Nợ đời 2
CHƯƠNG 11 - NẤC THANG THỨ NHÌ
Cô Hai Phục nhờ tiền bạc của Mái Chín Ngánh mà cô được nhập
theo hạng người giàu sang. Chẳng những cô tới lui thăm ông Phủ Tăng, thì vợ chồng
ông Phủ Tăng trọng đãi mà thôi, mà vợ chồng ông Phủ lại cũng thường dắt con lên
nhà cô mà chơi, còn Liên Hoa năm nay đã lớn rồi thì thường đi chơi xe, hoặc đi
coi hát với cô, kêu cô bằng “Chị hai” nghe ngọt xớt, chớ không phải khinh khi mắng
chửi cô như hồi trước vậy nữa.
Tới lui chơi vài năm, mà vợ chồng ông Phủ, vì hổ “cái cử chỉ”
“phụ bần” của mình ngày trước, nên chẳng bao giờ dám hỏi thăm tới việc cô Phục
chửa đẻ, cho biết coi hồi đó cô sanh trai hay là gái, và đứa nhỏ bây giờ ở đâu.
Mà cô Hai Phục cũng y như lời của Ba Có dặn, cô chẳng hề nói tới chuyện ấy.
Một buổi chiều, cô Hai Phục đi xe hơi lại nhà ông Phủ rước cô
Liên Hoa đi chơi. Cô nghe tin cậu Hai Hùng học ở bên Pháp đã thi đậu bằng Cử
nhơn Luật Khoa và cậu đã xuống tàu mà về, trong năm mười ngày nữa cậu sẽ tới
Saigon.
Trót năm năm rồi cô đã quên cậu Hai Hùng, nay thình lình cô
nghe cậu về gần tới thì trong lòng bồi hồi, nằm ngồi không an. Cô còn oán cái
thói đen bạc của cậu chăng? Hay là bếp lửa tình len-lút nhen-nhúm ngày xưa đến
bây giờ mà nó cũng ngầm ngầm còn ngúng? Cô bồi hồi mà cô không biết trong hai lẽ
ấy tại lẽ nào.
Đêm ấy là thứ năm, nhằm đêm cô đi coi hát bóng, mà ăn cơm tối
rồi cô dã dượi, không chịu sửa soạn trang điểm gì đặng đi coi hát. Ba Có thấy đồng
hồ treo trên vách đã chỉ 8 giờ rưỡi, mà cô Hai Phục mãi còn bận đồ mát, nằm
trên ghế xích-đu thì chị ta hỏi rằng:
- Bữa nay là đêm em đi coi hát bóng mà. Em quên hay sao?
- Em nhớ lắm chớ. Mà bữa nay sao em không muốn đi coi xem hát
bóng.
- Sao vậy?
- Tại sao em không biết mà sao em không muốn đi coi hát.
Cô nằm lúc-lắc cái ghế, mắt ngó ngọn đèn khí trân trân một hồi,
rồi vùng nói với Ba Có rằng:
- Em mới nghe nói cậu Hai ở bên Tây về gần tới đa, Chị Ba.
- Cậu Hai nào?
- Cậu Hai Hùng là người hồi trước lấy em có chửa rồi trốn bỏ
đi qua Tây mà học đó.
- Ờ ợ! Thằng khốn nạn đó mà nhắc tới làm gì. Hồi trước mình
nghèo, nên tính vớ nó đặng kiếm xu, chớ bây giờ mình cần gì nó. Nó về thây kệ
nó chớ.
- Nghe nói cậu thi đậu cử-nhơn, chớ không phải chơi đâu.
- Cử-nhơn cử nhéo gì cũng vậy, hễ người có cái óc hèn hạ khiếp
nhược, thì dù học cho nhiều, làm quan cho lớn, cử-chỉ cũng hèn hạ khiếp-nhược
hoài, chớ gì. Đồ đó thấy gớm lắm.
- Không biết chừng hồi trước cậu còn nhỏ tuổi, lại học ít,
nên cậu không biết phải quấy. Bây giờ cậu lớn rồi, cậu học giỏi, có lẽ cậu đổi
tánh chớ.
- Thử gừng với quế, hễ già chừng nào càng cay chừng nấy. Con
người cũng vậy, thái-độ hèn hạ lớn chừng nấy. Em có thấy thứ ngỗng mà nó thành
con hạc được bao giờ? Dầu em bắt nó đem để đứng trước bàn thờ Thần; ngỗng cũng
là ngỗng, chớ thành hạc đâu được.
- Ngỗng hay là hạc cũng vậy, em sợ cậu về đây cậu kiếm em mà
đòi con của cậu, rồi em không biết làm sao chớ.
- Khéo lo dữ hôn!
- Không lo sao được. Cậu thông thạo luật, cậu hỏi mình không
biết đâu mà trả lời chớ.
- Cậu có hỏi thì em đừng nói gì hết. Em biểu cậu hỏi qua đây,
đặng cậu lết tới đây qua nói luật với cậu cho cậu biết.
- Như cậu có hỏi em nói thằng nhỏ chết, được hay không?
- Được. Mà em để cậu hỏi qua, đặng qua nói chuyện với cậu cho
vui mà.
Cô Hai Phục nằm suy nghĩ một hồi nữa, rồi hỏi rằng:
- Chị Ba, như cậu Hai về đây, cậu tới chịu lỗi rồi cậu xin cưới
em mà chuộc cái quấy hồi trước, em phải trả lời làm sao?
- Em hỏi kỳ cục quá! Bao giờ mà có chuyện như vậy. Trông thế
mà em còn thương thằng đó lắm hay sao mà em ước mơ nó cưới em?
Cô Hai Phục nằm nín khe, không trả lời.
Ba Có thở ra mà nói rằng: “Qua sợ em còn phải nguy về cái tay
thằng điếm đó nữa cho mà coi!”
Cô Hai Phục cũng không trả lời.
Cách chừng 10 ngày sau, cô vô nhà ông Phủ Tăng mà chơi, cô gặp
cậu Hai Hùng, cậu biết cô nên cậu bợ-ngợ, nhưng mà cậu làm lơ, không dám hỏi.
Bà Phủ bây giờ bà yêu và trọng cô Hai Phục lắm, bà muốn khoe
cô, mà cũng muốn phui-pha chuyện cũ cho rồi, nên bà hỏi cậu Hai Hùng rằng : “Đố
thằng Hai biết cô nầy là ai?”
Cậu Hai làm bộ lơ láo đáp rằng:
- Cháu đi lâu quá nên cháu quên.
- Cô Hai Phục đó đa. Hồi trước cô nuôi nó, lúc cháu ở đây mà
đi học có nó. Cháu nhớ hôn?
- Thưa, cháu nhớ rồi. Bây giờ cô Hai lớn nên trông lạ.
Cô Hai Phục cười mà nói rằng: “Cậu thi đậu cử-nhơn rồi cậu
làm lạ với em, chớ em có quên cậu đâu”.
Mấy lời nói ấy gồm đủ các ý trách với cái ý còn dan-díu. Bà
Phủ sợ kẻ nói qua, người đáp lại, rồi lòi tình tệ cũ không tốt, nên bà hớt mà
nói với cậu Hai rằng:
- Con Hai bây giờ có chồng giàu lắm, nó có xe hơi, có nhà tử
tế, chớ không phải như hồi nhỏ vậy đâu.
- Được vậy thì tôi cũng mừng cho cô.
Cô Hai Phục cười mà nói rằng: “Cám ơn cậu. Tôi cũng mừng cho
cậu học thành công”.
Câu chuyện chỉ có bao nhiêu đó mà thôi, mà cũng đủ cho cậu
Hai thấy cô Hai đã không oán hận mà ý lại không quên cậu.
Cô Hai Phục về nhà cô tỏ thiệt cho Ba Có nghe rằng cô có gặp
cậu Hai Hùng. Cô nói rằng:
- Cậu gặp em mà cậu làm mặt lạ chớ.
- Sao em không nhắc chuyện xưa cho cậu nhớ?
- Có chú thím của em ở đó, em nhắc chuyện cũ coi sao được?
- Cậu có hỏi thăm con của cậu hôn?
- Không.
- Cậu đi Tây rồi cậu quên chuyện An Nam hết. Để khi nào qua gặp
rồi qua sẽ nhắc cho cậu nhớ.
Hơn một tháng nay Mái Chín Ngành ít tới lui nữa. Hồi trước mỗi
ngày mỗi ghé, bây giờ cả tuần lễ mới ghé một lần, mà ghé một lát rồi đi, không
chà lết ở ăn cơm, không vui cười hớn-hở như xưa nữa. Tuy vậy mà tiền bạc cũng
cho cô Hai Phục ăn xài như thường.
Một đêm cô Hai Phục đi chơi về, cô buồn trong bụng nên ngủ
không được, cô bèn dỡ nhựt trình ra mà đọc. Cô thấy có một bài báo nói rằng: Một
người khách trú tên Mai-Ngân kêu Mái Chín Ngành, làm nghề thầu khoán ở Cholon,
gạt gẫm nhiều hãng mà mua chịu xi măng, mua chịu sắt, lại còn gạt nhà băng mà
vay bạc cả thảy trên 200 ngàn. Vài tháng nay không trả nợ cho hãng và nhà băng
nào hết. Mấy hãng vào đơn nơi Tòa Thương-mãi mà kiện. Tòa xét sổ sách thì thấy
Mái chín Ngành làm nhiều việc gian lận, nên lên án buộc tội sang đoạt theo phép
Thương-mãi. Tòa chưa kịp bắt mà giam thì Mái Chín Ngành sợ tội nên đã trốn đi
đâu mất. Theo tin của sở Cảnh sát thì có lẽ Mái Chín Ngành trốn lên Cao miên, rồi
lén qua Xiêm La đặng quá giang tàu mà về Trung Quốc. Nhà chuyên trách còn đương
tập nã, mà chưa biết kẻ phạm bây giờ ở đâu.
Cô Hai Phục đọc chưa hết bài nhựt trình thì rồi cô đổ mồ hôi,
cô kêu Ba Có mà nói lại cho chị ta hay. Ba Có chắc lưỡi lắc đầu mà than rằng:
“Xui xẻo quá! Làm việc gì mà mắc nợ đến nỗi phải trốn lận. Đây rồi chị em mình
mới làm sao đây?”
Cô Hai chau mày nói rằng:
- Thẩy nguy mà thẩy không nói trước cho mình hay chớ. Vậy mà
hôm đầu tháng thẩy còn phát đủ tiền cho em xài như thường. Ai mà dè.
- Bởi không phải tại minh mà nó nguy, nên nó có trách mình được
đâu.
- Thẩy mắc nợ nần cũng tại em một mớ chớ.
- Tại sao? Mổi tháng nó tốn với mình chừng 500 đồng bạc chớ
bao nhiêu. Mấy năm cộng lại nó nhiều lắm là 20 ngàn. Nó mua xe hơi, mua hột
xoàn cho em chừng 10 ngàn nữa thì tốn hao tới 30 ngàn, có phải nhiều đâu.
- Ba chục ngàn còn gì nữa!
- Ối! Mà chuyện rồi thì thôi, hơi nào mà tính. Bây giờ mình
phải lo phận mình đây.
- Em không lo. Mấy năm nay em để dành được 3 ngàn.
- Ba ngàn nhiều lắm sao? Chớ chi được 30 ngàn thì khỏi lo, chớ
ba ngàn mình xài lâu lắm là một năm, tiêu hết rồi làm sao?
- Tới đâu hay đó chớ biết làm sao!
Chị em cô Hai Phục đã mất vú sữa rồi, nên không dám xài phí hời
hợt như trước nữa. Chiều chiều cô Hai ngồi xe hơi đi chơi một vòng rồi về,
không ăn cơm nhà hàng, không coi hát nữa.
Một buổi sớm mơi hai chị em thức dậy thấy một tốp thợ hồ, thợ
sơn xe đổ lại dậm sửa, sơn quét cái nhà bánh ếch ở bên phía tay mặt. Vả cái nhà
nầy bỏ trống gần một năm rồi, không có ai mướn. Nay thấy người ta lăng-xăng sơn
sửa, muốn biết coi ai mướn, nên Ba Có bước ra đứng dựa hàng rào mà hỏi thăm mấy
người thợ. Cách một hồi chị ta trở vô nói với cô Hai rằng:
- Không phải mướn. Người ta mua cái nhà với đất 11 ngàn, nên
người ta tu bổ lại đặng dọn mà ở.
- Nhà đó bán hay sao? Hễ em hay thì mấy tháng trước em nói với
Mái Chín mua phứt cho chị em mình ở, tiện biết chừng nào.
- Nó gần chết rồi mà mua cái nỗi gì.
- Bề nào cũng chết, mắc nợ mấy trăm ngàn, dầu thêm 11 ngàn nữa
cũng không hại gì. Nhà đó bây giờ người Tây hay là người An Nam mua vậy chị?
- An Nam. Mấy người thợ họ nói ông Đốc-Phủ Lê-như-Thần nào ở
Lục-Tỉnh không biết, ổng hưu trí, nên mua nhà ấy ở với vợ con.
- Bộ ông đó giàu lắm hay sao mà mua nhà tới 11 ngàn.
- Làm quan lên tới chức Đốc-phủ mà không giàu sao được, em hỏi
kỳ quá.
Cô Hai Phục ngồi buồn hiu, cô suy nghĩ thế nào không biết, mà
cách một hồi cô lại than rằng: “Em nghĩ lại thiệt em dại quá, hồi đắc thời cứ
ham chơi cho sung sướng cái thân, không thèm tính tới việc hậu nhựt, nên nay thất
thời mới phải cực lo như vậy”
Ba Có ngó cô Hai mà hỏi rằng:
- Cái gì mà thất thời, em già rồi hay sao?
- Tuy chưa già, song người mình nương tựa nhờ cậy đã tiêu rồi,
thì mình thất thời chớ sao.
- Mái Chín Ngành tiêu đó, chưa chắc là rủi hay là may cho
mình. Ở đời em đừng có thối chí chớ. Vì năm trước chị em mình nghèo, em không
có vi kiến, lại chưa có danh dự gì, nên qua để cho em gần Mái Chín Ngành đặng
kiếm tiền. Em tưởng qua để cho em lấy Mái Chín Ngành đó qua vừa lòng đó hay
sao? Có phải vậy đâu. Qua dạy dỗ em, qua muốn cho em làm bà nầy bà kia, qua mới
vừa lòng, chớ làm “thím mái chín” mà nghĩa gì. Em đừng có buồn, thằng đó bất
quá là một nấc thang thứ nhì chớ gì. Em còn phải leo cao hơn mới được.
- Leo lên nữa được hay không chưa biết, chớ bây giờ em thấy
phải leo xuống rồi.
- Sao mà leo xuống?
- Đây rồi mình phải kiếm phố rẻ rẻ dọn mà ở, chớ ở nhà nầy rồi
tiền đâu mà trả. Đó không phải là leo xuống hay sao?
- Chuyện gì mà phải lại dọn ra phố mà ở? Vậy chớ trước khi gặp
Mái Chín Ngành em ở đâu?
- Hồi trước Ông Huyện Hàm ổng trả tiền nhà; bây giờ ai mà chịu
trả?
- Em khéo lo dữ! Thứ trả tiền nhà, qua nói ra một tiếng thiếu
gì người chịu. Em đừng có sợ mà lo tính trả nhà mướn phố. Tính như vậy thì quê
lắm. Em muốn trèo cao thì em phải giữ phẩm giá cho cao mới được chớ. Em không
thấy chệc bán trái bom hay sao? Nó muốn bán mắc, nó phải bao bằng giấy lụa, nó
bán mắc mới được. Em phải giữ cách sang trọng luôn luôn, mỗi ngày phải bận đồ mới,
phải đi chơi xe-hơi, như thường hoài, chớ đừng có làm hèn hạ mà mất phẩm giá.
Cô Hai Phục cười.
Chiều mát Ba Có xúi cô thay đồ mà đi chơi một vòng với chị
ta. Cô Hai còn đương trang điểm; Ba Có sửa soạn rồi trước, nên chị ta ra trước
sân mà coi sớp phơ lau xe hơi. Thình lình chị ta thấy một ông bịt khăn đen, bận
áo dài, tay cầm ba-ton, râu hớt ngạnh trê, mái tóc bạc hoa râm, mắt đeo kính gọng
vàng, ngừng xe kéo trước cái nhà đương sơn sửa đó. Ông ấy chống ba ton đi vô,
thợ hồ thợ sơn đều bẩm và bẩm quan lớn.
Ba Có biết ông ấy là quan Đốc Phủ Lê như Thần, nên đứng ngó
ngay trân trân. Quan Đốc phủ đi chung quanh mà coi nhà thợ làm, đi tới hàng
rào, ngang chỗ Ba Có đứng với cái xe-hơi, thì ngài ngó chị ta, miệng cười ngỏn-ngoẻn.
Ba Có cúi đầu mà chào ngài và hỏi rằng:
- Bẩm quan lớn, quan lớn mua cái nhà nầy hay sao?
- Phải. Tôi mua rồi.
- Bất nhơn quá! Hai chị em tôi ở một bên đây, mà hãng bán cái
nhà nầy hai chị em tôi không hay chút nào hết. Chớ phải hay bán thì con em tôi
nó mua rồi.
- Tôi có một thằng con trai làm việc ngoài Saigon, nó thấy
trong nhựt-trình rao bán, nên nó chỉ cho tôi mua đó.
- Có rao trong nhựt trình hay sao? Nhà tôi có mua đủ thứ nhựt
trình mà không để ý đến lời rao, nên có hay đâu. Bẩm, quan lớn mua giá bao
nhiêu vậy?
- Tôi hưu trí, tôi cần dùng có chỗ ở gấp, nên tôi mua mắc
quá. Tôi mua về nhà về đất tới 11 ngàn.
- Bẩm quan lớn, 11 ngàn có mắc đâu. Quan lớn mua đó rẻ lắm.
Phải mà con em tôi nó hay bán giá đó, thì nó cũng mua. Bẩm quan lớn, xin mời
quan lớn qua nhà tôi uống nuớc chơi.
Quan Đốc-Phủ Thần do dự một chút rồi chống ba-ton đi vòng ra
cửa ngõ mà qua sân của Ba Có. Ngài thấy Ba Có y phục chỉnh tề, lại có cái
xe-hơi trực sẵn, thì ngài nói rằng:
- Cô, sửa soạn đi, mà tôi qua làm khách cho cô vậy sao phải.
- Bẩm, không. Tôi không có đi đâu hết. Con em tôi nó biểu sớp-phơ
đem xe ra chùi lau đặng chiều tối nó đi chợ, chớ bây giờ chưa đi. Mời quan lớn
vô nhà.
Quan Đốc phủ đi theo Ba Có mà vô nhà. Ba Có mời ngài ngồi ghế
giữa, nhấn chuông kêu bồi bếp biểu chế một bình trà mới, biểu lau chén cho sạch
sẽ.
Quan Đốc Phủ thấy đồ đạc hực-hỡ, lại chưng dọn đẹp đẽ, thì
khen thầm trong bụng và hỏi rằng:
- Ông chủ nhà đi đâu vắng?
- Bẩm quan lớn, nhà nầy là nhà của con em tôi, chớ không phải
nhà của tôi. Nó có chồng Mái-Chín-Ngánh làm nghề thầu khoán. Chồng nó mua bán lộn
xộn với mấy hãng sao đó không biết, mà bỏ đi về Tàu. Còn tôi có chồng An nam
nhà ở trên Hoà Hưng. Chồng tôi nó mê vợ bé, tôi phiền tôi giao nhà cửa hết, rồi
tôi xuống ở chơi với con em tôi đây.
Cô Hai Phục trang điểm rồi, cô ở trong cái phòng một bên, cô
mở cửa bước ra. Quan Đốc Phủ thấy nhan sắc, tướng mạo của cô thì ngài chưng-hửng,
nên đứng dậy chào cô.
Ba Có nói với ngài rằng: “Bẩm quan lớn, con em tôi đó. Nó là
chủ nhà”. Chị ta day lại nói với cô Hai Phục rằng:
“Quan lớn là Quan Đốc Phủ mới mua cái nhà ở dựa bên mình đó”.
Cô Hai Phục cúi đầu chào Quan Đốc Phủ rồi ngồi cái ghế gần một bên ngài đó, mùi
dầu thơm bay ngạt ngào.
Thằng bồi bưng một mâm trà lên để trên bàn. Ba Có lấy bình
trà mà rót ba tách. Cô Hai Phục bưng một tách mà mời Quan Đốc Phủ, tay bưng dịu-nhiễu,
miệng cười hữu duyên.
Quan Đốc Phủ đắc ý, nên chúm chím cười mà nói rằng: “Tôi mua
nhà về ở chỗ nầy coi bộ êm ái lại vui. Tôi chịu ở chỗ như vầy, chớ ở chỗ đông đảo
lộn xộn quá”.
Cô Hai Phục cũng cười mà đáp rằng:
- Bẩm quan lớn. Ở chỗ nầy tốt lắm. Em ở đây hơn bốn năm rồi,
không có việc chi hết. Quan lớn hưu trí về ở mấy chỗ nầy thì phải rồi. Em chắc
bà lớn thấy chỗ nầy bà lớn muốn nên bà lớn mới đốc quan lớn mua chớ gì.
- Không. Bà bầy trẻ đã mất năm sáu năm nay rồi, còn đâu mà đốc.
- Té ra bà lớn mất rồi sao? Vậy thì quan lớn mua cái nhà rộng
mênh-mông rồi ở sao hết.
- Tôi ở với mấy đứa con tôi.
- Quan lớn được mấy cô mấy cậu?
- Sáu đứa, 3 trai 3 gái.
- Quan lớn có phước quá, đã giàu sang mà lại giàu con cháu
đông nữa. Quan lớn năm nay được mấy mươi tuổi?
- Tôi được 57.
- Tới 57 tuổi mà quan lớn coi còn mạnh quá. Tôi tưởng đâu
quan lớn chừng 45 tuổi, tóc có bạc chút đỉnh, mà răng con y nguyên.
- Phải. Răng tôi còn cứng lắm, ăn mía cũng được nữa.
Quan Đốc Phủ ngó quanh quất, thấy mấy cây đờn treo trên vách
bèn nói rằng: “Nhà coi phong lưu quá, có sắm đờn nữa chớ”.
Ba Có nói rằng: “Bẩm quan lớn, con em tôi nó sắm đặng khi nào
nó buồn nó đờn chơi giải khuây”.
Quan Đốc Phủ ngó cô Hai Phục trân-trân mà hỏi rằng:
- Chà ! Cô biết đờn nữa sao?
- Dạ, em biết cọt-quẹt ít bản.
- Phong lưu quá!
Quan Đốc Phủ cứ ngồi nói chuyện chơi, uống tới 3 lần nước rồi
mới từ mà về. Chị em Ba Có đưa ngài ra tới cửa ngõ.
Ba Có hỏi rằng:
- Bẩm quan lớn, chừng nào quan lớn mới dọn về nhà mà ở?
- Để nó sửa xong rồi tôi dọn. Có lẽ chừng vài tuần nữa nó sửa
rồi, sửa ít đỉnh rồi sơn phết nước vôi, chớ không có sửa chi lắm.
- Còn bây giờ quan lớn ở đâu?
- Tôi ở đỡ với thằng con tôi, dưới đường Testard.
Quan Đốc Phủ về, hai chị em Ba Có trở vô sân. Ba Có hỏi cô
Hai Phục rằng: “Em muốn làm bà lớn hôn?”
Cô Hai Phục chúm-chím cười mà đáp rắng: “Ổng đáng cha em, coi
kỳ quá”.
CHƯƠNG 12 - NHÚM BẾP LỬA TÌNH
L
ối 4 giờ rưỡi chiều. Mặt trời hiu-hiu, gió đàn phay-pháy. Bên
đường mấy chậu cau vàng quặt qua quặt lại, ngó lâu có cái vẻ yểu điệu mà lại
thanh tao. Ngoài đường xe chạy lăng xăng, trông ra chốn kinh-thành người ta trục
lợi tranh danh thiệt là náo nhiệt.
Ba Có lấy xe-hơi đi Cholon từ hồi 2 giờ trưa tới bây giờ mà
chưa về. Cô Hai Phục ở nhà một mình cô buồn, nên cô đứng dựa cửa mà ngó ra sân.
Khi trời mát mẻ, hoa-thảo tốt tươi, cô nhìn hoa một hồi lâu rồi cô sanh cảm
tình-chứa chan trong lòng, cô bèn kéo cái ghế xích-đu đem để trước hàng ba, rồi
cô lấy một cây đàn kìm ra nằm tại cái ghế ấy lên dây đờn rao chơi. Cô mặc bộ đồ
mát bằng lụa màu xanh da trời, bâu áo, lai tay và lai quần đều có viền màu bông
hường.
Gió thổi hiu-hiu, tiếng đờn rỉ-rả, mái tóc dã-dượi, gò má ửng
hồng, nhà đạo đức nếu gặp cái cảnh nầy chắc cũng khó dằn ngọn sóng tình dồn dặp.
Cô Hai rao chơi một hồi rồi cô cảm hứng, nên cô bắt đờn bàn Văn-Thiên-Tường, tiếng
đờn cao thấp như khóc như than, miệng cô lại ca, tiếng ca phù trầm như chim
kêu, như nước chảy. Cô đờn ca dứt bài rồi, bỗng có tiếng nói ở trên đầu cô rằng:
“Hay lắm! Hay lắm! Phong lưu kiệt! Cô Hai đờn ca tuyệt diệu, mà hôm trước cô
khiêm nhường, cô nói cô biết cọt quẹt chớ”.
Cô Hai giựt mình; cô ngồi dậy day lại thấy Quan Đốc Phủ Thần,
thì cô thẹn-thùa về cách cô ăn mặc lả lơi, mà cũng thẹn-thùa về sự cô vô ý
không hay người ta lén nghe cô đờn ca. Cô lật đật cúi đầu chào Quan Đốc Phủ rằng:
“Bẩm quan lớn, xin quan lớn tha lỗi cho em. Quan lớn qua chơi mà em không hay đặng
nghinh tiếp”.
Quan Đốc Phủ cười mà đáp rằng:
- Không, cô có lỗi chi đâu mà phải ái-ngại. Tôi không xin
phép cô, mà tôi vô nhầu trong nhà cô bắt lỗi tôi mới phải chớ.
- Bẩm quan lớn, em đâu dám. Bẩm quan lớn, em xin mời quan lớn
vô nhà.
- Không, không. Ở đây chơi thú vị hơn, vô nhà làm chi. Tôi đứng
ở bên rào coi chỉ cho trẻ ở trồng bông tôi nghe văng vẳng có tiếng đờn ca bên nầy,
nên lén bước qua coi ai chơi phong lưu đến thế nhỉ. Tôi thấy cô, tôi bèn núp
phía sau lưng đặng lén mà hưởng trọn cái thú phong-lưu ấy một lát. Xin cô tha lỗi
cho tôi.
- Bẩm quan lớn, em đâu dám bắt lỗi quan lớn. Xin mời quan lớn
vô nhà, chớ ở ngoài hàng ba vậy sao phải.
- Không. Ở ngoài nầy mát. Cô cho tôi mượn một cái ghế ngồi
đây cũng được mà, ngồi nghe cô đờn ca chơi.
Cô Hai bước vô bưng một cái ghế đem ra, Quan Đốc Phủ rước lấy
rồi để đối diện với cái ghế xích-đu mà ngồi. Cô Hai Phục cười mà nói rằng:
- Xin phép quan lớn cho em vô mặc một cái áo dài, chớ em mặc
đồ như vầy mà tiếp khách thì vô lễ quá.
- Mình là bạn lân cận với nhau, chớ khách khứa gì mà lễ-phép.
Tôi cũng bận đồ mát đây vậy. Tôi muốn cô bận đồ như vậy đó, chớ cô thủ lễ quá
thì mất vui.
- Quan lớn cho phép em mới dám.
- Tôi cho phép. Cô cứ nằm cái ghế xích-đu như hồi nãy vậy, nằm
rồi đờn và ca nhỏ nhỏ đủ cho tôi với cô nghe mà thôi, nghe đờn ca như vậy mới
có thú vị.
- Bẩm quan lớn, có quan lớn ngồi đó, em sợ, em đờn ca lỗi nhịp
hết.
- Tại sao vậy?
- Vì quan lớn có oai, làm cho em khớp nên khó ca lắm.
- Đừng sợ gì hết. Cô coi như không có tôi vậy mà. Cô cứ
thong-thả ca như hồi nãy đi.
- Bẩm quan lớn, để em biểu bồi lấy rượu la-ve cho quan lớn uống
giải khát.
- Được. Mà ở nhà có sẵn rượu hay không?
- Bẩm, có sẵn.
Cô Hai bước vô trong nhấn chuông. Người bồi chạy lên. Cô biểu
đi lấy nước đá rồi đem la-ve ra đãi khách.
Quan Đốc Phủ kêu cô Hai mà hỏi:
- Còn chị của cô đi đâu vắng?
- Bẩm, chị Ba em đi vô trong Chợ-Lớn.
- Chị ruột của cô, hay là chị em sao đó?
- Bẩm, chị bạn dì.
- À! Có vậy chăng, chớ cô thứ Hai, còn chị của cô thứ Ba, thì
trái cựa quá.
- Bẩm, quan lớn dọn nhà xong rồi hết.
- Bẩm, nhà quan lớn em thấy mấy cô mấy cậu đông, coi vui quá.
Bên nầy em có hai chị em nên vắng oe.
- Hai đứa con gái lớn của tôi có chồng rồi nó ở riêng chớ hồi
trước còn đông hơn nữa. Bây giờ tôi ở có hai vợ chồng thằng con trai lớn của
tôi, hai đứa con trai giữa còn đi học, với đứa con gái út, không đông gì lắm.
Cô nằm trên ghế xích đu đó đi, nằm đờn ca nghe chơi mà.
Cô Hai vưng lời. Cô ngồi dựa trên ghế xích đu, tay ôm cây đờn,
lên dây rồi rao chơi. Cô ngâm nhỏ-nhỏ, tiếng ngâm lảnh-lót, tiếng đờn trong ngần,
quan lớn ngồi nghe những câu tình tứ sâu-xa, ngồi ngó mấy ngó tay nhấn đờn dịu
nhiễu thì ngài như say như mê, tưởng tượng như đang ở trong chốn động đào tiên
cảnh.
Người bồi bưng một cái bàn nhỏ ra để trước mặt quan lớn, rồi
lại bưng ra một mâm, trong mâm có một chai rượu la-ve với 2 cái ly, mỗi ly đều
có một cục nước đá. Bồi mở rượu la ve rồi, cô Hai buông cây đờn, cô đứng dậy lấy
chai rượu mà rót vào hai ly. Bồi rút lén mà đi mất. Cô Hai bưng một ly rượu mà
mời quan lớn, mắc liếc, miệng cười, tiếng mời hữu tình mà lại hữu duyên.
Quan lớn đưa tay rước ly rượu, trong lòng hân hoan, mà cô Hai
cụng ly rồi ngài mới uống.
Hơi rượu nồng nàn, hai gò má của cô Hai ửng đỏ, dung nhan coi
càng đẹp bội phần.
Quan lớn thêm cảm hứng, nài cô phải đờn ca nữa. Có hơi rượu,
cô hai hết ái ngại nữa. Cô bưng một cây đờn tranh ra để trên bàn, kéo ghế lại
xít gần, rồi cô lên dây oán mà đờn một bài, và đờn và ca. Quan lớn ngồi nghe đờn
mà uống rượu và ngó cô Hai. Gió thổi mái tóc phất phơ trên mặt áo lụa bó sát
trong mình, làm cho quan lớn thấy ngài điên đảo tinh-thần, ngẩn-ngơ lòng dạ.
Cô đờn dứt bài rồi, cô đứng dậy ngó quan lớn mà cười, và rót
rượu thêm cho ngài uống. Cô nói: “Em lỗi quá, em quên lấy thuốc mà đãi quan lớn
chớ. Để em vô buồng lấy thuốc ăng lê cho quan lớn hút”. Cô nói dứt lời thì cô bỏ
đi vô nhà. Quan lớn đứng dậy đi theo cô. Cô đi thẳng vô buồng. Quan lớn đứng tại
cửa buồng mà ngó. Ấy là cái phòng riêng của cô Hai ngủ, giường đồng chùi sáng
ngời, niệm(#1) gòn dầy 2 tấc, mùng và drap đều trắng nõn, bàn rửa mặt đựng đủ
thứ dầu thơm, có tủ kiếng lớn để soi đủ mình, có divan cẩm lai để nằm coi sách.
Quan lớn nói rằng: “Phòng ngủ đẹp quá, mà chồng bỏ đi về Tàu, để ngủ có một
mình chớ”.
Cô Hai day lại ngó quan lớn mà cười. Quan lớn men-men bước
vô, tay vuốt râu, miệng cười ngỏn-ngoẻn. Cô đứng ngay cái kiếng lớn, tay vuốt
mái tóc mà nói rằng: “Trời ơi! tôi uống rượu mặt đỏ ngòm chớ. Chắc em say rồi à
quan lớn”.
Quan lớn đứng một bên cô mà ngó vô kiếng, hai người nhìn nhau
rồi cười hết.
Cô bước lại cái bàn nhỏ lấy hộp thuốc ăng-lê với cái hộp quẹt
mà mời quan lớn hút thuốc. Quan lớn và lấy điếu thuốc và kề mặt gần cô mà nói
nhỏ nhỏ rằng : “Để bữa nào tôi với cô đi Long Hải chơi nghe hôn cô Hai?”
Cô nghiêm sắc mặt và ngó quan lớn mà đáp rằng:
- Bẩm quan lớn em đi sao được.
- Sao vậy?
- Bẩm, quan lớn thì goá vợ, còn em là đàn bà, em đi chơi với
quan lớn như vậy, em sợ thiên hạ họ đàm tiếu.
- Mình đi lén, ai biết được mà đàm tiếu. Tôi mướn một cái xe
hơi cho lại đây rước cô trước rồi vô Bà-Chiểu rước tôi, làm như vậy thì người
nhà biết sao được.
- Bẩm quan lớn, việc gì cũng vậy, hễ mình giấu chừng nào, họ
càng hay chừng nấy, giấu sao được. Mà Chị Ba em đời nào chỉ cho em đi một mình.
- Cô Ba khó lắm hay sao?
- Bẩm, không phải khó, song chỉ không chịu cho em đi chơi bậy
bạ.
- Đi chơi với tôi mà bậy bạ giống gì.
Cô Hai ngó quan lớn rất hữu tình và cười và nói rằng: “Nếu
quan lớn muốn em đi chơi với quan lớn, thì quan lớn nói với chị ba em; chỉ cho
thì em mới dám”. Quan lớn gặc đầu nói rằng: “Để bữa nào rồi tôi sẽ nói với chị
Ba”.
Hai người nói chuyện tới đó kế nghe có tiếng xe hơi chạy vô
sân. Cô Hai lính-quýnh và bước ra và nói rằng: “Chị Ba em về”. Quan lớn cũng
theo mà đi ra.
Thiệt quả Ba Có đương mở cửa xe leo xuống. Cô bước lên thềm,
ngó thấy Quan Đốc Phủ thì hớn-hở cúi đầu chào ngài và hỏi cô Hai rằng: “Quan lớn
qua chơi, mà không có tôi ở nhà. Con Hai, em có biểu nấu nước lấy thuốc mà đãi
quan lớn hay không? Mời quan lớn ngồi chơi. Tối rồi sao bồi đâu mất, nó không vặn
đèn vậy kìa.
Quan lớn nói rằng:
- Từ hồi chiều đến giờ tôi ngồi ngoài chơi mát quá.
- Con em của tôi nó khờ lắm. Quan lớn qua chơi, mà nó không mời
vô salon, nó để ngồi ngoài hàng ba chớ.
- Không. Cô Hai có mời, song tại tôi muốn ngồi ngoài chớ. Dễ
hôn! Cô Hai trọng tôi lắm, cô đãi rượu la ve, lại đờn ca cho tôi nghe nữa chớ.
- Thuở nay quan lớn từng nghe những cô ca nhi đại danh trong
lục tỉnh; con Hai ca bậy bạ mà nó cũng dám ca cho quan lớn nghe nữa chớ, con có
gan thiệt.
- Không. Cô Hai đờn và ca hay tuyệt diệu mà, chưa chắc bọn ca
nhi hay hơn cô đâu. Cô ca tôi nghe tôi mê quá.
- Bẩm, quan lớn thấy nó em út quan lớn thương, nên quan lớn
khen vị tình, chớ nó ca sao bằng người ta được.
- Phãi, thương thì có, còn khen thì khen thiệt, chớ không phải
vị tình đâu. Thôi, tối rồi. Để tôi về để bày trẻ nhỏ ở nhà nó chờ ăn cơm. Bữa
nào rảnh hai cô qua nhà tôi chơi.
- Dạ, nếu quan lớn cho phép thì chị em tôi mới dám.
- Gần gũi với nhau, qua lại chơi, phép tắc gì! Người ta bà
con xa không bằng xóm láng diềng gần. Biết nhau thì cũng như bà con, hai cô đừng
ái-ngại chi hết.
Hai cô đưa quan Đốc Phủ ra tới cửa ngõ rồi từ giã nhau.
Khi trở vô nhà Ba Có hỏi nhỏ nhỏ rằng:
- Em mời ông hay là khi không ổng qua?
- Em buồn em nằm ghế xích đu ngoài hàng ba đờn chơi. Ổng nghe
rồi qua, chớ ai mà mời.
- Em coi ý ổng thể nào?
- Trừu chúa!
-Ổng có chọc em hay sao?
- Trời ơi! Ổng già mà ổng đảo nhãn thất kinh. Em đờn ca nhỏ
nhỏ cho ổng nghe, coi bộ ổng mê mết. Em vô buồng lấy thuốc đãi ổng, ổng lết vô
tới trong buồng em. Ổng lại rủ em đi Long Hải với ổng nữa chớ.
- Bắt mồi rồi a. Ổng có cọ quẹt em hay không?
- Hổng có, song em đứng ổng có theo đứng một bên em, nói chuyện
ổng hay kề miệng sát một bên mặt em.
- Được rồi. Còn ổng rủ em đi Long Hải, em trả lời làm sao?
- Em từ chối, em nói không dám, bởi vì chị gắt lắm. Em nói với
ổng nếu muốn mời em đi chơi thì phải nói với chị chừng nào chị cho phép thì em
mới dám.
- Được lắm. Qua đoán chắc trong vài tháng nữa em sẻ làm “Bà lớn
Đốc Phủ” cho mà coi.
- Em nghĩ khó lắm chị.
- Sao mà khó? Ổng goá vợ, em không chồng, nếu ổng thương thì
dắt nhau đi xã Tây làm hôn thú, có khó gì đâu mà khó?
- Làm hôn-thú kình-rình quá, ông đương chịu a.
- Không chịu thì thôi, chớ quan lớn mà núp lén, còn bà lớn mà
không giấy tờ, thì coi sao được. Em để đó cho qua lo.
- Ổng có con đông quá; ổng nói ổng có hai người con gái lớn
có chồng với một người con trai lớn có vợ rồi. Tuổi em đáng con ổng. Em sợ mấy
người con ổng không chịu đâu.
- Con ổng chịu hay là không chịu cũng không hại gì. Ổng cưới
vợ cho ổng chớ phải cưới vợ cho con ổng đâu, nên con ổng bắt bẻ. Ổng mà kể tới
gia đạo của ổng cho em nghe thì ổng đã có ý gì đó rồi. Em để cho chị điều đình
đó.
- Sợ buộc ổng cưới ổng không chịu chớ.
- Chị nuôi em, chị dạy em, hy vọng của chị là mong nưng đỡ em
lên một địa vị cao sang giàu có. Mấy năm nay tuy em có tiền bạc nhiều, tuy em
được đứng vào hàng thượng lưu, ngày nào em hết tiền thì họ xô em xuống hàng hạ
lưu như cũ, không có chi bền vững. Quan Đốc Phủ nầy là một quan đốc phủ thiệt
thọ, chớ không phải Đốc Phủ Hàm. Theo trong xứ mình bây giờ đây ổng là một người
có cái địa vị sang trọng tột bực, dầu hưu trí cũng không mất cái địa vị ấy. Ổng
đã sang, mà coi thế ổng cũng giàu nữa, không giàu mà sao dám mua chỗ ở tới 11
ngàn. Ổng dám mua như vậy tức thì trong nhà ổng có năm ba chục ngàn. Ấy vậy ổng
là một người giàu sang tột bực. Em phải làm vợ ổng cho được, thì cái mục đích của
chị mới đạt được, cái hy vọng của chị mới hoàn toàn. Đường xa 10 phần chị em
mình đi đã được 9 phần rồi, còn có một phần nữa em phải ráng. Em phải nghe lời
chị; từ rày sắp lên hễ gặp mặt ổng thì em phải vui vẻ, bãi-buôi trêu ghẹo cũng
như em nhen nhúm bếp lửa tình trong lòng ổng. Song em phải dè dặt, đừng cho ngọn
lửa ấy táp em. Tánh đàn ông hễ không được thì ham, mà được rồi hay chán. Vậy phải
để cho người ta ham, chớ đừng làm cho người ta chán. Em cứ giữ cái thái độ
“nhem thèm” rồi để mặc qua bẻ lái sửa lèo cho chiếc thuyền dung rủi.
- Em sẽ vưng lời chị. Mà em còn ngại một đều(#2), là em sợ cậu
Hai Hùng cậu tới đây trèo bẹo quá.
- Em cứ nhắc thằng đó hoài. Em muốn làm bà Đốc Phủ Thần hay
là muốn làm mợ hai Hùng?
Cô Hai bị trách thì cô chau mày, kế bồi mời đi ăn cơm.
Chiều bữa sau Ba Có với cô Hai Phục trang điểm theo người
sang trọng, cô Hai mặc y phục không loè loẹt, song đồ thiệt đẹp và mắc tiền, cô
đeo hột xoàn nhiều, cô dồi phấn khéo, rồi chị em dắt nhau qua thăm Quan Đốc Phủ
Thần mà đáp lễ.
Quan lớn mừng rỡ tiếp rước rất hậu. Ngài kêu con dâu lớn với
con gái nhỏ ra mà trình diện với khách. Chị em Ba Có làm quen với hai cô, dùng
lời thành thật mà đàm luận, chỉ lối khôn dại đặng mua đồ khỏi lầm, lại mời hai
cô lúc nào rảnh thì qua lại chơi. Hai chị em thăm chơi trót giờ rồi mới từ mà về.
Cách vài bữa sau, dâu con của Quan Đốc Phủ qua nhà cô Hai
thăm lại mà trả lễ, người con gái nhỏ của Quan Đốc Phủ tên là Cẩm Trâm, mới 14
tuổi, coi bộ quyến luyến cô Hai Phục lắm.
Từ ấy về sau Cẩm Trâm hay qua chơi với cô Hai Phục. Có bữa cô
Hai xúi về xin phép với Quan Đốc Phủ, đặng đi xe hơi với cô mà hứng mát. Cô dắt
xuống nhà hàng, khi cô mua bòn-bon cho ăn, khi cô mua khăn cho đội, rồi cô lại
dắt vô thăm ông Phủ Tăng, cho làm quen với cô Liên Hoa nữa.
Vợ chồng ông Phủ Tăng thấy cô Hai Phục quen biết bực Đốc-Phủ,
thì càng kiêng nể hơn nữa. Mà Quan Đốc Phủ Thần nghe con về học lại rằng cô Hai
Phục có chú ruột làm Phủ Hàm, thì ngài càng trọng cô thêm.
Chú thích:
(1-) nệm
(2-) điều
CHƯƠNG 13 - CÁ MÊ MỒI
M
ột buổi chiều thứ bảy. Cô Hai Phục ngồi xe hơi đi một vòng hứng
mát, đến tối cô ghé Chợ Bến Thành mua một gói trái cây đem về để tối ăn chơi. Về
đến nhà cô hối bếp dọn cơm, rồi cô ngồi ăn với Ba Có, không kịp thay đồ. Ăn cơm
vừa rồi, chị em đương ngồi tại salon mà uống nước, thì thấy Quan Đốc Phủ, bận đồ
mát, ở ngoài sân thủng-thẳng đi vô. Hai chị em tiếp rước niềm nỡ, mời ngồi lăng
xăng.
Quan Đốc Phủ cười và nói rằng: “Thằng Ba tôi nhờ mai chúa nhựt,
không có làm việc, nên hồi chiều nó dắt vợ con về Mỹ Tho mà thăm ông già vợ nó.
Tôi ở nhà với ba đứa nhỏ buồn quá, nên qua đây nói chuyện chơi."
Ba Có đáp rằng: “Bẩm quan lớn có buồn thì qua bên nầy chơi.
Chị em tôi có ở nhà luôn luôn, ít đi đâu lắm”.
Cô Hai kêu bồi biểu súc bình, để trà mới mà chế nước uống, rổi
cô rón (#1) vô buồng trang điểm lại đặng dung nhan coi cho tươi tắn. Chừng cô trở
ra, thì bồi cũng vừa bưng mâm trà lên, nên cô rót nước mời khách uống.
Quan lớn ngồi giữa. Ba Có với cô Hai Phục ngồi hai bên phía
ngoài. Quan lớn uống nước mà nói rằng: “Ở Saigon buồn quá, không có chỗ nào
chơi cho nó thú vị phong lưu”.
Ba Có cười mà đáp rằng:
- Bẩm, tại ý quan lớn không muốn chơi, chớ ở saigon thiếu gì
cuộc vui.
- Cuộc gì vui ở đâu?
- Bẩm, đi coi hát.
- Tôi không thích thứ đó. Hát bội thì nó vẽ mặt vẽ mày như
chúa ô, nó la lạc giọng, nó quất roi vô chưn nó mà nó kêu là cỡi ngựa, coi kỳ cục
hết sức. Còn hát cải lương thì nó ca hoài, ông vua ngồi phán đoán cũng ca, thằng
tướng ra đánh giặc cũng ca, mà ông già bị cháy nhà cũng ca coi càng dị kỳ hơn nữa.
- Bẩm, nếu quan lớn không thích xem hai thứ đó thôi thì đi
xem hát bóng.
- Tôi đi coi hát bóng, ngó một hồi thì chảy nước mắt, nên khó
chịu lắm.
- Bẩm, nếu quan lớn không ưa hát xướng, thôi thì tới nhà mấy
ông mấy thầy đàm luận việc đời chơi.
- Trời ơi! Cô khéo xúi dữ hôn! Tôi đàm luận với mấy ông mấy
thầy trên 30 năm, tôi đã thèm rồi. Cô tưởng mấy ông mấy thầy đàm luận vui lắm
hay sao?
- Bẩm, mấy quan lớn là bực cao minh, tự nhiên tính những việc
ích nước lợi dân, dạy kẻ ngu, răn đứa dữ, dầu nghe không vui cũng có ích lắm chớ.
- Cô lầm rồi. Ý cô tưởng đó, là tưởng theo cái lý. Làm quan
phải tính ích nước dạy dân. Mà sách nói như vậy, chớ làm không phải vậy đâu.
Tôi ở quan trường mới bước ra đây, tôi hiểu rõ hơn cô. Mấy ông bạn của tôi hễ gặp
nhau, thì đàm luận dữ lắm, song ông thì luận ông Chánh nầy hiền ông Chánh kia dữ,
ông thì luận người thăng chức mau, kẻ thăng chức chậm, ông thì luận tỉnh nầy tốt,
tỉnh kia xấu. Còn mấy ông trẻ tuổi, thì lại có cách đàm luận khác, ông thì luận
các kiểu xe hơi coi hiệu nào tốt, ông thì luận mấy tiệm may y phục coi tiệm nào
may khéo, ông thì luận mấy cô chơi bời coi cô nào đẹp trên hết. Tôi cũng luận với
họ ba mươi mấy năm nay đã nhàm tai mỏi miệng bây giờ tôi thoát khỏi được rồi,
cô ghét tôi lắm hay sao, nên còn muốn kéo tôi vô đó nữa?
- Quan lớn buồn mà quan lớn không ưa coi hát, lại cũng không
chịu đàm luận với mấy ông mấy thầy, thì tôi biết làm sao cho quan lớn vui được.
À! Tôi còn một cách nầy nữa. Quan lớn hưu trí nên rảnh-rang, thôi thì quan lớn
dạy mấy cô mấy cậu học, có lẽ giải buồn được.
- Được đâu. Con của mình hễ nó học chữ thì có thầy, còn về
tánh nết và cách ở đời, thì đứa nào có phần nấy, chắc gì mình phải dạy nó mới
nên.
Cô Hai Phục chen vô nói rằng: “Bẩm quan lớn nói phải lắm. Chú
Phủ của em trong Cầu Kho thường cũng nói như quan lớn vậy. Chú nói con của mình
hễ đứa nào nên thì nên còn đứa hư thì nó hư, chớ khó mà dạy được”.
Quan lớn ngó cô Hai Phục mà hỏi rằng:
- À, hôm kia con Cẩm Trâm nó nói cô dắt nó vô nhà chú của cô,
là quan Phủ trong Cầu kho mà chơi, quan phủ nào đó vậy?
- Bẩm, quan Phủ Hàm Phạm Gia Tăng.
- Ờ, tôi có nghe tên ổng, song không quen.
- Chú bà con làm sao với cô vậy?
- Bẩm, chú ruột. Em ruột của ông thân em.
- À, vậy hả? À khi nào quan phủ có ra đây chơi thăm cô, thì
xin cô cho tôi hay đặng tôi mời qua nhà tôi chơi.
Cô Hai Phục nghe mấy lời thì liếc mắc ngó quan lớn mà cười và
nói rằng: “Hồi nãy quan lớn nói quan lớn không muốn nói chuyện với mấy ông lớn
nữa mà”.
Quan lớn cũng cười và nói rằng:
- Phải, tôi không muốn nói chuyện với mấy ông khác, song chú
của cô chắc là nói chuyện vui cũng như cô vậy.
- Bẩm, em nói chuyện vui lắm hay sao?
- Nếu không vui thì tôi có qua đây đâu.
- Bẩm, em nói chuyện vui hay không thiệt em không biết, chớ
chú của em chắc nói chuyện là không vui, bởi vì chú hút quá, nói nhựa trân.
- Mấy ông hút họ nói chuyện nghe hay lắm chớ.
- Quan lớn biết hút hay không?
- Hút á phiện mà ai lại không biết.
- Quan lớn muốn giải buồn, thôi để em bày mâm cho quan lớn
hút.
- Cô có đồ hút hay sao?
- Bẩm, có. Chồng của em hồi trước có sắm một bộ đồ tốt lắm, để
khách hút chơi.
- Được. Tôi hút thì cô phải đờn ca nhỏ nhỏ như bữa hổm nghe
chút chơi.
- Bẩm, quan lớn dạy thì em phải vưng, chớ em đâu dám cãi.
Quan lớn mở bóp phơi lấy ra một tấm giấy bạc 5$00 đưa cho cô
Hai mượn biểu bồi đi mua một hộp thuốc phiện với một chai rượu sâm-banh. Cô Hai
cản tay mà nói rằng: “Bẩm, không phải vậy. Quan lớn qua nhà em mà chơi, quan lớn
là khách, em phải đãi quan lớn, có lẽ nào em dám để quan lớn trả tiền. Trong
nhà em có sẵn rượu sâm banh lại cũng có thuốc á phiện nữa, khỏi mua”.
Ba Có liền mở tủ lấy ra một chai rượu sâm banh lớn với một hợp
á phiện nhỏ. Cô Hai ngắm nghía, nói ở ngoài có gió, bèn kêu bồi biểu lau chùi
cái divan trong phòng ngủ, rồi bày mâm á phiện ra đó với mâm rượu sâm-banh. Ba
Có mời quan lớn vô phòng. Quan lớn đắc ý, nên nghe mời thì đi liền, không dục-dặc
chút nào hết.
Mâm hút để giữa, quan lớn ngồi một bên. Cô Hai leo lên ngồi
bên kia và quẹt lửa đốt đèn. Ba Có biểu bồi nhắc một cái bàn nhỏ lại mà để mâm
rượu rồi đập nước đá bỏ vô ly.
Quan lớn ngồi ngó cùng trong phòng. Ngọn đèn khí treo giữa
phòng có ống bao bằng nhựa màu xanh, nên yến sáng dọi xanh-xanh rất khoẻ mắt. Cảnh
đã đẹp mà người ngồi một bên cũng đẹp, trong lòng quan lớn lúc ấy thơ-thới như
ngồi trong tiên động.
Rượu rót rồi, Ba Có ngồi cái ghế phô-tơi dựa mâm rượu và nhắc
cô Hai mời quan lớn. Cô Hai đi rửa tay rồi lại bưng một ly rượu mà mời. Quan lớn
ngồi uống rượu mà ngó hoa khôi sắc đẹp, thì quên hết cái việc ở phàm trần, quên
hết lối lợi danh, quên hết đường vinh nhục.
Rượu đã ngà ngà, quan lớn nằm xuống làm thuốc hút, cô Hai lấy
cây đờn tranh và cô ngồi ngang đó, cô và đờn và ca rỉ-rả, như khêu ân ái, như
ghẹo chung tình. Thuở nay quan lớn cũng từng say hoa đắm nguỵêt, nhưng mà ngài
chưa bao giờ được hưởng cái thú thâm-trầm tao nhã đến thế nầy, bởi vậy ngài mê mẩn
bàng-hoàng, trong lòng chứa chan cảm xúc.
Cô Hai đờn ca dứt một bài.
Quan lớn nói rằng: “Thuở nay tôi ít nghe đờn ca. Chẳng hiểu tại
sao mà cô Hai đờn ca tôi lại khoan-khoái lung quá, chắc cô ca tối ngày sáng đêm
tôi nghe tôi cũng không nhàm. Nầy, mà tôi tưởng mình leo lên triền núi ngồi dưới
mấy gốc cây, hoặc mình ra ngoài mé biển ngó mặt nước chơn trời, mà có được cô
Hai ngồi một bên đờn ca, thì càng có thú vị nhiều hơn nữa. Tôi muốn mời cô Hai
bữa nào đi với tôi ra Long-Hải đặng thưởng trăng thưởng gió, ngó nước ngó trời
chơi, không biết Cô Ba có vui lòng cho phép cô Hai đi với tôi hay không vậy cô
Ba?”
Ba Có liếc cô Hai rồi cười mà đáp với quan Đốc Phủ rằng:
- Bẩm quan lớn, quan lớn dạy thế nào thì tôi cũng phải vưng,
chớ tôi đâu dám trái ý quan lớn. Ngặt vì việc quan lớn muốn đó có nhiều chỗ bất
tiện, nên khó cho tôi vưng lời được, xin quan lớn thương.
- Đi chơi mà có chi bất tiện đâu?
- Bẩm quan lớn, tuy là đi chơi, song phải cũng có chỗ phải chỗ
quấy, con Hai mà được quan lớn mời đi chơi thì nó vinh dự biết chừng nào. Ngặt
vì nó là gái đã có chồng, nó đi chơi với quan lớn, sau chồng nó hay được thì
còn gì phận nó.
- Chồng của cô Hai về Tàu mà sao hay được?
- Bẩm quan lớn, theo phong-hoá của mình, làm thân đờn bà dầu
chồng chết cũng phải thủ-tiết với chồng, huống chi là chồng vắng mặt.
- Vợ chồng cô Hai có hôn thú hôn?
- Bẩm, không.
- Oái, vợ chồng mà không có hôn thú thì có nghĩa gì đâu.
- Bẩm quan lớn. Một ngày gá nghĩa, trăm năm tóc tơ, dầu có
hôn thú hay là không có, hễ kết nghĩa vợ chồng thì keo sơn gắn chặt, dầu ngàn
năm cũng không nên phai nhợt.
- Tôi có nghe ai nói hôm trước đó, chồng của cô Hai bị Toà
thương-mãi buộc tội sang đoạt, có trát tập nã, đời nào mà dám trở qua An nam nữa.
- Bẩm quan lớn, có thiệt như vậy. Mà dẫu Mái Chín Ngành không
trở qua An nam nữa, con Hai nó cũng phải thủ tiết trọn đời mà chờ, chớ biết làm
sao.
- Thứ chồng khách-trú, cần gì mà cô Hai phải thủ tiết quá vậy.
- Bẩm quan lớn, dầu nước nào cũng vậy, hễ mình kết tóc với
người ta, thì phải thủ tiết thủ nghĩa trọn đời, chớ lẽ nào mình dám thay lòng đổi
dạ.
- Cô giữ phong-hoá theo đời xưa quá!
- Bẩm quan lớn, cái quí của bọn chị em phụ nữ chúng tôi chỉ
có bao nhiêu đó mà thôi, nếu bọn chị em chúng tôi không gìn-giữ, thì có còn giống
gì nữa đâu.
- Cô buộc gắt quá, tôi chắc cô Hai cổ không vui lòng chút nào
hết. Phải vậy hay không cô Hai?
Cô Hai Phục liếc mắt ngó quan Đốc Phủ và cười và đáp rằng:
- Bẩm quan lớn, những lời chị Ba em mới nói đó là lời chánh
đáng. Phận đờn bà chỉ có trinh tiết là trọng, ai cũng phải giữ gìn trinh tiết,
Chị Ba em có buộc đều chi gắt đâu mà em không vui lòng.
- Té ra dầu chú Mái Chín không trở qua nữa, cô cũng ở vậy mà chờ,
cô không lấy chồng khác hay sao?
- Bẩm, dầu chồng em chết cũng vậy, chẳng luận là còn sống ở
bên Tàu.
- Cô năm nay mấy tuổi?
- Bẩm em 23 tuổi.
- Còn nhỏ quá, thủ tiết sao được ?
-Bẩm, dầu không được cũng phải làm cho được. Phận đờn bà nên
hay là hư đều tại cái “được” hay là cái “không được”đó mà thôi chớ.
- Dầu có người giàu sang trọng nói mà cưới cô đi nữa, cô cũng
thủ-tiết với chú Mái Chín, cô không ưng hay sao?
- Bẩm, có chi quí cho bằng tình nghĩa vợ chồng.
- Cô thương chú Mái Chín lắm hay sao?
- Bẩm quan lớn, nếu không thương thì làm sao mà kết nghĩa vợ
chồng.
- Thuở nay, thiệt tôi chưa thấy đờn bà nào mà có nghĩa có
tình với chồng như cô Hai vậy. Quí lắm, quí lắm.
- Bẩm quan lớn, để em ca một bài nam “Vọng-phu” cho quan lớn
nghe thử coi.
- Ờ, được, được. Cô ca đi.
Cô Hai Phục lên dây đờn rồi ca bài nam.
Quan Đốc Phủ nằm dựa mâm hút mà mắt ngài ngó tay nhấn dây đờn
dịu-nhiễu, ngó miệng ca rất có duyên, ngó mặt tròn-trịa mà sáng rỡ như trăng ằm,
ngó cặp mắt hữu tình, ngó chơn mày như vẽ, ngó nuớc da trong bóng, ngó mái tóc
đen huyền, ngó cổ, ngó mông, ngó tai, ngó ngực, ngó hết cả thảy mình, thì ngài
ngơ-ngẩn ngẩn-ngơ, nửa say nửa tỉnh. Ba Có thấy quan lớn mê mết thì chị ta chúm
chím cười, rồi đứng dậy bước ra ngoài.
Cô Hai ca dứt bài rồi ngó quan lớn mà cười. Quan lớn ngồi dậy
lắc đầu nói nhỏ rằng: “Cô Hai, cô làm người ta chết được, chớ không phải chơi
đâu, cô có biết hay không? Tôi lớn tuổi hơn cô nhiều, mà tôi nghe tiếng cô ca,
tôi ngó mặt cô, rồi dầu cô muốn tôi giết ai tôi cũng giết hết thảy”.
Cô Hai liếc quan lớn, rồi bưng ly rượu mời quan lớn uống và
nói rằng:
- Bẩm quan lớn, tại quan lớn dạy em ca, nên em mới dám ca cho
quan lớn nghe. Em có làm giống gì đâu mà quan lớn nói chuyện chết sống.
- Tôi muốn nói cái sắc, cái tài, của cô đó làm cho hết thảy
anh hùng đều chết được.
- Bẩm quan lớn, em có muốn làm chi vậy. Anh hùng chết hết, rồi
còn ai đâu mà nghe em ca.
Quan Đốc Phủ ngồi suy nghĩ một hồi rồi ngài mới nói rằng:
- Từ rày sắp lên tôi không dám qua đây nữa.
- Bẩm quan lớn, có đều chi phiền em hay sao?
- Không phải tôi phiền. Tôi sợ qua đây nữa, tôi thấy cô rồi
tôi dằn lòng không được, mà phải mang tội lỗi chớ.
- Bẩm, em đáng con cháu của quan lớn, dầu thế nào đi nữa em
đâu dám bắt lỗi quan lớn hay sao mà quan lớn ngại.
Quan Đốc Phủ nghe mấy lời như vậy, ngài ngó cô Hai mắt đổ hào
quang, ngài muốn vói nắm tay cô. Cô giựt tay và đứng dậy và nói nhỏ nhỏ rằng:
“Bẩm, có chị Ba của em đứng ngoài kia. Quan lớn nói chuyện chơi, chớ đừng làm
như vậy tội nghiệp em”.
Quan Đốc Phủ thất vọng mà lại hổ thầm, nên ngài thở dài và nằm
xuống làm thuốc mà hút. Ngài thấy Ba Có bước vô và ngài nói rằng:
- Tôi qua chơi mà vì mê đờn ca, mê sâm banh, mê á phiện, nên
rà gà ở khuya quá, chắc cô Ba phiền tôi lắm.
- Bẩm, tôi mừng lắm, chớ có lẽ nào tôi dám phiền.
- Nghe cô Hai đờn ca, dầu thức đến sáng mà nghe tôi cũng
không nhàm.
- Bẩm, quan lớn muốn chơi tới chừng nào cũng được, chị em tôi
vui lắm.....Con Hai, em kêu thằng bếp biểu gọt củ năng nấu ít chén chè cho quan
lớn ăn chơi.
Cô Hai bước ra. Đồng hồ gõ 12 giờ, Quan Đốc Phủ nói rằng:
- Cô ngồi lên đây nói chuyện chơi cô Ba. Tôi hỏi thiệt cô vậy
chớ cô Hai nhứt định không chịu cải giá hay sao?
- Bẩm, nó nhứt định như vậy đó.
- Tôi nghe chú Mái Chín trốn về Tàu, có dám trở qua nữa đâu
mà chờ. Cô Hai còn nhỏ, phải kiếm nơi khác gá nghĩa đặng có người bảo bọc cho
chớ.
- Bẩm quan lớn nói phải lắm. Nó còn nhỏ tuổi quá, ở một mình
có phải dễ gì đâu. Ngặt vì Mái Chín Ngánh ở tử tế với nó lắm, nên nó không nỡ
phụ bạc. Quan lớn nghĩ đó mà coi, phận nó mồ côi, hồi nhỏ không có một đồng một
chữ. Tuy chú nó làm quan, song nó không nhờ nhõi chi được. Nó đụng Mái Chín
Ngánh mấy năm, chú Mái Chín Ngánh sắm nhà cửa cho nó, sắm xe hơi, mua hột xoàn,
lại còn cho nó năm bảy ngàn làm vốn. Chú ở với nó như vậy đó, làm sao mà nó
quên chú cho được.
- Tại chú bỏ cô Hai, thì cô lấy chồng khác, chớ phải chú còn ở
đây đâu mà cô bỏ chú cô lấy chồng hay sao mà cô ngại.
- Dầu chồng nào cũng không yêu nó cho bằng Mái Chín Ngánh.
- Cô nói chơi sao chớ! Cô khi An nam không bằng khách trú hay
sao?
- Bẩm, tôi đâu dám khinh khi ai. Song khi quan lớn nghĩ lại
đi, như nó vậy đó, có An nam nào dám xuất bạc muôn mà cưới nó như Mái Chín
Ngánh hồi trước.
- Phải. Xuất bạc muôn mà cưới, tuy không phải nhiều, song có
người không đủ sức, nên không cưới nổi. Mà đòi bạc muôn làm chi? Miễn là mình lựa
người nào có danh giá cao đủ sức bảo bọc nuôi dưỡng mình sung-sướng trọn đời
thì đủ rồi. Nhơn nghĩa mới quí, chớ bạc tiền là phấn thổ, có nghĩa gì đâu.
- Bẩm, quan lớn nói phải lắm. Tôi nói ví dụ cho quan lớn
nghe, chớ không phải con Hai đòi cưới bạc muôn nó mới ưng. Nó là đứa ham nhơn
nghĩa lắm, chớ không phải nó ham tiền. Nó nhứt định thủ tiết với Mái Chín Ngánh
thì quan lớn đủ biết tánh tình nó ra thế nào.
- Cô là chị của Cô Hai. Cô trọng tuổi hơn, cô biết việc đời
nhiều hơn, cô phải cắt nghĩa cho cô Hai hiểu. Vợ chồng không có hôn thú, lại chồng
là chệch khách, nó đã bỏ mình, thì có tình nghĩa gì mà bo bo thủ tiết trọn đời
với nó.
- Xưa rày có nhiều chỗ gắm ghé. Tôi cũng thường can gián nó
hoài, tại nó không chịu tôi đâu nỡ ép duyên nó.
- Cô phải ráng mà cắt nghĩa cho cô Hai nghe nữa. Tôi coi ý cô
Hai kiêng nể cô lắm. Nếu cô nói riết thì tự nhiên cô Hai phải nghe lời.
- Bẩm quan lớn, chưa có ai cậy mai mối nói mà cưới, mà quan lớn
biểu tôi ép nó làm chi.
- Ậy! Cô ép trước đi, hễ cô Hai chịu thì thiếu gì người xin
cưới.
- Bẩm, ai ở đâu?
Quan Đốc Phủ ngó Ba Có miệng cười ngỏ-ngoẻn và nói rằng: “Nếu
cô Hai chịu, thì người ở gần đây họ áp vô trước hết, khỏi đợi ai ở xa làm chi”.
Ba Có cười ngất. Quan lớn cũng cười xoà.
Ba Có nghiêm sắc mặt lại mà nói nhỏ nhỏ rằng:
- Bẩm quan lớn, con em tôi tuy nó vui vẻ, nói nói cười cười
song tánh ý nó chặt-chịa lắm. Xưa rày có nhiều chỗ tử tế lắm theo ve vãn nó
hoài, mà nó kháng cự luôn luôn, không thèm ai hết.
- Tại mấy cậu ấy không phải bực sang trọng nên cô Hai mới chê
chớ.
- Bẩm, họ sang trọng lắm chớ, người như ông Đốc Tơ Thiện, như
ông Huyện Cao, như ông Hội Đồng Hải, thì sang trọng đúng mực, chớ còn đợi sao nữa.
- Mấy ông ấy chưa cao. Còn có người cao hơn nữa.
- Bẩm, để người ấy ra mặt rồi sẽ hay.
- Cô chịu làm mai hay không?
- Bẩm, tôi không dám nói “không chịu”. Mà nếu tôi nói “chịu”,
rủi tôi làm mai không thành thì tôi có lỗi.
- Tôi chắc hễ cô chịu thì tự nhiên phải thành.
- Bẩm, không chắc.
- Tại sao vậy?
- Bẩm, tôi hiểu ý con em tôi lắm. Bây giờ nó có xe hơi, nó có
hột xoàn đáng muôn bạc, trong nhà lại có bạc mặt đến năm ba ngàn, Nó không thiếu
vật chi hết, chỉ chưa có một cái nhà với một miếng đất nho nhỏ mà ở cho an
thân. Nếu ai muốn cưới nó, mà chịu mua cho nó một cái nhà, thì chắc nó vui lắm.
- Trời ơi! Nếu cô Hai buộc mua một cái nhà lầu ở theo đường
Norodom, giá đáng ba bốn muôn thì ai mua nổi.
- Bẩm, không. Nó không có huy vọng cao quá nhự vậy. Thuở nay
nó thường ao ước có một cái nhà bánh ếch ở miệt Phú-Nhuận, hoặc Bà Chiểu, giá lối
vài ba ngàn vậy thôi, chớ muốn nhà lầu làm chi.
-Ờ ợ! Muốn như vậy thì có lẽ được.
- Mà tôi coi ý nó, hễ nó ưng ai thì nó buộc phải làm hôn thú
đủ phép mới được.
- Cha chả! Buộc gắt dữ hôn!
- Bẩm, nếu lấy chồng mà không có hôn thú thì thành vợ ngày vợ
bữa, xấu hổ nó.
- Cô Hai nói cũng phải, song vợ chồng nếu bền chặt nhơn nghĩa
là hơn, chớ không phải có hôn thú rồi mới chắc.
Hai người nói chuyện tới đó, kế cô Hai Phục trở vô, ba người
ngồi ăn, đàm luận tới hai giờ khuya quan Đốc Phủ mới về ngủ.
Đưa quan lớn ra khỏi cửa rồi, hai chị em thủng thẳng bước vô,
Ba Có nói nhỏ với cô Hai Phục rằng: “Cá mê mồi quá! Không thoát khỏi đâu!”
Chú thích:
(1-) lón lén, bước nhẹ nhàng bằng đầu bàn chân
CHƯƠNG 14 - ÁI TINH VỚI KHÁCH ĐA TÌNH
B
ữa sau lối 4 giờ chiều.
Ông Cử Võ Phi Hùng ngồi xe kéo chạy lại ghé ngay cửa cô Hai
Phục. Ông mặc một bộ đồ Tây bằng nỉ đen, chơn mang giầy vàng, đầu đội nón xám.
Ông ngó số nhà, day lại biểu xa-phu ở đó mà chờ, rồi ông bước vô cửa ngõ.
Cô Hai Phục ngồi trong nhà dòm ra ngó thấy ông, thì cô lính
quýnh chạy vô buồng kêu Ba Có mà nói rằng: “Chị Ba, chị ba, cậu Hai Hùng lên
kia kìa, tôi nói hay lắm!”
Ba Có chau mày đáp rằng: “ Dữ hôn! Cậu Hai Hùng lên thì lên,
chớ chuyện gì mà lính quýnh như vậy. Hổm nay qua trông gặp cậu, mà không có dịp
gặp được. Nay cậu mang mặt tới đây thì may cho qua lắm. Em ra mời cậu ngồi đi,
để qua bận áo rồi qua sẽ ra nói chuyện với cậu chơi”.
Cô Hai bước ra chào ông cử Hùng, rồi mời vô sa lông mà ngồi.
Ông Cử ngó cô mà cười, muốn nói chuyện với cô, song mắc cô lăng xăng kêu bồi
kêu bếp nấu nước, chế trà, nên ông nói không được.
Ba Có bước ra hỏi rằng: “Cậu Hai, cậu còn nhớ tôi hay không?
Năm trước tôi mời cậu lại nhà đặng tôi nói chuyện sao cậu không lại, còn bây giờ
không mời mà cậu lại tìm tới đây?”
Ông cử Hùng dụ dự một chút rồi đáp rằng:
- Phải hồi trước Cô Hai không còn ở nhà dượng phủ tôi nữa, chị
đem cô về chị nuôi, rồi chị dắt cô mà đón nói chuyện với tôi đó phải hay không?
- Phải. Cậu còn nhớ hả. Ủa! mà nghe nói cậu đi Tây học, cậu
thi đậu cử nhơn, tôi kêu bằng “ông cử” mới phải chớ. Thưa ông cử, không biết tại
sao hồi trước ông cử tác tệ, rồi lại trốn đi Tây, không được một lời phải quấy
với con Hai vậy?
- Hồi nhỏ khờ dại nên làm bậy, bởi vậy lớn khôn rồi tôi ăn
năn, nên tôi mới đến đây.
- Chớ không phải hồi nhỏ ông thấy phận con Hai hèn hạ ông coi
trinh tiết của nó như của con trâu hoặc con heo, không có giá trị gì, ông chơi
cho phỉ tình rồi ông bỏ, bây giờ ông thấy nó được giàu sang, có xe hơi, có hột
xoàn, nên ông ráp lại mà làm nhục nó nữa.
- Chị nói như vậy thì chị coi tôi tiểu nhơn quá!
- Tôi phải lấy cái thái độ cũ mà đoán cái thái độ mới chớ
sao.
- Hồi nhỏ khờ dại nên làm bậy. Bây giờ lớn khôn rồi, có lẽ
nào còn làm như vậy nữa.
- Cây bần mình trồng dù mấy mươi năm nó cũng là cây bần hoài,
chớ có phải lớn rồi nó thành cây đào hay cây gì được đâu.
Cô Hai Phục bước lại rót nước trà mà đãi khách. Ông cử không
trả lời với Ba Có nữa, ông ngó cô Hai mà hỏi rằng:
- Hồi đó cô có chửa thiệt hay sao cô Hai?
- Vậy chớ có chửa giả là có chửa thế nào?
- Té ra cô có chửa thiệt. Vậy mà cô sanh con trai hay con
gái. Đứa nhỏ bây giờ có ở trong nhà cô hay không, cô kêu nó ra đây coi một chút
được hôn?
- Tôi sanh con trai mà nó chết rồi.
- Sanh được bao lâu rồi nó mới chết?
- Sanh ra rồi nó chết liền.
- Rủi dữ há!
Ba Có chận mà hỏi rằng:
- Tại sao mà ông lại nói rủi? May lắm chớ. Nếu thằng nhỏ con
sống thì con Hai lấy chi mà nuôi nó?
- Thằng nhỏ nó là dấu tích của tôi với cô Hai. Tôi nói rủi là
vì nó chết là mất cái dấu tích ấy.
- Ông quí trọng cái dấu tích đó lắm hay sao?
- Nếu tôi không quí trọng, thì tôi tìm đến đây làm chi.
- Ông nói như vậy, con Hai nó còn phiền nhiều hơn nữa. Ông muốn
được phần ông, còn ông không kể phận nó chút nào hết. Ông có biết cái đứa nhỏ ấy
là điều nhục nhã của con Hai hay không, mà nó chết ông lại nói rủi?
- Tôi biết lắm chớ, bởi tôi biết, nên trở về nước, tôi thăm
cha mẹ bà con rồi, tôi lật đật tìm cô hai đây?
- Tìm chi vậy?
- Tôi tìm đặng bàn tính với cô Hai mà chuộc cái lỗi của tôi
ngày trước.
- Ông muốn chuộc lỗi, vậy mà ông làm cách nào, đâu ông nói
nghe thử coi?
- Cô Hai muốn cách nào tôi cũng vưng lời theo hết thảy.
- Theo thái độ người quân tử, hễ mình làm ô danh xủ tiết một
người đờn bà, thì mình phải cưới cô ta làm vợ, đặng rửa sạch sự nhục nhã của
người ta đó. Ông làm ô danh xủ tiết con Hai, rồi ông bỏ trốn mất, bây giờ ông
tính chuộc thì đã trễ rồi.
- Làm dầu trễ cũng còn hơn là không làm.
- Ông bằng lòng cưới con Hai hay sao?
- Tôi tính nhự vậy, nên tôi mới đến đây.
Ba Có với cô Hai Phục nghe mấy lời đều chưng hửng ngó với
nhau trân-trân, không nói được nữa.
Cô Hai Phục cảm xúc quá, nên cô ứa nước mắt mà nói với ông Cử
rằng:
- Cậu có hay vì cậu bỏ em, nên thân em lưu lạc phong-trần, em
đã có tới hai đời chồng khác hay không?
- Tôi không hay. Mà tôi tưởng nếu mấy năm nay cô lưu lạc
phong trần, thì cái tội của tôi càng thêm lớn, nên tôi cần phải chuộc tội ấy
cho gấp hơn nữa.
- Tôi hư lắm. Tôi đâu xứng đáng làm vợ cậu. Xin cậu đừng có
nói tới chuyện đó.
Ông Cử Hùng ngồi buồn hiu. Ông ngó sững ra ngoài sân một hồi
rồi ông hỏi cô Hai rằng: “Mấy lời cô mới nói đó là thiệt tình hay là giận lẫy
mà nói vậy cô Hai?”
Cô Hai cúi mặt mà đáp rằng:
- Em nói thiệt tình, chớ không phải em giận nên em nói lẫy với
cậu đâu.
- Nếu cô nói thiệt tình, thì tôi xin đáp với cô rằng: “Cô tự
xét mà cô biết cô không xứng đáng làm vợ tôi, ấy là cô xứng đáng làm lung lắm. Ở
đời tôi từng thấy có nhiều người họ làm lắm việc tồi bại mà họ không tự xét, họ
cứ vinh mặt vinh mày, họ tưởng họ xứng đáng, rồi thiên hạ họ dua bợ cũng hùa
nhau cho họ là xứng đáng, những người ấy mới thiệt không xứng đáng làm vợ tôi.
Cô Hai liếc mắt ngó ông cử mà cười.
Ba Có chau mày, coi bộ không vui. Chị ta không muốn để cô Hai
Phục nghe những lời thâm trầm và tình tứ của ông cử nữa nên chị ta hỏi ông cử rằng:
- Ông học đã thành tài rồi, bây giờ ông trở về quê hương, ông
tính làm việc gì?
- Tôi chưa tính làm việc gì được, bởi vì tôi về tôi hay việc
nhà của tôi lộn-xộn lắm, mà lúc nầy ông thân của tôi lại đau nhiều. Để thủng thẳng
tôi lo sắp đặt việc nhà cho yên, rồi tôi sẽ tính bề làm ăn.
- Ông cụ bà cụ còn song toàn hay không?
- Bà già tôi mất rồi. Tôi đi Tây có một năm kế ở nhà bà già
tôi mất.
- Ông có anh em được mấy người?
- Tôi là con một, không có anh em nào hết. Vì cha mẹ tôi ít
con ít cháu, nên qua ở bên Tây tôi suy nghĩ lại, tôi ăn nằm với cô Hai đã có
thai nghén, mà tôi bỏ cô tôi đi vậy là thiệt bậy lắm, lẽ thì thầy Ba khuyên tôi
phải ở nán lại mà nhìn nhận con tôi sẽ đi mới phải. Mấy năm nay tôi ăn năn biết
chừng nào, bởi vậy về tới đây rồi tôi muốn kiếm cô Hai đặng hỏi thăm việc đó.
Hôm đó tôi gặp cô dưới nhà dượng phủ mà vì có cô với dượng tôi đó, nên tôi
không dám nhìn cô, mà cũng không dám hỏi thăm việc cô đẻ chửa. Thiệt bây giờ
tôi mới biết nhà tôi vô phước, nên trời đất mới khiến thằng con của tôi không
còn.......
Ông Cử nói tới đó rồi ông ứa nước mắt, bộ buồn thảm ăn năn
lung lắm.
Cô Hai nhớ chuyện cũ, thấy bộ của ông cử, thì cô động lòng
nên cô củng chảy nước mắt.
Ông cử ngồi nói chuyện hơn một giờ đồng hồ, rồi ông mới từ mà
về. Khi ra tới cửa ông day lại mà nói với cô Hai rằng: “Ông thân tôi đau nhiều,
nên tối nay tôi mua thuốc rồi khuya nay tôi phải về dưới Cái Vồn. Để ít ngày
ông thân tôi mạnh giỏi rồi tôi sẽ trở lên tâm sự của tôi cho cô Hai nghe”.
Ông đi rồi, Ba Có cười gằn mà nói rằng: “ Nếu ai cắc cớ mở hội
thi để tuyển nhơn tài mà sung vào cái “ngạch điếm đàng”, thì chắc ông cử Hùng sẽ
chiếm thủ khoa”.
Cô Hai Phục chau mày hỏi rằng:
- Ông Cử nói lời nào cũng chánh đáng, mà bộ ông cũng ăn năn
thành thật lắm, sao chị lại cho ông là thằng điếm?
- Em còn phải học nhiều nữa mới được. Em chưa biết lịch duyệt
nhơn tình, em chưa biết coi tướng mạo, em chưa biết cân lời nói. Qua biết chắc
nếu không có qua kiềm chế, thì ngày nay em đã làm vợ của thầy ký Cao, bồng con
cho bú, bưng rổ đi chợ, vô bếp nấu ăn, mỗi tháng đến 20 tây thì vô tiệm cầm đồ,
chớ làm sao mà trong nhà có bạc ngàn, hột xoàn đeo đầy mình, bước ra cửa thì có
xe hơi, mà nay mai đây lại còn được làm “Bà lớn Đốc” nữa.
- Oái ! Chị đừng có nói chuyện đó mà! Kỳ cục quá, ai mà chịu!
- Nói cái gì mà không chịu?
- Nói chuỵên quan Đốc Phủ đó. Ổng lớn tuổi, ổng đáng cha của
em, ai mà ưng ổng cho được.
Ba Có nghiêm sắc mặt, ngó sững cô Hai, coi bộ chị ta bất
bình, song chị ta liền đổi giận thành vui mà nói rất êm ái rằng:
- Em khờ qúa! Chồng già nó mới cưng nhiều chớ.
- Cưng hay không thì chưa biết, mà chồng già vợ trẻ đi chung
với nhau coi như cha con, mắc cỡ quá.
- Mắc cỡ nỗi gì? Mình nhỏ mà họ kêu làm “Bà lớn” mới vinh
vang chớ.
Cô Hai cười rồi bỏ đi vô phòng mà nằm không cãi nữa.
Tối lại Quan Đốc Phủ Thần cũng lết qua nhà cô Hai Phục mà
chơi. Ba Có tiếp rước ân cần. Cô Hai cũng chào hỏi vui vẻ, song bữa nay cô dè dặt
nghiêm chỉnh, không nói giọng lả lơi, không ra dáng trêu bẹo như mấy lần trước.
Quan lớn dạy cô đờn chơi, thì cô cũng vưng lời, song tiếng đờn nghe không thăng
trầm, giọng ca nghe không cảm xúc nữa.
Cô Hai Phục dè dặt chừng nào thì ngọn lửa tình của Quan Đốc
Phủ lại càng lừng lẫy chừng ấy, nên ngài cứ qua hoài, mà có bữa Ba Có lại kiếm
cớ đi chợ, để cho ngài thong thả mà nói chuyện với cô Hai.
Bữa chúa nhựt kế đó, hai người con gái lớn của Quan Đốc Phủ,
là cô Cẩm Tú và Cô Cẩm Nhung, vợ nào chồng nấy đều tề tựu về đây thăm cha cho
biết nhà mới. Người con trai lớn với mấy đứa em nó cũng có ở nhà đủ mặt. Quan Đốc
Phủ mừng rỡ, dạy người dâu lớn đi chợ mua thịt cá bánh trái về dọn tiệc đặng
cha con ăn uống vui chơi với nhau một bữa.
Chừng ăn cơm rồi, cô Cẩm tú là gái lớn đầu lòng, mới mở lời
nói với Quan Đốc Phủ rằng: “Thưa cha, con mới nghe nói từ hôm dọn nhà về đây mà
ở, cha hay qua lại cái nhà một bên đây mà chơi hoài. Thưa cha, cha đã trọng tuổi
rồi, mà cha lân la chỗ như vầy, bạn bè trong nhà nó xầm xì, coi không được lịch
sự, mà mấy đứa em nó cũng buồn nữa. Nếu cha có buồn thì cha đi Đà Lạt, Vũng Tàu
hoặc đi Đế thiên, Đế thích mà chơi, chớ chơi chi cái chỗ đó”.
Quan Đốc Phủ nổi giận, ngài đỏ mặt trợn mắt mà nói rằng:
- Bây giờ mầy dạy khôn tao, phải hôn Cẩm Tú?
- Thưa, con đâu dám. Con nói chuyện phải quấy trong nhà cho
cha nghe vậy thôi chớ.
- Đời lật ngược rồi, nên con nó dạy khôn dạy dại cho cha nó
chớ! Ở lân cận thì phải làm quen với nhau. Người ta là người đúng đắn tử tế,
tao tới lui nói chuyện chơi, sao bây lại bắt lỗi tao?
- Thưa, không phải con bắt lỗi cha. Con nói cha gần gũi người
như vậy thì thiên-hạ họ chê cười chớ.
- Tao chơi, mắc mớ gì họ mà họ chê cười? Sao mà họ cười ?
Cậu Lê Như Tiên, là con trai thứ ba của Quan Đốc Phủ bèn tiếp
với chị mà đáp rằng:
- Thưa cha, con biết tụi nó không tốt.
- Sao mà không tốt. Người ta giàu có sang trọng, con dòng
cháu giống, sao bây dám nói người ta không tốt.
- Thưa, con biết rõ hai chị em cô hai đó là phường buôn hương
bán phấn, song họ giữ tư cách cao, họ làm bộ mặt quí, đặng họ lột da người ta
cho hãm đó cha.
- Cha chả! Người ta như vậy mà bây dám kêu người ta là phường
buôn hương bán phấn chớ.
- Thưa, đời nầy họ quỷ quyệt lắm. Bọn buôn hương bán phấn thượng
lưu nó cũng dọn nhà tốt, nó cũng sắm xe hơi, nó cũng đeo hột xoàn, nó làm sang
trọng như vậy nó hại người ta mới sâu.
- Bây phải biết, cô Hai đó cháu của một quan tri phủ Hàm, chớ
không phải đồ bậy bạ đâu.
- Thưa, phải. Cô là cháu của một quan tri phủ hàm, mà con biết
hồi trước cô làm cho một thầy ký lục ở Xã tây phải thắt họng, sau cô làm một
người Mái Chín tiêu hết sự nghiệp phải trốn về tàu. Cha tới lui chơi với nàng
như vậy thì còn gì danh giá của cha.
- Tao biết hết, tao làm quan tột bực, tao đã hai thứ tóc trên
đầu, có lẽ nào tao dại hơn bây sao, nên bây dạy tao. Tao nghĩ lại thiệt tao vô
phước. Từ nhỏ chí lớn tao ngồi khòm lưng chai đít, làm cho có tiền mà nuôi bây,
ngày nay bây nên vai nên vóc, tao già cả phải hồi hưu dưỡng lão trong ít năm rồi
có xuống lỗ. Tao buồn tao kiếm người biết lễ nghĩa đặng nói chuyện chơi cho giải
khuây. Bây không vừa lòng, bây ra rập với nhau mà kiếm chuyện bắt lỗi tao. Tao
hiểu rồi, bây thấy tao già rồi, không làm mọi cho bây được nữa, bây muốn đuổi
tao đi nên bây mới sanh chuyện như vầy. Tao không cần bây đâu, bây đừng có lấp
lửng, phận của tao thì tao biết tự xử, bây khỏi lo. Để rồi bây coi.
Quan Đốc Phủ thố lộ những lời oán trách như vậy rồi ngài bỏ
đi ra ngoài trước, chống tay lên lan can, đứng buồn hiu. Mấy người con của
ngày, từ lớn chí nhỏ, đều nhìn nhau nghẹn ngào, không dám hở môi nữa.
Đến xế Quan Đốc Phủ thay đổi áo quần rồi kêu xe kéo mà đi. Mấy
con không dám hỏi ngài đi đâu. Hai chàng rể thấy gia đạo xào-xáo, không vui gì
mà ở chơi nên dắt vợ về liền.
CHƯƠNG 15 - SỨC MẠNH CỦA ÁI TÌNH
Đ
ồng hồ gõ 9 giờ.
Ba Có với cô Hai Phục đương nằm tại bộ ván lót phía trong nhà
mà đọc nhựt trình, thấy có một tờ báo có đăng tin ông cựu Nghị viện địa hạt Võ
Phi Thành là thân sanh của ông Luật khoa Cử nhơn Võ Phi Hùng, ở Cái Vồn đã thất
lộc, cuộc tống chung cử hành ngày 24, rất long trọng.
Cô Hai Phục hay tin ấy thì cô thở dài mà nói rằng: “ Té ra cậu
bây giờ cũng mồ coi luôn về mẹ lẫn cha như tôi vậy!”
Ba Có chau mày ngó cô Hai, kế nghe ngoài thềm có tiếng giầy
đi vô, chị ta lồm cồm ngồi dậy thì thấy Quan Đốc Phủ Thần y phục đàng hoàng,
khăn đen áo dài, xâm xâm bước vô cửa, chị ta lật đật tiếp chào. Cô Hai cũng ngồi
dậy chào mừng.
Quan Đốc Phủ ngồi tại sa lông, bộ tướng nghiệm nghị không nói
pha lững, không vui cười như mấy lần trước. Cô hai cứ ngồi bên ván mà coi nhựt
trình, chớ cô không qua sa lông mà nói chuyện với khách.
Ba Có lăng xăng kêu bồi chế nước, chừng chị ta thấy cô Hai ngồi
riêng một mình, thì chị ta nói rằng: “Con Hai thiệt là tệ quá, tôi mắc lo nước
nôi, nó không thèm qua hầu chuyện với quan lớn chớ”.
Cô Hai thấy quan Đốc phủ ngó cô, thì cô buông tờ nhựt trình
xuống rồi bước qua sa lông mà ngồi. Ba Có rót nước mời khách rồi hỏi rằng: “Bữa
nay quan lớn đi ăn tiệc ở đâu hay sao mà chừng nầy quan lớn còn bận đồ lớn?”.
Quan Đốc phủ thở dài mà đáp rằng:
- Tôi giận mấy đứa con tôi, nên tôi bỏ tôi đi chơi từ hồi xế
đến bây giờ. Tôi ghé dưới nhà hàng tôi ăn cơm rồi tôi về đây.
- Mấy cậu mấy cô làm đều chi trái ý quan lớn, thì quan lớn quở
trách rồi thôi, quan lớn giận hờn làm chi. Quan lớn trọng tuổi rồi, mà quan lớn
giận, thì quan lớn ăn không ngon, ngủ không an, sợ e sanh bịnh chớ.
- Thứ con đời nay nó bắt chước thói gì đâu không biết, nó nói
hơi khôn ngoan mình chịu không nổi, làm sao mà không giận sao được.
- Bẩm quan lớn, đời nay mấy cậu tân học, mấy cô thanh niên, họ
tự-do lắm, họ muốn làm thế nào họ làm, họ không kể lễ nghĩa, họ không cần đạo đức
gì hết. Cái phong trào như vậy, mình phải chịu, phải nhắm mắt co tay mà để cho
lượn sóng đẩy đưa rồi tấp vào đâu hay đó, chớ biết làm sao.
- Cô Ba nói như vậy nghĩ cũng phải. Rủi gặp cái đời khốn nạn
như vậy, việc quấy mà thiên-hạ họ gặp nhau cho rằng phải còn việc phải thì họ lại
rập nhau cho rằng quấy đi nữa, có một mình mà dễ gì cãi cho lại họ, chèo xuôi
mái mát ấy là thượng trí. Ngặt gì mình nhắm mắt co tay để trôi theo lượn sóng,
sợ e lượn sóng nào không đưa mình tới cái bờ xinh đẹp, mà nó đẩy mình vào cái bến
dơ-dáy mới khổ cho chớ.
- Bẩm, quan lớn lo xa quá! Tôi tưởng cái bờ cái bến đó còn
xa. Người trộng tuổi như quan lớn hay là như tôi đây chắc là không thấy được. Vậy
thì mình chết rồi, lớp nhỏ họ gieo cái nhơn nào, họ sẽ hái cái quả ấy, trối kệ
họ, quan lớn buồn giận làm chi cho nhọc trí.
- Lời cô luận-thiệt là đúng đắn. Đời như vầy mình lo cho lắm
cũng không ơn nghĩa gì, mà phải lo cho mệt. Đến con trong nhà, mà mình lo cho
nó, rồi nó trở lại nó cho mình là ngu nữa chớ.
- Bẩm quan lớn, “nhi tôn tự hữu nhi tôn phước”. Quan lớn làm
quan đã thăng tột bực, nay quan lớn hồi hưu thì cứ lo an tâm nhàn tánh, thiện
dưỡng tinh thần, làm cho chí hoan lạc, trí thảnh-thơi mà thôi, hơi nào mà còn
lo gia đình hay là xã-hội nữa.
- Từ hồi chiều tới bây giờ, tôi cũng có nghĩ như vậy đó. Nếu
con tôi nó biết phải thì chẳng nói làm chi, chớ nó muốn làm mặt khôn hơn tôi
thì cần gì tôi phải lo cho nó nữa. Tôi muốn kiếm một người có đức, có hạnh, lại
biết yêu, biết trọng tôi, tôi kết bạn trăm năm rồi kiếm mua một miếng vườn hoặc
trên Thủ-đức, hoặc trên Lái-Thiêu, cất một cái nhà sạch sẽ cao ráo, vợ chồng ở
với nhau, trồng hoa quả đủ thứ, rồi lúc trăng thanh thưởng hoa, lúc gió chiều
hái trái, say sưa nhân thú, chan-chứa ái-tình với nhau, coi danh lợi như khóm
mây bay, coi cuộc đời như trường hí kịch. Hai cô nghĩ thử coi tôi làm như vậy
có được hay không?
Ba Có liếc ngó Cô Hai Phục thì thấy cô chúm chím cười, chị ta
cũng cười mà đáp với quan Đốc Phủ rằng:
- Cái cảnh mà quan lớn mới tả đó là cái cảnh phong-lưu đệ nhứt.
Ấy là cái cảnh bồng lai ở thế gian, sợ bực vương hầu cũng khó mà tạo ra được.
- Thiên hạ họ tạo ra không được là vì lòng họ còn mê danh lợi.
Phần tôi đã chán danh lợi rồi, nên tôi muốn làm như vậy đặng cao hơn thiên-hạ
chơi.
- Nếu quan lớn làm được như vậy, thì thiệt quan lớn cao hơn
thiên hạ lung lắm. Ngặt gì cái cảnh quan lớn tạo ra thì dễ, còn người để giúp
cho quan lớn nở lòng nở dạ mà thưởng cái cảnh ấy tôi sợ quan lớn khó kiếm chờ.
- Quan Đốc phủ Thần day qua ngó Cô Hai Phục và cười và hỏi rằng:
“Sẵn có cô Hai đây, cô chịu hiệp với tôi mà tạo cái cảnh bồng lai ấy như tôi mới
tả đó hay không cô Hai?”
- Cô Hai cúi đầu đáp nho nhỏ rằng: “ Bẩm quan lớn, phần em
quê mùa hèn hạ, em không xứng đáng mà chung hưởng thú phong lưu ấy với quan lớn”.
Ba Có tiếp mà đáp với quan lớn rằng:
- Bẩm quan lớn, con Hai nó ái ngại phải lắm. Người đờn-bà mà
được làm bạn với quan lớn, thì phải một người vừa có đức, vừa có hạnh, vừa có sắc,
vừa có tài mới được. Quan lớn muốn hỏi thử mà chơi, chớ con Hai mà xứng đáng
chi.
- Không. Tôi hỏi thiệt chớ, cô nói khiêm nhượng, chớ cô Hai
sao lại không xứng đáng chi.
- Nó là gái đã có một hai đời chồng rồi quan lớn quên hay
sao?
- Tôi nhớ lắm chớ. Cô Hai có mấy đời chồng rồi lại hại gì hay
sao? Tôi đây có phải là trai mới lớn lên hay đâu. Tôi có tới 6 đứa con, tôi có
cháu nội cháu ngoại đủ hết. Mình muốn tạo cái cảnh gia đình nhàn lạc thì vợ chồng
cần phải đồng tâm chí mà thôi, chớ có cần đều gì khác nữa đâu. Tôi gần gũi cô
Hai hơn một tháng nay, tôi thấy tánh nết của cô tôi mến, tôi thấy sắc tài của
cô tôi thương, nên tôi mới tính việc trăm năm với cô. Nếu cô Hai không phụ tình
tôi thì tôi nguyện, hễ tôi còn sống ở thế gian nầy, thì cô Hai sẽ được mến yêu,
kính trọng, sung sướng, thanh nhàn luôn luôn, mà trước ngày tôi chết tôi cũng
lo liệu cho cô sung sướng mãn đời cô luôn.
Cô Hai Phục ngồi trơ-trơ, cô không trả lời, mà cái sắc mặt cô
cũng không lộ cái vẻ vui mừng chút nào hết.
Ba Có ngó cô hai, coi bộ chị ta bất bình.
Quan Đốc Phủ nói tiếp rằng: “Cô Hai nầy, mấy lời tôi mới nói
đó là lời vàng đá, chớ không phải là lời qua đường đâu. Nếu cô vui lòng ưng tôi
thì tôi làm hôn thú đủ phép, chớ không phải để cô núp lén mà làm xấu hổ. Tôi tỏ
thiệt gia đạo của tôi cho cô hiểu. Hiện bây giờ ruộng đất của tôi mỗi năm có
huê lợi lối 10 ngàn giạ lúa. Tôi hưu trí mỗi kỳ 3 tháng tôi lãnh được 480$,
tính ra mỗi tháng 160$. Về bạc gởi băng, về số tôi cho vay, tính ra cũng được
vài chục ngàn. Nếu tôi cưới cô rồi thì tôi giao cái nhà tôi mua đó cho sấp con
tôi ở, tôi cũng giao hết số ruộng đất của mẹ chúng nó đứng bộ cho chúng nó chia
nhau mà hưởng huê lợi. Còn phần ruộng tôi đứng bộ, huê lợi 3000 giạ, thì tôi giữ
tôi xài. Tôi sẽ mua một miếng vườn, cô muốn chỗ nào tùy ý cô định, rồi tôi mướn
cất một cái nhà đặng vợ chồng mình ở mà thưởng hoa thưởng nguyệt, khi ngâm phú,
khi đờn ca quên hết sự đời, lánh xa danh lợi, mình thoát vòng trần tục chơi mới
có thú vị”.
Cô Hai Phục cũng ngồi làm thinh.
Ba Có thấy vậy mà rước đáp rằng:
- Quan lớn có lòng thương tưởng con Hai, thì nó mang ơn quan
lớn lắm chớ. Ngặt không biết mấy cô mấy cậu có chịu hay không?
- Ối chúng nó chịu hay không chịu mặc kệ chúng nó. Tôi thuộc
dân Langsa, vợ tôi chết, tôi có quyền cưới vợ khác, sấp con tôi có nào mà cản
tôi được.
- Nếu quan lớn liệu việc nhà được, quan lớn muốn biểu con Hai
hiệp với quan lớn và gây cuộc phong-trần trăm năm, thì nó phải vưng lời quan lớn,
chớ đâu dám cãi. Tuy hồi trước Mái Chín Ngánh ở dưới nó thiệt là tử tế, nhưng
mà Mái Chín là chệch khách, sự tử tế của y sao bằng cái tình tri ngộ của quan lớn.
Ấy vậy hễ quan lớn cưới nó, thì tự nhiên nó phải tận tâm mà phục sự quan lớn.
- Quan Đốc Phủ vuốt râu, miệng cười ngỏn ngoẻn mà hỏi cô Hai
Phục rằng: “Sao cô không nói tiếng chi hết vậy cô Hai? Tôi tính như vậy mà cô
có vui lòng hay hôn?”
Cô Hai Phục du dự một chút, rồi cô ngó ngay quan Đốc Phủ mà
nói rằng: “Bẩm quan lớn có lòng thương em thì em cảm ơn quan lớn nhiều lắm. Ngặt
vì em không thể vưng lời mà kết tóc xe tơ trăm năm với quan lớn được”
Quan Đốc Phủ chưng hửng, Ba Có giận đỏ mặt, mắt ngó cô Hai lườm
lườm.
Quan Đốc phủ day qua hỏi cô Hai một cách rất nhỏ nhẹ êm ái rằng:
- Tại cớ nào mà cô chê tôi, đâu cô nói thiệt cho tôi biết một
chút coi?
- Bẩm quan lớn, người đến bực quan lớn mà em còn chê nỗi gì.
Chẳng những là em không dám chê, mà em nghĩ chẳng có chỗ nào chê được. Quan lớn
tính cưới em, quan lớn làm hôn thú đủ phép, mà lại còn tính làm cho thân em
sung sướng trọn đời. Em ưng quan lớn, em nhờ cái thơm lây mà em được cái sang
trọng giàu có, làm sao mà em chê được.
- Cô biết nhự vậy mà sao cô còn dục-dặc không ưng?
- Bẩm quan lớn, em không ưng quan lớn được là vì trời khiến
em đã nặng tình với một người khác rồi. Nếu em mê sự sang giàu của quan lớn mà
em ưng bướng quan lớn, em sợ ngày sau em không trọn đạo làm vợ được, rồi quan lớn
thí ơn tri ngộ với em, mà em lại đáp cái thói giả-dối với quan lớn, dường ấy chẳng
khỏi cái cảnh phong lưu tao nhã mà quan lớn tưởng tượng đó nó sẽ thành cái cảnh
ưu-sầu sỉ nhục, càng hại hơn nữa. Em vẫn biết em tỏ thiệt cái lòng của em, tự
nhiên quan lớn không vui. Mà em nghĩ thà bây giờ buồn một chút, rồi ngày sau khỏi
buồn nhiều.
Quan Đốc Phủ với Ba Có nghe mấy lời của cô Hai thì ngồi bí-xị,
cả hai đều uất, người uất vì dỡ dang giấc mộng tình, kẻ mất vì phá hoại công
phu gầy dựng.
Quan Đốc Phủ ngồi lặng thinh một hồi rồi ngài đứng dậy từ mà
về. Chừng ra tới cửa ngài day lại mà nói rằng: “Cô Hai cô đã nói như vậy, thì
tôi không dám nói tiếng chi đi nữa. Tôi chỉ xin cô nên nhớ rằng tôi sẵn lòng chờ
cô luôn luôn; ngày nào cô đổi ý thì cô cứ cho tôi biết”.
Cô Hai cúi đầu mà nói: “Cảm ơn quan lớn”
Nãy giờ Ba Có có giận bấy gan, nhưng vì có quan Đốc Phủ ngồi
đó, chị ta không phát biểu cái lòng giận ra được.
Bây giờ chị ta thấy cô Hai đứng một mình trước mặt chị ta,
thì chị ta dằn nữa không được, lửa giận phừng-phừng, quên hết lễ nghĩa tao nhã,
nên sỉ tay trong mặt cô hai mà nói rằng: “Mầy là đồ ngu! Tao nghĩ lại thiệt uổng
công tao nuôi dạy dỗ mầy không biết chừng nào! Phải tao dè như vầy thì ngày trước
tao có đem về nuôi dưỡng làm chi, tao để cho mầy đi ăn mày. Đồ khốn nạn! Mình
ra công sắp đặt đặng cho nó làm “Bà Đốc Phủ” chừng được rồi, nó lại xô một cái,
làm cho hư hết công nghiệp của mình!”.
Cô Hai Phục té ngồi trên một cái ghế, cô và khóc và đáp rằng:
- Xin chị Ba tha lỗi cho em. Vì cái tình của em đối với cậu
Hai Hùng nặng quá, dầu được làm bà vua đi nữa em cũng không đành bỏ cậu.
- Tao đã có nói với mầy nhiều lần; thiên hạ đều giả dối hết
thảy. Thói đời và lòng người chẳng có chút chi là thiệt. Ấy vậy mình chẳng nên
thương ai, bởi vì có ai thương thiệt mình đâu mà mình thương họ. Tao đã dặn như
vậy mà sao mầy còn thương thằng điếm đó?
- Tại trời khiến như vậy, em biết làm sao! Ví như cậu Hai phụ
bạc em thì có lẽ em mới quên được cậu. Chớ cậu còn theo quyến luyến với em, thì
làm sao em bỏ cậu mà lấy chồng khác cho đành.
Ba Có lắc đầu, ngồi dựa ngửa trên cái ghế canapé mà than rằng:
“Cái hy vọng của tôi đã tan rả hết rồi! Ôi cái thế gian nầy tôi còn cái mục
đích nào đâu!”.
Cô Hai khóc mà nói rằng: “Xin chị Ba tha lỗi cho em. Tại cái
tình của em nặng quá, chớ không phải em cố ý nghịch với chị”.
Ba Có ngồi suy nghĩ, nước mắt chảy rưng-rưng.
Cách một hồi lâu chị ta thở dài mà nói rằng: “Vậy mới biết mỗi
người đều có mạng số riêng. Cái mạng của em phải lụy về ái tình, dầu làm thế
nào cũng không tránh khỏi được. Qua thương em qua hết sức lo cứu em, mà cứu
không được thì thôi, chớ biết làm sao. Cũng vì lo cứu mà mấy năm nay qua mang tội
ác nghiệt với đời nhiều lắm. Đã biết thiên hạ ở ác nghiệt với qua trước, nên qua
mới mượn tay em đặng trả, trả nhiều, bởi vậy qua ăn năn hết sức. Qua tưởng từ
rày qua phải tu mới được, tu trước làm sao tiêu hao các tội ác nghiệt của qua mấy
năm nay, sau cho khỏi thấy thân em lụy về ái tình ngày sau nữa”.
Cô Hai cảm động nên cô khóc rấm rứt.
Cách ít ngày sau ông Cử Võ Phi Hùng mặc đồ tang đến nhà thăm
cô Hai Phục. Hai người nói chuyện nhỏ nhỏ với nhau một hồi lâu rồi ông Cử từ mà
về, cô Hai trở vô buồng mà trang điểm rồi lên xe hơi mà đi. Ba Có không hỏi cô
đi đâu song chị ta đứng ngó theo xe mà mặt coi buồn bực lắm.
Đến khuya cô Hai trở về nhà, người bồi ra mở cửa. Cô bước vô
nhà không thấy Ba Có, cô hỏi người bồi, mới hay hồi chiều Ba Có bỏ áo quần vô
va ly rồi kêu xe kéo mà đi không nói đi đâu, mà cũng không nói đi chừng nào về.
CHƯƠNG 16 - SỨC MẠNH CỦA TÌNH YÊU
Ô
ng Hội đồng Võ phi Thành không phải là nhà cự phú. Ông ở nhà
thờ, là một cái nhà ngói cũ mèm, cất theo kiểu xưa, rộng minh-mông mà thấp thỏi
tối mò. Sự sản của ông thì chỉ có 40 mẫu ruộng Hương hỏa ông ăn huê lợi với 150
mẫu ruộng phần thực của cha mẹ chia cho ông hồi trước, mà ông chơi bời bài bạc
nên mắc nợ hơn 30 ngàn đồng. Ông trả không nổi, chủ nợ kiện thì hành phát mãi hết
150 mẫu ruộng của ông đứng bộ. Tuy hai người em của ông ra trước Tòa đấu giá mà
mua ruộng ấy lại, mà Phủ Tăng mua 50 mẫu, thầy Cai Tổng Lung mua 100 mẫu, và
hai người có hứa sẽ để lại cho ông làm ăn, nhưng mà ông buồn rầu, nên mang bịnh
mà chết.
Ông Cử Võ Phi Hùng tống táng cha xong rồi, ông kiểm điểm gia
tài chẳng còn chi hết, chỉ ở cái nhà thờ, góp huê lợi 40 mẩu ruộng Hương hỏa, đặng
cúng quải ông bà mà thôi. Sự nghiệp ấy không xứng với tài học của ông, mà cũng
không giống cái ý của ông tưởng thuở nay, bởi vậy ông bối rối, ông tuốt lên
Saigon than thở với cô là bà Phủ Tăng, rồi đi kiếm cô Hai Phục mà tỏ tâm sự.
Ba Có đã đi biệt tích, mà Cô Hai Phục không muốn ở gần quan đốc
phủ Thần nữa, nên cô bàn tính với ông Cử Hùng, mướn một căn phố lầu ở đường Đất
đỏ, phía sau có nhà để xe hơi, rồi dọn về đó mà ở.
Ông Củ Hùng òn ĩ với vợ chồng ông Phủ Tăng mượn một ngàn đồng
bạc, nói mượn đặng mở phòng làm phó trạng sư. Vợ chồng ông Phủ Tăng sẵn lòng muốn
giúp cho cháu lập thân, nên nghe cháu hỏi thì cho liền, không dụ dự chút nào hết.
Nhờ có số bạc ấy nên ông Cử Hùng về ở chung với Cô Hai Phục
ông khỏi bợ ngợ hổ thẹn. Ông mướn thợ làm một tấm bản đồng khắc chữ :”Võ Phi
Hùng, luật khoa Cử nhơn, Biện sự phòng” để đóng trước cửa, ông đăng lời rao
trong báo nhựt trình mà khuyên đồng bang ai muốn kiện cáo đều chi thì đơn-trạng
cho. Ông lại xin phụ bút với một tờ nhựt báo, ông viết một bài luận về hoàn-cầu
thời sự.
Ông Cử Hùng ở với Cô Hai Phục như tình vợ chồng, mỗi buổi chiều
ngồi chung xe hơi đi chơi, có đêm dắt nhau đi coi hát bóng, hoặc ra nhà hàng ngồi
uống rượu, không e lệ, không núp lén chi hết.
Bà phủ Tăng thấy nhà của anh mình suy sụp, mà nay cháu mình học
giỏi, có bằng cấp cử-nhơn, thì bà có ý muốn kiếm con gái nhà giàu cho sang trọng
mà làm mai, đặng cháu mình nhờ nhõi ngày sau. Bà chưa kiếm được, kế nghe ông Cử
hùng đã nhập cục với cô hai Phục, thì bà tức giận, tỏ ý muốn đòi số bạc cho mượn
và không thèm nhìn biết đến cháu nữa.
Ông Phủ theo can gián bà, ông nói rằng có lẽ taị căn duyên
ông trời định, nên hai trẻ trước kia đã quen nhau, rồi bây giờ mới hội hiệp. Huống
chi Hai Phục bây giờ cũng có bạc muôn, dầu kết duyên với cử Hùng, nghĩ cũng chẳng
kém gì. Bà phủ nghĩ cũng là người thờ “thần kim tiền” như chồng nên nghe chồng
nói như vậy thì bà cho là phải, song bà muốn cháu bà có vợ giàu hơn nữa, nên bà
không hết giận, bà nhứt định không đến nhà cháu.
Ông cử Hùng và Cô Hai Phục ở với nhau thiệt là tâm đầu ý hợp,
trai say bởi tình sâu thăm-thẳm, gái quên thói bạc bẽo ngày xưa. Có đêm đương
yêu vì sắc, đương mặn vì tình, ông Cử nhắc lại chuyện cũ, rồi ông hỏi thăm cô
hai về sự đẻ chửa. Bây giờ cô hai chẳng còn phiền trách chi nữa, bởi vậy cô tỏ
thiệt sự việc cũ lại cho ông cử nghe. Cô nói thiệt cô sanh con trai, song lúc ấy
cô phiền ông cử bạc-bẽo với cô nên cô không thèm kể đến con, cô nghe lời Ba Có
mà đổi con với một người giàu ở miệt vườn, cô lấy một ngàn đồng bạc. Cô không
biết người giàu ấy tên là gì, nhà cửa ở đâu, mà cô cũng không biết hồi đó cô đặt
tên cho con của cô là tên gì. Còn đứa con gái của người ta mà cô bồng về thì bữa
sau Ba có đem cho nhà mồ côi trên Tân-Định, từ ấy đến nay cô không thấy mặt nữa,
nên cô không biết còn hay là mất.
Nếu ông Cử Hùng có ý muốn tìm con, thì nói bao nhiêu đó có lẽ
ông tìm được rồi. Ông hỏi cho kỹ lại mà xem cô hai Phục sanh ngày nào rồi ông
vô Cholon mà xin coi bộ sanh; ông dọ hết những người sanh con gái ngày ấy tại nhà
bảo sanh thì ông tìm phải ra. Tại ông cử muốn hỏi cho biết vậy thôi, chớ ông
không có ý tìm con, nên câu chuyện xưa tới đó thì dứt, hai đàng không ai lưu
tâm về việc ấy nữa.
Tuy ông Cử Hùng lo làm việc không nghỉ, ông mưu thế nầy, ông
tính cách nọ, ông làm cũng ra tiền nhiều, song số tiền ông làm ra không bằng số
tiền ông ăn xài, bởi vậy trong vài tháng một ngàn đồng bạc của vợ chồng ông Phủ
Tăng đã tiêu hết.
Đã kết vợ chồng thì chẳng còn riêng tư chi nữa. Cô Hai phục
có mấy ngàn đồng vốn, hễ hụt tiền xài thì cô châm vô, trong ít năm mấy ngàn đồng
bạc đó cũng tiêu hao luôn, rồi cái xe hơi cũng tiêu, rồi những nhận hột xoàn rồi
dần dần cũng cầm bán.
Vợ chồng chung chạ trót 12 năm, có khi vui, có khi buồn, có
khi dư xài, có khi túng rối; những tài vật cùng là nữ trang của cô Hai Phục bây
giờ chỉ còn có một đôi bông tai hột xoàn cô đeo đó là dấu tích thạnh thời của
cô mà thôi. Tuy vậy mà cô không tiếc, cô không phiền, miễn sum hợp với chồng, dầu
hột muối cũng phải cắn làm hai mà chia cho nhau cô cũng vui vẻ.
Một buổi sớm mơi, Bà Phủ Tăng sai con trai là Gia Trinh ra kiếm
ông cử Hùng mà cho hay rằng chú của ông là Cai Tổng Lung chết và khuyên ông phải
lập tức vô mà đi với vợ chồng ông Phủ về Cái Vồn đặng lo việc tống táng. Cô Hai
Phục muốn nhơn dịp ấy mà ra mặt vợ ông cử với bà con nên cô xin theo. Ông cử
không cho, rồi ông đi một mình vô Cầu kho hiệp với cô dượng mà về Cái Vồn.
Ông cử đi tới 10 ngày ông mới về, mà chừng về nhà khí sắc ông
khác thường, coi bộ dường như ông đang lo lắng một việc gì quan hệ lắm vậy.
Tối lại cô Hai to nhỏ ông. Ông lặng thinh một hồi rồi ông đáp
rằng:
- Việc nhà của chú Tổng lộn xộn quá, không lo sao được. Chú
có hai vợ, sanh hai dòng con. Thím lớn mất rồi, để lại 3 người con gái, hai người
lớn đã có chồng, còn người nhỏ hơn hết đã 20 tuổi rồi mà chưa có chồng. Thím nhỏ
còn sống, thím lại sanh được một đứa con trai, mà nó mới 17 tuổi, còn đi học,
nên chưa có vợ. Gia tài của chú Tổng lớn quá, mỗi năm thâu góp huê lợi tới bốn
năm chục ngàn giạ lúa. Chú mất rồi bây giờ một đàng là mấy đứa con gái của thím
lớn, một đàng nữa là thím nhỏ, ghìm nhau bên nào cũng muốn chia góp huê lợi,
nên khó tính cho êm được.
- Có chi đâu mà khó, hai dòng con có bốn người, thì chia phứt
gia tài ra làm 4 phần rồi ai lãnh phần nấy mà hưởng thì xong chớ nầy.
- Phải được như em nói vậy thì khỏi lo. Ngặt vì thím nhỏ thím
không chịu chia mới khó chớ.
- Tại sao mà thím không chịu?
- Thím có hôn thú bực nhì. Thím lấy cớ thím là kế mẫu hễ chồng
chết thì thím hưởng huê lợi mãn đời thím rồi con mới được phép chia.
- Thím nói như vậy mà trúng luật hay không.
- Trúng.
- Nếu như vậy thì tội nghiệp cho ba đứa con dòng lớn quá.
- Tại vậy nên mới rối trí chớ.
- Sao anh không nói với thím Phủ, đặng thím phân xử dùm? Để
thím Tổng nhỏ thím đoạt hết gia tài hay sao?
- Cô tôi có can thiệp, mà cô bày một việc gắt quá.
- Bày việc gì mà gắt.
- Cô tôi phân rằng: con dòng lớn còn một đứa chưa có chồng;
con dòng nhỏ, là con trai, mà cũng chưa thành định. Vậy thì phải hội bổn-tộc mà
cử người thủ hộ gia tài ấy, đợi chừng nào hai đứa nhỏ thành định rồi sẽ làm tờ
tương phân. Người thủ hộ coi thâu góp huê lợi, mỗi năm phải xuất một mớ mà cấp
dưỡng cho thím nhỏ với mấy người con. Thâu xuất đâu đó phải có sổ sách cho rành
rẽ. Chừng lập tương phân gia tài thì số huê lợi còn lại được bao nhiêu sẽ chia
đồng cho mấy người con.
- Thím phủ phân như vậy thì công bình lắm. Vậy mà thím Tổng
nhỏ chịu hay không?
- Cô tôi phân thì thím đâu dám cãi. Nếu thím cãi thì té ra
thím nghịch với bổn tộc. Mình cũng hiểu khi chú Tổng tắt hơi thì vàng bạc trong
tủ sắt thím tom góp hết. Nếu thím nghịch thì bổn tộc bươi móc việc ấy, thím ngồi
cũng không yên.
- Nếu thím Tổng chịu thì xong rồi.
- Vậy mà chưa xong. Cô tôi buộc tôi phải lãnh làm thủ hộ, thì
anh làm dùm cho sắp em.
- Nghe nói hễ làm thủ hộ thì có ăn huê hồng 10 phần trăm
trong số thu và số xuất, vậy thì lợi chớ có hại đâu mà sợ.
- Phải. Làm thủ hộ thì có huê hồng, lại có tiền tổn phí cho
mướn ruộng và thâu góp lúa ruộng nữa. Gia tài như vậy mỗi năm mình kiếm năm bảy
ngàn đồng bạc được.
- Vậy thì làm đặng kiếm tiền mà xài.
- Em đừng có xúi! Cô tôi còn buộc tôi một đều nữa gắt lắm.
- Buộc điều gì nữa.
- Khó nói ra quá.
- Anh tính dấu em hay sao? Nếu việc ấy là việc kia, không nên
cho em biết, thì xin anh đừng nói.
Ông cử ngó Cô Hai miệng cười ngỏn-ngoẻn. Ông suy nghĩ một hồi
rồi ông nói rằng:
- Không phải là chuyện kín, song nếu qua nói ra chắc em không
vui.
- Ối đời em đã nếm mùi buồn và mùi vui đủ hết rồi, nên dầu
nghe việc buồn em chẳng buồn chi lắm.
- Ở dưới Cái Vồn hiện bây giờ có một cô mới 28 tuổi, cô góa
chồng, mà cô giàu lắm. Cô Phủ muốn qua cưới cô ấy. Cô buộc tôi phải chịu cưới
thì cô mới nói với bổn-tộc cử qua thủ hộ gia-tài của chú Tổng.
Cô Hai nghe rõ công việc thì cô cười ngất. Cô ngó ông cử mà
nói rằng:
- Việc như vậy mà anh sợ nói ra rồi em buồn chớ! Em nghe thì
em vui lắm, chớ có buồn đâu. Thím phủ tính như vậy thiệt là hay, anh thương em,
anh theo em 12 năm nay, anh túng thiếu cực khổ quá. Nếu có người nào giàu có mà
họ ưng anh, thì anh cũng nên cưới đặng sung sướng tấm thân một chút.
- Em nói lẫy chi vậy?
- Em nói thiệt chớ. Anh là con nhà giàu, đi học thành tài rồi,
thì gia-đạo suy-sụp, anh không được hưởng mùi phú quí chi hết. Thím phủ thương
anh, nên tính như vậy là phải lắm. Phận em không phải là người xứng đáng làm vợ
anh được. Đôi ta yêu nhau, nên hiệp cùng nhau mà tạm gây cuộc thất gia một lúc
chơi. Nay anh gặp dịp lập thân, thì anh phải thừa dịp, chẳng nên bỏ qua.
- Qua thương em lắm, nên qua không muốn ham giàu mà phụ em.
- Em cũng vì thương anh lắm, nên em phải khuyên anh hãy nghe
lời thím phủ mà cưới chỗ đó. Em thương anh nên em muốn cho anh được giàu sang với
người ta.
- Em nói thiệt hay là nói chơi? Có lẽ nào em lại muốn qua bỏ
em mà cưới vợ khác.
- Xin em đừng tưởng em như đờn bà khác, hễ thương người ta
thì cứ đeo đuổi theo, dầu thương mà phải hại người ta họ cũng không kể. Em
không phải như vậy đâu. Nếu em không thương người ta thì có lẽ em mới quyết làm
nên, làm tốt cho người ấy mà thôi.
Ông Cử hùng ngồi suy nghĩ rồi ông lại nói chậm-rãi rằng: “Nếu
em ở được như vậy thì em là một người tốt lắm. Dầu sau qua được giàu có, qua chẳng
hề quên em, thôi, để tối nay rồi qua vô qua tính với thím Phủ coi”.
Cô Hai Phục bước lại vỗ vai ông mà nói rằng: “Anh biết nghe lời
phải của em như vậy, thì em mừng cũng không biết chừng nào. Bây giờ còn sớm, mới
8 giờ, thôi anh thay đồ đặng đi vô tính với thím phủ phứt cho rồi, đợi tối mai
tối mốt làm chi mà mất thì giờ. Thím Phủ đương muốn gặp anh, vậy thì anh chẳng
nên để thím Phủ trông”.
Ông Cử Hùng cười rồi đi thay áo quần mà đi vô Cầu kho.
Cô Hai Phục thấy chồng lên xe kéo đi rồi, cô bèn đóng cửa lại,
rồi vô buồng mà nằm, nước mắt tuôn dầm-dề. Cái tình của bọn đờn-ông là vậy đó
hay sao? Thấy mình có tiền nên kết nghĩa vợ chồng, chừng mình hết tiền thấy người
khác có tiền hơn, mà bỏ mình mà theo người ấy. Nghĩ lại những lời của chị Ba Có
nói thật là có lý: trong đời nầy bọn đờn ông là một bầy gian xảo giả-dối. Làm
thân đờn bà mình phải rèn thân đúc trí cho cứng như sạn như đá, đừng thèm
thương, đừng biết giận, thì mới khỏi bị thiên hạ lường gạt. Tại mình ngu dại,
mình tin cậy ái tình, mình mê cái tính xứng đôi vừa lứa, mình say cái mùi nghĩa
cũ duyên xưa, mê say đến nỗi một quan Đốc phủ xin cưới đủ phép, cất nhà dọn cảnh
cho mình ăn ở, hứa chắc bảo bọc cho mình sung sướng suốt đời, mà mình phủi hết.
Lại dứt tình chị Ba Có là người cứu vớt dạy dỗ mình, để đi theo người mình yêu
cho đến nỗi hết vàng, hết bạc, hết hột xoàn, hết xe hơi, rồi bây giờ người ấy bỏ
mình, cái lỗi ấy là lỗi ái tình, bởi vậy mình không oán trách ai được.
Cô Hai Phục nằm khóc một hồi rồi ngồi dậy vặn đèn lên sáng hoắc.
Cô đi rửa mặt, gỡ đầu, dồi phấn, thoa son. Cô đứng ngay tấm kiến lớn mà xem
dung nhan, rồi cô lấy tấm hình cô chụp hồi cô đoạt giải Hoa-Khôi sắc đẹp mà so
sánh, thì cô thấy hình bây giờ và hình ngày trước khác nhau rất xa. Bây giờ da
mặt cô đã đùn nên không còn trong bóng nữa, tóc cô đã rụng nên chơn tóc không
ngay, mình cô đã ốm nên cái cổ hết tròn trịa. Cô xem hình rồi cô lắc đầu, cô rửa
phấn chùi son cho hết cái vẻ trang điểm. Nay đã 35 tuổi rồi, nhan sắc lợt phai,
trang điểm làm sao cho bằng thời xuân xanh được.
Cô tắt đèn mà trở vô giường nằm, đến 11 giờ khuya ông Cử Hùng
về kêu cửa. Cô bước ra mở cửa, thấy ông cười ngỏn-ngoẻn thì cô cũng cười mà nói
rằng :
- Anh vô trả lời, coi bộ thím Phủ vui hay không ?
- Qua nói qua chịu, thì cô qua mừng lắm.
- Vậy thì tính phứt đi cho rồi trì huỡn mà chi.
- Cô qua biểu sáng mai qua vô trong đặng cô dắt qua về Cái-Vồn
trước tính việc cưới vợ, sau tính việc thủ-hộ luôn thể.
- Ừ, hễ gặp dịp thì phải làm xấn tới !
- Qua còn lo một việc nầy: qua cưới vợ thì qua phải về dưới
Cái-Vồn. Em ở trên nầy em làm sao ?
- Ối ! Anh đừng có lo cho em. Anh phải lo việc của anh cho
xong đi mà. Phận em dễ lắm, thế nào cũng được hết.
- Cô Phủ bây giờ cô thương qua lắm. Hồi nãy qua than túng tiền,
cô lấy 200 đồng bạc cho qua mượn liền.
- Tại thím thấy anh có lúa phơi sân, nên thím cho mượn bạc chớ
gì.
- Để qua chia lại cho em một trăm đặng ở nhà em xài.
- Thôi, thôi. Em có tiền. Anh cất hết số bạc ấy mà dùng.
- Em phải nhớ rằng qua với em là bạn tri-kỷ, dầu qua có vợ,
chớ qua cũng chẳng quên em. Hễ qua về Cái-Vồn thì chắc qua hết nghèo. Vậy thì
lúc nào em có túng rối thì em viết thơ cho qua.
- Em rất cám ơn anh.
Ông Cử Hùng xếp hết quần áo bỏ vô một cái rương lớn.
Sáng bữa sau, ông kêu xe kéo mà chở vô Cầu-Kho. Cô Hai Phục
đưa ông ra cửa, chừng ông đi rồi cô cắn răng mà nói rằng : “Thiệt là thằng điếm
!”.
Ngày ấy cô kêu cu-li chở hết đồ đạc mà đem ra lạc-son mà bán,
chỉ chừa quần áo mùng mền mà thôi. Cô cũng kiếm người bán đôi bông hột xoàn.
Đôi bông ấy hồi trước Mái-chín Ngành mua tới 1,200$ mà cho cô, bây giờ cô bán
có 900$. Cô mua một đôi bông nhỏ 200$ mà đeo đỡ. Cô bán đồ đạc tom góp được 8
trăm rưỡi. Cô chán ngán nhân-tình thê-thái, cô hết muốn ở chốn phồn hoa nữa,
nên cô nhất định về Cai-Lậy cất một cái nhà lá nhỏ đặng ở mà lánh đời.
CHƯƠNG 17 - TÌNH XƯA NGHĨA CŨ
H
ồi 11 giờ trưa nắng chan-chan, có một cái xe-hơi lớn, sơn màu
đỏ, chở đầy hành khách, ở phía Sài gòn chạy xuống rồi ngừng ngang cái xóm nhà
phía tay mặt, trước khúc quanh vô chợ Cai-Lậy.
Cô Hai Phục trên xe leo xuống, tay cô ôm một cây dù cán cụt lợp
bằng lụa màu đen, chân mang giầy da đen, mà đầu cũng choàng khăn màu đen, vì trời
nắng gắt, nên cô lật-đật(#1) giương cây dù ra mà đứng dựa mé lộ, coi cho mấy
người lơ trên mui xe bỏ xuống cho cô một cái rương thiệt là lớn.
Xe chạy rồi, cô ngó vô xóm, nhắm ngoài đường; cô nhớ chỗ nầy
phải là chỗ Cai-Tuần Kim ở hồi trước, mà sao bây giờ lại có một cái nhà cao ráo
sạch-sẽ, tuy trên lợp lá, song dưới lót gạch, cột kê táng, vách bổ kho, coi đẹp-đẽ,
không phải xịt-xạt(#2) như hồi trước. Có một người sồn-sồn với một người trai ở
cái ngõ gần đó đi ra. Cô hỏi người sồn sồn ấy rằng :
- Thưa chú, không biết nhà nầy có phải là nhà của cậu Cai-tuần
Kim hay không ?
- Phải. Cô ở đâu mà hỏi Cai-tuần Kim ?
- Thưa, tôi ở trên Sài Gòn.
- Vợ chồng anh Cai-tuần Kim khuất hết rồi, còn đâu mà hỏi.
- Vậy hay sao. Bây giờ ai ở nhà nầy ?
- Thầy giáo Hiền nào?
- Thầy giáo Hiền là con của anh Cai-tuần Kim. Cô biết anh Cai
Tuần sao không biết thầy giáo ?
- À, à, tôi nhớ rồi. Anh Hiền đó bây giờ làm thầy giáo hay
sao ?
- Làm đã 15-17 năm nay lận mà.
- Chà. Hèn chi sửa nhà cửa lại coi tử tế quá. Không biết có ảnh
ở nhà hay không ?
- Có mà. Hồi tan học tôi thấy thầy về với mấy đứa học trò. Chắc
ăn cơm rồi thầy nghỉ trưa chớ gì.
- Để tôi vô thử coi. Hai bà con làm ơn khiêng dùm cái rương
tôi để trong cửa kia được hôn ?
- Được mà.
Cô Hai Phục đi trước, hai người khiêng cái rương theo sau vì
rương nặng nên đi cáng-ráng.
Thiệt quả thầy Hiền đang nghỉ trưa tại bộ ván nhỏ lót dựa cửa
sổ. Thầy nghe lụi-hụi, giật mình thức dậy, thấy cô Hai Phục bước vào cửa, song
mắt thầy còn ba chớp ba sáng, nên không biết là ai.
Cô Hai Phục vụt nói lớn rằng : “Anh Hai, cha chả, năm nay đã
có râu có ria lận mà”.
Thầy giáo đứng ngơ ngẩn.
- Cô Hai hỏi nữa rằng : “Anh quên tôi rồi sao ? Tôi là con Phục
đây.”
- Thầy giáo la lớn rằng : “ Ủa, em. Dữ ác hôn ! Tới năm nay
em mới trở về đây!”
Cô Hai Phục nghe mấy lời ấy, thì biết thầy giáo có ý trách
mình, nên cô bước lại bộ ván mà để cây dù rồi lột khăn và ngồi và nói rằng:
- Em quấy lắm. Anh trách bao nhiêu, em cũng chịu hết.
- Không. Qua trách em điều chi đâu. Em đi năm nay nữa là 19
năm. Qua thấy em qua mừng, nên qua nói như vậy chớ.
- Em về đây em mới hay cậu mợ mất hết. Thiệt em không dè. Cậu
mợ mất hồi nào vậy anh Hai ?
- Em đi vài ba năm kế ông già qua mất. Còn bà già qua mất mới
giỗ được một cái giỗ.
- Thiệt em lỗi quá. Hồi nhỏ em nhờ cậu mợ nuôi dưỡng mấy năm.
Chừng em khôn lớn, em không đền ơn cho cậu mợ được, mà chừng cậu mợ mất cũng
không có mặt em.
Cô hai nói tới đó rồi cô cảm xúc, rưng-rưng nước mắt, không
nói được nữa.
Người sồn-sồn khiêng rương dùm vô đó mới hỏi thầy giáo coi cô
Hai đó là ai. Thầy giáo đáp rằng : “ Cô Hai đây là con của bác Hương-thân Luông
hồi trước, chú mới về đây chừng 10 năm nay, chắc chú không biết.”
Hai người khiêng rương dùm bèn ngồi lại mà nói chuyện chơi.
Thầy giáo kêu thằng Phu là đứa ở đi chợ nấu ăn cho thầy mà biểu
nấu nước chế trà uống. Gần 2 giờ chiều, thầy thay đồ sửa-soạn đi dạy học. Thầy
nói với cô Hai rằng :
- Gần tới dạy học rồi. Có lẽ em về ở chơi lâu chớ ?
- Em tính về ở chơi lâu.
- Được lắm. Thôi em ở nhà chơi. Qua mắc đi dạy học, để chiều
về rồi nói chuyện nữa.
Thầy giáo đi dạy học.
Hai người khiên rương dùm đó cũng từ mà về.
Cô Hai bèn đi cùng trong nhà mà coi bề ăn ở của thầy giáo Hiền.
Cô không thấy dờn-bà, con nít, cô bèn hỏi thằng Phu rằng :
- Vợ con thầy giáo đi đâu vắng vậy em ?
- Bẩm thầy tôi ở một mình, có vợ con gì đâu.
- Ủa ! thầy giáo không có vợ hay sao ?
- Bẩm không. Thuở nay thầy tôi không có cưới vợ.
Cô Hai thấy trên bàn thờ giữa nhà có treo một bức tượng
“thánh-nhãn”, thì biết thầy giáo Hiền nhập đạo Cao-Đài. Cô thấy đâu đó đều sạch-sẽ
vén-khéo, trước sân lại có trồng bông, trồng kiểng, sau hè có trồng mít, trồng
xoài, có dọn chỗ để ngồi thưởng trăng, có xây hồ để nuôi cá, thì cô nức-nở khen
ngợi.
Cô coi trước coi sau đủ rồi cô mới mở rương lấy một bộ đồ mát
bằng lụa trắng ra mà thay. Cô rửa mặt, gỡ đầu, dồi phấn sơ-sịa, và vì cô đã có
sắc sẵn, nên tuy trọng tuổi song coi còn đẹp đẽ lắm.
Tan học Thầy giáo Hiền về, khí sắc hân hoan khác thường. Vừa
bước vô nhà thì thầy kêu thằng Phu mà biểu lên chợ kiếm đồ mua về dọn cơm cho
cô Hai ăn. Cô Hai cản mà nói rằng :
- Trong nhà có món gì ăn món nấy, cần gì phải mua thêm. Em về
đây em mừng quá, nên ăn vật gì chắc cũng ngon hết thảy.
- Trong nhà có vật gì mà cho em ăn.
- Vậy chớ anh nhịn đói hay sao ?
- Qua ăn chay trường, mỗi bữa dùng tương chao, rao rác, không
có cá thịt chi hết.
- Anh ăn chay trường hay sao ? Anh ăn chay thì em cũng ăn với
anh được mà.
- Sợ em ăn không quen rồi em ăn không no chớ.
- Được mà. Em đã nói em về đây em mừng lắm, nên ăn vật gì
cũng ngon hết.
- Em về đây thiệt em mừng lắm hay sao ?
- Mừng lắm.
- Vậy sao 19 năm nay em không chịu về một lần nào hết ?
Cô Hai nghe hỏi tới câu đó thì cô chúm-chím cười rồi nói rằng
: “Việc đó nói ra dài lắm, để thủng thẳng rảnh rồi em sẽ nói rõ công chuyện của
em cho anh nghe, anh mới hết trách em. Bây giờ để lo ăn cơm, vì hồi trưa em ăn
bánh mì nên đói rồi”.
Bữa nay nhằm ngày 12 âm lịch, nên mới tối thì mặt trăng đã
lên cao, dọi trước sân sáng quắc. Cô Hai bước ra ngồi trên cái băng bằng cây mà
ngó trăng hứng mát. Gió thổi hiu hiu đưa mấy chùm bông huệ quặc quà quặc quại,
rồi lại phất mùi thơm bát ngát. Vừng trăng vặc vặc soi gương mặt của cô Hai coi
sáng rỡ, miệng hữu duyên mắt hữu tình.
Thầy giáo đốt nhang cúng nước, đọc kinh vái lạy xong rồi thầy
xách một cái ghế ra sân để ngay trước mặt cô Hai mà ngồi. Thầy ngó mông một hồi
rồi thầy hỏi cô Hai rằng.
- Em tính về ở chơi chừng bao lâu ?
- Em đi 19 năm nay em đã thèm rồi. Em tính về đây kiếm chỗ cất
một cái nhà nhỏ mà ở đặng xa lánh thói đời là thứ làm cho em chán ngán, không
biết có được hay không ?
- Sao lại không được. Chung quanh đây còn bộn đất trống. Em
muốn cất chỗ nào thì em chỉ chỗ rồi qua nói với chủ đất cho em cất. Mà sao em
nói nghe như hơi em chán đời, em muốn tu vậy ?
Cô hai lặng thinh một hồi lâu, rồi cô thở dài mà nói rằng :
“Đời đáng chán lắm. Em không hiểu tu có ý nghĩa gì. Nếu tu mà trốn nợ đời được
thì em tu phứt cho rồi”.
Cô nín một hồi nữa rồi cô ngó thầy giáo mà hỏi rằng : “Em
nghe thằng Phu nói từ hồi nhỏ tới bây giờ anh không chịu cưới vợ, phải vậy hay
không anh Hai ? Tại sao mà anh không chịu cưới vợ ?”
Bây giờ tới lúc thầy giáo không trả lời.
Thầy ngồi cúi mặt xuống đất mà suy nghĩ. Cách một hồi lâu thầy
mới đáp rằng :
- Qua có chuyện buồn nên không muốn lập gia-thất làm gì.
- Nếu anh có chuyện buồn thì lại cần phải cưới vợ đặng có người
hủ-hỉ mà giải-khuây cho anh chớ.
- Giải khuây sao cho được.
Thầy giáo vụt đướng dậy mà chắp tay sau đít thủng thẳng đi ra
lộ, dường như thầy không nghe câu của cô Hai hỏi thầy vậy. Cô hai lấy làm lạ
nên ngồi ngó theo, cách một lát, thầy trở vô, cô bèn nói rằng : “Em coi bộ anh
buồn quá. Anh có chuyện gì uất trong lòng xin anh nói cho em hiểu một chút. Em
đây là em của anh ở trong nhà, chớ phải người xa lạ gì hay sao mà anh dấu”.
Thầy giáo thở dài và đáp rằng :
- Việc buồn của qua không thể nói ra được, nhứt là khó nói
cho em hiểu.
- Tại sao vậy ? Anh không tin bụng em hay sao ?
- Không phải qua không tin em. Sợ nói ra cho em nghe rồi em
không tin chớ. Mà thôi, nói làm chi; nói ra thì phải loạn tâm loạn trí, chớ không
ích gì. Qua tu đã lâu rồi …… thôi …… chuyện cũ không nên nhắc lại.
- Anh nói dụt-dặt, em nghe em tức quá, nên bắt hỏi hoài. Anh
tu thì tu, chớ tu rồi không tỏ cái việc buồn ra được ?
Thầy giáo ngồi ngó cô Hai trân-trân.
Yến trăng tỏ rạng, ngọn gió lai-rai, mặt mày cô sáng rỡ như
hoa nở sớm mai, quần áo cô phất-phơ, lại bay mùi thơm bát ngát. Tứ bề im-lìm lặng-lẽ,
chỉ nghe tiếng dế than thở trong đám cỏ mà thôi.
Thầy ngắm cảnh nhắm người, rồi sanh mối cảm xúc trong lòng,
không thể dằn nữa được, nên thầy thở ra một cái rất dài mà nói rằng : “ Qua buồn,
qua không thèm cưới vợ, qua tu niệm trường chay đó là tại em, chớ không phải việc
gì khác đâu. Em biết hay chưa?”
Cô Hai ngó sửng-sốt thầy, cô chau mày biến sắc rồi hỏi nhỏ nhỏ
rằng :
- Thiệt như vậy hay sao ? Em có dè đâu !
- Bởi tại em không dè, nên qua mới buồn qua muốn chết đó. Em
nhớ hay không ? Ngày bà phủ ghé rước em, qua muốn cản, không cho em đi. Mà qua
thấy em hăng-hái muốn đi quá, nên qua không nỡ cản. Em đi rồi thì qua buồn rầu,
không còn muốn việc chi nữa hết; qua hết muốn học; mà cũng không thèm tưởng tới
việc tương lai. Lúc ấy qua như người lãng trí mất hồn, sợ cha mẹ rầy nên phải
đi học như thường, song vô trường ngồi cầm chừng, về nhà đi thẩn-thơ, sự sống của
qua không có mục-đích chi hết. Qua buồn quá rồi sanh ra cái lòng xấu : qua thầm
vái em lên ở với bà Phủ em bị cực khổ đáo để cho em chịu không nổi, đặng em trốn
mà về. Qua vái rồi qua đợi, đợi cho đến hơn 3 năm, ông già qua mất, qua được cấp
bằng làm thầy giáo, rồi qua coi nhựt-trình, qua thấy hình em họ in lớn đại, họ
lại nói em đoạt giải hoa-khôi sắc đẹp. Tờ nhựt-trình ấy qua còn cất để dành
trong tủ, lâu lâu qua lấy ra chơi cho đỡ giải buồn. Qua hay tin ấy thiệt mừng
cho em, mà qua lại buồn thêm cho phận qua, bởi vì qua hết trông em trở về nữa rồi.
Qua buồn hết sức, nên qua nhứt định không thèm cưới vợ. Tuy làm thầy giáo mà rồi
ban đêm qua tụng kinh niệm Phật, qua quyết theo tam-quy ngũ giới, trau dồi lục-căn
đặng dứt lục-trần. Qua tu theo Phật hơn 10 năm, mà sao qua vẫn còn tư tưởng em
hoài, qua mới day qua theo đạo Thầy mấy năm nay đây.
Thầy giáo nói một hồi, rồi thấy cô Hai móc khăn mu-soa trong
túi ra mà lau nước mắt. Thấy cô cảm xúc, thầy càng cảm thêm, nên nói không được
nữa !
Cô Hai cúi mặt lắc đầu nói rằng :
- Em không dè anh có tình với em, mà cái tình lại nặng nề đau
đớn quá như vậy. Chớ chi em biết thì dầu ở trên SaiGon mà ăn vàng em cũng không
thèm. Sao hồi em ra đi anh không tỏ thiệt cho em biết ? Vì khi thấy mặt nhau
anh mắc cỡ anh mở miệng không được, sao từ khi em đi rồi cho tới bây giờ anh
không chịu gởi thơ mà nói cho em hay ?
Thầy giáo đáp rằng :
- Qua không biết em có thương qua không mà qua dám nói.
- Phải nói thiệt ra rồi mới biết em thương hay không chớ. Lỗi
lại anh không nói ra, chớ không phải tại em đâu. Mà thôi, bây giờ em xin lãnh
cái lỗi ấy. Em hứa từ đây tới già em sẽ làm cho anh hết buồn rầu đặng em chuộc
lại lỗi của em. Anh chịu hay không ?
Thầy giáo ngồi ngẫm nghĩ một hồi rồi nói rằng : “Như vầy mà
tu giống gì nữa được !”
Cô Hai cười. Thầy giáo ngó cô, thầy cũng cười.
Cái tình của cô đã có cái tình khác chiếu đối, ở một bên mà
cô không hay, để cho cô dung rủi 19 năm trường, xông pha gió bụi, dày dạn thị-phi,
khi phải uất thói đời, khi phải mang mặt giả.
Còn cái công tu niệm của thầy chất-chứa mười mấy năm trường,
bị chữ tình trong giây phút đều vỡ tan sụp đổ hết.
Hai người đều không dè cuộc đời xoay vần như vậy, không dè đã
tan mà rồi lại hiệp, ngại ngùng còn sợ nỗi hiệp rồi mà có tan nữa hay không.
Trăng trong gió mát, thầy tỏ lòng hoài vọng, cô kể chuyện phong trần, thầy rõ
tâm-sự của cô, thầy càng yêu, cô được biết tình cảm của thầy, cô càng mến, một
nhà vui-vẻ, quên hết ưu sầu.
Chú thích:
(1-) lật đật
(2-) xệch xạc, lôi thôi
CHƯƠNG 18 - BẠN CŨ CHUYỆN XƯA
T
hầy giáo Hiền và cô Hai Phục sánh duyên với nhau đã được hơn
3 năm.
Thầy đi dạy mỗi tháng lãnh lương 45 đồng bạc. Cô ở nhà hằng bữa
lo cơm nước, coi cho trẻ ở lau chùi bàn ghế, chỉ cho học trò nhổ cỏ tưới bông.
Hễ có buồn thì thầy đọc truyện cho cô nghe chơi, hoặc cô khảy đờn và ca nhỏ nhỏ
cho thầy giải muộn. Cái cảnh an nhàn đầm ấm nầy làm cho vợ chồng say sưa mà
quên hết những mùi gió bụi, quên hết những thói lợi danh của đời.
Một buổi chiều chúa nhật, vợ chồng ăn cơm sớm rồi nằm với
nhau trên một bộ ván nhỏ nằm tựa cữa sổ mà hứng mát mà luận việc đời. Thầy cảm
hứng mà nói với cô rằng : “Em nghĩ đó mà coi, ở đời nào nghĩ phải làm giàu cho
to, làm quan lớn, mới được hưởng hạnh phước. Cái hạnh phước ở trước mặt mỗi người,
tại mình nịch chữ lợi danh, nên nó mới xa mình, rồi mình tìm không được chớ.
Qua lấy làm tiếc quá. Tại em bỏ lên SaiGon mà mình mất hạnh phước hết 19 năm,
chớ chi em ở nhà thì mình hưởng hạnh phước trọn đời, không mất năm nào hết “.
Cô Hai lắc đầu đáp rằng : “Em tưởng không phải vậy đâu. Nhờ
em lưu lạc 19 năm đó nên bây giờ em mới được hưởng hạnh phước thảnh thơi đây a
anh. Em mắc “nợ đời” em phải trả cho xong. Rồi em mới rảnh rang được chớ. Anh
chẳng nên tiếc, mà anh cần phải cầu nguyện cho nợ đời của em dứt thì mình hưởng
hạnh phước mới lâu dài.”
Cô nói tới đây rồi cô ngồi dậy; cô ngó ra cửa mà ngẫm nghĩ một
hồi lâu rồi cô day vô ngó thầy mà nói giọng buồn :
- Em coi nợ đời của em chưa dứt.
- Em còn nhớ chuyện cũ người xưa nữa làm chi, mà em nói như vậy.
- Xin anh đừng nghi bụng em chớ. Nếu anh nghi thì nhục cho em
quá. Vợ chồng ở với nhau hơn 3 năm rồi anh chưa tin lòng dạ em hay sao ? Em thường
nói với anh, em coi sự phú quí như đôi giày rách không có giá trị gì, bởi vì em
có nếm thử rồi. Còn về cái tình, thì trong đời nầy chỉ có một mình anh đối với
em, anh có cái tình thiệt mà thôi. Em sợ em chưa trả dứt nợ đời, là vì em có một
đứa con, mà thuở nay mẹ con lìa nhau, em đẻ con mà em không nuôi dưỡng nó nên
em sợ tội lỗi chỗ đó chớ.
- Việc đó em sợ cũng phải. Mà em nói hồi em sanh nó ra rồi,
em đổi nó cho một cô nhà giàu. Nó được về tay kẻ giàu có thì tự nhiên nó no ấm,
chớ có thất dưỡng đâu mà em sợ.
- Cuộc đời dời đổi, mình biết đâu được mà dám chắc.
Hai vợ chồng đàm luận tới đó thì có một người thình-lình bước
vô cửa mà hỏi lớn rằng : “Xin lỗi, không biết nhà nầy phải là nhà của thầy giáo
Hiền hay không vậy ông ?”
Trời đã chạng vạng tối. Hai vợ chồng thầy giáo ngó ra, không
biết ai, chỉ thấy một người đờn bà tuổi trên 50, mình mặc y phục nhuộm màu dà
theo mấy bà vãi, chân không có giầy guốc, đầu choàng hầu khăn đen, tay xách một
cái giỏ nhỏ.
Thầy giáo vừa leo xuống đất vừa đáp rằng : “ Thưa, phải. Bà ở
đâu mà hỏi thăm thầy giáo Hiền ? “
Bà ấy chỉ cô Hai và cười và nói : “Có con Hai kia ! Hai, em
quên chị hay sao?”
Cô Hai lại gần dòm bà ấy, rồi ôm ngang mình Bà mà nói lớn rằng
: “Ủa chị Ba ! Chị đi đâu mà mấy năm nay em hỏi thăm cùng hết không ai biết chị
ở đâu mà chỉ ? sao chị biết em ở đây mà chị tìm ? “
Người đờn bà nầy là Ba Có.
- Chị ta để cái giỏ lên trên bàn, lột cái khăn đen thì lòi đầu
trọc lóc. Chị ta nói rằng: “Qua đi tu từ đó cho đến bây giờ, em kiếm sao ra”.
Cô Hai day lại nói với thầy giáo rằng : “Chị Ba đây là người
nuôi dưỡng dạy dỗ em hồi trước, em thường có nói với anh đó”
Thầy giáo bước lại chào Bà Có và nói rằng : “Cô Hai thường nhắc
nhở chị hoài. Nay tình cờ mà chị tới đây cho em biết, thiệt em mừng lắm. Mời chị
ngồi”.
Cô Hai hỏi Ba Có nữa rằng :
- Sao chị biết em ở đây ?
- Qua về SaiGon kiếm em không có. Qua chắc em về Cai-Lậy nên
qua xuống đây. Qua hỏi thăm bên chợ, biết em, họ nói em bây giờ làm bạn với thầy
giáo, rồi họ chỉ nhà cho qua lại đây.
- Em gặp chị em mừng quá. Thôi, chị ở đây với em. Chị muốn tu
ở nhà tu cũng được, cần gì phải đi đâu. Thầy giáo đây cũng tu vậy. Mà nếu chị
chịu ở đây chị tu, thì có lẽ em cũng tu với chị.
- Không được. Chị có am riêng. Chị ở đây rồi bỏ am cho ai.
- Am của chị ở đâu?
- Ở trên núi ông Tô.
- Núi ông Tô ở đâu lận?
- Thuộc về núi thất sơn, ở gần chợ Xà-Tón.
- Thuở nay em không biết. Ủa! mà quên nữa chớ. Để nấu cơm cho
chị ăn, gặp nhau mừng quá, cứ nói chuyện hoài.
- Không. Qua ăn cơm bên chợ hồi nãy rồi.
- Bất nhơn dữ hôn! Sao không qua đây, lại ăn ngoài chợ nữa vậy?
- Qua ăn chay, mua cơm với ít trái chuối mà ăn thì đủ rồi.
Qua sợ kiếm em không được, nên xe xuống tới là qua lo cơm nước cho xong rồi qua
mới đi hỏi thăm.
Thầy giáo kêu thằng phu, biểu đốt đèn nấu nước, chế trà mới
mà đãi khách. Còn Cô Hai thì múc nước cho Ba Có rửa mặt, rồi trải chiếu đem gối
mời chị ta nằm nghỉ.
Ba Có hỏi Cô Hai Phục tại làm sao đã đùa Quan Đốc Phủ Thần mà
theo ông cử Hùng, rồi lại trở về Cai Lậy mà lập gia thất với thầy giáo. Cô Hai
ngồi khỉ khâm thuật hết công chuyện lại cho Ba Có nghe, cô nói ở với ông Cử 12
năm, lần hồi tiêu hết xe hơi, hột xoàn cùng là tiền bạc, rồi ông Cử ham giàu bội
nghĩa, nghe lời Bà Phủ Tăng đi cưới vợ, cô hờn nên trở về Cai lậy mà lánh thói
đời; chẳng dè về đến đây hay thầy giáo nặng tình với cô, nên cô phải lấy nghĩa
mà báo đáp. Cô kể đủ mọi đều, không dấu-diếm chỗ nào hết, rồi cô lại nói rằng:
“Em đụng thầy giáo ba năm nay, trí em rất nhàn lạc, thân em rất an ổn, bây giờ
em đã biết hạnh phước là cái gì rồi, không phải lúc em có tiền bạc nhiều, hay
là lúc em dựa người cao sang mà em có cái hạnh phước như vầy đâu. Bởi vậy em
không tiếc cái chức bà “Đốc Phủ” sang trọng, mà em cũng không phiền cái thói
ông Cử Nhơn bạc bẽo, sợ e làm bà Đốc hay bà Cử cũng không được hưởng cái hạnh
phước nầy.”
Ba Có chau mày nói chậm rãi rằng:
- Từ ngày chị phiền em, chị bỏ em mà đi tu, chị lo có một đều,
là lo em máng tay ông cử Hùng mà em phải bị khổ não...........
- Chị đoán thiệt là đúng lắm. Chánh thằng điếm, chớ không có
tình nghĩa chi hết.
- Tại em bị tình nặng ám mắt em nên em không thấy, chị là người
đứng ngoài vòng, chị sáng suốt hơn em, nên nghe tiếng thấy bộ, thì đã biết tâm
ông cử rồi, có lạ gì đâu.
- Hồi trước em cãi lời chị, vậy mà chị còn hờn em hay không?
- Hồi đó chị giận em thiệt, song giận là vì sợ em bị hại, chớ
không phải là sợ cái ý gì khác đâu. Thôi, bây giờ chị thấy em hưởng hạnh phúc
thì chị vui lắm, còn hờn nỗi gì nữa.
- Tại sao chị cạo đầu đi tu? Chị nói cho em nghe thử coi. Đi
tu chi vậy? Mười mấy năm nay chị tu, mà trí chị có được an tịnh hay không?
Ba Có ngồi lặng thinh, coi ý không muốn tỏ việc của mình. Thầy
giáo thấy vậy bèn bước tránh ra ngoài sân, ý muốn cho chị em thông thả mà nói
chuyện. Ba Có bèn kêu mà nói rằng: “Thầy giáo ngồi đây chớ. Chị em tôi có chuyện
gì giấu thầy đâu mà thầy phải ái ngại”.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét