Ngọn cỏ gió đùa 1
CHƯƠNG 1 - QUYỂN I - ĐAU ĐỚN PHẬN HÈN
(Cảm tác Les Misérables của Victor Hugo)
Năm Mậu Thìn (1808) nhằm Gia-Long thất niên, tại huyện
Tân-Hòa, bây giờ là tỉnh Gò-Công, trời hạn luôn trong hai tháng, là tháng bảy với
tháng tám, không nhểu một giọt mưa. Lúa sớm gần trổ, mà bị ruộng khô nên không
nở đòng đòng [1], lúa mùa vừa mới cấy, mà bị đất nẻ [2], nên cọng teo lá úa.
Cái cánh đồng, từ Rạch-Lá tới Bến-Lội, là vú sữa của nhơn dân
trong huyện Tân-Hòa, năm nào cũng nhờ đó mà nhà nhà đều được no cơm ấm áo, ngặt
vì năm nay cả đồng khô héo, làm cho dân cả huyện trông thấy đều buồn-bực thở than.
Tại Vồng-Tre có nhà bà Trần-Thị bần cùng đói rách, thuở nay
trời cho trúng mùa mà nhà bà cũng không được vui, huống chi năm nay mất mùa,
thiên hạ nhịn đói, thì nhà bà càng thảm khổ hơn nữa.
Bà Trần-Thị đã 65 tuổi rồi, bà góa chồng mà con trai lớn của
bà là Lê-văn Ðây cũng bất hạnh, khuất năm trước, để lại cho bà một nàng dâu là
Thị-Huyền, với bảy đứa cháu nội, đứa nhỏ hơn hết thì còn bú, đứa lớn hơn hết
thì chưa quá 12 tuổi.
Bà già yếu, từ đầu năm chí cuối năm thường òi ọp hoài, còn Thị-Huyền
thì bị sắp con thơ, đứa dắt, đứa bồng nên có đi làm thì đi hái rau, bắt ốc, một
giây một lát mà thôi, chớ không đi làm mướn làm thuê tối ngày cho được.
Tuy vậy mà bà Trần-Thị nhờ có thằng con nhỏ, tên là
Lê-văn-Ðó, tuổi vừa mới hai mươi, vóc-vạc cao lớn, sức lực mạnh-mẽ hơn người,
tánh nó chơn-chất thiệt-thà, trí nó chậm-lục u-ám, song nó hết lòng lo làm mà
nuôi mẹ già, nuôi chị dâu, nuôi cháu dại.
Khi Lê-văn-Ðó mới được 12 tuổi, thì cha mẹ đem cho ở đợ chăn
trâu cho nhà giàu.
Hễ trời gần sáng thì Lê-văn-Ðó đuổi trâu ra đồng, rồi khi thì
nằm dưới tàng cây lớn, lúc thì ngồi trên lưng trâu cò [3], dầm mưa dang nắng tối
ngày, bữa nào cũng như bữa nấy, trời chạng-vạng tối rồi mới về nhà chủ được.
Có lẽ Lê-văn-Ðó nhờ ở ngoài đồng luôn luôn hấp thụ thanh khí
nên sức lực mạnh-mẽ khác thường, nhiều khi trâu chạy, nó nắm đuôi mà kéo, trâu
phải đứng lại, chớ không chạy nổi.
Mà có lẽ cũng tại Lê-văn-Ðó ở ngoài đồng luôn luôn, gần-gũi với
trâu bò, bạn bè cùng cây cỏ, nên trí tuệ không phát được, không biết lễ nghĩa,
mà cũng không thông-thế sự chi hết.
Lê-văn-Ðó ở đợ gần 8 năm, đến năm ngoái anh cả là Lê-văn-Ðây
chết rồi, mẹ mới đem về để giúp đỡ trong nhà và cho làm mướn làm thuê mà nuôi sắp
cháu.
Hồi đầu mùa mưa, Thị-Huyền xới đất trồng khoai, vun vồng [4]
tỉa bắp chung quanh nhà, còn Lê-văn-Ðó thì đi cày mướn lấy tiền đổi gạo đem về
nuôi mẹ và nuôi sắp cháu.
Hết cày rồi tới cấy, thì Lê-văn-Ðó lại đi nhổ mạ đắp bờ, làm
cực nhọc tối ngày, tuy tiền công không được bao nhiêu, song mẹ với chị dâu tiện
tặn, người xúc tôm bắt cá, người đào củ hái rau, khi ít thì để ăn, khi nhiều
thì đem bán, nên trong nhà dầu không dư ăn dư để, chớ cũng không đến nỗi hụt
thiếu bữa nào.
Ðến tháng chín tháng mười, ngoài đồng chẳng còn công việc gì
làm nữa, mà trời hạn thất mùa, lúa cao gạo kém, các nông-gia đều ngồi khoanh
tay nhau nháu [5], nên cũng không ai mướn làm việc gì trong nhà.
Trong huyện Tân-Hoà lúa cũ đã ăn hết rồi, còn lúa mới thì
không có mà ăn tiếp. Các nhà nghèo thảy đều khốn-đốn nên có nhiều người phải bỏ
nhà dắt vợ con qua xứ khác mà kiếm ăn.
Lê-văn-Ðó ngày nào cũng vậy, hễ sớm mai thức dậy thì đi từ
xóm nầy qua xóm nọ, kiếm chỗ làm mướn đặng lấy gạo đem về cho mẹ với sắp cháu
ăn, mà đi năm ba ngày mới có người ta mướn làm một ngày, lại ngày nào làm được
thì họ huờn công (trả công) bằng một vùa gạo (một nửa sọ dừa dùng đong gạo),
không đủ nấu cháo cho gia quyến húp mỗi người một chén, có đâu tới nấu cơm chia
nhau ăn cho no được.
Lúc ban đầu trong nhà còn khoai còn bắp, hễ bữa nào Lê-văn-Ðó
kiếm gạo không được thì Thị-Huyền nấu khoai hoặc bắp, rồi chia cho sắp con mỗi
đứa con một củ khoai, hoặc đôi ba muỗng bắp mà ăn đỡ, sắp nhỏ ăn không no, đến
tối Lê-văn-Ðó đi làm về, chị dâu lấy tộ bắp nấu để dành mà đưa cho Lê-văn-Ðó
ăn, thì sắp nhỏ bu lại đứng ngó lom lom, đứa xin cho một vài hột. Thị-Huyền rầy
con, biểu để cho chú ăn no, đặng ngày sau có sức đi làm mà kiếm gạo. Sắp nhỏ sợ
mẹ nên dang ra, song bụng đói quá, nên mặt buồn xo. Lê-văn-Ðó thấy vậy thương
xót, không đành ngồi ăn một mình, day qua bên nầy đút cho đứa nầy một muỗng, trở
qua bên kia đút cho đứa khác một muỗng nữa, đút gần hết tộ, té ra cũng không
còn đủ cho nó ăn no được.
Cách chẳng bao lâu, khoai bắp trong nhà ăn đã sạch hết. Bữa
nào không ai mướn Lê-văn-Ðó làm, thì cả nhà đều phải luộc rau luộc cỏ mà ăn đỡ,
chớ không có cháo mà ăn. Sắp nhỏ nhịn đói mặt mày vàng ẻo; còn Trần-Thị đã già
yếu rồi, mà trót mấy tháng nay bà lại chịu cơ hàn nữa, nên bà nhuốm bịnh nằm
thiêm thiếp không dậy nổi.
Một bữa nọ Lê-văn-Ðó đi tối một ngày mà không có ai mướn làm
việc chi hết. Lúc trời chạng-vạng tối, nó trở về nhà, hai chơn mỏi rụng, bụng
đói xếp ve, lỗ tai lùng-bùng, cặp mắt cháng-váng. Chừng gần tới nhà, nó dừng
chưn lại, gục đầu ngó xuống đất một hồi, rồi chậm rãi bước từ bước, dường như
nhút nhát không muốn trở về nhà.
Nó bước vô tới đám bố [6] trồng trước cửa, thì thấy trong nhà
không có đèn đuốc chi hết, mà may nhờ có bóng trăng dọi, nên tuy không đèn
nhưng sáng lờ mờ. Nó lén đi vòng qua phía tay mặt, rồi vạch vách lá mà dòm vô
nhà.
Thị-Huyền đương bồng đứa con út mà cho bú. Bỏ ba đứa nhỏ chạy
chung quanh, một đứa nằm trên võng, một đứa vịn vai Thị-Huyền, còn một đứa ngồi
bên cửa, khóc và nói rằng:
- Ðói bụng quá, lấy gì ăn bây giờ má?
Thị-Huyền đáp rằng:
- Nín đi, đừng có khóc con, đợi chút nữa chú con về đem gạo về,
mẹ nấu cơm cho con ăn.
Ba đứa lớn nằm co trên ván phía bên nầy, lặng thinh như ngủ,
chừng nghe Thị-Huyền nói như vậy một đứa ngóc đầu hỏi rằng:
- Chừng nào chú con về, má?
Thị-Huyền đáp rằng:
- Một chút nữa chú con về.
Ðứa lớn hơn hết lại khóc mà nói rằng:
- Hôm qua chú về không có đem gạo về, sợ bữa nay cũng không
có nữa.
Tên Ðó đứng ngoài nghe như vậy, rồi lại thấy Thị-Huyền lấy vạt
áo lau nước mắt.
Nó đi vòng vô phía trong, khi đi ngang chỗ chõng mẹ nó nằm,
thì nó lại nghe bà Trần-Thị rên hù-hù.
Lê-văn-Ðó thấy tình cảnh thê-thảm dường ấy, thì teo gan héo
ruột, nên lắc đầu thở dài, rồi lật đật bước riết ra đường, dường như nó không
muốn thấy tình cảnh ấy nữa.
Ra tới đường rồi nó lầm-lũi đi tới hoài. Nếu lúc ấy ai cắc cớ
hỏi nó đi đâu, thì chắc nó không biết đi đâu mà nói.
May nó đi mà không gặp ai hết.
Lối nửa canh một, nó tới một xóm đông, không biết là xóm nào.
Mấy nhà trong xóm đều ngủ hết, duy ở giữa xóm có một cái nhà
lớn, tre trồng bao chung quanh, trong nhà đèn đốt sáng lòa, khách khứa đông đầy-dẫy,
ăn uống vui cười inh-ỏi.
Lê-văn-Ðó thấy nhà giàu cơm ăn không hết lại mời khách mà đãi
thâm tới ban đêm, rồi nhớ tới nhà mình nghèo khổ, đèn không dầu nên tối mò, mẹ
đau không thuốc nằm chờ ngày chết, sắp cháu đói bụng rên khóc van-vầy [7], thì
tức-tủi trong lòng, quyết bước vô mà cậy [8] chủ nhà giàu nầy một vài giạ lúa
đen về cho gia quyến ăn, đợi năm tới thuận mùa rồi làm mà trả lại.
Nhà nầy là nhà ông Bá-hộ Cao ở Vồng-Nâu.
Bữa ấy là bữa ông nhóm họ đặng cưới vợ cho con, nên mới dọn cỗ
bàn mà đãi thân bằng quyến thích.
Lê-văn-Ðó ở ngoài xăm xăm đi vô, đứng ngay cửa cái mà ngó.
Khách trong nhà mắc ăn thịt uống rượu, mắc nói nói cười cười,
không ai để ý tới ngoài sân, nên không ai thấy nó.
Cách một hồi lâu, ông Bá-hộ dòm ra, thấy có người lạ mặt đứng
trước cửa, bèn sai gia-dịch ra hỏi coi đi đâu.
Lê-văn-Ðó thuở nay không từng nói chuyện với ai, mà cũng
không hiểu lễ phép chi hết, nên nghe người ta hỏi đi đâu, không lấy lời dịu ngọt
thê thảm mà động lòng nhơn từ của người, lại nói xẳn-xớn rằng:
- Nhà tôi nghèo quá, tôi đi làm mướn mà không ai chịu mướn
tôi làm. Bây giờ nào là mẹ, nào là chị, nào là sắp cháu nhỏ của tôi chết đói hết
thảy, tôi đi đến đây, thấy nhà nầy giàu có nên tôi ghé lại mượn một ít giạ lúa
về ăn đỡ.
Sắp gia-dịch nghe rồi trở vô nhà nói làm sao với ông Bá-hộ
không biết, mà khách trong nhà cười rộ, rồi ông Bá-hộ sai người ra đuổi
Lê-văn-Ðó biểu phải đi ra khỏi cửa cho mau.
Lê-văn-Ðó không chịu đi, cứ đứng ngó vô trong nhà, và nói lầm-bầm
rằng:
- Đi đâu bây giờ mà biểu người ta đi. Mẹ ta với sắp cháu đói
gần chết, ta về bây giờ lấy gì mà cho ăn.
Sắp gia-dịch thấy nó không chịu đi, mới áp lại xô đẩy.
Lê-văn-Ðó trì lại, sức Lê-văn-Ðó mạnh quá chúng nó xô không nổi,
nên chúng nó giận bèn xích chó cho cắn.
Trong nhà có một bầy chó năm sáu con, hùa nhau chạy tuôn ra,
rồi vây chung quanh tên Ðó mà sủa om sòm. Có một con chó dữ nhảy xốc vô cắn
chơn tên Ðó, bị tên Ðó đá cho một đá té lăn cù. Bầy chó sợ đạp nên chạy dang ra
rồi lại áp vô sủa nữa.
Ở trong nhà, chủ và khách óng tiếng nói om sòm.
Tên Ðó không hiểu họ rầy ai, phần bị bầy chó làm dữ quá, sợ một
mình cự không nổi nên thủng thẳng sụt lùi mà đi ra.
Tên Ðó đã ra khỏi vuông tre của ông Bá-hộ rồi, mà bầy chó
cũng đứng trước cửa ngõ sủa theo.
Lê-văn-Ðó không biết đi đâu, cứ gục mặt xuống đất thủng thẳng
đi dọc theo bờ tre.
Ði được vài chục bước, tên Ðó nghe dưới ống chơn rát-rát, mới
cúi xuống mà coi. Nhờ bóng trăng dọi sáng, nên nó thấy máu chảy ròng ròng, mới
hay mình bị chó cắn.
Tên Ðó đi lại bụi tre, lấy một nắm lá tre khô mà chùi máu, rồi
ngồi bẹp xuống đất khoanh tay mà thở ra. Bụng đói quá nên trời mát mà trán đổ mồ
hôi ướt rượt, cặp mắt đổ hào quang, hai màn tang mạch nhảy xoi-xói [9].
Những người từng biết nhơn-tình ấm-lạnh, những người từng trải
thế đạo kỳ khưu, ai gặp cảnh thê thảm như vầy chắc sao cũng oán hận vận trời,
hoặc trách nhà giàu sang không thương xót kẻ nghèo hèn, hoặc thảm phận cơ hàn
mà đau lòng rơi lụy.
Lê-văn-Ðó có sức mạnh chớ không có trí sáng, từ nhỏ tới lớn
biết cực mà thôi, chớ không biết sướng, nên tưởng phận mình thì phải chịu cực,
phải nhịn đói, bởi vậy nó gặp cảnh như vầy, mà không biết giận, lại cũng không
biết buồn.
Nó ngồi đây là vì bụng đói, chơn mỏi nên mới ngồi, chớ không
phải ngồi mà suy nghĩ việc chi, hay là ngồi mà tính kế chi đặng kiếm gạo đem về
nuôi mẹ với sắp cháu.
Vừng trăng tỏ treo giữa trời vặc vặc, ngọn gió dàn lá tre giũ
phất phơ. Rụt-rịt bên chơn con rắn mối bò đi giỡn trăng, chút-chút trong vườn
tiếng chim cúc than phiền đêm lạnh lẽo.
Cuộc đời đắng cay dường ấy, cảnh trời thanh lịch dường ấy, mà
Lê-văn-Ðó ngồi trơ trơ như một cục đá hay là một khúc cây, không buồn, không
vui, không lo, không cảm chi hết.
Cách một hồi lâu nó nghe có tiếng người nói chuyện ở trong vườn
ông Bá-hộ, nó mới day lại dòm vô mà coi thì thấy có một đứa con gái đương ngồi
dựa bếp lửa đút rơm khô vô mà chụm, lại có một bà già đương chóng nạnh gần đó
mà coi chừng. Lúc tên Ðó dòm vô thì nó nghe bà già nói như vầy:
- Cháo heo cạn rồi thì dụt lửa [10]để đó mà đi làm việc khác,
chớ mầy ngồi đó mà giữ hay sao. Vô phụ rửa chén với người ta. Ðể đó khuya cháo
nguội rồi sẽ nhắc vô.
Bà già nói dứt lời rồi bỏ đi vô nhà bếp. Ðứa con gái dụt lửa
đậy trã [11] cháo, rồi cũng bỏ đi mất.
Lê-văn-Ðó đứng ngoài bờ tre dòm vô, thấy nhà lớn của ông Bá-hộ
phía bên kia đèn còn đốt sáng trưng, khách còn nhộn nhàng đương ăn uống vui cười.
Trong nhà bếp ở phía bên nầy, thì sắp gia-dịch qua lại
lăng-xăng, mà chẳng thấy ai đi ra chỗ đứa con gái ngồi nấu cháo hồi nãy hết.
Tên Ðó dòm một hồi, rồi vạch tre, chun vô vườn, đi riết lại bưng trã cháo mà đi
ra.
Trã cháo lớn nên nặng, mà mới cạn nên còn nóng, song tên Ðó
vác lên vai đi xông-xổng, không biết nặng, không biết nóng, mà cũng không sợ họ
thấy.
Nó đi vừa được năm bảy bước, bỗng nghe trong nhà bếp có người
hỏi:
- Ai vác cái gì mà đi đó?
Nó cứ đi riết không thèm trả lời. Trong nhà bếp có hai ba người
chạy ra, tới chỗ nấu cháo heo thấy mất một trã cháo bèn la om sòm rằng:
- Ăn trộm vô bưng trã cháo heo mà chạy đây nè, bớ người ta,
rượt theo bắt nó. Ðó, nó chạy đó. Kìa, nó đương vạch hàng tre mà chun kia kìa,
bớ người ta.
Tên Ðó cứ vác trã cháo chun qua hàng tre, rồi băng ngang ruộng
mà đi như thường, họ la mặc họ, nó không đứng lại, mà cũng không thèm chạy. Sắp
gia-dịch của Bá-hộ Cao rượt theo, áp vô đứa nắm đầu, đứa ôm lưng mà bắt.
Tên Ðó tay trái vịn trã cháo trên vai, tay mặt gạt sắp gia-dịch
té lăn cù, không đứa nào xáp vô mình nó được.
Sắp gia-dịch la hét om sòm. Khách trong nhà kẻ xách cây người
cầm hèo chạy túa theo tiếp ứng.
Có một người thấy sắp gia-dịch nhút-nhát không dám vô bắt tên
Ðó, mới xách một khúc tre bước tới nhắm đầu tên Ðó mà đập. Tên Ðó đưa tay ra đỡ,
khúc tre gảy làm hai đoạn. Một người khác nhảy tới đập nữa, tên Ðó trớ khỏi
song trật tay trã cháo rớt, trã bể nát còn cháo đổ đầy đất.
Tên Ðó đứng ngó mấy người rượt bắt mình và hỏi tỉnh táo rằng:
- Làm giống gì dữ vậy ? Ðổ cháo hết uổng hôn!
Mấy người ấy không thấy nó làm dữ nữa, mới xông vô bắt, nắm đầu
rồi áp nhau kẻ thoi người đạp.
Tên Ðó lặng thinh chịu đòn, không chống cự nữa. Họ thấy vậy lại
càng đánh nhiều hơn nữa. Tên Ðó nổi giận tung một cái, mấy người nắm nó đều ngã
lăn, rồi nó đứng tỉnh như thường, mắt ngó chừng cháo đổ, dường như nó tiếc lắm
vậy.
Họ áp vô bắt nó nữa. Nó để cho họ bắt trói ké dắt về bỏ ngồi
trước sân ông Bá-hộ.
Lý-Trưởng Tùng dua bợ nhà giàu, một là muốn làm cho vừa ý chủ-nhà,
hai là muốn thị oai với dân chúng, nên thấy tên Ðó bị trói ké lòi ức ngồi ngoài
sân, bèn chạy ra thoi đạp và nói rằng:
- Mầy là thằng gì mà ngang dữ vậy hử ? Nhà ông Bá-hộ khách khứa
đông đầy, mầy dám vô mà mượn lúa, người ta đuổi mầy đi, rồi sao mầy lại dám giựt
cháo heo của người ta mà chạy. Người ta rượt bắt mầy, mầy lại đánh đến đứa gãy
răng đứa sưng mặt. Ðể rồi mầy coi tao.
Lý-Trưởng Tùng nói rồi lại đánh nữa. Tên Ðó bị trói không thế
gạt được nên ngồi trân-trân mà chịu đánh nhừ tử, không khóc không than, không
nói chi hết.
Có một ông già thấy tên Ðó bị đánh nhiều quá mà không nhút
nhít, thì bước ra can Lý-Trưởng rằng:
- Thôi, bộ thằng nầy nó điên, đánh nó làm chi lắm. Nó có tội
thì giải đến Huyện cho quan trị nó.
Lý-Trưởng Tùng trợn mắt đáp rằng:
- Ông nói nó điên, nó dữ lắm chớ dễ điên đâu. Mấy đứa nào bị
nó đánh hồi nãy nặng nhẹ thể nào đâu ra đây cho tao coi vít tích đặng tao làm phúc
bẩm mà giải nó.
Có ba đứa gia-dịch bước ra, một đứa bị té gãy hết một cái
răng cửa, máu còn chảy ròng ròng, một đứa xể mặt một đường bằng ngón tay, còn một
đứa thì u trên trán một cục bằng ngón chơn cái.
Lý-Trưởng coi rồi bèn dạy đóng nọc giữa sân mà trói tên Ðó, rồi
trở vô nhà ăn thịt uống rượu.
Ở trong nhà chủ khách vui say cười hỉ-hả, ở ngoài sân một người
nghèo khổ bị đánh rêm mình, mà lại nhịn đói bụng xếp ve. Tình cảnh nầy người có
nhứt điểm nhơn từ ai trông thấy cũng ứa lụy chau mày, mà cả đám ở trong nhà chẳng
ai để chút lòng thương xót.
Nghèo khổ không cơm mà nuôi gia quyến, họ giàu có dư dả ăn
không hết, đến mượn một vài giạ lúa về mà cứu cấp mẹ già cháu nhỏ đói nằm thở
hoi hóp, họ không cho mượn lại còn xô đuổi. Cùng thế bưng cháo của heo ăn đem về
cho mẹ với cháu ăn đỡ, họ không nghĩ lại bắt mà đánh.
Con nhà nghèo ai gặp cảnh như vầy chắc cũng phải oán hận nhà
giàu. Thảm thương Lê-văn-Ðó vì tánh dốt nát thiệt thà, nên thân khổ nhục đến nước
nầy, mà cũng chưa biết buồn, chưa biết oán.
Lý-Trưởng Tùng để dần-dà mấy bữa, đánh chưởi tên Ðó đã thèm rồi
mới chịu giải lên Huyện.
Quan Tri-Huyện hành phạt một lớp nữa rồi mới giải lên tỉnh.
Quan Án-sát tra hỏi sơ xịa rồi lên án định đánh đòn tên Ðó
100 trượng và đồ [12] năm năm, về tội cướp của người ta và đánh tài chủ có vết
tích.
Thảm thay! Ức thay!
Cả một nhà nhịn đói, mình lén bưng đồ của họ cho heo ăn đem về
ăn đỡ dạ, mà quan bắt tội đánh đòn rồi lại bị đày!
Thân mình nghèo khổ họ đánh mình thì họ không có tội, còn
mình đánh lại họ thì mình phải ở tù! Cuộc đời trông thấy bắt nát ruột ứa gan!
Thân phận kẻ nghèo nghĩ thiệt là chí khổ!
Quan dạy lính đóng mộc căng tay chơn Lê-văn-Ðó nằm xấp giữa
sân, đánh đòn đủ 100 roi, nát thịt văng máu; chừng mở trói ra thì Lê-văn-Ðó bò
mà đi, chớ đứng không nổi.
Quan chờ hơn một tháng, mấy dấu roi lành rồi, mới đày
Lê-văn-Ðó lên tỉnh Gia-định.
oOO
Lê-văn-Ðó ở tù tại Gia-định, ban ngày đi làm việc nặng nề cực
khổ, lại còn bị lính đánh xối trên đầu, ban đêm ngủ thất thường, mà sức lực
cũng còn mạnh mẽ như xưa, chẳng hề giảm sút chút nào hết.
Bữa nọ quan sai lính dắt tù lên rừng đốn cây kéo về mà cất
kho cất lẫm.
Có nhiều khúc gỗ lớn năm sáu tên tù khiêng một đầu không nổi,
mà một mình Lê-văn-Ðó vác đi như chơi.
Một lần khác quan bắt tù ra cửa Cần-giờ đánh cá chở về xẻ khô
để dành cho quân lính dùng.
Ghe ra khơi rồi rủi gặp giông to sóng lớn nhận ghe chìm.
Tù với lính đi một ghe đều bị chết trôi hết thảy, duy có một
mình Lê-văn-Ðó, lội lặn lần vô tới mé được; mà khỏi chết rồi không thèm thừa dịp
ấy mà trốn, lại trở về Gia-định báo tin cho quan tỉnh hay.
Bởi Lê-văn-Ðó có sức mạnh như vậy, nên chẳng những là mấy
trăm tù trong khám đều sợ mà thôi, mà thậm chí mấy chú lính coi khám cũng đều
kiêng nể nữa.
Tuy vậy mà Lê-văn-Ðó chẳng hề thừa sức mạnh mà húng hiếp tù,
hoặc khinh khi lính, dầu đi làm hay ở trong khám nó cũng giữ một mực, không khi
nào thấy nó buồn hay là vui, dầu làm việc nặng hay là việc nhẹ cũng chẳng hề
nghe nó than phiền chi hết.
Lê-văn-Ðó ở trong nhà thấy cảnh nghèo nàn thê thảm, bước chân
ra đi kiếm ăn lại gặp chúng hân-hủi hiếp đáp, bởi vậy vào chốn lao tù nó không
vui được, nghĩ chẳng lạ gì. Có một điều [13] nầy chắc ai nghe cũng lấy làm kỳ,
là nó không vui, mà nó cũng không buồn, lại không khi nào nghe nó nhắc tới việc
nhà của nó.
Tên Ðó ở tù gần ba năm.
Một bữa kia có tên Trần-văn-Thiệt, là người đồng hương với
nó, mắc tội chi không biết, mà quan đày nó lên Gia-định. Vả tên Thiệt cũng là
con nhà nghèo như tên Ðó, lúc còn nhỏ hai đứa đều ở chăn trâu cho người ta, thường
chơi bời với nhau, nên quen biết nhau lắm.
Khi tên Thiệt bước vào khám, tên Ðó ngó thấy nó mà không mừng,
không hỏi chi hết.
Tên Thiệt thấy ý tứ như vậy, thì lấy làm kỳ, tưởng nó quên
mình, nên cũng làm lơ, không thèm hỏi.
Ðến tối trong khám ngủ hết, duy có một mình tên Ðó còn ngồi
gãi đầu.
Tên Thiệt bước lại đứng ngay trước mặt mà hỏi rằng:
- Anh phải tên Ðó ở Vồng-Tre hôn?
Tên Ðó ngó sửng một hồi, coi bộ như suy nghĩ lắm vậy, rồi mới
đáp rằng:
- Phải. Còn anh phải là anh Thiệt hôn?
Tên Thiệt cười mà nói rằng:
- Vậy chớ ai! Mới mấy năm nay mà anh quên tôi hay sao ?
Tên Ðó xổ đầu tóc, hai tay xỏ vô tóc mà gãi một hồi rồi để đầu
chơm bơm (rối, bù xù. -- Ở đây có giống dị hợm, cái lưng mốc thếch, cái đầu
chơm bơm -- Ca dao miền Nam), ngồi khoanh tay lặnh thinh, không ngó tên Thiệt
mà cũng không nói chi nữa hết. Tên Thiệt thấy vậy bèn ngồi xề dựa bên mà hỏi rằng:
- Anh ở tù mấy năm nay mà cực hay sướng vậy anh?
Tên Ðó chau mày lặng thinh một hồi nữa, rồi mới nói rằng:
- Cũng vậy chớ cực sướng giống gì.
Tên Thiệt thấy bộ tên Ðó lôi-thôi quá thì tức cười, muốn đi về
chỗ mình mà ngủ. Thình-lình tên Ðó hỏi rằng:
- Sao anh ở tù ?
Tên Thiệt trợn mắt đáp rằng:
- Tôi cũng như anh vậy chớ có khác chi đâu. Họ ỷ họ giàu, họ
hiếp mình quá! Anh nhớ hôn? Năm thất mùa đó, anh không có cơm mà ăn, anh lén
bưng trã cháo heo của ông Bá-hộ đem về cho bác với mấy đứa cháu ăn, họ bắt họ
đánh anh rồi giải đến quan bỏ tù anh đó; nhà tôi cũng đói quá, nên tôi dắt ông
già tôi lên Vũng-Gù mà kiếm ăn. Tôi đi được ít tháng, kế ông già tôi mang bịnh
mà bỏ mình. Tôi trở về Vồng-Tre xin ở đợ với ông ba Lãnh.
Mấy năm nay tôi ở với ổng thiệt cực khổ quá. Ổng làm ruộng lớn
mà có một mình tôi ở, nên làm tối ngày không hở tay, mà lại còn bị vợ chồng ổng
đánh chửi nữa.
Hôm tháng trước lúa cấy xong rồi, kế gặp trời mưa dầm dề luôn
sáu bảy bữa. Ông Lãnh sợ nước trên vồng đổ xuống tràn bờ ngập lúa, ổng bắt tôi
ngày đêm phải ở luôn ngoài ruộng mà giữ bờ.
Có một đêm trời mưa lớn quá, nước trên vồng chảy xuống ào-ào,
rồi bể bờ hai ba khúc mà tràn vô ruộng.
Phần thì trời tối đen như mực, phần thì tôi có một mình, lo đấp
khúc nầy nước tràn vô khúc kia, tôi làm không nổi, nên nước tràn vô ruộng
lai-láng ngập lúa hết.
Sáng ngày ông Lãnh ra thăm ruộng thấy nước bể bờ ngập lúa, ổng
chửi nát ông nát cha tôi, rồi ổng vác cây rượt đập tôi. Tôi sợ tôi chạy, ổng cứ
rượt theo, bị bờ trơn ổng trợt chơn rủi nhằm gốc cây cấn hông ổng nên ổng chết.
Vợ con ổng la làng la xóm nói tôi giết ổng, nên làng họ bắt mà giải tôi đến Huyện.
Việc thiệt tôi khai thiệt mà quan không chịu nghe nên đày tôi lên đây. Thiệt
thân mình nghèo khổ quá anh há ?
Tên Ðó nghe tên Thiệt thuật chuyện rồi, nó không tỏ dấu
thương xót tên Thiệt, mà cũng không trách quan xử oan-ức. Nó ngồi chau mày lặng
thinh, bộ như suy nghĩ chuyện gì đó vậy. Cách một hồi lâu nó mới nói rằng:
- Không biết năm nay má tôi có đau hay không ? Còn chị tôi
làm giống gì mà nuôi sắp nhỏ.
Tên Thiệt đáp rằng:
- Bác chết anh không hay hay sao ? Cơ khổ dữ hôn! Quan họ bắt
anh có vài bữa gì đó kế bác mất. Còn chị dâu với sắp cháu của anh, thì khi tôi ở
trên Vũng-Gù tôi trở về, tôi nghe nói sắp nhỏ đói quá nên chết hết ba bốn đứa,
còn mấy đứa kia chị dâu anh dắt đi đâu không biết, không có ở Vồng-Tre nữa”.
Tên Ðó nghe mấy lời ấy thì nó dùn mình [14] trợn mắt, dường
như ai đem bức tranh gia đình buồn thảm ngày xưa mà treo trước mặt, nên nó vụt
đứng dậy, khuỳnh hai cánh tay rồi nói lớn rằng:
- Má tôi chết, má tôi chết liền hồi đó ! … Mấy đứa cháu tôi
đói quá nên cũng chết, trời ôi!
Nó nói có bao nhiêu đó rồi té ngửa nằm dài dưới đất, tay chơn
run bây bẩy.
Tên Thiệt thấy vậy thất kinh nên la lên. Tội nhơn đương ngủ
nghe la giựt mình thức dậy áp lại khiêng Lê-văn-Ðó đem để nằm trên sập [15].
Ðêm ấy tên Ðó nằm cứ đập tay đập chơn, lắc đầu, một lát nghe
nó thở dài một cái rồi chắc lưỡi kêu trời.
Sáng bữa sau mình mẩy nó nóng hầm, nên không đi làm được.
Lê-văn-Ðó nóng vùi luôn cho tới nửa tháng; mỗi bữa tội nhơn
đi làm hết, còn có một mình nó nằm trong khám mà thôi.
Lúc nào nó bớt nóng thì nó suy nghĩ, nhớ tới chuyện nhà hồi
trước -- trong buồng mẹ già đau không thuốc uống, cứ nằm trên chõng mà rên,
ngoài trước sắp cháu đói không cơm ăn, nên quẩn bên chơn mà khóc.
Mình đi làm công họ không mướn, mình đi vay lúa họ không cho,
lén bưng cháo của họ để cho heo ăn đem về cho mẹ với cháu ăn đỡ, họ bắt mà đánh
khảo, rồi lại giải đến cho quan bỏ tù.
Mình có tội gì mà bỏ tù?
Họ giàu, lúa gạo ăn không hết đến nỗi lấy mà cho heo ăn, mình
nghèo không có cơm ăn, lấy về ăn đỡ cho khỏi chết đói, làm như vậy có tội hay
sao?
Té ra cái mạng thằng Ðó nầy với cả nhà của nó đều không bằng
cái mạng mấy con heo của ông Bá-hộ Cao hay sao?
Nhà giàu họ có của rồi họ bỉ bạc nhà nghèo quá! Quan lớn họ ỷ
quyền rồi họ đè ẹp dân ngu quá!
Chú Thích :
[1] bông lúa sắp nở
[2] nứt vì khô
[3] trâu trắng
[4] vun vồng: đấp cao lên
[5] nhăn nhó, cau có, quạo
[6] miền Bắc gọi là đay, loại cây cao độ 2 thước, thân có đường
kíng bằng ngón tay, võ có sớ dẽo dai, dùng để dệt vải thô: bao bố, giày bố, vải
bố …
[7] van vì: van xin
[8] mượn
[9] liên tục
[10] tắt lửa
[11] nồi đất rộng miệng
[12] phạt tù khổ sai
[13] điều
[14] rùn mình hay rùng mình: thân thể cử động mạnh và bất ngờ
[15] loại giường làm bằng tre sơ sài
CHƯƠNG 2 - QUYỂN I - ĐAU ĐỚN PHẬN HÈN
T
ên Ðó thuở nay khờ dại đến nỗi gặp khốn-đốn không biết buồn,
bị oan ức không biết giận. Nay nhờ có tên Thiệt thuật chuyện oan tức động trí
khôn của nó, nên nó ngồi suy nghĩ, rồi lại nhớ tên Thiệt nhắc chuyện nhà của nó
làm cho nó đau lòng. Bởi đau lòng nên mới té ngửa kêu trời, tại động trí nên mới
biết buồn biết oán.
Thuở nay trí não nó u-ám nên không biết suy nghĩ chi hết. Nay
trí nó tuy đã được mở được rồi, song còn yếu ớt lắm nên mới chiêm-nghiệm được
việc đời được một chút thì đã mê mệt, nằm thiếm-thiếp [16] như người ngủ.
Tù đi làm hết, nên trong khám vắng teo. Tên Ðó nằm một hồi, rồi
nghe có tiếng người ta chạy qua chạy lại rần-rật trên đầu. Một lát nữa lại nghe
có tiếng người ta nói lào-xào phía dưới chơn. Tên Ðó mở mắt ra thì thấy có chín
mười người đứng bao chung quanh mình, có già, có trẻ, có sồn sồn, người nắm
tay, người nắm chơn, người đỡ đầu biểu ngồi dậy, mà người nào cũng mặt mày xanh
lét, hình dạng ốm teo, xem thấy phát sợ.
Tên Ðó tuy mê mệt, song bị người ta trì kéo nên phải ráng sức
ngồi dậy. Nó thấy mấy người ấy đều lạ hết thảy, chớ không phải bọn tù ở trong
khám, nó bèn hỏi:
- Mấy người ở đâu? Vô đây làm gì? Tôi mệt mỏi để cho tôi nằm
nghỉ, bắt tôi ngồi dậy làm chi đây?
Mấy người ấy ngó nó mà cười ngất. Có một ông già chừng bảy
tám mươi tuổi, tóc râu bạc trắng, bước lại vỗ vai mà nói rằng:
- Chúng ta cũng ở trong khám nầy, cháu không biết hay sao?
Anh em chúng ta đây ai cũng bị ở tù oan-ức như cháu vậy hết thảy. Người trên
dương thế nầy họ xấu lắm, nhứt là mấy nhà giàu với mấy nhà quan họ ỷ tiền, ỷ thế,
mà húng hiếp kẻ nghèo hèn không xiết kể. Khi chúng ta còn sống, chúng ta thầm
tiếc không ra cho khỏi ngục được mà trả thù trả oán cho hết uất-ức trong lòng.
Nay chúng ta chết rồi, hồn chúng ta phưởng phất, tuy thong thả muốn đi đâu cũng
được, ai làm việc gì cũng thấy hết thảy, nhưng mà thấy thì càng tức càng giận,
chớ cũng không báo thù báo oán được, nghĩ thiệt tức không biết chừng nào. Cháu
muốn thấy thằng Bá-hộ Cao là đứa giàu độc ác, vì một trã cháo heo mà nó bắt
cháu rồi giết luôn năm sáu mạng trong nhà cháu hay không? Như cháu muốn đi, thì
chúng ta dắt đi cho mà coi.
Lê-văn-Ðó nghe nói tới Bá-hộ Cao thì nổi giận, muốn biết coi
bây giờ nó còn giàu sang nữa hay không, nên xin mấy hồn ma dắt mình đi.
Trong một giây phút, bỗng thấy nhà Bá-hộ Cao rõ ràng-- trong
hai ba tòa nhà kinh dinh, ngoài một vuông tre kín mít.
Bá-hộ Cao đương ngồi tại ván giữa bồng cháu nội mà giỡn, dâu
con đương ngồi ăn uống trong buồng, gia-dịch làm lăng-xăng, đứa cuốc đất ngoài
vườn, đứa nấu cơm dưới bếp, đứa xay lúa, đứa dã [17] gạo. Lê-văn-Ðó thấy tới chỗ
mình bưng trã cháo heo mà đi, lại cũng thấy chỗ họ đóng mộc trói mình mà đánh nữa.
Nó thấy rõ ràng thì càng tủi giận, nên xin mấy hồn ma dắt dùm
ra khỏi chỗ ấy cho mau.
Mấy hồn ma dắt nó đi về, mà trước khi trở về khám lại dắt nó
ghé chỗ nhà nó ở hồi trước cho nó coi.
Cái chòi của nó ở bây giờ sập ngã, nằm sát đất, chàng
hiu[18], rắn mối chun vô chun ra rụt rịt, chớ không thấy dạng người ta. Cách chỗ
đó chừng một công đất có một cái mả đất lúp-lúp, cỏ mọc bít núm hết, mấy hồn ma
chỉ mà nói đó là mả của mẹ nó.
Lê-văn-Ðó thấy quê nhà, thấy mả mẹ thì khóc vùi.
Mấy hồn ma dắt trở về khám, rồi người già hơn hết mới nói rằng:
- Cháu thấy hay chưa, kẻ giàu sang họ hại cháu là đứa nghèo
hèn đến nỗi tan nhà nát cửa, làm cho mẹ với cháu đói khát mà chết hết, vậy mà họ
cũng còn sung sướng, quan đã không phạt họ, mà trời cũng không hại họ, thế thì
hai chữ “công bình” là chữ người ta bày đặt mà gạt bọn nghèo hèn như chúng ta
đây, chớ không có nghĩa lý chi hết. Cháu coi lấy đó mà coi, chúng ta oán loài
người có đáng hay không hử?
Lê-văn-Ðó ngồi lặng thinh, chau mày trợn mắt, coi bộ giận lắm.
Cách một hồi lâu nó mới hỏi mấy hồn ma rằng:
- Tôi bị oan-ức nên tôi giận thì phải, chớ mấy người có oan ức
chi đâu mà mấy người giận?
Ông già hơn hết cười rồi nói rằng:
- Sao cháu biết anh em chúng ta đây không bị oan-ức? Nếu
không oan-ức thì chúng ta giận sao được? Cháu nằm xuống, để chúng ta thuật chuyện
của chúng ta cho cháu nghe.
Lê-văn-Ðó nghe lời nằm xuống liền.
Mấy hồn ma ngồi vây chung quanh, rồi ông già hơn hết khởi đầu
thuật chuyện của ông như vầy:
- Tôi tên là Huỳnh-văn-Hiền, già đã được 75 tuổi trên đầu, mà
không có vợ con chi hết. Năm trước tôi câu được ít con cá lóc, bèn đem xuống chợ
Vũng-Gù đổi lấy gạo về mà ăn. Vừa xuống tới chợ tôi gặp hai tên lính áp bắt
tôi, biểu phải chèo ghe cho con quan Tri-phủ Tân-An đi chơi. Tôi nói tôi mắc
bán cá nếu bắt tôi chèo ghe thì cá tôi chết rồi bán không được. Họ không nghe,
cứ bắt tôi đem xuống ghe. Con quan Tri-phủ mới 18, 19 tuổi, mà vì quan Tri-phủ
cưng cậu, nên cậu hổn-hào ngang-tàng lắm. Cậu dạy lính ở nhà để một mình tôi
bơi xuồng cho cậu chơi. Tôi bơi chậm cậu chửi tưng bừng, mà tôi bơi mau, xuồng
lắc cậu lại còn chửi hơn nữa. Bơi đi được vài khúc sông, gặp một cây bần[19] lớn,
trái chín treo lòng-thòng, cậu biểu tôi ghé xuồng cho cậu hái. Cậu vói tay hái
bần, xuồng lắc cậu té nhào xuống sông. Tôi nhảy theo vớt cậu rủi cái vịnh ấy
sâu mà chảy mạnh quá, nên cậu chìm rồi trôi mất, tôi mò không đặng.
Tôi về phủ mà báo. Quan Tri-phủ bắt tôi nói tôi xô con ngài
xuống sông, nên làm án đày tôi chung thân. Tôi vô khám nầy được hai năm rồi thọ
bịnh mà chết. Tôi là người vô tội, mà phải chết trong ngục như vậy không ức-hiếp
hay sao?
Hồn ma thứ nhì cất tiếng nói rằng:
- Chuyện của ông tuy ức, song quan Tri-phủ vì con chết nóng
lòng nên bỏ tù ông, nghĩ cũng còn có lý nghiệm. Chuyện của tôi đây mới là oan-ức
lung lắm chớ. Tôi là Lê-văn-Tố, gốc ở Trường-Bình, vợ chồng nghèo nên phải mướn
ruộng của tên Trương-công-Sanh mà làm. Trương-công-Sanh giàu lớn mà nó khắc bạc
lắm.
Năm nọ trời hạn lúa của tôi cấy bị nắng khô hết, nên tới mùa
không gặt mà đong lúa ruộng cho chủ được. Trương-công-Sanh bắt vợ chồng tôi phải
đem con để ở đợ cho nó mà trừ. Vợ chồng tôi có một đứa con gái mới 17 tuổi; vợ
tôi thương nó lắm, ngặt vì mình nghèo, nợ trả không nổi, nên cực chẳng đã phải
cắt ruột đem con cho ở đợ mà trừ.
Con tôi khờ dại, ở với Trương-công-Sanh, nó rúng ép làm sao
không biết, mà chừng một năm tôi nghe con tôi có nghén. Tôi nghe tin ấy thì đau
lòng xót dạ hết sức, tới năn nỉ với nó mà xin đem con tôi về. Nó không cho. Tôi
xin cho tôi thấy mặt con tôi một chút, nó cũng không chịu. Tôi tức giận nên hăm
đến làng mà kiện nó. Tối lại nó sai người đem một gói đồ giấu sau hè tôi, rồi
đi báo với làng nói tôi ăn trộm đồ của nó. Làng bắt tôi mà giải đến quan. Tôi
kêu oan hết sức, mà vì nó nhiều tiền đến đâu nó cũng trám miệng họ hết thảy,
nên quan không chịu nghe lời tôi khai, cứ làm án đày tôi. Vợ tôi phần thì rầu nỗi
con ô danh xủ tiết, phần thì thương nỗi chồng cực khổ lao tù, nên ở nhà nhuốm bịnh
mà chết. Tôi ở trong khám nầy, tôi hay vợ tôi chết tôi thương tiếc buồn rầu chịu
không nổi, nên tôi phải thắt họng mà chết theo vợ cho yên thân. Chuyện của tôi
như vậy đó, bà con xét thử coi có đáng giận hay không?
Hồn ma thứ ba nghe vừa dứt lời thì thở dài một cái rồi đứng dậy
trợn mắt múa tay mà nói rằng:
- Chủ-điền của anh ác nghiệt thiệt, nhưng mà đầu dây mối nhợ
cũng tại con gái của anh một chút; nếu nó biết giữ trinh tiết, Trương-công-Sanh
làm ngang, nó la làng la xóm lên, đừng chịu ở trong nhà nó nữa, thì vợ chồng
anh khỏi thác oan. Chuyện của tôi cũng giống như chuyện của anh vậy, song con
gái tôi chặt dạ, nó không thuận tùng, mà tôi cũng bị chủ điền nó hại được, nghĩ
mới thiệt là ức chớ.
- Tôi đây Nguyễn-văn-Ðạo ở dưới Bến-lức. Vợ chồng tôi mướn ruộng
của Chánh-tổng Hà mà làm. Tôi có một đứa con gái 20 tuổi, tôi đã hứa gả nó cho
thằng Mỹ, là con của người bạn thiết tôi, ở làng gần đó. Chánh-tổng Hà có một
thằng con trai tên là cậu ba Ngọc, đã có vợ có con rồi, mà hễ nó thấy trong
làng trong xóm có con ai xinh đẹp, thì nó theo ve vãn, lập mưu nầy kế nọ, làm
sao cũng phá danh tiết người ta cho được nó mới nghe.
Một bữa nọ cậu ba Ngọc đi chơi gặp con gái tôi đi cấy về. Cậu
thấy nó cậu muốn, nên theo ghẹo chọc, rồi cậy mai cậy mối nói vô nói ra mà dụ dỗ
nó. Nó chặt lòng, không thèm nghe hơi đờn giọng quyển[20] . Cậu cùng thế mới
nói với tôi để cậu cưới về làm tiểu thiếp.
Tôi nói con tôi đã có hứa gả cho người ta rồi nên không thể gả
cho cậu được và xin cậu đừng có theo ghẹo chọc gái có chồng mà làm cho người ta
mang tiếng. Cậu giận tôi, nên về nhà xúi Chánh-tổng lấy ruộng lại, không cho
tôi mướn nữa. Tôi đi mướn ruộng khác mà làm, té ra đi đến đâu cũng bị cậu ta chận
đầu nên không mướn ruộng ai được hết.
Tôi tức quá nên khi gả con tôi cho thằng Mỹ rồi, thì tôi dỡ
nhà về bên làng của rể tôi mà ở, đặng kiếm phương khác làm ăn. Cậu ba Ngọc nghe
tôi cho thằng Mỹ cưới con tôi thì cậu càng oán tôi hơn nữa, quyết kiếm chuyện
mà hại cha con tôi.
Một bữa nọ thằng rể tôi đi xóm về, nó đi ngang qua bờ ruộng của
cậu ba Ngọc.
Vì thằng rể tôi nó biết nghề võ khá lắm, cậu nghe danh cậu sợ,
nên không dám đánh nó. Cậu xúi đứa nhỏ coi trâu của cậu theo chửi, nói sao dám
đi trên bờ của nó. Thằng rể tôi lấy lời êm ái mà nói với nó rằng đi một chút
không hao mòn bờ là bao nhiêu. Thằng nhỏ không thèm nghe cứ theo chửi hoài. Rể
tôi giận, trở lại đánh nó một bốp tai nhẹ-nhẹ. Cậu ba Ngọc nhơn dịp ấy chạy ra
xúi thằng nhỏ nhào trong nhà tôi mà la làng. Rể tôi đi trước, thằng nhỏ theo
sau mà la. Vô tới sân, thằng nhỏ vấp hàng rào té nhằm lưỡi cuốc đứt họng mà chết.
Xóm riềng ai cũng thấy rõ như vậy hết thảy, mà cậu ba Ngọc đi cáo với quan nói
tôi với rể tôi giết thằng nhỏ. Cậu lo lót sao đó không biết, mà quan không đòi
hỏi chứng cớ chi hết, cứ bắt cha con tôi mà bỏ tù. Anh em xét coi có oan-ức hay
không? Tôi buồn rầu nên ở tù mới mấy tháng kế tôi nhuốm bịnh mà chết, còn rể
tôi bây giờ còn ở trong khám nầy, không biết chừng nào quan mới tha nó.
Hồn ma Nguyễn-văn-Ðạo thuật chuyện mới tới đó, kế tù kéo nhau
về khám bước vô rần rần.
Mấy hồn ma biến đi mất.
Lê-văn-Ðó mở mắt thấy tên Thiệt đứng dựa bên nó và rờ đầu nó
mà hỏi có bớt nóng hay không.
Lê-văn-Ðó mồ hôi đổ ướt dầm, ngực hơi nhảy thịch-thịch, song
đầu nhẹ nhàng, không mê mệt như mấy bữa trước nữa.
Ðêm ấy nó nằm suy xét việc đời, nhớ chuyện của mình thì căm
giận Bá-hộ Cao, người giàu có mà sao không biết thương kẻ nghèo nàn, thấy người
ta đói khát đã không chịu giúp dùm, rồi vì một trã cháo heo mà đành hại luôn cả
một nhà.
Nó ngẫm-nghĩ lần lần, nhớ tới việc của tên Thiệt rồi nhớ luôn
tới mấy chuyện hồn ma thuật với nó đó.
Ban đầu nó giận một mình Bá-hộ Cao là người hại nó mà thôi,
chừng nó chiêm nghiệm tới mấy việc kia, nó nghĩ những người giàu có sang trọng
đều ỷ bạc tiền, ỷ quyền tước mà làm hại bọn nghèo hèn, bởi vậy nó giận nhà giàu
sang hết thảy, nó chau mày trợn mắt, vùng đứng dậy đấm ngực thụi-thụi mà nói lớn
rằng:
- Tức thiệt! Tức lắm! Tội gì mà bị đày!
Tên Thiệt nằm ngủ gần đó, nghe tên Ðó nói lớn tiếng, giựt
mình mở mắt, dòm thấy tên Ðó đứng trân-trân cặp mắt lỏ chao-quảo, hai lỗ mũi thở
hơi ra khì-khì, không hiểu chuyện gì, sợ tên Ðó mê sảng, nên lật-đật chạy lại nắm
tay biểu nằm xuống mà nghỉ.
Tên Ðó ngó tên Thiệt rồi ríu-ríu nằm xuống, mà bộ coi hung ác
lắm, dường như đương gây-gổ với ai vậy.
Cách chẳng mấy ngày tên Ðó hết đau, rồi mỗi bữa đi làm với bọn
tù như cũ.
Nếu ai có ý coi chừng nó, thì có lẽ thấy nó từ ấy ý tứ khác
hơn xưa, đi đứng chần chờ, mặt mày hầm hừ, không muốn nói chuyện với ai, mà
cũng không thèm ngó ai hết, ban ngày đi làm công việc thì nó lững-đững lờ đờ, bộ
như riêng tính việc chi vậy, còn ban đêm về khám thì nó nằm thiếp-thiếp, mà chừng
người ta ngủ hết rồi, nó lại thức dậy, ngồi khoanh tay ngó sửng vô trong vách
trót một hai canh rồi mới chịu ngủ.
Những đội với lính coi tù chỉ biết hiếp đáp đánh đập mà thôi,
chớ không biết xem-xét trí ý, bởi vậy tên Ðó tính những việc gì chúng nó không
hay, không dè chút nào hết.
oOo
Lê-văn-Ðó ở trong chốn lao tù trót mấy năm, tấm thân cực khổ
không xiết kể, nhưng mà cực thì chịu chớ không than khổ cũng ở chớ không trốn.
Từ ngày anh ta nhờ tên Thiệt nhắc chuyện cũ cho anh ta nhớ,
thuật việc nhà cho anh ta nghe, rồi lại nhờ mấy hồn ma thác oan chỉ thói đời ác
nghiệt cho anh ta biết, thì trí khôn của anh ta lần lần mới mở mang ra, anh ta
mới biết suy nghĩ việc đời, anh ta mới biết than thân trách phận, anh ta mới biết
oán hận kẻ giàu sang.
Cách chẳng bao lâu, có lịnh quan dạy chú lính, tên là Phạm Kỳ,
dắt 10 tên tội-nhơn lên rừng đốn củi. Vã đi đốn củi thì người ta thường lựa tội
nhơn trai tráng mạnh dạn mà dắt đi, lại mỗi lần đi thì lính với tội-nhơn lên
trên rừng tới năm mười bữa, hoặc nửa tháng, chừng nào đốn được nhiều rồi quan mới
cắt thêm một tốp nữa lên phụ mà gánh về.
Lê-văn-Ðó sức lực rất mạnh-mẽ ai cũng đều biết, bởi vậy Phạm
Kỳ mới cắt phần đốn củi với tên 9 tội nhơn khác. Lên tới rừng rồi, Phạm Kỳ biểu
tội nhơn đốn cây làm gác đặng ban đêm ngủ với nhau cho khỏi cọp beo làm hại.
Lê-văn-Ðó đã để ý muốn trốn, nhưng vì chưa gặp dịp nào thoát
thân được, nên mới còn ở tù đây.
Nay lên tới rừng, anh ta nghĩ rừng rú rậm rạp, còn lính thì
có một người mà thôi, nếu thừa dịp nầy mà trốn thì chắc không thế nào họ kiếm
được.
Mới tối bữa ban đầu thì Lê-văn-Ðó đã thao thức tính trốn
hoài, nên ngủ không được. Ðến khuya anh ta rình coi lính với tù đều ngủ hết,
anh ta mới lén lấy một cái rựa dắt vào lưng rồi leo xuống gác mà đi.
Phần thì trời tối đen như mực, phần thì cây-cối giao nhành
bít-chịt, phần thì anh ta không quen thuộc đường rừng, bởi vậy anh ta cứ đi lẩn
quẩn trong rừng hoài, đi đến sáng cũng chưa ra ngoài trảng được.
Sáng ngày Phạm Kỳ thức dậy thấy mất Lê-văn-Ðó, bèn dắt tội-nhơn
theo dấu mà kiếm. Vã đất trong rừng thì ướt, Lê-văn-Ðó đi tới đâu đều có dấu
chơn tới đó. Ðã vây mà hễ anh ta gặp nhánh cản bít đường, thì chặt cho trống mà
đi, nên còn để dấu cho người ta dễ theo mà kiếm nữa.
Phạm Kỳ theo dấu hoài đến chừng nửa buổi sớm mai gặp
Lê-văn-Ðó đương ngồi dựa gốc cây mà nghỉ, mới dắt tội-nhơn áp lại mà bắt.
Lê-văn-Ðó liệu không thế thoát thân được, nên chịu phép để cho Phạm Kỳ trói mà
dắt về trại. Phạm Kỳ sợ tên Ðó trốn nữa nên ban ngày thì để cho đốn củi, còn
ban đêm thì bắt trói lại, không để cho thong-thả nữa.
Chừng củi đốn xong và gánh về hết rồi, Phạm Kỳ dắt tội nhơn về
tỉnh mới bẩm cho quan hay sự tên Ðó lên rừng thừa lúc canh khuya bỏ trại mà trốn.
Quan chồng án Lê-văn-Ðó thêm 5 năm nữa, cộng là 10 năm, lại dặn lính coi khám
phải canh giữ nghiêm-nhặt, nhứt là đừng cắt tên Ðó đi lên rừng nữa.
Vì muốn cứu gia quyến khỏi chết đói, đi lấy cháo của họ để
cho heo ăn đem về cho mẹ với cháu ăn đỡ mà phải bị đày 5 năm! Vì oan-ức chịu
không được nên mới trốn mà đi, lại còn phải bị đày thêm 5 năm nữa! Thân phận kẻ
nghèo hèn khổ như vậy, ai có thấy chăng?
Lê-văn-Ðó tức giận quá nên chí quyết dầu thế nào cũng trốn nữa.
Ngặt vì anh ta tính trốn mà lính cũng tính không để cho anh ta trốn, nên canh
giữ nghiêm-nhặt luôn luôn, ban ngày dầu anh ta làm việc gì cũng có người coi chừng,
ban đêm dầu anh ta ngủ họ cũng không mở gông mà lại còn xiềng chơn nữa.
Lê-văn-Ðó không thế trốn được, nên phải chịu phép ở tù cho tới
9 năm.
Ngày nọ quan Tổng-Trấn dạy đấp một cái lộ từ tỉnh lên cho tới
huyện Bình-dương.
Các tội nhơn trong khám đều phải đi đào đất mà đấp lộ ấy.
Một buổi chiều, lính đương dắt tội-nhơn trở về khám, đi dọc
đường gặp một đám giông mưa ầm ầm.
Trời đã tối rồi, mà lính với tội-nhơn bị mưa lạnh nên dắt
nhau chạy lúp-xúp cho mau tới khám.
Lê-văn-Ðó thủng-thẳng thụt ra phía sau chót, chạy được một hồi,
bỗng thấy bên đường có một bụi râm, bèn chun vào đó mà núp, tính để cho họ chạy
xa rồi mình sẽ xông ra tìm đường mà thoát thân.
Chẳng dè anh ta chun vô bụi đó, có một tên lính còn thụt lùi
phía sau nữa anh ta không hay. Tên lính thấy anh ta muốn trốn, bèn la lên, mấy
tên lính kia lật-đật trở lại áp bắt.
Lê-văn-Ðó thấy mưu mình đã lộ nữa thì tức giận quá, không dằn
lòng được, nên nhảy ra đánh lính tưng-bừng. Vì tên Ðó mạnh quá nên ba bốn tên
lính muốn bắt mà bắt không được. May nhờ có ông đội võ nghệ cao cường, ổng trở
lại phụ lực với lính, nên mới trói được tên Ðó mà dắt về khám.
Lê-văn-Ðó đã phạm tội trốn một lần rồi, nay còn trốn nữa, mà
thêm tội đánh lính, nên quan nghị án đày anh ta thêm 10 năm, cộng về trước về
sau là 20 năm.
Anh ta bị chồng án thì càng thêm uất-ức, lòng càng thêm phiền
hà.
Tội gì còn một năm nữa thì mãn tù, mà bây giờ phải ở thêm 10
năm!
Luật gì lấy một trã cháo heo cho mẹ với cháu ăn đỡ đói mà phải
chịu 20 năm khổ hình! Ác quá! Ức quá!
Lê-văn-Ðó càng nghĩ càng buồn, càng muốn trốn nữa.
Ngặt vì anh ta là đứa quê dốt thiệt thà, vô mưu thấp trí, nên
muốn thì muốn lung, mà làm thì làm không được.
Ngày qua tháng lại, thảm dập khổ dồn, Lê-văn-Ðó nấn ná trong
chốn lao tù, tội nhơn nhiều đứa mãn hạn đã về rồi, còn nhiều đứa khác đã vô mà
thế, song tên Ðó cũng còn ở trong khám Gia-định hoài.
Ðến năm Mậu-tí (1928), nhằm Minh-mạng cửu niên, Lê-văn-Ðó bị
đày đã đủ 20 năm, quan mới kêu mà thả.
Trước khi cho anh ta ra khỏi khám, quan lại dặn về nhà phải
lo làm ăn không nên làm việc quấy nữa, nếu anh ta còn tái phạm, thì quan sẽ chiếu
luật mà đày chung thân.
Lời dặn phải lo làm ăn, nghe thiệt là kỳ.
Từ nhỏ đến lớn lo làm ăn, chớ có tính cướp giựt của ai đâu?
Lời dặn đừng làm việc quấy nữa, nghe thiệt là lạ.
Ðã có làm việc gì quấy đâu mà dặn đừng làm nữa?
Lê-văn-Ðó tuy biết như vậy song bổn tánh thiệt-thà, nên không
dám cãi lẽ cứ cúi đầu vưng chịu mà lui ra.
Lê-văn-Ðó khi vô khám thì mới 20 tuổi, nay anh ta ra khỏi
khám thì râu-ria xồm-xoàm, lại vì buồn rầu cực khổ trót 20 năm, nên tóc trên đầu
đã điểm bạc.
Tuy vậy mà nhờ bị đày nên trí anh ta mở sáng thêm chút đỉnh.
Lại dầu lao tâm khổ xác, nhưng mà sức lực anh ta không giảm
chút nào.
Anh ta ra khỏi tỉnh rồi, mới bẻ một khúc cây làm gậy mà đi và
hỏi thăm đường tính lần về Tân-Hòa.
Ðường xá không có, nên đi cực khổ không biết chừng nào.
Khi thì phải băng ngang rừng, sợ nỗi cọp hùm không dung, khi
thì phải lội qua sông, lo nỗi cá mập gấp nuốt.
Khi khát nước thì kiếm vũng hào mà uống đỡ, khi đói bụng thì
hái trái cây thế làm cơm.
Ban ngày mệt mỏi thì lựa chỗ cao ráo ngồi nghỉ chơn, ban đêm
buồn ngủ thì leo lên nhành cây mà nhắm mắt.
Lê-văn-Ðó đi một mình trong rừng, nghĩ bây giờ mình được
thong thả, thì trong lòng hân-hoan, mà hễ nhớ tới việc nhà, thì lại chau mày ủ
mặt. Mẹ mình đã chết rồi, bây giờ mình về xứ sở làm chi?
Tên Thiệt nói sắp cháu mình còn sống được ít đứa, mà chị dâu
mình đã xiêu lạc đâu mất, bây giờ mình biết đâu mà tìm?
Lê-văn-Ðó đi được hai ngày hai đêm, cứ ăn trái cây trong rừng
mà thôi, chớ không có một hột cơm, bởi vậy trong bụng đói quá chịu không nổi.
Qua ngày thứ ba, trời mưa dầm dề, Lê-văn-Ðó mình mặc một cái
áo vải xanh với một cái quần vắn, đầu không có nón, bị trời mưa nên áo quần đầu
cổ ướt loi-ngoi.
Ðến trưa anh ta qua khỏi truông rồi thấy trước mặt một cái
bưng [21] lớn. Anh ta không biết hướng nào, cứ nhắm ngay trước mặt rồi lội xuống
bưng mà đi nhầu, tính hễ có gặp nhà rồi sẽ hỏi thăm đường.
Anh ta đi tới chiều, trời mưa rỉ rả, chớ không mưa lớn nữa,
song bị áo quần ướt nhẹp, lại gió thổi lai-rai, nên lạnh lẽo môi tái xanh, hai
hàm răng đánh bò-cạp[22] nghe lộp-cộp.
Anh ta đã lạnh mà bị đói bụng, muốn ngồi nghỉ chơn mà ở giữa
bưng không có một chỗ nào cao ráo, nên nó phải ráng lội mà đi hoài.
Lối chạng-vạng tối, anh ta ra khỏi bưng rồi, lại thấy có một
xóm đông, vườn tược thạnh mậu, nhà cửa sung túc. Anh ta mừng thầm trong bụng,
tính đi riết vô xóm ấy xin cơm mà ăn đỡ đói, và kiếm chỗ ngủ đậu đợi sáng mai rồi
sẽ đi nữa.
Anh ta vừa vô xóm, thì gặp một đứa nhỏ, chừng 12, 13 tuổi, ở
ngoài đồng đương lùa trâu về.
Anh ta hỏi thăm thì mới hay chỗ nầy là huyện Trường-Bình.
Trong bụng anh ta lại càng mừng hơn nữa. Anh ta hỏi đứa nhỏ ấy vậy có chỗ nào
xin ngủ đậu được hay không. Ðứa nhỏ đưa tay chỉ mà nói rằng:
- Kìa, chú đi thẳng đường nầy đi khỏi năm sáu cái nhà rồi thì
có một cái quán, chú vô đó mà nghỉ.
Lê-văn-Ðó nghe nói thì gật đầu rồi lầm lũi đi riết.
Thiệt quả anh ta đi khỏi sáu cái nhà rồi thì thấy có một cái
nhà lá cất dựa bên đường dài đến 5 căn, trong nhà đèn đốt leo-heo, song có chín
mười người đương ngồi ăn uống, nói chuyện om sòm.
Anh ta đứng ngoài đường mà dòm một hồi, rồi có một người mập-mạp
cao lớn, ở trong nhà bước ra cửa, ngó thấy anh ta đứng trân-trân ngoài mưa, bèn
hỏi rằng:
- Ai đó? Sao không vô lại đứng mà rình giống gì vậy?
Tên Ðó thủng thẳng bước vô cửa, áo quần nước chảy ròng-ròng,
tay mặt cầm gậy hèo chống xuống đất, tay trái vuốt mặt cho ráo nước mưa, rồi
cóm róm nói rằng:
- Tôi là người ở phương xa đi lỡ đường, vậy xin anh làm phước
cho tôi nhờ một bữa cơm và cho tôi ngủ đậu một đêm rồi sáng mai tôi đi.
Người mập-mạp cao lớn ấy liếc mắt ngó tên Ðó từ trên đầu xuống
dưới chơn, rồi bỏ đi vô nhà không thèm nói chi hết.
Tên Ðó mệt mỏi đói lạnh, tưởng người ấy vô nhà lấy cơm cho
mình ăn, nên ngồi bẹp xuống đất dưới mái hiên mà chờ.
Ðã ba bữa rồi anh ta không có một hột cơm mà đút vô miệng,
nên ngồi thấy mấy người trong nhà ăn uống, thì anh ta thèm vô cùng. Anh ta ngồi,
răng thì đánh bò-cạp, mà mắt thì ngó lom-lom.
Cách một lát người mập mạp hồi nãy đó ở dưới bếp đi lên, bưng
một dĩa thịt để thêm cho mấy người ăn đó họ ăn, rồi bước ra cửa, hai tay chống
nạnh mà hỏi tên Ðó rằng:
- Chú muốn ăn cơm, mà trong lưng chú có tiền hay không?
Tên Ðó lật đật đứng dậy nói nhỏ nhẹ rằng:
- Tôi nghèo quá, tiền không có đồng nào hết. Xin anh thương kẻ
nghèo …
Anh ta nói chưa dứt lời thì người ấy cười ngất mà đáp rằng:
- Trời ơi, không có tiền mà vô đây làm gì? Dọn cơm cho chú ăn
rồi tiền đâu chú trả?
Mấy người ngồi ăn trong nhà nghe trước hiên nói chuyện như vậy
thì áp ngó ra rồi cười rộ. Có một người lại hỏi rằng:
- Ai mà anh hùng dữ vậy? Không có tiền mà đòi ăn cơm nỗi gì?
Người mập-mạp ấy liền day vô nói rằng:
- Bộ chi chú là Lưu-Khánh hay sao mà; tính ăn cơm rồi thế cặp
cánh chớ gì?
Người ấy day ra hỏi tên Ðó rằng:
- Phải hôn? Chú có cặp cánh đâu chú đưa cho tôi thử một chút
coi.
Tên Ðó tuy không hiểu họ nói Lưu-Khánh đó là ai, và cặp cánh
đó là vật gì, song thấy bộ tịch thì biết người ta nhạo báng mình, nên mắc cỡ đứng
gục mặt không nói chi hết. Người ấy lại tiếp nói rằng:
- Không được, chú đi chỗ khác mà kiếm ăn. Ðây là quán chú biết
hôn? Nếu không có tiền thì không ăn không ngủ được. Thôi chú đi đi, đừng để tôi
nói nhiều thất công.
Người ấy nói rồi bỏ vô trong.
Lê-văn-Ðó đứng ngó theo mà ứa nước mắt. Anh ta liệu thế người
ta không thương, dầu nói nữa cũng vô ích, nên ríu-ríu bước ra đường, trời còn
mưa rỉ-rả làm cho ruột héo gan sầu.
Lê-văn-Ðó thấy đường ngay thì cứ noi theo đường đó mà bước tới.
Nhà ở hai bên đường tuy còn đốt đèn, song phần nhiều đã sập cửa,
rồi người ở trong nói chuyện nghe rầm-rì.
Anh ta đi múp [23] cái đường đó rồi, lại bắt đi qua đường
khác, đi được một hồi, bỗng thấy có một cái nhà ở sát mé đường, cửa mở tác hoác
(rộng, toang), đèn đốt sáng trưng, có hai vợ chồng chủ nhà, trạc chừng 35 tới
40 tuổi, đương ngồi trên ván mà ăn cơm với một đứa con. Anh ta dòm một lát, thầm
nghĩ nhà nầy giàu có nếu mình xin ăn, chắc họ không nỡ hẹp hòi như chủ quán hồi
nãy, bèn lần lần bước vô đứng ngoài sân, ngay chỗ vợ chồng chủ nhà đương ăn cơm
đó, mà nói rằng:
- Thưa cậu, làm phước cho tôi ba hột cơm dư ăn đỡ dạ, và cho
tôi ngủ đậu trước hiên nầy cho khỏi bị mưa lạnh lẽo rồi khuya tôi đi.
Người chủ nhà đương nói chuyện với vợ, thình-lình nghe tiếng
nói trước sân thì giựt mình ngó ra, thấy tên Ðó đứng sầm-sầm, hình dạng dị kỳ,
thì đổ quạu, bèn nạt lớn rằng:
- Ế! Ði ra nà! Ðồ gì ở đâu mà dị-hợm lắm vậy! Người ta đương
ăn cơm, tới làm lộn-xộn hoài. Ði ra đi cho mau.
Tên Ðó chắp tay thưa rằng:
- Thưa cậu mợ, cậu mợ giàu có, tiếc chi một chén cơm với kẻ
nghèo hèn đói lạnh.
Bà chủ nhà hỏi rằng:
- Muốn ăn cơm ngủ đậu thì có quán ở đàng kia, sao không lại
đó?
Lê-văn-Ðó đáp rằng:
- Thưa mợ, tôi có lại đó rồi, vì tôi không có tiền nên họ
không cho ăn, mà cũng không cho ở.
Người chủ nhà chau mày nói rằng:
- Ủa! Quán mà họ không thèm chứa thay, vậy sao không biết
thân còn tới đây làm chi? Ði ra cho mau đi.
Tên Ðó đứng dục-dặc, muốn lấy lời nhỏ-nhẻ mà năn nỉ nữa. Người
chủ nhà nổi giận, buông đũa rồi lại xách cây gài cửa muốn đập tên Ðó và nói rằng:
- Ta đã đuổi, sao không đi ra, còn đứng nói ráng gì đó? Bộ muốn
dọ đường đặng khuya khoét vách người ta phải hôn?
Lê-văn-Ðó sợ chủ nhà đánh, nên lật đật thối lui bước ra ngoài
đường mà trong lòng đau đớn phiền muộn vô cùng.
Mình đói lạnh họ đã không thương, mà lại còn nghi cho mình muốn
khoét vách, nhơn tình dường ấy nghĩ thiệt rất buồn !
Mà người ta thấy bộ Lê-văn-Ðó dị-hợm, không thương nên người
ta xô đuổi thì đã đành, thậm chí ông trời, xưa nay ai cũng nói ông công bình,
mà ông cũng không biết thương kẻ nghèo hèn đói lạnh nữa, nên Lê-văn-Ðó không có
chỗ ngủ đậu, ông lại cứ lâm-râm mưa hoài rồi còn thêm thổi gió hiu-hiu, áo ướt
sát da, lạnh lẽo ruột teo môi tái.
Lê-văn-Ðó thơ thẩn không biết bây giờ phải đi đâu, bụng tuy
đói mà không dám tính xin cơm ăn, mình tuy lạnh mà không dám tính xin ngủ đậu.
Anh ta đi lần ra khỏi xóm, không biết hướng nào là hướng về huyện Tân-Hòa, nên
đứng dụ dự, không dám bước tới nữa. Gió thổi lạnh run lập-cập, anh ta mới tính
trở vô xóm kiếm chỗ khô ráo mà đụt mưa, đợi sáng mai rồi sẽ hỏi thăm đường mà
đi.
Anh ta trở vô, đi được ít chục bước, thì gặp một cái nhà lớn,
trong nhà còn đốt đèn, ngoài sân kiểng-vật ê-hề, mà vắng teo. Dựa bên đường có
một cái cửa ngõ ván. Trên lợp lá dưới thềm cây, nhờ lá che mưa nên thềm cây khô
ráo. Tên Ðó ghé vô đó, ngồi dựa lưng ngay cẳng mà nghỉ. Giọt mưa đổ ngoài đường
lác-đác, ngọn gió đùa cây cối lào-xào.
Tên Ðó ngồi ngó mấy vũng nước mưa, tuy mờ mờ, song thấy bọt nổi
rồi tan, tan rồi lại nổi.
Anh ta vừa muốn cởi áo ra mà vắt cho ráo nước đặng bớt lạnh,
thình-lình có hai con chó vàng lớn ở phía tay trái tuôn chạy lại sủa om-sòm.
Anh ta lật đật đứng dây, hai con chó càng làm dữ, nhảy xốc tới cắn ống quần mà
kéo lằn nhằn.
Anh ta liệu ở đây bất tiện, nếu phải chống cự với chó nầy,
thì không nghỉ được, mà còn sợ e chủ nhà họ không nghĩ, họ nói mình rình mà ăn
trộm, họ bắt giải đến quan càng khổ cho mình nữa.
Anh ta mới thối lui ra đường, mà cặp chó còn rượt theo hoài.
Tên Ðó nghĩ thân chí khổ, đến nỗi chó mà nó cũng không
thương, nên không cho mình đụt mưa, thì trong lòng tức-tủi vô cùng. Anh ta liều
nhắm mắt mà đi ra ngoài đồng, không kể đói bụng mỏi chơn, không kể gió mưa chi
hết, quyết xa lánh loài người hoặc may có bớt buồn, bớt giận hay chăng.
Anh ta đi một hồi, nhớ tới việc oan-ức của mình trót 20 năm
nay, nhớ tới những việc húng hiếp của mấy hồn ma thuật với mình trong khám ngày
trước, nghĩ loài người ngoài miệng thì họ nói nghĩa nhơn nhơn nghĩa, mà kỳ
trung thì là mạnh hiếp yếu, giàu hiếp nghèo, sang hiếp hèn, khôn hiếp dại, chớ
chẳng có chi khác.
Vì mình nghèo, vì mình hèn, vì mình dại, nên bấy lâu nay mình
mới bị người ta đày đọa tấm thân. Vậy thì mình phải làm làm sao cho được giàu,
được sang, được khôn, tự nhiên hết ai húng hiếp mình nữa được.
Mà muốn giàu, muốn sang, muốn khôn, không phải dễ.
Nay mình đã sẵn có sức mạnh, vậy thì mình phải dùng sức mạnh
mà chống cự với thiên hạ, chớ dại gì mà chịu thua, để cho thiên hạ hiếp đáp
hoài.
Anh ta nghĩ tới đó thì chau mày, xụ mặt, trợn mắt, vinh râu,
coi bộ tức giận dữ lắm.
Tức việc gì? Giận ai đó?
Tức mình cũng có tai, có mắt, có ruột, có gan như người, mà
vì phận nghèo hèn, nên mới bị người chà đạp.
Giận người giàu sao không thương kẻ nghèo hèn, giận người lớn
sao không thương kẻ nhỏ, đã không giúp đỡ dìu-dắt, mà lại còn bỉ bạc khinh khi,
sá chi một vài giạ lúa mà để chết gần hết một nhà, sá chi một trã cháo heo mà
làm cho người khốn khổ đến 20 năm chẵn.
Ðời thiệt là hung bạo! Người thiệt là độc ác!
Ðời như vậy há không đáng giận sao?
Người như vậy há không đáng thù sao?
Lê-văn-Ðó vác mặt ngó ngay phía trước, hai bàn tay nắm chắc cứng,
và đứng giữa đồng nói lớn lên rằng:
- Bây không biết thương thân thằng Ðó nầy há? Vậy thì thằng
Ðó nầy ghét bây, bây đừng có trách nghé! Ðể rồi bây coi!
Anh ta nói mấy lời rồi cúi mặt đi tới.
Chú Thích :
[16] tình trạng hầu như mất hết tri giác
[17] giã
[18] chàng hiu: một loại nhái, lưng màu sọc xanh-nâu
[19] thủy liễu, loại cây mọc dựa bờ nước, bông trắng, trái
tròn và dẹp
[20] giọng sáo
[21] khu đất ngập nước sâu
[22] răng khua nhau vì lạnh run
[23] mút, cuối
CHƯƠNG 3 - QUYỂN I - ĐAU ĐỚN PHẬN HÈN
L
ê-văn-Ðó đi chừng được một canh, tứ bề vắng vẻ, một mình
bơ-vơ, giọt mưa sa, ngọn gió tạt, đói thắt ruột, lạnh run xương, nhờ sức giận
nên đi mới được, mà đi lâu rồi bụng bắt đói lại, mình bắt lạnh thêm, cặp mắt
chá lòa, tứ chi bủn-rủn, lỗ tai lùng bùng, té xỉu nằm vắt ngang qua bờ.
Anh ta ngửa mặt ngó lên trời mà than rằng:
- Tôi cũng là người ta như thiên-hạ, vì cớ nào thiên-hạ ai
cũng được ăn no ngủ ấm, nhà tốt mâm đầy, còn thân tôi từ thuở lọt lòng cho đến
bây giờ không có một giây phút nào vui sướng mà ngày nay còn phải đói lạnh chết
dọc dường dọc sá như vầy. Thôi, cái thân thảm khổ nầy chẳng nên sống nữa mà làm
gì, thà là chết phứt cho hết cái kiếp nghèo hèn lao khổ.
Anh ta than mấy lời rồi nhắm mắt nằm thiếp-thiếp mà chờ giờ
chết.
Trên trời giọt mưa cứ lai-rai nhiểu [24] xuống hoài không dứt,
dường như ông trời cao xa rộng lớn không thấy cái thân nhỏ mọn nằm thở hoi-hóp
giữa đồng.
Hướng tây ngọn gió cũng hiu-hiu thổi lại luôn luôn, tức-tủi
cho chút phận cơ hàn, người đã dày bừa đày đọa trót mấy mươi năm, mà trời cũng
không niệm tình thương xót.
Chẳng hiểu Lê-văn-Ðó nhờ giọt mưa chan mát mặt, hay là nhờ nằm
nghỉ khỏe khoắn trong mình, mà anh ta nằm một hồi lâu rồi tỉnh lại, mở mắt ra,
chống tay ngồi dậy, ngó dáo-dác tứ phía hết.
Tứ bề vắng-vẻ chẳng nghe một tiếng người; trời đất tối mò, chẳng
thấy dạng cây cỏ.
Anh ta ngồi im-lìm, trong trí bình tĩnh, không buồn không tức,
không giận mà cũng không phiền nữa.
Thình-lình thấy trước mặt có một ánh sáng đỏ đỏ bằng ngón
tay, cứ ở một chỗ hoài, không xao, không động.
Anh ta chắc ánh sáng ấy là đèn của người ta đốt ở trong nhà,
nên trong lòng khấp khởi, muốn đi lại đó.
Anh ta đứng dậy thì trong cổ khô queo không có nước miếng.
Anh ta muốn kiếm một miếng nước mà uống, mà một mình ở giữa đồng
bây giờ biết xin ai.
Trời mưa nước đổ không thiếu gì, mà đổ bao nhiêu thì chảy mất
hết bấy nhiêu. Không còn một giọt nào cho mình thấm giọng được. Anh ta bèn cởi
áo cuốn tròn lại, rồi kê ngay miệng vắt ra nước mà uống đỡ. Nhờ áo ướt nên vắt
được ít giọt. Anh ta thấm giọng được rồi, mới nhắm ngọn đèn đỏ-đỏ trước mặt đó
mà đi.
Tuy bụng đói, mình lạnh, sức yếu nên đi xiêu ngã hoài, song
nhờ ngó ngọn đèn, trong trí chắc mình tới đó thì khỏi chết, nên mới bền chí vững
lòng mà đi được, tinh thần không mờ mệt, sức lực không mòn mỏi, đến nỗi phải té
xỉu chết giấc như hồi nãy.
Lê-văn-Ðó đi chừng một phần canh mới tới một cảnh vườn rộng lớn,
cây cối tuy thưa-thớt, song ở giữa vườn có một tòa nhà rất lớn, trong nhà có đốt
hai ba ngọn đèn. Anh ta bước vô vườn rồi đi riết lại cửa giữa, rờ tay thấy cửa
đóng chặt, bèn kề vai vô cửa mà đẩy một cái rất mạnh, cây gài cửa văng rồi rớt
một cái rầm, hai cánh cửa mở bét ra. Anh ta xông vô, ngó quanh-quất thì thấy
bàn thờ để tứ phía; ở trên có nhiều cốt người ta rất lớn, cốt nào cũng ngồi xếp
bằng đưa vú mà ngó mình, ở dưới có một người mình mặc áo rộng đỏ mà có lộn miếng
chả trắng vuông-vuông, đầu đội cái nón chi không biết mà như hai bàn tay úp lại,
đương quỳ lạy mấy cốt ngồi trên bàn đó.
Lê-văn-Ðó không biết chốn nầy là chốn nào, ngó thấy người ta
thì vùng nói lớn lên rằng:
- Tao là Lê-văn-Ðó, gốc ở Vồng-Tre, bị đày 20 năm, nay đã mãn
rồi, nên họ thả tao về. Tao đói bụng mà lại lạnh lắm, nên tới đây xin bây cho
tao ít bát cơm ăn đỡ. Bây cho ăn hay không thì nói cho mau.
Người mặc áo đỏ đương lạy đó, hồi nãy cây văng, cửa mở đã
không day lại, mà bây giờ tên Ðó nói om-sòm cũng không day lại nữa, cứ chấp tay
ngay trán đứng lên rồi quì xuống hoài.
Lê-văn-Ðó thấy người ta không trả lời thì nổi giận tính xốc lại
gần cho tận mắt mà hỏi nữa. Chẳng dè anh ta bước vừa được hai bước thì đuối sức,
tay chơn run bây-bẩy, mồ hôi tuôn dầm-dề, màn tang nhảy xoi xói, nên té xỉu nằm
sấp dưới gốc cột, không nói chi nữa được.
Ðây là cảnh chùa Phật, ngoài trước cửa chùa có treo một tấm
biển đề rõ ràng ba chữ lớn “Chánh tâm tự”, nhưng vì đêm tối Lê-văn-Ðó không thấy,
mà dầu có thấy đi nữa, anh ta không biết chữ chắc là đọc cũng không được, nên mới
làm dữ, phá cửa xông xô chùa rồi trước bàn Phật đứng nói nghinh-ngang, không
kiêng nể chi hết.
Mấy bàn thờ để chung quanh đó là bàn thờ Phật trong chùa.
Mấy cốt lớn ở trên đó là cốt Phật Thích-Ca Mâu-Ni. Còn người
quì lạy đó là Hòa-Thượng Chánh-Tâm, mình mặc áo cà-sa, đầu đội mão hiệp chưởng,
đương lần chuỗi bồ đề mà niệm Phật.
Hòa-Thượng Chánh Tâm tuổi đã trên năm mươi rồi, nhưng vì ngài
nhứt tâm mộ đạo, ngày đêm cứ ăn chay niệm Phật, không lưu ý đến việc trần gian,
trí thanh tịnh, lòng từ bi luôn luôn, nên sức lực ngài hằng mạnh khỏe.
Ngài thiệt tên là Lê-hữu-Ðộ, gốc ở ngoài Bình-Thuận.
Ngài là con nhà cự-phú, tánh siêng trí sáng, bởi vậy hồi nhỏ
ngài học giỏi, ai nghe danh cũng đều khen.
Khi ngài được 18 tuổi thi đậu Tú-Tài, rồi qua 21 tuổi thi đậu
Cử-nhơn.
Năm nhâm-tuất Gia-Long tức vị, vua kén chọn nhơn tài để bổ đi
làm quan mà trị dân, thì ngài ra làm Tri-Huyện, lần lần thăng tới chức Án sát
Bình-Thuận.
Ðến năm canh-thìn vua Gia-Long băng, vua Minh-Mạng lên nối
ngôi, Lê-hữu-Ðộ dòm thấy triều đình hành sự có nhiều chỗ bất minh, bất chánh
thì thối chí phiền lòng, ghét thân làm quan, ngán mùi thế tục nên từ chức
Án-sát, trở về cố hương giao hết gia-tài sự nghiệp cho vợ lãnh mà nuôi con, rồi
lánh thân vào Gia-định, tính kiếm chỗ thanh tịnh u-nhàn mà tu tâm dưỡng tánh.
Ngài xuống tới huyện Trường-Bình thấy có cánh đồng Rạch-Kiến
rộng lớn, chính giữa đồng còn sót mấy lùm cây, tuy phong cảnh không bằng ngoài
núi Da-Bác hoặc dưới núi Thùy-Vân, nhưng mà cảnh thú chốn nầy thích hiệp với
tâm tánh của ngài nên ngài bắt chùa rồi tượng cốt Phật mà tu trót 8 năm nay,
ngày như đêm cứ tụng kinh niệm Phật, lo tế độ chúng sanh, lòng dặn lòng giữ chữ
từ-bi, chí bền chí siêu thăng tịnh độ.
Ở trong chùa Chánh-Tâm chỉ có một mình Hòa-Thượng với hai tên
đạo chúng mà thôi.
Hai tên đạo ấy một người là Thiện-Thành, tuổi đã trên ba
mươi, tu mấy năm đã thọ chức Tỳ-kheo, còn một người tên là Giác-Thế, tuổi vừa mới
18, còn ngồi chức Sa-di-ứng-pháp.
Ðêm ấy Thiện-Thanh với Giác-Thế người đương đốt hương trên
bàn Phật, người đương nấu nước dưới nhà trù, thình lình nghe Lê-văn-Ðó xô cửa
chùa cây ngã rầm-rầm, không biết có việc chi, nên lật-đật chạy ra coi.
Vừa ra tới, thì tên Ðó cũng vừa té xỉu nằm dựa gốc cột.
Thiện-Thanh chạy riết lại đỡ tên Ðó, nhưng vì tên Ðó vóc lớn
mình nặng đỡ không nổi, nên kêu Giác-Thế lại phụ.
Hai người đỡ Lê-văn-Ðó ngồi dậy được, mà anh ta oặt-òa oặt-oại,
cặp mắt nhắm riết, chẳng khác nào người say.
Lúc ấy Hòa-Thượng Chánh-Tâm cung đối Phật tiền vừa rồi, ngài
bước lại rờ Lê-văn-Ðó thì thấy mình mẩy anh ta lạnh như đồng, song ngực còn ấm-ấm,
mũi còn thở hoi-hóp. Ngài nói với hai đạo chúng rằng:
- Người nầy vì đói lạnh mà xỉu, chớ không có bịnh chi. Hãy
khiêng đem vô hậu trai thay áo đổi quần, cho ăn cho uống thì khỏe lại, không có
sao đâu mà sợ.
Thiện-Thanh với Giác-Thế vưng lời áp lại khiêng Lê-văn-Ðó vô
hậu trai để nằm ngửa trên ván, rồi Thiên-Thanh vào hậu liêu kiếm quần áo khô
thay cho Lê-văn-Ðó, còn Giác-Thế thì rót một chén nước trà nóng đem lại, tính vạch
miệng đổ cho Lê-văn-Ðó uống.
Lê-văn-Ðó nằm nhắm mắt nhưng hả miệng nuốt nước nghe ực-ực.
Hòa-Thượng dạy Giác-Thế xuống nhà trù coi như còn cơm dư thì
dọn một mâm cơm với tương chao đặng Lê-văn-Ðó tỉnh dậy thì có sẵn cho anh ta
ăn.
Giác-Thế đi rồi, Hòa-Thượng còn đứng dựa bên Lê-văn-Ðó mà coi
chừng.
Cách chẳng bao lâu Lê-văn-Ðó đập tay xuống ván, day đầu qua
phía Hòa-Thượng đứng, rồi mở mắt ngó Hòa-Thượng trân-trân, Hòa-Thượng thấy anh
ta tỉnh lại thì mừng, nên hỏi rằng:
- Chú em muốn uống nước nữa hay không ?
Lê-văn-Ðó lồm cồm ngồi dậy mắt ngó ngay Hòa-Thượng mà nói rằng:
- Tao đây là Lê-văn-Ðó, ở Vồng-Tre, người ta nói tao ăn trộm
nên đày tao 20 năm. Nay tao mãn tù đi về xứ. Ba ngày rày tao không có ăn cơm, tới
đâu xin ăn họ cũng đuổi không cho ăn nên tao đói bụng lung lắm. Mầy chịu cho
tao một vài chén cơm ăn đỡ đói hay không thì mầy nói phứt đi, tao không thèm
năn nỉ nữa đâu.
Lời nói nghe nghinh-ngang, mà bộ tịch coi rất hung ác, mà
Hòa-Thượng không nổi giận, không tức cười, cứ đứng ngó Lê-văn-Ðó như thường và
nói hòa huỡn rằng:
- Phật không phân biệt kẻ sang người hèn, kẻ lành người dữ.
Phật thì tế độ chúng sanh. Bần-đạo đã có dạy dọn cơm rồi. Vậy chú em nằm mà chờ
một chút, rồi tăng chúng sẽ dọn cho mà ăn.
Thiện-Thanh ở trong liêu ôm ra một cái quần với một cái áo vải
nhuộm dà [25].
Hòa-Thượng biểu đỡ Lê-văn-Ðó rồi dắt vô liêu thay đổi áo quần
ướt đó đi cho hết lạnh.
Hòa-Thượng ở ngoài lui-cui đi nhúm một bếp lửa đặng cho
Lê-văn-Ðó chừng thay áo quần rồi, có sẵn lửa mà hơ tay chơn cho ấm.
Lê-văn-Ðó mặc y phục người tu, mà hai mép có râu xồm-xoàm,
trên đầu lại có tóc, nên ở trong liêu bước ra bộ tướng coi rất dị kỳ. Tuy vậy
mà Hòa-Thượng ngồi tự nhiên không thấy ngài động dung [26] chút nào. Hòa-Thượng
biểu Lê-văn-Ðó ngồi dựa bếp lửa mà hơ.
Lê-văn-Ðó hơ vừa ấm, thì kế Giác-Thế bưng mâm cơm lên để trên
ván.
Hòa-Thượng mời Lê-văn-Ðó lên ăn. Lê-văn-Ðó vừa nghe mời thì
nhảy phóc lên, thấy cơm tuy nguội mà đầy vun một bồn, thì trong bụng mừng lắm.
Tuy ăn cơm với tương dưa, chớ không có thịt cá, nhưng mà anh ta đói nên ăn coi
thế ngon cũng như người ta ăn chả phụng khô lân.
Anh ta không thèm ngó ai hết, mà cũng không thèm nói chuyện,
cứ xúc cơm ăn riết, ăn hết chén nầy tiếp tới chén khác, ăn luôn một đợt đến 7
chén, đã lưng hai phần bồn cơm rồi, mới chịu ngước mặt mà ngó Hòa-Thượng.
Lúc ấy Hòa-Thượng đương ngồi tại phương-trượng mà uống nước
trà.
Vã Hòa-Thượng hồi còn làm quan thì vua Gia-Long có ban cho
ngài một bộ chén trà với một cái bình tích bằng ngọc lựu quý lắm. Khi ngài từ
quan, giao hết sự nghiệp cho vợ con mà đi tu, ngài chẳng đem theo vật chi hết,
chỉ đem có bộ chén với bình tích nầy mà thôi. Ở trong chùa hễ ngài cúng phật
thì lấy bộ chén ấy để trên bàn Phật mà cúng, chừng nào cúng rồi thì tăng chúng
bưng vô trong cho ngài dùng.
Lê-văn-Ðó ngồi ăn cơm mà thấy bộ chén trà tốt quá, nên cứ ngó
bộ chén với cái bình hoài. Anh ta lại thấy Hòa-Thượng tuy đầu trọc-lóc, song tướng
mạo phong-lưu nho-nhã, da trắng trong, mặt sáng rỡ, tay dịu nhiễu, mắt rạng ngời,
không hiểu người ấy là người gì, mà ở cái nhà kỳ cục như vầy, nên ngó một hồi rồi
hỏi rằng:
- Ông làm ông gì? Ông làm quan hay là làm dân ?
Hòa-Thượng Chánh-Tâm nãy giờ tuy ngồi uống trà, song liếc ngó
Lê-văn-Ðó, thấy người cao lớn vạm-vỡ, mặt đen da nám, râu ria xồm-xoàm, tóc tai
chơm-bơm, tướng mạo hầm-hừ, thì trong bụng thầm tưởng chú nầy là một người vì bần
hàn nên làm tội lỗi mới sa vào chốn lao tù.
Thình-lình nghe anh ta hỏi hai câu dị kỳ thì lại tưởng anh ta
là người khật khùng, song ngài không cười, cứ trang nghiêm mà đáp rằng:
- Bần-đạo là người nương cửa Phật tu trì, chớ không phải là
quan, mà cũng không phải là dân.
Lê-văn-Ðó chưng-hửng nên ngừng đũa lại, rồi ngó sững Hòa-Thượng
mà hỏi rằng:
- Té ra ông là thầy chùa hay sao? Chỗ nầy là chùa phải hôn
ông?
Hòa-Thượng gật đầu.
Lê-văn-Ðó nói tiếp rằng:
- Bất nhơn dữ hôn. Vậy mà tôi không biết chớ! Từ nhỏ tới lớn
tôi không có thấy thầy chùa mà cũng không có vô chùa lần nào, nên tôi không biết.
Thiện-Thanh với Giác-Thế nghe nói như vậy thì chúm-chím cười,
muốn cắt nghĩa cho Lê-văn-Ðó biết Chánh-Tâm là ông Hòa-Thượng, song thấy
Hòa-Thượng từ bi thanh tịnh, nên không dám nói.
Lê-văn-Ðó lần lần ăn hết bồn cơm rồi buông đũa đứng dậy xin
nước mà uống.
Anh ta đi lại đứng trước mặt Hòa-Thượng mà hỏi rằng:
- Ông cho tôi ăn uống no rồi, bây giờ tôi ngủ đây, tới sáng
mai tôi sẽ đi được hôn, hay là tôi phải đi liền bây giờ?
Hòa-Thượng gật đầu đáp rằng:
- Chú em nó ở đây mà ngủ, chớ trời mưa gió đi đâu bây giờ?
Ngài liền dạy Giác-Thế dọn cái giường trong liêu, trải chiếu
giăng mùng, rồi dắt Lê-văn-Ðó vào đó mà ngủ.
Thiện-Thanh thấy Lê-văn-Ðó đã vào liêu rồi, bèn bạch nhỏ với
Hòa-Thượng rằng:
- Tôi coi bộ người đó kỳ quá, Hòa-Thượng cho ngủ trong chùa
biết có hại gì hay không?
Hòa-Thượng đáp rằng:
- Cửa Phật phải mở rộng cho mọi người, dầu người hung dữ đến
đây cũng phải chứa, chẳng luận là kẻ đói lạnh. Ðạo chẳng nên nghi quấy cho người
ta mà tổn công đức. Thôi khuya rồi, đạo hãy đem bộ chén trà để trước bàn Phật-Tổ
rồi đóng cửa chùa mà ngủ.
Thiện-Thanh vưng lời, không dám cãi lẽ.
Lê-văn-Ðó bụng no thân ấm, nằm trong mùng khỏe khoắn vô cùng.
Ngoài vườn trời đã dứt hột mưa, mà hướng đông lại ửng sáng, mặt
trăng gần muốn mọc.
Lê-văn-Ðó vì mệt mỏi đói khát trọn 3 ngày, nên mới nằm có một
chút đã ngủ khò. Anh ta ngủ một giấc rồi thức dậy, không biết là canh mấy, mà
dòm mấy lỗ vách tre thì thấy ngoài vườn ánh trăng dọi sáng như ban ngày.
Anh ta bèn lồm-cồm ngồi dậy, chạy lại rờ quần áo ướt của mình
vắt phơi hồi hôm, thì quần áo còn dốt-dốt chớ chưa thiệt khô. Anh ta cởi đồ của
chùa ra, mặc bướng bộ đồ của mình vô, rồi lấy áo quần của chùa mà cặp nách.
Anh ta dòm ra ngoài vườn một cái nữa, rồi nhẹ-nhẹ bước ra khỏi
liêu.
Thấy đèn chong bàn Phật Bồ-Ðề còn leo-lét, anh ta dòm thấy
Hòa-Thượng nằm trên cái giường để gần đó, tuy nằm trong mùng, song mùng may vải
mỏng, nên thấy hình dạng rõ ràng.
Anh ta đi lại phương trượng là chỗ Hòa-Thượng ngồi uống nước
hồi hôm, thì không thấy bộ chén trà với cái bình tích để đó. Anh ta ngó
quanh-quất không thấy để chỗ nào hết, thì lấy làm lạ, mới lén bước lại đứng
ngay đầu giường của Hòa-Thượng mà dòm vô mùng. Anh ta không thấy bộ chén trong
mùng, chỉ thấy Hòa-Thượng nằm ngửa, mền đấp lên tới bụng, hai tay chắp để trên
ngực, diện mạo hiền lành mà phương-phi, nằm ngủ mà tự nhiên cũng như người thức.
Anh ta ngó mặt Hòa-Thượng một hồi rồi bỏ đi ra trước chánh điện.
Mỗi bàn Phật đều có chong một thếp đèn hết thảy, bởi vậy
chánh điện sáng hơn trong hậu trai. Lê-văn-Ðó đến mỗi bàn Phật đều đứng mà dòm
một hồi. Chừng lại tới bàn chính giữa ngó thấy bộ chén trà với bình tích ngọc-lựu
để trên bàn, anh ta liền leo lên, mở gói áo quần ra hốt bộ chén với cái bình bỏ
vô mà gói lại, rồi ôm trong nách mà nhảy xuống, mấy cốt Phật ngồi chần ngần
trên đó mà anh ta không đếm xỉa chi hết. Anh ta lại cửa giữa thấy cây hèo của
mình té rớt hồi hôm còn nằm tại đó, bèn lượm cây hèo lên rồi mở cửa nhẹ-nhẹ
chun ra ngoài mà đi.
Ðến khuya Thiên-Thanh với Giác-Thế kêu nhau thức dậy nấu nước
đặng công phu.
Nước sôi rồi, Thiện-Thanh ra trước chánh-điện lấy cái bình ngọc-lựu
đặng bỏ trà mà chế nước. Ra đến đó, không thấy bình chén chi hết thì lấy làm lạ,
vì hồi hôm chính bản thân mình đem để đó, mà ai lén lấy đem đi đâu ?
Ðạo ta ngó cùng mấy bàn mà cũng không thấy, mà lại thấy cửa
chùa mở hé một cánh, trong lòng phát nghi, không thèm kiếm nữa, liền đi riết vô
liêu mà kiếm Lê-văn-Ðó. Thiện-Thanh dỡ mùng lên thì giường trống trơn, không có
Lê-văn-Ðó, tay chơn bủn-rủn, lật đật đi xuống nhà trù kêu Giác-Thế mà nói rằng:
- Người đó ăn trộm bộ chén với cái bình ngọc-lựu của Hòa-Thượng
trốn đi mất rồi, khốn chưa?
Giác-Thế sửng-sốt đứng chần-ngần không nói chi được hết.
Thiện-Thanh nắm tay Giác-Thế dắt lên biểu phụ mà kiếm với
mình, hai tên đạo nói chuyện lào-xào, đi lại qua rột-rẹt, Hòa-Thượng giựt mình
thức dậy hỏi rằng:
- Ðạo chúng có việc chi mà lộn-xộn lạo-xạo lắm vậy?
Thiện-Thanh chạy lại đứng bên giường chắp tay thưa rằng:
- Bạch Hòa-Thượng, người ngủ đậu trong chùa đó, đã lấy bộ
chén với cái bình ngọc-lựu trốn đi mất rồi. Chúng tôi đương kiểm điểm đồ đạc
trong chùa coi có còn lấy vật chi nữa không.
Hòa-Thượng thủng-thẳng dở mùng bước ra, khí sắc thanh tịnh
trang nghiêm như thường, không buồn, không giận chút nào hết. Ngài đi lại
phương-trượng mà ngồi, rồi nói khoan thai rằng:
- Ðạo chúng, chẳng nên tìm kiếm làm chi. Bộ chén với cái bình
đó là dấu tích của bần-đạo làm quan ngày trước, có lẽ Phật không muốn cho bần-đạo
thấy dấu tích trần tục nữa, nên mới khiến cho người ta đến đây mà lấy, chớ
không phải người ta có bụng gian tham đâu. Vậy đạo chúng chẳng nên giận mà tổn
công đức.
Thiện-Thanh với Giác-Thế nghe Hòa-Thượng phân như vậy thì
nhìn nhau rồi cúi đầu, người lo đi súc bình khác mà chế nước, kẻ đi pha nước
cho Hòa-Thượng rửa mặt, không dám nói chi hết.
Chú thích :
[24] nhểu
[25] giống cây sắn, vỏ có nhiều chất tanin, dùng làm thuốc
nhuộm màu nâu
[26] cử động hình dạng
CHƯƠNG 4 - QUYỂN I - ĐAU ĐỚN PHẬN HÈN
L
ê-văn-Ðó, một tay ôm gói, một tay xách cây hèo, ra khỏi chùa
rồi thì băng dưới ruộng mà đi.
Mảnh trăng khuyết treo giữa trời chói sáng, tiếng ảnh ương
kêu trong bụi uênh-oang.
Xung xăng vạch lúa tách đường, lầm-lũi đi không ngoái đầu ngó
lại.
Anh ta đi không bao lâu, thì phía trước nghe tiếng gà đua
gáy, hướng đông thấy lố rạng mây ngang.
Anh ta biết trời đã gần sáng rồi, nên thầm tính kiếm xóm vô hỏi
thăm đường mà đi cho khỏi lạc.
Trời sáng thiệt mặt, anh ta mới tới xóm đông, vừa mới bước
chơn vô xóm thì gặp Lý-trưởng Võ-văn-Thân ở trong nhà đi ra. Lê-văn-Ðó đón hỏi
đi hướng mà về huyện Tân-Hòa.
Lý-trưởng Thân thấy tên Ðó dị hình dị dạng, tay lại có ôm một
gói đồ, nghi anh ta là đứa ăn trộm, nên hỏi rằng:
- Chú ở đâu đi lại đây sớm dữ vậy? Chú ôm gói gì đó, mở ra
coi thử coi.
Lê-văn-Ðó không trả lời, lại quày quả trở ra mà đi.
Lý-trưởng Thân thấy cử chỉ như vậy, lại càng nghi hơn nữa,
nên hô lên một tiếng dân trong xóm túa ra bắt trở lại, mở gói ra xem thấy áo quần
thầy chùa với một bộ chén với một cái bình trà tốt lắm.
Dân trong xóm nầy ai cũng cúng chùa Chánh-Tâm, nên ai cũng biết
bộ chén với cái bình ấy là đồ của ông Hòa-Thượng.
Lý-trưởng Thân tra hỏi tên Ðó làm sao mà có đồ ấy được.
Ban đầu anh ta lặng thinh không chịu nói. Họ hỏi riết túng thế
anh ta nói dối rằng đồ ấy là đồ của mấy người ở chùa Chánh-Tâm cho anh ta.
Lý-trưởng Thân không tin, nên dạy dân trói ké Lê-văn-Ðó rồi dắt
đem qua chùa Chánh-Tâm cho ông Hòa-Thượng nhìn coi đồ ấy có phải là đồ của ngài
bị ăn trộm hay không.
Buổi sớm mai, Hòa-Thượng đương cung đối Phật tiền, Giác-Thế
thì ở dưới nhà trù, còn Thiện-Thanh thì đương cuốc đất vun vồng mà trồng khoai
trước cửa chùa. Thiện-Thanh vừa thấy Hương-chức dắt Lê-văn-Ðó bước vô thì lật-đật
buông cuốc chạy lại hỏi rằng:
- Mấy ông giỏi quá! Làm sao mà bắt được ăn trộm đó? Bộ chén với
cái bình của Hòa-Thượng còn đủ hay không?
Lý-trưởng Thân mở gói đưa chén với bình cho Thiện-Thanh xem
và biểu nhìn coi phải là đồ của chùa hay không. Thiện-Thanh vừa ngó thấy liền
nói rằng:
- Phải rồi! Ðồ nầy là đồ của Hòa-Thượng, chớ xứ nầy ai làm
sao mà có được. Mấy ông dắt gian nhơn vô đặng tôi bạch cho Hòa-Thượng hay.
Hòa-Thượng còn niệm kinh trên chánh điện, nên Thiện-Thanh mời
Lý-trưởng Thân với mấy tên dân làng ngồi tại thính đường mà chờ.
Cách một hồi lâu, Hòa-Thượng niệm kinh rồi, ngài huỡn-đãi đi
trở xuống hậu trai.
Khi bước tới thính đường ngài thấy Lý-trưởng Thân đương ngồi
trên ván, sau lưng lại có Lê-văn-Ðó, tay bị trói ké với mấy tên dân làng, thì
ngài chưng hửng, nên ngó Lê-văn-Ðó trân-trân.
Chẳng hiểu lúc ấy vì hổ thẹn hay vì sợ-sệt, mà Lê-văn-Ðó đứng
gục mặt xuống đất, không dám ngó Hòa-Thượng.
Lý-trưởng Thân đứng dậy mở gói đồ ra và nói rằng:
- Bạch Hòa-Thượng, anh em chúng tôi bắt được đứa gian ăn trộm
quần áo, bình chén trong chùa, nên anh em chúng tôi dắt nó lại đây cho Hòa-Thượng
nhìn đồ, như phải thì anh em chúng tôi giải nó qua bên Huyện, đặng quan trên trừng
trị nó.
Hòa-Thượng bước lại đứng trước mặt Lê-văn-Ðó rồi hỏi rằng:
- Hồi hôm bần-đạo có tính để sáng bần-đạo cho bạc thêm nữa,
sao chú em nó không chờ, lại từ mà đi sớm dữ vậy ?
Hòa-Thượng bèn day qua nói với Lý-trưởng Thân rằng:
- Người nầy không phải là người gian. Ðồ nầy là đồ của bần-đạo
cho. Chớ không phải là đồ ăn trộm đâu. Làng xóm bắt dắt trở lại đây thất công,
thiệt tội nghiệp quá.
Lê-văn-Ðó nghe Hòa-Thượng phán mấy lời thì chưng-hửng, nên
ngước mặt ngó Hòa-Thượng trân-trân.
Lý-trưởng Thân với dân làng hồi nãy nghe Thiện-Thanh nói
Lê-văn-Ðó ăn trộm đồ của chùa, mà bây giờ lại nghe Hòa-Thượng phân như vậy,
không hiểu duyên cớ ra sao, nên đứng nhìn nhau bợ-ngợ hết sức.
Thiện-Thanh lắc đầu, bỏ đi ra ngoài vườn mà cuốc đất, vì sợ
trái ý Hòa-Thượng, nên không dám xen vô mà nói.
Hòa-Thượng lột mão hiệp-chưởng, mở nút áo cà-sa, rồi đi thẳng
vào hậu trai.
Cách chẳng bao lâu, ngài trở ra, mình mặc áo quần lụa trắng,
vai vắt một cái khăn trắng, tay cầm 5 nén bạc đưa cho Lê-văn-Ðó mà nói rằng:
- Ðây, chú em nó lấy ít nén bạc đây mà làm phí lộ [27]. Bần-đạo
tu hành, nên không có tiền bạc nhiều, vậy chú em nó lấy đỡ bao nhiêu đó mà đi về
xứ; như đi dọc đường có hụt tiền thì kiếm nhà giàu mà bán bộ chén với cái bình
đó, có lẽ cũng đủ mà về tới nhà được.
Lý-trưởng thấy vậy ngẩn-ngơ, nên hối dân làng mở trói cho
Lê-văn-Ðó.
Hòa-Thượng ngó Lý-trưởng và cười và nói rằng:
- Bần-đạo làm thất công cho làng xóm quá! Xin miễn chấp.
Lý-trưởng đáp rằng:
- Bạch Hòa-Thượng, chẳng thất công bao nhiêu. Anh em chúng
tôi tưởng tên nầy ăn cắp đồ trong chùa nên mới bắt chẳng dè bắt lầm, làm nhọc
lòng Hòa-Thượng, thiệt anh em tôi có lỗi nhiều.
Lý-trưởng Thân nói rồi liền từ Hòa-Thượng dắt dân làng ra về.
Lê-văn-Ðó tay cầm 5 nén bạc, mắt ngó chén với bình để trên
ván, rồi liếc Hòa-Thượng, không hiểu vì cớ nào mà Hòa-Thượng không bắt mình, rồi
còn cho mình mấy vật quý ấy, và lại cho thêm 5 nén bạc nữa.
Anh ta đứng tần-ngần, không chịu đi.
Hòa-Thượng bước lại phương-trượng ngồi mà uống nước.
Lê-văn-Ðó theo lại gần mà hỏi rằng:
- Vì cớ nào tôi ăn trộm đồ của ông, người ta bắt tôi được rồi,
ông không giải đến quan cho tôi ở tù, mà ông lại cho tôi đồ ấy và cho thêm bạc
nữa?
Hòa-Thượng cười và đáp rằng:
- Phật từ bi chẳng hề làm hại ai. Bần-đạo là người tụng kinh
niệm Phật, vì chưa được thành tâm nên không đủ phước đức mà chế [28] độ chúng
sanh được, ấy bần-đạo đã buồn rồi, có lẽ nào bần-đạo lại đành đem chú em mà nạp
cho quan trị tội. Chú em vì bần hàn, nên mới sanh tâm gian-giảo vậy bần-đạo phải
cho chú em chút đỉnh tiền bạc, đặng hết đói lạnh, tự nhiên chú em trở nên tử tế
như người ta.
Lê-văn-Ðó chau mày ngó xuống đất mà suy nghĩ một hồi rồi nói
rằng:
- Ông thấy tôi đói lạnh ông thương, nên ông không nỡ làm tội
tôi. Mà sao ông dám chắc rằng tôi có 5 nén bạc nầy rồi tôi trở nên người tử tế?
Thuở nay tôi tử tế luôn luôn, chớ tôi có quấy với thiên hạ đâu. Tại trời đất
không công bình mà cũng tại thiên hạ hiếp đáp tôi lắm, nên tôi tức, tôi không tử
tế với ai hết. Tôi nói thiệt ông dung thì tôi đi, song tôi nhứt định tôi không
dung ai đâu.
Hòa-Thượng nghe mấy lời kỳ khôi, ngài lấy làm lạ, nên ngồi
ngó Lê-văn-Ðó trân-trân rồi hỏi rằng:
- Tại sao mà chú em có hơi trách trời đất, oán thiên hạ dữ vậy
?
- Tôi trách trời đất phải lắm, mà tôi oán loài người cũng
đáng lắm.
Hòa-Thượng càng lấy làm lạ hơn nữa, nên theo khuyên dỗ biểu
Lê-văn-Ðó thuật rõ tâm sự cho ngài nghe.
Lê-văn-Ðó thủng-thẳng kể chuyện nhà, từ nhỏ thì đã đi ở đợ,
chừng lớn về nhà phải lo nuôi mẹ với sắp cháu. Vì nghèo nàn không có gạo cho
gia quyến ăn, đi làm họ không mướn, đi mượn họ không cho, bưng có một trã cháo
heo về mà cứu mẹ với cháu, họ lại bắt đánh rồi đày tới 20 năm. Anh ta thuật tới
đó, thì tức giận nên trợn mắt dựng tóc mà nói rằng:
- Thiên hạ ở với tôi tử-tế gì đó, mà tôi phải tử-tế với họ?
Tôi bị đày mãn hạn rồi tôi đi về, đói bụng xim cơm ăn họ không cho, họ lại vác
cây rượt mà đánh; tôi lạnh ngồi đụt mưa ngoài cửa ngõ, chó cũng không thương
nên áp mà cắn không cho tôi ngồi, tôi cũng loài người mà không bằng con heo con
chó, còn họ thì giàu có sang trọng, họ lại không biết thương tôi, thói đời như
vậy ông biểu tôi đừng oán sao được?
Hòa-Thượng nghe rõ chuyện nhà, và hiểu rõ tâm tánh của
Lê-văn-Ðó rồi, ngài ngồi lặng thinh một giây lâu, coi bộ suy nghĩ lắm.
Lê-văn-Ðó đứng lâu mỏi chơn, nên trở lại ngồi trên bộ ván gần
đó.
Hòa-Thượng ngó theo mà nói rằng:
- Chú em bấy lâu nay bị hoạn-nạn rồi trách trời oán người, ấy
là tại chú em còn bị ´tam chướng´ là THAM, SÂN, SI. Bần-đạo chắc chú em không
hiểu nghĩa chữ tam chướng. Vậy để bần-đạo giảng cho chú em nghe. Chú em chưa thức
đạo, nên trong lòng còn ham công danh phú quý, còn giận thói đời giả dối tàn bạo,
còn mê muội không biết đường chơn chánh mà đi. Bởi chú em còn tham công danh
phú quý, nên thấy người ta giàu sang, còn xét phận mình nghèo hèn, chú em mới
buồn. Bởi chú em còn giận thói đời, nên bị người ta khinh khi húng hiếp, chú em
mới oán. Bởi chú em còn mê muội, nên không biết tiêu diêu khoái lạc. Nếu chú em
mà thấu hiểu được nghĩa-lý mấy chữ -- “Hữu tướng, vô tướng, hữu ngã vô ngã” thì
chú em chẳng còn oán trách ai nữa. Chú em xét lại đó mà coi, các việc trên
dương trần nầy đều là “hư vô” hết thảy. Họ giàu sang rồi làm chi? Chú em nghèo hèn
rồi hại gì? Bần-đạo khuyên chú em đừng kể việc trần tục, cứ giữ trí thanh-tịnh,
cứ giữ lòng từ bi, ai hung-bạo giả-dối mặc ai, mình lao tâm nhọc xác đừng kể; hễ
chú em làm được như vậy thì tự nhiên hết oán trách nữa.
Hòa-Thượng lấy đạo lý mà giảng, ngặt vì Lê-văn-Ðó dốt nát khờ-khạo
không hiểu chi hết, nên ngồi bơ-vơ, coi lại thì lời vàng ngọc của Hòa-Thượng
nói ra chẳng khác nào nước đổ trên lá môn. Hòa-Thượng thấy Lê-văn-Ðó không cảm
giác, ngài mới tính lấy lời thường mà giảng nữa, nên ngài nói tiếp:
- Chú em chớ nên trách trời oán người, bởi vì Trời Phật chẳng
hề khi nào hại ai, mà loài người tuy có kẻ xấu, song cũng có người tốt, chớ
không phải xấu hết. Ấy vậy chú em trách Trời thì lỗi, còn oán người thì lầm. Từ
nhỏ chí lớn chú em bị hoạn-nạn luôn luôn, bị nghèo nàn, bị hiếp đáp, bị sầu
não, bị oan ức, chú em cũng chẳng nên phiền, không biết chừng tại cái nhơn quả
của chú em như vậy, chớ không phải tại ai đâu. Chú em hãy nhớ, Phật Thích-Ca
thuở trước còn phải chịu khốn khổ, còn phải bị khinh bỉ thay-- Mà nhờ chịu khốn
khổ, nhờ bị khinh bỉ đó, Phật Thích-Ca mới thành Phật được. Vậy chú em phải
ráng mà chịu, đừng phiền hà, đừng oán trách, cứ giữ lòng thanh tịnh từ bi, hoặc
may kiếp sau chú em sẽ thanh nhàn sung sướng.
Hòa-Thượng giảng tới đó, coi bộ Lê-văn-Ðó hết giận, nên ngài
bèn hỏi rằng:
- Bây giờ chú em tính đi đâu?
- Về Tân-Hòa.
- Bà con trong thân tộc còn ai hay không?
- Không còn ai hết. Ðể về đó tôi kiếm thử chị dâu tôi coi.
- Ðã 20 năm rồi, bần-đạo sợ chị dâu đã xiêu lạc. Như kiếm
không được rồi ở với ai?
- Biết đâu.
- Chú em tính về rồi làm gì mà ăn?
- Chưa biết.
- Chú em biết làm ruộng hay không?
- Biết.
Hòa-Thượng ngồi suy nghĩ một hồi rồi nói rằng:
- Bần-đạo có một người quen tên là Lý-kỳ-Phùng, đương mở rừng
làm ruộng dưới đồng Cần-đước. Chú em bây giờ không có nơi nương dựa, vậy thì để
bần-đạo viết một bức thơ cho chú em cầm xuống Cần-đước trao cho Lý-kỳ-Phùng, rồi
ở đó mà làm ruộng với ổng. Bần-đạo khuyên chú em đừng nhớ chuyện cũ, cứ lo làm
ăn, trong năm ba năm thì chú em đã hết cực khổ, mà cũng hết phiền muộn nữa.
Hòa-Thượng nói dứt lời, liền lấy giấy mực viết một phong thơ
rồi trao cho Lê-văn-Ðó.
Ngài lại kêu Giác-Thế biểu dọn cho Lê-văn-Ðó ăn một bữa cơm
chay nữa. Lê-văn-Ðó ăn uống no rồi, Hòa-Thượng mới chỉ đường cho anh ta đi xuống
Cần-đước.
Anh ta lấy thơ với 5 nén bạc lận vào lưng, rồi xách hèo mà
đi, không thèm tạ ơn ai hết. Hòa-Thượng thấy anh ta bỏ gói áo quần với bình
chén trên ván kêu lại mà hỏi rằng:
- Sao chú em không lấy đồ nầy đi, lại bỏ đó? Bần-đạo đã cho
chú em thì chú em cứ lấy đi.
Lê-văn-Ðó không bợ-ngợ chi hết, nghe nói như vậy thì liền gói
bộ chén với cái bình vào quần áo, rồi cặp nách mà đi.
Người không thông tâm-lý thấy cử-chỉ của Lê-văn-Ðó như vậy,
chắc ai cũng phải lấy làm kỳ.
Ăn trộm đồ của người ta, người ta bắt được đã không làm tội,
lại cho luôn đồ ấy và cho thêm tiền bạc nữa, thế mà người ăn trộm không tỏ dấu
ăn năn, không tỏ lời cảm tạ, tánh tình dường ấy chưa ắt dễ sửa được, nên phải dụng
tâm từ bi quảng đại mà cảm hóa. Chẳng hiểu Hòa-Thượng Chánh-Tâm có nghĩ như vậy
hay không, mà Lê-văn-Ðó ra đi, ngài chắp tay ngang ngực, mắt nhắm lim dim, dường
như ngài làm phước là do thiện-tâm mà thôi, chớ không phải vì cớ nào khác, bởi
vậy ngài cầu khẩn Phật đặng cho lòng oán thù hung ác của Lê-văn-Ðó hóa ra lòng
từ bi thanh tịnh như của ngài vậy.
Lê-văn-Ðó ra khỏi chùa rồi nhắm hướng của Hòa-Thượng chỉ mà
đi. Trời nắng chan-chan, giữa đồng vắng-vẻ, Lê-văn-Ðó lằm-lũi đi riết, dường
như ý muốn xa lánh Hòa-Thượng cho mau, mà lại tránh xóm làng, dường như ý không
muốn gặp người trần thế. Anh ta đi đổ mồ-hôi ướt áo mà không chịu ngồi nghỉ
chơn, đi riết đến chiều mát, bụng đói cơm, họng khát nước, thình-lình thấy trước
mặt có một xóm chừng năm bảy cái nhà. Anh ta dừng chơn đứng ngó, thì xóm ở cách
chừng vài dây ruộng. Anh ta vừa muốn ghé lại đó mà xin cơm ăn, xin nước uống, rồi
anh ta lại nhớ chuyện mình bị người ta hân-hủi, hủy-hoại tại Trường-Bình hôm
qua, thì trong lòng ngần-ngại, nên đứng dụ-dự một hồi rồi bỏ mà đi không thèm
ghé.
Anh ta đi được một khúc đường, bỗng gặp một cái chòi rách,
trước cửa chòi thấy có để một cái lu nước nhỏ, lại có một cái gáo úp ngang qua
miệng lu. Anh ta xăm-xăm đi riết vô cửa chòi, lấy gáo múc nước mà uống tự-nhiên,
không thèm hỏi ai hết. Anh ta uống luôn hai gáo nước no bụng rồi, mới trợn mắt
đứng ngó vô chòi, thì thấy chòi trống trơn, chẳng có giường ván chi hết. Có một
bà già, đầu bạc răng rụng, đương lum khum nhắc nồi cơm để xuống đất, rồi một
ông già mình mẩy ốm-nhách, mặt mày nhăn-nhíu, áo quần tả-tơi, với một đứa nhỏ,
chừng sáu bảy tuổi, ở truồng ở trần, đương cầm chén cầm đũa hờm bới cơm mà ăn.
Bà già dở nắp nồi cơm ra, khói bay lên ngui-ngút, thằng nhỏ
đưa chén vô mà nói rằng:
- Bà xúc cho tôi một chén bà.
Ông già lại tiếp mà nói:
- Mụ xúc trước cho cháu một chén đi, kẻo từ hồi chiều hôm qua
cho đến bữa nay không có cơm, cháu nó đói bụng.
Lê-văn-Ðó đứng ngoài thấy vậy, bèn a vô thò tay bưng nồi cơm
mà đi ra, tuy nồi chưa nguội, song tay anh ta chai cứng nên không biết nóng. Bà
già đương cầm chén muốn xúc cơm, bà thấy Lê-văn-Ðó bưng nồi thì bà la bài hãi rằng:
- Ủa cậu, cậu làm giống gì vậy cậu? Trời ôi! Cậu giả bộ bưng
nồi cơm rồi vợ chồng tôi với cháu tôi lấy gì mà ăn.
Lê-văn-Ðó không thèm nói chi hết, cứ bưng nồi cơm bươn bả bước
lại cửa mà ra.
Ông già chạy theo níu tay anh ta và nói rằng:
- Tội nghiệp tôi lắm cậu ôi! Từ sớm mơi cho đến bây giờ tôi mới
xin được một vùa [29] gạo đem về nấu cơm đó đa, nếu cậu bưng đi thì vợ chồng
tôi với cháu tôi chết đói còn gì ?
Lê-văn-Ðó trợn mắt ngó ông già, rồi hất cánh tay ông té
nghiêng vô vách.
Anh ta thong-thả đi ra, bộ mặt hầm-hừ, cặp mắt chao-oảo, hàm
râu dựng ngược, coi hung ác vô cùng. Ông già té đụng vai vô trong vách, thế khi
ông đau lắm, nên ông đứng dậy tay vò vai, mặt nhăn-nhíu, miệng hít hà. Bà già
nóng lòng, tay dắt thằng cháu chạy theo và khóc và than rằng:
- Tội nghiệp tôi lắm cậu ôi! Người ta giàu có, sao cậu không
đến đó cậu lấy mà ăn? Vợ chồng tôi già cả lại nghèo nàn, ăn mày ăn xin, sao cậu
không thương, lại ở chi ác nghiệt lắm vậy, cậu?
Lê-văn-Ðó day lại trợn mắt, coi bộ dữ lắm; bà già thất kinh
không dám nói nữa.
Anh ta nách cắp gói đồ, tay bưng nồi cơm, tay xách cây hèo, lằm
lủi đi riết, không thèm ngó lại phía sau.
oOo
Trời đã chạng-vạng tối.
Lê-văn-Ðó đi đến một lùm cây, đứng ngó coi thì không phải xóm
làng chi hết, bởi vì trong lùm cây ấy có hai ba cây cao lớn, còn bao nhiêu thì
cây nhỏ nhỏ, dây bò qua nhánh vò lại bít chịt dường như thuở nay chưa có ai bước
chơn đến chốn nầy. Ngó vô phía trong nữa, thì thấy một cái nhà lá lớn, trước
nhà có dựng một cây cột rất cao, cũng như cây cột cắm trước chùa Chánh-Tâm vậy.
Lê-văn-Ðó đứng ngó quanh-quất, thì không thấy dạng ai đi, mà
cũng không nghe tiếng ai nói, chỉ thấy trên ngọn cây lớn có một bầy quạ đương
kiếm chỗ mà ngủ, nên bay lên đáp xuống kêu “quạ, quạ” vang tai.
Anh ta muốn vào đó móc cơm trong nồi ra mà ăn, rồi kiếm chỗ
cao ráo nằm mà ngủ, đợi sáng ngày sau sẽ đi nữa, nên thủng-thẳng bước tới dưới
gốc một bụi gừa lớn, gốc hai ba người ôm không giáp, rễ nổi trên mặt đất như ai
bỏ cây nằm sắp hàng, dây nhiểu lòng-thòng như ai giăng võng treo đu đó vậy.
Anh ta lựa một chỗ bằng thẳng, rồi để nồi cơm xuống, để cái
gói một bên, để cây hèo một bên, tính ăn cơm rồi ngủ luôn tại đó. Trên đầu nghe
tiêng quạ còn kêu inh-ỏi, bên chơn thấy rắn mối chạy lăng xăng, anh ta ngồi xuống
vừa muốn thò tay vô nồi móc cơm mà ăn, thình-lình nghe phía sau có tiếng chuông
dộng bon … bon … bon…làm cho anh ta giựt mình, lật-đật rút tay ra, rồi ngó dáo
dác.
Ðương lúc anh ta sửng sốt ấy, thì nghe tiếng quạ trên đầu
ngành kêu nữa, mà lại nghe tiếng chuông một lát dộng một cái bon. Hễ nghe tiếng
chuông thì anh ta dùn [30] mình rởn óc, rồi văng vẳng bên tai lại nghe tiếng
khóc than của hai vợ chồng ông già hồi chiều.
Lê-văn-Ðó ngồi khoanh tay gục mặt, nhớ cái cảnh mình làm dữ
giựt nồi cơm hồi chiều, thì chau mày ủ mặt. trong lòng ăn-năn không biết chừng
nào. Anh ta tỉnh giấc mê-muội, rồi suy nghĩ rằng hai vợ chồng ông già nầy nghèo
nàn, đã thân già yếu đuối lại thêm cháu nhỏ thơ ngây, không biết làm nghề gì,
nên đi xin gạo của người ta đem về mà nuôi miệng. Cái cảnh của ông già nầy chẳng
khác nào cái cảnh của mình ngày trước.
Sao ngày trước mình nghèo đói, người ta không giúp đỡ, mình
biết oán trách giận hờn người ta, rồi bây giờ mình gặp người nghèo đói mình đã
không thương, mà lại còn giựt cơm của người ta mà ăn nữa ?
Anh ta nghĩ tới đó thì xốn-xang khó chịu hết sức, rồi lại
nghe tiếng chuông dộng nữa, mấy tiếng bon bon nó xói tim cắt ruột anh ta mấy lần,
nên mắt lim-dim mà giọt lụy tuôn ròng, ngồi chần ngần mà ngực nhảy thình-thịch.
Có lẽ tại anh ta ăn-năn quá, không thế chịu được nên ngồi lặng
thinh một hồi lâu rồi vùng đứng dậy bưng nồi cơm, ôm gói đồ, xách cây hèo, tính
trở lại mà trả nồi cơm cho vợ chồng ông già. Anh ta ra khỏi lùm cây rồi nhắm hướng
mình mới đi hồi nãy mà trở lại, văng-vẳng hãy còn tiếng chuông dộng xa xa.
Trời đã tối rồi. Bữa ấy đã không mưa, mà lại sao mọc tứ giăng
trên đầu. Tuy vậy mà một là vì không có trăng, nên cây cỏ ngó lờ mờ, hai là vì
đường không quen, nên nhắm chừng mà đi chớ không chắc ý, bởi vây Lê-văn-Ðó đi lạc
trong đồng, lần-quần trở đi trở lại hoài, đi cho đến khuya trăng mọc rồi mới
tìm được cái chòi rách hồi chiều.
Anh ta lén bước vô, trong chòi vắng teo, lờ-mờ thấy trong có
mấy cụm đen-đen, nghi vợ chồng ông già với đứa cháu nằm ngủ tại đó, nên để nồi
cơm nhẹ-nhẹ ở giữa chòi, mò trong lưng lấy ra một nén bạc bỏ trong nồi cơm, rồi
lén bước trở ra. Anh ta vừa ra khỏi cửa, thì nghe tiếng đứa nhỏ cựa mình nói:
- Đói bụng quá, ông bà ôi --
Làm cho anh ta cảm động chịu không được, nên đâm đầu mà chạy.
Lê-văn-Ðó đi hoài tới sáng, quên đói bụng, mà cũng quên mỏi
chơn.
Anh ta trả được nồi cơm rồi, thì trong lòng nhẹ thơ-thới, hết
ăn năn buồn bực nữa. Anh ta lại nhớ những lời của Hòa-Thượng Chánh-Tâm giảng dụ,
biểu đừng có trách trời, đừng có oán người, từ nhỏ chí lớn mình bị hoạn nạn ấy
là tại phần số của mình phải như vậy, chớ không phải thiên-hạ họ riêng ghét
mình. Phật thuở xưa còn phải chịu khốn khổ, còn phải bị khinh bỉ thay. Nhờ có
khốn khổ sỉ nhục, đức Thích-Ca mới thành Phật được. Vây mình phải ráng mà chịu
khốn khổ kiếp nầy, đặng kiếp sau mình an hưởng thanh nhàn.
Anh ta nhớ mấy lời từ-bi ấy, thì trong trí nhẹ-nhàng, trong
lòng vui vẻ, hết buồn-rầu tức-giận như trước nữa.
Hồi trước mặt mày anh ta hầm-hừ hung ác, bây giờ lại đổi ra từ-thiện
ôn-hòa. Những người ái mộ đạo Phật ai cũng nói vì Phật muốn cứu độ Lê-văn-Ðó,
nên đổi tánh rửa lòng, đặng anh ta cải ác tùng thiện, rồi ngày sau rước về
Tây-Phương. Chúng tôi đây là kẻ lăn lộn chốn hồng-trần, chìm nổi vòng thế-tục,
chúng tôi luận thì do tâm-lý chớ không dám do tôn-giáo, chúng tôi tưởng có lẽ
Lê-văn-Ðó là người tánh tốt, tiếc vì mấy mươi năm trước không được gần người hiền,
không được nghe tiếng phải, nên mỗi-mỗi đều do bổn tâm mà lập tánh, bởi vậy cử
chỉ không giống người thường. Hôm nay gặp Hòa-Thượng Chánh-Tâm, gặp cảnh nghèo
của vợ chồng ông già nọ, rồi lại nhờ tiếng chuông đả tỉnh nữa, khiến lòng
chan-chứa, nên mới ăn-năn sấm-hối, rồi đổi dữ làm lành, đổi oán làm vui.
Lê-văn-Ðó lần đi xuống tới đồng Cần-Ðước, hỏi thăm ông Lý-kỳ-Phùng,
tính đến trao thơ của Hòa-Thượng Chánh-Tâm, rồi xin ở mà làm ruộng. Họ nói Lý-kỳ-Phùng
mới chết hôm tháng trước. Lê-văn-Ðó chưng-hửng, không biết bây giờ phải đi đâu.
Ở Cần-Ðước có một bà già, tuổi đã đúng 70, mà sức bà còn mạnh
mẽ. Trong xứ không ai biết gốc bà ở làng nào tỉnh nào, mà cũng không ai biết bà
tên chi họ chi, chỉ biết bà lại ở đây đã hơn hai mươi năm rồi, không có chồng
mà cũng không có con cháu chi hết, ai cũng kêu bà là “bà Hai”. Bà ở một cái
chòi nhỏ ngoài đầu xóm, thuở nay bà vô rừng lượm củi khô hoặc xuống rạch xúc
tôm cá đem về đổi gạo mà ăn, chớ không có nghề chi khác. Tánh bà ôn hòa, lòng
bà từ thiện, bà chẳng hề dua bợ ai, mà cũng chẳng hề nói thêm nói bớt cho ai, bởi
vậy ở trong làng từ trẻ chí già ai cũng yêu mến và kính nhường bà.
Lê-văn-Ðó xuống Cần-Ðước, hay tin Lý-kỳ-Phùng chết rồi thì
bơ-vơ, nên vào nhà bà Hai nầy xin ở đậu ít bữa, đợi kiếm ghe quá giang rồi sẽ về
Tân-Hòa. Anh ta đã có ý muốn cải danh diệt tánh đặng hết nhớ những chuyện xưa nữa,
song còn bối rối chưa biết phải đặt tên gì.
Lúc vô nhà bà Hai mà xin ở đậu, bà Hai hỏi tên gì, nhà cửa ở
đâu, anh ta lính-quýnh sực nhớ tên ông Hòa-Thượng Chánh-Tâm, anh ta vùng xưng
mình là Trần-Chánh-Tâm, gốc ở Rạch-Kiến.
Anh ta gói bạc với bộ chén, cái bình vào một gói, rồi bỏ bậy
dựa vách, bà Hai tưởng là gói quần áo, nên không coi không hỏi chi hết.
Ðêm ấy Lê-văn-Ðó nói chuyện với bà Hai. Ban đầu bà hỏi anh ta
đi qua huyện Tân-Hòa có việc chi hay không, thì anh ta nói dối rằng mình có hai
anh em, người anh ở Tân-Hòa mới chết, bỏ vợ con bơ-vơ, nên tính qua đó tìm đem
về mà nuôi. Lần lần bà mới nói qua tới chuyện làm ăn ở xứ Cần-Ðước.
Bà than rằng rừng xứ nầy dễ phá, đất xứ nầy phân nhiều ngặt
vì người trong xứ không có tiền bạc mà qui dân cho đông nên chưa mở rừng làm ruộng
được bao nhiêu. Lê-văn-Ðó nghe vậy thì chíp trong bụng, thầm tính về Tân-Hòa kiếm
chị dâu với sắp cháu được được rồi thì dắt hết trở qua đây ở mở rừng làm ruộng.
Cách vài ngày, nhơn dịp có ghe họ đi qua Tân-Hòa, Lê-văn-Ðó mới
xin quá giang mà đi.
Vắng mặt trót 20 năm, mà hình dạng lại đổi khác hết, nên
Lê-văn-Ðó về quê xưa, không ai biết mà nhìn, anh ta cứ xưng mình là Trần-Chánh-Tâm,
ban đêm lén đến chỗ nhà cũ mà thăm, thấy có một cái mả lạn [31] ở gần đó, coi lại
thì quả chỗ mình chiêm bao, ma dắt đi mà chỉ ngày trước, nên đi lại ngồi dựa
bên mả. Phút chút trong lòng cảm động anh ta thương tiếc mẹ chịu không nổi, nên
khóc rống lên nghe rất thảm thiết.
Lê-văn-Ðó đi rảo khắp các làng các xóm trong huyện mà tìm
cũng không gặp Thị-Huyền, còn hỏi thăm thì chẳng có một người nào biết mà chỉ.
Anh ta tìm cho đến hai tháng mà tìm cũng không được, túng thế mới trở qua Cần-Ðước
ở, mở rừng làm ruộng, lo tích đức tu nhơn, quyết chịu cực-khổ, sỉ-nhục kiếp nầy,
đặng kiếp sau được an nhàn sung sướng.
Anh ta qua đến Cần-Ðước rồi thì tìm đến nhà bà Hai mà xin ở đậu
nữa.
Bà hỏi vậy chớ kiếm chị với cháu có được hay không, thì anh
ta lắc đầu, coi bộ buồn-bực lắm.
Sáng bữa sau anh ta lội ra ngoài đồng mà xem mấy đám lúa của
họ cấy, và luôn dịp đi thẳng vô mé rừng mà coi cây cối thế nào. Chiều lại anh
ta đi cùng trong xóm mà kiếm coi có chỗ nào ở được. Anh ta cứ đi như vậy cho đến
năm sáu ngày.
Một đêm nọ, Lê-văn-Ðó nói với bà Hai rằng:
- Ở gần đây có cái nhà của ai hổm nay tôi thấy sập cửa hoài vậy
bà? Bộ khi nhà bỏ hoang hay sao?
Bà Hai xụ mặt chau mày đáp rằng:
- Nhà đó là nhà của cậu Lý-Kỳ-Nguyên đa. Cậu lên thành Gia-Định
mà thi cử chi đó không biết, nhuốm bịnh về không được. Con gái của cậu gởi nhà
cho tôi mà đi rước cậu, té ra nó lên đó rồi nó làm sao không biết mà bị quan họ
bắt nó, ghe trở về không, còn nó không về. Mấy tháng nay nó bỏ nhà nó cho tôi
coi chừng dùm, không biết chừng nào cha con nó về nữa. Cậu đó cậu làm liều quá.
Mình nghèo thì lo làm ruộng mà ăn, bày đặt đi đâu làm chi cho lộn xộn như vậy
không biết.
Lê-văn-Ðó không hỏi đến việc đó nữa. Anh ta vô rừng đốn cây
lá cất một cái chòi nhỏ ở mà làm ruộng.
Người trong xứ thấy anh ta lạ mặt mà lại quen với bà Hai,
không hiểu là người ở đâu, nên ai gặp bà Hai cũng hỏi. Bà Hai cũng không rõ gốc
tích Lê-văn-Ðó, mà bà muốn cho người ta khỏi làm nhọc bà nữa, nên bà nói rằng:
- Nó là cháu của tôi đa. Nó tên là Trần-Chánh-Tâm, gốc ở trên
Rạch-Kiến.
Từ ấy về sau ai cũng kêu Lê-văn-Ðó là Trần-Chánh-Tâm và không
tra hỏi chi nữa hết.
Chú thích:
[27] lộ phí
[28] tế
[29] dụng cụ làm bằng gáo dừa để xúc gạo, dung tích tương
đương với cái chén.
[30] rùn
[31] chỗ sâu hóa ra cạn dần hay chỗ cao bị thấp đi -- bị san
bằng, ao lạn, đìa lạn, mả lạn, kinh lạn
CHƯƠNG 5 - QUYỂN II - NÁT THÂN BỒ LIỄU
D
ầu trong thành-thị hay là ra ngoài thôn-hương, dầu ở chốn gia
đình hay ra nơi học hiệu, đi đến chỗ nào cũng nghe rùm tai những tiếng:
Trời Phật ở công bình
Loài người biết nhơn nghĩa
Trời Phật thì mình không thấy hình dung, mà mình cũng không
nghe ngôn ngữ, nhưng vì mình có lòng kính sợ nên mình tin chắc Trời Phật công
bình, thôi cũng cho là phải đi, chớ như loài người ở chung lộn với mình đây,
tánh người hung bạo giả dối, thói đời đen bạc xấu xa, mình đã từng thấy hằng
ngày, thế thì nói "loài người biết nhơn nghĩa", thiệt là khó tin lắm.
Hai chữ "nhơn nghĩa“ là chữ của bực Thánh-Hiền xưa bày
ra để cảm hóa loài người cho biết thương nhau cho biết giúp nhau, đặng đừng hại
nhau, đừng hiếp nhau, đừng gạt nhau.
Tiếc vì Thánh-Hiền chết đã lâu rồi, nên loài người không còn
nghe lời nói chơn chánh, không còn thấy cách ở nhơn từ nữa, bởi vậy họ đã không
làm theo ý Thánh-Hiền, mà họ lại còn mượn hai chữ "nhơn nghĩa“ để mà hại
nhau, hiếp nhau, gạt nhau cho dễ, nghĩ thiệt nên chán-ngán!
Nếu loài người biết nhơn nghĩa thì có lý nào người khôn ngoan
giàu có đã không thương kẻ khờ dại bần hàn, mà lại còn khinh khi đày đọa, húng
hiếp cho đến nước, theo như truyện Lê-văn-Ðó chúng tôi đã thuật trong quyển ÐAU
ÐỚN PHẬN HÈN đó vậy?
Nếu loài người mà biết nhơn nghĩa, thì có lý nào bực tu mi
nam tử, sức mạnh học hay, đã không thương phận nhược chất liễu bồ, côi-cúc
bơ-vơ, nghèo nàn khốn khổ, mà lại đành lòng bó-buộc, túng ép, gạt gẫm, làm đến
nỗi ô danh xủ tiết, tuyệt mạng vong thân theo như truyện Lý-Ánh-Nguyệt chúng
tôi sẽ thuật trong quyển NÁT THÂN BỒ LIỄU nầy đây?
Cũng trong năm Mậu Tý (1828) là năm Lê-văn-Ðó mãn tù, trở về
quê nhà dọc đường trách trời oán người, may gặp Hòa-Thượng Chánh-Tâm, nên mới đổi
lòng sửa tánh; mà cũng tại xứ Cần-Ðước là xứ Lê-văn-Ðó tính ở, đặng mở rừng làm
ruộng đó, có một cái nhà nhỏ hai căn, cất dựa mé rạch, ở trong lót có một bộ
ván mỏng với vài cái chõng tre, dựa vách có kệ sách vun-chùn, trên lại có treo
một cây đờn cầm [1].
Người lạ hễ chơn bước đến cửa, mắt liếc vô nhà, thì biết là
nhà học trò nghèo.
Tuy vậy mà ngoài sân dọn dẹp sạch sẽ, một bên trồng bông mãn
năm, thường thấy bông trổ đỏ vàng, còn một bên trồng rau, tháng nào cũng thấy
rau đơm xanh mướt.
Chung quanh nhà không có một cọng cỏ. Hai bên chái có hai
hàng sua-đủa thưa thớt, trái treo tòn-ten gió đánh đùng-đưa. Dọc theo mé rạch
có một đám lá dừa rậm-rạp, ánh phong trần không cho lọt vào nhà.
Còn phía sau hè có mấy bụi chuối tiêu [2], tàu xũ xọp[3], quầy
lòng thòng, để quến[4] bầy dơi rần-rật.
Lúc nửa chiều, mặt trời gác trên nhành sua-đũa, ngọn gió khua
lạch-cạch lá dừa.
Ngoài sân ba con gà giò[5] lẩn quẩn kiếm ăn, dựa cửa một con
mèo mướp[6] lim dim nằm đợi chủ.
Trong nhà im lìm, không nghe tiếng người ra vào. Thình lình
có một nàng tuổi lối đôi mươi, mặt trắng đỏ, mắt sáng ngời, lưng thắt eo, mình
dịu nhiễu, đầu bịt trùm khăn, áo xắn ngang qua lưng, quần vo tới đầu gối, một
tay bưng cái thúng, một tay xách cái rổ, ở dưới rạch vẹt lá dừa leo lên mé sân
rồi thủng-thẳng đi vô nhà.
Mấy con gà thấy dạng nàng thì áp chạy theo kêu chét-chét. Còn
con mèo nằm ngủ nghe động đất, thì mở mắt ngóc đầu rồi kêu ngao-ngao. Nàng ấy mắt
liếc ngó con mèo, miệng chúm chím cười, song nàng bưng thúng xách rổ đi luôn ra
nhà sau, chớ không đứng lại.
Nàng nầy tên là Lý-Ánh-Nguyệt, con gái của Lý-Kỳ-Nguyên. Nàng
đã được 21 tuổi rồi. Mẹ khuất sớm, nàng không chịu lấy chồng, ở hủ-hỉ với cha
trót mấy năm trường. Ban ngày cha đi đốn củi, vãi mạ, con đi xúc cá, hái rau.
Ban đêm cha hay chữ, nên thường lấy sử kinh mà đọc cho con nghe, còn con đờn
tươi, nên con thường đờn vài khúc tiêu-dao cho cha giải muộn.
Lý-Kỳ-Nguyên tuy nhà nghèo tuổi lớn, song chí đọc thơ không mỏi,
lòng mộ đạo vẫn bền, hễ lúc rảnh rang thì ông lo ôn nhuần ba truyện năm kinh,
chờ gặp vận đặng đua tài văn-sĩ.
Ông không có bà con đông, chỉ có một người em ruột tên là
Lý-Kỳ-Phùng, với một người anh vợ tên là Ðinh-Hòa.
Năm nay ông đã gần 50 tuổi rồi, sức yếu, nhà nghèo, song ông
rộn rực muốn lên đó mà đua tài, hoặc may như tên đứng bảng vàng thì khỏi uổng
công đèn sách.
Ánh-Nguyệt thấy cha già yếu, ý không muốn cha đi, song nàng sợ
trái ý cha buồn, nên nàng lật đật bán con heo với một cặp áo lấy tiền đưa cho
cha làm phí lộ[7].
Lý-Kỳ-Nguyên đi đã hơn một tháng, Ánh-Nguyệt ở nhà trông đợi
đêm ngày, mà trông hoài không có tin tức chi hết, bởi vậy trong lòng đã lo rồi.
Ðêm hồi hôm nàng nằm bức-rức hoài, ngủ không được. Ngày nay
trong lòng nàng lại càng xốn xang khó chịu hơn nữa, nên hồi trưa nàng mới xách
rổ xuống rạch xúc tôm xúc cá mà giải khuây.
Hồi nãy mình thấy Ánh-Nguyệt bưng thúng xách rổ ở dưới rạch
leo lên đó là nàng đi xúc cá về. Nàng đi thẳng ra nhà sau tắm rửa thay đổi áo
quần rồi thì mắc kho cá nấu cơm mà ăn, nên không thấy dạng nàng nữa.
Lúc mặt trời chen lặn, Ánh-Nguyệt ăn cơm uống nước xong rồi,
nàng mới thủng thẳng lần bước đi ra sân. Nàng mặc quần áo vải đen, nhưng mà tướng
đi đứng dịu-dàng, nên người ta thấy còn muốn ngó hơn là gái mặc sô-sa gấm nhiễu.
Nàng để đầu trần, tóc vuốt mà bới chớ không cần lược, nhưng
mà mái tóc nàng xấp-xải [8] hai bên màng tang[9], đầu tóc nàng xụ-xộp đàng sau
ót, làm cho chiều lả lơi với vẻ hữu tình. Mặt nàng không dồi phấn mà trắng hồng
hồng, môi nàng không thoa son mà ửng đỏ đỏ, hàm răng nàng khít khao mà lại trắng
trong, chơn mày nàng cong vòng mà lại nhỏ rít, ngón tay nàng dài mà nhọn như
mũi viết, lại thêm phao hồng hồng, móng suôn đuột, nên đánh đòn xa coi dịu nhiễu,
bàn chơn nàng không đi giầy mà gót ửng đỏ, bàn no vun, nên hễ gió phất ống quần
thì ai cũng phải ngó. Tướng mạo nàng đẹp đẽ dường ấy mà lại thêm tánh tình nàng
chơn chính, cử chỉ nàng thanh tao nữa, bởi vậy tuy nàng ở trong nhà dân giả bần
hàn, song phẩm giá nàng chẳng kém gì gái trâm anh[10], phiệt duyệt[11] .
Ánh-Nguyệt đứng giữa sân mà ngó mấy bụi bông lài, con mèo mướp
chạy theo cọ lưng vô chưn của nàng rồi nằm ngửa quào ống quần, làm cho nàng bày
cái cườm chưn ra coi trắng nõn. Gió phất mái tóc xấp xải, ánh mặt trời dọi vào
mặt đỏ lòm, nàng nheo mắt cúi xuống, tay trái vén mái tóc, tay mặt vỗ con mèo,
miệng chúm-chím cười, coi chẳng khác nào như hoa xuân mới nở. Nàng bắt con mèo
mà ôm trong tay, rồi đi lại hái một cái hoa lài kê vào mũi mà hưởi. Hoa đã trắng
mà gương mặt nàng cũng trắng, bởi vậy mặt chói hoa, hoa chói mặt, khó phân ai
trắng hơn ai.
Nàng ngó mông về hướng bắc, là hướng thành Gia-định, rồi có lẽ
lòng nhớ cha dồi-dào hay sao, mà nàng đứng ngẩn-ngơ, lụy ứa rưng-rưng. Mặt trời
đã lặn mất hồi nào nàng không hay, chừng nàng ngửa mặt ngó lên trời, thì sao đã
rạng mọc tứ giăng, ngôi tỏ ngôi lờ, làm cho lòng nàng càng thêm áo não.
Nàng thở dài một cái rồi ôm con mèo mà trở vô nhà.
Ba con gà giò vào chuồng còn kêu chét-chét phía sau. Họ giã gạo
khua tiếng chày nghe cắc-cụp đàng xóm.
Ánh-Nguyệt thổi lửa đốt lên, rồi lấy cây gài cửa sau cửa trước
đâu đó đều chặt chịa hết thảy. Nàng đem cái đèn để trên ván, lại vách lấy cây đờn
cầm, rồi ngồi dựa đèn lên dây[12] mà đờn. Tiếng đờn thanh tao khi khoan khi nhặt,
mà rỉ rả khi nhỏ khi to, điệu đờn hay thì thiệt là hay, mà nghe ra như ngậm thảm
trêu sầu, bởi vậy tay nàng đờn, mà lòng nàng lại bưng-khuâng, thậm chí con mèo
nằm trên vạt áo của nàng nó nghe, rồi nó cũng nhắm mắt lim-dim dường như nó
thương ai, nhớ ai, nên bộ coi xu-xị[13]. Chẳng hiểu Ánh-Nguyệt vì giọng đờn
nghe buồn thảm nên nàng không đờn nữa, hay là vì không có người tri-âm nên nàng
hết muốn đờn, mà nàng đờn chưa dứt một bản thì nàng lại xuống dây, rồi đem treo
trên vách. Nàng bước lại kệ sách thấy quyển "Lý gia thi tập“ nằm trên hết,
nàng lấy quyển ấy đem lại ván rồi nằm dỡ ra mà đọc.
Tập nầy là tập thi của Lý-kỳ-Nguyên thuở nay hễ có làm bài
nào hay thì ông chép vào đó, để khi buồn đem ra đọc lại chơi. Vì Ánh-Nguyệt cầm
mà coi, chớ cô không ngâm, nên không biết trong ấy hay dở thể nào. Mà nàng coi
đâu được vài ba chương, rồi nàng xếp lại nằm gác tay qua trán mà ngó sững ngọn
đèn.
Ðàng xóm họ giã gạo rồi, nên không nghe tiếng chày cắc cụp nữa.
Trong nhà lặng-lẽ, ngoài sân im-lìm, duy trong buồng nghe dế lửa gáy vang, trên
cột thấy thằn-lằn đua chạy, Ánh-Nguyệt nằm ngó ngọn đèn trân-trân không hiểu
trong trí nàng suy nghĩ những việc gì, mà nàng ngó gần hết một canh rồi nàng mới
chịu ngồi dậy dẹp đèn mà đi ngủ.
Nàng vô buồng nằm thổn-thức hoài ngủ không được.
Ðến canh ba, nàng nghe dưới rạch có tiếng ghe khua chèo lộp-cộp,
rồi lại nghe có tiếng người nói chuyện rầm-rì. Nàng không hiểu ghe của ai nửa
đêm lại vô rạch nầy, nên có ý nằm im-lìm lóng tai mà nghe. Cách chẳng bao lâu
nàng nghe có tiếng chơn bước ngoài sân thịch-thịch rồi lại nghe tiếng người ta
kêu rằng:
- Ánh-Nguyệt a, Ánh-Nguyệt, cháu ngủ hay là thức đó cháu?
Ánh-Nguyệt và lồm cồm ngồi dậy và đáp rằng:
- Dạ, tôi thức đây. Ai kêu đó?
Ở ngoài có tiếng nói rằng:
- Ông. Ông là ông sáu Thới ở ngoài vàm. Cháu mở cửa cho ông
vô, ông nói chuyện cho mà nghe.
- Có chuyện chi vậy ông?
- Ờ, có chuyện gắp lắm. Ông già cháu đau nặng quá, nên nhắn
biểu cho cháu hay.
- Húy! Trời đất ôi! Khốn khổ chưa! Hai bữa rày trong bụng tôi
buồn-bực nên tôi nghi có chuyện gì đây, thiệt tôi nghi chẳng sai. Cha tôi bây
giờ ở đâu vậy ông?
Ánh-Nguyệt tay chơn run lập cập, nước mắt tuôn dầm dề, quên
thổi lửa [14] đốt đèn, cứ chạy ầm ra mở cửa. Nàng thấy ông sáu Thới đứng giữa
sân, nàng không kịp mời vô nhà, liền tiếp hỏi rằng:
- Ông đi đâu mà gặp cha tôi? Chớ chi ông làm phước rước về
đây, thì tôi mang ơn ông biết chừng nào. Cha tôi bây giờ ở đâu vậy ông? Ðau làm
sao đó?
Nàng hỏi lăng xăng ông không trả lời từ câu cho kịp, bởi vậy
phải chờ cho nàng hết hỏi rồi ông mới nói rằng:
- Ông có gặp cha cháu đâu mà biết đau làm sao. Ông đi đánh
câu ngoài sông lớn, gặp ghe thương hồ họ cậy ông nói lại dùm với cháu rằng cha
cháu đau nặng bây giờ còn ở tại quán của tên Ðỗ-Cẩm nào đó, trên thành Gia-định.
Ông nghe như vậy nên nước lớn ông cuốn câu rồi chèo thẳng vô cho cháu hay đây.
Ánh-Nguyệt chắt lưỡi lắc đầu mà nói rằng:
- Cha chả! Không biết nhắn từ hôm nào đến bữa nay … Mà nếu
cha tôi đau nặng thì làm sao kiếm ghe mà nhắn được. Chắc là cha tôi mượn ai đi
nhắn dùm chớ gì. Phải hồi nãy ông hỏi dùm họ kỹ lưỡng thì tiện quá!
Ông sáu Thới đáp rằng:
- Ghe họ chèo ngang, họ hỏi ông ở đây mà có biết cha cháu hay
không. Ông nói biết. Họ nói vói có mấy tiếng đó rồi họ chèo ghe đi tuốt, ông
không hỏi kịp việc chi hết.
Ánh-Nguyệt chau mày đứng ngẫm nghĩ một hồi rồi nói một mình rằng:
- Tôi phải đi rước cha tôi mới được, chớ đau mà nằm trong
quán, bát cơm chén thuốc biết cậy nhờ ai?
Nàng thì tính một mình, mà ông sáu Thới tưởng nàng nói với
ông nên ông đáp rằng:
- Cháu đi rồi bỏ nhà ai coi? Mà đường từ đây lên thành Gia-định
đi không phải dễ gì, phận cháu là gái, đi một mình sao được? Cháu có đi thì phải
đi ghe. Như cháu muốn đi, thì ông với thằng Hiển chèo ghe đưa cháu đi. Cháu
tính lại coi …
Ánh-Nguyệt vì nghe cha đau thì bối-rối nên quên lễ nghĩa hết,
chừng nghe ông sáu Thới nói như vậy, nàng cảm ý tử tế của ông, nàng mới nhớ sực
lại rồi lật-đật mời ông vô nhà. Nàng chống cửa lên rồi thổi lửa đốt đèn. Ông
sáu Thới đi lại ván mà ngồi và nói rằng:
- Phải đi ghe đặng rước cha cháu về, chớ đi bộ rồi lên trển
biết mướn ghe có được hay không. Nè, mà cháu là con gái dầu đi ghe cũng khó. Vậy
thôi cháu cậy ông chú, hoặc ông cậu của cháu đi rước dùm cũng được mà.
Ánh-Nguyệt lắc đầu đáp rằng:
- Không được. Cậu của cháu mù quáng đi sao cho được. Còn chú
của cháu, thì hôm kia cháu xuống thăm, thấy chú đau bịnh rét, ăn uống không được
nên chú ốm quá. Chú nói hơn một tháng nay bữa nào chú cũng có cữ, nên không ra
khỏi nhà. Chú bịnh như vậy thì đi rước giống gì được. Bề nào cháu cũng phải đi
mới xong.
Nàng nói vừa dứt lời thì có một bà già ở gần, xưa nay người
ta kêu là "bà Hai, ở ngoài bước vô hỏi rằng:
- Cháu nói chuyện với ai mà nãy giờ nghe lộn-xộn bên nây vậy?
Phải cha cháu về hay không?
Bà vừa hỏi vừa ngó thấy ông sáu Thới, bà liền chào ông.
Ánh-Nguyệt bèn đem cái tin buồn của ông sáu Thới mới báo cho
mình hay hồi nãy đó mà thuật lại cho bà nghe. Bà động lòng thương, nên nói rằng:
- Tội nghiệp dữ hôn! Phải làm sao đi lên mà rước cậu về, chớ
cậu đau mà để cậu ở trển sao được.
Ánh-Nguyệt mới thuật cho bà nghe sự mình tính mượn ghe ông
sáu Thới và đi với ông lên mà rước. Luôn dịp nàng gởi nhà cho bà coi chừng dùm.
Bà nghe hết rồi mới nói rằng:
- Cháu sửa soạn mà đi đi. Ðể nhà đó bà coi chừng dùm cho,
không có sao đâu mà lo.
Ông sáu Thới cũng biểu nàng sửa soạn mà đi liền bây giờ cho
xuôi nước.
Ánh-Nguyệt vô buồng trút hủ gạo thì còn được ba bốn nồi; nàng
lại lần vách móc ra một quan tiền của nàng giấu đó, rồi bỏ chung vô quảy gạo[15]
mà bưng ra ngoài. Nàng mượn ông sáu Thới đem dùm tiền với gạo lần xuống ghe.
Nàng ở lại sau coi gài cửa tắt đèn, rồi nàng đi ra với bà Hai. Nàng mặc có một
bộ áo quần trong mình, lại lấy có một cái khăn mà thôi, chớ không đem theo vật
chi hết.
Ghe nhổ sào xô ra, ông sáu Thới cầm chèo lái, thằng Hiển là
cháu của ông, mới 15 tuổi, quay chèo mũi, rồi hai ông cháu chèo trở ra vàm.
Ghe đi ngang qua nhà, ông kêu bà sáu mà nói cho bà hay rằng
ông lên thành Gia-định mà rước Lý-kỳ-Nguyên rồi đi luôn chớ không chịu ghé.
oOo
Tại thành Gia-định ngó về hướng tây, cách cửa thành chừng một
dặm, có một xóm nhỏ chừng 5 cái nhà, mà nhà nào cũng lợp lá dừa, lại nhà nào
chung quanh cũng có trồng trầu, bởi vậy người trong xứ mới đặt tên xóm ấy là
"xóm Trầu".
Trong xóm nhà ấy duy có cái nhà ở đầu xóm, phía mặt trời mọc,
thì cao-ráo rộng rãi hơn hết.
Nhà cất trở cửa ra đường, trước nhà có một cái sân lớn, dựa
đường có trồng một hàng xương rồng[16], lại có làm một cái rào tre để chận gà
heo ở trong sân không ra ngoài đường được. Nhà ấy là nhà của Ðỗ-Cẩm.
Lý-Ánh-Nguyệt ngồi ghe lên tới thành Gia-định rồi, nàng bèn
lên bờ đi hỏi thăm quán Ðỗ-Cẩm ở chỗ nào. Nàng đi trọn một ngày hỏi thăm cùng hết,
họ chỉ lần lần, đến tối nàng mới tìm được. Khi nàng xô cửa tre bước vô sân thì
thấy trong nhà đèn đốt leo-lét. Nàng lần bước đi gần tới cửa, thì có một con
chó mực ở trong nhà hực-hực vài tiếng, rồi xông thẳng ra chận đường và sủa
om-sòm. Nàng không biết con chó hiền hay dữ, nên nàng đứng lại kêu và nói rằng:
- Có ai ở trong nhà xin làm ơn la chó dùm cho tôi vô một
chút.
Nàng vừa nói dứt tiếng thì nghe có người trong nhà hỏi rằng:
- Chừng nầy mà ai còn đi đâu đó vậy?
Nàng chưa kịp trả lời thì thấy có một người trạc chừng 40 tuổi,
ở trần trùi trụi, mặt thỏn da đen, cầm nhọn, mép có râu lún-phún [17], cặp mắt
ngó láo-liên, bước ra cửa đứng nhìn nàng rồi la chó om-sòm.
Con chó mực nín sủa và xụ đuôi trở đi vô nhà. Ánh-Nguyệt bước
tới cửa rồi nói với người ở trong nhà rằng:
- Tôi ở dưới Cần-Ðước, ông già tôi là Lý-kỳ-Nguyên đi lên
trên nầy mà thi. Tôi mới hay tin ông già tôi đau nằm tại quán của chú, nên lật
đật đem ghe lên mà rước ông già tôi. Thưa chú, không biết ông già tôi đau bịnh
chi, bữa nay đã hết hay chưa, còn ở đậu nhà chú hay không vậy chú?
Người ấy ngó Ánh-Nguyệt nháy mắt vài cái rồi nói rằng:
- Ờ, té ra em là con của ông Lý-kỳ-Nguyên hay sao? Cơ khổ dữ
hôn, có biết ở đâu! Qua nhắn hổm nay hơn nửa tháng rồi, sao bữa nay em mới lên?
Bước vô đây em, vô nhà rồi qua sẽ nói chuyện cho em nghe.
Ánh-Nguyệt bước vô nhà, mắt ngó láo liên, có ý kiếm coi cha nằm
ở chỗ nào. Nàng không thấy cha, mà lại thấy có một người đàn-bà ở nhà sau bước
ra, trạc chừng 35, 37 tuổi, mình choàng một cái yếm chớ không có áo, miệng rộng
môi mỏng cặp mắt lươn[18], chơn mày thưa, thấy tướng mạo thì biết là người lanh
lợi mà lại khắc bạc nữa. Người đàn ông ra hỏi Ánh-Nguyệt đó là Ðỗ-Cẩm, còn người
đàn-bà nầy là vợ, tên là Cao-thị-Phi.
Thị-Phi bước ra thấy Anh-Nguyệt thì ngó chồng mà hỏi rằng:
- Ai đó?
Ðỗ-Cẩm và đi lại ván lấy cái áo mà bận và đáp rằng:
- Con em đây là con gái của ông già ở đậu trong nhà mình đó
đa.
Thị-Phi vừa nghe nói thì liền ngồi xề trên ván và chau mày trợn
mắt ngó Ánh-Nguyệt mà nói rằng:
- Dữ hôn! Ta nhắn bữa hổm mà để đến bữa nay mới lên! Con gì
mà bất hiếu lắm vậy nà! Ổng chết đã thúi hoắc rồi còn lên làm chi đó?
Ánh-Nguyệt vô tội mà bị mắng nhiếc thình-lình, nàng chưa kịp
trả lời, kế nghe nói cha chết rồi, thì nàng sững sốt, mặt mày tái xanh, nước mắt
chảy rưng rưng, song nàng gượng mà nói rằng:
- Té ra cha tôi chết rồi hay sao thím? Trời ôi! Ác nghiệt chi
lắm vậy! Cha tôi chết hôm nào? Ðau làm sao mà chết đó? Xin thím làm phước nói
dùm cho tôi biết một chút thím.
Nàng nói mấy lời rồi liền ngồi ghé nơi đầu ván, lấy vạt áo đậy
mặt mà khóc.
Ðỗ-Cẩm ngồi ăn trầu, miệng nhai nhóc nhách, thảm trạng dường ấy
mà anh ta không cảm động chút nào.
Còn Thị-Phi thì lại vọt miệng nói rằng:
- Tưởng người ta đây là mọi hay sao nên làm quá như vậy? Ở
trong quán người ta gần một tháng không có trả một đồng tiền cơm, đau lại mượn
tiền bạc của người ta mà uống thuốc rồi chết còn lại bắt người ta lo chôn cất nữa.
Xưa rày lớp thiếu, lớp mượn, lớp tốn hao chôn cất hết thảy là 30 quan tiền. Bây
giờ phải làm sao mà trả tiền liền cho vợ chồng tôi, chớ để lâu không được. Có
đem tiền bạc theo đó hay không?
Ánh-Nguyệt đương đau lòng vì nỗi cha mất, mà lại còn nghe chủ
quán đòi tiền nữa, thì trong lòng bối rối vô cùng. Tuy vậy mà nàng không kể chi
tiếng nặng nhẹ, muốn biết coi cha chết hồi nào, nên bệu-bạo nói rằng:
- Thưa thím, sự cha tôi đau rồi mất trong nhà chú thím, làm
cho chú tím cực lòng ấy là sự rủi ro, chớ không phải cha tôi muốn chi vậy. Còn
chú thím thấy cha tôi đau nhiều, lật-đật nhắn cho tôi hay, ấy là ơn trọng, tôi
đâu dám quên. Không biết chú thím nhắn hồi nào, chớ tôi mới hay hồi khuya hôm
qua, tôi lật-đật đi liền lên đây, chớ đâu dám để trễ; xin thím làm phước nói
dùm cho tôi biết coi cha tôi đau bịnh chi, đau bao lâu, rồi chết ngày nào, kẻo
thình-lình mà tôi nghe nói chết thì tủi lòng tôi quá.
Thị-Phi hứ một tiếng, rồi đứng dậy ngoe-nguảy bỏ đi vô buồng,
và đi và nói rằng:
- Thiếu tiền người ta, không lo tính mà trả, để đi hỏi dông
dài, ai làm thầy-thuốc hay sao nên biết bịnh gì mà nói.
Ðỗ-Cẩm ngồi vít đốc[19] mà nói rằng:
- Ông già em ở đậu trong quán qua được chừng mười bữa. Tới
ngày thi, ổng gởi đồ đạc ở đây mà nhập trường.
Ổng thi có một bữa rồi trở ra, nói ổng đau, nên thi không được
nữa. Ổng về quán thì thấy ổng nằm hoài đó, ai biết ổng đau bịnh gì. Cách vài
ngày ổng cậy kiếm thầy-thuốc coi mạch hốt thuốc dùm cho ổng uống. Cách vài ngày
nữa thầy thuốc nói ổng đau nặng lắm, sợ cứu không được. Vợ chồng qua mới hỏi ổng
gốc-gác ở đâu rồi kiếm ghe nhắn cho em hay đó. Té ra mới nhắn bữa trước tới bữa
sau ổng chết.
Ánh-Nguyệt ngồi lóng tai mà nghe, chừng Ðỗ-Cẩm nói dứt rồi
nàng hỏi tiếp rằng:
- Chú có nhớ cha tôi chết bữa nào hay không?
Ðỗ-Cẩm ngửa bàn tay trái ra, chỉ từ lóng tay mà đếm lầm-thầm
rồi nói rằng:
- Chết hôm ngày mùng 6, đến bữa nay là 10 ngày rồi.
Ánh-Nguyệt lắc đầu thở dài, buồn thảm quá không nói chi được
hết. Ðỗ-Cẩm ngó nàng và nói tiếp rằng:
- Ông già em báo hại quá! Vợ chồng qua có vốn liếng chút đỉnh,
bị ổng làm tiêu hết. Bán con heo rồi cũng đút cho ổng. Lớp nuôi cơm, lớp chạy
thuốc, rồi lớp mua hòm rương nữa, nghĩ thử coi tốn hao là dường nào. Bây giờ
tính hết thảy ổng thiếu vợ chồng qua là 30 quan. Vậy em phải tính trả đủ cho
qua, đừng có để chậm trễ mà mích lòng.
Ánh-Nguyệt lau nước mắt và đáp rằng:
- Chú thím nuôi dưỡng chôn cất cha tôi, ơn ấy trọng lắm, dầu
ngàn năm tôi cũng không quên được. Cha tôi mắc nợ chú thím, phận tôi là con, tự
nhiên tôi phải lo mà trả, huống chi nợ nầy là nợ ơn nghĩa, lẽ nào tôi dám chối.
Ngặt vì cha con tôi nghèo khổ, mà số nợ thì nhiều quá, tôi biết làm sao mà trả
nổi bây giờ. Chẳng dấu chú làm chi, hôm cha tôi đi thì tôi bán con heo với cặp
áo đặng lấy tiền đưa cho cha tôi làm phí lộ mà đi đó. Thiệt bây giờ trong nhà
tôi không còn một vật gì đáng năm ba tiền hoặc một quan, nên bán trả cho chú được.
Ðây sự sản của tôi có một quan tiền mà thôi...
Ánh-Nguyệt lần lưng mở quan tiền mà để nằm dài trên ván, rồi
ngồi bẹp xuống đất, ngay trước mặt Ðỗ-Cẩm, và lạy và nói rằng:
- Xin chú thương phận tôi nghèo hèn côi cút tội nghiệp. Nếu
tôi giàu có như người ta thì chẳng những là tôi trả nợ của cha tôi, mà tôi còn
phải đền ơn cho chú thiếm thập bội nữa mới vừa.
Thị-Phi ở trong buồng bước ra đứng chóng nạnh hai tay mà nói
lớn rằng:
- Trời ơi, thiếu người ta 30 quan tiền, bây giờ trả có một
quan rồi lạy mà trừ hay sao? Húy! Ðược đâu nà! Làm sao thì làm, phải trả cho đủ,
chớ thiếu một đồng cũng không được nữa đa.
Ánh-Nguyệt và khóc và đáp rằng:
- Thưa thím, tôi có bao nhiêu đó mà thôi, bây giờ biết làm
sao. Thôi, để sáng tôi đến viếng mộ của cha tôi, rồi tôi về bán hết nhà cửa được
bao nhiêu tôi đem thêm cho chú thím.
Thị-Phi hỏi rằng:
- Nhà tốt hôn? Bán chừng được bao nhiêu tiền?
- Thưa, có một cái nhà lá 2 căn; mà tôi sợ bán không ai thèm
mua mới khổ nữa.
- Nếu vậy thì đòi về bán nhà nỗi gì? Bộ khi muốn kiếm chước
mà trốn hay sao? Tưởng người ta dại lắm đa há, nên bày mưu mà gạt!
- Thưa thím, tôi nói thiệt, chớ tôi đâu dám gạt. Như chú thím
có sợ tôi trốn thì chú hoặc thím đi theo tôi; hễ tôi bán nhà cửa được bao nhiêu
thì lấy hết mà trừ.
- Nói chòi lá mà bán bao nhiêu tiền, nên phải đi theo. Không
được, làm sao cũng phải trả cho đủ tiền rồi đi về mới được, nếu không trả thì
phải đi đến quan.
- Thưa thím, tôi không có tiền, như thím thương thì tôi nhờ,
còn như không thương thì tôi chịu, chớ biết làm sao bây giờ.
- Ờ, thôi để sáng rồi sẽ hay. Bây giờ khuya rồi, nếu mà đôi
co hoài thêm hao dầu của tôi, chớ không ích gì.
Ðỗ-Cẩm nghe vợ nói như vậy liền đứng dậy đi ra sân khép cái cửa
tre lại, rồi trở vô nhà sập cửa gài kín mít. Anh ta quăng cái gối trên ván biểu
Ánh-Nguyệt nằm đó mà ngủ, vói tay lấy quan tiền và tắt đèn, vợ chồng dắt nhau
đi vô buồng.
Ánh-Nguyệt nằm co dựa góc ván, nước mắt tuôn dầm-dề.
Nàng đau lòng về nỗi cha chết mà không thấy mặt con, không trối
được một lời rồi nàng lại rộn trí về nỗi nợ đòi không biết làm sao có tiền mà
trả. Mà dầu không tiền nàng cũng ít lo, nghĩ vì cái thân của nàng nếu phải bán
mà trả nợ cho cha, thì nàng cũng sẵn lòng mà bán liền. Nàng buồn là buồn hài cốt
của cha nằm nới đất khách quê người, ngày sau sợ khó mà viếng thăm mồ mả cho
thường được.
Nàng nằm suy tới tính lui, rồi nghe hai vợ chồng Ðỗ-Cẩm nói
chuyện xầm-xì trong buồng. Nàng trông sáng cho mau đặng cậy Ðỗ Cẩm dắt chỉ dùm
mồ mả cho nàng biết, bởi vậy nàng thổn-thức hoài, ngủ không được.
Trời vừa rựng đông thì nàng đã thức dậy rồi; nàng ngồi khoanh
tay mà chờ vợ chồng Ðỗ-Cẩm.
Chừng trời sáng thiệt mặt, nàng thấy Thị-Phi dậy chống cửa
nàng mới nói nhỏ nhẹ rằng:
- Thưa thím, không biết mộ của cha tôi chôn gầy đây hôn, xin
thím làm ơn chỉ dùm đặng tôi ra đó lạy cha tôi cho thỏa lòng một chút.
Thị-Phi chau mày nói rằng:
- Lật đật dữ hôn! Nợ của người ta đây không lo, để lo đi ra mả
mà lạy! Lạy rồi ổng sống dậy mà trả nợ được hay sao? Không được, phải chạy mà
trả cho đủ 30 quan tiền rồi mới được đi.
Ánh-Nguyệt đáp rằng:
- Tôi đã thưa với chú thím rằng tôi không có tiền, bây giờ
thím đòi, tôi biết lấy chi mà trả.
Thị-Phi trợn mắt nói rằng:
- Nếu không trả thì phải tới quan, chớ mắc nợ người ta, bây
giờ nó không có tiền rồi thôi hay sao?
Ánh-Nguyệt cúi đầu lặng thinh, không dám nói chi hết.
Ðỗ-Cẩm thức dậy, nói chuyện gì với vợ ở nhà sau không biết,
mà một lát anh ta bước ra biểu Ánh-Nguyệt phải đi với anh ta lên Huyện.
Ánh-Nguyệt thuở nay chưa tới quan lần nào, nên nghe biểu lên Huyện thì nàng sợ,
song sợ mà cũng phải đi, bởi vì mình mắc nợ người ta bây giờ cải chối sao được.
Lên tới trước mặt quan Huyện, Ðỗ-Cẩm thưa hết đầu đuôi mọi việc
cho quan Huyện nghe và xin ngài dạy Ánh-Nguyệt phải trả đủ số nợ của Lý-kỳ-Nguyên
là 30 quan tiền. Quan Huyện liếc ngó Ánh-Nguyệt rồi chúm-chím cười và hỏi
Ánh-Nguyệt quả có thiếu số tiền đó hay không. Ánh-Nguyệt ngồi xuống mà lạy và
chịu có thiếu, song nàng cũng thưa thiệt bây giờ nàng không có tiền mà trả.
Người làm quan đổi vui ra giận thiệt mau. Quan Huyện mới cười
đó, mà rồi ngài lại giận, trợn mắt nạt rằng:
- Hễ thiếu nợ người ta thì phải trả, chớ chịu có thiếu rồi
nói không có tiền sao được. Có thằng lính nào đó, bây ra dắt nàng nầy đem giam
trong khám cho tao.
Lính liền nắm tay dắt Ánh-Nguyệt đi ra phía sau. Ðỗ-Cẩm xá
quan Huyện mà về.
Ông sáu Thới thấy Ánh-Nguyệt đi kiếm quán Ðỗ-Cẩm mà sao trọn
một ngày một đêm nàng không trở xuống ghe, ông lấy làm lạ, nên sáng bữa sau ông
đi kiếm.
Chừng ông nghe nói Lý-kỳ-Nguyên đã chết lâu rồi, còn Ánh-Nguyệt
thì bị quan Huyện nhốt vào khám ông không rõ duyên cớ nên ông đau lòng tha thiết,
chắt lưỡi lắc đầu, rồi trở xuống ghe quay chèo mà về.
Nhớ nỗi cha đã buồn đứt ruột, nghĩ thân mình thêm sợ vô cùng.
Ánh-Nguyệt ngồi trong khám mà gan héo mặt sầu, lớp thì tức tủi
cho cha chết ở xứ người, lớp thì lo cho mình không biết làm sao mà trả nợ. Ðến
tối nàng đương ngồi lo liệu, thình lình có một chú lính mở cửa khám bước vô nói
rằng quan lớn cho đòi nàng lên thơ phòng cho ngài dạy việc.
Ánh-Nguyệt lật-đật đứng dậy đi theo chú lính. Khi nàng bước
vô thơ phòng, thì nàng thấy quan Huyện, trạc chừng 45 tổi, trên mép dưới càm đều
có râu le the vài chục sợi, đương ngồi tréo mảy chơn[20] trên ghế mà hút thuốc.
Ngài ngó nàng trân-trân, mà miệng lại chúm-chím cười.
Nàng sợ sệt nên đứng khoanh tay, cúi mặt xuống đất, không dám
ngó ngài.
Ngài biểu chú lính đi ra ngoài, rồi bỏ chơn xuống mà nói với
Ánh-Nguyệt rằng:
- Nàng thiếu nợ Ðỗ-Cẩm, bây giờ nàng tính làm sao mà trả?
Ánh-Nguyệt thưa nhỏ nhẹ rằng:
- Bẩm quan lớn, nợ con thiếu ở đây là nợ nhân nghĩa, bởi vậy
con lo hết sức. Ngặt vì nhà con nghèo, phận con là gái, mà số nợ thì nhiều, bởi
vậy con không biết làm sao mà trả được, xin quan lớn thương dùm thân con.
- Nàng muốn khỏi trả nợ ấy hay không?
- Bẩm quan lớn, con muốn như vậy sao phải. Vả chăng vợ chồng
chú Ðỗ-Cẩm nuôi dưỡng cha con gần một tháng, mà chừng cha con chết, chú lại còn
lo chôn cất nữa. Cái ơn ấy là ơn trọng. Phận con làm con, con phải ghi tạc
trong lòng. Chớ chi con giàu có, thì con sới gia tài mà chia cho chú, con mới vừa
lòng, có lẽ nào có 30 quan tiền mà con thối thác không chịu trả.
- Nàng thiệt thà nên không hiểu. Vợ chồng thằng Ðỗ-Cẩm là
quân chặt đầu lột da người ta, chớ không phải làm nhơn nghĩa gì đâu. Cha nàng
đi thi có lẽ cũng có đem theo tiền bạc chút đỉnh chớ?
- Dạ, bẩm có năm sáu quan tiền, vì nhà con nghèo nên đâu có
tiền mà đem theo nhiều như thiên hạ vậy được.
- À, quả thiệt hôn! Năm sáu quan tiền ít lắm hay sao? Cha
nàng ở đó có một tháng mà tiền cơm hết bao nhiêu. Còn nó nói uống thuốc, có bằng
cớ gì đâu mà tin được. Việc chôn cất chắc nó cũng làm sơ-sịa không tốn hao bao
nhiêu, bởi vậy có gì đâu mà vợ chồng nó tính tới 30 quan. Phải là vợ chồng nó
muốn ăn cướp nàng không hử?
Ánh-Nguyệt nghe quan Huyện nói như vậy thì nàng đứng ngẫm
nghĩ một hồi rồi đáp rằng:
- Bẩm quan lớn, bề nào ơn nghĩa của vợ chồng chú Ðỗ-Cẩm cũng
trọng lắm, bởi vậy có lẽ nào con dám nghi bụng chú.
Quan Huyện cười ngất rồi ngó ngay Ánh-Nguyệt mà nói rằng:
- Nàng khờ dại quá! Thôi, nàng muốn nói vợ chồng Ðỗ-Cẩm tử tế
thì tự ý, ta cãi làm chi. Vậy bây giờ nàng làm sao mà trả nợ, đâu nàng bẩm cho
ta nghe thử coi?
- Bẩm quan lớn, xin quan lớn thương dùm phận con.
- Ta thương lắm chớ! Ta thương nên đêm hôm vắng-vẻ ta mới kêu
nàng vào đây mà nói chuyện.
Quan Huyện nói mà chúm-chím cười còn mắt thì liếc ngó
Ánh-Nguyệt.
Có lẽ nàng thấu hiểu mấy lời của quan Huyện mới nói đó là lời
xiên-xẹo hay sao, mà nàng mắc cỡ nên gò má ửng hồng, mặt cúi xuống đất, rồi mới
nói tiếp rằng:
- Bẩm quan lớn, xin quan lớn làm phước tha con về con bán hết
nhà cửa coi được bao nhiêu, còn thiếu bao nhiêu con bán thân con nhập cho đủ số
30 quan đem lên mà trả cho vợ chồng chú Ðỗ-Cẩm.
Quan Huyện cười nữa và nói rằng:
- Dại quá! Nàng ở đây với ta thì khỏi trả đồng nào hết. Nàng
chịu hôn?
Ánh-Nguyệt chưa kịp trả lời, thình lình quan Huyện vói níu
tay nàng mà kéo, nàng thất kinh, giựt tay, và bước sụt ra đứng dựa cửa. Quan
Huyện cười và đưa tay ngoắc nàng mà nói rằng:
- Làm giống gì vậy? Vào đây, vào đứng gần ta nói cho mà nghe.
Nàng xích vô có một bước, rồi khoanh tay đứng đó. Không dám lại
gần quan lớn nữa.
Quan Huyện nói rằng:
- Ta thấy nàng nghèo hèn mà có sắc nên ta thương, nên ta muốn
làm phước cứu nàng. Vậy nàng ở đây hầu ta. Nàng khỏi trả nợ, khỏi ở đợ cực khổ,
biết hôn? Ði xê lại đây ta biểu một chút.
Quan lớn nói rồi đưa tay ngoắc nữa. Ánh-Nguyệt biến sắc, nghẹn
hầu, nửa giận, nửa sợ, không nói chi được hết. Quan Huyện đứng dậy miệng cười,
chơn bước lần lại chỗ nàng đứng và tay vói níu nàng nữa. Ánh-Nguyệt hất tay
quan lớn, ngước mặt ngó ngay và nói rằng:
- Bẩm quan lớn, quan lớn là cha mẹ của dân, quan lớn phải giữ
thể diện chớ sao lại làm việc trái đời như vậy? Phận con tuy nghèo, song con vốn
con nhà nho học, con biết lễ nghĩa chút đỉnh, có lẽ nào con vì chữ bần mà phải
bán cái danh tiết của con sao? Xin quan lớn hãy đứng xê ra, nếu quan lớn làm
trái đạo nghĩa, thì ắt con phải thất lễ với quan lớn đa.
Lời nàng nói dịu dàng, mà giọng nàng nghe cứng cỏi, mặt nàng
lại nghiêm-nghị, bởi vậy quan lớn tuy giận, song ngài kiên sợ, nên ríu-ríu trở
lại ghế mà ngồi, rồi kêu lính biểu dắt Ánh-Nguyệt đem giam lại dưới khám.
Sáng bữa sau quan Huyện cho đòi Ðỗ-Cẩm đến hầu. Khi Ðỗ-Cẩm đến
rồi, ngài mới dạy lính dắt Ánh-Nguyệt lên. Ngài thấy Ánh-Nguyệt thì sắc mặt
ngài đầm-đầm, cặp mắt ngó lườm-lườm và nói rằng:
- Lý-Ánh-Nguyệt đã chịu có thiếu của Ðỗ-Cẩm 30 quan tiền thì
phải trả liền đủ. Nếu không có tiền thì phải ở cố công cho chủ nợ, chừng nào có
tiền trả đủ rồi mới được về. Thôi Ðỗ-Cẩm dắt con nầy về nhà mà bắt nó làm công
việc, nếu nó trốn, thì lập tức phải đến báo cho ta hay.
Ðỗ-Cẩm lạy quan Huyện rồi bước ra.
Ánh-Nguyệt ríu-ríu đi theo, sắc mặt như thường, coi không buồn
mà cũng không giận.
Chú thích :
[1] đờn kìm, đờn nguyệt
[2] loại chuối có hột như hột tiêu
[3] rũ teo
[4] lôi cuốn
[5] gà tơ, mới „nhổ giò“, chưa mọc đủ lông
[6] mèo có lông xám, có sọc dọc theo thân như sọc của trái mướp
[7] lộ phí
[8] bay qua bay lại
[9] màng tang: thái dương
[10] trâm cài đầu và dải mũ; dùng để chỉ dòng dõi quyền quý,
cao sang
[11] 閥閱 viết công trạng vào giấy hay tấm ván rồi nêu ra ngoài cửa, bên trái gọi
là phiệt, bên phải gọi là duyệt
[12] căng dây đờn cho đúng giọng.
[13] xuôi xị, xuôi xuội: có vẻ mệt mỏi
[14] thổi than hoặc rơm đang ngún cho ra ngọn lửa. Bếp lửa
ngún đốt về đêm cốt để có khói, đuổi muỗi
[15] thúng nhỏ đựng gạo
[16] cây cùng họ với thầu dầu, thân mềm ba cạnh, có chứa mủ
trắng, lá thoái hoá thành gai, trồng làm hàng rào
[17] lún phún, thưa
[18] mắt hí, vừa hẹp vừa ngắn, chỉ người gian ác
[19] đốc: phần tim đèn bị cháy cùn lại, vít đốc: vít cho rơi
cái đốc
[20] đùi nọ gát lên đùi kia
CHƯƠNG 6 - QUYỂN II - NÁT THÂN BỒ LIỄU
Ðỗ-Cẩm ít nói mà tánh lại xảo trá, còn Thị-Phi nói nhiều mà
tánh lại hỗn hào.
Hai vợ chồng tánh ý khác nhau, nhưng mà thuở nay ở chung với
nhau một nhà, chẳng hiểu là tại vợ phục trí xảo của chồng, hay là tại chồng sợ
thói hỗn của vợ, mà ít ai thấy vợ chồng rầy rà cùng đánh lộn.
Ánh-Nguyệt vưng lời quan phân xử, về ở đợ cho vợ chồng Ðỗ-Cẩm,
thân nàng cực khổ sỉ nhục không kể xiết.
Tuy nhà nàng nghèo mặc dầu, nhưng mà từ nhỏ chí lớn nàng quen
nấu cơm, xúc cá, may áo, hái rau, chớ nàng chưa từng làm những việc nặng nề cực
nhọc.
Hôm nay vợ chồng Ðỗ-Cẩm bắt nàng làm như tôi mọi, tuy cho ăn
no mặc ấm, song mỗi ngày làm công việc không hở tay: bữa thì dang ngoài nắng cuốc
đất vâm khoai, bữa thì dầm ngoài mưa đốn cây nhổ cỏ, bữa thì lội xuống sông kéo
lưới tay mà bắt cá, bữa thì vô trong rừng mót củi khô mà gánh về.
Nhiều bữa nàng làm ban ngày đã mỏi mệt rồi, mà ban đêm còn phải
thức xay lúa giọt gạo [21], chớ không nghỉ ngơi được.
Thân nàng thiệt cực khổ đáo để, mà vợ chồng Ðỗ-Cẩm không
thương, có nhiều khi nàng không có lỗi chi trọng, mà Thị-Phi chưởi bới đánh đập
tưng bừng, coi nàng cũng như con thú ở trong nhà, chớ không phải là gái má phấn,
môi son, đờn hay, học giỏi.
Ý hị! Cha mắc nợ có 30 quan tiền mà thân con phải đi làm tôi
mọi, nghĩ đáng tức tủi hay không!
Mà làm tôi mọi cho người, cực khổ sỉ nhục đáo để như vầy rồi
đến chừng nào mới mãn hạn?
Việc ấy quan không định, mà Ánh-Nguyệt cũng không hiểu!
Cái kiếp của Ánh-Nguyệt hoạn nạn như vầy, dầu có dịp chi vui
nàng cũng chẳng hề vui được.
Nhưng mà thiệt cũng lấy làm kỳ cho nàng, dầu chịu cực khổ sỉ
nhục, song nàng cũng chẳng hề để bụng phiền hà bao giờ. Nàng thầm nghĩ phận
nàng là gái, lúc cha ương yếu nàng không dưỡng nuôi, lúc cha tỵ trần nàng không
tống táng, vợ chồng Ðỗ-Cẩm thế cho nàng mà lo cơm cháo thuốc men, rồi lại chôn
cất nữa, ơn ấy rất nặng, nghĩa ấy rất dầy, bây giờ nàng không có tiền thì phải
đem thân làm trâu ngựa mà đền đáp ơn nghĩa cho người, nếu vì cực khổ mà phiền
trách thì ai cho mình là gái biết ơn nghĩa. Bởi nàng nghĩ như vậy nên chịu cực
nàng không buồn, bị đánh nàng không giận, cứ giữ một tánh trung tính cung kỉnh
vợ chồng Ðỗ-Cẩm luôn luôn.
Vả khi mới đi về ở với vợ chồng Ðỗ-Cẩm, nàng hỏi thăm biết mồ
mả của cha, bởi vậy hễ có buồn thì nàng ra đó viếng thăm, khi thì ôm đất bồi
núm mả thêm cho cao, khi thì nhổ cỏ quét rác chung quang mả cho sạch, làm như vậy
rồi sự buồn của nàng bao nhiêu đều tiêu tan hết.
Ánh-Nguyệt ở đợ hơn một năm, vì làm công việc nặng nề, nên mấy
ngón tay móng gãy, hai bàn tay chai cứng nhưng mà nước da của nàng cũng còn trắng
như dồi phấn, gương mặt của nàng cũng còn sáng như trăng rằm, tướng đi của nàng
còn dịu-dàng, giọng nói của nàng cũng còn nho-nhã.
Một buổi chiều, trời khô-khan, gió mát mẻ. Hai vợ chồng Ðỗ-Cẩm
ngồi trong nhà mà nói chuyện, còn Ánh-Nguyệt xách chổi ra sân quét lá cây rụng,
rồi hốt đem bỏ dựa hàng rào.
Có một người trai chừng 25, 27 tuổi, đầu vấn khăn đen, tác
cao mà ốm, da trắng, mặt thỏn, đi ngang qua nhà Ðỗ-Cẩm, cặp mắt ngó chăm chỉ vô
sân, rồi thủng-thẳng bước chậm chậm mà ngó hoài.
Tên trai ấy đi qua khỏi rồi, cách một lát thấy trở lộn lại nữa.
Lúc tên trai ấy vừa đi tới, thì Ánh-Nguyệt ôm một ôm lá cây cũng vừa bỏ dựa
hàng rào. Vả hàng rào xương rồng nầy ngăn cái sân cho phân biệt với đường đi,
mà cây xương rồng thấp chừng tới rún chớ không cao, bởi vậy Ánh-Nguyệt ở trong,
tên trai ấy ở ngoài, hai người ngó nhau một cái, rồi Ánh-Nguyệt quày-quả trở vô
quét sân, nàng chẳng hề để ý đến. Tên trai ấy ngó theo trân trân một hồi rồi mới
đi.
Mấy bữa sau, buổi chiều nào tên trai ấy cũng có đi ngang qua
nhà Ðỗ-Cẩm, mà hễ đi ngang thì ngó vô nhà luôn luôn. Ánh-Nguyệt vô tâm, nên
nàng không thấy việc ấy. Thị-Phi vô ý nên chị ta cũng không hay, duy có một
mình Ðỗ-Cẩm thấy vậy lấy làm kỳ, nên một bữa nọ anh ta đợi tên trai ấy đi trở về,
anh ta làm bộ đi có việc, mới nom theo coi tên trai nầy ở đâu cho biết.
Tên trai nầy là Từ-hải-Yến, gốc ở trên tỉnh An-Giang, cha mẹ
giàu lớn, công học đã dầy, vưng lời cha xuống thành Gia-định du học đặng chờ
khoa sau mà ứng thí. Chàng xuống tới Gia-định đã hơn một tháng rồi, ở đậu tại
nhà bà đội Thỉnh mà học. Hôm nọ nhơn trời trong gió mát, chàng lần bước ra
ngoài thành mà chơi, tình cờ gặp Ánh-Nguyệt đương quét sân, tuy nàng ở trong chỗ
thảo lư, tuy nàng mặc áo quần lam lũ, song dung nhan tuấn tú, tướng mạo
đoan-trang, làm cho Hải-Yến vừa ngó thấy thì tâm-thần mờ mệt, biển ái sóng dồi,
chơn không muốn đi, mắt bắt phải ngó, nên bữa đầu phải đi trở lại mà ngó một lần
nữa, rồi mấy bữa sau cứ đi đến chỗ đó hoài, hễ thấy dạng Ánh-Nguyệt thì về nhà
vui cười, còn bữa nào không thấy thì nằm dàu-dàu [22], không tập văn đọc sách
được.
Ðỗ-Cẩm hỏi thăm biết được tánh danh, biết được chỗ ở, rồi dọ
dẫm hiểu được tình ý của Hải-Yến nữa, thì trong bụng mừng thầm, nhưng mà anh ta
không nói cho vợ biết, hễ chiều thì cứ bắt Ánh-Nguyệt làm công việc trong nhà
sau, chớ không cho ra sân nữa.
Trọn 10 ngày Hải-Yến không thấy mặt Ánh-Nguyệt, thì chàng
xót-xa bứt-rứt, ăn ngủ không được, ban ngày dỡ sách ra mà trí lại tưởng ở đâu,
ban đêm đi thơ-thẩn ngoài đường, lúc ngồi dưới cội [23] trông trăng, lúc đứng
trên cầu chờ nước, mà trông trăng đến trăng lặn cũng không hết buồn, chờ nước đến
nước ròng càng thêm ảo-não. Ðến nông nỗi nầy chàng Hải-Yến mới biết mối sầu
tương-tư có thể giết người như chơi.
Hải-Yến bưng-khuâng đêm ngày chịu không được, nên một bữa nọ
chàng mặc y phục tử-tế rồi đến nhà Ðỗ-Cẩm.
Ðỗ-Cẩm vừa thấy chàng bước vô tới sân, thì gặt đầu, chúm-chím
cười. Anh ta chào hỏi bãi buôi, lật-đật mời ngồi.
Hải-Yến ngó quanh quất rồi nói rằng:
- Tôi là học trò ở phương xa du học, đến đây đã gần vài tháng
rồi. Ở trong thành bực bội, mà lại đông người rầy rà, tôi học không tiện, nên
muốn kiếm nhà ở ngoài cho yên tịnh đặng ôn nhuần kinh sử cho dễ. Tôi thấy nhà
chú rộng rãi, mà lại chung quanh có cây mát mẻ, nên đến đây xin chú làm ơn cho
tôi ở đậu một ít lâu, không biết có được hay chăng?
Ðỗ-Cẩm cười mà không trả lời, lại kêu Ánh-Nguyệt biểu lấy trầu
cau đem cho khách ăn.
Ánh-Nguyệt ở trong buồng bước ra, Hải-Yến ngó thấy mặt, thì
trong lòng khoan-khoái, mừng mà không dám ngó, vui mà sợ, nên ngồi bợ ngợ vô
cùng. Ðỗ-Cẩm liếc thấy, hiểu ý Hải-Yến vì tình nên đến xin ở đậu, bèn cười và
nói rằng:
- Chẳng phải tôi hẹp gì với cậu, ngặt vì nhà tôi xịch-xạc
[24], sợ e không có chỗ cho cậu ăn nằm cho xứng đáng. Ðã vậy mà phận tôi nghèo
nàn, thiếu trước hụt sau, nên tôi sợ không có đủ cơm gạo mà nuôi cậu được.
Hài-Yến đáp rằng:
- Không hại gì, miễn là chú cho tôi một bộ ván thì đủ rồi.
Còn việc cơm gạo thì tự chú định mỗi tháng tôi trả cho chú bao nhiêu cũng được.
Như dù có nghèo lắm, muốn lãnh trước chút đỉnh, tôi cũng đưa cho.
Ðỗ-Cẩm ngồi ngẫm nghĩ một hồi rồi gãi đầu nói rằng:
- Tôi tuy dốt nát, song tôi có lòng thương con nhà học-trò lắm.
Khoa trước tôi cũng có nuôi học trò ở trong nhà. Chớ chi tôi giàu có như người
ta, thì cậu ở không cũng được, chẳng cần phải trả tiền, chừng nào thi đậu rồi sẽ
đền ơn. Ngặt tôi nghèo quá, vậy nếu cậu muốn ở thì cho tôi mỗi tháng năm quan.
- Ðược. Hổm nay tôi ở trong nhà bà đội Thình, bà tính cho tôi
mỗi tháng 3 quan. Ở đây rộng rãi thanh vắng, vậy chú tính năm quan cũng được.
Ðỗ-Cẩm thấy Hải-Yến chịu liền như vậy, thì tiếc mình không
đòi nhiều hơn nữa, nên anh ta nghĩ một hồi rồi nói rằng:
- Hồi nãy cậu có nói như tôi muốn mượn tiền cũng được. Vậy cậu
làm ơn cho tôi mượn chút ít đặng mua lúa gạo.
- Ừ, được. Ðể tôi cho chú mượn vài ba nén bạc. Thôi để tôi về
tôi thâu xếp đồ đạc, rồi chiều tôi dọn ra đây tôi ở nghé.
Ðỗ-Cẩm gặt đầu lia-lịa, vì nghe nói cho mược trước vài ba nén
thì mừng quýnh.
Hải-Yến vừa ra khỏi cửa, thì Thị-Phi ở trong buồng bước ra
nói lớn rằng:
- Mình ngốc quá! Bộ thằng đó giàu lắm, mình sợ giống gì mà
đòi tiền cơm một tháng có 5 quan, không dám đòi nhiều hơn?
Ðỗ-Cẩm lấy tay khoát vợ và nói nhỏ-nhỏ rằng:
- Ai dè nó giàu! Mà thôi mầy đừng nói gì hết, để đó mặc tao.
Chuyến nầy tao trúng mối lớn rồi tao hết lo nghèo nữa.
Thị-Phi chau mày đáp rằng:
- Hứ! Thứ nó ở một tháng 5 quan, nó ăn cơm vài quan, mình té
[25] giỏi lắm là 3 quan, chớ bao nhiêu đó mà giàu.
Ðỗ-Cẩm ngó chừng trong buồng rồi nói nhỏ-nhỏ với vợ rằng:
- Ậy! Mầy đừng có cãi mà! Thằng đó mê con Ánh-Nguyệt nên nó mới
tới đây mà xin ở đậu, biết hôn? Ðể mình lấy con Ánh-Nguyệt làm mồi mà câu nó. Hễ
nó mắc mồi rồi thì tiền bạc của nó có bao nhiêu là tiền của mình chớ gì, hiểu
chưa? Ấy vậy, mầy phải biểu con Ánh-Nguyệt tắm rửa cho sạch sẽ, mặc áo quần cho
tử tế.
Từ rày sắp lên đừng có bắt nó làm công việc nặng-nề nữa, hễ
thằng đó có hỏi thì mình nói Ánh-Nguyệt là con nuôi nghe hôn. Mầy cứ nói y theo
lời tao dặn, đừng có cãi gì hết, thì xong việc, nhớ hôn?
Thị-Phi hiểu rõ ý chồng rồi thì cười và gặt đầu lia-lịa.
Vợ chồng Ðỗ-Cẩm lo quét tước nhà cửa sạch sẽ, chừa một bộ ván
cho Hải Yến nằm lại nhắc một cái ghế để gần đó cho chàng để sách vở. Dọn dẹp
xong rồi, Thị-Phi biểu Ánh-Nguyệt tắm gội, thay đổi áo quần. Ðỗ-Cẩm thấy
Ánh-Nguyệt biểu đâu làm đó thì vui mừng, nên kêu ra nói dịu ngọt rằng:
- Nầy cháu, từ hồi năm ngoái đến nay, vì vợ chồng chú nghèo
nên thân cháu mới cực khổ, chớ không phải chú thím ghét go gì đó. Từ rày về
sau, chú có cho người ở đậu, nên chắc là trong nhà chú hết túng rồi nữa. Vậy
cháu đừng có làm nhọc nhằn như trước nữa, nghe hôn cháu. Thuở nay cháu cực, xin
cháu đừng phiền, ấy cũng vì chú thím thương ông già cháu nên hóa ra nghèo, cháu
mới cực, chớ không phải chú muốn chi vậy. Thôi, từ rày sấp tới ai có hỏi thì
cháu nói là con cháu trong nhà, chớ đừng có nói ở đợ ở đần gì hết.
Ðỗ-Cẩm vừa nói tới đó thì thấy Hải-Yến đã bước vô sân, lại có
một người vác rương tráp theo sau.
Anh ta lật-đật chạy ra tiếp rước, phụ dọn đồ lăng-xăng. Thị-Phi
cũng vui cười và hối Ánh-Nguyệt đi nấu nước cho khách uống, Hải-Yến sắp sách vở,
dọn rương trắp, móc cây đờn cầm trên vách, để bút nghiên trên ghế, rồi mở rương
lấy cho Ðỗ-Cẩm 3 nén bạc.
Cả nhà vui hết thảy, nhưng mỗi người vui riêng một thế, vợ chồng
Ðỗ-Cẩm vui vì có bạc tiền, Hải-Yến vui vì được gần gũi người yêu, còn Ánh-Nguyệt
vui vì hết cực khổ.
oOo
Từ-hải-Yến được ở yên nơi, mà lại được gần người mình hoài vọng,
thì trong lòng thơ thới, bởi vậy vừa mới tối thì chàng đốt đèn rồi lấy sách ra
mà đọc. Ánh-Nguyệt không rõ tình ý của chàng, nên ra vô dọn dẹp như thường.
Có khi nàng đứng nghe Hải-Yến bình sách ngâm thi, bộ không
e-lệ chút nào hết.
Hải-Yến ngồi đọc sách, mà hễ thấy dạng nàng thì liếc mắt lưng
tròng, tuy chàng không nói chi với nàng, song sắc mặt chàng coi vui lắm. Gần hết
nửa canh một, vợ chồng Ðỗ-Cẩm vô buồng mà ngủ.
Ánh-Nguyệt cũng vô trong mà nằm. Chỗ nàng ngủ cách bộ ván của
Hải-Yến nằm có một tấm vách.
Trời khuya lần lần, tư bề vắng vẻ, chỉ nghe có giọng Hải-Yến
đọc sách ngâm nga mà thôi, Hải-Yến đọc mệt rồi, mới xếp sách để trên ghế và lấy
cây đờn cầm treo trên vách rồi lên dây mà đờn. Hải-Yến vốn sẵn có ngón đờn
tươi, mà lại đương lúc tương-tư, rồi cái thần nó truyền ra tới mấy đầu ngón
tay, bởi vậy tiếng đờn rỉ rả như nước chảy như mưa sa, giọng đờn nhỏ to như
trông người như nhớ bạn.
Người cảm hứng đờn nghe tiếng đờn dễ cảm hứng, bởi vậy
Ánh-Nguyệt nằm trong giường, nghe tiếng đờn tiêu tao, thì trong lòng nàng bát
ngát vô cùng. Vả Ánh-Nguyệt có ngón đờn tuyệt diệu, thuở nay nàng chưa từng gặp
ai đờn tươi hơn nàng bao giờ. Hôm nay nàng nghe tiếng đờn của Hải-Yến thanh tao
thì nàng khen thầm, mà khen rồi lại bưng-khuâng, tủi tấm thân linh đinh, nhớ
quê nhà dịu vợi, thương mẹ cha ngàn thu vĩnh biệt, xót liễu bồ chút phận bùn
than.
Hải-Yến ở được mấy bữa, tuy hay dòm ngó Ánh-Nguyệt, chớ chẳng
hề dám mở miệng ghẹo chọc. Còn Ánh-Nguyệt thấy Hải-Yến đọc sách, đờn cầm thì biết
chàng học giỏi đờn hay, song nàng cũng không ngụ ý chi khác.
Vợ chồng Ðỗ-Cẩm không quạu-quọ nữa, mà cũng không hún hiếp
đày đọa Ánh-Nguyệt như xưa.
Một bữa nọ, Thị-Phi dắt Ánh-Nguyệt vào chợ mua đồ ăn, Ðỗ-Cẩm ở
nhà ngồi trước cửa chẻ tre đương giỏ, Hải-Yến chà lết lại ngồi một bên hỏi thăm
công việc làm ăn dông dài một hồi rồi hỏi rằng:
- Chú có mấy người con?
- Vợ chồng tôi không có con.
- Còn cô Hai ở trong nhà đây là ai?
- Nó là cháu.
- Hổm nay tuy tôi nghe cô kêu chú bằng chú, song tôi tưởng là
con gái của chú chớ.
- Không, nó là cháu.
- Cô còn cha mẹ gì hay không, sao cô lại ở với chú?
- Cha mẹ nó chết hết.
- Tội nghiệp dữ hôn! Cô có chồng hay chưa?
- Chưa.
- Cô được mấy tuổi rồi mà chưa có chồng?
- Nó năm nay được 22 tuổi.
- Cô lớn rồi, sao chú chưa kiếm người tử-tế mà gả cho cô có
đôi bạn với người ta?
- Họ thấy vợ chồng tôi nghèo, có ai dám cưới đâu mà gả.
- Nghèo mà hại gì!
- Thiệt cháu tôi nó có sắc một chút. Vợ chồng tôi cũng tính
kiếm chỗ có tiền, đặng gả cho nó nhờ. Ngặt chưa thấy ai đi nói, bây giờ tôi biết
ai đâu mà gả.
Hải-Yến nghe nói như vậy thì hiểu ý Ðỗ-Cẩm ham tiền, chàng ngồi
suy nghĩ một hồi rồi, rồi kiếm chuyện khác mà nói.
Chiều bữa ấy trời mát mẻ, Ðỗ-Cẩm đi lại đàng xóm mà chơi. Thị-Phi
thì đi ra vườn thuốc mà thăm vườn.
Hải-Yến thấy Ánh-Nguyệt ở nhà có một mình, để ý muốn ghẹo
nàng, song không biết làm sao mà khởi đầu, bèn lấy cây đờn ngồi trên ván mà đờn.
Chàng dụng tâm ghẹo Ánh-Nguyệt, nên lựa khúc tuyệt hiệu mà khơi động tình nàng.
Ánh-Nguyệt nghe đờn hay, thì nàng ngứa nghề, nên ra đứng dựa
cửa buồng làm bộ ăn trầu đặng lóng tai mà nghe. Hải-Yến thấy nàng ra, liền
ngưng đờn và hỏi rằng:
- Tôi đờn như vậy cô nghe có vừa tai cô hay không, cô hai?
Ánh-Nguyệt mắc cỡ muốn chạy vô buồng, song nàng sợ thất lễ,
nên day lại nói nghiêm chỉnh rằng:
- Dạ, thưa cậu đờn đã chắc nhịp mà ngón lại tươi quá.
Hải-Yến nghe lời dịu dàng thì khoan-khoái, mà thấy nàng khen
trúng điệu thì chưng hửng nên buông đờn hỏi rằng:
- Té ra cô biết đờn hay sao, cô Hai?
- Dạ thưa, ông thân tôi hồi trước cũng là nhà học trò, nên có
dạy tôi chút đỉnh.
- Nếu cô biết đờn, vậy thì tôi xin cô vui lòng đờn thử chơi
vài bản, được hôn?
Hải-Yến và nói và đứng dậy đưa cây đờn. Ánh-Nguyệt đưa tay mà
cản và nói rằng:
- Thưa cậu, nghề tôi vụng về, tôi đâu dám Ban-môn động phủ
[26].
Vả Hải-Yến vì thấy nhan sắc mà sanh tương-tư, chớ không dè
Ánh-Nguyệt là con nhà nho học.
Nay nghe nàng biết đờn, lại nghe nàng nói chữ nữa, thì trong
lòng càng thêm yêu chuộng, nên cứ nài-nỉ nàng đờn hoài. Nàng ái-ngại nên không
dám đờn. Chàng nói rằng:
- Bá-Nha gặp được Tử-Kỳ [27] mà chưa chịu đờn, vậy còn để chờ
ai.
Nàng biết Hải-Yến muốn ghẹo, nên thẹn mặt xây lưng đi vô buồng,
và đi và nói rằng:
- Thưa cậu, nghề tôi hèn mọn, có đáng chi mà dám sánh với
Bá-Nha.
Hải-Yến ái mộ Ánh-Nguyệt lắm, muốn thử coi ngón đờn của nàng
ra thể nào, nên Ðỗ-Cẩm đi chơi về chàng bèn nói với Ðỗ-Cẩm rằng:
- Cô hai cổ biết đờn mà nãy giờ tôi mời cô đờn chơi cô không
chịu đờn. Ðâu chú biểu cô đờn thử ít bản nghe chơi chú.
Ðỗ-Cẩm không dè Ánh-Nguyệt biết đờn, nên nghe nói như vậy,
thì chưng hửng. Anh ta ngó Hải-Yến mà đáp rằng:
- Không biết nó biết đờn hay không.
- Tôi mới hỏi, cô nói cô biết.
- Vậy hay sao?
- Phải. Cô biết đờn mà lại biết chữ nữa. Cô nói ông thân cô hồi
trước là nhà nho-học nên có dạy cô.
Ðỗ-Cẩm đứng ngó lơ-láo rồi nói trớ rằng:
- Phải. Ông già nó hồi trước cũng là học trò như cậu vậy. Có
lẽ khi ổng có dạy nó.
Anh ta nói phóng chừng chớ không dám chắc.
Thị-Phi ở ngoài sau vườn đi vô, nghe nói Ánh-Nguyệt biết đờn
thì chị ta không tin, mà cũng không dám cãi.
Hải-Yến muốn cho có chuyện đặng làm quen với Ánh-Nguyệt, nên
theo đốc riết vợ chồng Ðỗ-Cẩm biểu nàng đờn.
Thị-Phi bèn kêu Ánh-Nguyệt ra rồi nói rằng:
- Mầy biết đờn phải hôn? Như mầy biết thì đờn thử ít chập
nghe chơi.
Ánh-Nguyệt thấy Hải-Yến ngồi chong mắt ngó nàng chằng chằng
[28] thì nàng mắc cỡ, nên nói xu-xị rằng:
- Cháu hồi trước biết đờn cọt-quẹt, mà bỏ lâu quá nên còn nhớ
bài bản gì đâu.
Hải-Yến rước nói rằng:
- Không hại gì, cô nhớ câu nào thì đờn câu nấy nghe chơi.
Mình ở trong nhà, chớ phải ai xa lạ chi hay sao mà mắc cỡ.
Ánh-Nguyệt dục dặc không chịu đờn.
Thị-Phi muốn làm cho vừa ý Hải-Yến, là người mình đang nhờ cậy,
nên trợn mắt ngó Ánh-Nguyệt và nói rằng:
- Ta biểu đờn thì đờn đi, khéo làm bộ nhõng-nhẽo hoài!
Ánh-Nguyệt nghe lời nói xẵng thì sợ, nên ríu-ríu bước lại lấy
cây đờn.
Nàng cầm tới cây đờn thì nhớ thói xưa, bần hàn mà phong lưu,
rồi lại nhớ tới cha, bởi vậy nàng ứa nước mắt.
Phần thì nàng buồn bực, phần thì nàng thẹn thùa, nên nàng bước
vô trong cửa buồng rồi ngồi ghé trên đầu giường lên dây và đờn. Tuy hơn một năm
rồi nàng không rờ tới cây đờn, nhưng mà hôm nay nàng đờn chẳng chút nào lợ tay,
lại đờn luôn mấy khúc không nghe lỗi nhịp.
Bởi vì ngón đờn nàng đã tươi sẵn, mà lại thêm nàng lại đương
buồn thảm trong lòng, nên hơi đờn nghe như oán như sầu, làm cho Hải-Yến ngồi
ngoài tai lóng nghe, dạ bắt xốn xang, thậm chí vợ chồng Ðỗ-Cẩm không thông điệu
đờn mà cũng biết nàng đờn hay nữa. Nàng vừa dứt bản oán rồi, thì Hải-Yến đứng dậy
nói lớn rằng:
- Trời ơi, ngón đờn cô tuyệt diệu, mà cô nói cô biết chút đỉnh
chớ! Tôi ở trên An-Giang xuống tới đây, chưa từng nghe ai đờn bằng cô. Cô hai
ơi, mời cô ra cho tôi hỏi thăm một chút.
Ánh-Nguyệt ngồi đờn mà trong lòng nàng hoài cảm, nên nước mắt
chảy rưng-rưng.
Thình-lình nàng nghe Hải-Yến kêu, nàng lật đật lấy vạt áo lau
nước mắt, rồi cầm đờn thủng-thẳng bước ra.
Thị-Phi nghe Hải-Yến khen Ánh-Nguyệt đờn hay thì mừng, nên ngồi
ngó nàng mà cười.
Ánh-Nguyệt buồn nên sắc mặt coi càng nghiêm nghị hơn nữa. Hải-Yến
nhìn mà nói rằng:
- Người ta thường nói hễ có sắc thì có tài. Sắc cô đẹp, tự
nhiên tài cô cao, nghĩ là phải lắm.
Chẳng hiểu tại Ánh-Nguyệt khiêm nhượng nên nghe khen nàng hổ
thẹn hay là tại nàng nghi Hải-Yến muốn chọc ghẹo, nên nàng không chịu trả lời,
mà người ta nói như vậy nàng làm lơ, không nghe, cứ ôm cây đờn đem lại để trên
ván.
Hải-Yến ngó theo và nói nhỏ nhẹ rằng:
- Cô hai, dây oán của cô tôi được nghe rồi. Không dám nào cô
làm ơn đờn thêm ít bản nữa, đặng cho tôi nghe thử dây bắc với dây nam của cô
coi.
Ánh-Nguyệt đáp rằng:
- Thưa cậu, tôi học đờn nhấp nhem. Vì tôi sợ chú thím tôi rầy,
nên tôi ráng đờn thử một bản cho cậu nghe, tưởng cũng đủ rồi…
- Không, cô nói khiêm nhường chi lắm vậy! Tuy tôi đờn không
hay, song tôi cũng biết nghe chớ. Cô đờn đi, cô lấy đờn ngồi bộ ván bên kia mà
đờn; ngồi đờn ngoài nầy đặng gần tôi nghe cho dễ.
Ánh-Nguyệt dụ-dự không muốn vưng lời.
Vợ chồng Ðỗ-Cẩm thấy Hải-Yến khen ngợi mà lại quyến-luyến
quá, có lẽ muốn khuấy cho mối tơ sầu tương-tư của chàng càng thêm rối nữa, nên
ép riết, cực chẳng đã Ánh-Nguyệt phải bước tới lấy cây đờn.
Nàng ngó quanh-quất, vừa muốn đi lại phía sau lưng Thị-Phi mà
ngồi, thì Thị-Phi ngồi sụt lại rồi biểu nàng ngồi trước mặt.
Lúc ấy trời đã chạng vạng tối rồi. Con gà mái dắt một bầy gà
con đi vô nhà kiếm chỗ mà ngủ, nên kêu nhau chéo-chét. Ðỗ-Cẩm thổi lửa đốt đèn
rồi đem để giữa ván, dựa bên chỗ Ánh-Nguyệt ngồi.
Ánh-Nguyệt ôm cây đờn mà lên dây. Bóng đèn chấp-chóa, mái tóc
phất-phơ, tiếng đờn rỉ-rả nghe như khêu dạ ghẹo tình, ngón tay dịu dàng thấy bắt
lưng tròng liếc mắt.
Hải-Yến ngồi bộ ván bên kia, tai thì lóng nghe tiếng đờn, mắt
thì liếc nhìn không mỏi, mà trí thì mẩn-mê mê mẩn, bởi vậy ngồi tại đây, nghe ở
đây, dòm ở đây, mà bụng lại nghĩ việc gì ở đâu.
Ánh-Nguyệt đờn bài bắc, thì giọng đờn nghe thanh nhã, như trời
xuân gió mát, nước đổ non cao; đến chừng nàng đờn qua dây nam, thì lại nghe hơi
thảm sầu như tiếng oanh tìm ổ, tiếng nhạn lạc bầy, khiến cho người trong nhà ai
cũng đau lòng xót dạ.
Ánh-Nguyệt đờn vừa dứt thì Hải-Yết chắt lưỡi nói rằng:
- Cô đờn thiệt hay quá! Tôi khen thiệt chớ không phải tôi vị
mặt cô. Tôi không dè trong chốn thảo-lư nầy mà có người tài sắc đến bực như cô
vậy. Ngón đờn của cô tuy tươi song có lẽ cũng có người tươi bằng, chí ư cái hơi
thê-thảm bàng-hoàng thì không dám chắc có một anh tài-tử nào bì kịp.
Nàng đứng dậy nói khiêm nhượng rằng:
- Thưa cậu, hổm nay cậu đờn mấy lần, tôi nghe cũng thiệt là
hay, thuở nay tôi chưa nghe ai đờn hay bằng. Cậu khen tôi chi quá vậy.
- Không, tài của tôi đâu dám bì với cô. Nếu cô đờn hay như vậy,
có lẽ khi cô cũng biết làm thi làm phú nữa chớ?
Ánh-Nguyệt vì chịu lỡ biết đờn, nàng đã nhọc lòng cực trí tự
nãy tới giờ rồi, nàng thất kinh, không dám chịu biết làm thi nữa, nên nghe hỏi
tới đó, nàng liền đáp rằng:
- Thưa cậu, thân tôi nghèo cực phải lo làm ăn; hồi nhỏ ông
già tôi dạy chút đỉnh vậy thôi, chớ có ngày giờ đâu mà dạy tới biết làm thi,
làm phú.
Nàng nói rồi liền bỏ đi xuống nhà sau.
Hải-Yến ngó Ðỗ-Cẩm và nói rằng:
- Cô hai đờn hay thiệt đa chú. Tài cô giá đáng ngàn vàng. Chú
thím có phước lắm, mới có được một người cháu như vậy. Xin chú thím đừng có bắt
cô làm công việc cực khổ tội nghiệp.
Ðỗ-Cẩm cười và đáp rằng:
- Vợ chồng tôi không biết đờn, nên có hiểu nó đờn hay dở gì
đâu. Có cậu nói đây mới hay chớ. Vọ chồng tôi nghèo, con cháu nó phải làm việc
trong nhà, chớ phải là giàu có chi hay sao mà để nó ở không cho được.
Hải-Yến ngồi lơ-lửng, không nói chi nữa hết.
Vợ chồng Ðỗ-Cẩm thấy khuya rồi nên gài cửa đi ngủ.
Hải-Yến tính lấy sách ra đọc, song ngồi ngó ngọn đèn rồi
trong dạ bâng-khuâng hoài.
Chàng ngồi lặng thinh, nghe hai vợ chồng Ðỗ-Cẩm nằm trong buồng
nói chuyện xầm xì, rồi một lát nghe tiếng Ánh-Nguyệt ho nho nhỏ. Chàng mài mực
rồi lấy giấy viết, tính làm một bài thi để dọ tình ý Ánh-Nguyệt chơi.
Chàng tính như vậy, mà chừng cầm viết mới tả có một câu
“Ðào-nguyên lạc bước gặp tiên nga”, rồi chàng lại nghĩ rằng nàng nầy nói biết đờn
chút đỉnh, mà rồi nàng đờn hay hơn mình.
Hồi nãy nàng nói không biết làm thi, mình chẳng nên tin. Mình
làm thi không được tao nhã. Nếu mình đưa thi cho nàng mà nàng chê thì khổ. Ở một
nhà cần gì phải nói xa nói gần. Ðể mình làm quen nói chuyện lần lần, rồi đợi bữa
nào nàng ở nhà một mình, thì mình tỏ đại tình ý của mình cho nàng biết cũng được
mà.
Nàng là con nhà nghèo, mình học giỏi lại có tiền bạc nhiều,
có lý nào mình nói mà nàng không xiêu lòng.
Chàng tính như vậy rồi dẹp giấy mực tắt đèn nằm ngủ.
Chú Thích :
[21] giả gạo với chày tay
[22] ủ dột, có nét buồn
[23] gốc cây lớn: chim xa rừng thương cây nhớ cội
[24] xiêu vẹo
[25] thừa ra, dư ra
[26] múa búa trước cửa Lỗ Ban: Lỗ Ban là tổ sư của ngành mộc,
không ai có nghệ thuật dùng búa bằng ông. Thành ngữ nầy ý nói là không dám khoe
tài nghệ trước mặt người tuyệt giỏi.
[27] hai người bạn tri âm đời Xuân Thu
[28] không rời, không dứt
CHƯƠNG 7 - QUYỂN II - NÁT THÂN BỒ LIỄU
H
ải-Yến tưởng dễ kết tư tình với Ánh-Nguyệt, té ra khó không
biết chừng nào.
Chàng muốn thấy mặt nàng luôn luôn, mà mỗi ngày nàng cứ ở nhà
sau hoài, ít hay lên nhà trên.
Ðã vậy mà nàng có lên, hễ chàng kiếm chuyện mà nói với nàng,
thì chàng hỏi đâu nàng đáp đó, bộ nàng nghiêm nghị, chẳng hề khi nào nàng cười,
nên chàng không dám nói tiếng lẳng-lơ ghẹo chọc.
Vợ chồng Ðỗ-Cẩm lại dặn dò với nhau làm sao không biết, mà hễ
chồng đi khỏi thì vợ ở nhà, còn vợ đi khỏi thì chồng ở nhà, chẳng hề khi nào vợ
chồng đi với nhau một lượt.
Hải-Yến từ khi biết Ánh-Nguyệt đờn hay, từ khi thấy nết na
nàng dè-dặt, thì chàng càng thêm quyến luyến, càng ước mơ hoài vọng đêm ngày.
Chàng bị vợ chồng Ðỗ-Cẩm ngăn trở, làm cho chàng không trao lời ước hẹn với
Ánh-Nguyệt được, thì chàng buồn rầu ăn ngủ không biết ngon. Mỗi buổi tối chàng
mời Ánh-Nguyệt đờn chơi, nàng từ hoài không chịu đờn, mà vợ chồng Ðỗ-Cẩm cũng
không chịu ép uổng.
Hải-Yến ở trong nhà Ðỗ-Cẩm đã hơn một tháng rồi, mà chàng
cũng chưa kết mối tình với Ánh-Nguyệt được, thì chàng bực bội quá, chịu không
được, nên một bữa nọ chàng thấy Thị-Phi với Ánh-Nguyệt dắt nhau xuống rạch mà
xúc tép, có một mình Ðỗ-Cẩm ở nhà, chàng mới tỏ thiệt với Ðỗ-Cẩm rằng chàng thấy
tánh tình và tài sắc Ánh-Nguyệt chàng thương, nên xin Ðỗ-Cẩm gả nàng cho chàng
đặng phỉ tình hoài vọng.
Ðỗ-Cẩm ngồi lặng thinh một hồi rồi nói rằng:
- Biết nó ưng cậu hay không? Tôi nói thiệt với cậu, vợ chồng
tôi nuôi nó là có ý để sau lựa chỗ giàu có mà gả nó đặng vợ chồng tôi nương nhờ.
Nếu tôi gả cho cậu rồi làm sao? Cậu học giỏi thiệt, mà chừng nào cậu thi đậu
làm quan rồi sẽ hay, còn bây giờ vợ chồng tôi lấy cơm đâu mà ăn.
Hải-Yến cười và đáp rằng:
- Chú không hiểu, chớ ông thân tôi là một người cự phú trên
An-Giang. Nếu chú tính gả cho con nhà giàu thì tôi đây lại thua ai hay sao.
- Chẳng dấu cậu làm chi, phận tôi nghèo cực, nên tôi coi bạc
tiền là trọng. Nếu cậu muốn cưới cháu tôi thì cậu phải đem cho đủ 10 nén bạc
tôi mới gả, chớ thiếu một nén cũng không được.
Hải-Yến nghe nói như vậy thì mừng quýnh, lật-đật mở tráp lấy
ra 10 nén bạc đem để trong khay trầu dựa bên chỗ Ðỗ-Cẩm ngồi mà nói rằng:
- Thưa chú, trong vợ chồng phải lấy tình lấy nghĩa làm trọng,
chớ không phải lấy bạc tiền. Tuy vậy mà cũng phải làm cho đủ lễ. Phận tôi ở xa
xuôi, không thế nào làm cho đủ lễ được. Vậy vưng theo lời chú dạy, nên tôi tạm
10 nén bạc làm lễ mọn mà cưới cô hai đây. Chú mà nhậm lời, thì ơn nghĩa càng trọng
lắm.
Ðỗ-Cẩm thấy 10 nén bạc thì mừng nên ngồi liếc ngó và chúm
chím cười hoài. Cách một hồi lâu anh ta mới nói:
- Cậu đã đem lòng thương cháu tôi, không lẽ tôi làm eo xách
không gả cho cậu. Thôi, để tôi cất bạc đó, cháu tôi về tôi sẽ nói lại nó hay, rồi
cậu chọn ngày nào tốt làm một con vịt mà cúng đặng vợ chồng thành hôn với nhau,
đừng có làm rình-rang làm chi cho tốn hao.
Hải-Yến mừng rỡ hết sức, trong bụng đã chắc rằng trong năm ba
ngày nữa mình sẽ giao duyên với Ánh-Nguyệt, sắc cầm hòa hiệp, loan phụng đồng
sàng, chẳng còn ngày ngóng đêm trông, hết nỗi nhớ mây thương gió.
Chừng Thị-Phi với Ánh-Nguyệt xúc tép về, Hải-Yến muốn để cho
Ðỗ-Cẩm thong thả mà nói chuyện với vợ và cháu, nên chàng thay đổi áo quần đặng
đi vô trong thành dạo chơi.
Trước khi ra đi, chàng lại dặn nếu chiều chàng không về thì ở
nhà cứ việc ăn cơm, đừng có chờ đợi.
Ðỗ-Cẩm đợi Thị-Phi với Ánh-Nguyệt tắm rửa xong rồi, anh ta mới
kêu hết ra nhà trước mà nói chuyện. Anh ta ngồi ván giữa bộ nghiêm chỉnh lắm,
liếc ngó Ánh-Nguyệt, tằng-hắng hai ba tiếng, rồi nói rằng:
- Nầy cháu, vợ chồng chú không có con; cháu ở đây hơn một năm
nay, vợ chồng chú thương yêu cũng như con ruột. Chú thấy thân cháu nghèo hèn
côi-cút, nên xưa rày chú đã có ý muốn kiếm một chỗ tử-tế mà gả dùm cháu, đặng
cho cháu có chỗ nương dựa yên ổn tấm thân. Dịp cũng là may, cậu Hải-Yến đến ở đậu
trong nhà mình hơn một tháng nay, cậu muốn cháu mà chú không hay. Bữa nay cháu
đi xúc tép, cậu ở nhà tỏ thiệt với chú đứng làm mai-dong đặng cậu cưới cháu.
Chú đã có hỏi dọ rồi, cậu là con nhà cự-phú trên tỉnh
An-Giang, cậu đã giàu mà lại học giỏi, thế nào khoa tới đây cậu thi cũng đậu.
Chú tưởng người như cậu đó, cháu cũng nên cầu mà gởi phận trao thân. Vậy cháu
ưng cậu đi, đặng chọn ngày cộng phẩm giao bôi cho sớm. Lúc nầy cậu còn làm học
sanh thì cháu sửa tráp nưng khăn cho cậu; chừng cậu thi đậu rồi bổ đi làm quan,
thì cháu lại được làm bà quan, có người hầu hạ sang trọng sung sướng quá. Cháu
ưng đi nghé.
Ánh-Nguyệt đứng nghe Ðỗ-Cẩm nói thì nàng châu mày ủ mặt,
trong trí nàng lo tính vô cùng.
Ðỗ-Cẩm ngó nàng, có ý đợi coi nàng trả lời thế nào. Còn Thị-Phi
thì ngó chồng, có ý muốn biết coi Hải-Yến nói làm sao mà chồng xúi giục như vậy.
Ánh-Nguyệt ngẫm nghĩ một hồi lâu rồi nói rằng:
- Thưa chú, chú thím có lòng thương cháu, nên tính việc trăm
năm cho cháu, thiệt cháu cảm ơn đức vô cùng. Còn cậu Hải-Yến là con nhà nho-học,
nếu cậu chiếu cố đến cháu thì cháu cũng đội ơn cậu lắm. Tuy vậy mà cháu xét phận
cháu, thì cháu có chỗ buồn riêng, nên cháu không thể xuất giá được.
Ðỗ-Cẩm nghe lời trái ý mình, thì không vui, nên hỏi rằng:
- Tại sao mà cháu xuất giá không được?
- Thưa, ông già cháu mất chưa mãn tang, nếu cháu lấy chồng
thì cháu là con bất hiếu.
- Ối, tưởng là chuyện gì kìa, chớ thứ chuyện như vậy hơi nào
cháu lo.
- Thưa, con người phải lấy lễ nghĩa làm trọng, sao chú lại biểu
đừng lo.
- Ổng chết rồi thì thôi! Cháu lo thủ hiếu rồi ổng sống lại được
hay sao?
- Ðạo làm con phải giữ hiếu cho tròn. Nếu cháu thất hiếu với
cha cháu, thì khi có chồng cháu làm sao mà trọn tiết với chồng được.
- Cậu Hải-Yến có nói cậu không cần.
- Cậu là con nhà nho-học, cậu biết lễ nghĩa lắm, có lẽ nào cậu
nỡ ép cháu mang chữ bất hiếu. Mà dầu cậu có quên lễ nghĩa đi nữa, phận cháu là
con, cháu phải nhớ chớ đâu dám quên.
- Lễ nghĩa mà làm gì! Hễ có tiền thì thôi mà! Nầy cháu, cậu Hải-Yến
đi du-học mà coi bộ cậu tiền nhiều lắm. Cháu ưng cậu, chắc cháu ăn mặc phủ phê,
cháu ưng đi. Nếu cháu dục dặc chờ cho tới mãn tang, biết đâu cậu còn ở đây hay
không. Hễ cậu không chờ, cậu đi cưới vợ khác rồi chừng cháu mãn tang, đâu chắc
có chỗ tử-tế như vậy nữa.
Thị-Phi xen vô nói rằng:
- Tôi coi bộ cậu mê con nầy lắm, nhứt là từ hôm cậu nghe con
nầy đờn tới nay, cậu quấn quýt. Tôi chắc cậu không đi cưới chỗ nào khác đâu mà
sợ.
Ðỗ-Cẩm trợn mắt ngó vợ mà nói rằng:
- Mầy biết giống gì mà xen vô. Cứ nói bậy hoài.
Thị-Phi bị rầy thì xụ mặt, bỏ đi lại ghế têm trầu mà ăn.
Ðỗ-Cẩm day qua nói với Ánh-Nguyệt nữa rằng:
- Chú nói cháu phải nghe lời, đừng cãi chú giận.
- Thưa chú, cháu đâu dám cãi chú, song việc nầy cháu liệu
không thế nghe lời chú được. Vả việc lấy chồng là việc trọng. Tuy nay ông già
cháu đã mất rồi, song cháu còn một ông chú ở dưới Cần-Ðước. Ví dầu cháu muốn lấy
chồng thì trước hết cháu phải về dưới mà thưa cho ông chú hay, như ông chú bằng
lòng thì cháu mới dám, chớ cháu tự chuyên như vậy sao phải.
- Nhiều chuyện quá! Mình đã lớn rồi, việc của mình thì mình định,
chớ hỏi chú bác làm gì.
- Thưa trong thân tộc của cháu bây giờ còn có một ông chú với
một ông cậu; cháu là con nhà lễ nghĩa, lẽ nào cháu lấy chồng mà không thưa cho
thân tộc hay.
- Thân tộc! Thân tộc! Cứ nói thân tộc hoài, nghe mà mắc cỡ.
Có thân tộc mà sao thiếu người ta có 30 quan tiền, thân tộc không cho mà trả,
bây giờ lấy chồng lại phải thưa với thân tộc hay?
Ánh-Nguyệt liếc thấy Ðỗ-Cẩm đổ quạu, nàng không dám nói nữa,
nên đi lại góc mà đứng, sắc mặt coi buồn lắm.
Ðỗ-Cẩm gãi đầu hai ba cái, rồi đi lại ghế têm trầu mà ăn.
Cách một hồi, anh ta nói rằng:
- Bề nào mầy cũng phải ưng cậu Hải-Yến. Nếu mầy cãi lời thì mầy
sẽ coi tao. Thôi đi xuống bếp rang tép rồi nấu cơm ăn.
Ánh-Nguyệt ríu-ríu xuốn bếp.
Thị-Phi bước lại đứng một bên chồng. Hai người nói to nhỏ với
nhau một hồi, và nói và ngó chừng phía dưới bếp, rồi Ðỗ-Cẩm mở gói đưa 10 nén bạc
cho vợ coi. Thị-Phi mừng rở, tay vịn vai chồng, miệng chằng [29] ra phơi hai
hàm răng đen chơm chởm [30] . Ðỗ-Cẩm gói bạc lại rồi đem vô buồng mà cất, còn
Thị-Phi đi xuống bếp phụ với Ánh-Nguyệt nấu cơm, mà mắt ngó nàng lườm-lườm.
Hải-Yến từ được lời Ðỗ-Cẩm hứa gả cháu, thì lòng mừng hớn-hở
bởi vậy ra đi chơi chơn bước khấp-khởi, sắc mặt hân hoan.
Mấy cây bần rạch mọc dưới ruộng, gốc đóng bùn, lá còi-cọt, mà
mắc[31] chàng vui nên chàng xem cũng xinh đẹp như liễu yếu mai cần.
Chàng vào trong thành rồi chàng muốn lộ lòng mừng của chàng
cho thiện-hạ biết, nên vào quán ăn uống no say rồi lại ngâm thi đọc phú om-sòm,
coi giữa thế gian nầy chẳng có ai được hạnh phước bằng chàng hết thảy.
Ðến chạng-vạng tối, chàng mới trở về xóm Trầu.
Bữa ấy nhằm ngày 13 tháng chạp, nên trăng đã mọc cao được vài
sào. Trên trời sao giăng tứ phía, bên đường lúa chín vàng khè, dưới chơn tiếng
dế gáy re-re, trước mặt gió bấc lạnh-lạnh. Trong bụng chàng còn chứa rượu nên
hơi bay nực nồng, mà trong trí chàng lại đầy hình dung của Ánh-Nguyệt, nên
chàng không biết cảm trăng thanh gió mát.
Chàng bước vô tới sân thì thấy Ðỗ-Cẩm đứng đó, còn trong nhà
vắng teo, lại không đèn đuốc chi hết.
Chàng bèn hỏi Ðỗ-Cẩm rằng:
- Chú làm gì đứng đây? Sao bữa nay không đốt đèn? Như hết tiền
mua dầu thì nói, tôi đưa cho mà mua chớ.
- Vợ tôi với con Ánh-Nguyệt ngủ hết, đốt đèn làm gì cho hao dầu.
Tôi thấy bữa nay trời tốt quá, nên ra đứng đây chơi.
- Ờ, phải a, trời bữa nay tốt thiệt chú há?
- Cậu ăn cơm rồi chưa?
- Rồi rồi. Chú ở nhà có chờ tôi hôn? Tôi có dặn đừng có chờ
mà.
- Tôi chờ tới mặt trời lặn, không thấy cậu về tôi mới ăn.
- Bất nhơn dữ hôn! Tôi có nói mà!
Ðỗ-Cẩm nắm tay áo Hải-Yến mà kéo ra ngoài đường.
Hải-Yến nghi Ðỗ-Cẩm muốn tỏ việc kín chi đây, nên ríu-ríu đi
theo, không hỏi chi hết.
Ðỗ-Cẩm ngồi dựa gốc cây thị, biểu Hải-Yến ngồi ngay trước mặt
rồi nói nhỏ nhỏ rằng:
- Không xong rồi cậu! Con nhỏ nó không ưng.
- Sao vậy?
- Ôi! Nó nói nhiều chuyện lắm. Nó nói những là còn tang cha,
những là phải thưa cho bà con bên nội bên ngoại hay, nói lộn-xộn tôi nhớ không
hết.
- Cha chả! Chú phải làm sao, chớ nói như vậy sao được. Tôi
nói thiệt, dầu thế nào tôi cũng phải kết tình ân ái với cô cho được mới nghe.
Chú phải liệu dùm một chút.
- Tôi biết làm sao bây giờ?
- Chú ép đại cô thì được chớ có khó gì.
- Tôi có làm giận làm hờn, tôi rầy nó, mà coi bộ nó cũng
không chịu.
- Sao chú không nói tôi là người giàu có lớn, học hành giỏi?
Chú cắt nghĩa lợi hại cho cô nghe thì cô phải ưng, chớ cô còn đợi ai nữa.
- Tôi có nói chớ, tại nó kỳ quá, cứ không chịu hoài, tôi biết
làm sao?
- Hay là cô có tư tình với ai rồi?
- Không có đâu! Nó ở với tôi hơn một năm nay tôi có thấy mòi
gì đâu.
Hải-Yến hết say, ngồi ngẫm nghĩ một hồi lâu rồi nói rằng:
- Nếu chú thím có lòng thương tôi, quyết gả cô hai cho thôi
thì tôi tính được như chơi, không khó gì đâu.
- Tính sao?
- Chú cho phép tôi ghẹo chọc cô. Cô là gái mới lớn lên, hễ
con trai đờn riết rồi cô ta xiêu lòng chớ gì. Vậy mỗi bữa chú thím giả bộ dắt
nhau đi xóm, để cô ở nhà với tôi. Tôi kiếm lời khôn khéo mà dụ riết cô ít bữa
chắc là được.
- Làm như vậy xóm riềng dòm thấy thì xấu hổ cho tôi quá.
- Có xấu chi đâu. Bề nào chú cũng gả cho tôi, trước sau gì
cũng vậy, có sao đâu mà chú ngại.
Ðỗ-Cẩm ngồi lặng thinh không trả lời. Hải-Yến nói rằng:
- Xin chú đừng ngại chi hết. Hễ tôi mà được ăn nằm với cô Hai
rồi tôi sẽ đền ơn cho chú thím năm nén bạc nữa.
Ðỗ-Cẩm nghe nói như vậy thì vui cười, liền phủi đít đứng dậy
mà nói rằng:
- Cậu thương nó quá, nên cậu đã nói cạn lời; thôi cậu nói sao
tôi phải nghe vậy, chớ biết sao bây giờ.
Hai người dắt nhau vô nhà.
Ðỗ-Cẩm gài cửa rồi vô buồng mà ngủ, còn Hải-Yến thì đốt đèn rồi
ngồi đờn và ngâm thi.
Hai vợ chồng Ðỗ-Cẩm nói chuyện xầm-xì, không ai nghe được.
Hải-Yến ngâm thi thì lựa những bài trêu hoa ghẹo nguyệt,
trông bạn nhớ tình.
Không biết Ánh-Nguyệt ngủ hay là thức, mà nàng im-lìm không
nghe cục cựa.
oOo
Sáng bữa sau, ăn cơm rồi, vợ chồng Ðỗ-Cẩm rủ nhau đi nhổ lạt
đặng chẻ phơi khô mà dệt chiếu, dặn Ánh-Nguyệt ở nhà ra sau vườn thuốc coi có
lá nào úa, hoặc sâu ăn thì bẻ mà bỏ cho sạch sẽ.
Vợ chồng Ðỗ-Cẩm vừa ra sân mà đi, thì Ánh-Nguyệt cũng đội
khăn đi ra sau vườn thuốc.
Nàng lum-khum vạch mấy lá thuốc kiếm sâu, trong trí đương
tính một lát nữa sẽ đi thẳng ra thăm mộ cha, thình lình nàng thấy có bóng người
dọi dưới đất, gần một bên cái bóng của nàng.
Nàng lật-đật ngước dậy, thì thấy Hải-Yến đứng một bên, miệng
cười chúm chím, mắt liếc đưa tình.
Nàng mắc cỡ bỏ đi qua hàng thuốc khác.
Chàng đi theo, đứng xẩn-bẩn sau lưng, rồi lại nói rằng:
- Tài sắc giá đáng ngàn vàng, mà phải đi làm công việc hèn hạ
như vầy, nghĩ thiệt tội nghiệp quá.
Nàng không trả lời, bỏ đi chỗ khác nữa.
Chàng thấy nàng mái tóc phất phơ trên gò má như mây vướng mặt
nguyệt, thì trong lòng càng khoăn-khoái nên và đi theo và kêu mà nói nho nhỏ rằng:
- Cô hai, cô đứng lại cho tôi nói chuyện một chút.
Ánh-Nguyệt đứng lại, ngó ngay chàng mắt tợ trăng rằm, mặt như
hoa nở, sắc thiệt là xinh đẹp, song bộ đứng nghiêm nghị lắm.
Hải-Yến quyết ghẹo nàng mà thấy tướng mạo nàng đoan chánh như
vậy thì kiêng nể, nên đứng bợ ngợ rồi nói nhỏ-nhẹ rằng:
- Tôi vì mang nặng khối tình nên mới đến đây xin ở đậu. Chẳng
hiểu vì cớ nào cô đã không chiếu cố, mà ý coi như cô chẳng vui mà thấy mặt tôi
vậy cô hai?
Ánh-Nguyệt đáp rằng:
- Thưa cậu, cậu là bực sang trọng, còn tôi là đứa nghèo hèn,
bổn phận tôi phải kính sợ cậu, chớ nào phải tôi cao sang hơn cậu hay sao mà cậu
nài cho tôi chiếu cố. Còn tôi thấy cậu mà tôi vui hay là buồn, thì tại trong bụng
tôi, cậu làm sao rõ được mà cậu hỏi.
Hải-Yến nghe như vậy, tưởng nàng muốn nói trớ-trêu nên cười
ngỏn-nghẻn mà nói rằng:
- Cô nhớ hôm bữa nọ tôi đi chơi, tình cờ gặp cô quét sân, hai
đứa mình nhìn nhau đó. Chẳng hiểu tại tôi có cái duyên nợ gì hay sao mà trở về
quán tôi xốn-xang thao thức hoài, ăn không ngon, nằm không ngủ, ngày như đêm
hình dung của cô cứ chàng-ràng trước mắt tôi luôn luôn. Tôi nói hết cho cô
thương, tôi bỏ ăn, bỏ ngủ, bỏ học, bỏ đờn, trong lòng vấn-vít, tương tư cô
hoài. Tôi muốn làm lảng, mà hễ giả quên cô chừng nào, trong trí lại càng nhớ cô
chừng nấy. Khổ tâm quá tôi chịu không được, nên mới làm gan đến đây xin ở đậu,
đặng ra vô thấy mặt nhau.
Hải-Yến nói tới đây thì thở dài, coi bộ buồn thảm lắm, rồi ngồi
chồm-hổm dưới đất.
Ánh-Nguyệt vói tay níu lá thuốc lật qua lật lại mà nhìn, song
nàng đứng tỉnh táo, lóng tai nghe coi chàng nói chuyện gì nữa.
Hải-Yến thấy vậy chắc nàng đã gần xiêu lòng rồi, nên nói tiếp
rằng:
- Tôi tưởng được ở chung một nhà với cô tôi bớt buồn rầu
thương nhớ, nào dè gần nhau, ra vô thấy nhau thì lửa lòng càng thêm hừng-hực,
có khi nó làm cho trí tôi bối-rối như dại như ngây. Tôi biết được tánh nết của
cô, tôi càng yêu mến cô hơn nữa, mà nhứt là tôi nghe được tiếng đờn, giọng nói,
rồi tôi rõ gốc cô là con nhà nho, thì tôi quyết thế nào tôi cũng phải kết tóc
trăm năm với cô. Bởi tôi thương cô quá, không còn biết mắc cỡ nữa, nên hôm qua
tôi mới tỏ thiệt với chú và xin cưới cô, đặng phỉ tình hoài vọng rồi mới yên
lòng mà lo đọc sách được. Tôi xin cô tỏ thiệt cho biệt coi vì cớ nào tình tôi
thương cô như vậy, mà cô không đoái tưởng, lại kháng cự không chịu ưng tôi. Tôi
chắc nếu cô phụ lòng tôi thì tôi rầu buồn chẳng những là học không được phải lỡ
hội công danh, mà sợ sanh bịnh rồi bỏ mình nơi đất Gia-định nầy nữa.
Chàng và nói và lấy móng tay gạch đất, bộ coi buồn thảm vô
cùng.
Ánh-Nguyệt đợi chàng nói dứt rồi, nàng mới chúm chím cười mà
đáp rằng:
- Cậu là học trò du học, lẽ thì ngày đêm cậu phải để trí vào
kinh sử luôn luôn, quyết lập cho được công danh mà làm hiển vinh tổ phụ chớ sao
cậu lại cố ý dòm hoa ngó nguyệt làm chi mà đến nỗi thương gió nhớ mây như vậy?
- Tại ông trời khiến như vậy, tôi biết làm sao bây giờ.
- Cậu chẳng nên đổ lỗi cho ông trời. Tại cái trí của cậu
không kiên nhẫn, tại cái lòng của cậu hay trớ-trêu, chớ không phải tại ông trời
nào hết.
- Thôi, như không phải tại ông trời, thì là tại cô.
- Sao mà tại tôi?
- Thuở nay không phải là tôi không thấy con gái, mà sao tôi
thấy người ta tôi không chút động tình, đến chừng gặp cô tôi lại tương-tư, dường
ấy không phải là tại cô hay sao?
- Cậu thiệt là lanh lợi!
- Không phải đâu cô hai. Thuở nay tôi ít ăn ít nói lắm chớ.
Không hiểu tại sao bữa nay tôi được nói chuyện với cô, rồi ông thần-khẩu của
tôi ổng giục cho tôi phải nói hết cho cô nghe. Những lời tôi nói với cô nãy giờ
đó là lời tâm-huyết, chớ không phải lời phỉnh phờ đâu. Nếu cô không tin thì để
ngày sau đôi ta kết tóc với nhau rồi cô sẽ biết.
- Cậu phải lo đèn sách, chớ đừng có lo chuyện ngoài không
nên.
- Nếu tôi không kết tóc với cô được thì có vui vẻ chi đâu mà
lo xem sách. Xin cô thương dùm thân tôi. Cô mà phụ lòng tôi, thì dầu cô không
có ý hại tôi đi nữa, tức nhiên cô cũng có tội, vì cô muốn cho tôi buồn rầu học
không được rồi lỡ hội chơi, nên cô mới phụ tôi. Cô cũng là con nhà nho-học, tôi
chắc cô không nỡ làm điều độc ác đến thế, phải không cô hai?
Ánh-Nguyệt châu mày, cúi mặt ngó xuống đất bộ nàng suy nghĩ lắm.
Hải-Yến liếc ngó nàng, trong bụng mừng thầm, có ý đợi coi
nàng nói thế nào. Cách một chút nàng nói rằng:
- Tôi xét phận tôi, nên tôi không thế nào ưng được. Tôi đã
nói với chú Ðỗ-Cẩm rồi, vậy chớ chú không có nói lại cho cậu nghe hay sao?
- Không. Cô nói làm sao đó?
- Tôi đã nói với chú, nếu tôi ưng cậu thì tôi phải mang ba điều
lỗi lớn. Thứ nhứt: ông thân tôi mất chưa mãn tang, nếu tôi lấy chồng thì tôi
mang chữ bất hiếu. Thứ nhì: tuy tôi mồ côi, song tôi còn một ông chú với một
ông cậu; nếu tôi lấy chồng mà không thưa cho thân tộc hay thì ai gọi tôi là con
nhà lễ nghĩa. Thứ ba: cậu là con nhà học trò, đương xôi kinh nấu sử mà chờ khoa
thi, nếu tôi cộng chẩm đồng sàng [32] làm cho cậu rối rắm lảng lơ đèn sách, thì
tôi tưởng tôi cũng có tội với thánh hiền lắm. Vậy xin cậu hãy giữ lòng thanh tịnh
mà lo bề đèn sách, chẳng nên tưởng nguyệt nhớ hoa mà lỗi với cha mẹ và lụy thân
tôi tội nghiệp.
Hải-Yến ngồi nghe nàng nói, giọng lảnh lót như hồi đờn, ý ôn
hòa như bài giảng, bởi vậy chàng mê mẩn tâm thần, muốn xen mà cải, song sợ nàng
không nói nữa, nên phải dằn lòng lặng thinh mà nghe.
Chừng nàng nói dứt rồi, chàng mới ngước mặt lên hỏi rằng:
- Cô nói còn một ông chú với một ông cậu, nếu muốn lấy chồng
thì phải thưa trước mới dám. Hai ông ở đâu? Chú Ðỗ-Cẩm chịu thì đủ rồi, cần gì
phải thưa cho đủ mặt bà con thân tộc.
- Chú Ðỗ-Cẩm có bà con gì với tôi đâu.
- Ủa! Nếu không phải bà con, sao cô lại ở đây? Cô gạt tôi chi
vậy cô hai? Chú đã nói thiệt gia đạo của cô cho tôi biết hết. Chú nói chú là
chú ruột của cô mà.
- Thưa, không. Chú nói dối với cậu đa. Ông thân tôi khoa trước
lên ở đậu tại nhà chú mà thi, rủi đau rồi bỏ mình, làm tốn hao của chú hết 30
quan tiền. Tôi nghèo nàn không có tiền mà trả. Chú đến quan chú kiện tôi. Quan
bắt tôi phải ở đợ với chú đây chớ.
Hải-Yến nghe nói chưng hửng, vùng đứng dậy, mắt ngó Ánh-Nguyệt
trân-trân.
Ánh-Nguyệt xây lưng đi qua vồng thuốc khác. Hải-Yến đứng ngó
theo.
Chẳng hiểu vì chàng nghe nàng nói nàng ở đợ với Ðỗ-Cẩm chớ
không phải là cháu, thì chẳng biết kiêng nể chi nữa, hay là tại chàng ngó theo,
thấy dáng đi yểu-điệu, chàng động lòng, mà nàng đi vừa được một chục bước, gần
tới gốc cây bồ-đề lớn, chàng bươn bả chạy theo, rồi nắm cánh tay trái nàng chặt
cứng mà kéo lại gốc cây bồ-đề.
Nàng bị níu thình-lình thì thẹn thùa mà lại giận quá, nên mặt
mày đỏ tươi, cả mình run bây-bẩy, day lại ngó ngay chàng mà nói rằng:
- Cậu là con nhà học trò, chớ phải là đồ thất phu hay sao mà
cậu vô lễ như vầy. Cậu phải buông tôi ra. Buông đi, nếu cậu không buông thì tôi
làm cậu mang nhục cho cậu coi. Cậu buông hôn?
Hải-Yến miệng cười hề-hề, tay mặt cứ nắm Ánh-Nguyệt chặt cứng,
rồi tay trái lại vói muốn ôm ngang mình nàng, nàng cúi xuống luợm khúc cây mà đập
nhầu. Hải-Yến sợ trúng lổ đầu, nên lật đật buông nàng ra rồi bước thối lui hai
ba bước.
Ánh-Nguyệt chỉ cây ngay mặt chàng mà nói:
- Cậu là ăn cướp, chớ không phải học-trò. Tôi nói cho cậu biết,
tuy thân phận tôi nghèo hèn mặc dầu song tôi trọng danh giá của tôi lắm, thà là
tôi chết, chớ tôi không để cho ai làm nhơ danh tôi đâu.
Hải-Yến đứng xa-xa, mặt mày tái lét, cứ ngó nàng, chớ không
kiếm được một lời mà đối đáp. Nàng thấy vậy mới bỏ mà đi. Chàng lục-thục đi
theo và nói nhỏ-nhẹ rằng:
- Cô hai ơi, xin cô đừng có phiền. Vì tôi thương cô quá, nên
tôi quên hết lễ-nghĩa liêm-sĩ.
Ánh-Nguyệt ngoái đầu lại và cười gằn và nói rằng:
- Cậu không biết chớ không phải cậu quên.
Hải-Yến nhăn mặt đáp rằng:
- Nãy giờ cô mắng nhiếc tôi lời nặng nề lắm, nhưng vì tôi
thương cô quá nên tôi nhịn hết thảy. Cô hãy xét lại cô như vậy, còn tôi như vầy,
sao cô lại chê tôi? Tôi là con nhà cự phú ở trên An-Giang; tôi tài học lại
không nhượng ai hết. Phận cô nghèo khổ đến đỗi phải đem thân đợ cho người ta. Nếu
cô khứng kết nghĩa Châu-Trần với tôi, thì tôi ra tiền mà trả nợ, rồi tôi mướn
nhà rước cô về, vợ chồng ở với nhau, tôi sôi kinh nấu sử, cô lo sửa tráp nâng
khăn, khi buồn hòa đờn, khi vui thưởng nguyệt, dường ấy cô không sung sướng hơn
là ở đợ cho người ta như vầy hay sao? Cô phải nghĩ lại, cô xét chỗ lợi hại cho
kỹ. Tôi nói cho cô biết, tôi không nỡ làm bức cô, thì thiếu gì cách.
Nàng đứng lại đáp rằng:
- Tôi biết lắm chớ! Cậu làm đàn-ông con trai, lại có tiền bạc
nhiều, còn tôi là đàn-bà con gái lại nghèo-hèn côi-cút, cậu muốn làm hại tôi có
khó chi đâu. Tuy vậy mà thà tôi bị hại, chớ tôi không chịu để ô danh xủ tiết.
Còn cậu khoe cậu giàu có mà lại học giỏi. Thưa cậu, tuy tôi nghèo hèn, song tôi
kính trọng người biết lễ-nghĩa liêm-sĩ mà thôi, chớ không phải nghe nói giàu có
mà tôi ham, hoặc nghe nói học giỏi mà tôi sợ.
Ánh-Nguyệt nói dứt rồi quây quả đi kiếm lá thuốc úa mà bẻ.
Hải-Yến đứng ngó xuống đất mà suy nghĩ một hồi lâu lắm, rồi lần
bước thủng thẳng đi vô nhà.
Chú thích :
[29] mở rộng
[30] có nhiều đầu nhọn nhô lên
[31] vì
[32] chung gối cùng giường
CHƯƠNG 8 - QUYỂN II - NÁT THÂN BỒ LIỄU
M
ặt trời mới chếch bóng, hai vợ chồng Ðỗ-Cẩm, mỗi người vác một
bó lác, bước vô sân quăng một cái đụi dựa cửa, rồi Thị-Phi đi vòng phía bên hè
mà vô nhà sau, còn Ðỗ-Cẩm thì đi thẳng vô cửa trước.
Ðỗ-Cẩm mình mẩy lấm lem, khi bước vô nhà đứng ngó dáo-dác thấy
Hải-Yến nằm co trên ván, day mặt vô vách, bèn nói lớn rằng:
- Con Ánh-Nguyệt đi đâu mất rồi? Cậu làm giống gì mà nằm buồn
xo đó vậy cậu.
Hải-Yến day qua ngó Ðỗ-Cẩm, thiệt gương mặt coi không vui. Ðỗ-Cẩm
cười ngỏn-ngoẻn và hỏi rằng:
- Từ hồi sớm mai đến bây giờ cậu ở nhà có việc gì lạ không cậu?
Hải-Yến lồm-cồm ngồi dậy, sắc mặt thẹn-thùa, nên ngó chỗ khác
mà nói xu-xị rằng:
- Có việc gì ở đâu!
Ðỗ-Cẩm cười hề-hề rồi đi thẳng vô nhà sau rửa mình, rửa mặt,
thay áo đổi quần. Thị-Phi thấy Ánh-Nguyệt ở sau vườn thuốc lơn-tơn đi vô thì
nói rằng:
- Dữ hôn! Từ hồi tao đi đến bây giờ, mầy ở hoài ngoài vườn
thuốc hay sao? Chà, bữa nay con nầy siêng dữ bây.
Ánh-Nguyệt lặng thinh, không nói đi nói lại chi hết.
Ăn cơm chiều rồi Hải-Yến rủ Ðỗ-Cẩm đi vô trong thành chơi. Ðỗ-Cẩm
ngày nay đi nhổ lác là có ý muốn để cho Hải-Yến ở nhà thong-thả mà chọc ghẹo
Ánh-Nguyệt, chẳng dè chừng về nhà thấy Hải-Yến buồn xo, mà Ánh-Nguyệt cũng
không vui, thì lấy làm kỳ, bởi vậy Hải-Yến rủ đi vô thành chơi thì anh ta chịu
đi liền, thầm tính để ra ngoài đường rồi hỏi Hải-Yến coi ngày nay có nói chuyện
chi với Ánh-Nguyệt hay chưa. Chừng ra khỏi nhà, Ðỗ-Cẩm chưa kịp hỏi, mà Hải-Yến
hỏi trước rằng:
- Cô hai cổ nói cổ thiếu 30 quan tiền không có mà trả, nên cổ
ở đợ với chú mà trừ, chớ cổ không phải cháu của chú, phải vậy không chú?
Ðỗ-Cẩm chưng hửng, dừng bước ngó Hải-Yến và nói rằng:
- Nó nói với cậu như vậy hay sao? Phải, ông gì nó hồi trước
có thiếu tôi 30 quan tiền, mà ổng cũng có bà con với tôi, chớ phải là người
dưng hay sao. Con cháu nó bạc bẽo quá! Vợ chồng tôi thấy nghèo nàn côi-cút tôi
thương, nên đem nó về nuôi, bây giờ nó thấy cậu yêu nó, chắc có chỗ nương dựa
được rồi, nó tính phản vợ chồng tôi chớ. Con nầy lẻo-lự thiệt. Sao bữa nay hai
vợ chồng tôi đi khỏi, cậu ở nhà có ướm thử lòng nó hay chưa? Nó chịu hay không,
mà sao hồi xế tôi về cho đến bây giờ tôi coi bộ cậu không được vui vậy cậu?
Hải-Yến đáp rằng:
- Cô hai nghèo mà kiêu hãnh quá, tôi dùng đủ cách mà ghẹo cổ,
song dùng cách nào cũng không được hết thảy.
- Tôi đã nói tánh nó khó lắm mà. Cậu nói với nó làm sao rồi
nó trả lời làm sao đâu cậu thuật lại cho tôi nghe thử coi.
Lúc ấy mặt trời đương chen lặn. Hai người đi thơ-thẩn trên đường.
Gió chiều mát mẻ, màu trời trong ngần.
Hải-Yến đi chậm-chậm mà kể đủ mọi việc hồi trưa cho Ðỗ-Cẩm
nghe, không dấu một mảy nào hết. Chàng nói rồi thở dài, bộ coi não nề lắm. Còn
Ðỗ-Cẩm nghe rõ rồi thì anh ta sợ nếu Ánh-Nguyệt không ưng Hải-Yến thì anh ta
không thể ăn thêm 5 nén nữa, mà lại cũng không đòi được 30 quan tiền, bởi vậy
mà anh ta nổi giận nên nói rằng:
- Ðừng có lo, cậu để nó đó cho tôi. Mình đã tử tế với nó quá,
nếu muốn làm phách, thì tôi cho nó làm phách. Ðể tôi biểu con vợ tôi ép nó; nếu
nó còn cứng nữa, thì vợ chồng tôi hành hạ tấm thân nó cho nó thất kinh rồi tự
nhiên nó hết cứng chớ gì. Nói cùng mà nghe, nếu mình làm đủ cách mà nó làm cứng
hoài, thì tôi cho phép cậu ban đêm vô ngủ nhầu với nó, sức nó bao nhiêu mà cự với
cậu nổi, còn như nó có la làng la xóm, đi kiện đi thưa, thì vợ chồng tôi làm chứng
cho cậu, tôi nói nó thấy cậu học giỏi tiền nhiều nó muốn, cậu không chịu cậu mắng
nhiếc nó, nó mắc cỡ nên kiếm chuyện nói xấu cho cậu. Nó ở trong nhà tôi, mà vợ
chồng tôi làm chứng như vậy thì ai lại không tin.
Hải-Yến nghe Ðỗ-Cẩm nói như vậy thì mừng, nên nói rằng:
- Chú tính mưu đó hay lắm. Nếu chú sẵn lòng giúp tôi như vậy
thì có lo chi tôi ân ái với cô không được. Thiệt tôi giận cô quá, từ hồi trưa
cho đến bây giờ tôi thề dầu tốn hao tiền bạc bao nhiêu tôi cũng lấy cô cho được
tôi mới nghe. Chú ráng giúp tôi. Tôi nói thì tôi nhớ lời, hễ tôi lấy được cô rồi
thì tôi đền ơn cho chú thêm 5 nén nữa và tôi ra 30 quan tiền mà trả lại cho
chú.
Ðỗ-Cẩm nghe nói tiền bạc thì vui mừng nên rủ Hải-Yến đi riết
vô thành uống rượu chơi.
Hải-Yến cũng hết buồn, song nếu ai ngó kỹ cặp con mắt chàng
thì biết trong trí chàng lo tính lung lắm.
Chừng đi về dọc đường, Hải-Yến cứ lặng thinh ngó xuống đất mà
đi.
Ði gần tới nhà chàng níu tay Ðỗ-Cẩm đứng lại rồi nói rằng:
- Mưu của chú tính hồi nãy đó hay thiệt, song tôi coi có chỗ
chẳng tiện. Vã hồi trưa cô đối đáp với tôi, thì tôi coi cô chẳng phải là gái tầm
thường đâu. Cô có nói hai ba lần rằng thà cô chết chớ không để cho ai làm ô
danh xủ tiết cô. Cô nói mà bộ coi hẳn-hòi lắm. Cô là con nhà có học, nên tôi sợ
hễ cô nói thì cô dám làm. Nếu chú đánh đập ép-uổng cô, hoặc tôi ỷ tiền ỷ sức
làm ám sát, tôi e cô tức giận rồi tự vận đi, thì là uổng tài sắc của cô lắm. Vậy
xin chú để thủng thẳng cho tôi tính ít bữa coi. Tôi muốn òn-ĩ với cô nữa, chừng
nào không được rồi mình sẽ dùng kế.
Ðỗ-Cẩm gật đầu lia lịa và nói rằng:
- Ðược, được. Cậu muốn thế nào cũng được hết. Cậu tính làm
sao thì cậu nói cho tôi hay, tôi sẵn lòng giúp cậu luôn luôn. Tôi thấy nó làm
phách tôi giận quá.
Hai người dắt nhau về nhà.
Mấy bữa sau Ánh-Nguyệt nấu cơm nấu nước, dọn dẹp trong nhà,
làm việc ngoài vườn như thường, nàng thấy Hải-Yến nàng không thẹn thùa, không hờn
giận, mà cũng không thèm ngó. Còn Hải-Yến thấy mặt nàng thì có hơi bợ ngợ, nhiều
khi lén liếc ngó nàng mà không dám thốt một lời chi hết.
Vợ chồng Ðỗ-Cẩm thầm tính với nhau thế nào không biết, mà bữa
nào cũng bỏ đi hoài, bữa thì vợ chồng đi chung với nhau, bữa thì chồng đi một
nơi vợ đi một ngả. Hải-Yến ở nhà một mình với Ánh-Nguyệt, hễ thấy dạng nàng thì
lửa tình hừng-hực, biển ái dồi dào, song nếu muốn chọc ghẹo nàng thì mượn bài
thi hoặc dùng ngón đờn mà thôi, chớ không dám trao lời chi nữa hết.
Một buổi trưa, vợ chồng Ðỗ-Cẩm đi khỏi, Hải-Yến ở nhà với
Ánh-Nguyệt mà không dám nói chuyện với nàng, thì trong lòng buồn bực nên tính
bước ra sau vườn mà chơi. Chàng vừa đi tới chái nhà, thì thấy nàng đương đứng dựa
một bụi bông bụp, tay cầm một cái bông mà nhìn. Nàng để đầu trần, lại tóc không
chải gỡ, nhiều sợi lòng-thòng sau ót, nhiều sợi xấp xải trên trán; trời dãi nắng
trong mặt nàng, rồi màu bông bụp giọi vô nữa, làm cho nước da nàng ửng hồng-hồng,
coi thiệt là xinh đẹp.
Hải-Yến lén đứng ngó nàng trân trân, vì sợ nàng hay rồi nàng
bỏ đi vô, mất cái bức tranh “gái đẹp xem hoa tươi” đi, nên chàng không dám bước
động đất. Thình-lình nàng day qua ngó thấy chàng, nàng buông cái bông ra rồi thủng
thẳng đi vô nhà. Chàng thấy cặp mắt của nàng rất hữu tình, gương mặt của nàng
như hoa nở, tướng đi của nàng rất yểu điệu, thì trong lòng chàng bồi-hồi, muốn
bước lại chận đường mà trao lời vàng đá, song sợ nàng mắng nữa, nên mới bước một
bước rồi ngập ngừng đứng lại, không dám đi.
Nàng đã vô trong nhà rồi mà chàng còn ngẩn-ngơ ngoài hè, cách
một hồi lâu chàng ngồi chồm hổm dựa bụi chuối, vói tay níu một tàu chuối rồi
tét ra nhỏ nhỏ bỏ đống dưới đất.
Chàng ngồi đó cho đến nửa chiều, không biết chàng toan tính
việc chi, mà coi sắc mặt chàng lo lắm. Chừng chàng thấy dạng vợ chồng Ðỗ-Cẩm về
chàng mới lần bước vô nhà.
Ðêm ấy Hải-Yến nằm dàu-dàu hoài, không đọc sách mà cũng không
thấy đờn.
Bữa sau ăn cơm sớm mai rồi, chàng xách dù đi đến tối mới về.
Ðỗ-Cẩm hỏi chàng đi đâu thì chàng nói đi vô thành thăm anh em
bạn học. Chàng đi luôn như vậy cho đến 4 bữa.
Bữa chót Hải-Yến về đến nhà thì trong nhà đã đốt đèn rồi.
Chàng cất dù, cởi áo dài rồi bước ra ngoài sân mà chơi.
Ðỗ-Cẩm trông Ánh-Nguyệt ân ái với Hải-Yến cho mau đặng đòi
thêm 5 nén bạc và 30 quan tiền, mà thấy Hải-Yến đã không ve-vãn lại bỏ nhà đi
hoài, muốn thúc Hải-Yến bước riết tới, nên đi theo ra ngoài sân, đứng dựa bên
mình chàng rồi hỏi nhỏ rằng:
- Sao hổm nay cậu không tính chi hết, cứ bỏ nhà đi chơi hoài
vậy? Thôi, để vợ chồng tôi đánh ép nó cho nhé?
Hải-Yến khều tay Ðỗ-Cẩm đi thẳng ra ngoài đường cho xa nhà rồi
nói rằng:
- Hổm nay tôi tính hết sức, chớ không phải tôi đi chơi đâu.
Cô hai là con nhà nho, cô đờn hay học giỏi, chớ không phải như sắp con gái dốt
nát khác. Tôi đã xét kỹ rồi, nếu mình làm ngang chắc cô bất bình rồi hư việc của
mình đi. Vậy tôi tính phải dùng nhơn nghĩa mà dụ cô mới được. Tôi đã sắp mưu kế
xong rồi hết; vậy xin chú sáng mai, chừng ăn cơm rồi chú sai cô đi vô trong rặng
[33] rừng Bình-Lợi mà quơ củi. Hễ cô đi thì cô mắc kế tôi. Nếu chuyến nầy mà
không được nữa, thì chú đánh đập mà ép cô, chừng ấy tôi không cản nữa đâu.
Ðỗ-Cẩm không hiểu kế của Hải-Yến thể nào, nên đứng ngó
trân-trân rồi hỏi rằng:
- Mưu của cậu sắp sao đó? Sao hồi nãy cậu nói phải dùng nhơn
nghĩa mà dụ nó, rồi bây giờ cậu lại biểu sai nó đi vô rừng một mình?
- Ấy! Ðó là kế nhơn nghĩa đa.
- Hễ vô rừng thì cậu làm ngang chớ gì. Làm như vậy là kế ba
nài, chớ nhơn nghĩa gì?
Ðỗ-Cẩm nói và cười ngất. Hải Yến cũng tức cười song chàng đáp
rằng:
- Chú cứ việc sáng mai sai cô đi cho tôi.
- Tự ý cậu. Nè mà được rồi đừng có quên ơn tôi đa, nghe hôn?
- Tôi đâu dám quên.
Hai người nói rồi dắt nhau trở vô nhà tắt đèn gài cửa mà ngủ.
Sáng bữa sau, Hải-Yến thức dậy sớm ra đi, nói với vợ chồng Ðỗ-Cẩm
rằng mình vô thành mà chơi với anh em bạn học, dặn ở nhà hễ tới bữa cơm thì ăn
chớ đừng có chờ.
Khi bước ra cửa chàng quày đầu ngó Ðỗ-Cẩm và nháy mắt hai ba
cái rồi mới đi.
Ðỗ-Cẩm hối Ánh-Nguyệt nấu cơm cho sớm mà ăn. Chừng ăn cơm rồi
anh ta biểu Ánh-Nguyệt đi vô rặng rừng Bình-Lợi mót củi khô gánh về mà chụm.
Ánh-Nguyệt vưng lời, liền xăn quần xăn áo, rồi xách đòn gánh mà đi.
Nàng đi vô tới rừng rồi, kiếm lượm mấy nhánh khô vác đem về
chung một chỗ.
Một mình thẩn-thơ, tư bề vắng-vẻ, chỉ nghe chim kêu chéo chét
trong bụi và thấy gió thổi lúc-lắc đầu nhành mà thôi.
Nàng nhớ tới thân phận nàng bơ-vơ không nơi nương dựa, rồi lại
nhớ tới quê nhà, không biết bây giờ chú với cậu còn mạnh giỏi hay không, nhà cửa
bỏ gần hai năm rồi chắc bây giờ đã hư sập hết.
Nàng nhớ tới đó thì buồn-bực chịu không được; nên ngồi khoanh
tay mà khóc.
Nàng đương khóc, thình lình có năm sáu người ở trần trùi-trụi,
mặt mày hung ác, tay chơn vạm-vỡ, kẻ xách cây, người cầm mác, ở giữa rừng xông
ra, ngó thấy nàng áp chạy lại, rồi người đi đầu nói lớn rằng:
- Có con nhà ai ngộ quá bây; áp bắt nó đem về trại. May dữ
hôn, tao chưa có vợ, vậy để tao bắt con nầy làm vợ chơi.
Ánh-Nguyệt hồn phi phách tán, lật đật đứng dậy muốn chạy, mà
vì sợ run, hai chơn như ai trói, chạy không được.
Bọn ấy áp vây chung quanh. Người đi đầu biểu bắt đó, chụp nắm
hai tay Ánh-Nguyệt nhập lại rồi rút dây trong lưng ra mà buột chặt cứng.
Ánh-Nguyệt mặt mày xanh dờn, cúi lạy xin tha. Người ấy trợn mắt nạt rằng:
- Tha cái gì? Ta bắt về làm vợ, chớ ai chém giết gì hay sao
mà biểu tha.
Bọn ấy kéo xển Ánh-Nguyệt đi vô rừng.
Ánh-Nguyệt tâm thần bác loạn, không dám la, mà cũng không dám
khóc, cứ tíu-ríu đi theo.
Ði được một hồi lâu, qua khỏi rừng rồi tới trảng. Ánh-Nguyết
ngó tứ hướng không thấy nhà cửa ai hết, chỉ thấy xa xa có một chòm cây xơ-rơ mà
thôi. Bọn ấy lại dắt nàng đi qua chòm cây ấy. Khi gần tới, nàng thấy ở chính giữa
chòm cây ấy có một cái cái nhà, nàng tưởng chỗ đó là trại của chúng nó, nào dè
đi tới mới hay là cái miễu. Lúc đi ngang qua miễu, mặt trời xế bóng rồi, nàng
liếc mắt dòm vô, thấy có một người trai đương ngồi dựa gốc cây, như người đi đường
nghỉ mát.
Nàng vụt la lớn lên rằng:
- Bớ người ta, làm phước cứu dùm tôi; tôi bị bọn ăn cướp nó bắt
tôi đây nè!
Bọn ấy đứa đưa hèo muốn đập, đứa vác mác muốn chém nàng, rồi
kéo nàng mà chạy.
Nàng khóc than nghe rất thảm thiết. Nàng chạy mà quày đầu ngó
chừng coi người ở trong miễu đó có ra cứu mình hay không; nàng thấy người ấy
xách cây chạy ra rồi rượt riết theo nạt lớn rằng:
- Bọn bây không phép làm ngang bắt vợ con người ta. Bây phải
thả nàng ấy cho mau, bằng không thì ta bẻ đầu bây hết thảy.
Bọn ăn cướp đứng lại hết, rồi tên đầu đảng biểu bắt Ánh-Nguyệt
đó nói rằng:
- Thằng nào đó mà dám nói phách dữ vậy? Bây đi trước đi, để
tao ngắt họng thằng nầy rồi tao sẽ đi theo.
Tên đầu đảng cầm cây đứng mà chờ còn mấy đứa kia kéo Ánh-Nguyệt
đi. Ánh-Nguyệt đi được một khúc quay đầu ngó lại, thấy tên trai ở trong miễu với
tên đầu đảng đương đánh nhau, mà tên trai ấy bộ tướng lại giống in Hải-Yến.
Cách chẳng bao lâu tên đầu đảng té nằm sấp dựa đường, còn tên
trai ấy chạy theo kêu lớn rằng:
- Tao giết thằng đầu đảng của bây rồi, tao đố bây chạy đâu
cho khỏi tao. Bây phải thả người ta ra, nếu bây trì huỡn thì tao giết bây hết.
Ánh-Nguyệt nghe mấy lời ấy thì mừng rỡ hết sức.
Còn bọn ăn cướp đứng lại nhìn nhau, coi thất sắc hết thảy.
Chừng tên trai ấy chạy gần tới, thì bọn ăn cướp buông
Ánh-Nguyệt ra rồi chạy tản lạc hết. Ánh-Nguyệt tuy hai tay bị trói, song thấy
tên trai ấy chạy tới cứu mình, thì lật đật ngồi bẹp xuống đất khóc lạy và nói rằng:
- Nhờ có ân-nhơn cứu tôi chớ không thì tôi đã bị tay kẻ dữ rồi.
Vậy tôi xin lạy ít lạy mà đáp nghĩa cho ân-nhơn.
Nàng vừa nói tới đó thì tên trai ấy nói rằng:
- Ủa! Cô hai! Cô đi đâu mà đến nỗi lâm hại như vầy?
Ánh-Nguyệt nghe hỏi liền ngước mặt lên ngó chàng, thấy quả là
Hải-Yến, nàng chưng-hửng.
Hải-Yến biểu nàng đứng dậy, chàng lật-đật mở trói cho nàng rồi
hỏi nàng đi đâu mà bị ăn cướp bắt.
Nàng và khóc và kể hết đầu đuôi mọi việc lại cho chàng nghe.
Hải-Yến nghe rồi, bộ chàng coi giận lắm, đứng ngó dáo dác, thấy
bọn ăn cướp đã chạy xa rồi rồi chàng chỉ tay mà nói rằng:
- Quân khốn kiếp, dám bắt người ta giữa ban ngày. Chớ chi hồi
nãy theo kịp, tao giết hết thảy.
Chàng lại day lại ngó Ánh-Nguyệt mà cười rồi nói rằng:
- Hồi nãy tôi nghe cầu cứu, tôi không dè cô chút nào hết. May
bữa nay tôi lại đi chơi lên phía trên nầy, chớ nếu tôi đi chỗ khác, thì chắc là
cô phải bị bắt đi mất rồi biết đâu mà kiếm. Thiệt may quá!
Ánh-Nguyệt ngồi xuống muốn lạy mà tạ ơn nữa. Hải-Yến đưa tay
đỡ nàng đứng dậy và nói rằng:
- Người anh hùng hễ thấy người ta lâm-nguy thì phải cứu. Dầu
người xa lạ tôi cũng phải cứu người ta thay, huống chi là tôi với cô ở chung một
nhà cần gì cô phải nói nhiều tiếng.
Chàng nói mà liếc mắt ngó nàng rất hữu tình. Nàng đứng bợ-ngợ
một hồi rồi nói rằng:
- Cha mẹ tôi đã đẻ tôi một lần rồi. Hôm nay cậu cứu tôi, chẳng
khác nào như cậu đẻ tôi một lần nữa. Ân nghĩa nầy tôi nguyền tạc dạ trọn đời, dầu
kiếp nầy tôi đền đáp cho cậu không được, thì tôi cũng nguyện kiếp sau làm thân
trâu ngựa mà trả ơn cho cậu.
Hải-Yến cười mà nói rằng:
- Thôi cô đi theo tôi mà về, chớ ở đây mà nói chuyện hoài, trời
tối về sao kịp. Cô muốn đền ơn đáp nghĩa cho tôi có khó chi đâu.
Ánh-Nguyệt có sắc thẹn, nên cúi đầu lặng thinh.
Hải-Yến nhìn nàng rồi biểu nàng đi trước, nối gót theo sau.
Chừng đi ngang qua chỗ Hải-Yến đánh với tên đầu đảng hồi nãy,
thì thấy tên đầu đảng còn nằm dựa bờ, tay chơn quynh-quang, tóc râu rối-rắm như
thây ma nằm đó. Ánh-Nguyệt dùn mình rồi bước trái mà đi riết.
Hai người đi về dọc đường nói chuyện với nhau nghe thân thiết
lắm.
Ánh-Nguyệt tuy nghiêm chỉnh song không kháng cự như khi trước
nữa, mà hễ Hải-Yến tỏ chút tình chi thì thấy miệng nàng lại chúm-chím cười. Chừng
vô tới rừng hai người lại ngồi chung với nhau trên một gốc cây khô mà nghỉ
chơn.
Ánh-Nguyệt muốn kiếm đống củi mình đã gom hồi trưa mà gánh về.
Hải-Yến không cho mà nói rằng trời đã gần tối rồi; không nên ở trễ. Hai người dắt
nhau về tới nhà thì mặt trời đã chen lặn.
Ðỗ-Cẩm thấy hai người về một lượt, mà Ánh-Nguyệt lại không có
củi thì lấy làm lạ, nên chạy ra sân mà hỏi.
Ánh-Nguyệt đem chuyện mình bị ăn cướp bắt và nhờ Hải-Yến cứu
mà thuật lại cho vợ chồng Ðỗ-Cẩm nghe.
Vợ chồng Ðỗ-Cẩm tuy nghi Hải-Yến bày mưu, song không rõ mưu sắp
thế nào, nên cứ chắt lưỡi lắc đầu mà nói rằng:
- Trời ơi, may quá! Cha chả, nếu không có cậu cứu thì cháu đã
bị về tay quân cướp rồi còn gì! Ơn cậu lớn quá, cháu đừng có quên nghe hôn
cháu.
Chừng Ánh-Nguyệt đi vô nhà sau, Ðỗ-Cẩm ngoắt Hải-Yến ra ngoài
sân rồi hỏi nhỏ rằng:
- Thiệt có ăn cướp hay là cậu sắp đặt?
- Mưu của tôi đó. Phải dùng nguỵ kế mà dụ cô, chớ làm như chú
bày đó, không được đâu.
- Mà cậu dụ nó được hay chưa?
- Ðược rồi, được rồi.
Hai người ngó nhau gặt đầu mà cười, rồi tẻ ra người đi cửa
trước, kẻ đi ngả sau mà vô nhà.
oOo
Lý-Ánh-Nguyệt tuy nhà nghèo, nhưng mà nết-na dè dặt, ăn nói hẳn
hòi, lòng sạch trơn không để đóng bợn nhơ, trí ngay thẳng không ưa điều vạy vọ
[34] . Ðã vậy mà nàng lại có ngón đờn hay, có văn học rộng, dầu nát thân cũng
còn ôm chữ hiếu, dầu ngàn lượng cũng không đổi chữ tình. Gái như vầy Hải-Yến
say đắm đến nỗi bỏ ăn bỏ ngủ, bỏ sách đèn, đến nỗi tốn của không phiền, bị nhục
không tởn, nghĩ chẳng lạ gì.
Người viết truyện nầy chẳng hề dám trách cái ái tình của
chàng, chỉ buồn cho chàng là con nhà học trò, mà không hay trân trọng ái-tình,
đã không biết tăng cao phẩm-giá của người mình yêu, mà lại còn bày kế nguỵ,
dùng chước xảo, mà làm cho phỉ tình dục của mình, người dường ấy chưa đáng đứng
vào bực “đa tình nhơn”.
Từ ngày Hải-Yến cứu Ánh-Nguyệt khỏi nạn rồi, thì chàng ỷ công
dầy ơn trọng, nên theo ve vãn nàng nữa. Nàng vì ơn nghĩa, nên không dám kháng cự
như trước, mà thấy cái tình của chàng rất nặng, tài của chàng rất cao, bởi vậy
lần lần rồi nàng cũng động lòng. Có khi chàng làm thi biểu nàng họa, có khi
chàng đưa đờn biểu nàng đờn, hễ chàng biểu thì nàng vưng lời, chớ không dám từ
chối.
Trai với gái gần nhau, khi ngâm thi khi hòa đờn, mà cả hai đều
học giỏi hết thảy, bởi vậy lần lần rồi tình nàng cũng dan díu, lòng nàng cũng
ngẩn ngơ. Chừng chàng dọ được ý nàng đã có tình với chàng rồi, chàng mới dỡ việc
tóc tơ ra mà nói nữa. Nàng cúi đầu e lệ, song gượng nói nhỏ rằng:
- Em còn có một tháng nữa thì mãn tang của ông thân em. Vậy
xin cậu chờ cho em báo hiếu rồi, em sẽ trao thân gởi phận cho cậu, đặng lo sửa
tráp nâng khăn mà đền bồi ơn cứu tử.
Chàng nghe mấy lời như cởi [35] tấm lòng sầu, nên nhìn nàng
mà đáp rằng:
- Có mấy tiếng nói đó mà cô tiếc với tôi làm chi, để cho tôi
mấy tháng nay ngậm sầu nuốt thảm, đợi gió trông mây, đau đớn hết sức!
Nàng ngước mắt ngó chàng, hai người nhìn nhau, sóng tình dồi
dập, non ái chập-chùng, tuy hai người không nói một tiếng chi nữa hết, mà mắt
ngó nhau đó cũng đủ ước hẹn cùng nhau trăm năm vàng đá.
Tới ngày mãn tang, Hải-Yến đưa tiền biểu Ánh-Nguyệt đi chợ
mua thịt rượu đem về nấu một mâm cơm mà cúng cha, rồi vợ chồng có thành hôn với
nhau. Ánh-Nguyệt lãnh tiền đi chợ. Hải-Yến thấy việc mình muốn nay đã thành rồi,
thì trong lòng vui-vẻ vô cùng. Chàng thừa lúc Ánh-Nguyệt vắng mặt, mới lấy 5
nén bạc mà đền ơn Ðỗ-Cẩm và trả luôn 30 quan tiền của Ánh-Nguyệt thiếu đó nữa.
Cúng quảy xong rồi, cả nhà ngồi chung lại mà ăn uống. Ðỗ-Cẩm
có lợi thì đắc chí, nên uống rượu xoàn-xoàn rồi nói với Ánh-Nguyệt rằng:
- Ngày nay cháu có chồng tử tế như vầy cháu đừng có quên ơn vợ
chồng chú. Nếu bụng chú xấu như người ta, thì chú bắt cháu ở làm tôi mọi đến
già, chớ chú đương thèm [36] kiếm chỗ tử tế mà gả, vậy cháu phải nhớ ơn vợ chồng
chú .
Ánh-Nguyệt thiệt-thà không dè Ðỗ-Cẩm bán mình, mà cũng không
dè Hải-Yến lập mưu dụ dỗ, nên nàng ứa nước mắt mà đáp rằng:
- Thân cháu nghèo hèn côi-cút, hai năm nay nhờ chú thím nuôi
dưỡng, bây giờ chú thím lại đứng gả cháu lấy chồng, ơn ấy cháu ghi nhớ hoài, dầu
ngàn năm cháu cũng không quên được.
Ðỗ-Cẩm gật đầu rồi bưng ly rượu uống nghe một cái ọt, coi bộ
vừa lòng lắm.
Hải-Yến thành hôn với Ánh-Nguyệt được rồi, nghĩ ở chung chạ với
vợ chồng Ðỗ-Cẩm không tiện, nên xuất tiền mua một cái nhà nhỏ ở gần cửa thành
hướng nam rồi hai vợ chồng dọn đồ về mà ở.
Trai tài gái sắc phận đẹp duyên ưa, người phỉ tình quên hết nỗi
tương-tư, kẻ ghi dạ giữ tròn niềm tơ-tóc.
Ban ngày vợ lo nồi cơm siêu nước, chồng chuyên bài sách câu
thi; ban đêm vợ ngồi bên nầy may vá áo quần, chồng nằm bên kia sôi kinh nấu sử.
Hễ chồng có lảng-lơ đèn sách, thì vợ nhắc nhở khuyên lơn, hễ vợ có nhớ quê
quán, buồn mẹ cha, thì chồng dẫn giải việc đời mà vỗ về an ủi.
Gặp bữa trăng trong gió mát thì vợ chồng nhắc ghế ngồi dựa mấy
bụi bông, rồi mặt nhìn nhau vịnh phú ngâm thi, gặp đêm não trí buồn lòng, thì vợ
chồng khêu tỏ ngọn đèn rồi kề vai nhau mà hòa đờn uống nước. Ai dòm vô nhà Hải-Yến
thì cũng đều cho là một nhà phong lưu thú vị, cũng đều cho là một cặp tài tử
giai nhơn.
Mảng say sưa vì nết, mảng mê mẩn vì tình, nên xuân qua thu lại
hết hạ sang đông, tính đã trót một năm, mà thấm thoát coi mau dường như trong mấy
bữa.
Ðến năm Tân-mão (1831) triều đình mở hội thi nữa. Các sĩ-tử sắm
sửa tề-tựu tại thành Gia-định mà nhập trường. Ánh-Nguyệt cũng lo sửa soạn bút
nghiên cho chồng ứng thí.
Năm ấy Hải-Yến đậu Cử-nhơn. Ðến bữa xướng danh thiên-hạ náo nức
trước cửa trường mà trông nghe tin tức.
Ánh-Nguyệt ngày đêm thành tâm khẩn nguyện cho chồng thi đậu,
nên đến bữa ấy nàng nóng-nảy trong lòng ngồi nhà không yên, bởi vậy cũng đến đứng
lóng-nhóng trước cửa trường thi mà nghe xướng danh.
Chừng nghe tới tên họ quê quán của chồng, thì nàng vui mừng
khấp khởi, chen trong đám đông mà kiếm chồng.
Nàng đi cùng hết mà không gặp, trong trí tưởng có lẽ chồng
nghe tin ấy lật-đật chạy về nhà mà cho mình hay, nên nàng bương-bả trở về nhà.
Nào dè về đến nhà cũng không thấy chồng; nàng ngồi không yên cứ ra đứng dựa cửa
ngóng trông hoài.
Nàng đợi không được, muốn đi kiếm nữa, mà rồi nàng nghĩ nếu
lúc mình đi kiếm, chồng về nhà không có mình, lại càng thất công chồng chờ
mình, bởi vậy nàng quyết ở nhà mà đợi chớ không đi nữa. Nàng mừng rỡ quá, muốn
chia vui cùng chồng nên bắt một con gà làm thịt rồi nấu cơm mua rượu rồi dọn một
tiệc đặng chồng về ăn uống khánh hạ ngày đạp bước thang mây.
Ánh-Nguyệt dọn tiệc xong rồi mà cũng chưa thấy Hải-Yến về.
Nàng muốn làm công việc đặng nguôi bớt lòng trông đợi, nên nàng dọn dẹp trong
nhà cho vén khéo, quét tước ngoài sân cho sạch sẽ, rồi nàng lại rửa mặt, thay
quần đổi áo. Nàng chờ đến tối mà không thấy chồng về. Trong lòng nàng ái-ngại,
không thể chờ được nữa, nên nàng đậy mâm cơm lại rồi sập cửa bỏ nhà mà đi kiếm.
Nàng đi vòng mấy cửa trường thi, đến chỗ nào cũng thấy năm ba
chục người đương đứng mà đọc bản đề tên mấy sĩ tử mới thi đậu, song cũng không
gặp chồng. Nàng buồn chí mới đi vòng lại phía chợ; ngoài đường thiên-hạ còn
náo-nức, trong quán sĩ-tử còn lao nhao, người đi thi đậu thì hớn-hở vui cười, kẻ
thi rớt thì buồn rầu xu-xị.
Ánh-Nguyệt đi ngang qua một cái quán, nghe trong quán có tiếng
ca lảnh-lót, giọng đờn tiêu-tao, nàng liếc mắt dòm vô thì thấy có sáu sĩ-tử
đương ngồi ăn uống vui cười, lại có ba nàng má phấn môi son xẩn-bẩn chung quanh
kẻ đờn người ca mà dưng rượu. Ánh-Nguyệt vừa xay mặt mà đi, thì nghe trong quán
lại có một người cất tiếng cười lớn và nói rằng:
- Hay lắm, hay lắm! Nết-na của cô mi, dầu vợ ta ở nhà cũng
không dám bì, còn bài ca của cô mi, dầu cho ta chết với cô mi ta cũng không tiếc.
Nàng nghe tiếng cười giọng nói giống như tiếng cười giọng nói
của chồng, nên nàng ngừng bước đứng lại mà dòm vô quán nữa. Ðèn đốt sáng quắc,
rượu thịt đầy bàn, Hải-Yến ngồi phía trong đương ôm một đứa ca-nhi trum trủm
trong lòng mà hun-hít. Ánh-Nguyệt thấy cảnh lả-lơi ấy thì nàng hổ thẹn, nên
nàng xây mặt chỗ khác rồi đi riết về nhà.
Chẳng hiểu lúc ấy trong lòng nàng buồn hay là giận, mà về đến
nhà nàng nằm dàu-dàu.
Nàng ngó mâm cơm mà tiếc công mình sắm sửa chờ đợi chồng từ hồi
trưa cho đến bây giờ, chồng thi đậu rồi đã không lật-đật về nhà chung vui với vợ,
mà lại kết bè kết bạn ghẹo nguyệt giỡn hoa, sá chi bọn ca-nhi mà khen nó nết-na
hơn vợ nhà, tặng nó tài tình đáng chết sống.
Thiệt ban đầu nàng phiền Hải-Yến, mà rồi nàng nghĩ chồng mình
thi đậu nó vui mừng nên phải vui chơi với bậu bạn chút đỉnh. Mấy năm nay công
sách đèn cực khổ, ngày nay chơn bước thang mây, tên đề bản hổ, tự nhiên phải
vui chơi, nếu mình trách chồng thì té ra mình hẹp hòi thái quá. Vợ chồng là
nghĩa trăm năm, ngày nào cũng thấy mặt nhau, còn bằnh hữu không mấy khi tương hội,
bởi vậy chồng mình phải vui với anh em trước, chớ vợ ở nhà mà lật đật [37] làm
chi. Còn lời nói với ca-nhi là lời phỉnh phờ theo chén rượu, hơi nào mà mình cố
chấp.
Ámh-Nguyệt nghĩ như vậy thì nàng hết phiền trách chồng, mà
nàng biết chồng ăn chơi chỗ nào rồi, thì nàng cũng không bưng khuâng trông đợi
nữa. Nàng gài cửa tắt đèn tính đi ngủ, mà nằm trong mùng nàng vui mừng cho chồng
công thành danh toại hoài, nên nàng ngủ không được.
Trống trong thành trở canh tư rồi, Hải-Yến mới về kêu vợ mở cửa.
Ánh-Nguyệt mới vừa nghe tiếng chồng kêu thì nàng mừng rỡ, nên
lật đật thổi lửa, đốt đèn, mở cửa mà tiếp rước.
Hải-Yến bước vô hơi rượu nực-nồng, mặt đỏ au, đứng chống nạnh
ngó vợ mà hỏi rằng:
- Tôi thi đậu rồi, toại chí hôn?
Ánh-Nguyệt cười và đáp rằng:
- Em biết tài học của anh cao, công học của anh dầy, thế nào
anh cũng thi đậu; tuy vậy mà em cũng cầu trời khẩn phật ủng hộ cho anh dữ quá.
Nay cũng nhờ đức tổ tiên và nhờ ơn trời đất, nên thi đậu được, thì em mừng nhiều
hơn hết, chớ sao lại không mừng.
- Em mừng lắm hay sao?
- Dạ, hồi sớm mai em lén đi nghe xướng danh. Chừng nghe tên
anh thì em đi kiếm anh dữ quá không gặp. Em tưởng anh về nhà, em lật đật trở về,
té ra không có anh. Em làm thịt một con gà dọn tiệc từ hồi trưa cho đến bây giờ
đây, chờ anh về em dưng lễ khánh-hạ.
Ánh-Nguyệt bưng một mâm rượu thịt đem ra mà để trên ván, sửa
soạn cho chồng ăn uống.
Hải-Yến khoát tay tỏ ý không muốn ăn và nói rằng:
- Qua đã ghé quán ăn uống với anh em bạn rồi, em hãy bưng dẹp
đi, qua không ăn nữa đâu.
Nàng đứng ngó chồng trân trân. Hải-Yến bỏ đi thay áo đổi quần,
không nói chi nữa hết.
Ánh-Nguyệt thấy chồng thi đậu về nhà mà không tỏ một lời nào
có tình có nghĩa, mình muốn dưng lễ khánh hạ mà chồng cũng không chịu nhậm lễ,
bởi vậy nàng buồn, nên bưng mâm cơm để cất mà nàng rưng rưng nước mắt.
Mấy ngày sau, Hải-Yến cứ đi kiếm anh em bạn rồi ăn ngả nằm
nghiêng trong mấy trà đình tửu điếm, chừng về nhà hễ bữa nào say thì ngủ, còn bữa
nào tỉnh thì tính việc về An-Giang đặng bái tổ vinh qui, chớ không tỏ dấu dan
díu thương yêu vợ như lúc trước nữa. Ánh-Nguyệt phiền thì phiền riêng trong
lòng, chớ không dám nói ra, buồn thì buồn thảm trong bụng, chớ không dám lộ
ngoài mặt.
Cách nửa tháng, Hải-Yến dọn dẹp đờn sách tính mướn ghe đưa về
An-Giang.
Ánh-Nguyệt không nghe chồng biểu mình đi theo, nên không hiểu
ý chồng liệu phận mình thế nào, bởi vậy đêm nọ mướn ghe xong rồi, Hải-Yến định
sáng bữa sau dọn đồ xuống ghe mà đi, Hải-Yến đương ngồi tréo mảy chơn nhịp ván
tay khảy đờn, Ánh-Nguyệt mới thỏ thẻ hỏi rằng:
- Thưa, anh tính sáng mai đi về An-Giang, mà nhà cửa anh bỏ lại
đây ai coi, sao em không nghe anh tính việc ấy?
- Thời để lại đây cho em ở, chớ còn biểu ai coi nữa bây giờ?
Ánh-Nguyệt nghe mấy lời thì biến sắc, nàng biết chắc chồng
không đem mình theo, thì nàng buồn tủi vô cùng, song nàng gắng gượng làm vui mà
thưa nữa rằng:
- Té ra anh tính em ở lại đây hay sao? Phận em là gái, hễ có
chồng phải theo chồng.
Nàng vừa nói tới đó thì chàng buông cây đờn rồi chau mày day
lại ngó nàng mà nói rằng:
- Qua tính để qua về bái tổ vinh quy, qua thưa việc của mình lại
cho cha mẹ qua hay trước, rồi qua sẽ trở xuống rước em.
- Vậy chớ em đi với anh một lượt không được hay sao?
- Bất tiện lắm, bởi vì hồi qua cưới em qua không có thưa cho
cha mẹ hay, nếu bây giờ qua dắt em về một lượt thì sái lễ lắm.
Ánh-Nguyệt châu mày ứa lụy, ngồi lặng thinh mà trong lòng đau
đớn vô cùng.
Hải-Yến thấy nàng buồn, bèn đứng dậy đi lại ngồi một bên, tay
vịn vai nàng, miệng chúm chím cười và nói rằng:
- Em đừng có buồn. Qua về có lâu lắm là một tháng thì qua sẽ
trở xuống rước em. Ngày nay là ngày qua nhẹ bước thang mây vinh quy bái tổ, em
phải vui vẻ mà đưa qua, em buồn như vậy qua vui sao được. Vợ chồng ta ăn ở với
nhau hơn một năm nay, tâm đầu ý hiệp, tri kỷ tri âm, em còn nghi ngại điều chi
hay sao mà em buồn?
Ánh-Nguyệt cúi đầu, lấy vạt áo lau nước mắt rồi thỏ thẻ nói rằng:
- Em đâu dám nghi bụng anh. Em buồn là vì em sơ ý, hồi anh cưới
em quên nhắc anh thưa cho cha mẹ hay trước, bởi vậy bây giờ mới có chỗ khó cho
anh. Em sợ nếu anh về nhà tỏ thiệt cho cha mẹ hay, mà cha mẹ không vui lòng,
thì duyên nợ đôi ta lấy làm khó lắm.
Hải-Yến trợn mắt trề môi đáp rằng:
- Ối, tưởng là việc gì kia, chớ việc đó em đừng có lo mà.
- Em phải lo, chớ không lo sao được. Cha mẹ là trời là biển,
nếu cha mẹ không vừa lòng thì phận anh là con, anh dám cãi hay sao.
- Cha mẹ có biểu là biểu việc gì, chớ vợ chồng người ta
thương yêu như vầy mà cha mẹ đành lòng dứt mối cang thường của người ta hay
sao.
Hải-Yến nói tới đó thì nắm tay vuốt tóc Ánh-Nguyệt, bộ coi
dan-díu, tình coi mặn nồng lắm.
Ánh-Nguyệt bớt buồn, song nàng ngồi lặng thinh một hồi rồi
nói nhỏ-nhỏ rằng:
- Xưa rày em không dám cho anh hay. Em có nghén đã được 3
tháng rồi, vậy anh có về thì nhớ trở xuống rước em mau mau, chớ đừng có bỏ em
bơ-vơ tội nghiệp. Thân em côi-cút, bây giờ chẳng biết đâu mà nương dựa, xin anh
chiếu cố thương dùm phận em.
Hải-Yến vừa nghe Ánh-Nguyệt nói có nghén đã được ba tháng thì
mặt mày tái lét, buông Ánh-Nguyệt ra rồi đi lại cửa đứng ngó ra ngoài sân.
Gió thổi lá cây khua tiếng lào xào, đèn chói ngọn cỏ nhuộm
màu hoa-hoét.
Chẳng hiểu chàng suy nghĩ việc chi, mà đứng một hồi rồi day lại
mặt mày buồn xo, hối Ánh-Nguyệt sập cửa tắt đèn đi ngủ.
Sáng bữa sau Hải-Yến dọn đờn sách bút nghiên xuống ghe, đưa
cho Ánh-Nguyệt 5 nén bạc rồi từ biệt mà về An-Giang. Ánh-Nguyệt đi theo xuống tới
bến mà đưa chàng. Khi chàng bước xuống ghe thì nàng kêu mà nói rằng:
- Xin anh nhớ mấy lời em căn dặn, về đến nhà thì rán mà làm
cho cha mẹ vui lòng rồi mau trở xuống rước em, chớ đừng để em đợi chờ tội nghiệp.
Một ngày anh vắng mặt là một ngày em trông đợi. Vậy dầu thế nào, cũng xin chớ
phụ tình nhau.
Lời nàng nói thảm thiết bi ai vô cùng, song không biết có động
thấu lòng chàng được hay không, mà chàng gục gặc đầu rồi chun vô mui không đáp
một tiếng chi hết.
Trạo phu[38] nhổ sào xô ghe ra khỏi bến rồi gay[39] chèo.
Ánh-Nguyệt đứng trên bờ ngó theo, nước mắt tuôn như mưa, ruột quặn đau như cắt,
mái chèo chặt nước mà nó làm đau-đớn lòng nàng cũng như ai vác cây đập trên ngực
nàng vậy.
Ghe đi khuất mất đã lâu mà Ánh-Nguyệt hãy còn thơ thẩn trên bến
hoài, đứng chong mắt ngó mông đã thèm rồi ngồi khoanh tay mà khóc, khóc rồi lại
ngó, làm như vậy đến tối mò nàng mới chịu lần bước trở về nhà.
Chú Thích :
[33] khu, khóm
[34] không thẳng
[35] cởi, mở ra
[36] không bao giờ chịu
[37] gấp rút
[38] người chèo ghe
[39] cột quay chèo vào cột chèo
CHƯƠNG 9 - QUYỂN II - NÁT THÂN BỒ LIỄU
Ðêm hôm vắng-vẻ, mưa gió ồn-ào. Dựa mé bờ tiếng ảnh-ương kêu
uênh-oang, trên mái nhà nước mưa rơi lộp-độp.
Ðêm nay là đêm rằm, mà trăng bị mây án nên mịt mù cảnh vật,
mùa nầy là mùa cây cỏ tươi tốt, mà bị giông mưa nên lá đổ nhánh quằn.
Ánh-Nguyệt chong đèn một mình, lúc ngó ngọn đèn thấy gió tạt
đèn xao dạ thấy bàng hoàng, khi ngó ra sân thấy bọt nước hiệp tan lòng thấy áo
não. Nhìn quanh quất thì có một người với một bóng, lóng tai nghe thì tiếng dế
lộn với giọt mưa sa. Người buồn mà cảnh cũng giục buồn thêm, thân đã khổ mà phận
e còn khổ nữa.
Hải-Yến ra về có hứa một tháng sẽ trở xuống rước Ánh-Nguyệt,
mà đến bữa nay đã hơn ba tháng rồi không thấy ai đến rước, lại cũng không tiếp
được thơ từ. Mỗi buổi chiều nàng đứng tại bến, mấy tháng trời đã mỏi mắt ngóng
trông, mỗi đêm vắng nàng chong đèn mà ngồi, năm canh lụn đã não lòng chờ đợi.
Ðêm nay nàng ngồi đương ngó giọt mưa, đương nghe tiếng dế, bỗng
chút cái thai trong bụng nàng máy động, làm cho nàng giựt mình, lật-đật lấy tay
mà rờ, rồi miệng chúm-chím cười. Nàng thầm nghĩ tình nghĩa vợ chồng, tang chứng
ân ái hãy còn đây, có lẽ nào Hải-Yến quên nàng cho được.
Hải-Yến là con nhà học trò, tài cao trí rộng, tánh tốt văn
hay, khi làm học sanh đã hẩm hút với nhau, lẽ nào nay làm ông Cử lại quên bạn
tào khương nghĩa cũ. Nàng nhớ lại ngày trước mình nghèo hèn phải ở cố công cho
Ðỗ-Cẩm, mà chàng vì nặng tình theo nài nỉ nợ duyên. Người trọng tình như vậy không
thế nào mà lãng xao cho được.
Ðã vậy mà chàng đã ra ơn cứu mình nên bây giờ dầu chàng có để
cho mình đợi chờ năm ba tháng mình cũng không nên phiền trách, huống chi khi ra
về chàng có để lại cho mình 5 nén bạc, chớ phải chàng bỏ bê gì hay sao mà mình
buồn. Chàng lỗi hẹn đây chắc là tại chàng hoặc đau ốm, hoặc bối rối việc nhà,
chớ người tài tình như chàng không lẽ nào lòng dạ bạc bẽo bao giờ.
Ánh-Nguyệt nghĩ như vậy, nên trông thì thiệt nàng cũng trông
hoài, song buồn thì nàng cũng bớt buồn chút đỉnh.
Nàng chờ đợi qua cho tới mùa thu, đúng ngày nở nhụy khai hoa,
nàng sanh được một đứa con gái, mà cũng chưa thấy dạng, lại cũng chưa được tin
Hải-Yến. Bởi nàng đẻ nhằm mùa thu nên đặt tên con là Từ-thu-Vân.
Nàng thấy mặt con chừng nào thì nhớ chồng chừng nấy, bởi vậy
hễ nàng nghe có người nào ở miệt An-Giang xuống buôn bán thì nàng cũng kiếm cho
được mà hỏi thăm chồng.
Bữa nọ nàng gặp một người lái buôn ở một làng với Hải-Yến,
nàng mừng rỡ hết sức, nên ân cần mời về nhà mà hỏi thăm. Người ấy nói rằng Hải-Yến
thi đậu về nhà không đầy một tháng thì quan Huyện Ðông-xuyên đã kêu mà gả con.
Cha mẹ Hải-Yến đã giàu, mà cha mẹ vợ lại sang nữa, bởi vậy
bây giờ Hải-Yến sung sướng vô cùng, nghe nói chẳng bao lâu nữa triều-đình sẽ cấp
bằng cho đi ngồi Tri-Huyện nơi nào đó.
Ánh-Nguyệt nghe mấy lời chẳng khác nào như sét đánh ngang
tai, bởi vậy nàng ngồi sững-sờ, tay ôm con nước mắt rưng-rưng chảy. Vì nàng
thương Hải-Yến quá, nên tưởng bụng Hải-Yến cũng như bụng nàng.
Nàng không chịu tin Hải-Yến phụ nàng. Nàng đổ thừa tại cha mẹ
ép, chớ nàng với Hải-Yến tình nặng nghĩa dầy, không lẽ nào mới vắng mặt nhau mà
vội quên nhau như vậy.
Nàng viết một bức thơ mà tỏ nỗi-niềm trông đợi, xin Hải-Yến
xuống rước nàng cho mau, lại tỏ luôn nàng sanh được một đứa con gái nữa rồi
trao cho người lái buôn ấy và cậy đem dùm về cho Hải-Yến.
Thơ gởi đi rồi thì nàng cứ ngồi mà trông đợi Hải-Yến hoài. Hễ
chiều mát thì nàng bồng con ra bến mà kiếm ghe An-Giang, hễ đêm tối thì nàng
chong đèn nhìn con cho bớt nhớ chồng.
Ngày lụn tháng qua, thơ gởi đi đã được hai tháng rồi, mà cũng
chưa thấy tin tức chi hết.
Bữa nọ ăn cơm sớm mai rồi nàng bồng con đem để nằm giữa ván,
là chỗ ngày trước Hải-Yến thường ngồi đọc sách đó, mà dỗ con ngủ, rồi bưng
thúng may ra ngồi dựa bên con mà vá áo.
Nàng ngồi may mà trong trí nhớ chồng, nên lắm lúc tay buông
cây kim, mắt ngó mông ra ngoài cửa. Cặp chim đậu trên hàng rào kêu chót-chét,
con nhảy qua con chuyền lại, vui cùng nhau được kết bạn kiếm ăn. Bầy kiến bò
ngoài cửa có hàng, con đi trước, con đi sau, thớ thới bấy vầy đoàn hợp lũ.
Loài chim với loài kiến mà còn có đôi có bạn, sao loài người
lại chích bóng đơn thân?
Hay là khiến cho gái hồng nhan phải dày gió dạn sương?
Hay là đạo nam tử phải xảo ngôn dối thế?
Ánh-Nguyệt nghĩ tới đó thì nàng ứa nước mắt. Con ruồi ở đâu
bay lại đậu trên sóng mũi Thu-Vân.
Nàng lật đật lấy tay mà khoát cho con ruồi bay đi, rồi nàng
nhìn mặt con. Gương mặt tròn, gò má đỏ, nước da trắng, sóng mũi cao, hình dung
coi chẳng khác Hải-Yến chút nào, con như vậy ai nỡ đành phụ rãy.
Thu-Vân nằm ngủ mà ngay hai bắp chơn giơ ra tròn vo và trắng
nõn, coi như ai sắp hai củ cải để gần nhau; một bàn tay để trên đầu, một bàn
tay gác ngang ngực, coi tướng mạo dễ thương dễ mến. Mụ bà dạy nên một lát nhích
miệng cười một cái, hai gò má hủng hai cái lỗ, hai cái môi ửng đỏ như thoa son.
Nàng nhìn con càng tủi cho phận con, có tội gì mà sanh ra đã
mấy tháng rồi, chưa được thấy mặt cha lần nào hết!
Nàng nhớ mấy lời chú lái buôn nói hôm nọ, thì lòng nàng bát
ngát, trí nàng ngẩn ngơ, nhưng mà cũng chưa chịu tin, chắc ý rằng chẳng mau thì
lâu bề nào Hải-Yến cũng rước nàng, bởi vì ân-ái với nhau đã sanh được một đứa
con, tình còn nặng nghĩa thêm dầy, dầu ngàn tứ muôn chung cũng không lẽ Hải-Yến
ham đến nỗi phụ tình xưa nghĩa cũ.
Nếu chàng có cưới vợ khác, ấy là tại mẹ cha ép uổng, mà cưới
vợ rồi há chàng không tưởng đến mình sao.
Ánh-Nguyệt đương suy nghĩ tới đó, bỗng thấy ngoài cửa có một
người, trạc chừng 50 tuổi, xâm-xâm đi vô hỏi rằng:
- Nhà nầy phải là nhà của cô Ánh-Nguyệt hay không vậy cô?
Ánh-Nguyệt thấy người lã đến hỏi tên mình, tin chắc là người
của Hải-Yến sai xuống rước, bởi vậy nàng khấp khởi mừng thầm, lật-đật đứng dậy
đáp rằng:
- Phải. Nhà nầy là nhà của tôi. Chú ở đâu mà hỏi thăm nhà
tôi?
Người ấy và bước vô và nói rằng:
- Tôi ở trên An-Giang, ông Cử sai tôi xuống kiếm cô đặng nói
chuyện.
Ánh-Nguyệt nghe những tiếng “An-Giang, ông Cử” thì nàng mừng
quýnh không kịp hỏi chi hết, lật đật trải chiếu trên ván giữa rồi mời khách ngồi.
Con Thu-Vân nghe tiếng nói chuyện om-sòm, trải chiếu rột-rạt, nên giựt mình thức
dậy khóc oé lên. Ánh-Nguyệt thò tay bồng con mà ôm trong lòng rồi miệng
chúm-chím cười và hỏi khách rằng:
- Ông Cử về trển xưa rày mạnh giỏi thể nào? Ổng mượn chú xuống
rước mẹ con tôi phải hôn?
- Ổng mạnh giỏi. Ổng không có biểu tôi rước cô; ổng có đưa
cho tôi một phong thơ, dặn phải xuống tìm mà đưa cho tới tay cô.
- Té ra có thơ của ổng hay sao? Ðâu chú đưa đây cho tôi.
- Mà cô phải tên là Lý-ánh-Nguyệt hay không?
- Phải, Ánh-Nguyệt là tôi đây.
- Ờ, như có phải thì tôi mới đưa, chớ lôi thôi lạc mất đây về
ổng rầy tôi chết.
Người khách dỡ vạt áo lên rồi thò tay trong sợi dây lưng mà
móc ra một cái đãy thuốc may bằng vải, cuốn tròn bằng cườm chưn vậy. Anh mở đãy
ra lấy một phong thơ đưa cho Ánh-Nguyệt và nói rằng:
- Ðó, phong thơ đó. Cô dỡ ra mà đọc thử coi chớ tôi không hiểu
ổng viết giống gì ở trỏng.
Ánh-Nguyệt lấy phong thơ, chẳng hiểu việc lành dữ thế nào,
nên nửa mừng nửa sợ, mặt tái xanh, tay run rẩy, nàng xé phong thơ ra rồi, một
tay bồng con, một tay cầm thơ mà coi. Người khách ngồi ngó nàng thì thấy nàng
ban đầu mặt tái, mà coi thơ riết rồi mặt nàng lại đỏ phừng-phừng; nàng chau mày
trợn mắt tằng-hắng bậm môi, coi bộ như nàng giận những lời nói trong thơ đó vậy.
Chừng nàng coi dứt rồi, nàng quăng bức thơ trên ván, bồng con
đứng dậy nói rằng:
- Người tánh tình như vậy mà dám xưng là học-trò! Thôi, thà
là bạc phứt tôi như vậy cho tôi khỏi trông đợi nữa.
Người khách thấy cử chỉ của Ánh-Nguyệt như vậy thì lấy làm lạ,
nên ngồi ngó nàng trân trân rồi hỏi rằng:
- Thơ ông Cử nói làm sao mà cô giận dữ vậy? Cô quen với ổng
hay là bà con?
Ánh-Nguyệt nghe mấy lời ấy thì biết Hải-Yến không có tỏ việc
của mình cho người đem thơ hiểu, bởi vậy nàng day mặt chỗ khác mà đáp rằng:
- Tôi đây là vợ của Hải-Yến, còn con nhỏ tôi bồng đây là con.
- Ủa! Sao vậy? Cha chả! Ông Cử ổng làm tếu dữ kìa! Cô nói cô
là vợ mà sao năm trước ổng thi đậu rồi về trển ổng lại cưới con quan Huyện
Ðông-Xuyên?
- Thứ tiểu nhơn thì nó làm như vậy chớ sao. Chú làm ơn về trển
chú nói dùm với nó rằng con người ở đời mà khác với cầm thú là nhờ biết nhơn
nghĩa. Năm trước tôi thấy nó là học-trò, ngày đêm chuyên đọc sử kinh, hễ mở miệng
ra thì nói cang thường luân lý: tôi tưởng nó là người biết nhơn nghĩa, nên tôi
mới đành trao thân gởi phận cho nó; bây giờ tôi mới hay nó mặt mũi người ta mà
lòng dạ không phải người ta; nó đọc những kinh thánh truyện hiền đó là cốt để
kiếm giàu sang, nó dùng lời ngon tiếng ngọt đó là cốt để phá danh tiết nhi nữ.
Thôi, tôi với nó từ nầy không còn nhơn-nghĩa gì nữa. Nó ráng mà hưởng giàu
sang, để cho mẹ con tôi …
Ánh-Nguyệt nói tới đó thì tức-tủi nghẹn cổ, nói không ra tiếng
nữa.
Người khách thấy vậy thì động lòng nên ngồi lặng thinh.
Ánh-Nguyệt nước mắt nước mũi đổ chàm ngoàm, nàng bồng con ra
cửa mà hỉ mũi rồi trở vô nói rằng:
- Chú về trển làm ơn nói với ông Cử dùm như vậy cho tôi.
- Cô muốn nói việc gì với ông Cử thì cô viết thơ rồi tôi đem
về dùm cho, chớ lẽ nào tôi dám đem những lời cô nói nãy giờ đó mà thuật lại cho
ổng nghe.
- Tôi viết thơ cho người như vầy thì uổng chữ của tôi lắm.
Chú cứ về thuật lại như vậy đi mà.
- Ngặt quá ….
Người khách thấy chủ nhà không vui, nghĩ ngồi lâu bất tiện,
nên nói lôi thôi rồi lui ra mà đi.
Khách ra khỏi cửa rồi, thì Ánh-Nguyệt lấy làm đau đớn trong
lòng, nên nàng bồng con vô võng mà nằm, nước mắt tuôn dầm dề. Còn gì là danh tiết!
Còn biết ai mà nương nhờ? Uổng công cha mẹ dạy dỗ, uổng công mình lọc lừa; dạy
dỗ làm chi mà ngày nay nhục nhã tông tôn, lọc lừa làm chi mà ngày nay ô danh xủ
tiết?
Bây giờ muốn về quê-quán, về sao cho đặng, thứ gái hư về càng
nhục chớ ích gì. Bây giờ muốn ở đây, ở cũng không kham, phận yếu đuối lại thêm
có con biết làm nghề chi mà nuôi miệng. Thôi cái thân nầy càng sống càng thêm hổ-ngươi
đau đớn, sống nữa mà làm chi, thà thác phứt cho tồi đặng trả sạch nợ trần, đặng
lấp vùi mạng bạc.
Nãy giờ nàng khóc thì con Thu-Vân nó ngủ; đến chừng nàng tính
chết, thì con nhỏ nó lại cựa mình, hai tay dụi mắt, rồi khóc oé lên. Nàng lật đật
bồng con mà cho bú, mắt nhìn con giọt lụy càng thêm chứa-chan.
Nàng mới nghĩ lại nếu mình chết thì phận mình đã yên rồi, còn
con mình bỏ lại chi ai nuôi?
Con là máu thịt của mình, lỗi tại nơi ai chớ nó có tội gì mà
mình bỏ nó. Nàng suy xét tới đó rồi hồi tâm, nên ôm con Thu-Vân mà hun. Nàng buồn
rồi giận, muốn chết rồi thương con, trong lòng ngơ-ngẩn, ngoài mặt dàu-dàu, nên
cứ nằm trên võng với con hoài đến chiều nàng cũng không dậy nấu cơm mà ăn.
Vã từ khi nàng có chồng dọn nhà riêng ở rồi, lúc tình đương mặn,
nghĩa đương nồng, Hải-Yến có tỏ thiệt cách vợ chồng Ðỗ-Cẩm làm khó đặng ăn tiền
bạc cho nhiều mới chịu gả nàng, thì nàng giận, nên nàng không thèm tới lui nhà
Ðỗ-Cẩm nữa. Mấy lần nàng đi viếng mộ cha thì nàng đi vòng ngã khác, chớ không
chịu đi ngang nhà, mà chừng Hải-Yến thi đậu nàng cũng không qua mà báo tin. Nay
nàng đi tới trước nhà Ðỗ-Cẩm, đứng ngoài ngó vô thì thấy có một miếng đất trống
mà thôi, nhà cửa đã dỡ đem đi đâu mất bao giờ rồi..
Nàng hỏi thăm thì họ nói vợ chồng Ðỗ-Cẩm lằm ăn khá nên dỡ
nhà về quê quán ở miệt dưới Vũng-Gù đã hơn một năm rồi. Nàng chưng-hửng đứng ngẩn-ngơ,
biết còn ai mà bày tỏ nỗi niềm tâm sự.
Nàng ứa nước mắt, bồng con đi thẳng đến mộ cha ngồi ôm mồ mà
khóc rống lên nghe rất thảm thiết.
Nàng khóc một hồi rồi kể rằng: “Cha ôi! Thân con đau đớn, dưới
suối vàng cha có biết cho chăng? Phận con là gái mà để ô danh xủ tiết như vầy,
chừng chết còn mặt mũi nào con dám thấy cha nữa. Cái tội con làm nhục cho tông
môn đây chẳng phải là tại con mà ra, ấy là tại loài người họ không biết trọng
nhân nghĩa, họ không biết thuơng liễu bồ, nên thân con mới đến nỗi nầy. Nếu con
không vì con Thu-Vân thì con đã tự vận mà chết hồi hôm qua rồi, có đâu con sống
tới bây giờ. Xin cha mẹ dưới cửu tuyền xét dùm phận con”.
Nàng khóc đến trưa rồi mới bồng con đi về. Nàng về vừa tới cửa
xảy gặp ông ba Cửu là người ở lối xóm, già đã gần 70 tuổi. Ông thấy nàng cặp mắt
đỏ chạch, không hiểu nàng có việc chi mà khóc như vậy, nên hỏi rằng:
- Cháu có chuyện chi mà coi bộ sầu não dữ vậy? Ông Cử có nhắn
nói chừng nào ổng xuống rước cháu hay không?
Ánh-Nguyệt tức tủi trong lòng mà từ hồi hôm qua cho đến bữa
nay nàng không tỏ với ai được, bởi vậy nàng vừa nghe ông ba Cửu hỏi mấy lời thì
nàng lắc đầu ứa lụy đáp:
- Mời bác vô nhà rồi tôi thuật chuyện cho bác nghe.
Ông ba Cửu lấy làm lạ nên đi theo Ánh-Nguyệt mà vô nhà.
Nàng mời ông ngồi rồi kể hết đầu đuôi mọi việc lại cho ông
nghe, nói rằng Hải-Yến mới gởi thơ biểu nàng lo kiếm chồng khác à làm ăn, vì
chàng kết nghĩa với nàng đó là ngẫu hiệp chơi trong lúc du học, chớ không phải
duyên nợ trăm năm chi đó mà chờ đợi. Bây giờ nàng mới biết Hải-Yến với Ðỗ-Cẩm
âm mưu mà gạt nàng, mà biết được thì đã ô dang xủ tiết rồi. Nàng nói hết rồi
nàng than rằng:
- Thân tôi bây giờ khổ lắm! Muốn chết mà thương con nên chết
không đành. Ở đây thì bơ-vơ, về xứ thì xấu hổ biết làm sao bây giờ! Trời ôi!
Tôi có tội gì mà trời đất phạt tôi nên khiến cho tôi hư danh cực trí như vầy
không biết.
Ông ba Cửu ngồi thở dài và nói rằng:
- Ðời nầy thiên hạ họ giả dối lắm; tại cháu tưởng họ biết
nhơn nghĩa như cháu nên mới lầm họ đó đa. Còn cháu kêu trời làm chi? Nếu trời đất
mà ở công bình thì đâu có chuyện như vậy. Thôi cháu đừng buồn, hãy ráng lam lũ
làm ăn mà nuôi con. Ông Cử là người có học, có lẽ một ngày kia ổng hồi tâm rồi ổng
cũng thương con ổng chớ.
Ánh-Nguyệt lắc đầu đáp rằng:
- Chừng ổng hồi tâm thì thân mẹ con tôi đã tan nát rồi còn
gì!
CHƯƠNG 10 - QUYỂN THỨ III - NẮNG TÁP MƯA SA
T
rời mưa mới tạnh, đường sá trơn-trợt bầy-lầy; cây cỏ loi-ngoi
lót-ngót. Bên hướng tây mặt trời ngó ra, chiếu nắng xuống mấy tàu lá chuối ướt,
rồi nước động trên tàu chuối dọi lại, nên chớp nháng [1] coi sáng ngời. Ở ngoài
đồng ngọn gió thổi lai-rai, đưa đẩy mấy chòm lau bóng giũ phất phơ, cộng ngã oặc-òa
oặc-oại. Con cò ngà đậu trên nhánh bần rạch, xoè cánh ra phơi; vịt xiêm[2] mái
lội xuống mé đường mương kêu con đi rút tép.
Lý-ánh-Nguyệt ngồi chồm hổm dựa cửa, ngó ra trước sân, mặt
mày buồn hiu.
Con Thu-Vân bước lẩm đẩm trong nhà, chạy vịn sau lưng, miệng
cười hịt-hạt.
Ngoài sân nước mưa còn đọng vũng; trong bụi chàng-hiu nhảy
lom-xom.
Mấy đám rau đắng đóng mọc tàn lan[3] sát cửa gốc ngập xấp-xấp,
lá ướt loi-ngoi.
Mấy về rong-rêu đóng theo đường vô nhà, chỗ thấy xanh vờn, chỗ
coi láng mướt.
Ánh-Nguyệt ngồi ngó mấy đám rau đắng, thì tủi phận mình chẳng
khác chi rau cỏ kia, thân dãi-dầu mưa nắng mà chưa hề nếm được chút ngọt bùi, rồi
nàng ngó lại mấy về rong-rêu, càng phiền não trong lòng, giận người giả dối bạc
đen, để cho mình đeo sầu, làm cho mình mang nhục, ở trong nhà tức tủi đêm ngày,
ra ngoài đường hổ ngươi cùng thiên hạ.
Con Thu-Vân đeo sau lưng kêu “má, má“; nàng ngoái đầu ngó lại,
con cười mà mẹ lụy ứa rưng-rưng.
Con Thu-Vân nay đã gần giáp hai đôi-tôi[4] rồi, coi thiệt là
ngộ-nghĩnh, môi đỏ lòm như thoa son, mắt sáng ngời như sao đóng, nước da mỏng
mà trắng nõn, cườm tay nhỏ mà no tròn, diện mạo giống hịch Từ-Hải-Yến như khuôn
đúc.
Ánh-Nguyệt một tay vịn con, còn một tay thì lấy vạt áo lau nước
mắt rồi ôm con vào lòng mà hun.
Thình-lình có dạng một người đàn bà ở xa xa đi lại gần tới cửa,
Ánh-Nguyệt lật đật đứng dậy bồng con đi vô, dường như trốn tránh, không dám để
cho thiên-hạ thấy mặt.
Tấm vách xông hư đổ xịt-xạt, nên nắng ở ngoài dọi vô nhà, vẽ
mấy khóm vàng-vàng.
Lá sấp nóc tốc bay tan-hoang nên lọt giột mưa làm khuyết bẩy
một đường ướt nhẹp.
Ánh-Nguyệt bồng con đi thẳng vô nhà sau, rồi leo lên võng mà
nằm.
Phía sau gió thổi đánh lá mái nhà nghe lạch xạch, đằng xóm
heo kêu đòi ăn tiếng ột-ẹt vang rân.
Con Thu-Vân nằm trên võng với mẹ, cứ đỏ-đẻ nói chuyện hoài.
Ánh-Nguyệt thương con mà ít dám ngó con, vì hễ ngó một hồi thì nước mắt ở đâu
cuồn-cuộn chảy ra, khó cầm cho được. Thình-lình con Thu-Vân chờn-vờn ngồi vỗ
tay trên ngực nó mà hỏi rằng:
- Cha đi đâu má?
Chết chưa! Làm sao mà trả lời!
Từ ngày con Thu-Vân biết đi biết nói thì Ánh-Nguyệt tập nó
nói đủ hết, nhưng mà chẳng hề dám dạy nó nói "cha", vì tiếng ấy hễ
nói tới thì tức-tủi đau đớn lòng nàng, nên nàng dạy không được.
Vì cớ nào bữa nay con Thu-Vân lại biết nói tiếng
"cha", mà lại còn hỏi "cha đi đâu?"
Ánh-Nguyệt làm lơ day mặt chỗ khác như không nghe.
Thu-Vân kêu hỏi nữa. Nàng không thế không trả lời được; mà trả
lời bây giờ biết nói làm sao với con?
Hải-Yến bạc bẽo đáng giận thiệt song Thu-Vân là con nít thơ
ngây chưa có trí khôn, mình có nên tập lần đặng ghi cái sự oán cha nó vào trong
trí nó hay không?
Con oán cha là một tội đại ác, dầu mình hờn Hải-Yến, song
mình không nên xúi con mang tội đại ác với đời.
Vậy mình chẳng khá tỏ lòng hờn của mình cho con biết làm chi.
Mà bây giờ nếu mình giấu-giếm, hoặc kiếm chuyện nói dối với con, thì là trái với
sự thiệt, nên mình cũng không nỡ làm. Cha chả là khó! Con nhỏ thiệt là tệ! Ai
xui khiến nó hỏi cắc cớ chi lắm vậy không biết! Nàng đương suy nghĩ, con
Thu-Vân lại hỏi nữa. Nàng cùng thế, nên lau nước mắt và thở dài mà đáp rằng:
- Cha con đi khỏi.
- Ði đâu, má?
Trời ơi! Biết nói đi đâu bây giờ! Ánh-Nguyệt chảy nước mắt dầm-dề,
song nàng gắng gượng mà nói giọng rất bi thảm rằng:
- Về An-Giang.
Thu-Vân ngước mắt ngó mẹ trân-trân một hồi rồi hỏi rằng:
- Sao mẹ khóc?
Ánh-Nguyệt lấy vạt áo đậy mặt, hết trả lời với con nữa được.
Chẳng hiểu con Thu-Vân vì thấy mẹ như vậy mà nó buồn, hay là vì nó ăn-năn mấy lời
nó mới hỏi đó, mà nó ngó dáo dác một hồi rồi nằm ngửa trên võng, nhắm riết hai
con mắt lại, cách chẳng bao lâu nó ngoẻo đầu ngủ khò.
Ánh-Nguyệt nghe con hỏi cha, thì nàng tức-tủi đau-đớn, mà vì
thương yêu con, nàng không muốn khóc, bởi vậy nàng ấm-ức trong lòng, không khóc
mà thở hơi nghe khì-khịt, không giận mà ngực nhảy coi xoi-xói. Chừng nàng nghe
con nằm im lìm, nàng dỡ áo mở mắt ra mà dòm, thì con đã ngủ lâu rồi.
Nàng chống tay ngồi dậy, sửa con nằm lại cho ngay-ngắn rồi nhẹ-nhẹ
lén bước xuống đi lấy nồi vo gạo nấu cơm chiều.
Cơm cạn rồi, nàng ra trước sân ngắt ít ngọn rau đắng đặng luộc
mà chấm mắm.
Mặt trời đã chen lặn. Ráng chiều ửng đỏ nhuộm cỏ cây một màu
vàng-vàng.
Ánh-Nguyệt lum-khum hái rau, bị ráng dọi nên da mặt trắng mà ửng
hồng-hồng.
Năm nay nàng mới vừa 25 tuổi, mà vì lắm dày bừa gió bụi, rồi
lại nặng mang niềm thảm sầu, bởi vậy tóc nàng đã thưa, thân nàng đã ốm, gò má
nàng đã thỏn, da mặt nàng lại dùn, làm cho có hai lằn nhỏ-nhỏ trên trán. Tuy
nhan sắc nàng mười phần kém hơn xưa hết hai ba phần, nhưng mà nếu ngó cho kỹ
thì thấy gương mặt nàng có vẻ nghiêm-trang tề chỉnh hơn, vóc vạc có tướng dịu-dàng
dung-dãy hơn.
Nàng hái rau mà mắt ngó chừng ra ngoài đường hoài, hễ thấy dạng
ai đi gần tới thì nàng cúi đầu xây lưng, không muốn cho họ thấy mặt. Lòng sầu
não đã chịu không được rồi, mà mặt lại hổ ngươi không thể tỏ nỗi niềm tâm sự của
mình cho ai biết, đau-đớn nầy nghĩ thử coi còn có đau-đớn nào bằng!
Cơm chín rau luột rồi, thì trời đã tối mò. Nàng sập cửa đốt
đèn rồi vô võng phá con thức dậy bồng ra để ngồi trong lòng mà đút cơm. Hễ nàng
đút cho con một miếng thì nàng và một miếng, mà phần con thì con ăn coi ngon
lành, còn phần nàng thì nàng ngồi chống đũa nhai hoài dường như nhai đất nhai
bùn, nuốt không qua khỏi cổ.
Nàng ngẩn-ngơ quên lửng thế sự đến nỗi con Thu-Vân nuốt hết
cơm rồi, phải hả miệng đòi đút cơm nàng mới nhớ mà đút cho nó một miếng cơm
khác.
Cơn nước xong rồi, Ánh-Nguyệt mới gài cửa tắt đèn bồng con vô
buồng mà vỗ ngủ.
Ngoài sân vắng-vẻ, trong nhà tối mò. Ánh-Nguyệt ôm con nằm
lim-dim, nhớ mấy lời con hỏi hồi chiều thì lòng càng thêm chua xót.
Người sao mà tệ lắm vậy! Ðã thông thuộc năm kinh ba truyện, hễ
mở miệng ra thì nói luân lý cang thường mà sao sở học với sở hành lại khác
nhau, nỡ quên câu sách "Tào khang chi thê bất khả hạ đường“, để cho phận
gái liễu bồ nhục nhã không dám trở về cố hương, mà lại còn đành bỏ con thơ
bơ-vơ không biết cha là ai nên phải hỏi.
Thói đời giả dối, càng nghĩ càng thêm phiền; lòng người bạc
đen, càng nhớ càng thêm giận. Ối thôi, ấy cũng là tại mạng số mình vô duyên nên
khiến cho mình phải chịu đau lòng hổ mặt, dầu bây giờ mình có than trời trách
người cho lắm đi nữa thì cũng đã muộn rồi. Bởi tại mình vội tin người, nên mình
mới bị người gạt-gẫm.
Bây giờ mình có con thì mình phải lo nuôi nó, chớ ngồi mà
khoanh tay mà rầu hoài đặng bỏ con chết hay sao. Vậy người ta bỏ mình thì mình
phải ráng mà lo cho thân phận mình, đừng thèm nhớ tới người vô tình bạc bẽo nữa.
Mình phải lăn-lóc rán nuôi con cho nó khôn lớn, nó không có
cha thì mình thế làm cha mà dạy nó học.
Mình kể như cha nó đã chết rồi, đừng thèm tưởng tới làm chi.
Mấy năm nay vì con còn nhỏ, mình mắc cho bú, mắc dỗ ngủ,
không đi buôn gánh bán bưng được, nên 5 nén bạc đã tiêu mòn gần hết 3 nén rồi.
Nay con đã thôi bú, vậy mình phải tính bề mà nuôi miệng nuôi con, chớ nếu ở
không hoài chừng tiêu hết mấy nén bạc rồi thì mẹ con làm sao mà sống được.
Ánh-Nguyệt suy nghĩ tới đó rồi lại tính thầm rằng:
- Bữa nay là 18 tháng 5, ngày 20 mình bồng con qua viếng ông
ngoại nó một bữa rồi sẽ tính phương buôn bán làm ăn.
Nàng còn đương bàn-hoàn suy tính, bỗng nghe ngoài đường có tiếng
đông người đi ngang qua cửa, nói chuyện lào-xào, động đất thịch-thịch.
Nàng ngóc đầu ngồi dậy dòm ra cửa, có ý lóng tai nghe coi
canh khuya rồi mà người ta còn đi đâu.
Trăng đã mọc lên cao. Cửa lá thưa-thớt nên ánh mặt trăng rọi
vô nhà thấy mờ-mờ.
Dế trốn dưới chơn giường gáy tiếng xè-xè; dơi đáp trên nhành ổi
đập cánh xạch-xạch.
Cách chẳng bao lâu, lại nghe có tiếng người đi ngang qua nhà
nữa, mà lần nầy số lại đông hơn, nên đi nghe rần-rần.
Ánh-Nguyệt lấy làm kỳ, song nàng không muốn cang dự đến việc
của người, nên nàng không để ý đến.
Nàng nằm xuống, day qua hun con hai ba cái rồi nói một mình rằng:
- Mẹ kiếp, nó mới vừa biết nói thì hỏi thăm cha! Ðồ nó là đồ
bạc, con hỏi đến nó làm chi, con? Chớ phải mà nó biết thương con, thì có đâu mẹ
con mình bơ-vơ như vầy. Vì nó mà má chịu tiếng đời cười chê, vì nó mà mấy năm
nay má đau lòng cực trí. Con có thương má thì cứ biết một mình má đây mà thôi,
đừng có thèm hỏi ai nữa hết. Mẹ con mình hẩm hút nuôi nhau cũng xong, vái trời
cho mẹ con mình mạnh giỏi thì thôi, cha con nó giàu sang thì nó nhờ, con đừng
có trông nhờ cậy nó. Nó không biết thương má, thì nó thương con bao giờ. Dầu
ngày sau con khôn lớn rồi cha con có tìm con, thì con cũng đừng thèm nhìn, nghe
hôn con.
Vì là vậy nóc nhà bị giông gió tốc làm trống lổng một đường,
nên mặt trăng dọi xuống giường sáng quắc.
Ánh-Nguyệt nựng con nói tầm phào.
Thu-Vân đương ngon giấc mà nó lại nhích miệng cười, dường như
nó chịu lãnh mấy lời nhỏ to của mẹ nó dặn.
Ánh-Nguyệt hả hơi chút đỉnh được thì nhẹ lòng thỏa dạ, mới
tính nhắm mắt mà ngủ, không thèm buồn rầu lo tính việc chi nữa. Nàng nằm
mơ-màng, cách chẳng bao lâu, bỗng nghe trong thành tiếng la vang-vầy, tiếng trống
hồi inh-ỏi.
Nàng giựt mình, lồm cồm ngồi dậy lóng tai mà nghe.
Ngoài đường thiên hạ chạy rần-rần, nàng không hiểu có việc
chi, nên lén con bước xuống đất, rồi lần ra mở hé cửa mà dòm. Ðường sá ướt-át,
mà mặt trăng tỏ rạng soi cảnh vật thấy rõ ràng. Ánh-Nguyệt ngó thấy có một tốp
đông người ở phía trong thành chạy ra, không hiểu tại họ mệt hay họ sợ, mà người
nào người nấy đều thở hào hển. Chừng họ chạy ngang qua nhà, Ánh-Nguyệt muốn kêu
hỏi thăm, mà chưa kịp hỏi, bỗng có một người trong đám ấy kêu lớn rằng:
- Hai a! Bớ Hai! Cháu thức hay là ngủ đó cháu?
Ánh-Nguyệt biết tiếng ông ba Cửu là người ở gần, nàng không
còn ái ngại chi hết, nên vùng dỡ cửa chun ra và nói rằng:
- Dạ, cháu thức đây. Bác kêu chi vậy bác? Có việc chi mà
trong thành nổi trống quân …
Nàng nói chưa dứt câu, thì ông ba Cửu nói tiếp rằng:
- Có giặc! Có giặc! Chạy trốn đi cho mau, kẻo chết bây giờ.
Nàng nghe mấy lời thì kinh tâm thất sắc, bủn rủn tay chơn, muốn
hỏi nữa, mà ông ba Cửu đã chạy xa rồi, nàng hỏi không kịp. Nàng chắc lưỡi nói
có ba tiếng:
- Trời đất ôi!, rồi dỡ cửa chun vô nhà hai tay xốc bồng lấy
con mà chạy ra ngoài sân nữa.
Lúc ấy thiên-hạ chạy tới càng đông hơn nữa: kẻ mang gói, người
cỏng con, kẻ dắt cha, người dắt vợ, ông già lụm-cụm trợt té bò càn, con nít
lao-nhao sợ khóc thút-thít. Ánh-Nguyệt thấy vậy càng thêm kinh hãi, nên bồng
con nhập vào đám đông mà chạy theo họ, không biết chạy đi đâu, không kịp đem vật
chi theo hết.
oOo
Người đời nay ai nghe nói "Giặc Khôi", thì cũng tưởng
là giặc chòm giặc khóm, tùng tam tụ ngũ rồi nổi lên đặng cướp giựt của lương
dân, hoặc khuấy rối trong thôn xã.
Có người không rõ căn nguyên lại khinh khi Lê-văn-Khôi đến nỗi
con hư thì mắng nó là đồ "Ngụy Khôi đầu thai", coi Khôi như người nghịch
của mình, tưởng Khôi là một tên đê tiện.
Ðã biết người viết tiểu-thuyết không nên dành nghề với người
chép sử ký.
Nhưng vì giặc Khôi có can thiệp với những người thuộc trong bộ
tiểu-thuyết nầy, bởi vậy dầu không muốn cũng nhắc sơ truyện giặc Khôi cho độc
giả dễ hiểu.
Ai có đọc Việt-Nam sử-ký thì cũng đều biết, lúc gần hết thập
bát thế kỷ chúa Nguyễn bị binh Tây-Sơn thâu đoạt giang san; Ðịnh-vương với Ðông-cung
đều bị Nguyễn-Huệ và Nguyễn-Lữ bắt giết hết. Nguyễn-phước-Ánh, là cháu Ðịnh-vương,
chiêu mộ anh hùng, viện binh Pháp-quốc, xung đột với Tây-Sơn trót 24 năm.
Ðến năm Tân-Dậu (1801) Nguyễn-phước-Ánh mới lấy đô-thành
Phú-Xuân (Huế) lại được rồi qua năm sau lên ngôi vua, xưng hiệu là Gia-Long.
Tuy vua Gia-Long có cậy sức ngoại bang giúp, song ngài thâu phục cơ phục nghiệp
của chúa Nguyễn lại được, nhứt là thống nhứt sơn hà từ Nam chí Bắc, thiệt phần
nhiều là nhờ công lao tài cáng của các đứng anh-hùng nghĩa-sĩ trong nước là mấy
ông: Ðỗ-thanh-Nhơn, Châu-văn-Tiếp, Tôn-thất-Hội, Võ-Tánh, Nguyễn-huỳnh-Ðức,
Nguyễn-văn-Thành, Lê-văn-Duyệt, Lê-Chất, Nguyễn-văn-Trương, Võ-duy-Nguy v.v.
Vua Gia-Long trị vì được 18 năm.
Lúc ngài gần băng thì những vị khai quốc công thần lần hồi đã
chết hết rồi, duy còn có một ông Tả-Quân Lê-văn-Duyệt, đương làm chức Nam-thành
Tổng-trấn mà thôi.
Ngài mới triệu quan Tả-Quân về kinh mà thương nghị việc lập
hoàng Thái tử để nối ngôi cho ngài. Ngài tỏ ý muốn lập ông Hoàng-Ðảm. Ông
Lê-văn-Duyệt không vừa lòng, ông muốn lập con của Ðông-Cung Cảnh, nên ông tâu rằng:
"Ðích tôn thừa trọng”. Vua phán rằng con của Ðông-Cung Cảnh còn nhỏ, không
thế cầm quyền cả được, mà ông Hoàng-Ðảm thì lớn tuổi, lại tư chất thông minh,
ham học, hay làm, nên vua không nghe lời Tả-Quân, nhứt định lập ông Hoàng-Ðảm.
Ông Lê-văn-Duyệt không dám cãi, song ý ông không vui.
Vua sợ ngày sau ông không phục ông Hoàng-Ðảm rồi sanh rối,
nên phải bắt ông Hoàng-Ðảm làm con nuôi ông Lê-văn-Duyệt.
Ðến năm Kỷ Mão (1819) vua Gia-Long băng.
Ông Lê-văn-Duyệt hay tin lật đật về kinh mà chịu tang. Song về
triều ông không thèm yết-kiến Ðông-Cung, làm cho Ðông-Cung phải cà rà trước
cung Thái-Hậu mà chờ chực. Vì ông không dám cãi di-chiếu nên cực chẳng đã ông
phải tôn Ðông-Cung Ðảm lên ngôi, xưng hiệu là Minh-Mạng, nhưng mà tôn vương rồi,
thì ông bỏ đi Gia-Ðịnh liền, không chịu chầu vua.
Ông Lê-văn-Duyệt đã không phục vua Minh-Mạng rồi, mà đến chừng
ông hay tin vua hãm hại vợ con của Ðông-Cung Cảnh, thì ông càng bất bình, không
thèm kể triều đình nữa.
Ở trong Gia-Ðịnh ông hoành hành, muốn làm việc gì tự ý ông định,
không cần tâu cho vua hay. Ông cho tàu ngoại quốc vô ra buôn bán thong-thả, ông
cho phép mấy linh-mục đi truyền đạo Thiên-Chúa, ông sai sứ qua giao-hảo với Miến-Ðiện,
ông lãng bảo-hộ nước Cao-Mên, ông phá rừng lấy cây đóng chiến thuyền, ông bắt
dân đào kinh Vĩnh-Tế, rồi tích trữ lương thực tính đi đánh Xiêm-La, làm cho vua
Xiêm sợ phải đem lễ vật tấn cống.
Vua muốn rõ việc hành tàng của ông, mới sai Huỳnh-công-Lý là
cha của vị vương-phi, vào lãnh chức Nam-Thành Ký-lục để thám dọ tình hình.
Lúc ấy trong Gia-Ðịnh chưa phân tỉnh, nên trên thì chức Tổng-Trấn,
dưới thì chức Ký-lục coi việc thâu thuế, điền lính. Huỳnh-công-Lý, là cha của một
vị vương-phi, vào lãnh chức Nam-thành Ký-lục để thám dọ tình hình.
Huỳnh-công-Lý ỷ thế cha vợ vua không ai dám làm tội, nên hà
khắc nhơn dân.
Ông Lê-văn-Duyệt bắt hạ ngục rồi chạy sớ về kinh cho triều
đình định tội.
Ông Lê-văn-Duyệt biết trước hễ giải về kinh thì vua tha, bởi
vậy ông chém Huỳnh-công-Lý rồi gởi cái đầu về Huế.
Vua Minh-Mạng nghĩ công khai quốc, lại vị tình thượng phụ,
nên trót mấy năm trường quan tả quân khinh dể triều đình thái thậm, nhưng mà
ngài cứ dằn lòng mà chịu, không nỡ bắt tội.
Ðến chừng chém tới Huỳnh-công-Lý thì ngài giận quá, ngài mới
trù hoạch kế sách mà trừ quan Tả-Quân.
Cái kế sai người vào Nam-Thành ăn cắp ấn của tổng trấn là kế
hay lắm, rủi thay thằng ăn trộm bị bắt nên lậu mưu, hết làm chi được. Mà quan Tả-Quân
thiệt cũng là một đấng trí lược ít ai bì kịp.
Các quan xin tra vấn thằng ăn trộm coi ai xúi nó đi ăn cắp
như vậy.
Quan Tả-Quân nói rằng: “Tra vấn làm gì? Nó khai ra càng thêm
xấu chớ có ích lợi chi đó. Ðem chém phứt đi”.
Các quan phải vưng lịnh chém liền.
Bởi các cớ bày giải trước đó nên vua Minh-Mạng không ưa quan
Tả-Quân, mà quan Tả-Quân cũng không ưa vua Minh-Mạng.
Ðến ngày 30 tháng 7 năm Nhâm-Thìn (1832), quan Tả-Quân
Lê-văn-Duyệt mất lộc. Vua liền bãi chức Nam-Thành-Tổng-Trấn, chia đất Gia-Ðịnh
ra làm sáu tỉnh và đặt chức Tổng-Ðốc, Tuần-Phủ, Bố-Chánh, Án-Sát, Lãnh-Binh để
cai trị mỗi tỉnh.
Thành Gia-Ðịnh thuộc vào tỉnh Phan-Yên. Vua sai ông Nguyễn-văn-Quế
làm Tổng-Ðốc, ông Bạch-xuân-Nguyên làm Bố-Chánh, ông Nguyễn-chương-Ðạt làm
Án-Sát.
Vã Bạch-xuân-Nguyên ngày trước có giúp việc với quan Tả-Quân,
nhơn vì có tánh tham-lam gián tà, nên quan Tả-Quân cách chức đuổi về kinh. Anh
ta về Huế lập mưu thiết kế thế nào không biết, mà triều đình lại trọng dụng, rồi
chừng nghe tin quan Tả-Quân mất, vua lại phong tới chức Bố-Chánh tỉnh Phan-Yên
và giao mật chỉ dạy vào tra xét các việc riêng của quan Tả-Quân làm khi ngài
còn sanh tiền.
Bạch-xuân-Nguyên vừa tới Gia-Ðịnh thì tra xét lăng-xăng, đòi
hỏi chứng cớ, bắt những người thủ-hạ và người tâm phúc của quan Tả-Quân mà hạ
ngục hết thảy.
Vã quan Tả-Quân Lê-văn-Duyệt là một vị khai-quốc công-thần,
trót 15 năm trời trải nắng dầm mưa, xông tên lướt đạn mà giúp vua Gia-Long thâu
phục giang sơn cũ.
Ðã vậy mà ngài làm chức Tổng-Trấn đất Gia-Ðịnh gần 20 năm,
thi ân bố đức, chánh trực công bình, trong sạch, kẻ tà khiếp oai, ngoài lân
bang nễ mặt, bởi vậy từ quan chí dân chẳng ai mà chẳng kính phục yêu mến.
Nay ngài vừa mới mất mà Bạch-xuân-Nguyên muốn làm nhục thinh
danh phẩm giá của ngài, nên kiếm chuyện tra xét, bởi vậy ai nghe cũng đều tức
giận, mà nhứt là bọn thủ-hạ của ngài lấy làm oán trách, ứa mật sôi gan không thế
dằn được.
Trong đám thủ hạ có Lê-văn-Khôi là người võ nghệ cao cường,
làm quan tới chức Phó-vệ-úy, mà cũng bị Bạch-xuân-Nguyên bắt giam vào ngục nữa.
Khôi là nguời gốc ở tỉnh Cao-Bằng, ngoài Bắc-Kỳ thiệt tên là
Nguyễn-hữu-Khôi.
Vì ngày trước anh ta dấy binh làm loạn, bị quan quân đánh đuổi,
anh ta yếu thế cự không lại, mới chạy vào Thanh-Hoá, may gặp quan Tả-Quân
Lê-văn-Duyệt, anh ta ra xin đầu thú.
Quan Tả-Quân thấy Khôi có tài, bèn xin với vua Gia-Long tha tội,
rồi ngài nhận làm con nuôi, đổi họ lại mà kêu là Lê-văn-Khôi, và đem về Gia-Ðịnh
tin dùng, cho làm quan lần lần phong đến chức Phó vệ-úy.
Lê-văn-Khôi bị Bạch-xuân-Nguyên bắt giam trong ngục, chẳng phải
là sợ tội nên kiếm thế thoát thân, ấy là vì giận Triều đình vội quên công lao của
đứng khai-quốc đại thần, đã không kính trọng bực tiền hiền, lại còn dám cả gan
kiếm chuyện làm nhục. Khôi hỏi những người trong ngục vậy chớ ai dám lấy máu mà
rửa hờn cho quan Tả-Quân hay không?
Chẳng những bọn thủ-hạ của quan Tả-Quân mà thôi, thậm chí
lính coi ngục phần nhiều cũng tình nguyện theo Khôi, quyết ra sức anh-hùng đặng
trừng trị kẻ vong ân bội nghĩa.
Lê-văn-Khôi thấy dân tâm dường ấy lấy làm đắc chí, nên khắc kỳ[5]
rồi đến đêm 18 tháng 5 năm Quý-Tỵ (1833) mới giựt khí giái[6] phá cửa khám dắt
nhau ra hết.
Khôi cầm đầu kéo dân đi riết lại vây dinh quan Bố-Chánh Bạch-xuân-Nguyên,
quyết bắt giết mà rửa hờn. Bạch-xuân-Nguyên kinh hãi bỏ chạy ra ngoài trốn.
Khôi kiếm không được thì giận quá, nên bắt giết hết cả nhà Bạch-xuân-Nguyên.
Khôi lại nghi cho Bạch-xuân-Nguyên chạy qua dinh quan Tổng-Ðốc,
bèn kéo quân qua đó mà kiếm nữa.
Quan Tổng-Ðốc Nguyễn-văn-Quế nghe quân báo rằng Lê-văn-Khôi
muốn làm dữ nên vây quan Bố-Chánh, thì ngài lật-đật đem quân đến cứu. Ði nửa đường
gặp bọn Lê-văn-Khôi kéo qua. Khôi lầm tưởng quan Tổng-Ðốc là Bạch-xuân-Nguyên,
nên xốc tới đánh giết quan Tổng-Ðốc với bọn tùy tùng không còn sót một người.
Người ở trong thành thảy đều kinh hãi; bực quan lại sợ Khôi
không dung, nên chạy trốn chẳng nói làm chi, thậm chí bực bình dân chẳng hề dám
binh ai bỏ ai. Mà thấy quan Tổng-Ðốc bị giết cũng sợ liên lụy, nên dắt vợ cõng
con kéo nhau mà chạy.
Ông ba Cửu kêu Lý-ánh-Nguyệt mà biểu chạy đó là chạy giặc nầy,
giặc Lê-văn-Khôi rửa nhục cho quan Tả-Quân.
Giặc anh-hùng vì ân nghĩa, vì phẩm giá mà nổi lên, chớ không
phải là muốn cướp giựt của lương-dân, hay là muốn khuấy rối trong xã-hội.
Lê-văn-Khôi phá ngục mà ra, sơ tâm quyết giết cho được Bạch-xuân-Nguyên
mà rửa hờn cho Tả-Quân chớ không phải muốn sát hại Nguyễn-văn-Quế. Ðến chừng giết
lỡ quan Tổng-Ðốc rồi biết mình giết lầm, bề nào cũng chẳng khỏi tội bội phản,
nên phải làm luôn, truyền cho người trong đảng tìm mà bắt cho được Bạch-xuân-Nguyên,
đừng để cho nó thoát về kinh. Dân đáo soát, đến sáng mới gặp Bạch-xuân-Nguyên
đương ngồi chồm-hổm tay chơn run lập cập, trong đám bắp ở phía sau đình, bèn bắt
trói đem nạp cho Khôi. Còn quan Án-Sát với quan Lãnh-Binh thấy binh lính phần
nhiều đều theo Khôi hết thảy, thế Khôi mạnh mẽ không dám chống cự, nên trà trộn
với dân thoát khỏi thành rồi trốn đi mất.
Khôi thấy mặt Bạch-xuân-Nguyên thì lửa giận phừng phừng, mà rồi
thấy Nguyên run-rẩy sợ chết, thì lấy làm khinh bỉ, không thèm mắng nhiếc chi hết,
cứ biểu nấu sáp rồi bắt Bạch-xuân-Nguyên lăng đèn đem để tế Tả-Quân.
Tế lễ xong rồi, Khôi mới hội chư tướng mà thương nghị việc
thâu phục 6 tỉnh và việc ngăn đón binh triều. Chư tướng đồng cử Lê-văn-Khôi làm
Ðại-Nguyên-Soái. Khôi nhận chức, mới sắp đặt binh cơ, phong cáo:
Thái-công-Triều với Lê-đắc-Lực quản trung quân, Nguyễn-văn-Ðà
với Nguyễn-văn-Tông quản tiền quân, Dương-văn-Nhã với Huỳnh-Nghĩa-Thơ quản tả
quân, Võ-vĩnh-Tiền với Võ-vĩnh-Tài quản hữu quân, Võ-vĩnh-Lộc với Nguyễn-văn-Bột
quản hậu quân, Lưu-Tín với Trần-văn-Tha quản thủy quân, Nguyễn-văn-Tâm với Nguyễn-văn-Chơn
quản tượng quân.
Ðại-Nguyên-Soái Lê-văn-Khôi lại đặt đủ quan văn để chuyên việc
cai trị, tổ chức rành rẽ như một triều đình ở trong đất Gia-Ðịnh. Sắp đặt an
bài rồi, Khôi mới sai Thái-công-Triều dẫn binh đi thâu phục các tỉnh.
Trong 6 tỉnh ai cũng mến đức quan Tả-Quân, mà ai cũng biết
Lê-văn-Khôi, nên Thái-công-Triều đi đến chỗ nào quan sở tại cũng quy thuận, chẳng
ai chống cự, bởi vậy Lê-văn-Khôi lãnh chức Ðại-Nguyên-Soái mới một tháng thì 6
tỉnh trong đất Gia-Định đều thuộc về trong tay hết.
Triều-đình được tin Lê-văn-Khôi giết quan trấn Gia-Ðịnh rồi
điều binh khiển tướng thâu phục các tỉnh, thì sợ nếu để diên trì, thế Khôi càng
thêm mạnh, ắt khó mà trừ được, bởi vậy vua Minh-Mạng liền sai Tống-phước-Lương
làm Thảo-nghịch tả-tướng-quân, có Nguyễn-Xuân làm Tham-tán và sai Phan-văn-Túy
là Thảo-nghịch hữu-tướng-quân, có Trương-minh-Giảng làm Tham-tán, hiệp với
Bình-khấu tướng-quân Trần-văn-Năng, rồi người lãnh thủa-binh, người lãnh bộ-binh,
người lãnh tượng-binh, kéo vào đánh Lê-văn-Khôi mà thâu đất Gia-Ðịnh lại.
Lê-văn-Khôi biết trước hễ mình độc lập thế nào triều-đình
cũng không nhịn, nhưng mà đến chừng nghe binh triều sắp kéo vô thì trong lòng
có hơi lo, bởi vậy mới sai người đi các tỉnh chiêu tập những nghĩa-sĩ anh hùng
để làm trảo nha[7] mà chống cự với binh triều.
oOo
Dựa mé sông Vũng-Gù, thuộc trong phủ Tân-An, tỉnh Ðịnh-Tường,
có một xóm không đông cho lắm, đếm hết thảy được có chín cái nhà, mà ở giữa xóm
có một tòa nhà lớn tốt hơn hết, ở trong làng người ta kêu là nhà ông Chấn.
Nhà ông Chấn cất day cửa xuống mé sông, mà trước cửa ông lại
trồng cây leo cặp làm hàng rào kín-mít, dường như ý ông không muốn quan làng
dòm thấy tài sản của ông, hoặc không muốn ngoại nhơn hiểu biết việc gia đình của
ông vậy. Phía sau hè ông có lập một thớt vườn gần một mẫu, trồng cau ngay hàng
ngay lối mà giữa liếp cau, chỗ thì ông trồng xen ổi, chỗ thì ông xen trầu. Phía
ngoài ông lại trồng mấy hàng dừa xiêm bao vòng, rồi ngoài nữa ông mới trồng tre
gai, đặng chận kẻ gian không cho chun vô mà bẻ trộm cau, hoặc hái trộm ổi của
ông được.
Nhà lớn ở giữa, bên tay mặt có một cái chuồng nhốt hơn một chục
con trâu, bên tay trái có một cái lẫm[8] chứa gần ba ngàn giạ lúa. Sân thì lớn
mà không trồng bông hay là trồng kiểng chi hết, chỗ thì để trống đặng làm sàn đạp
lúa, chỗ thì trồng rau húng, bạc-hà để ăn cá, nấu canh.
Ông Ðàm-tự-Chấn là chủ nhà nầy tuổi đã chừng năm mươi lăm rồi,
mà vóc-vạc vạm-vỡ, sức-lực mạnh-mẽ, ông làm xốc-vác chẳng thua gì trai 25 tuổi.
Ông góa vợ đã 20 năm rồi, chẳng hiểu tại ông thương bạn xưa hay tại ông sợ cưới
vợ khác thêm miệng ăn, mà bấy lâu nay ông không chịu chấp nối. Ông không có con
trai, chỉ có hai đứa con gái mà thôi.
Con gái lớn của ông tên là Ðàm-kim-Huê, lúc nầy đã được 33 tuổi
rồi mà chưa chịu lấy chồng.
Còn con gái nhỏ tên là Ðàm-kim-Diệp, 26 tuổi, có chồng rồi lại
có một đứa con trai được 6 tuổi.
Ông Ðàm-tự-Chấn có học nho chút đỉnh, mà ở đời ông tập tánh
ham làm giàu, chớ ông không ưa thú thanh nhàn, bởi vậy ông có cơm tiền nhiều rồi,
mà ông cũng cứ lăn-lốc theo nghề nông, có khi thiếu bạn [9] ông ra ruộng cầm
cày, có lúc rảnh rang ông vô vườn mà bồi liếp. Ông thủ phận làm ăn, chẳng hề cậy
mượn ai, mà cũng chẳng hề gây-gỗ với ai, chẳng hiểu tại sao ông sợ quan sợ
làng, dầu quan làng làm quấy đi nữa ông cũng không dám cãi, mà còn cho là nói
đúng làm phải.
Hai nàng con gái của ông dung nhan đều đẹp-đẽ, tánh nết đều
hiền-lương, mỗi ngày cứ lúc-thúc ở trong nhà lo may áo nấu cơm tuy là con nhà
giàu, không ỷ của mà hà hiếp tôi tớ.
Tuy nói tánh hai nàng đều hiền-lương nhưng mà có chỗ không giống
nhau-- Kim-Huê thì hòa-huỡn chẫm-rãi, những tôi tớ trong nhà dầu thương đứa nào
cũng không tỏ cho nó biết. Còn Kim-Diệp thì nóng-nảy hốc-tốc hễ trái ý thì nói
liền, không chịu dằn lòng, hễ thương ai thì tỏ ngay không biết dè dặt.
Bởi tánh nết Kim-Diệp như vậy, nên ngày trước nàng đi cúng
chùa về dọc đường bị ăn cướp chận ghe mà bắt. Nàng than trời trách đất, tưởng
chút thân bồ liễu đã phải gãy nhánh lìa hoa, may đâu có một vị tráng-sĩ, cũng một
tuổi với nàng, tên là Vương-thể-Hùng. Người võ nghệ cao cường tánh tình khẳng-khái,
gặp nàng bị nạn bèn đánh ăn cướp chạy hết mà cứu nàng, rồi hỏi nàng ở đâu mới
đưa nàng về tới nhà. Ðàm-tự-Chấn nghe con thuật chuyện ấy lại thì ông cảm mến
ân đức của Thể-Hùng, nên lật-đật lấy 5 nén bạc mà đền ơn đáp nghĩa. Thể-Hùng
không chịu nhận của ấy, liền từ rồi xuống ghe mà đi. Ðàm-tự-Chấn đền ơn không
được, ông lấy làm ái-ngại, nên chạy theo hỏi thăm quê quán tên họ thì Thể-Hùng
nói mình ở Bến-Lức rồi chèo ghe đi mất.
Kim-Diệp cảm nghĩa đêm nào nằm trong phòng một mình vắng vẻ,
nàng cũng nhớ ơn-nhơn, nhớ riết rồi nàng lại động tình, lần lần sanh bịnh tương
tư ăn ngủ không được. Chưa đầy một tháng mà tinh thần mờ mệt, hình vóc ốm-o, ngồi
hay ngó sững trí lãng lơ, nằm hay mơ-màng lòng lạnh-ngắt.
Ðàm-tư-Chấn mắc lo ruộng, vườn, trâu, lúa, không có giờ mà
dòm ngó đến con, bởi vậy Kim-Diệp ốm ông không hay, Kim-Diệp sầu ông không biết.
Một đêm nọ, lúc canh ba, Kim-Huê thức dậy thấy em đương ngồi
ngó đèn mà nước mắt rưng rưng, biết em có tâm-bịnh, bèn lấy lời dịu ngọt mà dọ
ý. Kim-Diệp đau đớn trong lòng mà không thố-lộ ra được thì lấy làm khó chịu, bởi
vậy vừa nghe chị hỏi thì nàng khóc mướt, rồi ngồi khẽ-khàng[10] tỏ nỗi tương-tư
cho chị nghe.
Nàng nói rằng chẳng hiểu tại ai xui khiến mà từ ngày Vương-thể-Hùng
cứu nàng rồi, đêm nào nằm nhắm mắt cũng thấy hình dạng Thể-Hùng trước mặt hoài,
nàng muốn làm lơ lại càng thấy thường hơn, nàng muốn giả quên lại càng nhớ nhiều
nữa. Nàng lại nói nếu nàng không kết tóc trăm năm ngõ đền ơn đáp nghĩa cho Thể-Hùng
được, thì chắc nàng phải buồn rầu mà chết. Kim-Huê dùng lời ngon-ngọt mà khuyên
giải em và hứa sẽ nói giúp với cha đặng cho người đi tìm Thể-Hùng mà tính việc
giai-ngẫu.
Sáng bữa sau Kim-Huê vì thương em, sợ em mang bịnh, mới thỏ-thẻ
tỏ tâm sự của em cho cha nghe, và xin cha vui lòng mà định chữ vu quy cho em,
trước tròn nghĩa tròn ân, sau khỏi sầu khỏi não. Ðàm-tư-Chấn nghe nói chuyện đó
thì ông giận. Kim-Diệp làm con gái không biết trọng danh-tiết, cha mẹ không định
mà dám trộm nhớ thầm yêu con trai, bởi vậy ông chau mày xụ mặt mà đáp rằng:
- Thứ đồ hư, nó chết đau thì chết cho rảnh. Làm con gái mà muốn
làm nhục tông môn, thì sống càng thêm xấu chớ có ích gì.
Kim-Huê thấy cha giận thì không dám nói nữa. Ông ngồi lặng
thinh ngó ra sân một hồi rồi nói tiếp rằng:
- Không được, bộ thằng đó tao coi nó dữ tợn lắm, chớ không phải
là đứa hiền lương. Tao có kén rể là kén đứa biết lo mần ăn, chớ kén đứa phóng
túng buông lung mà làm gì. Ðã biết Thể-Hùng nó cứu con Kim-Diệp, thì tao mang
ơn nó, mà mang ơn thì tao mang ơn, tốn hao bao nhiêu tao cũng không nại, chớ gả
con cho nó sao được.
Ông nói dứt rồi đứng dậy đi ra sau vườn.
Kim-Huê đem mấy lời ấy mà thuật lại cho em nghe, thì Kim-Diệp
không dám phiền cha, song nàng đau lòng tủi phận, nên ngồi khóc rấm rức.
Kim-Huê thấy tình cảnh như vậy thì nàng động lòng, nhưng vì nàng thật thà,
không còn lời chi mà khuyên dỗ em nữa, nên nàng ngó em mà khóc, không nói tiếng
chi hết.
Kim-Diệp rầu buồn bỏ ăn bỏ ngủ, cách vài ngày thì nàng mang bịnh
cứ thiếp-thiếp hoài. Kim-Huê lo sợ, mới khóc-lóc năn-nỉ với cha, xin cha thuận
tình gả Kim-Diệp cho Thể-Hùng, vì nếu khắn-khắn ôm lòng giận Kim-Diệp hoài, thì
sợ e nó buồn rầu rồi không khỏi tuyệt mạng. Ðàm-tự-Chấn giận mà cũng thương
con, bởi vậy ban đầu thì ông gắt-gao, mà chừng thấy con mang bịnh rồi thì ông bối-rối,
lật-đật sai người nhà chèo ghe lên Bến-Lức tìm Thể-Hùng mời xuống cho ông nói
chuyện.
Vả Ðàm-tự-Chấn là người chơn-chất thiệt-thà, không môi miếng,
bởi vậy Vương-thể-Hùng đến nhà thì ông đem việc Kim-Diệp tương-tư mà tỏ thiệt hết
cho Thể-Hùng nghe, rồi hỏi Thể-Hùng như có bằng lòng thì ông gả Kim-Diệp cho.
Thể-Hùng ngồi suy nghĩ một hồi lâu rồi nói rằng:
- Cháu là con mồ-côi, từ nhỏ chí lớn cháu tập tánh giang hồ
quen rồi; ở đời cháu ưa làm nhơn nghĩa chớ không ưa hưởng phú quí. Vả bác là một
ông phú-hộ, còn cháu là một đứa bần-hàn. Nay bác thương tình gả con cho cháu, lẽ
thì cháu phải lạy mà vưng lời, ngặt vì thuở nay cháu chưa tính lập gia thất, lại
cũng không tính lo làm ăn, cháu sợ vào làm rể nhà bác, cháu đã không giúp ích
cho bác được, mà lại còn không làm cho bác vui lòng được nữa.
Ðàm-tự-Chấn mới thấy tướng Thể-Hùng một lần đầu, thì ông đã
không ưa rồi, ông kêu gả con ấy là bất đắc dĩ ông phải kêu, chớ không phải tự ý
ông muốn; nay ông nghe mấy lời ấy nữa thì ông ngẩn-ngơ dụ dự, tính ép thì ông
không nỡ ép mà tính thôi thì ông sợ nỗi con nên ông không đành thôi.
Ông ngồi gãi đầu mà suy nghĩ; ông đo đắn trong lòng thì cái
tình thương con nó nặng hơn cái ý riêng của ông, bởi vậy ông trầm-ngâm một hồi
rồi ông năn-nỉ khuyên Thể-Hùng thuận tình đặng chi Kim-Diệp khỏi thất tình vong
mạng. Thể-Hùng nghe cái tình của Kim-Diệp như vậy thì chàng không nỡ kháng cự,
mà nghe ông nói đã cạn lời, chàng không nỡ chối từ, bởi vậy chàng xiêu lòng, chịu
cưới Kim-Diệp và chịu ở luôn tại đó.
Từ ngày Thể-Hùng với Kim-Diệp thành hôn rồi thì chồng thương
vợ, vợ kính chồng, chẳng hề có một lời chi xích-mích.
Kim-Diệp phỉ nguyền mơ ước, nên đã hết buồn rầu, mà lại được
tươi cười. Kim-Huê có công cứu mạng em, nàng toại chí nên nàng cũng vui mừng.
Duy có ông Ðàm-tự-Chấn vì tánh ý của Thể-Hùng không thích hiệp với tánh ý của
ông, nên ông không được vui, bởi vậy ở chung một nhà mà ít khi ông ngồi nói
chuyện với chàng rể.
Thể-Hùng ở với Kim-Diệp đến năm Mậu Tý (1828) sanh được một đứa
con trai rồi chàng nhớ thú giang hồ, nhớ tình bậu bạn nên trong lòng không vui.
Kim-Diệp thấy chồng ngơ-ngẩn, tưởng chồng có chỗ phiền mình, nên theo thỏ-thẻ
mà hỏi cho rõ duyên cớ. Thể-Hùng tỏ thiệt với vợ rằng mình là một trang
nghĩa-sĩ, tánh khí buông lung, vì lục đục ở nhà hoài nên trong lòng không vui,
chớ không có phiền trách chi hết. Kim-Diệp biết được tâm-sự của chồng rồi thì
nàng cười mà nói rằng:
- Ngày trước anh cứu em khỏi tay kẻ dữ, sau anh lại cưới em đặng
cứu em khỏi buồn rầu. Ơn anh cứu em hai lần, mà em chưa đền đáp cho anh được một
lần nào hết, có lý nào em dám ràng buộc làm cho anh bực chí buồn lòng. Anh có
buồn thì cứ đi chơi mà giải khuây. Em chẳng phải như đàn bà khác vậy đâu. Em có
chồng thì lo trưởng chí cho chồng, ví dầu phỉ chí chồng mà em phải chích bóng
cô phòng trọn đời thì em cũng vui, chẳng hề khi nào em phiền trách.
Thể-Hùng nghe vợ phân mấy lời hữu tình hữu nghĩa thì lấy làm
cảm phục, nên không thèm tính đi giao du nữa.
Ngặt vì cái thói giang hồ tập từ nhỏ đã quen rồi, bây giờ
không bỏ được, bởi vậy cách chẳng bao lâu Thể-Hùng mới nói với vợ và cha vợ đi
thăm anh em chơi ít ngày. Ban đầu chàng đi chơi chừng 10 bữa rồi trở về. Lần lần
chàng đi tới nửa tháng hoặc hai mươi ngày. Ðến sau chàng đi một hai tháng mới về
một lần, mà về nhà ở chừng năm mười bữa rồi chàng đi nữa. Có khi chàng lại rước
bậu bạn về nhà đãi đằng lưu liên, ban mai uống rượu làm thơ, ban chiều tập luyện
võ nghệ, đã không giúp đỡ cho cha vợ trong việc ruộng vườn, mà còn nhọc lòng mệt
trí cho ông nữa.
Ðàm-tự-Chấn phiền trong lòng, mà ban đầu ông làm lơ, không muốn
nói ra. Lần lần ông dằn không được nữa, nên ông phải tỏ lời phiền trách. Thể-Hùng
không dám cãi lẽ với ông, mà chàng cũng cứ đi chơi hoài, song thấy ông bất
bình, nên không dám dắt khách về nhà nữa.
Kim-Diệp hai vai gánh nặng, một bên thì kính mến cha, một bên
thì kính mến chồng, nàng không biết liệu thế nào cho cha với chồng khỏi
xích-mích, nên cứ theo năn-nỉ cha dung thứ chồng đặng phỉ chí giang hồ, rồi lại
năn-nỉ chồng đừng có cãi lẽ với cha, mà mất niềm hòa khí.
Cảnh gia đình của ông Ðàm-tự-Chấn, lúc viết truyện nầy thì là
vậy đó.
Ông thì chuyên lo vườn ruộng, mà trong lòng thì phiền trách
Thể-Hùng.
Thể-Hùng thì giao du với chúng bạn, không cần danh lợi.
Kim-Diệp thì lo nuôi con, lại lo cho cha với chồng khỏi mích
nhau.
Còn Kim-Huê thì lo việc nhà, không tính việc tóc tơ chi hết.
Chú thích:
[1] nhoáng
[2] vịt xiêm có lông nâu, cánh có xen lông màu tím, mõ nâu,
trái lại vịt ta có lông trắng mõ vàng
[3] tùm lum: trạng thái lan rộng và lộn lộn
[4] thôi nôi
[5] hẹn ngày giờ
[6] khí giới
[7] quân, tướng trừ bị
[8] Kho chứa
[9] người làm mướn
[10] tỉ tê
CHƯƠNG 11 - QUYỂN THỨ III - NẮNG TÁP MƯA SA
L
úc nửa chiều, mặt trời thấp-thoáng trên ngọn cau sau vườn,
làm cho ngoài sân bóng dọi chỗ mát chỗ nắng. Con chó mực nằm khoanh trước cửa,
mắt nhắm lim-dim. Gà mái xám dắt bầy con xẩn-bẩn theo lúa, mẹ đi trước bộ na-nần,
con đi sau kêu chéo-chét. Bầy trâu đen đứng trong chuồng vinh râu nhơi [11] cỏ,
mũi thở khì khịt, đuôi ngoắc phất-phơ.
Ông Ðàm-tự-Chấn ngồi dưới mái hiên chẻ tre đương rổ, trí mắc
lo công việc làm, nên không thấy cảnh thú tiu-hiu.
Ðàng kia nàng Kim-Diệp tay vịn vai thằng con, tay thò chọc
con két, bộ khí chơi ở đây, mà lòng thì tưởng ở đâu.
Con két chớp cánh rồi hả miệng cạp tay nàng làm cho thằng con
của nàng, tên là Vương-thể-Phụng, năm nay được 6 tuổi, sợ mẹ nó trầy tay, nên
trợn mắt dậm chơn la “két! két!”.
Nàng Kim-Diệp ngó con mà cười song nếu ai coi cho kỹ thì ắt
thấy vẻ cười của nàng có xen lộn nét lo.
Nàng liếc mắt dòm cha, rồi lại ngó ra trước cửa, bộ coi lơ lửng
dường như trông ai đợi ai.
Cách chẳng bao lâu Vương-thể-Hùng ở ngoài hàng rào bước vô
sân, thấy vợ con đương đứng trước cửa thì chúm-chím cười. Thể-Phụng mừng cha,
nên chạy ra nói lăn-líu.
Thể-Hùng dắt con đi lại chỗ Ðàm-tự-Chấn ngồi chẻ tre chấp tay
cúi đầu xá ông và nói rằng:
- Thưa cha, con đi chơi mới về.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét