Người thất chí 1
CHƯƠNG 1
Trời gần tối Trinh mặc một bộ ka-ki vàng, quần may cụt ống, áo
sơ-mi xanh, đầu đội kết (2) nỉ đen, chưn vấn ghết (3) vải xám, ở trong nhà bước
ra tới cửa, rồi day lại nói với Phụng đi theo sau: "Ở đời chẳng nên thối chí.
Làm trai mình phải có can-đảm, phải có nghị-lực cho đầy-đủ mà xông-lướt
phong-trào nguy-khổn, chớ sao lại cứ thở-than rầu-rĩ hoài như đàn-bà vậy, Mỏa
biểu toa đừng thèm buồn việc gì nữa hết. Toa cứ đi chơi cho thong-thả trí, đặng
phấn-chấn mà tranh-cạnh với thiên-hạ. Thôi toa ở nhà, để mỏa về rồi chúng ta sẽ
nói chuyện tiếp“.
Trinh bắt tay từ-giã Phụng rồi bước ra đại-lộ Galliéni(4), thủng-thẳng
đi ra hướng chợ Bến-thành.
Ngoài đường đèn khí bựt cháy lên, nam-thanh nữ-tú qua lại dập-dều,
xe kéo xe hơi nối nhau tốp chạy ra, tốp chạy vô coi không dứt.
Phụng ngó mông một hồi rồi xây lưng trở vô nhà. Chàng vặn đèn
phía trước sáng lòa rồi lại bàn viết mà ngồi, chống tay trái mà đỡ cái trán, đầu
nghiêng một bên, mắt ngó sững vô vách tường coi bộ bàng-hoàng tư-lự lung lắm.
Trong căn nhà của Phụng ở, bàn ghế dọn sơ-sàì, chớ không hực-hỡ
như các căn khác trong dãy phố đó. Phía trước có một bộ ván gỗ nhỏ, với một cái
ghế bố để nằm chơi, Chính giữa có một cái bàn vuông với một cái ghế để tiếp
khách, một bên có một cái bàn viết chứa sách đầy chồng, sách Tây sách quốc-âm xốc
lộn-xộn, không có thứ-tự. Còn phía trong thì chỉ có một cái giường để ngủ, với
hai cái rương lớn để áo quần mà thôi; bàn rửa mặt thì để dưới nhà bếp, mà chẳng
có nồi ơ, chén bát chi hết.
Trong nhà vắng hoe, khác với cảnh rần-rộ ngoài đường. Phụng cứ
ngồi im-lìm cho đến chừng cái đồng-hồ nhỏ ở trên bàn viết chỉ 7 giờ, chàng mới
đứng dậy, tắt đèn bước ra ngoài khóa cửa lại, rồi cầm chìa khóa đi lại nhà ông
Phán Thành, ở cách đó năm căn mà ăn cơm tối.
Ông Phán Thành hồi trước giúp việc tại sở Thương chánh kể đến
33 năm, ông mới được hưởng hưu-trí hồi năm ngoái. Vợ chồng ông không có con
nhưng mà ông có một người con nuôi tên Tồn, đương làm việc trong một hãng buôn
tại Sai-gòn. Vì vợ chồng không có vườn ruộng ở xứ nào hết, nên được hưu trí rồi
ông cũng ở luôn tại Sài-gòn với con nuôi đặng hủ-hỉ cho vui. Bà Phán tuy đã
trên 50 tuổi rồi, song bà còn mạnh khỏe bởi vậy mấy thầy chưa vợ ai muốn ăn cơm
tháng thì bà sẵn lòng nấu giùm.
Phụng ở đậu tại nhà Trinh đặng kiếm việc mà làm; vì Trinh làm
kiểm soát cho sở hỏa-xa, phải đi theo xe lửa đường Sài-gòn Nha trang, không thể
ăn cơm nhà được, bởi vậy đã gần ba tháng nay Phụng phải ăn cơm tháng tại nhà
ông Phán Thành.
Phụng bước vô đã thấy Tồn là con nuôi của ông Phán với thầy
Giao, là người ăn cơm tháng, ngồi sẵn mà chờ đó rồi, bởi vậy vợ chồng ông Phán
liền mời luôn lại bàn ăn.
Ông Phán hỏi Phụng:
- Bữa nay tôi thấy có ông Trinh ở nhà phải hôn?
- Thưa, phải. Hôm qua tới bữa nhằm phiên ảnh nghỉ, ảnh mới đi
làm hồi tối đây.
- Ông làm kiểm-soát sở hỏa-xa, ăn lương thì lớn mà coi thế cực
khổ tốn hao lung lắm. Đi xe hoài, ngủ không được, Có lẽ lâu ngày mệt chớ. Đã vậy
mà ăn uống không chừng, khi ăn Sài-gòn, khi ăn Nha-trang, tự nhiên phải tốn tiền
nhiều.
- Còn trẻ tuổi, dầu làm việc cực khổ chút đỉnh có hại gì. Cực
mà được lương lớn thì cũng cầu mà chịu cực. Phận cháu đây, cháu muốn cực hết sức
mà cực không được, cháu mới đáng buồn chớ.
- Cậu bền chí mà kiếm việc làm, tự nhiên cũng sẽ có chớ.
- Cháu kiếm hết sức mà chưa được chỗ nào hết.
- Đời nầy thiệt khổ. Câu có đi học bên Tây mà kiếm việc làm
không được, thế thì mấy cậu nhỏ học bên này làm sao có chỗ mà làm.
- Cháu không kén chọn chi hết, dầu làm ăn lương bốn năm chục
một tháng cháu cũng làm nữa, miễn có cơm ăn thì thôi; ngặt gần hai tháng nay,
cháu kiếm không được một chỗ nào hết, nên không biết làm sao. Cháu muốn trở về
Cần-thơ đặng mướn ruộng mà làm, mà anh Trinh cứ theo cản hoài, biểu ở trên nầy
rồi thủng thẳng sẽ có công việc làm, thủng thẳng đến chừng nào không biết!
- Từ nhỏ chí lớn cháu đi học thì phải ở tại tỉnh thành mà làm
việc, chớ không thạo cách làm ruộng, nếu trở về vườn cậu làm ruộng sao được.
- Nghề nào cũng vậy, thủng thẳng mình tập, lần lần rồi sẽ
quen, có khó gì.
Thầy Giao có tánh ít nói chuyện, nên nãy giờ thầy cứ ngồi ăn,
không nói một tiếng nào hết. Bây giờ thầy mới xen vô mà nói: „Người ta hay nói:
Hoàng thiên hữu nhãn. Theo tôi thì ông Trời không có con mắt. Nếu ổng có con mắt,
sao M. Phụng đây muốn làm ăn hết sức, dầu cực khổ không nệ, mà ổng lại không
cho có sở làm ăn. Còn có nhiều nhười khác họ biếng nhác, làm việc chi họ cũng
làm cho có chừng, không biết lo-lắng, mà sao họ lại có công việc làm luôn luôn.
Nghĩ thử coi có phải ông trời không có con mắt hay không?“.
Bà Phán cười và nói: „Mỗi người đều có mạng số riêng. Cực hay
sướng đều tại mạng của mình, chớ nào có phải tại ông trời mà thầy trách ông.
Ông trời công-bình lắm.“
Ông Phán chận mà hỏi bà:
- Bà có nói chuyện với ông trời hồi nào hay sao mà bà biết ổng
công-bình?
- Ông hỏi kỳ cục quá! Ông dám nghi ông trời không công-bình
hay sao?
- Tôi nghi lắm.
- Già rồi, đừng có nói như vậy không nên. Nếu trời không
công-bình, mà sao người làm lành lại được phước, còn kẻ làm dữ, lại bị tội.
- Ai nói với bà làm lành thì được phước, còn làm dữ thì bị tội?
Thuở nay tôi thấy nhiều người làm lành mà có được phước gì đâu, còn có nhiều kẻ
ở ác hết sức mà họ không có bị tội hồi nào hết. Đừng có chỉ ở đâu xa làm chi,
kìa bà Lợi ở căn phố bìa kìa, bà cho vay bà cắt cổ thiên-hạ ngất ngư hết, cho l
đồng bạc mỗi ngày ăn 1 cắc lời, cho 10 đồng 1 tháng ăn 4 đồng lời. Vì nghèo
túng rồi nên phải tới bà. Bà thừa dịp người ta cần dùng tiền, bà cắt họng người
ta như vậy đó, bà ở ác quá, mà bà làm giàu, chớ có bị tội gì đâu.
- Thuở nay bà Lợi cho vay như vậy, tại mình đến năn-nỉ mà vay
thì mình chịu. Bà có ép buộc ai phảỉ vay của bà đâu mà nói bà cắt hầu cắt họng.
- Phải. Bà không ép buộc ai. Nhưng mà bà là người cho vay, hễ
mình túng tiền xài thì tới bà, chớ biết đi đâu mà hỏi. Bà thừa cơ hội khốn đốn
của mình mà buộc mình phải chịu tiền lời nặng, ác là tại chỗ đó.
- Cho vay ăn lời nặng, tôi tưởng chưa ác lắm. Lúc mình hụt tiền
mua gạo, hoặc uống thuốc bà giúp cho mình, ấy là bà làm ơn. Cái ơn giúp đỡ lúc
túng ngặt đó có lẽ cũng trừ với cái ác ăn lời nặng kia được. Có người không
giúp đỡ cho ai hết mà lại còn bươi móc kiếm chuyện đặng lấy tiền lấy bạc của
người ta, mấy người đó mới thiệt là ác.
- Thừa dịp người ta nguy khốn hay là kiếm cớ làm khó cho người
ta đặng lấy tiền, đều có tội ác hết thảy. Theo ý tôi, như ông Trời của bà nóỉ hồi
nãy đó mà thiệt công-bình, thì ông quét cho sạch những hạng người ấy, rồi dân
nghèo mới hết hoạn-nạn.
- Nói như ông vậy, thì trên mặt đất nầy còn người ta nữa ở
đâu!
- Sao lại không còn? Còn người tử-tế biết nhơn nghĩa, họ ở.
- Được bao nhiêu người như vậy!
- Bao nhiêu cũng được, đông làm gì. Đông mà lộn những hạng
người không biết thương yêu ai hết, cứ lo cắt họng lật lưng người ta, thì càng
khốn-nạn, chớ ích lợi gì, Thà là có ít, mà toàn là người tử-tế, thì mặt đất nầy
trở ra thiên đàng, không khoái lạc hay sao?
- Những kẻ hung dữ, trộm cướp chém giết người ta, nếu ông muốn
trời hại họ chết hết đi, thì cũng cho là phải được; chớ mấy người cho vay ăn lời
nặng với mấy người kiếm chuyện đặng lấy tiền của người ta, mà ông cũng muốn cho
họ chết nữa, thì ông gắt quá!
- Kẻ hung bạo, trộm cướp hoặc chém giết người ta, thì toà chiếu
luật mà bỏ tù hoặc đày họ. Họ khuấy rối xã-hội, thì sẵn có luật buộc họ phải đền
tội. Ấy vậy hạng người đó ít hiểm cho bằng hạng người làm mặt quân-tử rồi cắt họng
lật lưng người ta, mà không có luật, hoặc có luật mà không có đủ bằng cớ cho
tòa trừng-trị họ. Tôi cho hai hạng người đó tội ác như nhau, thì tôi có nhơn
nhiều lắm rồi; nếu lấy tâm-lý mà xét thì hạng người sau phải chịu hình phạt nặng
hơn hạng người trước kia mới đáng.
Bà Phán hết lời mà cãi nữa.
Thầy Giao hỏi ông Phán:
- Người ta nói bà Lợi nhiều tiền lắm, phải như vậy hay không
ông Phán?
- Phải chớ. Tôi ở dãy phố nầy đã gần 20 năm nay, bả cũng ở
đó, tôi thấy bả cho vay luôn luôn. Bả ăn lời cắt cổ, 20 năm nay làm sao mà
không nhiều tiền được.
- Theo ý ông thì bây giờ trong nhà bả có chừng bao nhiêu tiền?
- Tôỉ tưởng bả có hai ba ngàn đồng là số ít.
- Nhiều tiền quá! Bả không có con cháu chi hết, mà bả cắt họng
người ta rồi để tiền cho ai ăn không biết.
- Người tham tiền thì họ cứ lo tính làm cho ra tiền nhiều mà
thôi, họ có nghĩ tới sự dùng tiền ấy bao giờ đâu. Làm ra rồi để đó, không dùng
về chỗ nào hết, chừng chết tiền ấy không đem theo được, thì cào cấu giành-giựt
đặng có tiền cho nhiều làm chi không biết.
- Đời nầy có chi quí bằng đồng tiền. Nếu mình có nhiều thì
mình được cao sang, được thiên-hạ kính-trọng, mà mình lại có thể làm ơn làm
nghĩa được nữa. Còn nếu mình không có, thì thân mình phải cực-khổ hèn-hạ, đã
không làm việc gì được, mà có khi còn phải chịu đói rách. Ấy vậy có tiền nhiều
thì sướng lắm, có quấy chi đâu, nhưng mà phải dụng tâm dụng lực cho hiệp nghĩa
hiệp nhơn mà làm ra tiền mới tốt, chớ cướp giựt cào cấu cho có tiền thì quấy lắm.
Phụng lắc đầu cười và nói: „Làm nhơn-nghĩa thì làm sao có tiền
nhiều cho được!“
Ăn cơm rồi, thầy Giao đi về liền, còn thầy Tồn thì xin phép
ông Phán mà đi coi hát bóng.
Phụng cũng từ-giã vợ chồng ông Phán mà về. Bà Phán nói: „Xin
cậu ở lại cho tôi nói chuyện riêng một chút“.
Phụng kéo ghế mà ngồi. Ông Phán đi vô trong. Bà Phán bước lại
gần mà nói nhỏ với Phụng: „Hôm tháng trước trong nhà hụt tiền xài, tôi có hỏi
bà Lợi hết 10 đồng bạc tháng. Bữa nay tới tháng, bà đòi dữ quá. Nếu cậu có tiền
xin cậu làm ơn cho giùm tiền cơm đặng tôi trả cho bà Lợi“.
Phụng biến sắc, ngồi trân-trân một hồi rồi thở ra mà đáp:
- Cháu ăn cơm đã gần hai tháng mà cháu chưa trả được cho bà đồng
nào hết, thiệt cháu ái-ngại lung quá. Hôm qua cháu đã có viết thơ về xin tiền đặng
trả cho bà. Vậy xin bà đợi vài bữa cháu được tiền cháu sẽ trả.
- Cậu chưa có việc làm mà tôi đòi tiền cơm, thiệt tôi cũng
ái-ngại hết sức. Ngặt tôi vướng hết mười đồng bạc tháng của bà Lợi, nên cực chẳng
đã tôi phải hỏi. Nếu không có như vậy, thì chừng nào cậu có sở làm rồi cậu trả
cũng được. Tôi biết cậu là người tử-tế, mất mát gì đó mà sợ.
- Thiệt bây giờ cháu không có đồng nào hết. Xin bà chịu phiền
đợi ít bữa, hễ bà già cháu gởi bạc lên thì cháu sẽ đưa cho bà liền.
- Thôi, tưởng cậu có sẵn nên tôi mới hỏi. Nếu cậu không có
thì thôi, để ít bữa nữa cũng được. Để tôi năn nỉ với bà Lợi ráng để cho tôi một
tháng nữa. Cha chả, mà phải chịu cho bà tới 3 đồng bạc lời.
- Dữ hôn!
- Vậy chớ sao. Tôi quen với bà nhiều lắm, nên bà cho ba đồng
lời đó đa, chớ bà cho người khác bả ăn tới 4 đồng.
- Mắc quá! Thôi, tiền lời ấy để cháu chịu cho bà.
- Để cho cậu chịu sao phải? Nếu cậu không có tiền, vậy chớ mấy
tháng nay cậu làm sao mà ăn xài.
- Cháu không có xài việc chi hết. Mấy tháng nay anh Trinh thường
đưa tiền cho cháu, khi 10 đồng, khi 20, biểu cháu lấy mà xài. Lần nào cháu cũng
từ chối, cháu nói cháu có tiền, cháu không chịu lấy.
- Ông Trinh ăn lương lớn, mà ông không có vợ con, ông xài tiền
không hết, ông chia bớt cho cậu xài, có hại gì mà cậu ngại.
- Tuy cháu với anh Trinh làm anh em từ hồi còn nhỏ, qua bên
Tây cũng gần-gũi nhau nữa, song cháu được ở đậu nơi nhà ảnh nghĩ cũng đã quá rồi,
nếu cháu còn lấy tiền của ảnh mà xài thì cháu không an bụng. Vậy xin bà đừng
nói cho ảnh biết sự cháu không có tiền. Nếu ảnh hay cháu không có tiền mà trả
tiền cơm thì chắc ảnh trả liền. Mà hễ để cho ảnh làm như vậy thì cháu hổ quá,
chắc cháu phải đi về xứ, không dám ở trên nầy nữa. Xin bà giấu dùm cho cháu.
- Ai nói làm chi. Cậu nghèo mà cậu giữ liêm sỉ lung quá!
- Phải biết liêm sỉ mới đáng làm người chớ.
- Tội nghiệp quá! Người như cậu vậy mà ông Trời lại không cho
giàu có chớ: hèn chi ông Phán tôi ổng nghi ông Trời không công bình.
- Cháu khổ riết rồi cháu cũng nghi như ông Phán vậy đó bà.
- Đừng có nói như vậy không nên. Cậu còn nhỏ, cậu phải tin tưởng
Trời, Phật, cậu mới đi ngay đường được.
Ông Phán ở trong bước ra và cười và nói: “Bà cứ giảng dạy
luân-lý hoài! Nghe buồn quá!”
Phụng đứng dậy từ vợ chồng ông Phán mà về. Bà Phán ngó theo
và nói với chồng: “Người trẻ tuổi mà biết đều quá. Thế mà phải chịu nghèo, thiệt
tội nghiệp hết sức.”
Chú thích
(1-) phóng tác từ Prestouplénié i nakazanié (1866) của văn
hào Nga Fédor Mikhaïlovitch Dostoievski
(2-) (tiếng Pháp: Caskette) = nón lưỡi trai, nón có rìa che nắng
(3-) (tiếng Pháp: guêtre) dây da hoặc vải đan chéo dùng bọc ống
chân (bắp chuối) từ đầu gối đến ống giày, từ ngữ này đã được việt hóa.
(4-) Nay là đại lộ Trần Hưng Đạo
CHƯƠNG 2 -
N
ghe nói trên mấy vườn cao su người ta thường cần dùng người
có học-thức để cai quản dân làm công trong sở, tuy làm việc nhiều giờ; ăn ở cực
khổ, song lương bổng họ cho rộng rãi, Phụng mới đi tìm mấy ông chủ vườn cao su
lớn ở trên Sài-gòn đặng năng-nỉ xin việc mà làm. Đi gần hết một buổi sớm mơi,
may được gặp hai ông chủ, mà một ông thì nói trong sở có đủ người dùng, còn một
ông chủ thì nói hôm tuần trước có cần dùng một người để đem lên sở trên Thủ-dầu-một,
mà ngày hôm qua đã có người xin vô làm rồi.
Phụng thất vọng, nên trở về nhà thay đồ rồi nằm dài trên ghế
bố, tay gác qua trán, mắt nhắm lim dim.
Nhà Chà-và đi phát thơ đem lại đưa một phong thơ. Phụng lấy
thơ coi ngoài bao, thấy tuồng chữ của em thì biết thơ dưới nhà gởi nên trong
lòng hồi-hộp, mừng được tin nhà, song không biết mẹ có gởi tiền đặng trả tiền
cơm cho bà Phán Thành hay không.
Phụng đi lại bàn viết ngồi, rồi lấy dao thủng-thẳng rọc bao
thơ mà rút cái thơ ra, không thấy măng-da(1), mặt biến sắc, tay run-rẩy, lòng lạnh
ngắt. Chàng gượng mà coi thơ thì thấy nói như vầy:
“Cher anh Hai,
“Hôm qua má có tiếp được thơ của anh. Trong thơ anh xin má 30
đồng để trả tiền cơm cho người ta. Má biểu em viết thơ trả lời hay rằng bây giờ
trong nhà không có tiền dư, nên xin anh đợi 15 tháng tới má lãnh tiền hưu-trí rồi
má sẽ gởi lên cho anh.
“Anh Hai ôi, bởi nhà mình nghèo, nên anh học lỡ-dở, rồi bây
giờ tấm thân trôi nổi vất-vả như vậy, em nghĩ tới phận anh, thiệt em đau lòng
xót dạ biết tới chừng nào.
“Gia-đạo của mình anh đã biết rõ hết. Hồi ba còn sanh tiền, số
tiền hưu-trí mỗi kỳ 3 tháng lãnh được 350 đồng, nên bề ăn xài trong nhà được rộng
rãi. Từ ngày ba mất rồi, má lãnh còn có phân nửa, mỗi kỳ 3 tháng có 175 đồng, bởi
vậy dùng không đủ, em phải làm bánh rồi sai bầy trẻ đi bán để kiếm lời mỗi bữa
ít cắc bạc đặng phụ mà chịu tổn-phí trong nhà.
“Mùa mưa nầy cái nhà hư dột nhiều chỗ. Rồi đây còn phải lo
tu-bổ cái nhà, tốn hao chừng 100 đồng mới đủ.
“Anh Hai ơi, em buồn, em lo lung lắm, song em cứ làm vui, em
không lộ sắc buồn cho má biết. Ngày anh xin phép má đặng đi kiếm công việc làm,
em muốn cản anh hết sức, mà em không dám cản, là vì em nghĩ em không đủ sức
nuôi anh, lại anh đi học tới bên Tây, nếu bây giờ anh ở nhà thì sợ e thiên-hạ
khinh-khi anh, họ chê anh học mà không dùng được. Tại như vậy đó nên em mới để
cho anh đi.
“Má còn biểu nói cho anh việc nầy nữa: có thầy Bang-Biện Tịnh
cậy mai nói với má xin cưới em. Thầy năm nay đã trên 40 tuổi, nhà giàu lớn,
huê-lợi mỗi năm gần 30 ngàn giạ.
“Thầy đã có vợ có con, song có con gái mà thôi, nên muốn cưới
em làm bé họa may em sanh con trai cho thầy. Thầy chịu cưới một ngàn đồng bạc,
lại hứa cất nhà lại chắc-chắn cho má với em ở.
“Bữa hổm má có hỏi ý em, má nói như em chịu thì má gả. Em
nghĩ nhà mình nghèo, bây giờ chỗ giàu có sang-trọng có ai thèm cưới em đâu. Nếu
em ưng thầy Bang-Biện Tịnh, thì bây giờ em giúp-đỡ trong nhà mình được, mà có lẽ
ngày sau thân em cũng được sung-sướng. Ngặt vì em là con ông Phủ, mà đi làm bé
người ta thì xấu hổ quá, xấu hổ cho thân em, mà cũng xấu hổ cho tông-môn nữa. Tại
như vậy đó nên em lưỡng-lự, em xin má cho em suy nghĩ ít ngày.
“Ba mất rồi, anh là lớn, anh phải chỉ đường cho em biết mà
đi. Vậy nên em xin anh suy-nghĩ, rồi cho em biết coi em có nên ưng làm bé thầy
Bang-Biện Tịnh hay không.
“Việc nầy không gắp gì. Anh suy nghĩ rồi tháng sau má lãnh tiền
hưu trí rồi em đem tiền lên cho anh, chừng ấy anh sẽ trả lời với em cũng được.
Hễ anh chịu thì em chịu, còn như anh không bằng lòng thì em thôi.
“Để gặp nhau rồi em sẽ nói chuyện dài, bây giờ em kính chúc
cho anh được vạn sự như ý”
Loan
Bái thơ
Phụng đọc thơ dứt rồi, thì vừa giận, vừa tức, vừa tủi, vừa buồn,
nên cặp mắt đỏ au, ngực nhảy thình-thịch. Chàng xếp thơ bỏ vào túi rồi đi qua
đi lại mà suy-nghĩ trót một giờ đồng-hồ.
Đến 11 giờ rưỡi, chàng khóa cửa đi lại nhà ông Phán Thành mà
ăn cơm. Chừng ăn cơm rồi, chàng đợi thầy Giao đi về, chàng mới nói với bà Phán:
- Thưa bà, bữa hổm cháu hứa với bà trong ít bữa bà già cháu gởi
tiền lên rồi cháu sẽ trả tiền cơm cho bà. Bữa nay cháu có được thơ dưới nhà gởi
lên nói 15 tây tháng tới, nghĩ là 20 ngày nữa, bà già cháu lãnh tiền hưu-trí rồi
mới gởi cho cháu được. Cháu nói lỡ lời bây giờ thất ước với bà, thiệt cháu có lỗi
nhiều quá.
- Hôm trước cậu nói trong vài ngày sẽ có tiền, tôi năn nỉ xin
bà Lợi huỡn lại cho tôi 5 ngày. Bây giờ nói với bà tới 15 tây tháng tới chắc bà
cằn-nhằn dữ lắm.
- Xin bà đừng phiền, tại cháu không tiền, chớ không phải cháu
có mà không muốn trả cho bà. Số bạc bà vay của bà Lợi xin để cháu chịu tiền lời
cho.
- Câu không có tiền thì tôi phải nói với bà Lợi để lại một
tháng nữa rồi tôi sẽ trả chớ biết làm sao.
- Cháu làm cho bà phải nhọc lòng hết sức. Bà là người ơn của
cháu, nấu cơm cho cháu ăn, mà cháu cù nhầy không trả tiền coi kỳ cục quá. Tại gặp
hồi khốn đốn, nên mới lỗi với bà như vậy. Xin bà thương giùm thân phận của
cháu, đừng phiền cháu tội nghiệp.
- Không, tôi không có phiền cậu đâu. Tôi với ông Phán thấy
tánh nết của cậu thì thương cậu lung lắm chớ. Nếu vợ chồng tôi dư dã như người
ta thì nuôi cơm cậu cũng được, ngặt vì vợ chồng tôi cũng nghèo nên mới hỏi tiền
cơm đó đặng mua gạo, đi chợ, mà nấu cho cậu ăn.
- Cháu xin bà đừng nghi-ngờ gì hết, thế nào cháu cũng trả cho
bà.
- Không, tôi không có nghi điều chi đâu.
- Cám ơn bà. Cháu xin tỏ thiệt với bà một điều nầy nữa: cháu
lên Sài-gòn ở kiếm việc mà làm đây là vì nhà cháu nghèo. Bà già cháu không có
huê lợi gì hết, chỉ có số tiền hưu trí mỗi tháng lãnh không đầy 60 đồng bạc. Đã
hai tháng rồi cháu kiếm không được việc làm. Nếu cháu ăn cơm với bà hoài, tự
nhiên phải xin tiền nhà mà trả, làm như vậy thì bà già cháu còn tiền đâu mà xài
cho đủ. Vậy cháu xin bà kể từ ngày nay cháu không lại ăn cơm nữa. Số tiền cơm
hai tháng rồi, hễ 15 tây tháng tới bà già cháu gởi lên, thì cháu trả cho bà liền.
- Cậu không ăn cơm ở đây nữa rồi cậu ăn ở đâu?
- Thưa không hại gì. Cháu mua bánh mì ăn sơ sài mỗi bữa cũng
được.
- Ý! Ăn như vậy chịu sao nổi. Ăn thất thường lâu ngày phải
mang bịnh chớ phải chơi đâu.
- Thưa được.
- Mà tôi coi thế cậu không có tiền, cậu lấy gì mua bánh mì mà
ăn?
- Cháu còn được ít cắc, chừng nào hết cháu sẽ mượn tiền của
anh Trinh cháu xài.
- Tôi muốn cậu lại nhà tôi ăn cơm hoài. Chừng nào cậu có tiền
rồi cậu sẽ trả, đừng ngại chi hết.
- Bà thương cháu nên bà biểu như vậy, song cháu phải biết xét
phận cháu, đâu dám làm như vậy.
- Tôi thấy thân phận của cậu tôi chịu không được. Tôi nghèo,
thiệt tức quá! … Tôi biểu cậu ăn cơm như thường, đừng ái ngại chi hết; tuy
nghèo song vợ chồng tôi có lẽ nuôi cậu được mà.
- Thưa, cháu đâu dám làm nhọc lòng ông bà. Kể từ chiều nay,
cháu xin bà đừng chờ cháu ăn cơm nữa.
Phụng rưng rưng nước mắt, liền đứng dậy từ bà Phán mà về. Bà
Phán ngó theo, bà cảm động, nên cũng chảy nước mắt.
Bữa chiều ấy, Phụng đóng cửa lại mà ở trong nhà cứ đi qua đi
lại từ trước ra sau, chớ không phải nằm mà nghỉ. Có lúc chàng ứa nước mắt, sắc
mặt coi hầm hầm.
Đến tối, chàng khóa cửa bước ra ngoài đường đi thơ-thẩn, gặp
một đứa nhỏ bán bánh mì, chàng mua một ổ ba xu, rồi thủng-thẳng đi xuống mé
sông ngồi trên bực thạch mà ăn; ngó trời, ngó nước im lìm, ngó xe, ngó người
náo-nức, mà chắc tại trong trí chàng đương bối-rối, nên không để ý đến vật chi
hết. Có lẽ ăn bánh mì rồi khát nước, nên lối 8 giờ chàng bươn-bả trở về nhà.
Chàng mở cửa vặn đèn, uống một hơi tới hai ly nước lạnh; rồi ngồi lại bàn viết
lấy giấy mà viết. Viết tới 3 giờ khuya, chàng mới chịu đóng cửa tắt đèn đi ngủ.
Sáng bữa sau, gần tới 7 giờ, Phụng mới thức dậy. Vì bữa chiều
hôm qua ăn không no, lại đêm ấy ngồi lâu viết nhiều, nên sắc diện của chàng coi
nhầu nhè mệt nhọc lắm.
Chàng ngồi lại bàn viết mà đọc mấy trương giấy chàng viết hồi
hôm, có khi ngừng mà suy nghĩ, có khi cầm cây viết mà sửa chữ.
Lốt 8 giờ, Trinh theo xe lửa Nha-trang về tới, bước vô nhà,
anh em mừng nhau, rồi Trinh ngó Phụng mà hỏi:
- Bữa nay sao mỏa coi sắc mặt toa mệt dữ vậy?
- Mỏa khỏe như thương, có mệt đâu.
- Hứ! Toa nói dấu mỏa! Toa lấy kiếng soi mặt của toa mà coi
có phải mệt hay không rồi toa mới hết chối. Chắc là hai bữa rày toa ở nhà, toa
buồn râu không ăn không ngủ, nên toa mệt chớ gì.
Phụng không trả lời, bỏ đi ra cửa mà đứng. Trinh vô trong buồng
thay đổi quần áo, rửa mặt gỡ đầu rồi ra nằm trên bộ ván gõ mà nghỉ lưng. Thấy
Phụng trở vô, Trinh liền nói: “Mỏa đã kiếm đủ cớ mà khuyên giải toa, mà toa cứ
buồn râu hoài, mỏa không biết làm sao nói nữa. Buồn làm chi không biết! Đứng
làm người, nhứt là đương lúc thanh niên, mình phải có cái hăng-hái, phải có cái
óc cứng cỏi mà tranh đấu với đời, hễ tranh đấu thì tự nhiên có thắng hoặc bại.
Nếu may mà có thắng thì mình chẳng nên kiêu căng mãn ý rồi ngừng lại, phải thừa
thắng mà đi tới nữa, đi hoài, đừng thôi. Còn như rủi thất bại, thì mình phải hồi
tâm định trí mà xem xét lại coi tại cớ nào mình thất bại, rồi sắp đặt
phương-pháp khác để tranh đấu nữa, chớ đừng thấy thất bại ngã lòng thối chí, phải
phấn chấn mà tranh đấu hoài, tranh đấu luôn luôn cho tới đắc thắng mới được”.
Phụng ngồi lặng thinh một hồi rồi thở dài đáp:
- Toa luận nghe phải lắm, ngặt vì mỏa quen tánh đa cảm nên hễ
gặp việc trắc-trở thì buồn bực chịu không được.
- Toa biết đời nầy là đời khôn sống hống thác. Nếu muốn sống
thì phải tập cho có cái óc thiệt hành, chớ không nên có cái óc đa cảm. Toa phải
nghe lời mỏa mà sửa tánh ý toa lại.
- Mỗi người đều có tánh riêng, dễ gì mà sửa cho được toa. Huống
chi đường tương lai của mỏa coi mịt mù, mà việc nhà của mỏa càng ngày càng bối
rối thêm hoài, làm sao mà mỏa vui-vẻ cứng cỏi như toa được.
- Mỏa đã có nói: toa cứ bền chí thì sớm muộn gì rồi cũng có
công việc làm. Hồi ở bên Tây về, mỏa cũng như toa bây giờ vậy. Mỏa kiếm sáu bảy
tháng trường mới có chỗ làm. Toa mới thất nghiệp có vài tháng mà thối chí nỗi
gì. Còn việc nhà của toa tại sao mà bối rối, toa nói cho mỏa nghe thử coi.
- Việc riêng của mỏa, khó nói rõ ra cho được.
- Hứ! Hai đứa mình là bạn thiết, thương nhau cũng như ruột thịt.
Việc của toa là việc của mỏa, tại sao toa nghi kỵ, không muốn nói cho mỏa biết?
Toa có việc mà toa dấu mỏa, té ra toa cho mỏa không đáng làm người bạn thiết của
toa hay sao?
- Mỏa biết toa thương mỏa lắm cũng như mỏa thương toa vậy, có
lẽ nào mỏa nghi kỵ.
- Nếu không nghi kỵ, thì có việc gì buồn phải nói thiệt cho mỏa
hiểu mỏa mới khuyên giải toa được chớ.
- Toa vẫn biết tuy ông già mỏa hồi trước làm quan, song đến
ngày hưu-trí không có dư đồng tiền nào hết.
- Làm quan thanh liêm nhơn đức thì dư tiền sao được. Ấy là sự
kết quả của thái-độ người xưa, có lạ gì đâu.
- Từ ngày ông già mỏa mất rồi, thì bà già mỏa hưởng tiền
hưu-trí được phân nửa thôi, không đủ tiền chi dụng trong nhà có đâu nuôi mỏa ở
bên Tây mà học nữa cho được, bởi vậy mỏa còn có một năm nữa thì thi lấy bằng kỹ-sư
mà mỏa phảì bỏ học mà trở về Mỏa thấy nhà ngheo, mỏa mới lên đây tính kiếm việc
mà làm, dầu không giúp đỡ cho bà già mỏa được thì cũng khỏi tốn hao cho bà già
mỏa. Nào dè ở đây đã 2 tháng rồi mà không làm được việc gì hết, phải nhờ cậy
toa, lại cũng phải nhờ cậy dưới nhà nữa.
- Toa có nhờ mỏa chút gì đâu? Toa ở đây cũng như toa ở coi
nhà giùm cho moả; nếu không có toa thì mỏa cũng phải trả tiền phố vậy.
- Toa đừng cãi, để mỏa nói hết cho toa nghe. Việc mỏa mới thuật
đó là một cớ làm cho mỏa phải buồn rồi. Mà bà già mỏa vì nhà nghèo, muốn giải nguy,
nên tính gả con em gái mỏa làm bé một người giàu đặng lấy tiền mà nuôi sự sống
cho cả gia đình, bà già với em mỏa làm như vậy thì mỏa chịu sao nổỉ, mà toa biểu
mỏa đừng buồn.
Phụng nói tới đó thì cảm động, chảy nước mắt, không nói được
nữa.
Trinh châu mày mà hỏi:
- Ai nóỉ với toa sự bà Phủ muốn gả em toa làm bé nhà giàu?
- Em mỏa gởi thơ cho mỏa hay.
- Ạ! Thơ đâu? Toa đưa cho mỏa coi một chút được hay không? Có
lý nào bà Phủ nỡ tính việc kỳ-cục như vậy. Mỏa không thể tin.
Phụng sơ tâm muốn nói đại khái việc nhà cho Trinh nghe mà
thôi, chớ không chịu nói rõ, mà bị Trinh nói xóc, lại đương hồi uất-ức, trí
không còn dè-dặt nữa nên vội-vã kéo hộc tủ bàn viết lấy phong thơ của cô Loan
mà đưa cho Trinh.
Trinh ngồi đọc hết rồi trả thơ lại và nói:
- Mỏa trách toa lung lắm, vì toa không thiệt tình với mỏa.
Hai tháng nay toa ăn cơm của bà Phán, toa không có tiền mà trả, sao toa không
nói cho mỏa hay? Toa không có tiền, sao mấy lần moa đưa tiền toa lại không chịu
lấy?
- Toa cho mỏa ở đậu trong nhà, mà mỏa còn lấy tiền của toa mà
xài nữa, thì khó coi quá, mỏa lấy sao được.
- Toa khờ quá! Liêm sỉ! Liêm sỉ! Làm anh em với nhau, mỏa có
tiền dư, còn toa không có, thì mỏa cho toa dùng, có gì đâu mà ái ngại? Đối vơi
moa thì toa, giữ liêm sỉ, rồi toa day qua buồn, làm lo cho bà Phủ với em toa,
thái độ như vậy đúng lắm hay sao? Á! Chú quân-tử nầy quê mùa quá! Thôi, tiền
cơm đó để mỏa tính với bà Phán, toa khỏi lo. Toa cứ lại đó ăn cơm, mỏa đủ sức
bao cho toa luôn luôn.
- Trưa hôm qua mỏa đã có nói dứt với bà Phán mỏa không ăn cơm
nhà bả nữa.
- Tại sao vậy?
- Mỏa chưa có việc làm, ăn cơm tiền đâu mà trả.
- Nếu toa không ăn cơm nhà bà Phán, rồi toa ăn ở đâu? Toa ăn
chỗ khác lại khỏi trả tiền hay sao?
- Mỏa mua bánh mì ăn bậy bạ, miễn no bụng thì thôi.
- Ồ! Toa điên hay sao? Ăn bánh mì trừ cơm sao được?
- Sao không được? Vậy chớ hồi ở bên Tây cơm đâu mình ăn?
- Ăn bánh mì cũng phải có thịt cá, rau cải kèm vô mới bổ tỳ vị
mà sống được chớ.
- Thì mỏa mua thịt mà ăn. Trong xứ mình đồ ăn rẻ, mỗi bữa ăn
tốn chừng một cắc bạc thì đủ no đủ bổ.
- Toa điên thiệt mà! … Thôi việc đó để lát nữa rồi sẽ đàm luận
lại. Bây giờ mỏa hỏi toa vậy chớ em toa hỏi ý kiến của toa đó mà toa đã trả lời
rồi hay hay chưa?
- Chưa.
- Toa phải trả lời liền và trong thơ toa phải dặn cô Loan, chừng
bà Phủ lãnh tiền hưu-trí rồí, cô đừng có gởi hoặc đem lên cho toa làm chi. Mà
cô Loan hỏi toa như vậy, toa tính trả lời thế nào đâu, toa nói cho mỏa nghe thử
coi.
- Để cho em mỏa hủy cái xuân xanh của nó và chịu nhục-nhã trọn
đời đặng cứu gia đình, làm như vậy mỏa không thế chịu được. Mỏa sẽ nhiệt liệt
ngăn cãn sự ấy.
Trinh ngồi suy nghĩ một hồi lâu rồi mới nói:
- Sanh hoạt là một vấn đề. Cô Loan ưng làm vợ bé Bang-Biện Tịnh
ấy là một cách giải quyết của vấn đề. Theo ý mỏa, nếu cô Loan vui lòng ưng thuận,
thì có lợi chớ không có hại.
- Về danh-dự mà toa luận lợi hại như buôn bán vậy sao được.
- Mỏa luận theo cái tôn chỉ thực-hành chớ. Đời nầy thiên-hạ kể
gì danh-dự. Hễ có tiền nhiều thì cao sang. Phải tranh đấu làm cho có tiền nhiều
thì mới có danh dự.
Phụng đứng dậy đi qua đi lại một hồi rồi ngó ngay Trinh mà
nói:
- Mấy lời toa nói, mỏa nghĩ phải lắm. Nhưng mà thà mỏa gả em
mỏa cho một tên nông-phu, chớ mỏa không nỡ để làm vợ bé một người giàu.
- Câu chuyện toa nói sao mâu thuẫn quá! Toa đã cho lời luận của
mỏa là phải, mà sao toa lại không chịu cho em toa làm vợ bé của người giàu?
- Vì em của mỏa là con của một ông Phủ, nên thà nghèo sạch chớ
không nên giàu mà dơ.
- Toa bị cảm nhiễm giáo-dục xưa đã sâu quá, không thế nào đổi
cáỉ óc của toa được.
- Không! Mỏa sẽ đổi cho toa coi mà, song mỏa đổi cho mỏa chớ
không chịu cho em mỏa đổi.
- Toa làm thế nào đổi cái óc của toa?
- Để mỏa suy nghĩ ít bữa rồi mỏa sẽ trả lới câu hỏi đó.
- Nếu toa bỏ được cái óc đa-cảm của toa đó thì mỏa mừng lắm vậy.
- Mỏa sẽ gắng sưc.
Hai người đàm luận tới 11 giờ, Trinh biểu Phụng thay đồ rồi dắt
nhau ra nhà hàng ăn cơm tây.
Chiều bữa sau, Trinh sửa soạn đi làm việc. Chàng để 20 đồng bạc
trên bàn nói với Phụng:
- Toa cất tiền đây đặng ở nhà ăn cơm.
- Không, không, toa khỏi lo cho mỏa.
- Toa không ăn cơm tháng nhà ông Phán nữa, mà lại không có tiền:
ở nhà toa lấy gì ăn cơm, mà biểu mỏa đừng lo?
- Mỏa kiếm ăn bậy bạ được.
- Toa đừng có cãi với mỏa mà. Kiếm ăn bậy bạ là nghĩa gì?
Trinh bỏ 20 đồng bạc trên bàn mà đi. Chừng ra tới cửa, chàng
day lại nói vói:
- Toa nhớ viết thơ dặn dưới nhà đừng gởi bạc lên. Mỏa đã trả
tiền cơm cho bà Phán rồi.
- Toa trả rồi hay sao?
- Rồi.
Phụng lắc đầu, Trinh đi tuốt.
Chú thích
(1-) (tiếng Pháp: mandat) bưu phiếu.
CHƯƠNG 3 -
L
ối 3 giờ chều, trời đã dịu nắng. Phụng mặc y phục đàng-hoàng,
rồi thủng-thẳng đi bộ ra đường Kinh Lấp(1). Chàng đi tới một căn phố lầu, trên
cửa có một tấm bảng sơn màu đề mấy chữ lớn:
Tân Đợi
Báo xuất bản hằng ngày
Phụng đứng dụ-dự một chút rồi mới mạnh dạn bước vô cửa, móc
túi lấy một tấm danh-thiệp đưa cho người đi giấy ngồi tại đó mà cậy đưa cho ông
Tổng-lý(2) nhựt báo. Chàng đứng chẳng bao lâu, thì người đi giấy trở ra mới
chàng đi theo mà lên lầu. Chàng vừa tới cửa môt cái phòng thì ông Tổng-lý báo
Tân-Đợi bước ra tiếp rước vui vẻ, nắm tay dắt vô phòng rồi kéo ghế mời chàng ngồi.
Ông Tổng-lý ngồi ngang mặt Phung, ông vừa cười vừa hỏi:
- Tôi muốn biết coi ông đến viếng tôi, ông có điều chi dạy bảo
tôi chăng?
- Tôi ở Sài-gòn mấy tháng nay, tôi nghe danh ông là người có
chí tân tấn, quyết đánh đổ nền phong-hóa hủ bại, rồi xây một nền phong-hóa mới-mẻ,
để cho xã-hội nương theo đó mà tấn-bộ cho khỏi thua sút người ta. Tôi lấy làm
ái mộ cái tôn chỉ quý báu ấy, và tuy tôi bất tài, song tôi muốn làm tay chơn cho
ông đặng giúp ông chút ít cho mau đạt đến mục-đích. Hôm nay tôi đến đây là có ý
xin ông nghĩ thử coi, ông có thể dùng vào chỗ nào được hay không. Tôi chảng nệ
cao thấp, dầu viết bài để đăng báo hay là làm băng để gởi báo cũng được, miễn
là tôi được giúp trong báo quán thì thôi.
Ông Tổng-lý châu mày, nhìn kỹ Phụng rồi mới trả lời:
- Ông có cảm tình với tờ báo của tôi, thiệt tôi cám ơn ông lắm.
Nghe mấy lời ông nói dường như tôi được nước mát xối xuống trong lòng tôi. Những
lời ấy có tánh-chất thúc giục tôi phài hăng-hái mà đuổi theo cái mục-đích của
tôi định mà bọn thủ cựu họ ghét lắm. Có lẽ trước khi đến đây, ông vẫn biết tờ
báo của tôi mới lập, nên số người mua chưa được đông. Đã vậy mà tôn chỉ của tờ
báo không thích-hợp với trí ý của hạng lão-thành trong xứ, nên họ cứ vận động
phá tôi hoài. Tại hai cớ ấy mà bề tài chánh của bổn báo không được phát-đạt.
Còn người giúp việc trong báo quán thì hiện nay đủ dùng. Ông sẵn lòng giúp tôi,
mà tôi không thế nạp-dụng được, thiệt đáng tiếc lắm…Ông học ở trường nào mà xuất
thân?
- Tôi ở bên Pháp 6 năm. Có bằng Tú-tài rồi tôi học trường
bá-nghệ được 1 năm.
- Ạ! Ông có học bên Pháp?
- Phải.
- Nếu trong tòa soạn có được ông thì quí biết chừng nào. Thuở
nay ông có phụ bút cho tờ báo nào hay chưa?
- Chưa.
- Ông có viết một bài luận rồì đăng báo chơi hay không?
- Tôi mới viết thử một bài nhưng mà không biết có đáng đăng
cho công chúng đọc hay không nên tôi chưa dám cho đăng.
- Ông viết bài luận về vấn-đề gì đó?
- Bài tôi luận về sự khờ-khạo của người mê nhơn-đức.
- Húy! Cha chả! Ông luận như thế mấy ông lão thành đạo-đức họ
càng ghét nhiều hơn nữa. Ông có thể gới bài ấy lại cho tôi xem thử hay không?
- Tôì có đem theo trong túi đây.
- Ạ! Nếu được vậy thì may lăm. Xin ông cho tôi đọc sơ một
chút.
Phụng móc trong túi lấy ra một tờ giấy ngồi viết đêm nọ mà
trao cho ông Tổng-lý.
Ông Tổng-lý dở ra mà đọc: “Nhơn đức nghĩa là ngu dại.” Ông
ngó Phụng rồi cười mà nói: “Nội thấy chữ tựa cũng đủ làm cho bon lão thành nhảy
nhởm. Viết báo phải viết như vậy, phải chọc giận độc-giả họ mới chịu đọc”. Ông
ngồi coi trọn bài từ đầu chí cuối. Chừng coi hết rồi ông nghiêm sắc mặt mà nói:
- Ông nói ông chưa viết báo mà ông viết như vậy dầu nhà nghề
cũng khó bì kịp. Hay quá! Hay mà lại thích hiệp với tôn chỉ của tờ báo “Tân-Đợi”
lắm.
- Ông khen tôi quá, ông làm cho tôi ái ngại khó chịu hết sức…
- Không. Tôi khen thiệt, chớ không phải vị tình. Luận như vậy
mà không khen sao được. Tôi lấy làm tiếc trong tòa soạn có đủ người …Tôi xin lỗi
ông, tôi tính như vầy, không biết ông có vui lòng hay không …
- Ông tính thế nào ông cứ nói rõ ra, chẳng cần phải ái-ngại.
- Tôi muốn xin ông có rảnh ông viết bài gởi lại cho tôi đăng
báo. Tôi sẽ trả tiền công từ bài để ông uống cà phê mà viết. Làm như vậy tuy
ông không ngồi trong tòa soạn, song ông cũng có thể giúp cho tờ báo “Tân-Đợi”
được. Tôi tính như vậy ông có vui lòng hay không?
- Được. Mà tôi xin nói trước với ông, tôi là người thất chí,
nên tư-tưởng của tôi trái với phong-hóa của xã-hội hiện thời lắm. Tôi sợ e lời
luận của tôi có thể làm hại cho tờ báo của ông chăng.
- Xin ông đừng ngại chỗ đó. Tôn-chỉ của tờ “Tân-Đợi” là đánh
đổ nền phong-hóa cũ rồi xây nền phong-nóa mới. Ông công-kích phong-hóa cũ thì
hiệp lắm, chớ có hại chỗ nào đâu.
- Tôi phải nói trước cho ông rõ trí ý của tôi.
- Cám ơn. Ông có vui lòng cho phép tôi đăng báo bài nầy hay
không?
- Tùy ý ông liệu định.
- Nếu vậy thì tôi sẽ đăng liền trong số báo ngày mai.
- Tôi sẽ viết bài khác mà đem lại cho ông nữa… Thôi, tôi xin
từ mà về, để cho ông làm việc.
- Xin ông chờ tôi một chút,
Ông Tổng-lý mở tủ lấy 3 đồng bạc mà đưa cho Phụng và nói:
“Xin ông vui lòng lấy ít đồng bạc để uống cà-phê chơi. Nếu mỗi tuần ông viết
cho tôi được hai hoặc ba bài thì tốt lắm”.
Phụng lấy bạc bỏ túi mà trong lòng hổ thẹn hết sức. Chàng bắt
tay ông Tổng-lý rồi xuống thang lầu mà đi.
Về tới chợ, mới Bến Thành, Phụng ngó đồng hồ gắn trên đầu chợ
thì thấy đã 4 giờ rưỡi. Chàng mua một ổ bánh mì 4 xu với một cắc bạc thịt xá-xiếu,
xin giấy gói lại kín đáo, rồi cầm đi qua đại-lộ Galliéni mà về nhà.
Chàng đi thủng-thẳng dựa lề đường, thấy phía trước mặt chừng
10 thước, có môt cô gái chừng 17, hoặc l8 tuổi mặc quần vải đen, áo vải trắng,
quần áo cũ xì, dơ dáy, lại có vá mấy miếng, tay cô bưng một cái rổ, cũng đương
đi một hướng với chàng. Khi gần tới ngã tư đường Galliéni gặp đường (đường Nguyễn
Thái Học), bỗng nghe phía sau lưng có tiếng kèn xe hơi, rồi một chiếc xe hơi
thoát qua nghe một cái vù, mau như tên bắn. Lúc tới ngã tư, thình-lình thấy một
chiếc xe hơi khác do đường chạy xuống phía Cầu Ông Lãnh.
Chiếc xe chạy đường Galliéni vì chạy mau quá, không kịp, nên
sớp-phơ phải bẻ tay lái quẹo qua phía tay mặt đặng tránh chiếc xe kia. Chánh
lúc ấy cô gái nọ bưng cái rổ đương đi lững-thững dựa bên lề đường, chỗ xe quẹo.
Cô thấy xe muốn tuôn ngang mình cô, cô lật đật nhảy lên lề gọn-gàng, mà xe cũng
theo cô leo lên lề, cái vè trước đụng cô té lăn cù, xe chạy luôn, quanh quẹo lộn
xộn đến năm sáu chục thước đường mới ngừng được.
Tai nạn nầy xảy ra mau lẹ, như chớp nháng, song Phụng đi gần
đó không đầy mười thước, lại sự rủi ở ngay trước mặt chàng, nên chàng ngó thấy
rõ ràng. Cô gái nọ vừa té thì chàng vội-vàng chạy lại, đỡ cô ngồi dậy, mặt cô
xanh dờn, đầu tóc xổ ra, nơi ống chư có vài giột máu, còn cái rổ thì văng xa với
năm sáu lon sữa bò nằm tràn lan trên mặt đất.
Phụng đứng ngó quanh quất, thấy chiếc xe gây tai-nạn ấy nằm
phía đường, sớp-phơ leo xuống rồi đi vòng chung quanh xe mà coi vè, coi bánh,
không thèm để ý tới người mình đụng té, thì chàng nổi giận, nói với cô gái: “Cô
ngồi đây đặng tôi đi kêu lính”.
Phụng dòm trước ngó sau không thấy lính, duy có những người
đi đường áp chạy lại đứng bao chung qưanh cô gái. Phụng vẹt người ta mà đi lại
chỗ xe gây tai-nạn; thấy sớp-phơ đương đứng lúc-lắc cái đèn xe thì nạt tằng: “Mầy
chạy mau, tuôn lên lề cán người ta, rồi bây giờ mầy lo cái xe của mầy, mầy khồng
kể mạng người hả?” Nói có mấy lời, kế thấy một người mặc âu phục, râu cá chốt,
ngồi tỉnh queo trên xe, thì chàng càng thêm giận nên bỏ sớp phơ day qua nói với
người ấy: “Chú dã-man lắm, không đáng ngồi xe hơi. Xe chú cán người ta, sao chú
không lo cứu cấp, cứ ngồi đó? Leo xuống! Sớp phơ đem xe lại đặng chở người bịnh
xuống nhà thương. A lê! Mau lên!
Người mặc âu-phục ríu-ríu leo xuống xe, mặt mày tái lét. Sốp
phơ thụt xe trở lại chỗ cô gái ngồi.
Phụng thấy một thầy đội tuần cảnh đạp xe máy chạy lại thì
nói: “Xin thầy đội làm vi-bằng giùm cho rõ-ràng. Thầy thấy hôn? Cô gái nầy đi
trên lề, xe hơi leo lên mà cán cô trên lề chớ không phải giữa lộ”.
Trong đám đứng coi có một người nói lớn: “Vậy mà chủ xe với sớp-phơ
muốn chạy luôn, không thèm cứu người ta chớ!”
Một người khác nói: “Chạy đâu cho khỏi. Hết thảy ai cũng thấy
số xe, nếu đi luôn thì ở tù càng thêm nặng”.
Phụng choàn tay đỡ cô gái và hỏi: “Cô đứng dậy đi lại xe được
hôn?” Cô nọ gật đầu. Phụng dìu dắt đem cô lên xe. Cô nói: “Ai đó làm ơn lấy cái
rổ với mấy hộp sữa bò giùm cho tôi”. Có một người lượm hộp lon bỏ vô rổ rồi đem
đê trên xe.
Phụng nắm cánh tay người chủ xe mà nói: “Chú leo lên xe đi.
Phải chở người bịnh xuống nhà thương coi bịnh tình thế nào rồi sẽ hay. Tôi cũng
đi theo nữa”. Chàng lại nói với thầy đội: “Xín thầy đội biên số xe, tên chủ xe,
tên sớp-phơ cho đủ đặng lập vi bằng”.
Xe hơi chở người bịnh với Phụng trở lại nhà thương thí trước
Chợ Bến-thành. Quan thầy thuốc khám nghiệm rồi nói: “May quá, bịnh không có chi
nặng, chỉ trầy đầu gối, bầm chã vai, chớ không có gãy một cái xương nào hết”.
Ông thoa thuốc mấy chỗ trầy và bầm, rồi biểu bịnh nhơn về, khỏi nằm nhà thương.
Cô gái nhúc nhắc đi ra. Phụng nói với chủ xe: “Bây giờ phải
đi xuống bót đặng khai với ông Cò cho ông lập vi-bằng rồi mới đi được”.
Người chủ xe nhỏ-nhẹ nói: “Rủi đụng cô em té, nên trầy trụa
chút đỉnh, chớ không phải cán. Thôi, để tôi cho cô em 10 đồng bạc mà uống thuốc,
tới cò bót lòng dòng thất công, chớ có ích gì”.
Phụng trợn mắt đáp:
- Được đâu! Ỷ có tiền chạy lên trên lề đặng cán người ta mà
chơi, rồi cho 10 đồng bạc đặng huề hay sao?
- Ấy là việc tủi ro sốp phơ tránh chiếc xe kia, nên leo lên lề,
chớ có lẽ nào nó cố ý chạy kỳ-cục như vậy.
- Không được. Việc nầy phải tới Tòa …Có tôi thấy rõ-ràng tôi
sẽ làm chứng cho bịnh nhơn kiện đến cùng.
- Thôi, để tôi cho cô em 20 đồng.
Thầy đội hồi nãy cạy xe máy đã lại tới. Thầy nghe nói như vậy
thì khuyên rằng: “Rủi đụng sơ sịa, chịu tiền cơm thuốc 20 đồng cũng vừa; xuống
bót hay lên tòa cũng vậy, lòng dòng thất công, chớ có ích gì. Người ta chịu cho
20 đồng đó con em chịu huề hay không?”
Cô gái gật đầu và chúm-chím cười và đáp: “Tôi chịu, mà phải
đưa bạc liền bây giờ”.
Thầy đội ngó Phụng mà nói: “Bịnh nhơn chịu rồi. Thôi thầy còn
kêu nài chi nữa. Huề thì tốt hơn. Chủ xe đưa tiền đi, tôi làm chứng cho”.
Người chủ xe lộ sắc vui mừng, lật-đật móc bóp phơ ra lấy một
tấm giấy bạc 20$ mà đưa cho cô gái bị nạn và nói: Em mua vài cắc bạc dầu em
thoa, trong ít bữa lành mạnh có gì đâu”.
Cô gái lấy tấm giấy bạc cầm trong tay, miệng chúm-chím cười.
Phụng rùn vai coi bộ không vừa lòng.
Người chủ xe dở nón chào, biểu sớp-phơ giao cái rổ lại cho cô
nọ, rồi bước lên xe hơi mà đi, thầy đội cũng đi, tay dắt xe máy.
Phụng ngó cô gái mà hỏi:
- Nhà cô ở đâu?
- Em ở đường Galliéni.
- Ủa! Té ra cô ở một đường với tôi.
- Em ở dãy nhà lá gần trong ga d’.
- Bây giờ cô đi bộ mà về nhà được hay không?
Cô gái đi nhúc-nhắc và nói: “Chưn em đau quá”.
Phụng biểu: Thôi, cô ngồi đây, để tôi kêu một cỗ xe thổ mộ
tôi đưa cô về”.
May lúc ây có một chiếc xe thổ mộ đương đi nghểu-nghến gần đó
mà kiếm mối. Phụng kêu lại, trả giá 2 người một cắc rồi giúp với cô gái đem cái
rổ đựng hộp lon lên xe mà đi.
Ngồi chung trên xe, bấy giờ Phụng ngó cô nọ kỹ-lưỡng, mới thấy
cô tuy y-phục rách-rưới, song mặt mày sáng rỡ, tay chân dịu dàng, mái tóc đen
huyền, nước da trắng đỏ, miệng cười có duyên như hao vừa nở, mắt ngó có tình
như mây mùa thu. Phụng bèn hỏi:
- Cô tên chi?
- Em tên Tâm
- Cô ở với ai trong đường Galliéni?
- Em ở với ba em.
- Cô bưng hộp lon đi đâu mà bị xe đụng đó?
- Em đi kiếp hộp lon, em lượm đặng bán cho chệc lấy tiền mua
gạo ăn.
- Trời ơi! Làm như vậy thế nào có tiền cho nhiều được!
- Bữa nào lượm được nhiều em bán tới một cắc, còn bữa nào ít
thì năm bảy xu. Có thằng em của em nó cũng đi kiếm đồ nó lượm nữa.
- Ba của cô làm nghề gì?
- Hồi trước làm việc ở ngoài Catinat, mà lãnh coi kho hàng
bên xóm chiếu. Từ hồi năm ngoái có bịnh nên ở nhà, không có đi làm việc được nữa.
- Xe chạy vô gần tới dãy nhà lá gần gare d’ Arras, cô Tâm kêu
người đánh xe mà nói: “Tới nhà em rồi. Tới cây trụ đèn thứ nhì trước kia, anh
nghe hông anh?”
Xe ngừng, Phụng nhảy xuống, móc túi lấy một cắc bạc đưa cho
người đánh xe rồi đưa tay cho cô gái nọ vịn mà leo xuống. Một tay cầm tấm giấy
bạc chặt cứng, một tay bưng cái rổ hộp lon, cô Tâm ngó Phụng mà cười và hỏi:
“Còn nhà thầy ở đâu?”
Phụng chỉ tay ra phía Sài-gòn mà đáp:
- Tôi ở phía ngoài kia.
- Sao hồi nãy tới nhà thầy không ghé?
- Tôi muốn đưa cô về tới nhà. Nhà cô là nhà nào?
- Căn nhà ở bìa kia.
- Cô đi trước. Tôi sẽ đi theo mà đưa cô về tới nhà.
- Cám ơn thầy. Em vô một mình được. Thầy vô làm chi? Nhà em
dơ dáy chật hẹp lắm.
- Không hại gì, xin cô đừng ngại. Để tôi vô đặng tôi cắt
nghĩa cuộc xe đụng rõ ràng cho ba cô hiểu.
- Thầy muốn vô thì vô, song nhà em dơ lắm, mà ba em lại có bịnh
nữa.
Cô Tâm nhúc-nhắc đi trước, Phụng thủng-thẳng theo sau, đi vô
tới một khúc bờ nhỏ rồi tới một dãy nhà lá mười mấy căn, căn nào cũng túm húm,
trong nhà trống lỗng, trước sau hào vũng đọng nước dơ-dáy hết sức. Đi tới căn
bìa, cô Tâm bước vô và nói: “Con bị xe đụng ba à!”
Phụng đứng ngoài cửa dòm vô, thấy có một người đàn-ông mặc một
cái áo lá vải trắng cũ mèm lại rách nát với một cái quần vải đen cũng rách,
đương nằm trên một cái sạp, vừa nghe cô Tâm nói thì lồm-cồm ngồi dậy và hỏi:
- Trời đất ôi! Đụng ở đâu? Có sao không con?
- Đụng chỗ ngã tư đường xuống lò heo đó. Xe đụng con té lăn
cù, mà không có sao hết, con bị bầm vai và trầy đầu gối mà thôi.
- May dữ hông! Ba thường dặn con đi đường phải coi chừng, đất
nầy xe nhiều lắm.
- Con đi trên lề chớ; tại xe tránh nhau nó leo lên lề nó đụng
con đó.
Người đàn ông ấy ngó ra cửa thấy Phụng thì nói với con:
- Có ai kia.
- Thầy đó cứu con, đem con đi lại nhà thương cho quan thầy
thuốc coi; quan thầy thuốc nói con không có gãy xương, không có bịnh chi hết, rồi
thầy kêu xe thổ-mộ đưa con về đây.
Cha của cô Tâm cứ ngồi trên sạp, chấp hai tay lại mà xá và
nói: “Tôi cám ơn thầy. Tôi có bịnh, tôi đau bại đi đứng không được, lại nhà
không có ván ghế chi hết mà dám mời thầy vô, xin thầy tha lỗi.”
Phụng dở nón mà chào rồi bước vô, tay cầm nón, tay cầm gói
bánh thịt, thấy cha của tâm tóc râu xờm-xàm, thân thể ốm nhách, thì châu mày mà
hỏi:
- Ông đau bại đã bao lâu rồi?
- Từ hồi năm ngoái, tôi ngồi một chỗ không đi đâu được hết.
- Ông bịnh không làm việc được, làm sao mà chi độ vợ con?
- Bởi vậy tôi nghèo dữ quá, cơm bữa đói bữa no, tôi nghiệp hết
sức.
Ông nói tới đó nghẹn cổ, nước mắt chảy rưng rưng, nói không
được nữa.
Lúc ấy có 3 đứa nhỏ chừng năm bảy tuổi, đứa ở trần, đứa ở truồng,
ở ngoài dắt nhau đi vô, thấy Phụng lạ nên ngó trân-trân.
Cô Tâm để cái rổ dựa vách rồi nói với cha:
- Ba đừng có buồn, ba. Con có 20$ đây.
- Bạc đâu mà có nhiều vậy?
- Nhờ thầy đây làm lung quá, biểu con phải xuống bót mà thưa
rồi nài giải tòa, nên chủ xe hơi sợ, họ chịu cho con 20$ đặng uống thuốc. Ba cất
đi ba, để con giữ con sợ làm mất mà mang khốn.
Cô Tâm đưa tấm giấy bạc cho cha.
Cha của cô Tâm mừng quá, ngó Phụng mà nói:
- Thầy giúp-đỡ con nhà nghèo như vậy, ơn của thầy trọng biết
chừng nào. Nếu không có thầy thì chắc họ cho vài đồng bạc là nhiều.
- Hồi tôi thấy xe đụng, tôi lật đật chạy lại đỡ cô em dậy.
Tôi thấy chưn có máu, tôi tưởng bịnh nặng lắm, nên tôi mới làm dữ. Té ra quan
thầy thuốc khán nghiệm, nói trầy sưng sơ sài, tôi mới mừng. Mà hồi nãy tôi dặn
chủ xe, tôi muốn làm khó, tôi không cho cô em huề. Thiệt, nếu tôi biết gia đình
của cô em như vầy, chắc tôi xụi lơ, rồi họ cho 10 đồng chớ đâu tới 20.
- Cám ơn thầy quá. Con nhỏ tôi bị xe đụng mà khỏi chết, lại
được 20 đồng bạc thì may lắm. Nếu nó chết thì sắp em nó cũng phải chết hết. Từ
ngày tôi có bịnh, tôi nhờ có nó cào-cấu(3) bươn-chải mà nuôi cả nhà, chớ tôi
đau có làm việc gì được đâu.
- Còn bà ở đâu?
- Vợ tôi chết đã ba năm nay rồi, để lại cho tôi tới 5 đứa
con. Con Tâm đây là lớn, còn một thằng nữa 13 tuổi, với 3 đứa con nhỏ lụn vụn(4)
nầy đây. Con Tâm lãnh bánh ếch, bánh dừa và kiếm hộp lon, ve chai nó bán, còn
thằng 13 tuổi thì làm ba-nhe (bagne: khổ cực) ngoài chợ, hai đứa nó kiếm tiền
mua gạo nuôi tôi với sắp nhỏ, có bữa kiếm không đủ thì nhịn đói.
- Nếu vậy thì gia đình của ông khổ lắm.
Khổ lắm, thầy ôi! Hồi trước tôi làm việc ăn lương mỗi tháng tới
60 đồng, tôi khá lắm. Con người ta hễ tới nguy thì tai nạn dồn dập tới hoài. Vợ
tôi chết làm tôi phải tốn hao mắc nợ. Chưa mãn tang vợ, kế tôi xán bịnh(5), uống
htuốc tốn hao bạc trăm nữa. Bịnh không hết mà tiền lại hết. Không đi làm việc nữa
được, tôi bán đồ đạc mà ăn lần lần, rồi bây giờ mới ra như vầy đây. Tôi nghĩ lại,
thuở nay tôi có làm việc chi ác đâu không biết sao hành phạt tôi nặng nề quá.
Phụng nghe mấy lời than ấy thì động lòng, nên thở dài rồi
nói: „Rõ ràng ông trời không công bình“.
Phụng từ mà về. Cha của cô Tâm nói: „Xin thầy vui lòng cho
tôi biết coi nhà thầy ở đâu, quí danh là chi, đặng tôi dặn con tôi nó nhớ mà
cung kính thầy.“
Phụng lắc đầu đáp: „Không cần. Sự tôi giúp cô Tâm trong lúc
tai nạn là tự nhiên, ai cũng phải làm như vậy, không có ơn nghĩa chi hết. Tôi
chúc thánh thần trời phật, nếu có linh, thì làm cho ông lành mạnh đặng ông nuôi
con. Nếu được vậy thì tôi vui hơn hết“.
Cha của cô Tâm chấp tay xá Phụng và nói: „Tôi là Nguyễn văn
Khoa, 45 tuổi cũng cầu chúc trời phật thánh thần phò hộ cho thầy, biết thương
con nhà nghèo, được bình an, mạnh giỏi, giàu có đời đời.“
Phụng thủng thẳng đi bộ trở về nhà. Trời đã tối rồi, chàng vặn
đèn lên, vô buồng thay đồ rồi mở gói bành mì với thịt ra ngồi ăn. Ăn uống no rồi
chàng nằm trên ghế bố mà nghỉ lưng, nhớ câu chuyện ông Tổng lý báo „Tân Ðợi“ rồi
nhớ cảnh gia đình ông Nguyễn văn Khoa thì trong trí chàng bàng hoàng, thêm buồn,
thêm tiếc. Chàng đứng dậy đi lại bàn viết, tính viết một bài luận đặng đăng
báo. Chàng lấy một tờ giấy, viết tựa 5 chữ lớn: „Ông trời không công bình“.
Chàng ngồi một hồi, chắc là định thần chưa được, nên đứng dậy đi qua đi lại mà
kiếm tư tưởng.
Chú thích
(1-) nay là đại lộ Nguyễn Huệ
(2-) chủ nhiệm
(3-) Vơ vét
(4-) vụn vặt, không đáng kể tới
(5-) ngã bịnh, nằm bịnh. (Mắc cây mưa, xán bịnh nằm vùi. CD)
CHƯƠNG 4 -
C
húa nhựt, nhằm phiên Trinh nghỉ nên chàng ở nhà.
Buổi chiều chàng thấy Phụng đang nằm trên ghế bố mà coi sách,
sợ nói chuyện rồi làm cho bạn lo ra, nên chàng đi lại bàn viết mà ngồi. Thấy có
hai tờ nhựt trình “Tân Đợi” để trên bàn, chàng mới mở ra mà xem. Chàng chăm chỉ
mà đọc, đọc tờ trước rồi lật tới tờ sau nữa. Chàng đọc một hồi rất lâu rồi day
lại hỏi Phụng:
- Báo “Tân Đợi” có đăng hai bài: một bài đề tựa “Nhơn đức
nghĩa là ngu dại” với một bài đề tựa “Ông Trời không công bình”, phải của toa đặt
hay không?
- Tại sao mà hỏi như vậy?
- Hai bài ấy có ký tên “Linh-Phụng” thì là toa chớ ai.
- Phải. Hai bài ấy của mỏa.
- Trời ôi! Thuở nay toa tôn-trọng nền phong-hóa lung lắm, mà
sao bây giờ toa luận như vậy, lại còn đăng báo cho công-chúng xem?
- Tâm-hồn của mỏa đã đổi rồi. Mỏa quyết đánh đổ nền phong hóa
hủ bại của tổ tiên mình để lại, tồi gây một nền phong-hóa mới có đủ tánh-chất
hùng-dũng cương-quyết tấn-thủ, đặng giúp cho đồng-bào mau tấn-hóa cho kịp dân-tộc
khác.
Trinh ngó Phụng trân-trân rồi lắc đầu mà than:
- Chứng bịnh đa-cảm của toa đã lậm trong máu, trong xương rồi,
không thể nào trị được!
- Không! Mỏa có đa-cảm nữa đâu. Mỏa nghe lời toa, mỏa tập
tánh thiệt hành, nên mỏa mới viết bài luận như vậy chớ.
- Không phải vậy, toa hiểu lầm, toa đi lạc. Tại cái óc của
toa đa-cảm, lại đa-cảm thái quá nên toa mới luận như vậy, chớ có phải thiệt
hành đâu. Để mỏa cắt nghĩa cho toa nghe. Người có trí ý thiệt hành, thì gặp cảnh
thiên-hạ vui không biết vui, thấy thiên-hạ buồn không biết buồn, thấy thói
tàn-ác không biết giận, gặp người cùng khổ không biết thương, nghĩa là hễ người
mà có cái óc thiệt hành thì coi cuộc đời như một hí-trường, dầu vui, dầu buồn,
dầu sướng, dầu cực đều là cảnh tạm hết thảy, không cần phải lưu tâm làm chi, cứ
lo kiếm phương-pháp mà tránh sự buồn, sự cực, đặng hường sự vui, sự sướng.
- Người như vậy là người chán đời chớ có phải thiệt hành đâu.
- Toa muốn kêu là người gì cũng được. Nhưng mà theo ý chí của
toa thì toa không phải thuộc về hạng người ấy. Toa nói toa đã bỏ cái thói đa-cảm,
toa có bỏ đâu. Toa còn cảm nhiều thêm nữa chớ. Trước kia toa tôn-trọng
phong-hóa, toa mê-mẩn thành-kiến, mà toa thấy cuộc đời trái ngược với chỗ toa
sùng-bái nên toa sanh phiền-não trong lòng. Vì phiền-não thái quá toa chịu
không được, nên sau nầy toa hồi-tâm trở lại toa oán những phong-hóa, ghét những
thành-kiến ấy, mà toa lại oán ghét thái quá, cũng như hồi toa sùng-bái đó vậy,
cái thái-độ của toa dường ấy há không phải là thái-độ của người đa-cảm hay sao?
Phụng nằm lặng thinh không cãi nữa.
Trinh nói tiếp: “Cái trí ý đa-cảm của toa nó khiến cho toa phải
phạm tôi “thái quá” luôn luôn, trước kia buồn-rầu thái quá, sau nầy tức giận
thái quá. Toa vẫn biết, dầu việc gì cũng vậy, hễ thái quá thì không tốt. Hôm
trước mỏa thấy toa buồn, mỏa khuyên toa đừng thèm buồn. Tại sao bây giờ toa lại
đổi ý mà oán trời giận người như vậy? Toa cầm bút mà công kích nền đạo-đức, toa
cho người làm nhơn-đức là ngu dại, toa có tư-tưởng như vậy thì toa cách mạng tới
trăm phần trăm rồi còn gì! Toa có suy nghĩ chỗ đó hay không?”
Phụng trợn con mắt và đứng dậy mà đáp:
- Bây giờ mỏa cách mạng tới ngàn phần trăm, chớ không phải
trăm phần trăm mà thôi đâu. Đời kỳ cục quá, mà còn mê-mẩn phong-hóa, còn sùng
bái trời phật làm chi nữa!
- Ồ!
- Mỏa nói cho toa biết, từ rày sắp lên mỏa quyết đánh đổ
phong-hóa, xé nát thành-kiến của xã-hội mình hết thảy. Toa nghĩ coi, cha mỏa hồi
trước làm quan, vì say mê cái phong-hóa mà sách vở khen là cao-thượng, nên gìn
lòng chánh-trực, giữ chí thanh-liêm, đến ngày nay trời phật ban thưởng những gì
đâu? Ban thưởng sự nghèo khổ cho vợ con, nghèo khổ rồi thiên-hạ khinh khi bỉ bạc.
Còn nhiều người khác họ không thèm thanh-liêm chánh-trực mà trời phật nào có phạt
họ, lại ban thưởng cho vợ con họ hưởng phú quí vinh hoa, được thiên-hạ kính trọng,
kiêng nể. Cuộc đời như vậy, mà còn say mê phong-hóa, còn tin tưởng trời phật nữa
làm gì. Để thủng thẳng rồi toa sẽ thấy, chẳng những là mỏa nghị-luận trên mặt
báo mà thôi, có lẽ rồi đây mỏa còn thí thân của mỏa mà lật ngược xã-hội nữa cho
mà coi.
- Bịnh đa-cảm của toa ngày nay biến chứng đến thế nầy biết
dùng phương thuốc gì mà cứu chữa cho được! Tuy vậy mà mỏa cũng phải là hạnh-phước,
còn nghèo khổ chẳng phải là tai nạn.
- Toa hay khoe với mỏa rằng toa là người có cái óc thủ cựu,
chớ nào phải có cái óc thiệt hành.
- Để mỏa nói cho hết ý, rồi toa sẽ cãi. Người thanh liêm nhơn
đức thì làm sao giàu được. Tuy vậy mà bình sanh mình đi đường ngay, mình làm việc
phải, thì trí mình được bình tĩnh vui vẻ, đó là một phần thưởng quí vô giá, vườn
ruộng bạc tiền không thế sánh kịp. Còn người tham-lam tàn-bạo thì tự nhiên được
giàu, nhưng mà lên xe xuống ngựa chớ trong lòng không an, bởi vì chặt đầu lột
da người ta mà lấy của, đã phải sợ luật người, mà cũng phải sợ luật trời nữa.
- Ô! Bây giờ toa nói nghe đạo đức quá! Hết thiệt hành rồi! Mỏa
chẳng thèm biết luật người mà cũng chẳng tin luật trời. Có lẽ mỏa sắp lập luật
riêng cho mỏa đặng mỏa tuân theo đó mà ở đời mới được.
Hai người cãi với nhau tới đó, kế thấy có một chiếc xe hơi ngừng
ngay cửa, rồi có mộn người đàn-ông mở cửa xe bước xuống. Người ấy râu cá chốt,
bịt khăn đen, mặc áo dài, mang giày tây, đứng ngó số nhà rồi xâm-xâm đi vô. Chừng
vô tới cửa người ấy thấy Phụng với Trinh, thì cuối đầu chào và hỏi: “Xin lỗi
ông, không biết phải cậu Phụng ở đây hay không?”
Phụng không biết người khách đó là ai, song nghe hỏi tên mình
thì đứng dậy mà đáp:
- Ông muốn hỏi cậu Phụng nào?
- Cậu Phụng là con bà Phủ ở dưới Cần-thơ.
- Tôi đây. Xin ông cho tôi biết coi ông là ai mà hỏi tôi.
Người ấy cười rồi bước vô nhà kéo ghế mà ngồi như nhà của
mình, không đợi chủ nhà mời. Phụng bất-bình trong lòng, nên châu mày đứng ngó,
không thèm hỏi nữa.
Người ấy lấy thuốc đốt một điếu mà hút rồi mới nói: “Tôi là
Ban-Biện Tịnh dưới Cần-thơ. Tôi có dịp đi Sài-gòn tôi muốn biết cậu, nên hôm
qua tôi hỏi thăm bà Phủ coi cậu ở đường nào đặng lại ghé mà thăm cậu. Nhờ có bà
Phủ chỉ nên tôi mới biết mà lại đây”.
Nãy giờ đàm-luận với Trinh, trí của Phụng đương xao-xuyến
không an, bây giờ nghe khách xưng là Ban-Biện Tịnh, thì sự giận phấn-khởi trong
óc như giông như bão, nên Phụng đáp: “Ông là Ban-Biện Tịnh hay là Ban-Biện Động
cũng vậy, tôi không quen không biết ông, tôi có cần ông đến thăm tôi làm chi
đâu”.
Ban-Biện Tịnh chưng-hửng, song không lộ sắc giận, miệng
chúm-chiếm cười và nói:
- Chưa biết nhau thì rồi đây tư-nhiên phải biết chớ gì. Xin cậu
ngồi đặng tôi nói chuyện riêng với cậu một chút.
- Ông vô nhà tôi. Tôi không mời mà ông tự-tiện ông ngồi đại.
Bây giờ ông trở lại ông mời tôi ngồi, ông làm như ông là chủ nhà. Ông có biết
thái-độ như vậy đó là thái-độ của người thất-giáo vô lễ hay không?
- Anh em mà cậu bắt chặt bắt lỏng làm chi. Thôi, tôi có vô-lễ
thì tôi xin cậu tha lỗi.
Ban-Biện Tịnh day qua hỏi Trinh: “Còn ông đây là ai xin cho
tôi biết”. Trinh cười và đáp: “Tôi là anh em bạn của M. Phụng.” Phụng nói tiếp:
“Ông nói trễ quá! Người đó là chủ căn nhà nầy, đủ quyền mời ông đi ra khỏi nhà
ông biết chưa?”
Bang-Biện Tịnh đứng dậy cúi đầu chào Trinh và nói: “Tôi không
biết, xin ông tha lỗi.”
Trinh khoát tay biểu ngồi rồi day qua khuyên Phụng: “Toa chẳng
nên nóng nảy. Toa phải nhớ dầu thể nào ông Bang-Biện đây cũng là khách của
mình. Thôi, để tôi bước ra ngoài cho hai ông nói chuyện.”
Trinh muốn đi ra đường, mà vừa bước qua khỏi cửa thì hồi tâm,
nên đứng lại ngoài hàng ba, chống tay trên lan can ngó mông mà chơi.
Bang-Biện Tịnh thấy Phụng đi lại ghế bố mà nằm, tỏ dấu
khinh-bỉ mình, bây giờ ông mới phiền nên ông nói:
- Tôi với cậu thuở nay chưa biết nhau. Vì nay tôi có việc
riêng, nên tôi muốn kiếm cậu đặng nói chuyện. Mà việc tôi muốn tỏ với cậu đây,
tuy có ích cho tôi, song tôi tưởng cũng có ích cho cậu nhiều. Tôi chẳng hiểu vì
cớ nào vừa thấy mặt tôi thì cậu làm giận làm hờn, nãy giờ cậu nói nhiều lời đắng
cay, cậu làm cho tôi buồn quá.
- Tôi chẳng biết chuyện gì nói với ông, mà tôi cũng không cần
ông nói chuyện có ích cho tôi làm chi.
- Xin cậu đừng có nói vậy. Trước khi đến đây tôi có hỏi ý bà
Phủ. Bà Phủ bằng lòng, nên tôi mới dám tới chớ. Bà Phủ nói việc tôi muốn kết
tóc trăm năm với cô ba thì bà đã có gởi thơ mà hỏi ý cậu; bà đợi hổm nay mà
không thấy cậu trả lời. Sẵn tôi có dịp đi Sài-gòn, bà biểu tôi ghé thăm cậu và
hỏi coi việc tôi tính đo có hiệp ý cậu hay không, xin cậu viết thơ trả lời mau
mau cho bà biết.
- Việc nhà của tôi, không cho ai được phép để lỗ mũi vào. Mà
việc tôi bàn tính với má tôi, tôi cũng không cần cậy ai làm trung-gian. Nếu tôi
phải viết thơ cho má tôi, thì tôi tư-do mà liệu định ngày giờ, ông khỏi nhọc
công nhắc nhở. Còn nếu tôi muốn nói chuyện với má tôi, thì tôi cũng tự do mà
bày tỏ, ông chẳng được phép hỏi thăm ý tứ của tôi về sự ấy.
- Nếu sự ấy không can-hệ đến tôi, thì tôi có hỏi làm chi. Tôi
muốn biết ý cậu, là vì tôi tưởng dịp ấy thành sớm chừng nào càng tốt chừng nấy.
Theo lời bà Phủ nói với tôi thì việc thành hay là bất thành đều tại nới cậu. Nếu
cậu chịu, thì bà Phủ với cô ba chịu. Vậy tôi xin cậu vui lòng ưng thuận, đặng
cho cô ba có chỗ nương dựa, khỏi phải làm bánh mà bán, coi thân hèn hạ quá.
- Làm bánh mà bán sao ông lại cho là hèn hạ? Vậy chớ phải chặt
đầu lột da người ta mà làm giàu thì mới cao sang hả?
- Tôi không muốn cãi với cậu … Thôi, tôi xin cậu cho tôi biết
coi cậu có bằng lòng để cho bà Phủ gả cô ba cho tôi hay không?
- Tôi tưởng ông nên đi nhà thương Biên-hòa mà dưỡng bịnh, chớ
không nên tính cưới vợ bé mà kiếm con trai, bởi vì ông có bịnh mà ông muốn sanh
con, thì con ông nó sẽ nhiễm bịnh của ông lưu truyền, rồi nó cũng như ông vậy nữa
thì càng hại cho xã-hội, cho gia đình, chớ có ích chi.
- Cậu cho tôi điên phải hôn?
- Tôi không phải lương-y, nên tôi không dám đoán quyết song
nghe ông nói chuyện, tôi phải nghi chút đỉnh.
- Tôi sợ cậu điên, chớ không phải tôi đâu. Cậu nghĩ lại mà
coi, cô ba là con quan. Tôi đây cũng là một viên quan cai-trị trong tổng. Cô ba
ưng làm vợ tôi, thì xứng đáng quá, có hèn chỗ nào đâu. Huống chi tôi là người
giàu có lớn, ưng làm vợ tôi thì sung sướng trọn đời, bây giờ tôi cất nhà cho mà
ở, ngày sau nếu tôi thấy ở với tôi có tình có nghĩa, thì tôi sẽ mua ruộng, mua
đất, tôi cho đứng bộ nữa. Tôi chẳng cần phải khoe-khoang, mà cậu cũng biết tôi
là người có chức phận, có tiền nhiều, tôi muốn cưới con nhà ai lại không được,
thiên hạ họ giành nhau mà ưng tôi làm cho tôi bối-rối không biết phải chọn ai,
phải bỏ ai. Nếu tôi muốn cưới cô ba, ấy là vì tôi thấy cô ba là con nhà trâm
anh, mà ngày nay suy sụp tôi thương, nền tôi tính kết tình và làm nghĩa luôn một
lượt, đặng tôi cứu vớt giúp đỡ giùm cho gia-đình cậu. Tôi làm như vậy lẽ thì cậu
phải cám ơn tôi, chớ sao cậu nói tôi điên. Cậu phải suy nghĩ lại. Tôi điên mới
có lợi cho nhà cậu, chớ nếu tôi tỉnh thì không có ích chi hết.
- Tôi xin ông về cho mau. Ông ngồi cắt nghĩa dong-dài, tôi
nghe tôi nhức đầu mà lại nổi chướng, rồi sợ sanh chuyện không tốt.
- Tôi nói như vậy không phải hay sao, mà cậu đuổi tôi? Tôi sợ
cậu chê tôi, rồi sau ăn-năn. Cậu xét lại mà coi, bà Phủ nghèo không có sự-sản
chi hết, con nhà giàu sang họ kiếm chỗ giàu có họ cưới, họ có chịu cưới cô ba
đâu. Nếu bà Phủ không gả cô ba cho tôi, thì tôi chắc không gả cho ai hơn tôi được,
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét