Những nghịch lý
trong tự sát và văn học
Mặc dù số lượng những nhà văn nổi tiếng chọn hình thức tự sát
để kết thúc đời mình là thật sự đáng kể nhưng vẫn chưa nhiều hơn ở nhóm những
ngành nghề khác.
“Ngay cả khi còn dang dở, The Pale King [1] vẫn cứ
là một tác phẩm văn học xuất chúng - một cuộc thám hiểm tới cõi bí hiểm nhất của
loài người, một công trình được dựng lên nhờ bản lĩnh phi thường của người nghệ
sĩ. David [2] bắt tay vào cuốn tiểu thuyết để đời của mình với một đề
tài khó nhằn muôn thuở - nỗi buồn, sự tẻ nhạt - đổi lại, anh đã biến chúng
thành một hành trình ly kỳ đầy hài hước lẫn xúc động. Bất cứ ai từng có cơ hội
tiếp xúc với David đều quá hiểu một chuyện rằng, anh sẽ không đời nào để độc giả
trông thấy những tác phẩm của mình nếu như chúng chưa hoàn chỉnh theo cách anh
muốn. Nhưng giờ, cả thế giới có được trong tay cuốn tiểu thuyết dù chưa hoàn tất
của anh, ai có thể làm ngơ mà không đọc nó? David đã chẳng còn trên cõi đời này
đểngăn sự tò mò của chúng ta, anh cũng chẳng còn khả năng tha thứ nếu như ta cứ
một mực khăng khăng phải đọc nó.” - Theo Michael Pietsch - người biên tập
cho cuốn The Pale King của David Foster Wallace.
“Ở Pháp, quá trình tiếp nhận cuốn Tự sát của Edourd Levé [3] thường
bị chi phối bởi hiện thực về cái chết của chính tác giả. Ai cũng hiểu, đây là một
tiểu thuyết hoàn toàn hư cấu, được viết bởi một cái tôi khác ngoài tác giả, kể
câu chuyện về một người bạn đã quyết định tự sát hai mươi năm về trước; và người
ta cũng biết rằng, Levé trên thực tế, đã để lại một lá thư tuyệt mệnh khác trước
khi chính thức từ giã cuộc đời, nhưng không ai có thể ngưng liên tưởng rằng câu
chữ trong văn bản kia chính là những lời diễn giải kỹ càng nhất cho quyết định
tự sát của tác giả sau này.” - Theo Jan Steyn, lời bạt cho cuốn Tự
sát của Edouard Levé.
Một hành động mà đi kèm với nó là văn bản cùng những diễn giải
về chủ thể nhưngbuộc phải được đọc thông qua những người khác: “tự sát” và “văn
học” thật ra lại là những khái niệm mang nhiều những nét tương đồng.Mặc dù số lượng những nhà văn nổi tiếng chọn hình thức tự sát
để kết thúc đời mình là thật sự đáng kể nhưng vẫn chưa nhiều hơn ở nhóm những
ngành nghề khác. Người ta thống kê được rằng, những người theo đuổi ngành y tỷ lệ tự sát cao nhất. Tuy nhiên, nhà văn lại đặc thù là những kẻ sở hữu mối ràng
buộc chặt chẽ với thế giới của ngôn từ nên nhờ đó, họ có thể có những cách kết
nối đặc biệt với lãnh địa của cái chết, và tất nhiên, cả với một trải nghiệm
như tự sát.
Trong cuốn Literature and the Right to Death, Maurice
Blanchot [4] đã phát hiện ra rằng, nhờ sự xuất hiện của ngôn ngữ, con người đã
có thể tiệm cận được ý tưởng về cái chết. Trước ngôn từ, cuộc đời đơn giản chỉ
có sự “tồn tại”. Cái cây sẽ chỉ là một vật thể vô định hình, không bản sắc trước
khi nó được đặt tên là “cái cây”. Nói một cách rõ ràng hơn, khi ta gọi “cái
cây” hay thậm chí gọi “vật thể vô định hình” trong bất cứ hoàn cảnh nào thì đều
không còn chỉ chính cái cây đang tồn tại khách quan kia nữa. Bởi, cũng giống
như “cái chết” chỉ được thật sự biết tới khi người ta hoàn thành xong “sự sống”,
“cái cây” của một thực tại trước ngôn từ cũng đã chết đi ngay khi nó đi vào
ngôn từ; trừ khi ở trong một diễn biến xa xôi nào đó, con người có thể trải
nghiệm được sự chết và những cung bậc của nó ngay trong sự sống.
Trước ngôn từ, “chết” chỉ đơn thuần là một sự chuyển dịch giữa
những trạng thái sống. Sau đó, nó trở thành sự dịch chuyển giữa những trạng sống
nhưng mang tính bản thể luận. Từ ý nghĩa đơn giản để biểu thị những thay đổi
như khi ta hớt tóc hay cắt móng tay, giờ đây, cùng với sự nở rộng của ngôn từ,
cái chết “thăng tiến” trở thành ý niệm về một sự đứt gãy nghiêm trọng cỡ chuyện
diệt chủng hay tuyệt chủng trong đời sống. “Phát ngôn” thật ra chính là công
việc đòi hỏi chúng ta phải chôn vùi xuống đáy biển tất cả những ý nghĩa được kiến
tạo trước đó về sự vật trước khi quyết định nói ra lời nào về nó. Chúa ban sự sống,
còn việc của con người là phá hủy chúng đi”.
Trong từ điển của nhân loại, nhà văn được miêu tả như là những
người có năng lực “phân thân” ra khỏi những mô thức đời sống bất biến thông thường
nhờ vào khả năng sử dụng ngôn từ theo những cách cá biệt. “Tôi viết thế này sẽ
chính xác hơn: “cái chết đang lên tiếng ở bên trong tôi.” Blanchot viết. “Rõ
ràng là, ở bên trong tôi, sức mạnh thôi thúc tôi nói ra lại nằm chính ở trong
khoảnh khắc tôi biến mất khỏi sự tồn tại của mình.” Nhà văn là kẻ đứng xa nhất
với thực tại ở cả không-thời gian, và trong một chừng mực nào đó, chính y cũng
tự kiến tạo nên những thực tại hư cấu, giam giữ mình trong một thế giới tưởng
tượng mà có thể xem như là những nghĩa địa sống. Đối với nhà văn, trở lại được
với thực tại là công cuộc đòi hỏi nhiều ý chí và nỗ lực “dấn thân” hơn ở bất cứ
hành trình nào. Và một khi họ từ bỏ, điều mà chắc chắn sẽ đem lại cho nhà văn sự
tuyệt vọng đau đớn tột cùng, họ sẽ chọn im lặng - cái chết của tác giả bên
trong một con người – hoặc tự sát - cái chết của tác giả thông qua cái chết của
một con người.
“Cái chết phải chăng chính là một món quà của sự tự do?”
Blanchot tự hỏi, “được chết phải chăng là khoảnh khắc viên mãn nhất khi sống?”
Chúng ta chỉ có thể trả lời: “Nếu quả thực vậy thì đó cũng là điểm mù, là khoảnh
khắc trống rỗng nhất của tự do, là bằng chứng cụ thể cho luận điểm: tự do rốt cục
vẫn luôn là một khái niệm trừu tượng, mù mờ, thậm chí luô rơi vào diện bị lý tưởng
hóa (như trong văn học). Còn thực tế này vẫn chỉ toàn là đói nghèo và sự buồn tẻ.”
Đây chính là nghịch lý cốt lõi nằm trong bản chất của cả hành vi sáng tác văn học
lẫn hành vi tự sát. Và theo cách này, tự sát và sáng tác văn học lại luôn song
hành với nhau, cho dù “điểm đến cuộc đời” của từng nhà văn có thể rất khác
nhau.
Ở Mỹ, hành vi tự sát được xem như là một hiện tượng tâm lý -
xã hội, cùng “trường” với trầm cảm, bệnh tâm thần, hội chứng anomie [5], chủ
nghĩa vị kỉ, các hành vi cô lập xã hội, vấn đề tự ý thức, nỗi buồn chán, sự tuyệt
vọng… Trong khi ở Pháp, mặc dù được trang bị đầy đủ lý thuyết khoa học của
Durkheim [6], người Pháp vẫn luôn nhìn nhận tự sát ở một khía cạnh siêu hình,
bên cạnh những khái niệm về sự tồn tại, cảm giác hiện hữu, tính đại diện, khả
năng nhận thức, sự phi lý, và cảm quan về số mệnh.
Mỗi cách tiếp cận đều đem lại một cách hiểu khác nhau cho từ
“sự vô nghĩa” trong cụm “sự vô nghĩa của cuộc sống”. Nếu nhìn về khía cạnh tâm
lý học, chất vấn về “sự vô nghĩa” cũng không khác là bao như khi ta đặt câu hỏi
để đánh giá về tính giá trị hay tầm quan trọng của một vấn đề, và như vậy đồng
nghĩa với chuyện ta cũng trao cho mình một câu trả lời lạc quan rằng, một cá
nhân có khả năng thay đổi được hoàn cảnh của mình, rằng, những tổn thương trong
cuộc sống là hoàn toàn có thể chữa lành được. Nhưng ngược lại, một khi nhìn “sự
vô nghĩa” như một khái niệm siêu hình, đây hoàn trở thành câu chuyện về kí hiệu
học. Còn gì bi quan hơn khi phũ phàng nhận ra “sự vô nghĩa” là một phương diện
bất biến thuộc về thân phận con người, nó cố định chặt chẽ như mối quan hệ giữa
tồn tại của con người với ngôn ngữ, giữa ngôn ngữ với phần còn lại thế giới
này.
Cho dù được đề cập trong bất kì không gian nào (riêng tư
trong nhà hay ngoài nơi công cộng), theo bất cứ cách diễn giải nào (có thể nhiều
hay ít tính bạo lực, được cường điệu hóa hoặc là không), “tự sát” luôn đòi hỏi
một phiên chất vấn không hồi kết và không có chỗ để đặt ra những câu hỏi đơn giản.
Hơn bất cứ hành vi nào, “tự sát” luôn cần có một lời giải
thích cho nó. Giống như những kẻ phạm tội luôn chuẩn bị một bản kế hoạch chi tiết
cho tội ác của mình, những kẻ đào tẩu thì thường để lại một lá thư, hành vi tự
sát tích hợp cả hai kiểu và có biến tấu theo cách riêng, nó vừa có vẻ của một tội
ác, vừa hao hao giống hành vi của một kẻ muốn bỏ trốn khỏi chính căn nhà của
mình - mặc dù cả hai khái niệm bỏ trốn hay phạm tội đều có thể liệt những phạm
trù siêu hình, không định nghĩa được.
Tuy nhiên, chúng ta sẽ gặp khó khăn về diễn giải khi cần nói
về “tự sát”. Hoặc đúng hơn, nói về “tự sát” cũng là đang động chạm đến vấn đề
kinh điển của thông diễn từ xưa tới nay. Bởi, chỉ có thông qua hình thức tự
sát, thì chết mới được coi là “hành động” chứ không còn là một trạng thái.
Nhưng đó cũng chính là hành động cực đoan sẽ ngay lập tức cắt lìa tác giả khỏi
bối cảnh có thể để đưa ra lý do và khả năng để cho ta chất vấn xa hơn. Chúng ta
liệu có thể khẳng định khi cầm trên tay một lá thư tuyệt mệnh rằng “không có gì
nằm ngoài văn bản”? Chúng ta liệu có thể không quan tâm đến tác giả mà cứ thế
áp dụng lý thuyết về “sự ngụy biện về chủ đích” ở đây? Và liệu rằng một lá thư
tuyệt mệnh có thể được thuần túy xem xét như là một văn bản dụng được ý tưởng về
“cái chết của tác giả” của Roland Barthes hay rồi chúng ta sẽ luẩn quẩn mãi
trong câu chuyện con gà hay quả trứng có trước?
Một mảnh giấy nhàu nát để lại cùng dòng chữ viết tay có vẻ đã
được viết trong quằn quại, đau đớn “Tôi không còn muốn sống nữa nên giờ tôi sẽ
tự lấy đi cuộc sống của mình” chắc chắn không thể là một lá thư tuyệt mệnh nếu
như ngay sau đó, chủ nhân của mảnh giấy được phát hiện đang ngồi thưởng trà trước
màn hình tivi. Vậy thì mảnh giấy đó có ý nghĩa gì trong trường hợp này? Một lời
thông báo về ý định tự sát có tính chất trình diễn, phô trương và thậm chí là
vô duyên? Tự sát - hành động có thể khiến những từ ngữ trên mảnh giấy trở nên
có nghĩa lại chính là hành động mà bản thân nó không bao giờ có thể diễn giải
được thông qua ngần ấy ký tự được để lại. Những lá thư tuyệt mệnh được tìm thấy
cho dù có độ dài đến đâu cũng là không đủ đối với những người đọc nó, đó là những
văn bản mà người ta cần và muốn được đọc nhất dẫu có đem tới họ nhiều những
bàng hoàng, tuyệt vọng. Giống như một đứa trẻ lên ba, một người đang cầm trên
tay một lá thư tuyệt mệnh sẽ không thể ngừng thắc mắc và ngổn ngang những câu hỏi
“tại sao” - những dòng thư phải kéo dài vô tận may ra mới có thể làm vừa lòng họ.
Điều này khiến cho lá thư tuyệt mệnh để lại hay bản thân việc tự sát trở thành
vô nghĩa (khi mà người ra đi đã cố giải thích rằng cuộc sống đơn giản cần phải
kết thúc lúc này). Những người khi quyết định chết đi rồi nhưng vẫn còn bị đeo
đẳng bởi nghĩa vụ phải giải thích cho cái chết của mình có lẽ là những kẻ thiệt
thòi nhất thế gian. Bởi y chẳng những chưa bao giờ được sống một cách đúng
nghĩa mà còn không có khả năng tự giết được chính mình.
Và mọi chuyện sẽ trở nên phức tạp hơn cả trăm lần khi hành vi
tự sát được gắn với việc sáng tác của một nhà văn. “Tự sát” có nhiều yếu tố
mang dáng dấp của một thể loại văn học mặc dù hiển nhiên chưa có một ai từng
làm công tác phân loại cho nó.
Đối với một lá thư tuyệt mệnh,ai mới thực sự là chủ nhân của
chúng? Chính người quyết định tự tử hay người sáng tác? Sau cái chết của
Nietzsch [7] - đương nhiên là ông đã không tự sát - người ta tìm được những mảnh
giấy vụn với dòng chữ “Tôi đã quên chiếc ô của mình” trong rất nhiều những bản
thảo chưa được xuất bản của ông. Câu hỏi ở đây là, liệu rằng thông điệp của
dòng note kia có đơn giản như tất cả mọi người đều thấy, hay, như thường lệ, là
một kiểu ẩn dụ của Nietzsche, một câu khái quát có vẻ giá trị trong tuyển tập Ý
chí quyền lực bỏ ngăn kéo của ông? “Tôi đã quên chiếc ô của mình” - là một
câu của Nietzsche, một người bình thường, hay của Nietzsche, một nhà văn, một
triết gia?Trong trường hợp của một diễn viên, Richard Burbage [8] chưa
bao giờ được cho là đã tự sát ngay cả khi anh ta nói anh ta luôn sống trong vai
diễn Hamlet. Nhưng, một nhà văn thì không bao giờ bước từ cánh gà ra sân khấu
hay chiều ngược lại. Không có một ranh giới cụ thể nhất định nào gián cách được
những phát ngôn của y ra khỏi ngữ cảnh để phân định được khi nào tư cách của một
nhà văn được hiện diện, khi nào thì chỉ là một người bình thường đang viết.
Đó cũng là lý do mà Jacques Derrida [9] trong cuốn Spurs [10] sau
nhiều lần cố gắng diễn giản thì cuối cùng đã kết luận: ý nghĩa của dòng “cập nhật
trạng thái” có vẻ đầy ẩn ý về chiếc ô của Nietzsche là “không thể kết luận được.”
Nó cũng tương tự với trường hợp của những lá thư tuyệt mệnh với style phổ
thông nhất như: “Tôi không còn muốn sống nữa nên giờ tôi sẽ tự lấy đi cuộc sống
của mình”. Rất có thể những dòng văn bản như thế này lại là lời đề từ của một
bài thơ, một truyện ngắn hay tiểu luận nào đó… thay vì là một phát ngôn cho một
hành động cụ thể. Giống như chuyện ta cũng không có lý do gì để khẳng định khi
đại từ nhân xưng “tôi” xuất hiện thì nó ám chỉ tới tác giả, hoặc một cái “tôi”
khác của tác giả, hay thật ra chỉ là một nhân vật hư cấu của y. Điều này cũng
đã được Roland Barthes [11] cảnh báo tới chúng ta từ rất sớm trong cuốn sách
mang tên ông, rằng: mọi thứ rất có thể chỉ là phát ngôn của một nhân vật trong
tiểu thuyết. Và những dòng có vẻ như của một lá thư tuyệt mệnh cũng rất có thể
chỉ là một trích dẫn hơn là một tuyên bố, nhưng nếu chẳng may, có một sự trùng
hợp ngẫu nhiên rằng đó cũng là những dòng cuối cùng của tác giả đã viết thì khả
năng gây tổn thương, mất mát cho những người đọc vẫn là cực lớn. Một lá thư (có
vẻ) tuyệt mệnh càng chi tiết, cụ thể, không chỉ thông báo suông về ý định tự
sát, mà còn có những tự sự đi kèm, cặn kẽ những lí do và để ngỏ nhiều những chỉ
dẫn,… sẽ càng làm những người đọc hoang mang, lẫn lộn thật giả.
Trong trường hợp không có một văn bản cụ thể nào note về
việc tự sát được để lại, thì bằng mọi giá, người ta cũng sẽ lục lọi để tìm ra
những manh mối và ôm một niềm tin có phần mù quáng rằng, chúng chắc chắn được cất
giấu sâu trong những sáng tác của nhà văn - lúc này, bất cứ một câu văn bóng
gió nào cũng tiềm tàng nguy cơ đang che đậy về ý định tự sát, bất cứ một từ nào
được dùng cũng có thể mang dáng dấp của một bia mộ. Giống như một ca tự sát của
thực tế đang được các điều tra viên xem xét trong nhà xác, “thi thể” của một
“nhà văn đã tự sát” cũng sẽ được khám nghiệm bởi những nhà thông diễn, từ xa lạ
cho đến quen sơ, quen thân, từ kẻ diễn giải nghiệp dư cho đến những tay chuyên
gia phân tích. Và phải nhờ có “cái chết” của nhà văn hay những người tự vẫn thì
mới có công ăn việc làm cho những người làm công tác thông diễn hay điều tra.
Các nhà phê bình văn học nói riêng đã không thể xây dựng được một nguyên tắc nhất
định nào cho công việc diễn giải của mình. Một nhân vật hư cấu tự sát trong tác
phẩm viết năm 20 tuổi của nhà văn liệu có liên can tới chết thực sự của chính
anh ta năm 40 tuổi? Chúng ta sẽ khác đi thế nào khi nghĩ về chàng Werther [12]
nếu như Goethe [13] giả sử đã tự tay giết chính mình sau khi viết cuốn Marienbad
Elegy? “Anh ta thật ra đã được định sẵn là phải chết bởi chính bàn tay của
mình sau những đổ vỡ trong tình yêu.” - ai có thể sẽ phán xét mập mờ như vậy,
nói đúng cũng được mà nói sai cũng xong.Tranh "Nỗi đau của chàng Werther"Những khía cạnh nhìn từ hành vi tự sát có thể gợi dẫn chúng
ta một thông điệp rằng: những ý tưởng như “không một ý nghĩa nào nằm ngoài văn
bản” hay “có thể hiểu được thấu đáo câu chữ của nhà văn bằng cách lục lọi thông
tin từ tiểu sử của ông ấy” giờ đây là không đủ dùng và không đủ thuyết phục khi
thực hành đọc văn bản. Liệu chúng ta có thể kìm lòng mà không tìm cách “giải
mã” một ca tự sát bằng việc huy động mọi dữ kiện có được bất kể có hợp lý hay
không? Một khi còn thở thì có vẻ như chúng ta sẽ khó mà để yên cho những “vụ tự
sát” có quyền là một điều bí mật.
Chú thích:
[1] The Pale King, tạm dịch Nhà vua nhợt nhạt, cuốn
tiểu thuyết chưa hoàn thành của Foster WallaceDavid khi anh tự sát vào năm
2008. Ngay cả khi còn dang dở, The Pale King vẫn là một tác phẩm lớn
với 50 chương có độ dài khác nhau với tổng số hơn 500 trang.
[2] Foster WallaceDavid (1962-2008), nhà văn người Mỹ, đã tự
tử ở tuổi 46 sau khi phải vật lộn với chứng trầm cảm trong nhiều năm. Cuốn tiểu
thuyết Infinite Jest (1996) của anh được tạp chí Time liệt kê là một
trong 100 tiểu thuyết tiếng Anh hay nhất được xuất bản từ năm 1923 đến 2005.
[3] Édouard Levé (1965-2007), nhà văn, nghệ sĩ và nhiếp ảnh
gia người Pháp, đã treo cổ tự sát ở tuổi 42. Tự sát (Suicide) là
cuốn tiểu thuyết cuối cùng của Levé, anh đã giao nó cho biên tập của mình 10
ngày trước khi anh tự sát.
[4] Maurice Blanchot (1907-2003) nhà văn, triết gia, lý thuyết
gia văn học người Pháp.
[5] Anomie: một trạng thái của ý thức đạo đức-tâm lý
công cộng hoặc cá nhân, được đặc trưng bởi sự tham nhũng của các chuẩn mực đạo
đức, sự sụp đổ của hệ thống giá trị đạo đức. Khái niệm anomie được đề Durkheim
Emil, với mục đích diễn giải một phản ứng hành vi lệch lạc, ví dụ, ý định tự tử,
hành vi bất hợp pháp.
[6] Émile Durkheim (1858-1917), nhà xã hội học người Pháp nổi
tiếng, người đặt nền móng xây dựng chủ nghĩa chức năng và chủ nghĩa cấu trúc;
góp công lớn trong sự hình thành bộ môn xã hội học và nhân chủng học.
[7] Friedrich Wilhelm Nietzsche (1844 – 1900) triết gia nổi
tiếng người Phổ, nhân vật quan trọng của triết học hiện đại với các công trình
về chủ nghĩa hiện sinh (existentialism), chủ nghĩa hậu hiện đại
(postmodernism), phân tâm học (psychoanalysis) …
[8] Richard Burbage (1567-1619), một diễn viên sân khấu người
Anh, là bạn và thường xuyên diễn các vở kịch của William Shakespeare.
[9]Jacques Derrida (1930-2004), nhà triết học người Pháp,
phát triển lý thuyết phê phán được biết đến là giải cấu trúc (déconstruction),
các tác phẩm của ông được gọi là hậu cấu trúc luận và có gắn với triết học hậu
hiện đại.
[10]Spurs, cuốn sách của Derrida với ý tưởng “giải cấu
trúc” các luận đề của Nietzsche.
[11] Roland Gérard Barthes (1915-1980), nhà lý luận văn học,
triết gia, nhà ký hiệu học người Pháp, ảnh hưởng tới sự phát triển của các trường
phái lý thuyết bao gồm chủ nghĩa cấu trúc, ký hiệu học, xã hội học, nhân chủng
học và chủ nghĩa hậu cấu trúc.
[12] Werther, nhân vật chính đã tự sát sau những đổ vỡ trong
tình yêu trong cuốn tiểu thuyết Nỗi đau của chàng Wertherra đời năm 1774,tiểu
thuyết kinh điển của văn hào Johann Wolfgang von Goethe trong phong trào
"Bão táp và xung kích" (Sturm und Drang) ở Thời kỳ Khai sáng trong lịch
sử Đức nửa cuối thế kỷ thứ 18
[13] Wolfgang von Goethe (1749-1832), nhà thơ, nhà viết kịch,
tiểu thuyết gia, nhà văn, nhà khoa học, họa sĩ lỗi lạc người Đức, được coi là một
trong những vĩ nhân trong nền văn chương thế giới.
1/9/2020 Kiều ChinhNguồn: Văn nghệ quân đội, ngày 6.1.2020
1/9/2020
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét