Thứ Ba, 9 tháng 5, 2023

Thi nhân Việt Nam 3

Thi nhân Việt Nam 3

Anh Thơ
Chính tên là Vương Kiều Ân  Vương họ cha, Kiều họ mẹ. Sinh tháng Janvier 1919 tại Ninh giang. Học từ năm lên bảy, năm 13 tuổi mới lên lớp ba (Hải  dương, Thái bình, Bắc giang). Bỏ học sau một buổi bị cô giáo phạt quỳ.
Đã đăng thơ: Hà Nội báo (ký Hồng Anh), Tiểu thuyết thứ năm, Ngày nay, Phụ nữ. Được giải thưởng khuyến khích về thơ của Tự lực văn đoàn năm 1939.
Đã xuất bản: Bức tranh quê (Đời Nay, Hà Nội 1941), Xưa (hợp tác với Bàng Bá Lân, 1941).
Một hôm tôi nhận được bức thư đề: M. Hoài Thanh, professeur, l’instituteur Thuận hóa. Tôi đã không dám khinh thường người viết thư mà lại còn kính phục thêm nữa. Vì tôi biết người viết thư là một nữ thi sĩ có danh: Anh Thơ. Đã đành hay thơ Việt không cần phải giỏi tiếng Pháp. Nhưng trong tình thế nước ta bây giờ một người thiếu niên muốn có một nền học vấn vừa vừa mà không cần đến tiếng Pháp quả là một điều thiên nan vạn nan. Cứ xem văn của Anh Thơ ai cũng phải bảo là người có học. Thế mà cái lối viết rõ ràng và chắc chắn ấy, Anh Thơ không từng học được trong tiếng Pháp. Càng kính phục người, ta càng mừng cho nền quốc văn. Quốc văn ta ngày một thêm phong phú và hiện nay đã có thể làm lợi khí đào luyện tinh thần cho một người như Anh Thơ.
Tôi vừa nói đến lối viết của tác giả ‘‘Bức tranh quê’’, tập thơ này cũng thuộc về lối thơ của người có học. Vẫn biết làm thơ đạo tình không phải bao giờ cũng là người ít học, nhưng thường người ít học chỉ có thể làm thơ đạo tình. Phải là người có học mới có thể đưa vào thơ cái cảnh
Chó le lưỡi ngồi thừ nhìn cũi đóng,
Lợn trói nằm hồng hộc thở căng dây.
Anh Thơ từ lâu chỉ chuyên lối thơ tả cảnh, mà lại tả những cảnh rất tầm-thường: một phiên chợ, một đứa bé quét sân, một vài mụ đàn bà ngồi bắt chấy. Thơ của người biệt hẳn ra một lối. Có kẻ sẽ cho Anh Thơ là người vô tình. Nhưng có thiếu nữ nào hai mươi tuổi mà lại vô tình? Anh Thơ bắt đầu cũng đã làm những bài kể nỗi lòng mình. Hẳn người đã tập luyện nhiều lắm mới có thể đi đến cái thản nhiên, cái dửng dưng mà độc giả ‘‘Bức tranh quê’’ ắt phải lấy làm lạ. Nhiều lúc tôi tưởng người đã đi quá xa. Tranh quê có bức chỉ là bức ảnh; cái thản nhiên, hàm xúc của nghệ sĩ đã nhường chỗ cho cái thản nhiên trống rỗng của nhà nghề.
Theo gót thi nhân đến đó, ta thấy uất ức khó thở: người dẫn ta vào một thế giới tù túng rồi không cho ta mơ tưởng đến một trời đất nào khác nữa.
Không, thơ phải là một tia sáng nối cõi thực và cõi mộng, mặt đất với các vì sao. Thơ không cốt tả mà cốt gợi, gợi cảnh cũng như gợi tình. Cho nên mỗi lần Anh Thơ chịu đi ra ngoài lối tù túng đó để nhìn cảnh vật một cách sâu sắc hơn, lời thơ bỗng trở nên rộng rãi không ngờ và ta thấy khoan khoái biết bao. Sau câu thơ ta mơ hồ thấy một cái gì: có lẽ là hồn thi nhân. Như khi người tả cảnh bến đò trưa hè:
Mây đi vắng, trời xanh buồn rộng rãi
Sông im dòng đọng nắng đứng không trôi
 
Hay tả cảnh một buổi sáng trong trẻo:
Gió man mát bờ tre rung tiếng sẻ,
Trời hồng hồng đáy nước lắng sơn mây
Làn khói xám từ nóc nhà lặng lẽ
Vươn mình lên như tỉnh giấc mơ say.
Cảnh trong thơ cũng bất tất phải mênh mông. Một cái vỏ ốc đủ khiến ta nghe cả tiếng sóng biển rào rạt. Chỉ có ít bông hoa mướp, một lũ chuồn chuồn mà Anh Thơ gợi nên cả cái không khí thu;
Hoa mướp rụng từng đóa vàng rải rác;
Lũ chuồn chuồn nhớ nắng ngẩn ngơ bay
Thường người cũng không cần đến những cảnh vốn sẵn nên thơ như thế. Với một vài điều nhỏ nhặt hầu như thô lậu, người hé mở cho ta một cảnh trời. Chỗ này, giữa đám người ồn ào và đông đúc, vài ông thầy bói lặng lẽ đi:
Bước gậy lần như những bước chiêm bao.
Chỗ kia, đêm ba mươi Tết, chung quanh nồi bánh chưng sôi sùng sục:
Đĩ lớn mơ chiếc váy sồi đen nhức,
Bà lão nằm tính tuổi sắp thêm năm.
Cho hay, vô cùng chỉ có thế giới bên trong. Và hình sắc đẹp là những hình sắc khéo dẫn người ta vào thế giới ấy.
Août 1941
CHIỀU XUÂN
Mưa đổ bụi êm êm trên bến vắng,
Đò biếng lười nằm mặc nước sông trôi;
Quán tranh đứng im lìm trong vắng lặng
Bên chòm xoan hoa tím rụng tơi bời.
Ngoài đường đê cỏ non tràn biếc cỏ,
Đàn sáo đen sà xuống mổ vu vơ
Mấy cánh bướm rập rờn trôi trước gió.
Những trâu bò thong thả cúi ăn mưa.
Trong đồng lúa xanh rờn và ướt lặng
Lũ cò con chốc chốc vụt bay ra,
Làm giật mình một cô nàng yếm thắm.
Cúi cuốc cào cỏ ruộng sắp ra hoa.
(Bức trang quê)
TRƯA HÈ
Trời trong biếc không qua mây gợn trắng,
Gió nồm nam lộng thổi cánh diều xa.
Hoa lựu nở đầy một vườn đỏ nắng,
Lũ bướm vàng lơ đãng lướt bay qua.
Trong thôn vắng, tiếng gà xao xác gáy,
Các bà già đưa võng hát, thiu thiu...
Những đĩ con ngồi buồn lê bắt chấy
Bên đàn ruồi rạc nắng hết hơi kêu.
Ngoài đê thẳm, không người đi vắng vẻ
Lũ chuồn chuồn giỡn nắng, đuổi nhau bay.
Nhưng thỉnh thoảng tiếng nhạc đồng buồn tẻ
Của vài người cỡi ngựa đến xua ngay.
(BỨC TRANH QUÊ)
BẾN ĐÒ NGÀY MƯA
Tre rũ rợi ven bờ chen ướt át
Chuối bơ phờ đầu bến đứng dầm mưa.
Và dầm mưa dòng sông trôi rào rạt
Mặc con thuyền cắm lại đậu chơ vơ.
Trên bến vắng, đắm mình trong lạnh lẽo
Vài quán hàng không khách đứng xo ro.
Một bác lái ghé buồm vào hút điếu
Mặc bà hàng sù sụ sặc hơi, ho.
Ngoài đường lội họa hoằng người đến chợ
Thúng đội đầu như đội cả trời mưa.
Và họa hoằng một con thuyền ghé chở
Rồi âm thầm bến lại lặng trong mưa.
(Bức Tranh Quê)
RẰM THÁNG BẢY
Gió hiu hắt gieo vàng muôn cánh lá,
Trời âm u mây xám bóng sương chiều.
Làng xóm ngập nhà nhà trong khói tỏa
Vẳng đưa lời khóc mã lạnh hiu hiu.
Trong chùa, điện hương đèn nghi ngút sáng
Tiếng mõ, chuông hòa nhịp trống bên đình.
Lời cầu cúng truyền theo làn khói thoảng
Quyến cô hồn nương gió lại nghe kinh.
Ngoài đê rộng bồ đài nghiêng đổ cháo
Lễ chúng sinh từng bọn một ăn mày.
Cùng lẳng lặng như bóng ma buồn não
Dắt nhau tìm nơi cúng để xin may.
(Bức tranh quê)
Hàn Mạc Tử
Chính tên là Nguyễn Trọng Trí. Sinh ngày 22-9-1912 ở Lệ Mỹ (Đồng Hới), mất ngày 11-11-1940, trú ngụ ở Quy Nhơn từ nhỏ. Nhà nghèo, Cha mất sớm. Học trường Quy Nhơn đến năm thứ ba. Làm sở Đạc điền một độ, bị đau rồi mất việc. Vào Nam làm báo ít lâu lại trở về Quy Hòa. Kế đó mắc bệnh hủi, đưa vào nhà thương Quy Hòa rồi mất ở đó.
Làm thơ từ ngày mười sáu tuổi (lấy hiệu là Phong Trần rồi Lệ Thanh). Đến năm 1936, khi chủ trương tờ phụ trương văn chương báo Saigon mới đổi hiệu là Hàn Mạc Tử.
Đã đăng thơ: Phụ nữ tân văn Saigon, Trong khuê phòng, Đông Dương tuần báo, Người mới.
Đã xuất bản: Gái quê (1936).
Tôi đã nghe người ta mạt sát Hàn Mạc Tử nhiều lắm. Có người bảo: "Hàn Mạc Tử. Thơ với thẩn gì! toàn nói nhảm". Có người còn nghiêm khắc hơn nữa: "Thơ gì mà rắc rồi thế! Mình tưởng có ý nghĩa khuất phục, cứ đọc đi đọc lại hoài, thì ra nó lừa mình!". Xuân Diệu có lẽ cũng nghĩ đến Hàn Mạc Tử rong khi viết đoạn này: "Hãy so sánh thái độ can đảm kia (thái độ những nhà chán thi sĩ) với những cách đột nhiên mà khóc đột nhiên mà cười, chân nhảy, miệng vừa kêu: Tôi điên đây! Tôi điên đây! - Điên cũng không dễ làm như người ta tưởng đâu. Nếu không biết điên, tốt hơn là cứ tỉnh táo như thường mà yên lặng sống".[1]
Nhưng tôi cũng đã nghe những người ca tụng Hàn Mạc Tử. Trong ý họ, thi ca Việt Nam chỉ có Hàn Mạc Tử. Bao nhiêu thơ Hàn Mạc Tử làm ra họ đều chép lại và thuộc hết. Mà thuộc hết thơ Hàn Mạc Tử đâu phải chuyện dễ.
Đã khúc mắc mà lại nhiều: tất cả đến sáu bảy tập. Họ thuộc hết và chọn những lúc đêm khuya thanh vắng họ sẽ cao giọng ngâm một mình. Bài thơ đã biến thành bài kinh và người thơ đã trở nên một vị giáo chủ. Chế Lan Viên nói quả quyết:
"Tôi xin hứa hẹn với các người rằng, mai sau, những cái tầm thường, mực thước kia sẽ biến tan đi, và còn lại của cái thời kỳ này chút gì đáng kể đó là Hàn Mạc Tử ".[2]
Ngót một tháng trời tôi đã đọc thơ Hàn Mạc Tử [3]. Tôi đã theo Hàn Mạc Tử từ lối thơ Đường đến vở kịch bằng thơ Quần Tiên hội. Và tôi đã mệt lả. Chính như lời Hàn Mạc Tử nói trong bài tự Thơ điên, vườn thơ của người rộng rinh không bờ bến càng đi xa càng ớn lạnh.
Bây giờ đã ra khỏi cái thế giới kỳ dị ấy và đã trở về với cuộc đời tầm thường mà ý nhị, tôi xếp đặt lại những cảm tưởng hỗn độn của tôi.

THƠ ĐƯỜNG LUẬT - Theo Ông Quách Tấn Phan Sào Nam [4] hồi trước xem thơ Đường luật Hàn Mạc Tử có viết trên báo đại khái nói: "Từ về nước đến nay, tôi được xem thơ quốc âm cũng khá nhiều, song chưa gặp bài nào hay đến thế [5]... Ôi hồng nam nhạn bắc, ước ao có ngày gặp gỡ để bắt tay nhau cười lên một tiếng lớn ấy là thỏa hồn thơ đó". Thơ Đường luật Hàn Mạc Tử làm ra nhiều nhưng bị thất lạc gần hết, tôi không được xem mấy bài. Song trong những bài tôi được xem, tôi cũng đã gặp ít câu hay, chẳng hạn như:
Nằm gắng đã không thành mộng được,
Ngâm tràn cho đỡ chút buồn thôi.
Dầu sao tôi vẫn nghĩ cái khuôn khổ bó buộc của luật Đường có lẽ không tiện cho sự nẩy nở một nguồn thơ rào rạt và lạ lùng như nguồn thơ Hàn Mạc Tử.
GÁI QUÊ - Nhiều bài có thể là của ai cũng được. Còn thì tả tình quê trong cảnh quê. Lời thơ dễ dàng, tứ thơ bình dị. Nhưng tình ở đây không có cái vẻ mơ màng thanh sạch như mối tình ta vẫn quen đặt vào trong khung cảnh những vườn tre, những đồi thông. Ấy là một thứ tình nồng nàn, lơi lả, rạo rực, đầy hình ảnh khêu gợi. Ông Phạm Văn Ký đề tựa tập thơ ấy phải lắm; "Gái quê", và "Une voix sur la voie" đều bắt nguồn trong tình dục.
Thơ Điên - Thơ điên gồm có ba tập:
1. Hương thơm.
2. Mật đắng.
3. Máu cuồng và hồn điên.
HƯƠNG THƠM - Ta bắt đầu bước vào một ánh trăng, ánh nắng, tình yêu và cả người yêu đều muốn biến ra hương khói. Một trời tình ái mới dựng lên đâu đấy. Tuy có đôi vần đẹp, cảm giác chung nhạt tẻ thế nào.
MẬT ĐẮNG - Ta vẫn đi trong mờ mờ. Nhưng thỉnh thoảng một luồng sáng lạ chói cả mắt. Nguồn sáng toả ra từ một linh hồn vô cùng khổ não. Ta bắt gặp dấu tích còn hoi hóp của một tình duyên vừa chết yểu. Thất vọng trong tình yêu, chuyện ấy trong thơ ta không thiếu gì, nhưng thường là một thứ buồn rầu có thấm thía vẫn dìu dịu. Chỉ trong thơ Hàn Mạc Tử mới thấy một nỗi đau thương mãnh liệt như thế. Lời thơ như dính máu.
MÁU CUỒNG VÀ HỒN ĐIÊN - Đến đây ta hoàn toàn ra khỏi cái thế giới thực và cả thế giới mộng của ta. Xa lắm rồi. Ta thấy những gì xung quanh ta? Trăng, toàn trăng, một ánh trăng gắt gao, ghê tởm linh động như một người hay đứng hơn như một yêu tinh. Trăng ở đây cũng ghen, cũng giận, cũng cay nghiệt, cũng trơ tráo và cũng náo nức dục tình. Hàn Mạc Tử đi trong trăng há miệng cho máu tung ra làm biển cả, cho hồn văng ra và rú lên những tiếng ghê người... Ta rùng mình, ngơ ngác, ta đã lục lọi khắp trong đấy lòng ta, ta không thấy có tí gì giống cái cảnh trước mắt. Trời đất này thực của riêng Hàn Mạc Tử ta không hiểu được và chắc chắn cũng không ai hiểu được. Nghĩ thế ta bỗng thương con người cô độc. Đã cô độc ở kiếp này và e còn cô độc đến muôn kiếp. Hàn Mạc Tử chắc cũng biết thế nên lúc sinh thời người đã nguyền với Chúa sẽ không bao giờ cho xuất bản Thơ điên. Một tác phẩm như thế ta không có thể nói hay hay dở, nó đã ra ngoài vòng dân gian, nhân gian không có quyền phê phán. Ta chỉ biết trong văn thơ cổ kim không có gì kinh dị hơn. Ta chỉ biết ta đương đứng trước một người sượng sầm vì bệnh hoạn, điên cuồng vì đã quá đau khổ trong tình yêu. Cuộc tình duyên ra đời với tập Hương thơm, hấp hối với tập Mật đắng, đến đây thì đã chết thiệt rồi, nhưng khí lạnh còn toả lên nghi ngút.
Một nhà chuyên môn nghiên cứu những trạng thái kỳ dị của tâm linh người ta xem tập Máu cuồng và Hồn điên có lẽ sẽ lượm được nhiều tài liệu hơn một nhà phê bình văn học. Tuy thế, đây đó ta gặp những câu rất hay.
Như tả cảnh đồi núi một đêm trăng có câu:
Ngả nghiêng đồi cao bọc trăng ngủ
Đầy mình lốm đốm những hào quang.
Lên chơi trăng có câu:
Ta bay lên! Ta bay lên.
Gió tiễn đưa ta tới nguyệt thiềm
Ta ở cõi cao nhìn trỏ xuống:
Lâng lâng mây khói quyện trăng đêm.
Đọc những câu ấy có cái thú vị ở xứ lạ gặp người quen, vì đó là những cảm giác ta có thể có. Lại có khi những cảm giác ở ta rất thường mà trong trí Hàn Mạc Tử rất dễ sợ. Một đám mây in hình dưới dòng nước thành ra:
Mây chết đuối ở dòng sông vắng lặng.
Trôi thây về xa tận cõi vô biên.
Cái ý muốn mượn lời thơ để tả tâm sự mình cũng chở nên điên cuồng và đau đớn dị thường:
Ta muốn hồn trào ra đầu ngọn bút;
Mỗi lời thơ đều lính não tâm ta.
Bao nét chữ quay cuồng như máu vọt,
Như mê man chết điếng cả làn da.
Cứ để ta ngất ngây trong vũng huyết,
Trải niềm đau trên mảnh giấy mong manh;
Đừng nắm lại nguồn thơ ta đương siết
Cả lòng ta trong mớ chữ rung rinh.
Tôi trích ra vài đoạn có thể thích được còn bao nhiêu đoạn nữa tuy ta không thích vì nó không có gì hợp với lòng ta, nhưng ta cũng biết rằng với Hàn Mạc Tử hẳn là những câu tuyệt diệu. Nó đã tả đúng tâm trạng của tác giả. Lời thơ có vẻ thành thực thiết tha lắm.
XUÂN NHƯ Ý - Mùa xuân Hàn Mạc Tử nói đây có khi ở đâu hồi trời đất mới dựng nên, có khi ra đời một làn tới Chúa Jésus, có khi hình như chỉ là mùa xuân đầu năm. Nhưng dầu sao cũng không phải là một mùa xuân thường với những màu sắc, những hình dáng ta vẫn quen biết. Đây là một mùa xuân trong tưởng tượng, một mùa xuân theo ý muốn của thi nhân, đầy rẫy những lời kinh cầu nguyện, những hương đức hạnh, hoa phẩm tiết, nhạc thiêng liêng, từng ánh trăng, ánh thơ. Nhất là ánh thơ. Với Hàn Mạc Tử thơ có một sự quan hệ phi thường. Thơ chẳng những để ca tụng Thượng đế mà cũng để nối người ta với Thương đế, để ban phước cho cả thiên hạ. Cho nên mỗi lần thi sĩ há miệng - sao lại há miệng? - Cho thơ trào ra là chín từng mây náo động, muôn vì tinh tú xôn xao. Người ta sẽ thấy:
Đường thơ bay sáng láng như sao xa
Trên lụa trắng mười hai hàng chữ ngọc
Thêu như thêu rồng phượng kết tinh hoa.
Hình như trong các thi phẩm xưa nay có tính cách tôn giáo không gì giống như vậy. Hàn Mạc Tử đã dựng riêng một ngôi đền thờ Chúa. Thiếu lòng tin, tôi chỉ là một du khách bỡ ngỡ không thể cùng quỳ lạy với thi nhân. Nhưng lòng tôi có dửng dưng, trí tôi làm sao không ngợp cái vẻ huy hoàng, trang trọng, lung linh, huyền ảo của lâu đài kia? Có những câu thơ đẹp một cách lạ lùng, đọc nên như rưới vào hồn một nguồn sáng láng. Xuân như ý rõ ràng là tập thơ hay nhất của Hàn Mạc Tử.
Với Hàn Mạc Tử Chúa gần lắm. Người đã tìm lại những rung cảm mạnh mẽ của các tín đồ thời Thượng cổ. Ta thấy phảng phất cái không khí Athalic. Cho nên mặc dầu thỉnh thoảng còn sót lại một hai dấu tích Phật giáo, chắc những người đồng đạo chẳng vì thế mà làm khó dễ với di thảo của thi nhân.
Huống chi thơ Hàn Mạc Tử ra đời, điều ấy chứng rằng đạo Thiên Chứa ở xứ này đã tạo ra một cái không khí có thể kết tinh lại thành thơ. Tôi tin rằng những tình cảm có thể diễn ra thơ mới thiệt là những tình cảm đã thấm đượm tận đáy hồn đoàn thể.
THƯỢNG THANH KHÍ - Một vài bài đặc sắc ghi lại những cảnh thấy trong chiêm bao, ở đâu giữa khoảng các vì tinh tú trên kia. Đại khái không khác cảnh ‘‘Xuân như ý’’ mấy, chỉ thiếu tính cách tôn giáo, huyền bí nhưng không thiêng liêng.
CẨM CHÂU DUYÊN - Một hai năm trước khi mất, sự tình cờ đưa đến trong đời Hàn Mạc Tử hình ảnh một giai nhân có cái tên khả ái: nàng Thương Thương. Nàng Thương có lẽ chỉ yêu thơ Hàn Mạc Tử và Hàn Mạc Tử hình như cũng không biết gì hơn hai chữ Thương Thương. Nhưng như thế cũng để thi nhân đưa nàng vào ‘‘tháp thơ’’. Nàng sẽ luôn luôn đi về trong những giấc mơ của người. Có khi người thơ thấy mình là Tư Mã Tương Thư đương nghe lời Trác Văn Quân năn nỉ:
Đã mê rồi! Tư mã chàng ôi!
Người thiếp lao đao sượng cả người.
Ôi! Ôi! Hãm bớt cung cầm lại
Lòng say đôi má cũng say thôi.
Song những phút mơ khoái lạc ấy có được là bao. Tỉnh dậy, người thấy:
Sao trìu mến thân yêu đâu vắng cả?
Trơ vơ buồn và không biết kêu ai!
Bức thư kia sao chẳng viết cho dài,
Cho khắng khít nồng nàn thêm chút nữa.
Ta tưởng nghe lời than của Huy Cận.
Nhưng cuộc đời đau thương kia đã đến lúc tàn, và nguồn thơ kia cũng đã đến lúc cạn, Hàn Mạc Tử chốc chốc lại ra ngoài biên giới thơ, lạc vào thế giới đồng bóng.
DUYÊN KỲ NGỘ VÀ QUẦN TIÊN HỘI - Mối tình đối với nàng Thương Thương còn khiến Hàn Mạc Tử viết ra hai vở kịch bằng thơ này nữa. Quần tiên hội viết chưa xong và không có gì. Duyên kỳ ngộ hay hơn nhiều. Đây là một giấc mơ tình ái, ngắn ngủi nhưng xinh tươi, đặt vào một khung cảnh tuyệt diệu. Thi nhân dẫn ta đến một chốn nước non thanh sạch chưa từng in dấu chân người. Ở đó tiếng chim hót, tiếng suối reo, tiếng tiêu ngân đều biến thành những lời thơ tình tứ. Ở đó Hàn Mạc Tử sẽ gặp nàng Thương Thương mà người không mong được gặp mặt ở kiếp này. Nàng sẽ nói với những lời nồng nàn âu yếm khiến chim nước đều say sưa. Nhưng rồi người sẽ cùng tiếng tiêu cùng đi như vụt nhớ đền cái nghiệp nặng nề đương chờ người nơi trần thế. Và giữa lúc nàng gục đầu khóc, cảnh tiên lại rộn rã tiếng suối ca.
Trong thi phẩm Hàn Mạc Tử có lẽ tập này là trong trẻo hơn cả. Còn từ thỏ Đường luật với những câu thơ:
Bóng nguyệt leo song sờ sẫm gối;
Gió thu lọt cửa cọ mài chăn.
Cho đến "Gái quê", "Xuân như ý" và các tập khác, lời thơ thường vẩn đục.
Tôi đã nói hết cảm tưởng của tôi trong lúc đọc thơ Hàn Mạc Tử. Không có bao giờ tôi thấy cái việc phê bình thơ tàn ác như lúc này. Tôi nghĩ đến người đã sống trong túp lều tranh phải lấy bì thư và giấy nhựt trình che cho mái nhà đỡ dột. Mỗi bữa cơm đưa đến người không sao nuốt được vì ăn khổ quá. Cảnh cơ hàn ấy và chứng bệnh kinh khủng đã bắt người chịu bao nhiêu phũ phàng, bao nhiêu ruồng rẫy. Sau cùng người bị vứt hẳn ra ngoài cuộc đời, bị giữ riêng một nơi, xa hết thảy mọi người thân thích. Tôi nghĩ đến bao nhiêu năm người bó tay nhìn cảnh thể phách lẫn linh hồn tan rã...
Một người đau khổ nhường ấy, lúc sống ta hững hờ bỏ quên, bây giờ mất rồi ta xúm lại kẻ chê người khen. Chê hay khen tôi đều thấy có gì bất nhẫn.
Mai-1941
BẼN LẼN
Trăng nằm sóng soãi trên cành liễu
Đợi gió đông về để lả lơi
Hoa lá ngây tình không muốn động
Lòng em hồi hộp, chị Hằng ơi
Trong khóm vi vu rào rạt mãi
Tiếng lòng ai nói? Sao im đi?
Ô kìa, bóng nguyệt trần truồng tắm
Lộ cái khuôn vàng dưới đáy khe
Vô tình để gió hôn lên má
Bẽn lẽn làm sao lúc nửa đêm
Em sợ lang quân em biết được
Nghi ngờ tới cái tiết trinh em
(Gái quê)
TÌNH QUÊ
Trước sân anh thơ thẩn.
Đăm đăm trông nhạn về;
Mây chiều còn phiêu bạt
Lang thang trên đồi quê;
Gió chiều quên ngừng lại;
Giòng nước quên trôi đi...
Ngàn lau không tiếng nói;
Lòng anh dường đê mê.
Cách nhau ngàn vạn dặm
Nhớ chi đến trăng thề;
Dầu ai không mong đợi.
Dầu ai không lắng nghe
Tiếng buồn trong sương đục.
Tiếng hờn trong lũy tre.
Dưới trời thu man mác.
Bàng bạc khắp sơn khê.
Dầu ai trên bờ liễu.
Dầu ai dưới cành lê...
Với ngày xuân hờ hững,
Cố quên tình phu thê,
Trong khi nhìn mây nước,
Lòng xuân cũng não nề...
(Gái quê)
MÙA XUÂN CHÍN
Trong làn nắng ửng: khói mơ tan,
Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng.
Sột soạt gió trêu tà áo biếc,
Trên giàn thiên lý. Bóng xuân sang.
Sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời
Bao cô thôn nữ hát trên đồi;
- Ngày mai trong đám xuân xanh ấy,
Có kẻ theo chồng bỏ cuộc chơi...
Tiếng ca vắt vẻo lưng chừng núi,
Hổn hển như lời của nước mây,
Thầm thĩ với ai ngồi dưới trúc,
Nghe ra ý vị và thơ ngây...
Khách xa gặp lúc mùa xuân chín,
Lòng trí bâng khuâng sực nhớ làng:
- “Chị ấy, năm nay còn gánh thóc
Dọc bờ sông trắng nắng chang chang?”
(Hương thơm)
TRƯỜNG TƯƠNG TƯ
Hiểu gì không ý nghĩa của trời thơ?
Của hương hoa trong trăng lờn lợt bảy
Của lời câm muôn vì sao áy náy
Hiểu gì không em hỡi! Hiểu gì không?
Anh ngâm nga để mở rộng cửa lòng
Cho trăng xuân tràn trề say chới với
Cho nắng hường vấn vương muôn ngàn sợi
- Cho em buồn trời đất ứa sương khuya
Để em buồn, để em nghiệm cho ra
Cái gì kết lại mới thành tinh tú?
Và uyên ương bởi đâu không đoàn tụ?
Và tình yêu sao lại dở dang chi?
Và vì đâu gió gọi giật lời đi?
- Lời đi qua một chiều trong kẽ lá
Một mùi thơm mới nửa lừng sa ngã
Anh mến rồi ý vị của làn mơ?
Lệ Kiều ơi! Em còn giữ ý thơ
Trong đôi mắt mùa thu trong leo lẻo
Ở xa xôi lặng nhìn anh khô héo
Bên kia trời, hãy chụp cả lòng anh
Hãy van lơn ở dưới chân Bàn thành
Cho yêu ma muôn năm vùng trở dậy
Náo không gian cho lửa lòng bừng cháy
Và để cho kinh động đến người tiên
Đang say sưa ở thế giới hão huyền
Đang trững giỡn ở bên sông Ngân biếc...
Anh rõ trước: sẽ có ngày cách biệt
Ngó như gần song vẫn thiệt xa khơi!
Lau mắt đi đừng cho lệ đầy vơi
Hãy mường tượng một người thơ đang sống
Trong im lìm lẻ loi trong dãy động
- Cũng hình như em hỡi, động Huyền Không
Mà đêm nghe tiếng khóc ở đáy lòng
Ở trong phổi, trong tim, trong hồn nữa...
Em cố nghĩ ra một chiều vàng úa
Lá trên cành héo hắt, gió ngừng ru:
"Một mối tình nức nở giữa âm u
"Một hồn đau rã lần theo hương khói
"Một bài thơ cháy tan trong nắng rọi
"Một lời run hoi hóp giữa không trung
"Cả niềm yêu ý nhớ cả một vùng
"Hóa thành vũng máu đào trong ác lặn"
Đấy là: tất cả người anh tiêu tán
Cùng Trăng Sao bàng bạc xứ say mơ
Cùng tình em tha thiết những văn thơ
Ràng rịt mãi cho đến ngày tận thế
12-1939
(Mật đắng)
AVE MARIA
Như song Lộc triều nguyên ơn phước cả
Dâng cao dâng thần nhạc sáng hơn trăng
Thơm tho bay cho đến cõi Thiên Đàng
Huyền diệu biến thành muôn kinh trọng thể
Và Tổng lãnh Thiên thần quỳ lạy Mẹ
Tung hô câu đường hạ ngớp châu sa
Hương xông lên lời ca ngợi sum hòa
Trí miêu duệ của muôn vì rất thánh.
Maria! Linh hồn tôi ớn lạnh!
Run như run thần tử thấy long nhan.
Run như run hơi thở chạm tơ vàng...
Nhưng lòng vẫn thấm nhuần ơn trìu mến.
Lạy Bà là Đấng trinh tuyền thánh vẹn
Giàu nhân đức, giàu muôn hộc từ bi.
Cho tôi dâng lời cảm tạ phò nguy
Cơn lâm luỵ vừa trải qua dưới thế.
Tôi cảm động rưng rưng hai hàng lệ
Dòng thao thao bất tuyệt của nguồn thơ
Bút tôi reo như châu ngọc đền vua
Trí tôi hớp bao nhiêu là khí vị
Và trong miệng ngậm câu ca huyền bí
Và trong tay nắm một nạm hòa quang
Tôi no rồi ơn võ lộ hòa chan.
Tấu lạy Bà. Bà rất nhiều phép lạ
Ngọc như Ý vô tri còn biết cả
Huống chi tôi là Thánh thể kết tinh
Tôi ưa nhìn Bắc Đẩu rạng bình minh
Chiếu cùng hết khắp ba ngàn thế giới
Sáng nhiều quá cho thanh âm vời vợi
Thơm dường bao cho miệng lưỡi không khen
Hỡi Sứ Thần Thiên Chúa Ga-bri-en
Khi người xuống truyền tin cho Thánh Nữ
Người có nghe xôn xao muôn tinh tú
Người có nghe náo động cả muôn trời
Người có nghe thơ mầu nhiệm ra đời
Để ca tụng - bằng hương hoa sáng láng
Bằng tràng hạt, bằng Sao Mai chiếu rạng
Một đêm xuân rất đỗi anh linh
Cho tôi thắp hai hàng cây bạch lạp
Khói nghiêm trang sẽ dâng lên tràn ngập
Cả Hàn Giang, cả màu sắc thiên không
Lút trí khôn và ám ảnh hương lòng
Cho sốt sắng, cho đê mê nguyện ước.
Tấu lạy Bà, lạy Bà đầy ơn phước
Cho tình tôi nguyên vẹn tơ trăng rằm
Thơ trong trắng như một khối băng tâm
Luôn luôn reo trong hồn, trong mạch máu
Cho vỡ lở cả muôn nghìn tinh đẩu
Cho đê mê âm nhạc và thanh hương
Chim hay tên ngọc, đá biết tuổi vàng
Lòng vua chúa cũng như lòng thê thứ
Sẽ ngất ngây bởi chưng thư đầy ứ
Nguồn thiêng liêng yêu chuộng Mẹ Sầu Bi.
Phượng Trì, Phượng Trì, Phượng Trì, Phượng Trì
Thơ tôi bay suốt một đời chưa thấu
Hồn tôi bay đến bao giờ mới đâu
Trên triều thiên ngời chói vạn hào quang.
(Xuân như ý)
ĐÊM XUÂN CẦU NGUYỆN
Tặng cả và thiên hạ
Trời hôm nay bình an như nguyệt bạch,
Đường trăng xa, ánh sáng tuyệt vời bay...
Đây là hương quý trọng thấm trong mây
Ngời phép lạ của đức tin kiều diễm, [1]
Câu tàn tạ, khong khen long cả phiếm:
Bút Xuân Thu [2] mùa nhạc đến vừa khi
Khắp mười phương điềm lạ trổ hoài nghi:
Cây bằng gấm, và lòng sông toàn ngọc!
Và đầu hôm một vì sao liền mọc
Ở phương Nam mầu nhiệm biết ngần mô!
Vì muôn kinh dồn dập cõi thơm tho
Thêm nghĩa lý sáng trưng như thất bảo
Ta chấp hai tay quỳ hoan hảo
Ngửa trông cao, cầu nguyện trắng không gian [3]
Để vừa dâng vừa hiện bốn mùa xuân
Nở một lượt giàu sang hơn Thượng Đế.
Đã no nê, đã bưa rồi, thế hệ
Của phường trai mê mẩn khí thanh cao
Phượng hoàng bay trong một tối trăng sao
Mà ánh sáng không còn khiêm nhượng nữa
Đương cầu xin ọc thơ ra đường sữa
Ta ngất đi trong khoái lạc của hồn đau...
Trên chín tầng, diêu động cả trân châu
Đường sống lại muôn ngàn hoa phẩm tiết,
Nhịp song đôi: này đây, cung cầm nguyệt
Ướp lời thơ thành phước lộc đường tu
Tôi van lơn, thầm nguyện chúa Giêsu
Ban ơn xuống cho mùa xuân hôn phối,
Xin tha thứ những câu thơ tội lỗi
Của bàn tay thi sĩ kẻ lên trăng
Trong bao đêm xao xuyến vũng sông Hằng.
(Xuân như ý)
Lời chú của Hàn Mạc Tử:
[1] Nhơn đức trọn lành
[2] Ý nói sự ngợi khen có văn vẻ như trong sách Xuân Thu

[3] Ý nói cầu nguyện rất sốt sắn cảm động được màu sắc của không gian biết từ sắc xám hay đen ra trắng, hoặc nói cầu nguyện từ đầu hôm đến sáng bạch.
RA ĐỜI
Một chiều xanh - một chiều xanh huyền hoặc
Sáng bao vây lút khỏi thiên không;
Xuất thế gian [1] chưa có tại trong lòng,
Muôn ý tứ say chìm nơi Bát giác
Hương cám dỗ mê người trong khoái lạc
A! a! a!
Thiên địa đắm hoang mang
- Là đang khi thờ lạy cả Thiên đàng
Bay những tiếng; tung hô Thánh đức
Muôn thần phẩm trong lâng lâng chầu chực
Ánh hào quang chan chói ngất lưu ly
Ôi, cao sang khôn ví trọng ai bi
Trên nước cả có vô vàn châu báu.
Trí rất ngớn bởi chưng xuân hồn hậu,
Đã ra đời, theo lịnh của Ngôi Hai.
Ôi thánh tai, [2] thánh tai và thánh tai.
Cả trời bỗng nổi lên muôn điệu nhạc
Rất trọng vọng, rất thơm tho, man mác
Rất phương phi [3], trên hết cả anh hoa
Xuân ra đời! Điềm ngọc ấm như ngà
Thơ có tuổi và chiêm bao có tích,
Và tâm tư có một điều rất thích,
Không nói ra vì sợ bớt say sưa!...
- ‘‘Chàng ơi! [4] Chàng ơi, sự lạ đêm qua!
Mùa xuân tới mà không ai biết cả…
(Xuân như ý)
Chúng tôi còn muốn trích ít bài nữa. Nhưng Ô. Quách Tấn, người giữ bản quyền thơ Hàn Mạc Tử, yêu cầu chúng tôi chỉ trích năm bài trở xuống trong những tập chưa in thành sách.
Lời chú của Hàn Mac Tử:
[1] Phật giáo chia thế giới làm hai cõi: Thế gian và Xuất thế gian: tức là thế giới hữu hình và thế giới vô vi, đây sanh xuất thế gian với cõi thanh tịnh của lòng
[2] Danh từ biểu lộ sự hoan hỷ và cung kính đối với Thiên Chúa
[3] Tiếng nhạc trên trời rất mầu nhiệm, hình dung được cả sự phương phi.
[4] Chàng đây là thi sĩ, không phải chàng của thiếp.
Chế Lan Viên [1]
Sinh năm 1920. Quê ở Bình Định. Học trường Quy Nhơn. Có bằng thành chung.
Đã đăng thơ: Tin văn, Tiểu thuyết thứ bảy, Phụ nữ, Trong khuê phòng, Người mới.
Đã xuất bản: Điêu tàn (1937).
Tôi cầm bút viết bài này thì văng vẳng bên tai tôi giọng ca Nam Bình đưa sang từ nhà bên cạnh. Giọng ca âm thầm ai oán, mỗi lần tôi nghe lại khiến tôi bồn chồn, chân tay tôi rời rã.
Cũng lạ! Bị chinh phục đến tiêu diệt mà cảm được lòng những kẻ đã diệt mình một cách sâu sắc như thế dễ chỉ có dân tộc Chiêm Thành. Những nhạc công của chúng ta luôn ca nỗi oán hờn của họ. Bao nhiêu thi nhân của ta đã bị ám ảnh vì nỗi oán hờn của họ. Chúng ta lại còn dành riêng cho họ một nhà thơ, để vì họ giải giùm cho những uất ức bao nhiêu năm như nghẹn ngào trên sông núi này... Vong linh đau khổ của nòi giống họ đã nhập vào Chế Lan Viên; cho nên, dẫu không phải người họ Chế, Chế Lan Viên vẫn là một nhà thơ Chiêm Thành. Quyển Điêu tàn đã đột ngột xuất hiện ra giữa làng thơ Việt Nam như một niềm kinh dị.
Chú thích:
[1] Chế Lan Viên không ưng cho chúng tôi đề tên thật và in ảnh của người.
[2] Trong tựa Điêu tàn.
[3] Tiếc câu sau không xứng mấy câu trên
Nó dựng lên một thế giới đầy sọ dừa, xương máu, cùng yêu ma.
Chỗ này một yêu tinh nghe tiếng trống cầm canh chợt nhớ nơi trần thế.
Rồi lấy ra một khớp xương rợn trắng
Nút bao dòng huyết đẵm khí tanh hôi
Tìm những "miếng trần gian" trong tủy cạn,
Rồi say sưa, vang cất tiếng reo cười.
Chỗ kia trong:
... Những cảnh ngàn sâu cây lả ngọn
Muôn ma Hời sờ soạng dắt nhau đi.
Đừng hỏi ai những cảnh ấy thi nhân đã thấy ở đâu "Hãy nghĩ lại! Có ai thấy vào buổi chiều, rụng ở trong tháp một viên gạch cũ mà hỏi: viên gạch ấy chu vi, diện tích là bao nhiêu? Đúc từ đời nào? Ở đâu? Bởi ai? Và để làm gì? ". Chế Lan Viên đã trả lời như vậy. [2]
Ta hãy theo dõi thi nhân trong cái thế giới lạ lùng ấy. Có khi ngồi trên bờ bể Chế Lan Viên bàng hoàng tự hỏi:
Ai kêu ta trong cùng thẳm Hư vô?
Ai réo gọi trong muôn sao chới với?
và say sưa nhớ lại một đêm ân ái giữa khoảng các vì sao. Có khi Chế Lan Viên điên cuồng...
… Ngụp lặn trong ánh vàng hỗn độn
Cho trăng ghì, trăng riết cả làn da.
Lại có khi đứng suốt đêm với một bóng ma hay nhìn một chiếc quan tài đi qua mà tưởng thi thể mình nằm trong đó.
Hẳn có người sẽ nghĩ: Thơ muốn hay chứ muốn lạ thì khó gì, cứ nói trái sự thực là được. Sự thực người ta ngủ trong nhà thì cứ việc nói người ta ngủ trong sao.
Đừng tưởng! Lịch sử văn học cổ kim không từng có hai Bồ Tùng Linh. Nói láo đành dễ, những cái khó là nói láo mà vẫn không biết mình nói láo; cái khó là có thể tin lời mình nói. Mà Chế Lan Viên tin lời mình ghê lắm. Khi Chế Lan Viên kêu:
Hồn ai trú ẩn ở đầu ta?
Ý của ai trào trong đáy óc,
Để bay đi theo tiếng cười, điệu khóc?
tôi nhất quyết là thi nhân thành thực hơn khi tôi nói, chẳng hạn: tờ giấy kia trắng. Vì câu nói của tôi là một câu nói hờ hững, xuất tự tri giác, tôi vẫn tin mà không để vào đó tất cả lòng tin. Chế Lan Viên, trái lại, đã để trong tiếng kêu hốt hoảng của mình, một lòng tin đau đớn.
Ấy, người thường có người nỗi đau tựa hồ vô lý vậy mà thành thực vô cùng. Trong một năm người ưa nhất mùa thu. Mùa thu qua được một ngày người ta đã nhớ:
Ô hay, tôi lại nhớ thu rồi...
Mùa thu rớm máu rơi từng chút
Trong lá bàng thu đỏ ngập trời.
Đường về thu trước xa lăm lắm,
Mà kẻ đi về chỉ một tôi!
Nếu một nỗi đau đớn như thế mà có thể cho là bày đặt thì ở đời này không còn gì tin được nữa.
Một lần khác, cũng nhớ thu, Chế Lan Viên than:
Chao ôi! Mong nhớ! Ôi mong nhớ
Một cánh chim thu lạc cuối ngàn
Nỗi mong nhớ ở đây đã thành thực, mà còn to lớn lạ lùng. Con người này quả là người của trời đất, của bốn phương, không thể lấy kích tấc mà hòng đo được.
Ưa nhìn mùa thu, ghét mùa xuân, trong khi xuân đến, người muốn:
Ai đâu trở lại mùa thu trước
Nhặt lấy cho tôi những lá vàng?
Với của hoa tươi muôn cánh rã
Về đây, đem chắn nẻo xuân sang!
Ý muốn ngông cuồng, ngộ nghĩnh? Đã đành. Trong cái ngộ nghĩnh, cái ngông cuồng ấy tôi còn thấy một sức mạnh phi thường. Chắn một luồng gió, chắn một dòng sông, chắn những đợt sóng hung hăng ngoài biển cả, nhưng mà "chắn nẻo xuân sang!" Sao người ta lại có thể nghĩ được như thế?
Ngày xưa Tản Đà chán nản than:
Đêm thu buồn lắm, chị Hằng ơi!
Trần giới em nay chán nửa rồi!
Cái chán nản hiền lành của người Việt. Nó khác xa với cái chán nản gay gắt, não nùng của Chế Lan Viên:
Trời hỡi trời! Hôm nay ta chán chết
Những sắc màu hình ảnh của trần gian.
Có phải cái chán nản mạnh mẽ và to lớn dị thường? Người ta chán đời người ta cầu một mảnh vườn, hay hơn chút nữa, một khoảnh núi để sống riêng. Chế Lan Viên chốn đời lại nghĩ đến một vì sao!
Hãy cho tôi một tinh cầu giá lạnh,
Một vì sao trơ trọi cuối trời xa!
Để nơi ấy tháng ngày tôi lẩn tránh
Những ưu phiền, đau khổ với buồn lo [3]
Cái mạnh mẽ, cái to lớn ấy, những đau thương vô lý mà da diết ấy, cái thế giới lạ lùng và rùng rợn ấy, ai có ngờ ở trong tâm trí một cậu bé mười lăm mười sáu tuổi. Cậu bé ấy đã khiến bao người ngạc nhiên. Giữa đồng bằng văn học Việt Nam ở nửa thế kỷ hai mươi, nó đứng sững như một cái tháp Chàm, chắc chắn và lẻ loi, bí mật.Chúng ta, người đồng bằng, thỉnh thoảng trèo lên đó- có người trèo đuối sức mà trầm ngâm và xem gạch rụng, nghe tiếng rên rỉ của ma Hời cũng hay, nhưng triền miên trong đó không nên. Riêng tôi mỗi lần nấn ná trên ấy quá lâu, đầu tôi choáng váng: Không còn biết mình là người hay ma. Và tôi sung sướng biết bao lúc thoát khỏi giấc mơ dữ dội, tôi trở xuống, thấy chim vẫn kêu, người ta vẫn hát, cuộc đời vẫn bình dị, trời xa vẫn trong xanh.
Octobre -1941
Chú thích:
(Chế Lan Viên không ưng cho chúng tôi để tên thật của người)
THỜI OANH LIỆT [1]
[1] Bài này không biết đăng ở tờ báo nào, chúng tôi chỉ chép theo trí nhớ, hai câu cuối quên mất.
Rồi cả một thời xưa tan tác đổ
Dấu oai linh hùng vĩ thấy gì đâu?
Thời gian chảy, đá mòn, sông núi lở
Lòng ta luôn còn mãi vết thương đau!
Vẻ rực rỡ đã tàn bao năm trước
Bao năm sau còn dội tiếng kêu thương
Sầu hận cũ tim ta ai biết được?
Người vui tươi, ta mãi mãi căm hờn
Ta đã khóc, ta vẫn còn phải khóc
Cả thời xưa cho đến cả thời nay
Ngày phải tàn, ánh dương rồi phải tắt
Vỡ tan đi, đến cả quả cầu đây
Mà thân ta phải nào không tiêu diệt
Ở trần gian và ở trí muôn người?
Trong những lúc còn xa xôi cõi chết
Cứ khóc đi những cảnh ở chân trời
Lệ ta nay muôn năm sau còn an ủi
Linh hồn ta ở tận đáy mồ sâu,...
TA
Sao ở đâu mọc lên trong đáy giếng
Lạnh như hồn u tối vạn yêu ma?
Hồn của ai trú ẩn ở đầu ta?
Ý của ai trào lên trong đáy óc
Để bay đi theo tiếng cười, điệu khóc?
Biết làm sao giữ mãi được Ta đây
Thịt cứ chiều theo thú dục chua cay!
Máu cứ nhảy theo nhịp cuồng kẻ khác!
Mắt theo dõi Tinh hoa bao màu sắc!
Đau đớn thay cho đến cả linh hồn
Cứ bay tìm Chán Nản với U Buồn
Để đỉnh sọ trơ vơ tràn ý thịt!
Mà phải đâu đã đến ngày tiêu diệt!
Ai bảo giùm: Ta có có Ta không?
(Điêu tàn)
TRÊN ĐƯỜNG VỀ
Một ngày biếc thị thành ta rời bỏ
Quay về xem non nước giống dân Hời...
Đây, những Tháp gầy mòn vì mong đợi
Những đền xưa đổ nát dưới Thời Gian
Những sông vắng lê mình trong bóng tối
Những tượng Chàm lở lói rỉ rên than
Đây, những cảnh ngàn sâu cây lả ngọn
Muôn Ma Hời sờ soạng dắt nhau đi
Những rừng thẳm bóng chiều lan hỗn độn
Lừng hương đưa, rộn rã tiếng từ quy!
Đây, chiến địa nơi đôi bên giao trận
Muôn cô hồn tử sĩ hét gầm vang
Máu Chàm cuộn tháng ngày niềm oán hận
Xương Chàm luôn rào rạt nỗi căm hờn
Đây, những cảnh thái bình trong Chiêm quốc
Những cô thôn vàng nhuộm nắng chiều tươi
Những Chiêm nữ nhẹ nhàng quay lại ấp
Áo hồng nâu phủ phất xõa lời vui
Đây, điện các huy hoàng trong ánh nắng
Những đền đài tuyệt mỹ dưới trời xanh
Đây, chiến thuyền nằm mơ trên sông lặng
Bầy voi thiêng trầm mặc dạo bên thành
Đây, trong ánh ngọc lưu ly mờ ảo
Vua quan Chiêm say đắm thịt da ngà
Những Chiêm nữ mơ màng trong tiếng sáo
Cùng nhịp nhàng uyển chuyển uốn mình hoa
Những cảnh ấy Trên Đường Về ta đã gặp
Tháng ngày qua ám ảnh mãi không thôi
Và từ đấy lòng ta luôn tràn ngập
Nỗi buồn thương nhớ tiếc giống dân Hời
(Điêu tàn)
Sau Điêu tàn Chế Lan Viên còn có đăng ít nhiều thơ ở các báo xin trích ra đây một bài nhẹ nhàng và kín đáo khác hẳn các bài khác cùng một tác giả
TRƯA ĐƠN GIẢN
Trưa quanh vườn. Và võng gió an lành
Ngang phòng trưa, ru hồn nhẹ cây xanh.
Trưa quanh gốc. Và mộng hiền của bóng
Bỗng run theo... lá... run theo... nhịp võng
Trưa lên trời. Và xanh thẳm bầu trời,
Bỗng mê ly, nằm thấy, trắng, mây trôi...
Trưa! Một ít trưa, lạc vào lăng tẩm,
Nhập làm hồn những tượng xưa u thảm.
Trưa theo tàu, bước xuống những sân ga
Dựng buồn lên xa gửi đến Muôn Xa.
Đây trưa hiện hình trong căn trường nhỏ
Đưa tay lên thoa những hàng kính vỡ.
Trưa gọi kêu, nâng ngực gió lên trời:
Bên vú trái tròn, lá bỗng run môi.
Tiếng ai ca, buồn theo song cửa sổ:
- "Nâng không gian trưa đặt giữa lòng người."
(Người mới)
Bích Khê
Chính tên là Lê Quang Lương. Quê quán: Thu Xà (Quảng Ngãi).
Đã đăng thơ: Tiếng dân, Tiểu thuyết thứ năm. Người mới... (ký Lê Mộng hoặc Bích Khê).
Đã xuất bản: Tinh huyết (1939).
Tôi đã gặp trong "Tinh huyết" những câu thơ hay vào bực nhất trong thơ Việt Nam.
Ô! Hay buồn vương cây ngô đồng
Vàng rơi! Vàng rơi! Thu mênh mông.
hay mấy câu này trích trong bài "Tranh lõa thể":
Dáng tầm xuân uốn trong tranh Tố nữ.
Ô tiên nương! Nàng lại ngự nơi này?
Nàng ở mô! Xiêm áo bỏ đâu đây?
Đến triển lãm cả tấm thân kiều diễm.
Nàng là tuyết hay da nàng tuyết điểm?
Nàng là hương hay nhan sắc lên hương?
Mắt ngời châu rung ánh sóng nghê thường;
Lệ tích lại sắp tuôn hàng đũa ngọc
Đêm y huyền ngủ mơ trên mái tóc
Và chút trăng say đọng ở làn môi

Mấy câu ấy đã được Hàn Mạc Tử phẩm bình bằng những lời xứng đáng: "Thi sĩ Bích Khê là người có đôi mắt rất mơ, rất mộng ảo, nhìn vào thực tế thì sự thực sẽ thành chiêm bao, nhìn vào chiêm bao lại thấy xô sang địa hạt huyền diệu... Ở "Tranh lõa thể", sự trần truồng dâm đãng đã nhường lại cho ý vị nên thơ của hương, của nhạc, của trăng, của tuyết. Quả nhiên là một sự không khen thanh tao quá đến ngọt lịm cả người và cả thơ".[1]

Vừa bước vào đã thấy vàng ngọc sáng ngời như thế, ai không tin đây là biệt thự một nhà triệu phú. Huống chi chủ nhân còn nói: "Không, quý gì những vật mọn ấy! Kho tàng của tôi chính ở trong mấy phòng kia" [2]. Nhưng tôi chưa thể nói nhiều về Bích Khê. Tôi đã đọc không biết mấy chục lần bài Duy Tân [3]. Tôi thấy trong đó những câu thật đẹp. Nhưng tôi không dám chắc bài thơ đã nói hết cùng tôi những nỗi niềm riêng của nó. Hình như vẫn còn gì nữa... Còn các bài khác hoặc chưa xem hoặc mới đọc có đôi ba lần. Mà thơ Bích Khê, đọc đôi ba lần thì cũng như chưa đọc.
Novembre-1941
Chú thích:
[1] Tựa Tình Huyết
[2] Trong một bức thư gửi cho chúng tôi đề ngày 7/1/1941, Bích Khê nói rằng ba bài người thích nhất là ‘‘Duy Tân’’ ‘‘Nấm mộ Bích Khê’’ ‘‘Giờ trút linh hồn’’. Trong một bức thư khác đề ngày 25/10/1941, Bích Khê lại nói người thích bài ‘‘Xuân tượng trưng’’ hơn cả
[3] Trích theo đây
DUY TÂN
Đường kiến trúc nhịp nhàng theo điệu mới
Của lời thơ lóng đẹp. Hạt châu trong [1]
Hạt châu trong ngời nhỏ giọt vô lòng [2]
Tràn âm hưởng như chiều thu sóng nắng.
Trong vòm xanh. Màu cưới màu, bình lặng,
Gây phương phi: chiếu sáng ngả sang mờ
Vì hình dung những sắc mát, non, tơ,
Như mặt trời mọc qua khóm liễu, một
Hoàng hôn. Ôi đàn môi, chim báu tới:
Chữ biến hình ảnh mới, lúc trong ngâm
Chữ điêu khắc, tỉa nghệ thuật sầu câm,
Đầy thẩm mỹ như một pho thần tượng.
Lúc trong ngâm, giữa kho vàng mộng tưởng,
Múa song song khiêu vũ dưới đêm hồng
(Những con cừu tim trẻ mướt như lông
Nên da thịt lên làn sa lụa mỏng,
Mỗi con cừu bốc lên men hy vọng...)
Thơ nhịp nhàng ý nhị nhịp theo Thơ.
Tôi cắn vào trái bổ vỏ xanh mơ
Tìm chất quý thơm tinh mùi khoái lạc
Bằng hơi mộng, trong hàm răng, tản mác
Mộng?
Thiên tài?
Trên hỗn độn khoả thân
Đẹp tỉ mỉ, hỡi Rung động truyền thần
Ròng âm nhạc của lòng trai ấp mái
Người hoạ điệu với thiên nhiên, ân ái
Buồn, và xanh trờị (Tôi trôi với bờ
Êm biếc - khóc với thu: lời úa ngô
Vàng... khi cách biệt - giữa hồn xây mộ -
Tình hôm qua - dài hôm nay thương nhớ,
Im lặng nhìn bông ý, lặng lờ lên
Những dáng hình thanh khí...) Giữa mông mênh,
Đường nhiếp ảnh, sắc khua màu - Tiếng thở
Hỡi hội hoạ, đến muôn đời nức nở.
Ta nhịp nhàng ý nhị nhịp theo ta
Lời nối lời bố thí lộc Tinh hoa
Của Âm điệu, mơ màng run lẩy bẩy
Một hỗn hợp đẹp xô bồ say dậy
Bằng cảm tình, bằng hình ảnh yêu thương
Và mới mẻ - trên viễn cổ Đông phương!
(Ai có nghe sức tiềm tàng bí mật?)
Thơ lõa thể! - Giai nhân tuần trăng mật,
Nữ thần ơi! Ta nô lệ bên người!
(Người mới)
[1- 2] Mời sửa. Trên Người mới
Của lời thơ lòng đẹp. Tiếng ươm hương
Tiếng ươm hương hòa nhạc vận du dương
XUÂN TƯỢNG TRƯNG [1]
Hỡi lời ca man dại
Ðiệu nhạc thở hơi rừng
- Ðêm nay xuân đã lại
Thuần túy là tượng trưng
Nâng lên núm vú đồi
Sữa trăng nhi nhỉ giọt
Bay qua cụm liễu khơi
Những cườm tay điểm hột
Sương. Phất phơ lau lách
Khẽ uốn mình giai nhân:
Ðường non kheo điêu khắc
Những dáng hình khỏa thân:
Lụa mây nẩy vàng chạm
Tía ngọc bén màu ngân...
Chủ xuân đang triển lãm
Lời ca như hạc theo
Gió lên. (Tình múa reo
Những điệu vàng châu báu
Dường có con chim báu
Rỉa cánh trên ngai lòng)
Loè xoè màu lông công
Vườn thơm khua sắc mát:
Rồng uốn vóc từng cong
Áo bạch mai khoát khoát
Môi đào chờ khoái lạc...
Hồn tôi như đỉnh hương
Bốc lên mình thánh giá!
Ý xuân mát đến xương
Ngậm tuyết phun lã chã!
(Người mới)
[1] Chúng tôi, trích bài này vì chìu theo lời yêu cầu của Ô. Bích Khê.
J. Leiba
Chính tên là Lê Văn Bái. Sinh năm 1921 ở Yên Bái. Chánh quán: làng Nam Trực, phủ Nam Trực (Nam Định). Học trường Bảo hộ Hà Nội đến năm thứ ba rồi bỏ đi theo một bọn giang hồ mãi võ trót một năm. Sau về quê học chữ Hán. Năm 1935 đậu Thành chung, rồi vào ngạch thư ký tòa sứ Bắc kỳ. Vì đau nặng nên được nghỉ phép dài hạn (Đã mất rồi. Lời chú lần in thứ hai).
Đã viết giúp: Ngọ báo, Loa, Tin văn, L'Annam Nouveau, Tiểu thuyết thứ bảy. Ích hữu, Việt Báo, Nam Cường (ký Thanh Tùng Tử và sau J. Leiba)
Thơ đăng báo Loa với một tên ký chẳng Việt Nam tí nào, thế mà vừa ra đời Leiba liền được người ta thích.
Người ta thích những vần thơ có giọng Đường rõ rệt, mà lại nói được nỗi lòng riêng của người thời nay. Trong khuôn khổ xưa, cái hương vị mới ấy rất dễ say người. Thơ Leiba ra đời (1934) giữa lúc ai nấy đều cảm thấy mình như trẻ lại. Các nhà thơ đương thời, Thế Lữ, Đông Hồ, Thái Can, kẻ trước người sau, đều tả bằng người nét âu yếm nỗi lòng của người thiếu nữ lúc mới bén tình yêu. Nhưng không ai nói được đầy đủ như tác giả bài "Năm qua" người giai đoạn của một cuộc yêu đương nhóm lên từ hồi tóc còn xõa bỏ vai. Ít ai nói được như Leiba những vui buồn của người xuân nữ. Những câu như:
Hoa tặng vừa tàn bông thược dược,
Tìm chàng bỗng vắng, bóng chàng xa...
Hay là:
Sầu đối gương loan, bóng lạ người,
Chàng không lại nữa, đẹp cùng ai?
có thể để ngang những câu tuyệt hay trong thơ cổ.
Hồi ấy là hồi đẹp nhất trong lời thơ Leiba. Về sau thơ Leiba không được hồn nhiên như thế nữa. Không rõ những gì đã đến trong đời thi nhân. Nhưng lời thơ như vương tí cặn của những đêm phóng túng. Hình như Leiba đã đau khổ nhiều lắm. Người tức tối lúc nghĩ đến nấm cỏ đương chờ mình:
Ví biết phù sinh đời có thế,
Thông minh, tài bộ, thế gia chi!
Học thành, danh đạt, chung quy hão:
Mắt nhắm, tay buông, giữ được gì?
Thà chọn sinh vào nhà ấu phụ,
Cục cằn, mất dạy, lại ngu si. 
Leiba là một người bao giờ cũng có dáng điệu quý phái, ưa cái không khí quý phái, tin ở tài năng, ở dòng dõi mình, và rất tự trọng, cả trong những lúc buông tuồng. Một người như thế mà nói những lời như thế hẳn phải chán nản lắm.
Chán nản đưa người về tôn giáo. Thơ Leiba hồi sau có bài đượm mùi Phật, mặc dầu chưa đúng hẳn với tinh thần đạo Phật. Bài ''Bến giác'' [1] chẳng hạn có một giọng lạnh lùng, chua chát chưa phải là giọng của kẻ đã dứt hết trần duyên. Cho đến cái bình tĩnh của nàng Kiều khi ở trong am Giác Duyên lần thứ hai, Leiba cũng chưa có [2]. Tuy thế người gần đạo Phật hơn hết các nhà thơ bấy giờ.
Thơ Leiba đã thay đổi theo một hai điều thay đổi trong tâm trí thanh niên khoảng bảy tám năm nay. Xem thơ ta có thể thấy khi tỏ khi mờ hình ảnh của thời đại.
Octobre-1931
Chú thích:
[1] Trích theo đây
[2] Xin nhắc lại Kiều nói với Vương ông khi tái hợp:
Mùi thiền, đã bén muối dưa
Màu thiền, ăn mặc đã ưa nâu sồng.
Sự đời đã tắt lửa lòng.
Còn chen vào chốn bụi hồng làm chi!
NĂM QUA
Em nhớ năm em mới lên mười, 
Tóc em buông xõa chấm ngang vai. 
Ngây thơ nào biết em xinh đẹp, 
Cùng trẻ bên đường đánh "chắt" chơi. 
Anh đi qua đó đứng nhìn em, 
Em vứt sành đi vội đứng lên, 
Dắt tay cười nói thi nhau chạy, 
Em vấp vào anh ngã xuống thềm. 
Me em chạy lại bế em hôn, 
Êm ái đe em sẽ đánh đòn. 
Em phải nhịn đau không dám khóc, 
Vì em trông thấy vẻ anh buồn... 
Em nhớ năm em lên mười hai, 
Một mình em lấy trộm gương soi, 
Đường ngôi đương kẻ thì anh đến, 
Anh đến bên em mỉm miệng cười. 
Em thẹn, quăng gương chạy xuống nhà, 
Nín hơi anh gọi cũng không thưa. 
Sau mành lấp ló em nhìn trộm, 
Em đợi anh về mới dám ra... 
..................
Em nhớ năm em lên mười lăm, 
Cũng ngày đông cuối sắp sang xuân. 
Mừng xuân em thấy tim hồi hộp. 
Nhìn cái xuân sang khác mỗi lần. 
Ba mươi, em đứng ngắt hoa đào; 
Nghỉ học anh về qua trước ao, 
Ngẩng mặt vừa khi anh ngó thấy, 
Ném hoa em vội chạy ngay vào. 
Mồng hai anh lễ Tết nhà em, 
Em đứng nhìn anh, nấp bóng rèm, 
Mười sáu xuân rồi anh đã lớn; 
Tìm em rầu rĩ vẻ anh nhìn. 
Em thấy tim em đập rộn ràng, 
Muốn ra lại ngại cháy tâm can. 
Me em rót nước mời anh uống, 
Anh tủi, em rầu, ai khổ hơn? 
Năm ấy xuân em có một mình, 
Ai vui em những ngẩn ngơ tình. 
Này quân tam cúc năm xưa đó, 
Nào lúc vui đùa, em với anh? 
Mồng một, vui xuân hai chúng ta, 
Em mười ba tuổi, tính còn thơ, 
Em anh còn cãi nhau như trẻ, 
Em dỗi, anh nhìn, dạ ngẩn ngơ... 
Xuân nay xuân trước cách bao rồi! 
Nhớ buổi xuân nào, tiếc phút vui. 
Em ước đôi ta cùng bé lại: 
Vui xuân lại được đánh bài chơi! 
Ngày nay nhớ lại buổi vô tình, 
Anh lặng yêu em, em nhớ anh. 
Rồi nữa xuân qua, xuân lại lại 
Biết rằng sau có vẹn ba sinh?...
Hôm qua em đến mái đông lân, 
Cô gái khâu thêu vẻ ngại ngần. 
Tơ lụa bộn bề quần áo cưới, 
Vội vàng cho khách kịp ngày xuân. 
Duyên mình hờ hững hộ duyên ai, 
Cô gái đông lân đáng ngậm ngùi 
Ngán nỗi năm năm đưa chỉ thắm, 
Phòng không may áo cưới cho người!... 
Anh ơi! Anh mãi đứng công danh, 
Để phụ cho nhau một mối tình 
Nhánh liễu vườn xuân, ai nấy chủ? 
Chờ ai biết có khỏi trao cành? 
Má đỏ, xuân em chỉ có thì, 
Xuân qua, phó lẽ đợi anh về, 
Tương tư lệ nhỏ phai màu phấn, 
Anh hỡi! yêu nhau há đợi gì? 
Danh lợi như mây nổi giữa trời; 
Hồng nhan phải giống mãi trên đời? 
Đợi anh áo gấm xuân sau lại, 
Chỉ sợ nghiêng giành hốt quả mai!
(Loa)
MAI RỤNG
Nụ hồng rải lối, liễu tơ phai,
Vườn cũ rêu lan, cỏ mọc dài,
Bên gốc mai già, xuân vắng vẻ,
Âu sầu thiếu nữ khóc hoa mai...
Hoa mai đã tạ, lá mai vàng,
Vàng úa đầu cành, ủ bóng dương,
Lác đác mai già rơi mặt đất:
Hoa xưa thành quả, quả nay tàn!
Quả tàn héo rụng gốc cây khô;
Thiếu nữ âu sầu tưởng mộng xưa.
Vạch cỏ, ngậm ngùi nghiêng giỏ hốt;
Rạt rào hoa rụng cánh như mưa.
Giỏ chưa đầy quả, lệ chan sầu,
Vứt giỏ bên mình, kéo áo lau.
Gió đuổi hoa tàn bay xớn xác,
Má hồng sầu ủ, ủ làn thâu...
..."Năm xưa em ở chốn phòng khuê.
Yêu, nhớ, ngây thơ đã biết gì."
Mai nở, mai tàn, mai lại rụng,
Tường đông xuân sắc mặc đi về.
Tường đông, xuân ấy gặp tình lang,
Chàng nhủ cùng em nỗi nhớ thương.
Ngơ ngẩn em về, sầu chẳng mối:
Ngây thơ, em mới biết yêu chàng.
Yêu chàng, em cố chuốt hình dung
Tô cặp môi son, điểm má hồng,
Em thấy xuân nay hoa nở đẹp,
Cảm tình Thanh đế, tạ đông phong,
Vườn tình hoa ánh cánh song sa,
Rẽ liễu cùng chàng dựa bóng hoa.
Hoa tặng vừa tàn bông thược dược,
Tìm chàng bỗng vắng, bóng chàng xa...
Xuân tàn, hạ cỗi, cảnh thu sầu,
Mờ mịt hơi đông ám ngọn lau.
Xuân tới cành đào hoa lại nở,
Mong chàng mỏi mắt, thấy chàng đâu?
Gió xuân lại thổi chốn vườn xưa,
Lệ đẫm khăn là, dạ ngẩn ngơ.
Hoa cỏ thương người, xuân ủ bóng.
Đâu ngày xuân thắm buổi ngây thơ?
Sầu đối gương loan, bóng lạ người,
Chàng không lại nữa, đẹp cùng ai?
Bơ phờ tóc rối, vành khăn lệch,
Ủ rũ hoa gầy, má đỏ phai.
Phấn mốc, hương bay, chiếu lệch giường,
Song thưa, gió ném cánh hoa tàn.
Ba xuân những biếng thăm vườn cũ,
Trước cửa rêu dầy, lớp cỏ lan.
Phòng không chi tưởng cảnh xuân tình,
Nhánh liễu phai tơ rụng trước mành.
Chợt nghĩ vườn xuân, xuân sắp hết.
Gượng vui, khoác áo dạo hoa đình.
Xuân hết, đào phai, lý rụng rồi,
Hoa đình tịch mịch vẻ xuân phai.
Tơi bời ong bướm bay qua ngõ,
Những tưởng màu xuân ở xóm ngoài.
Xuân buồn như nhắc cảnh xuân vui
Gió thổi lay cành, rụng quả mai,
Thương dấu xuân tàn, nghiêng giỏ hót
Thương xuân, xuân hỡi, có thương người?
Lệ chan má phấn, ủ mày ngày.
Thấm thoát màu xuân có thế thôi
Cảnh cũng như người, chung hối hận:
Chàng không lại nữa, đẹp cùng ai?...
Nụ hồng rải lối, liễu tơ phai,
Vườn cũ rêu lan, cỏ mọc dài,
Bên gốc mai già, xuân vắng vẻ.
Âu sầu thiếu nữ khóc hoa mai.
(Loa)
HOA BẠC MỆNH
Tháng ba, hoa bạc mệnh
Tàn trước mọi cành xuân
(Dịch thơ cổ)
Người đẹp vẫn thường hay chết yểu
Thi nhân đầu bạc sớm hơn ai
Ba xuân muôn thắm thêu cành biếc
Bạc mệnh hoa kia đã rụng rồi!
Héo trước trăm hoa: hoa bạc mệnh
Đang xuân, để khỏi thấy xuân tàn.
Chúa xuân vì biết tình hoa thế
Xin kiếp sau đừng nở thế gian.
Hồn kết gió hương trời Nhược thủy
Cánh viền mây thắm động Thiên Thai
Hoá thành những giọt mưa thơm ấy
Tưới nở trăm hoa đã héo rồi!
(Nam Cường, tập mới)
BẾN GIÁC
Phù thế đã nhiều duyên nghiệp quá!
Lệ lòng mong cạn chốn am Không
Cửa thiền một đóng duyên trần đứt
Quên hết người quen chốn bụi hồng.
(Nam Cường, tập mới)
Thái Can
Sinh ngày 22-10-1910 ở Văn Lâm, phủ Đức Thọ (Hà Tĩnh). Học Trường phủ, trường Vinh, trường Bảo hộ, trường Thuốc Hà Nội. Tốt nghiệp y khoa bác sĩ năm 1940, hiện ở nhà học chữ Hán và làm thơ chữ Hán.

Thơ Thái Can phần nhiều đã đăng ở Phong Hóa, Tiểu thuyết thứ bảy, Hà Nội báo, Văn học tạp chí 1935. Những bài thơ đầu (ký Th.C) đã in trong quyển Những nét đan thanh. Ngân Sơn tùng thư, Huế, xuất bản 1934.
Tôi đã cố đọc lại thơ Thái Can để mong tìm lại cái say sưa ngày trước. Nhưng lòng tôi cứ dửng dưng. Sao bây giờ tôi thấy thơ Thái Can sáo quá mà người thiếu nữ trong thơ Thái Can thì hầu hết ẻo lả đến khó chịu. Nhất là những nụ cười. Những nụ cười sao mà vô duyên, mà trơ trẽn thế!
Thơ Thái Can vẫn như trước. Dễ lòng tôi đã khác xưa? Một người thơ cũng như một người tình, yêu đó rồi bỏ đó sao cho đành. May thay tôi vẫn có thể thích được dăm bảy bài. Kể những bài đó đều phỏng theo lối thơ xưa. Chữ dùng cũng xưa. Nhưng có cái gì bảo ta rằng ở đây có một người khóc cười thật. Ở đây không còn cái thói khóc gượng cười vờ nó vẫn lưu hành trên sân khấu tuồng cổ và trên thi đàn Việt Nam khoảng vài mươi năm trước.
Khóc bạn, Nguyễn Khuyến viết:
Rượu ngon, không có bạn hiền,
Không mua, không phải không tiền không mua,
Câu thơ nghĩ, đắn đo không viết;
Viết đưa ai, ai biết mà đưa.
Giường kia treo những hững hờ:
Đàn kia gảy những ngẩn ngơ tiếng đàn.
Tôi tưởng đó toàn chuyện bịa. Nguyễn Khuyến hẳn không treo giường để chờ người bạn họ Dương đã đành. Cả cái chuyện thơ rượu cũng bịa nốt. Ba năm không gặp nhau [1] chắc Nguyễn Khuyến vẫn thơ rượu như thường, thơ rượu nào cần phải có Dương Khuê. Nhưng chuyện không thực mà tình thực, chuyện mượn người xưa, mà tình là tình Nguyễn Khuyến.
Thái Can cũng mượn những chữ sẵn của người xưa nhưng người đã gửi được nỗi lòng mình trong đó. Khi ta đọc những câu:
Vó ngựa trập trùng trên ải Bắc;
Tuyết sương lạnh lẽo giá râu mày!
Gươm thiêng lấp lánh bên lưng nhẹ,
Ngựa hý vang lừng gió trận may.
ta thấy trong những câu này, cũng như trong lời ngâm của Nguyễn Khuyến, mối cảm của thi nhân đã phát lộ ra bằng những âm thanh, bằng một nhịp lối nhịp nhàng riêng.
Thơ Thái Can nhạc điệu không có nhiều lối và cũng chỉ nằm trong khuôn khổ thơ thất ngôn, nhưng trong những câu thơ hay bao giờ cũng thấm thía. Một người kỹ nữ, lúc canh khuya sau lúc khách làng chơi đã ra về, một mình ngồi nhìn phía quê nhà và than:
Biết đâu mà gửi lòng thương nhớ,
Mà biết cùng ai gửi nhớ thương.
Một thiếu niên gọi bạn tình trong mộng tưởng:
Thu liễu em ơi, có biết không?
Những là ngày ngày nhớ lại đêm mong.
Thu này người tưởng cùng em gặp,
Dưới nguyệt đôi ta tỏ chút lòng.
Có gì sáo hơn những câu ấy. Nhưng có những lúc ta buồn và mỏi không muốn tìm tòi gì: ta buông xuôi tay, ta buông xuôi lòng cho trôi theo những lời, dầu sáo, dầu cũ miễn là âm điệu khi lên khi xuống cùng ăn nhịp với lòng ta. Những lúc đó ngâm thơ Thái Can thì tuyệt.
Cho đến những bức tranh thỉnh thoảng ta gặp trong thơ Thái Can cũng không phải là những bức tranh tô bằng nét, bằng màu, mà chính là hòa bằng nhạc điệu:
Mỹ nhân lững thững xem hoa rụng,
Trâm ngọc quên cài tóc bỏ lơi.
Sương toả bên mình như khói nhẹ;
Xiêm y tha thướt mái hiên ngoài.
Hãy đọc đi đọc lại bốn câu này. Có phải lời thơ yểu điệu và mềm mại như một người đẹp?
Những lúc thi nhân tìm được âm điệu thích hợp để diễn đạt nỗi lòng mình, ta thấy người khoan khoái như được giải thoát. Nếu không, người ra chiều uất ức, khó chịu. Người phân vân trước những ham muốn, những mộng tưởng nhiều khi trái ngược nhau. Tâm hồn Thái Can rất phức tạp. Tuy vẫn thường mơ tưởng cái cảnh thanh gươm yên ngựa, song nhác thấy bóng khăn san áo màu thời nay, người cũng không muốn hững hờ qua. Người thực lòng thương những gái giang hồ, người thống trách xã hội đã dẫn họ vào đường truỵ lạc, song những yến diên có ca nhi điểm vui, tất cả cái hào hoa, cái êm dịu của cuộc đời phú quý người cũng không nỡ từ. Người muốn gây một sự nghiệp, người không muốn sống vô ích, người ghét hữu hạn và khao khát vô cùng.
Bấy nhiêu điều trái ngược chỉ có thể đưa người ta đến chán nản. ta hãy nghe Thái Can khuyên người ca nhi vừa tự sát mà không chết:
Đứng dậy em ơi! Sống cõi đời
Đời dầu khổ nhục đến mười mươi,
Em nên điểm phấn tô son lại
Ngạo với nhân gian một nụ cười.
Trong hai người, thi nhân và kỹ nữ, dễ đã biết ai chán hơn ai? Cho đến ái ân thi nhân cũng không thiết nữa:
Thôi! Thế lòng anh mãn nguyện rồi
Vì tình là mộng đó mà thôi,
Lòng em một phút yêu anh đó
Cũng thể yêu anh suốt một đời. 
Thái Can nói mãn nguyện mà lại đau đớn hơn người lời oán hận của một thi nhân khác, Lan Sơn:
Một phút lòng em mơ bạn mới
Yêu anh sau nữa cũng bằng không.
Août - 1941
Chú thích:
[1] Trong bài Nguyễn Khuyến có câu: "Trước ba năm gặp bác một lần". 
CẢNH ĐÓ NGƯỜI ĐÂU
Gặp em thơ thẩn bên vườn hạnh
Hỏi mãi mà em chẳng trả lời
Từ đó Bắc Nam, người một ngả
Bên vườn hoa hạnh bóng trăng soi
(Những nét đan thanh)
ANH BIẾT EM ĐI…[1]
Anh biết em đi chẳng trở về,
Dặm ngàn liễu khuất với sương che.
Em đừng quay lại nhìn anh nữa:
Anh biết em đi chẳng trở về.
Em nhớ làm chi tiếng ái ân.
Đàn xưa đã lỡ khúc dương cầm...
Dây loan chẳng đượm tính âu yếm,
Em nhớ làm chi tiếng ái ân.
Bên gốc thông già ta lỡ ghi
Tình ta âu yếm lúc xuân thì.
Em nên xóa dấu thề non nước
Bên gốc thông già ta lỡ ghi.
Chẳng phải vì anh chẳng tại em:
Hoa thu tàn tạ rụng bên thềm.
Ái tình sớm nở chiều phai rụng:
Chẳng phải vì anh chẳng tại em.
Bể cạn, sao mờ, núi cũng tan,
Tình kia sao giữ được muôn vàn...
Em đừng nên giận tình phai lạt:
Bể cạn, sao mờ, núi cũng tan.
Anh biết em đi chẳng trở về
Dặm ngàn liễu khuất với sương che.
Em đừng quay lại nhìn anh nữa;
Anh biết em đi chẳng trở về.
[1] Chép theo một bức thư (1934).
CHIỀU THU
Hoa hồng rũ cánh bay đầy đất
Trĩu nặng sương thu mấy khóm lan
Mỹ nhân lững thững xem hoa rụng
Ta ngỡ Hằng Nga náu Quảng hàn.
Mỹ nhân lững thững thăm hoa rụng
Trâm ngọc quên cài tóc bỏ lơi
Sương tỏa bên mình như khói nhẹ
Xiêm y tha thướt mái hiên ngoài.
Ta đứng bên hiên kiếm ý thơ
Mỹ nhân vô ý bước đi qua
Cánh hồng quyến luyến bên chân ngọc
Như muốn cùng ai sống phút thừa
Chẳng được như hoa vướng gót nàng
Cõi lòng man mác, giá như sương
Ta về nhặt lấy hoa thu rụng
Đặng giữ bên lòng nỗi nhớ thương.
(Phong Hóa)
CẢNH ĐOẠN TRƯỜNG
Em chỉ nói rằng: "Đời em buồn".
Rồi em nức nở lệ sầu tuôn.
(Tâm sự một cô gái nhảy)
Anh nhớ năm xưa trong yến diên
Họp mặt ba kỳ, trăm sinh viên.
Rót chén rượu nồng cùng vui chơi
Trước khi chia tay người mỗi nơi.
Điểm vui yến tiệc bọn ca nhi
Ba bảy mai kia đương vừa thì.
Hoa khôi hôm ấy là em đó,
Liếc mắt đưa tình đá cũng mê.
Hôm nay nức nở sầu ảm đạm
Kể lại đời em nghe thê thảm:
Không quê, không quán, không mẹ cha,
Như cánh bèo trôi không chỗ bám.
Em dấn thân vào hồng lâu
Lụy từ nô bộc đến công hầu.
Rồi lại giạt trôi trường khiêu vũ
Hết lòng chiều khách lại chiều chủ.
Liễu bồ sức vóc được bao nhiêu
Dạn gió dày sương thực đến điều.
May thay em gặp khách phiêu lưu
Cảm thấy tình em thảm đạm nhiều,
Nhặt cánh hoa tàn rơi dưới đất
Chung tình trong một mối thương yêu.
Khách nhớ quê xa trở gót về.
Đêm trường nhớ khách dạ đê mê,
Cảm thấy đời em buồn lạnh, tẻ,
Ngoài đường sương lạnh bước ra đi.
Ra đi gió lạnh tạt ngang mình,
Nghĩ đến đời em, em khiếp kinh,
Kinh khiếp vì đời như vực thẳm
Xui em trụy lạc hỡi trời xanh!
Nếu cũng như ai có mẹ cha,
Buồng xuân rủ gấm với phong là,
Thời em ngày tháng cùng vui sương
Hớn hở nô đùa với cỏ hoa.
Rồi ngày đào lý nở nhành bông,
Em cũng như ai được tấm chồng
Quyền cả chức cao trong xã hội
Êm đềm chia ngọt sẻ bùi chung.
Than ôi! Em có được như người:
Hoa tạ lia cành trước gió rơi
Lăn lóc cát lầm hoen cánh ngọc
Đem thân làm thú vạn muôn người.
Lững thững em đi bên vệ đường,
Âm thầm buồn bã; gió cùng sương
Ướt cả áo xiêm, em chẳng biết...
Lòng em mang nặng dấu đau thương.
Chán nản quay đầu em lại nhìn
Cuộc đời quá khứ tựa đêm đen.
Tương lai bước tới chân chồn mỏi,
Một bước đau lòng, một bước thêm!
Lầu các, kìa ai vợ với chồng
Êm đềm trong giấc phụng loan chung.
Riêng em lững thững bên hè vắng
Khóc mãi, mắt em úa đỏ hồng.
Ôi thôi! Em quyết chỉ quyên sinh
Quyết bỏ trần gian, bỏ ái tình.
Trong một gian buồng thuê buổi tối
Đau lòng, em uống thuốc quyên sinh.
Khinh thay! Những gái tiếng con nhà
Vì tính buông tuồng phải trụy sa
Vào chỗ bùn lầy nghề kỹ nữ;
Nhưng em... nào phải muốn giăng hoa.
Giời đất này! Hãy chứng minh:
Vì chưng xã hội quá bất bình.
Thân em thật đã bùn than lấm
Lòng tuyết, em còn giữ tiết trinh.
Mang tấm thân lòng đau xuống suối vàng
Ai người nhân thế chạnh lòng thương?
Ai người biết được em đau khổ?
Đêm lạnh... thân ôi! Cảnh đoạn trường.
Cõi đời dần tối, giấc âm thầm
Hình ảnh ngàn xưa cũng xóa dần,
Sau rốt cảm nghe như mẹ ẵm
Và lời ân ái khách xa xăm.
Sáng sớm người ta vào buồng ngủ,
Thất đảm kinh hồn người la rú
Vội vàng đưa em đến nhà thương,
Để em lạnh lẽo nằm trên giường.
Hồi lâu thuốc thang em tỉnh dậy
Mở mắt, lạ lùng nhìn thế gian;
Bất giác hai hàng lệ em tràn.
Chung quanh em, những người săn sóc
Gạn ghẽ dò la hết cỗi gốc
Em chỉ nói rằng: "Đời em buồn",
Rồi em nức nở lệ sầu tuôn.
- Anh cũng như em, chán cõi đời,
Nhưng mà quả quyết sống mà chơi.
Đời càng bạc bẽo cùng mình lắm
Mình cũng yên vui, cũng nói cười!
Cười đời bạc bẽo khinh thế gian
Cho biết rằng ta chẳng phải hèn
Ta sống vì chúng ta quả quyết
Đạp bằng muôn vạn nỗi gian nan.
Đứng dậy, em ơi! Sống cõi đời,
Đời dầu khổ nhục đến mười mươi,
Em nên điểm phấn tô son lại,
Ngạo với nhân gian một nụ cười.
Ngày mai ở mãi chốn chân trời
Trong cảnh gia đình ấm áp vui
Một phút trầm ngâm anh sẽ khấn
Cho em trở lại được tươi cười.
(Hà Nội báo) 
TRÔNG CHỒNG
Khuê trung thiếu phụ bất tri sầu
Xuân nhật ngưng trang thượng thúy lâu
Hốt kiến mạch đầu dương liễu sắc
Hối giao phu tế mịch phong hầu
(Vương Xương Linh)
Chinh phu ruổi ngựa lên miền Bắc
Tiếng địch bên thành thổi véo von
Mây bạc lưng trời bay lững thững
Chim trời tan tác bóng hoàng hôn
Vó ngựa chập chùng lên ải Bắc
Tuyết sương lạnh lẽo giá râu mày!
Gươm thiêng lấp lánh bên lưng nhẹ
Ngựa hý vang lừng trận gió may
Đứng tựa bên thành xiêm áo lệch,
Kìa ai trông ngóng ải Phiên ngoài
Bóng cờ phất phới xa xa, lạt...
Tình cũ xin nguyên chẳng lạt phai...
Mang ấn phong hầu khi trở lại,
Rỡ ràng chinh phụ nét cười tươi.
(Phong hóa)
Vân Đài
Vợ một ông chủ sự vô tuyến điện. Sinh ngày 29-Janvier-1908.
Quên quán ở Hà Nội.
Đã đăng thơ: Phụ nữ tân văn, Phong hóa, Ngày nay, Tinh hoa, Đàn bà.
Chọn thơ Vân Đài tôi phân vân quá. Bài nào cũng được. Không có gì sâu sắc. Vân Đài chỉ là một người chơi thơ. Nhưng lời thơ bao giờ cũng nhẹ nhàng, êm ái. Ít khi tiếng nam có vị ngọt ngào như thế. Ấy cũng vì Vân Đài ưa nói những gì rất mong manh, rất bình yên.
Những câu xôn xao nhất như:
Gió xuân đâu biết cho lòng thiếp
Ôm ấp bên mình thiếp mãi chi?

thì lại là những câu phỏng theo thơ Đường. Ai ngờ thơ Đường còn có thể gửi cho thơ Việt thời nay chút hương sắc dục.
Octobre - 1941
TIẾNG ĐÊM
Vườn trăng tha thướt cành in bóng
Từng giọt tàu tiêu điểm tiếng sương
Cỏ nép chân cây, cành rũ lá
Vài tia gió nhẹ rỡn hoa tường
Song thưa từng mảnh sáng trăng qua
Thức giấc tôi thầm lén bước ra
Rón rén lướt đi như gió thoảng
Sợ làm kinh động giấc mơ hoa.
Bên gốc tôi nghe có những lời
Rủ rỉ trong đám lá khô rơi
Tưởng hồn thu thảo trong khuya vắng
Rủ rỉ cùng hoa nói chuyện đời.
Lại thoảng tình hương ở các bông
Bay ra lan đượm khắp không trung;
Trong cơn ngây ngất say sưa ấy
Chợt động cành cây tiếng lá rung.
Tiếng gió lùa qua thức mộng chim
Phá tan hương khói giấc êm đềm
Lại thêm tiếng khánh chùa xa thẳm
Quen đến buồng tôi lúc nửa đêm.
(Đàn bà)
Đỗ Huy Nhiệm
Sinh ngày 16-3-1915 ở Nam Định. Chính gốc người Phú Yên, họ Hồ sau đổi thành họ Đỗ. Học trường Nam Định đến đậu thành chung, lên Hà Nội học đến tú tài. Hiện làm sở Trước bạ Hà Nội. Viết báo thường ký Đỗ Phủ, Thiếu Lăng.
Đã xuất bản: Khúc ly tao (1934), Thiên diễm tuyệt (1936).
Đỗ Huy Nhiệm kể:
Lắm khi đứng tựa bên cây,
Thẫn thờ đôi mắt đắm say nhìn trời.
Nhưng đến lúc cắt lời để gọi
Thì nàng như làn khói thoảng tan
Mặc tôi đứng sững mơ màng,
Một mình với một chiếc đàn chùng dây.
Nàng đây lại là Nàng Thơ và câu này là một câu tâm sự. Quả Đỗ Huy Nhiệm đã ôm ấp một mối tình lãng mạn đi theo dõi Nàng Thơ luôn trong bảy tám năm trời, từ "Khúc ly tao", đến "Thiên diễm tuyệt", từ "Phụ nữ thời đàm’’ hồi ông Phan Khôi chủ trương đến ‘‘Tân thiếu niên, Tiến hoá, Văn học tạp chí 1935, Hà Nội báo, Tiểu thuyết thứ năm, Trào phúng, Đông thanh, Đông Á, Tin mới,..’’. hầu hết trên các báo chí bắc Nam. Nàng Thơ có lẽ không nỡ phụ người có công. Một đôi lần Nàng đã gặp con người tình cờ trở nên người họ Đỗ và cố ý mạo danh Đỗ Phủ, Thiếu Lăng. Các cuộc gặp gỡ ấy đều ghi lại bằng những vần thơ phảng phất giọng Đường với một chút xôn xao mới.
Octobre - 1941
ĐÌU HIU
Cơn gió đìu hiu lướt mặt hồ
Thổi rơi xuống nước chiếc hoa khô
Giật mình, làn nước cau mày giận
Tan cả vừng trăng tỏa lững lờ
(Hà Nội báo)
HOA TỦI
Vườn xuân, nắng mới hoa đương đẹp,
Em lạnh lùng qua, chẳng đoái hoài.
Em hỡi! vô tri hoa biết tủi:
Đầm đìa châu lệ, hạt sương mai.
(Thiên diễm tuyệt)
SAY
Đêm xuân một trận nô cười
Dưới đèn chẳng biết rằng người hay hoa
Khi vui quên cả cái già
Khi say chẳng dốc giang hà cũng say
Kim tịch thị hà tịch?
Mảnh gương nga đã tếch lối non đoài
Đó kìa ai ba, bốn, bốn, năm người
Người đâu tá? còn chơi trong mộng thế
Nhãn ngoại trần ai không nhất thế
Hung trung khối luỹ thuộc tiền sinh
Kiếp say sưa đã chấm sổ thiên đình
Càng đắm sắc, mê thinh, càng mải miết
Say lắm vẻ: say mệt, say mê, say nhừ, say tít
Trong làng say, ai biết nhất ai say
Mảnh hình hài quen giả trá xưa nay
Chúng sinh tướng lúc này coi mới hiện
Thôi sếp cả nguyệt hoa hoa nguyệt
Cảnh bồng lai trải biết gọi làm duyên
Tửu trung ưng thị thần tiên
(Tiểu thuyết thứ năm)
Lưu Kỳ Linh
Chính tên là Lưu Trọng Lai. Sinh năm 1907 ở Cao Lao Hạ, huyện Bố Trạch (Quảng Bình).
Học: Trường Đồng Hới, trường Quốc học Huế (đến năm thứ ba).
Đã đăng thơ: Hà Nội báo, Tao đàn, Tiểu thuyết thứ bảy.
Lưu Kỳ Linh là anh ruột Lưu Trọng Lư. Nhưng thơ em nhiều người biết mà thơ anh ít ai hay. Kể cũng đáng tiếc. Thơ Lưu Kỳ Linh tuy mới nhưng đôi bài có cái nhẹ nhàng, cái kín đáo, cái vi diệu của những vần thơ xưa. Nó không huy hoàng, lộng lẫy. Trong vườn thơ nó chỉ là những bông hoa màu nhạt, hương thanh, e lệ nở trong một gốc tường. Nhưng ai dám bảo là những bông hoa không quý?.
Juillet 1941
ĐỢI CHỜ
Đêm xuân mộng chửa về thăm
Cửa lòng rộng mở, em nằm nghe sương
Tỉ tê gọi gió lên đường
Nghe trăng âu yếm dỗ hương trên cành
Gà vô ý giục tàn canh
Cửa lòng vội khép cho tình ngủ thôi
CÀNH HOA THU MUỘN [1]
Muộn màng thu nở một cành hoa.
Còn một chiều nay hoa với ta.
Muốn tặng người yêu, không nỡ hái;
Bóng vàng như đã rụng non xa... 
CON BƯỚM TRẮNG
Bướm kia ai biết là thi sĩ
Kiếp trước đa tình lại hóa thân.
L.K.L.
Vừng hồng phun ánh hồng tươi,
Cả một vườn xuân loáng nét cười.
E lệ cánh trà so cánh huệ,
Hương lan thầm kín mỉa hương mai.
Những loài hoa mới bỗng xôn xao:
Con bướm lang thang đâu... lạc vào
Phơ phất dịu dàng đôi quạt trắng,
Đu cành thấp chán nhún cành cao.
Chú thích:
[1] Lời bình của thi sĩ trong một bức thư:
‘‘Tất cả tình tứ của tôi đối với thu đều ngưng đọng lại, sắc đặc lại ở bốn câu đó.
‘‘Với người yêu, ai có tiếc gì; người ta có thể ném cá kho tàng châu ngọc như không. Thế mà một cành hoa thu muộn, tôi không nỡ... Anh để ý chỗ không liên lạc giữa hai câu 3, 4.
Nguyễn Giang
Con nhà văn hào Nguyễn Văn Vĩnh. Trên ba mươi tuổi. Đã du học bên Pháp. Về nước chủ trương Âu Tây tư tưởng và Đông Dương tạp chí.
Họa sĩ hơn là thi sĩ.
Đã xuất bản: Trời xanh thẳm (1935) 
"... Ký giả lại nghĩ rằng nếu trong một bức tranh, cái Đẹp chẳng phải là ở riêng vật nào, mà là cách ta để cái vật này gần cái vật khác để cho hình nọ với hình kia nó cân đối nhau, thì trong văn thơ cái Đẹp cũng chẳng phải là một vật riêng nào, một chữ, một câu nào, mà là cái toàn thể cả bài thơ, ở cái tình cảnh tương đối và hòa hợp nhau". Câu này Nguyễn Giang viết trong tựa Trời xanh thẳm (t. 17-18). Tôi chép lại đây để thấy rõ quan niệm của Nguyễn Giang về thi ca: làm thơ là tìm cái Đẹp mà cái Đẹp là "cái cách tình cảnh tương đối và hòa hợp với nhau".

Có hiểu quan niệm đặc biệt ấy, cái quan niệm từ nghề vẽ chuyển sang nghề thơ, họa may vì thú thật tôi không dám chắc là đã hiểu được. Tôi quá nặng lòng trần tục mà lối thơ này quá thuần tuý chăng? Tôi không hiểu được những nhà thơ nghệ sĩ chăng? Dầu sao, xem thơ tôi muốn tìm những tâm hồn. Mà sau câu thơ Nguyễn Giang ít khi tôi thấy có gì. Sự tương đối, sự hòa hợp của những tình, những cảnh trong thơ Nguyễn Giang thấy tầm thường quá, không đủ để rung động tôi. Người ta bảo lối thơ Đường bao giờ cũng thế. Nhưng tôi đã đọc thơ của Lý Bạch, của Đỗ Phủ những bài thơ khiến tôi rung cảm biết bao!
Đã vậy, sao tôi lại nói đến thơ Nguyễn Giang trong một quyển sách chỉ nói đến những nhà thơ và những bài thơ tôi thích? Ấy là vì đọc Nguyễn Giang tôi bỗng không dám hoàn toàn tin tôi. Ấy cũng vì những ý nghĩ thành thực và ngộ ngộ giãi bày trong bài tựa dài đầu quyển Trời xanh thẳm. Vậy tôi xin trích ra đây ba bài thơ tôi để ý nhất (bài nào câu cuối cũng hay). Hoặc giả bạn đọc sẽ thấy có gì chăng, ngõ hầu khỏi mai một nhà thơ có chân tài biết đâu?.
Septembre - 1941
XUÂN
Gió xuân phơ phất thổi trong cành
Lớp lớp bên đường bóng lá xanh
Cây cỏ cười tươi hoa mũm mĩm
Học sinh qua lại áo phong phanh
Chim non ngoài nắng bay chi chít
Đàn sáo trong cây vẳng khúc tình
Bờ suối chờ ai chưa thấy lại
Nhìn cô áo đẹp bước đi nhanh.
(Trời xanh thẳm)
CON ĐƯỜNG NẮNG
La route des Baux
Près St - Rémy de Provence
Xào xạc đường trưa vắng bóng người
Bốn bề nắng hạ phẳng bằng soi
Lơ thơ dưới núi hàng thông cõi
Trắng xóa bên trời tảng đá vôi
Một bước ngạt ngào trăm thức cỏ
Trước sau thăm thẳm một màu trời
Dừng chân ngắm cảnh bên bờ đá
Kìa cánh hoa vàng tưởng nhớ ai
(Trời xanh thẳm)
MẸ
St Cirq Lapopie
Chiều hôm đàn quạ lượn ven sông
Chi chít cành cao tiếng não nùng
Non biếc rừng thưa thu lạnh lẽo
Sông chiều một dải tối mênh mông
Ngắm chim rộn rã trăm âu yếm
Nhớ mẹ ngày đêm một tấm lòng
Xã hội còn mong khi rạng mặt
Mà cơn thơ thẩn đứng nhìn trông
(Trời xanh thẳm)
Quách Tấn
Sinh ngày 23 tháng 11 năm Kỷ Dậu (24 Janvier 1910) ở làng Trường Định, huyện Bình Khê (Bình Định). Hiện làm Phán sự tòa sứ Nha Trang. Ông thân là người Tây học, bà thân là người Hán học. Bắt đầu học chữ Hán, năm mười một tuổi mới học chữ Quốc ngữ. Học trường Quy Nhơn. Có bằng thành chung.
Đã xuất bản: Một tấm lòng (1939), Mùa cổ điển (1941).
Đêm đã khuya, tôi ngồi một mình xem thơ Quách Tấn. Ngoài kia có lẽ trăng sáng lắm. Nhưng trời về thu, khí trời lạnh lạnh, cửa sổ bên bàn viết đóng kín. Ngọn nến trên bàn tỏa ra một bầu ánh sáng chỉ đủ sáng chỗ tôi ngồi. Chung quanh tối cả. Tối và im. Một thứ im lặng dày đặc. Trong ấy có muôn ngàn thứ tiếng ta không nghe. Lúc này chính là lúc xem thơ xưa. Tôi lắng lòng tôi để đón một sứ giả đời Đường, đời Tống. Đời Đường có lẽ đúng hơn. Đời Đường mới có cái âm u ấy. Thơ Tống dầu xem được ít tôi nhớ hình như quang đãng và bình yên, không như thế.
Theo gót nhà thơ, tôi đi dần vào một thế giới huyền diệu. Ở đây người ta nói rất khẽ, bước rất êm. Những tiếng khóc rộn ràng, những lời reo vui vẻ đều kiêng. Một sức mạnh vô hình, rất mềm mại nhưng rất chắc chắn nặng đè lên hết thẩy. Tình cảnh ở đây không còn là người tình cảnh ta vẫn thường quen biết. Tình cảnh ở đây đã biến thành một thứ hương mầu nhiệm. Nó quyện lấy mình ta và chân ta tự nhiên bước theo một điệu nhịp nhàng dìu dặt. Ta không thấy gì, ta không nghe gì. Nhưng ta biết thế giới này giàu sang lắm. Chốc chốc một cảnh rực rỡ vụt hiện ra trước mắt ta rồi vụt biến đi:
Trời bến Phong Kiều sương thấp thoáng,
Thu sông Xích Bích nguyệt mơ màng.
Bồn chồn thương kẻ nương song bạc
Lạnh lẽo sầu ai rụng giếng vàng?
Ta có thể lơ đãng không thấy rõ sương trên bến Phong Kiều, trăng trên dòng Xích Bích. Không thấy cả cái giếng sầu rụng. Nhưng sắc vàng kia! Cái sắc vàng trong giây phút chiếu sáng cả trời thơ!
Rồi tất cả lại trở lại trong mờ mờ. Hương thiêng vẫn quấn quít bên mình ta, ta đã xa lắm những vui buồn lộn xộn, rộn rịp của cuộc đời; nhưng sao thỉnh thoảng giữa im lặng ta nghe như có tim ai thổn thức. Đây là lời than của một người mồ côi:
Cảnh có núi sông nhiều thú lạ,
Đời không cha mẹ ít khi vui.
Đây tiếng rên rỉ thấy mình bơ vơ trơ trọi:
Sầu mong theo lệ khôn rơi lệ.
Nhớ gửi vào thơ nghĩ tội thơ!
Tiếng khóc âm thầm của con người dè dặt, kín đáo ấy, nó mới não lòng làm sao! Quách Tấn đã tìm được những lời thơ rung cảm chúng ta một cách thấm thía. Người đã thoát hẳn cái lối chơi chữ nó vẫn là môn sở trường của nhiều người trong làng thơ cũ.
Octobre-1941
ĐÀ LẠT ĐÊM SƯƠNG
Bóng trăng lóng lánh mặt hồ im
Thời khắc theo nhau lải rải chìm
Đứng dựa non sao bờ suối ngọc
Hồn say dìu dịu mộng êm êm
Một luồng sương bạc bỗng từ mô
Lên cuốn vừng trăng, cuốn mặt hồ
Cuốn cả non sao bờ suối ngọc
Người lơ lửng đứng giữa hư vô.
- Trời đất tan ra thành thủy tinh-
Một bàn tay ngọc đẫm hương trinh
Âm thầm mơn trớn bên đôi má
Hơi mát đê mê chạy khắp mình
(Một tấm lòng)
VỀ THĂM NHÀ CẢM TÁC
(Một tấm lòng)
Quê người dong ruổi biết bao lâu
Vườn cũ về thăm cảnh dải dầu!
Trống trải ba gian nhà nhện choán,
Ngửa nghiêng bốn mặt dậu bìm leo!
Cội tùng bóng ngả sương rơi lệ!
Ngỏ trúc mây che cuốc giục sầu! [1]
Lẳng lặng bên thềm ôn chuyện cũ…
… Giựt mình ngỡ đến chốn nào đâu?
(Một tấm lòng)
Chú thích:
[1] Cội tùng  Một cảnh trong vườn. Cây này có mượn ý câu ca dao:
Một mai bóng ngả cội tùng
Mũ rơm ai đội, áo mùng ai mang
Ngõ trúc: Một cảnh trong vườn. Câu này có mượn ý câu:
Nghe con sắp được nghỉ hè
Thẩn thơ ngõ trúc, rào tre canh chừng.
Trong bài ca ‘‘Nhớ con’’ của bà thân chúng tôi.
(Lời chú của Quách Tấn)
ĐÊM THU NGHE QUẠ KÊU
Từ Ô y hạng rủ rê sang, [2]
Bóng lẫn đêm thâu tiếng rộn ràng…
Trời bến Phong kiều sương thấp thoáng
Thu sông Xích bích nguyệt mơ màng.
Bồn chồn thương kẻ nương song bạc.
Lạnh lẽo sầu ai rụng giếng vàng?
Tiếng dội lưng mây đồng vọng mãi
Tình hoang mang gợi tứ hoang mang
(Mùa cổ điển)
[2]  Ô y hạng nghĩa là xóm áo đen, tên một xóm đời xưa bên Tàu. Xóm ấy có hai họ Vương. Ta là hai họ lớn con cháu thường mặc áo đen. Vậy chữ ‘‘Ô’’ ở đây không có nghĩa là con quạ. Quách Tấn dùng điển sai nhưng điều ấy tưởng chẳng có quan hệ gì lắm.
ĐÊM TÌNH
Giấc thắm tình duyên non gối nước,
Mán sương để lọt ánh sao băng.
Hồn hoa chợp mộng thơm hồn gió;
Tóc liễu dừng thơ đón tóc trăng.
Muôn điệu tơ lòng run sẽ sẽ,
Nửa vời sóng nhạc giợn lâng lâng.
Phòng hương thương kẻ ngồi nương triện
Tình gởi mây xa lệ ngập ngừng.
(Mùa cổ điển)
MỘNG THẤY HÀN MẠC TỬ
Ơi Lệ Thanh! Ơi Lệ Thanh!
Một giấc trưa nay lại gặp mình
Nhan sắc châu pha màu phú quý,
Tài hoa bút trổ nét tinh anh.
Rượu tràn thú cũ say sưa chuyện,
Hương tạ trời cao bát ngát tình.
Tôi khóc tôi cười vang cả mộng...
Nhớ thương đưa lạc gió qua mành.
(Mùa cổ điển)
TÌNH XƯA
Từ buổi thuyền đưa khách thuận dằm
Trông chừng bến cũ biệt mù tăm...!
Cảm thương chiếc lá bay theo gió
Riêng nhớ tình xưa ghé đến thăm.
(Mùa cổ điển)
TRƠ TRỌI
Tình cũng lơ mà bạn cũng lơ!
Bao nhiêu khăng khít bấy ơ hờ!
Sầu mong theo lệ khôn rơi lệ
Nhớ gởi vào thơ nghĩ tội thơ!
Mưa gió canh dài ngăn lối mộng
Bèo mây bến cũ quyện lòng tơ...
Hỏi thăm tin tức bao giờ lại?
Con thước qua song lại ỡm ờ!
(Mùa cổ điển, 1941)
CHIỀU XUÂN
Chim mang về tổ bóng hoàng hôn
Vàng lửng lơ non biếc đọng cồn
Cành gió hương xao hoa tĩ muội
Đồi sương sóng lượn cỏ vương tôn
Khói mây quanh quẩn hồi chuông vọng
Trời biển nôn nao tiếng địch dồn.
Thưởng cảnh ông câu tình tự quá
Thuyền con chở nguyệt đến cô thôn
(Mùa cổ điển)
BÊN SÔNG
Gió rủ canh đi ngàn liễu khóc,
Sông đưa lạnh tới bóng trăng run...
Thuyền ai tiếng hát bên kia vẳng?
Ghé lại cho nhau gởi chút buồn.
(Mùa cổ điển)
Phan Khắc Khoan
Sinh nào khoảng Juin 1916 ở làng Yên Lăng, huyện Yên Thành (Nghệ An). Mồ côi mẹ thuở bé. Năm 15 tuổi cha bị mù. Học trường huyện, trường Vinh. Có bằng thành chung.
Đã đăng thơ: Phong Hóa (ký chàng Chương), Thế giới, Mới (ký Hồng Chương), Hà Nội tân văn, Tri tân.
Hai năm trước tôi đã nói đến ‘‘Xa xa’’, tập thơ đầu của Phan Khắc Khoan. Nhưng ngoài tập Xa xa, Phan Khắc Khoan [1] còn làm một số thơ. Nhân hỏi xem, tôi dã nhận được một lần mười một tập [2] kèm với một lá thư đại khái nói: "Đây chỉ chừng một nửa thi phẩm của tôi, nhưng tôi không muốn anh phải mệt vì thơ tôi hơn nữa". Dầu thế, tôi đã mệt vì thơ Phan Khắc Khoan nhiều lắm. Không phải đây đó tôi không lượm được những vần thơ dễ thương. Nhắc lại một mối tình hờ hững, Phan Khắc Khoan có những câu:
Đã chót tương phùng trong một quán
Dẫu trà ôi, chuyện nhạt cũng là duyên.
Có khi lòng bâng khuâng, người muốn:
Hạ mái tình xưa: sương về gió tạt
Nghiêng nghiêng hồn cho trút nhẹ chua cay
Có khi thấy lẻ loi, người than:
Thô vụng quá, sắm vai gì trên sâm khấu?
Hồn đơn cô, trông ngơ ngác chợ đời!...
Ồ! Những lúc bốn bên tường hiu quạnh
Thời gian không ngừng thoát một ly nào
Mà trong phòng hồn tôi cứ nao nao!
Bình yên lại, sao mà non yếu thế?
Lòng mơ khát gì đây chăng? Có lẽ,
Kìa mang ý lạ tự đâu về
Ngập hồn tôi như nước chảy tràn đê,
Rồi bút mực tình tự cùng giấy trắng.
Còn có thể tìm được nhiều lời khả ái như thế, nhất là trong những bài tả sự thờ ơ, sự phản trắc trong tình bạn. Nhưng cái tính dễ dãi của Phan Khắc Khoan thực sự dễ sợ! Ai lại đi xe lửa hạng tư chật không một chỗ đứng, từ Huế ra Thanh, mà làm luôn một thôi năm bài thơ dài! Cho nên Phan Khắc Khoan, thường không hay đi sâu vào hồn mình để tìm thấy những điều riêng biệt.
Đi lại, tập Xa xa vẫn là tập thơ trội hơn cả. Hình như một cuộc tình duyên không toại đã vì tác giả khơi nguồn thơ. Người ta lắm khi cần phải có một mối thất vọng lớn mới sáng mắt mà nhìn rõ mình và tạo vật. Có lẽ Phan Khắc Khoan đã nhờ thế mà cảm được cái phong vị đặc biệt của cảnh trời biển miền Nam. Cả tập Xa xa đượm một nỗi buồn vô hạn, một nỗi nhớ không nguôi. Tuy chỉ là nỗi buồn riêng, nhưng lời thơ nhân đó có cái buồn bát ngát, cái nhớ nhung khó hiểu của những nơi trời nước mênh mông. Người đọc thơ tưởng nghe điệu buồn dìu dìu muôn năm vẫn thì thầm trên bãi biển.
Những bức tranh nho nhỏ, xinh xinh, thu gọn trong bốn câu bảy chữ, đều buồn lây cái buồn kín đáo và man mác của thi nhân. Vì nói tình hay nói cảnh, người cũng chỉ nói lòng mình, nói cho một mình mình nghe. Hình ảnh người yêu luôn luôn theo dõi người trong lúc người muốn quên, muốn xa, đã đưa người về cuộc đời bên trong đầy ý nhị.
Juillet-1941

I. Nón ngả sau lưng trước gió chiều,
Áo hồng nô gió cũng bay theo;
Tay nâng tà áo, tay vin nón,
Khi tóc huyền tuôn những nét yêu.
II. Lá rung  như vẩy người xa tới
Viếng cảnh vườn im dưới bóng mây
Thì ra thu đã về đây với
Én liệng từng không gió lất lay
III. Tiếng đâu chiêm chiếp? Trời u ám
Trong bóng nào đâu thấy cánh chim?
Buồn chưa! Trên nước chiều đen xám
Bóng chiếc thuyền con, đứng lặng im!
IV. Nước chiều đã cạn, sông bày cát,
Nhưng chiếc đò ngang vẫn đợi chờ.
Người thưa, khách vắng... buồn man mác;
Cô lái buồn trông dãy núi mờ.
V. Ai đứng trông buồn mong mỏi bạn
Trở về với những khúc ca hoan?
- Tổ chim bỏ vắng trên cành nhạn
 Đã kể cho người nỗi hợp tan.
VI. Cây vươn trên nước rủ bơ phờ.
Gió nhẹ vờn sương thổi vật vờ;
Chiều đuối, chiều tàn, chiều lặng-lẽ
Đò qua sông vắng lướt như mơ.
VII. Chỉ thấy cành rung ngọn lắt lay
Xạc xào vang rộn tiếng heo may.
Ngoài kia có lẽ mông mênh quá,...
Gió lạnh len vào núp dưới cây.
VIII. Ngoài kia chân vẫn tìm ra lối,
Sao dưới hàng keo bóng phủ dày?
Hình như tất cả đêm khuya tối
Tất cả chui vào dưới rặng cây.
IX. Buồm ai thấp thoáng ngoài xa mịt?
Ta chẳng quen người cũng ngó theo...
Ai người chẳng biết buồn ly biệt
Lúc cánh buồm giương ai nhổ neo?
X. Tôi vừa ra đó quên cầm sách,
Gió đã lòn vào dở đếm trang.
- À mà trong vắng trong xa cách
Có lẽ bao nhiêu nỗi phụ phàng!.
(Xa xa)
27/9/2018
Hoài Thanh - Hoài Chân
Theo https://vnthuquan.net/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

  Ngày Giỗ Chị đứng trước di ảnh của anh. Đốt nén nhang như mọi ngày... Nén tiếng thở dài, chị nghĩ thầm "Mới đó đã giỗ lần 4."...