Thứ Hai, 4 tháng 12, 2023

Người thất chí 2

Người thất chí 2

CHƯƠNG 6
Chiều bữa sau, Phụng ra chợ Bến-Thành đi nghểu-nghến một hồi rồi mua hai cây đèn cầy, một hộp quẹt, một ngọn dao phay, một ổ bánh mì với một cắc thịt quay gói lại hết rồi cầm mà về, bữa nay bộ chàng đi mạnh-dạn, sắc mặt quả quyết chớ không phải buồn thảm như trước kia nữa.
Đi ngang qua căn nhà đầu, là căn của bà Lợi ở, Phụng liếc mắt ngó vô thì thấy bà đương đứng tại cửa la hét om-sòm. Chàng nghe bà nói: “Tao biểu mầy xuống kéo lưng nó cho tao. Hỏi bạc của người ta, quá kỳ-hạn 3 bữa, không trả vốn mà cũng không đem tiền lời, còn hẹn giống gì nữa. Hỏi nó muốn giựt hay sao? Đi cho mau.” Nghe như vậy rồi thấy có một người đàn-bà chừng 40 tuổi, mặt mày hung ác, ở trong nhà đi ra, lộ sắc giận nên coi càng dữ tợn hơn nữa.
Phụng về nhà ngồi ăn bánh mì với thịt, ăn chẩm rải mà bộ suy-nghĩ lắm.
Trời tối lần lần, nên trong nhà bây giờ lờ-mờ, Phụng không thèm đốt đèn, cứ ngồi ăn, mắt ngó ra đường. Chừng ăn rồi chàng mới chịu vặn đèn lên cho sáng đặng đi rửa tay và uống nước.
Mới 7 giờ mà chàng đóng cửa kín mít, rồi ngồi lại bàn viết, lấy bức thơ của cô Loan hôm nọ mà đọc lại. Chàng đọc trầm-ngâm trót giờ rồi cất thơ, tắt đèn, lại nằm trên ghế bố. Chàng nằm im-lìm cho đến khuya, ngoài đường hết nghe tiếng xe chạy nữa, chàng mới ngồi dậy đi vô buồng quẹt hộp quẹt mà đốt cây đèn cầy rồi thay quần áo mà mặc trên một cái áo thun, dưới một cái quần vắn, chơn mang vớ mà không mang giày, còn hai tay lại có mang bao tay.
Thay đồ rồi chàng cầm cây đèn cầy đi ra phía trước, lại bàn viết mà coi đồng-hồ, thì thấy thiếu 10 phút nữa mới một giờ. Chàng trở vô buồng, đứng lóng tai nghe, thì tư bề đều im-lìm. Chàng nhẹ nhe đi mở cửa xuống bếp rồi mở luôn cửa sau. Chàng lấy luôn con dao phay mua hồi chiều mà cặp nách, rồi tắt đèn, bỏ cây đèn cầy với cái hộp quẹt vào túi quần, sẻ lén cửa sau đi mất.
Đến ba giờ rưỡi, Phụng mới trở về, một tay cầm con dao phay, còn một tay có xách cái rương sắt vuông và nhỏ. Chàng nhẹ nhẹ đóng cửa lại, quẹt hộp quẹt mà đốt đèn cầy, đứng ngó cùng trong nhà bếp, rồi để cái rương sắt với con dao trên bếp, cổi hai bao tay ra.
Bây giờ sắc mặt chàng xanh dờn, và bộ coi mệt nên thở lung lắm; chàng đứng ngó quanh quất rồi lấy con dao cạy hai tấm gạch, đào đất lên mà chôn cái rương sắt và đậy gạcg lại như cũ, đất dư thì bỏ vô lò nấu ăn.
Làm công việc xong xuôi rồi Phụng rửa tay rửa mặt và thay áo quần, thì đồng hồ đã chỉ 4 giờ 1 khắc. Chàng tắt đèn cầy rồi nằm lại trên ghế bố.
Đến sáng, ngoài đường xe chạy rần-rần, thiên hạ qua lại nói chuyện inh-ỏi, Phụng thức, nhưng mà chàng không chịu dậy mở cửa, cứ nằm lim-dim hoài. Gần 8 giờ chàng nghe tiếng giày bước vô cửa trước, rồi nghe tiếng gõ cửa cộp cộp. Chàng giựt mình, biến sắc, lồm cồm ngồi dậy, mắt ngó cái cửa, song không dám đi lại mở.
Ở ngoài có tiếng kêu lớn: “Phụng ạ! Phụng, mở cửa cho mỏa vô toa”.
Phụng biết tiếng Trinh nên hết ái-ngại dụ-dự nữa; chàng đứng dậy đi lãi mở cửa.
Trinh bước vô nhà và hỏi lớn: “Ê! Làm giống gì mà ngủ trưa dữ vậy? Chắc hồi hôm toa thức viết bài nhựt trình khuya lắm phải hôn?”
Phụng lơ láo rồi gật đầu, chớ không nói tiếng chi hết.
Trinh nói tiếp: “Thôi, đi rửa mặt đi toa. Rửa mặt thay đồ rồi đi uống cà phê với mỏa. Mỏa chưa lót lòng; thấy xe về đúng giờ nên mỏa tính về dắt toa đi ăn với mỏa đặng nói chuyện chơi. Mỏa thèm hủ tiếu ngon quá; mỏa biết dưới Chợ-cũ có một tiệm nấu hủ tiếu ngon đặc biệt, để mỏa dắt toa xuống đó ăn một lần cho biết”.
Phụng đi rửa mặt và thay đồ. Trinh thọc tay túi quần đi qua lại, túm miệng hút gió theo bản đờn Madelon. Phụng thay đồ rồi, hai anh em mới lên xe kéo đi ăn lót lòng. Đi ngang nhà bà Lợi, Phụng thấy người đàn-bà mặt mày hung ác hôm qua đương ngồi trước thềm nhà mà nói lớn với một tên trai nhỏ: “Bữa nay sao bà ngủ trưa dữ vậy không biết. Để đợi một chút nữa coi”.
Gần 10 giờ, Phụng với Trinh trở về, cũng ngồi xe kéo. Đi gần tới dãy phố chỗ mình ở, hai anh em ngó thấy có chừng vài chục người tựu trước căn nhà của bà Lợi ở, có ông Phán Thành đứng đó, lại có một viên biện Tây đương đấm cửa mà kêu trong nhà om sòm. Hai anh em biểu xe ngừng lại, bước xuống chào ông Phán Thành.
Trinh hỏi ông Phán:
- Có việc chi vậy ông Phán?
- Bà già Lợi sao bữa nay ngủ hoài không chịu dậy. Hai người ở với bà lại làm công việc nhà, chờ từ hồi sớm mai cho tới bây giờ mà không thấy bà mở cửa, họ nghi có việc chi nên xuống bót mà báo. Dưới bót sai một viên biện lên kêu cửa nãy giờ chớ có chi đâu.
- Bà già nầy ở có một mình hay sao?
- Bà có hai người đầy tớ, một người đàn-bà và một đứa trai, đang đứng sau viên biện Tây chỗ cửa đó. Ban đêm hai người ấy ai về nhà nấy, bà Lợi ngủ có một mình.
- Cha chả, già cả mà ngủ có một mình trong nhà thì hiểm nghèo lắm. Nửa đêm rủi đau ốm rồi làm sao.
- Bà Lợi chưa già gì lắm, bà còn mạnh lắm mà.
- Cũng trên 60 tuổi chớ.
- Phải. Nhưng mà tôi nghi không phải bà đau. Tôi sợ kẻ gian biết bà có tiền nhiều, ban đêm lẻn vô nhà làm bậy mà lấy tiền chớ.
- À, còn sợ nỗi đó nữa.
Trinh day lại thì thấy Phụng đương men men đi về nhà của mình. Chàng muốn bắt tay từ giã ông Phán đặng đi về, kế nghe viên biện Tây xô cửa một cái rầm; 2 cánh cửa mở bét ra rồi viên biện Tây với hai người tớ của bà Lợi đi vô nhà. Có một thầy đội tuần cảnh An-nam đứng ngoài chận cửa, nên không ai được vô nữa.
Bây giờ trẻ nhỏ với xa phu tựu lại càng đông hơn nữa, người lớn thì nghị-luận, con nít thì cười giỡn. Trinh với ông Phán Thành đứng chờ mà nghe coi coi công việc ra thế nào.
Cách chẳng bao lâu, đứa tớ trai trong nhà đi ra, mặt mày xanh như chàm. Nó đứng nói với thầy đội tuần cảnh: “Bà tôi chết rồi”.
Ai nấy nghe mấy tiếng nói ấy đều chưng-hửng, đứng ngó nhau, sắc mặt không an.
Trinh nói với ông Phán:
- Tôi nói già mà ban đêm ở nhà có một mình hiểm nghèo lắm mà! Chắc có nhiễm gió. nửa đêm không ai hay mà cứu nên bà chết chớ gì.
- Tôi sợ kẻ gian làm hại mà lấy tiền chớ. Bà cho vay thuở nay ăn lời nặng lại hay mắng nhiếc người ta, nên có nhiều người không ưa bà. Để đợi nghe coi tại sao bà chết rồi sẽ biết.
- Tại sao bà có hai người tớ, mà ban đêm không biểu một người ở lại trong nhà với bà?
- Bà gắt gao nên hay nghi người lắm. Có lẽ bà không tin hai người tớ, nên bà không cho ở chớ gì?
Viên biện Tây dắt người tớ đàn bà trở ra cửa, biểu ngồi tại thềm với đứa tớ trai, dặn thầy đội ít tiếng, rồi leo lên xe máy mà đi.
Ông Phán Thành kêu hỏi:
- Viên biện sao bỏ mà đi vậy thầy đội?
- Ổng về bót báo cho ông Cò hay. Ổng biểu tôi giữ hai người tớ của bà già, coi cửa đừng cho ai vô nhà.
Một người đứng coi kêu chị tớ đàn bà:
- Tại sao bà già chết vậy chị?
- Bà bị người ta nhét chéo mền trong họng lại cái mền bao trùng đầu kín mít nữa, nên chắc bà ngột mà chết.
- Hai tay có bị trói hay không? Nếu hai tay thong thả thì sao không tông cái mền, để chịu chết ngột?
- Hai tay buộc dính lại, mà tréo ra sau lưng, làm sao tông mền được.
- Buộc bằng dây hay bằng cái gi?
- Buộc bằng cái khăn rằn của bà.
- Nếu vậy thì chắc là ăn trộm vô nhà, bà hay rồi nó bắt trói bà và nhét khăn vô miệng đặng lấy đồ chớ gì. Có dấu phá cửa hay không vậy chị?
- Hồi nãy tôi dắt ông Cò đi coi thì thấy cái cửa lên nhà trên mở có dấu dao cạy, còn cái cửa nhà bếp mở ra đường mương sau thì đóng chặt như thường.
- Đồ đạc mất nhiều hay không?
- Biết đâu! Tôi thấy bà tôi chết tôi hết hồn, nên không còn biết việc gì nữa.
Ông Phán ngó Trinh mà nói: “Tôi đoán giỏi hay không hử? Tôi nói kẻ gian nó lén vô nhà giết bà đặng lấy của mà. Chắc nó lấy tiền bạc nhiều lắm”.
Trinh mời ông Phán ghé nhà mình nói chuyện. Hai người bước vô thấy Phụng đang nằm trên ghế bố, thì Trinh nói: “Ê Phụng, ăn trộm vô nhà bà Lợi, nó trói bà rồi nhét mền vô họng nên bà chết ngột rồi toa. Thằng ăn trộm nào đó không có lương-tâm, lấy tiền của người ta đã quá rồi, còn giết người ta nữa là ác lắm”.
Phụng ngồi dậy, mặt mày xanh dờn không nói tiếng chi hết.
Ông Phán nói: “Bộ M. Phụng bịnh hay sao mà mặt coi mét quá”.
Trinh ngó Phụng rồi hỏi:
- Ừ, bữa nay sao coi toa xanh quá vậy toa? Vậy mà từ hồi sớm mơi đến bây giờ tôi không để ý chớ. Mỏa thường nói, nếu toa buồn quá thì chắc sanh bịnh. Bây giờ toa nghe trong mình toa thế nào?
- Khó chịu … Đi ăn lót lòng về nãy giờ sao chóng mặt quá.
- Có lẽ tại toa thức viết khuya quá, mà ban ngày lại không đi ra ngoài, nên mệt xác mà lại mệt trí nữa chớ gì. Buổi chiều nay toa phải đi đốc-tơ coi mạch đặng uống thuốc mới được.
- Khó chịu chút đỉnh, có lẽ vài bữa sẽ hết cần gì phải đi đến đốc-tơ.
- Thôi thì toa phải nghỉ mà đi chơi, đừng có viết nữa. Toa muốn tối mai đi theo mỏa ra Nha Trang chơi hay không?
- Không. Đi thêm mệt chớ có ích gì.
- Toa dại! Đi chơi vui lắm, mệt cái gì! Mỏa đi luôn luôn mà mỏa có mệt đâu. Để tối mai mỏa bắt toa đi với mỏa.
Ông Phán nói: “M. Phụng nên đi chơi lắm chớ. Người ta nói ở Nha-trang gió tốt. Đâu thầy đi một chuyến thử coi”.
Phụng không cãi nữa.
Ông Phán bước ra đứng ngoài cửa mà ngó lại phía nhà bà Lợi rồi nói: “Bây giờ có ông Cò với lính lên đông dữ. Chắc lát nữa sẽ có quan Biện-lý đến khám nghiệm”.
Trinh cũng bước ra đứng mà ngó, Phụng thì nằm lại trên ghế bố, day mặt vô vách.
Ông Phán đi về nhà. Trinh trở vô thay đồ rồi kiếm chuyện mà nói với Phụng, song Phụng cứ ừ hử cầm chừng, không muốn nói chuyện.
Gần 12 giờ trưa Trinh rủ Phụng đi ăn cơm, Phụng nói không đói nên không chịu đi. Trinh đi một hồi rồi đem về đưa cho Phụng một ổ bánh mì với một hộp cá mòi. Phụng lấy, mà nói không đói, nên đem để trên bàn viết chớ không chịu ăn.
Ông Phán Thành trở lại nói: “Bây giờ cò bót chở xác bà Lợi lên nhà mổ, đặng quan thầy thuốc khám nghiệm”.
Trinh hỏi ông Phán:
- Tòa tra xét rồi hay sao?
- Có lẽ tra xét rồi chớ. Từ hồi 10 giờ tới bây giờ có lẽ nào không rồi.
- Không biết có tìm được tông-tích đứa sát nhơn hay không?
- Nghe nói quan nhà hình có xuống chụp hình cùng trong nhà đặng kiếm dấu tay. Không biết họ tìm ra hay chưa, song hai người tớ của bà Lợi bị tình nghi đồng lõa với ăn trôm nên đã bị bắt giam dưới bót.
- Bà già ở một mình, nếu giam đầy tớ của bà hết rồi ai coi nhà cho bà?
- Có lính gác. Hồi nãy có một người cháu kêu bằng cô, ở trong Chợ-lớn, ra khóc dữ quá. Người đó bây giờ đi theo xác bà đó.
- Không biết người ta giết bà có lấy vàng bạc gì hay không?
- Hồi nãy tôi hỏi thăm thầy đội thì thầy nói trong nhà đồ-đạc còn y nguyên, cái tủ áo quần bằng cây cũng không có dấu cạy, chìa khóa còn ở trong túi bà Lợi. Mà theo lời khai của hai người tớ thì trong giường bà ngủ có để một cái rương sắt nhỏ. Cái rương ấy đâu mất. Có lẽ ăn trộm bưng một cái đó mà thôi.
- Chắc tiền bạc bà để trong đó chớ gì.
- Có lẽ … Cuộc đời thấy mà ngán. Gắt gao, bó buộc, chặt đầu lột da người ta đặng tích trữ tiền bạc cho nhiều rồi có ích gì đâu. Tiền bạc ấy làm hại mạng mình, mà dầu không hại, hễ mình nhắm mắt rồi thì cũng tan hết.
- Bởi vậy ở đời chẳng nên tham lam lắm, phải thì thôi, giàu mà làm chi.
Hai người đàm luận với nhau như vậy, mà Phụng làm lơ không xen vào tiếng chi hết.
Ông Phán về, Trinh khép cửa mà nghỉ trưa.
Đến chiều mát. Trinh ép Phụng mà dắt đi chơi, rồi ghé nhà hàng ăn cơm luôn. Chừng trở về nhà, hai anh em thấy trong nhà bà Lợi người ta lộn xộn, đèn đưốc sáng trưng, cửa mở tác hoán. Ông Phán Thành đứng chơi trước cửa, thấy Trinh với Phụng về thì men lại nói: “Quan thầy thuốc khán nghiệm tử thi rồi nói bà Lợi bị ngột hơi mà chết. Chắc ăn trộm muốn làm cho bà đừng la được, chớ không cố tâm giết bà, mà chừng nó đi, nó quên mở cái mền, để lâu quá nên bà ngột hơi mà chết”.
Trinh cười mà nói:
- Mở mền rồi bà la lên mới chạy sao kịp.
- Phải lắm. Ăn trộm nó sợ cái đó.
- Còn đằng nhà bà bây giờ làm giống gì mà thấy người ta đông dữ vậy?
- Người cháu của bà xin xác đem về hồi tối. Bây giờ lo sắp đặt đặng sáng mai chôn. Nghe nói hồi chiều lính bắt hai ba người trong xóm nhà lá, vì nghi mấy người ấy giết bà Lợi.
- Có ai khai hay sao?
- Không hiểu. Hai người tớ nghe nói còn bị giam dưới bót.
Phụng cứ lơ láo, chẳng hề nói tới bà Lợi chết, mà sắc mặt coi khô héo buồn bực lắm.
Sáng bữa sau, người ta sửa soạn đi chôn bà Lợi. Thiên ha tựu coi rất đông. Trinh với ông Phán cũng ra cửa mà coi, mà Phụng cứ ở trong nhà không chịu ló ra.
Đến chiều, Trinh theo ép quá, Phụng không thể từ chối được nên phải thay đồ đi ăn cơm rồi theo Trinh đi xe lửa ra Nha-trang mà chơi.
CHƯƠNG 7 -
B
uổi sớm mai lối 9 giờ, Phụng nằm trên cái đi-van mà đọc sách, còn Trinh thì nằm trên ghế bố mà xem nhựt trình.
Thình lình Trinh nói: “Chuyện bà Lợi bị giết hôm nọ là một chuyện bí mật. Cò bót tìm hết sức mà không ra mối. Mấy người bị bắt đó Tòa đã thả hết cả rồi.
Phụng day qua mà hỏi:
- Sao toa biết mấy người bị bắt đã được thả?
- Nhựt trình nói đây nè.
- A! Toa thấy trong nhựt trình. Còn hai người tớ của bà?
- Cũng được thả rồi nữa. Theo ý-kiến của nhựt trình thì nên thám dọ những người nào ước mơ sự chết của bà Lợi, nghĩa là sự chết của bà có ích cho họ, thì hoặc may mới ra mối. Luận như vậy nghe có lý lắm. Toa nghĩ sao?
- Moa có biết đâu.
Hai người mắc nằm mà nói chuyện, nên bà Phủ Cao với cô Loan ngừng xe kéo ngoài cửa mà không ai hay hết. Chừng bà Phủ bước vô trong cửa, Phụng mới ngó thấy, lật đật chào mẹ, mừng em.
Trinh cũng buông tờ nhựt trình đứng dậy thi lễ. Phụng tiến dẫn Trinh với bà Phủ với cô Loan biết. Trinh lật đật nhắc ghế mời khách ngồi và cười và nói: “Xin bác với cô ba tha lỗi. Nhà chúng tôi không có dàn-bà, nên trầu nước cũng không có hết”.
Bà Phủ nói: “Cháu đừng lo. Bác uống nước rồi. Cháu làm anh em bạn với thằng Phụng mà cháu thương nhó như anh em ruột thịt, cháu nuôi nó mấy tháng nay, thiệt bác cảm tình không biết chừng nào”.
Trinh cười mà đáp:
- Thưa, cháu có nuôi anh Phụng đâu. Cháu làm việc khác hơn người ta, cháu đi hoài, trong một tháng đi tới 15 ngày, không có ở nhà, bởi vậy cháu cậy anh Phụng ở đây đặng coi nhà giùm cho cháu chớ. Bác với cô ba lên tới hồi nào?
- Xe mới lên tới, bác ghé khách-sạn mướn phòng để đồ rồi bác đi liền lại đây.
- Ý! Bác có mướn phòng khách-sạn sao?
- Phải.
- Bác làm như vậy cháu buồn lắm! Bác lên đây thì phải ở nhà cháu, cháu ở ngoài khách-sạn coi sao được.
- Ở khách-sạn tiện hơn, nếu vô đây ở làm khách thì nhọc lòng cháu.
- Cháu mừng lắm, chớ có nhọc lòng đâu. Bác mướn phòng ở đâu?
- Tôi mướn phòng ngoài Sài-gòn khách lầu.
Trinh đứng suy nghĩ một chút rồi nói với Phụng: “Toa ở nhà hầu chuyện với bác và cô ba, để mỏa ra khách-sạn lấy đồ đem vô đây”.
Bà Phủ cản., Trinh nói: “Thưa bác, đàn-bà ở khách-sạn không tiện. Bác ở đây thong-thả hơn. Chiều nay cháu phải đi, rồi anh Phụng ở nhà có một mình. Xin bác đưa chìa khóa cho cháu ra trả lại cho chủ khách-sạn và lấy đồ”.
Bà Phủ không thế từ chối đặng nên phải biểu cô Loan đưa chìa khóa cửa phòng cho Trinh.
Trinh thay đồ rồi kêu xe kéo mà đi.

Bà Phủ mở bóp ra lấy 50 đồng bạc để trên bàn mà nói với Phụng rằng: “Má mới lãnh tiền hưu-trí hôm qua. Má tính thôi để đem lên cho con đặng thăm con và nói chuyện nhà luôn thể nên má không gởi. Con lấy bạc đây để trả tiền cơm cho người ta”.

Phụng đứng trân, nước mắt rưng rưng chảy.

Cô Loan biết anh buồn tức, muốn phá tiêu vẻ buồn lúc mẹ con anh em hội-hiệp, nên cô cười và nói: “Bây giờ không có anh Trinh, vậy anh lấy bạc mà cất đi anh Hai. Em tính đi một mình đem lên cho anh rồi em về liền. Chiều hôm qua má nói thôi để má đi với em đặng thăm anh và mua đồ chút đỉnh luôn thể”.

Phụng đứng cúi mặt lặng thinh không lấy tiền.

Bà Phủ cười mà hỏi:

- Năm chục đủ trả cho người ta hay không? Thiếu bao nhiêu con nói đặng má đưa thêm cho.

- Con không cần tiền.

- Ủa! Sao vậy? Con ăn cơm mấy tháng nay phải trả tiền cho người ta chớ.

- Con ăn cơm hai tháng anh Trinh đã trả tiền hết rồi.

- Cháu Trinh cho con mượn tiền mà trả, thì con phải thối hồi lại cho cháu Trinh chớ.

- Sợ ảnh không lấy.

- Sao lại không chịu! Anh em bạn cho con ở đậu trong nhà thì ơn nghĩa đã nhiều lắm rồi. Có lẽ nào con để cho người ta trả tiền cơm nữa. Tuy mình nghèo, song mình phải xử cho vuông tròn mới được con.

Phụng lau nước mắt, rồi ngồi trên ghế bố, không lấy tiền mà cũng không nói.

Cô Loan nói:

- Bữa hổm thầy Bang-Biện Tịnh đi Sài-gòn có ghé thăm anh phải hôn?

- Phải.

- Anh tiếp rước rồi nói chuyện như thế nào mà thầy về thầy phiền với má dữ quá vậy?

- Đồ khốn nạn, nói chuyện nghe ghét quá, nên qua(1) giận qua đuổi đi. Qua không bạt tai nó là may.

- Hèn chi …

Bà Phủ ngó Phụng rồi nghiêm sắc mặt mà nói: “Việc Bang-Biện Tịnh muốn cưới con Loan hôm trước má biểu con Loan viết thơ mà hỏi ý con. Má chờ hoài mà không tiếp được thơ con trả lời. Bang-Biện Tịnh có dịp đi Sài-gòn, muốn kiếm thăm con đặng nói chuyện đó. Con không bằng lòng thì thôi, sao con xô đuổi nặng lời làm chi”.

Phụng nổi giận, cặp mắt đỏ au, vùng đứng dậy mà nói lớn: “Nó ỷ giàu, nó nói giọng cao, nó khinh rẻ má, nó khinh rẻ em con, con không giận sao được! Thà con chết, chớ con không để cho em con hy-sanh cái xuân xanh, cái dang giá của nó, đặng giúp cho má với con no ấm”.

Cô Loan châu mày nói:

- Hôm nọ em gởi thơ cho anh, em có nói việc ấy tự ý anh nhứt định; anh bằng lòng thì em mới ưng. Em có nói rõ ràng như vậy, nếu anh không bằng lòng thì trả lời cho em bỏ dẹp việc ấy đi. Tại anh nín khe, má không hiểu ý anh nên má mới chỉ chỗ anh ở cho Bang-Biện Tịnh lên kiếm anh. Nếu anh không chịu thì nói phứt cho người ta biết, cần gì ngồi nói dông dài làm chi cho anh phải giận.

- Nó mới xưng tên thì qua đã ghét, qua tỏ ý khinh bỉ nó rồi. Tại nó không chịu đi, cứ ngồi nói hoài, nên qua mới nổi cáu chớ.

- Thôi, chuyện anh xua đuổi Bang-Biện Tịnh em muốn hỏi cho biết vậy thôi, chớ không quan-hệ gì. Bây giờ em xin anh cho biết coi tại cớ nào mà anh không bằng lòng cho em ưng Bang-Biện Tịnh.

- Bằng lòng sao được. Thà má gả em cho một tên nông phu, chớ gả em làm vợ bé một người giàu có đặng nhờ nhõi thì xấu hổ quá, qua không thể xuôi thuận được.

- Em cũng biết làm bé người ta thì không tốt lành gì, nhứt là phận em, nếu em làm như vậy thì nhục-nhã lây tới vong hồn của ba nữa. Nhưng mà má đã già rồi, phần thì gia-đình của mình không có huê-lợi chi hết, em thấy trong nhà má túng rối, còn thân anh thì vất-vả, em chịu không được. Em xin tỏ thiệt với anh, hôm thầy Bang-Biện Tịnh cậy mai nói em, em muốn lén anh mà ưng phứt cho rồi, không cần liêm-sỉ gì hết, ưng đặng người ta cất nhà lại tử-tế cho má ở, ưng đặng má lấy một ngàn đồng bạc làm vốn mà làm ăn, ưng đặng có chỗ em nương dựa mà nuôi má, nuôi …

Phụng khoát tay mà nói: “Thôi, em đừng nói nữa. Nếu em nói như vậy thì anh chết liền bây giờ đây”. Phụng dựa mình vào vách, hai tay ôm mặt mà khóc. Bà Phủ với cô Loan ngó nhau, mẹ con đều buồn hiu. Phụng khóc một hồi rồi nói: “Lẽ nào anh nỡ để em bán hình-hài, bán xuân xanh mà nuôi má, nuôi anh!”

Cô Loan chảy nước mắt mà đáp: “Giúp đỡ mẹ và anh, ấy là chỗ hy-vọng của em. Được như vậy em vui lòng lắm, không buồn đâu mà anh ngại. Dầu có phải đi làm đầy tớ cho người ta em cũng chẳng nại, lựa là vợ bé …”

Hai anh em nói tới đó, kế Trinh hăm hở bước vô, tay xách một hoa-ly, tay ôm mấy gói đồ kềnh-càng. Chàng thấy Phụng khóc thì nói: “Ô! Toa cứ theo điệu đàn-bà con gái hoài, hễ buồn thì khóc! Có bác với cô ba lên thăm, toa phải làm vui chớ”. Chàng day qua nói với bà Phủ: “Anh Phụng có chứng bịnh đa cảm, thấy hay nghe việc gì ảnh cũng buồn, hoặc giận. Cháu can gián hết sức, biểu ảnh bỏ cái tật ấy, mà ảnh không chịu nghe lời. Cháu lấy cái hoa-ly của bác vô đây, để cháu đem thẳng vô trong buồng. Cháu với anh Phụng thường ngủ ngoài nầy, chớ ít nằn trong giường. Vậy bác với cô ba ở trong buồng tiện lắm”.

Trinh để mấy gói trên bàn, xách hoa-ly đem vô buồng, chạy ra xe kéo lấy thêm mấy gói nữa. Chàng làm lăng-xăng, miệng nói tía-lia: “Ê, Phụng, mỏa có mua một cái lò để nấu nước cho bác uống đây toa. Mỏa mua bình, mua tách, mua ấm đủ hết. Để mở ve rượu 90 chữ(2) đặng đốt lò nấu nước thử coi”.

Bà Phủ nói:

- Cháu mua làm chi đặng để tốn tiền. Vô ở nhà cháu làm rộn cho cháu quá.

- Thưa, có vậy mới vui chớ. Ê Phụng, toa làm ơn mở cái ấm rồi đem ra sau súc cho sạch đặng nấu nước, toa. Để mỏa lo đốt cái lò.

Phụng cứ đứng trân-trân.

Cô Loan thấy vậy cô mới mở mấy gói của Trinh mới ôm về rồi sắp những ấm, bình, tách, dĩa lên bàn.

Bà Phủ nói với Phụng: “Thôi, con không bằng lòng gả em con thì thôi, có chi đâu mà buồn”.

Trinh ngó cô Loan mà hỏi: “Ở nhà nãy giờ anh Phụng nói chuyện thầy Bang-Biện lên thăm ảnh bữa hổm phải hôn?”

Cô Loan gật đầu.

Trinh cười mà nói tiếp: “May hôm đó có tôi ở nhà, chừng ảnh nổi giận tôi cản ảnh, chớ không thì ảnh đánh thầy Bang-Biện đó rồi”.

Trinh đốt lò được rồi bèn lấy cái ấm tính đem ra súc. Cô Loan nài-nỉ xin để cô làm. Trinh phải đưa cái ấm lại cho cô, cô xách đi ra phía sau. Trinh góp tách, dĩa cầm đi theo, chỉ nước cho cô Loan súc cái ấm, còn chàng bỏ tách, dĩa vào cái thau mà rửa.

Thừa dịp không có Phụng và bà Phủ, Trinh mới hỏi cô Loan:

- Cô Ba, nãy giờ ở nhà cô nói chuyện với anh Phụng, cô coi trí ý của anh Phụng phải khác hơn hồi trước hay không?

- Thưa phải, khác xa lắm. Bây giờ anh hai em buồn-bực nóng-nảy, chớ không phải vui-vẻ hòa huỡn như hồi trước nữa.

- Tôi biết ảnh có bịnh, mà bịnh về trí. Xin cô lên thưa với bác chẳng nên nói chuyện buồn cho ảnh nghe. Để ảnh ở trên nầy rồi thủng thẳng tôi khuyên giải ảnh.

- Má em tính lên nói với ảnh, nếu kiếm không được việc làm thôi thì về dưới nhà mà ở.

- Không nên đem ảnh về dưới. Về nhà ảnh buồn sợ bịnh càng thêm nặng. Tôi thương ảnh như anh em ruột. Xin cô thưa lại với bác vui lòng để ở trên nầy đặng tôi lập thế chữa bịnh cho ảnh, đừng ngại chi hết.

- Cám ơn anh.

Hai người xách ấm cầm tách trở ra phía trước. Trinh để ấm trên lò mà nấu. Còn cô Loan đem bình ra sau mà rửa nữa.

Trinh thấy xấp bạc để trên bàn thì hỏi bà Phủ:

- Thưa bác, bạc gì ai để đây?

- Bạc bác đưa cho thằng Phụng mà nó không chịu lấy đó.

- Nếu ảnh không lấy thì bác cất đi.

- Nó nói cháu cho mượn tiền mà trả tiền cơm rồi. Xưa rày nó mượn của cháu cả thảy là bao nhiêu, xin cháu cho bác biết, đặng bác trả lại cho cháu.

- Thưa, thôi. Chút đỉnh mà trả làm chi.

- Không trả sao được, cháu.

- Thôi, để chừng nào anh Phụng có sở làm rồi ảnh sẽ trả cho cháu.

- Biết chừng nào mới có sở làm.

- Chừng nào cũng được, không ngại gì. Xin bác đừng lo sự đó.

Nước sôi, Trinh chỉ bó trà mà cậy cô Loan bỏ trà vô bình rồi chàng chế nước rót trà ra tách mà mời bà Phủ với cô Loan. Trinh thấy Phụng ngồi chừ bự trên ghế bố, bèn vỗ vai chàng mà nói: “Gần 11 giờ rồi, bác đi xe hơi đường xa chắc là đói bụng. Vậy mình thay đồ rồi mời bác đi ra nhà hàng ăn cơm một chút đặng bác có giờ nghỉ trưa”.

Mấy người đều rửa mặt thay đồ rồi kêu xe kéo mà đi ăn cơm. Trinh vui vẻ bặt thiệp luôn luôn làm cho bà Phủ với Loan mới biết mà phải đem lòng yêu mến. Còn Phụng thì bơ lơ bảng lảng, ai hỏi thì trả lời cụt ngủn, coi bộ như trí mắc lo xa.

Ăn cơm rồi dắt nhau trở về nhà, Trinh mời bà Phủ với cô Loan nằm nghỉ, chàng lo nấu nước chế vô bình.

Tối bữa đó Trinh phải đi theo xe lửa. Buổi chiều chàng mời đi ăn cơm sớm rồi mấy mẹ con bà Phủ đưa chàng ra gare. Trinh lén đưa 20 đồng bạc cho Phụng mà nói nhỏ:

- Toa lấy bạc đây để ở nhà mà xài.

- Mỏa có tiền. Hai chục đồng bạc toa đưa bữa hổm còn y nguyên.

- Toa không ăn cơm hay sao?

- Mỏa viết nhựt-trình đủ tiền ăn cơm.

- Thiệt như vậy sao?

- Mỏa nói dối toa làm chi.

Trinh bước lại thưa với bà Phủ: “ Vì chức nghiệp nên cháu không ở nhà mà hầu chuyện với bác được, xin bác tha lỗi. Nhà của cháu cũng như nhà của Phụng. Bác cứ ở chơi, đừng ái-ngại chi hết.

Bà Phủ đáp: “Cháu vui-vẻ, bác mến lắm. Ngặt vì ở nhà không có ai, nên sáng mai chắc bác phải về”.

Trinh tử giã cô Loan và nói nhỏ: “Xin cô Ba nhớ mấy lời tôi dặn hồi sớm”.

Loan cúi đầu, miệng chúm-chím cười.

Trinh lên xe, mẹ con bà Phủ dắt trở lại chợ đi chơi một chút rồi thủng thẳng về nhà.

Bây giờ trong nhà chỉ có ba mẹ con. Bà Phủ lại nói với Phụng: “Việc con Loan, nếu con không bằng lòng gả nó cho Bang-Biện Tịnh thì thôi. Để thủng-thẳng con coi chỗ nào xứng con muốn gả em con thì má sẽ gả. Bây giờ má nói với con như vầy; con ở trên nầy coi bộ con buồn qua, má muốn con trở về nhà mà ở đặng mẹ con hủ-hỉ cho vui, con bằng lòng hay không?”

Phụng ngồi lặng thinh một hồi rồi rưng rưng nước mắt mà đáp:

- Con không thể thấy mặt má hay mặt em Loan nữa được. Con cũng không dám ngó cái bàn thờ của ba nữa!

- Tại sao vậy?

- Con phạm tôi lớn lắm má ôi! Con không đáng cho má kêu bằng con, không đáng cho em Loan kêu bằng anh nữa.

- Ủa, con phạm tội gì?

Phụng khóc rấm-rức, không nói nữa. Bà Phủ kéo ghế ngồi một bên con, tay vịn vai con mà hỏi nữa:

- Con phạm tội gì? Phạm hồi nào? Phải nói cho má biết.

- Con không thể nói được. Nếu con nói thì má đau đớn, má buồn rầu, chớ không ích gì. Vì con phạm tội thì để một mình con đền tội mà thôi.

- Con không tin tưởng má hay sao? Con giấu ai, chớ sao con giấu má?

- Ví con thương má nên con mới giấu, chớ không phải con không tin tưởng má.

- Con là máu thịt của má. Dầu con phạm tội gì con vẫn là con của má, chẳng bao giờ má nỡ trách con. Con phải tỏ thiệt cho má biết một chút.

Phụng lắc đầu, không chịu nói, bà Phủ và cô Loan cật vấn hết sức mà không được. Đến khuya cô Loan thuật mấy lời của Trinh dặn cho mẹ nghe. Bà Phủ không ép Phụng về Cần-thơ nữa.

Sáng bữa sau bà Phủ với cô Loan về.

Chú thích

(1-) đại từ ngôi thứ nhứt, phát âm theo giọng Triều Châu của từ Hán Việt “ngã” = ta, tôi, anh, dùng xưng với nghĩa thân mật.

(2-) độ

CHƯƠNG 8 -

M

ấy ngày sau, Phụng cứ lững đững lờ đờ. Có Trinh ở nhà, Trinh dắt đi chơi, thì Phụng khuây lãng, nói chuyện chút đỉnh. Mà hễ Trinh đi rồi thì Phụng dàu dàu, cứ đóng cửa nằm trong nhà hoài, có bữa nhịn đói không chịu đi mua bánh mì mà ăn.

Một đêm, Phụng đưa Trinh ra xe lửa rồi, chàng trở về nhà, đóng cửa chặt chịa, song không nằm xuôi xị như mấy bữa trước, mà lại cứ đi tới đi lui, bộ hùng dõng quả quyết lắm. Chàng đi cho đến 11 giờ khuya rồi xuống nhà bếp dở hai tấm gạch, moi đất mà móc cái rương sắt chàng chôn hôm nọ đó lên. Chàng xách cái rương đem lên buồng lập thế cạy khóa mở rương ra.

Húy chà! Trong rương sắp đầy giấy bạc! Phụng đổ trút cái rương trên giường. Giấy bạc nằm một đống, toàn giấy một trăm với giấy hai trăm, chớ không có giấy nhỏ.

Phụng châu mày đứng ngó một hồi rồi xách rương không mà đem xuống nhà bếp chôn lại cho tử tế và sắp gạch lên như cũ. Chàng trở lên ngồi đếm bạc thì được 18 ngàn đồng. Chàng suy nghĩ rồi chia ra làm hai phần và lấy nhựt trình gói làm hai gói, mỗi gói 9 ngàn đồng. Mỗi gói chàng lại lấy dây nhợ cột thiệt chặt rồi bỏ hết vô cái rương cây lớn của chàng và tắt đèn đi ngủ.

Qua ngày sau, vừa mới tối một chút, Phụng ôm gói bạc ra ngoài, khóa cửa lại rồi thủng thẳng đi vô phía gare d’Arras.

Tới dãy nhà lá bên tay mặt, chàng thấy đèn đốt leo heo, ngó ngoái lại phía sau lưng chẳng thấy ai đi theo mình, chàng ben bươn-bả đi riết vào căn nhà đầu, là nhà của cô Tâm, mà chàng đã có đến hai lần rồi.

Trước cửa mấy đứa nhỏ vẫn ngồi chơi, trong nhà vẫn có một chong đèn leo-lét, trên cái sập. Khoa cũng nằm trơ-trơ. Phụng ôm gói bạc vô. Hôm nay Khoa nhìn được, nên chống tay ngồi dậy, xá Phụng và nói: “Xin chào thầy. Thầy ghé hoài mà cũng không có chỗ ngồi”.

Phụng ngó trước ngó sau rồi hỏi:

- Cô Tâm có ở nhà hay không?

- Thưa có. Nó ở trong buồng. Tâm a, có thầy lại thăm đây con. Ra chào thầy.

- Tôi có chuyện kín muốn nói với ông và cô Tâm. Xin ông biểu sắp nhỏ đi ra lộ mà chơi đặng tôi nói chuyện một chút.

- Để tôi biểu nó … Tánh a, dắt em đi hết ra ngoài lộ mà chơi đi con. Đi cho xa nghe hôn. Có khách mà bây ở đó trửng giỡn rầy quá.

Sắp nhỏ dắt nhau đi ra lộ. Cô Tâm ở trong buồng ra chấp tay cúi đầu xá Phụng. Cô cũng mặc áo quần lụa trắng như lần trước, chắc cô sửa-soạn đặng đi.

Phụng đứng ngó cô Tâm rồi bước lại cửa đứng ngó ra lộ. Thình-lình chàng trở vô, xâm xâm đi lại đứng trước mặt cô Tâm mà hỏi: “Nghèo đến nỗi phải thí thân làm đĩ, trong đời chẳng có chi hèn-hạ hơn nữa, cô có hiểu như vậy hay không?”

Cô Tâm hơ-hải, một tay vịn cái sập gần chỗ cha ngồi, một tay cầm mu-soa(1) trắng mà chậm nước mắt không trả lời, không cụt cựa.

Phụng đưa gói bạc cho Khoa và nói: “Ông lấy gói bạc đây mua thuốc và làm vốn mua đất hoặc buôn bán mà nuôi gia-đình, đừng cho con làm điều tồi-bại như vậy nữa”.

Khoa run-rẩy đưa tay lãng gói và nói ú ớ: “ mô! … Trời Phật sai thầy cứu cha con tôi mà … mô! Tôi không ngờ được phước như vầy …”

Phụng khoát tay, không cho Khoa nói nữa rồi chàng bước lại đứng khít một bên mà nói nhỏ: “Ông nín mà nghe tôi dặn. Số bạc nầy lớn lắm, ông giấu lâu rồi sẽ đem ra mà dùng, chớ đùng có dùng gấp mà bị hại. Ông phải dè-dặt đừng cho ai biết có tiền nhiều. Ông phải nhớ mấy lời dặn đó. Thôi, để tôi về”.

Phụng muốn đi. Cô Tâm ngồi bẹp xuống đất cúi đầu lạy và nói: “Em không biết lấy chi mà đáp nghĩa cho thầy, vậy em xin thầy nhận cái lạy của em với lời em hứa chắc chắn từ nay em sẽ bỏ đường nhơ nhuốc mà trở lại đường trong sạch. Em xin thầy biết giùm cho em: vì cha bịnh hoạn, vì sắp em của em đói rách, nên em mới thí hình hài, thí danh giá mà cứu gia-đình chớ không phải em muốn làm đĩ”.

Phụng vói tay kéo cô Tâm đứng dậy và nói:

- Thôi, tôi biết rồi, vì tôi biết nên tôi mới cứu. Cô chẳng cần phải nói dài. Cô lo làm ăn mà nuôi cha, nuôi em là đủ.

- Em sẽ làm y như lời thầy dặn.

Phụng xây lưng muốn đi. Cô Tâm níu tay áo mà nói:

- Em biết thầy ở dãy phố phía ngoài đây, ở chung với ông làm kiểm soát cho sở xe lửa. Song thầy tên họ chi em chưa biết được. Xin thầy cho em biết đặng em ghi nhớ tên ân-nhân số một của em.

- Cô biết tên họ tôi không ích gì. Từ rày cô không còn gặp mặt tôi nữa đâu.

- Dầu thầy không muốn cho em gặp mặt nữa, song trọn một đời của em chẳng có giây phút nào mà em quên thầy được. Em thề chắc đến ngày em nhắm mắt mà từ biệt cõi trần, em cũng sẽ thấy hình dạng của thầy một lần chót trong trí của em rồi mới thở hơi cuối cùng.

Phụng châu mày ngó cô Tâm; cô Tâm cũng ngó ngay Phụng. Hai người nhìn nhau trước ngọn đèn lờ mờ, rồi Phụng bỏ đi ra cửa, cô Tâm đứng trơ trơ, hai giọt nước mắt thủng thẳng chảy dọc xuống gò má. Khoa thấy Phụng bước qua cửa thì nói vói: “Cha con tôi sẽ cầu nguyện Trời Phật Thánh Thần phò hộ mạng thầy đời đời bình an sung sướng”.

Phụng không trả lời, xâm xâm ra lộ rồi đi trở về hướng Sài-gòn.

Phụng về đến nhà, mở cửa vặn đèn lên, rồi đi tới đi lui suy nghĩ. Có lẽ nhờ làm được một việc nghĩa trong lòng thơ thới, nên bây giờ sắc mặt chàng bình tĩnh, không buồn bực như mấy bữa trước nữa.

Đi bách bộ trót một giờ đồng hồ rồi chàng đóng cửa, lại bàn viết mà ngồi và lấy giấy ra mà viết. Chàng viết luôn một giọt đến mấy trương giấy, rồi bỏ cây viết ngồi đọc lại, và đọc và chảy nước mắt ướt giấy, phải lấy giấy chậm mà chậm đến hai ba lần.

Gần sáng, đường xe điện Sài-gòn Chợ-lớn đã bắt đầu chạy mà thấy Phụng vẫn còn ngồi ở bàn viết.

Chú thích

(1-) (tiếng Pháp: mouchoir)=khăn nhỏ

CHƯƠNG 9 -

B

uổi sớm mai, gần tới giờ xe lửa Nha-trang chạy về, tại nhà gare Sài-gòn quang-cảnh xem ra náo-nhiệt phi-thường. Ngoài đường, xe kéo, xe thổ mộ chen nhau đậu chật nức, cái nào cũng muốn giành lại gần cửa nhà gare đặng tiếp rước hành-khách làm cho lính tuần-cảnh nhiều khi phải can-thiệp, đưa tay trợn mắt la hét thị-oai đặng đàn-áp người sau ỷ lanh hoặc ỷ mạnh ăn hiếp kẻ trước.

Trong bến xe lửa người ta rải-rác tựu lại, đầu kia bọn cu-ly(1) chờ xe mà vác đồ, chòm-nhom nói dóc nghe inh-ỏi, phía nọ đám người chực rước bà con đi lên đi xuống nghểu-nghến.

Nghe tiếng súp-lê thổi vang phía chợ Đũi, ai nấy đều chong mắt mà ngó chừng, trên mặt mọi người đều lộ vẻ hân-hoan. Ông chủ nhà gare thủng thẳng đi ra bến xe, mắt đeo kiếng, mặt hòa-huỡn; tay có cầm một gói giấy nhỏ, ông cứ cúi mặt mà đi, không để ý đến ai hết.

Xe lửa chậm chậm đi tới rồi ngừng, đầu máy phun khói lên một lằn đen thui, bị gió đưa tỏa ra một vùng mù mịt rồi tản mất. Mỗi toa xe hành khách tuôn ra hai bên leo xuống, kẻ dắt con, người ôm gói bương-bả mà đi.

Trinh mặc y-phục gọn gàng trên xe nhảy xuống, miệng chúm chím cười, thấy ông chủ nhà gare bèn xâm xâm đi lại, dở kết chào ông. Ông đưa cái gói giấy ông cầm cho Trinh và nói: “Hồi nãy có một thầy đem gói nầy đưa cho tôi mà cậy tôi giao lại cho ông”.

Trinh tạ ơn, bắt tay ông chủ nhà gare rồi thủng-thẳng đi vô gare. Chàng mở cái gói ra thì có một cái chìa khóa, ấy là chìa khóa cửa nhà chàng, tưởng Phụng mắc đi đâu đó, sợ chàng về không có chìa khóa mà vô, nên đem lại nhà gare mà gởi, bởi vậy chàng không nghi-ngại chi hết.

Chàng bỏ chìa khóa vô túi rồi đi bộ mà về. Mở cửa bước vô chàng thấy trên bàn giữa có một tờ giấy đề mấy chữ lớn như vầy: Coi thơ để trong hộc tủ bàn viết, phía bên tay mặt.

Bây giờ Trinh có hơi nghi chút đỉnh, nên liền đi lại bàn viết kéo hộc tủ bên tay mặt ra thì thấy có một phong thơ ngoài bao đề tên họ chức nghiệp của chàng rõ-ràng, mà phong thơ ấy lại buộc díng với một cái gói lớn bao bằng giấy nhựt trình. Chàng ôm cái gói ra mà để trên bàn viết, lấy dao nhỏ trong túi cắt mối dây rồi rút phong thơ. Chàng mở bức thơ thấy tuồng chữ của Phụng viết, muốn biết liền coi Phụng nói chuyện gì, nên kéo ghế ngồi đọc thơ như vầy:

“Hỡi bạn yêu-mến ơi!

Tôi viết bức thơ nầy mà từ biệt bạn. Tôi phải từ biệt bạn là vì tôi không đáng làm bằng-hữu với bạn nữa, mà cũng không đáng làm con người chung lộn với xã-hội nữa.

Tôi tỏ thiệt với bạn, tôi giết bà Lợi chết đó, giết bà đặng lấy tiền. Thiệt chẳng phải tôi cố tâm giết bà, tôi chỉ muốn lấy tiền của bà mà thôi. Đêm đó tôi leo nhà bếp vô cạy cửa nhà trên rồi tính ôm cái rương sắt của bà mà đi. Bị động, bà giựt mình thức dậy, tôi sợ bà la lên rồi sự trôm của tôi sẽ hỏng mà lại còn bị bắt, nên tôi phải nhét mền vào họng bà và trói tay bà lại. Chừng lấy được cái rương rồi, tôi muốn mở bà ra, mà còn sợ nỗi bà la lên tôi chạy không khỏi, hoặc bà biết mặt tôi bà tố-cáo tôi phải bị tù tội, nên tôi phải nhẫn-tâm bỏ đi luôn. Lâu quá bà ngộp hơi bà mới chết. Tôi đem cái rương sắt về nhà, tôi cạy gạch dưới nhà bếp chôn. Thấy việc đã êm rồi đêm hôm qua tôi mới móc cái rương lên, mở ra mà coi thì được 18 ngàn đồng bạc. Tôi chia số ấy ra làm hai, phân nửa tôi đã cho cô Tâm là người vì nghèo, cha đau nên phải làm đĩ, mà tôi đã chỉ cho bạn hôm nọ ngoài nhà hàng Trung-Hoa đó, còn phân nửa thì tôi gói mà đính theo bức thơ nầy đây.

Bạn ôi! Tôi là một thằng ăn trôm, một thằng sát nhân, không đáng xin ai thương yêu nữa hết, lẽ thì tôi phải có can-đảm chường mặt ra mà thú tội đặng cho pháp-luật trừng-trị, hoặc đày, hoặc chém mới phải. Tôi khiếp-nhược không dám ra thú tội, ấy là vì tôi thương mẹ, thương em của tôi quá, tôi lại thương cha con cô Tâm nữa. Nếu tôi thú tội, thì số bạc 18 ngàn nhà nghèo không hưởng được, mà tôi bị tội thì mẹ tôi với em tôi sẽ bị nhục-nhã buồn-rầu, mà vong hồn của cha tôi dưới cửu-tuyền cũng còn nhơ-nhuốc nữa.

Đã suy-sụp sa-ngã đến thế nầy, tôi chẳng dám mong bạn thương tôi nữa. Tôi chỉ xin bạn biết giùm một điều nầy: ngày nay tôi mà trở nên một đứa sát-nhân đây, ấy là tại tôi có cái tánh đa-sầu đa-cảm thái-quá, thấy nhà nghèo, mẹ với em bị người ta khinh-rẻ, thì đau lòng tức trí chịu không được, thấy cảnh thảm-khổ của người khác lại động lòng rồi thù-oán xã-hội, nên tôi mới phạm tội đại-ác như vậy đó.

Thôi, tôi phạm tội, dầu tôi không dám chường mặt mà xin pháp-luật trừng-trị, song tôi cũng phải định cách thế nào mà đền bồi xã-hội cái tội ác đã mang. Cách thế ấy tôi đã quyết-định rồi. Tôi không tự-tử, bởi vì nếu chết thì làm sao mà chuộc tội ác của mình ở trên thế-gian nầy được.

Tôi cũng không tu, bởi vì làm ác rồi đi tu, ấy là muốn trốn lánh cho khỏi đền tội. Tôi không chết, mà cũng không tu. Tôi sẽ sống, song sống với cảnh đời không được hưởng vật gì của xã-hội hết thảy, sống mà không được phép gần người mình yêu, sống mà phải chịu buồn thảm cực khổ, nghĩa là sống đặng đền tội cho xã-hội, chớ không phải sống đặng chung vui với xã-hội.

Trọn đêm hồi hôm, tôi ngồi viết thơ mà từ biệt mẹ và em tôi, mà viết rồi tôi nghĩ lại gởi không tiện, bởi vì mẹ với em tôi tuy thương tôi, song không hiểu thấu tâm chí của tôi được, bởi vậy viết rồi tôi xé hết.

Bạn là người biết rõ lòng dạ tánh tình của tôi; vậy nên tôi viết bức thơ nầy mà yêu cầu bạn nghĩ chút tình bằng hữu, nhận lời tôi xin trong mấy khoản dưới đây:

1) Liệu phương thế mà giao gói bạc đính theo thơ nầy đây lại cho em tôi, đặng nó để dành mà nuôi mẹ tôi;

2) Thế cho tôi mà bảo bọc giùm mẹ với em tôi, ráng khuyên giải đừng để cho mẹ với em tôi vì tôi mà buồn rầu thái quá;

3) Giấu biệt cái tội ác của tôi, đừng cho mẹ với em tôi biết; nếu có hỏi thì nói dối rằng tôi đã đi bên Tây hay là bên Tàu, kiếm công việc làm ăn, chừng nào khá tôi sẽ trở về.

Tôi mong nhờ bạn làm y theo mấy lời tôi xin đó.

Trước khi từ biệt bạn, tôi còn phải tỏ cho bạn biết một việc nữa: cái rương sắt đựng bạc của bà Lợi, tôi còn chôn dưới nhà bếp, chỗ tôi có cạy hai tấm gạch lên đó. Vì sợ người ta nghi nên tôi không dám đem xa mà bỏ. Vậy ngày nào bạn muốn dời đi chỗ khác, thì trước khi dọn nhà, bạn phải lập thế lấy cái rương ấy lên mà bỏ cho biệt tích, chẳng nên để cho người khác lại ở họ thấy rồi bể chuyện mà phải nhọc lòng bạn.

Bạn không dè chuyện gì hết, mà bây giờ bạn cũng như người đồng lõa với tôi, nghĩ tới chỗ đó thiệt tôi ăn năn hết sức. Việc đã lỡ rồi, xin bạn nghĩ tình mà dung thứ cho người làm quấy mà đã biết tôi nên lo chuộc tội.

Thôi, tôi bắt tay từ biệt bạn và xin bạn tội nghiệp giùm chớ đừng có khinh thị ”.

Linh Phụng

Trinh đọc hết bức thơ rồi, tuy sớm mai trời mát-mẻ mà chàng đổ mồ hôi ướt áo. Chàng xếp thơ lại mà cầm chặt cứng trong tay, rồi đứng dậy đi tới đi lui châu mày suy nghĩ.

Chẳng hiểu chàng nhứt định thế nào mà đi một lát rồi chàng trở lại bàn viết ngồi mở gói bạc ra đếm. Đếm xong rồi chàng gói lại lấy dây cột chặt-chịa và đem vô buồng mở rương bỏ vô mà cất, còn bức thơ thì chàng mởi bóp phơi đút vô cất kỹ lưỡng. Chàng xuống nhà bếp đứng ngó những gạch lót dưới đất, rồi trở lên thay đồ nằm gác tay qua trán, mắt nhắm lim dim.

Phụng đi đâu?

Phải làm sao mà cứu Phụng?

Ấy là hai câu hỏi Trinh đương lập đi lập lại trong trí.

Chú thích

(1-) (tiếng Pháp/Anh couli/cooly:) phu khuân vác

CHƯƠNG 10 -

M

ười hai năm sau.

Tiết tháng giêng, ở Sài-gòn thì trời đã bắt đầu nóng nực. Những người có tiền dư, hoặc muốn trốn nắng, hoặc muốn dưỡng sức đặng tranh đấu nới trường lợi danh cho đắc thắng trong năm mới, nên người đi ra mấy chỗ có bãi biển tốt ở nghỉ ngơi, kẻ thì đi đến mấy nơi có non cao rừng rậm ngao du mà hấp thanh khí.

Trong Nam-kỳ, nơi vùng Châu-đốc giáp ranh với Hà-tiên, có mấy dãy núi nằm ngang nằm dọc, người ta đặt tên chung là Thất-sơn, núi không cao lớn bằng ngoài Trung-kỳ, Bắc-ky, song sừng sựng đứng giữa một miền thấp thỏi, bằng thẳng rộng lớn minh-mông ngó mút mắt, mấy dãy núi ấy xem ra cũng có vẻ chớn chở.

Đã vậy mà trong những cụm núi ấy cũng có nhiều khe nước u ẩn đáng gợi tình thi-sĩ, có nhiều hòn đá làm khỏe mắt hiếu kỳ, tiếc vì khách du sơn ít để bước đến nầy, duy có người mộ Phật cầu tiên mới lui tới đặng cúng chùa nuôi sãi.

Một buổi sớm mơi, trên hòn núi Cô-Tô(1), nằm phía sau chợ Xà-Tón(2), sương còn bao phủ mù mịt, dường như trùm cái mền xanh sậm đặng giấi giếm những cảnh thanh tịnh, bí mật của tạo-hóa lập ra riêng để cho bọn thất chí hoặc chán đời nương náu, chớ không muốn cho phường trục lợi tranh danh ghé mắt.

Thế mà có ba người đương lụi cụi do đường mòn mà leo lên núi.

Người đi trước là đàn-ông, mặc áo sơ mi xám, quần cụt cũng màu xám, tay chống một cây gậy, vai mang một cái máy chụp hình nhỏ treo lòng thòng sau lưng. Hai người đi theo sau lưng là đàn-bà. Đồng mặc áo thun màu xanh, quần vắn màu đen, chơn mang giày mềm, tay cũng chống gậy, mà vai chỉ mang một cái ống dòm mà thôi.

Đường nầy là đường lên mấy chùa, mấy am trên núi, bởi vậy mỗi ngày đều có người ta lên xuống thường. Tuy vậy mà có khúc dốc đứng phải bò mà lên, có chỗ bị hòn đá cản ngang, phải trèo mà qua mới được. Gặp mấy chỗ khó ấy thì người đàn-ông phải tiếp mà dắt hai người đàn-bà; dầu đi gay-go mệt nhọc, nhưng ba người đều vui cười hớn-hở. Tới mũi Hải, thấy có một thạch bàn bằng thẳng nằm dưới một lùm cây mát-mẻ, ba người mới ghé lại đó ngồi nghỉ chưn.

Nói phứt ra cho rồi, 3 người khách du sơn nầy chẳng phải ai đâu lạ, ấy là Trinh với cô Loan và cô Tâm.

Trinh ngó cô Tâm rồi cười hỏi:

- Mình viếng núi Ông-Tô nầy nữa thì giáp vòng hết Thất-sơn. Cô Tâm tính qua sang năm đi miệt nào nữa?

- Có lẽ qua sang năm đi viếng núi Hà-tiên, như còn dư ngày thì mình đi thẳng lên Tà-Lơn.

- Phải. Mình đã đi giáp hết những núi ở Tây-ninh, Baria, Vũng-Tàu, Phan-thiết, Nha-trang, Dalat, Thất-sơn thì chỉ còn có núi Hà-tiên với Tà-lơn nữa mà thôi. Tìm kiếm đã mười mấy năm rồi, song không công hiệu chi hết, thế mà cô chưa mòn chí hay sao?

- Không, em vẫn hăng-hái luôn-luôn, bởi vì cái linh tánh nó mách rằng em sẽ mãn-nguyện, nên trí em tin chắc có ngày sẽ gặp.

Cô Loan nghe như vậy bèn vịn vai cô Tâm mà nói: « Tôi khấn vái cái linh tánh của cô đó đừng dối gạt lòng cô ».

Nghỉ khỏe rồi, ba người đứng dậy mà đi nữa. Bây giờ mặt trời đã lên cao rồi, phá cái màn sương đã tan hết, dọi mấy khe nước trong kẹt đá chảy ra trắng nõn như bạc đổ.

Xa xa nghe tiếng chuông chùa Phật dộng bon bon; lấp ló thấy chim đứng trên nhành kêu chéo chét.

Đến trưa, ba người lên tới một chỗ trống trải kêu là Dâu Hội, gần trên đảnh, Trinh đói bụng, lại thấy có một tấm đá lớn nằm dưới một cây cổ thụ sum sê, dựa bên thêm có ngọn suối nước chảy ro re trong vắt. Trinh mời hai cô ghé đó mà ngồi, rồi mở túi ra lấy bánh mì, cá họp, thịt đùi mà ăn với nhau.

Trước mặt trông thấy cánh đồng Xà-Tón minh-mông tuyệt với, bên phía tay trái thì những ngọn núi Cấm (3), núi Bà Đội(4) nghênh-ngang che khuất cánh đồng Tà-keo, Cần-vọt. Tuy không có tâm hồn thi-sĩ, nhưng mà thấy cái quang cảnh từ núi cao xuống đồng thấp mỗi chỗ có vẻ khác nhau thì ba người đều cảm xúc trong lòng, nên ngồi ăn mà không nói chuyện chi hết.

Ăn no bụng, ba người lại suối mà uống nước và rửa mặt, rồi cô Loan với cô Tâm nằm ngửa trên tấm đá mà nghỉ lưng, mắt lim dim nghe gió trông mây, trí vơ vẩn ngó rừng tưởng núi. Trinh mở máy ra mà chụp hình hai cô, chụp nằm trên hòn đá rồi chụp ngồi gốc cây. Cô Loan sung sướng trong lòng, nên cặp tay Trinh mà dắt đi thơ thẩn, khi thì vịn vai nhau mà nói, khi thì nhìn mặt nhau mà cười, hạnh phúc tràn trề, ân tình chan chứa, cô Tâm đứng ngó cặp ấy rồi tâm-hồn cô lơ-lửng, nước mắt nhểu phải lấy khăn mà lau.

Một thầy chùa mặc áo dài, vai mang gói, ở trên lững thững đi xuống. Trinh đón hỏi:

- Xin thầy làm ơn nói giùm cho tôi biết coi đường đi trên đó là đường đi đâu?

- Đó là đường đi lên đảnh.

- Khó đi hay dễ?

- Khó đi một chút, nhưng mà đi được.

- Trên đảnh có người ta ở hay không?

- Có một cảnh chùa Yết-ma Bạch-Phụng lập ra để ở tu trì với ông đạo nhỏ.

Cô Tâm vừa nghe hai tiếng Bạch-Phụng thì biến sắc mà nói: “Chắc gặp rồi. Thôi, đi riết lên chùa coi”.

Ông thầy chùa không hiểu cô nói gặp là gặp ai, song ông đã không cần hỏi, liền xây lưng đi xuống núi.

Trinh với hai cô mang đồ mà đi lên đảnh. Tới một cảnh chùa thấy có một người đạo nhỏ đương lum-khum hái rau, Trinh hỏi thăm thì thiệt quả chùa nầy là chùa Bạch-Phụng, có ông Yết-ma đương xem kinh trong chùa.

Cô Tâm nóng nảy nên bươn-bả đi riết vô chùa, không đợi hai người kia. Vừa bước vô, cô thấy một ông già bảy tám mươi tuổi, đầu trọc lóc, miệng móm xọm, mang mắt kiếng đương cầm cuốn kinh ngồi mà coi, thì cô thất vọng nên đứng trân-trân.

Trinh bước tới cúi đầu chào ông già và nói:

- Chúng tôi đi du-lịch, muốn ra mắt ông Yết-ma.

- Kính chào quí khách. Yết-ma là tôi đây. Quí khách lên cúng Phật hay là lên kiếm tôi có việc chi?

- Chúng tôi có một người bà con tên là Phụng, học Tây giỏi, niên-kỷ bằng tôi, vì uất tình đời nên cách 12 năm nay trốn mà đi tu. Chúng tôi tìm hết sức mà không gặp. Ông có biết trên núi nầy có ông đạo nào giống với người bà con của chúng tôi hay không?

- Trên núi Ông-Tô nầy có hai mươi mấy cảnh chùa, những ông đạo ở tu tôi biết hết thảy. Tôi không thấy người nào đáng nghi là người của quí khách đi tìm đó.

Trinh với hai cô đứng ngơ ngáo.

Cô Tâm hỏi ông Yết-ma:

- Tại đỉnh núi đây có đường đi xuống triền núi phía bên kia hay không?

- Có chớ. Ðưòng sau chùa đây là đường đi xuống triền núi phía bên kia.

- Dài theo đường ấy có chùa có am gì hay không?

- Không có chùa, duy có một cái chòi của một tên nông phu ở trồng khoai tỉa đậu thuở nay đó mà thôi.

- Xin ông cho biết con đường dễ đi hay không?

- Ðường đó tuy ít người đi song ít dốc, ít đá nên dễ đi hơn đường phía bên kia.

Trinh cúng chùa một đồng bạc rồi từ ông Yết-ma dắt hai cô trở ra sân.

Cô Tâm để tay lên trán đứng suy nghĩ một hồi rồi nói: „Phải đi đường xuống triền núi bên kia. Bụng tôi nó giục tôi đi ruồng ngã đó“.

Ba người noi theo đường sau chùa mà đi nữa.

Ði xuống một chút, ngó mấy khoảng trống thì thấy biển Rạch-Giá và Hà-tiên, ở xa xa có Hòn đất. Hòn chông phân ranh đất với nước. Ðường đi thiệt dễ nên ba người vừa đi vừa ngắm cảnh và đàm luận. Thình lình có một đám đậu xanh trồng dựa bên đàng, lại thấy có một người tóc rối rấm, râu xồm xàm ở trần phơi lưng đen trạy, đang lum khum hái đậu.

Trinh với cô Loan đứng mà ngó.

Người hái đậu vừa ngước mặt lên ngó thấy ba người kia thì biến sắc đứng trơ trơ, không nói mà cũng không cục cựa.

Cô Tâm la lớn: „Anh Phụng kìa kìa!“ rồi cô chạy tuôn qua đám đậu, riết lại ôm ngang lưng người nông phu nầy, vừa cười vừa chảy nước mắt mà nói: „Dữ quá! Em kiếm trọn 12 năm năm mới được gặp anh đây! Em đi kiếm cùng hết. Cái linh tính của em nó cho em biết rằng sớm muộn gì rồi em cũng tìm được anh. Thiệt quả vậy, cô Loan, tin cái linh tính của tôi hay chưa hử? Hồi sớm mai nầy, vừa bước chơn đi lên núi thì lòng em khoan khoái, em chắc sẽ gặp anh. Hồi nãy ông Yết-ma nói không có người nào giống anh mà ở trên nầy. Em không tin. Nếu em thối chí mà trở xuống, thì làm sao mà gặp được.“

Người nầy thiệt quả là Phụng, tuy hình dạng có hơi khác hẳn với Phụng hồi xưa, nhưng cô Tâm nhìn không lầm.

Cô Loan cũng vô tới. Ðứng ngó anh, nước mắt tuôn dầm dề, mừng tủi quá, không nói được một tiếng chi hết.

Trinh hân hoan trách Phụng: „Toa tệ quá! Toa muốn được phần toa, không kể đến người khác. Toa để bà già thương nhớ toa đêm ngày. Mỏa khuyên giải hết sức thì bà già bớt buồn chút đỉnh, chớ làm sao mà vui được.“

Phụng ngó Trinh, ngó Tâm rồi ngó Loan mà hỏi: „Năm nay chắc má già lắm phải hôn em?“

Cô Loan gật đầu đáp: „Má già song má mạnh. Duy có má nhớ anh lung lắm, nên năm nào cũng vậy, hễ qua tháng giêng thì vợ chồng em phải dắt nhau đi bậy đi bạ mà tìm anh. Phải đi kiếm thì má mới bớt buồn“

Phụng nghe nói mấy lời thì ngó Trinh và Loan.

Trinh hiểu ý kêu người mà nói:“ Toa gởi gấm bà già với cô ba cho mỏa, toa cậy mỏa bảo bọc. Mỗi người ở một nơi làm sao mà bảo bọc cho được. Toa đi rồi thì mỏa phải tuốt xuống Cần thơ thưa với bà già mà xin cưới cô ba, rồi mỏa đem hết về Sài Gòn mà ở với mỏa. Phải làm như vậy mới bảo bọc được chớ.“

Phụng trợn mắt, bước lại nắm tay Trinh mà nói: „Toa làm như vậy à? Toa cưới em mỏa đặng nuôi mẹ với em mỏa? Cám ơn! Cám ơn lắm!“

Trinh nói: „Toa khỏi cám ơn. Mỏa muốn toa theo bọn mỏa mà về cho mau, đặng bà già mừng, làm như vậy thì hay hơn hết“.

Phụng khoát tay không cho Trinh nói nữa, rồi chỉ cô Tâm mà hỏi: „Còn cô Tâm sao lại nhập bọn chung với vợ chồng toa đây?“

Cô Tâm không cho Trinh trả lời, cô hớt mà đáp: „Ðêm nọ anh giấu tên họ, anh không chịu cho em biết. Cách ít ngày em kiếm anh Trinh em hỏi thăm, tự nhiên em biết có khó gì. Anh không muốn cho em gần anh thì em gần cô Loan, là em của anh, cũng vậy, phải hôn?“ cô nói tới đó rồi cô cười ngất.

Cô Loan bây giờ không khóc nữa, cô tiếp mà nói: „Cô Tâm chờ anh mười mấy năm nay đó. Năm nào cô cũng đi theo vợ chồng em mà kiếm anh. Cô nói nhờ anh mà ông già cô hết bịnh, cô làm giàu làm có, nên cô nhứt định đi kiếm cho được anh mà thôi, chớ cô không ưng chồng nào hết“.
Phụng châu mày hỏi cô Tâm:
- Ông già cô hết bịnh rồi hay sao?
- Uống thuốc chừng một năm thì ông già em đi đứng được. Bây giờ em có tiệm lớn lắm, anh về rồi anh sẽ biết. Ông già em cầu trời khẩn Phật luôn luôn, vái cho em tìm được anh mà đền ơn đáp nghĩa anh.
Phụng cúi mặt xuống đất coi bộ bối rối trong trí lắm.
Trinh hỏi: „Toa ở đây với ai? Làm nghề gì mà ăn? Nhà cửa của toa ở chỗ nào đâu?“
Phụng đưa tay chỉ phía dưới triền núi mà đáp:
- Nhà mỏa ở dưới đây một chút. Mỏa ở có một mình trồng khoai trồng đậu để đổi gạo mà ăn chớ có làm nghề gì đâu?
- Toa có cất nhà đi tu hay không?
- Không. Tu làm gì?
- Thôi, toa dắt tụi moa xuống nhà toa coi, xuống sửa soạn rồi có về cho sớm.
Phụng đứng trơ trơ không muốn đi, làm cho cô Tâm phải nắm tay mà kéo, chàng mới chịu bưng thúng đậu đi ra đàng mà đi xuống núi. Phụng đi trước, ba người đi theo sau. Ði được chừng 50 thước, tới một chỗ có hai tấm đá đứng trên có gát cây trải lá, Phụng chỉ chỗ đó mà nói: „Nhà của tôi đó“
Cô Loan với cô Tâm trông thấy mà ứa nước mắt. Cô Tâm không muốn cho Phụng thấy cô cảm động nên nắm tay cô Loan kéo đi và nói: „Tới nhà anh Phụng mà không vô thì ảnh nói mình khinh ảnh. Vậy thì chị em mình đi vô coi trong nhà, cách ăn ở thế nào?“
Phụng thấy hai cô đi vô trong kẹt đá chỗ mình trú ngụ thì hỏi nhỏ Trinh:
- Mỏa cậy toa mấy khoản, toa có làm y không?
- Mỏa làm y như toa muốn; mỏa thế cho toa mà nuôi dưởng bà già; mỏa giấu biệt tâm sự của toa, mỏa không cho ai biết hết.
- Ðến bây giờ mà bà già với em mỏa cũng chưa biết cái tội ác của mỏa hay sao?
- Mỏa không nói thì làm sao mà biết được
- Còn cô Tâm?
- Mỏa không hiểu; song mỏa biết cô thương toa lắm mà thôi, chớ không nghe cô nói tới chuyện gì khác.
- Mỏa còn cậy toa một việc nữa, toa có làm theo lời moa dặn hay không?
- Mỏa cũng làm, song không làm giống như ý toa muốn được. Mỏa cưới cô ba rồi mỏa mới giao gói bạc 9 ngàn đó lại cho cô, mà mỏa không nói của toa gởi và cũng không chịu cho cô để dành mà nuôi bà già. Mỏa nói dối, mỏa có một người cô giàu có mà không có con. Khi cô mỏa tỵ trần có giao số bạc nầy cho mỏa và dặn ngày nào mỏa cưới vợ rồi thì phải đưa hết bạc ấy lại cho vợ của mỏa đặng nó thay mặt cho mỏa mà bố thí cho kẻ nghèo. Bố thí thì chẳng đặng cất chùa cất miễu, chẳng đặng cống hiến cho mấy hội gọi là hội phước thiện. Phải đi chơi trong mấy xóm nhà nghèo ở, thấy ai cùng khổ, hoặc bịnh hoạn thì lấy bạc mà cứu giúp, ai khổ nhiếu thì giúp nhiều, ai khổ ít thì giúp ít cho đến chừng nào hết số bạc ấy thì thôi. Cô ba làm theo cái hảo ý ấy, bố thí mới hết số bạc ấy hồi năm ngoái đây.
- Toa cao thượng quá, mỏa không bì kịp!
- Mỏa nuôi bà già thì đủ rồi. Cần gì phải dùng tiền ấy. Mà tiền như vậy mình dùng sao được.
- Quân tử quá! …Còn cái rương sắt toa làm sao?
- Ồ, chuyện đó thì dễ ợt. Mỏa mua một cái thùng cây, mỏa bỏ vô. Một chuyến nọ đi Nha Trang mỏa chở theo xe lửa, khi xe qua khỏi sông Dinh mỏa quăng vô rừng rồi biệt tích, có khó gì đâu?
- Cám ơn to quá…
- Thôi, đừng cám ơn mà mất thì giờ. Kêu hai cô ra đặng về cho mau. Có xe hơi của mỏa đậu chờ bên kia.
Phụng suy nghĩ rồi lắc đầu mà nói:
- Thôi, mỏa cậy toa luôn nói giùm bà già cho mỏa. Mỏa không thể về được.
- Tại sao vậy? Việc toa làm hồi trước duy có một mình mỏa biết mà thôi, chớ có ai biết đâu mà sợ. Mà dầu tới bây giờ có đổ bể ra đi nữa cũng không hại gì. Tội đại hình hễ quá 10 năm rồi thì tòa không có luật buộc tội toa nữa được.
Phụng ngước mặt lên rồi châu mày hỏi nho nhỏ:
- Dù không ai biết, còn lương tâm kia chi! … Dầu tránh khỏi luật người, còn luật Trời làm sao tránh được!
- Ồ! Lương tâm! Ồ Trời Phật! Nếu bà Lợi chưa chết, thì bà làm hại thêm cho con nhà nghèo, chớ có ích gì. Bà chết đó là may mắn cho nhiều người lắm. Huống chi toa lấy bạc của bà chẳng phải toa lấy mà ăn xài, lấy đặng tấm gội cho những kẻ nhơ nhuốc, lấy đặng làm mạnh cho những kẻ đau ốm, lấy đặng giúp sống cho những kẻ nghèo đói, thế thì tội trộm cướp sát nhơn của toa có chỗ dung chế được. Ðã vậy, trọn 12 năm nay, toa đã phạt thân toa cực khổ mà chuộc tội rồi. Các cớ ấy há không đủ làm cho lương tâm an tịnh, đặng toa gần gũi má cho má vui, đặng toa kết tóc với cô Tâm cho cô phỉ tình ước nguyện hay sao? Còn toa sợ luật Trời, cái đó toa bậy lắm. Ðời nầy mà toa còn tin tưởng Trời Phật thì trái mùa quá. Nếu Trời Phật có luật và thi hành luật ấy hẳn hòi, thì làm sao những người biết nhơn nghĩa lại chịu nghèo khổ, còn những kẻ tham lam lại được giàu sang? Toa phải về, đừng cải nữa.
- Phụng lắc đầu ủ mặt.
- Trinh nắm cánh tay Phụng mà lúc lắc và nói: „Thiệt toa không muốn về hả? Ðể moa nói cho hai cô khiêng cho toa về. Em Loan cô Tâm ra đây coi. Anh Phụng, anh không chịu theo mình về đây nè“
Hai cô nghe kêu thì ở trong cột đá đi ra. Cô Tâm cầm một cái áo rách trên tay, vừa đi vừa nói: „Sao không chịu về?“ Quần áo anh đâu anh Phụng? Kiếm cùng hết mà thấy có một giỏ khoai và một mủng đậu với cái áo rách đấy mà thôi“
Cô Tâm vui vẻ nhưng mà Phụng vẫn nghiêm nghị đáp rằng:
- Gia tài của tôi chỉ có bao nhiêu đó.
- Vậy hả? Thây kệ, thôi bận đỡ áo rách về trên Sài Gòn rồi em sẽ sắm đồ cho anh mặc. Sao anh nói với anh Trinh rằng anh không muốn về?
- Tôi không thể trở về được
- Trời ơi, anh nói chơi sao chớ.
- Tôi nói thiệt. Không, đã đến chốn nầy mà trốn thì làm sao mà tính việc có vợ cho được.
- Vậy chớ tại sao mà anh giục giặc không muốn về?
- Vì tôi đã phạm tội với xã hội, tôi không được phép ở chung với xã hội nữa.
- Ạ… Em hiểu rồi!... Ôi mà em chẳng hiểu làm chi. Em chỉ biết anh là người có lòng thương xót con nhà nghèo, anh cứu vớt em trong lúc em vì nhà nghèo, cha bịnh mà phải sa ngã dưới bùn dưới vũng… Anh nói anh có tội… Hứ! Tội! Người như anh mà có tội gì. Anh phải có phước, chớ không phép có tội. Em nói anh có phước, anh phải tin em. Anh co phước thì anh phải hưởng phước, nghĩa là anh phải về đặng cho em thờ phượng anh, đặng cho em nựng nịu anh, đặng cho em phỉ tình hoài vọng mười mấy năm nay.
Câu sau cô Tâm nói nho nhỏ và nói và liếc mắt ngó Phụng rất hữu tình.
Phung ngơ ngẩn, đứng trơ trơ miệng nói lầm bầm: "Thế nầy thì trái với luân lý, lỗi với xã hội quá!“
Cô Tâm la lớn: "Ồ! Luân lý!.. Xã hội! Anh xưa quá! Ðời nầy mà còn nói luân lý chớ! Còn xã hội mà kể làm chi. Bà già ở nhà với anh em chúng ta, đây là xã hội của chúng ta. Bao nhiêu đó cũng đủ rồi. Chúng ta thương nhau, yêu nhau, biết nhau mà thôi, chớ có ai thương, có ai biết chúng ta đâu mà phải kể họ. Thôi anh bận đỡ cái áo rách nầy đi, xuống tới xe hơi rồi em sẽ đưa cáo áo mưa của em cho anh bận ở ngoài»
Phụng đứng xuôi xị.
Cô Tâm giũ cái áo mà bận cho Phụng
Cô Loan bước lại tiếp gài nút. Trinh lén mở máy mà chụp hình hết ba người.
Vĩnh-Hội, decembre, 1938
(Theo nxb Sông Kiên, 1961)
Chú thích:
(1-) Thiết Hải
(2-) (địa danh: Tri Tôn) giọng Triều Châu đọc là Xà Tón
(3-) Thiên Cẩm Sơn
(4-) còn gọi là núi Đội Om hay núi Tượng.

2/6/2016
Hồ Biểu Chánh
Theo https://isach.info/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

  Những cơn bão - Truyện ngắn của Nguyễn Thị Mai Phương Mẹ Bình tối ngày mò mẫm ngoài đồng với vài sào ruộng khoán. Cha lụi hụi đạp xe đi ...