Người vợ hiền 1
CHƯƠNG 1 - GÁI NGOAN
Ðầu nhà nghi ngút khói, trên nhành lác đác sương, thỉnh thoảng,
lại đưa qua luồng gió mát. Mấy đóa hường mới nở hồi rạng đông, tươi tốt dịu
dàng, dường như chúm chím môi son, mà cười chào khách yêu hoa vậy. Ai nếm được
cái hương vị ngọt ngào ấy cũng lấy làm thú vị như được nghe lời tao nhã của bạn
tri âm.
Ðầu này, chim rủ bạn, góc nọ, gà túc con. Nhà nông sắm sửa ra
đồng. Ngoài lộ đã thấy kẻ gánh, người bưng mau chân đến chợ. Cái quang cảnh buổi
sáng ở chốn thôn quê nhắm cũng có thú vui đặc biệt.
Cô Ba đã thức giậy nãy giờ. Nhẹ nhàng gọn ghẽ như con chim
quyên, làm cái gì đã vừa mau lại vừa kỹ. Rửa mặt xong cô nấu cháo, pha trà, đoạn
đi phát lúa cho gà vịt.
Cô mặc quần lãnh [1] đen áo bà ba trắng. Mí tóc chưa gỡ xủ
mành [2] trên trán làm cho cái gương mặt nhơn từ trông lắm vẻ yêu. Xem cô đứng
giữa đàn gà vịt bắt tưởng tượng ra một vị tiên nữ nào đương thi ơn, tế độ cho
đám chúng sanh.
Khi song đường [3] cô thức, cô bổn thân pha nuớc rửa mặt, dọn
cháo lót lòng, rót nuớc, têm trầu, giũ xếp mùng mền rồi mới sửa soạn đi chợ.
Tánh cô không thích se sua trang điểm, nhưng cô mặc đơn sơ chừng
nào coi lại càng thêm xinh, đáng kính đáng vì [4], khiến cho bạn đồng niên ai
cũng phải thật tình yêu đương, không có chút gì ganh gổ.
Cô cắt việc cho con đòi:
- Nầy em. Ở nhà em rửa chén, quét nhà dùm chị, nghe em.
Cô Lê vì ngủ trưa nên hơi mắc cỡ:
- Sao chị không kêu em thức sớm với? Em dậy, công chuyện đã
làm hết rồi. Báo hại em mắc cỡ gần chết!
Nói rồi nó ngáp mà cuời. Cô Ba cũng cười:
- Có hề chi! Thấy hồi hôm em thức khuya nên sáng chị để em ngủ
nán cho khoẻ, ngủ không đã giấc, ngầy ngật lắm em à! Như em ưa thức sớm để bữa
khác chị kêu cho. Thôi chị đi. Trưa rồi.
Hai vợ chồng ông Nguyễn Công Phát có một trai và một gái là
cô Ba, chánh tên là Nguyễn thị Dung; thật tánh tình rất hạp với tên; ông bà yêu
cô lắm.
Bà ngồi cùng ông uống nuớc, thấy cô Dung ra khỏi ngõ, chỉ
theo mà nói với chồng:
- Tôi thương con gái tôi vô cùng đó ông. Không cần gì giàu có
hơn nguời, miễn đủ ăn mà được con hiếu thảo thì là vui lòng hả dạ. Mấy bữa rày
con Ba tôi nó cực nhọc ông có thấy không? Gần tới đám cưới thằng Hai, mình nó
lo. Bữa nào cũng thức khuya, dậy sớm. Nó dành làm, không cho tôi dự việc gì hết.
Nó nói nó chịu cực ít bữa rồi thì có chị Hai về chia công việc với nó chớ gì!
Nó lại nói lẽ: "Má già rồi, nghỉ cho khoẻ mà ăn ngon ngủ ngon, tôi mần thì
đủ rồi, tôi không biết cực." Năm nay tôi già lắm sao mình?
Ông vuốt râu cười:
- Già mà còn duyên!
- Oái thôi đi ông! Ðến tuổi nầy mà còn diễu, không sợ trẻ
nghe nó cười. À mà, ý ông tính sắp đặt đám cưới thằng Hai thể nào, nói cho tôi
nghe thử? Tôi lo quá!
Hai ông bà bàn tính, cô Ba đi chợ về, con Lê chạy ra mừng rồi
cùng nhau lo việc bếp núc.
Tưởng trên đời hoa nào đẹp nhứt, ngọc nào quí hạng nhứt, cũng
không bằng "có duyên" nhứt là người đàn bà.
Có duyên nầy chẳng phải mắt hay liếc, miệng hay cười. Cái
duyên là cái hương vị ngọt ngào của tấm lòng vàng, của cái linh hồn cao thượng.
Lời nói hữu duyên như khúc đờn tiên, non nỉ thâm trầm, như giọt nước cam lồ [5]
có thể chữa được vết thương đau đớn. Cái duyên không phải là món bắt chước ở
đâu; nó cốt ở lòng, cũng như mùi thơm tự nhiên của hoa cốt ở nhụy. Bắt chước
làm điều mình không thật muốn, hoặc mình không có tư cách làm, là sự giả dối,
trông lắm buồn cười.
Cô Ba thốt lời chi cũng chậm rãi cẩn thận, thật thà mà có
thanh tao, suông sẻ mà có ý vị, khiến cho người cao sang hơn nghe cũng kính vì,
mà kẻ thấp thỏi hơn càng cảm phục.
Người như vậy dù nuôi loài vật ngu si cũng có thể cảm hóa được.
Con Lê là con nhà đê tiện; thèo lẻo, láo xược, gian ngoa, hỗn
hào. Giá nó gặp ai thì ngày nào cũng không khỏi bị rầy la đánh đập. Nhưng từ
ngày vô giúp việc nhà cô Ba thì tánh nết nó khác hẳn; biết lễ nghĩa, siêng năng
có thể nói rằng nó thương chủ nhỏ nó hơn chị ruột; vì vậy nên nó hay làm chung,
đi chung với cô Ba; vắng cô trong giây lát nó cũng buồn. Lúc lặt rau, nó hỏi:
- Nè chị Ba! Nữa vợ anh Hai về đây chị có thương không?
- Thương chớ! Trời khiến vậy đa em. Hồi còn người dưng thì chẳng
nói gì, chớ bây giờ hễ nói đến tiếng « chị Hai » thì lòng chị đã sanh mối cảm
tình. Vì sao có sự cảm ấy, em có biết không? Thứ nhứt, vì chị Hai thương anh
Hai và thương cả nhà mình, nên mới ưng về làm dâu; thứ nhì, là chị Hai sẽ là
người đồng chia vui chia buồn với mình; nếu khéo cư xử với nhau thì như ruột thịt
vậy.
- Nghe nói phía bên chị Hai giàu lắm, phải không?
- Giàu. Nhưng em phải hiểu rằng chẳng phải cái giàu đó mà anh
Hai ham, mà mình thương. Ðiều nên chuộng là sự khôn khéo, biết kính cha mẹ, biết
thờ chồng, biết hòa thuận với bà con và biết cả nữ công nữ hạnh. Cũng có nhiều
khi vì bên chồng ở gắt gao, em chồng ác nghiệt mà thành ra người dâu không được
trọn hiền. Chị khuyên em hãy noi theo chị mà yêu kính chị Hai, nhứt là lúc chị
Hai mới về còn đương bợ ngợ, còn đương nhớ quê nhà, mình phải khéo cách đối đãi
cho người khỏi có điều chi tủi phận.
- Ủa! nói chuyện thì nói lặt rau thì lặt, chớ buông đó mà
nhìn sao bậu? [6]
Con Lê cười, bưng rổ rau đứng dậy.
- Em lặt rồi chứ! Thấy cái miệng chị dễ thương quá nên em
nhìn quên thôi. Thiệt em thấy mà muốn hun hết bực. Chị như vậy thì lo chi sau
này chẳng được chị em phía bên chồng kính yêu.
- Oái! Ðừng nói xàm! Có rửa rau xong thì gọt mướp, rồi chị
nói nữa cho mà nghe.
Cô nói: « Cũng thiệt đó chút, nghe em; mình ở phải thì tự
nhiên gặp phải. Nhưng trước hết mình phải rõ phận làm dâu phải biết tùy gia
phong của người mà ở vuông tròn, như vậy cha mẹ mình khỏi buồn thẹn vì lời dị
nghị, chê bai; sau nữa không uổng cái tình của chồng yêu đương; vậy mới khỏi bị
khinh rẻ ».
Nói đến đó cô Ba nghe phía trong có tiếng: « Chả! Cô dâu đó
được quá há! Có khách tới kia kìa, nấu nước, têm trầu dùm cái!". Nàng biết
mẹ đã nghe và nói bỡn [7] mình nên mắc cỡ; vội vàng chạy vô, bẽn lẽn cười mà
ngó mẹ.
Chú thích
[1] vãi lụa mặt bóng. Chị già quần lãnh hoa chanh, chúng em
khốn khó quấn quanh Lụa đào.
[2] buông xuống, thả xuống
[3] cha mẹ
[4] vị nể
[5] hay cam lộ, nước cưởi ngọt, đời xưa cho là khi thiên hạ
thái bình thì trời xuống nước cưởi ngọt, xin xem chú thích từ ngữ giọt nhành
dương.
[6] em
[7] giỡn, trêu ghẹo
CHƯƠNG 2 - ĐẾN NGÀY ĐÁM CƯỚI
T
uy chẳng có bày chi rộn rực linh đình như trong những đám to ở
thôn quê, chớ cũng không khỏi đông đảo.
Các bà con đến phụ sự, ai cần món chi, hỏi điều gì thì có cô
Ba Dung và đứa tớ gái lo trước sẵn sàng cả. Hai chị em trổ tài bặt thiệp, sắp đặt
đâu đó rành rẽ, kỹ càng. Nét mặt vẫn tươi cười, không lính quýnh và không sơ
sót chút nào, mọi nguời đều đẹp ý khen ngợi.
Cô Ba còn tỏ ý cám ơn những người đến giúp, sáng thì cô đãi
điểm tâm; trưa thì bánh trà, trầu tươi cau dầy, mời một cách dịu ngọt ân cần
không ai từ chối được.
Cô nấu ăn khéo nhưng vẫn khiêm nhường và hỏi người khác để học
hỏi thêm.
Mấy bà già lấy làm lạ, hỏi nhau: "Con Ba mắc đi học, mới
ra trường, ở nhà với cha mẹ gần một năm nay mình tưởng nó nấu cơm không xong,
chẳng dè bánh mức, nem, chạo, đồ cổ, đồ bát, nó làm khéo quá. Thật lạ chớ! Chỉ
cần ba cái bánh tây của nó làm không cũng đủ so sánh bằng thím Kỹ Bảy nữa đa.
Bánh thửn, bánh men lại càng hơn nữa, còn mấy món đồ Tây ai nấu? - Nó đa, nó với
con Lê làm đầu bếp. Ðồ Tây đồ Tàu gì cũng lãnh hết".
Mà thật vậy ai có dè cô Ba mà giỏi đến thế. Hồi còn ở trường,
học sanh ta nhơn mấy ngày nghỉ đến chơi nhà mấy người cô, mấy người dì, có khi ở
nhà chị em bạn... nói rằng đi chơi, chớ kỳ thật đi học nữ công; hoặc đi chợ mua
ăn dùm, hoặc phụ sự nấu nướng chịu làm mấy việc nhọc nhằn; mà hễ làm rồi món
nào thì nhớ hết, lại biết chế cho đúng cho ngon hơn.
Nhiều người xấu ruột dấu nghề, nhưng cô Ba đoán mà biết, khi
về thí nghiệm thì làm được ngay. Khéo như vậy mà chẳng hề ăn món gì của ai mà
chê nên người ta mới lầm.
o O o
Khi thuyền rước dâu đã về, thì trừ ra cô Ba với con Lê vẫn lo
coi sóc trong nhà còn mấy người đàn bà, nhứt là mấy cô còn tơ, kẻ thì núp sau
hè, người thì rình kẹt vách, lén xem cô dâu chú rể bước lên.
Ai cắc cớ lóng tai bên vách thì nghe dường như mấy tấm ván
nói chuyện với nhau:
- Bận áo tốt quá phải không?
- Vòng vàng thiệt là nhiều.
- Kìa trên đầu có giắt cái gì in [1] con bươm bướm... Chừng
dòm theo kẽ hở, thấy một hàng mấy chục con mắt hiếu kỳ mở thật lớn.
Y như lời người ta nói, cô Thường là cô dâu mới vốn con nhà
giàu. To xương, hình vóc không được dịu dàng. Ðầu nhỏ cổ cao, tay chơn lớn hơn
của đàn ông, xem bấy nhiêu cũng đủ hiểu người không thông minh, không có xảo thủ
[2] trong những việc công phu tỉ mỉ. Không phải cái bàn tay cầm kim gọn gàng ở
trên cái khuôn thêu; cũng không phải cái bàn tay vuốt ve chồng trong lúc buồn rầu,
mơn trớn con trong mấy cơn đau yếu. Nhưng mà thật da trắng, môi dày tóc huyền;
trông cũng là khá đẹp.
Ðám cưới xong, mấy tháng qua rồi, trong gia đình vẫn yên vui,
chẳng có điều chi lạ.
Nhưng về sau nầy lắm khi đêm vắng canh chầy chẳng biết vì sao
mà cô Ba ngồi sững, mắt nhìn đèn, quên lẫn đường kim mối chỉ. Có khi cô rơi lụy
nhưng vội vàng kín nhẹm lau đi, rồi tắt đèn mà ngủ.
Chú thích
[1] giống hệt
[2] khéo tay
CHƯƠNG 3 - CÔ DUNG PHIỀN
N
ội nhà không ai biết cái buồn của cô Dung, duy có con Lê dò
thấu. Thường khi đêm cùng ngồi may vá, chủ nhỏ nó hay nói chuyện xưa tích cũ hoặc
chuyện kim thời [1] để làm gương, và thừa dịp giảng luân lý cho nó nghe. Gần
đây, cô Ba ít nói, ít cười, hoặc có cười cũng chỉ là cười gượng mà thôi. Lại thức
khuya lắm. Con Lê ngủ trước, chừng thức sớm thì vẫn thấy cô Ba còn chong đèn ngồi
làm bạn với mũi kim.
Khi kia, thừa lúc rảnh rang, vắng vẻ, con Lê hỏi:
- Ðã mấy đêm rồi chị thức tới sáng sao chị? Khi trước chị hay
rầy em sao có thức khuya, vì theo phép vệ sanh đêm nào người ta cũng cần phải
nghỉ trong tám giờ đồng hồ thì mới được mạnh giỏi. Chị không sợ bịnh sao?
Cô Ba ngó con tớ trung hậu yêu đương mà gượng cười:
- Lẽ nào chị quên lời chị dạy em. Nhưng chẳng biết sao chị
không buồn ngủ. Chị cũng ráng dỗ giấc chớ, mà hễ nằm xuống thì bắt thao thức
hoài; trông mau sáng đặng làm công việc cho khuây mà vẫn thấy đêm dài dăng dẳng.
- Khổ chưa! Thế thì chị có sự buồn rất nhiều; biết vậy làm
sao em vui đó chị?
- Có buồn điều chi!
- Thôi đi! Em biết nghe và biết chia buồn với chị mà. Chị
quên rằng chị mới nói câu "trông mau sáng đặng làm công chuyện cho
khuây". Chị hết thương em sao, bây giờ chị dấu em vậy? Em biết cái duyên cớ
làm sao chị buồn; nghĩ đến em cũng buồn lắm chị à! Chị cho phép em nói những điều
nghĩ đến mà phải buồn đó không? Với người ngoài, ai cạy răng em cũng chẳng hở
môi; còn với chị, em muốn nói quá. Nói ra cho đỡ buồn. Chị sẵn lòng thương
"người" chịu cực với người, mà rồi vì người mà chị chẳng được an vui,
có bất bình không?
- Ðừng nói bậy em, ấy là số phận của chị. Em nghĩ kỹ coi, chị
buồn là tại hay nghĩ mà buồn. Người vô cớ làm cho chị buồn, có đáng trách đâu.
Trách người mới là bất bình. Thôi em đừng nói ra mà lỗi.
- Chị nói vậy chớ theo ý em nghĩ, cái buồn phải để cho mấy
người quấy lãnh lấy, cũng như sự hành phạt là để cho kẻ bất lương. Ở phải mà chịu
buồn, cũng như có công mà mang tội em không chịu đâu!
- Thoảng như trời khiến phải chịu, chừng ấy em nghĩ thế nào?
- Chừng ấy phải cam tâm. Nhưng đã biết rằng trời khiến, thì
chẳng hay hơn là đừng buồn sao. Chị thường nói với em những lời: những cái khổ
không phải tự mình gây ra, tức là trời làm để thử coi thật có chí khí làm người
tử tế không... Chị vẫn là người tử tế, buồn làm chi cho hao tổn tinh thần? Rủi
đau ốm đã hại cho thân chị, lại còn hại cho cha mẹ buồn rầu, thì là có lỗi đó.
Cô Dung làm thinh. Không phải vì nghe lời của con Lê mà bắt
nghĩ ngợi; cô mừng thầm là vì thấy con nhà khờ khạo kia, nhờ mình giáo hóa cho,
ngày nay đã biết phân lời hữu lý. Nhưng cái buồn của cô là cái buồn tất nhiên.
Trước kia cô vẫn tưởng rằng cách đối đãi tử tế và thái độ ôn
hòa của mình không thế nào sanh ra điều rối rắm trong cái tình chị dâu em chồng.
Cô tưởng rằng mình sẽ là người hữu ích cho cái hạnh phước gia đình, tự nguyện
lãnh cái chức trách làm cho trong nhà luôn luôn được hòa thuận; nếu chị dâu còn
thô thiển thì cô sẽ hết sức khôn khéo xử trí để cho trở nên một tay nội trợ xứng
đáng của nhà mình.
Cô biết thế cảm hóa chị dâu, nhưng không tỏ dấu gì thông thạo
hơn; biết khiêm nhường, biết thừa dịp, thì lẽ nào chị dâu lại hổ thẹn, hoặc đố
kỵ mà không sẵn lòng chịu học?
Cô có ý như thế chẳng phải tự phụ. Không đâu! Vì cô đã có
nghiệm nhiều lần. Thuở còn cặp sách vào trường cô đã ra công khuyên dỗ vài ba bạn
học bỏ được tánh biếng nhác đi. Con nít lối xóm nhiều đứa thô lỗ, hư hèn mà nhờ
cô răn dạy nên thành ra có tánh tốt. Khó dồi mài hết sức là cái óc hư tệ của
con Lê mà cô còn rèn sửa được thay.
Lại cũng ngộ: cha mẹ cô dường như cũng bị cái ảnh hưởng của
cô mà thành ra đã vừa đúng là bực lương thiện lại vừa biết ăn ở hạp theo thời
thế.
Có vậy chăng? Nhiều khi người lương thiện bỏ qua việc phải,
vì không dè; hoặc có khi tưởng đã làm phải, nhưng cái phải không nhằm chỗ. Gà
thèm hột thóc, đem cho hột vàng, chỉ là một sự ngu.
Có thể nói rằng cô Dung như cái hoa hường đẹp đẽ, thơm tho, mọc
ở chỗ nào thì chỗ ấy thành cái hoàn cảnh xinh đẹp, có cái không khí thanh cao,
khiến cho người được hấp thọ, lấy làm khoẻ khoắn.
Kẻ có tài xuất chúng thường hay ưa cái khó khăn, hiểm trở, để
như vậy thì mới có chỗ mà trổ ná [2]. Mấy chú thợ khéo không vui lòng sửa dậu
ngã, rào xiêu, bằng chạm trổ rường cao, cột cả. Mấy tướng có tài thao lược
không ham lãnh phần gác cửa, canh trường.
Cô Dung không phải là mong cho chị dâu hư mà dạy bảo. Nhưng nếu
vợ của anh Hai cô có thô lỗ, vụng về, cô rất sẵn lòng dìu dắt. Mộng tưởng êm đềm
thay!
Nhưng than ôi! Ðó chẳng qua chỉ là một cái lầm, cái lầm lớn của
kẻ hữu tâm.
Ðừng tưởng rằng thế gian nầy bịnh gì cũng có thuốc trừ; sự từng
trải đã chỉ cho mình hiểu rằng chẳng phải hễ phàm là cây thì có thể chạm trổ được.
Thuốc hay mà bịnh trễ thì làm sao?
Khí cụ tốt mà cây mục thì làm sao?
Thiệt là khó liệu cho phần cô Dung... Cảnh nhà không dư dả
nhiều, thói cần kiệm đã quen. Nay có một cô dâu giàu chẳng biết tiết kiệm đồng
tiền với ngày giờ, bấy nhiêu đã đủ cho cảnh kém vui. Nói ra thì sợ mất lòng nên
cô Dung vẫn cứ mỗi ngày đi mua ăn, lui cui về việc bếp núc.
Chị dâu làm món ăn gì cũng không được, lại cũng không có ý gì
lo làm cho đến được [3]. Ít lâu mình sẽ xúi chồng ra ở riêng. Cơm nước sẽ có đầy
tớ lo cho. Có tiền không biết mua sự thảnh thơi, vào bếp chi cho khói thui, lửa
táp. Công việc ấy để cho con nhà nghèo. Trời sanh mình làm con nhà giàu là để
cho cái phần thoa phấn, điểm son, mặc đẹp, ăn ngon, huởng cái điều vui thú trên
đời.
Cô dâu nghĩ như vậy, cho nên bao giờ còn ở cửa nhà cụ Nguyễn
thì cũng vẫn để ý là cảnh ăn gởi nằm nhờ; chỉ lo độc thiện kỳ thân [4], trừ ra
cái tình thương chú chồng nhu [5] dễ xỏ mũi kia, thì không biết cảm đến ân hậu
của ai hết. Bao nhiêu dầu thật tình yêu đương, cô ta đều nghi là sự giả dối trải
mày của kẻ ít tiền đối với người dư của.
Tâm địa như vậy, lại gặp nhà toàn người hiền hậu, nên cô thường
sanh thói dễ ngươi. Ngủ trưa chẳng chút ngại ngùng, làm bể không hề bức rứt. Có
khi, không ai hiểu, mà nàng dâu giận hờn điều chi chẳng rõ, bước đùi đụi ra
gánh nước, bửa củi. Bữa sau thì la đau gân, mỏi cốt, nóng lạnh, nhức đầu, về
nhà cha mẹ ruột ở chơi ít tháng.
Nhưng vậy, đó chẳng phải là chánh là điều làm ra sự thảm cho
cô Dung...
Cô chẳng phải gái ưa ăn không ngồi rồi; cô sớm biết sự cao
quý của sự lao động. Từ khi có sự buồn riêng thì cô lại kiếm nhiều công việc mà
làm ép cái trí mình không được rảnh rang mà nghĩ đến nông nỗi. Có ngày giờ dư
cô dạy con Lê may. Cô lấy tiền bán những sản vật của chính mình làm ra mà mua vải,
sắm áo quần cho trẻ cơ hàn trong xóm. Chị dâu biếng nhát thì nàng có nhiều dịp
đền đáp ơn sanh thành dưỡng dục chớ gì.
Ðiều khổ tâm cho cô là sự thất giáo của cô Thường. Chị ta
không hề biết lỗi mình. Lắm khi lại vì muốn khoe cái hay, cái phải của mình tự
tăng, chị ta bình phẩm thiên hạ một cách rất bất công, vấn đề mà chị ta hay nhạo
đi nhạo lại, nhứt là "cha mẹ chồng kia ở ác, chị em chồng nọ gắt gao"
cách nói ý xỏ xiên, khiến cho cô Dung nghe lấy làm khó chịu.
Khổ nhứt là nàng dâu hay nghi bậy, lại thường đem việc nhà chồng
từ cái bát mẻ, cái chén sờn mà học với người khác; thành ra từ ngày cô Ba có chị,
mới nẩy ra tiếng ruồi, lằn, có thể làm cho tổn hại cái danh giá tốt nhà cổ;
nào: hà tiện, gắt gao, tham lam, tật đố [6]...
Thông gia cũng vì vậy mà lạt lẽo nhau.
Có một lần bà Nguyễn rầy con Lê vì một sự hư hao mà bà tưởng
do nó làm ra. Chẳng dè là tại cô Thường. Cô dâu đương ngồi nhai bánh, liệng [7]
món ăn đi, to tiếng trả lời, đến nỗi làm cho mẹ chồng phải nghẹn ngào, trộm rơi
nước mắt.
Từ đó cô Dung lại càng buồn nhiều.
Có một hôm, con Lê thỏ thẻ như vầy: "Nè chị! Trời không
đành nào xui cho người chị phải buồn, bởi chị biết noi ý trời mà làm điều phước
thiện".
Một người dưng kia giàu có, vô nhà mình nó quên nó cũng là
người dưng, còn nhỏ dại! Họ đã là kẻ vô ích lại còn khi thị mình, là nghĩa gì?
Mà mình không phải là bọn thờ tiền chớ?
Cô Dung đáp rằng:
- Em xúi chị ở bậy sao? Chị biết có một điều ở phải mà thôi.
Vả lại chị thường dặn em, chớ trách người mà chỉ nên trách lấy mình. Chị Hai
không thương mình ấy là tại mình không khéo đối đãi cho vừa lòng. Còn thoảng
như mình hết tình muốn sự hoà mà không được ấy là tại là tại phần mình xấu phước.
Trời kia còn không khỏi cơn gió bụi, thì cái hạnh phước nào lại được hoàn toàn?
Em lại còn phải hiểu điều nầy nữa, là cái gì cũng có hồi, hết no đến đói, hết dại
đến khôn. Nếu có điều chẳng ngờ mà ghét thì rồi có khi cũng lại chẳng ngờ mà
thương, lẽ xây vần khiến vậy. Em đừng nóng nẩy mà hóa ra hỗn hào. Chị buồn là
lo cho cha mẹ khổ tâm, lo cho anh Hai vô phước về sau, chớ cái tốt, cái xấu của
người lầm tưởng cho mình, chị đây không kể, miễn mình cứ giữ vẹn lòng lành.
Cô Dung đại độ, lương hảo như thế đó, mà chị dâu vẫn chẳng động
chút nào. Hai cái tâm địa khác nhau thì có dây liên lạc nào buộc lại được; khéo
giữ lắm thì là khỏi xung đột là may. Cô Thuờng lại có tánh ghen lạ lùng. Chính
mình chị ta hay trây trúa, lả lơi, không biết phải cử chỉ thế nào cho ra vẻ con
nhà đoan trang nết hạnh, thấy trai thì dòm muốn rớt con mắt; nói với đàn ông
thì tan hoác, miệng cười, ưởng ẹo, nhúng trề, vỗ vai, vỗ vế. Thế mà khi nào chồng
rủi đi một đường với cô nào, hoặc có dịp phải nói chuyện với đàn bà nào thì
nàng liền nghi ngờ, buông lời bất nhã. Mới hay người vợ xấu nhứt là người vợ
ghen vô lý, không xét suy.
Lần đầu, anh chồng ngáo, vẫn cười; nhưng lâu rồi lắm cơn phải
mặt ủ mày châu rất là khó chịu. Anh ta tự hối. Lỡ một đời mình bạch phước, vì lỗi
tại mình chẳng lừa lọc. Sau nếu có con trai, mình nên chờ nó đến tuổi hai mươi
bốn, hai mươi lăm mới tính việc hôn nhân mà trước hết phải lựa bạn đồng tâm đồng
tánh. Tốt hơn nữa là gia thế có hơi kém hơn của mình. Như vậy mới khỏi điều hối
hận.
Người có học thức hay bất bình về quyền của chồng, không chịu
cái câu "chồng chúa, vợ tôi", vì như vậy là tội nghiệp cho đàn bà. Vả
lại vợ chồng mà cư xử với nhau như gia chủ với tôi đòi thì cái cảm tình nó ra
làm sao?
Thật thế. Có nhiều cái gương vùi hoa dập liễu, nhiều cái cảnh
khắt khe của mấy trang hiền phụ, khiến cho ai trông đến, nghĩ đến cũng phải lấy
làm bất bình.
Mà than ôi! Hình như đàn bà nước ta sanh ra để chịu nắn, chịu
sửa như những cây kiểng kia, để tự do đâm nhánh nảy chồi, thì không thế nào tốt
được.
Mấy cái phương nghiêm khắc- có khi gần như dã man - của mấy
ông chồng hủ hậu lại thường có cái kết quả hay!
Thấy ít khi nào mình cười với nội nhơn. Lúc ngồi ăn lỡ có thiếu
món gia vị hay đồ dùng, thì thầy ném đũa dằn mâm; mặn lạt một chút là la rầy
inh ỏi. Vợ không dám ngồi ngang, đừng nói chi là dám giỡn mặt; thế mà vẫn hết
lòng yêu kính ông chồng.
Ông hay theo bè bạn, cờ bạc, rượu chè. Vợ khuyên lơn thì ông
gắt ó, quát mắng om sòm, rằng đờn bà muốn đòi làm chủ. Vợ buồn chăng? Ông bỏ đi
sáng đêm! Cằn rằn nữa chăng? Không thèm về nhà đôi ba ngày, thét lắm thì đôi ba
tuần, một tháng! Cái gia cảnh như thế làm cho người đàn bà lấy làm tủi phận rầu
duyên; nhưng lần đầu cũng vui vẻ chịu được; cũng hóa ra kẻ đồng tâm cũng cộng
ưu cộng lạc với chồng vậy.
