Thứ Tư, 24 tháng 5, 2023

Tập truyện Aziz Nesin 5

Tập truyện Aziz Nesin 5

XÓT TIỀN DÂN
- Khách sạn gì mà xây lâu đến thế kia chứ!
– Chứ gì, ngần ấy thời gian thì xây được cả thành phố chứ đâu chỉ là một khách sạn.
– Sao lâu thế nhỉ? Hay là ta chọn nhầm cánh thầu khoán?
– Khách sạn này cũng có mấy nhà thầu nước ngoài xin việc, không hiểu sao các ông ấy lại ưng nhà này, cũng chẳng phải vì nhà ấy đòi ít, cũng chẳng phải họ làm tốt các hợp đồng khác, cũng chẳng phải vì họ chiều mình. Sự thể ra sao tôi phải quan sát đã rồi mới dám nói.
Hoá ra là quan cũng nhiều mà cung cách cũng lắm; nào mở tiệc ăn mừng, nào cắt băng khởi công, nào quan lớn tự tay đặt viên gạch đầu lấy may. Rồi chiêu đãi dưới trên, ăn một miếng nhớ đời, rồi báo chí rùm beng, bài to, ảnh nhớn.
Ít lâu sau hàng rào khách sạn tương lai mọc lên.
Một hôm có 3 chiếc xe con đỗ cạnh công trường. Nào phải ai xa lạ, chính là các vị quan chức nước nhà bước xuống xem xét bề thế công trường.
– Sao hành lang lại hẹp thể nhỉ? – Ngài trưởng nhóm hỏi.
– Bẩm quan, cái đồ án thiết kế nó vậy. – Người kỹ sư đáp, – hành lang đã rộng đến năm mét…
– Chắc ông cho rằng chúng tôi không thấy cái khách sạn nào bao giờ hẳn? Tôi đã ở các ôten ngoại quốc, hành lang của họ còn rộng nữa. Thôi được cứ cho rằng hành lang theo thiết kế đi, nhưng số lượng hành lang ít quá. Khách sạn mà có mấy cái hành lang như thế. Không làm được thì thôi, đã làm thì làm cho ra làm. Tiền dân, tiền nước!. Phải biết xót chứ… Ông kỹ sư ngậm tăm.
– Còn các ngài nghĩ thế nào? Khách sạn lớn mà có mấy cái hành lang như thế chẳng phải là ít hay sao? – Quan lớn hỏi bầy tuỳ tùng.
– Hơi ít, thưa ngài.
– Dạ bẩm ít ạ.
– Ít quá chứ ạ…
Và thế là hợp đồng với nhà thầu ấy bị huỷ.
Trong lúc chờ giám định phân xử, bản thiết kế được thay đổi: hành lang nhiều hơn, rộng hơn.
Việc thi công đồ án mới đang triển khai thì một ngày kia lại có mấy chiếc xe con dừng bánh bên đường. Lại có mấy nhà đương chức đến nom việc. Đi đầu là một ngài bệ vệ nhất. Vừa thấy cái lỗ cửa ra vào, ngài hỏi liền:
– Chỗ này làm gì đây?
– Dạ, phòng khách đấy ạ, – đại diện hãng thầu mới đáp.
– Phòng khách? Phòng khách quái gì mà thế này?
– Dạ bẩm, việc chưa xong, mai kia chúng con lát đá sơn tường, kẻ hoa…
– Hiểu rồi, tức nghĩa là phòng khách chứ gì… Nhưng ta hỏi, phòng khách có phải là nơi đấu ngựa không? Làm gì có phòng khách như bãi quần ngựa ấy? Tiền dân, nghĩ mà xót ruột…
– Bẩm ngài, chúng con làm theo thiết kế…
– Lạy Chúa, cái mà các anh gọi là thiết kế, nó không phải là bài kinh Coran bất di bất dịch. Phải thay thiết kế, phải thay đi mới được.
Nhà thầu chịu nghe không dám ho he. Theo ý mới, các phòng khách đều được thu nhỏ.
Công việc đang chạy, thì một hôm lại có mấy quan phóng xe con đến xem khách sạn. Ngài đương quyền dẫn đầu đội khảo hạch nói chung là vui, nhưng đúng lúc ra đến cửa, ngài mới nhìn lên trần băn khoăn hỏi:
– Thế không làm mái vòm, trần cuốn à?
Câu hỏi làm nhà kiến trúc sư trẻ tuổi bủn rủn đầu gối, anh ta chết lặng đi mấy phút, bây giờ mới đủ sức định thần để hỏi lại.
– Xin ngài thứ lỗi, con không hiểu, ngài định nói mái vòm, trần cuốn thế nào ạ?…
– Đó mới là kiến trúc lối Thổ. Những người vào khách sạn sẽ là người nước ngoài, vì thế khách sạn phải theo lối Thổ ta… Anh xem nhà cửa nước Thổ bao giờ lại không có mái vòm, trần cuốn.
– Nhưng thua ngài, trong bản thiết kế…
– Thiết kế là cái gì? Nhờ nhà thầu làm thiết kế bao giờ chả vậy. Họ biết gì về kiến trúc và tâm hồn ta nào?
Các quan tùy tùng cúi cả đầu xuống.
– Nhà thế này thì ai cần? Nhất thiết phải có mái vòm, trần cuốn. Trông thấy tiền dân, tiền nước mà xót cả ruột.
Làm mái vòm, trần cuốn cho cả nhà thì tốn phí quá nhà thầu chỉ dám theo tinh thần dân tộc ở một đôi chỗ dễ nhất.
Công việc xây cất đã đến lúc hòm hòm thì giới chức quyền lại theo bánh xe con lăn đến. Ngài quyền cao đi trước buồn rầu nhận xét:
– Úi dà! Sao lại làm nhiều hành lang thế nhỉ? Phòng thì ít, lối lại nhiều. Ở đây dễ lạc như vào rừng… Thật xót tiền dân…
Làm đi làm lại mãi chẳng còn biết thời hạn ra sao? Công việc mịt mùng không dứt. Báo chí đã bắt đầu đưa đẩy. Muốn nhanh nhà thầu phải đổi kiểu mái. Nhưng những cuộc tranh luận bất đồng lại nổi dậy. Dùng ngói gì bây giờ? Ngói bản xứ hay ngói Mácxây. Cuối cùng phương án ngói bị đổ và mái được làm bằng bê tông thường.
Công việc gần xong thì bỗng bụi đường tung dưới bánh xe con.
– Thế gạch men đâu? Khách sạn Thổ mà không có gạch men là thế nào? – Các quan khách kinh ngạc hỏi.
Sau đó mọi người vào phòng khách. Phòng khách không có một cây cột. Ngài trưởng đoàn bảo:
– Ở đây không có cột, mà cột lại cần. Cầu trời cho mái đừng sập…
– Bẩm ngài an tâm, không sập được đâu ạ, chúng con đã tính.
– Đã tính? Đến lúc nó sập thì đem tính của các anh ra mà trừ à?
Ngài quay lại đám sau lưng:
– Thế nào, các ông, trần sập được chứ?
– Bẩm, được ạ…
– Thế nào cũng đổ, nặng thế kia cơ mà? Lại còn đồ đạc trên ấy nữa… Rồi người vào lại đông… Thế nào cũng đổ…
– Nổ như bom ấy chứ…
– Bao nhiêu là tiền vứt qua cửa sổ… Thật xót tiền nhà nước… các anh nghe không? Ai cũng bảo đổ… Thêm mấy cái cột có phải là lạ kiểu…
Chiều ý mới, các phòng khách đã có thêm cột.
– Một ngài dẫn đầu một đoàn lãnh đạo khác đã biến dãy cột vuông thành gạch vụn. Trong sách giáo khoa thư ngài học hồi bé, ngài thấy có ảnh đền đài Hy Lạp toàn cột tròn cả, chứ không lai căng thế này. Tiền nhà nước vứt ra cửa sổ thật là xót ruột…
– Bẩm quan, dễ như trở bàn tay thôi, chúng con sẽ có cột tròn.
Đến lúc tường ngoài đã chạm trổ hoa văn thì một quan lớn đến thăm, trách cứ:
– Những công trình hiện đại người ta dùng mặt tiền bằng kính chứ!
Cuối cùng rồi cũng đến lúc mọi việc coi là xong xuôi. Chỉ còn một việc cuối cùng. Một ngài quan khác nhận xét rằng cầu thang dốc quá, người đứng tuổi lên có phần mệt.
– Bẩm quan, còn thang máy. Vị nào trọng tuổi thì còn thang máy.
– Nếu vậy thì xây cầu thang làm gì? Các anh chả biết xót tiền quốc gia! Cầu thang cũng phải có ích chứ.
Sửa xong cầu thang. Một nhà kiến trúc sư nổi tiếng nước ngoài đến thăm.
– Một kiến trúc trứ tác! Xứng đáng làm đại bản doanh hên hợp quốc.
Gạch men mặt tiền và trên tường, mây hành lang, mái vòm, trần cuốn, chấn song sắt hình họa kim hương, mái nhà có ô văng, những thứ đó hoàn toàn theo tinh thần Thổ Nhĩ Kỳ. Ngược lại, chóp mái lại theo đúng phong điệu Bắc Âu. Những cầu vồng phòng khách mượn lối cung đình Thổ. Phòng khách chính giống lối đại sảnh, thậm chí còn lớn hơn những đại sảnh Aten… Rồi còn những mẫu mực xuất sắc của lối kiến trúc Ý… Nhà tắm, nhà vệ sinh rập theo kiểu Mỹ. Rồi lối xây Ấn Độ, đường Trung Hoa… Tất cả cùng nhau chen vai thích cánh.
– Tuyệt! – nhà đại kiến trúc ngoại bang thốt lên, – làm sao các ông có thể đưa nổi mọi lối kiến trúc vào một lâu đài như thế!
– Chúng tôi xây đi xây lại cái trứ tác này suốt chín năm đấy! Mà lại còn tằn tiện được bao nhiêu tiền dân!
Ông chủ nhiệm công trình tự hào đáp lại.
THÔI THÌ Ở LẠI
Lần cuối cùng anh ngồi tù thật là cực. Ra tù anh lại bị đày về một hoang trấn, sự ấy làm anh bải hoải tinh thần. Mãn hạn đày, anh về thủ đô, cô đơn như một chiếc bóng. Vợ thì bỏ từ lúc còn ngồi tù. Ai ở địa vị anh mà chẳng não ruột: người thân không một ai, tiền lương không một hạt… Chẳng lẽ lại phải hoàn toàn dứt bỏ chính trị, đoạn tuyệt hẳn với tất cả những gì thương mến để mà sống mòn trong xó tối hay sao? Trước hết phải tìm được một chỗ nào trú chân cái đã. Tiền thuê nhà giữa thành phố thì túi anh chịu không nổi, mà ở ngoại ô cũng rất đắt… Anh đã mệt nhoài vì công nợ và phập phồng lo sợ.
Bất kỳ lúc nào người mõ tòa cũng có thể xuất hiện để tịch biên cái máy chữ cọc cạch và ba cái đồ tầm tầm của anh. Anh cảm thấy hết sức ghê tởm mấy thằng hàng xóm, những đứa tò mò, những kẻ đầy sợ sệt và thù hận lúc nào cũng nhìn anh từ đầu đến chân như nhìn một vật tởm lợm chẳng có gì đáng thương hại. Vì thế anh chỉ ao ước tìm được một căn nhà nhỏ bé, rẻ tiền tít ngoài ngoại ô khuất xa những con mắt người đời.
Tìm kiếm mãi, cuối cùng anh cũng thỏa nguyện: một túp nhà bằng một gian rưỡi trong một xóm nghèo lơ thơ 50 túp như thế trên một quả đồi cách thành phố cũng đến 1h rưỡi đường bộ. Tìm được chỗ ẩn dật, anh mừng lắm. Gia tài của anh chỉ có hai cái vali tàng toàn là sách và mấy cái giẻ rách.
Khi anh che được cửa sổ bằng mấy tờ báo cũ anh mới cảm thấy đấy là nhà mình và mới thấy thật sự an toàn. Hạnh phúc thật! Bây giờ chỉ cần tìm được một việc vớ vẩn gì đó đủ sống là được.
Gần trước cửa nhà anh có một quầy hàng khô bán những thứ măng, miên… xế trái một chút, dưới một cái mái vẩy tạm, một ông hàng hoa quả bày ra đủ các thứ thúng mẹt. Thực phẩm anh mua của họ cũng đủ. Chẳng bao lâu sau, anh cũng đi lại với họ và đôi bên cũng thổ lộ đôi điều. Các nhà hàng bắt đầu than thở đời sống khó khăn, hàng họ cứ ế ẩm, mỗi ngày chỉ được dăm ba khách mua (như thế làm sao đủ sống!?!?), tiền thì không có nhiều nên chẳng làm thế nào dọn hàng đến một nơi đắt khách được.
Sau khi anh dọn về nhà mới mấy hôm, cạnh quầy hàng khô có thêm anh chàng bánh nếp, anh chàng này cứ vào tầm ăn trưa xong lại đến bán hàng cho đến tối mịt. Sau đó cạnh anh chàng bánh nếp lại có anh chàng ngô luộc đến ngồi ké. Trước mái lều anh chàng hoa quả lại có thêm một người lạ mặt đến bày những phễu thuỷ tinh bán ô mai, táo dầm. Rồi lần lần xuất hiện thêm một thằng đánh giầy, mấy bác bán rong mứt kẹo. Một ông thợ giầy cũng đến cắm một cái dù tã che nắng. Giữa quầy hàng khô với quầy hoa quả là một cái bạt dài của một hàng cà phê.
Thế là chẳng bao lâu trước mặt túp lều của anh như có chợ họp. Bọn bới rác có việc làm từ sáng đến tối, kẻ qua người lại đông hơn, phố xá thành ra tấp nập. Mấy cái nhà toen hoẻn trước kia bỏ trống, nay cũng đầy người đến thuê. Anh cảm thấy hạnh phúc khi cuộc sống bỗng tươi vui nhộn nhịp. Tuy vậy anh vẫn thất nghiệp. Mòn chân các nơi cũng không đạt kết quả gì. Biết bao lần tưởng chừng có việc làm đến nơi, nhưng cứ nghe cảnh sát nói đến thân thế anh thì ông chủ nào cũng lót tay lá chuối đưa anh ra côngr. Bạn bè anh cũng vậy, chẳng ai kiếm được đồng tiền nào thành thử chẳng biết vay đặt vào đâu. Để đỡ tiền nhà, anh liền quyết định về ở với một người bạn trong phố. Hai người đã thỏa thuận với nhau. Tuy nhiên anh đã trót vay nợ ít nhiều của anh hàng khô, hàng hoa quả và mấy anh hàng khác. Bởi thế, trước khi dứt áo ra đi, anh phải tính toán với họ cái đã.
Một buổi tối khi anh đi dạm bán mấy thứ và nói chuyện sắp dọn đi chỗ mới, thì có tiếng gõ cửa. Ba người bước vào: anh hàng khô, anh hàng hoa quả và chủ tiệm cà phê… Anh bối rối mời khách vào trong căn phòng sơ sài của mình:
– Xin thất lỗi, tôi chẳng có gì để mời các bạn cả.
– Không hề gì – anh hàng khô mỉm cười – chúng tôi cũng đã mang theo mấy thứ, đây là cà phê, đây là đường kính. Rồi anh ta bày ngay mấy gói giấy lên bàn.
Anh kinh ngạc nhìn mấy cái gói. Thế là thế nào? Lúc họ vào, anh đồ rằng họ đến đòi nợ. Vậy họ mang quà đến làm gì?
– Bạn định dọn nhà đi, có thật không vậy! – Anh chàng hoa quả hỏi.
– Đúng thế đấy, nhưng sao các bạn lại biết?
– Cái gì chúng tôi chả biết – Chủ hiệu cà phê nói một câu đầy ý tứ.
– Các bạn đừng ngại, tôi không có ý trốn các bạn đâu. Các khoản tôi sẽ thanh toán đầy đủ…
– Bạn thân mến, những chuyện vặt như thế chúng mình nói với nhau làm gì, chả bõ thêm ngượng! Bạn tưởng chúng mình đến bắt nợ hay sao.
– Chuyện ấy chả có gì đáng nhắc đến cả, ông bạn quí của chúng tôi ạ – Anh hàng khô nói – Và chẳng hiểu ấy có bõ bèn gì cho cam.
– Còn nể khoản tiền nợ của tôi – Anh chàng hoa quả nói – tôi xin biếu bạn làm quà. Tôi sẽ chẳng bao giờ nhắc đến, mà nếu bạn có đòi trả, tôi cũng không nhận…
– Sao các bạn lại thế?
– Chúng tôi thực quý trọng bạn…
– Bạn đã mang lại cho chúng tôi bao nhiêu điều lành…
– Cầu thánh Ala phù hộ cho các bạn, các bạn nói những gì vậy! – Cổ anh nghẹn lại, mãi mới nói được một tiếng.
Thế nghĩa là họ cũng biết rằng anh đã làm việc cho dân… Mà anh thì lại sầu khổ, bi quan, lại định từ bỏ con đường chính trị. Những con người như thế này làm sao có thể bỏ được!
– Anh đừng đi đâu cả! Chúng tôi tha thiết mong mỏi như vậy! – Chủ hàng cà phê nói liền một hơi.
– Phải đấy, chúng tôi đến đây để xin bạn đừng đi đâu cả! – Anh hàng hoa quả dịu dàng nói thêm.
– Tôi đành làm thế vì tôi không trả nổi tiền nhà…
– Chúng tôi biết – Anh hàng hoa quả nói – chúng tôi biết hết. Mấy anh em chúng tôi bán hàng ở đây đã quyết ý gom góp trả tiền nhà dùm bạn, chỉ xin bạn đừng đi đâu nữa…
Đôi mắt anh ngấn lệ và tâm hồn anh sau bao năm tranh đấu và khổ ải lần đầu tiên biết thế nào là sung sướng.
– Không, không, tôi đâu dám thế – Anh từ chối – Tôi không có việc làm. ở đây khó sống lắm, tôi phải đến ở nhờ nhà bạn.
– Chúng tôi, anh em bán hàng ở đây – Chủ hiệu cà phê lại nói – đã bao ngày nay chúng tôi chỉ toàn ngồi nghĩ cách giúp bạn thôi. Dù bạn có tiêu pha tốn bao nhiêu chúng tôi cũng gánh vác hết… Chỉ xin bạn đừng có đi đâu… Đừng bỏ chúng tôi… Chúng tôi van bạn!…
Gắng lắm anh mới kìm được tiếng nấc. Dù người ta có nói thế nào đi nữa, cũng phải nhận chân rằng đất nước đã có tiến bộ – ngay đến những người buôn bán cũng đã bừng tỉnh về chính trị! Nghĩa là anh đấu tranh như thế cũng chẳng uổng công. Cứ như mấy năm về trước thì những người này gặp anh đâu có thèm hỏi.
– Đa tạ các bạn – Anh nói – cám ơn các bạn, các bạn đã làm tôi xúc động thực sự. Nhưng tôi không thể nào nhận phần giúp đỡ của các bạn được…
Khách lại bắt đầu van vỉ.
– Quả là chỗ ở này không xứng đáng với bạn – Anh hàng khô nói – ở đây không thể sống được… Bạn biết không, gần đây có một cái nhà hai tầng, tầng trên người ta thuê. Trên đó có phòng tắm, có… Chúng tôi sẽ thuê tầng đó cho bạn.
Chủ tiệm cà phê nói:
– Chúng tôi không muốn bạn rời khỏi khu này, chúng tôi chỉ muốn mãi mãi có bạn bên cạnh…
– Tôi không hiểu gì cả. Sao lại thế nhỉ?
– Có gì đâu mà, bạn thân mến của chúng tôi, nhờ có bạn cánh buôn bán chúng tôi ở đây mới mở mặt ra được…
– Trời ơi, các bạn nói gì vậy! Nào tôi có sắm sửa gì mấy đâu…
– Ối dào, bạn mua bán thì đáng kể gì… Những người khác mua mới là điểm chính… Bạn đã mang hạnh phúc về cho chúng tôi… Hồi bạn chưa về đây, cửa hàng tôi chỉ lèo tèo ngày 3, 4 ông khách, còn bây giờ thì xoay người cũng chả kịp. Khách khứa tấp nập cứ như thành phố…
– Vạn sự đều là ở nhờ bạn mà ra cả… – Anh hàng khô đế thêm.
– Mong bạn nể tình chúng tôi – Chủ tiệm cà phê nói – Một khi bạn đi, mọi sự rồi sẽ đổ vỡ. Tôi đến phải đóng cửa tiệm chứ không chơi!
Rồi cả dám khách lại nhao nhao mời anh ở lại.
– Đội ơn các bạn, nhưng nào tôi có công cán gì cho cam? Tôi làm được gì mà các bạn cứ khăng khăng bảo đừng đi như vậy?
– Ôi chao, bạn đã làm một việc vĩ đại! – Anh hàng hoa quả nói – Bạn vừa mới đến xó này là chúng nó xua cả một đàn cảnh sát đến dò. Bọn này núp dưới danh nghĩa bới rác, đánh giầy… Rồi sau đến bọn cảnh sát buôn bán. Bọn này kiểm tra hoạt động của bọn thứ nhất rồi bọn thứ 3 lại đến dò la bọn thứ 2… Cứ thế mà ở đây sầm uất hẳn lên.
– Đầu tiên chúng nó vặn vẹo bọn tôi xem bạn làm gì – Anh hàng khô nói.
– Chúng la cà các quán mua bán vớ vẩn – Anh hàng hoa quả bổ sung.
– Chính nhờ bạn mà hàng tôi mới chạy được thế. Chúng ngồi từ sáng chí tối, cà phê rót lia lịa…
– Thế hóa ra cả bọn chúng đều là cảnh sát? – Anh xót xa hỏi.
– Có thằng là cảnh sát, có thằng không phải là cảnh sát… Chỉ cần đâu đo tụ tập mươi người là lập tức có đến 50 thằng xáp đến… Bây giờ mà bạn bỏ đi thì cuộc đời lại heo hắt như xưa. Bọn cảnh sát lại lần đi theo gót chân bạn…
– Chúng tôi sẽ chết mất – Anh hàng khô nói.
– Bạn hãy thương lấy những người nghèo khổ chúng tôi – Anh hàng hoa quả rầu rĩ.
– Bạn ở lại đi, cho tôi kiếm thêm đồng bạc – Chủ tiệm cà phê van nài.
Anh đâm ra tư lự. Cho dù anh có đi đến đâu thì cảnh trạng rồi cũng ra vậy.
– Thôi – Anh đáp – Tôi sẽ ở lại. Nhưng xin các bạn cất hết những của này đi – và anh trả người bán hàng khô cả 4 cái gói.
– Tin vui này có thể loan cho mọi người được không? – Anh hàng hoa quả hỏi thêm lúc cáo biệt.
– Vâng. Tôi sẽ không đi đâu nữa…
– Xin đức Ala phù hộ cho bạn!
NHỎ VÀ ĐẸP
Tôi bắt được 1 cuốn sổ tay dưới gầm bàn trong nhà. Nhưng hỏi người nhà thì không ai nhận. Ai cũng bảo: “Không phải của tôi!” Cuốn sổ xinh xắn, bọc bìa xanh, có hàng chữ nổi mạ bạc trông rất đẹp. Tôi mở ra xem là của ai. Vừa đọc trang đầu tôi đã thấy kinh ngạc. ở đó có ghi tên, địa chỉ, số điện thoại của 1 ông to, ông rất to. Lật trang sau cũng lại thấy ghi lần lượt tên, địa chỉ, số điện thoại của 3 nhân vật khác cũng rất có danh tiếng. Cứ thế tôi giở hết trang này đến trang khác và nỗi kinh ngạc của tôi mỗi lúc 1 tăng.
Các bạn cứ nghĩ xem: trong nước có bao nhiêu nhà hoạt động chính trị tai to mặt lớn, bao nhiêu quan chức có thế lực, thì địa chỉ của tất cả các vị này đều được ghi vào sổ. Người kém vế nhất trong số đó cũng là 1 tổng giám đốc. Tôi lại còn để ý thấy thêm 1 điều này nữa: các nhà hoạt động chính trị có tên trong sổ đều là những người hiện đang cầm quyền. Ai ở vào địa vị tôi mà chẳng phải ngạc nhiên? Ðối với tôi, cuốn sổ ghi địa chỉ những người có thế lực thật chẳng khác gì 1 trái bom nổ chậm. Ðúng là có kẻ nào thù hằn đã ném nó vào nhà tôi. Tôi chưa hình dung được cuốn sổ ghi địa chỉ những nhân vật tiếng tăm này có thể gây cho tôi điều gì rủi ro. Nhưng có điều không nghi ngờ gì nữa là nó được ném vào gầm bàn tôi với 1 ý đồ xấu xa. Tôi hoảng sợ vô cùng. Rất có thể, sắp có người bấm chuông gọi cửa ngay bây giờ, rồi bọn cảnh sát mặc thường phục sẽ ập vào nhà tôi và bảo: “Ðưa quyển sổ đây!” Còn tôi thì sẽ run như cầy sấy, hỏi laị: “Quyển sổ nào ạ?” Họ sẽ lục soát căn phòng tôi và tìm thấy ngay cuốn sổ dưới gầm bàn, như thể chính tay họ đã đặt vào đấy vậy.
Tôi biết chắc mọi việc sẽ xảy ra đúng như thế. Ðứa khốn kiếp nào ném quyển sổ vào nhà tôi, hắn đã đi báo cảnh sát! Rõ ràng la tôi đã sa vào cái bẫy hết sức nham hiểm rồi!
Bọn cảnh sát vớ được cuốn sổ sẽ hỏi ngay: “Nào, nói đi! Anh ghi địa chỉ tất cả những quan chức lớn nhỏ vào đây để làm gì? Anh muốn lập hồ sơ theo dõi lý lịch cá nhân của họ à? Anh sửa soạn tống tiền họ chăng? Hay anh định mưu sát?”
Lạy chúa! Lúc ấy tôi biết trả lời họ ra sao? Mà dù tôi có phân trần, thanh minh thế nào chăng nữa, chắc đâu họ đã tin tôi?
Thôi, tôi phải đem đốt ngay cuốn sổ rồi tung đám tan ra cho gió cuốn đi thôi!
Nhưng không biết đứa khốn nạn nào đã giăng bẫy đưa tôi vào tròng mới được cơ chứ? Tối hôm qua tôi có 3 người bạn đến chơi. Trong bọn họ thì 1 người là giảng viên trường đại học, 1 người làm việc ở thư viện trường tổng hợp, còn người nữa là giáo viên văn học…
Tôi đang đút cuốn sổ vào lò sưởi nhà tắm để chuẩn bị đốt thì có chuông gọi cửa. Anh bạn Halit của tôi đến.
Tôi quen anh đã 20 năm nay, anh làm việc ở thư viện trường đại học tổng hợp, và là một trong 3 người đã ngồi chơi ở nhà tôi tối hôm qua. Halit cũng đang hoảng hốt như tôi. Anh hỏi tôi:
-Sao trông anh tái nhợt đi thế?
Tôi cũng hỏi lại anh:
-Này, nhưng cậu cũng làm sao vậy?
-Lạy chúa, anh có thấy cuốn sổ tay tôi đánh rơi ở đây hôm qua không?
Tôi đưa cho anh quyển sổ:
-Quyển này phải không?
Anh nắm lấy tay tôi, reo lên:
-Giời đất ơi, đúng rồi! Thế mà tôi cứ tưởng đánh mất ở đâu, lo không thể tả được!
Tôi dẫn anh vào phòng làm việc.
-Còn tôi thì cũng được 1 mẻ hết hồn – tôi thú nhận – Cậu hãy nói thật cho tôi biết, cậu ghi từng ấy địa chỉ của những người có tai mắt để làm gì vậy?
Ðến lượt anh ngạc nhiên:
-Ô hay! Thế chả nhẽ anh chưa có quyển sổ ghi địa chỉ những người tên tuổi à?
-Chưa!
-Lạy Chúa, thế thì anh phải lập tức ghi ngay đi, rồi nhét nó vào túi ấy! Anh muốn biết tôi viết những địa chỉ ấy vào sổ để làm gì phải không? Ðây này, tôi sẽ nói cho anh nghe. Anh chắc biết tôi vốn thích sưu tầm bút máy. 1 số bút thì tôi mua, còn 1 số thì người ta cho, trong túi tôi có được đến mươi, 15 chiếc. 1 hôm, tôi đến khách sạn thăm 1 nhà thơ Ðức mới sang. Anh ta biết tôi thích chơi bút máy nên tặng tôi 1 chiếc. Vừa ra khỏi khách sạn là tôi rẽ ngay vào 1 góc phố và không nhịn được “Ta phải xem cái bút thế nào đã!” – tôi tự nhủ. Chắc anh biết trong túi tôi lúc nào cũng có chiếc kính lúp. Tôi lấy kính ra soi cái ngòi và thấy nó có vẻ hơi thô. Tôi viết thử vào cuốn sổ mấy chữ tình cờ hiện trong óc: “Nhỏ và đẹp”. Thường tôi vẫn mang theo 1 tờ giấy ráp mịn hạt để mài ngòi bút. Cái ngòi này nếu về nhà tôi mài thêm tí nữa thì nét sẽ nhỏ và đẹp hơn. Tôi cầm lấy kính định xem lại cái ngòi 1 lần nữa, thì bỗng có ai nắm lấy 2 vai:
-Anh đang làm gì vậy?
-Tôi ấy à? Tôi đang xem chiếc bút máy chứ có làm gì đâu!
-Thế đấy! Nghĩa là xem bút máy hả? Vậy chứ anh làm nghề ngỗng gì?
-Tôi ở trường đại học… – tôi không kịp nói hết câu.
-ái chà, nghĩa là giáo sư cơ đấy! Thưa ngài giáo sư, rất hân hạnh!… Chà!…
1 ngươi trong bọn họ thụi cho tôi 1 quả vào sườn bên trái khiến tôi loạng choạng.
-Thôi, alê, đi!
-Các ông xem lại cho. Chắc có sự hiểu nhầm gì đây!
-Ði!
Tôi lại bị quả đấm nữa vào sườn bên phải và đành phải bước. Biết làm sao được!
Chúng tôi đi về bóp. Tôi bị đẩy vào 1 căn phòng. Nhưng chờ mãi mà không thấy ai đến. Lát sau có 1 tay bước vào:
-Ngồi xuống đất ấy! – lão ta nói.
-Tôi không ngồi thế được! – tôi đáp.
-Cái gì? Không ngồi thế được hả? ái chà, ra cái điều ta đây giáo sư cơ đấy! Ghê chưa? Thôi, có gì trong túi bỏ hết ra đây!
Tôi đặt lên bàn tất cả mọi thứ trong người: 14 chiếc bút máy, 2 quyển sách, cuốn sổ tay, 2 tờ giấy ráp mịn hạt. Lão ta chỉ vào những chiếc bút:
-Ðây là cái gì?
-Bút máy.
-Ra thế!… nghĩa là bút máy đấy! ái chà, giáo sư mà lại! Oai quá nhỉ?
Tôi không sao nói xen được 1 câu để giải thích cho lão ta hiểu rằng tôi không phải là giáo sư, mà chỉ là 1 nhân viên trông thư viện ở trường đại học thôi! Lão ta cầm lấy chiếc kính lúp:
-Còn đây là cái gì?
-Kính lúp!
-Ra kính lúp đấy! Chà, giáo sư! Chà!…
Thêm 3 người nữa đến. Họ cũng xúm vào xem đồ vật của tôi. 1 người cầm tờ giấy ráp lên hỏi:
-Cái gì thế này?
-Giấy ráp.
-Giấy ráp gì mà lạ thế? Nhẵn như không ấy! Anh định bịp ai vậy hả?
-Ðây là loại giấy ráp mịn hạt!
-Ra thế! Giấy ráp mịn hạt cơ đấy! Chà, giáo sư! Này, giáo sư này!
Vừa nói, lão ta vừa nện vào vai tôi 1 cái. Xem chừng sự việc đâm ra lôi thôi.
-Thưa các ông – tôi nói – chắc có sự hiểu lầm thế nào đây. Tôi không rõ tại sao các ông lại đưa tôi về đây, chứ tôi thì cả trường đại học ai cũng biết, nhà báo nào tôi cũng quen. Tôi không làm gì đáng để các ông đối xử như vậy.
1 tay đang giở cuốn sổ của tôi ra xem, quát:
-Im ngay!
Bỗng mắt hắn chợt sáng lên:
-Thế còn cái này là cái gì?
Hắn chỉ vào mấy chữ “Nhỏ và đẹp” tôi viết trong quyển sổ để thử chiếc bút máy người ta vừa cho.
-“Nhỏ và đẹp” – tôi nói.
-“Nhỏ và đẹp”? Hay nhỉ!
-Vâng, “nhỏ và đẹp”!
-Thế là cái gì?
-Chẳng là cái gì cả!
-Chẳng là cái gì thì anh viết vào đây làm gì?
-Ðể tôi thử ngòi bút…
-Thế đấy! Ðược, nhưng sao anh không viết chữ gì khác mà lại chọn đúng chữ “nhỏ và đẹp”?
Quả tình nào tôi có nghĩ gì đến chuyện ấy.
-Tôi không biết – tôi nói – tự nhiên tôi nghĩ ra mấy chữ ấy, thế là tôi viết luôn vào…
-Thế đấy! “Nhỏ và đẹp”! Chà, giáo sư đấy! Chà… Chúng tôi sẽ cho anh biết thế nào là “nhỏ và đẹp”! Các ông nghe thấy hắn bảo gì chưa? Hắn bảo tự nhiên hắn nghĩ ra đấy! Thế sao tự nhiên anh không nghĩ ra chữ khác?
1 người trong bọn họ bước lại chỗ cô thư ký đánh máy. Họ bắt đầu lập biên bản. Tôi sợ vã mồ hôi. Biết đâu những chữ “nhỏ và đẹp” tôi tình cờ viết ra lại là mật mã của 1 tổ chức gián điệp thì nguy to! 14 chiếc bút máy, cuốn sổ tay, chiếc kính lúp, 2 quyển sách, tờ giấy ráp mịn, “nhỏ và đẹp”! Ai mà chẳng phải nghi ngờ! Tôi bối rối không còn biết làm gì nữa. Trong lúc đang lập biên bản, 1 tay vẫn tiếp tục giở cuốn sổ của tôi ra xem. Bỗng hắn dừng lại ở 1 trang, sau đó đưa trang này cho cả bọn xem. Họ thì thầm gì với nhau 1 lúc, rồi tình thế bỗng nhiên thay đổi hẳn. Người vừa xem cuốn sổ của tôi đã chỉ cho cả bọn xem 1 chỗ ghi trong sổ.
-Xin lỗi ngài – lão ta quay lại hỏi tôi – người này đối với ngài là thế nào ạ?
-Ðấy là bạn học cũ của tôi – tôi đáp – Chúng tôi gặp nhau hôm kia. Anh ta đưa tôi đi ăn hiệu, cho tôi địa chỉ và tôi ghi vào đây.
Những điều tôi nói hoàn toàn đúng sự thật. Quả tình tôi có gặp 1 người bạn xa nhau đã lâu. Tôi cũng không biết rằng anh ta là 1 tổng giám đốc.
Gã cảnh sát vẫn đang cầm cuốn sổ của tôi bỗng nở 1 nụ cười, xun xoe bảo:
-Chết chửa! Thế ra ông tổng giám đốc là bạn thân của ngài?
-Ðúng thế… Hồi còn đi học chúng tôi thường trêu chọc anh ấy.
-Thật hân hạnh quá! ấy kìa, sao ngài không ngồi xuống? Ghế đây ạ! Xin mời ngài!
Sau đó, gã quay lại bọn kia:
-Ai bảo các anh dẫn ngài về đây hả?
Rồi quay lại phía tôi:
-Xin mời ngài!
Chúng tôi bước vào 1 căn phòng bày biện sang trọng, tôi đi trước, bọn họ theo sau. Họ mời tôi ngồi vào chiếc ghế bành. 1 tay nói:
-Hôm nay nóng qúa. Ngài dùng 1 chút nước giải khát nhé?
-ấy chết, xin các ông chớ bận tâm làm gì!
Tuy vậy nước giải khát vẫn được mang ra. Chúng tôi chỉ còn lại 2 người trong phòng. Bọn kia kéo nhau ra ngoài cả.
Người đang tiếp chuyện hỏi tôi:
-Thưa ngài, ngài đến thăm chúng tôi có việc gì không? Ngài có cần gì không ạ?
ThánhAla ơi! Thế là thế nào nhỉ? Tôi có cần gì không à? Chả nhẽ không phải chính họ đã vừa tóm cổ tôi mà lôi về đây hay sao?
Nhưng bây giờ, giữa lúc họ đang đối xử lịch sự với mình như thế, mà lại đi bảo rằng mình bị lôi cổ đến và bị đánh thượng cẳng tay hạ cẳng chân, thì xem ra không tiện.
Vì thế nên tôi đáp:
-Tôi đến… chẳng qua để hỏi thăm sức khoẻ các ông thôi!
-Ôi, thật quý hoá! Chúng tôi rất đội ơn ngài! Chúc ngài cũng được khoẻ mạng! Thật quả là vinh dự cho chúng tôi. Lạy Chúa! Ðược ngài đến thăm!
Tình thế không ngờ lại xoay chuyển 1 cách tốt đẹp như vậy. Nhưng dù sao, tôi nghĩ cũng phải chuồn ngay, kẻo nhỡ đâu sự việc trở nên rắc rối.
-Các ông cho phép tôi về! – tôi nói.
Lão ta đứng lên tiễn tôi ra tận cửa. Tôi bước thật nhanh để mau mau thoát khỏi chốn này, không dám nghĩ đến chuyện đòi lại bút máy, cuốn sổ và chiếc kính, vì sợ phải nhắc đến chuyện hiểu lầm vừa xảy ra. Thôi! Chả cần!
-Thưa ngài!… thưa giáo sư! Ngài còn quên đồ đạc!
1 tên trong bọn bỗng chạy theo tôi, gọi. Hắn mang bút máy, tờ giấy ráp, cuốn sổ và kính lúp lại cho tôi.
-Thưa giáo sư, ngài là bạn của ông tổng giám đốc thật đấy ạ? – hắn hỏi.
-Ðúng thế – tôi đáp – Nhưng sao ông lại hỏi vậy?
-à, chả là dạo này đang có “mốt” như thế.
Ai thấy người sang cũng muốn quàng làm họ cả. Ngài hiểu chứ ạ? Ðể lúc nào có việc cần thì bảo: “Ðây là bạn tôi!” và thế là thoát. Mà chúng tôi thì làm sao biết được kẻ ấy có đúng là bạn thật hay không? Nhưng ngài thì đúng là bạn thật chứ ạ?
-Ðúng, tôi là bạn thật.
Hắn chìa cho tôi mâu giấy.
-Thưa ngài, tôi đã viết lai lịch của tôi ra đây. Là để phòng xa như vậy. Nếu ngài có dịp gặp ông tổng giám đốc thì… e hèm…
Kể đến đây, Halit bảo tôi:
-Từ hôm ấy, cứ biết được địa chỉ của ai trong số những bậc tai mắt của ta là tôi ghi ngay vào sổ. Ðến lúc tưởng mất quyển sổ, tôi lo quá anh ạ! Có những địa chỉ này chẳng khác gì được bảo hiểm tài sản và tính mạng vậy. Anh cũng nên có 1 quyển sổ như thế mới được. Nhưng cần nhớ 1 điều là hễ có ai về hưu do sức khẻo hay bị cách chức thì phải lập tức xoá ngay tên khỏi sổ, nếu không thì có khi mang vạ vào thân đấy!… Thế thật anh không biết gì về những quyển sổ ghi địa chỉ những bậc có thế lực trên cõi đời này à?
-Không!
-Vậy thì hỏng to rồi người anh em ạ! Bây giờ ai cũng phải giữ cái của này trong túi áo để phòng khi bất trắc thì giở ra. Vì có ai biết được điều gì sẽ xảy ra với mình lúc bước chân ra khỏi cửa? Ngày xưa thì có những tấm bùa hộ mệnh hay câu thần chú giúp người ta thoát khỏi ốm đau, tai hoạ. Bây giờ thì có sổ ghi địa chỉ thay cho những thứ ấy. Mà lại hiệu nghiệm hơn nhiều!…
QUAN HỆ HỮU NGHỊ
(Phòng họp của hội đồng bộ trưởng quốc gia Tôracanxi: thủ tướng, bộ trưởng Ngoại giao, đại tướng Tổng tư lệnh, bộ trưởng các vấn đề tôn giáo và tín ngưỡng, cùng nhiều vị khách).
Bộ trưởng ngoại giao:
-Kính thưa ngài thủ tướng, kết thúc bản báo cáo, tôi muốn nhấn mạnh một tình hình đặc biệt nghiêm trọng là vua Hôpantômôla đang tiếp tục các hoạt động khiêu khích chống chúng ta. Tôi vừa được tin cho biết ông ta đang điều quân về các vùng gần biên giới nước ta. Không còn nghi ngờ gì nữa, kẻ thù vĩnh viễn của chúng ta, vua Hôpantômôla, đang có âm mưu đen tối đối với chúng ta. Thủ tướng:
-A! Đồ con lợn! Hắn lại dám dòm ngó nước ta à!!!
Bộ trưởng ngoại giao:
-Vâng, hắn định dòm ngó nước ta.
Thủ tướng:
-Cầu chúa cho hắn mù đi!
Bộ trưởng ngoại giao:
-Cầu chúa cho hắn mù đi!
Thủ tướng:
-Thế ta đã có biện pháp nào đối phó chưa? Ông tổng tư lệnh có thể cho biết ý kiến chăng?
Đại tướng tổng tư lệnh:
-Chúng tôi đã cho củng cố hệ thống phòng thủ dọc biên giới rồi ạ!
-Tốt! Còn làm gì nữa?
Tổng tư lệnh:
-Đồng thời kéo quân đội ở hậu phương lên biên giới ạ!
Thủ tướng:
-Tốt! Còn gì nữa không?
Đại tướng tổng tư lệnh:
-Ngoài ra còn động viên thêm hai lứa tuổi nữa ạ!
Thủ tướng:
-Hay lắm! Còn các biện pháp ngoại giao thì sao nhỉ?
Bộ trưởng ngoại giao:
-Dạ, thưa ngài thủ tướng, ngài cho phép tôi báo cáo. Chúng tôi đang khẩn cấn tìm mọi biện pháp ứng phó. Vua Hôpantômôla…
Thủ tướng:
-Cầu chúa cho hắn bị sụp đổ!
Bộ trưởng các vấn đề tôn giáo và tín ngưỡng:
-A-m-e-n! Xin thánh Insalác cho lão ta chóng về chầu trời!A -men!
Thủ tướng:
-Ông định nói gì về cái thằng sỏ lá ấy thì nói tiếp đi!
Bộ trưởng ngoại giao:
-Dạ, thưa thủ tướng, ba ngày nữa sẽ là ngày vua Hôpantômôla tròn tám mươi tư tuổi.
Thủ tướng:
-Chà! Sao cái thằng già sống dai thế! Hắn không bao giờ nghoẻo được chắc?
Bộ trưởng ngoại giao:
-Theo ý tôi, để giữ đúng thủ tục ngoại giao, ta nên gửi hắn ta một bức điện mừng. Tôi đưa ra đề nghị như thế, xin thủ tướng kính mến, ngài cho biết ý kiến.
Thủ tướng:
-Hay lắm! Làm như vậy là rất kịp thời!
Bộ trưởng ngoại giao:
-Nội dung bức điện đã được thảo xong, tôi xin đọc cho thủ tướng nghe (đọc): Kính gửi Quốc vương Mađragan Đệ Tứ, Quốc vương nước Hôpantômôla, nhân dịp kỉ niệm lần thứ tám mươi tư ngày sinh hạnh phúc của Quốc vương…
Thủ tướng:
-Ngày ra đời bất hạnh thì đúng hơn!
Bộ trưởng các vấn đề tôn giáo và tín ngưỡng:
-Đúng đấy ạ!
Bộ trưởng ngoại giao (đọc tiếp):
-Nhân danh cá nhân và thay mặt quốc gia Tôracanxi mà tôi là thủ tướng, tôi xin chúc mừng Quốc vương nhân sự kiện vui mừng đối với cả hai nước anh em chúng ta này.
Thủ tướng:
-Thêm mấy chữ “tự đáy lòng” thì hay hơn.
Bộ trưởng ngoại giao:
-Dạ!…”Tự đáy lòng tôi xin chúc mừng Quốc vương và nhân dân Hôpantômôla…
Thủ tướng:
-Nên nói thêm là “nhân dân Hôpantômôla anh em”.
Bộ trưởng ngoại giao:
-Dạ, vâng! (đọc tiếp)…nhân dân Hôpantômôla anh em được hạnh phúc muôn đời. Nhân dịp này xin Quốc vương nhận lấy ở tôi những tình cảm tôn kính chân thành nhất. Phônxica. Thủ tướng quốc gia Tôracanxi.
Thủ tướng:
-Tuyệt lắm! Đã xoát lại các lỗi chính tả chưa?
Bộ trưởng ngoại giao:
-Dạ, tôi đã đưa thằng con trai tôi soát lại rồi ạ. Nó thì môn ngữ pháp khá lắm.
Thủ tướng:
-Các dấu chấm phẩy đúng cả đấy chứ?
Bộ trưởng ngoại giao:
-Dạ, đúng cả ạ! Xin ngài yên tâm.
Thủ tướng:
-Được, đưa tôi kí. (kí). Thế nào, ông thấy mấy biện pháp như thế đã đủ chưa?
Bộ trưởng ngoại giao:
-Đủ để đánh quỵ vua Hôpantômôla ấy ạ?
Thủ tướng:
-Phải nói là “tên vua khốn khiếp”.
Bộ trưởng ngoại giao:
-Dạ, vâng, theo tôi, chúng ta đã chuẩn bị xong những biện pháp cần thiết để đối phó với tên vua khốn khiếp ấy!
Thủ tướng:
-Tốt lắm! Tôi rất sung sướng được nghe ông nói như thế!
(Phòng Đại nghị thuộc Hoàng cung nước Hôpantômôla. Vua, bộ trưởng ngoại giao, bộ trưởng quốc phòng, bộ trưởng các vấn đề tôn giáp và tín ngưỡng và nhiều vị khác).
Bộ trưởng ngoại giao:
-A! Quân phản bội! Đồ quái thai nuôi bằng sữa lừa thối!
Bộ trưởng các vấn đề tôn giáo và tín ngưỡng:
-Tâu hoàng thượng, đúng thế ạ!
Vua:
-Ông bảo gì?
Bộ trưởng các vấn đề tôn giáo và tín ngưỡng:
-Tâu hoàng thượng, thần muốn nói đúng như ý hoàng thượng vừa nói ạ!
Vua:
-Thế ta đã có biện pháp gì chưa?
Bộ trưởng ngoại giao:
-Hoàng thượng cho thần được báo cáo: trước hết, thần đã thảo xong thư trả lời điện mừng của thủ tướng Tôracanxi nhân dịp hoàng thượng thọ tám mươi tư tuổi. Hoàng thượng cho phép thần đọc…
Vua:
-Được!
Bộ trưởng ngoại giao:
-Kính gửi ngài Phôxica, thủ tướng quốc gia Tôracanxi. Tôi hết sức cảm động vì bức điện của ngài chúc mừng tôi nhân ngày sinh nhật…
Vua:
-Nên thêm mấy chữ “khả ái”!
Bộ trưởng ngoại giao(đọc):
-…Vì bức điện khả ái của ngài chúc mừng tôi nhân ngày sinh nhật. Hai nước chúng ta…
Vua:
-Nên nói thêm là “hai nước anh em”.
Bộ trưởng ngoại giao:
-…hai nước anh em chúng ta từ lâu đã gắn bó với nhau bởi mối tình hữu nghị keo sơn và do cùng chung số phận. Tôi hy vọng rằng trong tương lai sẽ không có gì có thể làm vẩn đục được tình anh em trong sáng giữa hai nước chúng ta. Nhân dịp hết sức may mắn này tôi lấy làm hân hạnh bày tỏ với ngài, và qua ngài, với nhân dân Tôracanxi, mà ngài là đại diện xuất chúng, lòng biết ơn của tôi.
Vua:
-“Lòng biết ơn sâu sắc”. Phải thêm mấy chữ “sâu sắc” vào! Lòng biết ơn là bao giờ cũng phải sâu sắc!
Bộ trưởng ngoại giao:
-Tâu hoàng thượng, hai tuần nữa là đến kỉ niệm hai mươi năm quốc gia Tôracanxi được giải phóng…
Vua:
-Giá nó đừng bao giờ được giải phóng còn hơn!
Bộ trưởng ngoại giao:
-Nhân dịp này thần đã thảo một bức điện mừng, tâu hoàng thượng!
Vua:
-Thế à? Hay lắm! Trong bức điện, tất nhiên khanh có nói đến những tình cảm “chân thành” của ta, và “công lao to lớn đóng góp cho sự nghiệp hòa bình” của những thằng đểu Tôracanxi ấy chứ?
Bộ trưởng ngoại giao:
-Tâu hoàng thượng, tất nhiên ạ!
Vua:
-Khanh đọc cho ta nghe đoạn cuối xem nào!
Bộ trưởng ngoại giao(đọc):
-Nhân dịp kỉ niệm ngày giải phóng nước Tôracanxi anh em, xin ngài Phôxica rất đỗi kính mến hãy nhận lấy ở tôi và dân tộc tôi những tình cảm chân thành vô hạn…
Vua:
-Thôi, được rồi! Hừm! Cái thằng Phôxaca khốn kiếp ấy mà rơi vào tay thì ta thề sẽ lột da nó ngay lập tức!
Bộ trưởng các vấn đề tôn giáo và tín ngưỡng:
-Cầu đức Ala anh minh chi hắn rơi vào tay hoàng thượng để hoàng thượng lột da hắn. Tất cả những anh em cùng chung tôn giáo chúng thần cầu nguyện như thế.
Vua:
-Tốt! Các khanh cứ tiếp tục cầu nguyện đi! Bây giờ bộ trưởng Quốc phòng, đến lượt khanh cho ý kiến.
Bộ trưởng Quốc phòng:
-Tâu hoàng thượng, thần đã cho lau chùi và bôi mỡ lại súng ống. Hoãn lại tất cả các chuyện nghỉ phép. Suốt tám tháng nay quân đội vẫn trong tình trạng báo động khẩn cấp và đang chờ…
Vua:
-Chờ cái gì?
Bộ trưởng quốc phòng:
-Tâu hoàng thượng, chờ lệnh hoàng thượng ạ!
Vua:
-Tốt lắm! Cứ để họ chờ!
(Phòng họp của hội đồng bộ trưởng quốc gia Tôracanxi thủ tướng. Bộ trưởng ngoại giao. Bộ trưởng nội vụ. Đại tướng tổng tư lệnh và các vị khác)
Thủ tướng:
-Có tin tức gì về kẻ thù của chúng ta không?
Đại tướng tổng tư lệnh:
-Thưa thủ tướng, rất tiếc là chưa có tin tức gì đáng mừng cả. Vua Hôpantômôla lại vừa ra lệnh động viên ba lứa tuổi.
Thủ tướng:
-Hừm! Đồ súc sinh khốn nạn! Ta mà bắt được hắn thì ta phải moi gan hắn ra mới được!
Bộ trưởng các vấn đề tôn giáo và tín ngưỡng:
-Inxalắc! Amen!
Thủ tướng:
-Thôi được. Thế các ông đã có biện pháp gì chưa?
Đại tướng tổng tư lệnh:
-Dạ, chúng tôi đã dự định…
Thủ tướng:
-Tôi không hỏi các biện pháp quân sự! Những chuyên gia quân sự các ông tất nhiên phải lo tất cả mọi chuyện đó rồi! Tôi hỏi là hỏi các biện pháp ngoại giao kia!
Bộ trưởng ngoại giao:
-Thưa thủ tướng, quan hệ giữa nước ta với nước họ quả là quan hệ đặc biệt thân thiện. Như ngài đã biết,riêng trong tháng trước, ta và họ đã trao đổi với nhau tất cả chín thông điệp ngoại giao tất cả.
Thủ tướng:
-Rất tốt!
Bộ trưởng ngoại giao:
-Mới đây ta vừa gửi điện mừng nhân lễ thành hôn của con trai vua Hôpantômôla.
Thủ tướng:
-Tốt lắm! Còn gì nữa?
Bộ trưởng ngoại giao:
-Và một bức điện nữa nhân kỷ niệm ngày vua Hôpantômôla đăng quang.
Thủ tướng:
-Tốt! Ước gì cái ngai vàng của con chó già ấy đổ mẹ nó đi, cho nó vỡ sọ ra!
Bộ trưởng các vấn đề tôn giáo và tín ngưỡng:
-Amen!
Thủ tướng:
-Thôi được rồi. Thế sắp tới ông còn định làm gì nữa không?
Bộ trưởng ngoại giao:
-Thưa thủ tướng, tôi đang nghĩ, nhưng chưa tìm được cớ gì cả.
Thủ tướng:
-Đáng lẽ ông phải tìm được rồi mới phải! Nhiệm vụ chính của bộ ngoại giao các ông là phải luôn luôn tìm được những cớ mới.
Bộ trưởng ngoại giao:
-Dạ thưa thủ tướng, tất nhiên là như thế. Nhưng xin thủ tướng lưu ý cho là từ hôm ấy đến nay tôi đã tìm được khá nhiều cớ hay đấy chứ, phải không ạ?
Thủ tướng:
-Nhưng kẻ thù của chúng ta có chịu ngồi yên đâu! Mới vừa đây thôi, nhân ngày bà nhạc tôi mất, lão vua Hôpantômôla đã gửi cho tôi một bức điện chia buồn. Hắn đã khéo kiếm cớ để tỏ tình thân thiện. Cái thằng chó đẻ ấy không từ cả cái chết của bà nhạc tôi để sử dụng vào các mục đích chính trị của hắn.
Đại tướng tổng tư lệnh:
-Và vào đúng hôm hắn gửi cho ngài bức điện ấy, thì ba chiếc máy bay của vua Hôpantômôla đã xâm phạm lãnh địa của ta.
Bộ trưởng ngoại giao:
-Còn đúng hôm ta gửi cho vua Hôpantômôla điện mừng nhân dịp sinh nhật đứa cháu nội hắn, thì quân lính của hắn đã tóm gọn một toán biệt kích của ta.
Thủ tướng:
-Lần cuối cùng ta gửi cho vua Hôpantômôla thông điệp tỏ rõ tình thân thiện là khi nào nhỉ?
Bộ trưởng ngoại giao:
-Thưa, cách đây chưa đầy hai tuần ạ!
Thủ tướng:
-Ồ, thế thì không được! Lâu quá không có thông điệp hữu nghị như thế là không nên. Có thể gây ra những mối nghi ngờ. Bộ Ngoại giao các ông ngủ gật cả rồi hay sao vậy? Phải tìm ra một cái cớ gì để gửi điện đi chứ! Nào, các ông! Ta hãy cùng suy nghĩ xem có cớ gì không nào? Tỉ dụ như là…
Đại tướng tổng tư lệnh(đi đi lại lại):
-Tỉ dụ như là…Tỉ dụ như là…Tỉ dụ như là…
Bộ trưởng ngoại giao:Tỉ dụ như là…Tỉ dụ như là…Tỉ dụ như là…Tỉ dụ như là…Tỉ như là…Tỉ như là…Tỉ như là…Tỉ là…Như là…Như là…
Thủ tướng:
-À, tôi nghĩ ra rồi! Nhân dịp kỉ niệm một năm ngày kí hiệp định thương mại giữa ta và vương quốc Hôpantômôla!
Bộ trưởng ngoại giao:
-Nhưng thưa thủ tướng, mới có tám tháng chứ đã được một năm đâu ạ!
Thủ tướng:
-Ồ, việc quái gì!…Thì ta nói là nhân dịp tám tháng ngày kí hiệp định thương mại, chúng tôi xin bày tỏ tình cảm chân thành của chúng tôi, vân vân…
Đại tướng tổng tư lệnh:
-Đồng thời ta phải tung thêm xe tăng lên biên giới…
Thủ tướng:
-Tất nhiên rồi! Gửi điện xong là phải tung xe tăng và các đơn vị dự trữ khác lên biên giới ngay! Chà! Chỉ mong sao tóm được tên vua Hôpantômôla để ta xé xác hắn ra, đồ súc sinh hèn mạt! Nhưng thôi, ta vẫn cứ phải gửi thêm cho hắn một bức điện nữa. Các ông tìm cớ đi! Cớ, cớ, cớ…!
Tất cả (đi đi lại lại):
Bộ trưởng canh nông:
-À! Tôi nghĩ ra rồi! Vương quốc Hôpantômôla vừa bị một trận hạn hán khủng khiếp. Mãi tuần vừa rồi mới có mưa!
Thủ tướng:
-Lạy giời cho mưa làm lụt mẹ cả nước chúng nó chết hết đi! Cho cả thằng vua bỉ ổi ấy trôi luôn đi rồi!.
Bộ trưởng canh nông:
-Chúng ta sẽ gửi điện mừng nhân dịp trận mưa cứu tinh này…
Thủ tướng:
-Đúng, đúng! Ông viết đi:”Kính gửi Quốc vương Hôpantômôla Mađragan Đệ tứ. Tôi xin bày tỏ với Quốc vương lòng sung sướng vô hạn của chúng tôi khi được tin, sau một thời gian hạn hán kéo dài, những trận mưa vàng bạc đã bắt đầu rơi trên mảnh đất châu báu Hôpantômôla anh em thân thiết. Nhân dịp này xin Quốc vương nhận lấy…”
(Phòng Đại nghị của Hoàng cung nước Hôpantômôla. Vua, bộ trưởng ngoại giao, bộ trưởng canh nông, bộ trưởng quốc phòng và các vị khác)
Bộ trưởng quốc phòng:
-Tâu hoàng thượng, tin tức mà thần đã báo cáo với hoàng thượng đều là đúng sự thật. Nó ăn khớp với những tin tức tình báo của ta ở Tôracanxi gửi về. Không nghi ngờ một chút nào nữa, thủ tướng Tôracanxi đang xúc tiến những âm mưu rất nham hiểm chống lại chúng ta.
Vua:
-Chà! Đồ nhãi ranh! Cầu chúa cho ta tóm cổ được cái thằng chó đẻ này! Ta thề sẽ không là vua Hôpantômôla Mađragan Đệ tứ nữa, nếu ta không làm cho mẹ nó phải rơi nước mắt! Thế các ông định đối phó ra sao?
Bộ trưởng quốc phòng:
-Tâu hoàng thượng! Cách phòng thủ tốt nhất là tấn công. Nên chúng ta phải đề phòng trước cuộc tấn công của chúng…
Vua:
-Ta muốn hỏi các biện pháp ngoại giao kia!
Bộ trưởng ngoại giao:
-Tâu hoàng thượng! Chúng thần đang suy nghĩ ạ!
Vua:
-Suy nghĩ ư?
Tất cả đồng thanh:
-Tâu hoàng thượng vâng, đang suy nghĩ ạ! Nào chúng ta thử suy nghĩ xem nào…
Bộ trưởng ngoại giao:
-Tâu hoàng thượng, thần đã nghĩ xong phần chính của bức thư rồi ạ!
Bộ trưởng ngoại giao:
-Tâu hoàng thượng, vâng! (đọc thuộc lòng):”Thưa ngài thủ tướng Phôxica kính mến! Nhân dịp…gì đó, nhân danh cá nhân và thay mặt muôn dân Hôpantômôla, một lần nữa tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc nhất của tôi đối với nhân dân Tôracanxi anh em chí thiết vì tấm lòng hào hiệp đáng quí, và nhân dịp này…”
Vua:
-Dịp này là dịp gì? Phải tìm ra cớ mới được chứ!
Tất cả đồng thanh:
-Cớ, cớ, cớ…
Vua:
-Ông bộ trưởng ngoại giao thử nghỉ ra một cớ gì cho hợp xem nào! Nhân dịp gì được nhỉ? Hay là nhân dịp năm mới có được không?
Bộ trưởng ngoại giao:
-Nhân dịp năm mới ta đã có điện mừng rồi, tâu hoàng thượng! Rồi nhân dịp đứa con trai út của thủ tướng mọc răng, rồi cả dịp Quốc khánh nữa, ta cũng đều có gửi điện. Nói chung là ta sử dụng hết mọi cớ rồi, tâu hoàng thượng!
Vua:
-Chà! Không biết bao giờ ta mới tóm cổ được cái thằng đểu cán ấy! Tại sao các âm mưu của ta cứ bị thất bại và cái thằng chó chết ấy cứ sống nhăn răng ra thế nhỉ? Ông bộ trưởng ngoại giao đâu rồi? Tìm cớ nhanh lên chứ, không ta cách chức ông bây giờ!
Bộ trưởng canh nông:
-Thần nghĩ ra kế rồi, tâu hoàng thượng! Theo tin tức mà bộ thần vừa nhận được thì vụ dưa chuột đầu tiên trong năm ở Tôracanxi đã bắt đầu chín. Nhân dịp này thủ tướng Tôracanxi đã đọc một bài diễn văn quan trọng…
Bộ trưởng ngoại giao:
-Thế thì ta có thể gửi điện mừng được rồi!
Vua:
-Điện thế nào, thử đọc ta nghe!
Bộ trưởng ngoại giao:
-“Thưa ngài Phôxica, thủ tướng Tôracanxi kính mến! Nhân dịp ở nước Tôracanxi anh em và thân thiết, đất nước đã gắn bó với chúng tôi bởi số phận lịch sử chung, những cánh đồng dưa chuột đầu tiên đã bắt đầu chín, tôi lấy làm vô cùng hân hạnh được gửi tới ngài thủ tướng kính mến mà ngài là đại diện xứng đáng nhất, những lời chúc mừng chân thành và nồng nhiệt…”
Vua:
-Sau khi gửi bức điện này đi, phải ra lệnh chi quân lính tấn công ngay lập tức!
Bộ trưởng quốc phòng:
-Dạ, tâu hoàng thượng. Nhưng thần lo không khéo chúng ta lại bị tấn công trước!
Vừa lúc đó có những tiếng nổ rất lớn: Ùng! Oàng! Ùng! Oàng!
Vua:
-Quái! Tiếng gì thế nhỉ?
Bộ trưởng quốc phòng:
-Tâu hoàng thượng, không kịp rồi! Bọn chúng đã bắt đầu tấn công! Vừa rồi là tiếng súng của bọn chúng đấy ạ!
Vua:
-Mẹ chúng nó chứ!
-Điện!…Điện!…Gửi điện ngay!
Bộ trưởng ngoại giao:
-“Tôi xin thông báo…để ngài biết rằng tôi lấy làm vô cùng xúc động…Khi được tin quân lính của ngài…đã bắt đầu tấn công chúng tôi. Nhân dịp này, xin ngài hãy nhận lấy ở chúng tôi lòng biết..biết…ơn…ơn…ơn..sâu…sắc…n hất…”.
MAY TÔI LÀ NGƯỜI CÓ GIÁO DỤC
- Ái, đồ mất dạy!
Tôi không hiểu tại sao bỗng dưng người phụ nữ này lại chửi tôi. Tôi đã định hỏi: “Xin lỗi, tôi đã làm điều gì không phải với bà?”, nhưng rồi lại thôi.
– Lại còn nhìn nữa! May tôi là người có giáo dục, chứ không tôi đã cho anh biết tay.
Chiếc xe buýt chật ních khách. Mọi người đổ dồn nhìn chúng tôi. Tôi quyết định tốt nhất là im lặng. Nhưng người phụ nữ vẫn không chịu thôi:
– Đồ đểu cáng!… Đồ thô lỗ!… Tất nhiên loại người như hắn làm sao có giáo dục được! Trông biết ngay là loại con nhà như thế nào!
Chừng hai lần tôi định mở mồm nói: “Thưa bà, xin bà hãy bình tĩnh!”. Nhưng tôi lại nhịn.
– Muốn vả cho cái tát vào mõm anh! Giá tôi khônng phải người có giáo dục, tôi đã cho anh biết.
Có những lời trách mắng:
– Thật xấu hổ! Chả lẽ có thể làm chuyện đó với phụ nữ?
– Thế hắn làm gì vậy?
– Chắc là cấu véo người ta.
– Hay là hắn dẵm lên chân bà ấy?
– Biết đâu được, có thể hắn sờ soạng cũng nên.
Giá ôtô buýt dừng lại, tôi sẽ nhảy xuống ngay. Còn người phụ nữ thì cứ tiếp tục liến thoắng như bắn liên thanh:
– Đồ không biết ngượng! Không biết lịch sự là gì! Mà làm sao hắn biết danh dự người đàn bà là thế nào! Tiếc là học thức không cho phép. Nếu không mình đã cho hắn bài học!
Thật là tai vạ! Giá bảo tôi có làm chuyện gì cơ. Đằng này tôi đứng không nhúc nhịch, một ngón tay cũng không đụng vào bà ta. Mà giả dụ có đụng phải đi nữa thì bà ta cũng phải hiểu rằng không phải lỗi tại tôi chứ! Ô tô đông thế này cơ mà!
– Đồ dâm đãng hèn hạ! May cho hắn gặp phải mình là người có giáo dục. Nếu không thì cứ gọi là…
Tôi vã cả mồ hôi.
– Bọn đê tiện này cố tình lên những xe buýt đông người…May cho hắn, mình là người đàn bà có giáo dục.
Tôi cảm thấy không thể nào nhịn được nữa. Ở địa vị tôi có đá cũng phải nổ tung chứ đừng nói.
– May cho mi, ta là người có giáo dục. Nếu không ta đã rạch mồm mi rách đến tận tai.
Trong đám đông không một ai lên tiếng bênh vực tôi. Ai cũng đứng về phía bà ta:
– Chắc hắn lại giở trò sờ soạng!
– Dù gì đi nữa bà ta cũng đúng!
– Thật quá đáng! Phải biết mức độ chứ!
Lẽ ra cuối cùng phải thôi đi, nhưng người phụ nữ kia vẫn càng chu chéo dữ hơn. bà ta cứ hét lên:
– Ái, đồ đểu! Ái, đồ đê tiện! Nếu mày thèm muốn đến thế thì tao sẽ chỉ cho mày cái chỗ để đến đó mà…Mày hiểu chưa? Mình xin thề, nếu quả mình là người không có giáo dục, nhất định mình sẽ…
Thế này thì không thể chịu được nữa rồi! Tôi dùng khuỷu tay rẽ mấy người bên cạnh, tiến sát đến người phụ nữ và nắm lấy tay bà ta:
– Thưa bà, – tôi nói – xin bà làm ơn nói rõ cho tôi biết, tôi đã làm gì bà?
Người phụ nữ bỗng cười sằng sặc:

– Ới mọi người ơi! Hãy nhìn cái lão đầu hói đáng thương này xem này! Lão ta cũng tự cho mình là đàn ông đấy! Nhà ông ở đâu ra thế hả? Nhà ông mà cũng đòi làm đàn ông à? Chả lẽ ta nói về nhà ông ư? Thật đúng là vô duyên! hãy xéo cùng với cái ghẻ lở của nhà ông đi! Không ai nói gì về nhà ông cả. ta nói là nói chàng thanh niên cao to dễ thương kia chứ! Đồ vô duyên!
Chiếc ôtô buýt dừng lại trên quảng trường Takxin. Tôi không nhớ tôi đã nhảy xuống xe như thế nào. Người phụ nữ nọ thì vẫn tiếp tục lải nhải:
– Lão khọm già vô duyên! Hắn lại dám nghĩ là mình nói về hắn…Tiếc mình là người có giáo dục, chứ không mình đã cho lão một trận!
Thật không còn gì tồi tệ hơn lứa tuổi của tôi. Đến cả phụ nữ cũng không thèm chửi nữa…
NHỮNG NGƯỜI HÂM MỘ
Chỗ trống trên xe điện chỉ có ở ngay từ đầu lộ trình. Tôi lên xe ở trạm Mêgiđi. Chưa tới Sixli mà xe đã chật cứng, hành khách đứng ở cả bậc lên xuống và bám vào ô cửa sổ. Bên trong thì khỏi phải nói rồi! Có đi mới biết thế nào là xe điện!
Còn hành khách thì làm gì? Có một người đọc báo, người ngồi kế bên ráng nheo nheo mắt đọc ké. Anh chàng thanh niên ngồi phía sau vươn dài cổ, hệt như chú hươu cao cổ, để ngó phần tin thể thao. Đột nhiên chàng ta phẫn nộ kêu lên:
-Chó má thiệt! Thế là “Phênec” bại rồi!
Chủ nhân tờ báo, một người gù lưng, quay phắt lại nhìn anh chàng gầy gò, mặt đang tái đi, với vẻ khinh bỉ rồi nói, giọng khich bác:
-Thế nhà anh tưởng là nó thắng à?
Ngồi bên người lưng gù, gã thanh niên to béo như con hải cẩu vừa thở hổn hển vừa xen vào:
-Ngay cả Saban mà là trung phong thì “Phênec” vẫn cứ thua thôi!
Một thanh niên khác, má hóp, hăng hái ủng hộ gã mập:
-Phải đấy, Agabay ạ, đúng lắm! Cách “Bêsictax” của chúng ta chơi cứ như là bầy sư tử ấy!
Một thiếu phụ ăn mặc lịch sự, buộc miệng:
-Bọn “Bêsictax” của các anh là thứ cặn bã!
Một giọng con nít lanh lảnh lập tức vang lên:
– Chính bà là thứ cặn bã đấy!
Loáng một cái bầu không khí đã trở nên căng thẳng khiến toa xe điện giống như nghị viện lúc có cuộc tranh cãi của nhóm đối lập với đảng cầm quyền. Dường như sắp phải sử dụng quả đấm thì trước mắt đám người đang cãi lộn thấy lấp lóa ánh đèn.
Người bán vé tàu tham gia vào cuộc tranh cãi:
-Tất cả là do đâu? Do Habip chơi ở hàng phòng ngự. Chứ Habip mà lên tấn công thì “Phênec” đã thắng mấy bàn rồi.
Vị hành khách béo tốt nói lí nhí:
-Đừng có nói vớ vẩn! Đến mười Habip cũng chả làm ăn gì được đâu. Dù thế nào thì “Phênec” thua vẫn hoàn thua thôi!
-Thế ông đã trông thấy Habip sút bóng như thế nào chưa? – Người gù lưng, chủ tờ báo, trợ lực cho người bán vé – Tôi không bao giờ quên được cái trận tranh giải vô địch toàn quốc hai năm về trước. Habip từ giữa sân sút bóng bay thẳng vào lưới đối phương. S-ú-t-t! Thế là vào!
Một hành khách đáp lại bằng cách cho tay lên miệng và phát ra một âm thanh đặc biệt rồi nói:
-Ê này, ông bạn nói bậy rồi đó. Phải có chừng mực chứ.
Vị hành khách cụt tay ngồi phía trước đứng phắt dậy, lách tới chỗ đám người cãi nhau và làm bộ như một diễn giả phe đối lập bị người ta bịt miệng không cho nói:
-Hãy cảm tạ đức Ala vì Người đã nổi gió! Chứ nếu không có gió thì…
-Gió nào nào? Có Giaphe tạo ra gió ấy. Anh ta như cơn lốc lao về phía cánh phải.
-Thế còn Habip thì sao? Habip có ba con rồi mà vẫn chỵ như bay trên sân như ngựa vía ấy.
-Habip có hai con chứ không phải ba.
Người bán vé không nén được, cướp lời:
-Nhà anh nói gì? Anh ta có ba con, hai trai một gái.
-Láo toét cả! Chiều nào mà tôi và Habip chả đi nhậu ở tiệm “Trintric”.
-Hắn dám nói với tôi về chuyện Habip hả? Tôi với anh ta cùng chơi trong đội trẻ ở Tactacal suốt ba năm trời.
Thêm một hành khách nữa nhập cuộc:
-Cả hai anh đều nhầm rồi. Đấy không phải là con anh ta.
-Này, cậu bé kia nói gì thế? – Một ông già móm mém hỏi.
-Tôi mà là cậu bé của ông à? Ông thử nghĩ coi ông vừa nói gì nào?
-Có gì mà anh phải nổi giận lên thế? Lão nói thân tình với anh mà anh lại đi gây với lão – Ông già phều phào – Anh định nói gì về lũ con của Habip thế?
-Đó chẳng phải con của Habip mà là con riêng của vợ anh ta, con người chồng trước.
Trong khi người bán vé và một phần hành khách mãi tranh cãi nhau về số lượng con của Habip và luận giải xem chúng là con của ai thì ở cuối toa nổ ra một cuộc cãi cọ nảy lửa khác.
-Nếu ở hiệp hai Dunphi mà không bị đốn ngã thì anh ta đã tỏ rõ tài nghệ rồi.
-Thế anh không biết Muctax à? Phải, phải, Muctax ấy! Anh ta trị gái gấp năm chục lần Dunphi của anh đấy.
-Anh xéo đi với cái gã Muctax của anh! Trông kìa, đứng có chết vì uất nhé!
-Sao mày, muốn vỡ hàm hả?
-Này, hãy cẩn thận đấy!
-Cứ thử coi!
Tàu chạy đến Tacxim – trạm đỗ thường có đông người lên tàu. Người bán vé tiếp tục cãi cho bằng được chuyện Habip có ba con, chẳng những quên không bán vé mà còn quên phứt mình chính là nhân viên bán vé. Miệng ông ta không còn tới nửa hàm răng nên cứ phun nước miếng vào hành khách:
-Nếu tôi không biết Habip có ba con thì ai là người biết nào?
-Chuyện tức cười thiệt!
Trong đám cãi nhau có một người định lách ra phía cửa nhưng anh ta không tài nào nhúc nhích được.
-Kìa, đứng yên nào! Đừng có chen lấn thế! Ta bảo bỏ tay ra mà!
-Cứ lách đại đi!Để cho anh thanh niên này ra đi nào!
Hành khách chia thành từng nhóm, tiếp tục cãi lộn, chửi mắng nhau.
Một người đã luống tuổi, cổ rụt chư cổ rùa, tay run run, la những người đang cãi nhau:
-Các người không còn lương tâm, không còn biết mắc cỡ là gì nữa hả?
Tôi bụng bảo dạ:”Ông già này chắc dẹp được họ đây”. Nào ngờ ông ta lại tiếp:
-Mọi chuyện là do trọng tài hết!
Một chú bé chừng 13-14 tuổi, lên tàu từ trạm Megiđiecôê quay sang phía ông già:
-Bố ơi, trọng tài Bakhơ đẳng cấp quốc tế đấy.
-Ai chả biết hắn thành trọng tài như thế nào rồi. Ta biết hết điều bí ẩn của hắn. Cha ta vào đảng Dân chủ thì cũng thành trọng tài quốc tế rồi.
-Ôi chà, chuyện coi mói tới chỗ nghiêm trọng rồi đó.
Một giọng trầm trầm cất lên:
-Thôi, đứng lại! Trường đại học và tàu điện không phải là chỗ để bàn tới chuyện chính trị. Lái xe! Ông lái xe! Người anh em coi kìa, người ta bàn chuyện chính trị trong tàu điện của ông đây nè! Dừng lại cho tôi xuống! Kẻo lại mang tội bây giờ.
-Ai bàn chuyện chính trị đó?
-Ông vừa nhắc đến đảng Dan chủ phải không?
-Cứ tạm cho là tôi, thế thì sao nào?
-Còn sao nữa, nhắc tới đảng Dân chủ là chuyện chính trị rồi.
-Các ngài ơi, không nên lẫn lộn chuyện thể thao với chính trị.
Ông già đã kịp rầy chú bé:
-Lúc mày còn chưa nằm trong bụng mẹ thì tao đã là cầu thủ dự bị đá cho đội một của câu lạc bộ trẻ “Aivanxarai” rồi. Hiểu không, đồ ngốc?
-Hiểu rồi ạ!
Tàu điện dừng ở quảng trường Galataxarai. Người bán vé còn chưa thôi nói về bầy con của Habip. Sau cùng đến lượt người lái xe cũng không nhịn được, bước xuống phía cuối toa tàu. Tôi tưởng ông ta sẽ la người bán vé:”Ê, bắt tay vào phận sự đi chứ!” Ai dè ông ta lại hỏi:
-Ở đây ai ủng hộ đội “Phênecbactrê”?
Một hành khách đáp ngay:
-Thì sao nào? Ông không thích à? Chính tôi ủng hộ đội “Phênecbactrê” đây!
Người lái xe giận sôi lên:
-Ta không chở cổ động viên của đội “Phênecbactrê”. Xuống đi!
-Chính ta cũng không muốn đi trên tàu mà người lái lại cổ động cho đội “Bêsictax”. – Vị khách vừa nói vừa lẻn ra phía cửa.
Tới trạm Têpebax, kiểm soát viên bước lên tàu. Tôi tự nhủ: “Bác bán vé chắc chết quá! Suốt từ đầu trạm Megiđiecôê tới đây bác ta có bán được vé nào đâu!”
Một hành khách xuống nước:
-Được rồi! Chúng ta công nhận là “Bêsictax” thắng “Phênecbactrê”, song trận đấu thô bạo quá.
-Tầm bậy! – Người lái xe quát lên.
Người khách cổ động cho đội “Phênecbactrê” sợ bị đuổi xuống, vội núp sau lưng người đàn ông béo phị.
Người bán vé vẫn khăng khăng:
-Habip có ba con. Tất cả đều là con đẻ của anh ta. Không thì sét đánh chết ta ngay tại chỗ này!
-Lạy đức Ala, ông hãy cho biết đích mắt ông đã trông thấy Habip bao giờ chưa?
-Theo anh thì ta là kẻ dối trá hử? Các ngài hãy làm chứng nhé. Tôi bị xúc phạm ở chỗ công cộng! Ta sẽ đưa ngươi ra tòa!
-Chuyện gì thế? -Kiểm soát viên hỏi.
-“Phênecbactrê” thắng “Bêsictax” tới năm chục lần, chỉ thua có mười lần tất cả. Ấy thế mà cái đồ cặn bã này lại muốn chứng minh là…
Hóa ra kiểm soát viên cũng là người hâm mộ đội “Phênecbactrê”. Cả người lái xe và kiểm soát viên đều bị cuốn vào cơn đam mê thể thao của mình.
Người lái xe la lên:
-Sao, anh định dọa phạt bọn ta à? Cứ mà biên phạt đi! Bọn ta sẽ nộp phạt nhưng không chịu thua đâu! “Bêsictax” muôn năm!…
Người bán vé đập cái túi của ông ta lên đầu một hành khách. Ông già vừa nắm cặp sách vừa nắm gáy chú bé. Kiểm soát viên túm chặt khăn quàng cổ một cổ động viên của đội “Bêsictax”. Vừa tầm cảnh sát ập đến.
-Chuyện gì xảy ra ở đây? -Một viên cảnh sát hỏi kiểm soát viên.
-À người ta bảo là bàn thắng thứ hai của “Phênecbactrê” sút ở tư thế việt vị.
-Thằng ngốc nào nói thế hử? – Viên cảnh sát nổi đóa lên.
-Nếu không việt vị thì cũng là chạm tay! – Một người đứng tít phía trong la lên.
Trong số cảnh sát lại có người hâm mộ đội “Galataxarai”.
-Thế thì về đồn hết!
Tất cả bị đưa vào đồn.
Viên thanh tra cảnh sát hỏi tôi:
-Anh ở phía nào?
-Tôi ở Ecdêrum.
-Ồ không, anh ủng hộ đội nào?
-Không ủng hộ đội nào cả.
-Đức Ala cao cả! Anh có chân trong câu lạc bộ nào?
Tôi hiểu là cần phải xướng lên tên một câu lạc bộ nào đó. Nhưng mà không biết quý ngài thanh tra này ủng hộ đội nào, tôi bèn nói hú họa:
-“Phênecbactrê”
-Hay lắm! Đứng sang đây!
Viên thanh tra cảnh sát chia tất cả hành khách ra thành từng tốp, tùy theo đơn vị câu lạc bộ họ ủng hộ. Sau đó ông ta mới quay về phía đám người cãi cọ:
-Nào, bay giờ các người hãy cho biết đã xảy ra chuyện gì vậy?
Người hành khách có vết bầm dưới mắt bắt đầu:
-Thưa ngài thanh tra, tôi lên tàu điện ở trạm Mêgiđiecôê. Tôi đi làm. Tôi phải xuống trạm Tacxim.
-Thế sao anh không xuống?
-Làm sao tôi xuống cho được? Người ta nói về chuyện thể thao, thế là tôi bị cuốn hút vô đó. Cái ông này nói rằng Madium của đội “Phênecbactrê” đã tự ý rời sân cỏ. Đội “Besictax” tính chuyện kháng nghị liên đoàn bóng đá…
Viên thanh tra cảnh sát dẫy lên như bị phỏng:
-Anh dám nói về Madium như thế hả…?
Thừa lúc không ai để ý, tôi lén rút khỏi đồn cảnh sát.
Dân tộc ta rất yêu chuộng thể thao. Như vậy đấy!…
“Phênec”: gọi tắt tên đội bóng “Phênecbactrê” danh tiếng của thành phố Xtămbun
Agabay: tiếng dùng để tỏ ý kính trọng với người trên.
“Bêsictax”: một đội bóng danh tiếng khác ở Xtămbun
“Galatasarai”: một đội bóng nổi tiếng ở Xtămbun.
CHỈ TẠI TRỜI MƯA
Tôi mở vòi ra – nước không chảy.
– Sao không có nước nhỉ? – Tôi kêu to hỏi vợ.
– Hễ trời mưa thì nước máy nghỉ! – Vợ tôi kêu to trả lời.
Phải đấy, dân Xtămbun ai cũng biết rõ: hễ trời lộp độp mưa là đường ống nước thành phố hỏng mấy tiếng đồng hồ liền, người ta bảo rằng ống nước bị bẩn, và chúng tôi đành ngồi khô với nhau.
Nhưng sáng hôm đó trời nắng.
– Mưa bao giờ nhỉ? Tôi lại hỏi.
– Cách đây một lúc lâu cũng có mấy hạt mưa đấy.
– Một lúc lâu là bao giờ?
– Làm gì có mưa. Thằng con tôi nói.
– Không, cũng có ít chút – đứa con gái tôi cãi.
Thế là tranh luận ầm ĩ: mưa hay không mưa.
– Nếu không mưa thì hẳn đã có nước máy – mẹ hai đứa ngắt đôi câu chuyện.
Nhưng cái lý do chết người ấy cũng không làm chúng nó im tiếng.
Tôi bước ra ban công.
– Có mưa không ấy nhỉ? – Tôi hỏi ông hàng xóm trước mặt.
Từ ban công đối diện, một người mặc Pigiama lớn tiếng:
– Tôi không để ý, nhưng chắc là có…
Bốc phét! Trên đời này vẫn có khối kẻ như vậy!
– Không để ý mà bác lại nghĩ rằng có? Tôi giận dữ hỏi.
– Cái đài nhiễu quá, vì thế tôi mới kết luận… – Ông ta đáp – Ông cứ mở đài ra nghe mà xem.
– Không, không có mưa đâu – một ông hàng xóm khác tuyên bố khi thấy chúng tôi lời qua tiếng lại.
Tôi vào phòng mở đài. Quả là có nhiều tiếng rè, tiếng xoẹt. Đó là điều vẫn từng thấy mỗi khi mưa xuống.
Ông hàng xóm tầng dưới lúc nãy bảo không mưa, bỗng kêu:
– Có mưa, có mưa!
– Sao tự nhiên ông lại nghĩ thế? – tôi hỏi..
– Hơi đốt bị cắt, hiển nhiên là…vì mưa – ông ấy đáp.
Bây giờ thì không còn nghi ngờ gì nữa là có mưa thật dù không hề ngó thấy.
– Lạy thánh Ala, xin ngài cho mưa nhỏ thôi, kẻo điện cũng mất – vợ tôi vừa nói xong thì đèn tắt phụt.
Tôi chạy đến máy điện thoại, nhấc ống, quay số tòa báo và nghe thấy một giọng khản đặc: “A-lô!”.
Tôi biết mình quay nhầm số, bèn xin lỗi.
– Việc gì phải xin lỗi, thưa ngài – vẫn cái giọng khản đặc từ đầu kia đáp – Chỉ cần mấy hạy mưa là đường dây điện thoại cứ loạn cả lên. Lúc nãy suốt mười phút tôi phải nói chuyện với mụ chủ nhà chứa mà cứ yên chí là nói chuyện với mẹ mình. Ngài thế là còn may lắm đấy – Rồi ông ta cười khì khì.
Gần một nửa tiếng tôi quay máy nói chuyện với bao nhiêu người lạ, cuối cùng mới gọi được đến tòa báo.
– Các anh đang làm gì đấy? – tôi hỏi.
– Tai họa! Một người đáp.
– Tai họa gì?
– Nhà dột, nước sối ào ào…Văn phòng biến thành hồ nước.
– Nghe đây, anh ba hoa gì thế? Trên đầu văn phòng chúng ta còn 4 tầng nhà nữa cơ mà…
– Chính thế…Cả 4 tầng nhà đổ nước xuống…
– Đằng ấy mưa to đến thế kia à?
– Hẳn là thế, người ta bảo mưa, nhưng tôi thì không nhìn thấy thực mục.
Tôi nổi cáu ném ống nghe xuống.
– Bưu điện đưa báo mới chưa?
– Nếu mưa to thì họ đã nghỉ hẳn…
Chán nản cực kì, tôi đi ra phố, chờ mãi, chờ mãi – Ô tô buýt không có. Ngoài bến mọi người bắt đầu càu nhàu:
– Mưa bao giờ mà xe buýt lại đến chậm thế nhỉ?
– Lắc rắc mấy hạt. Tôi có nom thấy…
– Mưa chưa dính áo ấy mà…
Mặt trời đổ lửa trên đầu. Cuối cùng xe buýt cũng đến. Người xô lên như nêm cối.
Tàu thủy cập bến sông chậm hai mươi phút. Một ông khách đứng bên tôi đọc báo.
– Tướng Mỹ Becđingơ Uôn sang nước Thổ ta…-Ông ta nói với người bạn.
– Thế hử?
– Tướng Mỹ tuyên bố với các nhà báo “Nước Thổ sẽ chống được mọi cuộc ngoại xâm”.
Ông bạn đối diện xì ra một tiếng gì rất lạ rồi cười phá lên. Ông bạn hỏi ông ta:
– Ông cười gì?
– Người ta hơi đâu mà ném bom chúng ta? Cứ rót hai cốc nước xuống Xtămbun là cuộc sống ngừng lại.
Tôi vốn là người rất mẫn cảm khi có ai đó đụng đến danh dự tổ quốc, vì thế tôi phải đứng ngay dậy để bước lên boong để tránh khỏi phải cho tên vô lại bẩn mồm kia một cái tát tai.
Tôi đến tòa soạn. Hôm nay sao mọi việc cứ lộn ẩu lên. Đáng lẽ mười một giờ thì đến mười bảy giờ công văn mới đến. Cô thư ký mất mặt không thấy đâu. Thang máy không làm việc. Người đưa cà phê thì trượt chân ngã ở cầu thang. Còn vợ tôi thì gọi điện đến bảo tôi phải về sớm có khách.
Tôi cố gắng về sớm mà không được. Cơn đau khớp của tôi nổi lên khiến tôi không bước được bước nào. Đó là điềm báo mây đen bắt đầu xuất hiện.
Tuy thế tôi vẫn ra được đến bến tàu thủy. Cả bến tàu trang trí bao nhiêu là cờ các màu các cỡ…Cờ thế này là nghĩa gì? Hay thật…Hôm nay không phải ngày giải phóng Xtămbun, không phải ngày độc lập, cũng không phải ngày hội Chiến thắng. Chả là ngày gì cả, chỉ là một ngày rất bình thường thôi.
Tôi hỏi người bán vé, anh ta nhún vai.
– Ông hỏi vì sao treo cờ ấy à? Tôi không biết…Nhưng tôi xin hỏi ông hôm nay là ngày lễ gì?
Tôi hỏi anh thợ kéo tàu. Anh ta cũng ngạc nhiên vì sao lại có cờ quạt…
– Chắc hẳn có một ông khách ngoại quốc tầm cỡ bự?
– Có thấy báo nào đưa tin đâu.. – Tôi trả lời.
Giám đốc cảng cũng không biết gì. Trí tò mò của tôi sôi lên khiến tôi không sao ép mình rời xa bến cảng được. Tôi chạy ngược chạy xuôi, hỏi hết người này người kia sự thể ra sao. Một anh thủy thủ bước đến bên tôi:
– Ngài muốn biết vì sao treo cờ phải không? Các vị quanh đây không ai biết đâu, ngài hỏi vô ích. Ngài để tôi nói.
– Anh nói ngay đi!
– Hôm nay chẳng có hội hè gì hết. Sáng nay trời mưa. Mà lại mưa to.
– Ái chà chà! Tưởng chuyện gì! – Tôi nghĩ.
– Trời mưa thì kho ngập, kho ngập thì cờ ướt, cờ ướt thì phải phơi.
Hóa ra là thế! Bây giờ tôi mới có thể ung dung về nhà: Có mưa thật chứ!
Đức Mẫn dịch
Nhận xét: Đây là câu hỏi của Hartist dành cho bạn đọc: trời có mưa thật không?
Ý kiến của Hartist: trời không mưa, đấy chỉ là lý do vui của Azit Nexin cho rắc rối trong cuộc sống: cúp điện, cúp nước, dịch vụ công cộng tồi…
CẬU CHO BAO NHIÊU THÌ CHO
Bốn năm nay chàng chưa đi xe taxi. Nhưng hôm nay chàng phải đi. Đơn giản là cần phải như thế. Vì chàng đang đi cùng cô gái mà chàng sắp cưới.
Trong số những chiếc taxi đậu ở bãi họ chọn cái cũ nhất. Dễ hiểu là xe càng mới bao nhiêu thì tái xế càng dễ “chém” hành khách bấy nhiêu.
May cho họ, bác tài cũng là người đứng tuổi. Tất nhiên một người lái xe có kinh nghiệm thái độ với khách cũng khác.
Họ ngồi vào xe. Bác tài bật đồng hồ cây số. Chàng khẽ liếc nhìn cái máy đếm tiền: 60 – 65- 70 – 75…
– Thời tiết hôm nay đẹp quá, cậu nhỉ?
– À…vâng…phải…rất đẹp
105 – 110 – 120…Tíc tắc, tíc tắc, tíc tắc. Chiếc đồng hồ liên tục kêu.
Cô gái hỏi:
– Có chuyện gì vậy? Trông anh đăm chiêu quá!
– Kh-ô-ô-ng…Không có gì! Thật mà! Anh thề là hoàn toàn không có chuyện gì.
Tíc tắc…
– Nhưng sao vẻ mặt anh có vẻ căng thẳng thế?
– Anh không biết. Hi-hi! Trái lại là đằng khác. Anh rất vui. Hi-hi!
355, tíctắc, 360, tíctắc…
– Bác tài, chúng tôi xuống đây.
Giấu không cho cô gái biết, chàng liếc nhanh đồng hồ đếm tiền: 395 curuso. Chàng nhẩm ngay trong đầu. Thôi cứ cho là 4 lia. Mình sẽ trả gấp đôi là 8 lia. Khách mà đi cùng với bạn gái bao giờ cũng bị quát nhiều hơn. Không sao, cứ cho hẳn là 10 lia đi!
– Tôi phải trả bao nhiêu đây, bác tài?
– Cậu cho bao nhiêu thì cho.
– Thế không được. bác cứ cho biết hết bao nhiêu?
– Ôi, thưa cậu, đây là cái xe, chứ không phải ngựa, cũng không phải lạc đà, cậu cho bao nhiêu tôi xin bấy nhiêu.
– Kh-ô-ô-ng! Để cả tôi lẫn bác không ai phải áy náy.
– Thôi cậu muốn cho bao nhiêu cũng được tôi không có chê nhiều, chê ít gì cả.
– Lạy thánh Ala! Nhưng làm sao tôi biết với bác bao nhêiu là nhiều bao nhiêu là ít?
– Tôi sẽ không nói đâu. cậu thấy trả được bao nhiêu thì cậu trả bấy nhiêu.
Không ngờ trên đời, lại còn có những người tốt như thế, dễ dãi, không đòi hỏi, ăn nói lại nhẹ nhàng, lịch sự! Nếu trả cho bác ta 10 lia liệu có ít không nhỉ? Với đoạn đường như thế này mà đi taxi tuyến cũng đã hết 6 lia rưỡi rồi.
– Thôi, ông bác à, bác đừng làm tôi tôi khó xử nữa. Xin bác cứ nói thẳng cho tôi biết bác muốn bao nhiêu?
– Cậu đừng băn khoăn làm gì. cậu thấy cần trả bao nhiêu cậu cứ trả. Tôi không phải người tham lam. Chả lẽ tôi lại dám chê “ít quá” hay sao. cậu cho được bao nhiêu thì cũng là cảm ơn cậu.
– Thôi được, nhưng chả lẽ không có biểu giá à? Làm sao tôi biết tôi phải trả bao nhiêu?
– Cậu ơi chúng tôi là con người mà. Chúng ta đã đi đoạn đường khá dài. Cậu cứ trả bao nhiêu mà cậu thấy là phải.
Chàng sợ không phải là trả ít quá, mà sợ là đoán nhầm và trả nhiều. Được rồi. Đã thế thì mình làm theo ý mình. Chàng rút trong ví ra một đồng 10 lia và 2 lia rưỡi nữa, rồi đưa cho bác tài:
– Đây, bác cầm lấy!
Bác tài vung vung đồng tiền trong tay:
– Thế là thế nào?
– 12 lia rưỡi
– Cái gì cậu điên à? – bác tài kêu lên – vào thời gian khuya khoắt thế này?
Cô gái nói:
– Cách đây 2 hôm chúng tôi cũng đi quãng đường đúng thế chỉ hết có 7 lia rưỡi.
Bác tài ném tiền vào mặt chàng thanh niên
– Cầm lấy mà uống nước trà!
Tiền rơi xuống đất giữa chỗ người lái xe và chàng thanh niên đứng
– Thật là xấu hổ! Phải biết ngượng trước mặt bạn gái chứ!
Chàng thanh niên đưa thêm 2 lia rưỡi nữa.
Gã tài xế gân cổ hét lên:
– Cái gì? Anh định bố thí cho ăn mày chắc? Đây không thèm! Phải có lương tâm chứ! Mình tưởng hắn là người lịch sự nên bảo hắn “Cậu cho bao nhiêu thì cho”. Vậy mà hắn?…
Để bắt gã tài xế im mồm, chàng thanh niên sẵn sàng dốc hết cả ví tiền cho gã. Gã đã sỉ nhục chàng ngay trước mặt người bạn gái! Chàng rút thêm tờ 5 lia nữa. Nhưng gã tài xế vẫn nói oang oang:
– Xem kìa! hắn dẫn bạn gái lên xe ngồi, mình cứ tưởng hắn là người lịch sự tử tế! Hoá ra chỉ được cái mẽ ngoài. Khi tôi nói “cho bao nhiêu thì cho” thì như thế không có nghĩa là tôi xin của bố thí! Tôi đòi số tiền tôi được hưởng, hiểu chưa?
Nếu gã tài xế không thèm cầm tiền mà bỏ đi thì sao đây? chàng trai bèn rút thêm ra 5 lia nữa, rồi nhặt những đồng tiền vương vãi dưới đất đưa cả cho gã lái xe.
Gã này cần tiền. Rồi mở khóa cho xe nổ. Chiếc xe đã lăn bánh mà gã lái xe vẫn còn tiếp tục lải nhải:
– Tất nhiên là lỗi ở mình. Lẽ ra không nên cho loại người này lên xe! Mình nói với hắn như một người quý phái lịch sự: “Cậu cho bao nhiêu thì cho”. Thế mà hắn còn giở trỏ đểu với mình. Con người bây giờ không còn chút lịch sự, tử tế gì.
Chàng trai và cô gái đi về phía sòng bạc ngoại ô. Chàng cảm thấy mình thật đau khổ. Trong đầu chàng vẫn văng vẳng những lời lẽ thô bỉ của tay lái xe. Giá chàng đưa cho hắn nhiều hơn! Giá chàng đưa đúng số cần phải đưa!
– Phong cảnh ở đây đẹp quá, anh nhỉ? – cô gái khẽ lên tiếng!
– Cái gì?
– Em bảo: “phong cảnh ở đây đẹp quá”!
– Cô nói đi, cô cần bao nhiêu?
– Em không hiểu!
– Tại sao cô không nói thẳng ra cô muốn bao nhiêu tiền?
Cô gái quay phắt người, rồi không thèm ngoái lại, chạy băng băng xuống chân đồi. Cô cứ cắm đầu cắm cổ chạy thật nhanh.
Và mọi chuyện thế là chấm hết.
CÁNH CỬA XE TAXI
Người lái xe vừa kêu xong tên bến cuối ”Cuôctulusơ”, tôi đã bám ngay ở cửa xe. Nhưng giật mãi cánh cửa vẫn không mở. Tay nắm không tài nào xoay được. Người lái xe bảo:
-Vặn về bên trái!
Tôi vặn về bên trái. Tay nắm vẫn không xoay. Người lái xe lại hét to từ bên trong:
-Bên trái! Đã bảo là bên trái cơ mà! Anh chưa bao giờ ở trong quân đọi hay sao?
Tôi nghĩ, chả lẽ mình quên mất đâu là tay sao đâu là tay phải thật rồi sao? Đằng sau xe chúng tôi đã ùn lại một dòng xe: cả xe con, xe tải, xe chở khách. Cảnh sát giao thông hú còi inh ỏi.
-Xoay sang trái đi!
Vẫn không mở được.
Người lái xe nhoài người ra mở cửa, và tôi chui lên xe. Ô tô chuyển bánh. Người lái xe cáu thực sự. Sao lại có người tối dạ đến như thế được nhỉ! Đến giờ vẫn không phân biệt được đâu là bên trái, đâu là bên phải. Người nào cũng giải thích. Mà một việc quá đơn giản. Xoay sang trái một cái là xong!
Không phải nói khoe, nhưng tôi được cái tính rất tốt nhịn. Một khi tôi đã sai thì mặc cho người ta chửi mắng đến mấy, cũng không bao giờ tôi cãi lại một câu.
Anh lái xe tiếp tục lầu bầu:
-Không hiểu loại người đến cửa xe tắc-xi cũng không biết mở thì sống trên đời này làm gì nữa!
Mặt tôi đỏ bừng vì xấu hổ. Nhưng suy cho cùng, anh ta đúng, và hành khách ai cũng đồng tình với anh ta.
-Chẳng qua là do tính bừa bãi cẩu thả thôi anh ạ.
Một ông béo chêm vào.
-Cái dân ta cẩu thả lắm!
-Ôi tôi ngán quá rồi! Có lẽ phải mở lớp riêng chuyên dạy cách mở cửa xe mất!
-Ồ không, anh bạn ơi, có dạy người ta những thành tựu văn minh cũng vô ích thôi. Kẻ nào sinh ra đã ngu rồi thì dạy mấy cũng chẳng làm hắn ta thông minh lên được đâu.
Đến quảng trường Êminhiô ông béo kia muốn xuống. Thì đây đến lượt ông ta mở cửa không được. Lần này anh lái xe quát tháo với ông ta:
-Bên phải! Vặn tay nắm sang bên phải!
-Không mở được anh ạ.
-Ai bảo ông vặn sang trái? Đ.mẹ cái nhà ông “tẩm”! Ở ngoài thì vặn sang trái, còn ở trong phải vặn sang phải chứ!
-Nhưng cái tay nắm chết tiệt này không thể nào xoay được. Sang trái sang phải đều không được.
Anh lái xe lại phải nhoài người ra mở hộ. Ông béo cố lách người chui ra ngoài. Người lái xe lúc nãy đã cáu lắm, quay sang chửi tục liên mồm. Không đủ sức chịu đựng những cái đó, tôi bỏ ý định đến Cuôctulusơ, nhưng không dám xuống vì sợ không mở được cửa.
-Ngu như bò!…
-Bác tài ơi, tôi xuống đây…
Tôi cầm tay nắm xoay sang phải. Đội ơn thánh Ala, tôi đã ra được ngoài. Ban nãy tôi để ý cách người lái xe mở cửa quả không uổng công. Tôi chờ xe khác.
-Đi Cuôctulusơ à?
-Vâng.
Xe đỗ ngay trước mặt tôi. Không đợi người lái xe chửi, tôi thử xoay sang bên trái. Nhưng không xoay được. Tôi ấn mạnh hơn. Mạnh đến tê cả tay.
-Ấn lên trên! Ấn lên trên! – Người lái xe kêu to.
Tôi kéo tay nắm lên trên – cửa mở ra. Anh lái xe bắt đầu càu nhàu:
-Dân Xtămbun toàn những đồ vô tích sự!
-Chỉ được cái nhong nhong suốt ngày ngoài đường!
-Cửa xe Tắc-xi cũng không biêt mở thì đừng sống trên đời này làm gì nữa, cũng mang tiếng là người!…
Các bạn thử chịu đựng những câu nói mỉa mai châm chọc như vậy xem! Cả lái xe và hành khách đều cho là tôi có lỗi.
Đến Carakiô có người muốn xuống nhưng không mở được cửa.
-Kéo lên trên! – Anh tài xế không nói, mà quát lên.
-Nó không lên!
-Ấn nào!
-Ấn rồi, nhưng vẫn không lên.
Anh lái xe thò tay mở cửa, ông khách bước xuống, tôi cũng vội bước theo. Vì chỉ sợ lúc nữa chính tôi cũng không mở cửa được. Vậy là tôi xuống Carakiô. Vất vả lắm mới bắt được xe tắc-xi. Tôi xoay tay nắm sang trái, không được, sang phải, cũng không được. Kéo lên – Ôi! Ấn xuống – Chà! Không làm sao mở nổi. Tôi đã cầm chắc bị nghe chửi. Xoay nắm bốn phía đều vô hiệu.
-Đẩy mạnh! Đẩy thật mạnh!
-Về phía nào?
-Về phía phải đẩy chứ còn về phía nào! Thế anh không biết đẩy hay sao? Đẩy mạnh vào trong!
Từ bé tôi chưa thấy cửa tăc-xi phải đẩy vào trong để mở.
-Không đẩy cửa mà đẩy tay nắm!
À, đây rồi, may quá! Cửa đã mở! Còn anh lái xe?
Bạn tưởng anh ta im lặng sao?
-Không người nào là không phải dạy…
-Không phải người, mà là lừa! Ông khách ngồi ngay phía ngoài chêm vào.
-Cửa chưa đóng! – Anh lái xe quát to ngắt lời ông ta.
Ông khách mở cửa rộng hơn một chút rồi “sập” mạnh một cái – không được! Ông ta “sập” mạnh cái nữa – vẫn không được.
-Kéo mạnh vào, – người bên cạnh nhắc ông ta.
Bốp! Xình! Xình!
-Nhẹ thôi, nhẹ thôi – anh lái xe mắng ngay.
-Không tôi phạt ông hai nhăm curusơ bây giờ!
Nhoài người ra đóng cửa, anh lái xe vẫn chưa thôi!
-Tuần nào cũng chữa cửa! Kiếm được bao nhiêu vào tiền chữa cửa hết! Không phải công việc nữa, mà đúng là cực hình! Ở nhà ông không có cửa hay sao? Cửa này giống như đồng hồ ấy, chỉ sập nhẹ một cái là đóng thôi!
Một hành khách muốn xuống bến Galataxarai. Cửa không mở được. Lại quát tháo, chửi mắng, lại sang phải, sang trái, lên trên, xuống dưới…Cuối cùng cửa cũng mở, và tôi lại theo ông khách bước xuống ngay.
-Xe đi Cuôctulusơ phải không?
-Phải,xin mời!
Nói “xin mời” thì dễ, nhưng cứ thử lên xem! Tôi cầm lấy tay nắm. Nâng lên trên không được, kéo xuống dưới cũng không được, vặn sang trái, sang phải đều không ăn thua, đẩy vào trong cũng vậy…
Mẹ kiếp! Tôi cố hết sức. Đến đại lực sĩ Iuxun sống lại cũng không mở được cánh cửa này.
-Kéo về phía mình!
Chà! Hóa ra bí quyết là ở chỗ đó! Tất nhiên bác tài lập tức lên lớp cho tôi một bài. Nhưng không, tôi không thể nhịn được nữa:
-Này, người anh em – tôi bảo anh ta – Mỗi xe cấu tạo một khác. Chúng tôi có lỗi gì trong chuyện đó? Loại thì vặn sang bên phải, loại vặn sang bên trái, loại kéo lên, loại ấn xuống, loại đẩy vào trong, loại thì kéo ra ngoài…
Anh tài xế điên tiết thật sự:
-Chả nhẽ những cái vặt vãnh như thế mà cũng không nắm được hay sao? Xe “Ford” thì tay nắm xoay sang bên trái, “Studebaker” thì tay nắm xoay sang phải, “Chevrolet” thì đẩy vào trong, “Khimanôp” thì kéo về phía mình, “Fiat” thì đầu tiên vặn sang phải, rồi ấn mạnh, “Biuki” thì đơn giản nhất: lúc đầu xoay sang trái, sau đó sang bên phải, rồi hơi kéo về phía mình một chút, sau đó hơi nâng lên một chút rồi kéo thật mạnh xuống, sau đó lại hơi kéo về phía mình một chút, ấn nhẹ một cái rồi đẩy vào – thế là xong, cửa mở ngay…
Anh lái xe cứ liến thoắng kể tên các loại xe và cách mở cửa của từng loại. Nghe anh ta nói mới ngọt làm sao! Nhưng cuối bài diễn thuyết của mình anh ta vẫn mắng cho tôi mấy câu:
-Chỉ có đồ ngu mới không biết những chuyện đơn giản như thế!
Có một ông khách cũng lên tiếng ủng hộ anh ta:
-Đúng là ngu quá sức! Cả thảy có độ hai ba chục loại ô tô. Sống ở Xtămbun mà không thuộc nổi những chuyện như vậy thì đem vứt xuống biển cho rồi…
-Đúng thế – anh lái xe sung sướng họa theo – người như thế chết quách đi, sống làm gì!
-Ngữ ấy chỉ đáng nhai rơm rạ…
Ông khách vừa lên tiếng sát mạt tôi xuống bến tăc-xi. Nhưng ông ta chưa kịp chui ra khỏi xe bỗng kêu váng lên:
-Ái-ái-ái! Ái-ái-ái!
-Cái gì thế? Làm sao vậy?
Cho chết. Đồ con lợn! Hắn bị cánh cửa kẹp ngón tay cái. Máu chảy ròng ròng, còn hắn thì cứ đứng và chửi:
-Cái cửa chó chết! Trong đời này chưa bao giờ thấy cánh cửa nào chết tiệt như vậy!
Trong khi hắn cứ đứng than vãn, người lái xe đã cho tăng hết ga và chúng tôi lao về phía Khabie. Ở chỗ đó có một ông khách muốn lên xe nhưng không sao mở được cửa. Cửa xe nặng như cửa pháo đài. Tôi nói không sai, giá như quốc vương Mêchmet Phatikhơ, người hồi xưa cứ mỗi tuần mở cửa thành phố một lần, có sống lại cũng không thể mở nổi.
-Ấn vào! Tôi bảo ông ấn hộ cái! – Người lái xe hét to.
-Ấn vào cái gì?
-Lần đầu tiên ông đi ô tô hay sao? Ấn vào cái nút chứ còn ấn vào cái gì!
Các bạn có biết cái nút ấy nó nằm ở đâu không? Nếu không các bạn đoán thử xem. Nó nằm ở trong xe, sau tấm kính cửa sổ. Tôi ấn vào nút, còn ông khách ở ngoài ấn vào tay nắm, và cửa mở ra. Tôi từ từ nhảy xuống đường.
Tôi quyết định đoạn còn lại sẽ đi bộ.
Nhưng một chiếc xe ở đâu bỗng đỗ ngay bên cạnh tôi.
-Bác về đâu?
-Cuôctulusơ!
Tôi nhìn bác tài. Một người đứng tuổi. Tôi nghĩ bụng, chắc ông này không chửi bới. Trong xe có ba hành khách. Mọi chuyện đều tốt đẹp, nếu như…cửa mở ra được. Bây giờ tôi đã biết mỗi loại xe đều có cách mở riêng của nó. Nên trước khi sờ tay vào nắm xe tôi hỏi ngay:
-Xe mác gì đây bác?
-“De Soto”
-“De Soto” à? Loại xe này mở như thế nào nhỉ? Không thấy cái tay nắm nào cả…
-Đẩy!
Tôi đẩy.
-Ấn!
Tôi ấn.
-Kéo! Kéo về phía mình! Xoay đi!
-Tôi xoay rồi.
-Xoay mấy vòng?
-Hai.
-Không, xoay lại đi. Phải ba vòng cơ!…
Bác tài giúp tôi, nhưng chính bác ta cũng không mở được. Cuối cùng, với sự hợp tác của tất cả – lái xe và hành khách bên trong – Tôi thì ở ngoài- chúng tôi mới mở được cửa. Nhưng bây giờ lại không đóng được. Tôi kéo, người lái xe kéo – không đóng! Thấy vậy tôi bèn lấy hết sức đóng thật mạnh làm cả cái xe rung ầm ầm…Không biết ở chỗ nào nghe “sập”!
-A ha! Đóng được rồi! – Bác tài vui vẻ reo lên.
Chúng tôi bắt đầu lên đường. Ông tài không lúc nào ngơi mồm. Xe ông ta giá những năm chục ngàn lia, vậy mà trong vòng có một năm hành khách đã khéo biến nó thành mớ sắt vụn! Không ai có chút hiểu biết gì về cách lên xe, cách đóng mở cửa…Tháng nào cũng phải sửa…Và những lời kêu ca khác đại loại như vậy. May mà lần này những lời mắng nhiếc ấy không nhằm vào tôi.
Bến cuối cùng – Cuôctulusơ. Một hành khách định mở cửa. Lập tức tôi muốn khoe ngay những hiểu biết của mình:
-Đây là xe “De Soto”. Nhấc tay nắm lên rồi kéo về bên trái.

Hành khách thứ hai vội chạy đến giúp, tiếp đó là hành khách thứ ba. Đích thân bác tài vừa càu nhàu vừa ra mở hộ. Nhưng không ai mở được. Chúng tôi bắt đầu đẩy mạnh từ phía bên kia- cũng không ăn thua gì. Chắc chúng tôi bị kẹt ở đây mất. Bác tài hì hục toát mồ hôi, văng ra đủ mọi thứ tục tĩu nhất…Một số chúng tôi loay hoay với cánh cửa bên phải còn số khác thì cố nậy cánh bên trái. Nhưng cả hai cánh cứ như những cánh cửa sổ ma trong chuyện cổ tích – cố thế nào chúng cũng không chịu mở.
-Kéo nút ra! Ấn vào! Tì thật mạnh!
Phía sau chúng tôi ùn cả lại một dòng xe điện, xe ô tô. Có tiếng còi cảnh sát giao thông. Bác tài phải đánh xe vào sát vỉa hè. Một ông khách nóng toát mồ hôi phải cởi áo vét. Một người lấy chân đá thình thịch vào cánh cửa. Một bà đi cùng xe với chúng tôi cứ hét toáng lên:
-Cứu tôi với! Cứu tôi với!
-Khẽ mồm chứ bà! Đừng làm người ta thêm hoang mang. Người ta lại tưởng chúng tôi bị bắt cóc bà.
Một viên cảnh sát chạy đến. Người bắt đầu xúm đông lại.
-Có chuyện gì thế?
-Cửa không mở được. Người trong xe không ra được. Bà khách khóc thút thít, ông tài thì văng những lời lẽ tục tằn nhất chửi hành khách làm hỏng cả cánh cửa, đám đông thì cứ ôm bụng cười…
-Có ai có rìu không?
-Rìu không mở được đâu. Phải dùng búa!
-Tốt nhất là gọi thợ đến…
Trời đã bắt đầu tối. Chúng tôi vẫn bị nhốt trong xe. Khán giả và những người quân tử mỗi lúc một đông. Cửa thì vẫn không mở được. Một anh lái xe khác mách nước cho bác tài của chúng tôi:
-Này, anh bạn, hãy cho xe đến Ênisekhia. Ở đó có ông thợ rèn tên là Yankô, ông ta mở được đấy! Hôm qua tôi chở khách đi Biucđere cũng gặp chuyện như vậy. Vặn hết hơi cửa vẫn không mở. Đến năm hiệu sửa xe nhờ mở cũng không được, cuối cùng đến ông Yankô mới mở được đấy!
Nghe lời khuyên của anh ta, chúng tôi đến Ênisekhia tìm hiệu sửa chữa của ông Yankô. Tất nhiên ông đã về nhà. Người ta cho người đến nhà tìm ông. Chúng tôi thì sắp chết ngạt trong xe. Một giờ, có khi đã hai giờ trôi qua. Cuối cùng ông thợ đến. Ông loay hoay với cánh cửa của chúng tôi một lúc rồi bảo:
-Các ông phải đến Taclabasư, ở đấy có ông thợ tên à Ybô, chuyên môn chữa khóa, ông ta sẽ mở được.
Chúng tôi đi tìm ông Ybô.
-Cái lẫy khóa bị rơi vào bánh răng – Ông Ybô giải thích.
-Thế phải làm thế nào bây giờ?
-Bây giờ tối rồi, không làm được đâu. Để mai ban ngày xem may ra thì chữa được.
Nghe thấy thế chúng tôi ai nấy van nài:
-Ông Ybô, xin hãy cứu chúng tôi, bao nhiêu hy vọng đặt cả vào ông! Ông muốn lấy bao nhiêu chúng tôi cũng xin trả. Một trăm, hai trăm cũng được.
Bà khách lại bắt đầu thút thít:
-Trời ơi! Làm sao bây giờ? Làm thế nào báo được cho chồng tôi bây giờ?
Cuối cùng ông Ybô cũng thương hại chúng tôi và bắt tay làm. Nhưng đến khoảng mười hai giờ đêm ông kiệt sức.
-Không được. Việc này mất thời gian lắm. Phải chui qua cửa sổ mà ra vậy!
Mọi người để bà khách ra đầu tiên. Bà này thò đầu qua cửa sổ, những người ở ngoài đường kéo bà ta ra. Có một ông khách béo quá đẩy thế nào cũng không qua lọt. Tiếp theo đến lượt tôi. Cuối cùng tôi lại được hít thở bầu không khí tự do! Sau đó chúng tôi lại bắt tay kéo ông béo. Người ta gọi cả tôi đến giúp một tay. Khi lôi được một nửa thì ông ta hoàn toàn bị mắc kẹt trong cửa sổ, kéo ra không được mà đẩy vào cũng không xong! Thành thử ông ta cứ nằm vật người trên thành cửa sổ, nửa người trong xe, nửa người ở ngoài.
-Cố giúp tôi với – ông béo lạy van. Lúc này chúng tôi muốn đẩy ông trở lại cũng không được nữa.
Lát sau tôi cũng bỏ đi nên không biết sự việc cuối cùng kết thúc ra sao. Nhưng các bạn có thể dễ dàng đoán ra được, kể từ đó không bao giờ tôi dám đi ô tô đến Cuôctulusơ.
BUỔI HỌC ĐẠO ĐỨC
Trong lớp đang là giờ học về đạo đức.
-Đạo đức, các em ạ, đó là một thứ rất tuyệt diệu. Nếu có ai đó trở thành thiếu đạo đức thì người ấy sẽ rất khổ sở.
-Thưa thầy ạ!
-Cái gì thế?
-Thầy coi bạn Chêlin…bạn ấy làm gì thế này! Bạn ấy không biết xấu hổ sao!
-Im nào!…Người ta cần phải có đạo đức. Đạo đức mang lại cho con người biết bao lợi ích, không sao kể xiết được! Còn nếu con người trở nên thiếu đạo đức thì sẽ rất khổ sở.
-Thưa thầy, khổ sở thế nào ạ?
-Đủ mọi chuyện có thể xảy ra. Mọi người sẽ gọi kẻ ấy là đồ thiếu đạo đức. Mà đã thiếu đạo đức là một thứ rất tệ hại. Bởi vậy, các em ạ, cần phải có đạo đức. Chao ôi, đạo đức thật tuyệt diệu biết bao! Chính vì vậy mà người ta giảng dạy nó ở các trường học. Phải vậy không nào? Lẽ nào chúng tôi lại đi dạy cho các em điều gì đó xấu xa sao? Ta học tiếp nào. Vậy là, đạo đức…Tôi nói tới đâu rồi nhỉ?
-Thầy bảo:”Chao ôi, thật tuyệt diệu biết bao!”
-Chính thế: chao ôi, thật tuyệt diệu biết bao! Các em sẽ hỏi: tại sao? Tất cả các vĩ nhân đều nói về điều này.
-Thưa thầy ạ!
-Lại cái gì ở đó thế? Chuyện gì vậy?
-Thầy bảo anh Altan đừng có xô vào lưng em nữa.
-Im nào, các em! Hãy nghe tôi đọc cho các em về thực chất của đạo đức:”Đạo đức quy định con người sống sao cho không vi phạm các quy tắc xã hội, các truyền thống, lề lối và luật pháp”. Các em có hiểu không? Các em phải cư xử giống đa số những người xung quanh các em, những người lớn tuổi. Nào, am Xuhai, hãy đứng dậy! Ta phải coi chợ đen như thế nào?
-Thưa thầy, chợ đen là rất tốt ạ.
-Rất tốt ư?
-Tất nhiên rồi ạ! Bởi vì nó..theo các quy tắc đạo đức, thưa thầy. Đấy! Cứ thử chống lại đa số xem – như thế là thiếu đạo đức. Phải thế không ạ? Mà tất cả những người rất có đạo đức đều có dính dáng đến chợ đen!
-Em nói cái gì vậy?
-Thưa thầy, thật quả đúng như vậy ạ. Thầy coi mà xem: người bán thịt, bán gạo, bán than, bán hoa quả – tất cả đều buôn bán ở chợ đen. Nhà em có một người quen, một người rất giàu có, ông ấy cũng làm ăn ở chợ đen. Cha em bảo thế. Mới đây nhà em lại chơi chỗ ông ấy, chính cái ông ấy đã bảo em: “Hãy tuân theo đạo đức – cháu sẽ được tất cả “. Khi lớn lên, em sẽ là người rất có đạo đức. Em sẽ có nhiều nhà cửa và tiền bạc. Còn một người thiếu đạo đức như là cha em thì thật hiếm thấy!
-Im ngay! Sao em lại dám nói về cha mình như thế?…
-Đúng thế ạ! Cha em thiếu đạo đức đến nỗi không trả nổi tiền thuê nhà.
-Ngồi xuống!…Các em đừng bao giờ vượt ra ngoài khuôn khổ của đạo đức cả!
-Thưa thầy ạ!
-Hãy nói xem, em Ergun!
-Em có một ông cậu. Cậu ấy lúc nào cũng phàn nàn:”Chỉ vì đạo đức mà tôi cứ phải giật gấu vá vai mãi “.Em cũng sẽ là người thiếu đạo đức.
-Câm ngay! Khi một người không có đạo đức thì người ta gọi kẻ ấy là gì nhỉ? Hả? Nào, các em hãy đồng thanh trả lời, gọi là gì hả?
-Kẻ thiếu đạo đức!
-Đúng rồi! Dù cho một người có bạc triệu nhưng nếu người ấy thiếu đạo đức thì còn ra gì nữa? Người ấy sẽ khổ sở!
-Thưa thầy, không phải thế đâu ạ. Người ấy sẽ sống yên ổn.
-Các em ạ, các em phải hiểu rằng lương tâm con người cần phải được yên ổn. Tất cả những người lớn lao đều có đạo đức.
-Thưa thầy, đó là thời trước ạ. Đấy, ở khu phố nhà em có một ông lớn quê ở Ađana. Ông ấy có ba xe “Cađilăc”, ông ấy là vua bông. Ông ấy có đủ thứ quý giá nhưng đạo đức thì…ông ấy không có!
-Tôi nói với các em về các vĩ nhân kia:các nhà bác học vĩ đại, các nhà tư tưởng vĩ đại, các họa sĩ vĩ đại. Như Xôcrat chẳng hạn…
-Thưa thầy, em biết ông Xôcrat ạ.
-Tất nhiên rồi, các em phải biết ông ấy.
-Ông ấy có xưởng thợ ở gần nhà em, ông ấy tẩy hấp quần áo. Chỉ có điều ông ấy không giàu mấy. Còn một người đạo đức như ông ta thì thật khó kiếm được.
-Tôi nói về nhà triết học cổ Hi Lạp Xôcrat kia. Hãy trở thành những người có đạo đức như Xôcrat, Arixtôt, Galilê!
-Thưa thầy, nhà em có một người quen buôn bán sắt tên là ngài Ahmed. Vậy thì cái ông Xôcrat ấy có đạo đức nhiều hơn ông này sao?
-Các em ạ, đạo đức hoàn toàn không giống như tiền bạc. Trong lịch sử có những người đạo đức rất cao, thà bị chết đói chứ không làm hoen ố lương tâm của mình.
-Thưa thầy, vậy cái đạo đức ấy cũng là một thứ tốt phải không ạ?
-Một thứ tuyệt hảo. Con người có đạo đức thì sẽ nói thẳng ra sự thật, không sợ hãi.
-Vậy mà em có một người cậu bị khai trừ ra khỏi đảng vì cậu ấy đã nói thẳng ra sự thật.
-Đó là chuyện khác. Tôi không nói với các em về chính trị, tôi nói về đạo đức. Nào, Ôguz, em sẽ nói được gì về sự dối trá? Chúng ta phải đánh giá sự dối trá như thế nào?
-Thưa thầy, dối trá là một thứ rất tuyệt. Nếu khéo nói dối thì rất tốt. Em mà không nói dối ở nhà thì ngày nào em cũng đã bị đòn rồi.
-Đừng nghe bạn ấy, các em ạ. Các em hãy nhớ rằng các em phải noi gương những người lớn.
-Thưa thầy ạ! Nhưng chị em cũng nói dối mẹ em, còn mẹ em lại nói dối cha em. Còn cha em, khi người ta đến đòi nợ, lại sai người bảo rằng cha không có nhà.
-Xéo ngay khỏi lớp! Bước ra ngay! Một đứa trẻ hư hỏng!
-Thưa thầy, chẳng phải là thầy đã nói:”Người có đạo đức phải nói sự thật” đó sao? Vậy là em..
-Ngồi xuống!…Các em ạ, đạo đức – đó là một thứ rất tuyệt diệu. Tất cả các em phải là những người có đạo đức. Chẳng hạn nếu các em đã hứa với ai điều gì thì các em phải giữ lời, dù có chuyện gì xảy ra đi nữa.
-Thưa thầy, nhưng cha em kể rằng có một người, em quên mất tên ông ta, đã nói:”Tôi sẽ làm sao cho cuộc sống không bị tốn kém…”
-Im ngay! Đừng có dây vào chuyện người khác!…Các em ạ! Không có gì tuyệt diệu hơn đạo đức cả. Khi nào các em đọc các sách về đạo đức, các em sẽ phải kinh ngạc. Ngay cả những nhà tiên tri cũng đề cao đạo đức. Đạo đức là một thứ rất tốt, thậm chí tốt nhất nữa. Tốt đến nỗi là…Đạo đức thật tuyệt. Tuyệt lắm kia! Xin thề với các em là nó rất tuyệt.
-Reng…reng! – Chuông báo giờ ra chơi. Thầy giáo lau mồ hôi trán và thổ hắt ra. Ơn trời, buổi học đạo đức đã xong.
BÀ CHỦ
Mọi người trong tòa báo làm việc hối hả. Hồi đó tôi đang làm phóng viên trong mục cảnh sát và hình sự. Bỗng có người bước vào phòng tôi, đó là Haxan, anh ta phụ trách những vấn đề báo chí tại phòng số một cục an ninh, khuôn mặt phì nộn của anh ta đang tươi rói một nụ cười. Nụ cười ấy chẳng báo cho chúng tôi điều gì tốt lành, bởi vì thậm chí cái tin báo tử của một anh bạn đồng liêu anh cũng mang đến đây với một nụ cười như tin báo hỷ.
Một biên tập viên nhìn thấy bộ mặt tươi cười ấy liền bảo:
-Nguy rồi! Chắc lại có chuyện gì tồi tệ rồi đây!
Haxan lập tức tuyên bố “tin vui”:
– Tôi xin báo một tin: Tòa báo các anh bị đóng cửa!
“Xin báo một tin” – anh ta nói cứ như là “Báo một tin vui” vậy.
– Vì sao thế? – biên tập viên hỏi.
– Lệnh chính quyền, vì có tình hình khẩn cấp. – Khi anh ta thốt lên ” Tình hình khẩn cấp”, giọng anh ta thậm chí còn rung rung sung sướng là khác.
-Thế nào, đã có lệnh chính thức rồi à? – Biên tập viên hỏi.
– Rồi sẽ có – Haxan đáp.
Haxan, cái tên trung thành đến tận xương tủy ấy bao giờ cũng phải vội vã trong bất cứ tình huống nào, không thể chờ kịp đánh máy xong nội dung một bức điện thoại, tất cả những tin xấu anh ta cứ phải tự mình đi báo lấy. Lạy thánh Ala, thời đại bây giờ cũng đã dễ dàng hơn. Bây giờ có thể hỏi:”Có lệnh rồi à?”. Chứ mười sáu tháng trước đây thì một câu như thế không được phép hỏi.
Vừa lúc ấy từ xa vọng lại tiếng xe máy. Cái thứ tiếng xe máy lọc xọc kia bao giờ cũng báo trước những tin kiểm duyệt, cấm xuất bản, hoặc một cái gì đó tương tự. Quả nhiên đó là tên cảnh sát chở mô tô đến đây cái lệnh đóng cửa tòa báo.
Chúng toi nghiến răng im lặng rồi lập tức giải tán. Hai mươi sáu nhân viên chúng tôi rời tòa báo.
Trong chúng tôi có bảy người vừa mới chuyển sang đây từ một tòa báo bị đóng cửa cách đây 10 ngày.
Lúc này các ông chủ báo không chi tiền tạm nghỉ cho các nhà báo bị thôi việc mà công đoàn cũng chẳng có. Thế là chúng tôi vừa mất việc lại vừa mất tiền. Trong hai tháng tôi thay ba tòa báo vì lần lượt bị đóng cửa.
Ở những nơi đột nhiên có chỗ trống thì lập tức lại có hàng chục người xin vào.
Sau hai tháng thất nghiệp, tôi đã kiệt sức.
-Tòa báo chỗ tôi khuyết một chân phóng viên đấy. Tôi đã giới thiệu anh, có lẽ là người ta sẽ nhận. Anh đến mau lên và đừng nói với ai nhé – một anh bạn tỏ lòng thương cảm.
Tờ báo này được cấp trên tin cậy đặc biệt. Ông chủ báo là nghị sĩ thuộc đảng cầm quyền.
Khi tôi đi làm, ông nghị còn đang chu du châu Âu.
Với tính tiết kiệm chi li, ông chủ tôi không cho mắc điện thoại từng phòng. Một tòa báo lớn như thế mà vẻn vẹn chỉ có hai máy điện thoại: một ở chỗ ông, một trong phòng biên tập. Đêm đêm tôi thường làm việc trong phòng này vì là chỗ trống vắng. Anh thư ký tòa soạn trực đêm thì ngồi phòng bên. Khi nào gọi anh sang nghe điện thì tôi đấm tường.
Anh thư ký này có tật mê gái. Anh quen gần như khắp lượt các cô ở các tiệm nhảy, các cô ca sĩ cà phê, các vũ nữ, các đào xi nê. Đêm nào cũng có mười, mười lăm cô gọi dây nói cho anh. Tôi cứ liên tục đấm tường. Nhưng anh ta thì cứ trốn miết trong phòng mình với một cô bạn gái nào đó, hoặc là anh ta không sang nghe hoặc giả có sang thì cũng còn chán.
Tôi rất vui vì có việc làm và tôi chỉ rùng mình lo lắng sợ bị đuổi việc. Vì tôi đã phải ngồi nhà quá lâu không có việc làm, nên tôi sẵn sàng làm bất cứ việc gì nặng nhất, bất cứ việc gì người ta sai bảo.
Anh bạn lo việc cho tôi thì bảo:
-Đừng có sợ ai cả, anh chỉ nên sợ bà chủ mà thôi. Nếu anh tránh xa được bà ấy thì không ai động đến anh nữa.
-Tôi thì liên quan gì đến bà chủ?
-Anh đừng nói thế…Bà ấy không phải đàn bà mà là cây gậy trừng phạt của Chúa. Chỗ nào bà ấy cũng nhúng mũi vào được.
Các cộng sự trong tòa báo thảy đều run sợ mỗi khi nghĩ đến bà ta. Bà được gọi là bà chủ với cái nghĩa là kẻ quyền hạn vô lường. Bà buộc mọi người luôn luôn khiếp hãi. Còn tôi thì cố không va chạm.
Tôi làm việc đã đầy ba tháng. Một đêm như thường lệ tôi ngồi sửa bài. Đó là một đoạn tiểu thuyết về một vận động viên. Tôi đọc say mê. Bỗng có tiếng chuông điện thoại reo vang. Tôi nhấc ống nói và thấy một giọng nữ giới. Giọng ấy hỏi anh thư ký.
Tôi đấm tường mấy cái liền. “Chờ một phút, sang bây giờ đây” – tôi đáp và đặt máy xuống bàn, rồi lại vùi đầu vào sách. Cuốn tiểu thuyết đã hết. Mãi tới đó tôi mới nhận ra rằng ống nghe vẫn ở trên bàn. Anh thư ký vẫn không sang, chắc là anh ấy đang làm việc đại sự. Tôi treo ống lên, lập tức chuông lại reo vang.
-Tôi nghe đây.
-Nghe đây, anh là ai vậy? – vẫn cái giọng lúc nãy.
-Thế cô là ai?
Tôi cứ ngỡ cái người gọi lúc này là một trong các cô gái bán ba mà đêm nào cũng gọi anh thư ký.
– Tôi đã bà anh gọi thư ký kia mà?
-Tôi đã bảo…Tôi đã đấm tường và gọi rồi!
-Vậy sao anh ta không sang?
-Làm sao tôi lại phải biết điều đó?
-Anh liệu hồn, tôi sẽ đến ngay bây giờ!
Cái giọng thật là vô giáo dục, đầu đường xó chợ.
-Cô nói khẽ chứ có được không – tôi bảo.
Rồi sau cô ta quát mắng tôi, tôi nói:
-Người có học vấn như tôi không thể nói chuyện với cô được.
Ngay sau đó mụ ta xổ ra một tràng:
-A, cái thằng ranh con, mày lấy đâu ra cái học vấn ấy, hở?
-Khẽ mồm chứ!
-Đồ con lừa!
-Nhà cô là con lừa!
-Thằng súc sinh!
-Chính nhà cô là súc sinh!
Mụ ta mắng tôi là gì, tôi lại bảo”chính là nhà cô”.
Cuối cùng mụ nói:
-Tao sẽ cho mày biết tay.
-Thế thì nhà cô đến đây xem ai biết tay ai! – tôi đáp.
-Tao nhổ toẹt vào mặt mày, thằng khốn!
-Nhà cô khốn thì có! Cô điên hay sao thế? Sao cứ bám lấy tôi thế?
-Trời ơi, tôi điên đến ngất xỉu mất thôi! Có phải chính tôi nhờ anh gọi thư kí không? Có phải chính anh ta trả lời rằng anh ta sắp sang không?
Mụ ta cứ nổ như súng máy, chửi bới liên hồi. Còn tôi cứ một mực đáp “Chính nhà cô, chính nhà cô, chính cô, chính cô!”
-Gọi tên thư kí cho tôi mau lên!
-Nhà cô bớt ăn đi, để tiền mà thuê đầy tớ. Ở đây không có ai hầu đâu.
Tôi nổi giận đấm tường và quát anh thư kí.
-Sang mà nghe điện. Chỉ vì mấy con ranh khốn kiếp của anh mà tôi bực mình đây. Anh đào đâu ra những của nợ này thế?
Tôi quát những câu ấy vào máy cho mụ nghe tiếng.
Anh thư ký sang và bắt đầu nói chuyện qua máy:
-Tôi nghe đây, bẩm bà cứ ra lệnh, thưa bà chủ…Thế nào ạ? Vâng…vâng..Bà nói gì nặng thế? Xin bà tha…Kẻ đầy tớ trung thành của bà…Xin bà tha…Chúng con..dạ…biên tập viên ạ….dạ, mới đến thưa bà…Con xin có lời, thưa bà…Mặt anh thư ký đổi sang màu tro. Anh treo ống nghe lên.
-Nghe đây, anh vừa làm gì thế? – anh ta hỏi.
– Làm gì?
-Anh quát mắng bà chủ…
Tôi suýt chết ngất.
-Lại đuổi đi hở? – tôi rền rỉ.
-Ông chủ đang ở châu Âu – anh thư ký nói – Ông ấy mà về là ông ấy đuổi anh liền.
-Nếu tôi lạy van, xin tha, tôi nói rằng tôi nói nhầm thì sao…
-Tôi không nghĩ thế. Ông ta rất sợ vợ. Ông ta không dám lờ đi đâu.
Thế là tôi lại sắp thất nghiệp, lại ngồi chơi. Tôi đang nghĩ thế nao thì chuông lại reo vang. Lại mụ ta. Dù thế nào thì tôi cũng sắp bị đuổi, không đường cứu chữa..Tôi quyết định vẫn đối xử như cũ.
-Nhà cô cần gì nào? – tôi tấn công mụ ta trước.
Tôi biết thế nào mụ ta cũng hét toáng lên.
-Lúc nãy anh nói chuyện với tôi, nhưng chắc anh không biết tôi là ai phải không?
-Tôi biết. Bà là phù thủy mệnh danh bà chủ. Bây giờ tôi phải nói chuyện gì với bà đây?
Mụ tru tréo lên:
-Ra thế-ế-ế! Thì ra anh cũng biết…
Tôi treo máy liền.
Bây giờ mọi đường liên lạc bị cắt đứt.
Chừng một tuần sau ông chủ du ngoạn trở về. Tôi vẫn rùng mình khiếp sợ. Về được một hôm ông gọi tôi lên. Tôi vào phòng ông. Tôi hy vọng: “Nếu cần xin, chắc ông ấy thương”
Tôi đứng trước mặt ông, những ngón tay khoanh trước bụng cứ giật giật một cách hoảng hốt.
-Ngồi xuống đây con…
-Cầu chúa che chở cho ông! Con không dám!
-Ngồi xuống đây, con ngồi xuống đây…
Ông mỉm cười, tôi ngồi xuống ghế đối diện.

– Ta chúc mừng con. Xin cảm ơn…Ta sẽ suốt đời biết ơn con…Con đã chấn chỉnh được đầu óc của bà chủ ta…Khá lắm! …Con đã báo thù cho mười tám năm đau đớn của ta. Hay lắm! Bởi vì đối với bà ấy ta không được nói một lời nào trái ý. Con hành động thật đúng. Con xuống nhà đi: ta đã bảo thưởng cho con năm mươi lia rồi đấy.
Tôi xuống phòng kế toán lấy năm mươi lia. Từ đó tôi săn đón chờ mỗi tiếng chuông điện thoại. Có thể là bà chủ gọi đến chăng, nếu có tôi lại mắng bà ấy một trận té tát. Thế mà bà ấy không gọi đến nữa. Nhưng có một lần, buổi tối, bà đến một mình. Trong phòng chỉ có riêng tôi. Bà bước vào.
-Anh là biên tập viên? – bà hỏi.
-Dạ phải.
-Bữa trước anh mắng tôi qua máy nói?
Lúc đó tôi mới hiểu bà chủ là thế nào. Nói qua máy đó là một việc, còn đối mặt lại là chuyện khác. Tôi im lặng cúi đầu.
-Tôi chúc mừng anh – bà nói – Tôi rất thích những người không thèm nịnh bợ. Anh đừng nhìn tôi: tôi bị loét dạ dày vì thế hay cáu bẩn. Tôi đã nói với ông ấy chi cho anh hai trăm lia tiền thưởng, anh đã nhận chưa?
Hóa ra người chi cho tôi không phải ông chủ, mà là bà chủ. Hơn thế nữa ông ấy còn khấu của tôi một trăm năm mươi lia.
-Sao anh im lặng thế …Hay là ông ấy không chi? Tôi biết ông ấy không chịu chi! – bà ta gầm lên rồi chạy lên phòng ông chồng. Có những tiếng ầm ầm vang lên. Có người gọi tôi. Ông chủ rụt rè:
-Này con, chẳng lẽ ta không cho con hai trăm lia hay sao?
Bà chủ hết nhìn ông lại nhìn tôi. Mắt bà như tóe lửa. Nếu tôi nói “không đưa” thì chắc bà giã cho ông một trận nhừ xương, mà tôi nói “đưa rồi” thì chắc bà lại giã tôi. Tôi bảo ông chủ:
-Thưa ông, con đã nhận khoản năm mươi lia đầu tiên trong tổng số hai trăm ông thưởng. Con sẽ nhận đều hàng tháng.
- Thấy chưa, bà yêu quý của tôi, thế mà bà cứ không tin tôi…- rồi ông quay sang tôi:
- Đi xuống nhà lĩnh nốt đi con.
24/9/2015
Aziz Nesin
Đức Mẫn - Thái Hà dịch
Theo https://isach.info/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

XXXXVăn học miền Nam: Tổng quan 3

Văn học miền Nam: Tổng quan 3 Phần 15 Văn học Từ giai đoạn trước sang giai đoạn sau 1963 người ta có thể ghi nhận nhiều chuyển biến quan...