn đẹp và thơ mộng như Đà Lạt ngày xưa  của họ nữa. Các bạn tôi nhận xét rất đúng. Nhưng “có ai tắm được hai lần trong một dòng sông” như nhà văn người Đức Hermann Hesse viết trong quyển tiểu thuyết Câu Truyện Dòng Sông.  Đà Lạt cũng thăng trầm theo vận nước. Đà Lạt đâu phải của thực dân Pháp, đâu phải của triều Nguyễn, đâu phải của Đệ Nhất Cộng Hòa, đâu phải của Đệ Nhị Cộng Hòa, đâu phải của Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa, và đâu phải của??? trong tương lai. Đà Lạt là của dân tộc Việt Nam. Hiện nay tôi sống tại thành phố Seattle, năm nay là năm thứ 18.  Tôi chưa bao giờ ở một thành phố nào trong một thời gian lâu như tôi ở Seattle. Thành phố Seattle có nhiều điểm giống Đà Lạt. Nhiều người Việt Hải Ngoại ví Little Sài Gòn của CA là Sài Gòn và Seattle là Đà Lạt. Seattle có nhiều đồi dốc, sương mù, rừng thông như Đà Lạt. Seattle có hồ, có núi như Đà Lạt. Seattle có hoa đào như Đà Lạt. Nhất là người Seattle cũng hiền lành dễ thương như Đà Lạt. Trở về Đà Lạt, thành phố tôi chỉ ở bốn năm trong thời gian học đại học, đi trong thành phố với bạn tôi, tôi vẫn thấy thân thuộc, ngọt ngào, ấm cúng… Tôi nhìn Đà Lạt bằng trái tim không bằng con mắt. Tôi trót yêu Đà Lạt. Đà Lạt thế nào tôi vẫn yêu. 
Số Phận Những Quyển Luận Văn
Luận văn tốt nghiệp của tôi có tựa đề Thử Tìm Một Đường Lối Ngoại Giao Của Nước Việt Nam Thống Nhất Qua Lịch Sử. Tôi muốn đọc lại quyển luận văn của tôi. Nếu được tôi sẽ photo lại quyển luận văn để giữ làm kỷ niệm. Tôi vào thư viện của trường đại học Đà Lạt. Tôi hỏi anh nhân viên thư viện. Anh cho biết sau năm 1975, những quyển luận văn được đem vào kho có khóa cẩn thận. Sau này mở khóa thì kho trống rỗng. Anh nhân viên thư viện nói rằng đã có kẻ mở khóa đánh cắp những quyển luận văn và đem bán giấy vụn. Không ai quan tâm đến sách vở vào những năm giao thời lúc bấy giờ. Những tác phẩm của những nhà văn, nhà nghiên cứu tiếng tăm bị ghép vào tội văn hóa đồi trụy đã bị tịch thu hay đốt thì xá gì những cuốn luận văn tốt nghiệp cử nhân của trường CTKD. Những năm cả nước phải ăn bo bo, người ta lấy những quyển luận văn đi bán ve chai để kiếm tiền mua gạo cũng là bình thường. Tôi không chê trách gì họ, tôi chỉ tiếc đã mất đi một kỷ niệm…
Lúc viết luận văn tốt nghiệp, chúng tôi ở độ tuổi hai ba, hai bốn, hai mươi lăm, kiến thức còn non, kinh nghiệm đời còn ít. Vào độ tuổi ấy, tâm hồn chúng tôi trong trắng, đầy lý tưởng muốn làm những việc đội đá vá trời cho xã hội đất nước hơn là cho bản thân mình. Cho nên đôi khi chúng tôi có những ý tưởng táo bạo, viển vông. Đang chiến tranh khốc liệt mà đã nghĩ đến đường lối ngoại giao của một nước Việt Nam thống nhất. Năm thứ ba CTKD, giáo sư Vũ Quốc Thúc có chương trình kinh tế hậu chiến, nên tôi tưởng hòa bình thống nhất đã gần kề. Ngoại giao của một nước Việt Nam thống nhất là vấn đề sinh tử cần sự khôn ngoan và cam đảm. Kinh nghiệm của tiền nhân trong việc giữ nước vẫn quý báu. Trong chương Đối Phó Với Trung Hoa của quyển luận văn, tôi đã đề cập đến những vấn đề sau:
• Cương quyết chống lại khi bị Trung Hoa xâm lăng hà hiếp, hòa dịu sau khi thành công. Kinh nghiệm rút từ những kiệt xuất của dân tộc như Lý Thường Kiệt, Nguyễn Trãi, Ngô Thời Nhiệm, Trần Hưng Đạo, Quang Trung, Lê Lợi…
• Xây dựng phên dậu vững mạnh. Phên dậu phía bắc giáp Trung Hoa gồm các dân tộc thiểu số Nùng, Tày, Mán Mèo. Phên dậu phía Tây gồm Lào, Thượng, Mên… Phên dậu phía Đông là biển đảo và lực lượng hải quân hùng mạnh.
• Đi dây giữa các cường quốc. Thời bấy giờ người ta thường nói tới sự đi dây giữa Mỹ và Tàu. Năm học thứ tư, luật sư Tăng Thị Thành Trai dạy chúng tôi môn chính trị học: Tranh Chấp Nga Hoa. Thế giới đã hình thành thế chân vạc. Như vậy nước ta phải đi dây giữa ba thế lực Mỹ, Nga và Tàu. Trong ba nước, nước nào đáng tin cậy hơn cả. Dĩ nhiên chẳng có nước nào đáng tin cậy. Tàu chắc chắn là không, Mỹ thì ở quá xa. Nga là nước có sức mạnh quân sự ngang ngửa với Mỹ, nghiến nát Tàu dễ dàng. Nga lại ở sát nách Trung Hoa. Nga là chỗ dựa tốt cho Việt Nam trong việc chống lại Trung Hoa luôn luôn muốn thôn tính nước ta. 
• Chọn thủ đô cho nước Việt Nam thống nhất nên xa Trung Hoa và ở gần trung tâm đất nước. Rút kinh nghiệm từ các cuộc chiến tranh với Trung Hoa, Chàm và cuộc chiến thời Trịnh Nguyễn, tôi đề nghị chọn Đà Nẵng hoặc Nha Trang làm thủ đô cho nước Việt Nam thống nhất. 
Đó là những ý nghĩ thô thiển viển vông của tôi ngày xưa. Ngày nay vấn đề ứng xử với Trung Quốc trở nên nóng bỏng.  Ứng xử với Trung Quốc ngày nay khó nhiều lần hơn ngày xưa. Ngày xưa vấn đề quân sự là chính. Ngày nay vấn đề kinh tế văn hóa quan trọng hơn quân sự.  Chế ngự được kinh tế văn hóa thì lâu dài. Chiếm đóng bằng quân sự thì ngắn vì quốc tế phản kháng chứ chưa nói đến sự kháng cự của dân bản xứ. Việt Nam cần có một cẩm nang trong việc ứng phó với Trung Quốc.
Tiếng Rao Hàng Của Thế Kỷ 21
Trằn trọc không ngủ được. Không biết trời đã sáng chưa? Lắng nghe nhà dưới không thấy tiếng động. Chủ nhà chưa thức. Bỗng nghe tiếng phát thanh oang oang. Giật thót cả người. Tôi đang nằm mơ hay tỉnh.  Tiếng phát thanh đem tôi về những ngày đầu của năm 75. Tiếng loa phát thanh của Phường vẫn ám ảnh tôi đến tận hôm nay. Bây giờ lại lùi về những năm đầu 1975 khủng khiếp hay sao? Nghe tiếng hai vợ chồng chủ nhà. Tôi vội vùng dậy, rửa mặt, thay quần áo rồi xuống nhà dưới.  Tôi hỏi bạn tôi:
- Phát thanh gì vậy?
- Rao hàng chứ phát thanh gì: “Bánh bao nóng đây”. Rao hàng thế kỷ 21.  Thu vào máy rồi phát ra to nhỏ tùy ý, khỏi phải mỏi miệng khô cổ.
- Mi nói ông bán bánh bao vặn volume nhỏ vừa đủ nghe. Đà Lạt sáng sớm yên tĩnh, mở volume lớn quá khó nghe và làm nhiều người mất ngủ.
- Sáng mai mi ăn bánh bao để tao gọi ông tới cho mi có ý kiến với ông ta. 
Xe Khách Sài Gòn Đà Lạt
Tôi đi lên Đà Lạt bằng xe khách Thành Bưởi và trở về Sài Gòn bằng xe khách Phương Trang. Hai xe của công ty Thành Bưởi và Phương Trang đều có máy lạnh mát rượi, khách được phát một chai nước và một khăn lau mặt giấy đựng trong bọc nhựa nylong. Sự việc này đã có cách đây bẩy tám năm nên không có gì đáng nói. Hiện nay có nhiều tiến bộ hơn trước:
1. Xe không đón khách dọc đường. Trước khi xe chạy, anh hướng dẫn viên đã giới thiệu tài xế và bản thân anh và nói lời chào mừng khách.  Giới thiệu lịch trình và thời gian chuyến đi. Anh nói xe không đón khách dọc đường, tuy nhiên có một hành khách ở Di Linh đặt mua vé trước nên xe sẽ ngừng tại Di Linh để đón vị khách này. Mong quý khách thông cảm. Khác hẳn trước đây. Càng ngày càng chuyên nghiệp hơn.
2. Đến Đà Lạt có xe trung chuyển đưa khách về tận nhà.
3. Từ Đà Lạt muốn về Sài Gòn, bốc điện thoại gọi hãng xe để giữ chỗ.  Ngày mai sẽ có xe trung chuyển đến tận nhà đón ra bến xe.
4. Sài Gòn thì không có xe đón đến bến xe và không có xe đưa về nhà
Nhờ có nhiều hãng xe cạnh tranh lành mạnh nên người dân được hưởng nhiều lợi ích hơn. Biết đâu vài năm sau, khách đi và đến Sài Gòn sẽ có xe đón và đưa về nhà miễn phí.
Nếu mọi lãnh vực đều có sự cạnh tranh lành mạnh thì đời sống người dân sẽ thoải mái và khá giả hơn. Trong lãnh vực chính trị thời Việt Nam Cộng Hòa có cạnh tranh nhưng thiếu lành mạnh. Các ông bà chính trị gia thậm tha thậm thụt với chùa, nhà thờ, thánh thất.  Đất nước như chỉ có những đảng lớn Phật Giáo, Thiên Chúa Giáo. Các đảng chính trị chuyên nghiệp như Việt Nam Quốc Dân Đảng, Đại Việt … chỉ là những bóng mờ. Bầu cử Thượng Viện năm 1967, hai liên danh Hoa Sen và Bông Huệ đắc cử. Liên danh Sư Tử Cầm Bút của giáo sư đại học do thầy Vũ Quốc Thúc làm thụ ủy thất cử. Chính trị thời Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam chỉ có một đảng Cộng Sản nên không có cạnh tranh, không có cạnh tranh thiếu lành mạnh và cũng không có cạnh tranh không lành mạnh. Anh bạn H của tôi nói: “Thật ra vẫn có cạnh tranh trong thời Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam. Cạnh tranh giữa 2 triệu đảng viên Cộng Sản còn 80 triệu dân không Cộng Sản chỉ chờ đảng lâu lâu cho một chút cạnh tranh thì họ đã mừng và biết ơn đảng. Tội nghiệp cho dân tộc ta ở chỗ đó. Bị bóc lột mà vẫn cám ơn những người bóc lột. Chỉ có xương để gậm vậy mà người dân Việt Nam đã xây dựng được nền kinh tế tốt. Thế mới biết bản lãnh và trí thông minh của người Việt ta. Đảng được ăn thịt nạc thịt ngon, lại được tiếng thơm về sự phát triển kinh tế mà thế giới công nhận”. Anh bạn P của tôi thì nói với tôi: “Tao dám tranh luận với bất cứ ai rằng nền kinh tế Việt Nam giống như cái lò xo bị ép xuống tận cùng lâu ngày, nay thả ra thì nó bung lên chứ không phải do chính sách hay chương trình kinh tế đúng đắn tốt đẹp gì cả. Cứ nhìn sự phát triển tự phát, lôi thôi nhếch nhác hiện nay thì rõ”.
Lãnh đạo Cộng Sản Trung Quốc và Việt Nam đã sáng suốt hơn giới cầm quyền Bắc Hàn, Cuba, Miến Điện và nhiều nước độc tài tại Nam Mỹ và Phi Châu. Họ đổi mới để cứu mình và đỡ khổ cho đất nước.  Theo lý luận của anh bạn P, nếu Bắc Hàn mở cửa để cho lò xo bung lên. Rút kinh nghiệm Trung Quốc, Việt Nam, họ mở toang cửa để cho mọi người cạnh tranh lành mạnh và có người Nam Hàn anh em tận tình giúp đỡ thì chỉ một ngũ niên đã đuổi kịp Trung Quốc, Việt Nam, hai ngũ niên đuổi kịp Đại Hàn, Nhật Bản và gia nhập khối G21 (G20 + Bắc Triều Tiên = G21).
Mong rằng trong mọi lãnh vực của đất nước có sự cạnh tranh lành mạnh như hai hãng xe Thành Bưởi và Phương Trang để đất nước sớm giàu mạnh như Đại Hàn và Nhật Bản.           
Biết Đâu Địa Ngục Thiên Đàng Là Đâu
Tôi được dự một buổi họp mặt của sinh viên tốt nghiêp Hán Nôm năm 1988. Họ ở nhiều nơi trên đất nước về qui tụ tại Đà Lạt. Bạn tôi là thầy của họ nên tôi được mời dự. Ngồi cạnh tôi là anh M, cựu giáo sư chữ Nôm. Anh M chỉ được dậy một năm thì bị nhà trường cho nghỉ việc vì lý do anh là sĩ quan của chế độ cũ mặc dù bạn tôi nói M là giáo sư chữ Nôm rất giỏi. Hiện nay anh M mở dịch vụ bán Trướng Liễn Hoành Phi Câu Đối và hướng dẫn về thủ tục nghi lễ để sinh sống. Tình thầy trò thật đáng trân trọng. Sinh viên đều có địa vị trong xã hội. Người làm trưởng phòng vật tư, người là hiệu trưởng trường trung học, người làm trưởng một phòng của đài truyền hình thành phố Sài Gòn, người có địa vị cao nhất là phó chủ tịch ủy ban nhân dân tỉnh. Tôi đoán tất cả đều là đảng viên. Họ biết anh M và tôi là sĩ quan chế độ cũ. Sinh viên gọi anh M bằng thầy và xưng là em. Cũng có vài người gọi tôi là thầy và xưng em. Họ săn sóc thức ăn và nước uống cho chúng tôi chu đáo, nói năng kính cẩn lễ phép và vui vẻ. 
Sau những câu truyện xã giao thăm dò, tôi và anh M khám phá ra rằng không những là đồng môn tại Viện Đại Học Đà Lạt, chúng tôi còn là đồng môn tại trường Quốc Học. Sau đó chúng tôi còn biết mối liên hệ khác giữa hai chúng tôi. Anh M là em cột chèo với ông cậu vợ tôi. Gia đình ông cậu vợ hiện đang sống trong cùng thành phố Seattle với tôi. Có bốn mối liên hệ nên chúng tôi nói chuyện cởi mở vui vẻ. Anh M nói với tôi:
- Tôi đang đọc quyển Biết Đâu Địa Ngục Thiên Đường. Quyển này viết về cuộc đời của thầy Nguyễn Khắc Dương.
Thầy Dương là giáo sư Triết, Viện Đại Học Đà Lạt. Cuộc đời thầy khắc khổ như một nhà tu. Quyển sách viết về cuộc đời thầy Dương chắc cũng không hấp dẫn nên tôi im lặng. Anh M nói tiếp:
- Trước đây thằng con tôi hỏi: Sau 1975, ba cảm thấy thế nào? Tôi trả lời: Mất mát rất nhiều. Đọc quyển Biết Đâu Địa Ngục Thiên Đàng, tôi kêu thằng con trai và nói: Ba đã nhận định sai. Trong quyển này cũng có nhắc tới thằng K.
Hai chi tiết anh M thêm vào: sự mất mát của những người theo Cộng Sản cũng rất to lớn và nhân vật K đã khiến tôi muốn đọc quyển truyện.  K là cán bộ Cộng Sản nằm vùng. Lúc tôi là sinh viên năm thứ tư CTKD, K là sinh viên văn khoa Triết năm thứ nhất. K ở lầu I. K thỉnh thoảng đến cửa sổ phòng tôi, lầu II đại học xá, để nói chuyện với chúng tôi.  Sau này tôi nghe K bị lộ. K thoát được cuộc lùng bắt của công an Việt Nam Cộng Hòa nhờ thầy Dương che dấu K một tuần trong nhà thầy.  Nay K, bí danh Ba Định, là đại tá công an hồi hưu.
Anh M điện thoại cho anh L chủ tiệm sách Duy Tân để hỏi mua cho tôi một quyển. Anh L trả lời sách đã bán hết. Thứ ba tuần sau mới có sách. Ngày mai chủ nhật tôi đã dời Đà Lạt nên anh L đề nghị anh M trao cho tôi quyển sách của anh, thứ ba tuần sau, anh M mua cuốn khác. Anh M tặng tôi cuốn sách anh đọc chưa xong.
Tác giả truyện Biết Đâu Địa Ngục Thiên Đàng là ông Nguyễn Khắc Phê, em ruột của thầy Dương. Theo lời giới thiệu ở bìa quyển truyện: Ông Phê là hội viên Hội Nhà Văn Việt Nam. Nguyên là Tổng biên tập Tạp chí Sông Hương. Hiện là chi hội trưởng nhà văn tại Huế. Trong quyển Biết Đâu Địa Ngục Thiên Đàng, ông kể lại những biến cố gia đình ông trải qua từ trước 1945 đến sau 1975. Những sự kiện ông kể lại hầu hết mọi người đều đã biết qua sách báo. Những sự kiện đó hầu hết không còn xảy ra ngày nay nữa. Bìa sau của quyển sách nhà văn Nguyễn Khắc Phê đã nêu lý do ông viết quyển tiểu thuyết “Biết đâu địa ngục thiên đàng là đâu là câu Kiều mà bà mẹ thốt lên đau đớn khi cậu Tú Tâm con nhà quan “chạy trốn” người vợ sắp cưới, bỏ nhà đi tu. Mà đâu chỉ với cậu Tú Tâm, trong cuộc đời “dâu bể”, câu Kiều ấy ứng với nhiều nhân vật, nhiều cảnh ngộ…
Tiểu thuyết miêu tả những số phận trải qua mấy chục năm đầy biến động của đất nước nên không thiếu những tình huống éo le, bi thảm, nhưng tác giả cũng dành nhiều tâm huyết miêu tả những cảnh đời bình dị, êm đẹp ở một làng quê, với tình mẹ con, họ hàng, làng xóm đầm ấm - vẻ đẹp truyền thống và là cội nguồn của sức mạnh Việt Nam“
Nhà văn Nguyễn Khắc Phê đã nêu lên một vấn đề vô cùng hệ trọng của dân tộc đó là truyền thống gắn bó giữa anh em, họ hàng, bà con, thầy trò, bạn bè, hàng xóm láng giềng của dân tộc. Truyền thống tốt đẹp đó được nhiều nhà nghiên cứu ngoại quốc thừa nhận. Tôi xin trích nguyên văn bản tin được đăng trên báo Người Việt Tây Bắc số 1952 thứ sáu ngày 27 tháng 8 năm 2010, trang 49: “Theo Daniel Ayala, trưởng dịch vụ toàn cầu của Wells Fargo, điều duy nhất chỉ có ở Việt Nam là người ta gửi tiền về cho cả tông chi họ hàng chứ không phải chỉ cho những người ruột thịt. Ngoài ra còn dùng tiền để giúp phát triển kinh doanh nữa. Mark Sidel, một giáo sư nghành luật ở University of Iowa, người chuyên nghiên cứu về sự luân lưu tiền tệ theo lối này nhận xét rằng, trong những năm gần đây, càng có nhiều người Việt gửi tiền về nước vì tính cách từ thiện gồm cả việc liên hệ đến y tế và giáo dục”.
Theo thiển ý của tôi truyền thống mà nhà văn Nguyễn Khắc Phê nêu ra còn quan trọng hơn phát triển kinh tế. Kinh tế là việc cấp thời trước mắt, phải giải quyết trước. Nay kinh tế Việt Nam đã ổn định, đời sống của người dân đã khá hơn những năm của thập niên 70, 80, 90. Việc phục hồi truyền thống đạo đức là việc lâu dài nhưng cần thiết và cấp bách vì truyền thống đó đã bị phá hủy, băng hoại tại miền Bắc do thuyết đấu tranh giai cấp của chủ nghĩa Cộng Sản. Mặc dù bại trận, xã hội nhiều biến động và có sự hiện diện của quân ngoại quốc, nhưng miền Nam vẫn còn giữ được nhiều truyền thống đạo đức, đặc biệt trong hai lãnh vực giáo dục và y tế: Lãnh vực giáo dục vẫn còn tinh thần Quân Sư Phụ và lãnh vực y tế vẫn còn tinh thần Lương Y Từ Mẫu. Đó là điều may mắn cho dân tộc. Miền Bắc, thắng trận, nhiều truyền thống đạo đức bị phá hủy, nhưng những truyền thống đó vẫn còn ở trong tiềm thức của người dân. Cho nên sau khi chiến thắng và tiếp xúc với miền Nam những truyền thống đạo đức đã được dần dần phục hồi trong xã hội miền Bắc và cả nước. Nhưng con đường vẫn còn dài và lắm chông gai.
Đọc xong quyển Biết Đâu Địa Ngục Thiên Đàng, cá nhân tôi có nhận xét, nhà văn Nguyễn Khắc Phê viết để bào chữa cho đảng Cộng Sản về những lỗi lầm mà họ gây ra trong thời gian đã qua một cách kín đáo nhẹ nhàng. Ông kín đáo nhẹ nhàng vì có lẽ trong thâm tâm ông Phê và mọi người Việt đều cho rằng những lỗi lầm trong thời gian từ 1954 đến 1980 không thể bào chữa. Ông Phê đã đặt tựa đề cho quyển sách là Biết Đâu Địa Ngục Thiên Đàng. Thời điểm trước kia thì đúng, chẳng ai biết đâu là địa ngục đâu là thiên đường mà lựa chọn. Cuộc sống của những người đi theo kháng chiến sống trong rừng thiêng nước độc chắc chắn là hạnh phúc và cao quí hơn những người ở lại thành thị và theo Pháp. Nhưng từ năm 1954 đến 1975 thì lại khác. Ngày nay chắc chắn mọi người biết đâu là địa ngục, còn đâu là thiên đường thì còn đang tìm kiếm. Tuy nhiên, một nhà văn còn tại chức, còn có chức có quyền đã viết lên những sự việc sai lầm đã qua là một bước tiến đáng kể trong tiến trình đổi mới. Nhà văn Nguyễn Khắc Phê biểu lộ tình cảm kính yêu đối với người anh ruột của mình. Ông không còn coi thầy Dương là phần tử phản động. Tôi chắc chắn nhà văn Nguyễn Khắc Phê còn có nhiều điều muốn nói mà chưa dám nói hay chưa đến lúc được phép nói. Mong lắm thay… 
Niềm Vui
Ngày đầu tiên ở nhà bạn, trước mặt vợ và hai đứa cháu một nội, một ngoại, bạn tôi nói với tôi:
- Trong thời gian mi ở đây. Mi muốn ăn chi, cứ nói để vợ tao nấu. Thứ hai mi tới Đà Lạt là đất của tao, mọi việc để tao lo. Thứ ba nghiêm cấm mua quà cho hai đứa cháu tao.
Suốt thời gian ở Đà Lạt, mọi chi phí ăn uống, giải khát, trừ việc trả phí tổn lên đỉnh Lâm Viên, đều do bạn tôi thanh toán.
Hai vợ chồng bạn tôi là hai nhà giáo hưu trí. Chồng vẫn đi dạy thêm bán thời gian để kiếm tiền chi phí cho hội Hoàng Gia - Già Hoang của mấy ông già hưu trí hội họp vui chơi vào sáng thứ bảy hàng tuần. Vợ nhất định về hưu, không nhận thêm giờ dạy để ở nhà dạy dỗ hai đứa cháu. Thu nhập của hai anh chị cũng phải kể thêm khoản tiền bốn đứa con đưa hàng tháng để trả ơn công dưỡng dục và trả công ông bà trông nom dạy dỗ các cháu. Hai vợ chồng bạn tôi là những nhà giáo quí báu còn lại trong xã hội hỗn tạp, đầy cạnh tranh. Họ có đời sống trong sạch, đạm bạc, không đua đòi, thanh nhàn và hạnh phúc. Tôi là Việt kiều được người trong nước hậu đãi. Trước đây sự kiện này không xảy ra. Bây giờ là những việc bình thường và đôi khi gây ngạc nhiên cho nhiều Việt Kiều vì được người trong nước mời dự tiệc tại những nhà hàng sang trọng mà bản thân họ chưa chắc đã dám bước chân vào. 
Mừng cho bạn tôi và mừng cho tôi.
Các bạn đã ăn xong bát cơm nguội. Xin chân thành cám ơn.
Quang (Già Cơ)
Ghi Chú: Sau đây là nguyên văn bài Cây Thánh Giá Trên Tháp Năng Tĩnh của tác giả Hương Bình.
Cây Thánh Giá Trên Tháp Năng Tĩnh
Trường Đại Học Đà Lạt ngày nay có nhiều thay đổi về mọi mặt. Các giảng đường cũ đã được sửa chữa, tân trang lại nhưng tên các giảng đường cũ thì đã bị xáo bỏ. Đôn Hóa, Hòa Lạc, Cư Dị, Hội Hữu, Năng Tĩnh, Sinh Viên Vụ, con thuyền Dị An, Thụ Nhân, Đạt Nhân, Thượng Hiền, v.v... đã bị xóa bỏ. Giờ đây chẳng còn ai nhớ đến. Cũng có mấy giảng đường mới xây dựng thêm, rất khang trang, đẹp đẽ và hiện đại.
Lúc đất nước có chiến tranh hỗn loạn, một số người đã di tản ra nước ngoài vì sợ hãi. Trong dòng người di tản, có những giáo sư, sinh viên của Viện Đại Học cũ. Nay đất nước đã ổn định, yên bình nên trong các dịp lễ, có nhiều người đã về thăm lại quê hương nơi cội nguồn của mình. Khi về thăm trường cũ, chắc quý vị thấy Viện đã thay đổi rất nhiều nhưng nếu có vị nào để ý nhìn lên tháp Năng Tĩnh thì không còn thấy cây thánh giá đứng trên đỉnh tháp mà thay vào đó là một ngôi sao năm cánh, màu đỏ. Có thể quý vị nghĩ là cây thánh giá đã bị đập bỏ đâu rồi nhưng không, cây thánh giá vẫn còn đứng nguyên đó và được ngôi sao bao phủ. Trong lòng ngôi sao, thánh giá đã dang hai cánh để đỡ lấy ngôi sao đứng giữa Trời yên ổn.
Năm 1975 Ban Quân Quản và Giáo Sư Nguyễn Lam Kiều tiếp quản Viện Đại Học, phối hợp với nhân viên của Viện canh gác bảo vệ cho Viện. Đến đầu năm 1976 thì có ba giáo sư ở Hà Nội vào tiếp nhận:  Giáo Sư Hiệu Trưởng Trần Thanh Minh, Giáo Sư Phó Hiệu Trưởng Phạm Bá Phong và anh Nguyễn Hữu Mỹ. Cả ba vị ghé qua nhà thăm và nhờ tôi làm giúp một số việc kỹ thuật, máy móc cho văn phòng.  Tiếp theo giao cho tôi nhiệm vụ làm một ngôi sao năm cánh lắp trên tháp Năng Tĩnh, bao phủ cây thánh giá và làm cho kịp ngày khai giảng. Sau một hồi, tôi suy nghĩ có lẽ Ban Giám Hiệu tế nhị, không muốn đập bỏ cây thánh giá nên làm ngôi sao phủ thánh giá lại và ngôi sao là tượng trưng cho ngày khai giảng. Nghĩ vậy nên tôi nhận sơ đồ để thực hiện ngôi sao. Sau đó tôi leo lên đỉnh tháp, đo chiều cao, chiều ngang thánh giá và tính sức nặng của ngôi sao và sức cản của gió vì trên cao có những lúc gió thổi rất mạnh. Đo và tính xong, tôi báo cho Ban Giám Hiệu ngôi sao phải làm vật liệu bằng sắt chữ U và L, lợp tôn dày một ly. Ban Giám Hiệu bảo thủ kho giao cho tôi đủ vật liệu cần dùng và bảo tôi phải làm xong trước ngày khai giảng hai tuần lễ. Tôi làm ngôi sao mất 10 ngày, sơn phết xong giao ngôi sao tại sân đậu xe A2. Quý vị kiểm tra chất lượng và nghiệm thu xong, chỉ chờ đưa lên lắp mà thôi.  Nhưng hơn một tuần, chưa thấy ai đưa ngôi sao lên.
Một buổi sáng, tôi sắp đi làm công trình thì quý vị lại đến nhờ tôi tìm cách nào đưa ngôi sao lên cho kịp ngày khai giảng vì không có nơi nào nhận làm. Cầu Đường thì nhận đưa lên lắp - họ đã làm bản vẽ: đóng một giàn đi quang tháp, cao tới đỉnh tháp để đưa ngôi sao lên (tốn mất 2 triệu đồng) nhưng nay họ hồi lại, bảo không làm được ngay mà phải chờ ba tháng nữa mới làm được. Nhưng nay chỉ còn năm ngày nữa là trường khai giảng.  Họ đưa giàng giáo cho tôi xem. Tôi nói là làm theo cách này thì một tháng chưa chắc đã xong: để tôi làm theo cách của tôi thì may ra kịp ngày khai giảng.
Thật ra, nếu vào thời điểm bây giờ thì ngôi sao đó chỉ nửa ngày là làm xong hết vì bây giờ đã có xe cẩu lên tới 100 mét nhưng vào thời 1976 - 77 thì khó lòng tìm đâu ra loại cần cẩu đó. Do đó, phải dùng sức người. Tôi chỉ còn bốn ngày để lo tìm cách đưa ngôi sao lên đỉnh tháp cao 48 m. Tôi lo hàn các bánh xe ròng rọc, mượn giây, cây đà sắt và đà gỗ để làm hai hệ thống dây kéo thẳng đứng theo tường tháp, một hệ thống kéo ngôi sao và một hệ thống bảo đảm an toàn cho ngôi sao và công nhân. Sắp xếp xong, tôi đến xin Ban Giám Hiệu 20 người phụ giữ dây chằng hai cánh ngôi sao và ba người có thể leo lên đỉnh tháp phụ cho tôi lắp ngôi sao.
Sáng hôm sau tôi sắp xếp hai bên có 20 người giữ dây chằng, còn ba người leo lên tháp là anh Trần Tưng, Giáo Sư Nguyễn Hồng Giáp và anh Nguyễn Văn Quang. Chỉ chờ quan khách vào đông đủ là tôi ra hiệu cho kéo ngôi sao lên, từ từ theo sát tường. Lúc đó, gió thổi ngôi sao bay như diều ở dưới hai bên dây chằng. Khó khăn lắm mới ghì kéo được ngôi sao vào gần tháp. Lúc đó chúng tôi mới nắm được cánh ngôi sao kéo vào vị trí. Ba người lo giữ ngôi sao để tôi leo ra cánh ngôi sao lắp bù loong siết các cánh ngôi sao cho ôm cứng vào cây thánh giá.
Ngày nay đã 30 năm trôi qua, cây thánh giá vẫn đứng vững trong lòng ngôi sao và dang hai cánh đỡ ngôi sao đứng sừng sững giữa khung trời đại học.
Đà Lạt, ngày 30 tháng 4 năm 2005
Hương Bình    
Theo http://www.dalatdauyeu.org/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

  Bùi Việt Phương và những vần thơ lạ từ miền núi Bùi Việt Phương thuộc thế hệ 8X. Phương sinh ra và lớn lên ở miền núi, học xong khoa Ngữ...