Nông nỗi như thế chẳng phải ít. Thiệt đáng thương hại cho đàn
bà. Nhưng trông kết quả thì họ như dây cát đằng [8] leo nhằm cây sao, cây sến,
hay bò trên vách sập tường xiêu, quí hồ có nước uống, có đất ăn là sởn sơ được!
Ðại để, đờn bà là thế đó.
Gặp chồng biết yêu, biết trọng thì dễ vui, lâu ngày lại sanh
thói hỗn hào, sỏ chưn lỗ mũi. Trách gì cái phong tục nghiêm khắc chẳng vẫn còn!
Trách gì đờn ông họ cứ muốn cho đờn bà nhắm mắt giữ chữ
"tùng" đời đời kiếp kiếp!
Theo cái chí hẹp hòi của nhiều người đờn bà, khi thương chồng
thì muốn sao chồng như con cá trong chậu, con chim trong lồng; cá nào, chim nào
muốn tự do, thế là hết thương họ đó! Phải biết xem mòi, nếu trước mình không
khéo xử, tùy cái trình độ của đờn bà mà để cho cái hạng [9] tự do thì rồi vì tự
do mà đến phải xấu hổ, đến phải gan tím, ruột bầm!
Cô Thương lại rủi mà được cái tự do nói đó; cho đến khi kia
cô bỏ đói chồng vì đức lang quân bị anh em cầm ở chơi trễ. Thấy chồng về cô
ngoai ngoải bỏ vô trong mà lầm bầm:
- Mê "con đĩ" nào mà không về ăn cơm cho kịp bữa,
ai thức mà hầu hạ được. Sao không biểu nó về theo, dọn cơm cho mà ăn?
Cô Dung biết tánh anh, rất thương hại cho anh; đi hâm đồ ăn,
dọn bữa cho anh, lại kiếm cớ nói đỡ rằng, bởi chị dâu có việc nên mình lo thế.
Thấy vậy cô Thương càng thêm ghét, nói thầm rằng, em chồng
làm vậy là có ý xúi chồng mình không kể đến vợ nhà- lại tiếp: "Quân ngu
như vậy, để sau làm mọi cho người ta".
Nhưng sau nầy thị ấy lại nghi thế khác.
Hôm nọ chị dâu em chồng đi chợ. Có thầy ký nào quen thói khả ố,
thấy cô Dung bèn thả giọng trây trúa: "Ê! Ê! Ma se [10]!" và tỏ ra
cách ghẹo chọc.
Cái hàng thầy như vậy thiệt là chẳng ít trong thời buổi nầy.
Nhứt là trong mấy chợ quê mùa, cái người làm tồi phong bại tục ấy càng nghinh
ngang hơn nữa.
Cô Ba lo lựa hàng không hay, có cô Thường ngó thấy mà thôi.
Chỉ có bấy nhiêu đó mà chị đề quyết em chồng có ngoại tình. Lấy làm đắc chí mà
cười thầm:
- À, tưởng ai chính chuyên, té ra ngày nay mới rõ. Hèn chi nó
chẳng nịnh hót anh nó; không vậy thằng chả méc còn gì!
Người phải, ai có lo chi sự quấy, tiếng đồn oan của thế thường;
nhưng khốn thay! Hai điều ấy lắm khi là thuốc độc rất ghê gớm giết được linh hồn
người biết liêm sỉ.
Chú thích
[1] thời nay
[2] ná: nỏ; ý nói trổ tài thao lược
[3] đạt được
[4] chỉ làm điều tốt cho mình
[5] mềm, hiền
[6] đố tật, hai chữ cùng nghĩa:ghen ghét
[7] ném, quăng
[8] loại thảo mộc dây quấn thân cây khác, chỉ người đàn bà
trông chờ sự che chở của người đàn ông: cát đằng dựa bóng tùng quân
[9] hạng người
[10] (ma chère), người yêu của tôi
CHƯƠNG 4 - CÔ DUNG LẤY CHỒNG
H
ôm kia, nhơn đêm trăng mát mẻ, bà Nguyễn cùng con gái thừa
nhàn đi dạo sau vườn.
Mẹ nhìn con chan chứa ái tình, thỉnh thoảng bà nắm bàn tay mềm
mại trắng phau của cô Dung mà nựng nịu. Giây lâu, bà Nguyễn gọi:
- Nè con!
Cô Ba dạ, nhưng chỉ thấy mẹ ngó mình mà cười, dường như muốn
nói chi mà còn ngần ngại.
Cô hỏi:
- Má vui không?
- Vui. Nên má muốn nói chuyện với con. Nè con, năm nay con đã
lớn rồi; má muốn tính cho con yên phận.
- Má đừng tính chi cho mệt. Con ở với ba má như vầy là yên
vui lắm rồi.
- Con phân vậy là con chưa hiểu ý má sao? Má muốn tính về hậu
lai của con, chớ không lẽ ba con với má lột vỏ sống đời với con cho đặng. Có thầy
ký con nhà giàu lớn lắm, mà tánh nết nho nhã phong lưu. Cha mẹ thẩy thương con,
muốn đem con về mà coi sóc trong nhà, phòng sau có cai quản sự nghịêp.
Cô Ba đổi sắc, buồn dàu dàu, làm thinh mà ngó mẹ; cặp mắt
nhơn từ bỗng không [*] chan chứa lụy sầu. Nội một cái ngó ấy làm cho bà Nguyễn
cảm động vô cùng, bèn choàng vai con mà kéo ngồi trên cái võng ván gần đó.
- Sao mà buồn con? - Bà vừa hỏi vừa lau nước mắt và vén mí
tóc cho cô Dung.
- Con không muốn lấy chồng! Chẳng phải con tật bịnh chi hay
là vụng về chi mà sợ ngày sau người ta chê con và khi thị cha mẹ. Ý con muốn ở
vậy nuôi ba với má hoài mà thôi.
- Hay là con buồn vì chị dâu thất hiếu nên cam lòng ở gần bên
mà trông nom ba con với má? Ðiều ấy con đừng lo. Má còn sức khoẻ, có thể lo liệu
việc nhà. Ðến tháng giêng đây má cho vợ chồng thằng Hai ở riêng. Má với con Lê
hủ hỉ cũng vui vậy. Con phải xét kỹ. Con mà nên vợ nên chồng rồi, lại xứng lứa
vừa đôi thì là cái mừng cho cha mẹ đó con. Vả lại, gái lớn lấy chồng là lẽ tự
nhiên. Nhà vô phước lắm mới có con gái mà không được làm sui đó! Miễn con
thương cha mẹ là đủ rồi.
- Má sợ con hư sao?
- Ê! Nói bậy mà! Má đâu có nghĩ quấy vậy?
- Nếu chẳng vậy thì má để con được tự do một chút. Con ở đây
cùng ba má; chừng nào trời khiến con ưng ai con sẽ vui lòng.
- Thế thì con chê chỗ má nói đó sao?
- Con không dám chê ai; chỉ tại lòng con chưa muốn thôi. Ðiều
muốn của con bây giờ là xin má đừng ép. Ý con khác hơn thiên hạ: chẳng phải nơi
giàu sang, quyền tước mà con tìm. Con chỉ muốn có chồng như thế nào cho đúng ý,
nghĩa là người ấy hết tình yêu con, quí con, và con cũng có thể hết tình yêu
quí lại được. Má đừng lo con chọn lầm. Không phải con dám tự phụ, song trời
sanh con có cặp mắt biết xem đời, con xét người có chơn giá trị, ở cái tài đức.
Cái trái tim nào làm cho cảm động được trái tim của con, ấy là của người đáng
cho con trao thân gởi phận đó. Má bằng lòng không?
Bà mẹ thở dài:
- Con cưng mà muốn gì không được?
- Má, má buồn không? Nói đi.
- Không!
- Thôi, vô ngủ kẻo con đã lạnh.
o O o
Chương 5: Tám Năm Đã Trải Qua
Người ta, ai cũng có một lúc dường như quên ngày giờ đi, rồi
thoạt nhiên lần tay tính lại cái thời kỳ thấm thoát bắt nhớ đến tình nầy nỗi
kia mà luống bâng khuâng. Mãng lo nhớ cái cảnh đời sẽ tới mà lần lần quên những
nỗi cam khổ đã trải rồi. Hồi tưởng lại chuyện gì đâu đâu, trong lòng bắt chán nản?
Tám năm đã trải qua.
Cảnh nhà của cô ba Dung trước kia thế nào mà bây giờ vắng
teo!
Cô không còn cái hạnh phước được nghe tiếng kêu "con"
rất yêu dấu của mẹ nhơn từ. Không còn cái hạnh phước đọc chuyện lạ, thơ hay cho
cha nghe nữa. Tiếc thay! Lòng con quyết báo đáp ơn sanh thành dưỡng dục cho vừa,
mà cha mẹ đã vội lìa trần tục.
Anh Hai chị Hai ra riêng ở làng khác. Con Lê có chồng có con
rồi.
Một mình hiu quạnh với con thơ cùng đứa tớ gái trong cái nhà
rộng rãi êm đềm, cô Dung tuy nét mặt vẫn tự nhiên chớ trong lòng ngổn ngang nỗi
thảm.
Chiều chiều, mấy người hành khách thuờng thấy một người đàn
bà xinh đẹp, bận áo dài đen, tha thướt đứng nhìn hoa, nét mặt rầu rầu như
thương như nhớ ai không thế nào nguôi. Chẳng rõ ai có cái duyên được người
thương nhớ thế mà có thấu lòng chăng nhẽ?
Ðứa bé chừng năm sáu tuổi, khi đánh vòng, khi rượt bướm, phút
chốc chạy lại nắm, mà mơn trớn tay người áo dài đen.
- Má, chừng nào ba về?
Cô Dung chừng như tỉnh giấc mơ gượng cười:
- Còn ít tháng nữa ba về.
- Ít tháng là mấy ngày?
- Một tháng kể là ba mươi ngày; chừng vài ba cái ba mươi ngày
như vậy.
Thằng nhỏ chìa tay lẩm bẩm tính:
- Dữ! Lâu quá lẽ chưa! Sao ba ở chi ngoải hoài vậy má?
- Con đừng hỏi chi, má muốn để ít ngày nữa rồi con biết. Bây
giờ con phải ráng ở cho ngoan hơn nữa, đặng sau ba con mừng. Con mà làm cho cha
mẹ vui lòng là biết thương cha mẹ, là có hiếu, nghe con. Con thương ba không?
Thằng nhỏ múa tay trả lời:
- Con thương ba cũng bằng thương má vậy, con muốn ngoan cho
ba với má vui lòng. Mà, ngoan là sao, hả má?
- Ngoan là không cãi lời má dạy. Phải biết yêu kính người chịu
cực vì con, phải biết kiêng cữ điều má ngăn cấm, dầu ham muốn thế mấy cũng phải
dằn lòng. Con ở như vậy được không?
- Ðược lắm! Con muốn sao người ta khen con giỏi hơn mấy đứa
nhỏ kia. Hồi con biết đi, biết nói đến giờ, con có làm điều chi trái ý má
không?
Mẹ ngó con, chúm chím cười mà trả lời:
- Cũng có một hai khi. Nhưng má không phiền con, má biết, hễ
chừng con trộng [1] lên thì không hề làm như vậy nữa.
Thằng nhỏ ôm má nó, ngước mặt tỏ ra cách biết ơn:
- Má thiệt là nhơn từ. Năm nay con trộng rồi. Con biết rồi,
con không hề làm một chút nào trái ý má nữa. Má ngồi xuống cho con hôn má đi.
Cô Dung cảm động, nước mắt gần tuôn rơi, ôm con vào lòng mà
hôn hít và nựng nịu.
- Con là cục vàng của má đó con? Nàng lẩm bẩm câu ấy chẳng biết
mấy lần, xem chừng nựng con là cái hạnh phước độc nhứt của nàng ở thế gian vậy.
Nàng nựng con rồi bắt nghĩ thầm; nghĩ thầm lại tựa hồ mắc cỡ
với con, tựa hồ đã bất cẩn, lộ ra cho chú bé rõ ý kín.
Hôn con, tưởng rằng không còn cái hôn nào nồng nàn hơn; nhưng
cô Dung nhớ đến chồng, rồi nghe như bên gò má có hơi thở của ai, nếu trong giấc
mơ thì cô đã ngã mình ra cho ai đỡ lấy...
Cái hôn chồng cũng nồng nàn lắm kia mà!
Ở đời, có mấy đôi vợ chồng thương nhau bằng cái chơn tình? Chỉ
có hai người đồng một cảm giác, đồng một tư tưởng, đồng một tấm lòng mới thương
nhau bằng cái chơn ái tình. Thương nhau vì hiểu nhau; càng hiểu nhau lại càng
thương vô tận. Nghèo khổ, tai nạn đã không thế làm phai lạt, mà lại tô điểm cho
ái tình càng tốt đẹp, nấu nung ái tình lên đúng bậc thanh cao.
Có bị khổ vì tình rồi mới biết cái chơn ái tình. Không được
thương nhau bằng cái chơn ái tình thì cái đời không còn vui thú gì, chẳng qua
«vui là vui gượng kẻo mà, ai tri âm đó, mặn mà với ai!»
Ấy thế, tình là cần thiết cho đời người. Ðời người là giấc ngủ
còn tình là cái chiêm bao; không có tình là không có sự sống. Có tâm sự mà
không cùng nhau sớt thảm chia vui, thà sanh làm kiếp nào vô tri vô giác còn
hơn.
Cô Dung không phải lắm phen phong trần lặn lội mà cô lịch duyệt
nhiều. Cô trông gương của chị dâu và anh ruột lại nhờ tánh hay suy xét nên đã sớm
hiểu rằng sự phú quí, vinh hoa chỉ là miếng mồi nhử cái mê tâm của người, khiến
cho nhãn lực không phân biệt được nổi vàng thau.
Cô lại biết xét rộng ra nữa, là con người chẳng những bị ảnh
hưởng của sự giàu sang mà còn bị ảnh huởng của cảnh ngộ; không cẩn thận thì
cũng phải lầm lạc.
Ðôi trẻ kia năng gần nhau, lần lần thương nhau, tưởng rằng kết
được vợ chồng thì lấy làm hòa hảo. Nhưng đến chừng thân yêu rồi lại có chỗ phiền,
là vì khi lửa tình nguội bớt rồi, họ dòm thấy cái xấu của nhau, lấy làm ân hận,
trách mình quá vội. Ăn năn mà có ích gì!
Thế cho nên cô rất dè dặt.
Cô thừơng tự bảo: người có trí suy xét, thì khỏi phải ăn năn.
Lắm kẻ gặp cơn rầu duyên, tủi phận hay oán trách ông trời. Nàng chê họ không biết
nghĩ xa: Trời là đấng từ thiện, nhưng lại là đấng công bình. Trời để cho người
tự do thương nhau, nào có ép ai đâu! Thế mà chẳng thiếu chi người, khi lòng muốn
tính việc xằng, cũng đổ là Trời xui, khi tự mình nhận mình vào chỗ hôi tanh
cũng đổ tại Trời xui; khiến cho nói đến việc hôn nhơn, mấy cô xuân nữ lấy làm
lo sợ bến nước đục trong của trời dành để!
Giúp người phải, xa kẻ quấy; biết thế tức là biết trời. Trời
không có sắp đặt cho ai phải hạp với ai cả. Việc đó là nơi người kén chọn.
Cô Dung không có cái sợ quấy, cô chỉ tin ở sự công bình của
Trời và tấm lòng chơn chánh của mình. Cô học khôn trong cảnh nghèo, và lấy làm
cám ơn trời cho cô sanh làm con nhà nghèo. Có chịu cay đắng, nhọc nhằn mới biết
suy rộng nghĩ xa, mới biết tâm địa của người thiên hạ; nhơn đó mà biết gìn
lòng, dưỡng nết mình tử tế, thanh cao.
Cô chắc ý rằng cô lựa chẳng nhầm. Nếu chẳng đặng gặp người hiền
để gởi phận trao duyên, thà là giữ tiết sạch giá trong mãn đời thôi; không phiền
không tủi. Có chồng mà phải khổ tâm mới phiền tủi cho.
Ðến khi cô ưng anh học trò nghèo là Ðoàn Hữu Minh, thì bị chị
dâu mai mỉa lắm điều: «Hay bộ khôn mà thật chí ngu! Chỗ quyền cao lộc cả không
ưng, để sánh đôi vói bợm tay trắng túi khô, đặng làm mọi cho nó cả đời. Thật là
uổng, mà xét kỹ cũng thật là đáng kiếp!"
Chính mình ông Nguyễn, bà Nguyễn cũng có ý buồn; song
"ép dầu ép mỡ, ai nỡ ép duyên", nên đành để tự ý con; sau có đến nỗi
nào nó không trách cha mẹ được.
Ðoàn Hữu Minh ở nhà cha mẹ vợ và đi dạy học; tánh nết hiền
lương nên hai vợ chồng ông Nguyễn lần lần hết dạ yêu đương. Thầy ít giao thiệp;
có thì giờ dư chỉ làm bạn với mấy quyển sách của mình nhín tiền mua, có khi đem
ra bình phẩm với vợ hiền, lấy bao nhiêu đó làm thú vị.
Ðám cưới cô Dung rồi độ một năm thì có người cô của nàng qua
đời. Vì chẳng kẻ thừa hưởng, nên sự nghiệp để cho ông Nguyễn. Nhờ vậy mà cảnh
nhà ông ấy mới khá lên. Nhưng hưởng thanh nhàn được vài năm thì ông bà lần lượt
khuất hết; con, rể, thương tiếc vô cùng.
Nhứt là cô Dung.
Trước kia, khi được mười tám xuân đầy đặn, tức là cái tuổi,
mà máu đương chảy mạnh trong mạch lạc con người, tức là cái tuổi, mà lòng như
hoa nở nụ cười, trông cho có chút tia sáng mặt trời hé vào là nở bùng ra, khiến
cho người hửi lấy mùi thơm mà bưng khuâng cảm xúc, vì đâu mà cô vẫn thệ lòng
không màng đến việc lứa đôi, chỉ lo phụng dưỡng huyên đường [2], nhọc nhằn bao
nhiêu cô cũng coi là chưa vừa với ơn sanh dưỡng.
Than ôi! Những kẻ bất hạnh bị loài ác tử rẻ khinh, đày đọa mà
còn tiếc chi, lại vẫn sống thừa; còn người mà con hiếu thảo cầu nguyện được trường
sanh lại lòng nào thác vội!
Ông chết, bà chết, cô buồn cho đến xanh xao vàng vỏ, cho đến
chồng phải sợ cho cô theo tầm [3] song thân ở chốn u minh.
Nhưng may vì cô còn được có cái tình chồng con quí yêu mầu
nhiệm, cũng bằng giọt nước nhành dương [4], cho nên cái vít [5] trong lòng cô,
lần lần cũng lành lại. Từ ấy cô thương chồng gia bội lên mà chồng cô cũng yêu
cô không biết đâu là bờ là bến; thương nhau mà vẫn kính nhau; càng thương lại
càng thấy cái tốt của nhau thêm lên mãi.
Cô thấy cử chỉ của chồng càng đem lòng kính phục tặng chồng
là trai phi thường. Chồng thấy vợ nhiều khi chín chắn hơn mình, khen là gái
quân tử.
Tối nào, hễ thiếp thêu thùa, vá may thì chàng làm văn xem
sách. Mấy lúc trăng thanh gió mát thì kề vai nhau lững thững ở vườn hoa để bàn
luận về thế thái nhơn tình, thỉnh thoảng khen nhau bằng cái ngó mặn mà, đằm thắm.
Cô Dung lại hiếu học. Ngày nào cô cũng để vài giờ xem sách
cùng làm bài của mình xin chồng ra đề cho. Cô sửa bài học trò giúp chồng, có
khi lựa đoạn sách hay đọc cho chồng nghe, miệng hữu duyên, cất giọng dịu dàng,
bao nhiêu ngao ngán, bao nhiêu nhọc nhằn của đàn ông cũng nhờ đó mà tiêu tan cả.
Nhiều khi chồng cảm tình chan chứa, nhìn sửng sốt rơi giọt lệ
không cầm:
- Mình ôi! Tôi tài đức chi mà được người vợ thế nầy. Mình làm
cho tôi có phước lắm mình à! Dẫu tôi được làm vua, giàu sang hơn người, cũng
không bằng được làm chồng của mình đó!
Cô đứng dậy, bước lại, choàng tay bụm miệng chồng cười:
- Mà mình thương tôi nhiều không?
- À! Như vậy thì sự thương của tôi có lấy gì làm quan trọng
đâu. Tôi sợ là không biết làm thế nào tỏ hết lòng yêu quí của tôi đối với mình
đó thôi.
Cũng thời một cái thương, nhưng không biết cái thương có khi
là hại.
Hai vợ chồng Ðoàn Hữu Minh đã biết thương, lại mỗi người còn
thầm ráng làm thế nào cho càng xứng đáng với nhau; rủi ai làm khổ tâm cho ai một
chút thì xem cũng bằng đã phạm tội chi trọng, lấy làm xốn xang, bứt rứt.
Nhiều khi thầy xem sách mỏi mắt, xếp lại, nằm nhìn vợ, lòng
lai láng cảm tình; càng xét tài đức của vợ bao nhiêu càng yêu quí trân trọng bấy
nhiêu. Rồi, lại nghĩ, lại tủi: "Ðoàn Hữu Minh nầy có đáng chi mà được vợ
như vầy. Nhìn lại địa vị của bạn đồng môn, kẻ quyền cao lộc cả người phú quí
vinh huê, rồi ngẫm lại phần mình thật hèn kém trang phi phàm thục nữ, như người
yêu dấu người kia, đáng ở lầu cao cửa rộng, đáng kẻ bẩm người thưa, chớ không
phải sửa trắp nâng khăn cho kẻ tài hèn trí mọn".
Cô Ba độ hiểu cái cảm tưởng của chồng, rầy một câu khôi hài:
- Nhìn hoài! Vậy mà khi vào lớp, trò nào bỏ sách ngổn ngang,
mình rầy người ta làm sao? Cấm mình đó nghe không!
Nhưng mà thầy cười, sẽ lén lại ngồi gần bên, vuốt tóc lẩm bẩm
có một câu:
- Tôi có phước chi mà được vợ như vầy, mình?
Cô dừng tay lại mà ngó chồng một cách có duyên:
- Nếu mình tưởng cho mình là không đáng làm chồng tôi, thì là
mình đày tôi như hạng nhi nữ tầm thường rồi. Một là tôi không biết lựa chồng;
hai là tôi cũng ham những khoái lạc vật chất như ai... Tôi không tham mình à!
Tôi muốn làm người theo cái phận thấp thỏi của tôi, nhưng vẫn được bằng lòng.
Nói bất lợi mà nghe, nếu như mình rủi tật nguyền khổ khốn cùng, chẳng những tôi
không khinh khi mình, mà lại còn xót xa cho cái khổ tâm của người quân tử. Mình
cứ tự hỏi mình có phước gì. Vậy chớ tôi đây có phước gì? Nếu mình tưởng rằng nội
cái tình thương của mình là chưa vừa cho tôi, thì tôi lấy làm e rằng sau nầy
mình sắm được cho tôi sợi dây chuyền tốt, cái áo đẹp toàn là những đồ mà tôi
không coi rằng quí- mình đã tưởng cho tình thương của mình đến đó là cùng đàng
rồi.
Thầy cười:
- Thôi, thôi, thôi! Tôi phục lòng cao thượng! Mà mình cũng
nên xét rằng: nghĩ vẩn nghĩ vơ cho phải bị rầy, là tại cái lòng tôi thương mình
vô tận!
- Tôi muốn mình đừng vì yêu tôi mà tự hạ như vậy.
- Tôi biết tự trọng chớ; nhưng với người yêu, tôi phải hết sức
khiêm nhường...
Nhưng bao giờ Ðoàn Hữu Minh xét đến phận mình cũng buồn.
Có cái óc thông minh, làm chi mà lại chẳng có cái hạnh phước
học đến chốn đến nơi như ai? Có lòng lương hảo làm chi mà lại chẳng đặng dư giả
đặng đền ơn sanh dưỡng cù lao, nâng đỡ anh em, bà con, giúp ích cho những kẻ
tai nàn khốn lụy?
Thầy mang cái tiếng "thầy giáo" mà chẳng chút chi lấy
làm vinh diệu, vẫn thấy mình tài không xứng chức. Cho rằng chàng hết lòng dạy dỗ
trẻ thơ mà không bao giờ cầu đặng khen.
Lãnh cái chức vụ dạy đời, ít nữa phải văn chương loại thông cổ,
thạo kim, cho xứng đáng với cái "lạy, bẩm" của học trò. Bao giờ nhớ đến
câu "dốt đặc là hay chữ lỏng" thì thầy lấy làm thẹn.
Dễ thường khi cái thói ái kỷ [6] nó làm cho mình tự đắc mà
quên cái khuyết điểm của mình. Thật thế, ai cũng có ít nhiều tự đắc; vì vậy mà
nguôi thảm, bớt sầu; nhưng trái lại cũng vì vậy mà con người cứ ở một mực ngu đần
thấp kém.
Ðoàn Hữu Minh muốn làm người hoàn toàn, nghĩa là vừa giữ được
cái thân thể tráng kiện, tấm lòng chơn chánh, vừa lo cho óc được minh mẫn...Cái
tánh khiêm nhượng làm cho thầy thấy mình còn thiếu kém hoài.
Cô Dung không dè đâu ngày kia chồng xin phép đi Sài Gòn về,
nét mặt hân hoan mà cho hay rằng đã thi đỗ bằng cấp tốt nghiệp mới rồi. Cái mừng
của cô ta, nói sao cho xiết! Song, nghe vợ mừng, khen, chồng chỉ trả lời một
cách khiêm nhường:
- Có chi! Tôi nhờ mình đó thôi. Tôi ráng thi đậu mà chi? Ðặng
cho mình được cái vui tình cờ, đặng cho những người chê mình trước kia sẽ nói với
nhau rằng mình thương tôi không uổng.
Cô hơi mắc cỡ, sẽ véo vai chồng mà nói:
- Mình yêu tôi đến thế, tôi phải lo đáp lại cách nào?
- Dễ mà! Có siêng làm cho một mớ bánh ngon ăn chơi thì đủ!
Rồi hai người đều cười. Vui thay cho cái cảnh vợ chồng hòa
thuận.
Chú thích
[*] thay đổi thình lình
[1] khá lớn
[2] cha mẹ
[3] tìm
[4] do chữ dương chi thủy là nước của nhành dương=nước có
phép Phật. Ðiển: về đời Tần, ông Thạch Lặc có người con trai chết ngất, có ông
Phật- đồ-trừng người Thiên Trúc lấy cành dương nhúng vào nước rưới lên người,
con Thạch Lặc tức khắc tỉnh lại. Thơ tôn giáo:... cam lồ rưới giọt nhành dương;
thất tình lục dục như dường tiêu tan...Giọt nước nhành dương=sự cứu rỗi
[5] vết
[6] thương mình
CHƯƠNG 5 - NHỚ CHỒNG
N
hớ mà ra ngẩn, vào ngơ...
Người ta ngùi ngẩm nhớ nhau là tại vì đâu?
Cách đối đãi ân hậu, niềm ân ái mặn nồng, những cái làm cho
nhau toại chí, vừa lòng, góp thành mối kỷ niệm bâng khuâng. Lại thêm chỗ cùng
nhau thường đứng thường đi, luôn đến cây cỏ vô tình cũng dường như khêu gợi tâm
sầu, hỏi khách tương tư chớ người yêu đâu vắng mà luống để ai ủ dột màu hoa?
Ðêm nằm lộn lại lăn qua, lạnh lẽo trời đông, quạnh hiu canh vắng,
phút chốc ngọn gió lòn bên mí tóc, bắt nhớ chừng đến bàn tay nét mặt của bạn
chung tình.
Thời gian lặng lẽ êm đềm, cho đến tiếng thằn lằn chắc lưỡi
[1], giọng cóc nghiến răng [2] cũng làm cho rối giấc mơ màng, càng mong càng tưởng,
càng nhớ càng thương, càng ảo não cho cảnh nệm nghiêng gối chích.
Ban ngày thì thằng bé San cứ nhắc:
- Má, chừng nào ba về?
Con nhớ cha còn có thể hỏi thăm; vợ trông chồng biết cùng ai
thỏ thẻ?
Cô nhớ chồng!
Nếu có người thợ vẽ nào họa được cái nét rầu của cô Dung cơn
dựa cửa nhìn sững, lúc bên đèn ngó trơ, thì sẽ là một bức tranh tuyệt diệu...
Chớ phải ở nơi xa, xa tít kia, Ðoàn Hữu Minh có cái thiên lý
nhãn lực mà trông về. Cô Ba không ham sự vinh hoa phú quý. Cô chỉ ước sao chồng
giữ được cái tiết tháo quân tử là đủ cho cái hạnh phước của cô. Nhưng, ý chồng
muốn bay nhảy, cô không lẽ lại dám cấm phu quân, cách một năm sau khi thi đỗ tốt
nghiệp - tức là phần thưởng xứng đáng cho người hữu chí - thì xin ra học ở Bắc
thành.
May ra đắc lộ rồi thì chàng nghiễm nhiên là "ông"
Trường Tiền [3], cô lại là "bà" Trường Tiền; nhưng có nghĩ đâu rằng
cái địa vị vẻ vang mới lại làm cho giảm bớt cái thú vị nồng nàn của ân tình
xưa?
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét