Ngọn cỏ gió đùa 2
CHƯƠNG 12 - QUYỂN THỨ III - NẮNG TÁP MƯA SA
Những kẻ độc ác chẳng có giờ nào mà chẳng tính chuyện hại người.
Ðỗ-Cẩm tuy bị đánh nứt da lòi thịt, ngày như đêm cứ nằm sấp
trên giường mà khóc, không bước ra khỏi nhà được, song lúc nào bớt đau bớt nhức
thì anh ta thầm tính hễ lành bịnh rồi sẽ đi kiếm bà con Vương-thể-Hùng mà hăm dọa,
hoặc may họ sợ tội lây, họ lo lót chút đỉnh tiền mình ăn.
Những người theo Lê-văn-Khôi đều bị chết chém hết thảy. Thể-Hùng
theo Khôi, tuy đã bị thương chết rồi, song nếu quan họ hay Thể-Hùng làm phản,
thì cha mẹ vợ con cũng khó ngồi yên.
Ðỗ-Cẩm nhớ lại ngày trước Thể-Hùng có nói tổ quán ở Bến-Lức,
song đã dời nhà về ở Vũng-Gù. Vậy nếu tìm trong hai xứ ấy cho kỹ thì ắt ra mối.
Mà khi Thể-Hùng gần chết, anh ta có cho mình một chiết vòng đồng. Vòng là đồ nữ
trang sao anh ta lại giữ trong mình? … Chuyện cũng kỳ! … Mình lếu quá, lúc mình
cõng anh ta đem vô rừng rồi, mình lại bỏ mà đi liền, không thèm gạn hỏi coi cha
mẹ vợ con gì, nhà cửa ở đâu, chớ chi mình hỏi kỹ thì bây giờ dễ kiếm lắm.
Ðỗ-Cẩm nằm hoài, đến ba tháng mới lành mấy lằn roi.
Anh ta đi được rồi, liền tuốt lên Bến-Lức mà hỏi thăm cha mẹ
bà con của Thể-Hùng.
Có người biết thì họ nói cha mẹ của Thể-Hùng chết hết, còn Thể-Hùng
bỏ xứ đi đâu không biết, đã gần mười năm rồi không thấy trở về làng. Ðỗ-Cẩm
không thối chí, lần-lần trở qua Vũng-Gù mà hỏi thăm nữa. Anh ta đi từ xóm mà hỏi,
nhưng vì lúc Thể-Hùng ở nhà ông Ðàm-tự-Chấn không giao tiếp với ai, nên không
ai biết mà chỉ.
Một bữa nọ Ðỗ-Cẩm đi tới nhà ông Ðàm-tự-Chấn. Khi bước vô
sân, thì thấy Tự-Chấn trong nhà đi ra, tay cầm cái mác, coi bộ hầm-hừ lắm. Tự-Chấn
thấy Ðỗ-Cẩm dị hình dị dạng thì mắt ngó lườm, miệng hỏi rằng:
- Chú đi đâu đây?
Ðỗ-Cẩm và thụt lui và đáp rằng:
- Tôi đi kiếm bà con của anh Vương-Thể-Hùng.
Tự-Chấn thấy hình dạng của Ðỗ-Cẩm đã ghét rồi, mà nghe nói tới
tên Vương-thể-Hùng thì lại nổi giận, nên nạt lớn rằng:
- Ế! Ði ra cho mau, ai biết Thể-Hùng Thể-Hèo nào mà hỏi! Ta
cho một mác đứt đầu bây giờ.
Ðỗ-Cẩm nghe lời gây-gổ quá như vậy thì kinh lắm, nên ríu-ríu
bước ra không dám hỏi nữa.
Khi ở nhà đi ra thì Ðỗ-Cẩm lấy làm chắc ý, chừng trở về sẽ có
bạc tiền. Chẳng dè đi hơn nửa tháng mà không tìm được bà con Thể-Hùng, bởi vậy
chừng trở về nhà chỉ mang một cái bụng đói, với một cặp giò mỏi, lưng không có
một đồng tiền nào hết. Thị-Phi thấy chồng về mặt mày buồn xo, thì biết đi về
không [16], rồi nên tỏ sắc giận, không thèm hỏi tới.
Ðỗ-Cẩm lén xuống bếp kiếm cơm nguội mà ăn, bộ xẻn-lẻn, và ăn
và ngó chừng vợ. Cơm nguội còn chừng một chén, nên anh ta ăn hết rồi mà chưa
no, mới lấy vá (muỗng lớn dùng xúc cơm hay múc canh) cạo đít nồi mà cạy cơm
cháy khua lộp-cộp. Thị-Phi ở nhà trên óng tiếng la rằng:
- Làm cho bể nồi đi! Ði đâu hổm nay rồi bây giờ về lục nồi lục
ơ đó?
Ðỗ-Cẩm nín khe một hồi, nửa muốn đem cái nồi đi cất, nửa tiếc
về [17] cơm cháy, nên nghiêng mình ngoáy cổ ngó chừng vợ rồi cạy nhẹ nhẹ, không
dám cho vợ nghe nữa. Anh ta đương cạo nồi bỗng nghe vợ hỏi lớn rằng:
- Dữ hôn! Mầy đi đâu mà lạc đến đây?
Rồi lại thấy có một nàng bồng con xăm-xăm bước vào nhà. Anh ta
không biết là ai, lật-đật đem cất cái nồi, ngay cổ nuốt phứt búng [18] cơm
cháy, rồi lấy vạt áo chùi miệng và bước lên nhà trên.
Ðỗ-Cẩm ngó thấy Lý-ánh-Nguyệt đương lum khum để một đứa nhỏ,
chừng năm sáu tuổi, đứng xuống đất, thì anh ta chưng hửng. Vì cách nhau đã 6
năm, bởi vậy gặp nhau cả 3 người đều mừng, nên hỏi nhau lăng-xăng.
Ðỗ-Cẩm thấy Ánh-Nguyệt tuy quần áo lang thang, tuy tay chơn
lem-luốc, nhưng mà gương mặt còn sáng rỡ, bộ tướng còn dịu dàng, nhắm thế chắc
nghèo nàn, mà nhan sắc càng xinh đẹp.
Ánh-Nguyệt ngồi ghé tại đầu ván, kéo con Thu-Vân đứng trong
lòng rồi lột khăn lau mồ-hôi cho con. Thị-Phi hỏi:
- Con nhỏ nầy là con của ai? Hải-Yến bây giờ ở đâu, còn mầy
đi đâu?
Ánh-Nguyệt rưng-rưng nước mắt mà đáp:
- Con của tôi chớ con ai! … Hải-Yến thi đậu rồi bỏ tôi đi về
An-Giang, mấy năm nay biệt tích. Mẹ con tôi bơ-vơ nghèo khổ hết sức, rồi lại bị
giặc-giã xiêu lạc, nay ở chỗ nầy, mai ở chỗ kia, khi cấy mướn, khi may vá kiếm
cơm mà ăn, trôi nổi mấy năm nay bây giờ mới tới đây, chớ có nhà cửa chi đâu.
Khi Hải-Yến bỏ tôi thì tôi có qua kiếm chú thím, té ra nhà cửa đã dỡ đi đâu mất
hết, tôi hỏi thăm người lân cận họ nói chú thím về Vũng-Gù. Tôi muốn đi tìm chú
thím đặng kể chuyện bạc-bẽo của Hải-Yến cho chú thím nghe, ngặt vì khi trước
tôi bị mang-mển trong lòng, nên phải nấn ná ở Gia-Ðịnh mà nuôi con. Lúc trong
thành Gia-Ðịnh nổi giặc, tôi kinh tâm bỏ nhà bồng con mà chạy. Phần thì tôi
không biết đường sá, phần thì tôi sợ hãi, nên cứ chạy theo thiên-hạ, họ chạy ngả
nào tôi theo ngả nấy, bởi vậy xiêu-lạc lên tới Bến-Lức. Chừng tôi nghe yên giặc
rồi, tôi mới lần-lần đi xuống mà tìm chú thím đây.
Thị-Phi nghe Ánh-Nguyệt nói sơ mấy điều thì xụ mặt chau mày;
còn Ðỗ-Cẩm lại chúm-chím cười, dường như vui mà nghe được sự khốn khó của người
khác. Thị-Phi không có con, mà thấy con Thu-Vân ngộ-nghĩnh, nói tiếng ráo-rẻ,
gương mặt sáng trưng, thì đem lòng thương, nên theo vuốt-ve rờ-rẫm hoài.
Trời vừa xế qua, nhưng mà Thị-Phi lấy nồi đi vo gạo nấu cơm
trong ý muốn nấu sớm mà ăn, đặng cho mẹ con Ánh-Nguyệt ăn luôn thể. Ăn cơm rồi
mà trời mới nửa chiều. Thị-Phi ôm bó lác lại ngồi dựa gốc cột mà đánh võng.
Ánh-Nguyệt với Thu-Vân lại ngồi gần một bên, còn Ðỗ-Cẩm thì
đi xách nước tưới rau sau hè. Thị-Phi biểu Ánh-Nguyệt kể hết đầu đuôi việc Hải-Yến
bạc-bẽo cho mình nghe. Ánh-Nguyệt day qua ngó Thu-Vân rồi cúi mặt xuống, miệng
chúm-chím cười mà không chịu nói.
Ðến tối, Thu-Vân ngủ rồi, Ánh-Nguyệt mới thỏ-thẻ kể rõ đầu
đuôi sự Hải-Yến bạc tình bội nghĩa cho vợ chồng Ðỗ-Cẩm nghe. Ðỗ-Cẩm nghe rồi vụt
nói rằng:
- Nếu Hài-Yến thi đậu thì chắc năm nay nó đã làm quan. Vậy để
tao hỏi dọ coi nó làm quan tại xứ nào, tao đến đó tao rầy nó. Nó sợ xấu chắc nó
cũng phải lòi tiền bạc mà cho mẹ con mầy.
Ánh-Nguyệt chau mày đáp rằng:
- Chú đừng có làm như vậy, người còn không phải, thứ tiền bạc
mà kể gì. Tôi chẳng hề tham tiền của kẻ bội nghĩa đâu.
Thị-Phi xen vô mà nói rằng:
- Tiền bạc sao lại không thèm. Mình nghèo, nếu họ đưa tiền mà
mình không lấy thì té ra mình dại. Nhưng mà tao nghĩ dầu tìm cho được Hải-Yến,
cũng không dễ gì lấy tiền nó được đâu. Bây giờ nó làm quan, mình tới mình nói
xính cường, nó nổi giận nó thộp đầu mình mà bỏ tù càng khổ mình nữa. Mình là
dân, người ta là quan, mình cự sao cho lại.
Ðỗ-Cẩm nghe vợ nói như vậy thì khen phải.
Còn Ánh-Nguyệt trề môi, cười gằn, song không nói chi hết.
Thị-Phi ngồi suy nghĩ một hồi rồi ngó Ánh-Nguyệt mà nói rằng:
- Thôi, thứ đồ bạc mà kể đến nó nữa mà chi, bỏ nó đi, lo kiếm
chồng khác làm ăn. Cháu cũng chưa bao lớn tuổi, đã vậy mà nhan sắc của cháu coi
cũng còn ngộ lắm. Ðờn ông con trai thiếu gì người thấy cháu họ nhểu nước miếng.
Ðể thủng-thẳng thím coi chỗ nào giàu có, thím làm mai dùm cho mà nhờ tấm thân.
Nếu kiếm được chỗ họ chết vợ thì sướng, bằng không thì làm bé cũng chẳng hại
gì.
Ánh-Nguyệt nghe mấy lời khuyên bất nhã đó thì nàng hổ ngươi
nghẹn cổ, nên nàng cúi đầu rưng-rưng nước mắt, rồi nhỏ nhẹ đáp rằng:
- Cháu lấy chồng nữa sao được. Phận cháu là gái, sống thác thờ
một chồng mà thôi. Chồng cháu nó ở bạc, thì lỗi về nó chịu; nếu cháu giận lẫy
mà cải giá, thì cháu lại càng quấy hơn nữa.
- Ôi! Ðời nầy mà kể gì phải quấy, miễng là có tiền nhiều, cho
sung sướng tấm thân thì thôi mà!
- Thím nói như vậy sao phải. Cháu là đứa có học, cháu phải trọng
danh dự trinh tiết chớ.
- Trinh tiết làm gì? Trinh tiết mà quần áo lang thang, trinh
tiết mà đói cơm khát nước, trinh tiết mà ngủ bờ ngủ bụi, trinh tiết mà cực khổ
tấm thân; còn họ bạc tình mà họ lên võng xuống dù, họ nhà cao cửa lớn, họ nằm nệm
bông gối gấm, họ ăn mâm cao cỗ đầy, mình dại gì mà giữ trinh tiết cho thiệt
thân.
Ánh-Nguyệt nghe như vậy lại càng đau-đớn trong lòng, nên ngồi
khóc ngay không còn lời chi đáp.
Ðỗ-Cẩm mới hỏi rằng:
- Nếu cháu không chịu kiếm chồng khác, thì cháu làm nghề gì
cho có cơm mà ăn? Cháu cũng biết, chú thím không phải giàu có chi đây mà nuôi
cháu cho nổi. Hay là cháu muốn về xứ mà tìm cô bác bà con.
- Thưa chú thím, từ khi chồng cháu nó bỏ cháu cho đến nay,
thiệt cháu muốn trở về xứ mà tìm bà con cô bác lắm. Ngặt khi ra đi, cháu không
có chồng, bây giờ trở về, cháu cũng không có chồng mà lại có con. Thoảng như bà
con xóm riềng người ta hỏi chồng cháu ở đâu, con đâu mà bồng đó, thì cháu biết
lấy lời chi mà đối đáp. Nếu cháu nói thiệt thì ai tin cho cháu. Còn như nói dối
thì nói sao cho xuôi. Vì có cáo cớ đó, nên mấy năm nay cháu muốn về xứ, mà sợ xấu
hổ không dám về.
- Cháu phải một là lấy chồng khác, hai là phải về xứ mới yên
thân.
- Phải chi chú thím làm phước cho cháu ở đây với chú thím.
- Không được. Mà như muốn ở, hễ tao gặp chỗ nào giàu có, tao
gả cho họ, thì phải ưng, chớ không phép vặn nài bẻ ách[19] như trước nữa, chịu
hôn?
Ánh-Nguyệt suy nghĩ một hồi rồi đáp rằng:
- Thà là cháu chịu cái nhục trở về xứ, chớ cháu không đành chịu
cái nhục lấy chồng khác.
Ðổ-Cẩm nói:
- Tự ý cháu.
Trời đã khuya rồi, Ðỗ-Cẩm gài cửa rồi vợ chồng dắt nhau vào
trong buồng mà ngủ.
Ánh-Nguyệt với Thu-Vân nằm trên cái sập ở ngoài, muỗi ào-ào
áp cắn. Con Thu-Vân nguy không biết sợ, khổ không biết lo, nên nằm ngửa
chòng-chòng mà ngủ. Ánh-Nguyệt ngồi một bên con, tay cầm vạt áo phất qua phất lại
mà đuổi muỗi, hồn vởn-vơ nơi cố lý, trí nghĩ ngợi nỗi cựu tình, tính việc sẽ tới,
nhớ việc đã qua, đôi tròng giọt lụy chứa chan không ngăn đặng. Nàng ngồi suy tới
nghĩ lui, buồn rồi lo, lo rồi tính, chờ đến mặt nhựt rạng đồng, gà đua gáy
sáng, nàng mới nằm mà nghỉ.
Chằng biết đêm ấy nàng toan liệu phận nàng thế nào, mà sáng
ngày sau, vợ chồng Ðỗ-Cẩm vừa thức dậy thì nàng nói mà gởi con Thu-Vân ở ít
ngày, đặng nàng đi về Cần-Ðước tìm chú với cậu mà thăm coi còn mạnh giỏi hay
không. Ðỗ-Cẩm nghe nói thì chau mày đáp rằng:
- Úy! Ðược đâu nà! Giao thứ tội báo đó, ai dám lãnh. Vợ chồng
tao nghèo, làm hết sức cũng chưa đủ mà đút vô miệng. Bây giờ mầy gởi con mầy, lớp
thì phải chạy cơm cho nó ăn, lớp thì phải giữ nó nữa, ai chịu cho nổi.
Ánh-Nguyệt nhỏ-nhẹ nói rằng:
- Thưa chú, con nít mà ăn hết bao nhiêu cơm. Mà nó chơi một
mình được, chú thím coi chừng coi đổi nó vậy thôi, chớ cũng khỏi giữ. Cháu về xứ
tìm chú và cậu của cháu trong ít ngày, như cháu gặp và như cháu liệu có thế
nương náu được, thì cháu sẽ trở lên đây mà rước con Thu-Vân. Còn như cháu tìm
không gặp, hoặc gặp mà không có thế được, thì cháu cũng trở lên đây liền, đặng
mẹ con cháu tính thế khác. Bề nào cháu cũng trở lên, cháu không nỡ lìa con cháu
lâu đâu mà chú sợ.
Thị-Phi vốn không con, lại thấy con Thu-Vân ngộ-nghĩnh thì
thương, nên muốn lãnh con Thu-Vân mà nuôi, bởi vậy đáp rằng:
- Ðược. Mầy muốn gởi thì để nó ở đó. Mầy muốn cho đứt nó tao
cũng chịu nữa.
Ðỗ-Cẩm trợn mắt ngó vợ mà nói rằng:
- Nuôi làm gì? Mầy giàu lắm há, nên ai mầy cũng muốn nuôi hết
thảy.
Anh ta lại day qua ngó Ánh-Nguyệt mà nói tiếp rằng:
- Không được đâu. Mầy nói mầy gởi ít bữa, mà biết đi rồi mầy
có trở lại hay không?
- Thưa chú, có lý nào mà cháu không trở lên. Vì việc bức lắm
nên cực chẳng đã cháu mới tạm lìa con cháu, chớ tình mẹ con, thà là cháu chết,
cháu đâu nỡ bỏ nó mà chú lo.
- Không lo sao được. Mầy bỏ đây rồi mầy báo hại người ta chớ.
Mà tao hỏi gắt một điều nầy -- mầy gởi nó lại đây mấy bữa?
Ánh-Nguyệt trầm ngâm một lát rồi đáp rằng:
- Chừng một tháng.
- Lâu quá! Chừng 10 bữa nữa vợ chồng tao mắc đi Bến-Tranh, rồi
ai mà giữ nó?
- Thưa chú, cháu nói một tháng đó là nói phòng hờ, vì đường
sá xa xôi cách trở nên cháu phải nói nhiều ngày một chút, chớ không biết chừng
mười bữa hoặc nửa tháng, thì cháu sẽ trở lên.
- Tao không nói dài chi nữa. Mầy nói vài bữa mầy trở lên, mà
tao làm sao dám tin. Vậy tao nói trước một cái, như mầy gởi đôi ba bữa thì được,
chớ gởi lâu phải chịu tiền cơm và tính công giữ.
- Trời ôi! Cháu không có một đồng một chữ, tiền đâu mà trả.
- Như không có tiền, thôi thì bồng nó theo.
- Chẳng phải là cháu không muốn bồng con cháu theo, ngặt vì bổn
phận của cháu khó liệu lắm, nên cháu mới tính gởi nó ở lại đây với chú thím.
- Việc gì mà khó liệu?
- Chú nghĩ đó mà coi, phận cháu là gái, dầu cha mẹ khuất hết,
song cũng còn cậu cô chú bác. Khi cháu lấy chồng, cháu không đợi lịnh chú với cậu,
bây giờ bồng con về, thoảng như chú với cậu của cháu hỏi cháu lấy chồng hồi
nào, ai đứng mà gả, thì cháu biết lấy lời chi mà đối đáp. Vì vậy cháu mới xin gởi
con nhỏ ở lại đây.
- Dữ ác! Tưởng là chuyện gì nữa! Thứ chuyện như vậy mà lo dữ
hôn!
- Thưa, cháu là con nhà học trò, nên phải lo sợ về danh tiết,
về lễ nghĩa.
- Ừ, mầy lo giống gì thì lo. Tao nói như vậy đa. Như muốn gởi
con ở lại đây thì phải tính tiền cơm với công giữ.
Ánh-Nguyệt ngó ra cửa mà thở dài, không có lời chi mà đáp.
Thị-Phi bèn nói với chồng rằng:
- Nó đã nói nó không có tiền, thì nó làm giấy biếu. Nó về dưới
xin tiền bà con rồi chừng nào nó trở lên rước con nhỏ thì nó trả cũng được. Tôi
ở cũng là rộng rãi, chớ có gắt gao gì đâu.
- Ờ, mình tính như vậy thì hoặc may được, chớ bây giờ buộc nó
phải trả tiền trước thì tiền đâu nó có.
Ánh-Nguyệt ngồi lặng thinh mà nghe hai vợ chồng Ðỗ-Cẩm nói với
nhau. Nàng suy nghĩ giây lâu thì hỏi Ðỗ-Cẩm rằng:
- Như chú cho cháu làm tờ thì có lẽ được. Mà cháu gởi con nhỏ
ở lại đây, chú tính bao nhiêu tiền?
- Và tiền cơm và công giữ mỗi tháng một quan.
- Cha chả! Chú tính như vậy thì thành ra một năm tới 12 quan,
tiền đâu cháu trả.
- Mầy gởi nó một năm lận sao? Mầy nói mầy đi chừng mười bữa
hoặc nửa tháng mà mầy sợ nỗi gì.
Ánh-Nguyệt ngồi trầm-ngâm một hồi nữa rồi nàng chịu.
Ðỗ-Cẩm đi lại đàng xóm xin một tờ giấy và mượn viết mực đem về
cho Ánh-Nguyệt làm tờ. Ánh-Nguyệt làm tờ mướn vợ chồng Ðỗ-Cẩm nuôi con Thu-Vân
tiền công giữ và tiền cơm tính mỗi tháng một quan, y theo lời Ðỗ-Cẩm buộc.
Ánh-Nguyệt tính bữa sau lối mặt trời rạng đông thì nàng tìm
đường đi bộ mà về Cần-Ðước.
Con Thu-Vân tuy còn khờ dại, nhưng mà có lẽ nó hiểu mẹ nó sẽ
lìa nó hay sao nên ngày ấy nét mặt nó coi hết vui, mẹ nó ra vô nó cứ lẩm đẩm chạy
theo một bên hoài. Ánh-Nguyệt thấy vậy lấy làm tủi lòng, hễ nhìn mặt con thì
nàng ứa nước mắt, bởi vậy nàng làm lơ không dám ngó.
Tối lại vợ chồng Ðỗ-Cẩm khuyên Ánh-Nguyệt ngủ sớm đặng khuya
thức dậy nấu cơm ăn rồi đi cho sớm, Ánh-Nguyệt cũng tính như vậy, nhưng mà đêm ấy
nàng nằm một bên con cứ hun hít con hoài, lại mỗi lần hun thì nàng ứa nước mắt
ướt mặt con Thu-Vân nên nàng phải lấy vạt áo mà lau.
Ðến đầu canh năm nàng lén con thức dậy lấy nồi nấu cơm. Ăn
cơm rồi thì mặt trời đã rạng đông và vợ chồng Ðỗ-Cẩm đã thức dậy. Ánh-Nguyệt
bưng thếp đèn lại rọi mặt con Thu-Vân, lén hun nó một lần nữa rồi mới từ tạ vợ
chồng Ðỗ-Cẩm mà đi. Nàng ra khỏi cửa rồi nàng lại trở lại mà dặn Thị-Phi rằng:
- Thím làm phước coi chừng dùm con nhỏ, thím dặn nó đừng có
ra chơi ngoài mé sông, nghe hôn thím.
Thị-Phi gặt đầu. Ánh-Nguyệt liếc mắt nhìn con một lần nữa rồi
mới đi.
oOo
Trong quyển thứ nhứt chúng tôi đã có thuật truyện một người
cùng khổ, tên là Lê-Văn-Ðó, vì lén bưng có một trã cháo heo đem về cho mẹ và sấp
cháu ăn đỡ đói mà phải bị quan bắt đày 20 năm tù.
Ở tù mãn hạn rồi anh ta tìm đường về xứ, đi dọc đường đói lạnh,
ghé nhà nào xin ăn họ cũng xô đuổi, là cho anh ta phiền lòng cực trí, đổi tánh
hiền ra tánh dữ, oán hờn hết thảy xã-hội nhơn-quần. Anh ta giận loài người đến
nỗi vào chùa Hòa-Thượng Chánh-Tâm cho ăn no ngủ ấm, mà anh ta không thèm tạ ơn,
lại ăn cắp bộ chén với cái bình trà mà đi, giận loài người đến nỗi vào một chòi
rách, gặp bọn ăn mày mà cũng không biết thương, đàng giựt nồi cơm mà chạy.
May nhờ có mấy tiếng chuông là cho anh ta tỉnh giấc say mê;
trở lại cái chòi ấy mà trả nồi cơm và lén cho một nén bạc. Anh ta lại nhớ những
lời đạo đức của Hòa-Thượng Chánh-Tâm khuyên giải, nên trong lòng cảm xúc, quyết
cải tà qui chánh, không hờn trời đất, không oán loài người nữa.
Lê-văn-Ðó còn bốn nén bạc, xuống xứ Cần-Ðước, cải danh diệt
tánh, xưng mình là Trần-chánh-Tâm, rồi đốn cây cất nhà ở khai phá rừng hoang mà
làm ruộng. Nhờ có mấy nén bạc của Hòa-Thượng Chánh-Tâm, nên anh ta mới có thế
mà qui tụ dân đông, mà nhứt là anh ta bền chí dầy công, nên trong bốn năm thì
anh ta đã mở rừng cấy lúa hơn một ngàn mẫu đất. Ruộng có sẵn, lúa có nhiều, mà
chủ ruộng lại từ thiện, bởi vậy dân nghèo ở mấy huyện gần đó dắt vợ cõng con đến
Cần-Ðước mà xin ở làm ruộng cho Chánh-Tâm.
Ðến năm Quí-Tỵ (1833) là năm nổi giặc Lê-văn-Khôi tại đất
Gia-Ðịnh, thì tên Trần-chánh-Tâm đã bay khắp các phủ các huyện, ai ai cũng biết
Chánh-Tâm là người cự phú, ai ai cũng nghe Chánh-Tâm là người nhơn từ.
Cái danh ấy không phải là danh giả, bởi vì lúc ấy thiệt
Chánh-Tâm chứa lúa trong các lẫm kể hơn 10 vạn giạ (một vạn là 10 ngàn), còn những
dân nghèo bất luận già trẻ, hễ đến than nghèo thì Chánh-Tâm làm cho no cơm ấm
áo hết thảy.
Lúc binh triều kéo vô vây Lê-văn-Khôi trong thành Gia-Ðịnh,
quan cần dùng lương thực mà nuôi quân lính, nghe Chánh-Tâm có lúa nhiều, bèn hạ
lịnh truyền cho Chánh-Tâm phải chở lúa nạp cho quân lính ăn.
Có một mình Chánh-Tâm chịu lúa cho mấy ngàn binh triều trót 3
năm trời.
Thảo-nghịch hữu-tướng-quân là Phan-văn-Túy nghĩ vì Trần-chánh-Tâm
có công với triều đình, nên làm sớ gởi về Huế mà tâu với vua. Vua Minh-Mạng bèn
phong cho Trần-chánh-Tâm đến tước “Tùng thất phẩm Thiên-Hộ”.
Từ ấy về sau danh thơm của Chánh-Tâm lại càng thêm lừng-lẫy;
quan dân ở đất Gia-Ðịnh đã tôn-trọng người giàu sang, mà lại còn kính mến lòng
hiền đức nữa.
Mà Chánh-Tâm được giàu, được sang rồi, chẳng hề tính hưởng sự
giàu sang ấy bao giờ.
Trong nhà chẳng có một vật chi quý, y phục thì quần vải áo vải
mà thôi.
Ban ngày thì cứ ở hoài ngoài ruộng, hoặc chỉ đắp bờ đào ao,
hoặc coi cày bừa trục phát.
Ban đêm thì thường khi chong đèn ngồi cả một hai canh.
Trong buồng chẳng có vật chi, chỉ có cái giường ngủ với một
cái ghế, trên ghế có để một bộ chén chung với một cái bình, nhưng mà cấm nhặt
không cho người ở trong nhà bước chơn vào đó.
Lê-văn-Ðó vừa được phong Thiên-Hộ thì hay tin Hòa-Thương ở
chùa Chánh-Tâm đã tịch rồi.
Thiên-Hộ nhớ mình nhờ ơn người giảng dạy đường ngay lẽ chánh
ngày trước nên mình mới hồi tâm định tánh trở nên người có ích cho đời, bởi vậy
Thiên-Hộ nghe tin ấy thì lật-đật đi lên Rạch-Kiến mà điếu tang.
Khi Thiện-Hộ trở về, thì trong lòng buồn bực ăn ngủ không được,
cứ thương tiếc Hòa-Thượng Chánh-Tâm hoài.
Ðêm nào Thiên-Hộ cũng chong đèn ngồi mà suy nghĩ.
Người ở đời hung dữ rồi cũng chết, từ bi rồi cũng chết, nghèo
khổ rồi cũng chết, giàu sang rồi cũng chết.
Mình bây giờ giàu có, bạc tiền chất đầy kho, lúa gạo trữ mấy
lẫm, những vật ấy để làm gì?
Những người ở đất mình, kể hết nam phụ lão ấu gần đến số một
ngàn người, ai cũng đều no ấm, nhưng mà ở chốn dương trần nầy có phải chỉ bao
nhiêu đó mà thôi đâu.
Ngày trước mình nghèo đói, có lẽ ngày nay cũng còn nhiều người
khác nghèo đói như mình.
Vì ngày trước không có ai hảo tâm cứu giúp, nên thân mình mới
lọt vào vòng khốn khổ, còn mẹ thì chết, cháu thì xiêu tán hết. Ngày nay mình có
tiền dư, có lúa sẵn, nếu mình dùng tiền với lúa ấy mà cứu kẻ bần hàn, cho khỏi
có những Lê-văn-Ðó khác nữa, há chẳng tốt hay sao?
Thiên-Hộ nghĩ như vậy rồi trong lòng hớn-hở, dường như có người
khuất mặt xúi giục biểu phải làm cho mau.
Thiên-Hộ mới xuất tiền cất nhà dãy ngang dãy dọc, chỗ thì để
dạy trẻ nhỏ học, chỗ thì nuôi người có bịnh, chỗ thì để nuôi người tật nguyền,
chỗ thì để nuôi con nít mồ-côi, chỗ thì để nuôi người già yếu.
Trường học thì có rước thầy nho ở dạy, nhà dưỡng bịnh thì có danh-y
điều trị, còn chỗ nuôi người tàn tật, người già cả và con nít mồ-côi thì có đặt
mỗi chỗ một người đàn bà để điều định xem xét.
Vì Thiên-Hộ mắc lo nhiều việc, không thế coi sóc cho hết được,
nên Thiên-Hộ cậy bà Hai, là người cho Thiên-Hộ ở đậu lúc mới đến Cần-Ðước, cai
quản dùm việc xuất phát trong nhà.
Rủi thay bà Hai coi dùm có một tháng kế bà chết, túng thế
Thiên-Hộ phải cậy một bà khác, tên là Bạch-Thị, cai quản dùm.
Những kẻ bịnh hoạn, già cả, côi cúc nghe Thiên-Hộ Chánh-Tâm
thi ân bố đức mà nâng đỡ cứu giúp con nhà nghèo thì xa gần đều kéo nhau đến đó
mà cầu cứu. Vì Thiên-Hộ có dặn trước nên ai đến bà Bạch-Thị cũng cho ở hết thảy,
song vì bà ghét đờn ông gian-giảo với đờn bà trắc nết nên duy có hai hạng người
ấy bà không chứa mà thôi.
Một buổi chiều Thiên-Hộ đi viếng nhà nuôi bịnh, vừa vô thì
nghe ông lương-y Sanh nói với Bạch-Thị rằng có một người đờn-bà bịnh nặng sợ cứu
không được. Thiên-Hộ liền biểu lương-y dắt mình đi lại chỗ người đờn bà ấy nằm
mà thăm.
Thiên-Hộ vừa thấy mặt thì biến sắc, lại đứng gần một bên giường
mà dòm, muốn kêu người ấy mà rồi không kêu, lại day qua dặn lương-y Sanh rằng:
- Thầy ráng hốt thử một thang thuốc cho uống hoặc may có khá
chăng.
Lương-y Danh đáp rằng:
- Tôi đương biểu sắc thuốc, để thuốc tới rồi tôi cho uống thử
coi như đêm nay tỉnh lại, thì có lẽ tôi cứu được.
Thiên-Hộ gật đầu rồi bỏ đi ra; Bạch-Thị liếc coi thì thấy
Thiên-Hộ ứa nước mắt.
Tối lại, chờ ai nấy đều ngủ hết, Thiên-Hộ mới lén đi một mình
xuống nhà nuôi bịnh.
Thiên-Hộ cầm đèn đi thẳng lại chỗ người đờn bà hồi chiều đó,
thấy trên ghế để gần đầu giường có một chén thuốc còn vài muỗng, mới lấy muỗng
múc mà cho uống. Người đờn bà ấy uống rồi mở mắt ngó Thiên-Hộ. Thiên-Hộ đưa đèn
nhìn kỹ thấy người ấy già nên mặt dùn da, mà lại đau nên mình ốm nhách, song gương
mặt coi giống hịt Thị-Huyền là chị dâu của mình, Thiên-Hộ bèn cúi xuống hỏi nhỏ-nhỏ
rằng:
- Chị gốc gác ở đâu? Chị phải tên Huyền, hồi trước ở Vồng-Tre
hay không?
Người ấy nhướng mắt đáp rằng:
- Phải. Tôi tên Huyền. Sao ông biết tôi?
Thiên-Hộ nghe mấy lời thì bủn-rủn tay chơn, nước mắt chảy
ròng ròng nên và khóc và nói rằng:
- Té ra chị hay sao? Em là thằng Ðó đây. Chị đi đâu mà mấy
năm trước em về Vồng-Tre kiếm chị hết sức không được …?
Thiên-Hộ nói chưa dứt lời thì Thị-Huyền lại nói rằng:
- Té ra chú nó còn sống hay sao? Trời ôi! Tôi có dè ngày nay
còn được gặp chú nó đâu. Chú nó ôi! Tôi chết chớ không chịu nổi.
Thiên-Hộ thảm thiết hết sức, song gắng gương hỏi nữa rằng:
- Còn sắp nhỏ ở đâu mà chị xiêu lạc đén đây?
Thị-Huyền lăng thinh coi bộ mệt lắm. Cách một hồi rồi ráng
nói rằng:
- Còn đâu mà hỏi! Bị nghèo đói quá nên chết lần làn hết ….
Thiên-Hộ nghe nói như vậy thì đau lòng như dao cắt, dằn không
được nữa, nên ngồi chồm hổm dưới đất, dựa bên giường; cứ lắc đầu chắc lưỡi kêu
trời, chớ không nói được tiếng chi nữa hết.
Cách một hồi lâu Thiên-Hộ đứng dậy tính hỏi thăm thêm việc
nhà, chẳng dè Thị-Huyền đã nhắm mắt tắt hơi rồi.
Ðau đớn thay!
oOo
Ánh-Nguyệt gởi con cho vợ chồng Ðỗ-Cẩm mà đi tìm chú với cậu.
Phần thì không biết đường nên đi lấn-quấn, phần thì trong
lưng không có một đồng tiền, gặp xóm phải ghé xin ăn, qua truông phải đợi có
người rồi mới dám đi, ban đêm phải kiếm chỗ ngơi nghỉ, bởi vậy nàng đi tới nửa
tháng trường về mới đến quê xưa.
Khi nàng đi gần tới xóm nàng ở hồi trước, thì lòng khoan-khoái
mà lại bâng-khuâng, khoan-khoái là vì bỏ xứ mà đi chẵn 9 năm trường, nay trở về
thấy bước đường cũ, thấy cảnh vật quen thì nàng mừng quýnh, còn bâng-khuâng là
vì khi xưa ở đây có cha, nay trở về một mình, đã vậy mà thấy cỏ cây sông rạch
cũ mà thẹn-thùa cho chút phận vô duyên, nên nàng tủi thầm.
Nàng đi riết lại chỗ nhà cũ, thì nhà đâu mất, duy còn cái nền
trọi-lỏi, với cái sân rậm-rạp đó mà thôi. Những bông huệ, bông lan trồng chỗ nầy,
vì mất chủ xem, nên điêu tàn, nhường chỗ cho cỏ cú, cỏ cầm chầu tranh tươi, những
rau râm, rau vấp trồng chỗ nầy, vì không ai tưới nên rụi hết, nhường chỗ cho
rau đắng, rau sam đua mạnh nên rụi hết, không còn được một cây; mấy bụi chuối
tiêu trồng phía sau tuy còn sống đủ, song lá rách, đọt còi, nhìn xem càng thê
thảm.
Ánh-Nguyệt nhìn xem nhà cũ vườn xưa dường ấy, thì tâm thần áo
não, giọt lụy tràn-trề, nàng lấy làm đau-đớn cho con người hiệp tan, nàng lấy
làm chán ngán cho cuộc đời.
Nàng ngó qua phía nhà bà Hai, thì nhà bà sập nát, sân bà cỏ
cũng mọc tàn-lan. Nàng ngó quanh-quất thì không thấy một người quen nào mừng rỡ,
hoặc ái truất. Nàng khoanh tay ngồi trên đám cỏ mà khóc, khóc nỗi mẹ cha vô phước,
khóc nỗi mình phận bạc vô duyên, khóc nỗi con lìa mẹ bơ vơ, khóc nỗi chồng phụ
tình bội ước, khóc nỗi cửa nhà tan nát, khóc nỗi danh tiết nhuộm bùn, nàng ngồi
khóc cho đến buổi chiều, rồi mới lần đi tìm nhà ông sáu Thới mà hỏi thăm bà
con.
Ông sáu Thới năm nay tuổi đã gần 70, mà sức lực ông còn mạnh,
cặp mắt còn tỏ. Vợ ông chết đã 2 năm rồi, nên ông quạnh hiu có một mình, may nhờ
có chút cháu là tên Hiển cưới vợ cất nhà ở một bên, nên lúc buồn mới có người
nói chuyện.
Ông đương ngồi trước sân mà vá tay lưới, thình-lình Ánh-Nguyệt
bước vô, ông hết sức mừng rỡ, nên lật đật đứng dậy hỏi lăng-xăng rằng:
- Cháu về hồi nào? Mấy năm nay cháu ở đâu? Bất nhơn quá! Năm
trước ông đi với cháu lên Gia-Ðịnh cháu bỏ đi đâu mất làm cho ông chờ đến ba bốn
ngày. May là ông hỏi thăm, có người biết họ nói cha cháu đã khuất, còn cháu thì
bị quan bắt, nên ông mới biết mà đi về, chớ phải hỏi không ra mối, ông ở chờ
hoài, còn cơm gạo đâu mà ăn. Mà tại sao cha cháu chết, rồi quan lại bắt cháu? Mấy
năm nay cháu ở đâu? Có chồng hay chưa?
Ông hỏi nàng chưa kịp trả lời, rồi ông thôi-thúc khuyên nàng
đi thẳng vô nhà mà nói chuyện. Ánh-Nguyệt nghe hỏi thì lòng thêm chua xót, song
nàng không biết làm sao mà đáp cho xuôi, chỉ ứa nước mắt ríu-ríu đi theo ông
sáu Thới vô nhà mà thôi.
Ông sáu Thới quét ván mời, rồi hỏi lăng-xăng nữa.
Ánh-Nguyệt lấy làm bối-rối, nửa muốn tỏ thiệt tâm sự, nửa lại
hổ ngươi thất tiết, bởi vậy nàng ú-ớ một hồi rồi kiếm lời nói dối rằng vì cha
nàng thiếu nợ Ðỗ-Cẩm, vợ chồng Ðỗ-Cẩm đi kiện nàng, nên quan mới bắt rồi dạy
nàng phải ở đợ mà trừ nợ. Mấy năm nay nàng ở với vợ chồng Ðỗ-Cẩm, may nhờ có giặc,
vợ chồng Ðỗ-Cẩm xiêu lạc, nên nàng mới thoát thân trốn mà về đây. Còn sự chồng
con thì nàng sợ nói ra xấu hổ, nên nàng giấu biệt chẳng hề nói đến.
Nàng nói chuyện của nàng rồi mới hỏi thăm rằng:
- Không biết bà Hai bây giờ bà ở đâu, mà nhà của bà bỏ hư sập
vậy ông?
Ông sáu Thới lắc đầu đáp rằng:
- Còn đâu mà bỏ! Bả chết hồi năm ngoái.
- Tội nghiệp dữ hôn! Còn ông có nghe chú và cậu của cháu bây
giờ ở đâu hay không?
- Chú của cháu là Lý-kỳ-Phùng chết đã lâu rồi, cháu đi có mấy
tháng rồi kế nó chết. Còn cậu của cháu là Ðinh-Hòa, ảnh đui mù bóng quáng, phần
thì không có ai nuôi dưỡng, nên tội nghiệp thân ảnh quá. Mấy năm nay nhờ có ông
Thiên-Hộ làm phước lập nhà nuôi kẻ tật nguyền, ổng cho ảnh vô đó mà ở nên ảnh
no ấm, chớ nếu không ai nuôi thì chắc đã ảnh chết rồi. Năm nay ảnh yếu lắm, ảnh
lớn hơn ông có 5 tuổi mà coi ảnh già cúp.
- Ông Thiên-Hộ làm phước nuôi cậu của cháu, ông Thiên-Hộ nào ở
đâu?
- Ờ, có một người tên là Trần-chánh-Tâm ở đâu không biết, mà
lại đây ở mấy năm nay. Người sẵn có tiền qui dân phá rừng làm ruộng lần lần rồi
giàu lớn quá. Ông nhớ hồi (khi) người lại ở xứ nầy, còn cháu ở nhà mà!
- Không có. Hồi cháu còn ở nhà thì cháu không có nghe ai lạ đến
đây.
- Nói vậy cháu đi rồi ông Thiên-Hộ mới đến. Bây giờ ổng thiệt
là giàu. Cháu nghĩ đó mà coi, mấy năm binh triều vây thành mà dẹp giặc Khôi, có
một mình ổng chịu lúa mà đủ cho quân lính ăn hết thảy, bởi vậy vua mới phong
cho ổng chức Thiên-Hộ đó đa. Ổng giàu mà nhơn đức lắm. Ai nghèo nàn hay là tật
nguyền bịnh hoạn đến ổng ổng nuôi hết thảy.
- Nhà ổng ở đâu?
- Ở dưới vàm rạch Mát. Ối! Cháu xuống thấy công việc ổng làm
cháu thất kinh. Ổng làm kinh-dinh lắm.
- Nói vậy té ra bây giờ cậu của cháu ở tại nhà ông Thiên-Hộ?
- Phải. Mà không phải ở tại nhà ổng, ở tại cái nhà của ổng cất
để nuôi kẻ già cả tật nguyền đó.
- Nhà ấy chỗ nào?
- Cũng trong vuông rào của ổng.
- Vậy thì để cháu xuống đó cháu tìm mà hỏi thăm việc nhà.
- Mà cháu mới về tới đây, chắc chưa ăn cơm. Thôi, để ông đi nấu
cơm cho cháu ăn.
Ông sáu Thới và nói và đi lấy nồi xúc gạo nấu cơm. Ánh-Nguyệt
ăn cơm rồi ở ngủ đó một đêm.
Nàng suy tới nghĩ lui, tưởng mình về xứ tìm bà con mà nương
nhờ, chẳng dè về đến đây, chú đã chết rồi, cậu bịnh hoạn đương nương nhờ người
ta, bây giờ mình làm sao?
Sáng ngày sau Ánh-Nguyệt đi viếng mộ của mẹ thấy nó hoang, cỏ
mọc, nền sụp, núm lạn [20] thì nàng rất buồn tủi trong lòng. Ðến trưa nàng mới
từ giã ông sáu Thới mà đi xuống rạch Mát tìm cậu.
Nàng vừa ra khỏi xóm, ngước mặt ngó về phía Rạch Mát, thì rặng
rừng cóc ngày xưa đã biến đi đâu mất, bây giờ chỉ thấy đồng ruộng minh-mông bằng
phẳng, dài theo rạch nhà lại cửa cất dầy đeo.
Khi nàng đến tận nơi rồi, nàng thấy công cuộc của ông Thiên-Hộ
làm kinh-dinh thì nàng lắc đầu le lưỡi.
Dài theo mé rạch đếm có 10 lẫm lúa, còn sụt vô thì chíng giữa
là nhà ông Thiên-Hộ ở, một bên là trường học với nhà nuôi trẻ mồ-côi, còn một
bên là nhà nuôi kẻ bịnh hoạn tật nguyền với nhà nuôi người già cả không con .
Ánh-Nguyệt hỏi thăm lần lần vô tới nhà nuôi kẻ già.
Lúc ấy đã nửa chiều rồi. Nàng bước vô ngó thấy người cậu là
Ðinh-Hòa, đương ngồi ngoáy trầu mà ăn.
Tuy Ðinh-Hòa đã ốm và già hơn xưa, song Ánh-Nguyệt ngó thấy
thì biết liền, bởi vậy nàng đi riết lại vỗ vai và khóc và nói rằng:
- Cậu năm nay trong mình cậu mạnh giỏi thể nào? Cháu mới về tới
hôm qua, hỏi thăm họ nói cậu ở đây, nên cháu vô đây mà thăm.
Ðinh-Hòa mù quáng không thấy mặt Ánh-Nguyệt, phần thì cậu
cháu xa cách nhau đã 9 năm rồi nên không nhớ tiếng, bởi vậy Ðinh-Hòa vinh mặt,
nhai trầu, nháy mắt mà hỏi lơ láo rằng:
- Ai đó?
- Cháu là Ánh-Nguyệt.
- Ờ, té ra cháu hay sao?
- Dạ.
- Bất nhơn dữ hôn! Năm trước cậu nghe nói dượng ba nó mất, mà
chừng nghe nói thì cháu đã đi rồi. Sao cháu đi rồi mấy năm nay cháu không về, vậy
chớ cháu ở đâu?
Ánh-Nguyệt và khóc và kể chuyện của mình lại cho cậu nghe,
song nàng cũng giấu biệt không dám tỏ sự có chồng có con, vì sợ e nói ra cậu
trách sao lấy chồng không đợi lịnh của cậu.
Ðinh-Hòa nghe thân cháu cực khổ ông thương, nên ông khóc
ròng.
Mấy ông già ở trong nhà ấy thấy cậu cháu gặp nhau mà kể việc
nhà thê-thảm quá như vậy, thì hết thảy đều cũng động lòng. Chừng Ánh-Nguyệt nói
dứt chuyện của nàng rồi, Ðinh-Hòa mới nói rằng:
- Bây giờ cháu tính đi đâu nữa, hay là về ở luôn dưới nầy?
Ánh-Nguyệt lấy làm bối rối, nên ngồi suy nghĩ một hồi rồi đáp
rằng:
- Cháu về đây thiệt ý cháu tính về nương dựa cô bác bà con,
chẳng dè về đến đây mới hay chú của cháu đã mất rồi, còn cậu thì tật nguyền
nghèo khổ đến nỗi phải nương náu chỗ nầy. Trong vòng bà con bây giờ còn ai nữa
đâu, bởi vậy chắc cháu phải đi xứ khác kiếm nơi nương dựa.
Ðinh-Hòa khóc và nói rằng:
- Con cháu bây giờ còn có một mình cháu, nếu cháu bỏ xứ mà
đi, đến chừng cậu chết chắc là không thấy mặt….
Ánh-Nguyệt nghe cậu nói mấy lời ấy, nàng càng thêm cảm xúc,
nên nước mắt tuôn dầm-dề.
Hai cậu cháu đương ngồi khóc với than, thình-lình Bạch-Thị,
là người của ông Thiên-Hộ đặt ra để thay mặt cho ông mà quản xuất mọi việc, bà ở
ngoài bước vô nhà dưỡng lão.
Bà nầy tuổi chừng lối 55, vóc lớn cao, da trắng nõn, răng
chưa rụng, tóc còn đen, tướng đi đứng dịu dàng, cách ăn nói hòa huỡn. Tuy bà ít
nói ít cười, song bà có thiện tâm, thường thương yêu người nghèo khổ. Bà có
tánh nầy ai ai cũng đều kính sợ, là bà ăn ở ngay thẳng, mà bà lại ghét những kẻ
giả dối, nhứt là không ưa trai gian tà, bà không chịu gái mất nết.
Khi bà bước vô nhà dưỡng lão bà thấy cậu cháu Ðinh-Hòa đương
ngồi khóc thì bà chưng-hửng, đứng nhìn Ánh-Nguyệt trân-trân. Mấy ông già với
Ánh-Nguyệt thấy bà vô thì đứng dậy chào bà hết thảy, duy có một mình Ðinh-Hòa
không ngó thấy nên cứ ngồi mà khóc.
Bạch-Thi ngó Ánh-Nguyệt mà hỏi rằng:
- Cháu ở đâu? Vô đây có việc chi?
- Thưa bà, cháu đi xa mới về, nghe nói cậu của cháu nhờ ân đức
ông Thiên-Hộ nên được vô đây mà dưỡng bịnh, bởi vậy cháu tìm đến đây mà thăm.
- Cháu là con của ai, cháu tên chi?
- Thưa, cháu là con của Lý-kỳ-Nguyên, tên là Lý-ánh-Nguyệt, gốc
ở xứ Cần-Ðước nầy.
- Có phải ông già cháu năm trước đi thi, rủi nhuốm bịnh bỏ
mình trên Gia-Ðịnh đó hay không?
- Thưa phải.
- Tội nghiệp dữ hôn! Cháu có mấy anh em? Từ khi ông già cháu
mất rồi cháu ở đâu? Có chồng hay chưa?
- Thưa bà, cháu một mình, không có anh em chi hết. Khi cháu
hay tin ông già cháu đau nặng, cháu lật-đật lên Gia-Ðịnh tính đem ông già cháu
về mà lo thuốc thang. Chẳng dè lên đến đó thì ông già cháu đã mất rồi. Vì ông
già cháu lúc đau ốm có mắc nợ người ta nên họ bắt cháu ở cố công, chừng nào có
tiền trả đủ rồi mới được về. May nhờ có giặc, thiên hạ chạy trốn hết, nên cháu
mới thoát thân, rồi lần-lần mới trở về đây.
- Nhà giàu nào mà bất nhơn dữ vậy, thiếu bao nhiêu tiền mà đến
nỗi bắt người ta ở cố công. Mà bây giờ cháu đã có chồng hay chưa?
Ánh-Nguyệt cúi đầu đáp nhỏ rằng:
- Thưa chưa.
Bạch-Thị hỏi tiếp rằng:
- Vậy thì bây giờ cháu ở với ai? Cháu có phương thế chi làm
ăn hay không?
Ánh-Nguyệt nhỏ-nhẹ đáp rằng:
- Bà con của cháu bây giờ chỉ còn có một mình cậu của cháu
đây mà thôi. Mà cậu của cháu thì già cả nghèo nàn, cháu không nương dựa được, bởi
vậy cháu tính rồi đây cháu phải đến xứ khác kiếm chỗ làm ăn. Ngặt vì cậu của
cháu già mà lại có bịnh, không biết còn mất bữa nào, nên cháu không nỡ bỏ mà
đi. Vậy để vài bữa rồi cháu sẽ liệu.
- Thôi thì ở đây, đi đâu làm chi. Sắp nhỏ mồ côi càng ngày
càng đông, có một mình Hồng-Thị coi không xiết. Vậy thì cháu ở đây giúp với Hồng-Thị
mà săn sóc dùm sắp nhỏ đó. Cháu làm tại đây thì ăn ở tại đây. Ðể bà nói với ông
Thiên-Hộ mỗi năm cho cháu thêm vài ba quan tiền, được hôn?
Ánh-Nguyệt cúi đầu suy nghĩ. Bạch-Thị ngó nàng rồi nói tiếp rằng:
- Phận cháu là gái, bây giờ không có chỗ nương dựa, vậy ở đây
thì tốt hơn hết. Bà dặn cháu có một đều nầy -- Ông Thiên-Hộ là người nhơn đức,
song ổng không ưa con gái trắc nết. Vậy cháu ở đây, thì làm việc phải
siêng-năng, lại nết-na phải giữ cho tử-tế. Nếu cháu chịu ở thì ở liền bây giờ
cũng được.
Ánh-Nguyệt vì con nên dụ-dự, mà nếu không ở đây, bây giờ biết
đi đâu.
Ðã vậy mà Ðinh-Hòa thương cháu nên cũng khuyên nàng ở đặng gần-gũi,
bởi vậy Ánh-Nguyệt chịu ở.
oOo
Ánh-Nguyệt ở tại nhà mồ côi của ông Thiên-Hộ Chánh-Tâm mà săn
sóc sắp nhỏ.
Nàng nghe danh ông Thiên-Hộ có đức, lại thấy công việc của
ông làm thiệt là có nhơn, bởi vậy nàng có ý trông gặp mặt ông đặng xem coi tướng
mạo thế nào mà tánh tình tốt dường ấy.
Từ khi ông Thiên-Hộ gặp chị dâu là Thị-Huyền một cách rất thảm
thiết, thì ông buồn rầu ảo-não, bởi vậy ông cứ ở trong nhà riêng hoài, không muốn
đi xem xét các công việc của ông làm nữa.
Lâu lâu ông mới đi coi trường học và mấy nhà nuôi bịnh, nuôi
kẻ già, nuôi kẻ mồ côi một lần, song ông có đi thì đi thì đi lúc ban đêm, nên
ít ai thấy mặt. Ai muốn nói việc chi với ông thì cứ nói với Bạch-Thi, rồi Bạch-Thị
chuyển đạt lại cho ông, bởi vậy Ánh-Nguyệt ở với ông mà không thấy mặt ông được.
Ánh-Nguyệt thấy trẻ nhỏ mồ côi thì nàng càng nhớ con tha-thiết,
ăn ngủ không yên.
Có đêm nàng nằm mà khóc đến sáng. Nàng nghĩ phận nàng thiệt
là khó liệu.
Trong vòng bà con bây giờ chỉ còn có một ông cậu mà thôi.
Còn ông cậu thì còn có một mình nàng, chớ không có con cháu
nào khác.
Cậu già yếu tật nguyền. Mình tính đi xứ khác làm ăn. Cậu mở
miệng than mấy lời như vậy, mình đi sao đành.
Tuy ở đây thì đã yên thân lại được gần cậu song ở đây rồi bỏ
con hay sao?
Nếu lên Vũng-Gù đem con về, người ta hỏi chưa có chồng sao lại
có con, thì mình nói sao cho xuôi?
Mình tỏ thiệt sự Hải-Yến bạc-bẽo thì mang lỗi với cậu, vì lấy
chồng sao không thưa cho cậu hay, mà dầu mình tỏ thiệt biết người ta có tin hay
không, sợ người ta nghi mình là trắc nết thì càng xấu hổ cho tông môn mình nữa.
Mà bây giờ mình lên Vũng-Gù rước con, tiền đâu mà trả cho Ðỗ-Cẩm.
Hễ gởi con ở lâu chừng nào thì số tiền càng tăng lên chừng nấy.
Theo lời bà Bạch-Thị nói thì mình ở đây ông Thiên-Hộ trả cho mình mỗi năm vài
ba quan tiền, còn mình gởi con cho vợ chồng Ðỗ-Cẩm thì mỗi tháng phải chịu một
quan, tính ra mỗi năm tới 12 quan, tiền đâu đủ để trả. Khổ thay! Khó liệu thay!
Nàng suy tới tính lui một đàng thương con, một đàng thương cậu,
một đàng nữa là danh dự của tông môn. Tuy cha mẹ mình nghèo, song xưa nay ở
trong làng trong xóm đã giữ cái danh cho họ Lý trắng như tuyết, trong như
gương, sanh mình là gái, mình đành đem cái danh thơm tiếng tốt của cha mẹ mà
chôn xuống bùn hay sao?
Nàng dụ-dự hoài không biết lẽ nào phải mà quyết định. Nếu vì
con mà đi thì lỗi với cậu. Nếu vì cậu lại vì luôn con mà đem con về đây, thì
nhơ danh tiếng của họ Lý. Bởi nàng liệu định không được, nên nấn ná ở đó hoài.
Ngày qua tháng lại, Ánh-Nguyệt tính lại thì nàng ở nhà nuôi
trẻ mồ côi đã gần 6 tháng rồi.
Một đêm nọ nàng thương nhớ con quá, dằn lòng không đặng, nàng
mới tính mướn ông sáu Thới lên Vũng-Gù mà thăm dùm con coi nó mạnh giỏi thể
nào.
Sáng bữa sau nàng xin phép bà Bạch-Thị đặng lên nhà ông sáu
Thới.
Nhưng vì nàng sợ xấu nên lên tới đó nàng nói dối với ông sáu
Thới rằng lúc ở Gia-Ðịnh nàng có quen với một người chị em bạn gái. Người ấy vì
giặc-giã vợ chồng xiêu lạc nên buồn rầu nhuốm bịnh mà chết, song trước khi chết
có gởi lại cho nàng một đứa con gái. Nàng nuôi mấy năm nên thương yêu cũng như
con ruột. Khi về đây nàng gởi lại cho vợ chồng Ðỗ-Cẩm. Vậy nàng cậy ông sáu Thới
lên thăm dùm vì phận nàng là gái đi xa chẳng tiện.
Nàng nói thì ông sáu Thới sẵn lòng đi dùm liền. Nàng mới viết
một phong thơ nói riêng cho vợ chồng Ðỗ-Cẩm hay sự nàng khốn đốn ở dưới nầy và
cậy vợ chồng Ðỗ-Cẩm ráng nuôi dùm con Thu-Vân -- nàng hứa hễ ông Thiên-Hộ mỗi
năm phát tiền công cho nàng bao nhiêu thì nàng gởi hết lên cho.
Ông sáu Thới lãnh thơ rồi mượn xuồng lối xóm bơi mà đi.
Cách ít ngày ông về tới, ông xuống sở của ông Thiên-Hộ kiếm Ánh-Nguyệt
mà trao một phong thơ của Ðỗ-Cẩm trả lời và nói rằng con Thu-Vân không bịnh hoạn
chi, song nó ốm lắm.
Ánh-Nguyệt nghe nói con ốm thì đau lòng, mà chừng đọc thơ thấy
Ðỗ-Cẩm thôi thúc biểu phải đem 6 quan tiền trả cho đủ mà rước con Thu-Vân, nếu
để trể anh ta phải bán nó, vì nghèo nuôi không nổi nữa, thì nàng càng thêm bối
rối.
Nàng tạ ơn ông sáu Thới và khuyên ông về nghỉ, song nàng dặn
ông chừng đôi ba bữa ông trở xuống đặng cho nàng cậy việc khác.
Nàng lấy làm buồn-bực xốn-xang vô cùng. Tiền đâu có mà gởi
cho Ðỗ-Cẩm. Mà dầu có tiền đi nữa, nếu rước con Thu-Vân về rồi để nó ở với ai.
Nếu không trả tiền đủ số mà rước con thì Ðỗ-Cẩm nó bán cho họ, rồi sau mình biết
đâu mà tìm.
Có lẽ rước về đây mình gởi cho ông sáu Thới nuôi dùm thì được.
Ngặt vì bây giờ làm sao cho có đủ 6 quan tiền.
Ðêm ấy nàng nằm gát tay qua trán mà lo tính.
Nàng nghĩ ông Thiên-Hộ là người nhơn đức, ai nghèo ông nuôi,
ai bịnh ông cũng cứu.
Thân mình khốn khổ nếu ông rõ thấu, có lẽ nào lại chẳng giúp
mình hay sao?
Nàng nghĩ như vậy nên nàng mới tính lập thế giáp mặt với ông
Thiên-Hộ đặng tỏ thiệt tâm sự của mình cho ổng nghe, rồi lạy mà xin ổng 6 quan
tiền đem lên trả cho Ðỗ-Cẩm và rước con Thu-Vân đem về để tại nhà mồ côi mà
nuôi.
Ánh-Nguyệt tính như vậy có lẽ nàng tưởng là tính đúng lối, bởi
vậy nàng hớn-hở trong lòng, nên mới ngủ được.
Qua ngày sau nàng dợm muốn đi đại lên nhà ông Thiên-Hộ hai ba
lần, mà vì nàng ở đây gần 6 tháng rồi nàng chưa thấy mặt ông Thiên-Hộ cho chán
chường, bởi vậy nàng sợ oai nên phập phồng hoài, nàng dợm mấy lần, mà không dám
đi lần nào hết.
Tối lại ai nấy đều ngủ hết. Ánh-Nguyệt ngồi một mình dựa cửa
mà ngó lom-lom lên nhà ông Thiên-Hộ.
Trăng mùng 8 đã không tỏ, mà lại còn bị mây án nên trời đất lờ-mờ.
Cách một hồi, Ánh-Nguyệt thấy nhà ông Thiên-Hộ mở cửa rồi có
một người đờn-ông bước ra sân. Nàng tưởng chắc người ấy là ông Thiên-Hộ, nên
nàng khấp-khởi trong lòng, lật-đật đứng dậy rồi bước nhẹ-nhẹ đi lần lại gần.
Nàng thấy người ấy ra trước sân, ngước mặt ngó lên trời một
lát rồi cuối mặt xuống mà đi.
Người ấy ngó xuống đất mà đi, không hay nàng đi theo sau
lưng.
Người ấy đi một vòng chung quanh nhà rồi tới cửa bước vô đóng
cửa lại, không thấy Ánh-Nguyệt, mà Ánh-Nguyệt vì người ta không thấy, nên cũng
không nói tiếng chi được.
Ánh-Nguyệt lấy làm ức-uất trong lòng, quyết đợi đêm khác ông
Thiên-Hộ đi ra nữa, nàng sẽ đón đường mà nói chuyện.
Vì có lời dặn trước, nên sáng bữa sau ông sáu Thới xuống kiếm
Ánh-Nguyệt mà hỏi coi nàng còn cậy việc chi nữa.
Ánh-Nguyệt lại trường học xin thầy giáo một miếng giấy và mượn
viết mực về viết một bức thơ cho Ðỗ-Cẩm mà xin huỡn huỡn đợi ít ngày, nàng sẽ gởi
đủ số tiền lên rồi rước con Thu-Vân. Nàng trao bức thơ ấy cho ông sáu Thới và
mượn ông đón coi có ghe nào đi Vũng-Gù thì gởi cho họ đem dùm lên cho Ðỗ-Cẩm.
Ông sáu Thới lãnh bức thơ rồi ra về.
Vã trong nhà mồ côi thì có Hồng-Thị cai quản.
Hôm trước ông sáu Thới vô nói to-nhỏ rồi đưa thơ cho Ánh-Nguyệt,
Thị-Hồng đã ngó thấy.
Ánh-Nguyệt đọc thơ rồi buồn rầu mấy bữa rày Hồng-Thị cũng liếc
thấy. Nay Ánh-Nguyệt viết thơ trao cho ông sáu Thới, Hồng-Thị cũng ngó thấy nữa.
Hồng-Thị nghi cho Ánh-Nguyệt ở đây mà tình ở đâu, nên mới có thơ vô thơ ra. Hồng-Thị
liền đem chuyện ấy mà thuật lại cho Bạch-Thị nghe, mà khi thuật chuyện lại lấy
sự nghi ngờ mà đổi ra sự quả quyết.
Thị-Bạch nghe rồi, không gạn đục lóng trong, không hỏi đi xét
lại, đến nửa chiều bà vào nhà mồ côi kêu Ánh-Nguyệt mà nói trước mặt sắp con
nít rằng:
- Phận làm con gái phải ở cho có nết na, phải giữ cho tròn
trinh tiết. Theo như lời cháu tỏ bà nghe ngày trước, thì cháu là con nhà lễ
nghĩa, sao cháu không biết giữ danh giá, học đòi thói huê nguyệt gió trăng chi
vậy? Bà có nói trước -- ông Thiên-Hộ là người nhơn đức, song ông thương kẻ phải,
mà ông lại ghét kẻ quấy, nhứt là ông ghét thứ con gái trắc nết lắm. Mấy bữa rày
cháu lãnh thơ vô, cháu gởi thơ ra mà tỏ tình với trai. Vậy ông Thiên-Hộ đã nhứt
định đuổi cháu ra khỏi nhà ông, rồi mặc tình cháu muốn gió trăng chừng nào cũng
được, vì cháu ở đây mà làm quấy như vậy thì treo cái gương xấu cho sắp nhỏ nó bắt
chước không nên. Thôi cháu đi đi.
Bạch-Thị nói dứt lời liền xay lưng đi ra. Ánh-Nguyệt ức-uất
mà lại thẹn thùa, nàng muốn trả lời mà nghẹn cổ nói không ra tiếng. Bạch-Thị ra
tới cửa rồi day lại nói vói rằng:
- Ông Thiên-Hộ nói cháu phải đi ra lập tức. Vậy cháu phải đi
liền bây giờ, đừng ở nán lại đó ông hay ông rầy.
Sắp con nít mồ-côi đứng ngó Ánh-Nguyệt trân-trân.
Ánh-Nguyệt nghe lời vu oan thì tức lòng, mà thấy trẻ nhỏ ngó
lại hổ thẹn, bởi vậy nàng cúi mặt bước ra cửa đi liền, mà nước mắt tuôn dầm dề.
Lúc đi ngang qua nhà dưỡng lão, nàng ghé lại đó vỗ vai Ðinh-Hòa và khóc mà nói
rằng:
- Người ta đuổi không cho cháu ở đây nữa. Người ta lại nói
chuyện xấu hổ cho cháu lắm. Thôi cậu ở đây mạnh giỏi, để cho cháu ra.
Ðinh-Hòa nghe cháu nói như vậy thì chua xót trong lòng nên hỏi
rằng:
- Cháu ra rồi nương dựa với ai?
- Cháu không cần gì. Thân cháu bây giờ còn kể gì nữa. Miễn là
ra khỏi chốn xưng làm phước mà thiệt làm ác nầy rồi thì thôi, cháu đi đâu hay
là ở đâu cũng không sá gì.
- Phải chi cậu sáng sủa hai con mắt, cậu mạnh giỏi như người
ta, thì thân cháu có đến nỗi như vầy đâu! Cháu đi thì cậu ở đây sao yên! Trời đất
ôi! Khổ chi dữ vầy!
Ánh-Nguyệt nghe cậu than mấy lời, thì nàng đứt ruột. Nàng đã
buồn thảm mà thấy cậu lại buồn thảm hơn nàng nữa, bởi vậy nàng tủi lòng khóc rống
lên một hồi, rồi gắng gượng làm khuây khuyên cậu hãy ở đó mà dưỡng bịnh, nàng hứa
rằng nàng sẽ kiếm chỗ ở đậu tại Cần-Ðước mà làm ăn cho gần gũi cậu, chớ nàng
không đi xa.
Ðinh-Hòa căn dặn chừng ở chỗ nào yên rồi thì cho ông hay, kẻo
ông lo.
Ánh-Nguyệt chịu lời, rồi từ biệt cậu mà trở lên nhà ông sáu
Thới.
Ông sáu Thới đương ngồi trong nhà, thấy Ánh-Nguyệt bước vô mà
nước mắt nước mũi chàm-ngoàm thì ông lấy làm lạ nên lật-đật hỏi có việc gì.
Ánh-Nguyệt ngồi xề lại góc ván rồi khóc mà kể sự nàng bị đuổi rất oan-ức lại
cho ông nghe.
Ðương lúc tức-tủi, nàng mất hết trí khôn, nàng không còn kể
danh dự chi nữa, nên nàng tiếp mà thuật luôn sự Hải-Yến giả dối, gạt nàng rồi bỏ
giữa đường làm cho nàng đã hư danh tiết mà lại có con lòng-thòng thêm nữa.
Ông sáu Thới nghe đủ mọi đều, ông cũng tức giận nên, nên đứng
dậy bước ra đứng dựa cửa mà nói rằng:
- Ở đời thiên-hạ họ giả dối độc ác lắm, không biết thương con
nhà nghèo. Vậy mà họ lại giàu sang, mới kỳ chớ!
Ánh-Nguyệt nghe mấy lời ấy như giục lòng nàng oán hận thêm nữa,
bởi vậy nàng cũng đứng dậy mà nói rằng:
- Cháu đã hết sức giữ tử-tế; thiên hạ họ xấu quá, họ hiệp
nhau quyết làm cho nát thân cháu, thì cháu làm sao mà tránh cho khỏi. Trời Phật,
xin chứng dùm cái lòng trinh bạch nầy, xin chứng dùm cái thói độc ác của
thiên-hạ một chút!
Ðêm ấy Ánh-Nguyệt sòng-sòng quyết lên Vũng-Gù tìm con, dầu Ðỗ-Cẩm
làm khó dễ thế nào cũng được, miễn là mẹ con được gần nhau thì thôi. Ông sáu Thới
theo can hoài, ông khuyên ở đây với ông, thủng thẳng là kiếm tiền rồi sẽ lên
chuộc con Thu-Vân đem về nhà ông mà nuôi. Ánh-Nguyệt tuy muốn đi, song nghe ông
sáu Thới khuyên nhằm lý, lại nhớ mấy lời thảm thiết của Ðịnh-Hòa nữa, bởi vậy
nàng dụ-dự, không biết tính lẽ nào. Nàng sực nhớ nàng ở với ông Thiên-Hộ trọn 6
tháng, mà chừng ông đuổi nàng, không trả tiền, thì nàng càng oán ông Thiên-Hộ
nhiều hơn nữa.
Ánh-Nguyệt còn lưỡng-lự, chua quyết phải ở hay là đi, thình
lình nàng nhuốm bịnh nóng vùi, mê sảng không biết chi hết. Ông sáu Thới lo sợ,
rước thầy thuốc coi mạch dùm, thì thầy thuốc nói Ánh-Nguyệt bị ban cua lưỡi trắng,
bịnh nặng nên khó mạnh, mà dầu có mạnh thì cũng lâu lắm.
Chú thích :
[16] thất bại, không đạt kết quả như dự định
[17] một miếng
[18] miếng lớn
[19] nài: dây choàng vào cổ trâu bò, ách: thanh gỗ đặt lên cổ
trâu để cày, bừa, trục, cộ. Nghĩa đen chỉ sự chống đối của gia súc bằng đủ cách
để khỏi phải làm việc nhọc nhằn, nghĩa bóng: người con gái không tuân lịnh cha
mẹ định việc đôi lứa.
[20] bị san bằng, chỗ cao thành thấp chỗ sâu thành cạn
Hết quyển thứ ba
CHƯƠNG 13 - QUYỂN THỨ IV - ĐƯỜNG NGAY NẺO VẠY
T
rong lúc Lê Tả-Quân ngồi chức Nam-Thàng Tổng-Trấn, ngài có lập
tại xứ Cần-Dước một cái đồn gần mé sông Bao-Ngược, và có cắt một vị xuất đội với
năm tên lính ở thủ đồn.
Mấy năm giặc Khôi nổi lên, thì đồn ấy bỏ trống không có quân
lính ở thú nữa.
Khi giặc Khôi dẹp yên rồi, triều-đình mới chia đất Nam ra làm
6 tỉnh và mỗi tỉnh đặt quan cai trị.
Qua năm Mậu-Tuất (1838) quan Tổng-Ðốc tỉnh Gia-Ðịnh sắp đặt
việc chánh-trị lại, ngài muốn ngăn ngừa đạo tặc trong miền Bao-Ngược nên ngài
sai một vị xuất đội tên là Phạm-Kỳ với 10 tên lính xuống thú đồn Cần-Ðước.
Phạm-Kỳ nầy ngày trước làm lính coi tội-nhơn tại khám đường
Gia-Ðịnh. Khi giặc Khôi nổi lên, quân lính đều theo Khôi hết thảy, duy có một
mình Phạm-Kỳ không chịu theo, lập thế thoát thân ra khỏi thành rồi tìm đường bộ
tuốt ra kinh-đô mà báo tin cho triều-đình hay. Vua sai tướng đề binh dẹp loạn,
thì Phạm-Kỳ dắt đường cho binh triều vào Gia-Ðịnh.
Chừng dẹp loạn xong rồi, quan xét công cho Phạm-Kỳ, dưng sớ về
triều, nên vua mới phong cho Phạm-Kỳ làm chức xuất-đội.
Phạm-Kỳ được lịnh sai xuống thú đồn Cần-Ðước, khi sửa soạn ra
đi thì quan Án-Sát có kêu mà dặn rằng:
- Trong xứ Cần-Ðước có ông Thiên-Hộ Trần Chánh-Tâm là người cự
phú mà lại hiền đức, nhơn dân hết thảy đều kính phục. Ðã vậy mà người lại có
công lớn với triều-đình, bởi vậy ngươi xuống đó mỗi việc đều phải do nơi người,
đừng có làm trái ý người mà mang lỗi.
Phạm-Kỳ ghi mấy lời dặn ấy vào trí, nên xuống tới đồn Cần-Ðước
rồi, thì liền đến nhà ông Thiên-Hộ mà xin ra mắt người. Ngày ấy nhằm ngày rằm
tháng giêng, ông Thiên-Hộ mắc đi lên chùa Phật mà niệm hương.
Phạm-Kỳ phải ở đó mà chờ; anh ta đi dạo chơi từ trường học,
nhà dưỡng lão, qua đến mấy lẫm lúa, ngó thấy công việc của ông Thiên-Hộ làm thì
anh ta lấy làm kính phục vô cùng.
Ðến trưa Phạm-Kỳ thấy có một chiếc ghe lường [21] ghé dưới bến,
rồi dưới ghe có một người bước lên. Người ấy độ chừng 50 tuổi, cao lớn, vạm vỡ,
râu le-the, mà cặp mắt sáng ngời, mặc áo dài, quần rộng bằng vải đen, trên đầu
cũng quấn khăn vải đen.
Phạm-Kỳ đương đứng tại cửa mà ngó người ấy, thình-lình Bạch-Thị
đương ở nhà dưỡng lão bước ra nói rằng:
- Ông Thiên-Hộ về.
Phạm-Kỳ lấy làm mừng, bèn đứng nép lại một bên mà chờ.
Chừng ông Thiên-Hộ bước vô cửa, Phạm-Kỳ chào ông và nói rằng:
- Tôi làm xuất-đội, quan trên sai tôi đến thú đồn Cần-Ðước.
Tôi dẫn lính xuống tới hôm qua, nên bữa nay tôi lại đây viếng ông.
Ông Thiên-Hộ đáp lễ, liếc ngó Phạm-Kỳ một cái rồi chau mày
day mặt chỗ khác, dường như ông có việc lo ra.
Tuy ông day chỗ khác, song ông day rồi thì liền day trở lại
mà mời Phạm-Kỳ vô nhà.
Ông mời ngồi xong rồi, ông mới hỏi Phạm-Kỳ rằng:
- Ông đội quê quán ở tỉnh nào?
- Tổ quán tôi ở Diên-Khánh.
- Chẳng hay ông đội quý danh là chi?
- Tôi họ Phạm tên Kỳ.
Hai người ngồi ngang nhau mà lén liếc ngó nhau hoài.
Mà chừng ông Thiên-Hộ nghe ông đội xưng tên là Phạm-Kỳ thì
ông lại nháy mắt lia-lịa, rồi ngửa bàn tay mà chống cái trán coi bộ ông suy
nghĩ lắm.
Phạm-Kỳ thừa dịp ông Thiên-Hộ không ngó mình mới lén nhìn ông
không nháy mắt.
Bạch-Thị biểu người nhà bưng nước trà đem ra. Ông Thiên-Hộ mời
khách uống nước.
Phạm-Kỳ uống một chén nước rồi cười và nói rằng:
- Lúc tôi còn ở trên tỉnh thì tôi đã nghe danh ông là người
giàu có, mà lại nhơn đức lắm. Nay tôi xuống đây tôi thấy công cuộc làm của ông
thiệt tôi thất kinh. Ông làm giàu mà thiên hạ được nhờ hết thảy chớ không phải
như họ giàu rồi lại ỷ thân ỷ thế khắc bạc húng hiếp kẻ nghèo. Chẳng hay ông là
người gốc-gác ở xứ nầy, hay là ở đâu đến đây mở ruộng?
Ông Thiên-Hộ day mặt ra cửa mà đáp rằng:
- Tôi gốc ở Rạch-Kiến.
- Té ra ông không phải là người ở đây. Vậy chớ ông đến đây mà
ở đã bao lâu rồi, mà ông làm giàu lớn dữ vậy?
- Ít năm nay.
Ông Thiên-Hộ trả lời cụt ngủn như vậy rồi kêu Bạch-Thi mà hỏi
thăm ông già đau nặng hôm qua đó, bữa nay bịnh ổng có bớt được chút nào hay
không tỏ ý rằng không muốn nói chuyện nhiều với ông Ðội. Phạm-Kỳ muốn dua-bợ,
mà thấy ông Thiên-Hộ không vui nghe lời khen của mình thì buồn nên đứng dậy từ
giã mà về đồn.
Ông Thiên-Hộ không lưu khách, ông đợi Phạm-Kỳ bước ra khỏi cửa
thì ông liền thay áo rồi đi xuống nhà dưỡng lão mà thăm ông già bịnh.
Phạm-Kỳ về dọc đường trong trí nghi-nghi ngại-ngại hoài, chẳng
hiểu tại sao mà ông Thiên-Hộ Chánh-Tâm hình dạng, mặt mày đều giống Lê-văn-Ðó
là một tên tội-nhơn ở tại khám-đường Gia-Ðịnh hồi trước quá.
Hay là Lê-văn-Ðó ra khám-đường rồi cải danh diệt tánh xuống
đây mở ruộng mà làm giàu.
Không lẽ, Lê-văn-Ðó hồi trước ngu lắm, nó có tài trí gì mà
làm giàu được, rồi lại thi ân bố đức và được phong tới chức Thiên-Hộ. Chắc là
người giống người, không phải Lê-văn-Ðó đâu.
Lê-văn-Ðó bị chồng án đến 20 năm. Khi mãn tù nghe nói nó đi
ăn trộm đồ đạt của chùa nào đó, rồi nó lại giựt một nồi cơm của tụi ăn mày nào
đó nữa, quan có tập nã bắt nó mà xử trảm.
Có lẽ nó đã bị chết chém đã lâu rồi, chớ còn đâu mà làm giàu,
làm Thiên-Hộ.
Phạm-Kỳ suy nghĩ như vậy rồi bỏ dẹp việc Lê-văn-Ðó không
nghi-ngại nữa.
Còn ông Thiên-Hộ, chẳng hiểu tại ông biết Phạm-Kỳ rồi ông sợ
Phạm-Kỳ nhìn ông hay sao, mà ông ít muốn gặp mặt Phạm-Kỳ. Khi nào rủi phải gặp
thì ông lại không chịu nói chuyện dài. Vì có lời của quan Án dặn trước, nên Phạm-Kỳ
đã có ý kiêng ông Thiên-Hộ mà đến nơi thấy công việc của ông kinh-dinh, thì anh
ta lại càng kính nhường hơn nữa, bởi vậy dầu ông Thiên-Hộ gặp mặt anh ta, ông tỏ
ý không vui, song anh ta cũng không dám phiền trách.
Ðến tháng tư trời sa mưa, những người ở trong điền ông
Thiên-Hộ ai cũng lo cày bừa.
Mỗi buổi chiều, trời mưa nhỏ nhỏ mà giông gió ồ ào.
Dân làm ruộng lạnh quíu nên ai nấy đều vác cày lùa trâu đi về
hết thảy.
Sông Bao-Ngược vì có giông lớn, nên sóng nổi lên như gò, rồi
đập vô mé nghe ầm-ầm.
Ông sáu Thới chèo ghe đi xuống dưới phía rừng sát đốn củi chở
về đổi gạo mà ăn; khi đi ngang vàm rạch Mái ông bị sóng nhận chìm ghe. Ông đeo
cái bánh lái ghe mà hụp lặn theo lượn sóng.
Hồi ghe chìm thì ông ở gần mé, mà vì gió ngược sóng đùa, ông
lội vô không được, nên lần lần ông trôi ra xa.
Có người ngó thấy như vậy thì la làng chói-lói đặng cho xóm
giềng chạy tới mà cứu ông.
Dân ở trong điền ông Thiên-Hộ xúm nhau đứng dài theo mé sông
kể hơn một trăm người.
Phạm-Kỳ cũng dắt lính chạy tới đó. Ông sáu Thới đeo tấm bánh
lái, hễ lượn sóng chụp tới thì ông hụp mất, cách một hồi lâu ông mới nổi lên được,
mà hễ thấy ông nổi lên thì lại thấy ông dang ra xa.
Ai nấy đứng dọc theo mé sông đều than trời trách đất, ai cũng
đưa tay mà chỉ, nhướng mắt mà dòm ông sáu Thới, song không có người nào dám liều
mình hoặc biết cách chi mà cứu ông.
Ông Thiên-Hộ thấy người ta náo-nức dựa mé sông, ông cũng lật-đật
chạy ra đó.
Chừng ông thấy ông sáu Thới bị hiểm nguy như vậy, ông nóng
lòng chịu không được nên ông hô lớn lên rằng:
- Người ta bị sóng như vậy, bây giờ xúm nhau mà coi người ta
chết chìm hay sao? Nội đây không ai dám chèo ghe ra cứu sao?
Ai nấy đều nín khe, không dám trả lời.
Phạm-Kỳ bước lại gần ông Thiên-Hộ mà nói rằng:
- Sóng to quá ai mà dám ra. Hễ ghe ra đây ắt bị sóng nhận nữa.
Ông Thiên-Hộ không thèm nói chuyện với Phạm-Kỳ, ông lại hô lớn
lên nữa rằng:
- Ai cứu người ấy được, tôi thưởng 10 nén bạc.
Ai nấy đều nín khe.
Ông Thien-Hộ nói:
- Hai chục nén … Năm chục nén.
Không một người nào có gan liều mình.
Ông Thiên-Hộ thấy vậy thì nhăn mặt chau mày.
Ông tuốt áo quần dựa mé bờ, ông nhảy xuống chiếc xuồng nang của
ai buộc gần đó, ông cầm cây dầm bơi riết, coi bộ mạnh dạn vô cùng. Hơn một trăm
người đứng trên bờ ai thấy cũng đều chắc lưỡi xanh mặt.
Chiếc xuồng nang cởi sóng xông ra giữa vời, khi hụp xuống,
khi trồi lên, coi cũng như đã chìm rồi, nên họ dậm đất kêu trời, chẳng dè một
lát thấy nổi lên thì lại mừng mà rồi sợ nữa.
Cách một hồi lâu chiếc xuồng ra tới chỗ ông sáu Thới trôi.
Ông Thiên-Hộ gát cây dầm, rồi hai tay chụp ông sáu Thới mà
kéo lên xuồng.
Vì chiếc xuồng thì nhỏ, mà ông sáu Thới thì nặng, bởi vậy ông
sáu Thới vừa lên được thì chiếc xuồng lật úp.
Phần thì xa, phần thì mưa gió, phần thì đã tối rồi nên những
người đứng trên bờ không còn thấy xuồng ông Thiên-Hộ nữa. Ông Thiên-Hộ thấy xuồng
úp ông liền đưa tay trái cho ông sáu Thới níu, còn tay mặt thì ông níu chiếc xuồng.
Ông tỉnh-táo như thường, không sợ sệt chi hết. Ông nương theo làn sóng mà lật
chiếc xuồng lại, lắc nước [22] cho nhẹ, đỡ ông sáu Thới lên trước rồi ông leo
lên sau, chừng ngồi yên rồi, ông lượng sóng mà bơi trở vô bờ, tuy hiểm nguy nhiều,
song ông cứu ông sáu Thới được.
Những người đứng ngóng trông trên bờ ngó thấy xuồng của ông
Thiên-Hộ chở ông sáu Thới vô tới, thì áp chạy lại hỏi thăm lăng-xăng. Ông sáu
Thới mệt thở dốc, nói không ra tiếng.
Ông Thiên-Hộ biểu dân dắt ông sáu Thới về nhà dưỡng bịnh, lấy
quần áo khô cho ông thay, để ổng nghỉ một lát rồi sẽ dọn cháo cho ổng ăn, chớ đừng
cho ăn gắp.
Ông Thiên-Hộ bận áo vô rồi cũng đi về nhà, ông đi trước,
tá-điền kéo theo sau, chẳng ai mà chẳng trầm-trồ khen ngợi.
Phạm-Kỳ dắt lính trở về đồn, hễ nhớ tới sự Thiên-Hộ vớt ông
sáu Thới thì hết sức kinh sợ.
Ðêm ấy anh ta sực nhớ lại năm trước trong khám-đường có tên
Lê-văn-Ðó lội lặn cũng hay lắm.
Lính dắt tội nhơn xuống Cần-Giờ đốn củi bị chìm ghe, tội nhơn
với lính đều chết hết, duy có một mình Lê-văn-Ðó lội vô mé được mà trở về.
Ông Thiên-Hộ nầy hình dạng đã giống Lê-văn-Ðó, mà lội giỏi
cũng như Lê-văn-Ðó nữa, thế khi chắc ông nầy Lê-văn-Ðó chớ ai. Vả Lê-văn-Ðó bị
quan tập nã về tội ăn cắp và giựt đồ.
Nếu chắc ông nầy là Lê-văn-Ðó thì mình phải bắt mà giải lên tỉnh.
Cha chả, mà ổng giàu có, lại thêm thân-thiết với quan trên quá, nếu bắt mà phải
thì tốt, còn như không phải thì mình chết.
Phạm-Kỳ dụ dự nửa muốn bắt tra, nửa sợ lầm nên không dám, bởi
vậy lo lắng trong trí ngủ không yên.
Còn ông sáu Thới nhờ ăn cháo rồi nghỉ một đêm, nên sáng ra
trong mình khỏe-khoắn như thường.
Ông lên nhà lạy ông Thiên-Hộ mà tạ ơn cứu tử rồi từ giã đi về.
Ông Thiên-Hộ cười và nói rằng:
- Tôi không giỏi gì hơn họ. Nhưng vì hôm qua tôi thấy ai nấy
đều nhác quá, tôi tức giận nên phải liều mạng mà cứu ông. Làm người hễ gặp nguy
hiểm thì phải cứu nhau, có ơn chi đâu mà ông phải cảm tạ.
Ông sáu Thới quê mùa, không biết lựa lời khôn khéo nên nghe
ông Thiên-Hộ nói như vậy thì ổng cúi lạy và nói cụt ngủn rằng:
- Nhờ có ông nên tôi mới còn sống đây chớ. Sao mà không có
ơn.
Ông Thiên-Hộ hỏi rằng:
- Ông năm nay được mấy mươi tuổi?
- Tôi trên bảy mươi.
- Già quá! Vậy thì ông mang ơn tôi cũng không mấy ngày.
- Tôi sống được ngày nào thì tôi nhớ ngày nấy. Mà hễ tôi nhớ
thì tôi phải lo đền ơn cho ông.
- Xin ông đừng lo mà nhọc lòng. Ông phải lo làm nghĩa với người
khác, chớ đừng lo đền ơn cho tôi. Tôi giàu sang, có thiếu vật chi đâu?
- Biết chừng đâu!
Ông sáu Thới tạ từ rồi lui ra về.
Khi đi ngang qua nhà dưỡng-lão, ông gặp dân đương lụi-hụi
khiêng một cái linh cửu mà đi chôn.
Ông hỏi thăm thì họ nói ông Ðinh-Hòa đã chết rồi. Ông nghe
nói thì chưng-hửng.
Ông lật đật đi riết về nhà đặng thuật chuyện mình chìm ghe và
việc ông Ðinh-Hòa chết lại cho Ánh-Nguyệt nghe.
oOo
Lý-ánh-Nguyệt từ ngày bị Hồng-Thị vu oan, làm cho Bạch-Thị đuổi
ra khỏi nhà nuôi mồ côi của ông Thiên-Hộ thì nàng hổ thẹn mà lại tức tủi vô
cùng. Nàng trở về nhà ông sáu Thới rồi khóc tỏ thiệt tâm sự của nàng lại cho
ông nghe.
Ban đầu nàng muốn trở lên nhà Ðỗ-Cẩm mà tìm con, dầu vợ chồng
Ðỗ-Cẩm không thương, muốn đày đọa thân nàng thế nào nàng cũng cam chịu, nghĩ vì
danh dự của tổ-tiên còn để cho nhơ-nhuốc, chút thân bèo-bọt nầy còn kể nữa làm
chi. May nhờ có ông sáu Thới khuyên giải cắc nghĩa chỗ lợi hại cho nàng nghe,
mà nhứt là nhờ mấy lời than thảm thiết của cậu là Ðinh-Hòa, nên nàng còn dụ-dự,
không nỡ vì con mà xa cậu.
Nàng chưa quyết định coi phải ở hay là phải đi!
Rủi thay! Thình-lình nàng vướng lấy chứng bịnh rất hiểm nghèo
là bịnh ban cua lưỡi trắng.
Người ta giàu, có tiền sẵn, có thầy hay, dầu người ta mang bịnh
nặng, người ta cũng có thể thoát khỏi.
Phận nàng nghèo hèn, không có tiền bạc, không có thuốc men,
ông sáu Thới thương thì kiếm cỏ kiếm cây cho uống đỡ mà thôi, chớ ổng cũng
nghèo, có tiền đâu mà chạy thuốc, bởi vậy tuy nàng khỏi chết, nhưng mà bịnh
dây-dưa, trở đi trở lại hoài, làm cho nàng phải nằm tại nhà ông sáu Thới hơn một
năm, không đi tìm con được mà cũng không làm việc gì có tiền để dành mà chuộc
con được.
Trong lúc nàng ngọa bịnh, nàng buồn rầu thương nhớ con chịu
không được, nên nàng có cậy ông sáu Thới lên nhà Ðỗ-Cẩm mà thuật việc khốn khổ
của nàng cho vợ chồng Ðỗ-Cẩm nghe rồi xin rước con Thu-Vân đem về cho mẹ con gần
nhau đặng nàng vui lòng mau mạnh được.
Ông sáu Thới đi về nói rằng Ðỗ-Cẩm liệu thế không đòi nhiều
tiền được nữa, nên coi ý muốn cho rước con Thu-Vân. Ngặt vì Thị-Phi kháng cự
không chịu thả con Thu-Vân, bởi vậy Ðỗ-Cẩm đổi ý mới buộc nếu không có tiền trả
đủ, thì cũng phải trả năm ba quan, anh ta mới cho rước. Ông sáu Thới lại to nhỏ
cho Ánh-Nguyệt hay rằng:
- Ông lên đó, ông thấy con Thu-Vân thiệt ông đứt ruột. Con nhỏ
có bao lớn mà ở truồng ở trần, không có áo quần. Con mẹ Phi nó lại ác nghiệt lắm!
Cay cú miệng chửi, nó khõ [23] trên đầu con nhỏ côm-cốp tối ngày. Bộ nó bỏ đói
con nhỏ hay sao mà con nhỏ ốm quá, da bọc xương chớ không thịt.
Ánh-Nguyệt nghe nói thân con khổ cực dường ấy, thì nàng đau đớn
trong lòng không biết chừng nào, nàng muốn liều cái thân của nàng mà cứu chữa sự
cực khổ của con, ngặt vì bịnh trầm-trệ phải nằm đây hoài, phần thì trong mình
không có một đồng một chữ, biết làm sao mà giải con thoát tay Ðỗ-Cẩm được.
Nàng nghĩ nàng trách riêng tại nàng vụng tính, chớ chi hồi đi
về đây nàng bồng con đi theo, thì đâu có nỗi thương nhớ như vầy. Nàng muốn giữ
cho tròn danh giá, nàng bỏ con ở lại, vậy mà rồi nàng có giữ trọn được đâu!
Nàng suy đi xét lại, suy xét đủ mọi đều[24] rồi, thì chỉ có một cái nghèo nó
làm cho thân nàng đê tiện cực khổ, chớ chẳng phải tại đều chi khác.
Vì cái nghèo nên cha chết dọc đường dọc sá; vì cái nghèo nên
thân mình phải ở đợ cố công; vì cái nghèo nên phải chịu lấy chồng mà không kịp
trình cho cô bác; vì cái nghèo nên Hải-Yến mới bội bạc; vì cái nghèo nên mẹ con
phải xa nhau; vì cái nghèo nên không dưỡng nuôi cậu được; vì cái nghèo nên phải
thọ ơn của người rồi người nhục mạ; vì cái nghèo nên chứng bịnh lâu lành. Y hị!
Cái nghèo nó báo hại vô cùng!
Vì nó mà người phải trở ra quấy, người nên trở ra hư, người
ngay trở ra dại!
Nàng xét tới đó rồi nàng phiền ông Trời sao nỡ khiến nghèo
hèn cho nàng làm chi, thà là nghèo hèn thì nghèo hèn hết thảy hoặc giàu sang
thì cũng giàu sang hết thảy, dường ấy thì ai cũng như ai, chớ đặt chi cho có kẻ
sang người hèn, kẻ giàu người nghèo, rồi người giàu sang họ hiếp kẻ nghèo hèn
như vầy, thiệt là ức quá!
Mà ông Trời định có kẻ giàu người nghèo, có kẻ sang người
hèn, nhưng mà nào ông có hiểu ai húng hiếp ai, nào ông có biểu ai khinh khi ai?
Ấy là tại lòng người nham hiểm, độc ác, nên mới có việc ức-uất. Nàng nghĩ như vậy
rồi nàng không phiền ông Trời nữa, nàng trở lại nàng oán loài người, nàng oán Ðỗ-Cẩm
hồi trước bó buộc rồi còn gạt-gẫm nàng; nàng oán Hải-Yến bội nghĩa bạc tình, được
sang quên hèn; nàng oán ông Thiên-Hộ làm mặt nhơn từ, mà đã không cứu nàng, lại
còn làm nhục cho nàng nữa.
Nàng nằm một chỗ mà oán hết mọi người, mà oán người thì oán
chớ không quên nhớ con, cũng không quên thương cậu. Ðến tháng tư năm Mậu Tuất
(1838) nàng mới ngoắc-ngoải đi ra đi vô được, nhưng mà bữa nào trời mưa thì
nàng cũng còn ớn lạnh, nên nàng biết bịnh nàng chưa dứt.
Ông sáu Thới chèo ghe đi đốn củi đã mấy bữa rồi chưa về, bỏ một
mình Ánh-Nguyệt ở nhà.
Một buổi sớm mơi, nàng đương ngồi dựa cửa ngó ra sân mà trông
con, thình-lình nàng thấy ông sáu Thới quần vo lên trên bắp vế, băng ngang đám
ruộng mà về.
Nàng lấy làm lạ, không hiểu ông bỏ ghe ở đâu, sao lại lội ruộng
mà về như vậy.
Ông sáu Thới thấy dạng nàng thì ông lội riết.
Chừng ông bước lên tới sân ông mới kêu nàng mà nói rằng:
- Cháu ơi! Cậu của cháu đã chết rồi.
Ánh-Nguyệt chưng-hửng nên vụt hỏi rằng:
- Chết hồi nào? Sao ông hay?
- Ông mới gặp người ta khiêng đi chôn hồi nãy đây, nên lật đật
lội về cho cháu hay.
Ánh-Nguyệt khóc rống lên mà kể ra-rít, nghe rất thảm-thiết.
Ông sáu Thới cảm động, không muốn đi vô nhà; ông bước trái lại
cái hào [25] gần đó mà rửa chơn, song ông đứng kỳ mài hoài, cho đến chừng
Ánh-Nguyệt bớt khóc ông mới chịu vô nhà.
Ông muốn khuyên giải Ánh-Nguyệt song không biết dùng lời chi,
chỉ nói rằng:
- Ảnh cũng đã già rồi, chết cũng phải cái mồ. Mà ảnh nghèo khổ
tật-nguyền, chết phứt cho mát tấm thân, sống càng thêm cực khổ, chớ sống làm
gì.
Ánh-Nguyệt lau nước mắt rồi hỏi thăm họ chôn cậu chỗ nào, ông
đi đâu đó mà gặp.
Ông sáu Thới mới ngồi mà thuật việc ổng bị giông chìm ghe,
ông Thiên-Hộ vớt lên, cho ăn cơm ăn cháo và cho ngủ đậu một đêm, nên sáng ra ổng
mới gặp dân đi chôn ông Ðinh-Hòa. Ông thuật hết rồi ông lại than rằng:
- Gia tài có một chiếc ghe; bây giờ chìm mất rồi, thôi co
tay, biết lấy chi mà đi làm ăn.
Ánh-Nguyệt nghe lời than như vậy thì nàng thở dài.
Tối lại Ánh-Nguyệt khóc mà nói với ông sáu Thới rằng:
- Cháu nương náu tại xứ nầy, ấy là vì cháu thương cậu của
cháu, nên không đành bỏ mà đi xa. Chẳng dè ở gần mà cậu của cháu chết, cháu
cũng không thấy mặt. Ðã vậy mà hơn một năm nay cháu báo cho ông cực khổ với
cháu nhiều lắm. Bây giờ cháu đã lành mạnh rồi, không lẽ cháu dám ở đây mà báo
ông nữa. Vậy xin ông để cháu đi, cháu đi lên Vũng-Gù mà tìm con Thu-Vân, đặng mẹ
con gần nhau. Cháu đã nguyền với Trời Phật thà là cháu bán cái thân của cháu mà
nuôi con, chớ cháu không nỡ để cho con cực khổ nữa.
Nàng nói tới đó thì nàng khóc mướt một hồi rồi nói tiếp rằng:
- Ơn của ông bảo bọc nuôi dưỡng cháu hơn một năm nay thiệt là
nặng-nề. Thân cháu khốn khổ như vầy biết làm sao mà đền đáp cho được. Cháu xin
thưa thiệt với ông, nếu kiếp nầy cháu không có thế mà trả ơn cho ông, thì cháu
nguyền kiếp sau cháu sẽ đầu thai lên làm trâu ngựa mà đáp nghĩa cho ông, cháu
chẳng hề dám quên.
Ông sáu Thới thở dài mà đáp rằng:
- Cháu đừng có nói chuyện ơn nghĩa. Ở đời phải vần công[6] với
nhau. Vậy chớ ông Thiên-Hộ mới cứu ông khỏi chết hôm qua, ông lại đền ơn cho ổng
vật gì đâu? Còn cháu tính đi tìm con, cháu nói liều mạng vậy sao được. Vợ chồng
Ðỗ-Cẩm nó tham tiền, nó đã báo hại làm nhơ danh tiết của cháu một lần rồi cháu
chưa tởn hay sao? Cháu lên trển đây nó sanh chuyện rồi làm nhục cho cháu nữa
đa. Cháu ở đây với ông. Cháu ráng dưỡng bịnh ít ngày cho thiệt mạnh rồi ông
cháu lo làm ăn, lần lần kiếm được năm bảy quan, ông đem lên ông chuộc con nhỏ về
cho, chớ cháu lên đó sợ e cháu về không được. Từ ngày ông lên thăm con nhỏ ông
nghe Ðỗ-Cẩm bằng lòng cho chuộc năm ba quan, thì ông đã có tính rồi, ông quyết
làm để dành tiền đặng ông đi chuộc. Xưa rày ông chắt mót để dành đã được một
quan rồi, ông chôn dưới chưn giường, đợi chừng nào được ba quan rồi ông đi nói
thử coi nó chịu hay không. Như nó không chịu thì ông về làm kiếm thêm nữa. Cháu
đừng có lo, bề nào ông kiếm tiền cũng được mà.
Ánh-Nguyệt nghe những lời háo nghĩa như vậy thì nàng càng
thêm cảm xúc, bởi vậy nàng ngồi bẹp dưới đất lạy ông sáu Thới mà khóc chớ không
biết lấy lời chi mà tạ ơn cho vừa.
Ông sáu Thới thấy vậy cũng cảm động, nên ông cũng khóc theo.
Từ ấy Ánh-Nguyệt quyết làm thuê làm mướn mà kiếm tiền, không
tính đi Vũng-Gù nữa.
Ông sáu Thới không có ghe, thì ông mướn ghe của họ đi đốn củi
chở về đổi gạo mà ăn.
Ánh-Nguyệt chưa thiệt mạnh, không dám xuống nước, không dám dầm
mưa, nên cứ ở nhà chờ có ai mướn may áo may quần thì nàng may, chớ không dám đi
xúc tôm, hoặc đi cấy mướn.
Ngày qua đêm lại thắm thoát đã đến tiết Trung-Thu.
Có một cậu trai, vốn con nhà giàu ở xứ Cần-Ðước, tên là
Cao-trinh-Tường, tính dọn ghe và mời bằng-bối ít người rồi thả ra sông lớn uống
rượu thưởng nguyệt chơi.
Từ xưa cậu ta đã biết danh Ánh-Nguyệt đờn hay, mà nay lại
nghe Ánh-Nguyệt tá-túc với ông sáu Thới.
Chàng muốn rước Ánh-Nguyệt xuống ghe đặng đờn giúp vui cho bậu-bạn,
nên trưa bữa rằm tháng 8 chàng ghé nhà thằng Hiền, là cháu của ông sáu Thới, mà
cậy nó rước dùm, chàng hứa rằng, nếu Ánh-Nguyệt chịu đờn giúp vui một đêm, thì
chàng sẽ huờn công cho một nén bạc.
Thằng Hiển thấy Ánh-Nguyệt nghèo khổ, muốn giúp cho nàng có
tiền, nên nghe như vậy thì vội vã qua nhà ông sáu Thới mà tỏ sự ấy lại cho ông
sáu Thới với Ánh-Nguyệt nghe. Ông sáu Thới nạt rằng:
- Khéo nói chuyện bá láp! Nghèo thì chịu, chớ ham một nén bạc
rồi đem thân làm đĩ hay sao?
Thằng Hiển cãi rằng:
- Sao mà kêu là làm đĩ? Người ta mướn mình đờn cho người ta nghe
thì mình đờn mà lấy tiền, có cái gì xấu ở đâu?
- Mình đi đờn như vậy, thì mình cũng như bọn ca xướng, vậy tốt
lắm sao?
- Ối! Miễn là được nhiều tiền thì thôi, tốt xấu mà hại gì! Mà
nghề đờn cũng là nghề. Nếu mình biết nghề ấy mà không dùng, thì học mà làm gì?
Ánh-Nguyệt nghe hai ông cháu cãi với nhau như vậy thì nàng cười
mà nói rằng:
- Ông rầy chú hai Hiển thì phải lắm. Học đờn để dưỡng chí, chớ
không phải để kiếm tiền. Mà thân nghèo khổ của cháu đây, còn tâm chí gì nữa mà
dưỡng! Xin ông vui lòng để cho cháu đi đờn cho họ nghe một đêm đặng lấy tiền mà
chuộc con của cháu. Thuở nay cháu ở phải mà cũng thành ra quấy. Bây giờ đã đến
nước nầy, còn gì nữa mà lựa tốt xấu.
Ông sáu Thới thở ra mà đáp rằng:
- Tự ý cháu. Chớ ham tiền mà làm như vậy thiệt kỳ lắm.
- Không hại gì. Cháu biết giữ mình cháu. Miễn là cháu biết
cháu trong sạch thì thôi, ai không rõ họ cười chê mặc ý họ.
Thằng Hiển thấy Ánh-Nguyệt chịu, liền chạy báo tin cho cậu
Trinh-Tường hay.
Tối lại, trăng thu vừa ló mọc, thì có một chiếc ghe lường
chèo lại đậu trước nhà ông sáu Thới mà rước Ánh-Nguyệt.
Nàng gỡ đầu, gài nút áo, rồi từ ông sáu Thới mà đi, tuy trong
lòng hổ thẹn không biết chừng nào, nhưng vì muốn có tiền mà chuộc con, nên phải
ráng [27] chúm-chím cười, song cười mà chảy nước mắt.
Ghe ra tới vàm, Ánh-Nguyệt thấy có một chiếc ghe lớn đậu chực
tại đó, trong ghe đốt đèn sáng trưng, lại có bốn năm người con trai đương uống
rượu cười giỡn om-sòm.
Hướng đông bóng trăng tỏ rạng, tư bề mặt nước lao-xao, trăng
dọi nước vàng-vàng, gió đưa mây cuộn-cuộn.
Ghe lường vừa cặp một bên chiếc ghe lớn, thì cậu Trinh-Tường
ngồi trong mui ló đầu ra mà mời Ánh-Nguyệt bước qua, còn mấy cậu kia thì chong
mắt ngó chừng, chớ không nói chi hết.
Ánh-Nguyệt lấy làm thẹn-thùa hết sức, song nàng phải gượng gạo
mà vưng lời.
Nàng bước qua ghe lớn rồi ngồi phía ngoài, thấy trong mui rượu
thịt dọn đầy mâm, đờn địch để đủ hết.
Trinh-Tường mời nàng bước vô trong mui. Nàng cáo từ xin cho
ngồi ngoài. Trinh-Tường mời hai ba lần không được, chàng giận nên vói nắm tay
nàng mà kéo vô. Nàng lật-đật giựt tay và ngó Trinh-Tường rất nghiêm-nghị mà nói
rằng:
- Thưa cậu, để cho em ngồi ngoài nầy, em không lẽ dám đồng tọa
với mấy cậu.
Ánh-Nguyệt tuy mặc quần áo lam-lũ, tuy rầu buồn rồi lại bịnh
hoạn nên vóc ốm mình gầy, nhưng mà gương mặt thêm yểu-điệu. Mấy cậu ngồi trong
mui thấy nàng rồi ngó nhau miệng chúm-chím cười hoài.
Trinh-Tường mời vô không đặng bèn hối bạn nhổ sào mà thả ghe
trôi dọc theo mé sông Bao-Ngược, rồi lấy cây đờn tỳ-bà trao cho Ánh-Nguyệt đờn.
Ánh-Nguyệt đã lâu rồi không dám rờ tới cây đờn, nhưng mà hôm
nay nàng ôm cây tỳ-bà mới lên dây, thì tiếng to như khóc, tiếng nhỏ như than, rồi
đến chừng nàng gài vô bản, thì khúc mau như nước đổ, như mưa tuôn, khúc chậm
như gió đàn, như chim hát.
Trăng thanh, gió mát, nước dợn, đờn tươi, cảnh tình dường ấy
người phong lưu ai cũng phải cảm hứng.
Mấy cậu ngồi trong tiệc ai ai cũng đều ngơ-ngẩn. Mà cậu
Trinh-Tường lại ngơ ngẩn nhiều hơn người ta hết thảy, bởi vậy khi Ánh-Nguyệt đờn
dứt bài rồi, cậu cảm xúc dằn lòng không được, nên vói tay nắm áo kéo Ánh-Nguyệt
mà biểu ngồi xê lại gần. Ánh-Nguyệt thưa rằng:
- Phận em là đờn-bà con gái xin cậu thương dùm danh tiết của
em, đừng có làm như vậy tội nghiệp thân em lắm.
Nàng và nói và giựt vạt áo, còn cặp mắt thì giọt lụy rưng
rưng chảy.
Trinh-Tường cười mơn, đã không buông vạt áo, mà lại còn thò
tay mặt choàng ngang cổ Ánh-Nguyệt mà ôm.
Ánh-Nguyệt la lớn lên rằng:
- Cậu không được phép vô lễ như vậy. Cậu phải buông tôi ra.
Nàng và la và gỡ tay Trinh-Tường. Mấy cậu kia ngồi cười ngất,
tuy không xúi, song cũng không cản Trinh-Tường.
Trinh-Tường nói rằng:
- Nội đây là anh em hết thảy, có ai đâu mà mắc cỡ.
Chàng và nói và kề mặt vào mặt Ánh-Nguyệt mà hun. Ánh-Nguyệt
thấy Trinh-Tường vô lễ thái thậm, nàng giận quá, không thế dằn được nữa, bởi vậy
nàng chụp cây tỳ-bà mà đập trên đầu Trinh-Tường một cái bốp, cây đờn bể nát.
Trinh-Tường bị nhục trước mặt chúng bạn thì chàng nổi giận,
nên vùng đứng dậy đạp Ánh-Nguyệt hai đạp rồi xô tuốt nàng xuống sông. Ánh-Nguyệt
la làng inh-ỏi. Trinh-Tường đứng trước mui ghe hối bạn gay chèo mà chèo thẳng lại
đồn.
Chàng to nhỏ với ông đội thế nào không biết, mà ông đội không
rầy chàng, lại sai lính đi kiếm bắt Ánh-Nguyệt.
May ghe thả dựa mé sông, lại cũng nhờ Ánh-Nguyệt biết lội, bởi
vậy nàng lần vô mé rồi leo lên ruộng ngồi mà la làng. Những người ở gần không
rõ chuyện chi nên áp chạy tới hỏi thăm.
Cách chẳng bao lâu có một tên lính chạy tới nắm đầu Ánh-Nguyệt
mà dắt đi.
Ánh-Nguyệt thấy lính bắt thì thất kinh, nên nàng run lập-cập
và khóc và nói rằng:
- Bẩm cậu, người ta hiếp tôi quá; thân tôi là đờn-bà, mà họ
làm ngang ôm tôi; tôi không chịu tôi cự, họ lại đánh tôi rồi xô xuống sông. Tôi
bịnh hoạn, xin cậu thương dùm tôi, tội nghiệp ….
Tên lính trợn mắt, nắm đầu nàng mà kéo xển đi, rồi nói rằng:
- Ế! Thứ đồ đĩ khéo nhiều chuyện! Về đồn đây rồi mi coi.
Ánh-Nguyệt đã bị đánh, rồi bây giờ còn bị bắt và bị nhiếc nữa,
nàng nghĩ thân nàng thiệt là tức-tủi, bởi vậy nàng than khóc nghe rất thảm thiết.
Tên lính dắt Ánh-Nguyệt chưa được mấy bước, thình-lình ông
Thiên-Hộ đứng cản đường và hỏi rằng:
- Việc gì mà người ta là đờn-bà con gái, mi lại nắm đầu người
ta mà dắt đi. Dẫu có tội thì mi biểu người ta đi với mi không được hay sao nên
phải nắm đầu. Buông ra coi nào.
Tên lính lật đật buông Ánh-Nguyệt ra, rồi xá ông Thiên-Hộ và
thưa rằng:
- Thưa ông Thiên-Hộ, con nầy nó làm đĩ, nên ông Phạm-Kỳ sai
tôi bắt nó mà đem về đồn.
Ông Thiên-Hộ dòm mặt Ánh-Nguyệt và nói rằng:
- Khốn nạn dữ hôn! Sao không lo làm ăn, để đi làm cái nghề nhục-nhã
như vậy?
Ánh-Nguyệt bị ướt áo ướt quần, rồi lại bị gió thổi, nên nàng
lạnh run lập-cập.
Nàng đương lạnh, đương sợ, mà lại đương tức, thình-lình nghe
tên lính kêu người đứng trước mặt mình đó là ông Thiên-Hộ, rồi lại nghe mấy lời
người ấy trách mình đó nữa, bởi vậy nàng giận quá, nên xốc lại xỉ trong mặt ông
Thiên-Hộ mà mắng rằng:
- Ờ! Mi là Thiên-Hộ há? Sao mi dám trách ta không lo làm ăn?
Ta lo sao nữa hử? Ta nghèo khổ vô ở đợ với mi, ta làm việc gì quấy đâu mà mi nhục
mạ ta rồi đuổi ta ra. Mi là đồ giả nhơn nghĩa! Tại mi độc ác, nên ngày nay thân
thể ta mới ra thúi-tha như vầy, danh tiết ta mới ra nhơ-nhuốt như vầy, sao mi
còn dám trách ta.
Tên lính nghe Ánh-Nguyệt mắng nhiếc ông Thiên-Hộ thì nổi giận,
nên chụp nắm đầu nàng nữa mà kéo đi, chuyến nầy đi riết về đồn, miệng lại chửi
láp-dáp.
Ông Thiên-Hộ muốn cứu Ánh-Nguyệt mà lại bị nàng mắng, bởi vậy
ông chưng-hửng, không hiểu tại sao mà nàng nhiếc mình. Ông đứng chau mày suy
nghĩ một hồi, rồi ông cũng phăng-phăng đi lại đồn.
Chú thích :
[21] thuyền độc mộc
[22] đẩy nước ra khỏi ghe xuồng bằng cách lắc, nước tràn ra
ngoài do lực ly tâm
[23] gỏ
[24] điều
[25] ao
[26] thay phiên với nhau ra công: như cấy vần công
[27] Hay ráng, cố gắng
CHƯƠNG 14 - QUYỂN THỨ IV - ĐƯỜNG NGAY NẺO VẠY
P
hạm-Kỳ ngồi tại đồn mà trông tên lính sai đi bắt Ánh-Nguyệt,
sắc mặt hầm hừ, coi bộ giận lắm.
Cách một hồi, thấy tên lính nắm đầu Ánh-Nguyệt mà kéo vô, thì
anh ta la hét vang rân, và dạy đem Ánh-Nguyệt mà đóng gông lại. Tên lính chưa kịp
dắt Ánh-Nguyệt đi, thì kế ông Thiên-Hộ bước vô đồn. Phạm-Kỳ chào hỏi rồi mời ngồi.
Tên lính thấy ông Thiên-Hộ, liền thưa với Phạm-Kỳ rằng:
- Bẩm ông, con nầy dữ thiệt! Hồi nãy nó mắng nhiếc ông
Thiên-Hộ nữa.
Ông đội day lại nạt rằng:
- Thì tao biểu mi đem nó ra sau mà đóng gông nó cho tao mà.
Ông Thiên-Hộ đưa tay ra cản và nói rằng:
- Khoan! Nó tội gì mà ông đóng gông nó? Ông phải tra hỏi coi
nó có phạm tội hay không đã chớ.
Phạm-Kỳ trề môi đáp rằng:
- Nó làm đĩ, thì nó phạm luật triều đình rồi, còn hỏi chi nữa.
- Sao ông biết nó làm đĩ?
- Người ta đến thưa với tôi đây.
- Người ta thưa nó như vậy, thì ông phải hỏi nó coi người ta
thưa ngay hay là thưa gian rồi sẽ định tội, chớ ông nghe người ta thưa rồi ông
bỏ tù nó liền, không hỏi đi hỏi lại, thì sao cho công bình được.
- Người ta giàu có, lời người ta không chắc hay sao? Còn con
nầy là đồ khốn nạn, cần gì mà phải hỏi nó.
- Ông nói như vậy té ra nhà giàu thì phải, còn nhà nghèo thì
quấy hết thảy hay sao? Tôi đây cũng là nhà giàu, nhưng mà tôi nói cho ông biết,
có nhiều nhà giàu họ gian giảo đê tiện hơn nhà nghèo lắm, ông đừng có tưởng nhà
giàu là phải hết thảy. Ông phải hỏi coi con nầy tại sao mà phải đem thân đi làm
đĩ, rồi tại sao làm đĩ mà đến nỗi người ta thưa kiện.
Ông đội Phạm-Kỳ nghe ông Thiên-Hộ nói hơi binh con đĩ và kích
bác nhà giàu thì ông lấy làm bất bình, nhưng vì ông sợ làm mích lòng kẻ có thế
lực, nên cực chẳng đã ông phải ép trí kêu Ánh-Nguyệt ra đứng trước mặt ông mà
tra hỏi.
Ánh-Nguyệt sợ run bây-bẩy, nên ngồi bẹp xuống đất và lạy và
khóc và tỏ rằng:
- Bẩm ông, xin ông thẩm xét cho con nhờ. Phận con nghèo đói,
con xiêu-lạc phương xa, khi mới về đây con vô ở đợ với ông Thiên-Hộ đặng coi sắp
nhỏ mồ côi. Ông Thiên-Hộ không biết thương con nhà nghèo, con ở mới có 6 tháng,
ổng kiếm chuyện nói con lấy trai mà đuổi con ra đặng khỏi trả tiền công.
Con ra khỏi rồi con ở đậu trong nhà người quen, con bị đau
hơn một năm trời, không làm ăn chi được hết. Vả con có một đứa con nhỏ, con mượn
người ta nuôi ở trên Vũng-Gù. Con thương nhớ nó, con cậy người lên rước dùm đem
về đặng mẹ con gần nhau. Họ không cho rước, lại buộc con phải đem năm bảy quan
tiền lên họ mới cho chuộc. Con nghèo nàn không có tiền, nên con chưa hết đau,
mà vì thương con nên phải ráng làm thuê làm mướn đặng kiếm tiền mà chuộc con.
Cậu Trinh-Tường nghe nói con biết đờn, hôm qua cậu sai người
biểu con đi đờn cho cậu nghe một đêm rồi cậu cho con một nén bạc. Con cũng biết
vưng lời cậu thì thân con đê tiện lắm. Ngặt vì phần thì đói rách, phần thì muốn
kiếm tiền mà chuộc con, nên con phải đánh liều đặng cho có một nén bạc.
Cậu Trinh-Tường là bực giàu sang, con tuởng cậu biết lễ, chẳng
dè con xuống ghe mà đờn cho cậu nghe, cậu cứ theo nắm áo con. Con khóc mà năn-nỉ
hết lời, xin cậu đừng có làm nhơ danh tiết của con. Cậu đã chẳng nghe, mà cậu lại
còn làm ngang quá nữa, cậu ôm con mà hun. Con hổ thẹn tức giận cùn trí, nên con
chụp cây đờn mà đánh cậu. Cậu nổi giận cậu đánh đạp con rồi xô con xuống sông
cái, may con biết lội, nên con lần lần thả trôi vô mé được, bằng không thì con
đã chết rồi. Việc thiệt như vậy đó, xin ông làm ơn thẩm xét cho con nhờ.
Ông Thiên-Hộ chăm chỉ nghe Ánh-Nguyệt cung khai, ông nhớ lại
chuyện của ông năm xưa, cũng vì nhà giàu bất nhơn, mà ông phải chịu 20 năm tù,
bởi vậy ông cảm động, nên rưng-rưng nước mắt.
Còn ông Ðội Phạm-Kỳ, vì ông quen tánh giữ luật pháp, và quen
tánh binh nhà giàu, chớ không biết thương ai hết, bởi vậy trong lúc Ánh-Nguyệt
thuật chuyện nghe rất thảm thiết, mà ông ngồi trơ-trơ, không cảm động chút nào
hết; mà chừng Ánh-Nguyệt nói dứt rồi ông lại nạt rằng:
- Ế! Thứ đồ làm đĩ, còn nói nhiều chuyện. Mi già hàm lắm! Tao
biểu lính nó vả mi bể mồm bây giờ! Người ta mướn mi đờn cho người ta nghe, hễ
người ta biểu sao mi phải vưng theo vậy. Sao mi vô phép, mi không chịu đờn, người
ta rầy, rồi mi lại vác đờn mà đập người ta? Mi không biết luật triều đình cấm
nhặt sự làm đĩ hay sao? Ðể ta giải mi lên tỉnh rồi mi coi. Có thằng lính nào
đó? Dắt con nầy ra sau rồi đóng gông nó lại đó cho tao.
Ông Thiên-Hộ vùng đứng dậy nói rằng:
- Ông Ðội, ông xử hiếp nhà nghèo quá!
- Sao mà hiếp? Hiếp chỗ nào?
- Ðã biết luật triều đình cấm đờn-bà con gái làm đĩ, nhưng mà
con nầy nó có làm đĩ hồi nào mà ông bắt nó? Vậy chớ ông không nghe mấy lời nó
khai đó hay sao? Thân nó nghèo hèn đói rách không có cơm ăn, không có áo mặc, lại
nó cần dùng tiền để chuộc con nó, nên cực chẳng đã nó phải liều thân đi đờn mướn
cho người ta nghe đặng lấy một nén bạc mà đi chuộc con nó về; nó làm như vậy là
bất đắc dĩ nó phải làm, chớ nào phải nó muốn làm nhơ-nhuốc danh tiết nó hay
sao? Ông làm quan, ông phải biết tâm-lý của dân, chớ ông bó buộc quá như vậy
thì chết hết con nhà nghèo còn gì! Nếu ông xử con nầy làm đĩ, thì tôi không
nghe cho ông.
- Tôi không hiểu tại sao ông binh thứ đồ khốn nạn như vầy làm
chi.
- Tại nó khốn nạn nên tôi mới binh.
- Tôi nghe nói hồi nãy nó mắng tới ông, mà ông còn binh nỗi
gì?
- Không biết chừng nó mắng đó nhằm lý, chớ không phải mắng bậy.
- Hứ! Ông nói nghe lạ đời quá!
- Tôi nói đó là nói theo chánh lý.
- Chánh lý nỗi gì? Nó đi làm đĩ, mà còn nhục mạ người ta, đến
nỗi người ta thưa với tôi đây. Tôi bắt nó, ông không cho, sao ông gọi rằng
chánh lý?
- Tôi đã nói không phải nó làm đĩ! Vì nó nghèo nên phải đi đờn
mướn cho người ta nghe đặng lấy tiền.
- Nó nghèo mặc kệ nó, ai biểu nó đi làm bậy làm chi.
- Ông nói lời bất nhơn quá! Nó có muốn nghèo làm chi đâu; nó
muốn làm quan như ông vậy lắm chớ, ngặt vì trời khiến mạng nó nghèo hèn, nó phải
ráng mà chịu, sao ông không thương dùm nó, nỡ buông lời bất nhơn chi vậy?
- Tôi làm quan tôi cứ luật pháp tôi giữ; tôi không vị ai, mà
tôi cũng không thương ai hết.
- Vậy thì ông là một ông quan bất nhơn.
- Sao ông cứ mắng tôi bất nhơn hoài? Nó làm đĩ, tôi bắt nó,
có cái gì đâu mà nói tôi bất nhơn.
- Nó đờn mướn, chớ không phải làm đĩ. Ông xử như vậy thì hiếp
nó. Huống chi Trinh-Tường ỷ giàu, ỷ sang, ỷ thân, ỷ thế làm nhục nó, nó cự, lại
đánh đạp nó rồi xô nó xuống sông. Trinh-Tường đã vô lễ, bất nhơn, lại tàn bạo,
lẽ thì ông phải bắt Trinh-Tường mà trị tội, sao ông tư vị, nhà giàu ông không
nói tới, lại theo bắt mà làm hại một người đờn-bà nghèo hèn bị tai nạn như vầy.
Tôi nói cho ông biết, nếu ông bắt con nầy thì tôi phải lên tỉnh mà cáo ông, vì
tôi không đành để cho ông làm hại một người nghèo hèn vô tội.
Ông đội Phạm-Kỳ giận hết sức, mặt mày tái xanh, tay chơn
run-rẩy, ông muốn bắt luôn ông Thiên-Hộ mà giải lên tỉnh một lượt với con
Anh-Nguyệt, đặng cho quan trên tra xét coi ông Thiên-Hộ Chánh-Tâm nầy có phải
là Lê-văn-Ðó hay không, và nàng Ánh-Nguyệt làm như vậy có phải là làm đĩ hay
không phải, nhưng vì ông nhớ lại Thiên-Hộ là bực giàu sang, lại thân thiết với
các quan trên tỉnh, sợ chén đá khó hơn chén kiểu được, bởi vậy anh ta phải dằn
lòng ép trí mà nhịn thua. Anh ta day lại nói cùn-quằng với tên lính rằng:
- Thôi, mi thả con đĩ đó cho nó đi đâu nó đi, vậy cho vừa
lòng ông Thiên-Hộ.
Trong lúc ông Thiên-Hộ cãi lẽ với Phạm-Kỳ thì Ánh-Nguyệt ngồi
chồm hổm dựa gốc cột.
Nàng nghe nói đóng gông thì sợ, lại bị quần áo ướt nên lạnh,
bởi vậy nàng ngồi đó mà miệng đánh bò-cạp, còn tay chơn run như con thằn-lằn đứt
đuôi. Nàng oán hận ông Thiên-Hộ, nên mới mắng nhiếc ổng đó, mà vô đến đây sao ổng
lại binh vực nàng, bởi vậy nàng lấy làm lạ, chẳng hiểu tại sao ổng đã không giận
mà lại còn muốn cứu nàng.
Chừng nàng nghe ông Ðội kêu lính biểu thả nàng thì nàng mừng
quýnh, nên lật đật cúi lạy ông Ðội rồi bước ra cửa mà đi. Ông Thiên-Hộ đi theo
sau lưng nàng. Phạm-Kỳ đứng ngó cặp mắt lườm lườm.
Ánh-Nguyệt với Thiên-Hộ đi rồi thì Phạm-Kỳ tức giận nằm ngồi
không yên.
Anh ta cứ đi qua đi lại trong đồn hoài, mình hỏi riêng lấy
mình, Thiên-Hộ chắc là Lê-văn-Ðó, vậy chớ có nên bắt mà giải hay không. Theo
lương tâm thì phải bắt, còn theo thế cuộc thì không nên bắt, vậy phải theo bên
nào? Anh ta suy đi tính lại, cân lợi đong hại, rồi nhứt định không bắt Thiên-Hộ
mà cũng không tha, quyết đợi có dịp sẽ xin đổi đi thú đồn khác cho khuất con mắt.
Anh ta tự liệu như vậy rồi mới chịu đi ngủ.
Còn ông Thiên-Hộ ra khỏi đồn rồi ông mới kêu Ánh-Nguyệt mà
nói rằng:
- Cháu coi bộ bịnh lắm. Vậy đi thẳng lại nhà ông rồi ông biểu
thầy thuốc coi mạch hột thuốc cho cháu uống.
Ánh-Nguyệt chẳng hiểu vì cớ nào ngày trước mình chẳng có làm
việc chi quấy, mà ông Thiên-Hộ ghét mình, dạy Bạch-Thị đuổi mình ra khỏi nhà,
bây giờ mình đã làm việc tồi-tệ, ổng nghe thấy rõ ràng, mà ổng lại thương mình,
đã cứu mình khỏi tay ông Ðội, rồi còn biểu mình về nhà ổng nữa. Nhưng vì lúc ấy
nàng chẳng khác nào chim bàng gãy cánh, như chim én lạc đường, nên nàng không
còn biết chi là phải quấy, nghe ông biểu về nhà ông thì cũng như lội giữa vời gặp
được cái bụp dừa [28], bởi vậy nàng vưng lời liền, không dám từ chối.
Ông Thiên-Hộ dắt Ánh-Nguyệt về tới nhà, liền kêu Bạch-Thị mà
dạy lấy quần áo khô đem cho Ánh-Nguyệt thay và dẫn nàng đem xuống nhà dưỡng bịnh
đặng cho nàng nghỉ rồi sáng sẽ biểu ông lương-y Sanh chẩn mạch hốt thuốc cho
nàng uống.
Ðêm ấy ông ngủ không được, cứ chong đèn ngồi chống tay trên
trán mà suy nghĩ hoài.
Ông chẳng hiểu vì cớ nào Ánh-Nguyệt lại có lời phiền trách hồi
hôm đó.
Nàng nầy là ai, sao ông không biết? Ở với ông hồi nào? Làm việc
chi quấy mà ông đuổi? Ông đuổi bao lâu nay?
Thiệt có như lời nàng nói hay không? Nếu thiệt tại ông đuổi
nàng, nên nàng phải bị khốn khó, đến nỗi phải đem thân bồ liễu mà làm đồ chơi
cho thiên-hạ, thì cái khổ của nàng đây quả tại ông mà ra, tội ấy ông không thế
nào chối được.
Ông nghĩ như vậy rồi ông nhớ lại thân ông ngày trước, vì nhà
nghèo, mẹ và sắp cháu đói quá, cùng thế phải đi giựt một trã cháo heo, tính đem
về cho mẹ với cháu ăn cho khỏi chết. Mà quân nhà giàu ác nghiệt không thương
nên bắt buộc, rồi quan bất nhơn nó không xét nên đem bỏ tù làm cho gia quyến ở
nhà không ai nuôi, mẹ thì chết trước, một bầy cháu cũng đói nên lần lần chết
theo sau, còn chị dâu khốn khổ quá nên mang bịnh rồi sau rốt cũng phải chết
luôn nữa.
Thân Ánh-Nguyệt ngày nay vì thương con quá, nên không nỡ lìa
con, nên mới toan đem danh tiết mà bán đặng lấy tiền chuộc con. Nếu không gặp
ông thì thân người mẹ đây còn gì, mà thân đứa con sau cũng phải mang khổ nữa!
Mà trong dương trần nầy còn biết bao nhiêu Lê-văn-Ðó khác, còn biết bao nhiêu
Ánh-Nguyệt khác chớ phải một Lê-văn-Ðó với một Ánh-Nguyệt nầy mà thôi đâu!
Ông Thiên-Hộ nghĩ đến đó thì ông khóc rấm-rức. Ông khóc một hồi
lâu rồi ông đứng dậy mở cửa đi ra ngoài sân.
Mảnh trăng tỏ treo giữa trời vằng-vặc, ngọn gió vung phất phất
mặt cỏ hiu-hiu.
Ông Thiên-Hộ lần bước đi vòng chung quanh nhà. Khi đi ngang
qua nhà dưỡng bịnh, ông nghe tiếng rên nhỏ nhỏ. Ông đứng lại lóng tai mà nghe rồi
ông bước vô. Trong nhà dưỡng bịnh có một cái đèn leo-lét. Ông thấy Ánh-Nguyệt nằm
trên chõng, đập tay xuống chiếu mà rên. Ông vói tay lấy thếp đèn rồi bưng đi riết
lại bên nàng. Ánh-Nguyệt nằm nhắm mắt, mà mặt mày đỏ au, thở hơi nóng hực. Ông
kêu nàng mà hỏi rằng:
- Cháu nóng phải hôn?
Ánh-Nguyệt nhướng mắt ngó thấy ông rồi lắc đầu, chớ không trả
lời.
Ông Thiên-Hộ thấy nàng bịnh nhiều nên lật đật đem đèn để tại
chỗ cũ rồi kêu Hồng-Thị biểu đi kêu Lương-y Sanh cho mau. Ông đứng tại cửa mà
chờ.
Cách chẳng bao lâu lương-y Sanh chạy lại, ông biểu chẩn mạch
coi bịnh Ánh-Nguyệt ra thế nào.
Lương-y chẩn mạch rồi nói rằng:
- Ánh-Nguyệt bị đau ban mà không uống thuốc nên lâu ngày ban
nó lậm vô trong. Tuy mấy tháng nay hết bịnh, nhưng mà gốc ban cũng còn ở trong
hoài. Hôm nay nàng té xuống sông bị nước, rồi lại bị gió nữa, bởi vậy bịnh trở
lại bằng hai hồi trước, coi thế khó cứu được.
Ông Thiên-Hộ nghe nói như vậy thì ông đổ mồ hôi trán.
Ông chau mày suy nghĩ một hồi rồi nói với lương-y Sanh rằng:
- Phải ráng mà cứu nàng. Nếu nàng chết thì tôi cũng có lỗi với
nàng nhiều ít chớ chẳng không.
Lương-y Sanh hứa rằng ổng sẽ ráng hết sức mà cứu nàng, nếu
sáng mai mà nàng hết nóng thì chắc ông sẽ cứu được.
Ông Thiên-Hộ căn dặn rồi ông mới trở lên nhà.
Trời vừa mới mờ-mờ thì ông Thiên-Hộ đã xuống nhà dưỡng bịnh
mà hỏi thăm bịnh Ánh-Nguyệt.
Ông lương-y Sanh đương xẩn-bẩn một bên Ánh-Nguyệt mà cho nàng
uống thuốc, ông thấy ông Thiên-Hộ thì lắc đầu nói rằng:
- Còn nóng lung quá, tôi làm hết sức một đêm nay mà nàng chưa
mát.
Ông Thiên-Hộ ngồi ghé lên cái chõng để một bên đó, coi bộ ông
buồn dàu-dàu.
Ðến chừng mặt trời mọc được một lát, Ánh-Nguyệt mát-mát được
một chút.
Nàng mở mắt ra rồi xin nước mà uống. Hồng-Thị lật đật rót một
chén nước trà nóng mà bưng lại cho nàng.
Nàng gượng ngồi dậy uống hết chén nước trà rồi nằm xuống liền.
Cách một hồi, nàng day qua ngó thấy ông Thiên-Hộ, nàng lấy
tay ngoắc ông và nàng chảy nước mắt mà nói rằng:
- Ông không đuổi tôi nữa phải hôn? … Tội nghiệp tôi lắm ông
ôi! Ông làm ơn cho tôi tiền đặng tôi chuộc con tôi. Tôi nhớ nó quá; nó ở tại
nhà Ðỗ-Cẩm trên Vũng-Gù … Vợ chồng Ðỗ-Cẩm đánh khảo nó, bỏ nó đói khát tội nghiệp
lắm. Ông làm ơn cho tôi tiền, nghe hôn ông. Ông cho tôi 7 quan thì đủ tôi chuộc.
Hồi trước tôi ở với ông 6 tháng mà ông không cho tiền. Bây giờ ông cho tôi nghe
hôn ông.
Ông Thiên-Hộ thấy Ánh-Nguyệt thương con như vậy thì ông cảm động
hết sức, nên ông liền đáp rằng:
-Cháu ráng uống thuốc cho mạnh đi. Cháu mạnh rồi muốn xin tiền
bao nhiêu ông cho hết thảy.
Ánh-Nguyệt nói rằng:
- Không. Ông làm ơn cho tiền bây giờ. Ông cho tôi 7 quan đặng
tôi cậy ông sáu Thới đi chuộc con tôi. Ông sáu Thới biết chỗ Ðỗ-Cẩm ở.
Ông Thiên-Hộ gật đầu đáp rằng:
- Ừ, thôi để rồi ông biểu ông sáu Thới đi chuộc.
Ánh-Nguyệt nghe ông Thiên-Hộ nói như vậy thì mừng trong lòng nên
nàng cười và nói rằng:
- Hễ tôi thấy mặt con tôi thì tôi mạnh liền. Ông chưa biết
nó. Con nhỏ ngộ lắm. Tôi đặt tên nó là Thu-Vân.
Năm nay nó đã 8 tuổi rồi. Cha nó tên là Từ-hải-Yến. Cha nó bạc
lắm. Gạt tôi ăn ở với tôi cho có nghén rồi chừng thi đậu, cha nó tuốt về trên
An-Giang cưới vợ khác, bỏ mẹ con tôi bơ-vơ từ hồi đó tới bây giờ. Người vô tình
bạc nghĩa quá như vậy mà sao lại đậu không biết? Ôi! Mà tôi có kể gì thứ đồ bạc.
Tôi lo nuôi con tôi. Tôi gởi nó cho vợ chồng Ðỗ-Cẩm là vì tôi sợ đem nó về đây
thiên hạ chê cười. Bây giờ tôi không cần gì nữa, ai cười mặc ai, miễn là tôi được
gần con tôi thì thôi. Tôi lạy xin ông làm ơn trao 7 quan tiền cho ông sáu Thới
rồi biểu ổng nội ngày nay ổng đi rước liền con tôi dùm chút, nghe hôn ông.
Ông Thiên-Hộ thấy Ánh-Nguyệt tỉnh trí, nói rõ việc riêng của
mình được như vậy thì ông mừng, nên ông đáp rằng:
- Cháu đừng lo, để ông biểu rước con nhỏ về đây cho. Mà cháu
phải ráng uống thuốc và ăn cơm ăn cháo cho mạnh đi rồi ông sẽ cho cháu gặp con,
chớ nếu cháu còn đau thì ông không dám cho cháu gần con cháu.
Ánh-Nguyệt chằng miệng mà cười và nói rằng:
- Tôi mạnh rồi. Tôi có đau bịnh gì nữa đâu. Ông muốn tôi đi
bây giờ, tôi đứng dậy tôi đi cho ông coi.
- Thôi, thôi, cháu nghỉ đi. Ðể ông lo việc rước con nhỏ cho.
Cháu hãy yên tâm.
- Ông ở như vậy mới thiệt là người nhơn đức.
Ông Thiên-Hộ chúm chím cười rồi xây lưng trở lên nhà.
oOo
Ông Thiên-Hộ ngồi ăn cơm sớm mơi, mà trí ông suy nghĩ việc của
Ánh-Nguyệt.
Ông tính để rồi sai người đi kêu ông sáu Thới đặng cậy ổng
đem tiền lên Vũng-Gù tìm nhà Ðỗ-Cẩm mà chuộc con Thu-Vân. Ông lại tự nguyện rằng
dầu chẳng may Ánh-Nguyệt có chết đi nữa, thì ông sẽ hết lòng nuôi dưỡng bảo bọc
dùm con nhỏ, bởi vì theo lời Ánh-Nguyệt nói đó, thì nàng đau đây là tại ông đuổi,
nàng nghèo khổ buồn rầu nên mới sanh bịnh, nếu ông không hết lòng mà chuộc cái
lỗi ấy, thì ông là người bất nhơn.
Ông vừa suy nghĩ tới đó, bỗng thấy Bạch-Thị bưng đồ ăn bước
lên nhà. Ông liền kêu mà hỏi rằng:
- Con Ánh-Nguyệt vô ở phụ giúp trong nhà tôi thì phải rồi,
sao thím lại đuổi nó mà thím không cho tôi hay?
- Bẩm ông, chuyện nhỏ mọn, tôi liệu định cũng được, chẳng cần
phải làm nhọc lòng ông.
- Chuyện nhỏ mọn mà bây giờ thành ra chuyện lớn, thím thấy
chưa? Tại thím đuổi nó, làm cho nó không có nơi nương dựa, bởi vậy nó đói khó mới
sanh bịnh, rồi lại phải liều thân đi làm đĩ nữa. Thím không suy đi xét lại cho
kỹ, bây giờ cái lỗi ấy về tôi chịu. Mà con Ánh-Nguyệt làm lỗi việc chi mà thím
đuổi nó?
- Bẩm ông. Hồng-Thị thấy nó viết thơ ra, tiếp thơ vô, coi nết
nó không tốt, nên tôi đuổi nó.
- Nó viết thơ mà thăm con nó chớ.
- Bẩm ông, hồi mới vô ở nó nói nó chưa có chồng con.
- Việc ấy chẳng quan hệ gì. Mình làm phước, hễ thấy khổ thì
mình cứu, cần gì phải gạn đục lóng trong. Dầu con Ánh-Nguyệt nó có hư đi nữa, ấy
là vì sự nghèo khổ buộc nó phải hư, cũng như có nhiều người vì nghèo đói mà phải
đi ăn cướp, ăn trộm vậy …
Ông Thiên-Hộ nói tới đó, thình-lình ông đội Phạm-Kỳ ở ngoài
bước vô. Ông chào rồi mời ngồi, mà coi lợt lạt lắm.
Từ khi Phạm-Kỳ mới giáp mặt với ông Tiên-Hộ lần đầu, nghi ông
là Lê-văn-Ðó, thì trong lòng đã có một khinh khi.
Mà hôm qua ông Thiên-Hộ lại binh vực một con đĩ, nói nhiều tiếng
xúc phạm đến Phạm-Kỳ, bởi vậy Phạm-Kỳ giận ông, giận đến nỗi toan bắt ông mà giải
nạp.
Tuy ông Thiên-Hộ làm lơ, song ông đã thấy ý tứ của Phạm-Kỳ.
Mà bữa nay Phạm-Kỳ tới nhà ông, bộ coi sục-sè khép nép chẳng phải như mấy lần
trước, bởi vậy ông Thiên-Hộ lấy làm lạ, nên có ý đợi nghe coi Phạm-Kỳ muốn nói
việc chi.
Phạm-Kỳ ngồi rồi nói rằng:
- Tôi đến trình cho ông hay, tôi phải lên tỉnh vài bữa, vì có
tờ của quan Án đòi tôi lên làm chứng vụ Lê-văn-Ðó.
Phạm-Kỳ nói tới đó rồi ngừng lại mà ngó ông Thiên-Hộ.
Ông Thiên-Hộ ngồi tỉnh táo như thường, ông cũng ngó ngay Phạm-Kỳ
mà hỏi rằng:
- Chuyện Lê-văn-Ðó là chuyện gì?
- Hồi trước có tên Lê-văn-Ðó ăn trộm bị đày 20 năm. Khi ở tù
ra ngoài, nó không chịu bỏ thói gian, nó còn ăn trộm đồ trong chùa nào đó không
biết, và giựt cơm gạo gì của người ăn mày nữa. Mấy năm nay quan tập nã mà bắt
nó không được. Nghe nói lính mới bắt được nó hôm đầu tháng, mà nó chối hoài, nó
nói không phải là Lê-văn-Ðó. Mấy tên tù biết nó, quan đem ra nhìn mặt nó thì đứa
nào cũng đều quả-quyết nó là Lê-văn-Ðó hết thảy, mà nó cũng còn chối hoài. Quan
Án muốn lên án, cho nó hết kêu oan kêu ức được, nên ngài đòi thêm tôi về mà nhìn
mặt nó nữa.
- Ông biết mặt nó hay sao mà nhìn?
- Tôi biết nó lắm. Lúc nó ở tù, thì tôi làm lính coi khám,
tôi dắt nó đi đốn củi hoặc đấp bờ mỗi ngày.
- Nó mãn tù đã mấy năm nay?
- Tám chín năm.
- Dữ hôn! Ông không thấy mặt nó đã lâu rồi, làm sao ông nhớ
nó được mà biểu ông nhìn.
- Giống gì mà tới quên lận.
- Như ông nhìn quả nó rồi, thì quan kêu án nó bao nhiêu năm?
- Phàm ăn trộm bị đày đến 20 năm, mà còn tái phạm, thì luật xử
tử giam hậu, nghĩa là đày chung thân. Tôi chắc tên Ðó ăn trộm ăn cướp chi đây,
nên người ta mới bắt được nữa. Mà dầu nó không có ăn trộm nữa, nội vụ nó ăn trộm
đồ trong chùa và giựt cơm của ăn mày đó, thì cũng đủ cho nó bị xử tử giam hậu rồi.
- Tội gì mà xử năng-nề giữ vậy?
- Tại luật như vậy đó.
- Nếu vậy thì ông đi làm chứng ông phải xem xét cho kỹ lưỡng,
chẳng nên nói bướng mà tội nghiệp cho người ta, việc ấy tội phước lắm, nếu ông
làm chứng mà ông nhận lầm thì oan cho người ta lắm.
- Phải chớ! Tôi có oán thù chi nó đâu. Hễ tôi nhìn phải thì
tôi nói phải, còn như không phải thì thôi. Mà mấy người tù quen với nó đã nhìn
phải nó rồi, có lý nào nó chối được. Ðể tôi lên đó coi.
- Chừng nào ông đi?
- Tối nay.
- Không biết chừng mai mốt, bữa nào rảnh tôi cũng lên tỉnh mà
thăm quan Án.
- Vậy sao?
- Ừ.
Phạm-Kỳ nghe ông Thiên-Hộ nói sẽ lên tỉnh mà thăm quan Án thì
trong trí lo riêng, nên cúi mặt xuống rồi nói nhỏ nhẹ rằng:
- Chuyện con Ánh-Nguyệt hôm qua, tại tôi nghe nói nó làm đĩ
tôi giận quá, nên tôi mới biểu bắt nó. May có ông kêu nài nên tôi mới tha nó.
Hôm qua đương cơn giận tôi có cãi lẽ với ông. Vậy nếu tôi có nói tiếng chi nặng-nề
mích lòng ông, xin ông đừng chấp.
Ông Thiên-Hộ cười mà đáp rằng:
- Ông đừng ngại chuyện đó. Ông sợ tôi lên tỉnh tôi cáo ông
hay sao? Chuyện qua rồi thì thôi, ai nói đi nói lại mà làm gì. Ông Thiên-Hộ ngừng
một hồi rồi ông chau mày nói tiếp rằng:
- Tôi nói như vậy, chớ không chắc tôi đi lên tỉnh được hay
không. Con Ánh-Nguyệt nó đau nhiều lắm. Tôi dắt nó về từ hồi hôm cho đến bây giờ
nó nóng lạnh nằm mê-man măng giường măng chiếu, nói xàm nói mã hoài. Tôi sợ nó
phải chết. Nó có gốc đau ban. Trinh-Tường xô nó xuống sông, nó bị nước nên
trúng lại nặng lắm. Quân nhà giàu ỷ tiền nó làm ngang quá!
Phạm-Kỳ hồi hôm mượn luật pháp mà binh vực Trinh-Tường, bây
giờ nghe ông Thiên-Hộ nói như vậy thì hổ thầm, nên ngồi lặng thinh một hồi rồi
đứng dậy từ ông Thiên-Hộ mà về.
Phạm-Kỳ ra khỏi cửa rồi thì ông Thiên-Hộ chau mày xụ mặt, coi
sắc ông buồn mà lại lo nữa.
Ông chậm rãi đứng dậy, cúi mặt ngó xuống đất một hồi rồi thủng-thẳng
đi vô trong buồng. Ông đóng cửa buồng lại rồi leo lên giường nằm gát tay qua
trán mà thở ra.
Mây giăng trên trời đen kịch, gió thổi mái nhà lào-xào.
Cách chẳng bao lâu mưa ào tới, giọt nươc tuôn trước hiên
rôn-rổn, mà ông Thiên-Hộ nằm trong buồng mồ hôi chảy ướt dầm. Ông nằm im-lìm
như ngủ, mà trí ông lo tính không yên.
Ông suy nghĩ hoài, chẳng hiểu người mà Phạm-Kỳ nói đó, hình dạng
thế nào, mà đến nỗi người ta nhận quyết là Lê-văn-Ðó. Ðã biết người hay giống
người, mà giống thì giống, chớ cũng có chỗ khác nhau, có lý nào giống đến mặt
mày, giống đến tướng đi, giống đến tiếng nói nữa hay sao, mà đến nỗi người ta
nhìn lầm được.
Theo lời Phạm-Kỳ nói, thì mấy tên tội-nhơn quen biết với mình
hồi trước đã nhận quyết người nầy là mình rồi. Vậy mình có nên nín khe, để cho
người ấy chịu khổ hình thế cho mình hay không?
Ông Thiên-Hộ hỏi riêng ông như vậy rồi ông cũng trả lời với
riêng ông rằng: "Không nên. Một người thường phạm tội ăn cắp hễ bắt được
thì quan trên kêu án chừng năm ba năm. Nếu người ta nhận người nầy là mình thì
người ta xử tử giam hậu, vì mình đã có án 20 năm tù rồi bây giờ tái phạm nên
hình phạt nặng nề. Chớ chi mình không hay không biết, thì ai xử thế nào mặc ai,
ai bị đày bao lâu chẳng can gì, ngặc bây giờ mình đã hay quan người ta nhận lầm,
mình đã biết người ta bị bắt đó là oan-ức, có lý nào mình đành làm lơ, để cho
người vô tội phải thọ khổ hình thế cho mình. Mấy năm nay mình tu nhơn tích đức,
mình tự nguyện cứu khổ phò nguy, nếu mình để cho người bị án, thì mình làm một
đều đại bất nhơn, dầu mình tu mãn đời cũng không thế chuộc cái tội ác đó được.
Tội mình làm thì mình phải chịu, lòng ngay hay là gian, phú cho Trời Phật xét
soi cho mình. Mà trong việc nầy có ai nói gian cho mình đâu. Ăn trộm đồ của
chùa, có, giựt nồi cơm của ăn mày, cũng có, tội đã đáng tội, có oan ức chỗ nào.
Vậy mình phải ra mà chịu tội, chẳng nên để người khác thế cho mình."
Ông Thiên-Hộ quyết định rồi ông vùng ngồi dậy bước đi ra
ngoài.
Mưa đã tạnh rồi, mặt trời đã ló ra dọi nắng coi tứ hướng đều
vui vẻ.
Ông dựa cửa mà ngó mông ra ruộng. Một cánh đồng rộng minh
mông giăng trước mắt ông, lúa cấy hôm tháng trước, nay đã bén, lá coi xanh mướt.
Bên nầy có mấy xóm, ấy là chỗ tá điền của ông ở, đông đảo thạnh mậu vô cùng.
Trong kia có một cái kinh, ấy là mương của ông phóng cho dân
đào, đặng tiện đường cho dân chở lúa.
Ông ngó xa ngó gần chung quanh nhà ông.
Ðây là nhà để dạy trẻ nhỏ học văn học lễ, đây là nhà để nuôi
trẻ nhỏ không mẹ không cha, đây là nhà để cứu những người bịnh hoạn tật nguyền,
đây là nhà để nuôi những người già cả lụm cụm.
Mười lẫm lúa cất trước kia, lẫm nào lúa cũng còn đầy nhóc, ấy
là lúa để sẵn cho thiên-hạ ăn, chớ trong thân tộc của ông bây giờ chỉ còn có một
mình ông, làm sao mà ăn cho hết.
Những ruộng kia, những nhà nọ, ấy là sự nghiệp của ông. Công
phu của ông trọn 10 năm trời mới gây dựng được ra đó. Bây giờ ông ra chịu tội
mà lãnh án tử giam hậu đặng thọ khổ hình chung thân, thì sự nghiệp nầy phải tan
như tro tàn, phải rã như bọt nước. Những tài sản của ông thì không sá gì, kiếp
sống nầy là giấc chiêm bao, sanh tay không chừng chết cũng tay không, dầu làm
quan to, dầu làm giàu lớn, cũng không ai đem tước quyền hay là đem vàng bạc
theo được.
Ngặt vì hễ ông ra chịu khổ hình, thì cả ngàn dân làm ruộng, mấy
mươi người già cả bịnh hoạn, mấy mươi con nít nhỏ mồ côi, còn biết lấy ai mà cậy
nhờ!
Ông đã định làm nghĩa, ra thọ tội đặng cứu người oan ức, mà
chừng ông nhớ đến công việc phước thiện của ông lập ra đặng cứu kẻ cơ hàn bịnh
hoạn, thì ông dụ-dự bàng-hoàng. Ông cứ đi ra đi vô hoài không biết liệu lẽ nào.
Ra chịu tội thì khỏi hổ với lương tâm, song hết thế cứu giúp cả ngàn người
nghèo khổ nữa. Còn như nín luôn, thì cả ngàn người được nhờ, song mình đối với
Phật Trời, chắc cả đời phải ăn-năn hổ thẹn. Ông bức-rức trong lòng, nên buổi
chiều ông không ăn cơm, cứ nằm dàu-dàu trong buồng hoài.
Ðêm ấy ông chong đèn ngồi lo tính, lúc thì muốn ra chịu tôi đặng
cứu một người bị án oan, lúc thì ông tính làm lơ nín luôn đặng giúp cả ngàn người
nghèo khổ. Ôi tính đi rồi tính lại, ông lo tới rồi lo lui, ông tính cho tới gần
sáng rồi mới nhứt định thà ông hại một người bị án oan, chớ không đành bỏ cả
ngàn người nhờ ông mà khỏi nghèo khổ.
Ông quyết làm lơ, không thèm nhớ tới chuyện đó nữa, để trí
thong thả mà lo cứu khổn phò nguy,ví dầu người chịu án oan đó có chết đi nữa
cũng chẳng hại bao nhiêu, chớ nếu ông bỏ sự ngiệp của ông đây thì mấy mươi ông
già phải chết đói, mấy mươi con nít phải hoang-đàng, cả ngàn dân tá điền phải
thất sở.
Ông nhứt định rồi ông mở cửa buồng bước ra, thì mặt trời đã
ló mọc.
Bạch-Thị dòm thấy tóc của ông, bữa trước còn đen mướt, mà bữa
nay lại điểm bạc hoa râm, thì lấy làm kỳ, nên hỏi ông. Ông lắc đầu rồi bỏ đi xuống
nhà dưỡng bịnh, không thèm trả lời với Bạch-Thị.
Ông đi thẳng lại chỗ Ánh-Nguyệt nằm mà hỏi thăm. Ánh-Nguyệt
thấy ông thì nàng mừng rỡ hết sức, tuy nàng ngồi dậy không nổi, song nàng ráng
ngóc đầu chào ông và hỏi rằng:
- Ông có biểu đi chuộc dùm con tôi rồi hay chưa? Tôi gần mạnh
rồi, hễ tôi thấy mặt con tôi thì tôi hết đau liền.
Vì ông mắc lo việc của ông nên ông quên lững việc của nàng.
Chừng ông nghe nàng hỏi, ông nhớ lại thì ông lấy làm bối rối, song ông muốn cho
nàng yên lòng mà dưỡng bịnh, nên ông nói dối rằng:
- Rồi. Ông có cậy ông sáu Thới đi rồi. Cháu cứ lo uống thuốc
cho mạnh đi. Trong vài ba bữa sẽ có con nhỏ về tới đây. Mà cháu phải uống thuốc
cho mạnh, thì ông mới cho gặp con, chớ nếu cháu mê sảng nói xàm hoài, thì ông
không dám cho con nhỏ gần cháu đâu.
Ánh-Nguyệt liền đáp rằng:
- Tôi mạnh rồi. Tôi có mê sảng chi đâu. Chừng mấy bữa nữa ông
sáu Thới về mới tới? Cha chả! mà không biết vợ chồng Ðỗ-Cẩm nó có cho ổng rước
hay không đây. Tôi được gần con tôi thì tôi vui biết chừng nào! Ông cho mẹ co
tôi ở đây với ông. Tôi không đòi tiền công ông đâu, miễn là ông cho mẹ con tôi
đủ cơm ăn cho no, đủ áo quần mặc cho ấm mà thôi.
Ông Thiên-Hộ gật đầu lia-lịa rồi bước lại hỏi nhỏ lương-y
Sanh coi bịnh Ánh-Nguyệt bữa nay thêm hay có giảm được chút nào. Lương-y Sanh
đáp rằng bịnh tuy không thêm, song cũng chưa thấy giảm, chẳng nên thấy nàng nói
lia-lịa như vậy mà mừng, bởi vì tại trong tim nàng nóng nên nàng nói, chớ không
phải nàng hết bịnh.
Ông Thiên-Hô nghe nói như vậy thì buồn. Ông cúi mặt xuống đất
suy nghĩ một hồi rồi thủng thẳng trở lên nhà.
Ông kêu Bạch-Thị mà biểu sai người lập tức đi kêu ông sáu Thới
xuống cho ông nói chuyện.
Ðến trưa ông sáu Thới xuống tới.
Ông Thiên-Hộ tỏ việc Ánh-Nguyệt bị Trinh-Tường hiếp đáp lại
cho ổng nghe.
Ông Thiên-Hộ lại nói ổng đã cứu Ánh-Nguyệt đem về nuôi tại
nhà dưỡng bịnh. Ánh-Nguyệt bây giờ đau nặng lắm, mà cứ theo đòi con hoài, vậy
ông sáu Thới phải làm ơn đem tiền lên Vũng-Gù mà chuộc dùm con nhỏ dắt về, hoặc
may Ánh-Nguyệt mừng con mà mạnh được.
Từ bữa Trinh-Tường cho ghe rước Ánh-Nguyệt đi cho đến bữa
nay, ông sáu Thới không thấy Ánh-Nguyệt về, thì ổng có ý lo sợ. Ổng biểu thằng
Hiển đi hỏi thăm thì họ nói Ánh-Nguyệt vô lễ với Trinh-Tường sao đó không biết,
Trinh-Tường giận đến thưa với ông Ðội, nên ông Ðội đã bắt Ánh-Nguyệt rồi.
Bây giờ ông Thiên-Hộ thuật rõ công việc của Ánh-Nguyệt như vậy
ổng mới hay.
Ổng liền xin ông Thiên-Hộ cho phép ổng xuống nhà dưỡng bịnh
mà thăm Ánh-Nguyệt một chút. Ông Thiên-Hộ can rằng:
- Không nên. Vì tôi đã nói dối với nó rằng tôi đã mượn ông đi
rước con nhỏ rồi. Nếu ông xuống đó, nó thấy ông nó hỏi con nó, thì ông trả lời
làm sao cho xuôi được. Chi bằng ông đi luôn thì hay hơn; để chừng ông rước con
nhỏ về đây rồi ông sẽ thăm nó. Nghe nói ông có lên Vũng-Gù mà xin rước con nhỏ
một lần rồi. Vậy chớ vợ chồng Ðỗ-Cẩm nó đòi tiền công nuôi là bao nhiêu?
- Thưa, nó biểu phải trả năm bảy quan thì nó mới cho rước.
- Ông coi ý thiệt nó muốn cho chuộc con nhỏ hay không?
- Thưa, nó cho, song phải có tiền mới được.
Ông Thiền-Hộ liền kêu Bạch-Thị biểu lấy một chục quan tiền
đem ra, rồi nói với ông sáu Thới rằng:
- Tôi nghe nói ông nghèo mà ông sẵn lòng thương con Ánh-Nguyệt,
nên ông nuôi dưỡng nó hơn một năm nay. Hễ làm ơn thì phải làm cho trót. Vậy ông
chịu phiền lấy một chục quan tiền nầy rồi mướn ghe đi lên Vũng-Gù nói mà chuộc
dùm con nhỏ đem về đây cho nó. Ông đi cho mau mau vì nó trông lắm.
Ông sáu Thới bái ông Thiên-Hộ rồi kề vai vác 10 quan tiền mà
đi về.
Ông Thiên-Hộ đứng tại cửa ngó theo, miệng chúm-chím cười, vì
ông mới làm được thêm một việc phải, nên trong lòng thơ-thới.
Chú thích :
[28] bẹ dừa nước, thường dùng làm phao bơi
CHƯƠNG 15 - QUYỂN THỨ IV - ĐƯỜNG NGAY NẺO VẠY
Ô
ng Thiên-Hộ không tính ra thọ tội nữa, ông sai ông sáu Thới
đi chuộc con Thu-Vân rồi, thì ông cứ xẩn-bẩn dưới nhà dưỡng bịnh mà nhắc chừng
lương-y Sanh cho Ánh-Nguyệt uống thuốc.
Buổi chiều ông qua nhà mồ-côi mà thăm sắp nhỏ, ông hỏi chuyện
đứa nầy, ông vuốt-ve đứa nọ.
Ông lại đi thẳng qua trường học mà hỏi thăm thầy giáo coi học
trò học có tấn phát hay không.
Ông thăm con nít rồi ông đi thăm tới mấy ông già, gặp người
nào ông cũng lấy lời nhơn-từ mà an-ủi.
Ông lại đi luôn ra xóm tá-điền, đi tới đâu ông cũng dạy cách
làm ăn, hoặc ông khuyên đừng tham lạm.
Ông đi cho đến tối mò ông mới chịu trở về nhà.
Ông ăn cơm rồi ông còn xuống thăm Ánh-Nguyệt một lần nữa.
Ông đi đứng lăng-xăng, ông nói chuyện lộn-xộn, thì ông quên hết
việc riêng của ông.
Mà đến tối ông vô buồng nằm một mình, thì trí ông bắt nhớ người
vì ông phải chịu án oan đó hoài, bởi vậy ông nhắm mắt mà ngủ không được. Ðã biết
ông đã nhứt định để hại một người mà cứu cả ngàn người, bởi vậy ông không còn
ăn-năn nữa. Nhưng mà chẳng hiểu vì cớ nào trong trí ông cứ ái-ngại hoài, dường
như ông làm việc quấy nên lương tâm trách ông vậy. Ông nghĩ chắc là tại ông
không thấy mặt người chịu án thế cho ông đó, nên ông không yên lòng.
Ông mới tính ông đi lên tỉnh hỏi thăm coi quan kết án người ấy
thế nào, và nếu có thế gặp mặt được thì ông sẽ coi người ấy hình dạng ra làm
sao mà đến nỗi người ta nhận là ông. Ông lại tính nếu quan lầm mà kêu án người ấy,
thì ông sẽ hỏi thăm cha mẹ hoặc vợ con ở đâu, rồi ông rước hết về ông nuôi, đặng
đền bồi cái ơn thọ khổ hình thế cho ông đó.
Mới tảng sáng ông kêu Bạch-Thị mà phú thác các việc nhà. Ông
lại kêu lương-y Sanh mà căn dặn phải cần cho Ánh-Nguyệt uống thuốc. Ông nói rằng
ông lên tỉnh thăm quan Án chừng một bữa thì ông về, như có trễ lắm là 2 bữa, chớ
không ở lâu hơn nữa.
Ông cho kêu hai đứa tá-điền mạnh dạn, một đứa tên là hai Hí,
còn một đứa tên là sáu Tâm, đặng chèo ghe cho ông đi. Ông nghĩ Phạm-Kỳ đã đi
trước ông đã hai đêm một ngày rồi, nếu ông trì huỡn sợ e không kịp coi quan xử
vụ Lê-văn-Ðó. Ông bèn dạy hai Hí với sáu Tâm kiếm một chiếc ghe lường nhỏ, mà
nhẹ chèo đặng đưa ông đi cho mau.
Hai người kiếm ghe thì mấy chiếc ghe tốt đều lớn hết thảy,
duy có một chiếc ghe nhỏ nhẹ chèo, ngặt chiếc ghe ấy cũ quá, nên có nước. Ông
Thiên-Hộ muốn đi cho mau, nên biểu lấy chiếc ghe nhỏ mà đi.
Ghe đi được vài khúc sông thì nước vô lung quá, chèo không nổi.
Ông Thiên-Hộ phải cởi áo mà tát nước, đặng để cho hai Hí với
sáu Tâm chèo cho mau.
Ông tát một hồi cái gào rách tét, không thế tát được nữa.
Ông không biết liệu làm sao, vì ghe đã khỏi chợ Thủ-Bô rồi, nếu
trở về đổi ghe khác thì xa quá.
Ông nóng-nảy trong lòng như lửa đốt, ông quyết thế nào chiều
bữa ấy ông cũng phải lên cho tới tỉnh.
Ông mới dạy ghé lại xóm dựa mé sông đặng kiếm ghe khác ông mướn.
Hai người chèo vưng lời, ghé vô xóm ở dựa mé sông. Ông liền mướn một chiếc xuồng
rồi biểu sáu Tâm bơi cho ông đi, còn hai Hí thì ở lại đó kiếm giẻ [29] xăm mấy
lỗ rồi chờ ông trở về mà rước ông.
Ông Thiên-Hộ đi thiệt là mau; trời mới xế qua một lát thì ông
đã lên tới tỉnh.
Ông bận áo bịt khăn, rồi dặn sáu Tâm ở dưới xuồng mà chờ ông.
Ông vô thành, hỏi thăm lần lần, đi lại trước dinh quan Án.
Ông dòm, thấy trong dinh náo-nức, kẻ vô người ra không ngớt.
Ông đó một người đi ra mà hỏi thăm, thì họ mới nói quan Án
đương xử vụ Lê-văn-Ðó.
Ông nghe nói như vậy thì biến sắc, chơn thối lui hai ba bước,
đứng lại chau mày mà ngó sững vô dinh.
Ông ngó một hồi rồi hăm hở đi thẳng vô. Ông đứng nép dựa cánh
cửa mà dòm.
Ông thấy quan Án ngồi tại bộ ván giữa, một tay chống một cái
gối dựa, còn một tay thì cầm vòi bình điếu mà hút thuốc. Trước mặt ngài thì có
người cao lớn, cổ mang gông, tay bị trói, đứng day lưng ra ngoài cửa, nên ông
không thấy mặt được. Bên tay mặt thì Phạm-Kỳ với 10 tên lính đứng khoanh tay mà
hầu.
Bên tay trái thì có 3 tội nhơn, ông biết mặt biết tên hết thảy,
vì 3 người ấy bị án đày chung thân, ngày trước ở chung một khám với ông, một
người tên Tánh, một người tên Lãnh, còn một người tên Thà.
Phía trong có hơn 10 người, ngồi hai bộ ván hai bên, hết thảy
đều mặc áo dài khăn đen, song ông không biết người nào hết.
Quan Án hút thuốc một hồi rồi hỏi người mang gông đứng giữa
đó rằng:
- Bữa nay ta có đòi đủ chứng lên đây đặng nhìn mặt mi. Mi còn
dám chối rằng mi không phải là Lê-văn-Ðó nữa thôi?
Người ấy đứng lặng thinh. Quan Án nạt rằng:
- Mi câm rồi hay sao? Ta hỏi sao không thưa? Mi chờ ta khảo rồi
mới chịu nói hả?
Người ấy ngó qua ngó lại rồi nói rằng:
- Dạ, bẩm quan lớn, tôi là tư Hoành, tôi họ Nguyễn chớ.
Quan Án cười gằn rồi nói rằng:
- Mi còn chối nữa há? Ðể ta hỏi chứng rồi mi sẽ hay. Ðội Kỳ
đâu? Ra nhìn thử coi thằng nầy có quả là Lê-văn-Ðó hay không.
Phạm-Kỳ bước ra chỉ mặt người mang gông mà nói rằng:
- Lê-văn-Ðó là mi chớ ai! Còn chối gì nữa?
Phạm-Kỳ vừa nói mấy lời, bỗng thấy ông Thiên-Hộ ló mặt vô cửa
mà dòm. Anh ta đã sợ ông Thiên-Hộ lên tỉnh mà cáo về vụ anh ta bắt Ánh-Nguyệt,
bởi vậy thấy mặt ông Thiên-Hộ thì anh ta biến sắc, lật-đật cúi đầu, rồi bước vô
bẩm nhỏ-nhỏ việc chi với quan Án, không rõ được.
Quan Án ngồi thẳng mà nói rằng:
- Có Thiên-Hộ lên đó hay sao? Mời ông vào, đi mời ông vào uống
nước chớ.
Ông Thiên-Hộ thụt đầu ra đứng núp cánh cửa.
Phạm-Kỳ bước ra thưa rằng quan Án cho mời ông, và nói và nắm
tay ông mà kéo vô.
Ông Thiên-Hộ lấy làm bối rối song cùng thế ông không chối từ
được, nên bất đắc dĩ ông phải theo Phạm-Kỳ mà bước vô.
Quan Án đứng dậy chào hỏi, coi bộ niềm nỡ lắm. Quan Án cứ mời
ông Thiên-Hộ lên bộ ván giũa ngồi chung với ngài mà uống nước. Ông Thiên-Hộ
khiêm nhượng không dám ngồi, xin cho ngồi nơi bộ ván bên tả đó mà thôi.
Quan Án ép không được, cùng thế, phải vừa theo ý ông, song
ngài hối lính hầu bưng bình nước với bộ chén đem qua mà mời ông giải khát.
Quan Án hỏi ông Thiên-Hộ rằng:
- Ông lên tỉnh có việc chi?
- Bẩm quan lớn, tôi đi mua đồ vặt chút đỉnh, nhơn dịp ghé
thăm quan lớn.
- Á, ruộng ông năm nay lúa tốt hay không?
- Bẩm, tốt.
- Trúng mùa hoài, lúa ông biết làm việc gì cho hết.
- Bẩm, không biết.
- Nếu dùng không hết, để mục còn gì?
- Bẩm, không mục.
- Nếu không mục cũng ẩm chớ?
- Bẩm. không ẩm.
Quan lớn thì muốn nói chuyện, mà ông Thiên-Hộ mắc ngó chăm bẳm
người mang gông đứng trước đó, bởi vậy ông trả lời cụt ngủn, làm cho quan Án buồn
trí hết muốn nói nữa.
Ông Thiên-Hộ nhìn phạm-nhơn hình dạng mặt mày giống hịch mình
ngày trước, ông lấy làm cảm xúc, nên trong lòng bâng-khuâng, ngoài mặt bợ-ngợ,
hết biết chuyện gì mà nói với quan Án nữa.
Quan Án hút thêm vài hơi thuốc rồi nói với ông Thiên-Hộ rằng:
- Tôi làm quan thuở nay mới xử một vụ nầy kỳ hơn hết. Phạm
nhơn tên là Lê-văn-Ðó, mà nó cứ chối hoài.
Ông Thiên-Hô đáp rằng:
- Không biết chừng người ta bắt lầm nó, chớ nó không phải tên
đó.
- Không lầm được. Ông ngồi đó nghe chơi. Ðể tôi đối chứng cho
ông coi.
Quan Án liền day lại hỏi phạm-nhơn rằng:
- Mi khai tên mi là Tư Hoành, họ Nguyễn phải hôn? Mi khai
gian, tội mi còn nặng hơn nữa. Ta không thèm cãi với mi, ta để cho mấy người biết
mi họ nhìn coi mi là Hoành hay là Ðó rồi sẽ biết.
Quan Án nói dứt rồi liếc ngó Phạm-Kỳ.
Phạm-Kỳ thấy ông Thiên-Hộ không nhắc tới việc Ánh-Nguyệt, thì
hết lo sợ nữa, nên xốc ra rất mạnh-mẽ mà nói với phạm-nhơn rằng:
- Ðể ta nói gốc tích của mi cho mi nghe. Mi tên là Lê-văn-Ðó,
gốc ở huyện Tân-Hòa. Hồi nhỏ mi ăn trộm một trã cháo heo, bị án 5 năm tù. Ta dẫn
mi lên rừng đốn củi, mi trốn nên bị chồng án thêm 5 năm cộng là 10 năm. Sau mi
trốn một lần nữa, bị bắt và chồng án thêm 10 năm nữa, cộng là 20 năm. Khi mi
mãn tù rồi, quan thả cho mi về xứ, mi vào một cảnh chùa nào đó, ta không nhớ,
mi ăn cắp đồ của chùa, rồi mi lại giựt một nồi cơm của hai vợ chồng tên ăn mày
nào đó nữa. Quan có tập nã bắt mi, mà tìm không gặp, rồi kế có giặc nên không
ai lo kiếm mi nữa. Sự tích của mi ta biết rõ hết, mi chối không được đâu.
Trong lúc Phạm-Kỳ nói thì phạm-nhơn đứng bơ-bơ, nhướng mắt hả
miệng mà nghe, rồi lại chúm-chím cười, không cãi lẽ chi hết.
Phạm-Kỳ nói tiếp rằng:
- Hồi mi ở trong khám, ta dẫn mi đi làm công việc mỗi ngày, lẽ
nào ta quên mi được hay sao mà mi chối. Mi phải lạy quan lớn mà thú thiệt đi,
hoặc may quan lớn dung chế cho chút đỉnh mà nhờ.
Phạm-nhơn cười ngỏn-ngoẻn, ngó Phạm-Kỳ rồi ngó quan Án, song
không nói tiếng chi hết.
Phạm-Kỳ nổi giận đưa tay muốn đánh. Quan Án nói rằng:
- Mặc kệ nó, đánh nó làm gì. Ðể đối chứng xong rồi, mà nó còn
chối nữa, thì sẽ hành hình nó.
Phạm-Kỳ nghe nói như vậy thì không đánh, song thò tay nắm
cánh tay phạm-nhơn mà dặt hai ba cái rồi nói rằng:
- Mi chịu mi là Lê-văn-Ðó hay chưa, hử? Còn chối nữa hay
thôi?
Phạm-nhơn không buồn, mà cũng không sợ chi hết, đứng ngó
dáo-dác rồi nói rằng:
- Lê-văn-Ðó gì đâu? … Ai biết … Ta nói ta tên Hoành mà.
Quan Án cười ngất rồi nói rằng:
- Thằng tê khôn quá! Nó làm bộ điên khùng đặng khỏi tội. Mi
điên chớ ta có điên bao giờ đâu. Mấy tên tội nhơn đâu, bây ra từ đứa mà nhìn thử
coi.
Ba tên tội nhơn đứng phía bên tay mặt ứng tiếng lên dạ một lượt.
Tên Thà bước ra trước thưa rằng:
- Bẩm quan lớn, thằng nầy là thằng Ðó chớ ai; nó ngủ chung một
sập với tôi năm sáu năm trường, tôi quên nó sao được.
Tên Tánh bước ra nữa mà thưa rằng:
- Bẩm quan lớn, nó là thằng Ðó. Nãy giờ tôi nhìn kỹ rồi, nó
làm bộ khật-khùng đặng chối cho dễ; mà nó làm bộ với ai kìa, chớ mấy anh em tôi
ở chung một khám với nó, nó làm bộ lạ sao cho được.
Tên Lãnh bước tiếp ra nữa, rồi lại gần nắm tay phạm-nhơn mà
nói rằng:
- Ðó, mầy thú thiệt đi còn chối chi nữa, mậy. Mầy chối bây giờ
mầy khỏi hay sao? Chịu đi.
Phạm-nhơn đứng ngó 3 người ấy trân-trân một hồi rồi nói rằng:
- Chịu giống gì? … Ai biết Ðó gì đâu? … Ta nói ta là tư Hoành
mà … Ta ở Rạch-Kiến biết hôn. Rạch-Kiến chỗ cô ta ở đó -- hôm trước ta đi phát
về, đi ngang qua vườn người đó, ta thấy trái mãn-cầu chín ta leo vô hái ăn
chơi. Họ bắt họ đánh ta dữ. Nhà đó là nhà tên Ðó hay sao?
Phạm-Kỳ trợn mắt nạt rằng:
- Ðừng nói bậy! Tên Ðó là mầy đây nè!
Phạm-nhơn cứ cười ngỏn-ngoẻn, mà cũng không chối cãi.
Quan Án tằng-hắng rồi phán rằng:
- Thôi, đủ bằng cớ rồi, nó chối mặc kệ nó. Ta cứ chiếu luật
triều-đình mà lên án. Lê-văn-Ðó, ta nói cho mi biết, vì mi phạm tội ăn trộm đã
bị án 20 năm, khi mãn tù mi tái phạm, ăn cắp của chùa, giựt của ăn mày thì tội
mi phải đày chung thân. Nay mi còn ăn trộm một trái mãn-cầu của người ta mà ăn
nữa, vậy ta xử tội mi phải bị an trảm giam hậu. Lính đâu, bây dẫn nó xuống khám
đi, đợi triều đình phê án rồi sẽ đày nó vô Hà-Tiên.
Hơn mười tên lính dạ rân rồi áp ra dẫn phạm-nhơn đi.
Ông Thiên-Hộ đi lên tỉnh dọ coi quan kêu án người thế tội cho
mình đó thế nào, chớ không phải quyết lên coi xử; chẳng dè lên đến tỉnh lại gặp
quan đương xử, muốn bỏ đi ra, lại đi không đành, muốn lén mà coi, lại bị quan mời
vô.
Ông ngồi coi xử, ông thấy phạm-nhơn khùng-khịu, lòng thì
ngay, mà trí thì tối, nên không biết lời lẽ mà đối đáp với người ta, thì ông lấy
làm cảm xúc bồi hồi.
Khi ở nhà ông đã quyết liều một người để cứu ngàn người, mà đến
đây ông thấy mặt kẻ chịu oan thì ông thương tâm, nên ngồi coi mà mặt mày tái
lét, cứ hỏi trong trí rằng -- "có nên để cho người khùng nầy chịu án oan,
đặng mình an hưởng phú quí hay không?"
Ðến chừng ông nghe quan Án định án trảm giam hậu người khùng ấy,
rồi lính áp lại dẫn đi, thì ông cảm động quá, dằn trí không được nữa, nên ông đứng
dậy đưa tay mà nói lớn lên rằng:
- Khoan! lính khoan dẫn người đó. Oan cho người ta lắm. Thiệt
Lê-văn-Ðó là tôi đây, chớ không phải người ấy đâu.
Ông lại day vô mà bẩm với quan Án rằng :
- Bẩm quan lớn, Phạm-Kỳ với mấy tội nhơn đều nhìn lầm hết thảy.
Xin quan lớn làm án lại mà tha người ấy, chớ xử như vậy thì oan ức cho người
ta, tội nghiệp lắm.
Quan Án, Phạm-Kỳ cùng quân lính ai nấy đều chưng hửng, cứ
nhìn nhau trân-trân.
Còn ông Thiên-Hộ nói dứt lời rồi, ông liền xá quan Án mà đi
ra.
Ông ra khỏi dinh quan Án, thì mặt trời đã lặn mất rồi.
Ông xăm-xăm đi riết xuống mé sông, xăn áo nhảy xuống xuồng rồi
hối sáu Tâm bơi đi về cho mau.
Khi ông Thiên-Hộ đi rồi, quan Án mới tỉnh ngộ.
Ngài dạy Phạm-Kỳ phải giữ phạm-nhơn là Tư Hoành lại đó, để
ngài qua báo sự nầy cho quan Tổng-Ðốc hay coi quan Tổng-Ðốc định đạt lẽ nào.
Ngài đi một hồi lâu rồi ngài trở về, dạy quan Kinh-Lịch làm án Tư Hoành một năm
tù.
Người lại viết tờ sai lính đi đòi Tri-Huyện Bình-Dương là Từ-hải-Yến
đến hầu lập tức.
Từ-hải-Yến thi đậu cử nhơn hồi năm Tân-Mão, mà đến năm Đinh-Dậu
mới được bổ đi ngồi Tri-Huyện Bình-Dương.
Khi được tờ của quan Án đòi thì Hải-Yến tức tốc đến hầu liền.
Quan Án dạy Tri-Huyện Từ-hải-Yến với xuất đội Phạm-Kỳ phải hiệp
nhau đi xuống Cần-Ðước bắt cho được Lê-văn-Ðó mà giải nạp.
oOo
Trời mưa rỉ-rả gió thổi lao-rao. Ông Thiên-Hộ ngồi trong xuồng
cho sáu Tâm bơi về, trong trí ông mắc lo tính nên quên che dù, bởi vậy đầu cổ
áo quần đều bị mưa ướt loi ngoi lót ngót.
Gần hết canh một, xuồng về tới xóm ghé hồi trưa.
Sáu Tâm vừa muốn bơi vô đặng trả xuồng cho người ta rồi sang
qua ghe mình mà về, ông Thiên-Hộ cản không cho ghé, biểu bơi riết đưa ông về tới
nhà rồi sẽ trở lên trả xuồng vả đổi ghe.
Mưa đã dứt hột, trăng đã ló mọc nhưng vì bị mây áng nên không
tỏ.
Ông Thiên-Hộ ngồi cứ ngó ngay trước mũi xuồng không nói chuyện
vãn chi hết, chỉ lâu lâu ông thôi thúc sáu Tâm bơi cho mau mà thôi.
Vừa bước qua đầu canh ba, thì xuồng ông đã về tới bến.
Trong mấy tòa nhà của ông, đâu đó đều im-lìm ngủ hết. Ông bước
lên bờ rồi lầm lũi đi vô nhà.
Khi ông bước tới cửa, Bạch-Thị nghe động đất thì lên tiếng hỏi
coi ai đó.
Ông đánh tiếng lên, Bạch-Thị biết tiếng ông, nên lật đật bước
ra mở cửa.
Bạch-Thị thấy quần áo ông ướt loi-ngoi, thì lấy làm kỳ, nên
trở vô lấy một bộ áo quần khô cho ông thay.
Ông không kể áo quần, lại hỏi Bạch-Thị rằng :
- Ngày nay con Ánh-Nguyệt ở nhà bịnh nó có bớt được chút đỉnh
gì hay không?
- Thưa, coi bộ nó không bớt. Từ hồi trưa cho đến tối, nó mê sảng
nằm nói xàm hoài.
Nó cứ theo hỏi ông đi đâu, rồi một lát nó năn nỉ xin đi rước
dùm con nó, tôi với ông thầy thuốc không biết làm sao mà trả lời, nên phải nói
dối rằng ông đã đi rước con nó rồi, mai mốt ông mới về. Nó nghe nói như vậy thì
bộ nó mừng lắm, nó theo căn dặn hễ ông rước con nó về tới thì dắt liền con nó
xuống nhà nuôi bịnh đặng nó thấy mặt con nó cho mau. Nó nói hễ nó thấy mặt con
nó thì nó mạnh liền.
- Vậy chớ ông sáu Thới chưa về hay sao?
- Thưa, chưa.
- Ổng đi từ hồi trưa hôm qua ….
Ông Thiên-Hộ nói có nửa câu, rồi ông chau mày ủ mặt, ông đứng
suy nghĩ một dây lâu rồi mới nói tiếp rằng :
- Thôi, thím đi nghỉ đi. Ðể cửa đó cho tôi.
Bạch-Thị vưng lời vào buồng riêng ngủ.
Ông Thiên-Hộ chong đèn, ngồi trên ván ngó ra cửa, không nói
chi hết, mà nước mắt chảy ròng ròng.
Công phu mười năm nay gầy nên sự nghiệp nầy, té ra không ích
chi hết!
Thân mình trở vô chốn lao tù, dầu cực khổ chẳng sá chi, ngặt
vì bầy con nít mồ-côi đây, từ rày còn ai mà dưỡng nuôi dạy dỗ chúng nó? Những
người già cả bịnh hoạn có chỗ đâu nữa mà nương nhờ? Sắp tá-điền thiệt thà còn ở
đây được nữa mà cày cấy nuôi cha mẹ vợ con, hay là phải bị đuổi đi tứ tán rồi
chịu nghèo nàn đói rách?
Còn thân con Ánh-Nguyệt biết làm sao đây? Mình đã quyết cứu
nó đặng chuộc tội, vì mình mà nó phải nhơ danh xủ tiết, vậy mà biết cứu nó được
hay không?
Mình đã hứa chuộc con nó đem về trả cho nó, mà bây giờ ông
sáu Thới chưa về tới, còn quan trên chắc họ đã sai người xuống bắt mình, ví như
một chút nữa đây họ tới họ bắt mình thì làm sao?
Ông ngồi lo tới tính lui, suy đi xét lại, song ông chẳng hề
ăn-năn sự ông ra chịu thiệt đặng cứu Tư Hoành bao giờ.
Ông lo tính một hồi rồi ông đứng dậy cầm đèn đi vô buồng. Ông
để cái đèn trên ghế, dựa bên bình trà với bộ chén.
Ông vừa thấy vật ấy thì ông sực nhớ tới Hòa-Thượng Chánh-Tâm,
mà chừng nhớ tới Hòa-Thượng Chánh-Tâm, thì ông nhớ tới những lời từ-bi của ngài
giảng dạy. Các vật ở dương-thế nầy đều là tro bụi, kiếp sống mấy mươi năm đây
ví như giấc chiêm-bao.
Mấy năm nay Trời Phật khiến mình phải cứu giúp chúng sanh,
nên mình làm. Ngày hôm nay Trời Phật muốn cho mình phải lao khổ đặng trả cho
tròn nợ cũ, thì mình chịu, có chi đâu mà mình lo buồn.
Nếu mình còn buồn, té ra mình chưa thoát khỏi tam chướng, vậy
thì Hòa-Thượng giảng dạy mình ngày trước có bổ ích chi đâu. Thôi, còn cũng vậy,
mà mất cũng vậy, sướng cũng vậy, mà cực cũng vậy, còn cứu giúp thiên-hạ được nữa
cũng nhờ Phật Trời, kiếp trần ai nầy dầu thế nào cũng được, miễn là mình toàn vẹn
phận làm người thì thôi.
Ông suy nghĩ như vậy rồi ông hết buồn hết lo, mặt mày coi
thơ-thới, chớ không ủ-dột như hồi nãy nữa.
Ông lần bước đi ra đứng tại cửa mà ngó ra sân. Mây giăng đen
kịt hồi hôm, bây giờ đã tan rã hết, nên bầu trời trắng trong ; trăng lu-lu lờ-lờ
hồi hôm, bây giờ đã tỏ rạng, nên dọi cây cỏ sáng trưng.
Ông đứng ngắm cảnh vật một hồi, chẳng hiểu ông suy nghĩ thế
nào, mà ông lại xăm-xăm đi ra nhà sau, kiếm lấy một cái cuốc rồi xách đem vô buồng.
Ông rinh cái giường ông ngủ đem ra xa tấm vách chỗ đầu nằm, rồi ông mới lấy cuốc
mà cuốc đất. Ông cuốc năm bảy cái, thì thấy lòi lên hai cái ché [30].
Ông bỏ cuốc, lấy tay hốt đất và moi riết rồi bưng hai cái ché
đem lên. Ông dỡ nắp ché, thì thấy hai cái đều đựng bạc nén, cái nào cũng gần đầy.
Ông bước lại ghế lấy bộ chén chung bỏ vô một ché, và lấy cái bình tích bỏ vô
cái ché kia nữa, rồi đậy nắp lấy dây ràng lại cứng ngắt.
Trống ngoài đồn đã trở canh năm. Ông để hai cái ché bạc tại
đó, ông đi xuống bến mà thăm chừng.
Chiếc xuồng ông về hồi nãy đã đi đâu mất rồi, chắc là sáu Tâm
bơi đi trả đặng lấy ghe đem về.
Gần đó may có một chiếc ghe lường, đã có sẵn chèo sẵn sào, lại
không có đứa nào ngủ mà giữ.
Ông thấy vậy lấy làm mừng, ông liền trở vô nhà. Ông khỏa đất
lấp cái lỗ ông mới đào hồi nãy đó lại, ông lấy gót chơn mà nện dẻ dặt, rồi ông
nhắc cái giường để lại y như cũ.
Các việc xong rồi, ông mới kê vai vác từng ché bạc mà đem xuống
ghe. Ông vác hai lần thì rồi, mà không ai thấy hết.
Tuy ông nhổ sào gay chèo êm-ái, không ai hay, nhưng mà trước
khi xô ghe ra, ông đứng ngó quanh-quất, ông lóng tai nghe tứ hướng, thấy đâu đó
đều im-lìm, rồi ông mới cất mái chèo mà chèo.
Ghe ra tới sông lớn, ông cạy [31] mà đi xuống dưới phía rừng
sát.
Ông chèo cho tới sáng bét, gặp một cái vàm rạch nhỏ, mà hai
bên vàm có hai cây đước lớn, ông bèn quay ghe vô vàm. Rạch thì quanh co khó đi,
mà hai bên mé lại vẹt [32], cóc, bần mọc xen lộn với nhau, nhánh giao du, lá rậm
rạp, bởi vậy ghe chèo trong rạch mà cũng như chun trong hang.
Ông không chèo được nữa, nên phải buông chèo lấy sào mà chống.
Ông chống quanh qua, quẹo lại, đếm đủ 5 khúc rồi, ông mới
chui mũi vô cái doi [33] bên tay mặt. Ông cắm sào nhảy lên rừng, vẹt ô-rô [34],
cóc-kèn[35] mà đi.
Ông và đi và đếm đủ 50 bước, rồi ông đứng mà ngó tứ hướng.
Phía nào vẹt, cóc cũng mọc dầy, cây nào cũng coi sum-sê.
Ông nhắm phía một hồi rồi trở xuống ghe vác một ché bạc và
xách cái cuốc đem lên chỗ đó.
Ông lấy cuốc đào một lỗ rất sâu, bưng ché bạc mà để xuống đó,
rồi mới lấp đất khỏa mặt bằng phẳng. Ông nhắm ngay trước mặt đi mười bước nữa,
rồi đào một cái lỗ khác cũng như cái lỗ hồi nãy. Lỗ đào xong rồi, ông liền trở
xuống ghe vác ché bạc thứ nhì đem lên mà chôn nữa.
Ông đứng nhắm tứ hướng, coi bộ như ông nhìn mấy cây chung
quanh đó, rồi ông mới vác cuốc trở xuống ghe.
Ông chống trở ra vàm mà về. Ông về tới nhà thì mặt trời đã
cao quá nửa buổi.
Ông Thiên-Hộ đi giấu bạc trở về, vừa bước vô nhà thì kêu Bạch-Thị
mà hỏi rằng :
- Ở nhà có ai đến hỏi thăm tôi hay không?
- Thưa, không.
- Từ sớm mơi cho tới bây giờ, coi bộ con Ánh-Nguyệt có bớt
chút nào hay không?
- Thưa, nó cũng vậy. Nó cứ hỏi ông về chưa. Tôi nói dối chưa
về.
- Ông sáu Thới về hay chưa?
- Thưa, chưa thấy.
- Ði sao mà lâu quá.
Ông Thiên-Hộ chau mày nhăn mặt, rồi xây lưng đi riết xuống
nhà dưỡng bịnh.
Bữa ấy trong nhà dưỡng bịnh duy có một mình Ánh-Nguyệt mà
thôi ; lương-y Sanh mắc đi coi mạch cho một người tá điền ở trong ngọn, còn Hồng-Thị
thì mắc săn-sóc cho sắp nhỏ mồ-côi.
Ông bước vô, thấy Ánh-Nguyệt nằm day mặt ra cửa, hình vóc ốm
teo nhách, mặt mày nóng đỏ au, môi miệng khô queo. Ông đi nhẹ nhẹ lại gần, ông
lấy tay rờ trán nàng. Ánh-Nguyệt nhướng mắt ngó thấy ông, vùng ngồi dậy hỏi rằng:
- Ông mới về phải hôn? Ðâu? Con nhỏ tôi đâu?
Ông Thiên-Hộ lấy làm bối-rối, không biết lời chi mà đáp.
Ánh-Nguyệt thấy ông làm lơ, nàng bèn chấp tay xá ông và khóc
và nói rằng:
- Tội nghiệp cháu lắm ông ôi! Xin ông làm phước cho cháu thấy
mặt con cháu một chút, rồi chết cũng mát ruột.
Ông Thiên-Hộ ứa nước mắt mà đáp rằng :
- Con nhỏ còn đi sau, nó chưa về tới.
- Nó đi với ai? Sao ông không cho nó đi với ông một lượt?
- Nó đi ghe khác với ông sáu Thới.
- Té ra ông đi với ông sáu Thới mà rước nó hay sao?
- Ừ.
- Ghe của ông sáu Thới chừng nào mới tới?
- Cháu nằm xuống mà nghỉ đi, trưa hoặc chiều ghe mới tới.
- Lâu quá.
Ánh-Nguyệt khóc, nước mắt nước mũi chàm-ngoàm. Nàng ráng chống
tay nằm xuống rồi nói rằng :
- Hễ con nhỏ của cháu về tới, ông làm phước dắt nó vô đây cho
cháu thấy mặt nó liền, nghe hôn ông.
Ông Thiên-Hộ gặt đầu. Bạch-Thị ở ngoài bước vô nói nhỏ với
ông Thiên-Hộ ít tiếng, không biết nói chuyện chi.
Ông Thiên-Hộ quày quả trở ra, rồi đi thẳng lên nhà. Ông vô cửa
thấy ông sáu Thới đứng chờ tại đó, ông liền hỏi rằng :
- Con nhỏ đâu?
- Thưa, rước không được.
- Húy! Sao vậy?
- Vợ chồng thằng Ðỗ-Cẩm khốn nạn lắm. Năm ngoái tôi lên nói
chuyện con Ánh-Nguyệt nghèo khổ, tôi xin vợ chồng nó làm phước cho tôi rước, chừng
nào con Ánh-Nguyệt làm ăn khá thì sẽ đem tiền lên mà huờn công nuôi dưỡng cho
nó.
Vợ chồng nó không chịu, buộc phải đem ít nữa là năm bảy quan
mà chuộc. Bây giờ tôi đem 7 quan, nó thấy có tiền lại làm khó ; nó nói có lời
giao nuôi con nhỏ mỗi tháng một quan. Nó nuôi 27 tháng, tính tiền cơm là 27
quan.
Còn con nhỏ đau mấy trận, chạy thuốc hết 10 quan, và may áo
quần cho con nhỏ hết 10 quan nữa, cộng hết các hạng là 47 quan. Phải đủ 47 quan
nó mới cho rước con nhỏ. Túng thế tôi trao hết 10 quan tiền mà năn nỉ với nó.
Nó lấy 10 quan tiền rồi mà cũng không cho bắt, bắt phải đem thêm 37 quan nữa mới
được. Quân ác-nghiệt mà lại trận thượng quá! Tôi năn-nỉ hết sức mà cũng không
được. Tôi sợ ông trông, nên lật đật trở về cho ông hay.
- Nó thêm 37 quan, thì đem đủ mà trả cho nó, chớ hại gì. Ngặt
con Ánh-Nguyệt bịnh nặng nó theo đòi con nó hoài biết làm sao mà nói với nó bây
giờ? Tôi sợ nó chết gấp, không thấy mặt con nó được.
Ông sáu Thới nghe nói như vậy thì chảy nước mắt. Ông Thiên-Hộ
kêu Bạch-Thị biểu lấy 37 quan tiền mà trao cho ông sáu Thới. Ông nói rồi thì
ông đứng suy nghĩ giây lâu rồi nói với ông sáu Thới rằng :
- Ðem đủ số tiền mà chuộc con nhỏ. Chừng ông rước nó về tới
đây, như ông nghe mẹ nó còn sống thì ông cho mẹ con nó gặp nhau, song ông cũng
bảo bọc dùm cho mẹ con nó. Còn như ông trở về đây mà rủi con Ánh-Nguyệt có chết
rồi, thì ông đem con nhỏ về nhà ông nuôi dưỡng dùm cho tôi. Hồi trước tôi cứu
ông khỏi chết chìm, ông nói ông không biết làm sao mà đền ơn cho tôi. Ông bảo bọc
dùm con nhỏ đó, là ông đền ơn cho tôi. Vậy xin ông phải gắng công dùm.
- Thưa ông, bảo bọc mẹ con con Ánh-Nguyệt thì tôi phải lo tự
nhiên, làm như vậy có can hệ gì đến ông mà ông nói rằng tôi trả ơn cho ông. Mà
việc đó để tôi về tới đây rồi sẽ tính, cần gì ông phải dặn trước.
- Tôi sợ chừng ông về tới đây, ông không gặp tôi nữa.
- Sao lại không gặp? Ông tính đi đâu hay sao?
- Ừ.
- Ông có đi thì trong ít bữa rồi ông cũng về chớ.
- Không biết chừng tôi lâu về lắm. Trong lúc không có tôi,
ông phải lo bảo bọc dùm mẹ con con Ánh-Nguyệt cho tôi.
- Dạ, tôi vưng. Mà bây giờ ông cho phép tôi thăm con Ánh-Nguyệt
một chút, được hay không?
- Húy, không được.
- Sao vậy?
- Hồi nãy tôi có nói dối với nó rằng trưa chiều gì đây ông sẽ
rước con Thu-Vân về tới.
Nếu nó thấy ông, mà không có con nó, tôi sợ nó buồn rầu rồi
làm xung, thuốc đâu mà cứu nó cho kịp.
- Hổm nay nó đau mà tôi không thấy mặt nó, tôi buồn qua. Xin
ông cho tôi thăm nó một chút mà thôi. Không có sao đâu mà sợ. Việc thiệt cứ nói
thiệt với nó, thà là làm cho nó để ý trông con đôi ba ngày nữa, đặng lương-y thừa
dịp ấy mà điều trị cho nó, chớ nói trưa chiều sẽ có con nó, mà nó không thấy rồi
nó rầu, sợ e nó chết gấp còn gì.
- Ông nói nghe cũng có lý. Vậy thôi, như ông muốn nói thiệt với
nó thì ông đi theo tôi.
Hai người dắt nhau đi xuống nhà nuôi bịnh. Khi bước ra khỏi cửa
ông Thiên-Hộ thấy Bạch-Thị đương đếm 37 quan tiền đặng có giao cho ông sáu Thới,
thì ông đứng lại chau mày rồi nói rằng :
- Thím vô lấy thêm cho đủ một trăm quan cho ổng. Thím chồng
cho sẵn tại đây, rồi một lát nữa ông trở lên ổng vác.
Ông Thiên-Hộ day lại mà nói với ông sáu Thới rằng :
- Ông lấy một trăm quan tiền nầy đem về mà cất. Ông đem 37
quan mà chuộc con Thu-Vân, còn lại bai nhiêu thì ông để dành mà nuôi mẹ con nó.
- Thưa ông, nội 37 quan thì đủ. Như ông muốn cho mẹ con nó
bao nhiêu thì chừng con Ánh-Nguyệt mạnh rồi ông sẽ cho nó, chớ ông đưa cho tôi
làm chi.
- Ông cứ việc cất đi, đừng ngại chi hết. Ông thăm nó một chút
rồi trở lên vác tiền xuông ghe mà đi liền đi. Nếu ông về mau thì có lẽ ông còn
gặp tôi.
Hai người nói với nhau có bao nhiêu đó thì đã vô tới cửa nhà
nuôi bịnh. Ánh-Nguyệt dòm thấy ông sáu Thới thì nàng chống tay ngồi dậy và cười
và nói rằng :
- Con tôi về tới rồi, may lắm. Con ôi! má đây con ; má trông
con quá.
Nàng nói tía-lia mà cặp mắt lại liếc dòm ngoài sân, vì nàng
tưởng ông sáu Thới đi vô trước, còn con Thu-Vân còn đứng ngoài. Ông Thiên-Hộ lấy
làm đau đớn trong lòng, nên ông xây mặt chỗ khác, không dám ngó Ánh-Nguyệt.
Ông sáu Thới thấy Ánh-Nguyệt ốm teo, thì ông khóc ròng và bệu-bạo
nói rằng :
- Cháu ôi! vợ chồng thằng Ðỗ-Cẩm khốn nạn lắm. Hồi trước nó
đòi 7 quan, ông đem tới 10 quan lên ông chuộc con Thu-Vân ; nó lấy tiền rồi nó
làm trận làm thượng đòi thêm 37 quan nữa nó mới cho rước con Thu-Vân. Ông phải
trở về đây mà cho ông Thiên-Hộ hay. Ông Thiên-Hộ mới đưa tiền cho ông rồi, một
lát nữa ông đem lên đủ số mà chồng cho nó. Vậy cháu phải ráng mà uống thuốc.
Ông hứa chắc chiều mai ông sẽ đem con Thu-Vân về tới đây cho cháu.
Ánh-Nguyệt ngồi ngó sững ông sáu Thới mà nước mắt chảy ròng
ròng. Nàng lắc đầu nói rằng:
- Ông cũng nói gạt cháu nữa! Ai cũng nói gạt cháu hết thảy! Tội
nghiệp cháu lắm mà! Hồi nãy cháu nằm chiêm bao thấy con Thu-Vân về tới rồi, nó
chơi với sắp nhỏ ngoài sân, mà cháu kêu nó không chịu vô. Ông nói gạt cháu chi
vậy ông? Ông làm phước ra kêu nó vô cho cháu thấy mặt nó một chút mà.
Ông sáu Thới lắc đầu đáp rằng :
- Ông nói gạt cháu làm chi. Nếu ông rước được nó về tới, thì
ông dắt nó vô cho mẹ con gặp nhau, chớ sao lại bắt nó ở ngoài sân. Cháu phài
nghe lời ông, cháu nằm xuống mà nghỉ. Bây giờ ông có đủ số tiền rồi, để ông lên
Vũng-Gù trả thêm cho Ðỗ-Cẩm rồi rước nó mới được.
Lúc ấy sắp nhỏ mồ-côi đương chơi ngoài sân cười giỡn om sòm.
Ánh-Nguyệt ngồi im-lìm, lóng tai mà nghe, rồi day qua bên ông Thiên-Hộ và nói rằng
:
- Thưa ông, tội nghiệp cháu lắm mà! Cháu nghe tiếng con
Thu-Vân cười ngoài sân kia, ông giấu cháu chi vậy? Ông làm phước kêu dùm nó vô
cho cháu thấy mặt một chút mà. Hễ cháu thấy mặt được con cháu thì cháu mạnh liền
…
Ông Thiên-Hộ vừa bước lại gần Ánh-Nguyệt mà khuyên dỗ thì thấy
có bóng hai người bước vô cửa.
Ông lật-đật day lại thì thấy có một người trai, y-phục
đoan-trang, vô trước, còn xuất-đội Phạm-Kỳ nối gót theo sau.
Ông biến sắc, đứng khựng dựa bên giường Ánh-Nguyệt và trợn mắt
hỏi rằng :
- Ði đâu?
Người trai ấy xốc tới nói rằng :
- Ta là quan Tri-Huyện Bình-Dương, vưng lịnh quan Án đến bắt
mi. Mi phải đưa tay chịu trói cho mau.
Ông Thiên-Hộ nạt rằng :
- Ði ra ngoài, chờ một chút nữa không được hay sao!
Ánh-Nguyệt ngó sững Từ-hải-Yến rồi vùng bước một chơn xuống
đát, chờn vờn hai tay, và la lớn rằng :
- Hải-Yến! Mi tới đây làm gì? Mi làm Tri-Huyện rồi há! Mi là
quân vô tình vô nghĩa, làm cho nhơ danh xủ tiết ta, làm cho mẹ con ta cực khổ
trôi nổi mấy năm nay, mi làm Tri-Huyện mặc kệ mi, ta chết mặc kệ ta, mi còn thấy
mặt ta chi nữa? Mi là đồ khốn kiếp.
Từ-hải-Yến nhìn biết Ánh-Nguyệt thì biến sắc, nên vội vã bước
lui lại một bước, rồi hô lớn rằng :
- Ông Ðội, bắt Lê-văn-Ðó dẫn về đồn đi.
Phạm-Kỳ xốc tới mà nắm cổ ông Thiên-Hộ mà kéo.
Ông sáu Thới không hiểu chuyện gì, thấy Ánh-Nguyệt dám mắng
Tri-Huyện rồi lại thấy ông Ðội dám nắm cổ ông Thiên-Hộ, bởi vậy ông kinh hãi, lật
đật rút vô một góc đứng run lập-cập.
Ánh-Nguyệt đương giận Hải-Yến, mà Hải-Yến xúi Phạm-Kỳ bắt ông
Thiên-Hộ nữa, thì nghẹn cổ không nói ra tiếng, nàng đưa tay mà cản, song tay
run đỡ không nổi, bởi vậy nàng ú-ớ chờn vờn, rồi té ngửa, đít ngồi dưới đất đầu
nghẻo trên giường, cặp mắt lộn thinh, miệng sôi bọt mồm bọt miếng.
Lúc Phạm-Kỳ nắm cổ ông Thiên-Hộ mà kéo thì ông Thiên-Hộ không
chỏi lại, song ông không dùng tay mà cản.
Ðến chừng ông thấy Ánh-Nguyệt té xỉu, ông dửng râu, xửng tóc
chuyển tay mặt mà gạt ngang một cái mạnh quá, Phạm-Kỳ văng ra xa lắc. Ông trợn
mắt ngó Hải-Yến với Phạm-Kỳ lườm-lườm và nạt rằng :
- Quân bây là quân khốn nạn! Bây giết con Ánh-Nguyệt đó, thấy
chưa? Ði ra ngoài.
Phạm-Kỳ bị ông Thiên-Hộ gạt trúng cánh tay đau quá, nên nổi
giận, nhảy xốc tới muốn bắt nữa.
Ông Thiên-Hộ tràng qua, thấy có một cái chõng trống gần đó,
ông giựt sứt một cái chõng rồi cầm trong tay chỉ Phạm-Kỳ mà nói rằng:
- Thằng nào lại gần tao đánh nát đầu. Bây giết người ta rồi
bây không thấy hay sao?
Hải-Yến thấy ông Thiên-Hộ muốn làm dữ thì sợ, nên lật đật thối
lui ra đứng tại cửa ngó.
Phạm-Kỳ vẫn biết sức Lê-văn-Ðó mạnh-mẽ bằng hai ba người thường,
nên cũng kiêng nể, và thối lui ra ngoài rồi kêu lớn rằng:
- Lính đâu, áp vô đây.
Ông Thiên-Hộ cầm cây đứng ngó lườm-lườm, thấy lối 10 tên lính
áp lại, song cũng đứng sau lưng Phạm-Kỳ với Hải-Yến, chớ không dám vô cửa. Ông
bèn đi lại chỗ Ánh-Nguyệt té ngồi đó, ông để khúc cây dưới đất, ông thò hai tay
ẳm Ánh-Nguyệt mà để nằm trên giường. Ánh-Nguyệt trợn mắt lộn thinh, mặt mũi nước
mắt chảy ướt mèm, tay chơn oặc oà oặc oại, mà đã tắt hơi rồi.
Ông Thiên-Hộ chống hai tay trên thanh giường, cúi mặt ngay mặt
Ánh-Nguyệt, nước mắt chảy nhểu xuống mặt nàng.
Ông nói lầm thầm một hồi lâu, không ai rõ ông nói chuyện gì.
Ông và nói và khóc một hồi rồi ông đứng dậy, lấy tay trái mà vuốt mặt Ánh-Nguyệt.
Ông lại đưa tay mặt lên rồi ông ngước mặt lên rồi ông mới ngó lên nóc nhà.
Ánh-Nguyệt nhắm mắt coi nằm như người ngủ.
Từ-hải-Yến đứng ngó trân trân, mà mặt mày xanh như chàm.
Ông Thiên-Hộ ngó quanh-quất, thấy ông sáu Thới đứng trong
góc, tay chơn run bây bẩy, thì chỉ mà nói rằng:
- Mấy lời tôi dặn ông đó, xin ông đừng quên. Ông phải thế cho
tôi mà nuôi dùm con nhỏ. Ánh-Nguyệt chết rồi, vậy ông lên rước con nhỏ về thì để
ở trên nhà ông đừng đem nó xuống đây.
Ông nói dứt lời, ông cúi xuống ngó Ánh-Nguyệt một lần chót, rồi
xăm-xăm đi lại cửa và nói với Hải-Yến và Phạm-Kỳ rằng:
- Việc đã xong rồi. Bây giờ bắt buột gì thì bắt đi.
Phạm-Ký nắm tay ông Thiên-Hộ rồi hai tên lính lấy dây trói lại
mà dẫn đi.
Hải-Yến ở lại đó với 5 tên lính và dạy lính phải coi chừng
chung quanh nhà, đừng cho ai vô ra và đừng cho ai chuyển vận vật gì.
Quan Án-Sát đã làm án Lê-văn-Ðó trảm giam hậu, còn sự sản hết
thảy đều nhập kho.
Khi Phạm-Kỳ giải Lê-văn-Ðó lên tới tỉnh thì quan Án liền hạ
ngục, chờ triều-đình phê án rồi mới giải vô Hà-Tiên.
Cách vài năm sau, ông Ðội Phạm-Kỳ đi lên tỉnh về, ông nói lại
với các nhà thân hào trong xứ Cần-Ðước rằng có tờ của quan Tổng-Ðốc An-Hòa chạy
lên nói Lê-văn-Ðó bị đày ở Hà-Tiên, hôm tháng trước có một chiếc ghe bị sóng to
gió lớn nên chìm ở ngoài khơi, anh ta ngồi ghe nhẹ ra mà cứu vớt. Ghe của anh
ta bị sóng nhận chìm luôn, nên anh ta cũng chết.
Ai nghe tin ấy cũng đều thương tiếc.
Chú thích :
[29] miếng vải vụn
[30] đồ đựng bằng sành, sứ, thân tròn giữa phình to, miệng
loe và có nắp đậy
[31] động tác lái ghe, xuồng để thay hướng
[32] loại cây mọc ven biển hay ven sông gần biển, giống như
cây đước
[33] chỗ đất bồi trên sông rạch
[34] cây nhỏ, lá cứng, dài, mép lượn sóng có gai nhọn, thường
mọc ở các bãi nước lợ
[35] loại dây leo thuộc họ đậu mọc ở mé sông rạch, trái tròn
dẹp quảng 3 cm, mỗi trái chỉ có một hột
Hết quyển thứ tư
CHƯƠNG 16 - QUYỂN THỨ V - NGHĨA NẶNG TÌNH SÂU
T
iết tháng hai, mặt trời chen lặng chói cây cỏ, chỗ đỏ-đỏ, chỗ
vàng-vàng.
Lúc gần tối, chim trở về rừng bay có bầy, tốp kéo ngang, tốp
kéo dọc.
Trong xứ Cần-Ðước, tại chỗ ông Thiên-Hộ Trần-chánh-Tâm ở cách
hai năm trước người ta xúm-xít đông đầy, nhà cửa cất chật đất, bây giờ người ta
thưa thớt, nhà cửa lại tan-hoang. Mấy lẫm lúa hồi trước lẫm nào cũng vun-chùn,
bây giờ trống trơn chứa gió chứa mưa, chớ không chứa lúa nữa.
Mấy dưỡng đường hồi trước để nuôi người bịnh, chỉ thấy thằn-lằn
rắn mối mà thôi.
Trường học ngả nghiêng, nhà dưỡng lão hư sập.
Cả ngàn nông phu đã tản lạc, hồi trước mười phần bây giờ còn
không được ba phần.
Trong sở ruộng ngày xưa cày cấy không bỏ sót một chỗ nào, bây
giờ thấy gốc rạ từ khoảnh từ chòm, còn bao nhiêu thì cỏ mọc cao lên tới ngực.
Có một người cao lớn vạm-vỡ, tóc xấp-xải chấm hai vai, quần
xà lỏn, áo cụt tay, thủng thẳng lội xa xa trong ruộng, mà đi ít bước rồi lại đứng
ngóng dòm mấy tòa nhà của Thiên-Hộ Chánh Tâm ngày trước.
Mặt nhựt đã lặn mất rồi, một lát kế thấy nửa mặt nguyệt treo
giữa bầu trời.
Cây cỏ ruộng đồng lần-lần lu lờ mà người lội trong ruộng hồi
nãy đó lại lần lần đi sát phía sau vuông rào của ông Thiên-Hộ. Nếu lúc ấy ai
rình mà coi, thì ắt thấy người ấy ngó vô nhà, mà hai hàng nước mắt rưng-rưng.
Ngặt vì trong nhà thấy đốt đèn leo lét mà không thấy dạng người
vô ra, bởi vậy người ấy xẩn bẩn đi tới đi lui, cho đến hết nửa canh một rồi mới
nhằm phía vàm rạch Cần-Ðước mà đi.
Người nầy chẳng phải là ai lạ, ấy là Lê-văn-Ðó, lúc thanh
niên vì lén bưng một trã cháo heo tính đem về cho mẹ và cháu ăn đỡ đói, mà phải
bị đày 20 năm.
Khi mãn tù nhờ được nghe lời phải nên đổi lòng sửa tánh, cải
tên là Chánh-Tâm, thi ân bố đức, cứu khổ phò nguy, sau được triều đình phong chức
Thiên-Hộ.
Cách 2 năm trước, vì không để người thọ tội thế cho mình, nên
mới xưng thiệt tên họ cho quan xử trảm giam hậu và đày vô Hà-Tiên.
Nhơn vì đã nặng lời hứa sẽ bảo bọc con Thu-Vân thế cho
Ánh-Nguyệt, nên ra thọ tội rồi lại lập mưu làm cho người ta tưởng mình đã chết,
đặng lén trở về đây.
Lê-văn-Ðó nhắm phía vàm Cần-Ðước mà đi, song hễ đi ít bước
thì quày đầu ngó ngoái lại chỗ mình ở hồi trước một cái, mà mặt mày buồn xo, dường
như trong lòng còn tiếc hay là mến chỗ mình dày công sáng tạo.
Anh ta đi đến trăng gần lặn, lên tới vàm Cần-Ðước, gặp một
người câu hỏi thăm rồi đi lần lại nhà ông sáu Thới.
Trong nhà im-lìm, mà lại tối mò, Lê-văn-Ðó thấy có một gốc
cây để ngoài sân, bèn lại đó mà ngồi.
Ông sáu thức dậy chống cửa bước ra sân.
Lê-văn-Ðó vùng đứng dậy rất gọn-gàng.
Ông sáu Thới giựt mình la bài-hãi hỏi rằng:
- Ai đó?
Lê-văn-Ðó liền bước lại nói nhỏ-nhỏ rằng:
- Tôi. Xin ông đừng nói lớn.
- Tôi là ai?
- Tôi là Lê-văn-Ðó.
- Lê-văn-Ðó nào?
- Lê-văn-Ðó là Thiên-Hộ Chánh-Tâm, ông quên tôi hay sao?
- Húy! Mẹ ơi! Nói chơi hay hay sao chớ!
Ông sáu Thới và nói và đi xít lại gần đặng nhìn mặt, ngặt vì
cặp mắt ông đã lờ rồi, mà trời thì lại còn tối, bởi vậy ông dòm mà không thấy
rõ. Tuy vậy mà ông nắm tay Lê-văn-Ðó vô nhà và hỏi nhỏ rằng :
- Vậy mà họ nói ông chết rồi chớ! Sao ông lại được trở về
đây?
Lê-văn-Ðó không trả lời, lại hỏi ông sáu Thới rằng :
- Con Thu-Vân còn ngủ phải hôn? Ðâu ông đốt đèn lên coi.
- Cha chả! Nhà tôi không có đèn. Tôi nghèo, hễ tối thì ngủ, đốt
đèn làm chi cho tốn dầu tốn mỡ. Còn con Thu-Vân tôi rước nó không được.
- Sao vậy ông.
- Có tiền đau mà chuộc!
- Vậy chớ tiền tôi đưa cho ông hồi đó ông để làm gì?
- Ông biểu bà Bạch-Thị đếm cho tôi một trăm quan. Tôi chưa kịp
vác, kế lính nó áp tới bắt ông, nó làm dữ quá, nó đuổi tôi về, rồi niêm nhà
niêm cửa hết, tôi có lấy tiền được đâu.
Lê-văn-Ðó nghe nói như vậy thì chắc lưỡi lắc đầu, rồi ngồi
khoanh tay thở ra, không nói chi nữa hết.
Ông sáu Thới hỏi nữa rằng :
- Mà ông làm sao được về đây?
Lê-văn-Ðó lặng thinh một hồi rồi nói rằng :
- Tôi trốn, nên về đây tôi không dám cho ai thấy mặt. Vì tôi
chắc ông không nỡ hại tôi, nên tôi mới dám vô nhà ông. Vậy ông dám dấu dùm tôi
ít ngày hay không?
Ông sáu Thới cười và đáp rằng :
- Ông hỏi kỳ quá! Sao tôi không dám? Tôi nhờ ơn ông vớt tôi
khỏi chết chìm năm trước nên tôi mới còn sống cho đến bây giờ đây. Nói cùng mà
nghe, ví dầu tôi dấu ông trong nhà, mà quan có hay, họ bắt họ giết tôi đi nữa,
thì tôi lại càng vui lòng, bởi vì tôi muốn đem thân già nầy mà thế mạng cho ông
đặng tôi trả ơn ngày xưa, nên chết tôi có sợ chi đâu. Thân già nầy dầu còn hay
là mất nghĩ cũng không ích lợi gì, chớ ông sống thì có ích cho nhiều người ;
tôi tưởng trong xứ nầy chẳng luận là nhà tôi, dầu ông đến nhà nào họ cũng sẵn
lòng dấu-diếm dùm cho ông hết thảy.
Lê-văn-Ðó gật đầu rồi hỏi rằng :
- Hồi chiều tối tôi có lén về gần nhà tôi mà thăm coi những
công nghiệp của tôi gầy-dựng hồi trước, bây giờ ra thể nào, tôi thấy nhà cửa
xơ-rơ, nông phu tản lạc tôi buồn quá. Vậy chớ từ khi họ bắt tôi rồi họ làm sao
đâu, ông nói lại cho tôi nghe thử coi. Quan Tri-Huyện là người đi với ông Ðội
đó, có dạy chôn cất con Ánh-Nguyệt cho tử tế hay không?
Ông sáu Thới nghe hỏi ông rất cảm động, bởi vậy ông nói bệu-bạu
rằng : «
- Ông nhắc tới chuyện đó tôi buồn quá-- rồi ông ngồi trên sập
mà khóc rấm-rức.
Nãy giờ hai người nói chuyện thầm trong nhà, vì trời còn tối,
mà lại không có đèn, nên không thấy mặt nhau cho rõ.
Ông sáu Thới khóc một hồi, trời đã sáng bét. Ông bước lại nắm
tay Lê-văn-Ðó dắt ra cửa mà dòm mặt cho kỹ, thì thấy Lê-văn-Ðó cặp con mắt cũng
ướt rượt. Ông nhìn rồi nói rằng :
- Ông bây giờ coi ốm hơn hồi trước, mà da mặt da trán lại dùn
nữa. Người như ông biết thương kẻ nghèo hèn, lẽ thì trời cho hưởng sung sướng mới
phải, chớ sao lại khiến hoạn nạn cực khổ như vậy không biết.
Lê-văn-Ðó không giống như người thường, nên nghe than như vậy
mà không buồn, đứng nói hòa huởn rằng :
- Kiếp trần nầy còn cũng vậy mà mất cũng vậy, sướng cũng vậy
mà cực cũng vậy, tôi có sá chi đâu. Tôi về đến đây tôi thấy sự nghiệp của tôi
hư hết, thiệt tôi buồn, nhưng mà tôi buồn chẳng phải là tiếc chức Thiên-Hộ hay
là tiếc tiền tiếc của chi đâu, tôi buồn là vì tôi vừa ra khỏi nhà rồi thì đã thấy
thiên-hạ không còn ai biết thương yêu cứu giúp con nhà nghèo nữa. Mà thôi, chuyện
ấy nói không hay cùn, vậy ông thuật sơ công việc của tôi, trong 2 năm nay ở nhà
họ làm làm sao, cho tôi nghe một chút.
Lê-văn-Ðó nắm tay ông sáu Thới kéo trở vô nhà.
Ông sáu Thới và đi và nói rằng :
- Việc ấy nói lại nghe buồn lắm. Ông Ðội với lính bắt dắt ông
đi rồi, thì quan Tri-Huyện dạy lính bao nhà hết thảy, cấm không cho ai ra vô.
Tôi sợ quá nên ngồi chồm hổm trong hốc, ngó cái thây ma của con Ánh-Nguyệt mà
khóc.
Ðến chiều có một cậu lính vô đuổi tôi ra. Tôi chỉ con
Ánh-Nguyệt mà nói rằng cháu tôi nó chết còn nằm đó, xin cho phép tôi vác nó về
tôi chôn. Cậu nạt tôi, biểu phải đi cho mau.
Tôi ra ngoài rồi tôi lại xin phép lên nhà lớn mà vác một trăm
quan tiền của ông cho tôi. Họ nhảy lại đạp tôi rồi xô đùa tôi đi. Tôi ra tới mé
sông, tôi gặp Bạch-Thị, Hồng-Thị, thầy thuốc, thầy giáo đương ngồi chùm-nhum mà
khóc.
Mấy ông già bà già và sắp con nít mồ-côi đều bị đuổi ra hết
thảy.
Tôi hỏi thăm mới hay quan Tri-Huyện dạy đuổi ra hết, không
cho ai ở trong sở của ông nữa.
Ðêm ấy ngài coi cho lính đào xới cùng trong nhà ngoài sân đặng
kiếm coi ông có chôn vàng bạc chi hay không.
Qua bữa sau ngài dạy làng lấy hai chiếc ghe lớn mà chở tiền bạc
và đồ đạc của ông đem về tỉnh.
Người thiệt ác quá, tiền bạc thì biết lấy, còn cái thây con
Ánh-Nguyệt người ta không thèm dạy lính chôn dùm.
Quan Tri-Huyện đi rồi, cái thây sình bay hơi thúi quá, lính ở
lại giữ lúa họ chịu không nổi, nên túng thế họ mới bắt dân khiêng ra ruộng đào
lỗ mà dập.
Lê-văn-Ðó nghe nói tới đó thì nổi giận nên trợn mắt nói rằng
:
- Quân khốn nạn! Không có lương tâm.
- Ông nói ai?
- Thằng Tri-Huyện Hải-Yến đó chớ ai.
- Hễ làm quan thì họ làm như vậy hết thảy.
- Ông biết Tri-Huyện là ai hay không? Nó là chồng của con
Ánh-Nguyệt đó đa.
- Húy! Sao ông biết?
- Hồi nó bước vô bắt tôi, con Ánh-Nguyệt thấy mặt, nó la om,
ông không nghe hay sao? Con Ánh-Nguyệt ngó thấy nó giận quá, nên làm xung mới
chết đó chớ. Nó nhìn cũng biết con Ánh-Nguyệt, nên mặt mày nó tái xanh. Vậy mà
nó không lo chôn cất cho tử-tế, để lo kiếm tiền bạc, quân đó thiệt là ác nghiệt.
- À! Ông nói tôi mới nhớ, con Ánh-Nguyệt hồi trước nó có nói
với tôi rằng người chồng bạc bẽo bỏ mẹ con nó đó, tên là Hải-Yến. Té ra Hải-Yến
là quan Tri-Huyện nầy hay sao? Bất nhơn dữ hôn! Tôi có dè đâu! Hồi họ áp bắt
ông đó, tôi thất kinh, hồn vía bay mất hết, có hiểu chuyện gì nữa đâu.
- Tri-Huyện chở đồ-đạc của tôi đi về tỉnh rồi quan trên dạy lẽ
nào? Ông có nghe nữa hay không?
- Không biết quan trên dạy làm sao, mà ít bữa ghe tới chở hết
mấy lẫm lúa của ông đi đâu không biết. Ông Ðội với lính bỏ đồn, vô nhà ông mà ở,
đốc dân làm ruộng, tính làm như ông hồi trước, mà không làm phước cho ai hết.
Mấy ông già bà cả với sắp nhỏ mồ-côi, không có chỗ nương dựa,
nên tản lạc đi đâu không biết.
Ông Ðội làm ruộng năm ngoái thất, phần thì ổng thâu góp gắt
gao, phần thì đánh khảo hành-hạ người ta, nên dân lần lần trốn đi xứ khác. Năm
nay còn ít người làm chút đỉnh, còn bao nhiêu thì bỏ hoang. Tôi nghe nói quan
trên rút đội lính về tỉnh chi đó không biết mà hôm tháng trước đi hết, để lại
có một người lính ở lại giữ nhà đó mà thôi.
- Ứ hự! Tôi lo cứu giúp thiên-hạ mà cứu không được! Tội nghiệp
cho kẻ nghèo quá!
- Bây giờ ông về đây, ông ra mặt làm như ngày trước được hay
không?
- Không được.
- Sao vậy?
- Quan trên làm án trảm giam hậu tôi, nên tôi phải đày chung
thân. Vì tôi thấy thân con Ánh-Nguyệt tôi thương xót lắm nên lúc nó tắt hơi,
tôi có thề với nó rằng tôi sẽ hết lòng lo bảo bọc con nó.
Khi vô tới Hà-Tiên, tôi thầm nghĩ trong mấy năm tôi ở Cần-Ðước,
tôi dốc lòng lo cứu khổ phò nguy ; con Ánh-Nguyệt là đứa hiếu nghĩa, vì nhà
nghèo nên phải chịu lao khổ, rồi lại bị kẻ bất lương gạt gẫm nên xủ tiết ô
danh, nó xiêu lạc khắp xứ, mà cũng giữ chặt một lòng trinh bạch.
Khi nó vô ở nhà tôi, tôi không xem xét mà cứu vớt nó, để cho
Bạch-Thị đuổi lầm nó đi, làm cho thân nó phải trở ra đê tiện. Cái lỗi ấy tại
tôi mà ra. Tôi nghĩ đến việc đó tôi ăn-năn vô cùng, rồi tôi nhớ lời tôi thề với
nó nữa, thì tôi càng xốn-xang chịu không được.
Trong 2 năm nay tôi thường lo mưu tính kế trốn về đặng bảo bọc
con Thu-Vân, mà tôi tính hoài không biết làm thế nào trốn cho khỏi. Cách năm
sáu tháng trước, tội nhơn có một chiếc ghe bị giông đang chìm ngoài khơi, tôi
ngồi ghe nhỏ xông ra mà vớt. Tôi ra đến đó thì họ đã chìm mất hết, không vớt được
người nào. Tôi bèn thừa dịp ấy nhận luôn chiếc ghe của tôi rồi ôm bánh lái
nương theo lượn sóng mà vô mé. Tôi trôi trọn nửa ngày một đêm vô tới Hòn Chông.
Quan làng ở Hà-Tiên đều tưởng tôi bị chìm ghe chết rồi. Tôi lên bờ rồi lần lần
tìm đường đi mấy tháng nay mới về tới đây.
- Hèn chi họ đồn ông chết cũng phải lắm. Ông giỏi quá. Ở
ngoài biển mà ai dám nhận ghe đặng lội vô bao giờ.
- Bây giờ ông dắt tôi đi tìm con Thu-Vân được hay không?
- Ðược chớ, mà tìm nó rồi có tiền đâu mà chuộc. Hồi trước vợ
chồng Ðỗ-Cẩm đòi thêm 37 quan, con Thu-Vân ở thêm trong nhà nó 2 năm nữa, bây
giờ chắc nó đòi cả trăm quan, tiền đâu có mà chạy cho đủ.
- Ông đừng lo. Tôi có tiền.
- Tiền bạc của ông thì Tri-Huyện đã tịch mà chở đi hết rồi,
tiền đâu ông còn nữa?
- Tôi có tiền. Ông cho tôi mượn một chiếc ghe tôi đi chở về
đây cho ông coi.
- Ðược. Thằng cháu tôi là Hiển nó có một chiếc ghe trọng đến.
Ðể tôi đi mượn về cho ông. Ông tính chừng nào ông đi?
- Chừng nước ròng tôi mới đi. Vậy ông có gạo thì nấu cho tôi
ba hột cơm đặng ăn rồi ông sẽ đi mượn ghe.
- Ghe ở gần một bên đây. Muốn lấy chừng nào cũng được.
Ông sáu Thới lật đật đi lấy gạo nấu cơm. Chừng cơm chín rồi
hai người dọn ăn với nhau, mà cửa thì chống sụp-sụp, không dám cho người ngoài
thấy.
Ăn cơm rồi thì nước đã dậy nhà, ông sáu Thới đi mượn ghe đem
về đậu trước cửa.
Lê-văn-Ðó đứng dậy tính xuống ghe mà đi, mà chừng bước được một
bước anh ta đứng lại suy nghĩ một hồi rồi nói với ông sáu Thới rằng :
- Tôi muốn nói với ông một chuyện, không biết ông chịu hay không.
- Ông muốn nói mấy chuyện cũng được mà, cần gì ông phải ái-ngại.
- Ông ở có một mình, mà thân tôi đây cũng một mình, vậy ông với
tôi kết làm anh em, từ rày về sau sanh tử có nhau, đi hay ở gì cũng chung với
nhau, chẳng biết ông có bằng lòng hay không?
- Ông đã cứu tôi khỏi chết, ơn ấy tôi phải theo làm tôi mọi
mà đền cho ông ; ông muốn sai khiến việc chi tôi cũng vưng hết thảy, tôi đâu xứng
làm anh em với ông. Khi trước ông dặn tôi phải lo bảo bọc con Thu-Vân, mà ông
đi rồi tôi có tay, không chuộc nó được, tôi buồn quá, bởi vậy từ hồi khuya cho
đến bây giờ tôi hổ thẹn vô cùng.
- Việc con Thu-Vân ông đừng ngại. Ông đã già cả mà lại nghèo,
còn vợ chồng Ðỗ-Cẩm thì đòi tiền trăm, ông làm sao mà lo cho được. Tôi chịu
gian-nan mà về đây là vì con Thu-Vân. Vậy xin ông hãy hiệp lực với tôi mà nuôi
dưỡng dạy dỗ nó, cho khỏi thất ước với con Ánh-Nguyệt.
- Tôi xin vưng.
- Vậy thì ông đi với tôi.
Hai người dắt nhau xuống ghe rồi gay chèo chèo ra sông
Bao-Ngược mà đi xuống rừng sát.
Khá khen Lê-văn-Ðó trí nhớ giỏi, từ vàm Cần-Ðước xuống rừng
sát, rạch nẻo rất nhiều, mà anh ta còn nhớ cái vàm rạch có 2 cây đước lớn, nên
khi ghe đến đó thì anh ta cạy (dùng mái chèo hay mái dầm lái ghe xuồng để thay
hướng) vô, chèo hết năm khúc sông rồi chúi mũi vô doi (vùng cạn của sông rạch tại
khúc quanh, vùng sâu gọi là vịnh) mà nhảy lên bờ. Ông sáu Thới cột ghe vô cây rồi
lót tót theo sau.
Lê-văn-Ðó đếm bước nhắm hướng mà đào hai chỗ, lấy lên đủ hai
ché bạc chôn năm trước.
Ông sáu Thới phụ đem 2 ché bạc xuống ghe.
Lê-văn-Ðó móc bạc ra thì chén với bình còn đủ. Anh ta để
riêng đồ ấy một chỗ, còn bạc thì đếm được 200 nén, rồi bỏ dưới khoang ghe móc
bùn trét lên trên. Các việc xong rồi, Lê-văn-Ðó tính đi luôn lên Vũng-Gù mà tìm
con Thu-Vân. Ông sáu Thới không chịu, khuyên phải trở về lấy gạo rồi sẽ đi.
oOo
Dựa mé sông Vũng-Gù có một xóm đếm hết thảy chừng 10 cái nhà,
mà mỗi cái đều trở cửa xuống sông, day hè ra ngoài ruộng, lại ở cách nhau xa
xa, chớ không phải khít nhau.
Cái nhà lá 3 căn ở đầu dưới chung quanh có trồng mấy bụi chuối
đó là nhà Ðỗ-Cẩm.
Lê-văn-Ðó với ông sáu Thới chèo ghe lên tới đó, thì đã gần hết
nửa canh một rồi.
Bữa ấy nhằm ngày mùng 8 nên trăng không được tỏ. Ông sáu Thới
chúi mũi ghe đậu ngay cửa Ðỗ-Cẩm.
Lê-văn-Ðó thấy trên nhà có đốt đèn, lại nghe có tiếng mắng chửi
om-sòm.
Anh ta mò trong khoang ghe lấy 5 nén bạc lận vào lưng, rồi bước
lên bờ. Trước khi đi anh ta kêu ông sáu Thới mà dặn nhỏ-nhỏ phải dời ghe xuống
chỗ bụi bần rạch dưới kia mà đậu, phải thức canh ghe, và phải coi chừng đừng
cho Ðỗ-Cẩm thấy mặt.
Ghe sụt ra rồi, Lê-văn-Ðó đi nhẹ-nhẹ vô sân, lại đứng núp
trong bụi chuối rậm đặng lóng tai mà nghe.
Trong nhà có tiếng đờn-bà la lớn rằng :
- Thu-Vân, sao tao biểu mầy đi kiếm con heo mà mầy còn lục-đục
ở đó.
Kế có tiếng con nít nói nhỏ-nhỏ nghe không được. Thoạt có tiếng
đờn-bà la lớn nữa rằng :
- Kiếm trong xóm không có thì mầy ra ngoài đồng mà kiếm chớ.
Mầy đi hay không hử? … Cha chả! Thứ mới bây lớn mà biết sợ ma nữa.
Nói vừa dứt tiếng lại nghe tiếng roi quất trót-trót, rồi đứa
nhỏ la ôi-ôi.
Nghe trót-trót hơn 10 tiếng nữa, rồi cái cửa vụt hé ra, có một
con nhỏ chạy ra sân, hai tay ôm đít mà khóc hụ-hụ.
Trong nhà có tiếng đờn-bà nói lớn nữa rằng :
- Phải kiếm cho được con heo đem về đây cho tao. Mầy kiếm
không được tao giết mầy chết. Cái mạng của mầy đó không bằng con heo của tao
đâu, nói cho mà biết.
Trăng mờ-mờ, Lê-văn-Ðó lum-khum trong bụi chuối, thấy con nhỏ
chừng chín mười tuổi, dưới bận một quần rách lang thang, trên ở trần không có
áo. Ðứa nhỏ ấy và khóc và đi vòng sau hè rồi băng xuống ruộng.
Lê-văn-Ðó biết con nhỏ nầy là Thu-Vân, bèn đi theo xa xa mà
nom coi nó đi đâu.
Ruộng tháng nầy trời nắng nên khô queo, song gốc rạ còn đứng
sững, nên cản chưn khó đi lắm.
Con nhỏ đi xa-xa nhà một chút, rồi bộ nó sợ hay sao nên đứng
ngó dáo-dác.
Lê-văn-Ðó đi riết theo mà kêu nhỏ-nhỏ rằng :
- Thu-Vân, cháu đi đâu đó?
Con nhỏ day lại rồi đứng mà chờ. Lê-văn-Ðó theo kịp, lấy tay
vuốt đầu nó mà nói rằng :
- Cháu đi kiếm heo phải hôn? Cháu có sợ ma, thì ông đi dùm với
cháu.
Con Thu-Vân thấy mặt lạ hoắc, không biết là ai, nên đứng run.
Lê-văn-Ðó bèn cười và nói rằng :
- Cháu đừng có sợ, ông đây là người ta, chớ không phải ma quỉ
chi đâu. Ông thấy cháu đi đêm hôm trong ruộng một mình cháu sợ, nên ông đi theo
mà kiếm dùm heo cho cháu. Ði, đi với ông.
Lê-văn-Ðó nói dứt lời bèn nắm tay Thu-Vân mà dắt đi.
Thu-Vân đi theo mà còn khóc thút-thít. Lê-văn-Ðó hỏi rằng :
- Vợ thằng Ðỗ-Cẩm nó đánh cháu hồi nãy đó phải hôn?
- Phải.
- Nó đánh đau hôn?
- Ðau.
Thu-Vân nói đau mà một tay lại rờ sau lưng. Lê-văn-Ðó cúi xuống
coi thì thấy lưng con nhỏ có năm sáu lằn roi đỏ lòm. Anh ta vạch quần coi mông
đít, thì lại thấy lằn ngang lằn dọc nữa.
Lê-văn-Ðó biểu con nhỏ vận quần lại rồi dắt nhau đi nữa. Anh
ta thấy con nhỏ như vậy thì cảm động, nên lặng thinh cúi đầu mà đi, không nói
chuyện nữa được. Anh ta dắt con nhỏ đi lẩn-quẩn trong ruộng gần một canh mà
không gặp con heo. Thu-Vân mỏi chơn, nên đi lệt-bệt, xảy gặp một cái gò,
Lê-văn-Ðó bèn dắt nó lên đó ngồi nghỉ chơn, Lê-văn-Ðó mới hỏi nó rằng :
- Cháu năm nay mấy tuổi?
- Mười tuổi.
- Cha mẹ cháu là ai?
- Cha tôi là Từ-Hải-Yến, còn mẹ tôi là Lý-Ánh-Nguyệt.
- Cháu biết cha cháu ở đâu hôn?
- Cha tôi ở trên An-Giang, còn mẹ tôi về dưới Cần-Ðước.
- Sao lại bỏ cháu ở đây?
- Không biết nữa …
- Cháu có bà con chi với vợ chồng Ðỗ-Cẩm hay không?
- Có.
- Cháu kêu nó bằng giống gì?
- Ông bà.
- Vợ chồng nó thương cháu không?
- Không.
- Cháu sợ nó hôn?
- Sợ.
- Thuở nay nó hay đánh khảo cháu, hay là mới đánh bữa nay?
- Ðánh hoài chớ. Ông tôi thì hay bạt tai, đạp, bà tôi thì ngắt
véo đau quá.
- Cháu ở với nó cực hay sướng?
- Cực.
- Mỗi bữa cháu ăn cơm no hay không?
- Không.
- Cháu muốn đi theo về ở với ông hay không?
Thu-Vân nghe hỏi tới câu đó thì ngó Lê-văn-Ðó rồi day mặt chỗ
khác, không trả lời.
Lê-văn-Ðó ngồi ngó nó, mà cũng lặng thinh.
Cách một hồi lâu anh ta hỏi nữa rằng :
- Cháu nhớ má cháu hôn?
Thu-Vân nói "nhớ nhỏ-nhỏ rồi xụ mặt bộ coi buồn bực lắm.
Nó nằm ngoẻo trên đám cỏ, hai chơn co rút lại, còn hai tay
thì nắm vuốt lá cỏ.
Lê-văn-Ðó ngồi khoanh tay một bên, mà ngó mông trong đồng.
Trăng non đã xế bóng, mà vì mây bay từ cụm, nên khi tỏ khi lờ,
ngọn gió thổi lao rao, đèn đầu cỏ ngã qua ngã lại.
Tư bề vắng vẻ, chẳng thấy một bóng đèn, chẳng nghe một tiếng
người, duy lâu lâu hoặc thấy vài con vạc bay kiếm ăn, hoặc nghe tiếng dế gáy
ro-re trong gốc rạ.
Lê-văn-Ðó ngồi nghĩ cuộc đời, trong dạ bắt não-nề.
Cách một hồi anh ta ngó lại thì thấy con Thu-Vân đã ngủ khò.
Anh ta lấy tay vuốt đầu nó, rồi rờ xuống mặt, đụng cặp con mắt
nó ướt rượt, mới hay nó khóc.
Vì nó ở trần, lại bị gió thổi mát, nên mình nó lạnh ngắt.
Lê-văn-Ðó bèn cởi áo mà đắp cho nó ngủ ấm.
Lê-văn-Ðó thấy thân con nhỏ như vậy thì thương xót hết sức,
thương con nhà nghèo phải chịu cay đắng trăm chiều, rồi lại giận kẻ giàu sang
không biết nghĩa nhơn danh dự.
Anh ta ngắm-nghía muốn bồng con Thu-Vân đem tuốt xuống ghe mà
chở đi phứt cho rồi.
Ðỗ-Cẩm bắt con nhỏ làm tôi mọi cho nó mấy năm nay, lại đã lấy
10 quan tiền rồi, nghĩ chẳng hẹp chi đó.
Mà rồi anh ta lại nghĩ chớ chi con Ánh-Nguyệt còn sống, mình
bắt trộm đem về cho mẹ con nó gặp nhau, con thấy mẹ vui mừng ắt nó không oán hờn
mình chi hết, chớ phần mình là người lạ, còn Ðỗ-Cẩm tuy đày đọa nó song cũng là
người quen, mình quyết đem nó đi mà dưỡng nuôi dạy dỗ nó đặng ngày sau nó trở
nên người phải, mà mình dùng chước bất lương, mình bắt trộm nó, thì dầu bây giờ
nó thoát khỏi tay Ðỗ-Cẩm nó không buồn, nó không oán mình đi nữa, mà chừng nó
khôn lớn rồi, nó nhớ tới chuyện mình làm hôm nay đây, sợ e nó không kính trọng
mình chăng. Anh ta xét như vậy nên không nỡ bắt trộm con Thu-Vân, quyết chờ đến
sáng đem nó về cho Ðỗ-Cẩm rồi sẽ nói mà chuộc cho minh bạch.
Thu-Vân nằm giữa trời, trên cỏ, mà nhờ có mảnh áo của
Lê-văn-Ðó đắp ấm-ấm nên nó ngủ ngon giấc, đến trăng lặn, trời tối thui nó cũng
không hay. Lê-văn-Ðó ngồi một bên coi chừng, lâu lâu nó cựa mình thì nó mớ kêu
« má » rồi ngủ nữa.
Lê-văn-Ðó thấy tình cảnh như vậy càng thêm ảo-não.
Ðến khuya, chừng sao mai ló mọc, con Thu-Vân thức giấc, nó lồm
cồm ngồi dậy lấy tay dụi hai con mắt rồi ngó quanh quất tứ phía. Lê-văn-Ðó ngồi
khoanh tay liếc mắt coi chừng coi nó làm sao. Thu-Vân rờ đụng cái áo bao chung
quanh mình nó, nó bèn thò tay phăng mà rút rồi trao lại cho Lê-văn-Ðó và hỏi rằng
:
- Áo của ông phải hôn?
Lê-văn-Ðó cười và đáp rằng :
- Áo của ông. Cháu có lạnh thì để mà quấn cho ấm.
- Không lạnh. Tôi ở trần quen rồi.
- Cháu còn buồn ngủ nữa hôn?
- Không. Ông làm giống gì mà ngồi đây?
- Ông ngồi coi chừng ma cho cháu ngủ. Cháu sợ ma hôn?
- Sợ.
- Có ông đây, cháu còn sợ hôn?
- Không.
- Ừ, cháu đừng có sợ. Hễ có ông thì ma nó không dám lại gần
đâu.
- Ma nó sợ ông phải hôn?
- Ừ.
- Vậy ông làm phước dắt dùm cho tôi đi kiếm con heo được hôn?
- Cháu biết nó đi đâu mà kiếm?
- Hồi chiều tôi kiếm cùng trong xóm mà không có. Chắc nó ăn nội
đồng nầy chớ đâu.
- Ðồng rộng minh-mông biết nó ăn chỗ nào. Thôi, bỏ nó cho rảnh,
đừng thèm kiếm.
- Không kiếm nó đây, về bà tôi đánh chết.
- Ông thường [1] cho.
- Ông đâu có heo mà thường.
- Ông thường tiền.
Thu-Vân ngó Lê-văn-Ðó rồi chúm-chím cười, trong trí nó tưởng
Lê-văn-Ðó ăn mặc lèn-xèn, tiền đâu có mà thường con heo cho nổi. Lê-văn-Ðó hiểu
ý nó, nên nói tiếp rằng :
- Ông thiếu gì tiền. Cháu chịu đi theo về nhà ông mà ở hôn?
Cháu về, ông may áo quần tốt cho cháu bận, ông mua bánh trái cho cháu ăn, cháu
muốn vật chi ông mua cho hết thảy, cháu chịu hôn?
- Không dám.
- Sao vậy?
- Ông bà tôi đánh chết.
- Ông nói với vợ chồng Ðỗ-Cẩm rồi ông mới đem cháu đi chớ.
Thu-Vân ngồi chim-bỉm, không trả lời nữa. Cách một hồi lầu,
Lê-văn-Ðó mới hỏi nữa rằng :
- Sao? Cháu chịu đi với ông hay không?
- Không.
- Cháu ở với Ðỗ-Cẩm nó đánh đập chưởi bới tối ngày, còn ở với
ông cháu sung-sướng lắm, sao cháu không chịu đi với ông?
- Tôi đi với ông rồi, chừng má tôi trở lên đây, biết tôi đâu
mà kiếm.
Lê-văn-Ðó nghe con nhỏ nói mấy lời như vậy thì biến sắc, hết
biết lời chi mà dỗ nó nữa.
Anh ta ngồi suy nghĩ, vừa muốn nói thiệt cho con Thu-Vân nó
biết mẹ nó đã chết rồi, mà rồi anh ta lại hồi tâm, nghĩ rằng con nhỏ còn khờ dại
quá, nó chịu lao khổ phần xác đã nhiều rồi, mình không nên làm cho nó đau-đớn
phần trí nữa.
Chi bằng mình dùng lời giả dối mà dụ nó, chừng nào mình nói hết
sức mà không được thì mình sẽ nói thiệt, gẫm cũng không muộn gì. Anh ta mới nói
với Thu-Vân rằng :
- Ông biết cha mẹ cháu hết thảy. Nhơn vì có việc riêng nên
cha mẹ cháu không thế nào gặp cháu nữa đâu. Cháu hãy đi với ông ; ông thề với
cháu rằng ông thương cháu, ông cưng cháu còn hơn cha mẹ cháu nữa.
- Tôi không biết cha tôi. Má tôi có nói cha tôi bạc lắm, vậy
tôi không cần cha tôi. Còn má tôi thương tôi lắm, lẽ nào má tôi bỏ tôi. Vì như
má tôi không kiếm tôi đi nữa, thì trong ít năm nữa, tôi khôn lớn rồi, tôi cũng
xuống Cần-Ðước mà tìm mẹ tôi.
- Cháu nhỏ mà có lòng thương mẹ như vậy thì tốt lắm, phải lắm.
Như cháu đi với ông, ông nói cho Ðỗ-Cẩm nó biết ông ở chỗ nào, đặng mẹ cháu có
trở lên Ðỗ-Cẩm nó chỉ cho mẹ cháu để tìm. Mà ở đây cháu cũng chờ, về với ông
cháu cũng chờ. Chi bằng về nhà ông chờ mà khỏi bị đòn bị chửi, chừng cháu khôn
lớn rồi ông sẽ dắt cháu đi tìm cha mẹ cháu, cháu nghĩ thử coi có phải đi với
ông tốt hơn là ở đây hay không.
Thu-Vân ngồi suy nghĩ một giây lâu rồi ngước mặt ngó
Lê-văn-Ðó và hỏi rằng :
- Nhà ông ở đâu?
- Ở dưới vàm Cần-Ðước.
- Họ nói má tôi về đâu dưới Cần-Ðước. Vậy chớ xưa nay ông có
gặp má tôi hay không?
- Không.
- Kỳ dữ hôn! Vậy chớ má tôi đi đâu kia. Má tôi lén tôi mà đi,
tôi không hay. Chớ hồi đó tôi hay thì tôi đi theo.
- Nếu má cháu đi xuống phía Cần-Ðước thì cháu nên đi với ông,
đặng rồi sau cháu tìm má cháu cho dễ.
Thu-Vân ngồi lặng thinh một hồi nữa, không biết trong trí nó
tính lẽ nào mà nó vùng đứng dậy và nói rằng :
- Tôi chịu đi, mà ông phải nói với ông bà tôi hay rồi tôi mới
dám đi.
Lê-văn-Ðó nghe con Thu-Vân chịu đi thì mừng rở hết sức.
Anh ta liền đứng dậy bận áo vô. Hướng đông mây đã giăng ngàng
mấy vừng, yến mặt trời đã lố rạng đỏ-đỏ.
Xóm Ðỗ-Cẩm ở đã thấy lúp-xúp nóc nhà dạng-dạng, dàn bần mọc
theo mé sông đã thấy lúm-khúm đen-đen.
Lê-văn-Ðó vói tay ẳm con Thu-Vân rồi nhắm xóm mà trở về.
Ði dọc đường Lê-văn-Ðó nói rằng :
- Chừng về gần tới nhà ông thả cháu xuống đặng cháu về trước,
rồi thủng thẳng ông vô sau. Ông nói thế nào tự nơi ông, cháu đừng có nói gì hết,
miễn là Ðỗ-Cẩm nó hỏi cháu thì cháu cứ nói chịu đi với ông. Có ông nó không dám
đánh cháu đâu, cháu đừng sợ.
Thu-Vân nói rằng :
- Mất con heo đây tôi bị đòn chết.
- Ậy, không sao đâu. Như nó bắt thường thì ông thường cho.
Ông thiếu gì tiền mà cháu lo.
Thu-Vân nghe nói như vậy thì nó bớt buồn song trong lòng cũng
còn bưng-khuâng hoài.
Bước vô tới xóm thì trời đã sáng thiệt mặt rồi.
Lê-văn-Ðó thả con Thu-Vân đứng xuống đất rồi biểu nó đi trước
về nhà.
Anh ta đứng ngó cho nó đi khuất rồi lội xuống mé sông, dòm thấy
chắc chắn ghe của ông sáu Thới còn đậu dưới lùm bần, cách xóm chừng 10 công đất,
anh ta gật đầu rồi trở lên đi lại nhà Ðỗ-Cẩm.
oOo
Con Thu-Vân đi về nhà, mà ngoài mặt xẻn-lẻn, trong dạ bồi hồi.
Khi nó bước vô sân, nó thấy con heo quẳn đương đứng mà ủi dựa
bụi chuối thì nó mừng quýnh, nên chạy a lại.
Sân khô-khốc, mà đất lại long-chong. Con Thu-Vân chạy vấp một
cục đất, té nằm sấp sải tay.
Tuy té đau, song nó mừng khỏi mất con heo nên nó lồm cồm đứng
dậy phủi sơ bụi dính bụng và dính mặt rồi phăng-phăng đi lại con heo, bụng bị đất
khô quào rướm máu mà nó không kể.
Con heo quẳn dạn lắm, nghe Thu-Vân té một cái đụi thì nó day
lại mà ngó, đuôi ngoắc phất-phơ miệng kêu ịch-ịch, rồi cúi xuống ủi đất nữa.
Con Thu-Vân lại ngồi chồm-hỗm một bên, choàng một tay qua lưng con heo mà gãi,
còn một tay thì vỗ gáy nó mà nói rằng :
- Em đi đâu dữ vậy em? Em báo hại qua bị đòn quá! Phải mà em
đi mất thì qua chết còn gì.
Thị-Phi là vợ Ðỗ-Cẩm thức dậy, nghe lụi-hụi ngoài sân, thì chống
cửa bước ra.
Chị ta thấy con Thu-Vân đương ngồi ôm con heo quẳn, khỏi mất
heo đã không mừng, bắt con Thu-Vân đi sáng một đêm đã không thương, mà lại còn
nói những tiếng bất nhơn rằng :
- Con mắc dịch về hồi nào đó! Ờ tao tưởng mầy kiếm không được
con heo, tao giết mầy chết. Tao nói cho mầy biết, cái mạng của mầy không bằng
con heo tao đâu. Nếu mầy muốn sống thì phải giữ nó.
Con Thu-Vân đứng dậy, cúi mặt xuống đất, không nói chi hết.
Lê-văn-Ðó tay cầm một cái cây, ở ngoài hăm-hở đi vô.
Thị-Phi thấy người lạ tới nhà mà bộ coi hầm-hừ lắm không biết
người ấy đi đâu, nên đứng ngó trân-trân.
Lê-văn-Ðó hỏi lớn rằng :
- Phải nhà nầy là nhà Ðỗ-Cẩm không thím?
Thị-Phi dụ-dự một chút rồi đáp rằng :
- Phải. Chú đi đâu? Hỏi chi vậy?
Lê-văn-Ðó day qua phía con Thu-Vân đứng, đưa cái cây cầm
trong tay lên mà chỉ nó và hỏi Thị-Phi rằng :
- Phải con nhỏ con của Ánh-Nguyệt hay không?
- Phải. Sao chú biết nó?
- Ờ, biết. Chồng thím có ở nhà hay là đi khỏi?
- Ở nhà.
Lê-văn-Ðó xốc-xốc đi vô cửa, Thi-Phi cũng quày-quã trở vô
nhà.
Ðỗ-Cẩm đã thức dậy rồi mà còn leo lên võng nằm ráng.
Chừng anh ta nghe tiếng nói om-sòm ngoài sân, anh ta mới lồm-cồm
ngồi dậy.
Anh ta vừa đứng dậy bới đầu, thì Lê-văn-Ðó đã bước vô tới
nhà. Anh ta liền hỏi Lê-văn-Ðó rằng :
- Anh đi đâu? Có chuyện chi hay không?
Lê-văn-Ðó đứng ngó ngay Ðỗ-Cẩm rồi đáp rằng :
- Tôi ở dưới Cần-Ðước, lên thăm chú. Tôi là cậu của con
Ánh-Nguyệt.
- Vậy hay sao? Anh ngồi trên ván đây. Con Ánh-Nguyệt nó mạnh
anh há?
- Ừ, mạnh.
- Nó làm ăn khá hay không?
- Làm giống gì mà khá. Nó nghèo quá.
- Nó báo hại tôi quá! Nó mướn tôi nuôi con nhỏ nó mấy năm
nay, nó không trả cho tôi một đồng tiền làm tôi tốn hao phải mang nghèo. Tôi tốn
cơm nước quần áo đã nhiều, mà con nhỏ nó bất nhơn, cứ đau hoài, nay nhức đầu,
mai nóng lạnh, mốt có ban, bữa kia kiết, vợ chồng tôi chạy thuốc chơn không bén
đất, tốn tiền bạc không biết bao nhiêu. Tôi bị nó đó mà lần lần vợ chồng tôi
bán đồ đạc hết ráo. Anh coi đó mà coi trong nhà tôi bây giờ trống lỗng, có còn
vật gì đáng năm bảy tiền hoặc một quan đâu. Hồi trên Gia-Ðịnh tôi khá lắm tôi mới
trở về quê quán chớ, chẳng dè về đây tôi vì thương con Ánh-Nguyệt mà gia tài
tôi tiêu hết.
- Chú nuôi có một con nhỏ xíu mà tốn hao giống gì tới hết gia
tài lận?
- Thiệt chớ, ai nói chơi hay sao!
- Chú nuôi dùm con cho Ánh-Nguyệt thì nó biết ơn, chớ không
phải quên. Ngặt vì nó nghèo mà nó lại thương nhớ con nó quá, nên nó cậy tôi lên
năn-nỉ với chú mà rước dùm con nó về cho nó. Bạn nghèo xin thương nhau. Tôi chắc
ngày nào nó làm ăn khá thì nó không dám quên ơn hai ông bà đâu.
- Ý! Ðược đâu. Lươn phải nắm đàng đầu, chớ vuốt đuôi sao được.
Vì con nhỏ đó mà vợ chồng tôi tan nát. Phải đem tiền cho đủ mà chuộc tôi mới
cho chơ rước không vậy sao được.
- Nó nghèo khổ tội nghiệp quá. Chú bó buộc nó quá như vậy nó
làm sao.
- Nó làm sao được nó làm chớ. Nó nghèo mà nó còn báo hại vợ
chồng tôi mang nghèo nữa đây, ai tội nghiệp cho tôi?
- Nó phải trả cho chú bao nhiêu tiền, chú mới cho bắt con nhỏ?
- Không biết. Anh tính lấy. Nó có làm giấy hẳn-hòi, nó mướn
tôi nuôi con nhỏ mỗi tháng một quan tiền. Tiền đó là tiền cơm và tiền giữ. Tôi
nuôi 4 năm nay anh tính coi là bao nhiêu. Còn tiền áo tiền quần, tiền thầy tiền
thuốc cho nó nữa, cộng hết thảy có hơn tiền trăm chớ phải ít ỏi gì hay sao.
- Cách vài năm nay con Ánh-Nguyệt có cậy một ông già đem lên
trả cho chú được 10 quan.
- Ðâu có! Hồi nào? Mấy năm nay tôi có thấy ông già nào đâu.
- Tôi hỏi thiệt chú vậy chớ bây giờ chú đòi bao nhiêu tiền?
Ðỗ-Cẩm đứng gãi đầu suy nghĩ một hồi rồi nói rằng :
- Thôi em cháu nó nghèo tôi không nỡ làm gắt nó. Bây giờ nó
trả đỡ cho tôi một trăm quan mà thôi.
Lê-văn-Ðó chau mày đáp rằng :
- Nhiều quá.
- Nhiều sao? Vậy là tôi thương nó lắm chớ. Anh tính thử coi,
tiền cơm 4 năm là 48 quan, tiền áo quần ít nào cũng 30 quan, còn tiền thuốc
trên 50 quan nữa, cộng hết thảy gần một trăm rưỡi quan, mà tôi biểu trả có 100
quan, sao lại kêu là nhiều?
- Tôi nói thiệt với chú như vầy -- Tôi cũng nghèo chớ không
giàu có gì, song tôi thấy con Ánh-Nguyệt nó thương nhớ con nó quá, tôi cầm lòng
không đậu, tôi mới đi dùm cho nó đây. Vậy như chú có bằng lòng lấy 50 quan tiền,
thì tôi cho nó mượn mà trả cho chú, bằng không chịu thì thôi, chớ chú đòi nhiều
quá tiền đâu tôi trả cho chú đủ.
- Không được. Phải cho đủ 100 quan, chớ thiếu một quan tôi
cũng không chịu.
Lê-văn-Ðó ngồi lặng thinh một hồi rồi nói rằng :
- Ðâu chú kêu con nhỏ ra đây cho tôi coi một chút.
Ðỗ-Cẩm cất tiếng kêu con Thu-Vân om-sòm. Con Thu-Vân ở ngoài
bụi chuối chạy vô, đứng dáo dác.
Lê-văn-Ðó ngó nó rồi day lại nói với Ðỗ-Cẩm rằng :
- Chú nuôi nó như vầy mà chú đòi mắc quá.
Ðỗ-Cẩm làm bộ không nghe, bỏ đi lại ghế ăn trầu. Lê-văn-Ðó hỏi
Thu-Vân rằng :
- Cháu chịu đi với ông hay không?
Con Thu-Vân cúi đầu nói nhỏ-nhỏ rằng : « Chịu », mà hai hàng
nước mắt nó chảy rưng-rưng.
Lê-văn-Ðó liền day lại nói rằng :
- Tôi thấy con nhỏ tôi thương quá. Thôi, tôi trả phứt cho chú
một nén bạc đây, đặng tôi dắt nó về cho rồi.
Anh ta và nói và lần lưng lấy ra một nén bạc mà để trên ghế.
Ðỗ-Cẩm thấy nén bạc thì mừng nên chúm chím cười và nói rằng :
- Anh nghĩ đó mà coi, tôi nuôi 4 năm trường cực khổ tốn hao
nhiều quá mà. Trả cho tôi một nén bạc có nhiều đâu. Thu-Vân, thôi con sửa soạn
rồi đi với ông nghe hôn con.
Thị-Phi ở nhà sau bước lến nói rằng :
- Mình cho chuộc con Thu-Vân hay sao? Chuộc bao nhiêu đó?
- Một nén.
- Không được. Tôi nuôi nó mấy năm nay đã mến tay mến chơn,
nên tôi không bằng lòng để cho nó đi. Tôi không có con, bởi vậy tôi thương nó lắm,
tôi không đành rứt nó đâu.
- Thôi mà! Mình kiếm đứa khác mà nuôi, con nầy xui lắm. Phần
thì má nó nhớ nó, thôi để cho nó về má nó.
- Mình không biết anh nầy, mà mình làm bướng giao con Thu-Vân
cho ảnh, rồi sau con Ánh-Nguyệt nó lên nó đòi con nó, mình mới liệu làm sao?
- Anh nầy là cậu con Ánh-Nguyệt mà.
- Hứ! Khôn dữ!
Thị-Phi nguýt một cái, rồi bỏ đi ra nhà sau.
Ðỗ-Cẩm biểu Thu-Vân lấy quần áo rồi có đi với ông cậu cho sớm.
Thu-Vân vô trong buồng lục lộp-cộp một hồi, lấy ra một cái áo
cụt cũ xì và rách tan nát.
Lê-văn-Ðó hối nó bận vô, lấy nén bạc đưa tới tay Ðỗ-Cẩm, rồi
từ giã nắm tay con Thu-Vân mà dắt đi.
Ðỗ-Cẩm cầm nén bạc đi ra sau, cười ngỏn-ngoẻn mà khoe với vợ.
Thị-Phi trợn mắt và nói rằng :
- Nhiều lắm hay sao mà mừng? Thằng cha đó coi bộ nó còn nhiều
bạc nữa, không biết chừng Hải-Yến sai nó đi chuộc con Thu-Vân đó đa. Ta kiếm
chuyện cản trở đặng nó đòi bạc nữa, mà cứ làm lanh theo cãi hoài. Giỏi dữ!
Ðỗ-Cẩm xụ mặt chau mày, bỏ đi lên nhà trên rồi leo lên võng nằm
đưa tòn-ten.
Không biết anh ta suy nghĩ thế nào, mà cách một hồi lâu, anh
ta ngồi dậy đi ra nhà sau đưa nén bạc cho vợ, rồi chạy ra đường. Anh ta hỏi
thăm người ở gần có thấy một người mới dắt con Thu-Vân đi ngang đó hay không. Họ
nói mới thấy dắt nhau đi xuống. Ðỗ-Cẩm xăn quần tốc theo, xuống tới lùm bần, thấy
Lê-văn-Ðó với Thu-Vân đã ngồi dưới ghe rồi, và ghe đương dang ra mà đi. Anh ta
tay ngoắc miệng kêu rằng :
- Anh ơi anh không được. Anh phải đem con nhỏ trả lại cho tôi
… Vợ tôi nó không chịu, nó rầy quá.
Lê-văn-Ðó không thèm trả lời, cứ chèo ghe mà đi.
Ðỗ-Cẩm đi dọc theo mé sông kêu hoài mà ghe không chịu ghé,
anh ta giận nên chửi láp-dáp.
Lê-văn-Ðó buông chèo, chỉ Ðỗ-Cẩm mà mắng rằng : «
- Mầy là quân ăn cướp, quen thói ngược-ngạo hoài. Giựt một
nén bạc rồi chưa đủ hay sao, mà còn ào-ào nữa hử? Lấp-lửng tao đập nát đầu, chớ
không phải chơi đâu.
Chẳng hiểu Ðỗ-Cẩm thấy bộ Lê-văn-Ðó hầm-hừ mà sợ, hay là nghĩ
mình ăn cướp một nén bạc đã nhiều rồi, mà anh ta nghe Lê-văn-Ðó nói như vậy rồi
nín khe, ríu-ríu trở về, không theo nữa.
Lê-văn-Ðó với ông sáu Thới rước được con Thu-vân thì cả hai đều
mừng, nên theo nói với con nhỏ hoài đặng cho nó quen. Ði đến mặt trời nửa buổi
mới đậu ghe lại nấu cơm mà ăn. Lê-văn-Ðó nhìn con Thu-Vân tỏ-rõ, mới thấy gương
mặt nó giống hịch Tri-Huyện Hải-Yến còn cặp mắt với miệng thì lại giống
Ánh-Nguyệt.
Con Thu-Vân thấy trái bần rạch lòng-thòng trước mũi ghe nó mới
ra hái mà ăn ngổm-ngoảm.
Ông sáu Thới vo gạo rồi, đương ngồi nhúm lửa mà nấu cơm.
Lê-văn-Ðó lết lại gần dặn nhỏ-nhỏ đừng cho con Thu-Vân hay
Ánh-Nguyệt chết, mà cũng đừng nhắc tới tên Ánh-Nguyệt. Hai người bàn tính với
nhau coi bây giờ phải đi đâu mà ở cho yên đặng nuôi con Thu-Vân.
Lê-văn-Ðó nói rằng trở về Cần-Ðước mà ở sợ lâu ngày bể chuyện,
quan bắt buộc, thành ra công việc dỡ-lỡ nữa.
Vả khi Ánh-Nguyệt tắt hơi anh ta có hứa với nàng sẽ hết lòng
lo dưỡng nuôi dạy dỗ con Thu-Vân đặng ngày sau nó trở nên người phải. Bây giờ
anh ta thì dốt nát, mà kiếm chỗ cất nhà ở, rồi rước thầy dạy riêng nó nghĩ cũng
bất tiện,chi bằng cạo đầu dắt nhau đi kiếm một cảnh chùa yên tịnh rồi vô đó mà
tu, làm như vậy mình có thế nuôi con Thu-Vân, mà nó cũng có sẵn người hay chữ
mà học nữa. Ông sáu Thới khen phải.
Lê-văn-Ðó tính đưa ổng về nhà, rồi anh ta mua đứt chiếc ghe
mà đi với Thu-Vân. Ông sáu Thới quyết chí không chịu lìa Lê-văn-Ðó, nên cứ
nài-nỉ xin cho ông theo mà đỡ tay đỡ chơn.
Lê-văn-Ðó thấy ông già có lòng với mình, không nỡ phụ rãy ổng,
nên bằng lòng cho ổng theo.
Hai người tính xong rồi mới chèo ghe trở về Cần-Ðước.
Lê-văn-Ðó cho thằng Hiển một nén bạc mà mua đứt chiếc ghe.
Ông sáu Thới lại cho nó cái nhà của ông đặng rảng tay mà đi
cho yên.
Thằng Hiển theo cật hỏi ổng đi đâu, ổng cứ nói đi buôn bán,
không chịu nói thiệt.
Nước vừa lớn, Lê-văn-Ðó với ông sáu Thới dắt Thu-Vân xuống
ghe.
Nhổ sào xô ghe ra rồi, Ðó gay chèo lái, Thới gay chèo mũi mà
chèo ra vàm.
Con Thu-Vân ngồi trong mui ngó ra, mặt tươi rói, miệng chúm
chím cười bộ nó hân-hoan, chớ không phải ưu sầu như hồi ở nhà Ðỗ-Cẩm nữa.
Chú thích :
[1] đền bù
CHƯƠNG 17 - QUYỂN THỨ V - NGHĨA NẶNG TÌNH SÂU
T
rong quyển thứ ba chúng tôi có thuật truyện Vương-thể-Hùng,
là người trọng nghĩa hơn tình, vì muốn phỉ chí anh hùng, nên lén vợ con đi lên
thành Gia-Ðịnh mà giúp với Lê-văn-Khôi.
Chàng đi rồi thì vợ con nương náu ở với cha vợ là Ðàm-tự-Chấn.
Khi chàng ra đi thì con của chàng là Vương-thể-Phụng mới được
6 tuổi.
Vợ của chàng là Ðàm-kim-Diệp, vì muốn trưởng chí cho chồng,
nên chàng ra tùng chinh nàng không nỡ cản, nhưng mà nàng đối với chồng thì
nghĩa đã nặng mà tình lại sâu, bởi vậy Thể-Hùng đi rồi thì nàng thắt-thẻo nhớ
thương đêm ngày, mà nàng lại còn lo sợ từ chút nữa. Nàng buồn rầu ăn không biết
ngon, nằm không chịu ngủ.
Tuy nàng không đau, song máu một ngày một mất, thịt một ngày
một tiêu, chàng đi vừa mới một năm, mà nàng đã ốm xanh như tàu lá.
Ðã biết nàng không được tin chồng thì nàng buồn, nhưng mà
nàng nghe thành Gia-Ðịnh còn vững thì nàng vẫn còn trông mong phu phụ
trùng-phùng.
Ðến chừng nàng hay binh triều đã hạ thành, quan triều bắt giết
hết thảy tướng sĩ trong thành, thì nàng hết cớ trông đợi nữa được, bởi vậy nàng
nhuốm bịnh có mấy ngày rồi chết.
Vương-thể-Phụng mới lên 8 tuổi, mà cha không có, rồi mẹ lại
chết nữa; tuy vậy mà chàng không khổ cho mấy, vì có ông ngoại với dì là Ðàm-kim
Huê nuôi.
Ông Ðàm-tự-Chấn tánh ý không hiệp với chàng rể, bởi vậy bất đắc
dĩ ông phải gả con mà ông không ưa.
Nhưng mà khi trước không ưa thì ông để bụng, chớ ông không
nói ra.
Ðến chừng Thể-Hùng cãi ông, đi phụ sức với Lê-văn-Khôi mà làm
nghịch triều-đình, thì ông sanh ghét, cấm tuyệt trong nhà không ai được nhắc tới
Thể-Hùng nữa, còn người quen biết có hỏi thăm thì ông nói Thể-Hùng đã chết rồi.
Mà ghét cũng chưa hại cho mấy, đến khi con gái út ông, là
Kim-Diệp chết, ông thương tiếc rầu buồn, ông sanh tâm thù oán nữa, ông cố tưởng
trong trí rằng Thể-Hùng giết con ông.
Ông oán người cha, mà ông lại thương đứa con.
Kim-Diệp chết rồi, Thể-Phụng ở với ông thì ông tưng-tiu như
trứng mỏng.
Việc tắm rửa, cho ăn cho uống, thì ông giao cho con gái lớn của
ông là Kim-Huê coi, nhưng mà tối ngủ thì ông bắt Thể-Phụng ngủ với ông, chớ ông
không cho ngủ với ai hết.
Có đêm ông nói chuyện đời xưa cho cháu nghe, có bữa ông dắt
cháu đi dạo xóm.
Thể-Phụng gần-gũi với ông ngoại, lần lần rồi trìu mến ông; sớm
mai ông ra vườn trồng cây, chàng xẩn-bẩn đứng sau lưng, buổi trưa ông ngồi dựa
cửa vót nang, chàng chà lết ngồi một bên; ông giận, nói đỏ-đẻ ông tức cười; ông
buồn, hát om sòm ông giải muộn.
Mỗi ngày ông nói chuyện với Thể-Phụng, hễ có dịp thì ông nói
cha mẹ Thể-Phụng đều chết hết, lại hễ nói tới cha Thể-Phụng thì ông mắng
"nó là quân phản-thần tặc-tử, nó là đồ vô-đạo bát-lương“ rồi ông lộ sắc bất
bình, coi bộ ông khinh bỉ lắm.
Ông lại dặn-dò người trong nhà thế nào không rõ, mà hết thảy
đều đồng ý với ông, ai cũng nói cha mẹ Thể-Phụng đều chết hết, ai cũng khinh bỉ
Thể-Hùng như khinh bỉ đạo-tặc.
Thể-Phụng còn nhỏ ở trong nhà nầy tự nhiên tập quen phong tục
nhà nầy, mà lại gần-gũi với những người ấy tự nhiên cảm nhiễm ý trí của những
người ấy, bởi vậy chàng lớn khôn lần lần, rồi trí não của chàng cũng giống hịch
trí não của ông ngoại chàng, cũng khinh bỉ cha; tuy chàng không nói ra, song
trong trí chàng tưởng-tượng cha đồng một bực với cường-đồ cướp-đảng.
Khi Thể-Phụng được 10 tuổi, có ông nhiêu Khoa, người gốc-gác ở
đâu không biết tới cất nhà tại đầu xóm của ông Ðàm-tự-Chấn mà ở, đặng mở trường
dạy học.
Người trong xóm ai có con cũng đều cho đến học văn học lễ với
ông nhiêu. Ông Ðàm-tự-Chấn tuy cưng Thể-Phụng, song ông muốn cho chàng theo đạo
nho đặng khác tánh nết với cha, bởi vậy ông cũng đến nói với ông nhiêu Khoa đặng
cho chàng thọ giáo.
Ông nhiêu Khoa là người học rộng, ông đã thông suốt các kinh
các truyện, mà ông giảng sách câu nào bài nào ông cũng diễn giải nghĩa lý rõ
ràng, bởi vậy học trò học với ông mau thông lắm.
Chẳng những là người ở gần mà thôi, thậm chí nhà giàu ở phủ
khác huyện khác, có nhiều người nghe lại ông dạy mau hay, cũng cho con đem cơm
tiền đến ở nhà ông mà học nữa.
Thể-Phụng tuy mhỏ, mà trí thông minh, tánh mẫn cán, bởi vậy
chàng đến năm Bính-Ngọ (1846) thì đã thi đậu tú-tài.
Ông Ðàm-tự-Chấn với nàng Ðàm-kim-Huê mừng rỡ vô cùng, cả hai
đều muốn kiếm nơi tử tế mà cưới vợ cho Thể-Phụng. Thể-Phụng đậu tú-tài rồi mà
chưa vừa lòng, chàng muốn ôn nhuần kinh sử thêm đặng sau giựt cho đặng cử-nhơn
rồi có đi đình thi. Chàng nhứt định không chịu cưới vợ, bởi vậy hễ ông ngoại với
dì nói tới việc ấy thì chàng gạt ngang, cứ nói để cho chàng lo lập công danh,
chừng nào công danh lập được rồi chàng sẽ lo bề gia thất.
Ban ngày chàng ở tại nhà trường, ban đêm về nhà thì chàng cứ
rút ở trong buồng riêng mà đọc sách làm bài, có đêm chàng thức tới canh tư canh
năm mà học tập.
Năm Mậu-Thân (1848) nhằm năm Tự-Ðức nhị niên, Vương-thể-Phụng
đã được 21 tuổi rồi.
Nghĩ vì năm sau sẽ tới khoa thi, nên chàng càng gia công mà học
nhiều hơn nữa.
Trong lúc ấy trí chàng chẳng tưởng việc chi khác hơn là văn
sách kinh nghĩa, ý chàng chẳng mơ việc chi khác hơn là ông cống ông nghè, bởi vậy
chẳng những là chàng chẳng chịu nói tới hôn nhơn mà thôi, mà cũng chẳng hề nghĩ
tới công sanh thành của cha mẹ.
Ðến tháng 5, ông nhiêu Khoa nghỉ dạy bốn năm bữa, đặng ông đi
Nhựt-Tảo mà thăm bà con.
Các môn đệ ai ở xa thì về thăm nhà, ai ở gần thì ở nhà mà học
ôn.
Chừng học-trò nghe ông nhiêu trở về, thì mới tới mà học lại.
Ông nhiêu giảng sách đến chiều, ông bèn cho học trò nghỉ.
Vương-thể-Phụng ôm sách đi về. Ông nhiêu đi theo. Thể-Phụng thấy thầy đi một đường
với mình, bèn đứng nép một bên, nhường cho thầy đi trước.
Từ nhà ông nhiêu Khoa lại nhà Thể-Phụng, có đấp một cái bờ đất
dựa theo mé sông để cho người trong xóm đi cho tiện. Hai bên mé bờ cỏ mọc rậm-rạp,
nhưng mà chính giữa bờ có một đường mòn trống trơn, lại người ta đi thường, nên
đất láng-lẫy. Dọc theo mé sông chủ đất lại có trồng một hàng dừa, cây cao tàn rậm
mà buồng lại sai nữa.
Ông nhiêu và đi và nói chuyện lơ là với Thể-Phụng.
Khi đến khoảng trống, không nhà cửa ai, một bên thì thì sông,
một bên thì ruộng, mà phía bên sông lại có một cây dừa gốc cong vòng, de trên mặt
nước, ông nhiêu mới đứng lại rồi chăm-chỉ ngó Thể-Phụng mà nói rằng:
- Cháu học với thầy đã gần 10 năm nay, cháu có chuyện gì cháu
cũng đều nói với thầy hết thảy. Thầy lấy làm lạ một đều[2] nầy, là thuở nay thầy
chẳng hề nghe cháu nhắc chuyện cha mẹ cháu. Tại sao vậy? Cháu học văn mà cũng
có học lễ, phụ hề sanh ngã, mẫu hề túc ngã, ai ai phụ mẫu sanh ngã cù lao, dục
báo thâm ân biếu nhiên võng cực, cháu nhờ ai mà có hình-hài, cháu nhờ ai mà nên
vai nên vóc, sao không nghe cháu nhắc đến cha mẹ vậy?
- Thưa thầy, cha mẹ cháu khuất hết, còn nhắc đến làm chi?
- Ai nói với cháu rằng cha mẹ cháu khuất hết?
- Thưa cha cháu khuất hồi nào cháu thiệt không biết, chớ mẹ
cháu khuất hồi cháu được 8 tuổi, việc ấy cháu còn nhớ.
- Mà ai nói với cháu rằng cha cháu khuất kìa?
- Thưa ai cũng nói hết thảy -- ông ngoại cháu, dì cháu, nội
nhà ai lại không nói.
- Họ nói gạt cháu.
- Thưa gạt làm chi? Cha cháu chết thì nói chết chớ.
- Không có chết đâu. Còn sống.
- Thưa thầy, sao thầy biết?
- Thầy mới giáp mặt với cha cháu mấy bữa rày đây.
Thể-Phụng chưng-hửng đứng ngó ông nhiêu Khoa trân trân. Ông
nhiêu cười và hỏi rằng:
- Thầy nói như vậy cháu không tin hay sao?
Thể-Phụng đứng lặng thinh. Ông nhiêu nói nghiêm chỉnh rằng:
- Thầy nói thiệt, chớ không phải nói chơi với cháu đâu. Thầy
có một người anh là nhiêu Toại mới đến ở dạy học bên Nhựt-Tảo từ hồi năm ngoái.
Mấy bữa rày thầy qua bển thăm ảnh. Tình cờ cha cháu lại nhà ảnh chơi nên mới gặp
thầy. Thầy hỏi thăm tông tích vợ con, mới hay là cha của cháu chớ hồi mới gặp
thầy cũng không dè. Cha cháu gương mặt giống hịt gương mặt cháu, song mặt có thẹo
cùng hết, còn chơn trái có tật. Ông năm nay tuổi chừng bốn lăm năm mươi rồi đó.
Người cao lớn vạm vỡ, song coi bộ có bịnh.
- Thầy nói cháu phải tin, nhưng mà chuyện nầy cháu nghe kỳ
quá.
- Thuở nay cháu không dè cha cháu còn sống chút nào hết hay
sao?
- Thưa không dè chút nào hết.
- Nếu vậy thì ông ngoại cháu với dì cháu có ý gì đó nên mới dấu
cháu nói cha cháu chết chớ gì!
- Thưa, cháu không hiểu. Mà ông ngoại cháu với dì thương cháu
lắm, có lý nào gạt cháu làm chi?
- Có lẽ tại việc nhà sao đó thầy có biết đâu.
Thể-Phụng đứng suy nghĩ một hồi rồi mặt biến sắc và nói rằng:
- Ờ, ờ, thưa thầy, cháu hiểu rồi.
- Hiểu sao đó?
- Cháu nhớ lại thuở nay ai nói tới cha cháu thì ông ngoại
cháu giận lắm, ông ngoại cháu mắng là quân phản-thần tặc-tử, vô đạo bất lương.
Thưa thầy, thầy cũng như cha cháu, nên không lẽ cháu không nói hết ý cho thầy
rõ. Có lẽ tại ông ngoại cháu là người giàu có, còn cha cháu tánh tình không tốt,
ông ngoại cháu sợ mang lây tiếng xấu nên mới nói cha cháu chết chớ gì.
- Chuyện nhà của cháu, thầy không rõ. Còn hôm gặp cha cháu đó
thầy hỏi thăm sơ qua rồi đàm luận việc đời mà thôi, chớ không lẽ thầy móc moi tới
việc riêng của người. Song mấy lời cháu mới nói đó, thầy nghĩ chắc là không
trúng. Cháu nói có lẽ cha cháu tánh tình không tốt. Thầy xem tướng mạo của cha
cháu, thầy nghe cha cháu nghị luận việc đời, thì thầy biết cha cháu là người
đúng-đắn lắm, chớ không phải người quấy đâu.
- Nếu cha cháu là người đúng-đắn, sao sanh cháu ra rồi bỏ
cháu đi, không nhìn cháu, không nuôi dưỡng dạy dỗ cháu.
- Chuyện đó thầy không hiểu. Song thầy biết chắc cha cháu
thương cháu lắm, vì ông hỏi thăm sự học của cháu, mà ông ứa nước mắt.
Thể-Phụng đứng ngẩn-ngơ coi bộ lộn-xộn trong trí lắm.
Ông nhiêu thấy vậy ông muốn khuyên giải cho Thể-Phụng bớt lo
nên nói rằng:
- Tại thầy thấy việc kỳ nên thầy nói riêng cho cháu nghe. Vậy
cháu phải kín miệng, về nhà cũng chẳng nên nói đi nói lại cho ông ngoại hoặc dì
cháu hay làm chi. Việc đâu thôi bỏ đó. Còn không mấy tháng nữa tới thi. Vậy
cháu phải để trí bình-tịnh mà ôn nhuần kinh sử, chừng lập được công danh rồi sẽ
hay.
Thể-Phụng thở dài và thưa rằng:
- Cháu nghe thầy nói nãy giờ trong lòng cháu bức-rức lắm. Nếu
cháu không tìm cho ra mối bối-rối nầy, thì cháu không thế nào mà học được. Thưa
thầy, xin thầy nghĩ lại mà coi, làm con chẳng trọng ai hơn là trọng cha. Thuở
nay con tưởng cha cháu chết rồi, nên cháu không để ý tới. Bây giờ cháu biết cha
cháu còn sống, mà cháu không thấy mặt, thì làm sao cháu yên lòng được.
- Việc đâu còn đó, cháu thi đậu rồi cháu sẽ tìm mối manh mà
nhìn cha, lại muộn gì hay sao?
- Thưa thầy, cháu buồn quá.
- Ậy! sao mà buồn? Cháu đừng có buồn chớ. Theo như lời cháu
nói đó, thì cha cháu với cháu không gặp nhau là tại duyên cớ nào đó, chớ phải tại
cha cháu hay sao mà cháu buồn.
- Vì tại như vậy đó, nên cháu mới buồn.
- Phải thầy dè như vậy, hồi nãy thầy không nói chuyện với
cháu.
- Thưa thầy, thầy thương cháu, thầy vén mắt cho cháu thấy trời
xanh, thiệt cháu đội ơn thầy lắm chớ.
- Thôi cháu bỏ chuyện đó đi, để trí rảnh-rang mà học. Việc đó
để thủng-thẳng rồi thầy tìm mối dùm cho.
- Ðội ơn thầy.
- Tối rồi. Thôi, cháu về đi, kẻo ở nhà ông chờ ăn cơm.
Thể-Phụng chấp tay cúi đầu xá thầy. Ông nhiêu khoan thai trở
lại.
Thể-Phụng lần bước về nhà, chàng chau mày cúi mặt xuống đất,
lầm-lủi đi tới, không ngó cỏ cây chi hết.
Ông Ðàm-tự-Chấn thấy trời đã tối rồi mà cháu đi học chưa về
ông bèn ra đứng dựa cửa mà ngó chừng.
Cách chẳng bao lâu ông thấy Thể-Phụng ở ngoài xăm-xăm đi vô,
ông bèn hỏi rằng:
- Học bữa nay sao về tối dữ vậy? Dẹp sách riết [3] đi rồi xuống
ăn cơm, kẻo đồ ăn nguội hết.
Thể-Phụng và đi vô nhà và đáp rằng:
- Thưa, ông ăn đi, bữa nay cháu không đói.
- Hứ! Sao không đói? Ham học đến bỏ ăn bỏ uống lận sao?
- Thưa ông, hồi trưa cháu có ăn bánh đằng trường nên bây giờ
cháu không đói.
- Thôi, không ăn thì thôi. Như tối có đói thì biểu bầy trẻ nó
dọn cho mà ăn.
- Dạ.
Ông Ðàm-tự-Chấn đi xuống nhà sau mà ăn cơm.
Thể-Phụng đốt một thếp đèn, bưng vô trong phòng riêng rồi
đóng cửa phòng lại. Chàng ngồi xếp bằng trên giường, tay chống cầm, mắt ngó đèn
mà suy nghĩ.
Trời chuyển mưa nổi gió thổi lá cây chung quanh nha nghe ồ-ồ.
Ngọn đèn bị gió tạt nên ngã lại nghiêng qua, làm cho bóng dọi
trong vách khi mờ khi tỏ.
Thể-Phụng suy tới xét lui, chẳng hiểu vì cớ nào ông ngoại
mình nói cha mình chết mà thầy mình nói cha mình sống, chẳng hiểu vì lý gì ông
mình nói cha mình là đồ bất lương vô đạo mà thầy mình lại khen cha mình là người
đúng-đắn hẳn hòi.
Mà nếu cha mình còn sống, thì sao thuở nay không nuôi dưỡng
mình, lại bỏ mình cho ông ngoại. Hay là tại ông mình dành, nên cha mình mới để
cho ông ngoại nuôi?
Ví dầu có nhượng cho ông ngoại nuôi đi nữa, thì cũng tới lui
mà thăm nom, chớ sao lại bỏ biệt từ hồi mình còn nhỏ cho tới bây giờ. Con có phận
sự làm con, mà cha cũng có phận sự làm cha. Con bỏ cha thì con mang tội bất hiếu,
còn cha sanh con ra mà cha bỏ con, không dưỡng nuôi, không dạy dỗ, há cha không
có tội với trời đất hay sao?
Có bao nhiêu đó mà Thể-Phụng bối rối trong lòng không biết liệu
lẽ nào.
Ðêm ấy chàng không ăn cơm, mà học không được lại ngủ cũng
không được.
Ðến khuya chàng nghe ông ngoại thức dậy uống nước trà ở
ngoài, chàng muốn ra mà hỏi thử coi tại cớ nào ông không ưa cha, mà cha cũng
không nhìn mình.
Chàng muốn ra hỏi rồi chàng giựt mình nếu ông không dấu việc
nầy với mình, thì từ ngày mình lớn khôn ông đã nói rồi, chớ đợi chi tới mình hỏi
ông mới nói, bởi vậy có hỏi cũng không ích. Mà nếu không hỏi người trong thân
thì biết hỏi ai?
Thôi ông ngoại có giấu thì mình sẽ hỏi cha. Thế nào cũng phải
đi tìm cha một lần mới được.
Thể-Phụng nhứt định rồi, qua ngày sau đến trường giả vui như
thường, thừa lúc thầy rảnh ngồi một mình mới hỏi thăm chắc chỗ cha chàng ở, hỏi
coi nhà cửa thế nào.
Ông nhiêu tình cờ nên chỉ thiệt, ông không dấu Thể-Phụng điều
gì….
Cách vài bữa, Thể-Phụng tỏ với ông ngoại và dì rằng có một
người bạn học ở Bến-Tranh về thăm nhà mời chàng đi theo chơi vài bữa cho biết
nhà nên chàng xin phép đặng đi với bạn.
Ông Ðàm-tự-Chấn không dè cháu có ý riêng, ông liền thuận tình
cho đi, biểu Kim-Huê đưa cho cháu 5 quan tiền làm hành lý và dạy bạn dọn ghe
cho cháu đi chơi, Thể-Phụng nói rằng có sẵn ghe của nhà người bạn qua rước nên
không cho ghe nhà đưa, chỉ lấy 5 quan tiền mà thôi.
Thể-Phụng thay áo đổi quần, từ giã ông với dì rồi xách tiền
ra đi.
Ông Ðàm-tư-Chấn cưng cháu, không đành để cho nó đi một mình,
nên ông kêu một đứa bạn nhỏ tên Son mà dạy nó theo hầu hạ cháu. Thể-Phụng cản
không được, nên bất đắc dĩ phải để cho thằng Son đi theo.
Chàng ra khỏi xóm rồi, chàng bèn mướn một chiếc ghe lườn mà
đi qua Nhật-Tảo.
oOo
Lúc nửa chiều trời chuyển mưa kéo mây đen kịt, thổi gió
ào-ào.
Vương-Thể-Hùng ngồi dựa cửa ngó ra sân thấy con gà cồ đứng
bươi giữa đống trấu, đuôi rũ phất-phơ, rồi lại nghe sau vườn, hàng tre bị gió
quật nên tiếng kêu trèo-trẹo.
Nhà của Vương-thể-Hùng ở dựa mé rạch Nhựt-Tảo, cất cheo-leo
phía cuối xóm, bởi vậy chỉ có một cái nhà bà tư Tung ở gần mà thôi.
Tiếng kêu cái nhà, chớ kỳ thiệt là cái chòi, bởi vì nhà gì mà
cộng hết thảy có 3 hàng cột, mỗi hàng đếm có 3 cây, lại cây nào cây nấy vạy [4]
ngoe như ống điếu.
Trong nhà không có vật chi hết, chính giữa có bắt một cái
chõng tre, bên nây giăng một cái võng lác, còn bên kia có dụm ba ông táo đất mà
thôi.
Ðã vậy mà nóc nhà thì trống lỗng, khi dột mưa, khi dọi nắng,
mái nhà thì thấp xủn, vô phải khòm lưng, ra phải cúi đầu.
Tuy vậy mà sau hè có trồng ít bụi chuối xơ-rơ, dưới sông có
buộc chiếc xuồng nhỏ nhỏ.
Ðã biết Thể-Hùng không hay săn sóc vườn chuối, nhưng mà anh
ta xưa nay dùng chiếc xuồng mà đi, khi thì đi trễ [5] tôm, khi thì đi câu cá, rồi
đem đến mấy xóm đông đổi gạo dùng mà độ nhựt.
Vương-thể-Hùng ngồi chồm hổm dựa cửa ngó ra sân một hồi rồi
chàng đứng dậy đi cà nhắc lại bếp mà xới nồi cơm.
Chàng vừa muốn trở lại cái chõng mà ngồi, thấy Vương-thể-Phụng
ngài sân xăm-xăm đi vô, sau lưng lại có một đứa tùy tùng nhỏ, Thể-Hùng lấy làm
kỳ, không hiểu con tìm đến nhà có việc chi nên ngồi ngó trân trân.
Thể-Hùng ngồi trên chõng thì ngó sững, Thể-Phụng cúi đầu chun
vô nhà, và hỏi trổng rằng:
- Không biết nhà nầy của ai vậy há?
Thể-Hùng dụ dự một chút rồi cúi mặt đáp nhỏ nhỏ rằng:
- Nhà của cha, con đến đây chi vậy?
Thể-Phụng ngó cha không nháy mắt và nói rằng:
- Nếu vậy thì tôi đi trúng rồi.
Chàng liền day lại thấy thằng Son còn đứng ngoài cửa bèn nói
với nó rằng:
- Thôi, mầy xuống dưới ghe mà chơi, biểu hai người chèo họ nấu
cơm ăn đi.
Thằng Son đi rồi, Thể-Phụng mới bước tới đứng dựa đầu cái
chõng rồi ngó ngay Thể-Hùng mà hỏi rằng:
- Té ra cha tôi đây hay sao?
- Phải. Ai biểu con qua đây?
- Không có ai biểu hết, con lén con đi.
Thể-Hùng nghe nói như vậy thì chau mày ngó Thể-Phụng mà lặng
thinh không nói nữa.
Cách một hồi rồi chàng tằng hắng mà hỏi dịu dàng rằng:
- Con lén đi tìm cha chi vậy?
- Thưa, con có một việc riêng con muốn hỏi cha, nên con mới
đi tìm đến đây.
- Sao xưa nay con không tìm, bây giờ con tìm làm chi?
- Thưa cha, xưa nay con không dè cha còn sống; từ nhỏ chí lớn
con tưởng con mồ côi cha mẹ hết thảy. Cách mấy bữa rày con nhờ thầy của con, là
ông nhiêu Khoa, nói cha còn sống, ổng có gặp cha, ổng chỉ chỗ cha ở, nên con mới
biết mà tìm đến đây.
- Ông nhiêu thèo-lẻo quá!
- Thưa cha, cha trách thầy con như vậy sao phải. Thầy con nói
cho con biết đó là làm ơn cho con chớ.
- Báo hại con, chớ làm ơn nỗi gì!
- Thiệt đó chớ! Ông nói rồi mấy bữa rày con ăn học không được
nữa. Tuy vậy mà con mang ơn ổng lắm, nhờ có ổng nói con mới hay con còn một ông
cha, bằng không thì con cứ tưởng cha mẹ đều chết hết, con có cha mà không chịu
nhìn, thì con mang lỗi với trời đất lắm.
- Con nhìn cha thì hại cho con chớ có ích chi đâu mà nhìn.
- Con nhìn cha mà sao lại gọi rằng hại?
- Con không cần gạn hỏi làm chi. Cha muốn cho con đừng có
nhìn biết cha. Con làm như vậy là con trọn hiếu đa.
- Thưa cha, sao vậy? Con không nhìn cha mà sao gọi rằng trọn
hiếu?
- Con đừng có hỏi nữa. Con nghe lời cha, con đi về đi, rồi cứ
tưởng cha đã chết như xưa nay đó vậy, ấy là có hiếu với cha lắm.
- Thưa, không được. Cha nói như vậy thì con không về được
đâu. Nay con đã khôn lớn rồi, còn cha thì đã già yếu mà tật nguyền nữa. Theo phận
làm con của con, thì con phải nuôi dưỡng cha, nếu con không làm như vậy, dầu
con học thi đậu tới trạng-nguyên, dầu con giàu có như Thạch-Sùng đi nữa, con
cũng không đáng làm người. Ðã vậy mà con còn nhiều việc ức nữa, con muốn hỏi
cha, nên con phải tới đây.
- Con còn muốn hỏi việc chi?
- Thưa, con muốn hỏi coi vì cớ nào cha còn sống mà nội nhà
ông ngoại con thuở nay đều nói với con rằng cha đã chết rồi? Tại sao vậy?
- Ðó cũng có duyên cớ, song con không cần phải biết làm chi.
- Con cần phải biết lắm chớ. Thuở nay thiên hạ nói cha đã chết
rồi mà cha còn sống nhăn đây, nếu vậy thì họ nói mẹ của con chết con chắc mẹ của
con cũng còn sống nữa, phải vậy hay không cha?
Thể-Hùng nãy giờ buồn lắm, bây giờ lại nghe con hỏi tới mẹ nó
nữa, thì càng thêm buồn, bởi vậy chàng ứa nước mắt và đáp rằng:
- Mẹ của con đã chết thiệt.
- Nếu mẹ con chết thiệt thì thôi, con không dám hỏi tới việc
đó nữa. Bây giờ cha còn sống, con may mắn được gặp cha, vậy con xin hỏi cha một
đều nầy nữa -- cha có công sanh con ra, mà sao cha không thương con, cha không
dưỡng-nuôi dạy-dỗ con, cha lại bỏ cho ông ngoại, rồi thuở nay cha không thèm
lui tới mà thăm con, đến bây giờ cha còn biểu con đừng nhìn cha nữa? Thưa cha,
xin cho con biết coi hồi nhỏ con làm đều chi lỗi với cha, hoặc tại con mà cha
khốn khổ lắm hay sao nên cha phiền, đến nỗi cha bỏ con như vậy?
Thể-Hùng nãy giờ tuy buồn, song còn nói đi nói lại được. Ðến
chừng chàng nghe con hỏi tới sự đó, chàng nghẹn cứng cổ, không có lời chi mà
đáp, nên chàng đứng dậy bỏ đi ra ngoài cửa.
Trời mưa ào tới, giọt đổ lộp-bộp trên mái nhà, sân cỏ nổi
bùn, nước đọng lấp xấp mấy khoảng thấp.
Thể-Phụng liếc dòm, thì thấy Thể-Hùng đứng ngó trời mưa mà
hai hàng nước mắt chảy dọc xuống dưới hai gò má.
Chàng lén bước sụt lại vài bước đặng nhìn xem mặt cha cho tường
tận. Người cao lớn, miệng rộng môi dầy, vai ngang, mày rậm, cặp mắt có tinh thần,
mà gò má bên tả lại có một cái thẹo rất lớn, bởi vậy gương mặt thì coi không thấy
vẻ ác, mà vì mang cái thẹo nên dễ tưởng là người hung. Chàng nhìn cha rồi ngó
khắp trong chòi, nửa buồn về tình, nửa buồn về cảnh, nên cảm xúc trong lòng,
chàng đứng khoanh tay mà thở ra.
Thể-Hùng đứng ngó trời mưa mà suy nghĩ một hồi lâu rồi trở vô
ngồi trên cái chõng, không thèm lau nước mắt, lại ngó ngay Thể-Phụng mà đáp rằng:
- Bình sanh cha không quen thói có lỗi rồi đổ cho người khác.
Nhưng mà trong việc nầy cha khuyên con đừng có hỏi chi hết, con cứ tin chắc rằng
cha là một người ngay thẳng, con kêu cha bằng cha chẳng hổ thẹn chi đâu. Tình của
cha đối với con thế nào, có lẽ ngày sau cha chết rồi con sẽ biết. Mà năm nay
trong mình cha yếu lắm, cha liệu chắc không còn sống bao lâu nữa đâu, nên con
chẳng vội cho mà hỏi.
Thể-Phụng cũng ngó ngay cha mà nói rằng:
- Dầu cha là người phải hay là người quấy, cha cũng là đứng tạo-hoá
của con, con cũng phải kính trọng cha, nên con không cần hỏi tới việc đó. Con
quyết muốn biết một đều nầy là muốn biết coi vì cớ nào cha sanh con ra mà cha
không thương, đã bỏ cho ông ngoại nuôi, rồi thuở nay lại không thèm lui tới mà
hỏi thăm.
Thể-Hùng chau mày ngó xuống, nước mắt đổ từ trên vạt áo từ hột.
Chàng nói nhỏ-nhỏ rằng:
- Con chớ nên tưởng rằng cha không thương con. Cha thương con
lắm, cái tình của cha thương con cha dám chắc không thua ai đâu. Con nên biết rằng
vì cha thương con nên cha phải xa lánh con, vì cha thương con nên cha thăm con
mà cha phải dấu, không dám cho con biết. Thuở nay cha đi thăm con hoài, chừng
vài ba tháng cha đi thăm một lần, mà mỗi lần thăm thì cha đậu xuồng dựa bên đường
con đi học, rồi ngồi dưới xuồng lén ngó con mà thôi, chớ không dám nói tiếng
chi, hoặc làm đều chi cho con biết. Vậy con đừng có tưởng cha không thương con.
Thể-Phụng nghe cha nói như vậy thì chưng-hửng, đứng ngó cha
trân trân và suy nghĩ riêng một hồi rồi nói rằng:
- Té ra người ở dưới chiếc xuồng hay đậu dựa gốc cây dừa quằn
ra ngoài sông đó là cha hay sao?
- Phải.
- Cha có nói con mới nhớ. Lâu lâu con có thấy một chiếc xuồng
đậu chỗ đó một lần, mà người ngồi dưới xuồng thường đội cái nón xụp-xụp che khuất
hết nửa cái mặt, bởi vậy con không thấy cho rõ mà nhớ được.
- Cha không muốn cho con thấy rõ mặt cha.
- Thưa cha, tại sao vậy? Tại sao cha thương nhớ con, cha đi
thăm con, mà không dám thăm chán chường, lại thăm núp lén như vậy?
- Tại cha thương con quá, nên phải làm như vậy đó.
Thể-Phụng đứng ngẫm-nghĩ, sắc mặt coi còn buồn hơn hồi mới bước
vô nữa, chàng đi lại đứng dựa cây cột, gần một bên Thể-Hùng và nói rằng:
- Thưa cha, cha không chịu nói rõ cho con hiểu, cha cứ nói
mí-mí [6] hoài, con càng buồn bực khó chịu hơn nữa. Xin cha nói việc nhà cho
con hiểu. Con đã khôn lớn rồi, con đã đủ trí mà phân quấy phải, chớ phải con
còn nhỏ dại chi hay sao mà cha ngại. Có phải là tại ông ngoại với cha không thuận
với nhau, nên cha giận cha không chịu tới lui nữa hay không?
- Chuyện đó con không nên biết làm chi. Con phải thương ông
ngoại con cho nhiều, vì con nhờ ông ngoại nuôi con mới nên vai nên vóc, con mới
học thi đậu Tú-Tài. Con phải kính trọng ông ngoại, chớ đừng có nghi-ngại [7] rồi
bạc ông mà mang lỗi. Cha nói con phải nghe lời. Cha xin con một đều nầy, là con
đừng tưởng cha là người quấy, bấy nhiêu đó thì đủ rồi.
- Thưa cha, không được. Con muốn hiểu cho rõ việc nhà, nên
cha không chịu nói thì con ở luôn theo đây với cha, con không rời cha nữa.
- Cha nghe nói qua sang năm con đi thi, vậy con phải để trí
thong-thả mà học, chẳng nên lo việc chi khác hơn là việc đèn sách.
- Nếu cha không chịu nói thì con không thế nào học nữa được.
- Con muốn biết thì chờ chừng nào cha chết rồi con sẽ biết,
không muộn gì đâu.
- Nếu cha chết rồi con mới biết thì muộn lắm chớ, chừng đó mới
biết thì có ích chi đâu. Chẳng dấu gì cha làm chi, từ ngày con nghe thầy con
nói gặp cha thì con lờ-đờ lững-đững như đứa không hồn, ngày như đêm con tự quyết
phải đi tìm cho được cha mà hỏi coi vì cớ nào cha sanh con được, mà không dưỡng
nuôi dạy dỗ được. Nãy giờ con nói chuyện với cha thì con đã biết không phải cha
không thương con, con đã hiểu cha không phải là người quấy. Con tuy còn nhỏ tuổi,
nhưng mà con có đọc sách ít nhiều. Ví dầu việc xưa mà có cái chi buồn thảm cho
mấy đi nữa, hễ cha tỏ thiệt với con thì con chẳng nao núng chi đâu mà cha ngại,
chớ con đã biết một phần rồi, mà cha còn dấu nữa, thì con làm sao được yên lòng
mà học.
Thể-Hùng day qua ngó con, rồi ngó ra ngoài sân.
Mưa đã tạnh rồi mà trời đã gần tối. Dưới rạch bìm-bịp kêu
inh-ỏi, trước cửa cặp sóc nhảy lom-xom. Thể-Hùng bần-dùng [8] một hồi rồi nói rằng:
- Ðến nước nầy còn dấu-diếm mà chi nữa. Trước hay sau cũng phải
nói. Thôi thà nói phứt cho rồi chớ biết ngày chết có được gặp nhau nữa hay
không. Con muốn hiểu việc xưa, thì con ngồi đó, cha nói hết cho con nghe.
Thể-Hùng vấn một điếu thuốc rồi đi lại bếp lửa đốt mà hút.
Chừng chàng trở lại thấy con đứng xẩn-bẩn dựa cây cột, bèn biểu
con lên cái chõng mà ngồi, còn chàng thì đi thẳng lại võng rồi ngồi lên võng
nhún mình mà đưa.
Chừng thấy Thể-Phụng ngồi rồi. Thể-Hùng mới nói rằng:
- Hồi cha còn nhỏ, ông nội bà nội con khuất sớm, cha buồn rầu
nên bỏ đi xứ nầy xứ kia mà kết bạn với những tay nghĩa sĩ anh hùng. Nhờ cha biết
võ-nghệ chút đỉnh nên đi đến đâu cũng có người trọng hậu.
Năm nọ mẹ của con đi cúng chùa về dọc đường bị ăn cướp bắt.
Cha đi tình cờ may cha gặp, nên cứu mẹ của con khỏi tay kẻ quấy rồi đưa về tới
nhà. Mẹ của con cảm nghĩa cha cứu nguy, nên thầm nguyện kết tóc trăm năm với
cha, song không tỏ tình riêng cho ai biết. Vì ôm ấp tình ấy trong lòng lâu ngày
nên sanh bịnh.
Dì hai của con lo nuôi đau, chị em nói chuyện với nhau, rồi mẹ
con mới tỏ thiệt tâm sự. Dì của con hay việc ấy mới khuyên ông ngoại con gả mẹ
con cho cha. Ông ngoại con ban đầu nói cha là quân bình-bồng nên không chịu gả,
đến chừng thấy mẹ của con bịnh một ngày một nặng, sợ làm bức mẹ của con rầu buồn
mà chết đi, nên mới cho người tìm cha mời đến nhà mà nói chuyện hôn nhơn.
Cha vẫn biết, chí của cha đễ chết với việc nghĩa, chớ không
phải để vui thú thê-noa [9], bởi vậy cha cố từ hoài, sợ có vợ rồi làm buồn cho
vợ nên cha không dám chịu.
Ông ngoại con nói thiệt rằng mẹ của con vì cha mà nhuốm bịnh,
nếu cha không ưng thì mẹ của con rầu chắc phải chết, vậy hễ cha ưng, ấy là cứu
dùm mạng của mẹ con. Cha nghe nói như vậy cha động lòng, nên bất đắc dĩ cha phải
ưng đặng mà cứu mẹ của con.
Nhắc tới việc xưa cha buồn lắm. Mẹ của con thiệt là một người
hiền đức, đáng kính đáng trọng lắm. Nhưng mà cha tiếc vì tánh của cha hồ hải đã
quen rồi, chừng cưới mẹ của con rồi, mẹ con vui vẻ hết bịnh, thì cha không ở
nhà với ông ngoại con, cha cứ đi giao du với chúng bạn hoài.
Tuy vậy mà mẹ của con chẳng có một tiếng chi phiền cha, vì muốn
trưởng chí cho chồng, nên cha làm việc gì cũng không ngăn cản. Ðến năm Quý-Tỵ,
khi ấy con đã được năm sáu tuổi rồi, trên Gia-Ðịnh có ông Lê-văn-Khôi vì muốn rửa
hờn cho quan Tả-quân Lê đại-nhơn, nên kéo cờ độc lập, chiêu nghĩa binh mà chống
cự với triều-đình.
Từ nhỏ chí lớn cha nuôi chữ nghĩa trong lòng, dầu gặp tiểu
nghĩa cha cũng không nỡ ngó ngơ, huống chi là đại nghĩa, bởi vậy cha trở về nói
cho ông ngoại và mẹ của con hay đặng cha đi.
Ông ngoại con là người chơn chất thiệt thà, bình sanh cố lo
làm giàu, chớ không chịu việc khác. Tánh ý của cha không giống với tánh ý của
ông ngoại con, bởi vậy thấy cha không lo làm ruộng hay là lập vườn như ông thì
ông đã không ưa rồi, mà chừng nghe cha tính lên Gia-Ðịnh mà giúp với ông
Lê-văn-Khôi nữa, thì ông lại càng thêm ghét.
Tội nghiệp mẹ của con quá, nhắc tới đây cha nghĩ cha thương mẹ
của con vô cùng. Cha nói chuyện đi Gia-Ðịnh, thì mẹ của con vui như thường,
không cản một tiếng nào hết. Vì cha không muốn cho mẹ con buồn, nên tối lại
trong lúc mẹ con của con đương ngủ mê, cha lén mở cửa ra đi ….
Thể-Hùng nói tới đây, chàng nhớ thương vợ nên nước mắt tuôn
rơi, cuống họng nghẹn cứng, chàng nói không được nữa. Thể-Phụng nghe chuyện xưa
đã cảm động, mà thấy cha như vậy nữa, chàng dằn không được, nên chàng cũng ngồi
mà khóc.
Trời đã gần tối mò. Thể-Hùng khóc một hồi rồi lần đi kiếm thếp
đèn đem lại bếp thổi lửa lên ngọn mà đốt.
Chàng để thếp đèn trên chõng, vấn một điếu thuốc nữa mà hút rồi
cũng leo lên võng ngồi mà nói tiếp rằng:
- Vì trời khiến người phải còn bị ép, mà cũng vì quả bất năng
địch chúng, bởi vậy trót 3 năm trường cha với các nghĩa sĩ cực nhọc hết sức mà
không được thành công. Thành Gia-Ðịnh bị hạ, cha tả xông hữu đột mà phá vây,
cha bị thương rất nặng, tưởng đã vong mạng rồi. Cái mặt cha có thẹo, cái chơn
cha bây giờ còn đi cà nhắc, ấy là bởi cha bị thương trận đó. Chớ chi hồi đó giặc
giết cha chết phứt đi, thì mát thân cha biết chừng nào!
Trời khiến cha còn sống làm chi mà cha phải chịu áo-não như vầy.
Cha mang bịnh trở về nhà ông ngoại con, thì mẹ của con mới chết trước mấy bữa.
Ðau đớn chưa! Ông ngoại con một là nói tại cha nên mẹ con buồn rầu mới chết,
hai là sợ cha lân-la quan họ nói đồng lõa với quân ngụy họ bắt, bởi vậy ông ngoại
cố xô đuổi cha, không cho cha vô nhà.
Cha xin lãnh con cha nuôi. Ông ngoại con nói rằng cha muốn bắt
con thì ông giao, nhưng mà hễ bắt rồi thì đem đi luôn, ông không nhìn biết tới
nữa, chừng ông mãn phần con cũng không được ăn gia tài. Còn như để cho ông nuôi
thì ông cho ăn học, ngày sau ông để trọn gia tài cho con. Cha thương con mà
nghe ông ngoại giao kết như vậy cha không biết liệu làm sao. Cha mới xin để cho
cha suy nghĩ một vài ngày rồi cha sẽ trả lời.
Cha nghĩ phận cha nhà cửa không có, cơm tiền cũng không, mà
cha lại mang tật manh bịnh, không biết chết sống bữa nào, nếu nhận con về mà
nuôi thì thân con đã cực khổ, mà cha cũng không có sức mà cho con ăn học đặng lập
công danh với đời được. Vì cha thương con, cha muốn cho con lúc nhỏ được
sung-sướng tấn thân, chừng lớn sẵn có gia tài mà hưởng, bởi vậy cha phải cắt ruột
của cha, cha phải nhường con lại cho ông ngoại con nuôi.
Qua ngày sau cha đến trả lời, xin để con lại cho ông ngoại
con nuôi. Ông ngoại con gắt-gao quá, ông thấy cha yếu thế ông buộc cha như vầy
-- nếu để con cho ông nuôi thì tự hậu cha không được tới nhà ông nữa, dầu gặp
con đi ngoài đường cha cũng không được phép nhìn con. Cha năn nỉ xin cho cha
lâu lâu tới thăm con một lát. Ông nhứt định cấm tuyệt không cho nhìn biết đến
con. Cha năn-nỉ quá ông mới chịu cho điều nầy, là ngày nào cha chết, thì ông sẽ
cho con đến mà chịu tang. Nghĩ vì thương con thì phải làm cho con nên, chớ
không lẽ làm cho con hư, bởi vậy cha phải bóp bụng dằn lòng mà ưng chịu, thà là
cha vì con mà áo-não, chớ cha không nỡ làm cho con phải vì cha mà hạ tiện bần
cùng.
Bởi tại như vậy, nên mười mấy năm nay cha núp lén mà thăm, chớ
không dám chường mặt, còn ông ngoại con sợ con đi tìm cha, nên ông nói dối với
con rằng cha đã chết rồi.
Thể-Hùng nói vừa dứt lời thì Thể-Phụng chạy lại ôm cha mà
khóc.
Thể-Hùng nói được tâm sự cho con nghe thì trong lòng phơi phới,
nên miệng chúm-chím cười, mà hai hàng nước mắt nhỏ giọt. Cha con khóc với nhau
một hồi rồi Thể-Hùng nhớ lại mình chưa ăn cơm nên lật đật đốt lửa nướng ít con
khô cá sặc mà dọn cơm ăn với con.
Cha con tuy mới hiệp nhau, mà tình dan-díu coi chẳng khác nào
như ở chung một nhà từ nhỏ tới lớn.
Ðêm ấy cha con nằm chung một chõng mà nói chuyện với nhau.
Thể-Phụng biết được tâm chí của cha, hiểu được tâm sự của
cha, thì kính phục hết sức, quyết ở luôn nơi đây mà nuôi dưỡng cha, không chịu
trở về nhà ông ngoại nữa. Thể-Hùng khuyên giải con, biểu trở về, bởi vì nếu bạc
ông ngoại, ông giận ông từ, thì ngày sau mất ăn gia tài. Thể-Phụng đáp rằng:
- Cha tưởng gia tài đó quí cho bằng cha hay sao. Con không màng
đâu. Thử đem 10 cái gia tài như vậy mà đổi cha, coi con có thèm hay không mà!
Thể-Hùng thấy con trọng nghĩa khinh tài, thì chàng lấy làm mừng,
nhưng mà chàng sợ thất ước với cha vợ, lại cũng vì chàng thương con, cố lo cho
thân con ngày sau, nên chàng cứ theo khuyên con khuya phải dậy mà về, bởi vì
còn chẳng bao lâu nữa tới khoa thi, nên phải về mà lo ôn nhuần kinh sử.
Ðã vậy mà ông ngoại có công nuôi dưỡng từ nhỏ chí lớn, ơn ấy
cũng trọng như ơn sanh thành, bởi vậy không nên bạc ông.
Thể-Phụng dụ-dự không chịu về. Thể-Hùng nói rút rằng:
- Việc gia tài, con cần hay là không cần cũng chẳng quan hệ
chi lắm. Ngặt vì có lời hứa của cha, nên ông ngoại con mới nuôi con cho tới
ngày nay, con đã khôn lớn rồi, lại thi đậu Tú-Tài rồi nữa. Nếu bây giờ con bỏ
ông ngoại mà theo cha, chi cho khỏi ông nói cha thấy con nên vai nên vóc, con
đã có chút công danh rồi, nên cha dụ dỗ con. Thuở nay cha nghèo, song chẳng hề
mang tiếng chi hết. Nay con đành vì cái tình thương cha, mà làm nhơ danh cha
hay sao?
Thể-Phụng nghe tới cái lý-thuyết ấy, chàng mới chịu vưng lời
cha, nhưng mà chàng bịn-rịn hoài, cứ nấn ná ở cho tới chiều bữa sau chàng mới
chịu về.
Trước khi Thể-Phụng xuống ghe, thì Thể-Hùng dặn rằng:
- Con về ráng lo ăn học đặng lập công danh với người ta, con
đừng có nhớ đến chuyện cha nói với con đó làm chi. Con cũng đừng có lui tới mà
thăm cha nữa. Nếu cha có bịnh cha sẽ cho con hay, mà hễ con hay thì xin phép
ông ngoại mà đi cho minh-bạch. Cha ước có một đều nầy, là ngày nào cha hấp hối,
con cho cha thấy mặt con một chút rồi sẽ nhắm mắt.
Thể-Phụng cúi đầu và khóc và bái biệt cha mà về.
Chú thích :
[2] điều
[3] mau, nhanh, lẹ
[4] cong
[5] một cách bắt cá tôm
[6] nói bên lề không vô đề
[7] ngờ
[8] dùng dằng
[9] vợ con
CHƯƠNG 18 - QUYỂN THỨ V - NGHĨA NẶNG TÌNH SÂU
V
ương-thể-Phụng trở về nhà, trong lòng tuy buồn thảm nhưng mà
ngoài mặt làm vui như thường.
Vì chàng đã có dặn trước thằng Son, nên nó cũng dấu dùm,
trong nhà ai hỏi đi đâu, thì nó cứ nói đi theo cậu qua Bến-Tranh, chớ không nói
đi Nhựt-Tảo.
Ông Ðàm-tư-Chấn tình cờ tưởng cháu thiệt đi chơi, nên ông
cũng chẳng gạn hỏi cho lắm.
Thể-Phụng đi học tối ngày, hễ về đến nhà ăn ba hột cơm rồi
thì rút vào trong thơ phòng không nói chuyện với ông ngoại như khi trước nữa.
Ông Tự-Chấn tưởng cháu lo ôn nhuần kinh sử đặng chờ ngày thi, nên ông cũng
không nghi ngại chi hết.
Một bữa nọ thừa lúc ông nhiêu Khoa rảnh-rang, Thể-Phụng mới hỏi
thăm căn nguyên giặc Khôi và hỏi thăm tài lực tướng sĩ làm ngụy. Ông nhiêu Khoa
bèn tỏ thiệt đầu đuôi các việc cho Thể-Phụng nghe, nhơn dịp ấy ông lại khen ngợi
tài chánh trị của quan Tả-quân, khen trí dũng của Lê-văn-Khôi và khen sự can-đảm
của tướng sĩ bị vây trong thành Gia-Ðịnh.
Thể-Phụng hiểu rõ việc ấy lại càng kính phục cha nhiều hơn nữa.
Ban đêm chong đèn lấy sách ra đọc, chàng cứ ngồi ngó ngọn đèn
mà tưởng cha hoài.
Chàng thương cha trước vì nghĩa mà phải mang tật bịnh trọn đời,
rồi sau lại vì con mà phải chịu đớn đau hằng bữa, bởi vậy hễ nhớ tới cha thì
chàng ứa nước mắt; có khi chàng muốn dẹp hết việc học hành, để theo cha mà nuôi
dưỡng, cho cha hết cực- khổ, bớt sầu thảm quạnh-hiu. Chàng muốn như vậy mà
chàng lại nhớ những lời cha dặn, bởi vậy chàng sợ trái ý cha nên chàng không
dám bỏ học.
Bữa rằm tháng 8 lúc gần tối khi Thể-Phụng từ thầy, cặp sách
đi về nhà rồi thì ông nhiêu Khoa tiếp được một bức thơ của ông nhiêu Toại ở Nhựt-Tảo
gởi lên nói rằng Vương-thể-Hùng đau nặng, sợ e qua không khỏi, và cậy ông nhiêu
Khoa nói dùm lại cho Vương-thể-Phụng hay. Ông nhiêu Khoa lật đật sai một đứa học-trò
nhỏ cầm bức thơ lại nhà ông Ðàm-tự-Chấn mà trao cho Thể-Phụng.
Rủi thay bữa ấy Thể-Phụng đi học về gặp sắp bạn trong nhà
đương dọn ghe đi câu theo mé sông. Chàng học đã mệt trí mà lại thấy trời tốt bởi
vậy chàng ăn một chén cơm rồi đi theo ghe câu đặng hưởng trăng trong gió mát mà
giải trí một vài canh. Ghe câu mới lui một lát thì đứa học-trò đem thơ tới.
Ông Ðàm-tự-Chấn hỏi thăm mới rõ mọi việc rồi ông xin lãnh bức
thơ, ông nói dối rằng Thể-Phụng đi chơi sau vườn, để một lát trở vô ông sẽ trao
lại. Ðứa học-trò trở về, vừa mới bước ra khỏi cửa thì ông Tự-Chấn quạu mặt chau
mày nói lầm-bầm rằng:
- Quân khốn kiếp mấy năm nay tưởng đâu nó đã chết rồi, té ra
còn sống. Ta đã có giao rồi, còn nhắn nhe chi nữa. Thứ đồ đó chết đâu thì chết
phứt cho rảnh, sống thêm báo đời chớ có ích gì.
Cách đã gần 15 năm mà ông Tự-Chấn cũng chưa hết ghét Thể-Hùng.
Ông cầm bức thơ trong tay rồi leo lên võng mà nằm. Ông suy tới nghĩ lui một hồi
rồi ông nhứt định dấu bức thơ, không cho Thể-Phụng hay.
Lối nửa canh hai Thể-Phụng đi câu về. Ông Ðàm-tự-Chấn còn thức,
ông ra mở cửa cho Thể-Phụng vô, mà không nói chuyện Thể-Hùng đau.
Thể-Phụng đi ngủ, mà chẳng hiểu vì cớ nào trong lòng bứt rứt,
trong trí bưng-khuâng, bởi vậy nằm thao thức hoài ngủ không được. Chàng giận
nên ngồi dậy đốt đèn lấy sách ra mà đọc cho tới sáng.
Bữa sau Thể-Phụng sửa soạn ôm sách đi lại trường. Ông Tự-Chấn
sợ cháu lại đó ông nhiêu Khoa nói lậu việc, nên ông cản lại, biểu ở nhà đi đòi
lúa dùm cho ông. Thể-Phụng không chịu ở nhà, chàng nói rằng chàng mới làm một
bài phú để chàng đem trình cho thầy xem.
Ông Tự-Chấn liệu cản không được, mà nghĩ bây giờ cho người đi
dặn trước ông nhiêu Khoa cũng không tiện, bởi vậy ông biểu Thể-Phụng ở nhà cho
ông nói chuyện riêng một chút rồi sẽ đi. Thể-Phụng để sách trên ván đứng ngó
ông ngoại trân-trân, có ý đợi coi ông nói việc gì. Ông Tự-Chấn lặng thinh một hồi
rồi ông tằng-hắng hai ba tiếng và nói rằng:
- Thuở nay ông nói với cháu rằng cha mẹ cháu chết hết, ấy là
vì cha cháu là đứa bất tiếu, ông không muốn cho cháu nhìn nên ông nói như vậy,
chớ thiệt cha cháu còn sống.
- Việc ấy cháu biết.
Ông Tự-Chấn chưng hửng, lỏ mắt ngó thể-Phụng rồi hỏi rằng:
- Ai nói với cháu?
Thể-Phụng cũng ngó ngay ông mà đáp rằng:
- Tự nhiên cháu biết. Cha của cháu bên Nhựt-Tảo. Hôm tháng
năm cháu có đi thăm một lần rồi. Ông ghét cha cháu nên ông nói cha cháu bất hiếu,
chớ theo ý cháu thì cha cháu tuy nghèo, song thiệt là đứng anh-hùng quân tử.
Ông Tự-Chấn giận đỏ mặt, ông vùng đúng dậy trợn mắt nói rằng:
- Ông nhiêu Khoa chỉ cho mầy đó, phải hay không?
- Ai chỉ cũng được. Mà người dứt tình phụ tử của người ta mới
có tội, chớ người giúp cho phụ tử tương phùng có tội chi đâu.
- Hay! Cha chả khôn dữ! Thiệt nòi nào giống theo nòi nấy.
Nuôi nó từ nhỏ chí lớn rồi bây giờ nó muốn trở mỏ về rừng.
- Thưa ngoại sao ngoại nói như vậy, ngoại nuôi cháu cho cháu
ăn học. Ơn ấy rất nặng nào cháu dám quên bao giờ, còn cha cháu sanh cháu, ơn ấy
cũng rất nặng. Sao ngoại nỡ muốn cho cháu trọng ơn của ngoại mà phụ ơn của cha
cháu chớ?
- Cha mầy là cái quân khốn kiếp. Nó theo côn đồ cướp đảng, nó
báo hại cho mẹ mầy chết. Tao với mầy đó, thiếu chút nữa cũng bị chết chém. Thứ
đồ như vậy còn nhìn nó làm cái gì?
- Cha cháu tánh tình cao thượng, chớ không phải như lời ngoại
mới nói đó đâu! Bây giờ cháu biết phân biệt phải quấy rồi. Xin ngoại đừng có mắng
nhiếc cha cháu như vậy, tội nghiệp cho cháu lắm. Nói cùng mà nghe, ví dầu cha
cháu có bất hiếu cho mấy đi nữa. Ấy cũng là đấng tạo hoá của cháu. Có lẽ nào
cháu dám khinh bạc đó ngoại.
- Thôi! Ðừng có nhiều chuyện nữa. Tao biết rồi, cha mầy nó
xúi mầy chưởi tao đó! Hứ! Cái thứ đồ bạc, phải tao dè như vậy đó thì thuở nay
tao để cơm cho chó nó ăn còn có ơn.
Ông Tự Chấn nói mấy lời rồi ngoe ngoảy bỏ ra sau vườn mà sắc
giận lộ ra ngoài mặt đỏ au.
Thế Phụng có dịp tỏ ý kính trọng cha được thì chàng đắc ý ôm
sách đi học mà chẳng có dấu chi ăn năn những lời đối đáp với ngoại hồi nãy đó hết.
Khi Thể Phụng bước vô nhà trường ông Khoa ngó thấy liền hỏi:
- Ủa! Cháu chưa đi hay sao?
- Thưa đi đâu?
- Hồi chiều hôm qua thầy biểu bầy trẻ đem thơ của anh Nhiêu
Toại cho cháu coi. Vậy cháu không có đọc cái thơ đó hay sao?
- Thưa, cháu đâu có thấy thơ từ gì đâu? Ðưa cho ai?
- Ông ngoại cháu lấy thơ nói rồi trao lại cho cháu mà!
- Thơ không có, thơ nói việc chi?
- Anh Nhiêu Toại nói cha cháu đau nặng lắm, nên cậy viết thơ
nhắn cháu qua cho mau mau.
- Trời đất ơi! Vậy mà ông ngoại tôi đành dấu thơ chớ! Hèn
chi…
Thể Phụng vừa nói vừa khóc, nước mắt nước mũi chàm ngoàm.
Chàng bối rối trong lòng, không biết liệu làm sao đi qua Nhật
Tảo cho mau được. Chàng dụ dự một hồi rồi trình với thầy mà về. Chàng bước vô
nhà thì thấy ông ngoại với dì đang nói chuyện. Vừa thấy dạng chàng bước vô thì
nín hết nên chàng không hiểu nói việc gì. Chàng đặt sách rồi thưa lại với ông
ngoại rằng:
- Thưa ngoại cháu mới hay tin cha cháu đau nặng, nhắn cháu
qua cho mau đặng cha con thấy mặt nhau lần chót. Vậy cháu xin ngoại cho cháu đi
ít bữa mà thăm coi cha cháu đau bịnh gì.
- Há, Thể Phụng à, cháu dại quá, ngoại nghĩ vì cha cháu là đứa
hoang đàng, khi mẹ cháu còn nó không lo làm ăn mà lại tụ đảng với quân bất
lương mà làm ngụy nữa.
- Thưa ngoại, cháu biết hết rồi. Tánh tình của cha cháu…
- Ậy, để ngoại nói hết cho mà nghe. Cha cháu sanh tâm theo
quân ngụy, may đó! Không thì bà con dòng họ chết hết rồi còn gì! Ngoại sợ cháu
dại, cháu theo cha cháu rồi tập cái tánh ngang tàng đó mà mang hại nên ngoại
dành cháu lại ngoại nuôi. Cha cháu nó cũng bằng lòng bỏ cháu mà. Thuở nay cháu
có thấy nó lui tới lần nào không? Cha con như vậy có tình nghĩa gì mà thương.
Tuy vậy mà chiều hôm qua ngoại được thơ nói nó đau nặng, ngoại tính dọ lại coi,
hễ nó thiệt đau nhiều thì ngoại cho cháu hay để cháu đi thăm. Chớ phải ngoại hẹp
hòi gì hay sao! Hồi sớm ngoại mới nói, cháu mắng ngoại thật là bậy lắm nghe!
Thể Phụng nghĩ giây lâu rồi đáp:
- Thưa ngoại cháu nghe cha cháu đau nặng cháu nóng lòng lắm,
vậy xin ngoại cho cháu đi liền bây giờ đi nghe!
- Ði đâu mà gấp vậy! Ðể ngoại sai bầy trẻ qua coi như thiệt
nó đau rồi hẳn đi.
- Thưa ngoại cháu gặp cha cháu hôm tháng năm, cha cháu có rầy
biểu cháu đừng có tới lui, ngoại hay ngoại buồn. Song chừng ra về cha cháu có dặn
rầng "Cha cháu năm nay yếu lắm. Vậy hễ ngày nào đau nặng thì cha cháu cho
hay để qua mau mau." Vậy xin ngoại để cho cháu đi, nếu cha cháu không đau
nhiều thì hổng nhắn cháu bao giờ đâu.
Ông Tự Chấn ngồi lâu không trả lời. Ðàm Kim Huê mới rước mà
nói:
- Nó nói như vậy thôi cha để cho nó đi đi cha!
- Cháu sửa soạn rồi biểu bầy trẻ chèo cho mà đi.
Thế Phụng vội vả đi thay áo và muốn đi cho mau nên biểu hai
tên gia đinh bơi xuồng mà đưa chớ không chịu đi ghe lớn. Lúc ra đi thì Kim Huê
lén cho một quan tiền và nói:
- Dì gởi một quan tiền cho dượng ba uống thuốc nghe. Cháu
thăm rồi về mau mau cho dì hay kẻo dì trông, nghe cháu.
Thế Phụng qua tới Nhật Tảo thì mặt trời đã xế bóng rồi, vừa
ghé bến thì chàng nhảy phốc lên, ngó trong nhà thì thấy nhà im lìm, chàng bươn
bả đi vô. Thình lình bà Tư Tùng trong nhà chun ra lấy tay che mắt ngó chàng và
hỏi:
- Ai đó, cậu Thể Phụng phải không vậy?
Thể Phụng không biết là ai nên đứng lại mà đáp:
- Phải! Tôi là thể Phụng đây. Sao bà biết tôi vậy?
- Cha Chả, cậu qua sao mà trể quá vậy!
- Cha tôi bịnh sao đó bà?
- Hứ! Còn đâu mà hỏi nữa, cậu ơi! Tắt hơi hồi nửa buổi sớm
mơi rồi.
Thể Phụng nghe nói hồn siêu phách lạc. Chàng chạy a vô nhà,
thấy trên một cái võng có một người nằm chiếu phủ xùm xề, bèn dỡ chiếu ra thấy
cha nằm ngửa mắt nhắm thiêm thiếp như ngủ thì thò tay ôm cha mà khóc rống lên,
nghe rất thảm thiết. Bà Tư Tùng đứng một bên thấy vậy cũng động lòng. Thể Phụng
khóc một hồi rồi day lại hỏi bà rằng:
- Thưa bà, cha tôi bịnh bữa nào, rồi chết hồi nào vậy vậy bà?
- Mấy tháng nay chú bịnh hoài mà chú cũng ráng đi câu đi lưới
được, mới bốn bữa rày chú đi hổng nỗi nữa. Tôi ở gần thấy chú đau có một mình
chú muốn bịnh tôi phải chạy đi chạy lại nấu cháo cho chú ăn. Hồi khuya nầy tôi
lại thăm thì chú còn tỉnh. Chú trông cậu quá. Hồi sáng cứ biểu tôi ra ngoài bến
mà coi chiếc ghe của cậu hoài. Tới chừng mặt trời mọc chú làm xung, tôi tưởng
đã không xong rồi. Ai dè chú còn nuối [10] cậu nên một lát rồi chú khoẻ lại,
ông Nhiêu có lại thăm, chú mượn viết mực rồi ráng ngồi dậy viết giống gì ở
trong miếng giấy gì đây hổng biết nữa, rồi biểu tôi cất. Chừng nào cậu có qua
thì đưa cho cậu. Ông Nhiêu cũng còn ngồi chơi đó tới nửa buổi chú mới tắt hơi.
- Cha tôi viết làm sao đâu? Bà cho tôi coi một chút được hôn
bà?
Bà Tư Phùng mò trong lưng quần lấy ra một miếng giấy cuộn
tròn bằng ngón tay cái mà đưa cho Thể Phùng. Thể Phụng mở ra thì thấy có mấy
hàng chữ nôm như vầy:
“Con ơi, mạng của cha đã hết rồi!
Cha muốn thấy mặt con một lần chót rồi cha sẽ nhắm mắt mà
trông con hổng được.
Thôi cha chết, cha chẳng có điều chi mà dặn con, chỉ khuyên
con ở đời phải trọng nghĩa khinh tài và xin con, con hễ gặp Ðỗ Cẩm thì đền ơn
cho cha. Vì năm trước cha nhờ người ấy cứu cha nên cha mới còn sống đến ngày
nay mà được thấy mặt con.
Cha chết mà cha không ăn năn việc gì hết, duy chỉ có buồn về
sự cha làm cho mẹ con sầu não ngày trước đó mà thôi.
Gia định thành, Chánh Vệ Úy Vương Thể Hùng.”
Thể Phụng đọc bức thơ di ngôn rồi chàng khóc một hồi nữa,
chàng xếp bức thơ rất kỹ lưỡng rồi bỏ vào túi rồi chàng hỏi bà Tư Tùng rằng:
- Thưa bà, bà có nghe cha tôi trối lời chi nữa hay không,
thưa bà?
- Hổng có.
- Gần đây có ai bán hòm không vậy?
- Có, ở ngoài nhà có bán, mà ông Nhiêu đã đi mua rồi. Ổng đi
từ hồi trưa chắc ổng gần về rồi. Kìa, kìa ổng về tới kìa.
Thể Phụng ngó ra sân thì thấy ông Nhiêu Toại đi vô rồi bước
ra làm lễ ông rồi hai người nói chuyện với nhau.
Ổng cũng nói Thể Hùng trông đợi cũng như bà Tư Phùng nói lúc
nãy.
Còn chàng tỏ cho ông biết vì cớ nào mà chàng tới trễ. Thế Phụng
lấy một quan tiền của dì gởi cho mà lo đám tang cha.
Hôm sau chôn cất xong rồi Thế Phụng mới tạ từ Nhiêu Toại với
bà Tư Tùng mà về.
Lúc bước xuống xuồng thì mưa dầm dề. Ðến dọc đường chàng
nghĩ, nếu ông ngoại khi được thơ cho chàng biết ngay, chàng đi liền nội đêm đó
thì cha con còn thấy mặt nhau một lần nữa được.
Tại ông dấu thơ nên cha gìa chết mà không thấy được mặt
chàng.
Chàng nghĩ tới chuyện đó thì chàng buồn ông ngoại lắm.
Tuy vậy mà về đến nhà Thể-Phụng buồn mà thôi chớ không tỏ dấu
chi phiền ông.
Ðàm-tự-Chấn với Ðàm-kim-Huê thấy Thể-Phụng mặc đồ tang-phục
thì biết Thể-Hùng đã chết rồi, nhưng mà Kim-Huê hỏi thăm chớ Tự-Chấn không thèm
hỏi đến.
Thể-Phụng đêm ngày thương tiếc cha nên nằm trong buồng mà
khóc hoài.
Chàng hết muốn học mà đi thi nữa, nghĩ vì tưởng cha còn sống
ráng lập công danh đặng nuôi dưỡng cha và làm vinh hiển cho cha. Hôm nay mẹ cha
không có, thì dầu có thi đậu ông nghè ông cống, dầu làm quan tới nhứt phẩm đi nữa,
nghĩ cũng không vui-vẻ chi.
Chàng dọn trong buồng một cái bàn để thờ cha.
Chàng căng bức thơ di-ngôn của cha mà treo ở giữa, còn hai
bên có kềm hai bài vị, bên tả thì bài vị biên như vầy:
“GIA-ÐỊNH THÀNH ÐẠI NGUYÊN SOÁI LÊ-VĂN-KHÔI"
Còn bên hữu thì bài vị biên như vầy:
“GIA-ÐỊNH THÀNH CHÁNH VỆ-ÚY VƯƠNG-THỂ-HÙNG.”
Ðêm ngày chàng đốt đèn đốt nhang mà khẩn cầu cho vong hồn cha
được âm cảnh tiêu diêu, mà mỗi lần chàng vái cha thì chàng cũng không quên mẹ.
Chàng ước nguyện sẽ tận tâm tận lực mà học đòi chí cao-thượng, tập theo thói
trong sạch của cha mà ở đời, nghĩ vì nghèo mà không hổ với lương tâm, hèn mà
không thẹn với non nước, dường ấy thì quí báu hơn giàu mà bất nhơn, sang mà bất
nghĩa.
Chàng cứ bàng-hoàng tư lự hoài, thất chí ngã lòng, không cần
cố việc bút nghiên đèn sách như trước kia nữa.
Một bữa nọ lúc nửa chiều, Thể-Phụng buồn nên bước ra ngoài đường
rồi thơ thẩn đi dọc theo mé sông mà suy nghĩ việc đời.
Ông Ðàm-tự-Chấn thấy cháu từ khi đi Nhựt-Tảo về đến nay, ngày
như đêm cứ lờ-đờ lững-đững, không lo đèn sách nữa thì ông lấy làm bất-bình. Ông
chắc tại Thể-Hùng nói với Thể-Phụng chuyện gì đó, nên chàng mới đổi tánh nết
như vậy.
Tuy ông không nói ra song trong lòng ông giận Thể-Hùng lắm.
Ðã vậy mà ông thấy Thể-Phụng cứ lục đục ở trong buồng hoài,
thì ông sanh nghi, muốn vô coi chàng làm việc gì, ngặt có chàng ở đó hoài ông
vô không đặng.
Hôm nay ông thừa dịp chàng đi ra ngoài, ông mới bước vô buồng.
Ông dòm thấy cái bàn thờ, ông đọc hai bài vị với bức thơ di-ngôn, thì ông giận
run; ông thò tay giựt hai bài vị với bức thơ rồi ông co giò đạp bàn thơ ngã lăn
cù, nhang đèn đổ dưới đất hết thảy.
Ông bước ra ngoài rồi lại bộ ván giữa mà ngồi, tay còn cầm 2
bài vị với bức thơ, mà ông giận quá nên môi tái xanh, tay chơn run bây-bẩy.
Lúc ấy Thể-Phụng lại trở về, chàng vừa bước vô cửa, ông đương
giận nên ông mắng om-sòm rằng:
- Vô đây, con ông Chánh Vệ-Úy, vô đây. Mầy tôn trọng quân đó
lắm há! Nếu vậy thì mầy cũng một phồn với quân đó rồi. Mầy phải ra khỏi nhà tao
cho mau, tao không cho ở một lát nào nữa. Ra cho khỏi nhà tao rồi mầy muốn thờ
ai mầy thờ. Ði, đi cho mau! Chánh Vệ-Úy gì! Ðại Nguyên-Soái gì! Quân đó là đồ
chó má, mầy sùng bái há!
Ông nói dứt lời thì ông vò xé hai bài vị với bức thơ di-ngôn
của Thể-Hùng, rồi ông chà dưới đít trước mặt Thể-Phụng.
Thể-Phụng tức giận, chàng đứng lỏ mắt ngó ông ngoại mà vì
chàng không dám mắng lại ông, nên chàng cuồng trí vùng la lớn rằng:
- Vậy chớ họ đó lại hay gì lắm hay sao mà ông sùng bái.
Ông Ðàm-tự-Chấn đã giận, mà thấy cháu vô lễ và nghịch ý, thì
ông càng giận thêm nữa, nên ông giựt cây chổi để trên ván rồi rượt mà đập lên đầu
Thể-Phụng và mắng rằng:
- Ðồ phản nghịch, đồ ngụy Khôi đầu thai, mầy phải ra khỏi nhà
tao cho mau. Tao đố mầy làm sao mà khỏi chết đâm chết chém như thằng cha mầy
đó.
Thể-Phụng chạy vô buồng, ngó thấy bàn thờ cha ngã ngang, hai
bài vị xé mất, mà bức thơ di ngôn của cha cũng không còn, chàng mới hiểu mấy tờ
giấy ông xé chà dưới đít hồi nãy là giấy ấy, bởi vậy chàng càng đau đớn mà lại
càng tức-tủi trong lòng. Chàng không còn kể chi nữa hết, chàng bỏ trở ra cửa mà
đi, không thèm lấy một vật chi, mà cũng không thèm nói một tiếng chi.
Chàng đi khỏi nhà đã xa rồi mà ông cũng còn ngồi tại bộ ván
giữa chưởi mắng Lê-văn-Khôi với Vương-thể-Hùng om-sòm.
oOo
Ông Ðàm-tự-Chấn giận Thể-Phụng đến nỗi ông ăn ngủ không được.
Ông dặn hết thảy những người ở trong nhà, hễ thấy Thể-Phụng về
thì phải đuổi, đừng cho chàng vô.
Ông lại cấm nhặt, từ Kim-Huê cho đến tôi tớ hết thảy, không
ai được nói tới tên Thể-Phụng, nếu ai chẳng tuân lời thì ông sẽ đập chết.
Tuy ông giận, nên ông dặn như vậy, ông cấm như vậy, nhưng mà
Thể-Phụng đi rồi, thì ông buồn bực, ông cứ chau mày xụ mặt hoài. Ông đi thăm ruộng
hoặc đi dạo vườn thì thôi, mà hễ ông về nhà thì ông quạu-quọ, nội nhà ông thấy
mặt ai ông rầy nấy, việc quấy ông rầy mà việc phải ông cũng rầy, dường như ông
oán hết thảy cả nhà, sao ông giận ông đuổi Thể-Phụng mà không ai chịu kiếm chàng
đem về, lại bắt chước ông mà giận luôn chàng nữa.
Có lẽ ý ông thì giận như vậy, mà vì ông cấm nhặt nên có ai
dám hở môi, thậm chí Kim-Huê thuở nay hay cãi lẽ với ông, mà trong việc nầy
nàng thấy ông giận quá nên nàng cũng không dám nói.
Còn Thể-Phụng, chàng ra khỏi nhà rồi chàng xăm-xăm đi riết lại
nhà ông nhiêu Khoa mà thuật chuyện ông ngoại mắng chưởi vong hồn của cha mình lại
cho ông nhiêu nghe. Ông Nhiêu nghe rõ rồi ông nói rằng:
- Mấy ông già tánh họ chơn chất, họ không chịu dời đổi, sao
cháu không nhịn, lại đi làm mích lòng ông chi vậy?
- Thưa thầy, ví như cháu ăn ở đời mà cháu có làm đều chi quấy,
hoặc cháu có ở vô lễ hay là bất nghĩa với ông ngoại cháu thì ông ngoại cháu
đánh chửi mà sửa trị cháu, dường ấy cháu càng cảm ơn đức, cháu đâu dám phiền
hà.
Ngặt vì cháu không làm đều chi quấy, cháu chỉ muốn báo hiếu
cho cha mà thôi, mà ông ngoại cháu không thương, lại sỉ nhục vong hồn của cha
cháu, thì cháu còn ở đó nữa mà làm chi.
Xin thầy xét đó mà coi, tình cha con mà ông ngoại cháu đành dứt,
ngày trước lấy thế lực tiền tài mà ép cho cha cháu phải lìa cháu đi, sau nầy
còn nhẫn tâm dấu thơ đặng cho cha cháu nhắm mắt đừng thấy mặt cháu được, bao
nhiêu đó thì đã đủ cho cháu phiền rồi. Nhưng mà cháu nghĩ công ơn ông ngoại
cháu nuôi cháu từ nhỏ chí lớn, nên cháu ép mình ở mà đền đáp ơn nghĩa cho tròn.
Sự nghiệp của cha cháu để lại cho cháu chỉ có mấy hàng chữ là
dấu tích mà thôi, mà ông ngoại cháu lại lấy xé mà chùi đít, rồi người đã chết rồi
mà còn kêu tên mà mắng chửi, thế thì thà cháu mang tiếng bạc ơn, chớ cháu không
để mang tiếng bất hiếu được.
- Bây giờ cháu tính sao đây?
- Thưa, ông ngoại đuổi cháu thì cháu đi, mà dầu không đuổi,
cháu ở nữa cũng không được.
- Cháu tính như vậy thì quấy lắm. Cháu đi đâu?
- Thưa, đi đâu cũng đặng, đất sáu tỉnh nầy rộng lắm có lẽ nào
không có chỗ cho cháu dung thân hay sao.
- Cháu tính như vậy rồi làm sao mà đi thi?
- Thôi, thi cử mà làm chi. Cha mẹ cháu chết hết rồi, thân
cháu còn kể chi nữa mà lo công danh.
- Cháu tính như vậy thì uổng công cháu ăn học quá.
- Thưa, không uổng. Cháu học được bao nhiêu thì có ích cho
cháu bấy nhiêu, chớ uổng là sao?
- Còn gia tài của ông ngoại cháu đây, cháu đi rồi cháu bỏ cho
ai ăn?
- Thưa, cháu có lòng dạ nào mà hưởng gia tài đó. Cháu nghĩ
cháu oán cái gia tài đó lắm, vì nó mà cha cháu phải chịu thương thầm thăm trộm
cháu mười mấy năm nay, vì nó mà cháu chịu thất hiếu với cha, vì nó mà cha cháu
chết không thấy mặt cháu được. Gia tài như vậy mà cháu hưởng sao đành!
- Những lời cháu nói với thầy nãy giờ đó thầy nghe phải hết
thảy. Nhưng mà cháu phải xét lại đều nầy -- mấy việc mà ông ngoại cháu làm cho
cháu phiền đó, ấy là vì ông thương cháu, ông muốn cho cháu như ông, ông muốn
cho trong trí cháu tưởng có một mình ông mà thôi, đừng có tưởng ai khác nữa, chớ
không phải ông ghét bỏ chi cháu đâu. Còn sự ông ghét cha cháu đó, là tại hai
đàng tánh tình khác nhau, nhứt là tại ông là người kính phục pháp luật triều-đình,
mà cha cháu lại nghịch hẳn với chỗ ông kính trọng nên ông ghét, chớ không phải
ông có ý chi khác.
Thể-Phụng ngồi ngẫn-nghĩ một hồi lâu rồi thở ra.
Ông nhiêu Khoa tưởng ông nói như vậy chàng xiêu lòng, nên ông
khuyên lơn chàng trở về lo ôn nhuần kinh sử đặng đến kỳ thi mà lập công danh,
chẳng dè chàng quyết chí không chịu về, mà cũng không thèm lo thi cử chi nữa.
Ðến trưa có ghe đi qua Nhựt-Tảo, Thể-Phụng xin quá giang tính
qua viếng mồ cha ít ngày rồi sẽ đi kiếm chỗ làm ăn.
Qua đến nơi. Chàng thấy nhà cửa còn y nguyên, duy có chiếc xuồng
bà tư Tùng đem về đậu ngay bến của bà mà thôi. Chàng bước vô nhà, thấy chỗ cha
nằm ngồi hồi trước, thì chàng động lòng, nên nước mắt tuôn dầm-dề.
Ban đầu chàng không tính qua ở đây bao giờ, mà qua đến đây
chàng thấy cảnh như vậy, chàng lại quyết ở đây, chớ không tính đi đâu nữa.
Chàng kế nghiệp cha, cũng đi câu tôm câu cá đem mấy xóm gần đổi
gạo mà ăn. Chàng lo đấp mồ mả của cha cao-ráo, rồi lo sửa nhà cửa lại cho gọn-gàng.
Chàng dọn bàn thờ rồi cũng viết 2 bài vị để mà thờ, còn bức
thơ di-ngôn duy đã mất rồi, song chàng nhớ thuộc lòng hết, nên chàng viết lại rồi
cũng treo dựa bên bài vị.
Bữa nào rảnh rang thì chàng lại nhà ông nhiêu Toại mà đàm luận
thế sự, hoặc rèn tập phú thi. Ông nhiêu biết chí của chàng cao, thấy văn của
chàng nhã, thì ông khen mà lại tiếc cho chàng lắm.
Thể-Phụng ở Nhựt-Tảo được vài tháng, bữa nọ có hai tên
gia-đinh của ông ngoại chở qua 100 quan tiền mà nói rằng Ðàm-kim-Huê lén ông biểu
chở tiền châu cấp cho chàng ăn học.
Thể-Phụng thấy dì có lòng thương tưởng thì chàng cảm động,
nhưng mà chàng cố từ không chịu lấy, biểu gia-đinh về thưa với dì rằng mình có
đủ tiền dùng.
Chàng cư tang báo hiếu cho cha, tấm thân tuy cực khổ, song
lòng dạ bớt đeo sầu.
Có khi chàng nhớ tới phận ông ngoại hiu-quạnh chàng thương,
nhưng mà thương thì thương chớ chẳng bao giờ chàng tính trở về mà ở với ông nữa.
Khi mãn tang rồi chàng cũng không tính đi đâu hết, quyết mai
một cái mạng bạc trong xứ Nhựt-Tảo nầy, đặng khỏi nếm thế thái đắng cay, khỏi
thấy nhơn tình ấm lạnh.
Vì ông nhiêu Toại tiếc văn hay của chàng, ông cứ theo khuyên
chàng phải lo thi cử hoài, bởi vậy chàng nghe lời, nên năm Canh-Tuất (1850), nhằm
Tự-Ðức tam niên, chàng mới từ biệt mồ mả của cha mà đi du học.
Thể-Phụng qua Ðịnh-Tường, nghe quan Bố-Chánh đương cần dùng một
người làm đề lại, chàng bèn đến xin mà làm.
Quan Bố-Chánh xem tướng, thấy bộ chàng đoan-trang, thử tài,
thấy văn chàng tao nhã, nên ngài liền nạp dụng.
Thể-Phụng làm ít ngày, quan Bố-Chánh càng thấy tài càng thêm
yêu, càng biết nết càng thêm mến.
Từ đây Thể-Phụng được yên ổn tấm thân, ban đêm chàng mới lo đọc
sách, đặng chờ khoa thi năm Tý.
Chú thích :
[10] những biểu hiện mong ngóng, chờ đợi
Hết quyển thứ năm
CHƯƠNG 19 - QUYỂN THỨ VI - ÂN TÌNH VẸN VẺ
L
ối nửa chiều, nắng ui-ui chớ không gắt, mây mỏng mỏng đóng từ
chùm.
Dưới sông nước lớn chảy lờ-đờ, trên vườn gió quật nhành quằn-quại.
Từ ngày Vương-thể-Phụng làm đề-lại tại nhà quan Bố-Chánh Ðịnh-Tường
thì chàng ở đậu nhà bà hai Tiền, là một bà già không chồng không con, ở dựa mé
rạch Vĩnh-Tường.
Hôm nay trong nhà rảnh việc, chàng về sớm, nên thủng-thẳng đi
theo mé rạch mà hứng mát.
Chàng thơ-thẩn trên bờ dừa, khi cúi nhìn dòng nước chảy trong
veo, khi ngước coi bầy sóc chuyền rần-rật.
Cảnh hữu tình hữu thú, chàng đương vui với cảnh, bỗng đâu lại
thấy có một chiếc xuồng nhỏ buột dựa mé rạch, chàng bèn hỏi mà mượn, rồi bước
xuống xuồng bơi mà đi chơi.
Trời mát, nước trong, cảnh vui, thuyền nhẹ khiến cho người
nhàn du thơ-thới trong lòng.
Thể-Phụng bơi vài cái, rồi ngơi dầm mà nhắm cảnh, ngó hai bên
thì thấy dừa dành với cau phơi lá, nhà núp dưới bóng im-lìm. Chàng đi được hơn
một khúc sông, bỗng thấy dựa gốc cây dừa quằn de [1] trên mặt nước, có một nàng
thiếu nữ, tuổi chừng lối đôi mươi, tướng mạo đoan-trang, mặt mày sáng rỡ, đương
ngồi cầm cần cau mà câu cá. Phía sau lưng nàng ấy, cách chỗ nàng ngồi chừng mười
bước, lại thấy có một ông già không có râu, tóc cụt mà đã bạc trắng, bộ tịch rất
hầm-hừ, ông chấp tay sau đít ngó nàng lom-lom, dường như ông đứng giữ-gìn, hoặc
sợ nàng té nhào xuống sông, hoặc sợ kẻ gian áp bắt trộm.
Thể-Phụng thấy người con gái dung nhan tuấn tú, thuở nay chưa
từng gặp gái nào đẹp bằng, bởi vậy chàng đã bơi xuồng qua khỏi rồi, mà còn quay
đầu lại mà dòm. Ông già thấy cử chỉ của chàng như vậy, chắc là ông không vừa
lòng, nên ông lỏ mắt ngó lườm-lườm. Thể-Phụng hiểu ý ông nên chàng chúm-chím cười
rồi bơi xuồng đi tuốt không dám ngó lại nữa. Chàng thả trôi xuồng theo dòng nước
mà ngắm cảnh thì cảnh không vui như hồi nãy nữa, trí chàng cứ tưởng tượng hình
dạng của người con gái ấy hoài. Chàng bèn quày xuồng bơi trở về, có ý muốn thấy
mặt người xinh đẹp một lần nữa cho rõ ràng, chẳng dè xuồng của chàng chưa tới,
thì người con gái ấy đã đứng dậy vác cần câu đi vô nhà, ông già cũng đi theo, bởi
vậy chàng đi tới thì chỉ còn cái gốc dừa quằn trơ-trơ chớ chẳng thấy ai nữa hết.
Thể-Phụng về nhà thì thiệt không chú ý đến việc mình gặp gỡ hồi
chiều cho lắm.
Nhưng mà tối lại, bà hai Tiền ngủ rồi, chàng dỡ sách ra mà đọc,
thì trí bàng-hoàng, lòng khoan-khoái, tuy lòng không muốn tưởng mà trí cứ tưởng
người mỹ-nữ ngồi câu dựa gốc dừa đó hoài.
Qua ngày sau, chàng trông cho mau tới chiều đặng có mượn xuồng
mà đi ngang qua nơi kỳ ngộ, hoặc may có thấy mặt người ngọc nữa chăng. Chẳng dè
chiều bữa sau trời mưa dầm-dề, làm cho chàng phải ép mình mà ở nhà, nghĩ vì trời
như vậy không lẽ người ta ngồi câu được mà mình đi cho thất công.
Từ ấy về sau, chiều bữa nào trời tốt chàng cũng đi, nhưng mà
đi thì ngó gốc cây dừa quằn rồi trở về, chớ không thấy mỹ-nữ ngồi câu nữa.
Có một bữa chàng bơi xuồng đi qua, chàng thấy ông già đương đứng
dựa cửa mà ngó xuống rạch.
Chàng muốn ghé lại hỏi thăm đặng làm quen, mà rồi chàng nghĩ,
nếu ghé thì biết nói chuyện gì, lại chàng nhớ bộ tướng ông già hầm-hừ, bởi vậy
chàng dụ-dự rồi đi luôn không dám ghé.
Một đêm nọ chàng ngồi đọc sách, mà trong lòng bưng-khuâng hơn
các bữa khác.
Ðến nửa canh hai, chàng xếp sách lại rồi bước đi ra ngoài đường.
Trên trời mảnh trăng khuyết bị mây án lu-lu; dưới đất tàu dừa che nên chỗ mờ chỗ
tỏ. Thể-Phụng đi thơ-thẩn trên bờ dừa, nhà ở theo đường đều ngủ im lìm. Chàng
đi một khúc xa-xa bỗng thấy có một cái chòi lá, cột xiêu, vách rách, mà trong
chòi thì chong đèn leo lét và có hai ba người đi qua đi lại nói chuyện rầm rì.
Chàng dòm xuống mé rạch lại thấy có một chiếc ghe lườn đương đậu ngay cái chòi ấy.
Chàng bước tới chừng vài chục bước, chàng lại thấy có một
khúc cây khô ai để dựa gốc cây dừa lùn.
Chàng bèn ngồi ghé trên khúc cây ấy mà nghỉ chơn. Chàng đương
suy nghĩ không biết ai mà hỏi người mỹ-nữ mình thấy hôm nọ là con của ai, có chồng
hay chưa, niên canh được bao nhiêu tuổi.
Thình-lình mấy người ở trong chòi lá đi ra, hai người đàn ông
đi trước, một người đàn bà đi sau.
Hai người đàn ông mỗi người đều có cầm một vật trong tay,
song trời tối nên không rõ cầm cây hay là dao mác chi đó.
Hai người đàn ông nhảy xuống chiếc ghe lườn rồi một người gay
chèo [2], còn một người lo nhổ sào. Người đàn bà đứng trên bờ nói rằng:
- Thằng cha đó bộ dữ lắm. Hai người làm lại nó hay không?
Thôi để kêu thêm vài người nữa rồi khắc sẽ đi.
Người đương gay chèo đó đáp rằng:
- Nó giỏi tao cho nó một mác đứt đầu, đặng cho nó giỏi.
- Trong nhà có mấy người?
- Có một mình nó với con Thu-Vân.
- Có nhà nào ở gần đó hôn?
- Có. Mà hại gì.
- Nhà ở chỗ nào đâu?
- Ở trong kia, mà phía sông bển. Chỗ cây dừa quằn đó.
Hai người đàn ông xô ghe ra rồi chèo đi vô phía trong ngọn.
Người đàn bà xây lưng trở vô chòi.
Tuy những lời nói của bọn nây nói với nhau không được rõ cho
lắm, nhưng mà chúng nó bàn soạn đi lại chỗ cây dừa quằn, đặng làm dữ với một
người ở chỗ đó với con Thu-Vân, chớ không có người nào khác trong nhà; bởi vậy
Thể-Phụng nghe rồi trong lòng phát nghi, sợ e bọn nầy toan mưu làm hại ông già
với nàng mỹ-nữ mình đương chủ ý đó.
Chàng ngồi im-lìm coi chừng người đàn bà đã vô chòi rồi,
chàng mới đứng dây bươn-bả đi về nhà. Chàng xuống chiếc xuồng chàng hay mượn mà
đi chơi đó, rồi bơi riết theo chiếc ghe lườn hồi nãy, tay thì bơi, mà trí thì
suy nghĩ, không biết nàng mỹ-nữ mình gặp hôm nọ có phải tên là Thu-Vân hay
không.
Chàng bơi dọc theo mé, dường như có ý đi lén không muốn cho
ai thấy.
Khi gần tới cây dừa quằn, chàng ngơi dầm rồi chong mắt mà
dòm.
Chàng thấy quả có chiếc ghe lườn đậu tại đó. Chàng tính rình
coi cho biết bọn đi chiếc ghe lườn muốn làm sự gì, chàng lén ghé xuồng vô một
cái ụ đàng xa, rồi nhảy lên bờ, tay cầm cây dầm, sẻ lén đi qua nhà ông già thấy
hôm nọ.
Chàng vừa đi tới thì nghe có tiếng người đứng ngoài đường kêu
cửa.
Chàng mới núp ngoài hàng rào rình nghe coi động tịnh thế nào.
Chàng dòm xuống mé rạch thì thấy chiếc ghe lườn đậu đó không có ai ở dưới ghe.
Chàng vạch rào ngó vô sân thì thấy dạng có hai người đương đứng đó.
Trong nhà đốt đèn rồi ông già mở cửa bước ra hỏi rằng:
- Ai đó? Làm giống gì mà kêu cửa chừng nầy?
Hai người ở ngoài xốc-xốc đi vô, người đi trước đáp rằng:
- Tôi mà. Tôi ghé thăm con Thu-Vân.
Thể-Phụng ngó thấy hai người lấn ông già mà vô nhà; ông già đứng
giữa cửa, muốn cản mà cản không kịp, nên ông cũng xây lưng mà bước vô nhà.
Thể-Phụng muốn thấy cho rõ bọn ây toan làm việc gì, nên chàng
quên sự nguy-hiểm, tay cầm cây dầm, chạy a vô sân rồi đứng nép tại đầu xông bên
tả mà rình. May nhờ tấm vách xông dừng không kín, nên chàng đứng ngoài mà ngó
thấy trong nhà rõ ràng. Chàng thấy hai đứa mới vào nhà đó mặt mày hung ác, mà
chàng coi kỹ lại thì đứa lớn râu rìa, mặt thỏn, chừng một tháng nay nó vô ra
trong dinh quan Bố-Chánh hai ba lần, lại lần nào nó vô nó còn nói chuyện xầm-xì
với quan lớn, mà hễ nó đi rồi thì coi bộ quan lớn không được vui.
Ông già nheo mắt nhìn hai người lạ ấy rồi hỏi rằng:
- Hai chú ở đâu lại? Ðến nhà tôi có việc gì?
Người râu rìa mặt thỏn đáp rằng:
- Ông quên tôi hay sao? Tôi là cha nuôi của con Thu-Vân đây.
- Ờ, ợ! Té ra chú là Ðỗ-Cẩm há?
- Phải. Tôi là Ðỗ-Cẩm.
Vương-thể-Phụng đứng ngoài nghe người ấy xưng tên là Ðỗ-Cẩm,
chàng sực nhớ lời của cha trối rằng người ấy là ân-nhơn của cha, hễ gặp thì phải
lo đền ơn đáp nghĩa thế cho cha, bởi vậy chàng ngơ-ngẩn trong lòng, không biết
liệu lẽ nào.
Người nầy thiệt là Ðỗ-Cẩm.
Còn ông già chủ nhà đây cũng thiệt quả là Lê-văn-Ðó.
Trong 10 năm nay hai người nầy đi đâu, làm việc gì, mà ngày
nay sao lại gặp nhau?
Số là năm Canh-Tỵ (1840 - nhằm Minh-Mạng nhị thập nhứt niên)
Lê-văn-Ðó đi với ông sáu Thới lên Vũng-Gù chuộc con Thu-Vân rồi, ông mới tìm kiếm
chỗ nương náu, trước được an ổn tấm thân đặng lo nuôi dưỡng Thu-Vân cho tới
khôn lớn, sau nữa có người hay chữ dạy con Thu-Vân học, đặng cho nó biết lễ
nghi, thông kinh sử, theo như lời ông đã hứa với nàng Ánh-Nguyệt năm xưa.
Ông lên vàm Kỳ-Hôn, tìm đến chùa Bình-An-Tự, ông vào bạch dối
với ông Hòa-Thượng rằng Thu-Vân là con nhà giàu sang, rủi cha mẹ khuất sớm, nên
không ai bảo bọc. Ông là tôi tớ trong nhà, khi cha của Thu-Vân gần chết, không
biết ai mà gởi gấm con, nên giao nó cho ông và cậy ông nuôi dưỡng dùm. Phận ông
dốt nát, liệu thế không kham, nên ông vào chùa xin ở đặng cậy đạo chúng dạy dùm
con Thu-Vân học. Ông lại lấy ra 200 nén bạc với cái bình và bộ chén mà gởi cho
ông Hòa-Thượng nói dối rằng tài vật ấy là của cha mẹ Thu-Vân để lại nên ông xin
gởi, chừng nào Thu-Vân khôn lớn rồi ông sẽ lấy lại mà giao cho nó.
Ông Hòa-Thương tin lời, nên thâu tài vật mà cất dùm, và cho
Lê-văn-Ðó, sáu Thới với Thu-Vân ở trong chùa. Lê-văn-Ðó với ông sáu Thới bèn
thí phát ở làm công quả cho Phật. Mỗi ngày hai người lo làm vườn, gánh nước,
giã gạo, quét chùa. Con Thu-Vân tuy còn nhỏ, mà mặt mày coi sáng láng, ăn nói
có khuôn phép, bởi vậy trong chùa từ Hòa-Thượng cho tới đạo chúng ai thấy nó
cũng đều thương.
Trong chùa có một ông Giáo-thọ khi trước học giỏi, mà không
có mạng, đi thi rớt hoài, nên giận mới đi tu. Hòa-Thượng cắt ông hễ có rảnh thì
phải dạy con Thu-Vân học. Thu-Vân nhờ vậy nên mới có thầy giỏi mà học sử kinh.
Ðến năm Ất-Tỵ (1845) ông sáu Thới già quá, nên đau sơ-sài có
mấy bữa mà ông tỵ trần.
Lê-văn-Ðó lấy làm thương tiếc, mà rồi ông lại sợ, vì ông cũng
già rồi nếu ông chết như ông sáu Thới nữa, thì con Thu-Vân còn ai mà nương dựa.
Qua năm Canh-tuất (1850 nhằm Tự-Ðức tam niên) Thu-Vân được 20
tuổi học đã giỏi mà cũng đủ trí khôn. Bữa nọ Lê-văn-Ðó nghe tin Từ-hải-Yến ngồi
Bố-Chánh tại Ðịnh-Tường, ông mới tính đem Thu-Vân lên đó mà ở, đặng lo mưu tính
kế làm cho cha con nhìn nhau, trước là Hải-Yến khỏi trái luân thường, sau nữa
ông hoàn toàn phận sự.
Tuy ông sáu Thới đã có thuật rõ sự Hải-Yến bạc bẽo mẹ con
Ánh-Nguyệt cho ông nghe rồi, song ông không muốn tỏ việc ấy lại cho Thu-Vân
nghe làm chi. Ông tính thầm trong trí rồi ông bàn với Hòa-Thượng mà xin dắt
Thu-Vân đi.
Hòa-Thượng thấy Thu-Vân đã khôn lớn rồi, ông không nỡ cầm ở
trong chùa nữa, nên ông cho đi, và ông đem 200 nén bạc với bình chén gởi hồi
trước mà giao lại cho Lê-văn-Ðó.
Lê-văn-Ðó dắt Thu-Vân lên Ðịnh-Tường, xưng tên mình là sáu Thới,
mua một cái nhà lá nhỏ dựa mé rạch Vĩnh-Tường mà ở có ý chờ dịp sẽ cho Thu-Vân
giáp mặt cha.
Ông ở đó chưa được mấy ngày thì kế Thể-Phụng gặp Thu-Vân ngồi
câu cá.
Còn Ðỗ-Cẩm từ ngày nó cho Lê-văn-Ðó chuộc con Thu-Vân rồi thì
vợ chồng nó tiếc hoài, chẳng phải chúng nó thương nhớ chi mà tiếc, chúng nó tiếc
là tiếc không đòi tiền nhiều hơn nữa. Nén bạc cho chuộc con Thu-Vân ăn không
bao lâu thì đã tiêu hết, rồi nghèo cũng trở lại nghèo như cũ mà tánh gian ác cũng
chưa chịu bỏ tánh xưa. Vợ chồng Ðỗ-Cẩm bán nhà cửa rồi đi qua xứ khác làm ăn.
Chúng nó đi đến đâu cũng nghèo hoài, đến năm Canh-Tuất lần tới Ðịnh-Tường, nghe
Từ-hải-Yến ngồi Bố-Chánh tại đó, Ðỗ-Cẩm mới lần mò vào dinh mà kể công khó ngày
xưa, đặng xin tiền xin bạc.
Hải-Yến thấy mặt Ðỗ-Cẩm thì không vui, nhưng vì năm xưa quan
lớn đã có làm một việc không tốt, mà việc ấy Ðỗ-Cẩm rõ hết, bởi vậy quan lớn
không muốn lậu việc ấy ra nên quan lớn phải ép lòng mà nhìn Ðỗ-Cẩm và mỗi lần đến
thăm quan lớn cho một quan tiền, cũng như may phứt cái miệng Ðỗ-Cẩm cho yên.
Vợ chồng Ðỗ-Cẩm không hiểu tình ý của Hải-Yến, tưởng Hải-Yến
thương mình nên cho tiền, mới kiếm một cái chòi rách dựa mé rạch Vĩnh-Tường mà ở,
cố ý trông nhờ quan Bố-Chánh nuôi cho mãn đời.
Một bữa nọ, Ðỗ-Cẩm đi chơi, ngó thấy Lê-văn-Ðó đứng trước nhà
với con Thu-Vân. Tuy Lê-văn-Ðó đã già, và tuy Thu-Vân đã lớn rồi, nhưng mà Ðỗ-Cẩm
thấy gương mặt thì nhớ liền, Nó về thuật chuyện ấy lại cho vợ nghe. Vợ chồng mới
bàn tính với nhau, phải lập thế bắt con Thu-Vân lại rồi đem nó vào dinh Bố-Chánh,
như Hải-Yến nhìn con thì cho chuộc, còn như Hải-Yến không chịu nhìn thì hăm dọa,
làm như vậy mới có bạc nhiều.
Vợ chồng tính hết sức mà không biết làm sao bắt con Thu-Vân lại
được, cùng thế rồi mới toan dụng võ nên cậy thằng Hanh, là đứa côn đồ, ở gần
đó, hiệp sức đến nhà Lê-văn-Ðó làm dữ mà bắt Thu-Vân. Ðỗ-Cẩm tưởng thi kế lúc nửa
đêm không ai hay, chẳng dè Vương-thể-Phụng tình cờ nghe được, rồi đi theo coi
cho rõ hành tàng của kẻ toan làm quấy.
Tuy Thể-Phụng là con nhà nho văn, thuở nay chẳng hề tập võ
nghệ, nhưng mà chàng thấy bọn bất lương toan làm hại cái nhà chàng đương lập thế
cầu thân, thì chàng không kể sức yếu thế cô, quyết phò khổn cứu nguy mà làm
nghĩa. Chàng cầm cây dầm đứng ngoài vách hầm hầm đợi hễ bọn ấy làm việc chi
không phải, thì chàng nhảy vào mà tiếp cứu.
Thình-lình chàng nghe một đứa xưng là Ðỗ-Cẩm thì chàng biến sắc,
đứng ngơ-ngẩn, không biết liệu lẽ nào. Nếu làm hại Ðỗ-Cẩm thì trái với lời trối
của cha. Nếu lầm lì bỏ đi về, thì chẳng những là mình giúp kẻ bất lương làm việc
quấy mà có lẽ mình còn mang cái tội thấy người ngay bị hại mà mình không cứu,
nhứt là người ngay ấy là người trong thân của nàng mỹ-nữ mình đương trộm nhớ thầm
yêu...
Chàng đương bưng-khuâng bỗng nghe ông già Lê-văn-Ðó hỏi rằng:
- Chú đến nhà tôi làm chi?
- Ðến thăm con Thu-Vân.
- Chú muốn đến thăm, sao không đến lúc ban ngày, đợi nửa đêm
rồi mới đến?
- Ối! Ðến chừng nào lại không được. Con Thu-Vân nó ngủ đâu?
Ông kêu nó dậy đặng tôi coi năm nay nó bao lớn.
- Nó ngủ, kêu nó làm chi. Chú thương yêu gì nó mà thăm!
- Ủa! Lão già nầy nói kỳ dữ hôn kìa! Ta nuôi nó mấy năm sao lại
không thương?
- Chú đừng có nói nhiều chuyện. Chú mà thương yêu ai? Chú
thương đồng tiền chớ. May tôi đem nó đi, chớ phải tôi để nó ở với chú ít ngày nữa
chắc nó chết.
- Sao mà chết?
- Chú hành hà đày đoạ thân nó quá chớ sao.
- Hứ! Khéo nói! Tôi hỏi thiệt ông vậy chớ bây giờ ông không
chịu cho tôi thăm con tôi hay sao nè?
- Không. Tôi không muốn cho chú thăm đó.
- Sao vậy?
- Thăm làm gì?
Ðỗ-Cẩm giận đỏ mặt, day lại ngó thằng Hanh, thấy nó đứng dựa
cây cột chong mắt lườm-lườm, dường như chờ Ðỗ-Cẩm làm dữ đặng nó có ra tay.
Lê-văn-Ðó thấy bộ tịch hai người như vậy thì ông nghi chúng
nó muốn hành hung, song ông đứng nghiêm-chỉnh tỉnh táo như thường, sắc mặt coi
chẳng có vẻ lo sợ chi hết.
Ðỗ-Cẩm vuốt râu rồi ngó ngay ông mà nói lớn rằng:
- Tôi nói cho ông biết, hồi trước ông làm ngang ông bắt con
nhỏ tôi. Tôi chạy theo tôi đòi, ông chở đi tuốt, ông không chịu trả. Mấy năm
nay tôi tìm ông hết sức không gặp. Bây giờ tôi gặp ông đây, vậy ông phải trả
con nhỏ tôi lại cho tôi, nếu ông không trả ông coi tôi.
- Tôi làm sao mà nói tôi làm ngang. Tôi chuộc nó một nén bạc,
chú lấy bạc chú ăn, chớ phải tôi bắt không hay sao.
- Mà bây giờ tôi không chịu, tôi bắt nó lại, ông phải trả nó
cho tôi.
- Trả sao được! Chú có phải là cha mẹ, hay là chú bác gì nó
hay sao mà chú đòi.
- Vậy chớ ông lại bà con gì với nó hay sao mà ông được bắt
nó.
- Tôi không bà con với nó mà tôi được nuôi nó, bởi vì mẹ nó
giao nó cho tôi nuôi.
- Ông nói láo. Tôi có đi tìm đến Cần-Ðước mà hỏi thăm, thì họ
nói Ánh-Nguyệt chết đã lâu rồi. Sao ông dám đến ông gạt tôi mà bắt con nhỏ? Nếu
ông chịu giao con nhỏ lại cho tôi thì êm, chớ nếu ông cưỡng lý, tôi thưa với
quan Bố ngài đóng gông ông đa, tôi thân với quan Bố lắm, nói cho ông biết.
- Chú thân với ai thì mặc chú, chú kiện đến đâu thì chú kiện.
Chú tưởng đâu chú hăm dọa như vậy rồi tôi sợ chú hay sao?
- Thằng cha già nầy nói hơi cứng dữ chớ! Thiệt không chịu
giao con nhỏ hay sao?
- Không. Giao sao được.
- Thằng cha già nầy tới số rồi!
Lê-văn-Ðó nghe hăm nữa, thì chúm-chím cười, song mắt ông ngó
Ðỗ-Cẩm trân-trân, dường như ông thách Ðỗ-Cẩm muốn làm việc chi thì làm thử cho
ông coi.
Ðỗ-Cẩm thấy cử chỉ ông già như vậy càng thêm giận, nên vói
tay sau lưng rút ra một cái mác, rồi chờn vờn nhảy tới mà chém Lê-văn-Ðó. Chẳng
dè ông già tuổi đã cao, mà mắt còn lanh, sức còn mạnh, ông thấy Ðỗ-Cẩm đưa cái
mác lên mà chém ông, thì ông tràn qua một bên, rồi một tay ông chụp cái mác, một
tay ông bóp họng Ðỗ-Cẩm, hai người lây-quây vật với nhau.
Ðỗ-Cẩm bị bóp họng thở è-è, song ráng kêu:
- Hanh, tiếp tao.
Tên Hanh rút cái búa trong lưng ra rồi a vô muốn búa
Lê-văn-Ðó.
Ông già thiệt là lẹ, ông thấy tên Hạnh vô tiếp, ông vụt Ðỗ-Cẩm
xây tròn, hễ tên Hạnh đứng phía nào, ông cứ day lưng Ðỗ-Cẩm qua phía đó hoài, bởi
vậy Hạnh vá búa mà chém không được.
Thu-Vân nãy giờ đứng núp trong buồng mà nghe hai người cãi lộn,
chừng nàng nghe lụi-hụi mới ló đầu ra mà dòm. Nàng thấy Ðó với Cẩm đương vật
nhau, mà Hanh lại vô tiếp thì nàng kinh khủng nên la bài-hãi rằng:
- Bớ người ta, họ giết ông tôi đây nè, bớ người ta!
Thể-Phụng đứng ngoài rình nghe cãi lộn, lại vạch lá mà dòm.
Chừng chàng thấy Ðỗ-Cẩm rút mác ra, toan làm dữ, thì chàng chạy
vô, sở tâm chàng tính can hai đàng, chớ không tính đánh đập kẻ hung ác. Chàng vừa
bước vô tới cửa, bỗng nghe tiếng Thu-Vân cầu cứu, lại thấy tên Hanh hăm-hở toan
búa Lê-văn-Ðó thì cái tánh khẳng khái binh hiền lương ghét hung bạo của chàng
nó phát lên, chàng không còn nhớ sự gì khác hơn là trừ hai thằng côn đồ đương
toan giết một người ngay, bởi vậy hai tay chàng nắm cây dầm mà bủa ngang qua cần
cổ tên Hạnh một cái bốp, nó ngã nằm dài dưới đất, cái búa lăn ra xa lắc. Thể-Phụng
đập luôn trên cánh tay mặt của Ðỗ-Cẩm một cây nữa. Ðỗ-Cẩm gần gãy cánh tay, nên
buông cái mác cho Lê-văn-Ðó.
Lê-văn-Ðó lấy được cái mác rồi, mà ông không thừa dịp ấy mà
chém Ðỗ-Cẩm lại, ông chỉ nắm cổ mà xô nó ra một cái mạnh quá, làm cho Ðỗ-Cẩm té
ngửa đập đầu vô cửa lá chầm nghe một cái ầm.
Thể-Phụng một tay cầm cây dầm, một tay chống nạnh đứng ngó
hai thằng bất lương ấy lườm-lườm.
Còn Thu-Vân với Lê-văn-Ðó không biết Thể-Phụng là ai, ở đâu
mà vào cứu mình mau lẹ như vậy, nên chăm chỉ nhìn chàng, quên coi chừng Ðỗ-Cẩm
với tên Hạnh.
Ðỗ-Cẩm liệu thế không xong, nên bị xô té rồi thì lồm-cồm ngồi
dậy và bò ra sân mà chạy. Tên Hanh ôm cần cổ và cóm róm bước ra cửa rồi cũng chạy
theo Ðỗ-Cẩm.
Thể-Phụng, Lê-văn-Ðó với Thu-Vân đứng coi bọn Ðỗ-Cẩm đi,
không ai tính bắt buộc chi hết, vì mỗi người đều có một ý riêng .
Thể-Phụng vì chữ hiếu nên phải làm lơ; Lê-văn-Ðó thì vì sợ lậu
việc của mình, nên không gây tụng, còn Thu-Vân thì sợ Ðỗ-Cẩm bắt mình lại, nên
không dám hở môi.
oOo
Bọn Ðỗ-Cẩm đi rồi, Thể-Phụng day lại thấy bàn tay trái của
Lê-văn-Ðó máu chảy ròng ròng. Chàng tưởng ông bị Ðỗ-Cẩm chém trúng, nên lật đật
nắm tay ông dắt lại gần đèn mà coi.
Lê-văn-Ðó nói rằng:
- Chút đỉnh, không hại gì. Tôi dành cái mắc với nó nên đứt
tay, chớ không phải nó chém trúng tôi đâu.
Thể-Phụng coi kỹ thì thiệt quả trong lòng bàn tay ông đứt một
đường dài, tuy máu ra nhiều, song dấu đứt không sâu. Chàng bèn hối nàng Thu-Vân
lấy ruột trái cau tươi mà nhai dập-dập đặng cho chàng đấp trên dấu đứt mà cầm
máu. Nàng nhai cau rồi đưa cho chàng. Chàng lại xin một miếng giẻ, rồi đặt cau
vô mà nịt tay ông lại.
Thể-Phụng được gần Thu-Vân mới thấy rõ dung mạo của nàng --
nước da trắng đỏ, mái tóc đen thui, cặp chơn mày nhỏ rức mà cong vòng, cặp con
mắt hữu tình mà sáng rỡ. Răng trắng nõn lại thêm lại thêm môi son che đậy, má
miếng bầu lại có lúng hai đồng tiền. Gương mặt đã hữu duyên mà bàn tay lại dịu
nhiễu; tướng đi đã yểu điệu, mà tiếng nói lại trong ngần. Thiệt là sắc nước
hương trời, thấy xa phải động tình, thấy gần phải mê mẩn.
Thể-Phụng nịt tay cho Lê-văn-Ðó mà trong lòng ngẩn-ngơ ngơ-ngẩn
quên hết thế sự, cứ tưởng nợ duyên.
Lê-văn-Ðó để cho chàng làm xong rồi ông mới nói rằng:
- Thiệt tôi mang ơn cậu nhiều quá. Nếu không có cậu cứu tôi,
chắc là tôi mang hại.
Thể-Phụng lại ván mà ngồi, mắt thì liếc ngó Thu-Vân, song miệng
thì đáp với Lê-văn-Ðó rằng:
- Ông thiệt là giỏi. Tôi khen ông lắm. Ông đã già cả, mà sức
lực còn mạnh quá. Chúng nó tới hai đứa, lại cầm mác cầm búa, ông có một mình, lại
tay không, mà chúng nó không làm nổi. Giỏi thiệt chớ.
- Bây giờ tôi đã yếu hơn hồi trai nhiều. Hồi nãy tôi lầy-quầy
với thằng Ðỗ-Cẩm có một chút mà tôi đã mệt đuối. Phải mà cậu tiếp cứu trễ một
chút, tôi sợ thằng kia nó chém tôi được. Thiệt tôi mang ơn cậu quá. Thưa cậu,
không biết cậu là ai, vốn người ở đâu, tên họ là chi, xin cho tôi biết.
- Tôi họ Vương tên Thể-Phụng, tôi gốc ở phủ Tân-An, cha mẹ
khuất sớm, tôi đi du học mấy tháng nay, tôi làm đề lại tại dinh quan Bố mà chờ
đến năm Tý đặng đi thi.
- Bây giờ nhà cậu ở đâu?
- Tôi ở phía ngoài kia mà ở mé sông bển.
Lê-văn-Ðó ngồi lặng thinh, mà coi sắc mặt ông thì biết ông
đương suy nghĩ.
Thu-Vân ngồi trên cái chõng phía bên kia, lại ngồi nhằm cái
bóng cây cột, nàng bèn cất tiếng hỏi Thể-Phụng rằng:
- Thưa cậu, hồi nãy có lẽ cậu đứng đâu ngoài sân hay sao, mà
tôi vừa la lên thì cậu chạy vô liền?
Nàng hỏi thiệt tình, mà vì Thể-Phụng có ý riêng nên chàng hổ
thẹn. Chàng bợ-ngợ nên nói ú-ớ rằng:
- Tôi đứng ngoài. Tôi đi chơi … Tôi nghe ….
- Thiệt hồi nãy tôi thấy thằng cha kia rút cái búa ra, chờn vờn
muốn phụ mà chém ông tôi, thì tôi hết hồn hết vía. Tôi la bài-hãi, tôi sợ chúng
nó giết ông tôi, tôi la dứt tiếng, thì cậu nhảy vô đánh thằng kia một cây té
nhào văng cái búa, tôi mừng quá. Nếu không có cậu cứu, thì chúng giết ông tôi rồi
chắc là chúng bắt tôi. Cậu đi chơi mà cậu làm được một cái ơn lớn quá.
- Không phải tôi đi chơi mà gặp. Tôi hay chúng nó bàn soạn đi
làm hại người ta. Tuy là tôi không rõ chúng nó muốn đến nhà nào, song tôi cũng
nom theo mà coi. Chẳng dè tôi thấy chúng nó vô đây. Tôi mới lần vô theo vồng đứng
tại đầu xông đây mà rình, chừng tôi thấy chúng nó làm dữ tôi mới nhảy vô chớ.
- May quá!
- May thiệt.
Thể-Phụng nói “may thiệt” mà chàng lại ngó Thu-Vân mà cười.
Nàng cũng chúm-chím cười. Chàng day qua hỏi Lê-văn-Ðó rằng:
- Thưa ông, không biết cô đây là con hay là cháu của ông vậy?
- Cháu.
- Hồi nãy tôi đứng ngoài hè, tôi nghe thằng Ðỗ-Cẩm có cãi lẽ
với ông, nó có bà con chi với cô đây hay không?
- Không.
- Sao hồi nãy nó xưng nó là cha nuôi?
- Số là vầy, để tôi nói cho cậu nghe. Hồi con nầy được tám
chín tuổi, mẹ nó mướn vợ chồng thằng Ðỗ-Cẩm nuôi. Mẹ nó đi xa rồi mắc đau ốm
lòng dòng về rước nó không được. Chừng mẹ nó chết, mẹ nó mới cậy tôi rước mà
nuôi dùm. Tôi đến rước thì thấy vợ chồng Ðỗ-Cẩm nó hành hạ cái thân con nhỏ hết
sức, cơm bữa đói bữa no, áo quần lang-thang lưới-thưới, ngủ thì ngủ chuồng heo chuồng
vịt, mà nó còn đánh đập chưởi bới tối ngày. Tôi xin rước con nhỏ nó đòi tiền
nuôi tới một tháng một quan lại còn đòi tiền áo tiền quần, tiền thầy tiền thuốc.
Tôi phải trả cho nó tới một nén bạc, nó mới chịu cho tôi rước. Vợ chồng thằng
đó thiệt là đồ ác nghiệt. Vậy mà hồi nãy nó còn hăm nó đi cáo tôi. Nó nói nó
thân với quan Bố lắm, để nó làm cho tôi bị đóng gông. Cậu liệu thử coi nó có thế
làm hại tôi được hôn cậu?
- Tôi thấy nó lối một tháng nay nó vô ra trong dinh quan Bố
thường. Chắc là nó quen với quan Bố. Tuy vậy mà ông đừng sợ. Ðể sáng mai tôi tỏ
trước việc nầy cho quan Bố hay. Có tôi đây, nó không làm gì mà hại đến ông được
đâu.
Thu-Vân nghe Thể-Phụng nói như vậy thì nàng bước lại rưng
rưng nước mắt và nói rằng : - - - Xin cậu thương dùm thân của ông cháu tôi. Cậu
làm phước bảo bọc dùm, ơn của cậu dầu ngàn năm ông cháu tôi cũng còn ghi tạc.
Thể-Phụng nghe tiếng dịu dàng thì chàng mê-mẩn, mà nghe hơi
bi thảm thì chàng động lòng, bởi vậy chàng ngồi ngẫm nghĩ một hồi rồi hỏi nàng
rắng :
- Nếu vậy thì cô không có bà con với Ðỗ-Cẩm?
- Thưa, không.
- Mà cô cũng không có bà con với ông đây?
- Thưa … Thưa, có chớ.
- Bà con làm sao?
- Thưa, má tôi hồi trước kêu ông tôi đây bằng chú.
- Nếu vậy thì cô sợ việc gì?
- Thưa cậu, Ðỗ-Cẩm đã hung dữ, mà lại quỷ-quyệt lắm. Tôi sợ
nó thân thích với quan, nó òn-ĩ, quan nghe nó, rồi dạy tôi phải bỏ ông tôi đây
mà đi theo nó. Tôi nói thiệt, nếu quan dạy như vậy thì chắc tôi tự vận tôi chết,
chớ tôi không đành bỏ ông tôi.
- Xin cô đừng có buồn. Ðể sáng mai tôi tỏ trước việc nầy cho
quan Bố hay.
- Xin cậu làm phước dùm.
- Ðược. Không sao đâu. Ðể tôi tỏ với quan Bố rồi chiều mai
tôi qua tôi nói lại cho ông với cô hay.
- Cậu có lòng chiếu cố, thiệt ơn ấy đáng ngàn vàng.
- Có chi đâu mà gọi rằng ơn.
- Cậu đã cứu ông cháu tôi khỏi chết, bây giờ cậu còn lo bảo bọc
bữa, dường ấy là ơn sau nghĩa nặng, chớ còn đợi sao nữa.
- Cô nói nghĩa thì tôi chịu, chớ đừng có nói ơn.
Chàng trả lời như vậy mà lại liếc nàng và chúm-chím cười.
Nàng hội ý nên cúi mặt thối lui, không cãi nữa.
Trống đồn đã trở canh năm. Thể-Phụng bèn từ Lê-văn-Ðó với
Thu-Vân mà về. Lê-văn-Ðó đưa chàng ra tới cái ụ, chỗ buộc chiếc xuồng hồi nãy.
Lúc chàng xô xuồng ra mà đi ông còn dặn vói rằng:
- Xin cậu tỏ dùm với quan Bố, rồi làm ơn cho tôi hay.
Thể-Phụng đáp rằng:
- Chiều mai tôi qua. Ông vô nghỉ đi.
Thể-Phụng bơi xuồng về ngang cái chòi của Ðỗ-Cẩm thì thấy chiếc
ghe lườn không có dưới bến, mà trên chòi cũng vắng teo.
Sáng bữa sau chàng vô dinh mà làm việc. May gặp bữa quan Bố
vui, chàng bèn đem chuyện Ðỗ-Cẩm hành hung hồi hôm mà thuật lại cho quan Bố
nghe. Nhơn dịp ấy chàng lại tỏ cho quan Bố hay trước rằng Ðỗ-Cẩm sẽ vào cửa
công cáo gian người ta, nên chàng xin quan Bố chớ tin lời của kẻ quấy.
Quan Bố nghe rõ rồi ngài cười và nói rằng:
- Ta biết vợ chồng thằng đó lắm. Chúng nó gian trá quỷ-quyệt
không ai bì kịp. Hồi ta lên Gia-Ðịnh mà thi ta có ở đậu nhà nó mấy tháng. Nó thừa
sự quen biết ấy nên bây giờ đến đây làm bộ chết đói mà xin tiền hoài. Ta không
nỡ đuổi nó, mà nếu nó làm quấy thì ta phải làm hại nó. Mi coi chừng hễ nó có
làm bậy việc gì nữa, thì phải bẩm cho ta hay.
Thể-Phụng vì chí tình mà cáo Ðỗ-Cẩm; chàng nghe quan Bố nói
như vậy thì chàng mừng. Nhưng mà về đến nhà chàng nhớ Ðỗ-Cẩm là ân-nhơn của cha
chàng, chàng gặp người chàng đã không trả ơn, mà còn lại lo ngăn trở đường đi của
người nữa, thế thì chàng bất hiếu với cha biết chừng nào. Ban đầu chàng tự
trách chàng làm trai mà chàng trọng tình hơn là hiếu, bởi vậy chàng buồn bực vô
cùng. Mà rồi chàng nghĩ lại tuy Ðỗ-Cẩm là ân-nhơn của cha, tuy cha có di ngôn hễ
ngày sau gặp Ðỗ-Cẩm thì phải trả ơn thế cho cha, song nay mình gặp Ðỗ-Cẩm đương
làm việc hung ác, có lý nào mình phải vì ơn riêng ấy mà giúp cho nó làm quấy
cho được. Cha mình là người nghĩa sĩ chơn chánh, ví dầu đích thân cha mình gặp
Ðỗ-Cẩm làm quấy thì cũng không nỡ giúp cho nó, huống chi là mình. Ðến hồi hôm
mình thả cho nó đi, không nỡ bắt nó, ấy là trả ơn cho nó rồi. Bây giờ mình cản
không muốn để cho nó làm quấy nữa, ấy là mình trả ơn thêm cho nó, chớ phải mình
hại nó hay sao mà sợ trái ý cha.
Thể-Phụng suy xét cùng lý rồi chàng mới hết buồn. Tuy vậy mà
trong lòng chàng vẫn còn ái ngại. Chàng bèn tính để chàng nói trước cho Ðỗ-Cẩm
biết đặng đừng có làm quấy nữa, chớ nếu để nó làm quấy, quan Bố hại nó, mình chẳng
khỏi ăn-năn.
Ðến chiều, ăn cơm rồi, Thể-Phụng mượn xuồng đi qua nhà
Lê-văn-Ðó. Chàng muốn gặp mặt Thu-Vân cho mau, nên bơi riết. Nhưng mà khi đi
ngang chòi Ðỗ-Cẩm chàng nhớ việc của chàng, nên ghé lại đặng phân trần phải quấy
cho Ðỗ-Cẩm nghe.
Chàng bước vô chòi thì thấy Ðỗ-Cẩm đương nằm trên cái chõng,
người vợ là Thị-Phi thì đương lăng-xăng trong bếp lo nấu cơm.
Ðỗ-Cẩm thấy Thể-Phụng thì lồm côm ngồi dậy, tay trái đỡ cánh
tay mặt, còn mắt thì ngó Thể-Phụng trân-trân.
Thể-Phụng cười và hỏi rằng:
- Tay chú còn đau hay sao?
- Ðau.
- Chú biết tôi hôn?
- Không.
- Mới hồi hôm đây, mà chú quên mau quá.
Ðỗ-Cẩm lỏ mắt ngó Thể-Phụng mà lại có sắc sợ.
Thể-Phụng bước lại cầm cánh tay mặt của anh ta và vạch áo ra
mà coi thì thấy có một lằn bầm đen và sưng vù. Chàng mới nói rằng:
- Vì tôi thương chú lắm, nên hồi hôm tôi không nỡ đập chết
chú, mà tôi cũng không nỡ bắt chú mà nạp cho quan. Tôi nói cho chú biết, tôi
đây là đề lại trong dinh quan Bố. Nhà chú đến làm dữ hôm qua đó là nhà bà con của
tôi. Tôi đã có thưa với quan bố rồi. Quan bố dạy tôi, hễ nghe chú làm quấy, bất
luận là làm việc gì, thì phải bắt chú nạp cho quan Bố làm án chú. Ngài không
thương gì chú đâu, chú đừng lấp-lửng mà mang khổ. Tôi thương, nên làm phước nói
dùm cho chú hiểu. Chú hãy lo làm ăn, đừng có tính việc bậy bạ, nhứt là đừng có
động đến cái nhà hồi hôm đó nữa.
Ðỗ-Cẩm sợ, nên biến sắc. Thị-Phi cũng chưng-hửng, nên đứng
ngó Thể-Phụng trân-trân.
Thể-Phụng nói rồi quày quả xuống xuồng bơi mà đi, nghĩ thầm rằng
mình làm như vậy thì hiếu tình trọn vẹn cả hai, bởi vì mình cản không để cho ân
nhân của cha mình làm việc quấy, mà bị quan bố hại, mà lại mình còn bảo bọc ông
cháu Thu-Vân khỏi ai làm hại nữa.
Xuồng còn ở xa, mà chàng đã thấy dạng Thu-Vân đứng dựa gốc
cây dừa quằn mà trông. Chàng khoan-khoái trong lòng, nên chàng bươn-bả bơi riết.
Xuồng vừa ghé vô bến, thì Thu-Vân chào chàng và nói rằng:
- Cậu qua thiệt tôi mừng quá. Từ hồi nửa chiều cho tới bây giờ
ông tôi trông cậu lắm, nên cứ biểu tôi coi chừng cậu hoài.
Thu-Vân nói mừng mà mặt nàng có sắc lo chớ không có sắc vui.
Thể-Phụng muốn giải liền cái lòng lo của nàng, nên chàng còn đứng dưới xuồng mà
chàng và cười và nói rằng:
- Việc tôi hứa với ông hồi hôm đó, tôi đã làm xong rồi hết. Nếu
Ðỗ-Cẩm vào dinh quan Bố mà kiện cáo vụ của cô thì quan Bố sẽ làm tội nó liền.
Xin cô an tâm, đừng có lo nữa.
Thu-Vân nghe mấy lời thì trong lòng hớn-hở ngoài mặt tươi
chong, nàng ngó Thể-Phụng mà cười và đáp rằng:
- Cậu có lòng tốt lo bảo hộ cho ông tôi với tôi như vầy, thiệt
là ơn cậu trọng quá, tôi biết làm sao mà đền đáp cho được.
- Cô nói ơn mà làm chi! Tôi muốn làm nghĩa với … với ông, nên
tôi phải lo chớ. Miễn là cô được vui vẻ luôn luôn, tôi đến thăm chơi cô không
ngăn cấm, ấy là cô trả ơn cho tôi rồi.
- Cậu đã cứu ông tôi khỏi bị người ta giết, rồi cậu lại còn
lo bảo bọc ông tôi với tôi nữa, tất nhiên cậu là ân-nhơn của nhà tôi, dầu cậu
không muốn đến nhà, tôi cũng phải mời thỉnh, huống chi là cậu sẵn lòng đến chơi
mà tôi dám ngăn cấm.
- Cô nói như vậy thì tôi đến hoài; không biết chừng bữa nào
tôi thưa với ông rồi tôi ở luôn bên nầy.
Thể-Phụng nói câu sau nầy, mà và nói và cười ngất. Thu-Vân hiểu
ý chàng, nên nàng cũng cười, song nàng mắc cở nên nàng cúi mặt, không nói nữa.
Chàng buột chiếc xuồng rồi, nàng bèn đứng tránh một bên cho
chàng bước lên bờ. Nàng liền mời chàng vô nhà, chàng đi trước, nàng theo sau,
tuy không nói chuyện nữa, song coi mặt hai người đều có sắc vui-vẻ.
Lê-văn-Ðó đương nằm trên cái chõng ở phía trước, bàn tay trái
còn nịt giẻ. Ông thấy Thể-Phụng bước vô ông lồm-cồm ngồi dậy mà chào. Chàng đi
thẳng lại mở giẻ mà coi bàn tay của ông, thì thấy máu đã khô, mà chung quanh
cái vít cũng không sưng. Chàng bèn hỏi ông rằng:
- Ngày nay tay ông có nhức hôn?
- Không.
- Nếu vậy thì chắc trong ít bữa đây sẽ lành. Ông cứ nằm nghỉ,
đừng làm việc chi động tới tay đó.
Thu-Vân bước lại nói với Lê-văn-Ðó rằng:
- Ông nè, cậu mới nói việc của mình cậu đã lo giùm xong rồi hết.
Vậy xin ông đừng có buồn.
Lê-văn-Ðó nghe mấy lời thì sắc mừng lộ ra ngoài mặt. Ông ngó
sững Thể-Phụng, tuy ông không nói tiếng chi hết, song chàng thấy rõ ông cảm
tình và hiểu ý ông muốn hỏi coi chàng lo cách nào.
Thể-Phụng mới ngồi ghé nơi đầu ván, rồi thuật rõ các việc
chàng đã lo tính trong ngày nay lại cho ông nghe. Chàng nói rằng hồi sớm mơi
chàng có bẩm cho quan Bố hay sự Ðỗ-Cẩm hành hung toan giết người mà đoạt gái tốt,
may có chàng đi chơi gặp, nên nó làm việc quấy không được. Chàng nhơn dịp ấy lại
có bẩm luôn với quan Bố sự nó hăm dọa để vào đơn mà kiện đặng bắt con cháu của
người. Quan Bố hăm hễ nó làm việc chi quấy thì ngài sẽ hại nó liền. Ngài lại dặn
chàng phải coi chừng nó. Khi chàng đi qua đây thì chàng đã có ghé nhà mà nói
cho nó biết trước đặng nó bỏ thói bất lương; chàng có dặn nó đừng động đến nhà
ông nữa, nếu nó còn rụt rịt thì chàng sẽ xin với quan Bố bắt nó mà hạ ngục liền.
Thể-Phụng ngồi nói mà Thu-Vân đứng ngó chàng không nháy mắt.
Chàng thuật hết chuyện rồi chàng lại nói rằng:
- Quan Bố có nói hồi nhỏ ngài lên Gia-Ðịnh mà thi, ngài có ở
đậu nhà Ðỗ-Cẩm nên ngài biết vợ chồng nó là quân ngang ngược xảo quyệt lắm. Vì
có ơn trước nên bây giờ nó đến xin tiền hoài; tuy ngài không nỡ đuổi nó, song
ngài cũng không yêu gì nó đâu.
Lê-văn-Ðó gật đầu và chúm-chím cười. Thu-Vân lại đứng gần ông
và nói rằng:
- Vậy thì mình có lo gì nữa, phải hôn ông? Thiệt là nhờ cậu
quá!
Lê-văn-Ðó mới nói với Thể-Phụng rằng:
- Tôi mang ơn cậu rất nặng, để rồi tôi sẽ tính mà đền ơn cho
cậu. Thuở nay cậu không quen biết tôi, mà cậu không sợ hiểm nguy, cậu liều mình
mà cứu tôi khỏi chết, rồi cậu còn lo lắng làm cho ông cháu tôi ở ăn yên ổn nữa,
cái ơn ấy không lẽ tôi dám làm lơ. Tôi phải lo đền đáp cho xứng.
Thể-Phụng cười và hỏi rằng:
- Ông tính đền ơn cách nào? Ông dùng vật chi mà đền ơn, đâu
ông nói cho tôi nghe thử coi?
- Tuy tôi nghèo, song tôi phải ráng mà kiếm năm ba nén bạc mà
đền ơn cho cậu mới vừa.
- Ông tưởng đâu tôi vì muốn cho ông đền ơn năm ba nén, nên hồi
hôm tôi cứu ông, rồi ngày nay tôi lo dùm việc của ông đó há? Nếu ông tưởng như
vậy thì tội nghiệp cho tôi lắm. Tôi tuy nhỏ tuổi và làm đề-lại thôi, song tôi
làm việc ấy chỉ là vì nhơn nghĩa chớ không phải vì bạc tiền đâu. Nếu ông muốn để
cho tôi tới lui mà chơi, thì xin ông đừng có nói việc đền ơn nữa, chớ ông cứ
nói hoài, thì thiệt tôi không dám tới.
- Cậu làm ơn cho tôi, thì tôi phải lo trả ơn, chớ cậu biểu
tôi đừng nói tới ơn nghĩa, thì tôi chịu sao đặng.
- Tôi không muốn cho ông nói tới sự đó.
Lê-văn-Ðó muốn mở miệng mà cãi thì Thu-Vân lại can rằng:
- Cậu dạy như vậy, thì ông cứ nghe lời. Ông cãi lẽ với cậu
làm chi cho cậu phiền.
Lê-văn-Ðó nín khe. Thể-Phụng bước ra ngoài cửa đứng ngó xuống
rạch.
Mặt trời đã lặn rồi lại thêm chuyển mưa nên mây giăng đen kịt.
Chàng đứng dựa cửa mà suy nghĩ, trong bụng bồi-hồi, dường như chàng mới làm một
việc chi quấy đó vậy.
Thu-Vân thấy trời đã tối, nên nàng lo thổi lửa đốt đèn, rồi
nàng lấy chiếu mà trải lên ván. Lê-văn-Ðó mời Thể-Phụng vô nằm nói chuyện chơi.
Trời mưa tới ào ào, cách chẳng bao lâu nước trên mái nhà đổ
xuống nghe rôn rổn.
Thể-Phụng trở vô nói rằng:
- Trời mưa lớn quá, làm sao mà về cho đặng.
Lê-văn-Ðó đáp rằng:
- Mời cậu nằm trên ván đó mà nghỉ. Cậu ở nói chuyện chơi, để
hết mưa rồi sẽ về.
Thể-Phụng lại ván giữa mà nằm, Lê-văn-Ðó nằm trên cái chõng.
Thu-Vân sợ gió tạt tắt đèn, nên đi sập cửa, rồi trở vô ngồi trên chõng, phía dưới
chơn của Lê-văn-Ðó.
Vả Lê-văn-Ðó là người ít hay nói chuyện, nên ông nằm mà nghe
trời mưa, chớ không nói chi hết, chừng nào Thể-Phụng có hỏi thì ông mới trả lời,
mà nhiều khi ông lại để cho Thu-Vân trả lời thế.
Thể-Phụng muốn biết căn-nguyên của ông với của Thu-Vân coi
người ở xứ nào, thuở nay làm nghề gì, ngặt vì chàng ái ngại nên không dám mở miệng.
Cách một hồi lâu, Lê-văn-Ðó lại hỏi chàng vậy chớ cha mẹ ở
đâu, năm nay chàng được bao nhiêu tuổi, đã có vợ con hay chưa. Thể-Phụng uất về
việc nhà, bấy nay không gặp người tri kỷ mà tỏ bày, đặng cho thỏa bớt nỗi phiền
muộn của mình.
Hôm nay chàng đương bưng-khuâng vì ái tình, chàng đương tư-tưởng
về duyên nợ, đã vậy mà người yêu lại ngồi trước mặt đó nữa. Thình-lình ông hỏi
tới gia đạo của chàng, ông làm cho chàng cảm xúc không thể dằn lòng được, bởi vậy
chàng mới ngồi dậy rồi thủng thẳng kể hết các việc của chàng cho ông với
Thu-Vân nghe.
Chàng kể việc cha mẹ sanh thành, kể khúc ông ngoại nuôi dưỡng,
kể công mười năm đèn sách, kể nỗi cha vì thương con mà phải đoạn tình cốt nhục,
kể nỗi ông vì thương cháu phân rẽ cha con, kể luôn tới việc thương cha mà phải
nghịch với ông, chàng kể hết, chàng dấu có một đều là dấu lời trối của cha về
ơn của Ðỗ-Cẩm.
Thể-Phụng thuật việc nhà mà bộ chàng buồn thảm lắm. Thu-Vân
ngồi lặng thinh mà nghe, nàng nghe tới lúc thảm khổ về nỗi cha với ông ngoại
thì nàng lại day mặt vô vách rồi lén lấy vạt áo mà lau nước mắt.
Lê-văn-Ðó biết rõ căn cội của chàng thì ông càng thêm kính mến.
Ông nhơn dịp ấy ông thuật việc của ông và Thu-Vân cho chàng biết, song ông
không thuật việc thiệt, ông đặt nguyên một truyện mà nói rằng ông từ nhỏ chí lớn
không có vợ con. Mẹ của Thu-Vân là cháu của ông, vì chồng khuất sớm muốn rảnh
chơn mà đi mua bán, bèn mướn vợ chồng Ðỗ-Cẩm nuôi con dùm. Khi mẹ của Thu-Vân gần
chết, nàng có cậy ông bảo bọc dùm, bởi vậy ông mới chuộc Thu-Vân rồi vào chùa
Bình-An-Tự mà ở trọn 10 năm cho Thu-Vân học. Năm nay Thu-Vân lớn rồi không lẽ để
nàng ở trong chùa nữa được nên ông mới ra mua nhà ở đây, tính làm ruộng mà nuôi
nàng.
Thể-Phụng nghe như vậy thì tưởng thiệt như vậy. Chàng nghe
nói Thu-Vân có học ở trong chùa 10 năm, chàng bèn rút một hai câu sách mà hỏi
thử nàng, hỏi câu nào nàng cắt nghĩa thông câu nấy, chàng lấy làm khen ngợi vô cùng
không dè nàng có sắc lại thêm có tài, rõ ràng bức gấm thêu hoa, tưởng trong đời
người người nhi nữ như vậy không phải là dễ kiếm.
Ðến gần nửa đêm trời tạnh mưa, trăng ló mọc, Thể-Phụng từ giả
mà về.
Chàng biết được căn nguyên, chàng thấy rõ diện mạo, chàng thử
được tài học, chàng dòm được tánh tình của Thu-Vân rồi thì chàng càng thêm say
đắm, càng thêm ước mơ.
Chàng nhứt định sẽ cậy mai-nhơn nói với Lê-văn-Ðó đặng chàng
cưới Thu-Vân; mà rồi chàng suy nghĩ lại chàng đã làm ơn cho ông, ông với
Thu-Vân có lòng muốn trả ơn cho chàng, nếu chàng đem chuyện hôn nhơn ra mà nói,
thi chi cho khỏi nàng nghi cho chàng làm ơn ấy là vì tư ý chớ không là vì háo
nghĩa, mà hễ nàng nghi như vậy thì té ra chàng là đứa tiểu nhơn.
Thể-Phụng tính tới bàn lui, không biết liệu lẽ nào, mở miệng
thì hổ ngươi, lặng thinh thì xót dạ, vắng mặt thì thương nhớ, giáp mặt thì ngậm-ngùi.
Chàng buồn bực không qua thăm ông cháu Thu-Vân nữa, mà cũng
vì không đi thăm, mỗi đêm chàng cứ nằm dàu-dàu mà tư tưởng hoài, học không được
mà ngủ cũng không được, bởi vậy trong vài ngày thì chàng nhuốm bịnh.
Còn-Thu-Vân từ khi Thể-Phụng cứu ông nàng, thì nàng đã đem
lòng ái kỉnh rồi.
Ðến chừng nàng thấy chàng hết lòng lo bảo bọc cho nàng thì
nàng càng thêm quyến luyến. Mà lòng ái kỉnh quyến luyến ấy, là vì ơn mà thôi,
chớ không phải vì ý nào khác.
Chừng nàng nghe Thể-Phụng thuật hết việc nhà, nàng mới biết
rõ chàng là một bực chơn chánh quân tử, lúc chàng ngồi nói chuyện thì nàng cảm
xúc, khi chàng ra về rồi thì nàng động tình.
Mấy bữa sau, hễ chiều ăn cơm rồi, thì nàng ra ngồi dựa mé
sông, miệng thì nói ngồi chơi, mà ý thì thiệt ngồi trông Thể-Phụng. Nàng chờ
cho đến tối, không thấy chàng qua, nàng đứng dậy thở dài rồi thủng-thẳng đi vô
nhà nằm dàu-dàu.
Tuy Lê-văn-Ðó không nói ra, song ông thấy cử chỉ của nàng như
vậy, thì ông đã hiểu ý của nàng rồi. Ông nghĩ ông dắt Thu-Vân đến ở đây, là có
ý muốn làm cho nàng hiệp với cha, chớ không làm cho nàng kiếm chồng. Nhưng mà sự
cha con hiệp nhau không phải là sự dễ, ngày trước Hải-Yến mới thi đậu mà đã
không chịu nhìn vợ, ngày nay đã làm quan lớn rồi há anh ta chịu nhìn con hay
sao. Tình cờ mà gặp Thể-Phụng đây cũng là một may mắn lắm. Thể-Phụng có tài học
hay, có tánh hiếu nghĩa, có khiếu quân tử, có lòng thảo thân. Nếu nhơn dịp nầy
mà gả Thu-Vân cho chàng, thì chẳng những là mình đền ơn đáp nghĩa cho chàng được
mà thôi, mà con Thu-Vân có lẽ cũng được chỗ xứng đáng mà nương nhờ về sau nữa.
Ông nghĩ như vậy nên ông tính đợi Thể-Phụng có qua chơi nữa
thì ông sẽ bày việc hôn nhơn ra mà nói với chàng. Ông trông luôn cho đến gần 10
bữa mà cũng không thấy Thể-Phụng. Còn ở trong nhà thì Thu-Vân lửng-đửng lờ đờ,
biếng nói bặt cười, ăn không ngon, nằm không ngủ.
Một bữa Lê-văn-Ðó thấy Thu-Vân ngồi buồn xo, ông mới hỏi rằng:
- Cháu suy nghĩ việc gì mà coi bộ cháu buồn dữ vậy?
Thu-Vân ngồi lặng thinh một hồi lâu rồi mới đáp rằng:
- Cháu không hiểu tại làm sao mà cậu Thể-Phụng phiền ông cháu
mình nên cậu không thèm tới nhà mình nữa.
Lê-văn-Ðó cười và nói rằng:
- Có việc gì đâu mà cậu phiền. Bữa nay tay ông đã hết đau rồi.
Ðể chiều ông qua nhà cậu mà thăm coi.
- Ông biết nhà cậu hôn?
- Hôm trước cậu có chỉ chừng. Cậu nói cậu ở đậu nhà bà hai Tiền.
Ông qua đó ông hỏi thăm thì ra mối, chớ có khó gì.
- Ðược a. Ông qua thăm, rồi mời cậu qua chơi. Mình mang ơn cậu
nhiều, không nên để cậu phiền.
Trời mới xế bóng mà Thu-Vân đã lo nấu cơm dọn cho ông ăn.
Ông hiểu ý nàng muốn cho ông đi sớm, bởi vậy ăn cơm rồi thi
ông liền đi lại đàng xóm mượn xuồng và mượn một đứa nhỏ bơi đưa ông đi.
Lê-văn-Ðó hỏi thăm nhà bà hai Tiền mà vô. Ông vừa bước tới cửa
thì thấy Thể-Phụng đương nằm trên bộ ván gát tay qua trán mà day mặt vô vách.
Ông đánh tiếng, chàng giựt mình day lại thấy ông, chàng lật đật ngồi dậy mời
ông vô nhà.
Chàng hỏi ông vậy chớ tay đã lành hay chưa. Ông cười và nói rằng:
- Tay tôi cũng gần lành rồi. Hổm nay tôi với cháu tôi trông
hoài mà không thấy cậu qua chơi. Tôi không biết cậu có việc chi, nên tôi qua
thăm coi rồi mời cậu qua nhà chơi.
- Hổm nay tôi muốn qua bển lắm, ngặt vì tôi bịnh, nên đi
không tiện.
- Bịnh sao đó?
- Bịnh … chút đỉnh. Nhức đầu nóng lạnh vậy mà.
- Bất nhơn dữ hôn! Tôi có hay đâu. Hổm nay cậu không qua, con
cháu tôi nó sợ cậu phiền, nên nó buồn quá. Vậy xin mời cậu qua chơi một lát, đặng
cho nó vui, kẻo nó sợ cậu giận hoài.
- Tôi có phiền giận việc chi đâu. Thôi ông về trước rồi một
lát nữa tôi qua.
- Ừ, để tôi về trước tôi nói cho nó hay, kẻo nó trông.
Lê-văn-Ðó về tới nhà thì thấy nhà cửa từ trong ra ngoài
Thu-Vân đã quét tước sạch bót. Ông nói một lát Thể-Phụng sẽ qua sau. Nàng nghe
mấy lời thì sắc mừng lộ ra mặt, lật-đật dọn vật nầy, dẹp đồ nọ, làm coi lít-xít
lăng-xăng. Tuy nàng ở trong nhà, song một lát nàng lại gần cửa rồi liếc mắt dòm
ngoài rạch một cái, có ý coi chừng Thể-Phụng qua hay chưa.
Mặt trời gần lặn Thể-Phụng qua mới tới.
Hôm trước chàng với nàng chưa quen cho lắm, mà gặp mặt nhau
thì hớn-hở chuyện vãn vui cười. Bữa nay quen biết nhau nhiều, mà chàng với nàng
thấy mặt nhau lại có sắc e lệ, không nói chuyện lăng-xăng như hôm nọ nữa.
Lê-văn-Ðó mời Thể-Phụng ngồi, nói chuyện lôi thôi với chàng một
lát rồi ông biểu Thu-Vân đi nhúm lửa nấu nước lá cho ông uống chơi.
Thu-Vân đi xuống dưới bếp rồi, ông mới ngồi xích lại một bên
Thể-Phụng mà nói nhỏ-nhỏ rằng:
- Tôi nuôi con Thu-Vân thuở nay tôi thương nó lung lắm. Chẳng
dấu cậu làm chi, bấy lâu nay tôi không gả nó lấy chồng, tôi muốn để nó ở với
tôi hoài đặng ông cháu hủ-hỉ với nhau. Bây giờ tôi nghĩ lại tôi đã già yếu rồi
không biết chết bữa nào, nếu tôi thương nó mà không chịu gả nó lấy chồng, thoảng
như tôi chết thình-lình rồi nó biết ai mà nương nhờ. Từ hôm tôi biết cậu đến
nay thì tôi mến tánh tình, tôi khen tài đức của cậu lắm. Cậu thiệt là bực chơn
chánh quân tử, nếu mà con Thu-Vân có chồng như cậu thì cái ngày tôi nhắm mắt
tôi vui lòng không biết chừng nào. Tuy con Thu-Vân là đứa hèn hạ quê mùa, song
tôi chắc nó cũng đủ tư cách mà nưng khăn sửa trắp cho cậu. Vậy xin cậu làm ơn
thì làm cho trót, cậu để tôi gả nó cho cậu, trước là nó đền ơn cậu cứu tôi hôm
nọ, sau nữa chừng tôi nhắm mắt nó có chỗ mà cậy nhờ.
Thể-Phụng nghe ông nói mấy lời thì mừng quýnh nên nghẹn-ngào
không biết sao mà trả lời. Chàng ngó vô cửa buồng thấy dạng Thu-Vân vởn vơ
trong đó, chàng lại bối rối hơn nữa.
Chàng ngồi ngẩn ngơ một hồi rồi mới đáp rằng:
- Thưa ông, phận tôi là bần-sĩ, ông thương nên ông tính như vậy,
thì tôi mừng lắm, có lẽ nào tôi dám phụ rãy tình ông. Nhưng mà tôi còn ngại một
đều là không biết cô Thu-Vân có khứng kết tóc trăm năm với tôi hôn?
- Sao lại không khứng, cậu đừng ngại sự ấy.
- Nếu được như vậy thì tôi xin vưng.
- Tuy vậy mà tôi còn tỏ với cậu một chuyện nầy nữa, theo như
lời cậu nói hôm nọ thì bà con bây giờ cậu còn có một ông ngoại với một bà dì.
Tôi muốn sao cậu về thưa cho ông ngoại với dì hay rồi sẽ cưới.
- Ông ngoại tôi giận tôi nên đã đuổi tôi rồi, bây giờ tôi về
sao được.
- Phận làm cháu chẳng nên oán giận ông bà. Giận thì làm lung
một lát rồi thôi, chớ tay cắt tay sao đành. Tôi khuyên cậu hãy về thưa cho ông
ngoại hay trước đặng cho tròn lễ nghĩa. Nếu ông ngoại hay bà dì qua đứng chủ
hôn mà cưới thì càng tốt lắm.
Thể-Phụng chau mày ngồi suy nghĩ một hồi rồi nói rằng:
- Ông nói vậy thì hay vậy, để vài bữa tôi tính rồi tôi thưa
cho ông hay.
Chàng về nhà nằm suy đi xét lại, thì lời buộc của ông
Lê-văn-Ðó không phải là buộc quấy, người ta muốn cho mình thảo thuận với ông
bà, chớ có phải người ta buộc mình phải ngổ nghịch hay sao mà mình trách người
ta.
Khi mình giáp mặt với cha mình thì cha mình cũng khuyên mình
đừng có phiền ông ngoại. Tại mình nóng giận mình chống cự, nên ông cháu mới
phân rẽ nhau mấy năm nay. Ðã biết ngày trước ông khắc bạc với cha mình lắm, làm
cho cha mình khổ não trọn đời, đến chừng nhắm mắt không thấy mặt con được. Mà
phận mình là con cháu, hai vai gánh nặng, nếu mình thương cha rồi trở oán ông
thì mình chẳng khỏi có lỗi với ông. Vậy thôi mình cũng nên thừa dịp nầy về thăm
ông và tỏ việc hôn nhơn luôn thể.
Thể-Phụng quyết định rồi chàng mới xin phép quan Bố nghỉ một
tháng đặng về quê thăm ông ngoại. Chàng được phép rồi, lật-đật qua nhà
Lê-văn-Ðó mà cho ông hay.
Sáng bữa sau chàng mướn ghe đi về Vũng-Gù.
Chú thích :
[1] Nghiêng ra, xoè ra xa
[2] Quay qua một vòng để xiết chặt
CHƯƠNG 20 - QUYỂN THỨ VI - ÂN TÌNH VẸN VẺ
Ðỗ-Cẩm toan giết Lê-văn-Ðó mà bắt Thu-Vân lại, chẳng dè bị Thể-Phụng
ngăn trở.
Anh ta ra vô trong dinh quan Bố mấy lần, có gặp mặt Thể-Phụng,
bởi vậy anh ta vừa thấy Thể-Phụng thì kinh tâm, mà còn bị đánh một cây gần gãy
cánh tay nữa, nên phải rút mà chạy cho khỏi nạn.
Anh ta trở về chòi thuật việc ấy lại cho vợ nghe. Thị-Phi
nghiền-ngẫm mắng chồng tưng bừng, nói rằng dầu có Thể-Phụng tiếp cứu đi nữa,
thì bất dĩ có 2 người, mình cũng 2 người, mà mình cầm mác cầm búa, cớ gì mà chạy.
Ðỗ-Cẩm lắc đầu nói rằng:
- Ðờn bà giỏi tài đánh phách hoài! Thằng đó ở đâu không biết,
thình-lình nó nhảy vô đả thằng Hanh một cây té nhào dậy không nổi rồi nó đả tao
một cây nữa gần gãy tay, tao buông cái mác cho thằng cha già đó rồi, còn giống
gì nữa mà cự. Ðã vậy mà tao biết mặt nó ở trong dinh, nếu tao không chạy, nó bắt
tao rồi làm sao?
Thị-Phi nguýt một cái rồi đi ngủ, không thèm coi chồng bị
đánh nặng nhẹ thế nào. Ðỗ-Cẩm bắt Thu-Vân không được thì giận mà sợ Thể-Phụng
cáo báo nên cũng lo.
Chiều bữa sau thấy Thể-Phụng tới nhà thì anh ta hết hồn, tưởng
quan sai đến bắt. Chẳng dè Thể-Phụng hăm he rồi bỏ ra đi, anh ta tuy bớt lo,
song còn giận lão già nuôi Thu-Vân đó lắm.
Cách ít ngày cánh tay hết đau. Thị-Phi mới xúi chồng vào dinh
cáo với quan Bố đặng bắt Thu-Vân lại.
Ðỗ-Cẩm bị Thể-Phụng hăm thì sợ, nên dụ dự không dám đi. Thị-Phi
biểu hoài không được thì giận, nên bữa nọ chị ta đánh liều đi nhầu, tính vô
dinh cáo gian mà đòi Thu-Vân lại, ví như quan Bố không cho thì sẽ nói thiệt cho
quan Bố biết Thu-Vân là con, rồi kể ơn mà xin tiền.
Bữa Thị-Phi vô dinh thì Thể-Phụng đã đi Vũng-Gù rồi. Chị ta đứng
ngoài cửa chờ đến xế quan Bố mới ra khách. Chị ta cúi đầu bước vô lạy quan Bố 3
lạy. Quan Bố trợn mắt hỏi rằng:
- Mi hầu việc chi?
- Bẩm quan lớn tôi là vợ Ðỗ-Cẩm.
- Té ra mi là vợ Ðỗ-Cẩm há! Ta thấy vợ chồng mi nghèo nàn ta
thương nên ta có cho tiền hoài, sao chồng mi không lo làm ăn, lại tụ đảng đi
đánh cướp con cháu người ta. Ta nói cho vợ chồng mi biết, nếu vợ chồng mi còn
làm việc chi quấy mà ta hay đặng thì ta bắt mà đày đa, đừng có lấp lửng.
- Bẩm quan lớn, chồng tôi có cướp con cháu của ai đau. Số là
tôi có nuôi một đứa cháu gái. Cách mười năm trước có một thằng cha ở đâu không
biết, nó đến bắt trộm cháu tôi. Mấy năm nay vợ chồng tôi tìm kiếm khắp xứ bây
giờ mới gặp nó đây. Chồng tôi đòi cháu tôi lại, nó đã không chịu trả mà còn
đánh chồng tôi nữa.
- Thôi, dẹp mi đi. Vợ chồng mi là quân ngang ngược, mi tưởng
ta không biết hay sao, nên kiếm lời mà dối ta. Mi về lo làm ăn, nếu vợ chồng mi
rụt-rịt thì ta bỏ tù rụt xương, nói cho mà biết. Ði về đi cho mau.
- Bẩm quan lớn …
- Thôi đừng có thưa bẩm gì nữa hết!
Thị-Phi bị nộ nạt thì sợ, nên lật đật lùi ra ngoài.
Chị ta đứng nép bên cửa mà suy nghĩ một hồi rồi rón rén bước
vô lạy quan Bố nữa.
Quan Bố nạt rằng:
- Sao chưa chịu về, còn vô chi nữa đó?
- Bẩm quan lớn, xin quan lớn làm phước cho phép tôi tỏ một lời.
- Mi còn muốn bẩm việc gì ?
- Bẩm quan lớn, việc tôi bẩm đây có ích cho quan lớn lắm,
song việc ấy là việc kín nên tôi bẩm cho quan lớn nghe mà thôi, chớ tôi không
muốn có người khác nghe.
Hải-Yến nghe nói như vậy thì chau mày, ngồi suy nghĩ một hồi,
rồi dạy lính hầu đi hết vô phía trong. Thi-Phi ngồi dưới đất lặng thinh, chưa
chịu bẩm. Quan Bố hỏi rằng:
- Mi muốn bẩm việc gì? Sao chưa bẩm đi?
- Bẩm quan lớn, năm trước quan lớn thi đậu rồi về thăm nhà,
quan lớn bỏ con Ánh-Nguyệt ở lại, nó đã có chửa …
- Ta không muốn mi nhắc việc xưa. Ta không biết Ánh-Nguyệt
nào hết.
- Bẩm quan lớn, sau nó đẻ được một đứa con gái đặt tên là
Thu-Vân …
- Trối kệ nó chớ! Mi bẩm với ta làm chi?
- Bẩm quan lớn, con Thu-Vân nó giống quan lớn lắm …
- Ế. Ðừng có đặt điều, nó giống ai thì mặc nó.
- Bẩm quan lớn, tôi thấy vậy nên tôi bẩm cho quan lớn hay.
- Hay làm chi?
- Bẩm quan lớn, hay đặng như quan lớn có thương thì đem về mà
nuôi.
- Ta có ba bốn đứa con còn nuôi con nuôi mà làm gì?
- Bẩm quan lớn ….
- Nín, ta nói cho mi biết. Nếu từ nay về sau mà mi còn bày
chuyện nói bậy như vậy nữa thì ta bỏ tù liền. Vợ chồng mi là quân khốn nạn, hay
bày điều đặt chuyện lắm. Ta kỳ cho vợ chồng mi nội trong 3 bữa phải đi cho khỏi
tỉnh nầy. Nếu quá 3 bữa mà ta còn thấy ở đây nữa thì ta bắt ta đày đa, nói cho
mà biết.
- Bẩm quan lớn, tội nghiệp vợ chồng tôi lắm!
- Tội nghiệp gì?
- Bẩm quan lớn, dầu vợ chồng tôi khờ dại, song hồi trước cũng
có làm ơn cho quan lớn ở đậu và quan lớn muốn sự khó hết sức, mà vợ chồng tôi
cũng phải làm cho vừa lòng quan lớn.
- Chà! Bây giờ mi kể ơn đa há! Thiệt vợ chồng mi có làm ơn
cho ta, mà chúng bây gần lột da ta, chớ phải tử-tế gì hay sao mà bây giờ kể ơn.
Quan Bố nói tới đo rồi đứng dậy đi mở tủ lấy ra 2 nén bạc mà
để trên bàn. Thị-Phi liếc thấy trong bụng mừng thầm. Quan Bố ngồi lại rồi hỏi rằng:
- Hồi nãy mi nói con nhỏ tên gì?
- Bẩm quan lớn, tên nó là Thu-Vân, đặt tên cũng tốt quá chớ.
- Bây giờ nó ở đâu? Ở với ai?
- Bẩm quan lớn nó ở với thằng cha già bắt trộm nó. Thằng cha
già tôi bẩm với quan lớn hồi nãy đó.
- Thằng cha già đó có bà co gì với nó hay không?
- Bẩm, không biết. Chắc là không có bà con gì đâu. Xin quan lớn
làm phước dạy nó giao con nhỏ lại cho tôi. Như quan lớn muốn nuôi thì nuôi, bằng
không thì để cho vợ chồng tôi nuôi cũng được.
- Ðể ta nuôi. Ta hỏi thằng cha đó tên gì? Nó ở đâu?
- Bẩm quan lớn, nhà nó ở trong rạch Vĩnh-Tường, mé bên kia,
trước nhà có một cây dừa quằn. Trong xóm đó họ kêu tên nó là sáu Thới.
- Ta nói cho mi biết. Vợ chồng mi là quân ăn cướp. Chúng bây
muốn đoạt con cháu người ta, đoạt không được rồi tới đây muốn cậy thế của ta mà
húng hiếp người ta nữa. Ta nghĩ hồi trước bây có ơn cho ta ở đậu mấy tháng, nên
ta không nỡ hại bây. Vậy ta cho mi hai nén bạc đây, mi đem về đưa cho Ðỗ-Cẩm rồi
vợ chồng phải dắt nhau đi xứ khác mà làm ăn. Nếu quá kỳ 3 bữa mà vợ chồng mi
còn ở trong tỉnh ta nữa, thì ta làm án đày vợ chồng mi chung thân. Ðây nè, lấy
bạc mà đi liền đi cho mau.
Thị-Phi đứng dậy vói lấy hai nén bạc rồi xá quan Bố mà ra.
Quan Bố kêu một tên lính mà dặn rằng:
- Mi phải đi theo con mẹ đó mà coi nhà nó ở đâu, rồi mi coi
chừng nếu trong ba ngày mà vợ chồng nó còn ở đó, không chịu bỏ nhà mà đi thì mi
bắt đóng gông hết vợ chồng nó mà bỏ vô ngục cho ta.
Tên lính đi rồi, quan Bố nằm ngay trên ván, gát tay qua trán,
cặp mắt lim dim, không biết ngài muốn ngủ, hay là ngài tính việc gì.
Vợ Ðỗ-Cẩm đến quan mà bàn luận việc Thu-Vân như vậy, song ông
Lê-văn-Ðó không hay chi hết, ông tưởng Thể-Phụng đã lo lắng xong rồi.
Sáng bữa sau, ông với Thu-Vân ăn cơm vừa rồi, thì có một tên
lính đến nhà hỏi rằng:
- Phải nhà nầy là nhà của sáu Thới hôn?
- Phải. Cậu hỏi chi vậy cậu?
- Phải sáu Thới là ông hôn?
- Phải.
- Quan lớn sai tôi đòi ông với cô gái nào tên là Thu-Vân đó đến
hầu quan lớn lập tức.
- Thưa cậu, không biết qua lớn nào đòi?
- Quan Bố. Sửa soạn đặng có đi cho mau.
Lê-văn-Ðó nghe nói quan Bố đòi thì chưng-hửng, ông nghĩ Ðỗ-Cẩm
nhơn dịp Thể-Phụng đi rồi nó đến cáo mình nên quan Bố mới đòi mình đây.
Ông hối Thu-Vân thay áo đổi quần đặng có đi cho kịp kỳ.
Thu-Vân không biết việc lành dữ thế nào, nên trong lòng hồi-hộp,
đi dọc đường cứ than rằng:
- Rủi cậu Thể-Phụng đi khỏi, không biết quan đòi mà có hại gì
hôn?
Lê-văn-Ðó thấy nàng sợ ông mới nói rằng:
- Cháu đừng có lo. Chắc là Ðỗ-Cẩm nó cáo ông đây, chớ không
phải việc chi khác. Ông cũng trông giáp mặt với quan Bố đặng ông bẩm hết cho
quan Bố nghe. Mình là người ngay, có tội tình gì mà sợ?
Ông cháu đi gần tới dinh quan Bố, xảy gặp một người cao lớn,
râu đen, mắt lộ, đứng ngó mình trân-trân. Ông vừa ngó thoáng qua thì biết người
ấy là Phạm-Kỳ, ngày trước làm xuất đội đồn Cần-Ðước, hiệp với Hải-Yến mà bắt
ông một cách rất thảm thiết. Ông sợ người ấy biết ông, nên ông day mặt chỗ
khác, làm lơ mà đi.
Tới dinh rồi, Lê-văn-Ðó với Thu-Vân đứng xớ rớ ngoài sân,
Thu-Vân thì mặt mày tái xanh, còn Lê-văn-Ðó thì bộ tịch hầm-hừ lắm. Tên lính vô
bẩm với quan Bố một chút rồi mới kêu biểu vào. Ông cháu bước vào lạy quan Bố 2
lạy rồi khoanh tay đứng ngay trước mặt ngài, ông thì nhướng mắt ngó ngay, cháu
lại sợ nên cúi mặt.
Quan Bố chăm chỉ ngó Thu-Vân rồi ngài chau mày xụ mặt, bộ sắc
không vui.
Ngài ngó một hồi lâu rồi ngài hỏi Lê-văn-Ðó rằng:
- Thằng cha già nầy tên gì?
- Bẩm quan lớn, tên sáu Thới.
- Gốc ở đâu?
- Ở Cần-Ðước.
Ngài nghe nói hai tiếng “Cần-Ðước“ thì ngài xụ mặt gãi đầu rồi
mới hỏi nữa rằng:
- Mi bà con làm sao với con nhỏ nầy?
- Tôi là chú của con Ánh-Nguyệt.
- Con nhỏ nầy tên gì?
- Từ-thu-Vân.
- Con nhà nghèo mà đặt tên tốt dữ hôn!
- Bẩm quan lớn, tuy nó nghèo mà mẹ nó hồi trước học giỏi; cha
nó học cũng giỏi, thi đậu làm quan lớn, nên phải đặt tên nó như vậy, chớ đặt
lôi-thôi sao được.
- Thằng cha già nầy lão khẩu dữ bây! Ta biếu lính nó vả rớt
răng; ta hỏi đâu thì bẩm đó, đừng có nói nhiều chuyện.
- Bẩm, quan lớn có hỏi tôi mới dám nói chớ.
- Mi nuôi con nhỏ nầy từ hồi nào cho tới bây giờ?
- Bẩm quan lớn, hơn 10 năm nay.
- Sao mi dám bắt trộm con người ta hử?
- Bẩm quan lớn, tôi có bắt trộm con ai đâu!
- Ế! Ðừng có lẻo mép. Vợ chồng tên Ðỗ-Cẩm vào đơn mà cáo rằng
cách 10 năm trước mi bắt trộm con nhỏ nầy, là con của chúng nó. Mấy năm nay mi
trốn mất, bây giờ chúng nó mới gặp được mi đây. Cái tội mi cướp con người ta đã
rõ ràng, mi không còn chối gì nữa được.
Thu-Vân nghe mấy lời thì kinh hãi, liếc ngó Lê-văn-Ðó mà nước
mắt tuôn dầm dề. Lê-văn-Ðó tỉnh táo như thường, không có sắc sợ chút nào. Ông mỉm
miệng cười và nói khoan thai rằng:
- Bẩm quan lớn, Ðỗ-Cẩm cáo gian. Xin quan lớn cho phép tôi bẩm
rõ mọi việc cho quan lớn nghe. Con nhỏ nầy là con của Ánh-Nguyệt là cháu tôi. Hồi
trước Ánh-Nguyệt lên Gia-Ðịnh đụng [3] một người chồng. Người ấy ăn ở với nó vừa
có thai thì người ấy thi đậu rồi về quê quán trên An-Giang. Nó ở lại bơ-vơ, ít
ngày đẻ con Thu-Vân nầy. Nó bị giặc Khôi nên xiêu lạc mấy năm, sau đó nó gặp vợ
chồng Ðỗ-Cẩm ở Vũng-Gù, nó gởi con nhỏ cho Ðỗ-Cẩm đặng về Cần-Ðước mà thăm tôi.
Rủi nó về tới thì kế nó mang bịnh, phải vào dưỡng đường của ông Thiên-Hộ
Chánh-Tâm mà ở. Nó biết nó phải chết, nên nó phú thác con Thu-Vân nầy cho tôi,
bởi vậy tôi lên Vũng-Gù chuộc con nhỏ hết một nén bạc rồi đem về mà nuôi từ ấy
đến nay.
Thuở nay Lê-văn-Ðó chẳng hề chịu nói gốc tích của cha mẹ
Thu-Vân cho nó nghe; hôm nay đến trước mặt quan ông mới chịu khai, Thu-Vân lấy
làm lạ nên đứng lóng tai mà nghe.
Quan Bố ngồi chống tay lên trán mà nghe, một lát ngài liếc
ngó Thu-Vân một cái chớ ngài không nói chi hết.
Lê-văn-Ðó thấy vậy mới nói tiếp rằng:
- Chồng của con Ánh-Nguyệt bạc bẽo lắm. Hồi nó tắt hơi có chồng
nó đứng một bên đó, mà làm lảng không chịu nhìn nó. Bẩm quan lớn, quan lớn biết
chồng nó là ai mà! Quan lớn cũng biết con Thu-Vân đây là con của ai chớ. Quan lớn
nhìn mặt nó cho kỹ mà coi nó giống ai đó. Nó có phải là con của Ðỗ-Cẩm đâu.
Quan Bố nghe nói tới đó thì ngài trợn con mắt, dựng chơn mày,
tay vỗ ghế mà nạt lớn rằng:
- Thằng cha già nầy nhiều chuyện thiệt mà! Ta không cần biết
nó là con của ai. Ðỗ-Cẩm nhận là con của nó, mà mi thì khai không phải là con của
mi, vậy thì ta xử mi phải giao con nhỏ nầy lại cho Ðỗ-Cẩm, mi không được nuôi nữa.
Nếu mi bất tuân thì ta bỏ tù.
Lê-văn-Ðó nói cứng cỏi rằng:
- Bẩm quan lớn, thà là tôi bóp họng con Thu-Vân nó chết trước
mặt quan lớn cho quan lớn thấy, rồi quan lớn xử tử tôi đi, chớ biểu tôi giao nó
cho vợ chồng Ðỗ-Cẩm, thiệt tôi không thể giao được.
Thu-Vân cúi lạy quan Bố và lại và bẩm rằng:
- Bẩm quan lớn, hồi con còn nhỏ má con gởi con ở với vợ chồng
Ðỗ-Cẩm mấy năm, vợ chồng chú đánh chưởi hành hạ thân con đáo để. Con nhờ ông
con đây chuộc con đem về mà nuôi, từ ấy đến nay con mới được no ấm. Xin quan lớn
thương dùm thân con, đừng có ép con phải theo Ðỗ-Cẩm nữa. Nếu quan lớn xử như vậy,
thì con tự vận mà chết liền bây giờ cho mát tấm thân, chớ con không chịu theo
chú Ðỗ-Cẩm nữa đâu.
Quan Bố nghe những lời quả quyết của ông cháu Thu-Vân như vậy
thì ngài dụ-dự, nên ngồi lặng thinh mà suy nghĩ. Chẳng hiểu ngài tính kế gì, mà
ngài trầm ngâm một hồi rồi kêu lính dạy dắt ông cháu Thu-Vân đem giam trong ngục.
Lê-văn-Ðó đi theo lính mà cặp mắt ông đỏ au. Vô trong khám rồi
ông ngồi khoanh tay chừ bự.
Thu-Vân ngồi một bên ông mà khóc. Ông trợn mắt nói rằng:
- Khóc giống gì? Ðể coi nó làm sao mà . Thiệt quân đó mặt mày
coi giống người mà lòng dạ lại giống thú. Chớ người ta sao lại không biết
thương con.
Thu-Vân không hiểu ông nói ai, nên ngước mặt ngó ông, nước mắt
còn chàm-ngoàm. Nàng hỏi ông rằng:
- Hồi nãy ông nói quan Bố biết cha tôi là ai, biết tôi là con
của ai, tại sao mà ông nói như vậy?
- Quan Bố Từ-hải-Yến đó là cha của con chớ ai.
- Úy! Ông nói chuyện gì nghe kỳ dữ vậy?
- Thiệt chớ. Nó biết cháu là con của nó lắm, mà nó làm lãng
nó không chịu nhìn. Thuở nay ông nghe ông sáu Thới nói chuyện nó bạc bẽo mà ông
không tin cho lắm, bữa nay ông mới thấy tường tận. Ngày trước nó gặp vợ nó chết,
nó không động lòng chút nào, ngày nay nó gặp mặt con nó, nó lại làm lãng, đồ
như vậy trời nào mà cho nó hưởng phú quí lâu dài.
- Tại sao mà ông nói quan Bố là cha của cháu, đâu ông nói thiệt
cho cháu nghe một chút mà.
Thuở nay Thu-Vân thường hỏi thăm gốc tích của cha mẹ nàng
hoài. Lê-văn-Ðó nhờ Ánh-Nguyệt nói chút ít, sau nhờ ông sáu Thới thuật rõ thêm,
nên ông biết đủ hết, nhưng vì ông trông mong một ngày kia cha con Thu-Vân sum
hiệp với nhau, nên ông cứ dấu hoài, ông không chịu nói.
Hôm nay ông thấy rõ ràng Hải-Yến là người vô lương-tâm, ông
không muốn cho Thu-Vân nhìn người cha như vậy mà làm chi, nên ông nhơn dịp nầy
ông mới thuật hết đầu đuôi mọi nỗi cho Thu-Vân hiểu. Ông nói tại sao mà
Ánh-Nguyệt lên Gia-Ðịnh, tại sao mà gặp Hải-Yến, tại sao Hải-Yến ăn ở với
Ánh-Nguyệt có thai rồi lại bỏ đi, tại sao mà Ánh-Nguyệt gởi Thu-Vân cho Ðỗ-Cẩm,
tại sao mà Ánh-Nguyệt mang bịnh đến bỏ mình. Ông lại thuật rõ cái cảnh Ánh-Nguyệt
thấy mặt Hải-Yến nàng tức giận nên tắt hơi, mà Hải-Yến làm lơ không thương xót
chút nào hết.
Thu-Vân nghe rõ đầu đuôi, nàng cảm thương thân mẹ mắc lừa đến
nỗi nhuốc nhơ danh tiết, dày-dạn tấm thân, bởi vậy nàng ngồi khóc dầm. Nàng
khóc mẹ rồi nàng lại khóc cha. Nàng vùng đứng dậy mà thề rằng:
- Tôi thề trên đời tôi không thèm nhìn người vô tình bạc
nghĩa ấy là cha tôi. Lời thề đây, tôi xin Trời Phật ghi chép dùm cho tôi.
Ðến chiếu lính đem cơm vô khám mà phát cho tội nhơn ăn.
Thu-Vân không chịu ăn cơm, mà đêm ấy nàng cũng không ngủ, cứ nằm gát tay qua
trán nước mắt chảy dầm dề hoài.
Sáng bữa sau, lính mở cửa khám mà kêu sáu Thới với Thu-Vân,
biểu đi theo lên hầu quan lớn.
Quan Bố vừa thấy Lê-văn-Ðó với Thu-Vân bước vào thì hỏi lớn rằng:
- Con nhỏ nầy bữa nay mi chịu theo Ðỗ-Cẩm hay chưa? Nếu mi
trái lịnh ta thì ta lên án đày luôn mi với lão già nầy.
Thu-Vân bữa nay không còn sợ-sệt như bữa trước nữa, nàng ngó
ngay quan Bố mà đáp rằng:
- Quan lớn muốn định tội thế nào con cũng vưng hết, duy có
theo Ðỗ-Cẩm thì con không vưng.
- Mi quyết trái hẳn lịnh của ta há?
- Bẩm, con đâu dám.
- Lão già kia, ta nói cho mi biết, ta thấy mi già cả nên ta
làm phước dung thứ cho mi, ta không buộc mi về tội cướp giựt con cháu người ta.
Tuy vậy ta cấm ngặt không cho mi ở trong tỉnh Ðịnh-Tường nầy nữa. Ta kỳ cho mi
trong 2 ngày mi phải đi cho khỏi địa phận của ta. Nếu mi còn trì huỡn, ta bắt
được thì ta phải đày liền, chớ ta không dung nữa. Ði đi, dắt con nhỏ nầy đi phứt
đi cho mau.
Lê-văn-Ðó với Thu-Vân lui ra rồi ông cháu dắt nhau về nhà.
Tuy hai người đều oán quan Bố nên muốn đi phứt cho rồi, song về đến nhà thu-Vân
hỏi ông rằng:
- Bây giờ mình đi đâu ông? Mình đi rồi cậu Thể-Phụng qua đây
cậu biết mình ở đâu mà kiếm?
Lê-văn-Ðó chau mày đáp rằng:
- Việc Thể-Phụng để sau rồi sẽ tính, bây giờ mình phải lo
tránh miệng cọp trước đã chớ.
Thu-Vân suy nghĩ rồi nói rằng:
- Vậy thôi thì mình qua Vũng-Gù chẳng là tiện hơn.
- Cũng được.
Lê-văn-Ðó mướn một chiếc ghe, chở hết tài vật đem xuống ghe,
rồi ông cháu bỏ nhà mà đi trong lúc ban đêm, xóm riềng không ai hay hết.
oOo
Từ ngày ông Ðàm-tự-Chấn giận đuổi Vương-thể-Phụng đi rồi, thì
ông thương nhớ nên buồn bực, không đi chơi mà cũng không nói chuyện với ai hết.
Ban ngày ông ra sau vườn trồng cây bồi liếp, làm lăng-xăng
nên giải khuây được. Thảm thay trong lúc ban đêm, ông nằm tiu-hiu một mình,
nghe tiếng gió lao rao, thấy ngọn đèn leo lét, ông động lòng nhớ cháu, nhiều
khi ông day mặt vô vách mà khóc thầm. Nếu con gái của ông là nàng Kim-Huê, hay
là tôi tớ trong nhà đứa nào làm gan lén đi kiếm Thể-Phụng mà rước về, thì chắc
ông mừng, ông không rầy-rà nữa. Ngặt vì ông cấm ngặt trong nhà không cho ai nói
tới tên Thể-Phụng, mà bộ ông lại oán hận, đi ra nhăn mặt, đi vào chau mày ai
nói tới ông thì ông rầy, bởi vậy ai nấy đều làm lơ, không dám bày biện chi hết.
Ngày qua tháng lại thấm thoát, Thể-Phụng ra đi, nhớ thì không
bao lâu, mà kể đã được 3 năm rồi. Một bữa nọ, lúc mặt trời mọc được vài sào,
ông Ðàm-tự-Chấn đương lui cui chặt mấy tàu chuối gãy sau vườn, thình-lình thằng
Son, là đứa ở với ông, nó chạy ra kêu ông bơ-hơ bài hãi mà nói rằng:
- Ông ơi, cậu Thể-Phụng về ông à.
Ông chưng-hửng day lại, nhíu chơn-mày mà hỏi gạn rằng:
- Mầy nói giống gì mà Thể-Phụng?
- Thưa, cậu Thể-Phụng về.
- Về đâu?
- Về đây chớ về đâu. Cậu ở trong nhà, đương nói chuyện với cô
hai ở trỏng.
Ông Ðàm-tự-Chấn nghe rõ rồi, ông quăng cái mác dựa gốc cau, rồi
men-men đi vô nhà, tay thì vuốt râu, miệng thì cười ngỏn-ngoẻn. Thể-Phụng thấy
ông bước vô, lật đật đứng dậy chấp tay xá ông. Ông cười và nói rằng:
- Tao biết lắm, sớm muộn gì rồi nó cũng về chớ nó đi đâu. Tao
nuôi nó nên vai nên vóc, có lẽ nào nó bạc mà đi luôn. Mấy năm nay cháu đi đâu?
Thể-Phụng cúi đầu đáp nhỏ nhỏ rằng:
- Thưa, cháu du học.
Ông lớn tuổi rồi, ông sanh lãng tai, ông nghe không rõ nên hỏi
nữa rằng:
- Cháu đi đâu?
- Thưa, cháu du học, đi xứ nầy qua xứ kia, cháu đi cùng hết.
- Hứ hừ! Cháu đi hoang-đàng như vậy cơm gạo ở đâu mà ăn, tiền
bạc ở đâu mà làm phí lộ?
- Thưa, cháu làm mướn cháu ăn.
- Bất nhơn dữ hôn! Ði ra có cực khổ như vậy mới sáng con mắt.
Cháu còn nghịch với ông nữa thôi, hử?
Ông day lại mà nói với nàng Kim-Huê rằng:
- Con mau mau bắt một con vịt làm thịt đặng dọn cơm cho cháu
nó ăn. Mấy năm nay nó đi chắc là thèm khát lắm. Con đi nấu cơm riết đi con. Con
biểu nó bắt con vịt cà-cuốn đó nghe, bắt làm thịt rồi phân nửa nấu cháo, còn
phân nửa con kho mặn mặn đặng ăn cơm.
Ðàm-kim-Huê thấy cha vui thì nàng mừng nên lật đật đi lo làm
vịt nấu cơm. Ông Ðàm-tự-Chấn ngồi ngó Thể-Phụng và vuốt râu cười hoài, ai thấy
bộ ông như vậy cũng biết ông không còn giận Thể-Phụng nữa. Thể-Phụng hiểu ý
ông, nên chàng cũng mừng. Chàng đi lần lại chỗ giường thờ mẹ mà thăm. Ông ngó
theo và nói rằng:
- Cháu đi mấy năm nay, mà trong phòng của cháu đồ đạc ông còn
để nguyên, cháu vô đó mà coi.
Thể-Phụng thấy chỗ thờ mẹ thì chàng đã cảm xúc rồi, mà chừng
chàng bước vô phòng của chàng ngày trước, chàng thấy chỗ chàng dọn mà thờ cha
bây giờ trống rỗng, chàng nhớ chuyện ông rầy-rà đá đạp, thì chàng buồn tủi, nên
chàng ứa nước mắt. Chàng đi cùng trong nhà rồi chàng đi dạo ngoài vườn, đi tới
đâu cũng thấy vật xưa cảnh cũ rước chào, ngặt vì chàng đương buồn tâm sự, đương
bận chữ tình, nên nhìn cảnh vật mà chẳng vui chi hết.
Cơm nấu chín rồi, Kim-Huê hối thằng Son dọn lên trên ván. Ông
Tự-Chấn bổn thân ra sau vườn kêu Thể-Phụng vô rồi ông cháu lên ngồi ăn với
nhau, Kim-Huê ngồi một bên bới cơm, sớt thịt ép Thể-Phụng ăn.
Ông Tự-Chấn ngồi ăn cơm mà ông thuật việc ở nhà, ông hỏi việc
của Thể-Phụng, ông nói lăng-xăng, coi bộ ông vui lắm, chớ không phải ông quạu
quọ như lúc trước. Còn Thể-Phụng hễ ông nói tới đâu thì chàng trả lời tới đó,
chàng nói vừa đủ mà thôi, chớ không nói nhiều, mà lúc chàng nói coi bộ chàng có
ý lo ra.
Ăn cơm rồi, Thể-Phụng đương đứng uống nước, ông Tự-Chấn kêu
Kim-Huê mà nói rằng:
- Con coi thằng Thể-Phụng coi có phải nó lớn hơn hồi trước
nhiều hay không. Mẹ kiếp nó! Chớ chi năm trước nó đừng có cừ ngạnh, tao cưới vợ
cho nó, thì năm nay nó đã có con rồi. Ờ, tao nghe nói con Lý-Trưởng Tiếp ở trên
vàm rạch Chanh, chú có một đứa con gái đủ nữ công nữ hạnh, thôi để đi nói mà cưới
cho nó.
- Con có thấy con nhỏ đó. Vừa với nó lắm.
- Ờ, nếu vậy để tao lựa ngày nào tốt rồi tao lên nói thử coi.
Lý-Trường Tiếp coi bộ lôi thôi, chớ chú có tiền nhiều lắm a con à.
- Chú giàu thiệt chớ.
Thể-Phụng nghe ông nói với dì bàn soạn cưới vợ cho chàng, thì
chàng tức cười thầm. Chàng thừa dịp ấy, bèn bước lại gần mà nói với ông rằng:
- Thưa ông, cháu về đây là cũng vì việc hôn nhơn nên cháu mới
về.
- Vậy hay sao? Ờ phải chớ. Cháu khôn lớn rồi, phải lo cưới vợ
đặng lập gia thất với người ta chớ. Thôi để ông coi ngày rồi ông đi nói con
Lý-Trưởng cho.
- Thưa ông …
- Thôi, ông hiểu rồi, đừng có thưa thốt chi nữa. Cháu muốn gấp
thì sáng mai ông đi. Ông nói thì chắc được, cháu đừng có lo.
- Thưa ông, cháu …
- Ậy! Ta nói được thì được mà. Muốn cưới vợ thì cũng phải chờ
một đôi tháng, chớ muốn liền bây giờ sao được. Phải đi lễ nầy lễ kia rồi mới cưới
chớ.
- Thưa ông, xin ông để cho cháu nói ít lời cho ông nghe.
- Nói giống gì?
- Hồi nãy cháu nói vì cuộc hôn nhơn nên cháu trở về đây chẳng
phải ý cháu quyết trở về mà xin ông kiếm vợ cho cháu.
- Vậy chớ hôn nhơn là giống gì? Không phải cưới vợ hay sao?
- Thưa phải.
- Ờ, nếu cưới vợ thì ông cưới cho.
- Thưa không.
- Ủa! Sao đã nói “phải” rồi lại nói “không”?
- Thưa ông, số là gần một năm nay cháu ở bên Ðịnh-Tường. Có một
ông già nhà nghèo mà ông có một đứa cháu gái tài học đã cao, mà nhan sắc lại đẹp
nữa. Cháu thấy nàng ấy cháu phải lòng, nên cháu xin kết tóc trăm năm với nàng.
Ông của nàng buộc cháu phải về thưa cho ông với dì hay, đặng ông với dì qua đứng
chủ hôn mà cưới người ta mới gả.
- Ối! Ông biết rồi. Cháu lầm to. Ðời nầy họ quỷ quyệt lắm
cháu ôi! Họ thấy cháu học giỏi, họ nghe ông giàu lớn, nên họ lấy cái sắc mà câu
cháu đa.
- Thưa ông, không phải như vậy đâu. Chỗ đó người ta chơn chất
thiệt thà lắm. Cháu cầu người ta, chớ không phải người ta cầu cháu đâu.
- Ậy! Ông khôn hơn cháu mà. Cháu đừng có cãi. Ðể rồi ông cưới
con Lý-Trưởng Tiếp cho.
- Thưa ông, bây giờ ông cưới tiên trên trời cháu cũng không
chịu. Nếu cháu không cưới được nàng Thu-Vân, thì cháu không thèm ai hết.
- Tên con đó là Thu-Vân hay sao?
- Dạ.
Ông Tự-Chấy day qua ngó Kim-Huê mà nói rằng:
- Rồi rồi! Nó bị người ta bày mưu thiết kế làm cho nó mê rồi.
Mấy năm nay tao lo việc đó lắm, mà cũng không khỏi. Khổ chưa!
Ông nói mấy lời rồi ông ngồi khoanh tay mà thở ra. Kim-Huê sợ
ông cháu vì sự nầy mà nghịch với nhau nữa, nên nàng ngồi buồn so. Thể-Phụng đã
không vui, song chàng muốn cho xong xuôi việc của chàng, nên chàng thưa nhỏ-nhẹ
với ông rằng:
- Thưa ông, ông già yếu đi xa-xôi mệt nhọc, vậy ông để dì hai
đi thế qua Ðịnh-Tường mà cưới vợ cho cháu cũng được.
- Tao không chịu. Muốn cưới vợ thì để tao lựa chỗ tử-tế có
cơm có tiền tao cưới cho, chớ cưới thứ đồ bá vơ bá láp [4] đó mà làm gì.
- Ông chưa thấy mặt người ta, mà nào ông biết người ta là đồ
bá vơ bá láp.
- Chưa thấy mà tao biết.
- Nàng ấy xứng đáng lắm, con quan cũng không bì kịp. Ðã vậy
mà cháu đã thương lỡ nàng rồi nữa.
- À! Thấy chưa! Tao biết lắm! Rõ ràng là giống kỵ-nữ (gái
làng chơi) cưới mà làm gi?
- Thưa ông, xin ông đừng có nói như vậy mà tội nghiệp cho
nàng.
- Sao mà tội nghiệp? Thứ con gái mà không đợi lễ cưới, thấy
trai thì thương trước, bây giờ nó thương mầy, không biết chừng hồi năm ngoái nó
đã có thương thằng nào khác nữa, đồ như vậy là kỵ-nữ, chớ mầy biểu tao phải kêu
nó là bà gì!
- Thưa ông, cháu với nàng ấy thương nhau là thương cách quân
tử lấy tình cao thượng mà đãi nhau, chớ có phải làm tuồng sớm mận tối đào vậy
đâu.
- Nó làm bộ mắc cỡ, nó làm bộ trinh bạch cho cháu mê, chớ thiệt
nó là con đĩ đa, cháu mê nó đây cháu phải chết. Cái tên Thu-Vân đó là tên đĩ rõ
ràng, chớ người tử-tế ai mà đặt tên như vậy.
Thể-Phụng nghe ông nói tới câu chót, thì chàng đau đớn trong
lòng quá, không thế dằn trí kiêng lời nữa được, chàng vùng đứng dậy, tay run
môi tái, chàng nói với ông rằng:
- Thiệt ông không thương tôi chút nào hết! Năm trước ông nhục
mạ cha tôi là người tôi phải kính trọng hơn hết. Bây giờ ông nhục mạ tới
tình-nhơn của tôi là người tôi đương yêu chuộng hơn hết. Ông oán hận tôi quá,
chỗ tôi kính trọng, chỗ tôi thương yêu, ông đều nhục mạ hết thảy, dường ấy thì
có thế nào tôi gần ông được nữa. Dầu lỗi với mẹ tôi thì tôi chịu, tôi nói thiệt
tôi với ông không còn tình gì nữa hết. Tôi kiếu ông với dì tôi đi.
Thể-Phụng nói dứt lời liền ngoe-nguẩy bỏ đi ra mé sông, rồi
xuống ghe đi tuốt.
Ông Tự-Chấn ngồi trân-trân, mặt mày buồn hiu. Còn Kim-Huê thì
lấy vạt áo mà lau nước mắt, song lau hoài mà nước mắt không ráo.
Thể-Phụng nằm co trong mui ghe, mà miệng thì hối trạo-phu [5]
chèo cho mau. Chàng nhớ mấy lời nặng nề chàng nói với ông ngoại hồi nãy thì
chàng ăn năn, mà rồi chàng nhớ mấy lời của ông ngoại nhục mạ Thu-Vân hồi nãy
thì chàng lại tức giận. Chàng quyết định không thèm kể tới ông hay là dì nào hết,
chàng trở qua Ðịnh-Tường tỏ thiệt việc nhà cho Lê-văn-Ðó hay và xin cưới phứt
Thu-Vân cho rồi. Chàng tính thầm rằng bây giờ trên đời nầy không ai còn biết
thương mình nữa mà mình trọng họ, vậy hễ mình làm lễ cưới rồi, mình dắt vợ qua
Nhựt-Tảo mà lạy mồ mả của cha thì đủ lễ.
Ghe tới Ðịnh-Tường phải đi ngang nhà Lê-văn-Ðó trước rồi mới
về nhà bà hai Tiền. Thể-Phụng biểu ghe ghé tại cây dừa quằn đặng cho chàng lên,
bởi vì chàng ức uất trong lòng, muốn tỏ phứt cho Lê-văn-Ðó nghe coi ông tính lẽ
nào rồi sẽ về nhà.
Chàng bước vô sân, thì thấy nhà sập cửa mà trong nhà vắng
teo. Chàng kêu hai ba tiếng lớn, mà cũng không nghe trả lời. Chàng lấy làm lạ
bèn thò tay dỡ cửa, thì cửa sập bỏ đó, chớ không có gài. Chàng chun vô nhà thì
thấy nhà trống trơn, giường ván tuy còn, song mùng mền quần áo không còn vật
chi hết. Chàng đứng ngơ-ngẩn một hồi rồi bắt từ trước đi ra sau, chàng thấy nhiều
vật đã không còn ở chỗ cũ, mà vật nào còn đó thì lại bỏ nghinh-ngang.
Thể-Phụng thấy cảnh khác thường thì chàng đổ mồ-hôi. Chàng bước
ra rồi đi qua nhà ở một bên đó mà hỏi thăm. Có một bà già lụm-cụm nói với chàng
rằng:
- Cậu hỏi ông già ở một bên đây phải hôn? Ông dọn đồ đi mất
ba bốn bữa rày, còn ở đâu đó mà hỏi.
Thể-Phụng nghe mấy lời thì biến sắc, song chàng gượng mà hỏi
nữa rằng:
- Bà biết ổng đi đau hay không?
- Ổng có nói với ai đâu mà biết. Hôm trước ổng dắt cháu ổng
đi hết một ngày một đêm, rồi ông cháu trở về. Ðêm sau ổng chở đồ đạc xuống ghe
rồi đi tuốt mất, bỏ nhà sùm sụp đó hổm nay, không ai thấy về nữa.
Thể-Phụng chắc lưỡi lắc đầu, trở xuống ghe đi về nhà bà hai
Tiền, mà trong bụng đã phát nghi, chẳng phải nghi Lê-văn-Ðó với Thu-Vân có tai
họa gì đó nên phải ẩn mặt, ấy là nghi cho ông cháu nàng nọ muốn tránh mình nên
gạt mình đi xa, đặng có trốn mà qua xứ khác cho khỏi gặp mình nữa.
Chàng về nhà nằm dàu-dàu, đã thất chí rồi bây giờ lại thêm thất
tình nữa, bởi vậy chàng lửng đửng lờ-đờ như kẻ không hồn. Mỗi bữa chàng đi qua
chỗ Lê-văn-Ðó ở mà thăm chừng coi ông có trở về hay không. Bữa nào cũng thấy
cái nhà sùm sụp bỏ đó, chớ không thấy tăm dạng ai hết. Chàng thăm chừng luôn
luôn cho tới 10 bữa, mà ông cháu Thu-Vân cũng không về, chừng ấy chàng mới mòn
chí ngã lòng, đã không trông đợi nữa, mà lại còn quả quyết ông cháu Thu-Vân gạt
chàng.
Chàng nghĩ con người thiệt là giả dối. Mình đã làm ơn cứu họ
khỏi bị giết, rồi mình còn lo lắng cho họ ăn ở yên thân; ví như họ không biết
ơn thì thôi, họ lại còn báo hại mình, cháu thì trêu ghẹo làm cho mình ngẩn-ngơ,
còn ông thì gạt gẫm làm cho mình đau-đớn. Ðời như vầy mình còn ở chung chạ với
thiên-hạ mà làm gì. Mình cũng nên vô trong chốn núi non rừng bụi rồi làm bạn với
cỏ cây vui chơi với cầm thú, dường ấy có lẽ mình mới khỏi thấy những tình giả dối,
những thói bạc đen.
Người mà thất vọng như Thể-Phụng đây dẫu cho làm quan Bố
chánh tưởng cũng không vui, chẳng luận là làm đề lại cho quan Bố chánh. Lúc ấy
Thể-Phụng không kể chức đề lại, mà cũng không kể quan Bố chánh, chàng ức uất
trong lòng quá, nên từ giã bà hai Tiền mà đi, không tính phải đi đâu, miễn là
đi cho khỏi cái cảnh vừa vui đó rồi lại buồn đó, đi cho xa loài người là một giống
thú giả dối hung dữ, đi đặng chôn cái tình thương dại, đi đặng trưởng cái chí
ghét đời.
Chàng tránh làng tránh xóm, cứ trong rừng trong bụi mà đi,
đói thì hái trái cây mà ăn, khát thì tìm nước vũng mà uống. Chàng đi trọn 5
ngày, phần thì đói bụng, phần thì mỏi chưn, nên chàng ngồi dựa gốc cây mà nghỉ.
Gió thổi lao-rao lá cây lúc-lắc; trên đầu chim kêu lảnh-lót, bên chơn dế gáy
xè-xè. Thể-Phụng ngồi ngắm cảnh một hồi trong lòng khoái hoạt, mà rồi nhớ tới
ông ngoại gay gắt, chàng nhớ tới Thu-Vân bạc-bẽo chàng thì chàng cũng còn xót dạ
sục sùi.
Tuy Thể-Phụng từ nhỏ chí lớn mặc dầu chàng theo nho học,
nhưng mà chàng là con của Vương-thể-Hùng, chàng thọ khí phách của cha nên tánh
nết cang cường, tâm chí hùng dũng chớ không phải như nhà nho bạc nhược kia,
chúng làm nhục cũng cười, gặp sầu thì tự tử. Thể-Phụng vào trong rừng mà ở rồi
mà mối sầu đã không gở được lại còn rối thêm nữa, chàng cùn trí nên sự ghét
loài người ấy bây giờ nó lại ghét nhiều hơn, rồi thành ra chàng oán nhơn quần
xã-hội không chừa ai hết. Chàng ức-uất vì người trong thân đã không biết thương
mình, mà người mình yêu lại cũng gạt mình nữa, mà cái lòng uất-ức ấy chàng
không biết tỏ với ai, bởi vậy chàng vùng đứng dậy mà nói lớn một mình rằng:
- Thiên hạ họ không thương mình, vậy mình còn thương ai mà
làm chi. Bớ loài người, bây phải biết, kể từ ngày nay tao là kẻ thù nghịch của
bây đây. Ðể rồi bây coi tao.
Thể-Phụng nói vừa dứt lời, bỗng thấy có hai người đương vạch
lùm bụi mà bước ra, hai người đều bận quần xà lỏn lưng thì không có áo, mỗi người
có cầm một cây mác thông, trong tay. Người đi trước trợn mắt ngó Thể-Phụng và hỏi
rằng:
- Mầy ở đâu mà dám đến đây? Mầy mới nói giống gì om-sòm [6] hử?
- Tao nói giống gì mặc tao, can cớ gì đến mầy mà mầy tra hỏi?
- Cha chả thằng nầy nó cứng dữ chớ. Trói đầu nó dắt về mà nạp
cho Nguyên-Soái. Chắc thằng nầy đi dọ thám chớ gì.
Hai người ấy nhảy lại ôm Thể-Phụng cứng ngắt. Thể-Phụng bị bắt
thình-lình trở đương không kịp, mà vùng-vẫy cũng không nổi. Một người thì nắm
tay, còn một người thì cắt dây đem trói Thể-Phụng rồi dắt đi. Tuy Thể-Phụng
không biết bọn nầy là ai song chàng không sợ chi hết, cứ theo coi chúng nó làm
sao.
Ði một hồi đến một khoảng đất trống, thấy có trại lá cất dãy
ngang dãy dọc. Hai người hung ác ấy dắt Thể-Phụng vào cái trại giữa rồi xô
chàng biểu quì xuống, có một người tuổi chừng lối 50, râu-ria xồm xoàm, cặp mắt
chầu quẩu, đầu bịt khăn đen, mình mặc áo quạ, ngồi trên ván, tay chống cái gối
dựa, vừa thấy Thể-Phụng thì hỏi rằng:
- Việc gì đó?
Trong 2 người hung ác ấy có một người đáp rằng:
- Bẩm quan Nguyên-Soái, chúng tôi đi tuần, gặp thằng nầy lạ mặt
mà nó đi gần trại, nên chúng tôi bắt mà nạp cho quan Nguyên-Soái. Chắc nó đi thám
dọ.
Người được tôn là Nguyên-Soái ấy ngó chăm chỉ Thể-Phụng một hồi
rồi hỏi rằng:
- Mi tên họ chi, quê quán ở đâu, con của ai, đi đến đây làm
gì? Phải bẩm cho thiệt, nếu gian ta chém đầu.
- Tôi tên là Vương-thể-Phụng, con của Vương-thể-Hùng. Gốc tôi
ở phủ Tân-An. Tôi buồn đi chơi, rủi lạc đường nên đến đây.
- Thể-Hùng nào? Phải Thể-Hùng là danh tướng của quan lớn Khôi
hồi trước hay không?
- Thưa phải, cha tôi hồi trước là Chánh-Vệ-Úy.
Người ấy nghe nói như vậy lật đật bước xuống mở trói cho Thể-Phụng,
biểu lính nhắc ghế cho chàng ngồi rồi nói rằng:
- Chú đây hồi trước cũng là bộ hạ Khôi. Chú biết ông thân
cháu lắm. Thiệt là một đứng anh hùng hào kiệt. Lúc binh triều hạ thành Gia-Ðịnh,
ông thân cháu bị thương rồi mà binh tướng triều hễ xáp lại gần người nào cũng bị
đứt đầu. Hồi đó chú nhơn lộn-xộn chú thoát được, không biết ông thân cháu có
thoát khỏi hay không.
- Thưa thoát khỏi, cha cháu chạy về ẩn mặt bên Nhựt-Tảo mười
mấy năm, mới mất chừng 3 năm nay.
- Vậy hay sao? Chú không dè, chớ phải chú hay thì chú tìm mà
rước về ở chung một chỗ đặng lo cử đồ đại sự với chú. Chú đây tên là Ðoàn-Hùng.
Từ ngày thất thủ Gia-Ðịnh rồi, chú rút vô rừng qui tụ những người đồng chí mà lập
trại nơi đây, không thèm tùng phục ai hết. Bây giờ binh của chú có trên ngàn,
lương thực không thiếu gì. Chú đương tính lấy tỉnh Ðịnh-Tường mà làm căn bổn rồi
sẽ đi thâu phục các tỉnh khác. Tưởng ai lạ, té ra cháu là con của quan Chánh-Vệ-Úy.
Vậy thôi cháu ở đây với chú. Chú cháu mình lo mưu nỗ lực mà làm cho họ biết sức
anh-hùng chơi.
Thể-Phụng đương ghét thói đời, đương oán thiên-hạ, nên nghe
Ðoàn-Hùng biểu như vậy thì chàng chịu liền. Ðoàn-Hùng mừng rỡ bèn hối quân dọn
tiệc mà đãi Thể-Phụng. Trong lúc ăn uống hai người nói chuyện với nhau.
Ðoàn-Hùng hay Thể-Phụng học nho giỏi mà không biết nghề võ, nên phong cho chàng
làm chức Tham-Tá lãnh quân xuất các dinh trại và lương thảo, còn về chinh chiến
thì về Ðoàn-Hùng lo.
Thể-Phụng bày mưu thiết kế phân binh mà đóng các chỗ hiểm địa,
bắt mấy làng ở gần phải nạp lương thực, dụ những anh-hùng dũng-sĩ mà làm vây
cánh. Thể-Phụng hiệp với Ðoàn-Hùng mà sắp đặt trong ít ngày thì trong xứ
Bình-Cách, là chỗ Ðoàn-Hùng đóng trại, chẳng còn ai mà chẳng tòng phục.
Quan Tri-Phủ Tân-An hay tin ấy bèn chạy tờ cho quan Bố Ðịnh-Tường
mà xin ngài phải lo liệu bình khấu cho mau, nếu để lâu ngày sợ e chẳng khỏi
sanh họa lớn. Quan Bố-Chánh Ðịnh-Tường chuyển bẩm với quan Tổng-Ðốc ở
Vĩnh-Long. Quan Tổng-Ðốc nhứt diện thượng sớ cho triều-đình hay, nhứt diện hạ lịnh
sai quan Bố-Chánh Hải-Yến với Ðội-Trưởng Phạm-Kỳ ở tỉnh Ðịnh-Tường đem binh dẹp
loạn.
Hải-Yến với Phạm-Kỳ được lịnh thì kiểm điểm binh trong tỉnh
được gần một ngàn, rồi chọn ngày tốt kéo qua Bình-Cách quyết quét sạch chòm
ong, đặng cho lương dân an cư lạc nghiệp.
Chú thích :
[3] lấy
[4] không đứng đắn
[5] ông lái đò
[6] ồn ào
CHƯƠNG 21 (CHƯƠNG KẾT) - QUYỂN THỨ VI - ÂN TÌNH VẸN VẺ
T
ừ khi Lê-văn-Ðó nặng lời ước nguyện với Ánh-Nguyệt trong lúc
nàng gần tắt hơi, nên ông lập thế chuộc Thu-Vân về mà nuôi, tuy ông đã nghe thấy
tánh tình bạc bẽo của Từ-hải-Yến, nhưng mà ông nghĩ nghĩa cha con là đạo trọng,
nếu ông dứt cái nghĩa ấy chẳng những là tội nghiệp cho phận Thu-Vân mà lại còn
trái đạo trời, bởi vậy ông lần lựa nuôi Thu-Vân lớn khôn, kiếm chỗ dạy Thu-Vân
ăn học, thầm tính sẽ liều thân mà làm cho phụ tử tương phùng, rồi ông kiếm nơi
yên tịnh mà ẩn mình, đặng có vùi lấp cái kiếp phong trần cho rảnh.
Nay ông thấy rõ Haỉ-Yến quyền cao chức lớn, mặt mũi cũng như
người, mà lòng dạ không giống người, trước đã phụ rãy vợ hiền, sau lại không biết
thương con thảo, thì ông ngao-ngán thói đời, ông dửng dưng phong tục, bởi vậy
lúc còn đứng trước mặt Hải-Yến thì ông vừa mới phiền muộn mà thôi, mà đến chừng
phải bỏ mà dắt Thu-Vân ra đi, thì trong lòng ông sụt sùi, ông càng nghĩ ông
càng oán hận Hải-Yến. Không phải tại ông nhớ ngày nọ Hải-Yến bắt ông, hay là
ông tức vì Ánh-Nguyệt thấy Hải-Yến nên nàng mới chết, mà bây giờ ông động lòng
nên sanh oán hận. Ông oán đây là vì ông nghĩ Hải-Yến là người học giỏi, học đã
có khoa mục, lên ngồi cái địa-vị cha mẹ dân, người dường ấy có lý nào lại không
hiểu nghĩa cang thường luân lý. Nếu Hải-Yến mà bạc vợ phụ con, ấy là tại cái
tâm tánh của anh ta là tâm tánh tiểu nhơn. Mà người tâm tánh như vậy, sao lại
cho làm quan lớn cai trị đến một tỉnh. Vợ con chẳng biết thương, thì làm sao mà
biết thương chúng dân. Người nầy đã không nên cho sống lâu, mà cũng không nên
cho làm quan. Sống thêm một ngày thì hại cho dân thêm một ngày, còn làm quan
bao lớn thì hại cho dân cũng bao lớn.
Tuy lúc gần xuống ghe mà đi, ông Lê-văn-Ðó có hứa với Thu-Vân
rằng ông đi qua miệt Vũng-Gù, và tuy ông cũng biết Thu-Vân trìu mến Thể-Phụng
nên nàng muốn cho ông đi kiếm chàng, nhưng mà ông xuống ghe rồi ông thầm nghĩ rất
rõ là cha ruột kia còn không ra gì huống chi là chồng, trong đời ông biết chắc
ông thương Thu-Vân mà thôi, chớ ông không dám tin còn ai thương nàng nữa, bởi vậy
ông đổi ý. Ông không qua Vũng-Gù, ông lại biểu ghe đưa ông trở về chùa
Bình-An-Tự.
Cũng ở trong chùa nầy, mà lần trước Lê-văn-Ðó vì cái chủ
nghĩa cao thượng, còn Thu-Vân vì tánh tình non nớt, nên ông cháu vui vẻ an phận
trót mười năm. Cũng trở về chùa nầy, mà hôm nay Lê-văn-Ðó ôm lòng oán hận, còn
Thu-Vân thì luống bận tình riêng, bởi vậy ông cháu dàu dàu, ai thấy cũng biết
thất tình thất chí. Từ sớm cho tới tối Lê-văn-Ðó cứ ở ngoài vườn kiếm việc mà
làm hoài, ông không muốn nói chuyện với ai hết. Còn Thu-Vân nấu nước cúng Phật
rồi thì nàng xẩn-bẩn trong bếp, khi ngồi khoanh tay trên ván ngó tấm vách tả-tơi,
khi đứng dựa vai vô cửa ngó mấy lùm cây rậm-rợp.
Ông cháu đều buồn, mà có lẽ tại hiểu ý nhau, nên ông lánh mặt
không muốn gặp cháu, mà cháu cũng xây lưng không dám ngó ông. Ông cháu ở trong
chùa được vài tháng.
Một buổi trưa kia Lê-văn-Ðó dẫy cỏ [7] đã mệt rồi nên ngồi bẹp
dưới gốc một cây da lớn mà nghỉ mát. Thình-lình ông thấy Thu-Vân ở trong nhà bếp
đi ra vườn, nàng đi chậm rãi, cúi mặt xuống đất, chơn bước từ bước. Ông ngó
châm bẩm mới thấy nàng hình dạng khô héo, mặt mày ưu sầu, cặp mắt sâu, gò má thỏn,
bộ như người đau mới mạnh vậy. Ông chau mày suy nghĩ một hồi rồi rồi đứng dậy
kêu nàng.
Thu-Vân giựt mình, ngó lại thấy ông đứng dựa gốc cây da thì
nàng biến sắc. Ông đưa tay mà ngoắc nàng, bởi vậy nàng phải đi lại. Khi nàng đi
gần tới, ông bèn ngồi xuống rồi thở ra mà hỏi rằng:
- Tại sao cháu buồn dữ vậy?
Nàng ứa nước mắt, song nàng cười và đáp rằng:
- Cháu có buồn việc chi đâu.
- Trong đời nầy chẳng còn ai thương cháu cho bằng ông được.
Cháu có việc chi uất-ức buồn rầu, sao cháu không nói cho ông biết? Cháu phải
nói cho ông hiểu đặng ông lo liệu chớ nếu cháu dấu ông cháu để ôm ấp cái buồn trong
lòng hoài, rồi cháu sanh bịnh ông biết làm sao!
Thu-Vân ngồi xuống, rồi lượm một lá da khô mà xé nhỏ nhỏ;
nàng lặng thinh không trả lời, mà cái mặt nàng coi sầu thảm lắm. Lê-văn-Ðó cũng
ngồi im lìm một hồi rồi ông mới hỏi nữa rằng:
- Cháu buồn vì sự cha cháu phụ rãy cháu phải hôn?
- Không … Cháu có buồn về việc đó đâu. Chớ chi cha cháu nghèo
hèn mà cháu không tìm cha cháu được thì cháu buồn, cái nầy cha cháu giàu sang,
mà cha cháu không thèm nhìn cháu, thì cháu vui lắm chớ buồn là sao.
- Hay là tại ông thuật chuyện mẹ cháu gian nan hồi trước cho
cháu hiểu, rồi cháu cảm thương thân phận của mẹ cháu mà cháu buồn?
- Thưa, hễ cháu nhớ tới chuyện của mẹ cháu, thì cháu thương mẹ
cháu thiệt. Nhưng mà ngày nay mẹ cháu đã trả xong nợ trần ai rồi, dầu cháu có
thương thì cháu kính trọng trong lòng vậy thôi, chớ phải buồn rồi mẹ cháu sống
lại được cho cháu nuôi dưỡng hay sao mà buồn.
- Vậy chớ cháu buồn việc gì?
- Thưa, không có buồn việc chi hết.
- Hay là cháu không muốn ở trong chùa nữa? Cháu muốn đi phải
hôn?
- Ði đâu bây giờ!
Ông hỏi thì nàng nói xuôi, mà chừng nàng hỏi ông lại thì ông
không biết sao mà trả lời. Ông ngồi ngẫm-nghĩ giây lâu rồi đáp rằng:
- Như cháu muốn đi qua Vũng-Gù thì ông dắt đi.
- Tự ý ông.
Nàng nói ba tiếng “tự ý ông” mà nàng chau mày ủ mặt, giọng
nói nghe thảm thiết, hột lụy thấy rưng-rưng.
Ông nghe thấy như vậy thì ông đã hiểu rõ ý nàng buồn là vì
phân cách Thể-Phụng, chớ không phải buồn việc chi khác.
Tự ý ông! Nếu thiệt nàng để tự ý ông liệu định, thì thà là
ông giết nàng chết rồi ông tự vận mà chết luôn, chớ ông không đành gả nàng cho
ai hết. Một máu một thịt là cha với con mà cha còn chẳng biết thương con, huống
chi là khác giống khác dòng là vợ với chồng, chồng thương vợ nỗi gì mà ông gây
cuộc vợ chồng cho nàng. Cũng vì cuộc vợ chồng mà mẹ nàng ngày trước phải dày
gió dạn sương, phải trêu cay nuốt đắng.
Bức tranh thê-thảm còn treo trước mắt sờ-sờ, cái đường chông
gai lẽ nào ông nỡ xuôi nàng xông pha vào đó. Nếu để tự ý ông liệu định, thì chắc
là ông khuyên nàng lánh xa trần tục, khinh bỉ loài người, chớ thếc tục bất
lương lân cận càng nhuốc nhơ, người phi nghĩa chung chạ càng phiền não.
Ngặt vì miệng nói tự ý ông, mà lòng muốn theo ý nàng; lại
lòng vì thương nàng nên ông không nỡ cãi, bởi vậy ông phải nhứt định dắt nàng
qua Vũng-Gù mà dọ tin tức Thể-Phụng.
Lê-văn-Ðó gởi hết tài vật cho Hòa-Thượng rồi dắt Thu-Vân ra
đi. Nàng đã hết buồn mà ông biểu đi, coi bộ nàng lại phấn-chấn lắm.
Ghe đi ngang qua chợ Bến-Tranh nhằm lúc ban đêm, trời có trăng
mà bị mây án nên tứ phía coi lờ mờ. Vừa qua khỏi chợ, bỗng thấy dựa mé sông,
bên tay mặt đèn đuốc sáng lòa, người ta đương lao-nhao lố-nhố. Có hai tên lính
kêu ghe ghé lại rồi bắt hết những người dưới ghe mà dắt lên một cái nhà lớn dựa
mé sông.
Lê-văn-Ðó dắt Thu-Vân vô nhà, thấy có một người, tuổi chừng
50, đương ngồi tại bộ ván giữa, còn hai bên thì người ta đứng đông nức. Người ấy
hỏi ông rằng:
- Ghe đi đâu mà đi đêm hôm vậy hử?
- Tôi đi qua Vũng-Gù.
- Chi vậy?
- Tôi dắt cháu tôi đi qua bển thăm bà con.
- Không được, phải ở lại đây.
- Thưa cậu, tôi có việc gấp xin cậu làm phước thả cho tôi đi.
Tôi có tội lỗi gì đâu mà cậu bắt tôi.
- Ế! Quan trên dạy ta hễ ai đi ngang qua đây thì bắt hết thảy.
Cho mi đi sao đặng. Quan trên mộ lính mà dẹp giặc, dạy ta sáng mai nầy phải nạp
cho đủ một trăm. Mi phải ở đây đặng ta dẫn đi nạp.
- Thưa cậu, mộ lính thì mộ người trai tráng chớ tôi già cả, cậu
bắt tôi vậy thì tội nghiệp cho tôi lắm cậu.
- Ối! Già trẻ gì cũng bắt hết thảy. Nếu kén trai tráng thì
làm sao cho đủ số.
- Cậu bắt tôi đi lính, rồi con cháu tôi đây nó bơ vơ tội nghiệp
lắm cậu.
- Nếu nó bơ vơ thì nó ở đây. Chừng nào yên giặc rồi mi trở lại
đây mà rước nó.
- Tội nghiệp tôi lắm cậu.
- Thôi, đừng có nói nhây. Ở đó đặng khuya ta đi cấp.
Lê-văn-Ðó với Thu-Vân ngó nhau mà khóc. Ông hỏi thăm người ta
thì mới hay người bắt ông đây là Lý-Trưởng. Vì Ðoàn-Hùng dấy loạn trong phía rừng
Bình-Cách, quan Bố-Chánh Ðịnh-Tường vưng lịnh quan Tổng-Ðốc đem binh qua dẹp loạn.
Mới giáp chiến một trận đầu, quan Bố-Chánh thua, binh hao gần phân nửa, nên phải
truyền lịnh cho các xã thôn phải chiêu binh mà cấp thêm cho ngài. Lê-văn-Ðó hỏi
rồi mới hiểu người ta bắt ông đây là bắt làm lính đặng đi dẹp loạn Ðoàn-Hùng.
Ông liệu thế năn-nỉ cũng không khỏi mà chống cự cũng không được,
cùng đường rồi ông phải chịu phép xin tạm gởi cháu ở lại nhà Lý-Trưởng, đặng rảnh
chơn cho ông đi, Lý-Trưởng chịu cho, và kêu vợ mà biểu đem Thu-Vân vô trong cho
nàng nghỉ.
Ðến khuya Lý-Trưởng điểm lính mà rồi dắt đi cấp cho quan Bố.
Lê-văn-Ðó căn dặn Thu-Vân phải ở đây mà chờ ông. Nàng lo sợ nên khóc dầm.
Lê-văn-Ðó vào ở trong đại trại 3 ngày mà không được thấy mặt
quan Bố-Chánh Hải-Yến. Qua bữa thứ tư, lối tảng sáng ông thấy binh lính
lao-nhao lố-nhố trước trại một tốp đông chừng lối bốn năm trăm người, kéo nhau
mà đi. Tốp đó đi rồi, người ta lại điểm những binh lính còn lại. Người ta lựa
lính trai tráng mạnh mẽ mà gom trước cửa trại. Còn Lê-văn-Ðó với một tốp chừng
lối năm sáu chục người toàn là lính già cả yếu đuối, thì người ta bỏ lại giữ trại.
Cách một lát, Lê-văn-Ðó ngó thấy quan Bố Chánh Từ-hải-Yến, đầu bịt khăn đen,
mình mặc áo rộng xanh, ở trong trại bước ra rồi leo lên kiệu mà ngồi, có một
tên lính che một cây lộng đứng một bên cái kiệu.
Trống dống 3 hồi rồi tốp lính trai tráng ấy, kẻ xách roi trường,
người vác mác thông, kéo nhau mà đi trước, kiệu của quan Bố đi theo sau.
Lê-văn-Ðó đứng trong trại mà ngó, miệng chúm-chím cười, song không ai hiểu ông
cười việc chi.
Mặt trời vừa xế bóng, Lê-văn-Ðó với mấy tên lính ở trong trại
đương bàn luận với nhau về sự chinh chiến, bỗng nghe trong rừng phía bên tay mặt
có trống dống vang-vầy, rồi lại nghe có tiếng hỏi. Cách chẳng bao lâu, rải rác
có mấy tên quân hào hễn chạy về trại và la rằng:
- Binh của mình đổ rồi. Thế giặc mạnh lắm! Chạy, chạy!
Mấy mươi lính giữ trại đều biến sắc, phân nửa bỏ mà chạy, còn
phân nửa lao xao trước cửa trại, song không chịu đào tỵ. Lê-văn-Ðó tỉnh táo như
thường, ai lộn xộn mặc ai, ông cứ đứng giữa trại mà ngó. Thình-lình ông thấy
quan Bố-Chánh Hải-Yến ở trong rừng chạy ra, đầu rớt mất khăn, tay ôm áo rộng,
và nhắm hướng trại mà chạy về. Phía sau lưng ngài thì có một tốp người ở trần
đưa lưng trụi tay cầm côn cầm mác mà rượt theo ngài và la hét om sòm.
Lê-văn-Ðó thấy rõ ràng quan Bố ra khỏi rừng chưa bao xa, kế bọn
ấy rượt theo kịp, chém ngài một mác té sấp, rồi hai ba đứa áp lại cắt cổ lấy đầu
mà bêu lên. Tuy ông oán hận Hải-Yến, nhưng mà ông thấy ông ta chết một cách rất
ghê-gớm như vậy ông cũng động lòng, nên ông hét lên rằng:
- Bọn ta phải ra tiếp quan lớn chớ.
Trong trại im-lìm, ông ngó lại thì quân lính đã chạy hết, duy
còn có một mình ông đó mà thôi.
Quân giặc tràn vô trại bắt trói ông, rồi phân ra một tốp ở
chiếm trại, còn một tốp dắt Lê-văn-Ðó và đem đầu quan Bố về nạp cho
Nguyên-Soái. Khi đi gần tới cửa trại của Ðoàn-Hùng, Lê-văn-Ðó dòm thấy có hơn một
trăm binh bị trói để ngồi sắp hàng tại đó mà chờ lịnh.
Nguyên-Soái Ðoàn-Hùng ngó thấy đầu của quan Bố Chánh Hải-Yến
thì mừng rỡ, liền hối quân đem bêu trước cửa đại trại mà thị oai. Người mới được
đại thắng, trong lòng còn khoái hoạt, không nỡ tàn hại sanh linh, bởi vậy ngài
sai bộ hạ bước ra hỏi những quân nghịch bị bắt coi như ai chịu hàng đầu thì
tha, còn ai không chịu thì xử trảm. Những quân lính bị bắt, kể số hơn một trăm,
vừa nghe lịnh thì ứng lên xin hàng đầu hết thảy, duy có hai người là Lê-văn-Ðó
với một người nữa, ngồi trơ-trơ không chịu qui hàng.
Ðoàn-Hùng dạy dẫn hai người ấy vô trại, nộ nạt om-sòm, rồi
truyền lịnh dẫn đem giao cho quan Tham-Tá trị tội. Lúc quân dẫn đi, Lê-văn-Ðó
dòm coi mới hay người không chịu đầu hàng với mình đó là Ðội-trưởng Phạm-Kỳ.
Vương-thể-Phụng đương ngồi trong trại, bỗng có quân vào báo rằng
quan Nguyên-Soái xuất trận được toàn thắng, lại có bắt 2 người già, một người
tóc cụt mà bạc trắng, còn một người râu tóc còn đen thui, hai người ấy cứng cỏi
không chịu hàng đầu, nên quan Nguyên-Soái dạy dẫn giao cho chàng định đoạt.
Thể-Phụng chau mày và dạy dắt người già tóc bạc mà cụt đó vào
trại cho chàng xem trước. Quân dẫn Lê-văn-Ðó vô và biểu quì trước án. Thể-Phụng
vừa ngó thấy ông thì chàng biến sắc, lật đật chạy lại mở trói và mời ông ngồi.
Lê-văn-Ðó chưng hửng, không hiểu vì cớ nào Thể-Phụng mới cách ông hai tháng
nay, mà bây giờ trở nên một tướng giặc. Hai người đều bợ-ngợ và cũng hỏi nhau tại
làm sao mà ra đến nỗi nầy. Thể-Phụng tỏ trước rằng chàng về Vũng-Gù thưa việc
hôn nhơn cho ngoại nghe, ông ngoại đã không bằng lòng mà còn nhục mạ Thu-Vân nữa.
Chàng tức giận bỏ trở qua Ðịnh-Tường thì ông với Thu-Vân đã trốn chàng mà đi mất.
Chàng nói tới đó coi bộ chàng buồn lắm, chàng ngẫm nghĩ một lát rồi nói nữa rằng,
-- Người đời không còn tình nghĩa chi hết, ở chung chạ với họ nữa mà làm gì.
Tôi làm giặc đây, là tính giết cho sạch những kẻ vô tâm vô đạo phi nghĩa bạc ân
đặng lập một đời mới cho nhơn dân hưởng mùi đạo nghĩa.
Lê-văn-Ðó hiểu Thể-Phụng trách ông với Thu-Vân. Ông ngồi lặng
thinh, cứ ngó chàng mà ứa nước mắt.
Ông suy nghĩ giây lâu rồi mới nói rằng:
- Cậu không rõ công việc, nên cậu hờn tôi cũng phải. Song tôi
bỏ Ðịnh-Tường mà đi, nào có phải tôi trốn cậu đâu. Nếu tôi trốn cậu thì làm sao
mà ngày nay tôi gặp cậu đây.
Ông ngần ngại một hồi nữa rồi mới chịu tỏ thiệt sự Hải-Yến là
cha ruột Thu-Vân, mới thuật chuyện Hải-Yến phũ rãy con, đã không chịu nhìn con,
mà còn đuổi đi ra cho khỏi tỉnh nữa. Trở về chùa Bình-An-Tự Thu-Vân thương nhớ
chàng, nên gầy mòn khô héo, túng thế ông phải dắt qua Vũng-Gù mà tìm chàng, chẳng
dè đi đến Bến-Tranh bị Lý-Trưởng bắt ông mà điền lính.
Thể-Phụng nghe rõ đầu đuôi mới hết giận nên hỏi ông rằng:
- Vậy chớ nàng Thu-Vân bây giờ ở đâu?
- Tôi gởi nó ở nhà Lý-Trưởng.
Thể-Phụng ngồi suy nghĩ một hồi nữa rồi nói một mình rằng:
- Bây giờ đi rước nàng đem về đây cũng bất tiện. Thôi để nàng
ở đó ít bữa rồi sẽ tính. Cha chả! Mà quan Bố văn học cao lắm, sao cách cư xử của
ngài lại đê tiện qua như vậy kia.
Lê-văn-Ðó nói rằng:
- Có phải hễ học giỏi thì biết nhơn nghĩa đâu. Người như vậy
hèn chi bị giết, đáng lắm.
- Ai giết?
- Cầm binh đánh giặc nên bị giặc giết, chớ ai.
- Giết hồi nào?
- Hồi trưa nầy. Quân cắt đầu về nạp bây giờ còn đương bêu trước
của trại.
Thể-Phụng nghe nói biến sắc. Chàng vùng đứng dậy rồi chàng lại
ngồi xuống mà nói rằng, -- Thôi, ông ở đây với tôi, rồi thủng thẳng sẽ tính.
Còn người nào bị bắt với ông mà không chịu đầu đó? Ông biết hôn?
Lê-văn-Ðó đáp rằng:
- Biết. Người đó là Ðội-trưởng Phạm-Kỳ.
- Vậy sao! Tôi nghe tên, mà không biết mặt anh ta. Bây giờ giết
nó thì tội nghiêp, mà thả nó thì hiểm nghèo, vì nó cũng là người lợi hại lắm. Dụ
nó đầu được hôn?
- Chắc là không được.
- Nếu vậy thì phải giết. Bây giờ tôi phải đi liền ra đại trại
mà xin cái đầu của quan Bố đặng chôn cất cho tử-tế, vì tuy người ở quấy với vợ
con, song người là cha của Thu-Vân, nên không lẽ tôi để vậy được. Vậy tôi giao
cây gươm nầy cho ông, ông biểu quân dẫn Phạm-Kỳ ra mé rừng mà chém nó đi.
Thể-Phụng dạy 5 tên quân dắt Phạm-Kỳ đi và đưa một cây gươm
cho Lê-văn-Ðó mà hối đi theo. Chàng sắp đạt an bài rồi chàng mới đi ra đại trại.
Quân dẫn Phạm-Kỳ đi ra mé rừng, Lê-văn-Ðó cầm gươm đi theo,
ông liếc mắt coi thì thấy anh ta không có chút chi sợ-sệt hết. Khi đi tới chỗ rồi,
Lê-văn-Ðó bước lại hỏi Phạm-Kỳ rằng:
- Mi biết đem mi đi đâu đây không?
- Ðem đi giết, chớ đem đi đâu.
- Mi không sợ chết sao?
- Chết vì bổn phận mà sợ gì.
- Mi biết ta hôn? Mi nhìn cho kỹ đi, rồi có chết.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét