Thứ Năm, 25 tháng 5, 2023

Gia tộc Thanh Vàng

Gia tộc Thanh Vàng

1. Đúng sáng sớm ngày lập thu trong mùa thu đầu tiên của thế kỷ hai mươi mốt, có người khách trẻ tuổi, biểu hiện không bình thường, đi một mình, bị đẩy ra khỏi cửa xe trên chuyến xe buýt chạy tuyến Hà Nội đi Hải Phòng. Chiếc xe đang lao vun vút trên quốc lộ số 5 bỗng phanh ken két, lê vệt bánh xe cháy xám mặt đường, nó lê chừng mười mét rồi mới dừng lại táp bên mép đường. Người khách trẻ tuổi có biểu hiện không bình thường vừa nãy còn đập tay loạn xạ, hét ú ớ đòi xuống xe giờ đứng ngẩn mặt cười bên vệ đường quốc lộ, chỗ đó ngay đầu con đường đất rẽ vào làng Thanh Vàng. Tay phụ xe, một tên khá ngông nghênh bợm trợm, áo kiểu bộ đội vải rằn ri đã cũ, mở phanh ngực, tuổi trung niên, nóng tính, nói năng như quát vào mặt người nghe, cũng phải vất vả lắm vừa kéo tay vừa giải thích cho người khách trẻ tuổi có biểu hiện không bình thường hiểu, đây chính địa điểm người ấy muốn xuống xe và sẽ xuống ở đây. Người khách trẻ tuổi có biểu hiện không bình thường lại nghệt mặt ra cười, mũi nhăn nhăn, cuối cùng cũng gật gật đầu tỏ ý đã biết chắc là mình không xuống nhầm.
Đó là một gã trai dáng khòng khòng. Cánh tay phải luôn nâng khư khư, chốc chốc lại co giật, được giữ sát bên sườn. Gã đầu không có mũ, tóc húi cua ngắn làm trơ cái đầu đã dài lại thêm dài ngoẵng. Mặt gã nghênh nghênh, mồm miệng như đang dở cười dở mếu. Gã đứng tay trái rờ rờ bám thành chiếc xe buýt đang nổ máy, lấp ló vài con mắt hiếu kỳ nhìn gã qua tấm kính. Gã co chân tấp tểnh kiểu nửa định trèo lên nửa lại thôi. Thực ra gã có muốn lên lại xe buýt cũng không trèo lên được, chiếc xe buýt sau khi đẩy được vị khách trẻ tuổi có biểu hiện không bình thường liền đóng sập cửa, vù ga phóng vút đi. Gã trai dáng khòng khòng đành quay người, gã bước những bước đi cà nhắc cà nhắc một cách khó khăn trên con đường đất rải đá dẫn vào làng. Con đường này chạy xuyên giữa cánh đồng trồng toàn hoa cúc, nó nối đường quốc lộ với cái làng bên kia cánh đồng, làng hơi ẩn khuất sau những lùm xanh rì rì của những cây sấu cao vượt nóc nhà. Con đường đất rải đá khéo phân đôi cánh đồng rộng tới ngàn mẫu, chạy soải dài song song với quốc lộ 5.
Trời vừa hưng hửng nắng, những tia nắng thu vàng óng như dòng mật dót xuống mặt đất và bắt đầu xòe rộng ra khắp không gian. Chẳng mấy chốc cả cánh đồng trồng toàn cây hoa cúc của làng Thanh Vàng ngập phủ trong một màu vàng. Gã trai dáng khòng khòng mới kéo đôi chân cà nhắc đi được vài ba bước đã phải dừng chân, gã chưa bao giờ đi bộ với đôi dép tổ ong rách tã trên chặng đường dài như thế. Gã đứng thở, giật giật tay, mồm há hoác, mắt ngơ ngác nhìn ra khắp cánh đồng. Trong đôi mắt của gã trai thì đây quả là điều chưa từng gặp. Màu vàng dót từ trên trời như nhập xuống tận mặt đất. Có cảm tưởng như chính gã đã lạc tới một miền thần tiên chỉ có ở trong cổ tích. Rất phấn  khích với vẻ đẹp khôn tả lần đầu biết ấy, gã trai dáng khòng khòng thẫn thờ thốt lên.
…ôi… ang … ở..ở… âu… ế … ày?
Chỉ có tiếng nắng đang soi xuống ruộng hoa. Nắng làm bật lên chuỗi âm thanh nghe ràn rào của những nụ hoa gặp nắng nở bùng. Những cánh hoa ngủ suốt đêm qua vừa nãy còn gấp nép, còn cuộn ôm chặt lấy nhụy hoa giờ bừng tỉnh giấc xòe từng cánh nhỏ ra đón nắng. Triệu triệu bông hoa cúc vàng chỉ nhỉnh hơi đồng xu, nở ken nhau, nở đua vươn lên đầu cành vô tình làm khuất lấp những chiếc lá xanh đậm. Cánh đồng trông như một chiếc thảm màu vàng to chưa từng thấy.
Gã trai dáng khòng khòng đi thêm vài bước cà nhắc cà nhắc thì tới bờ của  thửa ruộng đầu tiên trên cánh đồng vàng hoa cả mắt. Mặt nghênh nghênh hướng về phía ánh nắng chiếu tới, gã trai lại há hoác mồm ra mà để nghĩ ngợi. Thoáng phân vân không biết nên bước đi tiếp trên con đường rải đá hay rẽ ngang bước xuống ruộng hoa? Chưa có gì gọi là dứt khoát bởi trong ánh mắt của gã đang lộ rõ vẻ đắn đo. Qua ánh nắng, gương mặt đầy đủ của gã bây giờ mới nhận rõ. Một gã trai chừng mười chín hai mươi tuổi. Da trắng hơi mai mái, tạng người bủng bang, chân tay loằng nhoằng, bụng thở phòi phọp. Nước da và tạng người của kiểu người quanh năm hầu như không bước ra khỏi cửa. Đặc biệt là nét mặt, nét mặt gặp phải tia nắng chiếu tới nên trông có gì đấy như dài dại. Một gương mặt không trí tuệ, đầy ngơ ngơ đang đần ra nghĩ ngợi.
…ôi i ..i âu … ây…ây ờ?
Gã trai ngơ ngác. Hình như gã đang bị lẫn lộn nhận thức khi không biết đâu là phía mặt trời và đâu là phía cánh đồng. Màu vàng óng có lúc nhìn như chảy tràn từ trên trời xuống, có khi trông như ngược từ cánh đồng lên. Gã thấy chóng hết cả mặt mày như chính gã đang bị những mảng vàng óng cuốn xoay tròn trong chảo lửa. Gã đứng tênh tênh trên đôi chân chỉ chực khuỵu, người gã nghiêng nghiêng theo chiều nắng dọi, gã định bước đi nữa nhưng rồi gã lại bước hụt. Gã bước hụt hẫng thành thử gã ngã sấp mặt xuống luống hoa cúc ngay cạnh đó. Khóm hoa cúc bị cái mặt của gã làm gãy gục, cánh hoa dập nát. Một mùi hương hăng hắc xộc vào mũi khiến gã cong người lên như con tôm mà hắt hơi liên tục. Sau mỗi lần cong người lên hắt hơi như vậy gã cảm như đang có cánh tay nào đó kéo người gã vùi mặt sát sâu hơn vào từng cánh hoa. Gã trai dáng khòng khòng nằm sấp mặt, gã lịm đi trong giây lát.
Từ lúc gã trai dáng khòng khòng xuất hiện ở đầu con đường đất dẫn vào làng Thanh Vàng và khi gã dừng chân đứng tênh tênh bên thửa ruộng đầu tiên trên cánh đồng hoa cúc đã có một người đàn ông để ý. Người đàn ông này cũng chỉ có một mình, ông đi từ trong làng ra. Chiếc nón lá quàng sau lưng, nhây nhẩy theo nhịp đi, gặp ánh nắng chiếu tới nó lấp lóa bàng bạc trên cái nền toàn màu vàng. Không rõ ý định ban đầu của ông ta là sẽ đi đâu và sẽ làm gì nhưng khi ánh mắt của ông bắt gặp có người lạ đang đi vào làng trên con đường đất rải đá thì mọi sự chú ý đều hướng về phía đó. Cả cánh đồng trồng toàn hoa cúc lúc này chỉ có hai người ở hai phía đối diện nhau, họ cùng đi ngang mặt trời. Người đàn ông đi chậm và lặng lẽ để mắt quan sát kẻ mới tới. Ông thong dong soải bước từng bước một, bởi ông đã quá quen thuộc con đường này, quen đến nỗi mỗi bước ông đi ông không cần phải nhìn, bàn chân trần của ông cảm nhận được từng thay đổi của con đường theo mỗi buổi trong ngày, theo từng mùa trong năm. Người đàn ông đi từ trong làng ra không đánh tiếng hay làm bất cứ chuyện gì đấy khiến gã trai dáng khòng khòng phải giật mình. Họ vẫn còn ở cách nhau khá xa.
Gã trai không nhận thấy có người đang đi lại phía mình và để ý hành vi của mình. Gã có nhìn ra xa đâu, gã nghênh nghênh mặt mà đi cà nhắc cà nhắc. Hơn nữa bộ quần áo cánh nâu đã phai màu của người đàn ông đi từ trong làng ra như lẫn với mầu đất ruộng nên người không chú tâm quan sát cũng khó nhận biết. Người đàn ông đi từ trong làng ra gạt bỏ mọi ngờ vực về có kẻ mò tới cánh đồng này làm chuyện khuất tất. Có thể là một người đi nhầm đường đang cần sự giúp đỡ? Có thể là người đó do quá mót tiểu mà tiện đường bước xuống ruộng hoa? Có thể là người này thấy hoa rực rỡ muốn ghé lại ngắt vài bông về chơi? Cánh làm chuyện khuất tất không bao giờ chọn lúc có ánh mặt trời để hành sự. Người đàn ông đi từ trong làng ra nhấn nhá bước những bước lại gần hơn gã trai dáng khòng khòng. Ông đi từ phía nam lại. Gã trai đi từ phía bắc sang. Họ cách nhau chừng hai bên bờ của thửa ruộng đầu tiên trên cánh đồng hoa thì vừa lúc gã trai bước hụt hẫng mà ngã sấp xuống. Người đàn ông đi từ trong làng ra nhìn thấy vậy nhưng ông cũng không vội vã. Ngã vào đâu chứ ngã vào luống hoa không ngại lắm. Người đàn ông đi từ trong làng ra nghĩ vậy và đứng yên chờ xem gã trai tự đứng dậy như thế nào.
Mùi hương hoa cúc hoảng hoắc mau chóng giúp gã trai dáng khòng khòng tỉnh lại. Cố với tay trái, cái tay còn có vẻ điều khiển được, gã níu bám vào búi cỏ bên bờ ruộng, gã trai phải gắng hết sức, lúi cúi vài giây mới hơi hơi gượng người lên được. Gã thấy mình như đã bước sang thế giới khác.
… ôi…. à..à… ai… ế … ày?
Gã hốt hoảng nhìn khắp lượt người mình. Những cánh hoa cúc nhỏ bằng đầu móng tay rụng gãy bám đầy mặt. Điểm vàng lòe loẹt, bám khắp bộ quần áo kiểu pigiama màu cháo lòng, kẻ sọc dài, rộng thùng thình. Quần áo kiểu vậy hẳn gã đi thẳng từ trên giường ngủ về nơi này? Gã trai dáng khòng khòng hơi sụt sùi nhưng như sực nhớ ra điều gì bèn cố thẳng lưng lên cà nhắc cà nhắc đi tiếp.
“Cậu”…?…. Có đúng là “cậu”  không?
… ôi… à… ai… ế…?
Đúng là “cậu”  thật rồi.
Người đàn ông đi từ trong làng ra khi chỉ còn cách gã trai tầm tay với thì bất ngờ kêu rất to, giọng thảng thốt. Đôi mắt ti hí của ông giãn ra như để khẳng định người mà mình vừa gọi tên đúng là thực. Đôi vai ông rung mạnh, gấp gáp những nhịp thở bồi hồi trên bộ ngực nhám nắng, hình như ông đã xúc động vì cuộc gặp gỡ xẩy ra quá tình cờ và qua bất ngờ. Chiếc nón quàng sau lưng cũng nhây nhẩy theo trước cảnh hội ngộ không ngờ tới được này. Gã trai dáng khòng khòng vừa mới đứng lên đi được vài bước, gã giật bắn mình, gã chới với nhưng rất may là gã không bị ngã dúi xuống. Gã đứng nghênh nghênh hóng về phía có tiếng người vừa nói, tay phải theo phản xạ giống như ai đó đang giữ thứ gì, gã nâng khư khư ép sát hơn vào bên sườn giật giật. Mặt gã chợt thuỗn đần ra vì chính gã cũng chưa hiểu nổi đang xẩy ra chuyện gì. Rồi toàn thân gã rúm lại lật bật. Gã thấy sợ. Sự run rẩy sợ hãi ấy khiến gã ngây người như kẻ gian dối bị bắt quả tang. Lần đầu tiên trong đời gã mới có được cái tư thế đứng thẳng lưng. Chừng trong tích tắc thì gã trở lại vóc dáng cố hữu, nghĩa là gã lại đứng tênh tênh một bên chân, mồm miệng há hốc. Có lẽ gã đang rụng rời chân tay khi tự dưng bất ngờ gặp người.
“Cậu”. Đúng là “cậu” rồi.
Người đàn ông đi từ trong làng ra cười một nụ cười không thành tiếng nhưng vẻ gần gũi. Ông nhắc lại câu nói bằng giọng chắc nịch như để khẳng định sự nhận người của ông là không nhầm lẫn. Giọng ông bây giờ đã hết bàng hoàng tuy vẫn còn một chút chờ đợi phản hồi nhưng cách nói đã khá tin tưởng. Ông bước lại gần gã trai dáng lòng khòng hơn chút nữa. Gã trai hoảng sợ tưởng ai đó đến bắt mình. Gã giật giật cánh tay phải nhiều hơn, khép chặt vào bên sườn nhiều hơn như sợ mất cái gì. Chân gã nhấc lên cà nhắc cà nhắc định bước lùi lại. Người đàn ông đi từ trong làng ra dừng chân, ông không tiến lại gần gã trai thêm nữa. Ánh mắt của ông nhìn gã trai bằng cái nhìn nhường nhịn có pha chút vị nể. Tận sâu trong lòng của ông những tình cảm ngày nào ùa về khiến ông hơi rân rấn khóe mắt. Nếu đúng đây là người mà ông đã nhận thì thật không thể nào tin được. Không thể nào lại có sự run rủi như định đoạt của số phận. Ông lui người lại giữ khoảng cách vừa đủ để nhìn ngắm gã trai được dài dài. Ông nhìn từ đầu xuống chân rồi lại nhìn ngược lên suốt từ chân lên đầu. Bằng linh cảm ông đã nhận ra người mà ông không chờ đợi.
… ôi… à…
Gã trai dáng khòng khòng không nói được những câu muốn nói. Có gì đấy chẹn ngang họng khiến gã cứng mồm. Cơ mặt gã rần rật như lên chứng động kinh. Mà thực ra gã đang lên chứng động kinh thật. Gã sợ hãi quá, sợ hãi đến mức làm chứng động kinh từ bé của gã phát bệnh. Chân tay gã loằng nhoằng run rẩy. Đầu gật gật. Cái miệng há hốc và bắt đầu nhỏ ra rớt rãi. Gã trai dáng khòng  khòng cứ há miệng, ngoắc ngoắc mặt, mặc cho rớt rãi nhỏ ra thành sợi. Rồi gã ngồi thụp xuống, toàn thân run rẩy. Người đàn ông đi từ trong làng ra không làm gì cả. Ông để yên cho gã trai ngồi thụp xuống mà rúm ró, mà co giật một hồi rồi mới bước tới gần hơn. Người đàn ông đi từ trong làng ra đặt bàn tay chai cứng của mình lên một bên vai gã trai. Cái đặt tay chặt và ấm lên bên vai gã trai tỏ ra có tác động tích cực, cơn co giật tạm ngừng lại. Gã trai dáng khòng khòng không dám ngẩng mặt lên, gã cố dúi đầu che khuôn mặt miệng lấp bắp nói lí nhí câu gì đó.
“Cậu”. Làm thế nào mà”cậu”  mò được về làng?
Người đàn ông đi từ trong làng ra càng tỏ ra nóng vội bao nhiêu thì gã trai càng cố dúi đầu định giấu mặt nói lí nhí bấy nhiêu. Gã chưa từng gặp người này bao giờ, gã lúc lắc đầu ý như là gã không có quen biết ông hoặc là gã không nghe ra những câu nói của người đàn ông đi từ trong làng ra. Cũng có khi là gã không biết trả lời ra sao. Bộ dạng rúm ró của gã làm nét mặt của ông bây giờ đã chuyển sang cảm xúc lo âu. Ông đang tỏ ra lo lắng bởi những câu hỏi dồn dập tới trong đầu. Làm cách nào mà gã trai lại về được nơi đây? Bằng cách nào mà gã trai biết được có con đường xuyên qua cánh đồng hoa để vào làng? Nhưng quan trọng hơn nếu đúng đây là “Cậu” như ông đã nhận?
“Cậu”.
Không rõ tiếng đáp lại từ phía gã trai. Hình như gã trai này cũng chưa định hình lại được chính nhận thức của mình. Gã vẫn ngồi thụp bên bờ ruộng, mặt cúi xuống. Nắng đã ran rát hơn. Nắng đầu thu chớm chút hanh hao làm người ta khó chịu. Gã trai dáng khòng khòng thấy ngứa ngáy khắp người, gã sinh ra ngọ nguậy. Cái đầu cứ lúc lắc như chong chóng. Gã xoay đầu sang bên phải rồi xoay đầu qua bên trái. Người có chứng động kinh thường vậy. Họ phải vất vả lắm mới tỉnh trở lại được.
“Cậu” không nhận được ra tôi cũng phải thôi.
Người đàn ông đi từ trong làng ra buông tay khỏi bờ vai của gã trai, ông đứng lên nhìn vào làng và nói một mình trong khi gã trai kia còn chưa đứng dậy nổi. Ông vẫn còn hơi phân vân mà quay lại cố nhìn vào mặt gã trai thêm lần nữa. Rồi ông đưa mắt nhìn lên đường quốc lộ một cách rất chăm chú, ông nhìn tít xa theo đường quốc lộ. Ngoài đó từng đoàn xe nối nhau lao rầm rầm trên đường, tiếng máy, tiếng còi xe rầm rĩ. Có lẽ ông đang ước đoán chặng đường đi của gã trai này, ông đang tự hỏi với một con người như gã trai liệu có phép màu gì để gã về được tới đây? Gã trai giờ đã bớt co giật nhưng tâm thần còn chưa tỉnh táo. Dấu hiệu cho thấy gã có đôi chút tỉnh nhờ vào động tác gã luồn tay qua sau vai gãi sồn sột mảng lưng. Gã gãi đỏ mảng lưng mà chưa thôi gãi. Hết gãi bằng tay trái gã chuyển qua tay phải. Khốn nỗi cánh tay phải nâng khư khư, luôn giật giật không sao ngoằng qua sau vai được. Loay hoay làm gã ngã ngửa người ra. Người đàn ông đi từ trong làng ra bấy giờ mới cúi xuống sốc nách gã lên. Gã trai cười hềnh hệch. Gã đang muốn nói câu cảm ơn. Gã đã tin người đỡ gã dậy là con người thật, con người ấy không có ý làm hại gã. Bằng chứng là người ấy đang cố giữ cho gã đứng ngay ngắn.
Thìn. Tôi là ông Thìn  đen đây.
Người đàn ông đi từ trong làng ra ghé sát mặt gã trai nói rõ ràng từng câu một. Ông hy vọng đánh gợi ý tiềm thức của gã trai. Gã trai mặt lại nghệt ra, đầu lắc lắc nửa không ra từ chối nửa không ra đồng ý. Mồm gã đang nhỏ ra những sợi rớt rãi.
Còn “cậu” tên là…. là “Cậu”.
…ôi….ôi…
Gã trai không cất mồm nói nổi câu xưng danh ngôi thứ nhất. Trong tiềm thức của mình, thì gã biết trong nhà gã có rất nhiều người và chưa khi nào gã ghi nhận được có một người có tên là Thìn đen mà gã có thể quen biết. Nhà gã có rất nhiều người nhưng gã chỉ biết ở nhà gã có mỗi một mình mẹ gã mà thôi. Mẹ gã là người gần gụi gã nhất, mẹ gã rửa mặt, thay quần áo và tắm cho gã, vén cho gã những hạt cơm dính bên mép, mẹ nói cười với gã. Còn nói chung những người khác có trong nhà gã gã chỉ lơ mơ biết bởi những người đó không có ai chơi hay nói chuyện với gã. Ở nhà gã, gã chỉ chơi một mình. Chơi thui thủi trong gian phòng luôn khóa cửa ngoài. Cánh cửa chỉ mở khi mẹ gã tới. Mẹ gã mở cửa mang tới cho gã bát cơm đã trộn dủ mọi thứ thức ăn trên đấy. Mẹ gã bưng cái bô mà gã đã đái và ỉa vào đó và đem nó đi đổ. Khi mẹ gã trở lại cùng cái bô được rửa sạch thì gã cũng đã ăn xong bát cơm. Quanh chỗ gã ngồi ăn vương vãi những hạt cơm rơi dưới đất. Rất lâu rôi gã đã quen chuyện đái và ỉa vào cái bô đó. Gã quen đến nỗi đó chính là điều duy nhất gã biết rõ ràng và thân thuộc.
.. ôi… ên… à …à …” ậu”… á?
Lúc này gã tỏ ra cũng hơi biên biết. Gã đã nhắc được cái tên của mình mà người đàn ông đi từ trong làng ra nói từ lúc bắt gặp gã. Nghe gã nhắc lại như vậy nét mặt  người đàn ông đi từ trong làng ra tươi hẳn lên. Ông cười phấn khởi. Cuối cùng thì ông cũng chắc chắn với mình rằng ông đã nhận không nhầm người.
Vâng “cậu” chính là “Cậu”..
…ông… ải…ôi.. ông… iết..iết…âu..
Gã trai có bộ dạng khòng khòng, mà từ bây giờ sẽ được gọi là “cậu”  mồm méo xệch, nhỏ ra những sợi rớt rãi vừa trả lời vừa bỏ đi. Dường như gã chẳng mấy bận tâm đến chuyện nhận người cũng như việc xác định đúng tên của gã. Gã bỏ mặc người đàn ông đi từ trong làng ra đang băn khoăn là đi theo gã hay để kệ gã muốn đi đâu thì đi. Ông xốc lại chiếc nón quàng sau lưng nhìn với theo sau gã. Nhìn những bước chân cà nhắc cà nhắc của gã trai cùng cánh tay phải khư khư, giật giật, khép sát bên sườn làm người đàn ông đi từ trong làng ra, mà bây giờ sẽ được gọi là ông Thìn đen, chưng hửng trông theo. Ông Thìn đen nhìn chưng hửng theo lưng “cậu” nhưng thâm tâm ông không có ý định bở cuộc. Ông chau mày nghĩ ngợi chập ngắn, gương mặt người nông dân đặc sệt đã bước qua tuổi bảy mươi đang lộ rõ vẻ tự tin. Trong gương mặt ấy những nét quả quyết hằn sâu nhờ vào những nếp nhăn nơi khóe mắt. Ông Thìn đen quay người lẳng lặng đi theo sau “cậu”. Ông phải bước ghìm những bước chân vốn đi như chạy hàng ngày của mình lại để khỏi vượt lên “cậu”.
Họ lẳng lặng đi theo nhau mỗi người theo đuổi một suy nghĩ. Ông Thìn đen đi theo cùng suy nghĩ của lớp người già, người già thường hay đặt câu hỏi về những lý do mà “cậu” bỗng dưng xuất hiện ngoài cánh đồng làng Thanh Vàng. Còn “cậu” cà nhắc cà nhắc đi đằng trước với suy nghĩ chẳng ra suy nghĩ. Họ đi chưa được bao lâu, đi chưa ra khỏi thửa ruộng đầu tiên thì “cậu” dừng lại. “Cậu” ngoái cổ về phía sau nhìn ông Thìn đen đang đi theo mình. “Cậu” nở một nụ cười nhe hàm răng sún kỉn, vàng khè ý như muốn nói “cậu” đang chờ ông Thìn đen đi tới. Thoáng băn khoăn nhưng rồi ông Thìn đen cũng tới sát “cậu”. Ông nắm chặt bàn tay trái lành lặn của “cậu”, nói nhỏ đủ nghe.
Rồi tôi sẽ giúp “cậu” hiểu ra.
Tầm này trên cánh đồng hoa cúc đã nhộn nhịp người. Người từ trong làng gọi nhau rinh rả, họ rủ nhau đi ra ngoài đồng thu hái hoa cúc. Chỗ ông Thìn  đen và “cậu” dừng lại chờ nhau chỉ cách đường quốc lộ mấy chục mét. Những chiếc xe chở container nặng nề chạy rùng rùng cả mặt đất nơi họ đứng. Từng luồng khói xe phả ra làm rạt nghiêng chùm hoa cúc nở gần đường nhất. Gió thu cũng đã nhập cuộc, từng làn gió se se thổi khô sương đêm qua còn sót lại, vương ươn ướt, vương mền những chiếc lá cỏ trên bờ ruộng. Ông Thìn đen và “cậu” không đi theo con đường đất rải đá nữa. Họ men theo bờ ruộng đi rất khó khăn vì vừa đi ông Thìn đen vừa phải đỡ “cậu”. Họ đang đi đến ruộng hoa đang có nhiều người nói chuyện líu ríu. Mùa thu hoạch hoa cúc đã đến.
Ông Thìn đen khoát tay chỉ về phía những người nông dân đang hái hoa cúc. Từng bông hoa cúc nhỏ lần lượt được những người thu lượm ngắt cẩn thận rồi bỏ vào từng chiếc thúng họ đem theo ra ngoài đồng.
Những bông hoa cúc này đã làm nên danh giá cho gia đình “cậu” đấy. “Cậu”  ạ.
Ông Thìn đen mở màn ý định giúp “cậu” hiểu ra bằng một câu nói rõ là dài. Và ông hăm hở khoát tay chỉ rộng xa hơn. Tầm này hình như cứ thửa ruộng nào, cứ luống hoa nào có hoa cúc nở vàng rực là có người lúi cúi ngắt hoa. “Cậu” Tuất mặt lại ngẩn ra, cậu không thôi nhỏ những sợi rớt rãi nơi khóe miệng. Mặt “cậu” ngẩn ra nhìn quang cảnh mọi người thu hái hoa cúc và sau đó nghênh nghênh há hốc mồm ngước lên trời trông giống như một con trâu đực đang nghênh mặt. Con trâu đực dí mũi hít hít vào cái đít con trâu cái một cách thích thú, nó hít hít rồi nghênh nghênh mặt ngửa lên trời, hàm răng trắng nhởn của con trâu đực nhe ra. Con trâu cười với điều nó vừa hít hít được.
Trông “cậu” giống con trâu đực ngửi …ngửi ..đít trâu cái ấy.
Ông Thìn đen vốn tính bộc trực nên nói luôn khi nhìn cái mặt của “cậu”  cứ nghênh nghênh như thế. Ông nói không mang hàm ý chê xấu hay tỏ vẻ  khinh thường, mà ông nói bằng giọng vui vui kiểu của những người nông dân quen nói năng bỗ bã. “Cậu” không hiểu câu nói đó nhưng cũng nhăn răng ra mà cười. “Cậu” cũng vốn như thế ngay từ khi mới lọt lòng mẹ. Chuyện “cậu” ra đời thì ông Thìn đen biết khá rõ. Chính ông là người đỡ “cậu” và đem “cậu” về cái phòng mà “cậu” hàng ngày ăn, ngủ, ỉa và đái. Khi “cậu” vừa lọt lòng mẹ những người có mặt chờ đợi sự ra đời của “cậu” đã quay mặt lảng đi. Họ không dám nhìn “cậu” nói gì đến giơ tay đón “cậu”. Ông Thìn đen bồi hồi nghĩ lại, nghĩ sâu đến nỗi những chiếc lông mày dài khác người trên vệt lông mày rậm đen của ông dúm lại mà dồn thành cụm lông đen rậm hơn. Hai vệt lông mày trông như hai con sâu róm lông màu đen co mình lại khi bị người ta chọc que vào giữa bụng. Rồi hai cụm lông đen ấy giãn ra thành hai vệt lông mày dài rậm đen kéo chập hai chân mày lại với nhau. Trông vệt lông mày dài ngang đen rậm ấy những đứa trẻ con trong làng phải khóc ré lên.
Nhưng ông Thìn đen hiền lành và chân thật bậc nhất làng Thanh Vàng hiện giờ. Ông sinh năm Mậu Thìn, hơn “cậu” đúng năm mươi nhăm tuổi. Ở làng Thanh Vàng đã có lệ, hễ những thằng con trai nào chào đời đều được gọi tục theo tên con vật ứng với năm đó. Còn đứa trẻ gái nào sinh ra đều được gọi tên theo tên Can của năm đó. Ông Thìn đen là tên năm Thìn. Đương nhiên trong làng sẽ có nhiều người trùng tên nhau, cách phân biệt ai với ai lại được gọi kèm theo biệt danh gì gì đó. Ông Thìn sinh năm Mậu Thìn nhưng da dẻ đen nhẻm nên gọi là Thìn đen. “Cậu” sinh năm Quý Hợi. Nhưng chỉ riêng có mỗi một mình “cậu” là không gọi tên là Hợi kèm theo một danh xưng gì gì đó. “Cậu” là ngoại lệ, thứ ngoại lệ còn hơn cả đặc biệt vì “cậu” khi vừa mới sinh ra đã không bình thường. Những gia đình khá giả rất coi trọng những ai như “cậu” nên khắc gọi “cậu” là “Cậu” rồi. Trong nhà tuyệt nhiên không ai dám “sách mé” gọi tên húy của “cậu”, gọi thế là phạm kỵ. Từ khi sinh ra đến giờ “cậu” mới bước chân về làng. Không sao, vì dòng dõi nhà “cậu” xuất phát từ chính cái làng này. Ông Thìn đen nhìn “cậu” nói những câu giải thích như vậy. “Cậu” lại nghệt mặt ra cười cười. Nói chung là “cậu” cười như thế suốt ngày. Ngay khi ngủ “cậu” cũng nghệt mặt ra, há hốc mồm, nhe răng cười cười. “Cậu” không thôi nhỏ những sợi nước rãi ngay cả khi đang ngủ rất say.
Ông Thìn đen khác hẳn với “cậu” về vóc dáng. Ông Thìn đen có vóc dáng thấp, đậm và da đen nhẻm. Mọi đàn ông hay mọi con trai người làng Thanh Vàng đều có vóc dáng khiêm tốn như ông Thìn đen. Giải thích về chuyện này những người cao tuổi nói rằng, giống đực, tức là cánh đàn ông của làng vốn dĩ sinh ra đã nghèo hèn, không dám ngẩng đầu lên nên thành nòi giống như vậy. Nghe cũng có tý lý lẽ tin được. Nếu muốn vóc dáng cao hơn thì phải tìm cách để lớn lên, nghĩa là chọn vợ hay chọn chồng phải cao hơn người làng Thanh Vàng này. “Cậu” có dáng người cao cao chắc hẳn có gì gì ẩn khuất rồi cho dù như ông Thìn đen đã nói, “cậu” người làng này. Bởi thế nên khi họ đi bên nhau trông ông Thìn đen giống như một tấm phên được nóng bằng tre, chắc đỡ cho những bước đi cà nhắc cà nhắc cùng dáng người khòng khòng của “cậu”. Có lẽ vì thế nên từ lúc ông Thìn đen đỡ bên người “cậu” cùng đi thì những bước đi của “cậu” thôi chệch choạc hẳn. Hai người đi tới khoảng tiếp giáp giữa thửa ruộng đầu tiên với thửa ruộng thứ hai thì cùng kéo nhau ngồi xuống.
Nắng đang tung hoành trên khắp cánh đồng. Thứ nắng thu không làm người ta đổ mồ hôi mà ngược lại nó làm da người khô se lại. Cảm giác khó chịu vô cùng khi ngồi dưới nắng làm “cậu” luôn ngọ nguậy. Cái mặt cứ nghênh nghênh hết láo liên nhìn bên phải lại ngơ ngáo nhìn về bên trái. Lần đầu tiên được xem cảnh người ta thu hái hoa cúc làm “cậu” háo hức. Từ sâu thẳm tâm hồn thiểu năng trí tuệ của “cậu” những tiếp nhận ban đầu đang dình dịch tới.
Những người ra ngoài đồng thu hái hoa cúc phải là cánh đàn bà con gái trong làng, phải là những người đã qua cái tuổi mải chơi, họ vào độ tuổi chín chắn hơn, cẩn thận hơn. Hái hoa cúc không đơn thuần là đi dọc từng luống hoa để ngắt những bông hoa đã nở. Việc ngăt hoa không có kinh nghiệm sẽ làm gãy cành hoa, làm đổ khóm hoa và làm chột những nụ hoa chưa nở. Công việc thu hái hoa cúc không có gì gọi là lấm láp, lại gợi chút thi vị như cuộc chơi hoa, làm cánh đàn bà con gái mải miết làm việc không để ý tới những gì đang diễn ra cạnh đấy. Thực ra khi đang thu hái hoa cúc mà nói chuyện với nhau là không ổn lắm. Mùi lá cây hoa cúc gặp nắng xông lên ngai ngái trộn cùng mùi hương hoa cúc hoảng hoắc như xộc thẳng vào mắt, xộc thẳng vào mũi dễ làm người thu hái khó chịu. “Cậu” đã được hưởng cái cảm giác đón nhận thứ mùi đặc trưng ấy khi “cậu” ngã sấp mặt xuống khóm hoa.
“Cậu”  có nhận ra điều gì quen thuộc không?
“Cậu”  có nhìn thấy gì không?
“Cậu”  có thấy ánh nắng không?
“Cậu”  biết đây là màu vàng chứ?
Ông Thìn đen vẫn trông thẳng ra ngoài luống hoa mà hỏi liên tục. “Cậu” không trả lời. Sự im lặng làm ông Thìn đen phải quay sang để nhìn. “Cậu” đã ngủ. “Cậu” tựa một bên vai mình vào lưng ông Thìn đen mà ngủ. “Cậu” ngủ say sưa như chính “cậu” đang ngủ trong căn phòng của mình vậy. Mặt “cậu” khi ngủ mới tạm coi được tuy cái mồm “cậu” vẫn há ra, vẫn nhỏ những sợi rớt rãi nhưng đã dễ trông hơn. Những nét nghênh nghênh hay dài dại tạm lui đâu vắng chỉ để lại một gương mặt ễnh bạc đi dưới ánh nắng. Ông Thìn đen gỡ chiếc nón đang quàng sau lưng chụp lên đầu “cậu”. Thực ra chiếc nón quàng sau lưng ông Thìn đen chỉ là quàng theo thói quen mà thôi. Ông Thìn đen không bao giờ đội nón mũ, ông để mặc cho nắng gió chiếu rát hay thổi ràn rạt trên cái đầu tròn như quả bưởi của ông. Trên cái đầu tròn như quả bưởi ấy những mớ tóc dài trắng cước được vén gọn, buộc túm sau gáy. Người lần đầu gặp ông Thìn đen đều ngỡ ông là một tín đồ của một giáo phái hay tín đồ của một tín ngưỡng nào đấy hơn nghĩ ông là một người quen làm việc chân tay. Đây là một đặc điểm riêng có của đàn ông làng Thanh Vàng.
Được chút dịu mát nên da dẻ của “cậu” giờ nhìn cũng đỡ bủng bang hẳn. Cũng có thể là nhìn mãi nên quen mắt? Đôi mắt của “cậu” nhắm nghiền nhìn rất ngây ngô. Ông Thìn đen nhìn gương mặt ấy mà chợt dấy lên bao cảm xúc. Những câu chuyện, những sự việc lần lượt trở về trong tâm trí ông.
“Cậu”.  Đúng là “cậu” nhà mình  thật rồi.
Ông Thìn đen khẽ nhắc lại. Câu nói của ông như lời thủ thỉ sâu kín. Ngoài cánh đồng, lúi cúi men dọc theo từng luống hoa, thấp thoáng bóng những người đàn bà đi thu hái hoa cúc. Những người đàn bà ấy đang tranh thủ gom  những mẻ hoa đầu tiên của một ngày làm việc.
“Cậu” có nhìn thấy cánh đồng không”
“Và ….và những toan tính từ trên cánh đồng này không?
Chuỗi dài nhưng câu hỏi chen những câu suy nghĩ. Nắng soi bỏng rát tấm lưng cánh phản của ông Thìn đen. Chợt “cậu” ngọ nguậy. Từ cái miệng đang nhỏ ra những sợi rớt rãi của “cậu” phát ra những câu ú ớ. Ông Thìn đen lặng đi. Những hy vọng làm “cậu” hiểu ra chợt tắt nguội. Trên nét mặt của “cậu” lại trở lại hình dạng ban đầu, dài dại, ngơ ngơ.
…ôi …à…ai… ế… ày…..
2
VHSG- “Cậu” về được tới làng như thế này  là may quá rồi.
Ông Thìn đen giọng khàn trầm. Kiểu nói bộc lỗ mừng mừng tủi tủi lúc ông đỡ “cậu” ngồi xuống bờ ruộng. Ông còn vỗ vỗ tay vào lưng, như muốn động viên, lại như muốn nói “cậu” cứ ngồi đây nghỉ đợi hồi tâm sức bao lâu cũng được. Rồi ông ngước lên nhìn trời nói tiếp.
Rõ khổ thân. “Cậu” đã khi nào xa đến thế này đâu.
Bầu trời trên cánh đồng hoa cúc đột ngột giảm nắng khi mà không có một đám mây đen nào vắt qua. Thời tiết buổi giở hè giở thu có nhiều điều kỳ lạ. Đang nắng hanh hao lại bất chợt dịu lại. Gió thổi từ hướng đông nam tới đem cho cảm giác như được lau khăn ướt, thấy trong người nhẹ nhõm hẳn. Hoặc trời đang man mát thì lại đột nhiên bừng nắng. Nắng thu hanh khô và ran rát da mặt lúc đang ở ngoài đồng khiến mấy bà mấy chị phải đưa tay kéo vội vạt chiếc khăn đang chùm trên đầu xuống che ngang miệng. Hơi nước thở ra đằng mồm đọng lại âm ẩm chỗ vạt khăn vừa kéo che miệng làm dịu hẳn hơi thở giữa cái hanh khô.
“Cậu” cứ nghỉ đi. Mà đã có chuyện gì thế không biết?
Giờ bầu trời trên cánh đồng hoa cúc đang chuyển mát. Thứ mát đột ngột kéo sâu hơn giấc ngủ ngày giữa đồng của “cậu”. Ông Thìn đen khẽ xoay người để luồn tay kéo giúp vạt áo đang sã bên vai của “cậu” lại cho ngay ngắn. Trong giấc ngủ yên lành rất khó tả lúc này, gương mặt “cậu” giãn ra, he hé như “cậu” đang mỉm cười tự hài lòng về một điều gì đấy, cũng có thể là “cậu” đến bây giờ mới ngấm mệt mà ngủ tít mít. Hình như tận đâu đó “cậu” cũng đã hiểu lời an ủi của ông Thìn đen.
Không gian đậm đặc một mùi hương hoa cúc. Dường như thứ dịu mát đột ngột đã ép mùi hương hoa cúc lại không cho mùi hương ấy bốc lên cao. Hương hoa lởn vởn quyện quanh những khóm hoa. Ông Thìn đen bấy giờ mới thấy ê ê đầu gối. Ở vào cái tuổi ngoại bảy mươi cho dù là người lao động quanh năm thì cũng đến lúc chân chồn gối mỏi. Ông soài cả hai chân ra cho đỡ gò bó. Từ lúc ngồi chìa lưng làm chỗ tựa cho “cậu” ngủ, ông Thìn phải co cứng chân tay, không dám ngọ nguậy. Lần đầu tiên trong đời ông mới có được chút ít thời gian gọi là tạm nghỉ. Mùi hương từ những bông hoa cúc đang đua nhau nở rộ hoảng hoắc xông lên làm “cậu” Tuất khó thở, “cậu” khò khè, ngúc ngoắc đầu kiểu lấy hơi làm ông Thìn đen lo ngại.
“Cậu” vất vả quá. Nhưng sao lại liều lĩnh về làng có một mình?
Ông Thìn đen thở dài thườn thượt tỏ ra ân hận, ông cảm thấy trong việc này mình cũng có lỗi một phần. Việc “cậu” tự nhiên về làng, lại về chỉ có một mình làm dấy lên trong đầu ông bao câu hỏi. Vì sao mà “cậu” lại có quyết định về làng? Ai là người đưa “cậu” về hay chính cậu tự đi? Nhưng quan trọng nhất là ở trên Hà thành đã xẩy ra chuyện gì nên nông nỗi? Ông Thìn đen chau mày băn khoăn như chính ông mới là kẻ gây nên chuyện. Từ hôm làm đám tang, đưa cụ Lang Thân về đồng làng ông Thìn đen ở lại làng luôn. Mấy chục năm gắn bó với cụ Lang Thân, gắn bó với gia đình cụ Lang nên ông Thìn đen hiểu rằng vắng ông trong ngôi nhà ấy hẳn đã có chuyện gì đấy? Trong lòng ông rộn rạo những suy nghĩ mà chẳng có suy nghĩ nào ra suy nghĩ nào. Nắng dịu nhưng không làm ông hết ưu tư. Khẽ nghe nghé đầu liếc mắt sang bên “cậu” để nghe ngóng, ông Thìn đen tạm vơi băn khoăn. Trong giấc ngủ giữa đồng hình như “cậu” trông “ngoan” hẳn. Trái ngược với hình ảnh “cậu” ở nhà.
“Cậu” từ lúc sinh ra đến giờ chỉ quanh quẩn với bốn bức tường. Nơi “cậu” đi xa nhất là ra tới mép cửa khi mẹ “cậu” bước vào mang cơm cho “cậu” mà chưa kịp khóa khép lại. “Cậu” thập thò bên mép cửa nhưng không dám bước chân đi thêm một bước. Ngoài mép cửa hình như là thế giới khác. Một thế giới không dành cho “cậu”. Ông Thìn đen mấy bận toan nói với mẹ “cậu” cho “cậu” ra xa hơn một chút nhưng chính ông lại ghìm lời nói của mình lại. Trong gia đình này không ai được phép làm gì nếu như chưa có sự đồng ý của cụ Lang Thân.
“Cậu” đừng trách gì ông cụ. Ông cụ là người thương “cậu” nhất nhà, cụ thương “cậu” hơn tất cả chúng tôi nữa.
Ông Thìn đen di di mũi chân vào rãnh luống hoa, mũi chân làm cày lên lớp đất mùn xốp và nhẹ tênh, hiện tại ông không biết làm gì hơn là ngồi yên ở bên bờ ruộng này và chìa lưng đỡ giấc ngủ cho “cậu”. Trong lòng ông tuy “cậu” có đôi chút khiếm khuyết nhưng “cậu” vô hại và vô cùng đáng thương, “cậu” là tất cả những gì mà ông thường lén nhìn qua khe ổ khóa quan sát mọi cử chỉ. Căn phòng nhỏ luôn khóa ngoài, vắng vẻ đồ đạc là chỗ để “cậu” lớn lên và nhìn nhận thế giới với con mắt của người vô cảm giác. Hình như thế giới bên ngoài, nói cách xa xôi. Và gia đình cụ Lang, nói một cách gần gũi luôn xa lạ với tâm trí và nhận thức của “cậu”. Hình như “cậu” chưa có chút khái niệm gì gọi là mơ hồ nhất về những gì không có trong căn phòng của “cậu”. Việc “cậu” đột ngột tự về làng và hiện đang tự tại ngay giữa cánh đồng ngập một màu vàng của hoa cúc như là phép màu kỳ lạ. Sự kỳ lạ lóa mắt nên khiến đôi mắt của “cậu” phải nhắm nghiền lại, “cậu” đâu có ngủ? Ông Thìn đen cho là vậy và mắt ông nhìn vượt qua đầu khóm cúc trước mặt mà thẫn thờ nói. Một chút cảm động ùa vào lòng làm ông bị lạc giọng, khàn trầm hẳn. Nhất là khi nói về ông cụ. Với ông Thìn đen thì cụ Lang là những gì ông tôn kính nhất, ông trân trọng nhất và ông lắng nghe nhất.
Tôi theo ông cụ lên Hà thành từ khi tôi mới có mười hai tuổi.
Rất chân thành, ông Thìn đen thủ thỉ như nói với chính mình trong khi thực ra ông bắt đầu kể cho “cậu” nghe về những gì “cậu” chẳng thể nào hiểu được. Có gì đấy thôi thúc ông Thìn đen, nó thúc giục ông không nên chần chừ thêm nữa. Ông phải kể cho “cậu” nghe.
Tôi sẽ giúp “cậu” hiểu ra.
Ông Thìn đen nhắc lại chính cam kết của mình lúc ông dìu “cậu” đi chập chưỡng trên bờ ruộng.
Mười hai tuổi chú bé tên là Thìn đen được cho theo ông Lang Thân làng Dục lên Hà thành. Cuộc ra đi như một sự toan tính bởi gia cảnh nhà chú bé Thìn đen rất neo túng và hơn nữa lại chịu ơn lớn cụ Lang. Vốn tính chăm chỉ, ngoan và biết nhịn lời, chú bé Thìn đen xem ra là người hợp nhất với việc theo ông Lang Thân làng Dục lên Hà thành làm ăn. Đó đâu như là cuối thu năm Canh Thìn. Cái năm mà những người lính Nhật bắt đầu vào xứ Đông Dương. Hình ảnh những người lính Nhật cũng thấp bé như những người đàn ông làng Dục nhưng khá oai hùng khiến bao ánh mắt trai làng nhìn theo trầm trồ. Những người lính Nhật thấp bé, chân dận giầy nhà binh đi thành lỗ thành dấu trên đường, bên sườn những người lính Nhật nhũng nhẵng thanh gươm, mũ đội đầu vải mềm có hình mặt trời đỏ mà đã tạo ra cả khí thế hừng hực khiến mọi trái tim dõi theo thán phục. Hãy nhìn họ mà học tập. Người Nhật cũng máu đỏ da vàng như mình sao họ lại giỏi hơn mình, họ đi tới đâu là những tên lính Pháp mũi đỏ au, mắt xanh như mắt mèo, da trắng nhởn, cao lênh khênh cũng phải dè chừng. Những tên lính Pháp o ép mình quá, mới chỉ có mấy người Nhật tới mà họ đã co rúm cả lại. Kể cũng khoái. Thì ra vấn đề là cái đầu chứ không phải ở chiều cao. Người Nhật thấp bé làm điên đầu người Pháp cao kều thì người làng Dục bé nhỏ cũng có thể làm thay đổi diện mạo của cái làng quê nghèo hèn này. Nghĩ tới đó ông Thìn đen càng thêm vị nể cụ Lang Thân làng mình, cụ Lang Thân thực sự là một tấm gương ngang với người Nhật bởi cụ đã tạo nên cả sự thay đổi kỳ diệu. Ông thìn đen gật gù vô cùng tâm đắc với nhìn nhận của mình.
Gia tộc Thanh Vàng – Tiểu thuyết của Nguyễn Trọng Văn
Theo cụ Lang Thân làng Dục lên Hà thành vào đúng thời kỳ đó cũng là cách mà gia đình chú bé Thìn đen trông chờ ở chú. Nhất là theo ông Lang Thân thì chẳng có gì phải băn khoăn. Chú bé Thìn đen náo nức nhìn đường phố Hà thành mà hy vọng sẽ có ngày được mở mày mở mặt.
Ông cụ thương người nên ông cụ làm nghề thuốc.
Ông Thìn đen ngừng hồi tưởng về cụ Lang Thân, ông nhắc lại với “cậu” trong khi “cậu” vẫn ngủ mê mệt và không thôi nhỏ từ miệng ra những sợi rớt rãi. Không vấn đề gì. Miễn là “cậu” còn nghe thấy tôi nói là được. Ông Thìn đen thầm nói với mình và tiếp tục câu chuyện.
Làng Thanh Vàng mình xưa có tên gọi là làng Dục.
Ông Thìn đen mới thong thả bắt đầu giải thích. Đám mây trôi qua làm dịu khoảng chỗ hai người ngồi giờ đang dần tỏa tán. Nắng đang mang cái hanh khô thường nhật của tiết thu lên da thịt. “Cậu” bị đánh động bởi cảm giác hanh khô, “cậu” lại ngọ nguậy cái đầu trơ trốc trông đã dài lại thêm dài. Ông Thìn đen khẽ lắc đầu.
“Cậu” là gánh khổ của cuộc đời này..
Hơi chua chát, ông Thìn đen thầm thì nói với khóm hoa cúc ngay trước mặt. Hoa cúc, thứ hoa làm vinh danh và rạng rỡ cho gia đình “cậu” nhưng “cậu” không thể nào biết được điều đó.
Làng Thanh Vàng thuở xa xưa có tên là làng Dục. Một cái làng nhỏ và lẩn khuất giữa bao làng quê khác của vùng Kinh Bắc xưa. Làng chỉ cách Hà thành có đâu chừng hai mươi cây số. Lại tiện đường đất đi lại. Sự tiện này chính là điều kiện cho trai làng Dục học hỏi cái hay cái khéo từ khắp vùng. Cái tên Dục chẳng biết từ đâu mà thành nhưng đọc lên nó gợi những cảm xúc khác nhau. Nhưng tận sâu thẳm nó lại là gợi ý cho những người con của làng này.
Đồng đất làng mình là những đường thẳng song song với nhau nên chẳng khi nào gặp được nhau.
Nếu lấy đường quốc lộ số 5, đoạn chạy ngang qua địa phận làng Thanh Vàng là đường thẳng đầu tiên thì thứ tự tiếp theo là cánh đồng trồng toàn cây hoa cúc là đường thẳng thứ hai. Cánh đồng ngàn mẫu chạy dài dọc theo chiều dài của đoạn đường hơn một cây số, bởi thế khi đi trên đường mọi người được cái thú thoải mái nhìn ngắm cánh đồng hoa. Về mùa thu, hoa cúc bắt đầu nở rộ khoe một màu vàng trải từ tây tới đông. Nếu như không có con đường đất rải đá xuyên giữa cánh đồng thì cảm giác còn dài rộng hơn. Con đường đất nối quốc lộ 5 với cái làng bên kia cánh đồng thực ra được hình thành nhằm giúp việc đi từ trong làng ra quốc lộ đỡ phải vòng xa. Làng Thanh Vàng chạy dài song song với đường quốc lộ và được ngăn cách với quốc lộ 5 nhờ hai đường thẳng khác. Một là cánh đồng ngàn mẫu chuyên trồng hoa cúc và hai là con đường nhỏ chạy dọc bìa làng bên hướng bắc. Con đường này cũng bằng đất nhưng nó không rải đá mà nền đường mềm mịm. Người làng Thanh Vàng canh tác ngoài đồng không cần trâu hay bò hay bắt cứ thứ nông cụ nào khác có thể làm hư hại con đường dọc bìa làng nền đất mềm mịm. Việc canh tác ngoài đồng chỉ cần những dụng cụ đơn giản bởi đất trồng hoa cúc khá mùn xốp và tơi nhuyễn. Thứ đất màu pha cát chỉ cần cuốc xới nhẹ nhàng là đã có thể tạo thành những luống hoa chạy từ đầu bờ này sang tới đầu bờ bên kia. Ruộng rộng thì luống hoa dài, ruộng hẹp thì luống hoa ngắn.
Làng Thanh Vàng chạy dài còn bởi nó nằm trên dải đất hẹp lọt giữa một bên là quốc lộ 5 còn bên kia là sông Như. Sông Như không rộng nhưng đủ để cho ai đó có thể lấy cảm hứng trên sông khi thong thả đẩy thuyền đi và gõ lanh canh vào mạn thuyền, tiếng gõ khêu gợi lũ cá sông bơi thành đàn, bụng trắng phỡn, nổi lên mặt sông ăn tiếng gõ. Chảy như ôm lấy bìa làng bên hướng nam nên về mùa hè gió thổi qua mặt sông Như đưa vào làng hơi nước man mát, làm tươi tốt những búi tre ngà mọc lúp xúp bên mép sông, mà nhất là làm xanh um những cây sấu cao hơn nóc nhà ở trong làng. Nhớ tới đây ông Thìn chợt bồi hồi nuối tiếc. Mấy chục năm theo cụ Lang Thân, nghĩa là từ năm mười hai tuổi đến giờ ông chưa một lần tắm lại trên con sông ấy. Chút nuối tiếc làm ông thấy tiêng tiếc như đang hụt hẫng giữa đồng.
Nó giống như cuộc đời này làm ta mãi kiếm tìm.
Ông Thìn đen nghĩ tới đó mà buồn ra mặt. Gương mặt rám nắng càng sầm lại những ưu tư của người từng trải và nhiều phiền muội. Cả đời theo cụ Lang Thân làng Dục là cả đời ông Thìn đen chỉ biết vâng lời và thực hiện cho dù ông đôi khi cũng có chính kiến. Tuy nhiên nhưng chính kiến ấy chỉ là suy nghĩ vì nó chẳng khi nào được bộc lộ ra ngoài.
Người làng Thanh Vàng giải thích nhiều kiểu khác nhau về tên gọi Thanh Vàng thay cho tên gọi làng Dục nghe hơi khơi gợi những ý nghĩ không lành mạnh. Có người bảo cái tên Thanh Vàng ra đời bởi làng chạy dài từ đông sang tây nên ánh nắng chẳng khi nào vắng bóng. Màu vàng của nắng chiếu dọi từ tinh mơ tới chiều muộn khiến ai đó nhìn từ xa lại thấy cả làng như vàng óng lên. Tên gọi là Thanh Vàng theo cách giải thích này cũng ý nghĩa nên nghe thấy được.
Người thì nói cái tên Thanh Vàng nghĩa của nó khởi nguyên từ vị chua chua ngòn ngọt của trái sấu chín. Cả làng Thanh Vàng ẩn mình dưới tán lá xanh đậm của những cây sấu giờ đã thành cổ thụ. Không hiểu vì lý do gì mà làng chỉ trồng chuyên loại cây sấu trong làng. Thứ cây thi nhau đổ lá như những trận mưa rào mỗi khi mùa đông sắp tới. Lá sấu rụng vàng khắp trong vườn, ngoài sân. Rụng vàng trên  những mái nhà, trên những mớ tóc của bầy trẻ con nô đùa ngoài xóm. Nhất là khi vào tiết cuối thu, từng chùm trái sấu chín khoe màu đỏ vàng giữa những tán lá sấu cũng đang chuyển từ màu xanh đậm sang màu vàng. Nhìn cái màu đỏ vàng của lá sấu, cùng cái vị chua chua ngòn ngọt của quả sấu chín thì cái tên làng gọi là Thanh Vàng xem ra cũng có lý.
Cũng còn một cách giải thích khác nữa. Đó là bởi màu nước của con sông Như quanh năm vàng đỏ. Màu nước lúc giữa trưa hắt lên long lanh, sông nhẹ chảy, thẫn thờ tạo nên cảm giác hơi buồn vắng. Trong cái buồn vắng ấy có người đã thốt lên thành cái tên làng là Thanh Vàng, một cách nói chệch để chỉ sự đơn điệu, vắng lặng và thanh nhàn ở làng quê này.
Tên làng gọi là Thanh Vàng do ông cụ nhà mình đặt nên đấy.
Ông Thìn đen nói dứt khoát. Trong thâm tâm ông thì đây mới là cách giải thích chính đáng nhất. Trời lại có thêm một chút râm mát. Đầu thu thật nhiều lý thú. Những thay đổi liên tục bởi ánh sáng và không khí làm con người có những giây phút đổi thay trong ý nghĩ. Ông Thìn đen quay hẳn sang nhìn “cậu” Tuất đang ngủ, một chút động lòng lại dội về khiến ông thấy cay cay. Bao cảm tình cùng sự trân trọng của ông, ông đều hướng về một người: Đó là cụ Lang Thân làng Dục. Ông chủ hãng thuốc Thanh Vàng lẫy lừng trên đất Hà thành.
…ôi ….ang…ở…âu…?
“Cậu” đang ở ngay chính cánh đồng  làng mình.
…ông….ải….o…ôi…ề..à…
“Cậu” đã tỉnh ngủ từ khi nào, trái ngược hẳn với mọi khi, lần này “cậu” tỉnh ngủ lại rất ngoan và hiền. “Cậu” há hốc mồm ra như chính “cậu” đang nuốt từng lời trong câu chuyện mà ông Thìn đen đang hồi tưởng. Có lẽ trong hoàn cảnh thật dễ chịu và chân tình này mà “cậu” không nghịch như mọi khi. Mọi khi tức là lúc chỉ có mình “cậu” trong căn phòng luôn khóa cửa ngoài ấy. Trong phòng không đồ đạc ngoài hai thứ. Một là chiếc bô dành chuyên cho “cậu” ỉa đái vào đấy và hai là manh chiếu mới thay đã nhàu nhĩ. “Cậu” nghịch ngợm nhưng chẳng có gì để “cậu” nghịch nên manh chiếu là nơi cho “cậu” nằm chẳng mấy chốc bị bàn tay “cậu” bứt, giằng, cấu và xé. Manh chiếu lòi thòi những sợi dây đay cùng những mẩu cuống chiếu gãy rụng. Duy chiếc bô thì “cậu” không khi nào nghịch ngợm. Có lẽ những người tâm thần yếu kém nhất cũng hiểu cái bô là chỗ chứa đồ cặn bã bẩn thỉu.
“Cậu” đã tỉnh ngủ. Để tôi đưa “cậu” đi thăm tiếp.
Ông Thìn vỗ về. Cách nói của ông với “cậu” luôn có khoảng cách trật tự hay khuôn phép cho dù ông Thìn đen luôn tỉnh táo và năng động chân tay còn “cậu” Tuất luôn u mê và chân tay loằng nhoằng động đâu đổ vỡ đấy. Trên cái bờ ruộng nhỏ chỉ đủ chỗ đặt hai bàn chân của một người có hai người, một cao lều khều vụng dại chân tay đi cà nhắc cà nhắc đang như dựa hẳn vào một người thấp đậm đi từng bước chắc như đóng gạch. Ông Thìn đen đi dưới ruộng, ông nhường con đường bờ ruộng nhỏ xíu cho “cậu” đi. Lần này hai người đã đi sang tới thửa ruộng thứ ba. Thửa ruộng thứ ba này lớn hơn hai thửa ruộng đã qua. Những luống hoa cũng dài hơn, cây hoa cúc cũng nhiều hơn và dĩ nhiên hoa cũng nở vàng nhiều hơn.
Công của cụ Lang Thân với làng này lớn lắm.
…ôi…ông…iết…âu…
“Cậu” chẳng thế nào biết được. Đơn giản “cậu” còn quá nhỏ để hiểu câu chuyện và hơn nữa “cậu” cũng không đủ trí tuệ để nắm bắt. Đi những bước cà nhắc đầy vất vả, “cậu” như đổ hẳn người vào tấm lưng dầy chắc của ông Thìn đen. Hình như những lúc như thế này tấm lưng của ông Thìn đen lại chắc thêm lên thì phải. Bằng chứng là ông Thìn đen đặt những bước chân trần chắc đanh xuống mặt ruộng. Mũi chân dúi thành vết tròn tròn nối nhau đều đều trên nền đất màu pha cát. Những dấu mũi chân tròn tròn như vết chân chó chạy trên mảng sân phủ đầy tro bụi bữa làng vun đốt hàng đống lá sấu vàng rụng. Lá sấu vàng rụng xuống có vị đặc biệt ngay cả khi đã cháy thành tàn tro. Người làng Thanh Vàng dùng tro lá sấu trộn với phân lợn, trát bùn ao ủ hoai đợi mùa xuân năm sau khi thời vụ làm đất cho ruộng hoa cúc tới. Phân lợn ủ hoai đến mùa xuân thì được dỡ đem vùi luống. Từng luống hoa mới được đánh bằng rộng chừng tay với, cao hơn mặt rãnh luống độ gang tay. Đấy là dịp cả làng đổ ra đồng làm đất cho vụ trồng hoa cúc tiếp theo.
Hoa cúc trồng theo vụ, mỗi năm làng chỉ trồng một vụ hoa. Mỗi cây hoa cúc nhanh chóng hoàn thành phận sự của mình sau vụ thu hoạch hoa. Vụ sau hoa cúc lại được trồng cây mới bắt đầu từ những cây hoa cúc giống đánh từ vườn nhà trong làng ra. Vụ làm cây hoa cúc bắt đầu sau khi cả làng ăn tết. Tháng ra đồng giữa làn mưa xuân lây phây có nhiều dư vị ấm nồng quấn quýt. Chú bé Thìn đen, bé con con chạy lòng ròng khắp đồng. Bàn chân của chú in dầu tròn tròn đều đều hết ruộng này qua ruộng khác, hết rãnh luống hoa này sang rãnh hoa khác. Mưa xuân lây phây càng chạy càng nóng người xua đi cái lạnh tê tê cong cóng đầu xuân.
Làm hoa cúc không dễ như “cậu” nhìn đâu nhé
…ông…ói….ái…ì…ế?….
Tự dưng ông Thìn đen thấy hào hứng. Trong ông dù xa làng mấy chục năm hay nói đúng là rời xa công việc ngoài đồng mấy chục năm nhưng cung cách làm ăn đã ăn sâu vào từng thớ trên da thịt ông. Từ bữa đưa cụ Lang Thân về làng và ra đồng với tổ tiên đến giờ ông Thìn mới có được thời gian nhàn rỗi. Nhàn rỗi nhưng lại có việc, đó là việc sáng nay ông đưa “cậu” đi thăm đồng làng, nó làm ông nhớ lại. Người làng Thanh Vàng dù có chôn sâu dưới ba thước đất nếu được đội mồ sống lại cũng chẳng cần phải học lại cách trồng hoa cúc như thế nào. Nó là máu thịt, là cõi người của người dân cái làng tên nôm là Dục này.
Chăm hoa cúc tưởng dễ nhưng kỳ tình còn khó hơn chăm trẻ
…ông…ói…..ì…ế?…
Cây hoa cúc giống được đem ra trồng ngoài đồng vào giữa xuân, được tắm tưới nước mưa của mùa hè nên lớn nhanh trông thấy. Chẳng mấy tháng mà từng luống hoa cúc tốt tươi, thi nhau khoe màu xanh của lá. Nhưng để có nhiều hoa và hoa nở vàng đồng thời cần qua một công đoạn. Đó là gần hết hạ, người ta lại lũ lượt ra đồng ngắt ngọn, tỉa bớt lá. Cách thức này khiến thân hoa dồn nhựa lên từng nhánh và trên từng nhánh cây hoa cúc mọc vô số mầm hoa. Cho tới đầu thu thì ruộng hoa đua nở. Những bông hoa cúc vàng đều đều, xinh xinh đón nắng thu mà nở. Mùa thu hoạch hoa đã tới. Khắp trong làng hay ngoài đồng râm ran tiếng người gọi nhau đi thu hái hoa cúc.
Ông Thìn đen dừng lại, “cậu” cũng theo đó mà đứng tênh tênh. Cái đầu của “cậu” lại nghênh nghênh, “cậu” ngỏng cổ vươn nhìn theo hướng tay chỉ của ông Thìn đen. Đến lúc này có vẻ như “cậu” Tuất đã gần hòa nhập với khung cảnh thu hái hoa đang diễn ra rất nhẹ nhàng nhưng không kém phần khẩn trương. Mùa thu hái hoa cúc diễn ra ngắn bởi hoa cúc sau một tuần nở rộ sẽ se cánh lại. Thu hái chậm nghĩa là sang giữa thu là năng suất không cao. Dịp giữa thu khi về đêm đã xuất hiện mưa sương. Sương thu mới cuối chiều đã đổ xuống đồng. Ai đó chỉ cần đưa tay lên vuốt tóc trên đầu là cảm nhận được cái ươn ướt lành lạnh của sương. Sương đổ xuống se giá làm hoa cúc sun lại, cánh hoa không xòe rộng hết cỡ nữa mà nó như cong cong, màu vàng tươi nhường chỗ cho màu vàng sin sỉn. Hương vị cũng sầu theo. Thu hái lúc này hoa không như ý muốn. Ý muốn tức là giá trị cũng như công dụng của hoa không cao. Đem bán ít được lời.
“Cậu” thấy không? Thu hái cũng đòi hỏi không chần chừ được.
…ái…ì…ơ…?
Ông Thìn đen không để ý đến chuyện “cậu” muốn hỏi gì. Ông đang thả hồn với thứ hoa mà đời ông gắn bó. Từ hồi theo cụ Lang Thân lên Hà thành ông không có điều kiện trực tiếp với hoa. Hoa cúc về tới chỗ cụ Lang Thân thì nó đã thành thứ dược liệu mất rồi.
“Cậu” đừng tưởng thế là xong nhé. Hoa thu hái về còn ối việc.
Từng thúng hoa cúc nhanh chóng được mấy bà mấy chị xếp chồng lên nhau mà quẩy gánh về làng. Gọi là quẩy về làng nhưng thực ra chỉ là gánh từ ruộng hoa lên con đường đất mịn chạy dọc bìa làng bên hướng bắc. Dịp này con đường làng đất mịn ấy trở thành một cái sân phơi dài và vàng rực. Ai đi ngang qua đều phải lấy tay che mũi. Hương hoa cúc phơi nắng xông lên thứ mùi đậm nặng và hoảng hoắc rất khó thở. Người quẩy những thúng hoa lên tới đường thì hạ gánh, dải những bông hoa thành lớp mỏng trên những tấm cót đan bằng tre. Từng tấm cót tre dài sõng sượt kéo từ đầu làng đến cuối làng. Khác với nắng hè, nắng thu không nồng nã và gay gắt nên khi phơi hoa cúc chỉ se mềm chứ không khô giòn mà gãy vụn. Hoa cúc phơi nắng từ trưa tới chiều thì vừa đủ se se nhựa hoa. Se se mềm mềm nên cánh hoa vẫn bám chặt quanh nhụy, cánh hoa như vẫn còn nguyên thành bông hoa. Nhưng bông hoa cúc se mềm lại được vun lại để trong thúng. Giờ thì hoa mới được đem vào trong làng.
“Cậu” ngửi đi. “Cậu” sẽ không quên được cái mùi này đâu.
Ông Thìn đen ngắt bông hoa gần bờ nhất đưa lên di dí vào sát mũi của “cậu”. “Cậu” hơi co người lại vì “cậu” tưởng ông Thìn đen đang làm gì mình. Như chợt hiểu ra ý thiện của ông Thìn đen là muốn “cậu” tận hưởng thực tế cái hương vị riêng có của làng, “cậu” Tuất nhăn nhăn mũi hin hít. Sau từng nhịp hin hít như vậy cánh mũi của “cậu” lại nở ra. Mùi hoa cúc hoảng hoắc không làm cậu hắt sì hơi liên tục như lúc “cậu” ngã dúi mắt xuống luống hoa. Từ sáng tới giờ “cậu” đi trên cánh đồng hoa nên có vẻ “cậu” đã quen dần với thứ hương đậm đặc khó chịu này. Mắt “cậu” ánh lên, “cậu” cui cúi nhìn luống hoa, vẻ mặt “cậu” như định nói điều gì đấy.
Đấy là hương của làng mình.
Lòng nhẹ khỏe, ông Thìn đen nói rất chân thành. Ông sung sướng ra mặt khi thấy “cậu” của ông đã phần nào hiểu được. Chuyện lạ là thế, bất cứ những đứa trẻ con nào ngay từ khi vừa cất tiếng chào đời đã được cha mẹ nó cho hít hương hoa cúc. Hít để nó ngấm trong huyết quản ngay từ buổi đầu đời cái mùi vị của làng. Cách thức dí bông hoa lên mũi của “cậu” của ông Thìn đen cũng là thế. Mùi vị hoa cúc sau khi đã ngấm vào cơ thể nó sẽ ngự trị và tồn tại trong con người của cái làng này. Tồn tại và ngự trị để khẳng định, hoa cúc trở thành máu thịt. Người làng Thanh Vàng ăn, ngủ, cười nói và buồn vui với hoa cúc. Họ sống chết với hoa cúc.
Làng Thanh Vàng như một dải đất hẹp chạy song song với hai chủ thế chính. Một là đường quốc lộ số 5, con đường đã đưa hoa cúc đi xa. Và hai là dòng sông Như màu ánh vàng dưới nắng. Con sông bốn mùa nhè nhẹ mà thẫn thờ chảy, nó là cái níu kéo người làng lại với mảnh đất này. Sông Như buồn nhưng là cái buồn gợi cảm. Vẻ gợi cảm của sông Như nằm ở chỗ dòng sông êm xuôi chứ không ồn ã như con đường quốc lộ đang sôi lên không nghỉ. Sống trên dải đất hẹp do vậy người làng Thanh Vàng luôn có ý chí vươn lên. Nghĩ tới đây tự dưng ông Thìn thấy lòng nghẹn lại. Đôi mắt ông cố hướng ra xa nhằm giấu cảm xúc bồi hồi. Bàn tay ông hơi run run, kiểu run run của những người hay hoài niệm trái ngược hẳn với cái dáng đứng nghênh nghênh, miệng liên tục nhỏ ra những sợi rớt rãi của “cậu”.
“Cậu”…..
Ông Thìn đen kịp dừng lại một câu trách móc dành cho “cậu”. Lòng ông lại thêm bồi hồi. Ông thầm lén nhìn “cậu” đang nghênh nghênh ngóng mặt lên trời.
…ông…ói…ì…i…
Không ngờ “cậu” lần này lại giục ông Thìn nói chuyện tiếp. Bầu trời đi ngang qua chỗ hai người đang đứng như tạm ngừng lại. Nắng thôi hanh hao, gió từ hướng đông nam thổi tới mang theo cái âm ẩm của hơi nước làm dịu không gian. Ông Thìn đen vẫn cúi đầu, ông đang cố che những giọt nước mắt đang trào nhẹ nơi khóe mắt.
Cụ Lang Thân làng mình  thật có óc nhìn xa, trông khắp.
Rồi ông Thìn đen ngoằng tay kéo ngang thân đỡ “cậu” ngồi xuống mô đất gần đấy. Mô đất ấy không biết ai đã vun cỏ nhặt trong luống hoa lâu ngày mà tự nhiên đắp thành điểm dấu nhằm xác định ranh giới phần ruộng hoa giữa hai nhà nào đó. Ngồi nghỉ trên mô đất này “cậu” có thể nhìn ngắm được rộng xa cánh đồng hơn. Vả lại đi đứng trên bờ ruộng chật chưỡng như vầy “cậu” cần được nghỉ. “Cậu” đã khi nào đi dài và lâu tới thế bao giờ đâu? Hai người đã tới khoảng giữa của phần nửa cánh đồng. Phần nửa này nằm gọn về mé tây. Nghĩa là nó nằm bên tay phải khi đi theo con đường đất rải đá chia đôi cánh đồng hoa cúc để vào làng. Theo con đường đất rải đá ấy nếu đi vào làng độ non nửa cây số thì tới con đường đất mịn chạy dọc bìa làng xuôi từ đầu tây xuống mạn đông. Nghĩa là đến con đường đất mịn thì rẽ trái. Rẽ trái đi gần tới cuối làng thì dừng lại. Ngôi nhà xưa của cụ Lang Thân giờ rậm rạp cây lá bởi đã lâu không có người ở. Trong vườn nhà những cây sấu cổ thụ lầm lì, đứng trơ thân mấu sù sì, rêu bám xanh bởi cũng đã rất lâu không có thằng trẻ con nào ôm lấy thân cây để trèo lên cây hái quả. Ông Thìn đen kéo “cậu” ngồi sát bên mình. “Cậu” ngồi nép bên vai ông Thìn đen với vẻ mặt chờ đợi. Trông cách ngồi như thế ai cũng nghĩ họ là hai cha con. Thực ra trong thâm tâm ông Thìn đen thì “cậu” ông còn thương hơn cả con mình cho dù ông Thìn đen vì cám cảnh cụ Lang và cũng vì không nỡ xa cụ Lang mà về quê lấy vợ. Một lão ông da dẻ săn chắc và nhám nắng, tuổi đã ngoài bảy mươi ngồi xoay lưng làm chỗ bấu cho “cậu” nghỉ nhìn mà thấy nao nao. Nghĩ thế nên ông Thìn đen càng cố chìa lưng đỡ thân hình chỉ chực ngã của “cậu”.
Làng ta có tên là Thanh Vàng. Tên đẹp thế  do chính cụ Lang nhà mình đặt nên đấy.
Ông Thìn đen nhắc lại rất khẳng định. Chút tự hào làm ông thấy rưng rưng.
…ông…ói..ì…ế?…
Tôi bảo tên làng mình do ông cụ nhà mình đặt.
..ôi….ông…iết….âu….
“Cậu” phải biết. Giờ thì chưa biết nhưng rồi sẽ biết.
Ông Thìn đen đã khá tin tưởng ở chính mình. Chặng đường dự kiến dẫn “cậu” đi thăm đồng thăm làng còn khá dài. Còn khá dài nghĩa là vẫn còn khá nhiều cơ hội. Hai người đã ngồi bên thửa ruộng lớn. Nếu không có chuyện phải chia cánh đồng ra thành nhiều thửa ruộng cho nhiều nhà trong làng thì cánh đồng hoa cúc sẽ dài rộng lắm. Ông Thìn đen chợt nghĩ ngợi, nét mặt ông đanh lại, những ngón tay của ông vô tình co lại thành nắm. Có điều gì đấy như lóe lên trong mắt. Ngoài mặt ruộng những người thu hái hoa cúc ngừng tay, họ ưỡn thẳng lưng cho đỡ mỏi, họ quyệt tay che nắng, ngóng mắt nhìn lên bờ ruộng chỗ hai người đang ngồi rồi quay sang thầm hỏi nhau. Ai đang đi với ông Thìn đen thế nhỉ? Hỏi nhau thế nhưng nào có ai bước lại gần hai người đâu. Dân làng này quá quen với cảnh thi thoảng có những người khách phương xa vì thấy cảnh thấy hoa cúc vàng đẹp mê lòng mà dừng chân bên ruộng hoa cúc xem hái hoa. Cũng có người tò mò hỏi hoa cúc dùng làm gì mà trồng nhiều thế? Họ hỏi vô duyên nhỉ. Không có tác dụng gì thì ai trồng làm gì. Thế mà cũng hỏi.
Ông cụ nhà mình là người đầu tiên đem hoa cúc về làng.
…ôi…ông..iết …âu…
Cũng chẳng sao. “Cậu” cũng như trăm ngàn người khách vãng lai lần đầu tới mà thôi. Mới tới biết gì mà nói.
Ông Thìn đen ý hơi ngậm ngùi nên nói mà như tự an ủi mình. Mắt ông rực lên những tia sáng. Ông đang nhớ lại. Nhớ lại những gì ông biết được và nhớ được.
Đó là dịp cuối xuân năm Mậu Thìn  đấy.
 ……ái …ì …ơ?….
Đã nửa buổi sáng trôi qua. Trên những ruộng hoa cúc đã lác đác có người bưng từng thúng đựng đầy hoa đã hái lên đặt trên bờ ruộng. Đã lác đác có người từ trong làng đi ra, họ quẩy quang gánh tênh tong đi tới. Những thúng đựng đầy hoa cúc đã hái đang chờ người tới quẩy nó đem lên phơi trên con đường đất mịn chạy dọc bìa làng. Người làng Thanh Vàng đã có sự phân công trong công việc. Ai có việc của người ấy. Việc phơi hoa cũng không đơn giản. Không biết dải đều hoa, các bông hoa vón cụm lại thành đám sẽ khô se không đều. Không đều dễ sinh nấm mốc.
Ông Thìn đen chỉ tay ra phía xa trước mặt. Phía đó màu vàng chỉ nhìn bằng mắt thường cũng thấy như dâng lên tận trời.
3
… Ôi… uốn… ề… à…

… O… ôi… ề…
Mặc kệ cho “cậu” ngồi lắc nghiêng chỉ chực sắp đổ trên mô đất, nét mặt thiểu não, giọng mếu máo, nước mắt, nước mũi, rớt rãi nhỏ xuống thành những sợi dài. Ông Thìn đen ái ngại nhìn lên bầu trời chỗ hai người ngồi, bầu trời cao xanh, không một mái che. Đã tới đầu giờ trưa nên cái nắng đầu thu vàng nhạt đã mau chóng chuyển sang thứ nắng cuối hè vàng bỏng lưng. Chiếc nón từ lúc ông Thìn đen đưa cho “cậu” đội bây giờ mới tỏ ra có giá trị. Dưới vành nón cũ đã ngả sang màu sầm sì, gương mặt của “cậu” trông giống như quả sấu rụng trong vườn, nó đã thâm  lại và đang bắt đầu héo. Quả sấu rụng thâm héo đang mếu máo khiến ông Thìn đen càng thêm ái ngại. Ông đang cố tự hỏi mình sao những người như “cậu” mà cũng có lúc cảm thấy nhớ nhà? Nỗi nhớ nhà của “cậu” có giống nỗi nhớ nhà của ông hồi ông mới có mười hai tuổi không? Năm ông mười hai tuổi ông đã xa nhà. Cuộc đi xa của ông dài những hơn sáu mười năm ông mới được trở về làng thực sự. Giờ mới là lúc cho ông có được thời gian rảnh rỗi để mà nhớ lại.
“Cậu” yên tâm đi.
… O… ôi… ề… à…
Rồi ai cũng có một nơi chốn để trở về..
Lời an ủi của ông Thìn đen phần nào cũng có tác dụng. “Cậu” thôi mếu máo nhưng cái mặt còn dài thuỗn ra. Những người có vấn đề về sức  khỏe tâm thần tuy khó chiều nhưng biết cách lựa lời để chiều cũng không khó. Ông Thìn đen ngồi bệt, đũng quần mài đất ngay dưới chân “cậu”, nên ông phải quay cổ, ngửa hẳn mặt lên để nói với “cậu” những câu an ủi. Có lẽ nhìn khuôn mặt tròn tròn nhám nắng của ông Thìn đen trông giống như một cái chảo rang thính làm mồi nhử lũ cá ngoài sông Như. Cái chảo nhọ nhem khi ngửa lên trông có vẻ là lạ, ngồ ngộ hay sao mà “cậu” bỗng trề môi, toét miệng cười. Một nụ cười chỉ toàn rớt rãi nhỏ ra thành sợi.
“Cậu” còn sướng hơn ông cụ.
…Ôi ….ông..iết..âu
Ông Thìn đen nói thêm khi thấy “cậu” toét miệng cười. Quả thực nếu nói về thời tuổi trẻ thì cụ Lang Thân làng Dục đâu có sung sướng. Ai bảo ông cụ sinh năm Mậu Thân. Những người tuổi Thân sinh ra đã ngậm ngùi rồi, lại đứng canh Mậu, người mệnh ấy thì thường là những người không được hay đẹp vào tuổi nhỏ. Hồi trai trẻ, cụ Lang Thân làng Dục được mọi người trong làng gọi là anh cả Thân. Anh cả Thân, cũng là một cách gọi nhằm phân biệt ra ai với ai. Anh là con lớn trong gia đình có tới sáu người con, chia đều nửa trai nửa gái của ông bà Dậu. Nhà ông bà Dậu ở cuối làng và cũng nghèo như cả cái làng Dục xưa nghèo dớt. Làng Dục vốn là dải đất thẹo do người Pháp khi mở đường quốc lộ số 5 đã xẻ ngang cánh đồng rộng lớn của phủ Văn Lâm mà thành, làng lọt giữa sông Như và đường quốc lộ số 5 nên ít ruộng canh tác. Hơn nữa có tí ruộng lại chẳng ra ruộng. Mảnh nào cũng cằn, cũng ngắn ngủn. Thứ ruộng ấy biết trồng cây gì cho mọc. Bởi thế dân làng Dục, những người có chút sức vóc đều phải dắt rủ nhau chuyên lên Hà Nội làm thuê. Sức vóc nông dân không ruộng cày, làm thuê cũng chỉ việc chân tay. Việc chân tay tức là ai thuê vác gì thì vác, ai mướn bốc gì thì bốc. Việc thế đủ nuôi miệng đã khó nói gì có dư.
Vậy mà cụ Lang làng mình làm được đấy.
…Ái….ì..ơ?….
Ông Thìn đen đầy hãnh diện, ông chỉ tay vu vơ về phía đằng đông. Phía đằng đông là cuối làng. Cuối làng có ngôi nhà xưa của cụ Lang Thân làng Dục. Ngôi nhà mà giờ đây cây cối xanh um, thân những cây sấu lâu không được người chăm thành thử nó sinh mấu sù sì, rêu bám xanh trèo lên trượt ngã là cái chắc. Hồi anh cả Thân ăn nên làm ra thì đó là ngôi nhà lớn nhất làng. Một ngôi nhà gạch xây, ba gian hai trái, lợp ngói ta, mái nhà nặng dầy ngỡ như gặp trận mưa to là có thể sập. Vậy mà cho đến giờ ngôi nhà ấy vẫn không hề sập. Thế mới biết ngày xưa các cụ dựng nhà đã biết chọn gỗ tốt để làm. Từ hôm làm đám tang, đưa ma cụ Lang Thân về làng, ông Thìn đen ở lại làng luôn. Ông ở lại làng, tính bàn cùng họ hàng cụ Lang xây sửa lại ngôi nhà cũ ở quê lấy làm nơi thờ cúng. Chứ việc thờ cúng cho ông cụ ở ngôi nhà số 98 trên phố Hàng Cân không tiện lắm. Gia đình cụ Lang giờ đây phiêu tán khá nhiều. Thờ cúng tại chính quê hương xem ra vắng con cháu còn có làng xóm họ mạc thi thoảng rảnh việc đi ngang qua cắm giúp mấy nén hương ngày rằm hay mùng một, gọi là khỏi nhang lạnh khói tàn. Việc lo hậu vận không tính sớm sẽ khó lo.
Người mệnh tuổi như  ông cụ đến chết vẫn còn khổ tâm.
Ông Thìn đen bùi ngùi, ông cúi xuống định giấu những giọt nước mắt đang trào ra. Thật lạ, người đàn ông da nhám đen, tuổi ngoại thất tuần mà vẫn còn nhiều tâm sự. Ông Thìn đen kém cụ Lang Thân đúng tròn hai mươi tuổi. Cũng thật tình cờ hai người cùng đứng can Mậu. Ông Thìn đen tự hào về điểm trùng can đó. Ông từng tự cho mình là người hiểu rõ tâm tư và biết đón ý cụ Lang. Người đứng can Mậu được tiếng là thật thà, cương trực, quyết đoán, đã làm là làm bằng được nhưng lại cứng nhắc trong cuộc sống hàng ngày. Cứng nhắc đến nỗi thành bảo thủ. Bảo thủ hóa ra cuộc đời luôn khổ. Ông Thìn đen nhỏ những giọt nước mắt khóc thương mình thì ít mà khóc thương cụ lang Thân thì nhiều.
Đành rằng người mang tuổi như ông cụ về trung hậu tuy có chút tiền bạc nhưng chỉ là đôi chút.
Nắng vàng rát bỏng lưng hơn. Ông Thìn đen rùng rùng người như kiểu muốn rũ nắng trên lưng xuống mà mong tự an ủi chính mình. Hồi ông được gia đình gửi thân cho theo hầu cụ Lang Thân đúng vào ngày cuối thu, cũng vừa xong vụ thu hái hoa cúc, nắng bừng lên giòn lưng áo, rát bỏng vai như hôm nay. Hôm đó chú bé Thìn đen đầu không mũ nón, lút cút quàng tay nải nâu đi như chạy mới theo kịp mọi người ra tới đường quốc lộ để vẫy xe khách lên Hà thành.
..ôi….át..ước…á…
“Cậu” ngọ nguậy cái đầu như quả sấu rụng đã thâm héo dưới vành nón. Trông “cậu” lúc này ngồi trên mô đất, đầu đội nón thâm khác gì một cái nấm rạ sin sỉn. Nhưng “cậu” còn nhận biết về nhu cầu và muốn đạt được yêu cầu của mình nghĩa là “cậu” có thể hiểu được câu chuyện. Ông Thìn đen vui ra mặt, mắt ông chợt khô thoáng như ông chưa hề nhỏ những giọt nước mắt khóc cho mình, khóc cho cụ Lang. Ngần bấy năm ở bên cụ Lang nên ông Thìn đen đã học được ở cụ Lang cách thoát ra khỏi những phiền muội.
Thoát ra khỏi áo quần nhưng nào thoát được day dứt  trong tâm.
Ngoài ruộng hoa, những người đàn bà trong làng luôn chu đáo khi đi làm ngoài đồng, họ luôn có sẵn những chiếc ấm nhôm chỗ rúm chỗ méo, bám đen khói bếp đựng đầy nước quả sấu xanh ngâm kỹ với muối hạt. Thứ nước chua chua mằn mặn nhưng cũng dễ nuốt trôi nhờ được chế thêm nước mưa hứng thân cau đun sôi để nguội. Cùng một cái bát sắt tráng men cáu bám kin kỉn úp thay vung ấm, uống nước sấu ngâm bằng bát sắt đó mới thấy thú. Uống xong thứ nước chua chua mằn mặn ấy nét mặt của “cậu” tươi tỉnh hẳn. Ông Thìn đen lại trách mình vô tâm để “cậu” khát quá hóa nhầu nhĩ.
“Cậu” đã đi được chưa?
Vừa hỏi ông Thìn đen vừa đứng dậy. Ông xốc bên nách “cậu” cố nhấc người “cậu” đứng dậy.
Mộ của ông cụ nhà mình mãi cuối cánh đồng kia.
Hôm đưa ma cụ lang Thân về đồng làng là một hôm mưa nắng thay nhau. Lúc xe tang dừng lại bên đường quốc lộ bầu trời chang chang nắng. Hạ cụ xuống huyệt xong trời bỗng đổ mưa tầm tã. Người trong làng có mặt hết cả. Trong những tiếng khóc tiếc thương ông cụ còn có biết bao những câu ca tụng. Với người dân làng Thanh Vàng này cụ Lang Thân thực sự là bậc cứu tinh bậc nhất.
Cụ nhà mình mang mệnh Đại trạch  thổ. Đất ở ruộng lớn mà..
Không quan tâm “cậu” có nghe giải thích hay không, ông Thìn đen đặt bàn tay ngang lưng “cậu” đẩy “cậu” tiếp tục đi. Ông từ từ buông từng câu giải thích.
 Ái chà. Mệnh ấy bén duyên với đất.
…ôi…ông..iết…âu…
Vẫn chỉ một câu từ đầu tới giờ của “cậu”. Không đáng trách bởi đơn giản “cậu” sẽ chẳng hiểu được ngọn ngành nên không đáng trách. Với “cậu” việc giúp “cậu” hiểu đầy đủ không thể sớm hay không thể chiều được. Hai người chật chưỡng đi men theo bờ ruộng. Họ đang đi tới phía thửa ruộng thứ tư. Thửa này cũng rộng như thửa ruộng thứ ba, cái thửa ruộng có mô đất mà hai người vừa ngồi nghỉ ban nãy. Ngoái nhìn lại chỗ vừa rời đi ông Thìn đen nghĩ còn nhiều thời giờ cho hai người.
Cụ Lang Thân làng Dục đúng là người bén duyên với đất thật. Người mang mệnh thổ có tâm tạng của thứ người mãi quyến luyến, dù ý định làm gì hay đi đâu cũng chẳng khi nào rời xa được đất. Anh cả Thân giống như thứ đất ném đâu cũng sinh mầm, sinh cỏ. Những ngày anh cả Thân theo người trong làng lên Hà thành làm bốc vác và gánh nước thuê cho một lão chủ hiệu thuốc bắc người Tàu bên phố Lãn Ông, anh ngộ thấy các thang thuốc gọi là thuốc bắc ấy chẳng qua cũng chỉ là những thứ cỏ cây hoa lá. Cỏ cây hoa lá thì chỗ nào chẳng có, có đất là có cỏ cây hoa lá mọc, miễn là biết cỏ cây hoa lá nào hợp với vị làm thuốc. Nghĩ vậy nhưng cũng phải đợi lão chủ hiệu thuốc bắc người Tàu có dáng đi khềnh khàng, tiếng cười phơ phớ cùng những cái chém tay vào gió ràn rạt mỗi khi lão nói câu gì dù ngắn nhất gợi ý cho, anh cả Thân mới quyết định về lại làng.
Anh cả Thân tuy dáng vóc thấp đậm nhưng lại giảo hoạt. Người giảo hoạt thường hay sáng dạ, nói một hiểu ba, làm lần đầu còn bỡ ngỡ làm lần hai đã thành thạo. Những ngày làm thuê cho lão chủ hiệu thuốc bắc người Tàu bên phố Lãn Ông, anh cả Thân có đôi mắt sáng, rất chịu khó làm, lại thật thà ngay thẳng. Người đứng can Mậu là như thế. Chính cái thật thà có gì nói ngay, nói thẳng của anh cả Thân mà lão chủ người Tàu, một lão già béo tròn, quanh năm mặc áo kiểu quan gia nhà Thanh buông ngoài chiếc quần ống rộng hay được lão xếch hai bên cạp quần lên. Lão muốn khoe đôi giầy bằng vải nhung đen mà lão xỏ chân vào đó suốt ngày. Lão ăn mặc áo quần giầy dép kiểu đó trông cũng bệ vệ. Mùa hè áo mặc nhưng lão quên thắt nút, hở cái bụng tròn, múp căng, ướt nhoét mồ hôi. Mùa đông lão vận liền ba bốn cái chồng lớp lên nhau làm lộ cái áo trong dài hơn áo ngoài. Một lão già mắt lươn, giọng nói ầm oang, cách phát âm chả ra ta chả ra Tàu, nghe cứ như người nói giả vờ, nghe cứ như chọc vào lỗ tai người khác. Chân tay lão động tí là khua loạn, vậy mà gặp phải anh cả Thân lão cũng phải dè chừng. Lão chủ người Tàu cười khùng  khục, chìa hàm trên khoe mấy cái răng giả vàng rực trong mồm ra mà khen anh “phải lớ”. Lão hì hì cười chữa thẹn cái mánh lới vừa nói liên tằng, vừa nhanh tay xáo xào trộn lẫn thuốc nọ với vị kia để lòe người bệnh đến bốc thuốc của mình. Lão bị anh cả Thân thật thà buông câu đốp chát nói bóc mẽ. Lão nể lắm và cũng bởi lão đâu có làm ra cỏ cây hoa lá được. Lão nể mà bàn với anh cả Thân trở lại quê ở làng Dục, trồng cây hoa cúc chi làm dược liệu cung cấp cho lão. Lão chủ hiệu thuốc bắc người Tàu tính cũng lanh khôn. Thuốc vị Nam dành dành mà lão bán thành thuốc vị Bắc, lợi gấp mười lần tội gì mà không bầy cách.
Dựa cái gian của người ta để mình khôn lên  cũng tốt.
Ông Thìn đen cười ngặt, tay ôm lấy bụng. “Cậu” chẳng hiểu gì cũng há hốc mồm cười hềnh hệch. Có lẽ “cậu” đã bắt đầu hiểu đôi chút. Ông Thìn đen mừng lắm. Cứ ngỡ “cậu” không hiểu gì thì cũng phí công ông giảng giải từ sáng tới giờ.
Nói gì chứ nói trồng cây hoa cúc thì chẳng khó. Cánh đồng làng Dục nói gieo lúa trồng khoai thì vất nhưng lại hợp với thứ cây hoa cúc, thứ cây hoa bụi thấp lùm lùm, nhìn đằng xa lại cứ ngỡ người ta bầy thành dẫy những chiếc bu úp gà trên mặt ruộng. Thứ cây khi đã trổ hoa thì nở ken với lá. Một thứ cây hoa dễ mọc lại mọc đầy như cỏ dại. Vậy mà người làng Dục không một ai nghĩ ra. Lão chủ hiệu thuốc bắc người Tàu xem ra cũng có chút công lao. Ban đầu anh cả Thân về làng trồng tạm dăm luống ruộng nhà gọi là làm thử từ nắm hạt hoa cúc lão chủ hiệu thuốc bắc người Tàu vốc cho. Ai dè cây hoa cúc, thứ cây hoa chẳng mấy mất công chăm sóc lại tốt vù vù. Đến đầu thu nở vàng hoa cả mắt.
Có duyên bén với đất nhưng cũng phải là người có tình cây  mới đậu.
Ông Thìn đen lẳng lặng giải thích thêm, ý của ông nhằm thêm một lần muốn khẳng định chẳng có ai cũng có thể muốn là được. Thứ hoa cúc mà anh cả Thân trồng tạm theo gợi ý của lão chủ hiệu thuốc bắc người Tàu là thứ hoa cúc chi. Hoa cúc chi chỉ nhỉnh hơn đồng xu một chút, hương hoảng hoắc, cánh nhỏ lại lâu tàn, nhụy hoa tròn bằng cái cúc áo, phấn hoa làm ươm vàng chân những con ong sà vào hút nhụy. Hoa cúc đem phơi dưới nắng thu không nhầu héo mà chỉ se mềm để được dài ngày nhìn như mới ngắt. Thứ hoa cúc ấy trong đông y liệt vào vị thuốc quý bởi nó có tính hàn, vị ngọt mà không ngấy, đắng mà không khô. Vị thuốc hoa cúc thường dùng để chữa trị bệnh gan dương thịnh hay gan hỏa thượng viêm. Những ai có chứng cao huyết áp, những ai mắc chứng tâm can bồi hồi uống vị thuốc hoa cúc này trấn tĩnh lại ngay. Những ai cảm mạo hay nóng trong người chỉ cần nhúm hoa cúc đem sắc với nước uống là bình gan giải gió thanh nhiệt cơ thể.
Ngày thu hái vụ hoa cúc đầu tiên, anh cả Thân đem mẻ hoa mới ngắt về nhà. Sau khi phơi nắng se se một ngày, đến buổi tối anh cả Thân hãm một nồi to với nước sôi, như cách người ta hãm trà, rồi mời cả làng cùng uống thử. Cái thứ nước là lạ uống vào đắng nhăn nhăn nhưng chốc sau nuốt nước bọt lại thấy ngọt sâu trong họng, lại thơm hăng hắc khác hẳn thứ nước trắng nấu suông nhàn nhạt mà người làng Dục vẫn uống, thành thử đã uống rồi ai cũng thích. Thích đâm nghiện, nghiện hơn vì nó tỏ ra có công hiệu. Đến hè năm sau chẳng có đứa trẻ con nào trong làng bị rôm sẩy hay mần ngứa. Chẳng có người già nào thấy ho hắng hay khó thở. Như có phép tiên nên không ai bảo ai cả làng đều gọi anh cả Thân là “thày lang”. Tiếng cũng như danh thày Lang Thân làng Dục từ đấy mà ra.
Không phải ai cũng được thế đâu nhé.
Lần này thì ông Thìn đen tự hào thực sự. Cả làng Dục theo anh cả Thân, đua nhau trồng cây hoa cúc chi. Ban đầu lại do mình anh cả Thân đứng ra làm mối thu gom đem lên Hà Nội bán cho lão chủ hiệu thuốc bắc người Tàu. Lão người Tàu cười “hảo à”, vỗ vỗ vào vai anh cả Thân ra vẻ khen làm tốt. Lão mua hết chỗ hoa cúc anh cả Thân đem lên Hà Nội, lão còn mách cho anh cả Thân cách xông sấy hoa để bảo quản được nhiều và dài ngày hơn.
Việc khởi sự từ  năm Mậu Thìn “cậu” ạ.
Ông Thìn đen mặt mày rạng rỡ như chính ông là cụ Lang Thân làng Dục vậy. Mà ông Thìn đen hào hứng cũng được bởi vì chính năm ấy ông được cha mẹ ông sinh ra trên đời này. Ông sinh ra cùng với hoa cúc làng Dục. Ông như là thứ hoa đổi đời ấy. Ông Thìn đen nghé mắt liếc sang bên “cậu” chừng thăm dò ý tứ của “cậu” như thế nào trước sự hào mãn của mình. “Cậu” mặt vẫn nghênh nghênh như mặt con trâu đực sau khi hít hít mũi của nó vào cái đít của con trâu cái. “Cậu” chẳng bộc lộ một phản ứng hay tỏ thái độ gì cho dù nhỏ nhất. “Cậu” không nhận thấy nét mặt hồ hởi của ông Thìn đen lúc này. Hai người đã đi hết bờ thửa ruộng thứ tư.
Anh cả Thân đúng là vị cứu tinh cho cả làng Dục. Trên cái dải đất thẹo thừa bỗng trở thành một cánh đồng chuyên trồng hoa cúc. Hoa cúc làng Dục nổi tiếng cũng bởi vì các làng xung quanh muốn trồng theo cũng không trồng được. Đất vùng Kinh Bắc xưa mạn phía nam vốn trũng, chua và phèn nặng. Chỉ duy nhất cánh đồng làng Dục hẹp ngang, chạy dài ven đường quốc lộ lại cao hơn đôi chút. Ngày chưa trồng hoa cúc cái dải đất hơi cao cao ấy chẳng hợp với thứ cây nào. Trồng lúa thì khô, trồng màu thì cạn. Người làng Dục đổi đời từ cây hoa cúc.
Đến cây hoa cũng biết chọn người chọn đất.
Đứng bên ranh giới giữa thửa ruộng thứ tư và thửa ruộng thứ năm ông Thìn đen càng thấm thía việc mình được theo hầu cụ lang. Ông cũng đứng can Mậu nhưng mệnh của ông lại là mệnh mộc. Mộc tức là cây. Mà đã là cây phải mọc trên đất. Cụ Lang Thân làng Dục mang mệnh thổ. Thổ tức là đất. Vì thế chuyện chú bé Thìn đen mới mười hai tuổi đã theo cụ Lang như là lẽ tất nhiên. Cây phải dựa vào đất mới sống được. Nghĩ tới đây ông Thìn đen không dám buông lời trách cứ nào cụ Lang bởi cụ Lang là đất thì cũng dĩ nhiên đất phải cưu mang cây. Với ông Thìn đen thì hình như tất cả mọi người ở làng Dục này ai ai cũng mang mệnh mộc hết. Vì thế ai ai cũng chịu ơn cụ Lang.
Cụ được ơn của nhiều người nhưng suốt cuộc đời cụ không bao giờ được yên tâm mà sống trong an nhàn.
Nắng trưa hoa cả mắt. Ông Thìn đen vừa thấm thía vừa nghó nghiêng tìm chỗ cho “cậu” trú nắng. Có lẽ “cậu” đang mệt lắm. Hơi thở của “cậu” khò khè như người mắc chứng ngạt mũi. Bước đi của “cậu” đã cà nhắc lại thêm cà nhắc. Cánh tay phải nâng khư khư của “cậu” lại khép chặt hơn vào mạn sườn. “Cậu” đang căng cứng hết cơ thể. Hồi cụ Lang còn sống, cụ hay lắc đầu chua chát mỗi khi vọng từ trong căn phòng nơi “cậu” bị khóa, trong đó tiếng “cậu” gừ gừ. Ở trong căn phòng có mỗi một mình nên “cậu” hay gừ gừ như tiếng con chó bị rọ mỗm. Con chó bị rọ mõm cứ gừ gừ mà không thành tiếng sủa, không thành tiếng rít. Nghe cứ như ai đó bị ai đó bịt tay che miệng không cho nói năng. Những lúc đó cụ Lang Thân lại bần thần.
“Cậu” gánh vận cho cả cái nhà này.
…ông…ói…ì…ơ?…
“Cậu” dù đang gắng thở nặng nhọc nhưng cũng cất câu hỏi lại. Thì ra suốt nãy đến giờ “cậu” không bỏ sót một chi tiết nào trong câu chuyện của ông Thìn đen. Nghĩa là mỗi lời nói của ông Thìn đen đều không hoang phí. Cảm thấy được an ủi nên ông Thìn đen nhẹ hẳn người.
Làng Dục bỗng trở nên có thanh danh, tiếng vang khắp vùng, người làng Dục được người các làng cạnh bên vị nể. Đời sống dân làng Dục rôm rả và khấm khá hẳn lên. Những mùa hoa nối tiếp những vụ thu hái hoa. Hoa cúc thu hái về nhiều trải phơi vàng cả đường làng. Thanh danh vang như thế. Màu sắc hoa tươi vàng như thế. Phải gọi làng ta là làng Thanh Vàng mới phải. Chính anh cả Thân là người nêu ra ý kiến đó lúc anh đứng bên bờ ruộng nhà mình.
Làng ta làm lễ khao tên mới to lắm.
Ông Thìn đen vẻ mặt như chuyện vừa mới xẩy ra mới hôm qua. Ông nói bằng hơi thở phả ra nóng hôi hổi một bên lưng của “cậu”. Ông Thìn đen chỉ cao tới bờ vai “cậu”. Ông phải ngước mắt lên để nói cho “cậu” nghe được rõ hơn. Làng làm lễ khao tên mới của làng sau vụ thu hái hoa lần thứ ba, tức là đúng mùa xuân năm sau, bữa ngày giêng nhàn nhã. Sẵn những đống củi to dùng để đốt lò xông sấy hoa, người làng Thanh vàng bầy cỗ thiết các làng xung quanh.
Phú quý thì sính lễ nghĩa mà “cậu”.
Đó là cách để các làng bên cạnh không gọi cái tên Dục nghe tưng tức trong lỗ tai, chuyển sang gọi tên làng là Thanh Vàng vừa sang vừa đúng nghĩa. Tên làng Thanh Vàng được viết nắn nót trên một giấy điệp khổ rộng sải tay, nét chữ bay như rồng cuốn, lượn như phượng múa. Tờ giấy điệp trải ngay ngắn trên mặt bàn gỗ gụ mà anh cả Thân mướn buổi ông xã trưởng người làng bên cạnh. Người viết thì phải thuê, làng Dục có ai học cao giỏi chữ nghĩa đâu nên thuê cho chắc. Một thày đồ trên Hà Nội cùng về làng với lão chủ hiệu thuốc bắc người Tàu bên phố Lãn Ông. Lão chủ hiệu người Tàu là khách mời danh dự của làng nên lão đi đứng hơi khuỳnh khoàng, miệng luôn cười nhe mấy cái răng vàng chóe. Lão thành tâm điểm để bọn trẻ con dề dà rồng rắn bám theo. Chú bé Thìn đen khi đó đâu mới ba tuổi nhưng nhớ như in lúc tờ giấy viết tên mới của làng được các bậc cao niên trong làng nâng chuyền tay nhau trang trọng rước ra miếu thần linh.
Tờ giấy viết tên làng giờ vẫn còn trong đình.
Ông Thìn đen lại chỉ tay vào trong làng, nói chắc như đinh đóng cột. Thực ra làng Dục xưa vừa nhỏ lại nghèo làm gì có đình. Cái đình làng mà ông Thìn đen nói vẫn còn lưu giữ tờ giấy điệp viết tên mới của làng chỉ có sau đấy những mười hai năm. Vẫn lại anh cả Thân, thày lang Thân, đứng ra khởi sự việc cất ngôi đình. Tên những người có công và cung tiến xây đình hiện còn khắc trên bia đá dựng trong hậu đình, tên cụ Lang Thân làng Dục là cái tên khắc ngay dòng đầu tiên.
Họ đã tới chỗ cây đa cổ mọc giữa đồng. Đã có vài người nhấp nhổm đứng ngồi trú tạm nắng ở đó, họ cùng ngước mắt nhìn ông Thìn đen đang dìu như đẩy “cậu” Tuất vào sát gốc cây. Gốc đa này là chỗ duy nhất trên cánh đồng luôn có bóng mát. Những ngày hè hôm trời có mưa to, sét đánh nhoằng nhoằng xuống cây đa làm vỡ toác cành lá. Từ chỗ đầu cành cây bị sét đánh vỡ toác lại mọc ra tua tủa những chiếc rễ đa dài trắng đua nhau lao xuống đất. Những cái rễ châm thẳng xuống đất lớn dần rồi tự thành những thân cây mới. Đâm ra sét đánh vỡ toác cành cây càng nhiều cây đa lại càng thêm nhiều thân cây mới. Đứng ngoài quốc lộ 5 nhìn về phía gốc đa thấy gốc đa như một ngôi nhà ta có nhiều cột. Nhiều cột thế gió máy, sấm sét nào hạ nổi.
Gốc đa lúc ông Thìn đen và “cậu” bước vào trú nắng có nền đất quanh gốc nhẵn lì, bởi nó bị nhiều vết chân sài giẫm. Chỗ đó người đi thu hái hoa cúc treo nhũng nhẵng những mo cơm nắm, thứ lương thảo cho suất ăn trưa. Một gốc đa co nhiều thân cây to nhỏ đủ cỡ vô tình tạo nên nhiều cái hốc kín đáo. Ông Thìn đen dìu “cậu” vào bên trong một cái hốc rộng. Hốc ấy rộng bằng cái chiếu đơn đủ chỗ cho “cậu” nằm nghỉ. Những người dân trong làng về tầm trưa ít có ai nằm lại dưới gốc đa để ngủ. Lâu lắm rồi còn đồn đại câu chuyện những hồn ma đợi nắng trưa chang trắng mắt là bứt khỏi tán lá nhao xuống trú mình trong các hốc cây. Có người đàn ông độc thân liều nhất làng dám một lần ngủ trưa trong hốc cây đa. Ông ta sau đó tỉnh dậy thì hóa dại, lồng lên chạy trần truồng khắp cánh đồng la hét ầm ĩ. La hét chán, chạy tồng ngồng chán lại rúc vào hốc cây nói lảm nhảm đến đêm thì bỏ đi đâu không rõ. Ông Thìn đen nhớ rõ câu chuyện đó nhưng lúc này không vào chỗ hốc cây đẻ tránh nắng thì biết vào đâu.
Ma thường tránh những người dơ dở.
“Cậu” bỗng dưng lui người lại khi vừa chạm cửa hốc. Cánh tay phải nâng khư khư đã ép lại ép sát hơn vào bên sườn. “Cậu” trợn mắt nhìn như chính mắt “cậu” vừa nhìn thấy gì đó mà mắt của ông Thìn đen cố căng ra cũng không thấy. Hơn chờn chợn nhưng ông Thìn đen vẫn cố đẩy”cậu” vào trong, nắng nôi thế này không trú đấy thì trú chỗ nào?
…ôi….uốn a….oài…..
Thì ra suốt sáng đến giờ “cậu” được tự do bên ngoài nên giờ bị bắt phải chui vào hốc cây mà “cậu” ngỡ như là bị đưa vào căn phòng luôn khóa cửa ngoài. Thật tội nghiệp. Những người khao khát ra ngoài luôn sợ hãi phải quay lại chốn cũ. Có lẽ những thân cây như những cái cột nhà mà “cậu” tưởng đây là một ngôi nhà nào đấy?
Đây không phải nhà. Đây là hốc cây trú nắng.
Nói quả quyết nhưng giọng đầy an ủi, ông Thìn đen vừa dìu vừa đỡ người “cậu” cho “cậu” ngồi xuống. “Cậu” ngơ ngơ mắt lần nữa rồi cũng chịu nghe mà bước hẳn vào hốc cây. Rất tự nhiên như của chính mình, ông Thìn đen với tay ngoắc mo cơm của ai đó treo chạm đầu mình. Thứ cơm gạo dẻo nấu vừa chín tới, dỡ trong nồi ra nhào nhuyện qua chiếc khăn rửa mặt nhúng nước vắt âm ẩm thành từng nắm tròn tròn bằng quả bưởi. Ông xắt mo cơm thành mấy miếng mỏng đưa cho “cậu”. Được ăn đẫy bụng lại có chỗ nằm tạm “cậu” ngủ tít luôn. Nhìn “cậu” ngủ chẳng chút phân vân ông Thìn cũng yên dạ. Hóa ra những người kém trí tuệ lại hay. Người kém trí tuệ không biết phân biệt đâu là thật đâu là giả nên chẳng sợ hãi hay băn khoăn.
Gió nam thổi hắt từ sông Như lên, gió thổi qua mái làng đem tới cánh đồng chỗ gốc đa cái mát dìu dịu cùng mùi khói củi cay cay, mùi khói diêm sinh khét hăng. Người trong làng đang bắt đầu công đoạn xông sấy hoa cúc. Những bông hoa cúc sau khi phơi nắng thu tai tái thì được đem vào làng. Người ta rải lớp hoa cúc se se trong những chiếc nong to nặng chịch. Những chiếc nong đựng đầy hoa cúc được xếp lên trên lò sấy. Làm lò xông sấy hoa cúc không khó, chỉ cần quây kín quanh lò bằng mấy tấm cót, rồi bỏ vào trong lửa chừng vài nhúm diêm sinh. Diêm sinh cháy, khói diêm sinh ngấm vào từng cánh hoa. Đấy là cách xông sấy của những vụ hoa cúc đầu. Sau này khi anh cả Thân vững vàng trên thương trường nghĩa là khi anh cả Thân trở thành ông chủ thì công việc xông sấy cũng khác đi mà thêm mới.
Làng Thanh Vàng không đơn thuần chỉ xông sấy hoa cúc mà họ bắt đầu xông sấy nhiều thứ dược liệu khác nữa. Theo đường quốc lộ 5 và theo sông Như cánh thu mua dược liệu kìn kìn chuyên chở dược liệu chẳng biết họ gom từ đâu đó trên mạn ngược về làng. Làng Thanh Vàng kiêm luôn nghề xông sấy thuốc. Dược liệu qua xông sấy rồi mới cho người vận chuyển lên Hà thành. Ban đầu cung cấp cho lão chủ hiệu thuốc bắc người Tàu bên phố Lãn Ông, sau cung cấp cho cả những cửa hiệu thuốc đông y khác quanh mấy phố Lãn Ông, Thuốc Bắc, Hàng Cân, Hàng Bồ và Chả Cá. Việc trở nên quanh năm, người làng Thanh Vàng những năm sau đó thôi hẳn chuyện lên Hà thành làm thuê. Họ thành người của một cái làng chuyên cung cấp dược liệu. Anh cả Thân đâm ra bận bịu, anh đứng đầu mối rồi thành chủ mối dược liệu ở làng.
Do vậy lò xông sấy cũng phải làm khác đi. Những chiếc lò xông sấy bề thế bằng đất đắp ra đời. Lò xây đắp ở giữa sân nhà, như thế tiện cho việc chuyển từng nong hoa cúc hay dược liệu. Củi cháy trong lò rừng rực làm nóng lớp đất dầy phủ trên nắp lò. Mỗi một lần xông sấy người ta rắc độ một bát con đựng diêm sinh lên cái nắp bằng đất ấy. Diêm sinh không cháy đỏ mà nó cháy âm ỉ, len lỏi tỏa những làn khói trắng nhờ nhờ. Khói diêm sinh thẩm thấu qua các nong hoa cúc, nong dược liệu rồi thấm vào từng cánh hoa, từng miếng dược liệu đã thái lát mỏng. Hoa cúc hay dược liệu được xông sấy khói diêm sinh chẳng nấm mốc nào dám động tới.
Cụ Lang nhà mình sáng dạ nên hay thua thiệt.
Ông Thìn đen tự dưng liên tưởng mà bật nên câu nói đồng cảm với cụ Lang Thân. Cụ Lang Thân làm ăn chăn chỉ thì hơn bất cứ người nào nhưng thua thiệt thì cũng chẳng ai bằng. Một chút gằn lòng níu ông nằm xuống bên cạnh “cậu” Tuất, ông cũng thiu thiu ngủ. Ông mơ mơ nhớ chuyện.
Làng gọi anh cả Thân là thày Lang Thân thực ra cũng là một cách để phân biệt với những người đàn ông khác trong làng cùng sinh năm Thân và đều mang tên là Thân. Thày Lang Thân đâu có biết bắt mạnh hay hỏi thăm con bệnh mà kê đơn cho thuốc. Món học được ở lão chủ hiệu thuốc bắc người Tàu bên phố Lãn Ông ở trên Hà thành là món trồng cây hoa cúc chi và kế nữa là món xông sấy dược liệu mà thôi. Nhưng với chừng ấy người dân làng Thanh Vàng cũng đủ dư dả hơn rất nhiều hồi cả làng chẳng biết trồng cây gì và làm nghề gì.
Con người ta đều do số phận sắp đặt cả.
Thoáng bùi ngùi ông Thìn đen nhớ lại trong giấc mơ. Giấc mơ của ông đưa ông trở về cái đám cưới của anh cả Thân với cô Giáp cùng làng. Cô Giáp kém anh cả Thân đúng sáu tuổi. Cô sinh năm Giáp Dần nên làng gọi tên cô là cái Giáp Mây. Tên ấy có từ mái tóc của cái Giáp vừa sinh ra đã đen dầy và mượt như dải mây. Vì cái Giáp Mây được cưới về làm vợ thày lang Thân nên từ hôm đó người trong làng chỉ gọi tên là cô Mây. Việc này có đôi chút vị nể mà làng phá lệ, là vợ ai thì không biết chứ đã là vợ của thày lang Thân mà còn gọi theo tục của làng nghe không phải.
Cô Mây vừa tròn mười bảy tuổi, mặt trái xoan, tóc đen dài chấm kheo, da trắng hồng, người cao ráo. Cô đi bên cạnh thày lang Thân người thâm thấp, thoạt mới đầu nhìn chưa quen. Chưa quen nhưng ai cũng khen đôi này phải lứa lúc rước dâu, anh cả Thân dẫn cô Mây đi bộ từ nhà cô Mây ở đầu làng về nhà anh cả Thân ở cuối làng. Họ đi dọc con đường đất mịn dưới làn mưa xuân lây phây. Mưa rắc lên tóc cô Mây muôn hạt li ti kiểu như bọn trẻ con chơi trò rắc hạt cườm làm duyên vậy. Họ cưới nhau trong bao tiếng thầm thì. Ví dụ như có người bóng gió nói về cái tuổi cầm tinh con hổ của cô Mây. Tuổi ấy gì gì lắm. Chú bé Thìn đen khi đó chưa hiểu nổi gì gì lắm nó như thế nào. Ví dụ có người nói anh cả Thân vớ được vàng mười. Kể thì cũng phải. Cô Mây đẹp thế kia mà. Ví dụ có người khen cô Mây tốt duyên lọt vào nhà phúc lớn. Cũng chẳng sai. Đũa ngọc dĩ nhiên phải sánh với mâm son.
Giời cũng đôi khi bắt vạ người.  
Mới có qua ba vụ trồng hoa cúc mà làng Dục cũng như anh cả Thân đều khác trước. Làng có tên mới nghe rạng rỡ hẳn. Anh cả Thân cưới vợ mới thấy chững chạc nên. Nằm trong cái hốc giữa gốc đa ngoài cánh đồng ông Thìn đen quàng tay giữ chặt người cho “cậu” ngủ khỏi bị giật mình. Trên đôi môi thâm đen của ông Thìn đen mủm mỉm mấy nụ cười, mủm mỉm mấy câu nói than, mủm mỉm mấy chuyện đã qua.
4    
VHSG- Mùa xuân năm Canh Thìn có một sự kiện trọng đại diễn ra ở làng Thanh Vàng. Đó là việc anh cả Thân, mà bây giờ sẽ gọi là Thày Lang Thân, nêu ý kiến và đứng ra lo liệu việc làng xây cất đình làng. Đã qua đúng một giáp người dân làng Thanh Vàng trồng cây hoa cúc. Việc lợi từ trồng hoa cúc thì đã rõ ràng nhưng Thày Lang Thân còn canh cánh. Làng mà không có đình khác nào một cái thôn nhỏ hẻo lánh, khuất tiếng giữa thiên hạ? Làng mà có đình cũng có nghĩa là đã ra dáng một ngôi làng thực thụ. Hôm Thày Lang Thân thưa ý định xây đình với các cụ cao niên trong làng là một bữa sau tết.
Ngày mùng năm tháng giêng, phây phây gió bắc, mưa phùn lắc rắc gieo mầm xuân trên những cành xoan còng queo, lún phún đầu cành lấp ló những nụ hoa e hé. Rượu vào vừa đủ ngọt giọng nên các cụ tỏ ra rất hào hứng nhưng cũng tranh luận không kém lời. Phe thứ nhất nghiêng về chuyện tiền nong cho việc cất ngôi đình? Phe thứ hai lại chỉ chăm chăm bàn đình của làng phải bề thế ra sao? Cả hai phe ý kiến này đều nhanh chóng được giải tỏa khi Thày Lang Thân giãi bầy, tiền phần nhiều sẽ do gia đình mình công đức. Còn đã gọi là đình của làng thì dĩ nhiên người trong làng cũng phải góp chút của. Người ít góp gọi là. Người sẵn đóng lơn lớn. Công thì những việc thuộc về kỹ thuật phải mướn thợ. Người làng góp công ở những việc chỉ cần sức lực.
Điều hay nhất là chuyện xây cất ngôi đình là ước muốn chung. Làng Dục vốn là một ngôi làng trẻ. Làng trẻ quá, chưa đủ dài lâu. Vả lại người làng đâu có khấm khá nên khi vào tháng giêng mấy làng lân cận mở hội xuân linh đình, cờ trống rinh ran, người làng Dục chỉ biết hóng hớt người ta. Kể cũng tủi. Nay Thày Lang Thân nói chuyện xây cất một ngôi đình riêng cho làng thì mừng quá rồi nhưng nói gì thì nói đã gọi là có đình làng thì trong đình làng ấy phải thờ cúng gì gì? Chuyện nói ra nhưng cũng chẳng nói ra đó chính là việc từ khi làng có là làng Dục đến giờ đã có ai được làng tôn làm thành hoàng làng đâu? Đình phải thờ thành hoàng làng mới đủ ý nghĩa. Những ánh mắt nghi ngờ cùng bao ý thầm thì bắt đầu hướng về phía Thày Lang Thân. Lại một hồi bàn luận. Thành hoàng làng sẽ là ai? Hồi lập nên cái làng Dục có ai đã suy nghĩ xem ai là người có công khai phá dựng làng. Thực ra làng Dục hình thành sau khi người Pháp tiến hành mở đường. Cái thẻo đất dư ra nằm lọt giữa đường quốc lộ số 5 và sông Như chẳng ra ruộng, chẳng ra vườn chỉ nổi lên một dải đất chạy dài. Dải đất ấy nhìn heo hắt mà chẳng mấy ai hoài đoái tới. Những người dân đến đây cắm đất dựng nhà là những người vốn ở những làng lân cận, họ vốn cũng khó trăm bề nơi đất chật nên tìm nơi đất mới cho yên chuyện. Bởi thế họ như những người tứ chiếng dồn lại với nhau, dựng dăm nếp nhà, qua vài năm mà tự gọi nên làng. Cũng bởi thế nên người làng Dục qua bao đời mà vóc dáng đàn ông có khá khẩm lên đâu? Vóc dáng thấp đậm cũng là từ sự khó mà ra.
Nghèo hèn nên có dám ngẩng đầu lên đâu.
Thày Lang Thân cũng xứng để làng nể trọng nhưng đặt làm thành hoàng làng e không tiện. Thứ nhất là thày Lang Thân vẫn còn sống mà lại còn trẻ tuổi nữa. Thứ hai là vì làng vốn dân tứ chiếng dồn về do vậy việc ganh ghét, kèn cựa, nhau, chẳng chịu nhau là hẳn nhiên rồi. Có đình mà không có thờ khác gì cái đình ấy chỉ là một ngôi nhà lạnh vắng. Cả làng nghĩ nát óc mà chưa ra.
Cụ Lang nhà mình biết ý lắm.
Trong giấc ngủ trưa giữa một cái hốc cây đa ông Thìn đen mủm mỉm cười. Nụ cười đầy ý nhị của ông không thành tiếng nên “cậu” vẫn tít mít. Từ sáng đến tận trưa nắng, “cậu” đã chật chưỡng qua mấy bờ ruộng nên cũng khá vất. “Cậu” xưa nay đi xa nhất cũng tới mép cửa căn phòng luôn khóa ngoài. Xa nhất là thế nên “cậu” mệt ngủ quay lơ cũng phải. Nghĩ tới đây ông Thìn đen vòng tay ôm chặt ngang người “cậu” mong cho “cậu” thêm ngon giấc. Chuyện còn dài, ngày còn dài cứ từ từ có sao đâu.
Trong cái rủi lại có cái hay.
Nắng bên ngoài nóng bỏng. Nhìn ra xa, đoạn đường quốc lộ số 5 chạy dọc cánh đồng hoa cúc của làng Thanh Vàng như bị nung chín. Từng luồng hơi nước rùng rình bốc lên trên cái nền rải nhựa, đoạn đường giống hệt một nồi nước đang sôi. Ông Thìn càng ái ngại. Những bông hoa cúc màu vàng chợt như trắng dại dưới cái nắng chuyển mùa. Chút gió nam từ sông Như thổi tới gặp cây đa mà ngừng lại, gió quấn quýt vẫy từng chiếc lá đa, tạo thành tiếng kêu vù vù như tiếng cối xay lúa rồi bứt xuống luồn lách vào từng hốc cây. Gió xuống đến hốc cây xoáy lành lạnh nên cái vòng tay ôm ngang người “cậu” càng giữ cho “cậu” thêm tin cậy. Trong đời “cậu” chưa khi nào “cậu” có được cảm giác ấm êm như thế. Ông Thìn đen thấy thương thân cho “cậu”. Ở đời được người khác thương đã khó và thương được nhau đâu có dễ. Nhất là những người như “cậu” thì sự thương thường bị nén trong lòng. Ông Thìn đen cố gượng dậy để nghé mắt nhìn mặt “cậu” như những lúc ông ghé mắt nhìn qua khe ổ khóa để nhìn “cậu”. Trông “cậu” bây giờ có khác những người khác chút nào đâu.
Cứ người như “cậu” mà lại hóa hay.
Ông Thìn đen lại cuốn vào giấc ngủ cùng “cậu”. Giấc ngủ cùng cũng là một thứ bệnh dịch. Nó cũng làm lây nhau. Cũng như việc trồng hoa cúc ấy. Một người trồng được thì cả làng trồng được. Người đố kỵ nhất làng Dục đã nói như vậy để chống chế việc có đình làng rồi làng sẽ tôn ai làm thành hoàng làng. Nói cho cùng thì có nhiều người trong làng biết ơn anh cả Thân đã đem hoa cúc về làng nhưng họ lại khăng khăng không chịu nhận chính anh cả Thân xứng xứng đáng được người làng ngưỡng vọng mà trân trọng. Việc ông Thìn đen ở lại làng sau đám tang cụ Lang Thân chính có một phần suy nghĩ đó. Đình làng cứ tôn vinh hoa cúc. Sửa sang ngôi nhà cũ lấy chỗ hương khói cho cụ Lang xem ra thuận hơn. Không mang tiếng với làng mà vẫn đưa được hồn cụ về đúng làng xưa thờ cúng. Ông Thìn đen lại mủm mỉm cười nhưng nụ cười bây giờ đầy đắc ý.
Chính cụ nhà mình gợi ý đình làng nên  tôn vinh  hoa cúc đấy “cậu” ạ.
Đình làng Thanh Vàng có lẽ là ngôi đình độc nhất trong cả nước không thờ thần, không thờ thánh và cũng chẳng thờ thành hoàng làng. Một ngôi đình khá bề thế chỉ tôn độc thứ hoa cúc được xây cất chính giữa làng. Chỗ ấy ngày xưa là bãi đất trống lại chồi lên cao ráo. Hồi những người dân tứ chiếng dồn về đây tự gọi nên làng Dục chỗ ấy giống như một cái gò thấp. Đã là gò nên trong suy nghĩ của mọi người nó như miếng đất tụ long nên chẳng có ai dám liều lĩnh tới cắm đất làm nhà. Đất tụ long là đất thiêng, là đất công, chiếm làm của tư dựng nhà ở chết bất đắc kỳ tử luôn.
Nếu đi theo con đường đất rải đá từ ngoài quốc lộ số 5 xuyên giữa cánh đồng hoa vào làng, ta sẽ thấy con đường ấy dẫn thẳng tới đình làng. Ngôi đình bề thế lại nổi trội giữa làng nên chỉ đi một phần ba quãng đường đất rải đá là đã thấy đầy đủ. Con đường đi thật tiện nhưng vô tình nó lại là huyệt đạo. Một lối đi huyệt đạo báo hiệu trước tương lai của làng Thanh Vàng sớm muộn cũng có ngày vong bại. Không biết ai là người khởi xướng làm con đường đất rải đá đó nhưng cụ Lang Thân biết chuyện, cụ phản đối ghê lắm. Cụ về làng thuyết phục rồi giảng giải mãi mà chẳng thấu. Cánh trẻ ở làng viện cớ cụ đã là người Hà Nội rồi nên mọi góp ý cuối cùng cũng chỉ là góp ý. Cánh trẻ ở làng thấy cái tiện trước mắt mà không nghĩ chuyện hậu vận.
Thời thế  cũng có vận của thế thời “cậu” ạ.
Ông Thìn đen lại nở một nụ cười nhưng nụ cười bây giờ hơi chua chát. Cái ngày ông theo gia đình thày Lang Thân lên Hà thành cũng là cái ngày mà ông chẳng thể nào quên. Chú bé Thìn da đen nhẻm, chân lích chích, khoác tay nải vải nâu đi như chạy theo mọi người ra đường cái vẫy xe. Chú được đi xa mà những tận Hà thành kia đấy. Thử hỏi trong làng này có thằng trẻ con nào được vinh hạnh ấy. Hình như với chú bé Thìn đen mọi việc đều vận vào chú. Trước tiên là chú cũng đứng can Mậu với cụ Lang Thân. Tiếp nữa là năm chú chào đời cũng là năm cụ Lang Thân đem hoa cúc về trồng ở ngoài đồng làng. Thứ theo là làng xây đình cũng đúng vào năm tuổi Thìn của chú. Và cuối cùng khi cụ Lang về nằm ở đồng làng theo tiên tổ ông Thìn đen cũng ở lại làng luôn. Mọi việc cứ ứng một cách kỳ lạ.
Đình làng Thanh Vàng được xây ở chỗ gò đất giữa làng. Nó cao vọt hẳn lên giữa cái làng quanh năm hoảng hoắc mùi hoa cúc cùng hăng khét mùi diêm sinh cháy. Một ngôi đình xây theo lối chữ đinh với khoảng sân rộng trước cửa luôn đủ chỗ cho cả làng hội họp. Mặt tiền của đình trông về hướng bắc, hướng ngắm sao bắc đẩu. Những đêm trời trong, sáng vành vạch bọn trẻ con ra sân đình chơi, chúng chỉ cần thẳng mắt là nhìn rõ chòm sao Bắc đẩu mang hình cái gầu sòng. Cái gầu sòng chi chít sao đang vục xuống sông Như mà múc từng gầu nước đổ vào cánh đồng. Đồng làng Thanh Vàng được tưới nước sông Như do các vì sao phương bắc hợp thành gầu múc đổ nên đồng sinh ra vàng. Sinh ra lộc nuôi danh nuôi tiếng cả làng.
Lưng đình áp về hướng nam. Chỗ sau lưng đó là sông Như chảy thầm thì. Dòng sông vào buổi chiều hôm ánh mặt trời từ phía tây dọi tới, gợn lăn tăn màu vàng pha ráng đỏ. Gió nam nồm thổi qua sông thấm mát lưng đình tạo cho mọi người cái cảm giác se co khi bước chân vào trong đình. Cảm giác se co khiến mọi người như cung kính thêm trong cảnh trầm mặc, nhẹ nhàng tỏa khói trầm thơm. Hình ảnh làm người ta chú ý là một bông hoa cúc được phóng tác trên giấy lụa điều, to bằng cái nia, trông gợi màu như một bông hoa thật, treo ngay trên chính điện. Bông hoa cúc phóng tác được dựng ngay ngắn thay thế chỗ ngự án mà các thành hoàng làng vẫn ngự như các đình làng khác. Cuộn giấy điệp viết tên làng Thanh Vàng được rước vào đình sau khi làng khánh thành đình. Lễ rước cuộn giấy điệp diễn ra giản dị nhưng trang trọng. Thày Lang Thân là người cuối cùng nhận cuộn giấy điệp đó. Rất cẩn thận theo cách của những người chu đáo, Thày Lang Thân thong thả đặt tờ giấy điệp vào trong chiếc hộp gỗ dài được sơn son thiếp vàng. Chiếc hộp gỗ chứa tờ giấy điệp giờ nằm im trên bệ điện thờ, phía dưới hình ảnh phóng tác bông hoa cúc. Hình bông hoa cúc nở vàng ánh lên bên màu đỏ của đầu hương đang cháy cắm thành bó lớn trong chiếc lư hương đại, hai màu đỏ của lửa và vàng của hoa cúc phản chiếu với nhau tạo nên vẻ thâm cô, cung kính.
Những người đọc sách đều nói rằng, lưng đình dựa sông Như là không ổn lắm về mặt phong thủy. Ý họ cho rằng tiền của vào cửa trước sẽ lại theo dòng nước phía sau lưng mà chảy đi. Làng Thanh Vàng về mai sau không giữa được của. Làng lại hoàn nghèo như hồi còn cái tên làng Dục. Thày Lang Thân là người đứng can Mậu nên quyết đoán. Chọn chỗ đất cao nhất làng để xây đình ai cũng tán đồng nhưng chọn hướng cho đình thì lắm bàn tán. Người làng Thanh Vàng là vậy. Tiền ít nhưng thích nói nhiều. Người không góp tiền lại hay ý kiến. Thày Lang Thân kiên nhẫn lắng nghe rồi mới thong thả giải thích. Hướng mặt đình quay về bắc là hướng nhận đường, nhận hướng, ý thày lang Thân muốn nói đi trong đêm đen cũng nhờ sao Bắc đẩu dẫn lối. Làng nghe thấy phải. Hướng lưng đình áp mạn sông là dựa thủy, khí mát lành. Bởi gò đất là chỗ tụ long nên sông Như lượn phía sau sẽ đắp bồi sự sống. Đất mà thiếu nước thì chẳng còn là đất. Ý của Thày Lang Thân ví như những thửa ruộng trồng hoa cúc kia. Ruộng đồng mà không có nước tưới tắm đến cỏ còn không mọc nổi nữa là nói chuyện trồng hoa. Làng nghe cũng phải. Hơn nữa vì là đình dựng ở giữa làng, mà làng Thanh Vàng chạy dài dọc cánh đồng. Hai bên đình làng là những ngôi nhà cùng bao con người sinh sống sẽ giống như hai cánh tay của ngôi đình. Hai cánh tay đó ôm lấy cánh đồng ví như người dân làng này lam làm chăm chỉ tôn nên sự sang cho làng. Và  nữa là đình ấy, hướng ấy chia làng thành hai nửa ngang nhau. Không có chuyện phân biệt nửa làng ở trước cửa đình quanh năm hứng lộc, nửa làng ở phía sau lưng đình ngày ngày chỉ nhận khói nhang. Làng nghe quá phải.
Chuyện làng quyết chí xây đình cùng việc đình làng sẽ thờ thứ gì cuối cùng cũng đã xong xuôi. Người khó tính nhất làng cũng đã chịu. Thày Lang Thân còn trẻ người nhưng đã có chí lớn.
Chẳng ai bằng cụ nhà mình đâu nhé.
Hơi chút tự hào ông Thìn đen ghé sát tai “cậu” để thầm thì. Ngoài cánh đồng tầm này vắng vẻ. Những người đi thu hái hoa cúc không bao giờ ngắt hoa vào giữa trưa nắng. Ngắt hoa vào giữa trưa nắng sẽ làm cuống hoa khô ngay lập tức. Cuống hoa khô cũng có nghĩa là nhựa hoa mau kiệt. Nhựa hoa mau kiệt sẽ làm bông hoa úa màu. Màu vàng nguyên sơ của hoa cúc ngay cả khi đã ngắt mới giữ cánh hoa cho dù đem phơi nắng thu cũng không tàn. Bí quyết của làng là vậy. Hoa cúc sau khi phơi se se trên những tấm cót dài dọc con đường đất mịn, đem về nhà rải đều lên nong trước khi xông sấy mà còn trông như hoa vừa ngắt.
Đồng vắng nên hiu hiu. Chỉ vẳng lại ngoài đường quốc lộ tiếng ô tô rầm rì chạy qua, phả làn khói khét sặc mùi dầu mazut cháy dở. Tầm trưa đường quốc lộ cũng vắng vẻ nên từng đoàn xe phong nhanh hơn. Phóng nhanh hơn có nghĩa là những âm thanh cùng những làn khói xe cũng rầm rào hơn và sặc sụa hơn. Nằm trong hốc cây đa lại càng cảm hơn sự vắng vẻ đến chợn rợn. Một chút đắn đo làm ông Thìn đen tỉnh giấc. Ông lo ngại khi nhớ rằng dưới gốc đa giữa đồng này đã có bao đồn đoán về những hồn ma ban trưa thả mình từ trên những tán lá đa xuống, hồn ma rơi xuống đất là chui vào từng hốc đa để trú nắng.
Có tiếng chim lách cách chuyền cành, tiếng chim rúc mỏ vào từng chùm quả đa chín. Lũ chim đang rỉa hạt đa. Ông Thìn đen hơi nghé mắt nhìn ra ngoài hốc cây. Những quả đa chín đỏ, những quả đa chín chỉ bằng đốt ngón tay bị lũ chim rỉa hạt làm rụng xuống lăn lông lốc. Quả đa chín rụng vãi đầy gốc đa lại bị chân người bước qua giẫm be giẫm bét. Mùi quả đa chín thơm ngòn ngọt đã kích thích lũ chuột đồng chui ra khỏi tổ. Hồi đầu trồng hoa cúc chính lũ chuột đồng này là thủ phạm khiến anh cả Thân phải rình mấy giờ giữa trưa nắng mới phát hiện ra. Lũ chuột đồng đánh hơi thấy cái mùi hoa cúc nở hoảng hoắc mà bò ra. Chúng cắn ngang cuống hoa, chúng nhấm nháp từng cánh hoa. Như vô tình hoa cúc trở thành món ăn cho lũ chuột quanh năm gặm đất chát bụng. Lại phải sua chó ra đuổi, làng Thanh Vàng nuôi lắm chó cũng từ đấy. Nửa đêm về sáng chó trong làng ganh tiếng sủa nhức tai, người nơi khác đến thấy ngại mà chối không dám ngủ. Chó làng Thanh vàng cũng nên tri kỷ với người. Thế mới biết việc trồng hoa đâu có giản đơn như mấy ông đố kỵ nhất làng Dục ngày nào nói xưng xưng.
Mọi vật đều phải dựa vào nhau để mà sống.
Nhìn cảnh lũ chuột đồng lũ lít kéo nhau ra tha quả đa chín đem vào tổ làm nguồn thức ăn dự trữ mà ông Thìn đen chợt thốt lên chí lý. Cũng như người dân làng Dục vậy. Người đần dựa vào sự lanh lợi của người khôn để sinh tồn. Người khôn dựa vào sự u mê của người đần để được việc. Chuyện anh cả Thân biết đem hạt hoa cúc về trồng ở đồng làng đã kéo theo cả sự danh giá cùng tiếng thơm cho cái làng chuyên nghề bốc mướn, vác thuê. Ông Thìn đen vẫn nằm nghiêng kiểu úp thìa, ông ôm ngang lưng “cậu” mà nghĩ ngợi. Thoắt đã hơn bảy mươi năm, chuyện đời chẳng mấy mà đã qua mau. Cụ Lang Thân làng Dục đã về với tiên tổ. Đời cụ Lang đầy biến cố, tiếng là giàu sang, vinh danh đấy mà khi nằm xuống cũng chỉ là một nấm mộ ở cuối đồng làng. Ông Thìn đen cảm thương mà sinh trách cứ người làng. Trong thâm tâm của ông Thìn đen thì cụ Lang Thân nếu giờ được làng rước linh vào thờ trong đình thì mới hả.
Giữa trưa thật buồn. Từ trong làng thoảng vọng ra tiếng gà mái vừa đẻ trứng, nó tục tác khan nghe nẫu cả ruột. Tiếng gà quang quác ban trưa nghe xa vời, nghe mộng mị như có gì ám ảnh. Ông Thìn đen lại he hé cặp mắt để trông chừng “cậu” ngủ. “Cậu” đã ngủ tròn một giờ đồng hồ theo cách tính thời gian dựa vào bóng cây đa của ông Thìn đen. Giữa trưa bóng cây đa tròn quanh gốc. Một tiếng sau bóng cây đa soi dưới đất như cái nồi nhôm vợ kho cá làm cháy bị chồng tức đá méo. Lũ chuột nháo nhác bò ra tha quả đa chín bị bầy chím làm rụng nhiều hơn. Chúng tỏ ra táo tợn đến mức trèo qua cả chân của ông Thìn đen lẫn chân của “cậu” mà tha quả. Quả tình nhờ có lũ chuột đồng cùng những quả đa do bầy chim làm rụng này mà hoa cúc bớt bị lũ chuột làm phiền nhiễu. Chuột ăn quả đa xem ra ngon hơn nhiều ăn hoa cúc xót ruột.
Cái thừa của người này thành cái có cho người khác.
“Cậu” chợt gồng người lên hắt xì hơi liên tục. Mỗi lần hắt xì hơi “cậu” như đang bị ai hành. Co rúm người, mặt tái dại nhăn nhó, nhịp thở nấc thành cục tắc nghẽn, nước mắt nước mũi vãi ra đầm đìa. Ông Thìn đen vô cùng ái ngại. Ông cố vòng tay giữ chặt người “cậu” giúp “cậu” khỏi co rúm chân tay. “Cậu” hắt xì hơi vật vã như vậy mà vẫn không hề thức? Ông Thìn đen nghi hoặc khéo léo đánh mắt nhìn xung quanh. Không có ai khác ngoài ông và “cậu” đang quàng tay nằm ôm nhau. Chưa hết nghi ngờ ông Thìn đen buông tay khỏi lưng “cậu” tính xem sự thể. “Cậu” nằm nghiêng, đè người lên cánh tay phải luôn co giật, mắt nhắm nhiền nhưng cánh tay trái còn thả lỏng của “cậu” chốc chốc lại ngoằng lên mũi. “Cậu” ngoằng tay ngoay ngoáy hai lỗ mũi. Cách ngoáy lỗ mũi ấy giống hệt cảnh chú bé Thìn đen ngày nhỏ. Ngày nhỏ, tức là cái ngày chú bé Thìn đen chưa theo hầu Thày Lang Thân ấy. Ngày đó chú bé Thìn đen bụng đói trơ ngồi đâu ngủ gật đấy. Ngủ gật người ngật ngưỡng y như “cậu” lúc đi trên những bờ ruộng. Chú bé Thìn đen ngủ gật say sưa chó sủa bên tai vẫn gà gật. Ngủ quên bụng đói, ruồi bu quanh mắt vẫn cứ tỉnh bơ chỉ đến khi mấy thằng bạn cùng lứa ngắt lá cỏ bên thềm ngoay ngoáy vào lỗ mũi thì chú bé Thìn đen mới hơi cọ cựa. Chú cọ cựa tay cũng đưa lên ngoay ngoáy lỗ mũi và mỗi khi ngoay ngoay lại hắt xì hơi tràng dài tưởng đứt thở.
Không có lẽ là ma trêu “cậu”.
Ông Thìn đen lại khéo léo từ từ ngửa cổ nhìn lên tán lá đa che rợp trên đầu. Tiếng chim lích chích chuyền cành làm rụng xuống những quả đa chín đỏ. Mùi quả đa chín đỏ thơm ngòn ngọt kích thích hai lỗ mũi của ông nhưng tuyệt nhiên ông không thấy gì sất. Ông Thìn đen lại he hé cụp đuôi mắt để trông chừng vạt nắng chiếu lay động bóng cây đa. Bóng cây đa nghiêng nghiêng đổ về phía đông thoáng lay động khi tán lá đa bị gió thổi. Những lỗ nắng soi qua kẽ lá rập rình như đang có ai chơi trò bập bênh.
Ma trêu người nhưng ma không hại người.
Lại khẽ liếc nhìn “cậu”. “Cậu” vẫn không thôi hắt xì hơi. Một chút liên tưởng xa xôi chợt hiện về. Thì ra ông đứng can Mậu. Người đứng can Mậu là những người can trường, họ không ngần ngại thứ gì kể cả gian khổ chứ đừng nói là họ sợ bóng sợ vía. Cụ Lang Thân là người như thế. Ma không hù dọa được người can Mậu nên có lẽ bọn ma chơi quay ra châm chọc những người bên cạnh? Chuyện ma như thế với cụ Lang Thân sẽ nói lại ở phần sau. Còn bây giờ là làm cách nào ngăn được ma chơi đang châm chọc “cậu”?
Hồi làng Thanh Vàng xây xong đình có một chuyện đâu đầu Thày Lang Thân. Số là đình đã xây xong, việc thờ cúng cũng phải lo liệu. Thường thì đình thờ thần, thờ thánh hay thờ thành hoàng làng. Nghĩa là trong điện thờ thường có tượng thần hay thánh hay thành hoàng làng. Đình làng Thanh Vàng chẳng thờ ai cả nên chuyện đâu đầu thủ tục khấn vái hô thần nhập tượng. Nhưng nào có tượng nào để hô để hoán. Các cụ cao niên thẫn thờ vì thấy thiêu thiếu. Cánh trẻ trung hơn thì ngơ ngác nhìn quanh. Nếu hô nếu hoán vào bông hoa giả vẽ rất đẹp thì khác chi coi bông hoa giấy vẽ là thần thánh. Hoa là cây cỏ. Cây cỏ không thay được thánh thần.
Hoa cúc  là biểu tượng của làng.
Đúng là chỉ có hai chữ Thanh Vàng viết như rồng múa phượng trầu trên giấy điệp xem ra là hợp lý. Khi Thày Lang Thân nêu ý kiến đó các cụ đều nhất trí. Thờ chữ cũng có nghĩa là cái làng Dục lõm bõm nôm na đâm ra thành cái làng Thanh Vàng có học. Xưa nay chuyện thờ chữ chưa làng nào có, vậy làng Thanh Vàng thờ chữ trong đình cũng là một chuyện khác người. Sang trọng lắm, khí thế lắm mà tự trọng lắm.
Kể thì làng thờ ngay chính tên của mình cũng gợn.
Mải nghĩ chuyện xưa mà ông Thìn đen quên phắt việc “cậu” liên tục đưa tay lên ngoay ngoáy hai lỗ mũi và hắt xì hơi liên tục. Hình ảnh tưởng tượng về những hồn ma thả mình từ trên các tán lá cây xuống đất rồi chui vào từng hốc đa làm ông Thìn đen rùng mình. Từ bé đến lớn chưa bao giờ ông thấy sợ nhưng lần này ông thấy run run. Trước mắt ông lũ lượt hiện lên những hình hài chập chờn ẩn hiện. Đầu tiên là hình hài cụ Lang Thân. Cụ Lang chấp chới xa xa. Vẫn bộ quần áo cánh ta lụng thụng được may bằng vải lụa Hà Đông màu mỡ gà. Cụ Lang Thân đứng xa xa nhìn chăm chăm vào chỗ hai người. Đôi mắt cụ vẫn như đang cố nén trong lòng nỗi thương cảm về “cậu”. Hình hài cụ Lang nhạt dần nhạt dần giữa màu nắng trắng lóa bên ngoài hốc cây. Tiếp nữa là hình hài ai đó nhìn quen quen nhưng cũng là lạ. Hình hài một thiếu nữ tóc trắng nhờ mờ như làn khói, dài chấm gót. Mớ tóc trắng nhờ dài lõa xõa quệt lê dưới đất theo mối bước đi. Ông Thìn đen căng mắt ra để đoán định. Cô Mây ư? không hẳn thế. Chuyện về cô Mây cho đến giờ nếu nhắc lại ông Thìn đen còn cắc cứ. Hay hồn ma trinh nữ? Không thể nào vì hồn ma ở đồng làng thì chỉ là những người làng về đất. Ông không thể nhận biết chắc chắn đó là ai nhưng cảm giác thân thuộc cứ ám ảnh.
Chỉ có những linh hồn người thân mới hiện hữu bên ta?
Một cơn gió nam thổi mạnh đưa từ phía sông Như lại. Gió bật lên tiếng kêu khác lạ, gió kêu rù rũ trên những tán lá đa hệt như đang có cả trăm ngàn bước chân người đạp trên lá. Tiếng chim chuyền cành như thoảng thốt. Bầy chim bay vút lên, chúng vãi xuống ngay gần chố ông Thìn đen và “cậu” những đám phân chim trắng nhớt. Đình làng Thanh Vàng từ khi có đến giờ chưa có ai được rước vong vào thờ hay gửi thác nên hầu như hồn ma của những người dân của làng đều phát tán ngoài đồng. Vậy nên mới có chuyện cứ trưa nắng là từ trên những tán lá đa các hồn ma thả mình rơi xuống đất. Hồn ma cụ Lang Thân chắc cũng vậy. Nghĩ vậy ông Thìn đen càng thêm đắng trong lòng. Giá như mà chuyện thờ cúng được chu toàn thì làng này đâu có hồn ma vất vưởng. Nghĩ như vậy mà ông Thìn đen chỉ chăm chăm vùng dậy chạy ào về làng làm cho xong việc sửa chữa ngôi nhà cũ để hồn ma cụ Lang Thân còn có nơi tá túc.
Ai cũng có một nơi chốn để an thân.
Tự dưng ông Thìn đen nhắc lại câu nói ấy. Mặt trời đang ngả sang tây. Cũng đã về buổi chiều của một ngày. Ông nhỏm hẳn người xốc “cậu” ngồi dậy. “Cậu” vẫn tít mít. Người “cậu” lúc bất động cứ nhẽo ra làm ông Thìn đen vất vả lắm mới xốc cho “cậu” ngồi dựa lưng được vào một rễ đa to. Cái rễ đa to ấy giờ đã thành một thân cây thực thụ. “Cậu” hết hắt xì hơi hẳn.
Ngồi dựa lưng vào thân cây thấy vững tin. Ông thìn đen lại lơ mơ như thấy ông và “cậu” đang ngồi dựa lưng vào tường nhà. Căn nhà số 98 phố Hàng Cân. Với ông căn nhà ấy thật nhiều kỷ niệm. Ông liêng liếc nhìn “cậu” như ông đang ghé mắt qua lỗ khóa rình xem “cậu”. Những lần ghé mắt nhìn như vậy ông chỉ quan sát được “cậu” từ xa. Lúc này đây ông và “cậu” rất gần nhau. Gần như dính với nhau ấy. Ông nghe hơi thở của “cậu” lúc nhọc nhằn khi phập phù. Hai người đã gần nhau từ sáng đến giờ còn gì.
Lũ chuột đã thôi chuyện bò ra tha quả đa chín rụng lôi vào tổ. Những hồn ma chắc đã nản mà thôi chơi trò ngoáy lá cỏ vào hai lỗ mũi của “cậu”. Tiếng chim chuyền cành cũng đã ngừng bặt. Tiếng gió lùa lá đa cũng bơn bớt mà thầm thì hơn. Trong hốc đa chỉ còn tiếng thở của hai người. Tiếng thở của ông Thìn đen nghe nặng chắc. Tiếng thở của “cậu” cứ nấc lên như người khó ở.
“Cậu” cứ ngủ ngồi mà nghe tôi kể cũng được.
Ánh mắt của ông Thìn đen nhìn ra xa hơn. Chỗ này có thể trông tới thửa ruộng thứ sáu. Thửa ruộng này đang bắt đầu có người trong làng ra thu hái hoa cúc. Bóng những tấm lưng đàn bà lúi cúi ngắt hoa. Những tấm lưng đàn bà thấp thoáng gợi lên trong tâm trí ông Thìn đen về những người đàn bà mà ông được biết, được gặp và được băn khoăn về họ. Ông cho đến giờ vẫn không có một người đàn bà của riêng mình, ông chỉ có những người đàn bà xuất hiện khi huyền ảo, lúc rành rẽ trong nhà cụ Lang Thân.
Đàn bà là người  đẻ ra luôn cả oan trái.
Một chút chạnh lòng ùa tới khiến ông Thìn đen ứa lệ. Ông cám cảnh cho cụ Lang Thân. Ngày làng làm đại lễ mừng đình làng mới xong cũng là ngày Thày Lang Thân đưa ra một quyết định táo bạo, rời làng gồng gánh cả gia đình lên Hà thành làm ăn. Nó cũng là ngày chú bé Thìn đen chân lích chích theo mọi người.
Người Tàu bán thuốc Bắc được thì mình cũng bán thuốc Nam được.
Còn nhớ như in câu nói đó của Thày Lang Thân. Thày Lang Thân đã nó vắn gọn như vậy về quyết định của mình chuyển lên Hà thành. Những bận làm thuê cho lão chủ hiệu thuốc bắc người Tàu bên phố Lãn Ông, anh cả Thân dần dần cũng nhận thấy dân mình đang bị thua thiệt ngay chính ở nhà mình. Có dăm ba cây lá loanh quanh. Có dăm vị cỏ hoa đầy rẫy mà lão chủ hiệu thuốc bắc người Tàu hù dọa bán đắt như chém. Anh cả Thân nung nấu ý định từ ngày đó nhưng phải đợi thời cơ tới mới dám thực hiện.
Việc gì cũng phải đánh đổi “cậu” ạ.
“Cậu” đã tỉnh giấc. Một hình ảnh khác hẳn mọi khi. “Cậu” không giần giật chân tay, không ha há mồm nhỏ ra những sợi rớt rãi. Khuôn mặt “cậu” tươi như “cậu” không hề có chuyện gì xẩy ra. Im lặng dựa lưng vào thân cây. “Cậu” im lặng mở to đôi mắt không nhìn gì cả, không lang lảng tránh như lúc đầu “cậu” gặp ông Thìn đen.  “Cậu” im lặng ngồi nghe câu chuyện của ông Thìn đen. Có lẽ tận sâu trong góc tâm hồn yếu đuối của “cậu” đang lờ mờ nhận thức được giữa “cậu” và ông Thìn đen có mối liên hệ thân tình?
Không ai tính hết được sự đời đâu “cậu”.
Đoàn người trong nhà Thày Lang Thân dắt díu nhau đi. Có Thày Lang Thân, có cô Mây mái tóc dài chấm gót dắt tay hai đứa con. Thằng lớn lên tám, con em lên bảy. Hai đứa con Thày Lang Thân với cô Mây tay giơ ríu mắt che nắng, gọi ơi ả anh Thìn đen đi mau chân cho kịp chúng. Trời buông lửa xuống đồng. Thứ lửa trời hanh hao làm khát khô cổ họng chú bé Thìn đen. Mùa thu năm Canh Thìn, những bông hoa cúc đang khoe cái màu vàng vốn có của mình trên cánh đồng làng Thanh Vàng.
5
Phải là người gan to lắm mới dám mua ngôi nhà ấy.
Ông Thìn đen trầm ngâm nói sau khi đã đẩy hai chân “cậu” đang duỗi ra bất động như đôi chân của người bị  liệt cho gập lại và co sát vào người. Ông Thìn đen cảm thấy cái sự ngồi của “cậu” như vậy đã khá chắc bệ. Câu nói của ông vừa bộc lộ sự thán phục về ý chí, vừa tỏ vẻ kính nể vô vàn dành cho người mà ông vừa nhắc đến. Bên ngoài không gian đột ngột im ắng. Thường thì mỗi khi chuyển mốc thời gian trong ngày từ buổi này sang buổi khác, không gian bao giờ cũng đột ngột im lìm như vậy.
Ngày đầu đặt chân lên đất Hà thành, chú bé Thìn đen hãi xanh cả mắt, chú không dám đặt chân xuống đường để bước sang bên kia phố. Từ phố Hàng Cân, nơi ở mới của gia đình Thày Lang Thân, sang bên phố Hàng Đào chỉ vừa đi vừa chạy chừng mươi bước là chú bé Thìn đen đã có thể đứng bên hè phố. Chú mở tròn đôi mắt nhìn chuyến xe điện đang rít bánh ken két trên hai cái thanh sắt xếp song song với nhau, dài mút mát. Chuyến xe điện nhũng nhẵng mấy toa xe bu đặc người với người vừa chạy qua trước mắt chú. Người đâu mà đổ ra lắm vậy? Chú bé Thìn đen càng ngơ ngác hơn khi thấy kẻ chân bám lên cửa xe điện, người buông tay nhẩy từ trên xe xuống phố. Họ vội vã, họ ào ào như ổ kiến đỏ vừa bị chính tay chú chọc que vào nghịch ngoáy. Chuyến xe điện Bờ Hồ ngược lên chợ Đồng Xuân đang dừng lại đón trả khách, chú đứng nhìn trân trân, mắt đầy nghi hoặc Trên những toa xe toàn là mấy bà nhà quê chân đất, họ lếch mếch thúng mủng quanh gánh, gọi nhau léo nhéo. Chú để ý tới khuôn mặt nhầu nhầu của một ông xẩm mù. Ông xẩm mù đầu ngửa hếch, kính đen che kín mắt, chân đất quẹt lê, bước rò rẫm. Ông xẩm mù được một thằng bé con chừng độ tuổi chú bé Thìn đen dắt đi nhờ một chiếc ba toang làm bằng cây mây kẹp ngang nách. Ông xẩm mù đi như đếm từng bước chân dọc toa xe, vừa đi vừa ỉ a kéo nhị, vừa hát những câu não nề trong ruột. Bác tài xe điện giật dây chuông leng keng báo hiệu xe chuyển bánh. Lửa tóe xanh lè trên đầu cái cần giống cái cần câu cá ngoài sông Như. Cái cần nối nóc xe điện với hàng dây điện loẵng nhoẵng giăng dọc đường phố. Nó tóe lửa xanh lè giống tia sét đánh vào ngọn cây đa giữa đồng làng Thanh Vàng trong những đêm mưa to gió lớn Chú bé Thìn đen đứng ngây mặt ra mà không hiểu sao nó lại chạy được vì chú không thấy có trâu kéo hay có người xúm vào đẩy đít nó. Đấy là lúc chú được Thày Lang Thân nhắc chạy ra ngoài hóng xem xem vào giờ này sao vẫn chưa thấy mấy người đem hàng tới. Chú đứng ngây mặt ra, rồi chợt nhớ việc Thày Lang Thân đã dặn mà dớn dác nhìn quanh. Hà thành giống như một phiên chợ ở quê mà chú đôi lần được bám váy mẹ theo ra chợ ăn bánh đúc chấm tương, người qua kẻ lại chóng cả mặt, người đi như va cả vào nhau nhưng lại là một phiên chợ họp từ sáng tới chập tối, ngày nào cũng họp. Chú như lạc vào giữa một phiên chợ toàn những người không phải là người làng mình. Nhìn mãi mà chú chưa nhận ra đâu là người đem hàng đến giao bán cho Thày Lang Thân, đâu là người đem hàng đến giao bán cho lão chủ hiệu thuốc bắc người Tàu bên phố Lãn Ông.
Chính lão chủ hiệu thuốc bắc người Tàu bên phố Lãn Ông là người mách mối ngôi nhà 98 phố Hàng Cân cho Thày Lang Thân tới hỏi mua. Một ngôi nhà mới xây, kiểu tây, mái ngói đỏ au, tường quét vôi vàng, những chiếc cửa to dùng để ra vào hay cửa sổ dùng để đón gió đều sơn màu xanh. Ngôi nhà này nằm ngay góc giao nhau giữa phố Hàng Cân với phố Hàng Bồ. Rất tiện cho việc người nhà đi lại hay cho người đến buôn bán với Thày Lang Thân. Nhà rộng, cửa cũng rộng nhưng khoảnh sân vuông lát gạch vuông nằm giữa khuôn viên của ngôi nhà mới chính là điều chú bé Thìn đen thích nhất. Chú lúc rảnh việc nhà chạy vòng vòng quanh sân giống như chú đang chạy vòng vòng ngoài đồng làng mình vậy.
Lúc cả nhà mới tới, đứng trước ngôi nhà. Đứng trước cái cửa vào ra rộng nhất. Trên đầu khuôn cửa đã treo ngay ngắn một tấm bảng làm bằng tôn, dài bằng chiều ngang khuôn cửa, sơn màu xanh như màu lá cây hoa cúc nổi bật dòng chữ “Hãng thuốc Thanh Vàng”, nét chữ uốn vòng trông như những cánh hoa cúc, dòng chữ cũng màu vàng rực, cô Mây chợt dùng dằng níu tay hai đứa con lại. Thày Lang Thân phải giục mãi cô Mây mới e dè bước qua ô cửa. Vào hẳn trong nhà rồi cô Mây lại đứng dừng lại, mắt cô nhơn nhớn như thoáng bắt gặp bóng người nào đó  vừa lảng qua, cô vội trông theo, cô ngước lên trần nhà, cô ngóng tai lên tầng hai. Tự dưng cô Mây rùng mình, toát mồ hôi thành hạt, vã lã chã trên trán. Cô Mây lảo đảo khuỵa người, ngã lăn ra như người trúng gió. Cả nhà hú hồn chưa hiểu chuyện gì đã xẩy ra với cô Mây. Chắc là đi đường xa, tàu xe lại chen chúc? Người ẻo lả như cô Mây chưa hết choáng váng? Hai đứa con của cô Mây với Thày Lang Thân nhìn thấy mẹ mà sợ díu vào nhau khóc toáng lên. Thày Lang Thân phải gọi to chú bé Thìn đen mới sực tỉnh, chú cuống quýt móc tay nải nâu vẫn quàng bên vai lấy ra lọ dầu Nhị Thiên Đường. Lọ dầu chú được cha mẹ mình dúi thầm cho. Với họ, có con theo người đi xa chẳng có gì làm quà, giấu cho lọ dầu phòng khi gió máy.
Hơi nhà toát ra lành lạnh. Mùi ẩm mốc bốc lên từ nền nhà ướt dớp dáp làm cô Mây sau hồi ngã khuỵa được Thày Lang Thân soa dầu Nhị Thiên Đường lên hai bên thái dương. Thày Lang Thân vừa soa thứ nước màu nâu sẫm, vị nồng, cay âm ấm vừa từ từ day day xoay xoay theo chiều của kim đồng hồ. Cô Mây đã tinh tỉnh nhưng hắt hơi liên tục. Cũng tại lâu ngày nhà không có người ở nên vắng hơi người mà nó lạnh, mà nó mốc. Thày Lang Thân nói to an ủi mọi người. Nhưng từ đó chú bé Thìn đen thấy cô Mây trầm hẳn đi. Cô luôn len len đánh mắt lên trần nhà, ngóng tai lên tầng hai như để nhìn trộm ai hay trông chừng cái gì đó. Chỉ có chú bé Thìn đen với hai đứa con của cô Mây với Thày Lang Thân là không có biểu hiện gì khác. Sau hồi thấy mẹ ngã lăn ra nền nhà chúng vãi cả nước đái ướt rây quần, chúng lại chạy nhảy khắp xó xỉnh khám phá nơi ở mới còn xa lạ. Trẻ con bao giờ cũng vậy. Được đi xa và được đến nơi mới là chúng sẽ quên vội những phiền muội. Mà trẻ con biết gì mà có phiền muội?
Tử để sinh. Vong để tồn.
Ngồi dựa lưng sát thân cây đa, tựa vai mình đỡ vai “cậu”. Co ró trong hốc cây đa đầu óc ông Thìn đen luôn lởn vởn, luôn ám ảnh về những hồn ma ban trưa thả mình từ tán lá đa buông xuống đất. Ông đan hai bàn tay vào nhau ôm co gióng hai chân mình cho đầu gối chạm sát tận mặt. Ông Thìn đen đang hồi nhớ lại câu nói đó của Thày Lang Thân. Thì ra khi tính mua ngôi nhà số 98 phố Hàng Cân này Thày Lang Thân đã biết nguồn cơ của ngôi nhà. Nghe đâu đó vốn là cửa hiệu rất to chuyên bán vải vóc tơ lụa của ông chủ Khách họ Trần người tỉnh Phúc Kiến, tận đâu mãi ở nước Trung Hoa dân quốc. Ông chủ Khách sang nước ta cùng cha mẹ, họ buôn bán làm ăn đâu như mấy chục năm trước, thấy hời thấy lãi lờ mà ở lại. Ông chủ Khách họ Trần là người giàu có. Giàu hơn nhiều lão chủ hiệu thuốc bắc người Tàu bên phố Lãn Ông. Giàu hơn nên nhà này cũng rộng hơn, cửa cũng to hơn. Nhà lại làm theo kiểu tây nên trông khác trội trên dãy phố toàn những ngôi nhà cũ kỹ, thấp lè tè, sâu hun hút, mái ngói thâm sì. Ngày đó những ông chủ cửa hàng tơ lụa vải vóc thường là những người khá giả hơn những ông chủ buôn bán khác. Từ mấy năm trước khắp Hà thành đã có rầm rộ phong trào phụ nữ đua nhau thướt tha mặc những chiếc áo dài kiểu “tân thời” rất yểu điệu. Đàn ông thì sang trọng trong những bộ veston mới du nhập. Sự giao thoa giữa lối ăn mặc cổ cách truyền thống của phụ nữ với tác phong trưởng giả theo lối tây phương của đàn ông đã nhanh chóng khiến các ông chủ cửa hàng tơ lụa vải vóc phất lên. Ông chủ Khách họ Trần đang giàu lên bỗng tự dưng rao bán nhà. Ông rao bán nhà tự dưng, lại muốn bán nhanh, bán rẻ vậy mà chỉ có mỗi Thày Lang Thân là người đánh tiếng hỏi mua. Thày Lang Thân nghe theo lời giới thiệu của lão chủ hiệu thuốc bắc người Tàu bên phố Lãn Ông.
Khu nhà khá rộng, hình chữ tâm. Nhà lại mang số 98 mới đáng mua chứ, cứ chiếu theo luật phong thủy thì nhà mang số này rất tốt cho người đến ở, lão chủ hiệu thuốc bắc người Tàu bên phố Lãn Ông đã thao thao nói như rót vào tai Thày Lang Thân. Theo đó con số 9 là con số của hạnh phúc, an lành và thuận lợi. Đó là con số tượng trưng cho sự vĩnh cửu và đẹp đẽ. Rất nhiều người thích con số 9 vì nó gần như là hình ảnh cho sự viên mãn tròn đầy. Còn con số 8 lại là con số có nhiều sự quan hệ tôn giáo, là 8 điều bất tử trong đạo Lão và Bát chánh trong Phật giáo. Một con số có thể ngăn chặn những ảnh hưởng xấu trước sự xâm nhập của ma quỷ. Thày Lang Thân nghe giảng giải vậy thì tỏ ra ưng ý vô cùng, trong thâm tâm của Thày thì dường như việc mua ngôi nhà số 98 này đã có sự ứng báo của trời đất cho gia đình Thày. Hiện tại và tương lai xem chừng sẽ thuận. Nhà lớn phía trước hai tầng lầu trông ra mặt phố. Dãy nhà ngang phía trong, thấp như những ngôi nhà ở quê, vòng như cái móng bò, ôm lấy khoảnh sân thông thoang nắng gió. Đúng là một ngôi nhà “thông tiền thoáng hậu”. Một ngôi nhà mà mặt tiền có những ban công nhìn xuống phố. Đứng trên ban công, chếch về bên tay phải, nếu cố nhoài người để ngoái đầu nhìn ra xa, thế nào cũng thấy phía đó là hồ Gươm. Chú bé Thìn đen chỉ biết phía đó có hồ Gươm theo như lời Thày Lang Thân nói nhưng cũng phải đợi mãi ba năm sau, khi chú theo chân Thày Lang Thân ra đó ngóng tìm thì chú mới thực sự biết hồ Gươm là thế nào. Ví như sông Như ở làng Thanh Vàng chẳng hạn. Mười hai tuổi chú bé Thìn đen ngụp tưởng đứt hơi, lặn hối hả cũng chỉ tới chừng được một phần ba chiều ngang của sông. Còn hồ Gươm thì chú lắc đầu. Phải tới vài trăm lần chú ngoi lên, ngụp xuống, lặn tưởng đến đứt hơi thì chắc mới tới bờ bên kia của hồ Gươm được.
Cụ Lang nhà mình đứng can Mậu nên cụ chẳng hãi.
Ông chủ Khách họ Trần của cửa hàng vải vóc tơ lụa đang làm ăn phất lên như diều gặp gió thì cô con gái duy nhất của ông vì u uất chuyện tình duyên lỡ dở mà treo cổ tự tử ngay trong căn  phòng dành cho cô. Ông chủ Khách họ Trần này rất đông con nhưng toàn là con trai, mãi ngoài năm mươi tuổi ông mới sinh thêm cô con gái này nên ông quý còn hơn của cải. Thực ra những người con trai của ông chủ Khách họ Trần đều phương trưởng, họ đi làm ăn riêng và ra ở riêng nên ngôi nhà này mặc nhiên để cho cô sau này. Cô con gái mà ông chủ Khách họ Trần có được là nhờ bà vợ thứ hai. Bà vợ thứ hai này trẻ, tuổi còn ít hơn con trai út của ông chủ Khách họ Trần. Bà là con gái Hà thành chính gốc, nên cô khi sinh ra được thừa hưởng mọi nét đẹp có từ người mẹ cùng những tâm tính cũng của người mẹ. Ngày trước con gái Hà thành vô cùng đoan trang, lãng mạn nhưng lại rất khuôn phép, gia giáo và hiếu lễ. Cô gái họ Trần vừa chạm tuổi trăng tròn lẻ. Xinh như đóa mộng đầu cành xuân, tràn trề như suối nguồn lai láng.
Đời hay ngang trái, thứ gì càng quý càng dễ mất.
Chuyện này mãi khi chú bé Thìn đen trở thành ông Thìn đen thì mới được biết. Hồi cả nhà Thày Lang Thân tới ở ngôi nhà này và mãi mấy chục năm sau chẳng có ai là người được nghe về chuyện đó. Cô gái họ Trần treo cổ chết sau khi chàng thi sĩ, người yêu của cô, bị ông chủ Khách họ Trần cấm cửa không cho qua lại. Hay chính xác hơn là chuyện tình yêu của hai người bị ông chủ Khách họ Trần ngăn cản quyết liệt. Ai đời đứa con gái xinh như mộng, con cưng của một ông chủ cửa hàng vải vóc tơ lụa giàu nhất nhì đất Hà thành ngày đó, lại đi phải lòng một chàng thi sĩ nghèo kiết xác, cầu bơ cầu bất, đầu óc luôn uẩn u với những câu thơ kiểu như “Anh ước hái chùm sao kia làm quà trần thế. Dâng cho em trong hôn lễ động phòng” hay “Mai anh chết xin em đừng nhỏ khóc. Nước mắt kia làm hoen ố má hồng”.
Người hồng nhan thì phận mỏng mà “cậu”.
Nghe nói cô gái họ Trần đẹp mê hồn. Dáng thiết tha tựa như cây liễu, mắt trong veo như vì sao lấp lánh trên trời, da trắng hồng như vỏ quả trứng gà vừa rơi xuống ổ, tóc mượt mềm như dải mây bay, môi đỏ thắm như quệt nước trầu, nụ cười hồn nhiên làm đê mê biết bao chàng si tình. Mà toàn là những trang công tử trên phố Hàng Ngang, Hàng Đào cùng là con của cánh buôn bán vải vóc tơ lụa với nhau, rõ thật môn đăng hậu đối. Hay những trang công tử con nhà quan, học trường tây, nói với nhau toàn bằng tiếng tây, nhà đằng những phố tây như phố Rue Paul Bert mạn kia hồ Gươm, lên xe xuống ngựa, rõ thật hài lòng. Cô gái họ Trần đều ngoảnh mặt dửng dưng. Lòng cô đã hướng về chàng thi sĩ, mê mẩn suốt đêm với những câu thơ mới chỉ nghe đọc thôi đã làm bao con tim nức lên thổn thức. “Nguyện gom hết những tia nắng hạ. Với mùa thu rực nở hoa vàng. Nguyện thắp lên giữa đêm băng giá. Soi nồng nàn những hơi thở yêu đương”. Đêm nằm đọc thơ và ngóng trăng một mình trong căn phòng dành cho cô trên tầng hai, cô gái họ Trần mơ mơ tới cái ngày cô được vùi mặt mình vào mái tóc rối bời của chàng thi sĩ. Cô mơ mơ mà cồn cào nỗi nhớ mặt người cả đêm không ngủ. Chập chờn trong mắt cô là gương mặt chàng thi sĩ đang ngửa lên như để tìm sao trên trời, mắt nhắm suy tư, đọc thơ như thả hồn vào từng câu thấm tận cõi lòng người nghe thơ của chàng. Càng nghĩ càng nhớ, càng nghĩ càng luẩn quẩn, càng nghĩ càng thôi thúc, càng nghĩ càng nung nấu, càng nghĩ càng thấy tuyệt vọng.
Nó cũng như tại cái số ấy bị trời đầy.
Cô Mây những ngày sau đó bề ngoài chừng ổn thỏa nhưng tâm tình lại sinh sầu muộn. Cô hay ngồi tư lự, thỉnh như thèn thẹn. Hằng sáng cô mần tay vịn theo lối cầu thang gỗ xoáy tròn từ tầng hai xuống ngồi lọt thỏm người giữa bộ tràng kỷ được đóng bằng gỗ mun, nước gỗ đen nhoáng bóng. Bộ tràng kỷ kê ngoài phòng khách ngay chính giữa tầng một. Đôi mắt của cô luôn bộc lộ vẻ ưu tư, nụ cười vô cảm ẩn bên hàm răng đều như hạt na trắng lóa. Thái độ của cô cũng trở nên khác lạ ngày cô còn ở làng Thanh Vàng, cô hay nhìn trộm, thoảng chút giật mình mỗi khi có tiếng kẹt cửa trên tầng hai vọng xuống. Có bao nhiêu sự tươi trẻ dường như đến ngôi nhà 98 phố Hàng Cân này đều bay đi hết. Mái tóc mềm và mượt như dải mây xõa bay cẩu thả. Gương mặt trái xoan trắng hồng chuyển sang mai mái như kiểu người có bệnh lạ trong bụng. Cô ít ăn hẳn đi, mỗi bữa chỉ khều khều đôi đũa, rồi gắm từng hạt cơm bỏ vào miệng một rất nhẫn nại.
Thày Lang Thân từ ngày khai trương Hãng thuốc Thanh Vàng lại quá bận bịu với công việc mới. Thày ăn cũng ít nhưng là cái ít của người mắc việc, mải lo toan chứ không phải kiểu ăn ít kiểu sầu muộn khó tìm nguyên cớ của cô Mây. Đôi ba bận Thày Lang Thân tự tay ngồi bón cơm cho cô Mây, những đũa cơm mà toàn là những hạt cơm gạo tám xoan thơm lừng. Với thứ gạo ấy chú bé Thìn đen cùng hai đứa con của cô Mây chỉ cần cơm không cũng và ngoáy đã xong ba bát.
Đấy là những ngày tháng đầu tiên sống trong ngôi nhà mới. Cũng có thể cô Mây vốn sinh ra và lớn lên ở vùng quê yên ắng nên chưa bắt nhịp được với cách sống ầm ào nơi Hà thành đô hội. Ban đêm đường phố Hà thành thật náo nhiệt chứ không tĩnh lặng như những con đường ở làng. Ở làng vào ban đêm tiếng gió hú qua mái nhà gợi lên bao chuyện làm trẻ con giấu mặt vào tay khóc thút thít. Hay cùng lắm là lúc gần sáng, lũ chó đông đúc, chúng vì ganh nhau tiếng sủa mà tru lên ông ổng như làng có cướp. Còn bầy gà trống tơ nữa. Tiếng gáy chưa vỡ giọng nghe te te, ong tai nhức óc khiến mấy đứa trẻ con mải ngủ nướng mà lười dậy đến mấy cũng phải bò ra khỏi chiếc giường tre mỗi khi cựa mình lại phát ra tiếng kêu kẽo kẹt như tiếng ma đưa võng. Ở Hà thành ngày cũng như đêm, ánh đèn điện ngoài phố hắt qua song cửa sổ, đổ những bóng đen giống như những chiếc que tre dài thượt, câm nín trên nền nhà làm cô Mây thêm trằn trọc. Cô ngước mắt nhìn lên trần nhà, ánh mắt chợt thảng thốt, cô chụp tay lên ôm đầu như trong tai cô đang vang lên những tiếng nói xa vời nào đó vọng đến.
Cô Mây, chỉ có cô Mây là vào lúc chập tối, lúc ấy cây đèn tọa đăng mới thắp, ánh sáng vàng vàng còn yếu ớt, chiếu cái bóng của cô in trên tường, bóng cô  đang ngồi tư lự trong căn phòng dành của mình. Cô Mây lại thoảng giật mình, miệng lẩm nhẩm nghe hơi chút ngân nga những câu gì đó. Cô Mây đứng dậy, cô bước lại gần bức tường phía đông của căn phòng, chút sáng nhờ nhờ do ráng hồng của mặt trời đã lặn đang soi tới. Trên bức tường ấy cô nhìn thấy bóng một người con gái đang xõa tóc đi đi lại lại. Mái tóc xõa dài được chút gió từ cửa sổ thổi tới bay lả lơi. Cô thấy sao hình bóng của cô gái xa lạ trên tường sao giống hình bóng của mình đến vậy. Cô Mây vòng tay vén tóc. Cái bóng cũng vòng tay vén tóc. Cô Mây vuốt vuốt má mình. Cái bóng cũng giơ tay lên vuôn vuốt má mình. Cô tiến lại gần hơn. Cái bóng cô gái xa lạ thoắt nhỏ đi nhưng cũng chẳng ngại ngần bước sát tới người cô. Hai người. Một bóng và một hình chập vào nhau. Cô Mây hét to sợ hãi.
Thể tình của cô Mây không trầm trọng như người đổ bệnh nhưng nó làm Thày Lang Thân cũng chút phiền lòng. Cứ vào chập tối khi bóng nắng ngả hẳn về tây, khi đường phố hiu hắt ánh đèn, soi bóng người chập chờn là Thày Lang Thân lại lên căn phòng của cô Mây. Có Thày Lang Thân ngồi cạnh cô Mây không những yên dạ mà cô lại hốt hoảng nhiều hơn. Cô bấu lấy người Thày Lang Thân mà khóc lóc. Khóc nhỏ thôi nhưng tiếng khóc não nề và thổn thức như chính cô đang mắc gì oan ức. Rồi cô tìm cách đẩy Thày Lang Thân ra xa khỏi người mình. Tự dưng cô Mây thấy ghét vô cùng người đàn ông đang tìm cách vỗ về cô. Cô chạy ra mở toang cánh cửa sổ, cánh cửa trông xuống phố. Cô ngóng mắt nhìn tít con phố nhỏ dài hun hút. Cô Mây như đang tìm ai đó, cô đang trông ngóng ai đó.
Những hồn ma thường chọn người cùng căn kiếp với mình để nhập thân.
Đấy là những bữa cô Mây bị hồn ma cô gái trinh họ Trần về nhập vào. Lúc ấy cô không còn là cô Mây nữa. Cô Mây đã biến thành cô gái trinh họ Trần, cô lẩm nhẩm đọc những câu thơ mà trước đó cả đời cô cô chưa từng biết. Ngày chưa ra Hà thành cô Mây chỉ là một cô gái quê, lấy chồng, đẻ con và chăm sóc chồng con. Một vài đôi chữ cô mới học lỏm nhờ hồi còn ở làng Thày Lang Thân thuê anh giáo học làng bên sang dạy chữ cho hai đứa con. Học lỏm nên cô ham chữ, vớ bất cứ thứ giấy gì có chữ là cô đều mải miết đọc, chuyện đọc thơ và nhớ thơ âu cũng là lẽ thường tình. Những câu thơ chất chứa tâm hồn cứ từ miệng cô tuôn ra như suối chảy. Những nỗi buồn trong thơ cứ réo rắt trong lòng cô. “Đợi đến luân hồi sẽ gặp nhau. Cùng em nhắc lại chuyện xưa sau. Chờ anh dưới gốc sim già nhé. Ta hái trao nhau đóa mộng đầu”. Cô Mây đọc thơ thế nhưng đời cô đã có mối tình nào đâu để gọi là mối tình đầu. Cô thuận lời lấy anh cả Thân, tức Thày Lang Thân cũng vì lẽ anh cả Thân là cả niềm ao ước của những cô gái làng Dục ngày đó. Tự dưng trong lòng cô Mây lóe lên những khát vọng yêu đương. Những khát vọng do con tim cô thôi thúc. Cô thấy sợ hãi ngôi nhà cô đang sống. Những hình bóng cứ lởn vởn trên bức tường phía đông mỗi khi chiều xuống.
Cụ nhà mình tinh ý lắm.
Ông Thìn đen duỗi chân, vặn ngón tay kêu khùng khục cho đỡ mỏi. Ông nhìn sang bên “cậu”. “Cậu” đang ngồi im lặng, đôi môi trề ra trông rất buồn cười. Những sợi rớt rãi thầm thì chảy xuống ướt đầm vạt áo của “cậu”. Gió hơi chờn rợn. Lưng ông Thìn đen ngọ nguậy va phải một mấu cây thấy đau nhói. Cái thúc đau nhói  làm ông nhớ tới hiện tại.
Ngồi thêm một tí nữa ta sẽ đi “cậu” ạ.
Hơi ngả người đánh mắt nhìn nhanh lên tán lá đa, ông Thìn đen se sẽ nói như sợ ai nghe thấy. Những ngày cô Mây đổ bệnh Thày Lang Thân giấu tiệt mọi người. Trong nhà không có ai được biết tình hình tâm thần của cô Mây. Đích thân Thày Lang Thân tự tay mỗi ngày ba lần lên phòng cô Mây. Thày tự tay bón từng thìa cơm cho cô, an ủi cô. Nhưng đều vô vọng. Cô Mây lại hoảng sợ hơn mỗi khi Thày Lang Thân bước vào. Hình như trong mắt cô bây giờ không phải là anh cả Thân tài giỏi nhất làng bữa nào mà là một gã đàn ông thấp tè với những ngón tay ngắn ngủn. Cô Mây bật cười mỗi khi cái đầu tròn tròn cùng cái dáng thâm thấp của Thày Lang Thân đẩy cửa ngó mặt vào. Cô thấy đó là một người hoàn toàn xa lạ và dửng dưng.
Bây giờ chồng thấp vợ cao. Như đôi đũa lếch so sao cho vừa.
Tự nhiên ông Thìn đen lại ngẫm ngợi câu ca dao nghe đến héo lòng. Quả tình là cô Mây cho dù bệnh tình khó đoán định nhưng dáng hình của cô lại mỗi ngày mỗi đẹp thêm lên. Ngồi trong nhà lâu ngày nên nước da cô Mây không trắng hồng nữa, nó mai mái xanh xanh nhưng nước da mái xanh của cô nhìn mà lại thấy như muốn ôm trọn trong tay hơn. Đàn ông hình như thích những người đàn bà yếu đuối để họ có cơ hội được chăm sóc hay nhường nhịn. Thày Lang Thân cũng thuộc tuýt người đàn ông như vậy. Thày càng thương cô Mây hơn nhưng Thày càng thương cô Mây càng xa lánh Thày.
Cô Mây chập tối nào cũng ngồi tư lự đọc thơ. Những câu thơ như nhập vào tâm hồn cô từ khi nào chẳng rõ. Như những câu thơ ấy từ chính cõi lòng của cô mà hình thành. “Nắng nhạt, chiều rồi. Em ơi, xin đừng chậm chễ. Bởi nắng kia đâu biết đợi chờ. Anh xin hóa tình anh thành giường mộng. Dâng tân nương sởi ấm hồn buồn”.
Bữa cô gái trinh họ Trần treo cổ tự vẫn là bữa cô đã trắng một đêm không ngủ. Cô gái họ Trần viết lên giấy la liệt những câu thơ tình do chàng thi sĩ nọ đọc tặng. Hồi đó phong trào thơ tình nở rộ. Đâu đâu cũng một hình ảnh những chàng thi sĩ đầu tóc rối bù. Ngửa mặt nhìn trời sao đọc thơ trầm ngâm. Biết bao trái tim thiếu nữ Hà thành coi đó là nguồn mạch yêu thương dành cho riêng họ. Những năm đó thật có nhiều biến động cùng nhiều chân lý sống được phô bầy. Giữa biết bao hỗn độn đó, thơ tình vụt lên như vì sao băng đốt cháy biết bao tâm hồn còn chưa biết ngày mai ra sao. Việc cô gái họ Trần yêu thơ, thích thơ rồi mê người làm thơ không là chuyện riêng lẻ. Gái Hà thành ngày đó yểu điệu trong những chiếc áo dài tân thời, tay cầm hoa hồng nhung đỏ thắm, mắt si mê ngưỡng vọng những chàng thi sĩ.
Họ cũng có ấp ủ  riêng của họ chứ “cậu”.
Dường như những câu thơ cô gái họ Trần viết ra trong đêm cuối cùng của cuộc đời mình đã thấm sang cô Mây. Thày Lang Thân dù bận bịu với việc bán buôn buôn bán nhưng Thày là người sáng dạ nên Thày đã đoán biết. Không tin vào ma quỷ nhưng Thày tin sự ám ảnh từ chính ngôi nhà mà mình đã mua và đưa cả gia đình đến ở. Lão chủ người Tàu chủ hiệu thuốc bắc bên phố Lãn Ông nhay nháy đôi mắt lươn của mình nhìn Thày Lang Thân ý thăm dò. Lão ranh ma phải biết. Chỉ nội việc lão giới thiệu cho Thày Lang Thân đến mua được căn nhà này lão đã bỏ vào chiếc hộp gỗ sơn đỏ khóa kỹ càng chuyên dùng để cất tiền của lão cũng kha khá. Ông chủ Khách họ Trần cảm ơn lão một khoản tiền hậu hĩnh bởi nhờ lão căn nhà mới bán suôn sẻ. Nên việc lão nhay nháy mắt thăm dò ý tứ Thày Lang Thân cũng có lý do. Lão đang sợ Thày Lang Thân tìm gặp lão bắt đền chuyện mua nhà đó, hay đòi lão tìm ông chủ Khách họ Trần về để cự nự. Lão chủ người Tàu biết thừa ông chủ Khách đã rời đi đâu nhưng lão luôn hắng tiếng ý rằng lão không rành lắm. Những người bên Tàu đã sang bên ta hay cụ thể hơn là những người Phúc Kiến một khi đã bỏ quê đi làm ăn tha hương họ không bao giờ đoài hoài về cố quốc. Người Phúc Kiến đã một đi là không bao giờ trở lại. Thày Lang Thân thừa biết ông chủ Khách bỏ đất Hà thành chạy lấy người đâu như vào tận trong Sài Goàng thì phải.
Hay là cho cô nhà đi đâu cho khuây khỏa.
Lão chủ hiệu thuốc bắc người Tàu bên phố Lãn Ông không cần đợi Thày Lang Thân nói câu gì đã gợi ý luôn. Thâm tâm lão, lão thừa biết chuyện cô Mây thế nào. Người Tàu họ rất giỏi biết chuyện nhà nào có ma ám hay chuyện người nào bị hồn nhập. Đơn giản vì nếu sao biết ngôi nhà 98 Hàng Cân rao bán rất rẻ mà lão không mua. Lão không mách mối cho những người Tàu đang sống vạ vật dưới gầm cầu Đume, hay kéo xe ba gác chạy rã cẳng khắp phố hoặc hì hục khuân vác oằn lưng ngoài bến Phà đen đến hỏi mua. Lão chỉ nhăm nhăm giới thiệu cho Thày Lang Thân, tức là lão muốn đổ thừa cho những người mà lão chẳng hề có chút bà con.
Không hiểu sao cụ nhà mình lại hay nghe lão chủ người Tàu đến thế?
Căn phòng cô Mây ở cũng chính là căn phòng ngày trước cô gái trinh họ Trần đã ở. Một căn phòng đẹp nhất ngôi nhà với kiểu bầy biện trang nhã hợp với những người thục nữ. Chính giữa phòng kê một chiếc bàn độc hình tròn, mặt bàn ốp đá hao cương trắng, vân hoa màu nâu non uốn lượn thành hình sông núi, nhìn kỹ thấy giống một bức tranh thủy mặc. Trên mặt bàn cứ ba ngày một lần Thày Lang Thân cho chú bé Thìn đen lên cắm một bình hoa cúc vàng tươi rói, đó là những bông hoa do người làng Thanh Vàng mang lên Hà thành mối khi họ đến giao hàng. Ý của Thày là muốn mọi người trong nhà luôn hướng về quê hương, hướng về cái làng Dục xưa nghèo dớt mà tấn tới. Bàn chỉ có một đôi ghế kê kèm, chiếc ghế có tay ngai, lưng ghế cũng ốp đá vân hoa, mặt ghế đen bóng ngồi mát lịm. Cũng như cô gái trinh họ Trần ngày còn sống trong căn phòng này, chiều tối cô Mây cũng hay ngồi đó tư lự. Một cây bạch hạp thân tròn đỏ đặt trên bàn được thắp sớm, tỏa ra khắp căn phòng một thứ mùi hương thoảng như mùi trầm nhưng lại ngan ngát như mùi hoa dạ lan. Không hiểu tay kiến trúc sư nào thiết kế mà căn phòng này cửa ra vào và cửa trông ra ban công lại thông nhau. Mỗi khi mở cửa ra đứng trên ban công nhìn xuống phố, như có cảm giác đang có bàn tay nào đó khẽ đẩy vào lưng. Đứng ở đó người thần kinh yếu, hay người đa sầu đa cảm rất dễ vô tình gieo mình xuống đường. Thày Lang Thân lần đầu đứng như thế đã nhận thấy điểm xung này, Thày đã cho đặt chắn lối cửa ra ban công một chiếc tủ đứng một buồng, cao tầm tay người lớn với. Toàn bộ cánh cửa tủ là một tấm gương lớn soi rõ toàn thân. Cô Mây ngồi tư lự bên chiếc bàn tròn, mắt hướng ra ngoài phố nhưng cô không tài nào đẩy chiếc tủ sịch sang bên, để mở cửa bước chân ra ngoài ban công. Ánh mắt cô gặp ánh mắt người con gái trong gương. Cô thì thầm với chính nhân ảnh của mình mỗi khi chiều xuống. Lòng cô dạt dào những bức bối, cô như cảm thấy mình bị tù túng mà muốn phá tung nó, vứt bỏ nó.
Nghe lời lão chủ hiệu thuốc bắc người Tàu bên phố Lãn Ông, Thày Lang Thân đã cho chuyển cô Mây sang căn phòng khác gần với phòng của Thày hơn. Tiếp theo là Thày nhờ người dẫn mối cô Mây làm quen với những quý bà những quý cô cùng dân buôn bán với nhau. Hồi đó Hà thành đang rầm rộ trào lưu các quý cô, quý bà theo đòi quý phái kiểu tây đua nhau đi học nhảy đầm. Cô Mây được ra ngoài nhiều hơn, cô đi học nhảy đầm. Phải nói là người Tây họ khá văn minh. Môn học nhảy đầm đem đến cho các quý bà quý cô nhiều hưng phấn. Họ chăm chút mình hơn, họ để ý nhiều hơn đến áo quần và son phấn. Những tháng sau đó cô Mây như lột xác, cô hoàn toàn biến thành một người khác. Với dáng liễu trời cho, với nước da trắng hồng như trứng gà mới đẻ. Chỉ qua vài buổi học nhảy đầm với mấy chị bạn mà cô Mây tiến bộ trông thấy. Thực ra sự tiến bộ ấy cũng một phần là những khao khát của cô Mây được giải tỏa.
Ban đầu cô Mây chỉ dám đi cùng với mấy chị bạn quen. Dần dà cô Mây năng đi hơn, cô đã có nhiều bạn mới hơn. Những người bạn mới này không đơn thuần là mấy cô mấy chị cùng dân buôn bán nữa, cô có bạn mới là những người đàn ông, người ta có người tây có. Những viên sĩ quan Pháp đẹp trai, cao ráo, lịch lãm có thừa và cách lấy lòng phụ nữ cũng có thừa. Cô Mây mỗi lần đi nhảy đầm về đôi mắt như rực lên lóng lánh. Cô thấy yêu đời hơn và ngại về nhà. Mỗi bận cô trở về nhà là cô lại thảng thốt khi đi qua căn phòng cũ. Cô thảng thốt thấy người con gái đẹp nồng nàn ở trong gương đang nhìn cô như vời gọi. Những lần như thế cô Mây lại trở nên rầu rĩ, cô lẩm nhẩm đọc thơ, giọng buồn như suối cạn.
Thày Lang Thân mừng lắm tuy vẫn còn đôi chút phân vân. Cuối cùng thì cô Mây nhà quê lại ủ dột ngày mới ra Hà thành đã mau chóng trở thành một mệnh phụ đất Hà thành thực thụ. Cô nhiều hôm đi nhẩy đầm tới tận khuya. Cô trở về trên người phang phảng hơi men. Có bác tài vòng vội xuống cuối xe để mở cửa, bác tài khom khom người khẽ chìa bàn tay đỡ cô Mây bước ra ngoài sau cái đỗ sịch của chiếc xe hơi lang bóng. Cô Mây còn dùng dằng bên cửa xe, cô hơi cúi người, điệu đà đặt những ngón tay thon dài lên che miệng, cô hôn đánh “chụt” rồi khẽ ngửa lòng bàn tay chìa cũng rất điệu đà vào trong xe, cô nói “ô voa” với ai đó đang ngồi trong xe.
Chuyện cũng chẳng sao. Sau ba năm ổn định trên đất Hà thành, công việc buôn bán thuốc nam của Thày Lang Thân cũng đi vào nền nếp. Hãng thuốc Thanh Vàng mau chóng khẳng định danh tiếng của mình nhờ lối làm ăn thật thà chứ không như lão chủ hiệu thuốc bắc người Tàu bên phố Lãn Ông. Lão chủ người Tàu này chỉ được cái lẻm mép, ăn nói tia lia nhưng bán đắt như chém cổ. Thày Lang Thân nổi danh lại thêm danh nổi nhờ có bà vợ đẹp như tiên. Sáng sáng cô Mây quàng chiếc khăn voan màu hoàng yến. Chiếc khăn mỏng, khổ to được gấp chéo, cô quàng khăn hờ hững ngang vai. Mái tóc dầy đen của cô Mây được bới cao càng làm lộ rõ cổ kiêu ba ngấn cùng cái ót trắng hồng hồng hút bao ánh mắt đàn ông, trên búi tóc cô Mây còn giắt cành trâm bạc nạm viên ngọc bích. Cô bước đi thanh thoát trên đôi bàn chân nhỏ xinh. Đôi chân xỏ gọn chặt trong đôi dép da cao gót, quai dép mảnh mai màu trắng kết hình hoa bướm càng tôn thêm vẻ đài các. Cô bước ra đường phố níu bao cái nhìn theo ngưỡng mộ.
Cô Mây đẹp lắm “cậu” ạ. Đẹp chẳng ai bì được đâu.
Trong thâm tâm và trong ký ức của ông Thìn đen thì cô Mây của mấy chục năm sau mãi vẫn là cô Mây ngày bỏ Thày Lang Thân ra đi mới hai mươi chín tuổi, đẹp như tiên giáng trần. Ông mãi trung thành với cách gọi chỉ vỏn vẻn có hai từ “Cô Mây”, chứ không thay đổi bất cứ một từ nào khác. Kể cũng chẳng sai tí nào.
Người đứng can Mậu là người có bản lĩnh nhưng lại vô tình với nỗi lòng của người bên cạnh mình.
Ông Thìn đen đang nhớ lại mùa đông năm Quý Mùi. Năm đó mùa đông đến sớm hơn thường lệ. Cái lạnh đầu đông khiến chú bé Thìn đen đã sang tuổi mười lăm vẫn còn muốn vùi đầu vào chăn ngủ thêm chút nữa. Chú cố vùi đầu vô tình không nghe thấy tiếng gọi dậy giục giã của Thày Lang Thân. Cho đến khi Thày Lang Thân phải lật chăn chú mới ngơ ngác kêu trời còn tối. Cả đêm qua cô Mây đi nhảy đầm không thấy về nhà. Thày Lang Thân chờ mãi, chờ mãi cho tới tang tảng sáng. Khi Thày vừa ngả người đặt lưng định nằm đôi phút cho lại sức thì bàn tay Thày chạm phải những tờ giấy giắt hờ dưới gối. Những tờ giấy pơ luya mầu hồng, gấp tư ngay ngắn, thơm ngào ngạt mùi nước hoa Chanel quen thuộc bởi cô Mây hay sức loại nước hoa này. Thày Lang Thân vội mở ra xem. Đó là bức thư của cô Mây gửi lại cho Thày. Không biết cô Mây viết những dòng chữ gì nhưng  Thày Lang Thân đọc trang giấy nào là thấy bàn tay Thày run run, giật giật. Thày Lang Thân hơi rủn người đi vài phút mới hồi tâm, đấy là lúc Thày chạy xuống nhà ngang có căn phòng chú bé Thìn đen đang ngủ. Thày chỉ kịp nói chú đi cùng Thày ra hồ Gươm tìm người. Đi tìm cô Mây.
Cô Mây đi đâu? Cô Mây đi với ai? Chú bé Thìn đen vừa dụi mắt vừa tấp tểnh chân theo Thày Lang Thân ra hồ Gươm. Chao ơi cái hồ rộng quá. Mặt hồ sớm mùa đông sương giăng mịt mù. Lác đác những bóng người nhưng toàn là những người đi bán hàng rong. Họ vừa đi vừa cất tiếng rao hàng nghe khê khàn như bắt người khác phải dừng lại mua cho họ thứ gì đó. Thày Lang Thân đi trước vội vã. Chú bé Thìn đen theo sau. Hai người dáng cùng thấp như nhau, lúi cúi vừa đi vừa ngó nghiêng. Bất cứ chỗ nào có người hay thấy bóng người là họ nhào tới. Không thấy cô Mây ở đó. Thày Lang Thân nhìn ra mặt hồ sương giăng mờ tỏ. Không thấy xác cô Mây nổi lên như Thày nghĩ cô vì buồn phiền theo cô gái trinh họ Trần mà nghĩ quẩn gieo mình xuống hồ.
Với chú bé Thìn đen thì đây là cơ hội cho chú được biết đến hồ Gươm rộng đến thế nào. Thày Lang Thân liên tục gọi chú thì chú mới dớn chân đuổi theo. Hai người đã đi hết một vòng hồ. Thất vọng và mỏi chân Thày Lang Thân kéo chú bé Thìn đen ngồi xuống chiếc ghế đá. Ghế ươn ướt và lạnh cóng cả mông. Người can trường và bản lĩnh như Thày Lang Thân đến lúc này cũng bật những cái sụt sịt. Chắc là do lạnh? Cũng có khi là do quá lo lắng. Hai Thày con ngồi bên nhau, mỗi người đuổi theo một suy nghĩ. Chú bé Thìn đen muốn một lần được bơi ở hồ này như chú đã bơi ngoài sông Như làng Dục. Thày Lang Thân như tuyệt vọng. Trong thư gửi lại cô Mây cho hay cô đã đi rất xa. Xa lắm, cô cầu xin Thày Lang Thân đừng đi tìm cô làm gì cho thêm thất vọng.
Chú bé Thìn đen chỉ biết có thế. Chú chỉ biết đi theo Thày Lang Thân ra hồ Gươm chứ không biết ra đây để Thày tìm hình bóng cô Mây. Thày Lang Thân khá kín tiếng. Thày không muốn lôi trẻ con vào chuyện người lớn. Lạnh giá quá. Chú bé Thìn đen dựa hẳn vào người Thày Lang Thân để ngủ tiếp. Chợt chú thấy người nóng rực lên. Mặt thấy ngưa ngứa giống như chú bị thằng bạn nghịch trêu sáp lá cỏ vào mặt. Chú dụi mắt nhìn ra. Thày Lang Thân vừa chợp mắt cũng chợt mở mắt nhìn ngạc nhiên như chú vậy. Chùm trên vai hai Thày con chú bé Thìn đen là một tấm áo ca pốt lính hơi rung rúc, áo may bằng dạ, màu cứt ngựa.
Mãi sau này ông Thìn đen mới được biết có một viên sĩ quan Nhật tình cờ đi ngang qua chỗ họ đang ngồi co ró trên chiếc ghế đá ướt buốt tận ruột giữa buổi sớm mùa đông lạnh giá. Viên sĩ quan Nhật dường như cho rằng đây là hai mảnh đời khốn khó mà cởi áo chùm cho hai người. Hay hình như viên sĩ quan Nhật thấy bộ dạng hai người rất đáng thương, họ cũng thấp bé giống như người Nhật mà động lòng. Hình như những người cùng máu đỏ da vàng, cùng nhỏ bé như nhau lại biết thương nhau hơn những người cao lớn?
Phàm là những người con gái tuổi Dần thì trước sau gì họ cũng phải thế “cậu” ạ.
6
Thư của cô Mây gửi lại cho thày Lang Thân.
“Me xừ thày Lang Thân vô cùng kính trọng của em.
Thưa Me xừ.
Nhẽ ra em không nên viết thư để lại cho Me xừ như thế này. Nhẽ ra tự   em. Phải, tự chính em em phải tự nói với Me xừ. Nhưng em không thể cất nổi lời để nói được. Lòng em bối rối tơ vò. Ruột em chín khúc đau đớn. Em biết là em vô cùng có lỗi với Me xừ. Tội lỗi của em thật đáng khinh bỉ. Me xừ cứ khinh bỉ em như Me xừ đã từng khinh bỉ một con sâu bẩn thỉu nhất mà Me xừ đã từng khinh bỉ.
Thưa Me xừ.
Đời một người con gái là cuộc đời chỉ biết nương tựa vào một người đàn ông mà thôi. Em đã nương tựa vào Me xừ. Ngàn lần em, em biết ơn Me xừ về điều đó.
….Em không có can đảm để nhìn vào mặt Me xừ mà nói với Me xừ những điều mà lòng em đang thổn thức. Em luôn mong ước Me xừ và hai con của chúng ta được gặp phúc đức gặp được an lành. Được như vậy đã là diễm phúc cho em rồi.
….Me xừ chắc còn nhớ hồi Me xừ cùng bà mối sang nhà em thăm mặt em và hỏi em về làm vợ Me xừ? Chắc Me xừ không còn nhớ hoặc nếu còn nhớ thì chỉ là nỗi nhớ thoáng qua, vì Me xừ có quá nhiều việc để làm chứ không như em, một người con gái vì quá nhàn rỗi mà hay nhớ linh tinh. Nhưng chuyện này thì em nhớ, lòng em thì mãi nhớ. Em nhớ hôm đó em đã run lên vì quá sung sướng. Em sung sướng tột độ vì trong làng mình còn có bao cô gái khác xinh đẹp hơn em mà họ đâu có được diễm phúc như em. Em sung sướng vì chính Me xừ đã chọn em như Me xừ đã chọn.
Em về làm vợ Me xừ. Vâng, như vậy là Me xừ đã cho em một gia tài lớn. Em đã mắc nợ Me xừ từ ngày đó.
Nhiều lúc em cứ ao ước được về lại làng. Về lại em, người con gái quê ngày nào chưa biết đến những điều mà bây giờ em hối cũng không kịp nữa. Em vô cùng hối hận nhưng lòng em không tiếc nuối.
Em ước về lại làng mình, về lại ngày em mới theo chân Me xừ ấy. Sao khi đó em thấy đời mình như được lên tiên vậy. Me xừ là người đưa em lên tiên giới. Em đang lú lẫn trên cõi tiên có thật này. Em nói thế không ngoa chút nào vì được theo hầu Me xừ là em vinh hạnh vô cùng.
Ôi giá mà không có chuyện như ngày hôm nay….Giá mà em vẫn như là em từ cái ngày em về nhà Me xừ. Chuyện sẽ cứ diễn ra và em và Me xừ và tất cả chúng ta chẳng ai có thể nói khác về nhau.
Me xừ vô cùng kính trọng của em.
Chính vì sự kính trọng đó mà em không dám trở về để nhìn thẳng vào mặt Me xừ mà nói, mà khóc, mà van xin hay mặc lòng cho số phận dun dủi đi đến đâu thì đến. Vâng, là em. Chính tự em bây giờ đang để cho con tạo sai khiến. Trái tim em. Cõi lòng em, em không sao tự quyết được….
Thưa Me xừ.
Em chưa báo đáp được ơn nghĩa của Me xừ thì em đã phải nói lời tạ lỗi. Em ngàn lần quỳ gối, cúi đầu trước Me xừ. Em xin Me xừ đấy. Em không xin Me xừ tha lỗi vì em biết Me xừ không bao giờ tha lỗi cho em. Hành động của em là tội lớn…. Em….em đã yêu người đàn ông khác. Một thứ tình yêu mà đến giờ em mới hiểu được thế nào là tình yêu.
Thưa Me xừ. Em về làm vợ Me xừ khi mà em chưa kịp biết tình yêu nó như thế nào. Người làng mình cũng chẳng có ai biết tình yêu là gì. Em lớn lên. Me xừ cùng bà mối đến nhà em dạm hỏi. Em gật đầu đồng ý. Nó có phải là tình yêu không? Nó có phải là sự vội vàng không? Hay nó là thứ gì đó cả em và cả Me xừ đều không biết, không hiểu được.
Em vô cùng biết ơn Me xừ. Biết ơn Me xừ vì chiều chuộng em và cũng vì qua thương em mà Me xừ cho em được những đều mà em chưa được biết. Me xừ vô cùng tốt với em. Tốt quá đến nỗi chính em đã lạm dụng lòng tốt của Me xừ. Thành thật mong Me xừ cho em hai chữ đại xá.
….Me xừ cho em được đi ra ngoài. Đi ra khỏi cái nơi mà ngày ngày em thấy mình như bị giam giữ đến ngây dại. Me xừ đã cho em được làm quen với nhiều người, một điều mà những người đàn ông làng mình không bao giờ cho phép vợ được như thế. Me xừ đã thầm cho em được hiểu thế nào là giá trị của em. Me xừ có nhớ không? Những ngày em được ra ngoài là những ngày đời em như chắp cánh. Em thấy sao cuộc đời này, ít nhất cũng là cuộc đời của em còn có ý nghĩa. Em nói Me xừ đừng trách mắng em. Phận người đàn bà đã làm vợ người cũng có nghĩa là đời người đàn bà ấy chấm hết từ đó. Em cũng đã cố gắng để làm tròn phận sự đó….
Em đi ra ngoài. Em tiếp xúc với mọi người và em đã nhận ra những suy nghĩ trước đó của em là sai lầm lớn. Người Pháp họ hơn ta bởi họ vô cùng văn minh. Cái sự văn minh của họ là ở chỗ họ biết tôn trọng cái đẹp. Em nghe họ nói: Đàn bà chính là cái đẹp lớn nhất mà tạo hóa sản sinh ra. Người Pháp văn minh nên họ biết tôn trọng cái đẹp do tạo hóa sinh ra. Những người đàn ông Pháp luôn đối xử tử tế với đàn bà. Họ không bao giờ trách mắng đàn bà một câu chứ đừng nói họ đòi hỏi hay bắn người đàn bà phải cung phụng họ. Những lần được tiếp xúc với những người đàn ông Pháp bao giờ em cũng thấy thỏa nguyện. Em thấy mình vô cùng hạnh phúc trước những cử chỉ vô cùng là tốt đẹp của họ. Đàn ông Pháp coi đàn bà là thứ cần phải nâng niu hơn cả những bông hoa. Vâng, em biết Me xừ rất nâng niu những bông hoa cúc. Những bông hoa cúc đã đem đến cho chúng ta, đem đến cho em sự sang giàu. Em đang nhớ cánh đồng hoa cúc làng mình. Cánh đồng nở vàng một màu vàng kiêu sa ấy. Nhưng Me xừ lại không phải người đàn ông Pháp. Me xừ là Me xừ. Một người đàn ông làng Dục chăm hoa, quý hoa nhưng không nhận biết hay phân biệt giữa hoa thật và người hoa.
Thưa Me xừ.
Đâu phải là em trách gì Me xừ. Đâu phải là em chê trách gì Me xừ. Cái em nói ra đây là cái mà cả Me xừ, cả em, cả bao người như chúng ta đều chưa biết. Người Pháp họ biết. Họ hơn người ta ở chỗ đó.
Xưa nay hễ một khi người đàn bà đã thành vợ người khác là người đàn bà ấy chỉ có một nghĩa vụ duy nhất. Nghĩa vụ đẻ con và chăm sóc chồng con. Nghĩa vụ răm rắp nghe theo mọi phán quyết của chồng. Và em đã nghe theo sự phán quyết ấy khi em theo Me xừ lên Hà thành.
Hà thành. Đấy chính là nơi Me xừ đưa em đến và chính Me xừ đã vô tình đẩy em vào vòng xoáy tội lỗi.
Nhiều khi em cứ nghĩ. Giá như….vâng giá như chúng ta còn ở mãi cái làng quê đã sinh ra chúng ta thì chắc chẳng bao giờ có chuyện lúc này đây em viết thư mong Me xừ hãy từ bỏ em. Me xừ hãy từ bỏ em trong lòng Me xừ vì em đã từ bỏ Me xừ trong lòng em mất rồi……”
Nhà văn Nguyễn Trọng Văn
Thày Lang Thân đọc tới dòng chữ nào trong bức thư để lại là thấy uất nghẹn từng cục trong cổ. Nỗi uất nghẹn còn pha chút khó nhọc bởi vốn liếng chữ nghĩa của thày không dư dả để đọc lá thư một cách liền mạch. Và thật không ngờ một người thành danh như thày mà cũng có kẻ táo tợn phụ bạc và còn buông ra những câu nói làm đau lòng thày. Nước mắt thày ứa lăn tăn, trào ra khóe mắt. Những lời nói của cô Mây khác nào mũi dao đang chích vào trong bụng của thày. Thày giận sôi người cáu kỉnh vứt lá thư đọc dở đánh suỵch xuống nền nhà. Trên cái nền nhà lát gạch hoa màu trắng xen màu hồng, lạnh lẽo và sạch bong không bám một hạt bụi những tờ giấy pơ luya mỏng, phơn phớt hồng chưa chạm nền đã giẫy bật lên. Mùi nước hoa Chanel ưa thích của cô Mây phảng phất từ đâu đó bốc ra như xộc vào gan phổi thày Lang Thân. Ngửi cái mùi ấy bây giờ thấy như ai đó đang thổi thứ hơi thum thủm từ những rãnh luống hoa vừa ủ phân chờ ra giêng rặm những cây hoa giống. Mùi thum thủm khiến thày Lang Thân phải khịt khịt mũi, phải húng hắng ho.
Trời đang sầm sập tối. Mùa đông thời tiết cuối chiều kéo bóng tối đến rất nhanh. Ngồi im phỗng như pho tượng với bao câu hỏi thường trực trong căn phòng mới ngày nào cô Mây đã ở. Căn phòng cứ chiều chiều tối tối cô Mây lại ngân nga những câu thơ do cô gái trinh họ Trần lưu lại. Thày Lang Thân bỗng thấy chờn chợn cho dù xưa nay thày là người can đảm nhất. Thoáng giật mình nghe như có tiếng bước chân của ai đang bước từng bước một, tiếng bước chân  rất thong dong đặt sắc gọn lên những bậc mát lạnh của chiếc cầu thang gỗ dẫn từ tầng một lên tầng hai. Tiếng bước chân nghe thanh mảnh giống bước chân của những người con gái Hà thành đoan trang lại được giáo dục tốt, cẩn thận đặt nhẹ từng đế guốc. Thày Lang Thân im lặng, mọi tập trung đều hướng về phía cầu thang gỗ đang khẽ vẳng lại tiếng bước chân thiếu nữ.
Một thoáng nghi ngờ xuất hiện trong đầu thày Lang Thân. Không lẽ hồn ma của cô gái trinh họ Trần đang chầm chậm trở về nơi căn phòng của mình? Hay chính những bước chân của cô Mây? Cô đã suy nghĩ lại mà thấy ân hận mà quay trở lại? Tiếng bước chân chợt như đang dừng lại. Tiếng bước chân dừng lại nghe ngóng chứ không phải là thày Lang Thân đang cố hóng đôi tai mình ra nghe ngóng. Không gian im ắng như tờ. Hồi sau thày Lang Thân nghe bên tai mình tiếng ai đang thở hồi hộp, hơi thở ấy âm ấm đang ngập ngừng, đang thèn thẹn. Hơi thở ai đó đang phả vào gáy thày Lang Thân nghe nóng rát. Mùi nước hoa Chanel quen thuộc của cô Mấy lại thoảng theo gió đưa tới. Thì ra thày quên khép cửa, làn gió đầu đông của buổi cuối ngày đang thổi vào căn phòng. Tiếng gió nghe thẽ thọt giống như tiếng thở của ai vậy.
Tiếp thư của cô Mây gửi thày Lang Thân.
“Thưa Me xừ.
Đầu óc em đang rối tung lên. Em đang lộn xộn như một kẻ cẩu thả nhất. Em sẽ cố gắng nói rành rẽ để Me xừ hiểu được lòng em. Em mong có chút nào đó Me xừ sẽ nhận ra. Lỗi đâu phải tại Me xừ. Lỗi đâu chỉ do mình em gây ra.
Me xừ có nhớ lần đầu tiên khi em bước chân tới trước cửa ngồi nhà này không? Em sẽ không trách chuyện Me xừ đã đưa em đến ngôi nhà này. Em chỉ nói ra đây những dằn vặt mà ngày đầu em đã hứng chịu.
Em luôn có cảm giác rất khó tả khi ở trong ngôi nhà này. Một cảm giác luôn hãi hùng khiến em như đang bị ai đó giằng xé. Em luôn bị giằng xé giữa hai thái cực. Một đằng như cố kéo em vào và một đăng như cố đẩy em ra. Người em lúc đó tưởng như sắp đứt làm hai.
Rồi em thấy mình đang chu du mà bay lộn ngược người. Đầu em chúi xuống nền nhà. Chân em đi chơi vơi không chạm được tới trần nhà. Em bay mơ mơ và vẳng lên bên tai những lời ai oán. Những lời ai oán sao nó nó giống như cuộc đời của em vậy. Một cuộc đời có sự sắp đặt trước nhiều toan tính mà em chỉ là một con số trong vô vàn những con số nửa vô hình nửa hữu hình nhảy múa loạn xạ.
Em đã gặp. Vâng, em thường xuyên như ngày nào em cũng gặp cô gái ấy. Sao cô gái ấy đẹp và trẻ thế. Cô đẹp hơn mọi cô gái đẹp mà em đã gặp ngoài đường phố. Cô gái nhỏ những giọt nước mắt sầu cảm làm ướt hết vai áo em. Cô gái khóc lóc ngày đêm. Khóc trong cả giấc ngủ của em. Khóc như cô ấy chỉ gặp em để được khóc vậy.
Trời ơi sao em lại thấy cô gái đó có những nét hao hao như chính là em vậy. Này đây vẫn mái tóc dài xõa phủ bờ vai. Này đây những ánh mắt như thất thần nhìn sâu vào mắt em làm em nóng rực lên.
Cô gái ấy thủ thỉ với em những câu nói mà trước đó em chưa từng nghe ai nói. Đại khái cô gái ấy khuyên răn em. Nói rằng em hãy đi đi. Đi thật xa để tìm cho mình cái mà mình chưa bao giờ có.
Những hôm tối trời. Đấy là những hôm bên ngoài trời đang có mưa. Mưa rơi thấm lạnh tim em. Cô gái ấy lại đến bên giường em. Cô nhìn em đau đáu mà thủ thỉ vào tai em nhưng lời nói chân thành. Em thiếp đi và thấy mình bay vút ra ngoài cửa sổ. Cô gái ấy đang dìu em bay đi. Chúng em bay cùng nhau. Bay rất xa, rất xa. Xa hẳn căn phòng em đang ở. Xa hẳn Hà thành ồn ã tiếng người tiếng xe như va vào nhau.
Chúng em cùng nhau bay đến một nơi lạ lắm. Nơi đó em chưa từng nghe đến. Em chưa từng biết đến. Một nơi dào dạt tiếng chim ca véo von. Nơi ấy đầy nắng nhưng là thứ nắng không giống thứ nắng đổ xuống những vạt hoa cúc đâu Me xừ ạ.
Em nghe thấy nắng khơi lên dạt dào như những đợt sóng biển vỗ vào bờ. Cả rừng hoa ngào ngạt dâng lên mùi hương thơm khó tả. Biển thì em chưa tới nhưng em đã nghe kể về biển. Em ao ước một lần được ra biển để thấy sóng biển dạt dào vỗ bờ như thế nào. Em ao ước tới biển để nghe biển hát những khúc hát của biển.
Em đã nặng lòng với những câu thơ. Người Pháp vô cùng có lý khi họ đã nói rằng, bản thân người đàn bà đã là một bài thơ hay nhất. Họ nói rằng trên cơ thể của người đàn bà mỗi chi tiết, mỗi cử chỉ, mỗi lời nói, mỗi nụ cười và ngay cả mỗi tiếng khóc đều là những vần thơ bất hủ. Điều này mãi gần đây em mới được biết và em thấy người Pháp nói rất đúng.
 Chắc em lại lan man quá nên Me xừ khó hiểu. Me xừ sẽ cười vào mũi em và khinh bỉ em. Em sẵn lòng chấp nhận sự khing bỉ đó nhưng em chỉ xin Me xừ đừng ném những câu thơ đó đi.
Me xừ không thích thơ bởi Me xừ chỉ chăm chăm tìm cách làm thế nào cho túi tiền của Me xừ ngày một dầy lên. Me xừ đã là người có nhiều tiền, đã là người đàn ông danh giá nhất làng Dục. Me xừ có quyền bỏ tiền ra mua bất cứ thứ gì kể cả mua được em.
Nhưng em đã nhận ra là Me xừ không thể mua được con tim em. Con tim người đàn bà đã được mua bán thì chẳng còn giá trị gì hết. Mãi đời này em chịu ơn Me xừ nhưng bảo con tim em khuất phục Me xừ thì em không dám chắc.
Em yêu thơ. Em yêu thơ đầu tiên là nỗi cảm thông với người con gái đêm đêm đến bên giường em thầm thì. Me xừ biết không? Thơ chính là cõi lòng ta. Là tâm can ta. Là tiếng nức nở thổn thức chỉ riêng ta ta biết. “Trời còn có ánh ngày và bóng tối. Anh yêu em anh chỉ biết mình em”. Chao ơi câu thơ làm em rụng rời bởi nó đã cho em vinh hạnh được là đàn bà.
Cô gái ấy đã thủ thỉ cùng em. Điều này Me xừ chưa bao giờ làm được. Em run lên sợ hãi chứ không phải em run lên vì căm ghét mỗi khi Me xừ đến bên em. Sao những lúc Me xừ đến bên em và bón cho em từng thìa cơm em lại thấy nó xa lạ và dửng dưng thế. Em nói Me xừ đừng giận em bởi em không thấy ở Me xừ sự chân thật hay rung động của con tim. Con người ta đến với nhau bằng con tim bao giờ cũng bền chặt hơn là đến với nhau bằng cảm tính.
Em cảm tính nên em biết em đã sai lầm khi nhận lời dạm hỏi của Me xừ. Me xừ cảm tính khi Me xừ theo chân bà mối đến nhà em và thưa chuyện cùng thày me em. Hay là lúc đó cả em và Me xừ đều chưa có trái tim. Chúng ta mới có cái mà bây giờ em mới biết đó là sự chấp nhận mà thôi…
Thưa Me xừ.
Em run tay quá. Em mệt mỏi quá. Em thất vọng quá. Em hoang mang quá. Ngoài kia bóng đêm đang phủ lên Hà thành một màu ám xịt như màu mắt của em vậy. Em đang bấn loạn. Em đang phân vân. Em đang nghĩ tới cái chết sẽ xóa sạch mọi lỗi lầm của em. Xóa sạch mọi sự ngây thơ của em. Xóa sạch mọi toan tính mà em và Me xừ mỗi người đều có toan tính riêng.
Hà thành mấy hôm nay sao tẻ nhạt. Nắng không ra màu nắng. Gió không ra làn gió. Chỉ có đêm đêm em trở dậy với nỗi trống trải cùng nối buồn vô cớ. Em đang buồn đây Me xừ ạ.
Em buồn mà không biết em đang buồn nỗi buồn gì. Thảo nào người ta cứ nói, ” Có nỗi buồn không bật lên thành tiếng. Chỉ khổ đau là cất lên lời. Cuộc đời là bể kia xa vắng. Là trời kia không một cánh chim bằng”.
Em đang đi theo những câu thơ. Và em nhận ra thơ chính là điều cho người ta cởi bỏ quá khứ hướng tới tương lai. Em cố nhắm mắt và cố tưởng tượng nếu một ngày kia thơ chết đi thì thế gian này sẽ lụi tàn. Thơ đã là tâm hồn và thơ mãi là sự cứu cánh cho những tâm hồn khô héo. Em đang lo sợ một ngày kia thế gian không có ai làm thơ nữa. Ngày đó sẽ là ngày tàn của thế gian. “Thơ ơi, mi từ đâu tới. Mà lòng ta sao khác lòng mình. Ta thổn thức. Ta trằm mình giữa muôn bể rộng. Để tơ lòng tắm táp muôn thơ”.
Me xừ Thày Lang Thân vô cùng kính trọng và muôn vàn biết ơn của em.
Em thấy mình sắp phải đi rồi. Em sẽ không nói “A đi ơ” vì như vậy là em dứt khoát xa hẳn Me xừ. Em chỉ muốn nói Me xừ hãy trách móc em. Hãy mắng giận em. Cho dù em đi đâu thật xa thì mãi mãi lòng này. Mãi mãi hồn này. Mãi mãi con người em, em biết ơn và tạ lỗi với Me xừ……Em chỉ xa Me xừ ở thể xác thôi. Còn lòng em vẫn trông chờ Me xừ xá cho tội lỗi. Chào Me xừ.”
Thày Lang Thân lại thả tay buông lá thư xuống nền nhà. Thày nghiến mạnh mồm đến nỗi răng cắn vào vành môi đang mím chặt làm bật ra vài giọt máu. Thày không xuýt xoa đau đớn mà mím chặt môi hơn, ngồi bất động giữa căn phòng như cố trêu người mà thoang thoảng mùi nước hoa Chanel. Không gian như không còn là không gian nữa. Thời gian không còn là thời gian nữa. Lá thứ để lại của cô Mây đã mở mắt cho thày Lang Thân bao điều. Thật yên lặng. Sự yên lặng lặng im đến nỗi nghe rõ tiếng thở của thày. Tiếng thở nghe nặng nề và đầy khó nhọc như tiếng thở của người mắc bệnh phổi. Đêm nay thày Lang Thân quyết định ở lại căn phòng ma ám. Thày quyết định thử một lần có được cảm giác như cô Mây đã cảm giác thấy.
Có cảm giác lạ lẫm ùa tới, nó kéo sụp mi mắt thày Lang Thân dính vào nhau. Không tài nào mở mắt ra được, thày Lang Thân mơ mơ chìm vào giấc ngủ chập chờn. Có bàn tay nào đó rất nhẹ nhàng đặt lên vai thày. Bàn tay đặt nhẹ đến nỗi nếu vào thời điểm khác thì thày Lang Thân chẳng thể nhận ra được có bàn tay đang đặt nhẹ lên vai. Bàn tay nhẹ nhàng đó cứ từ từ vuốt vuốt từ bờ vai rồi vuốt dần xuống lưng. Một thứ gì đó mê mê lan dọc cơ thể khiến thày Lang Thân càng chìm nhanh vào giấc ngủ cho dù trí óc thày còn thao thức. Giữa cảm giác mơ hồ là lạ ấy thày Lang Thân vẫn phân biệt được rất cụ thể những âm thanh từ ngoài phố vọng vào với âm thanh chính trong ngôi nhà. Tiếng hai đứa con thày đang gọi nhau ăn cơm tối vang lên léo nhéo, tiếng chú bé Thìn đen cáu kỉnh đang quát hai em còn mải nghịch chưa chịu ngồi vào bàn ăn. Thày thấy dâng ngào ngạt mùi thức ăn nóng hổi đang tỏa lên thứ mùi của thịt kho tương với cá. Cái mùi bện quấn quýt lấy hai lỗ mũi thày nhưng thày bất lực nằm toài người phủ gục mặt mình vào mặt chiếc bàn cô độc. Hơi lạnh từ mặt đá khiến thày Lang Thân rùng mình. Thày nghe rất rõ giọng ai đó đang ngân nga những câu thơ. Những câu thơ không đầu không cuối cứ văng vẳng bên tai thày. “Ba mươi tuổi, người đàn bà như trăng từ viễn xứ. Khoan thai đi lên ngự đỉnh trời tròn”.
Thày Lang Thân cũng lẩm nhẩm đọc theo những câu thơ. Sao câu thơ lại ứng đến vậy? Cô Mây tính theo tuổi ta thì cũng vừa ba mươi tuổi. Giọng thày lạc đi nhiều xúc cảm. Từ bé tới giờ thày Lang Thân mới có được chút ít giây phút thả lỏng người. Cuộc đời của thày là cả chuỗi ngày tháng dài lận đận và toan tính. Cứ gục úp mặt lên mặt chiếc bàn mặt đá mà ngủ, thày Lang Thân bỗng cảm thấy từ bức tường phía đông căn phòng có một người con gái nhẹ nhàng bước ra. Bước chân nhẹ nhàng đến nỗi không phát ra bất kỳ một thanh âm nào dù nhỏ nhất. Cô gái từ từ đên bên thày. Cô đứng sau lưng thày, thày Lang Thân cảm được điều đó qua hơi thở ấm và gấp gáp. Hơi thở của người con gái bao giờ cũng thoảng nhẹ mùi hương thơm thơm. Một mùi thơm không nước hoa, một mùi thơm không quen thuộc nhưng nó cứ quyến luyến dìu dặt vào tâm can thày.
Thày Lang Thân biết đó chính là cô gái trinh họ Trần bởi lần đầu cùng lão chủ hiệu thuốc bắc người Tàu bên phố Lãn Ông sang đây xem nhà. Cũng chính tại căn phòng này, cũng chính nơi bức tường phía đông của căn phòng này, Thày Lang Thân đã ngỡ ngàng trước một bức tranh khổ to, lồng phẳng phiu trong khung gỗ viền vàng lộng lẫy. Bức tranh này ông chủ Khách họ Trần đã thuê thợ truyền thần giỏi nhất Hà thành ở mạn đằng phố Hàng Đường tới vẽ chân dung cô con gái rượu. Bức chân dung cỡ đúng bằng người thật. Cô gái trong bức tranh được vẽ toàn thân bằng chì màu xám lạnh nhưng vẫn toát lên vẻ đẹp kiêu sa và u uất. Chiếc áo dài tân thời ôm sát thân hình cô gái, tôn cao đôi gò bồng đào. Thày Lang Thân càng nhìn bức chân dung càng sững sờ. Vẫn mái tóc dài chải lật về về sau, vẫn đường ngôi rẽ lệch thẳng như kẻ chỉ, vẫn đôi mắt như hai vì sao xa ngái. Thày đã có cảm giác ngài ngại khi cô gái trong bức tranh cứ theo sát mọi bước đi của mình. Cô gái nhìn thẳng vào thày Lang Thân bằng ánh nhìn xa xăm đượm chút buồn buồn, đôi môi của cô he hé một nụ cười. Hình như cô gái muốn nói câu gì đó với thày Lang Thân?
Rồi cuối cùng thì thày Lang Thân cũng cựa quậy người được đôi chút. thày cố xoay người về phía sau lưng với hy vọng nhìn được mặt người con gái đang đứng sau mình. Chợt thày giật mình. Sao người con gái này giống với cô Mây như hai giọt nước. Sao điều này bây giờ thày Lang Thân mới nhận ra? Đúng rồi, mái tóc mềm mượt như dải mây đang thả bay trong bóng tối. Đúng rồi, những ngón tay thon dài đang khẽ khàng giữ vạt áo bị gió lùa bay lả lơi. Đúng rồi, đôi mắt như hai vì sao nhìn xa xăm đang hướng cái nhìn về phía thày như trách móc. Đúng rồi, nụ cười he hé bên vành môi đỏ thắm như vừa được quệt trầu. Hay chính là cô Mây đã về? Thoáng nghi ngờ về điều đó. Trong lòng thày Lang Thân dâng lên một nỗi nhớ khó tả. Lần đầu tiên trong đời thày Lang Thân biết thế nào là nỗi nhớ về một người con gái. Lần đầu tiên từ ngày cưới cô Mây về làm vợ thày Lang Thân mới biết cô Mây đẹp nhường nào. Thày Lang Thân thấy cồn cào trong bụng nhưng không phải cái cồn cào vì cơn đói đang dầy vò.
Cô gái hơi lùi người lại giữ một khoảng cách đủ để cánh tay của thày Lang Thân không với tới mà chạm vào người được. Một chút buồn tủi len vào tâm trí thày. Cô Mây đã đi quá xa. Cô đi xa đến nỗi chẳng bao giờ thày còn chạm được vào người cô nữa. Những ngày bên nhau thày Lang Thân ít khi có dịp được nhìn ngắm cô Mây một cách vừa gần lại vừa xa như vậy. Với thày thì trước lúc cô gái bước từ bên trong bức tường ra thày chưa khi nào thật để ý tới cô Mây. Với thày thì đã là vợ của thày rồi thì chẳng cần quan tâm đến thể trạng cùng nhan sắc làm gì.
Giờ thì thày Lang Thân đã đứng dậy được. Thày đang rời khỏi chiếc bàn có mặt ốp đá vân hoa. Thày vừa rời bức tranh thủy mặc ảo khuất giấu trong vân đá để tiến lại gần bức tường nơi cô gái đang lùi người. Thày tiến một bước cô gái lùi một bước. Và khi bàn tay của thày sắp chạm được vào người của cô gái thì cô gái đã lùi hẳn vào trong bức tường. Trước mặt thày Lang Thân lúc này chỉ còn lại bức tường trắng toát và nín lặng. Cô gái hoàn toàn biến mất khỏi tầm tay của thày và cô đứng im lìm nhìn thày từ bên trong bức tường. Cô gái đã trở về nơi chốn của mình và biến thành bức tranh tường xám lạnh.
Thày Lang Thân lại rùng mình. Trên bức tường phía đông của căn phòng vắng trơn. Không một tì vết, không có dấu hiệu nào cho thấy ở đó ngày nào còn có bức tranh hình cô gái trinh họ Trần. Thày ngồi lại bên chiếc bàn tròn mặt đã vân hoa lạnh tanh, Thày đã trở lại thực tại với những dòng thư đọc dở dang.
Tiếp thư của cô Mây gửi thày Lang Thân.
“Me xừ kính trọng của em.
Em thật có lỗi với hai con của chúng ta. Chúng nó còn quá nhỏ để hiểu được lòng người lớn. Em ngàn lần cúi đầu mong Me xừ, mong hai con tha thứ. Em hy vọng ngày nào đó khi hai con lớn lên chúng sẽ gặp được người yêu dấu như chính con tim chúng mách bảo. Em giờ không còn được ở bên hai con nữa. Em đã bất lực khi muốn nói với các con những gì mà em muốn nói. Tận sâu thẳm con tim mình em mong hai con của chúng ta sẽ nên người và sẽ tránh được những gì mà cha mẹ chúng đã vấp phải.
Bây giờ em xin phép Me xừ cho phép em được nhắn nhủ với hai con. Em không mong hai con sẽ tha thứ cho hành động bỏ chúng ra đi của em. Em không mong sẽ có ngày em được ôm hai con vào lòng mà lau trên trán chúng những giọt nước mắt buồn đau.
Thưa Me xừ.
Em đang yêu. Người ta vẫn nói những người đang yêu là những người rồ dại hay ngốc nghếch. Em đang rồ dại với chính mình khi quyết định ra đi không dám hẹn một ngày trở lại. Thực tình em biết em không thể trở lại những gì em đã có nữa. Em tự quyết định cuộc đời và tình yêu của em.
Em đã yêu Pôn. Người đàn ông đầu tiên em đã yêu bằng con tim của em. Pôn khá lịch lãm. Me xừ đừng lên án Pôn mà tội nghiệp cho người đàn ông xa lạ ấy. Em không dám so sánh Pôn với Me xừ bởi em biết Me xừ là Me xừ còn Pôn là Pôn. Với em Pôn là mối tình đầu ngang trái của em. Với Me xừ thì Me xừ là những gì em luôn kính trọng. Em yêu Pôn bằng con tim. Em kính trọng Me xừ bằng tấm lòng. Em không dám đặt ai hơn ai. Có thể Pôn không bằng Me xừ về vật chất nhưng Pôn luôn đem đến cho em những dư vị nồng nàn của tình yêu.
Thưa Me xừ.
Em không giấu lòng mình. Em muốn nói ra hết để khi nào đó, khi Me xừ tìm cho mình một nơi chốn mới thì Me xừ sẽ hiểu cho em. Tận đáy lòng mình em chân thành mong muốn Me xừ sớm có được một người đàn bà thực lòng yêu mến Me xừ như em đã thật lòng đến với Pôn.
Em trăm ngàn lần cúi xin Me xừ bình an”...
Tái bút.
Em định không nói. Thực ra nếu em vẫn ở nhà thì em không dám nói. Bây giờ giữa em và Me xừ đã xa xôi. Em thật lòng khuyên Me xừ hãy cẩn thận với lão chủ hiệu thuốc bắc người Tàu bên phố Lãn Ông. Em nghe người ta nói: Những người như lão chủ ấy họ rất mưu toan. Họ giúp mình thì ít nhưng hại mình thì nhiều. Me xừ đã từng nghe lão ấy đôi lần. Me xừ thử nghĩ lại xem lão ấy có tính cho Me xừ điều gì tốt dẹp đâu. Me xừ hãy nhìn xa hơn. Nhìn tới những người Pháp văn minh nhường nào ấy.
Đã quá nửa đêm. Không gian tịch mịch và dâng buồn khôn tả. Thày Lang Thân không ngủ được. Đôi mắt thày tỉnh táo như vừa được lau bằng nước lạnh. Thày ngồi im trên chiếc ghế cô Mây vẫn hay ngồi ở đó. Bên tai thày lại thẽ thọt ngân nga những câu thơ vời vợi. Những câu thơ cứ u uẩn, cứ lẩn khuất bên tai thày khiến thày như rã người ra. Một cảm giác trống vắng xen lẫn đau đớn làm thày không yên trong bụng. Cô Mây này thật liều lĩnh. Liều lĩnh tới mức táo tợn. Cô dám khuyên nhủ thày. Một điều mà thày chưa nghĩ tới. Xưa nay ở cái nhà này có ai dám nói như vậy đâu. Cứ thử một lần cô Mây trở lại nhà này xem. thày sẽ không để yên cho cái tội hỗn xược đó.
“Thưa Me xừ Lang Thân.
Em đã định thôi không viết nữa nhưng em biết như vậy là vẫn còn chưa đủ. Dĩ nhiên Me xừ sẽ thắc mắc mà hỏi em đi đâu và tới đâu? Vâng đúng thế, khi Me xừ đọc được lá thứ này thì có lẽ em đã tới một làng quê xa lắc. Em đang trên đường cùng Pôn đi đến làng quê Măng Tông ở miền nam nước Pháp. Làng quê mà Pôn đã sinh ra và lớn lên. Pôn đưa em về làng quê của Pôn cũng như Me xừ đã đưa em về nhà Me xừ vậy. Em về nơi mới, nó vô cùng xa xôi và chẳng biết có khi nào em được trở lại làng Dục, ồ không làng Thanh Vàng quê mình. Biết khi nào em được về lại làng mình mà ngả mình vào giữa bạt ngàn màu vàng của hoa cúc.
 Làng quê mình trong em giờ đây chỉ còn là kỷ niệm. Trước mắt em sẽ là một làng quê mới. Pôn kể cho em hay, làng Măng Tông của Pôn cũng đẹp như làng quê mình và rất thanh bình. Những cánh đồng cỏ xanh mênh mông và hoa cỏ thơm dịu như hơi thở. Về mùa thu làng Măng Tông cũng rực rỡ trong sắc vàng nhưng đấy là sắc vàng của chanh. Pôn cho hay làng Măng Tông chuyên trồng chanh. Mùa thu chanh chín vàng khoe với nắng gió hệt như làng Thanh Vàng quê mình mùa thu nở vàng hoa cúc. Em tới làng quê mới ấy và trong màu vàng của chanh ấy như là em đã trở về chính làng Dục. Nó an ủi em những lúc em …nếu Me xừ cho phép, em nhớ tới làng mình và nhớ tới Me Xừ…”
Thày Lang Thân ể oải đứng lên, có gì đấy tức nghẹn trong cổ, có gì đấy hết sức khó chịu. Ánh mắt của thày bị chiếc tủ gương to lớn chắn ngang tầm nhìn. Tại sao lại bịt lối như thế? thày Lang Thân lại gần chiếc tủ. Lấy hết sức thày Lang Thân ghé vai đẩy cho chiếc tủ lệch sang bên cạnh. Cánh cửa mở ra ban công vốn chắn kín lối được mở ra. Gió từ ngoài phố ùa vào  lành lạnh, gió xô người thày Lang Thân giật lui lại phía sau chừng nửa bước chân. Ngoài phố đã ngủ yên. Hà thành về đêm lặng lẽ giống như làng quê Thanh Vàng của thày vậy. Một nỗi nhớ nữa lại ùa tới. Bao băn khoăn trước nỗi nhớ quê nhà, trước những biến cố ngoài suy tính.
Hơi nhoài người, vịn tay vào thành lan can ban công, thày Lang Thân nhìn xuống phố. Con phố nằm thượt dài, im lìm trong thành phố ngủ. Trong đêm Hà thành thật bình dị, nó không còn ồn ào, không còn toan tính. Bất giác thày Lang Thân cong người lại, thày cố ghìm chân bám chặt với nền ban công chỗ thày đang đứng. Hình như có bàn tay ai vừa chạm vào lưng thày? Cái chạm đây đẩy nhẹ thôi nhưng như nó đang thúc giục thày nhao người xuống phố. Lấy hai tay ghì mạnh vào thành lan can hòng cưỡng  lại cái đẩy tay ở phía sau lưng, thày Lang Thân nhanh chóng bứt ra khỏi cảm giác giục giã nhao người xuống phố. Một ý chí nung nấu chợt tới.
Cái gì của mình thì mình phải giữ bằng được.
Khép nhanh cánh cửa ra ngoài ban công sau khi đã lùi hẳn người vào trong căn phòng, thày Lang Thân lại dùng vai đẩy chiếc tủ gương trở về vị trí cũ. Tấm gương trong soi lồ lộ hình ảnh thày Lang Thân đang đứng thẳng lưng, hơi hạ người, hai chân mở rộng bằng vai giống như người đứng ở thế xuống tấn, đôi mím chặt môi cương quyết.
7
Người đứng can Mậu thường không bộc lộ tình cảm thật của mình.
Ông Thìn đen sau hồi trễ mắt ngắn kiểu để nghỉ chốc lát thì ngoảnh sang liếc nhanh “cậu”. “Cậu” đã tỉnh ngủ hẳn nhưng lưng còn dựa vào thân cây đa, mắt mở thao láo, nhìn chừng chừng về đằng trước nhưng không cảm xúc, vẻ mặt lạnh tanh. Thái độ ấy của “cậu” không bộc lộ một điều gì ngoài một thoáng phản ứng là ngóng tai theo câu nói của ông Thìn đen. “Cậu” chắc cũng đã có vẻ hiểu đôi chút, bằng chứng là “cậu” nhúc nhích chân tay thể hiện sự muốn đứng dậy. Hai người ngồi trong hốc cây đa cũng đã lâu. Lưng và chân tay của ông Thìn đen thấy mỏi rời rạc như ông vừa trải qua một công việc nặng nhọc. Người già thường là vậy, họ lao động tuy nhẹ nhàng nhưng không làm gì động đến chân tay lâu lâu là bứt dứt.
Nhô cao đầu cố rướn mắt cho thêm phần tỉnh táo, ông Thìn đen duỗi thẳng đôi tay, doãi thẳng hai chân, ngực ông ưỡn căng giống như cách người ta vẫn thường vươn vai vặn người sau giấc ngủ đẫy. Từ thân thể của ông phát ra những tiếng kêu khùng khục. Những đốt xương tay, xương chân và cả xương cột sống của ông đang được giãn ra thấy thoải mái hẳn. Quả thực thời gian vừa qua ông như đã được ngủ. Giấc ngủ mơ giữa ban ngày của ông không mộng mị mà chỉ là những hồi ức về quãng thời gian ông đã trải qua, ông đã chứng kiến. Trong tâm trí ông Thìn đen là hình ảnh của Thày Lang Thân, những ngày tiếp theo sau khi cô Mây bỏ đi, là một người đàn ông đang ở độ tuổi “tam thập nhi lập”, cái tuổi có đủ chững chạc để mưu cầu danh lợi. Người đàn ông mới ngoài ba mươi tuổi ấy vừa trải qua một biến cố ngoài sức tưởng tượng lại như cứng cỏi thêm và quyết đoán thêm lên.
Ta phải đi tiếp thôi “cậu” ạ.
…i…âu….ây …ờ…
Ta mới qua được một nửa. Còn lắm lắm….
Nắng đã chuyển hẳn sang chiều. Những tia nắng từ phía tây chếch xuyên qua tán lá cây đa, những chiếc lá đang rung rẩy trước gió chiều thổi nghiêng. Nắng soi xuống mặt đất rồi vẽ xoay xoay những hình thù tròn tròn dẹt dẹt màu vàng nhàn nhạt trông thấy thích mắt. Ở vào thời điểm này khi mà khí dương đang ra và khí âm đang vào rất dễ cho người ta những xúc cảm mang tính vị tha. Ở một góc độ nào đấy thì đây có lẽ là thời điểm âm dương tương đối giao hòa, khí âm và khí dương còn nhường nhịn nhau, còn chấp nhận nhau. Thời điểm này khí âm chưa đủ mạnh để giành thế thắng, trong khi đó khí dương chưa hẳn đã yếu để nó phải tìm cách thoát đi. Thời điểm này cũng cho phép con người còn có đôi chút dễ chịu và minh mẫn.
Không đi nhanh mình sẽ muộn đấy “cậu”.
Đấy cũng chính là điều ông Thìn đen muốn nói tới khi ông cho rằng hai người còn ngồi yên ở đấy thêm chút nữa thì sẽ nhỡ nhàng mọi chuyện. Trên tán lá của cây đa gió chiều đã bắt đầu thổi mạnh hơn, không hiểu sao gió không chạy thung thăng khắp cánh đồng mà cứ nhè vào tán lá đa thổi liên hồi, phát ra những chuỗi âm thanh nghe rù rũ. Tiếng gió rù rũ nghe như gấp gáp, nghe như thúc giục, nghe như mách bảo.
Khom người xốc nách “cậu” để giúp “cậu” đứng dậy, ông Thìn đen cảm thấy “cậu” lúc này hình như nặng hơn khi trước. Sự trì trệ không vận động chính là nguyên nhân tạo nên sự nặng nề của cơ thể, hay chính là đôi tay của ông Thìn đen cũng đã mỏi mệt?  Bên ngoài cánh đồng hoa cúc đang vang lên những tiếng gọi nhau í ới của cánh người đi thu hái hoa. Việc thu hái hoa cúc chỉ còn thêm chừng non giờ nữa thì chấm dứt một ngày làm việc. Người làng Thanh Vàng không bao giờ làm cố. Hoa cúc thu hái về không được phơi nắng ngay sẽ làm hoa mất nhựa. Không còn người thu hái hoa cúc nữa cánh đồng sẽ vắng vẻ. Sự vắng vẻ tất yếu sẽ dẫn tới những nghi ngại khi mà khí âm mỗi giờ mỗi u khí hơn. Thái độ lao động gấp gáp ngoài đồng hoa cũng góp một phần thôi thúc ông Thìn đen giục “cậu” đi tiếp.
Hai người tựa vào nhau cùng đi xuôi theo hướng nắng. Ông Thìn đen chọn cách đi như thế có cái tiện là ánh mắt không bị mặt trời làm chói mắt. Nó còn cho phép nhìn sự vật được ánh sáng soi dọi nên khá trung thực. Theo hầu cụ Lang Thân bao nhiêu năm ông Thìn đen càng thấm thía việc nhìn sự vật xuôi nắng sẽ không bị hình khối mù mờ đánh lừa, mắt lại nhìn được lâu hơn, không mỏi, không nhức mắt. Hồi cụ Lang Thân còn sống, cụ luôn tâm niệm thành ý thức không nhìn bất cứ thứ gì khi ngược sáng hay khi nắng đã nhạt. Nhìn bất cứ thứ gì cũng vậy kể cả lúc nhìn người. Giờ nghĩ lại mới thấy ông cụ thật vô cùng sáng suốt. Nhìn nhầm đã tai hại, nhận nhầm còn tệ hơn nhiều. Ban sáng họ cũng đi xuôi theo hướng nắng từ phía đông dọi tới và đã đi gần hết nửa phía tây của cánh đông và giờ là lúc họ đi về nửa phía đông còn lại. Ánh nắng soi chênh chếch in cái bóng của họ đổ một màu đen và dẹt phẳng xuống những luống hoa. Bóng ông Thìn đen ngắn ngủn đi chắc nịnh bên cái bóng của “cậu” dài lêu khêu bước chật chưỡng. Trông hai cái bóng đen lùi lũi và dẹt phẳng in trên cái nền là những luống hoa cúc nở vàng rất nổi bật. Nhìn bóng của họ đang đi bên nhau ai chưa biết sẽ lầm tưởng bóng dài là bóng của người cha và bóng ngắn là bóng của người con. Người cha đang dắt đứa con vừa đi vừa giảng giải giữa màu vàng giống như một trò chơi? Trò chơi xập xòe đánh lận giữa hai bóng đen dẹt phẳng in trên những luống hoa đã vô tình làm đảo chiều ngôi thứ giữa hai con người thật. Đúng là ở đây đang có sự nhập nhèm do bóng nắng tạo nên đã đánh lừa thị giác người khác. Hồi còn sống cụ lang Thân cũng luôn tâm niệm cho mình khi nhìn nhận sự việc thông qua một mặt phẳng. Mặt dẹt phẳng và chuyên một màu đen đã giấu đi những gồ ghề, lại không phát lộ được khiếm khuyết. Nhìn nhận thái độ qua mặt phẳng cuối cùng chỉ nhận được sự thất vọng mà thôi. Nhìn con người cũng vậy, phải thông qua hành vi của họ mới đoán biết được tâm can.
Cuộc đời lạ lắm “cậu” ạ. Biết đấy mà cũng có tránh được đâu.
Một chút hoài niệm nữa lại đưa tới khi ông Thìn đen so sánh bóng của hai người đang đổ xuôi theo hướng nắng và những liên tưởng thú vị về chuyện đảo ngôi khiến ông Thìn đen thấy lòng trống trải lạ. Trong lòng ông nỗi cảm thông với cụ Lang Thân lại trở về. Sau ngày cô Mây đột ngột bỏ nhà theo giai, mà theo giai nào chứ theo giai Tây là viên quan hai người Pháp thì quả là quá quắt. Thày Lang Thân bỗng chốc già sọm đi so với tuổi. Nhục nhất là biết ăn nói ra sao với làng? biết về nhìn mặt làng thế nào? Tác phong đi đứng hay ăn uống nói cười của Thày Lang Thân bỗng thấy như một người tu khổ hạnh. Dáng người Thày Lang Thân vốn dĩ đã thấp đậm nay càng thêm thấp đậm. Thày Lang Thân ngồi thụt lủn trong bộ tràng kỷ rộng và lạnh lẽo kê ngay chính giữa phòng khách đặt ở tầng một, thày một mình cho tới tận khuya, khi cả nhà đều đã ngủ cả, mới chịu lên phòng của mình trên tầng hai để đi nằm. Đi nằm nhưng còn chưa ngủ được, Thày vắt tay lên trán nghĩ ngợi nhưng không phải nghĩ tới để thấy tiếc nhớ. Thày nghĩ và nghĩ sâu xa hơn, nghĩ về phải làm gì để người khác không khinh mình được. Thày Lang Thân tuy ít chí nhưng gan thì chắc có. Có gan là làm được cho dù chuyện có khó đến mấy.
Phải tìm cho mình một cách thức riêng.
Trong ngôi nhà 98 phố Hàng Cân những ngày tháng sau đó vô cùng nặng nề, khép lép cho dù Thày Lang Thân luôn tìm cách giấu đi phiền muội trong lòng. Một “luật lệ” mới dần dần hình thành với mọi sự trong nhà đều nhất nhất do Thày Lang Thân định đoạt. Không một ai có thể tự ý làm bất cứ việc gì nếu chưa nhận được cái gật đầu của Thày.
Cái gì của mình thì mình phải giữ.
Ông Thìn đen vô tình vừa đi vừa nhắc lại câu nói của Thày Lang Thân năm nào. Nắng tuy mới đầu thu nhưng về chiều đã có cảm giác se se hanh hao, cảm giác ấy làm hai người thấy khó thở hơn. Nhất là “cậu”. “Cậu” lại há hốc cái mồm của mình ra để thở và liên tục rớt ra những sợi rớt rãi. Rất vất vả, ông Thìn đen gắng sức đỡ “cậu” đi cho khỏi ngã. Bờ những thửa ruộng bên nửa phía đông của cánh đồng không thẳng mượt mà như những đường bờ bên nửa phía tây. Đường bờ trên những thửa ruộng bên cánh đồng phía đông gồ ghề, cỏ mọc tốt chìa những chiếc lá dài che lấp vết chân. Đường bờ vậy chắc ít người để ý. Chuyện người làng Thanh Vàng thời nay cho mở con đường đất dải đá nối đường quốc lộ số 5 với làng đâm thẳng vào đình làng đã làm phiền lòng cụ Lang Thân. Nó lại thêm phiền lòng khi mà con đường tiện dụng cho những ai lười nhác không muốn đi vòng cho xa đã vô tình chia đôi cánh đồng, chia đôi làng Thanh Vàng thành hai nửa. Mỗi nửa một kiểu bờ ruộng. Nó cũng là biểu hiện cho thấy cung cách giữa hai nửa làng cũng có sự khác biệt. Bên nửa làng phía tây, được gọi là làng trên, là những người không thuộc họ hàng không có chút dây mơ rễ má với cụ Lang Thân, nên thái độ lao động của họ xem ra cẩn thận hơn. Còn bên nửa làng phía đông, được gọi là làng dưới, nửa bên này đa phần là họ hàng với cụ Lang nên họ có ý dựa dẫm và ỷ lại. Người làng trên trồng hoa cúc trên cánh đồng phía tây, gọi là đồng trên. Đồng trên đất tuy cao hơn nhưng lại cằn cỗi hơn nên người làng trên phải chịu khó hơn. Đồng dưới do người làng dưới trồng hoa, đồng này đất thấp, nước đủ nên chuyện làm ăn có phần nhàn hạ hơn. Nhàn hạ hơn nên người làng dưới ít chăm chỉ còn lại hay la cà. Mỗi khi làng có việc động đến mâm bát là người làng dưới hăng hái vui vẻ còn người làng trên còn cân nhắc chán. Một đằng thì chắt bóp và một đằng thì xông xênh. Thói đời là vậy. Chỉ cần một chút hơi hướng hay có lợi thế là có thái độ khác hẳn.
Còn chút gì vấn vương là còn cấn cá.
Rất tâm đắc với suy nghĩ đó mà Thày Lang Thân tìm cách để hai đứa con của Thày quên hẳn vai trò cùng vị trí của cô Mây trong tâm hồn chúng. Cách tốt nhất là Thày nhờ cậy người ta để gửi chúng vào học ở trường “Ly xê”. Trường này chỉ dành cho con em người Pháp và một số ít con em quan lại thuộc địa. Nhưng không có gì là không  làm được bằng tiền. Mà tiền thì Thày Lang Thân lại dư dả bởi thế việc gửi hai đứa con vào trường “Ly xê” không khó khăn đối với Thày. Hơn nữa cho con vào học ở trường tây chúng sẽ văn minh. Mà văn minh chính lý do để cô Mây, tức mẹ chúng, đã bỏ chúng để đi theo người khác văn minh hơn cha chúng. Còn một lý do nữa mà Thày Lang Thân giấu kỹ trong bụng, đấy mới là lý do chính đáng mà Thày Lang Thân mạnh dạn bỏ tiền ra chạy cho con vào học ở trường tây. Theo cách suy nghĩ của Thày Lang Thân thì đưa con vào học ở nơi do chính những người Pháp dạy ra để chúng hiểu người Pháp rõ hơn. Hiểu rõ hơn cái thứ người đã rủ rê mẹ chúng đi xa hẳn chúng. Hiểu để chúng sau này lớn lên mà biết cách ứng xử với thứ người mà Thày Lang Thân luôn khắc sâu nhớ dai. Thày Lang Thân cũng thâm ý ra phết, có vào hang mới bất được cọp.
Ông cụ đến lúc nhắm mắt vẫn còn thù người Pháp.
Ông Thìn đen ngước nhìn xem thái độ của “cậu” thế nào. “Cậu” dường như chẳng quan tâm, chân “cậu” vẫn bước những bước cà nhắc nhìn rất buồn cười. Còn những sợi rớt rãi nữa. Quả tình ông Thìn đen cũng hơi nản. Trong đầu của ông, ông đang tự hỏi liệu với con người như “cậu” những câu chuyện của ông có để lại điều gì? Thoáng chút phân vân như kẻ nhụt chí, ông Thìn đen chợt kéo áo “cậu” níu lại. Hai người, một người lêu khêu đang đi chật chưỡng bị níu áo bất ngờ nên loạng choạng suýt ngã, một người có những bước chắc nịnh như đóng xuống đất. Cả hai người xô dúi vào nhau làm hai cái bóng cũng dúm lại. Trên mặt những luống hoa hai cái bóng, một dài đổ liêu xiêu, đầu gật gù và một ngắn tròn tròn sững lặng trông từa tựa như đôi đũa cắm bên cạnh quả trứng gà luộc chín đã bóc vỏ đặt trên cái bát  cơm đầy dành cho người quá cố.
Nhưng ông cụ cũng phải dành cho người Pháp những câu khen ngợi.
…ông…ói…ái….ì…ơ…..
“Phủi phui” cái suy nghĩ đầy súi quẩy, ông Thìn đen quay đầu sang trái nhổ phẹt bãi nước bọt. Bãi nước bọt, chắc là tại ông nói nhiều, cô quánh lại thành viên bám trắng nhờ nhờ, dính bệt trên chiếc lá của cây hoa gần nhất. Nhìn cái bãi nước bọt ấy “cậu” bỗng dưng nhoẻn miệng cười. Chắc “cậu” cũng nghĩ rằng đã là nước từ trong mồm ra thì rớt rãi của “cậu” hay nước bọt của ông Thìn đen cũng cùng như nhau. “Cậu ” không biết đấy là cách ông Thìn đen đang cố thoát ra khỏi suy nghĩ ma mị. Ông nhổ bãi nước bọt xong thì đẩy vai mình vào lưng “cậu” ý nhắc “cậu” cùng đi tiếp. Quả tình là ông Thìn đen không hổ với mấy chục năm theo hầu cụ Lang Thân. Ông đã học được ở cụ Lang Thân cách tìm lối thoát khỏi những suy nghĩ u uẩn, thoát khỏi những lăn tăn, cùng những thứ không nên nhắc lại. Mắt ông hướng xuôi theo hướng nắng nhưng đầu óc lại đang nhớ lại những điều cụ Lang Thân hay nói. Cụ Lang Thân gật gù với chuyện lấy cái đang ở trên tay người khác về làm cái của mình. Tâm đắc thế nhưng cả đời cụ Lang Thân đã bao giờ dám làm cái chuyện bất nhân bất nghĩa ấy. Cụ có gan mưu mộng lớn nhưng không có tâm làm việc ác nhưng cất một lời để nói câu khen người khác thì cụ làm được. Ông cụ cũng tỏ ra có chút công bằng khi phân biệt giữa người với hành động. Ai dám hành động là người đó mạnh. Ai không dám hành động là người đó hèn, là người đó yếu. Từ nhận thức đó mà cụ Lang Thân bỗng chốc trở nên khó hiểu.
Hai người đã đi qua thửa ruộng đầu tiên của nửa bên đông cánh đồng hoa cúc. Thửa ruộng này rộng hơn những thửa ruộng bên đồng trên mà hai người đã đi ban sáng nhưng hoa lại nở thưa thớt, cả thửa ruộng chỉ lác đác mấy bông vàng vàng xen đám lá xanh. Người làng hay chính xác hơn là người làng dưới hình như đã có dấu hiệu bỏ bê? Ông Thìn đen cùng “cậu” đi qua nhìn cảnh đó mà lòng chợt chạnh nghĩ.
Hai người dìu nhau đi nhanh qua thửa ruộng bỏ bê thì tới chỗ có những lùm cây rậm rạp. Giữa cánh đồng trồng toàn hoa cúc lại tự nhiên có một chỗ mọc toàn cây dại rậm rạp kể cũng lạ? Nghĩ mãi ông Thìn đen mới ớ ra, chỗ lùm cây dại mọc rậm rạp ấy ngày trước là một cái ao nhỏ. Nói là ao nhỏ nhưng chẳng khi nào cái ao nhỏ hết nước cho dù giữa ngày hạn nhất. Hồi ông Thìn đen mới sinh ra ngoài cánh đồng đã có cái ao này, xa hơn chút nữa là hồi cụ Lang Thân chào đời cái ao nhỏ ở giữa đồng cũng đã có. Những người am hiểu nhất chuyện làng thì nói rằng, cái ao có trước làng Dục có sau. Một cái ao nhỏ, trông từa tựa một dấu chân trâu khổng lồ, có từ đời tám oánh, ngày mưa to dầm dĩ nước chẳng tràn bờ, ngày nắng gay gắt nước ao không hề hao hụt mà vẫn còn mát rười rượi. Quanh bờ ao người ta đã tạo bốn bậc cầu ao theo đúng bốn hướng. Người làng Thanh Vàng lúc chiều về thôi hái hoa là đua nhau ra đấy vui như có hội, họ khỏa chân xuống bậc cầu ao và quẩy những thùng nước đùng đục nhưng mát rười rượi đem tưới lên những luống hoa. Họ múc, họ gánh kữu kịt mà nước vừa vơi lại đầy như chưa hề có ai đến lấy nước đem đi. Ông Thìn đen rùng mình, mắt nhắm lại chần chừ. Cái ao nhỏ ấy người làng Thanh Vàng đồn đoán có lối mạch ngầm thông với sông Như. Nó như là đường huyệt thủy, là cái rốn của đồng làng, là cái nguồn sống cho những luống hoa. Bởi vậy tuy nước ao mang màu đùng đục, có vị tanh tanh, không dùng uống được nhưng đem tưới lên những cây hoa cúc thì lá cành bỗng xanh mơn mởn.
Mất nguồn là mất hết.
Ông Thìn đen lại rùng mình dữ dội. Mắt ông bảng hoảng dớn dác nhìn xung quanh như để thăm dò rồi nhìn đăm đắm vào chỗ cái ao xưa. “Cậu” chẳng hay biết được nhưng thấy ông Thìn đen cứ đứng nhìn trân trân thì cũng đứng tênh tênh nhìn ngó. Từ ngày người dân làng Thanh Vàng đưa cơ khí hóa vào sản xuất đến giờ không còn ai tới khỏa chân xuống bậc cầu ao để quẩy nước đem tưới lên những luống hoa nữa. Khắp cánh đồng hoa cúc giờ được lắp đặt những cột nước cao bằng người, đầu cột có vòi sen. Khi bóng chiều đìu hiu, ngả màu sương khói giăng khắp cánh đồng là những chiếc vòi sen quay tròn tít mù, vung nước như trận mưa. Người làng Thanh Vàng bây giờ không gánh nước ao mà dùng máy bơm bơm nước từ dưới sông Như lên để tưới đẫm những luống hoa. Thành thử cái ao nhỏ không khi nào cạn nước bị bỏ quên. Bỏ quên thành ra nó đơn độc và vô tác dụng. Bởi thế nên người ta vứt xuống đó vô vàn những thân cành cây hoa cúc già thải loại. Chỗ vốn là cái ao nhỏ bây giờ rậm rạp cây dại, bùn đọng sền sệt, nhõng nhẽo tanh tưởi, chẳng có ai ngốc nghếch tới đó múc nước. Bữa nào màn trời đổi tính khí hàng trăm con cá trê béo vàng trơn nhẫy, quẫy bùn phành phạch, chen chúc nhau nhoi lên đớp gió. Người trong làng thấy thế kéo nhau ra nhìn ao chỉ chỏ nhưng chẳng có ma dại nào dám bắt cá về ăn. Béo bở đâu không thấy, chỉ thấy ăn xong con cá trê béo vàng nhoi lên đớp gió đó đêm về đau bụng dữ dội rồi lăn ra chết bất đắc kỳ tử giống như tay Tuất Thẹo ngụ nhờ ở làng dưới. Tay Tuất Thẹo nổi tiếng là tên “đinh tặc” làm làng Thanh Vàng nhiều phen xấu mặt với các làng khác. Chuyện tay Tuất Thẹo chẳng biết ở đâu mọc ra, coi trời bằng vung, ban đêm mò ra đường 5 rải đinh, sáng ra lại mang đồ nghề bơm vá ngồi bên đường bắt chẹt người không may xe bị thủng lốp. Tay Tuất Thẹo này nhìn bầy cá trê béo vàng chen nhau nhoi lên thì gạt tay mấy người đứng xem chắn lối, tay ấy xung hô nhảy vào bắt cá về ăn. Tay Tuất Thẹo ăn chưa xong nồi cá thì lăn đùng ra giẫy đành đạch, mắt trợn ngược, bọt mép sùi sôi như bọt củi cháy. Người làng bảo nhau tay ấy bất kính với đất nên bị giời vật chết. Chuyện đã qua những mấy năm rồi đến giờ người làng Thanh Vàng nhắc lại còn hãi run người. Khi sắc trời dịu dàng trở lại hàng trăm con cá trê béo vàng biến mất. Cái ao lại nhõng nhẽo bùn với cỏ rác. Ao nhỏ giờ thành cái vũng, nó không còn linh như lời đồn đoán nhưng lại âm u, kỳ quái chẳng ai dám đến gần.
 Vô tình dẫn tới vô tâm.
…ông…ói…ì …ế…
Về chiều hương hoa cúc ngoải nồng nên mùi hoang hoắc hơn ban sáng. Dường như ánh nắng chiếu dọi cả ngày đã hun đọng hương hoa lại. “Cậu” đi không hào hứng, mặt mũi ể oải khó nhọc. Những bước chân cà nhắc lại thêm cà nhắc làm ông Thìn đen phải gồng mình hơn. Ông ép sát người mình vào bên sườn “cậu” nhằm đẩy “cậu” đi, như kiểu người ta ghé vai đẩy giúp chiếc xe bò vượt qua bãi lầy vậy. Cách thức đó vô tình chạm mạnh vào cánh tay phải nâng khư khư từ sáng tới giờ của “cậu”. “Cậu” giật mình, khép cánh tay phải chặt hơn vào mạn sườn. Ông Thìn đen chợt sinh nghi. Không hiểu “cậu” đang giữ thứ gì? Hơi tò mò giống như thói đàn bà hay tọc mạnh, ông Thìn đen liếc mắt nhìn xoi mói vào mạn sườn phải của “cậu”. Không hiểu cái nhìn xoi mói của ông có mang ý nghĩa gì không mà “cậu” lại giật mình và lại khép cánh tay phải đang nâng khư khư chặt thêm nữa? “Cậu” đang giữ thứ gì không biết?
Nhưng trước tiên phải xóa sạch dấu vết.
Hôm sau, nghĩa là sau cái sáng đầu đông lạnh lẽo Thày Lang Thân kéo chú bé Thìn đen ra hồ Gươm tìm người trở về nhà và nhất là đã đọc được lá thư gửi lại của cô Mây, Thày Lang Thân gọi thợ quét vôi tới nhà. Thày cho thợ quét lại vôi toàn bộ căn phòng cô Mây đã ở. Căn phòng này trước quét vôi màu ve ai vào đó cũng trông xanh rớt, nay Thày Lang Thân cho quét vôi màu hồng ai ở đấy ra cứ như vừa  được điểm thêm tí phấn son. Thực  tình mà nói màu vôi hồng cũng thấy ấm hơn, đỡ cái lạnh vắng của căn phòng không ai ở. Thày còn cẩn thận giấu kỹ những thứ gì gọi là của cô Mây để lại, kể cả tấm hình cô khổ bằng bàn tay mà trước kia những lúc nhà vắng vẻ Thày Lang Thân thường đem ra ngắm. Ở sâu thẳm trong lòng của con người đầy can trường này vẫn còn đâu đó chút vấn vít.
Cụ hận hồn ma cô gái trinh họ Trần lắm.
Vừa nhắc đến hồn ma ông Thìn đen bỗng tá hỏa, “cậu” đã tuột khỏi tay của ông từ lúc nào và đứng cách ông một đoạn bờ ngắn. Ông Thìn đen đã vội vã nhằm tránh xa cái ao mà quên níu tay “cậu” đi cùng. Ông đi trong khi “cậu” còn đứng lại. “Cậu” vẫn đứng bên chỗ cái ao nhỏ ngày xưa. Dáng đứng không còn tênh tênh như ban sáng nữa. “Cậu” nhìn đăm đắm vào chỗ cái ao xưa như mắt “cậu” đã nhìn thấy thứ gì. Hay là “cậu” đang bị thứ gì ám ảnh hệt như cụ Lang Thân tuy hận hồn ma cô gái trinh họ Trần nhưng cụ luôn bị hồn ma của cô ám ảnh. Chắc là “cậu” đã thấy khí linh hay chính linh khí từ huyệt thủy làng Dục đã nhập vào thân thể của “cậu”? Bỗng chốc “cậu” như một người khác? Dáng đứng của “cậu” khá chững chạc, người lạ gặp “cậu” lần đầu có cho tiền cũng không dám nói “cậu” vốn sinh ra đã không bình thường.
Sao nhà này thời nào cũng có người nhìn thấy hồn ma?
Ông Thìn đen sợ toát cả mồ hôi. Trán ông lấm tấm những giọt nước nhỏ li ti khi ông quay lại tìm “cậu”. Ông không tin có phép nhiệm màu phút chốc chữa lành vết đau cố hữu. Nhưng chuyện ma nhập vào người, hay hồn về ám ảnh thì ông tin là có thật. Một nỗi sợ hãi dâng trong đầu khiến ông Thìn đen thêm lo ngại. Ông day mắt thật mạnh, trong mắt ông nở ra hàng trăm ngàn tia sáng như những ánh sao tóe ra trước mặt.
Hồn ma sẽ làm con người lầm lạc.
Nhưng chuyện lúc này đâu phải hồn ma, ông Thìn đen có đủ tỉnh táo để suy đoán. Đúng như ông nhận định, “cậu” nhớn nhác quay đầu tứ phía để tìm ông. Thì ra ông Thìn đen quá lo lắng. Ông lo lắng cũng có cái lý đúng bởi mấy chục năm nay ông đã từng chứng kiến những ám ảnh của hồn ma. Ngày Thày Lang Thân cho thợ quét vôi lại căn phòng cô Mầy đã ở cho tươi ấm hơn nhưng mỗi lần Thày Lang Thân kêu chú bé Thìn đen việc gì phải đi qua căn phòng ấy là chú lại run rẩy như bị cảm lạnh. Căn phòng vắng vẻ không có người ở, cửa giả luôn mở rộng đón gió. Căn phòng mỗi khi về đêm lại vẳng ra những chuỗi âm thanh kẽo kẹt như có người đẩy cửa. Chú bé Thìn đen sợ lắm, chú lò dò từng bước chân khi sắp tới cửa căn phòng. Rồi chú co chân chạy vụt qua. Có bóng ai đó cũng chạy vụt qua trong tấm gương của chiếc tủ kê chắn lối ra ngoài ban công. Có luồng gió thổi lạnh sống lưng của chú. Luồng gió vút nhanh và biến mất khi chú bé Thìn đen đã chạy xa hẳn cửa của căn phòng. Chú lại dón dén từng bước chân một vừa đi vừa ngoảnh đầu nhìn lại sau lưng.
Lắc đầu ngoáy cổ kêu cùng cục, ông Thìn đen thoát khỏi ảo giác. Thì ra vừa nãy khi quay lại tìm “cậu” ông đã nhìn ngược sáng. Cái hình hài của “cậu” trông đen thẫm đã đánh lừa nhận thức của ông. “Cậu” vẫn thế, dáng đứng tênh tênh chỉ chực ngã, “cậu” đang chìa bàn tay trái chới với tìm bàn tay của ông. “Cậu” không chờ được ngã dúi mặt vào chỗ lùm cây lúp xúp, thảm hại lắm.
Xót xa đấy nhưng phải tự gắng thôi.
Tự bào chữa cho việc mình sơ sẩy rời tay “cậu” mà ông Thìn đen nhắc lại câu nói thường nhật của cụ Lang Thân. Từ ngày chuyển lên Hà thành cụ Lang Thân chẳng khi nào yên ả. Có bao nhiêu chuyện xẩy ra khiến ông cụ đã thấp đậm lại thêm thấp đậm. Ở người đàn ông có nhiều ý chí ấy mọi việc đều phải gắng. Gắng đưa làng Dục thành làng Thanh Vàng tiếng nổi khắp vùng. Gắng gạt hình ảnh cô Mây ra khỏi tâm trí. Gắng ganh đua với hàng phố. Gắng chống chọi với những buồn lo. Nói chung mọi việc trong cuộc đời cụ Lang Thân vỏn vẹn trong một chữ “gắng’.
Đời nó có số, có vận cả.
Ông Thìn đen sau khi với được tay “cậu” kéo “cậu” đứng dậy nói như đúng rồi. Cái số của ông là mẫn cán. Cái vận của “cậu” là chẳng ra người. Nhưng nào có thoát khỏi “vận” với “số”. Vận của đời người trôi chảy như nước sông Như, một đi không trở lại. Vậy mà ông lại đang cố làm cái việc giúp “cậu” hiểu ra mọi chuyện. Âu cũng là trách nhiệm. Gia đình cụ Lang Than tiêu tán khắp nơi, ông Thìn đen cũng ngoài thất thập. Không sớm nói ra sau này thành vong ra ngoài đồng hết thì tận tuyệt.
Hai người, một lêu khêu đi chật chưỡng và một ngắn ngủi đi chắc nịch lại kè kè bên nhau. Những thửa ruộng nơi cánh đồng dưới không tốt tươi như những thửa ruộng phía cánh đồng trên. Nửa dưới của cánh đồng tầm này đã vắng càng thêm vắng vẻ. Người làng dưới đã rủ nhau về làng khi ánh nắng bắt đầu chiếu xiên khoai. Vẻ hiu hiu buồn buồn lây cả sang tâm trạng ông Thìn đen. Ông nhớ những ngày cụ Lang Thân sắp mất. Cụ Lang Thân không ốm đau, không nằm mệt mỏi. Ông cụ ngồi khoanh chân trên tấm sập gụ mát nhẵn như li như lau, lưng chùm hờ chiếc áo ca pốt lính mà viên sĩ quan Nhật đắp lên người hai thày trò năm nào ở hồ Gươm. Chiếc áo qua năm tháng đã cũ sờn đi, lòi thòi những sợi với lòng thòng mấy đường chỉ sứt, vậy mà ông cụ dứt khoát không cho ông Thìn đen vứt bỏ, ông cụ không giải thích nhưng tay cứ vân vê mép áo. Hình như cụ đang tìm lại điều gì gợi nhớ từ chiếc áo.
Phàm những gì mình càng ghét nó lại càng hay nhớ.
Cụ Lang Thân ngồi khoanh chân xếp bằng trên sập gụ. Dạo này cụ không đứng ngoài cửa hàng được nữa. Nhưng cụ vẫn giữ thói quen hàng sáng được ngửi thứ mùi hăng hoắc của hoa cúc khô. Bức tường vốn ngăn cửa hàng với gian trong, nơi cụ Lang Thân thường ngả lưng mỗi trưa đã được cụ cho dỡ bỏ. Cụ Lang Thân ngồi ở đó thỉnh thoảng hướng mắt nhìn quán xuyến việc bán hàng và nhận hàng mỗi ngày. Rồi cụ hơi cúi đầu gnhir ngơi chốc lát, mắt cụ lim dim như người ngủ gật nhưng ông cụ chưa với tới chỗ tựa lưng. Tấm lưng của cụ vẫn còn phẳng, còn vững như cánh phản. Hơn bảy mươi năm theo nghiệp nên cụ còn đắm đuối như buổi đầu cho dù bây giờ hàng họ ít người để ý. Từ ngày nhà nước “mở cửa” món thuốc nam trở nên đơn điệu giữa bạt ngàn các thứ hàng mang tên thuốc của ta có, của Tàu có, của Nhật của Hàn có và cả của những nước Mỹ Âu cũng có. Thứ nào cũng đẹp, cũng bắt mắt và cũng có nhiều công dụng, thành thử món thuốc nam chế từ hoa cúc dần phai trong ý thức nhiều người. Cụ Lang Thân sẵn có chút buồn lòng lại thêm buồn trong bụng. Hơn bảy mươi năm có biết bao buồn vui, sướng khổ, có biết bao nổi chìm nhưng chưa thấy khi nào cụ vơi ý chí. Vậy mà giờ đây? Mái tóc dài và bạc trắng của cụ Lang Thân luôn được búi tó gọn rung rung theo nhịp thở của cụ. Trong từng nhịp thở nhẹ của cụ nghe rất rõ những câu thơ ngày xưa cô Mây hay đọc. Những câu thơ tẻ buồn cứ lẩn khuất trong đầu cụ, để rồi cho tới một ngày khi cụ Lang Thân không còn phải suy tính nữa thì nó lại dồn về. “Đợi đến luân hồi sẽ gặp nhau. Cùng em nhắc lại chuyện xưa sau. Chờ anh dưới gốc sim già nhé. Ta hái trao nhau đóa mộng đầu”.
Cụ không quên được cô Mây đâu “cậu”.
…ái …ì …ơ…
Cô Mây. Cụ nhà mình càng già càng nhớ cô Mây.
….ôi….ông…iết….âu.
“Cậu” còn trẻ làm sao hiểu được lòng người già. Người trẻ sống bằng thực tại còn người già sống bằng dĩ vãng. Ông Thìn đen bùi ngùi quay đi, mắt ông chạm phải những thửa ruộng đang bị bỏ bê của cánh đồng dưới. Đồng dưới vắng tanh. Gió chiều tê tái. Những cánh hoa cúc không người thu hái đang cố vươn khỏi đầu cành, run rẩy khoe cái màu vàng đang nhàn nhạt. Người làng dưới mấy năm gần đây bỗng hết thiết tha với việc trồng hoa cúc thành thử đồng dưới cũng tẻ nhạt thành vắng vẻ. Ông Thìn đen lau khóe mắt. Chắc là ông vừa bị gió thổi làm cay mắt nên từ khóe mắt của ông khẽ lăn vài giọt nước mắt. Cánh đồng dưới đang thưa dần những luống hoa. Quả tình mấy năm lại đây việc trồng hoa không rộn rã như trước. Người làng Thanh Vàng cũng bây giờ có nhiều việc phải quan tâm hơn. Ví như chuyện đất đai dù ở chốn nhà quê cũng sình sịch sốt như phải bỏng. Thời buổi “tấc đất tấc vàng” nên người ta phải tính, phải mưu cầu cái gì nhẹ nhàng hơn mà có hiệu quả hơn. Chốn làng quê xưa hẻo như trái sấu héo giờ tươi một màu mới. Màu tiền đang đổi?
Nào có ai qua nổi cái hạn đâu.
Hai người kéo nhau ngồi bệt xuống bờ ruộng. “Cậu” vẫn vậy. “Cậu” không đi đâu quá được trăm bước chân.
Người trẻ  đi không được xa. Người già đi không được nhiều.
Ông Thìn đen vẻ mặt đượm chút vời vợi, ông tiện tay bứt bứt dăm ngọn cỏ cạnh chỗ ông và “cậu” cùng ngồi. “Cậu” ngồi thờ ơ như “cậu” chưa từng qua một nỗi buồn hay lo lắng, mắt “cậu” mở thao láo nhưng không phải cái nhìn say sưa. Trong đầu ‘cậu” chỉ tồn tại một chữ “đói”. Từ khi chào đời đến nay “cậu” chỉ biết đến giờ nào thì ăn, giờ nào thì đi vào cái bô và giờ nào thì ngủ. Hôm nay “cậu” đã quá sức? Ông Thìn đen hơi ngao ngán, ông vô giác đưa từng lá cỏ đưa lên miệng nhai. Nó tuy nhân nhẩn đắng nhưng cũng làm dịu đi cái khát trong chốc lát.
Còn nhiều lắm.
2/1/2021
Nguyễn Trọng Văn
Theo https://vanhocsaigon.com/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Xuống phố

Xuống phố Sáng nay trước khi đi làm con trai nói với mẹ: - Chiều đi làm về, con chở mẹ với em đi dạo phố noel ha? - Thiệt nghen. - Dạ mẹ. ...