Thứ Hai, 4 tháng 12, 2023

Người vợ hiền 1

Người vợ hiền 1

CHƯƠNG 1 - GÁI NGOAN
Ðầu nhà nghi ngút khói, trên nhành lác đác sương, thỉnh thoảng, lại đưa qua luồng gió mát. Mấy đóa hường mới nở hồi rạng đông, tươi tốt dịu dàng, dường như chúm chím môi son, mà cười chào khách yêu hoa vậy. Ai nếm được cái hương vị ngọt ngào ấy cũng lấy làm thú vị như được nghe lời tao nhã của bạn tri âm.
Ðầu này, chim rủ bạn, góc nọ, gà túc con. Nhà nông sắm sửa ra đồng. Ngoài lộ đã thấy kẻ gánh, người bưng mau chân đến chợ. Cái quang cảnh buổi sáng ở chốn thôn quê nhắm cũng có thú vui đặc biệt.
Cô Ba đã thức giậy nãy giờ. Nhẹ nhàng gọn ghẽ như con chim quyên, làm cái gì đã vừa mau lại vừa kỹ. Rửa mặt xong cô nấu cháo, pha trà, đoạn đi phát lúa cho gà vịt.
Cô mặc quần lãnh [1] đen áo bà ba trắng. Mí tóc chưa gỡ xủ mành [2] trên trán làm cho cái gương mặt nhơn từ trông lắm vẻ yêu. Xem cô đứng giữa đàn gà vịt bắt tưởng tượng ra một vị tiên nữ nào đương thi ơn, tế độ cho đám chúng sanh.
Khi song đường [3] cô thức, cô bổn thân pha nuớc rửa mặt, dọn cháo lót lòng, rót nuớc, têm trầu, giũ xếp mùng mền rồi mới sửa soạn đi chợ.
Tánh cô không thích se sua trang điểm, nhưng cô mặc đơn sơ chừng nào coi lại càng thêm xinh, đáng kính đáng vì [4], khiến cho bạn đồng niên ai cũng phải thật tình yêu đương, không có chút gì ganh gổ.
Cô cắt việc cho con đòi:
- Nầy em. Ở nhà em rửa chén, quét nhà dùm chị, nghe em.
Cô Lê vì ngủ trưa nên hơi mắc cỡ:
- Sao chị không kêu em thức sớm với? Em dậy, công chuyện đã làm hết rồi. Báo hại em mắc cỡ gần chết!
Nói rồi nó ngáp mà cuời. Cô Ba cũng cười:
- Có hề chi! Thấy hồi hôm em thức khuya nên sáng chị để em ngủ nán cho khoẻ, ngủ không đã giấc, ngầy ngật lắm em à! Như em ưa thức sớm để bữa khác chị kêu cho. Thôi chị đi. Trưa rồi.
Hai vợ chồng ông Nguyễn Công Phát có một trai và một gái là cô Ba, chánh tên là Nguyễn thị Dung; thật tánh tình rất hạp với tên; ông bà yêu cô lắm.
Bà ngồi cùng ông uống nuớc, thấy cô Dung ra khỏi ngõ, chỉ theo mà nói với chồng:
- Tôi thương con gái tôi vô cùng đó ông. Không cần gì giàu có hơn nguời, miễn đủ ăn mà được con hiếu thảo thì là vui lòng hả dạ. Mấy bữa rày con Ba tôi nó cực nhọc ông có thấy không? Gần tới đám cưới thằng Hai, mình nó lo. Bữa nào cũng thức khuya, dậy sớm. Nó dành làm, không cho tôi dự việc gì hết. Nó nói nó chịu cực ít bữa rồi thì có chị Hai về chia công việc với nó chớ gì! Nó lại nói lẽ: "Má già rồi, nghỉ cho khoẻ mà ăn ngon ngủ ngon, tôi mần thì đủ rồi, tôi không biết cực." Năm nay tôi già lắm sao mình?
Ông vuốt râu cười:
- Già mà còn duyên!
- Oái thôi đi ông! Ðến tuổi nầy mà còn diễu, không sợ trẻ nghe nó cười. À mà, ý ông tính sắp đặt đám cưới thằng Hai thể nào, nói cho tôi nghe thử? Tôi lo quá!
Hai ông bà bàn tính, cô Ba đi chợ về, con Lê chạy ra mừng rồi cùng nhau lo việc bếp núc.
Tưởng trên đời hoa nào đẹp nhứt, ngọc nào quí hạng nhứt, cũng không bằng "có duyên" nhứt là người đàn bà.
Có duyên nầy chẳng phải mắt hay liếc, miệng hay cười. Cái duyên là cái hương vị ngọt ngào của tấm lòng vàng, của cái linh hồn cao thượng. Lời nói hữu duyên như khúc đờn tiên, non nỉ thâm trầm, như giọt nước cam lồ [5] có thể chữa được vết thương đau đớn. Cái duyên không phải là món bắt chước ở đâu; nó cốt ở lòng, cũng như mùi thơm tự nhiên của hoa cốt ở nhụy. Bắt chước làm điều mình không thật muốn, hoặc mình không có tư cách làm, là sự giả dối, trông lắm buồn cười.
Cô Ba thốt lời chi cũng chậm rãi cẩn thận, thật thà mà có thanh tao, suông sẻ mà có ý vị, khiến cho người cao sang hơn nghe cũng kính vì, mà kẻ thấp thỏi hơn càng cảm phục.
Người như vậy dù nuôi loài vật ngu si cũng có thể cảm hóa được.
Con Lê là con nhà đê tiện; thèo lẻo, láo xược, gian ngoa, hỗn hào. Giá nó gặp ai thì ngày nào cũng không khỏi bị rầy la đánh đập. Nhưng từ ngày vô giúp việc nhà cô Ba thì tánh nết nó khác hẳn; biết lễ nghĩa, siêng năng có thể nói rằng nó thương chủ nhỏ nó hơn chị ruột; vì vậy nên nó hay làm chung, đi chung với cô Ba; vắng cô trong giây lát nó cũng buồn. Lúc lặt rau, nó hỏi:
- Nè chị Ba! Nữa vợ anh Hai về đây chị có thương không?
- Thương chớ! Trời khiến vậy đa em. Hồi còn người dưng thì chẳng nói gì, chớ bây giờ hễ nói đến tiếng « chị Hai » thì lòng chị đã sanh mối cảm tình. Vì sao có sự cảm ấy, em có biết không? Thứ nhứt, vì chị Hai thương anh Hai và thương cả nhà mình, nên mới ưng về làm dâu; thứ nhì, là chị Hai sẽ là người đồng chia vui chia buồn với mình; nếu khéo cư xử với nhau thì như ruột thịt vậy.
- Nghe nói phía bên chị Hai giàu lắm, phải không?
- Giàu. Nhưng em phải hiểu rằng chẳng phải cái giàu đó mà anh Hai ham, mà mình thương. Ðiều nên chuộng là sự khôn khéo, biết kính cha mẹ, biết thờ chồng, biết hòa thuận với bà con và biết cả nữ công nữ hạnh. Cũng có nhiều khi vì bên chồng ở gắt gao, em chồng ác nghiệt mà thành ra người dâu không được trọn hiền. Chị khuyên em hãy noi theo chị mà yêu kính chị Hai, nhứt là lúc chị Hai mới về còn đương bợ ngợ, còn đương nhớ quê nhà, mình phải khéo cách đối đãi cho người khỏi có điều chi tủi phận.
- Ủa! nói chuyện thì nói lặt rau thì lặt, chớ buông đó mà nhìn sao bậu? [6]
Con Lê cười, bưng rổ rau đứng dậy.
- Em lặt rồi chứ! Thấy cái miệng chị dễ thương quá nên em nhìn quên thôi. Thiệt em thấy mà muốn hun hết bực. Chị như vậy thì lo chi sau này chẳng được chị em phía bên chồng kính yêu.
- Oái! Ðừng nói xàm! Có rửa rau xong thì gọt mướp, rồi chị nói nữa cho mà nghe.
Cô nói: « Cũng thiệt đó chút, nghe em; mình ở phải thì tự nhiên gặp phải. Nhưng trước hết mình phải rõ phận làm dâu phải biết tùy gia phong của người mà ở vuông tròn, như vậy cha mẹ mình khỏi buồn thẹn vì lời dị nghị, chê bai; sau nữa không uổng cái tình của chồng yêu đương; vậy mới khỏi bị khinh rẻ ».
Nói đến đó cô Ba nghe phía trong có tiếng: « Chả! Cô dâu đó được quá há! Có khách tới kia kìa, nấu nước, têm trầu dùm cái!". Nàng biết mẹ đã nghe và nói bỡn [7] mình nên mắc cỡ; vội vàng chạy vô, bẽn lẽn cười mà ngó mẹ.
Chú thích
[1] vãi lụa mặt bóng. Chị già quần lãnh hoa chanh, chúng em khốn khó quấn quanh Lụa đào.
[2] buông xuống, thả xuống
[3] cha mẹ
[4] vị nể
[5] hay cam lộ, nước cưởi ngọt, đời xưa cho là khi thiên hạ thái bình thì trời xuống nước cưởi ngọt, xin xem chú thích từ ngữ giọt nhành dương.
[6] em
[7] giỡn, trêu ghẹo
CHƯƠNG 2 - ĐẾN NGÀY ĐÁM CƯỚI
T
uy chẳng có bày chi rộn rực linh đình như trong những đám to ở thôn quê, chớ cũng không khỏi đông đảo.
Các bà con đến phụ sự, ai cần món chi, hỏi điều gì thì có cô Ba Dung và đứa tớ gái lo trước sẵn sàng cả. Hai chị em trổ tài bặt thiệp, sắp đặt đâu đó rành rẽ, kỹ càng. Nét mặt vẫn tươi cười, không lính quýnh và không sơ sót chút nào, mọi nguời đều đẹp ý khen ngợi.
Cô Ba còn tỏ ý cám ơn những người đến giúp, sáng thì cô đãi điểm tâm; trưa thì bánh trà, trầu tươi cau dầy, mời một cách dịu ngọt ân cần không ai từ chối được.
Cô nấu ăn khéo nhưng vẫn khiêm nhường và hỏi người khác để học hỏi thêm.
Mấy bà già lấy làm lạ, hỏi nhau: "Con Ba mắc đi học, mới ra trường, ở nhà với cha mẹ gần một năm nay mình tưởng nó nấu cơm không xong, chẳng dè bánh mức, nem, chạo, đồ cổ, đồ bát, nó làm khéo quá. Thật lạ chớ! Chỉ cần ba cái bánh tây của nó làm không cũng đủ so sánh bằng thím Kỹ Bảy nữa đa. Bánh thửn, bánh men lại càng hơn nữa, còn mấy món đồ Tây ai nấu? - Nó đa, nó với con Lê làm đầu bếp. Ðồ Tây đồ Tàu gì cũng lãnh hết".
Mà thật vậy ai có dè cô Ba mà giỏi đến thế. Hồi còn ở trường, học sanh ta nhơn mấy ngày nghỉ đến chơi nhà mấy người cô, mấy người dì, có khi ở nhà chị em bạn... nói rằng đi chơi, chớ kỳ thật đi học nữ công; hoặc đi chợ mua ăn dùm, hoặc phụ sự nấu nướng chịu làm mấy việc nhọc nhằn; mà hễ làm rồi món nào thì nhớ hết, lại biết chế cho đúng cho ngon hơn.
Nhiều người xấu ruột dấu nghề, nhưng cô Ba đoán mà biết, khi về thí nghiệm thì làm được ngay. Khéo như vậy mà chẳng hề ăn món gì của ai mà chê nên người ta mới lầm.
o O o
Khi thuyền rước dâu đã về, thì trừ ra cô Ba với con Lê vẫn lo coi sóc trong nhà còn mấy người đàn bà, nhứt là mấy cô còn tơ, kẻ thì núp sau hè, người thì rình kẹt vách, lén xem cô dâu chú rể bước lên.
Ai cắc cớ lóng tai bên vách thì nghe dường như mấy tấm ván nói chuyện với nhau:
- Bận áo tốt quá phải không?
- Vòng vàng thiệt là nhiều.
- Kìa trên đầu có giắt cái gì in [1] con bươm bướm... Chừng dòm theo kẽ hở, thấy một hàng mấy chục con mắt hiếu kỳ mở thật lớn.
Y như lời người ta nói, cô Thường là cô dâu mới vốn con nhà giàu. To xương, hình vóc không được dịu dàng. Ðầu nhỏ cổ cao, tay chơn lớn hơn của đàn ông, xem bấy nhiêu cũng đủ hiểu người không thông minh, không có xảo thủ [2] trong những việc công phu tỉ mỉ. Không phải cái bàn tay cầm kim gọn gàng ở trên cái khuôn thêu; cũng không phải cái bàn tay vuốt ve chồng trong lúc buồn rầu, mơn trớn con trong mấy cơn đau yếu. Nhưng mà thật da trắng, môi dày tóc huyền; trông cũng là khá đẹp.
Ðám cưới xong, mấy tháng qua rồi, trong gia đình vẫn yên vui, chẳng có điều chi lạ.
Nhưng về sau nầy lắm khi đêm vắng canh chầy chẳng biết vì sao mà cô Ba ngồi sững, mắt nhìn đèn, quên lẫn đường kim mối chỉ. Có khi cô rơi lụy nhưng vội vàng kín nhẹm lau đi, rồi tắt đèn mà ngủ.
Chú thích
[1] giống hệt
[2] khéo tay
CHƯƠNG 3 - CÔ DUNG PHIỀN
N
ội nhà không ai biết cái buồn của cô Dung, duy có con Lê dò thấu. Thường khi đêm cùng ngồi may vá, chủ nhỏ nó hay nói chuyện xưa tích cũ hoặc chuyện kim thời [1] để làm gương, và thừa dịp giảng luân lý cho nó nghe. Gần đây, cô Ba ít nói, ít cười, hoặc có cười cũng chỉ là cười gượng mà thôi. Lại thức khuya lắm. Con Lê ngủ trước, chừng thức sớm thì vẫn thấy cô Ba còn chong đèn ngồi làm bạn với mũi kim.
Khi kia, thừa lúc rảnh rang, vắng vẻ, con Lê hỏi:
- Ðã mấy đêm rồi chị thức tới sáng sao chị? Khi trước chị hay rầy em sao có thức khuya, vì theo phép vệ sanh đêm nào người ta cũng cần phải nghỉ trong tám giờ đồng hồ thì mới được mạnh giỏi. Chị không sợ bịnh sao?
Cô Ba ngó con tớ trung hậu yêu đương mà gượng cười:
- Lẽ nào chị quên lời chị dạy em. Nhưng chẳng biết sao chị không buồn ngủ. Chị cũng ráng dỗ giấc chớ, mà hễ nằm xuống thì bắt thao thức hoài; trông mau sáng đặng làm công việc cho khuây mà vẫn thấy đêm dài dăng dẳng.
- Khổ chưa! Thế thì chị có sự buồn rất nhiều; biết vậy làm sao em vui đó chị?
- Có buồn điều chi!
- Thôi đi! Em biết nghe và biết chia buồn với chị mà. Chị quên rằng chị mới nói câu "trông mau sáng đặng làm công chuyện cho khuây". Chị hết thương em sao, bây giờ chị dấu em vậy? Em biết cái duyên cớ làm sao chị buồn; nghĩ đến em cũng buồn lắm chị à! Chị cho phép em nói những điều nghĩ đến mà phải buồn đó không? Với người ngoài, ai cạy răng em cũng chẳng hở môi; còn với chị, em muốn nói quá. Nói ra cho đỡ buồn. Chị sẵn lòng thương "người" chịu cực với người, mà rồi vì người mà chị chẳng được an vui, có bất bình không?
- Ðừng nói bậy em, ấy là số phận của chị. Em nghĩ kỹ coi, chị buồn là tại hay nghĩ mà buồn. Người vô cớ làm cho chị buồn, có đáng trách đâu. Trách người mới là bất bình. Thôi em đừng nói ra mà lỗi.
- Chị nói vậy chớ theo ý em nghĩ, cái buồn phải để cho mấy người quấy lãnh lấy, cũng như sự hành phạt là để cho kẻ bất lương. Ở phải mà chịu buồn, cũng như có công mà mang tội em không chịu đâu!

- Thoảng như trời khiến phải chịu, chừng ấy em nghĩ thế nào?

- Chừng ấy phải cam tâm. Nhưng đã biết rằng trời khiến, thì chẳng hay hơn là đừng buồn sao. Chị thường nói với em những lời: những cái khổ không phải tự mình gây ra, tức là trời làm để thử coi thật có chí khí làm người tử tế không... Chị vẫn là người tử tế, buồn làm chi cho hao tổn tinh thần? Rủi đau ốm đã hại cho thân chị, lại còn hại cho cha mẹ buồn rầu, thì là có lỗi đó.

Cô Dung làm thinh. Không phải vì nghe lời của con Lê mà bắt nghĩ ngợi; cô mừng thầm là vì thấy con nhà khờ khạo kia, nhờ mình giáo hóa cho, ngày nay đã biết phân lời hữu lý. Nhưng cái buồn của cô là cái buồn tất nhiên.

Trước kia cô vẫn tưởng rằng cách đối đãi tử tế và thái độ ôn hòa của mình không thế nào sanh ra điều rối rắm trong cái tình chị dâu em chồng. Cô tưởng rằng mình sẽ là người hữu ích cho cái hạnh phước gia đình, tự nguyện lãnh cái chức trách làm cho trong nhà luôn luôn được hòa thuận; nếu chị dâu còn thô thiển thì cô sẽ hết sức khôn khéo xử trí để cho trở nên một tay nội trợ xứng đáng của nhà mình.

Cô biết thế cảm hóa chị dâu, nhưng không tỏ dấu gì thông thạo hơn; biết khiêm nhường, biết thừa dịp, thì lẽ nào chị dâu lại hổ thẹn, hoặc đố kỵ mà không sẵn lòng chịu học?

Cô có ý như thế chẳng phải tự phụ. Không đâu! Vì cô đã có nghiệm nhiều lần. Thuở còn cặp sách vào trường cô đã ra công khuyên dỗ vài ba bạn học bỏ được tánh biếng nhác đi. Con nít lối xóm nhiều đứa thô lỗ, hư hèn mà nhờ cô răn dạy nên thành ra có tánh tốt. Khó dồi mài hết sức là cái óc hư tệ của con Lê mà cô còn rèn sửa được thay.

Lại cũng ngộ: cha mẹ cô dường như cũng bị cái ảnh hưởng của cô mà thành ra đã vừa đúng là bực lương thiện lại vừa biết ăn ở hạp theo thời thế.

Có vậy chăng? Nhiều khi người lương thiện bỏ qua việc phải, vì không dè; hoặc có khi tưởng đã làm phải, nhưng cái phải không nhằm chỗ. Gà thèm hột thóc, đem cho hột vàng, chỉ là một sự ngu.

Có thể nói rằng cô Dung như cái hoa hường đẹp đẽ, thơm tho, mọc ở chỗ nào thì chỗ ấy thành cái hoàn cảnh xinh đẹp, có cái không khí thanh cao, khiến cho người được hấp thọ, lấy làm khoẻ khoắn.

Kẻ có tài xuất chúng thường hay ưa cái khó khăn, hiểm trở, để như vậy thì mới có chỗ mà trổ ná [2]. Mấy chú thợ khéo không vui lòng sửa dậu ngã, rào xiêu, bằng chạm trổ rường cao, cột cả. Mấy tướng có tài thao lược không ham lãnh phần gác cửa, canh trường.

Cô Dung không phải là mong cho chị dâu hư mà dạy bảo. Nhưng nếu vợ của anh Hai cô có thô lỗ, vụng về, cô rất sẵn lòng dìu dắt. Mộng tưởng êm đềm thay!

Nhưng than ôi! Ðó chẳng qua chỉ là một cái lầm, cái lầm lớn của kẻ hữu tâm.

Ðừng tưởng rằng thế gian nầy bịnh gì cũng có thuốc trừ; sự từng trải đã chỉ cho mình hiểu rằng chẳng phải hễ phàm là cây thì có thể chạm trổ được.

Thuốc hay mà bịnh trễ thì làm sao?

Khí cụ tốt mà cây mục thì làm sao?

Thiệt là khó liệu cho phần cô Dung... Cảnh nhà không dư dả nhiều, thói cần kiệm đã quen. Nay có một cô dâu giàu chẳng biết tiết kiệm đồng tiền với ngày giờ, bấy nhiêu đã đủ cho cảnh kém vui. Nói ra thì sợ mất lòng nên cô Dung vẫn cứ mỗi ngày đi mua ăn, lui cui về việc bếp núc.

Chị dâu làm món ăn gì cũng không được, lại cũng không có ý gì lo làm cho đến được [3]. Ít lâu mình sẽ xúi chồng ra ở riêng. Cơm nước sẽ có đầy tớ lo cho. Có tiền không biết mua sự thảnh thơi, vào bếp chi cho khói thui, lửa táp. Công việc ấy để cho con nhà nghèo. Trời sanh mình làm con nhà giàu là để cho cái phần thoa phấn, điểm son, mặc đẹp, ăn ngon, huởng cái điều vui thú trên đời.

Cô dâu nghĩ như vậy, cho nên bao giờ còn ở cửa nhà cụ Nguyễn thì cũng vẫn để ý là cảnh ăn gởi nằm nhờ; chỉ lo độc thiện kỳ thân [4], trừ ra cái tình thương chú chồng nhu [5] dễ xỏ mũi kia, thì không biết cảm đến ân hậu của ai hết. Bao nhiêu dầu thật tình yêu đương, cô ta đều nghi là sự giả dối trải mày của kẻ ít tiền đối với người dư của.

Tâm địa như vậy, lại gặp nhà toàn người hiền hậu, nên cô thường sanh thói dễ ngươi. Ngủ trưa chẳng chút ngại ngùng, làm bể không hề bức rứt. Có khi, không ai hiểu, mà nàng dâu giận hờn điều chi chẳng rõ, bước đùi đụi ra gánh nước, bửa củi. Bữa sau thì la đau gân, mỏi cốt, nóng lạnh, nhức đầu, về nhà cha mẹ ruột ở chơi ít tháng.

Nhưng vậy, đó chẳng phải là chánh là điều làm ra sự thảm cho cô Dung...

Cô chẳng phải gái ưa ăn không ngồi rồi; cô sớm biết sự cao quý của sự lao động. Từ khi có sự buồn riêng thì cô lại kiếm nhiều công việc mà làm ép cái trí mình không được rảnh rang mà nghĩ đến nông nỗi. Có ngày giờ dư cô dạy con Lê may. Cô lấy tiền bán những sản vật của chính mình làm ra mà mua vải, sắm áo quần cho trẻ cơ hàn trong xóm. Chị dâu biếng nhát thì nàng có nhiều dịp đền đáp ơn sanh thành dưỡng dục chớ gì.

Ðiều khổ tâm cho cô là sự thất giáo của cô Thường. Chị ta không hề biết lỗi mình. Lắm khi lại vì muốn khoe cái hay, cái phải của mình tự tăng, chị ta bình phẩm thiên hạ một cách rất bất công, vấn đề mà chị ta hay nhạo đi nhạo lại, nhứt là "cha mẹ chồng kia ở ác, chị em chồng nọ gắt gao" cách nói ý xỏ xiên, khiến cho cô Dung nghe lấy làm khó chịu.

Khổ nhứt là nàng dâu hay nghi bậy, lại thường đem việc nhà chồng từ cái bát mẻ, cái chén sờn mà học với người khác; thành ra từ ngày cô Ba có chị, mới nẩy ra tiếng ruồi, lằn, có thể làm cho tổn hại cái danh giá tốt nhà cổ; nào: hà tiện, gắt gao, tham lam, tật đố [6]...

Thông gia cũng vì vậy mà lạt lẽo nhau.

Có một lần bà Nguyễn rầy con Lê vì một sự hư hao mà bà tưởng do nó làm ra. Chẳng dè là tại cô Thường. Cô dâu đương ngồi nhai bánh, liệng [7] món ăn đi, to tiếng trả lời, đến nỗi làm cho mẹ chồng phải nghẹn ngào, trộm rơi nước mắt.

Từ đó cô Dung lại càng buồn nhiều.

Có một hôm, con Lê thỏ thẻ như vầy: "Nè chị! Trời không đành nào xui cho người chị phải buồn, bởi chị biết noi ý trời mà làm điều phước thiện".

Một người dưng kia giàu có, vô nhà mình nó quên nó cũng là người dưng, còn nhỏ dại! Họ đã là kẻ vô ích lại còn khi thị mình, là nghĩa gì? Mà mình không phải là bọn thờ tiền chớ?

Cô Dung đáp rằng:

- Em xúi chị ở bậy sao? Chị biết có một điều ở phải mà thôi. Vả lại chị thường dặn em, chớ trách người mà chỉ nên trách lấy mình. Chị Hai không thương mình ấy là tại mình không khéo đối đãi cho vừa lòng. Còn thoảng như mình hết tình muốn sự hoà mà không được ấy là tại là tại phần mình xấu phước. Trời kia còn không khỏi cơn gió bụi, thì cái hạnh phước nào lại được hoàn toàn? Em lại còn phải hiểu điều nầy nữa, là cái gì cũng có hồi, hết no đến đói, hết dại đến khôn. Nếu có điều chẳng ngờ mà ghét thì rồi có khi cũng lại chẳng ngờ mà thương, lẽ xây vần khiến vậy. Em đừng nóng nẩy mà hóa ra hỗn hào. Chị buồn là lo cho cha mẹ khổ tâm, lo cho anh Hai vô phước về sau, chớ cái tốt, cái xấu của người lầm tưởng cho mình, chị đây không kể, miễn mình cứ giữ vẹn lòng lành.

Cô Dung đại độ, lương hảo như thế đó, mà chị dâu vẫn chẳng động chút nào. Hai cái tâm địa khác nhau thì có dây liên lạc nào buộc lại được; khéo giữ lắm thì là khỏi xung đột là may. Cô Thuờng lại có tánh ghen lạ lùng. Chính mình chị ta hay trây trúa, lả lơi, không biết phải cử chỉ thế nào cho ra vẻ con nhà đoan trang nết hạnh, thấy trai thì dòm muốn rớt con mắt; nói với đàn ông thì tan hoác, miệng cười, ưởng ẹo, nhúng trề, vỗ vai, vỗ vế. Thế mà khi nào chồng rủi đi một đường với cô nào, hoặc có dịp phải nói chuyện với đàn bà nào thì nàng liền nghi ngờ, buông lời bất nhã. Mới hay người vợ xấu nhứt là người vợ ghen vô lý, không xét suy.

Lần đầu, anh chồng ngáo, vẫn cười; nhưng lâu rồi lắm cơn phải mặt ủ mày châu rất là khó chịu. Anh ta tự hối. Lỡ một đời mình bạch phước, vì lỗi tại mình chẳng lừa lọc. Sau nếu có con trai, mình nên chờ nó đến tuổi hai mươi bốn, hai mươi lăm mới tính việc hôn nhân mà trước hết phải lựa bạn đồng tâm đồng tánh. Tốt hơn nữa là gia thế có hơi kém hơn của mình. Như vậy mới khỏi điều hối hận.

Người có học thức hay bất bình về quyền của chồng, không chịu cái câu "chồng chúa, vợ tôi", vì như vậy là tội nghiệp cho đàn bà. Vả lại vợ chồng mà cư xử với nhau như gia chủ với tôi đòi thì cái cảm tình nó ra làm sao?

Thật thế. Có nhiều cái gương vùi hoa dập liễu, nhiều cái cảnh khắt khe của mấy trang hiền phụ, khiến cho ai trông đến, nghĩ đến cũng phải lấy làm bất bình.

Mà than ôi! Hình như đàn bà nước ta sanh ra để chịu nắn, chịu sửa như những cây kiểng kia, để tự do đâm nhánh nảy chồi, thì không thế nào tốt được.

Mấy cái phương nghiêm khắc- có khi gần như dã man - của mấy ông chồng hủ hậu lại thường có cái kết quả hay!

Thấy ít khi nào mình cười với nội nhơn. Lúc ngồi ăn lỡ có thiếu món gia vị hay đồ dùng, thì thầy ném đũa dằn mâm; mặn lạt một chút là la rầy inh ỏi. Vợ không dám ngồi ngang, đừng nói chi là dám giỡn mặt; thế mà vẫn hết lòng yêu kính ông chồng.

Ông hay theo bè bạn, cờ bạc, rượu chè. Vợ khuyên lơn thì ông gắt ó, quát mắng om sòm, rằng đờn bà muốn đòi làm chủ. Vợ buồn chăng? Ông bỏ đi sáng đêm! Cằn rằn nữa chăng? Không thèm về nhà đôi ba ngày, thét lắm thì đôi ba tuần, một tháng! Cái gia cảnh như thế làm cho người đàn bà lấy làm tủi phận rầu duyên; nhưng lần đầu cũng vui vẻ chịu được; cũng hóa ra kẻ đồng tâm cũng cộng ưu cộng lạc với chồng vậy.

Nông nỗi như thế chẳng phải ít. Thiệt đáng thương hại cho đàn bà. Nhưng trông kết quả thì họ như dây cát đằng [8] leo nhằm cây sao, cây sến, hay bò trên vách sập tường xiêu, quí hồ có nước uống, có đất ăn là sởn sơ được!

Ðại để, đờn bà là thế đó.

Gặp chồng biết yêu, biết trọng thì dễ vui, lâu ngày lại sanh thói hỗn hào, sỏ chưn lỗ mũi. Trách gì cái phong tục nghiêm khắc chẳng vẫn còn!

Trách gì đờn ông họ cứ muốn cho đờn bà nhắm mắt giữ chữ "tùng" đời đời kiếp kiếp!

Theo cái chí hẹp hòi của nhiều người đờn bà, khi thương chồng thì muốn sao chồng như con cá trong chậu, con chim trong lồng; cá nào, chim nào muốn tự do, thế là hết thương họ đó! Phải biết xem mòi, nếu trước mình không khéo xử, tùy cái trình độ của đờn bà mà để cho cái hạng [9] tự do thì rồi vì tự do mà đến phải xấu hổ, đến phải gan tím, ruột bầm!

Cô Thương lại rủi mà được cái tự do nói đó; cho đến khi kia cô bỏ đói chồng vì đức lang quân bị anh em cầm ở chơi trễ. Thấy chồng về cô ngoai ngoải bỏ vô trong mà lầm bầm:

- Mê "con đĩ" nào mà không về ăn cơm cho kịp bữa, ai thức mà hầu hạ được. Sao không biểu nó về theo, dọn cơm cho mà ăn?

Cô Dung biết tánh anh, rất thương hại cho anh; đi hâm đồ ăn, dọn bữa cho anh, lại kiếm cớ nói đỡ rằng, bởi chị dâu có việc nên mình lo thế.

Thấy vậy cô Thương càng thêm ghét, nói thầm rằng, em chồng làm vậy là có ý xúi chồng mình không kể đến vợ nhà- lại tiếp: "Quân ngu như vậy, để sau làm mọi cho người ta".

Nhưng sau nầy thị ấy lại nghi thế khác.

Hôm nọ chị dâu em chồng đi chợ. Có thầy ký nào quen thói khả ố, thấy cô Dung bèn thả giọng trây trúa: "Ê! Ê! Ma se [10]!" và tỏ ra cách ghẹo chọc.

Cái hàng thầy như vậy thiệt là chẳng ít trong thời buổi nầy. Nhứt là trong mấy chợ quê mùa, cái người làm tồi phong bại tục ấy càng nghinh ngang hơn nữa.

Cô Ba lo lựa hàng không hay, có cô Thường ngó thấy mà thôi. Chỉ có bấy nhiêu đó mà chị đề quyết em chồng có ngoại tình. Lấy làm đắc chí mà cười thầm:

- À, tưởng ai chính chuyên, té ra ngày nay mới rõ. Hèn chi nó chẳng nịnh hót anh nó; không vậy thằng chả méc còn gì!

Người phải, ai có lo chi sự quấy, tiếng đồn oan của thế thường; nhưng khốn thay! Hai điều ấy lắm khi là thuốc độc rất ghê gớm giết được linh hồn người biết liêm sỉ.

Chú thích

[1] thời nay

[2] ná: nỏ; ý nói trổ tài thao lược

[3] đạt được

[4] chỉ làm điều tốt cho mình

[5] mềm, hiền

[6] đố tật, hai chữ cùng nghĩa:ghen ghét

[7] ném, quăng

[8] loại thảo mộc dây quấn thân cây khác, chỉ người đàn bà trông chờ sự che chở của người đàn ông: cát đằng dựa bóng tùng quân

[9] hạng người

[10] (ma chère), người yêu của tôi

CHƯƠNG 4 - CÔ DUNG LẤY CHỒNG

H

ôm kia, nhơn đêm trăng mát mẻ, bà Nguyễn cùng con gái thừa nhàn đi dạo sau vườn.

Mẹ nhìn con chan chứa ái tình, thỉnh thoảng bà nắm bàn tay mềm mại trắng phau của cô Dung mà nựng nịu. Giây lâu, bà Nguyễn gọi:

- Nè con!

Cô Ba dạ, nhưng chỉ thấy mẹ ngó mình mà cười, dường như muốn nói chi mà còn ngần ngại.

Cô hỏi:

- Má vui không?

- Vui. Nên má muốn nói chuyện với con. Nè con, năm nay con đã lớn rồi; má muốn tính cho con yên phận.

- Má đừng tính chi cho mệt. Con ở với ba má như vầy là yên vui lắm rồi.

- Con phân vậy là con chưa hiểu ý má sao? Má muốn tính về hậu lai của con, chớ không lẽ ba con với má lột vỏ sống đời với con cho đặng. Có thầy ký con nhà giàu lớn lắm, mà tánh nết nho nhã phong lưu. Cha mẹ thẩy thương con, muốn đem con về mà coi sóc trong nhà, phòng sau có cai quản sự nghịêp.

Cô Ba đổi sắc, buồn dàu dàu, làm thinh mà ngó mẹ; cặp mắt nhơn từ bỗng không [*] chan chứa lụy sầu. Nội một cái ngó ấy làm cho bà Nguyễn cảm động vô cùng, bèn choàng vai con mà kéo ngồi trên cái võng ván gần đó.

- Sao mà buồn con? - Bà vừa hỏi vừa lau nước mắt và vén mí tóc cho cô Dung.

- Con không muốn lấy chồng! Chẳng phải con tật bịnh chi hay là vụng về chi mà sợ ngày sau người ta chê con và khi thị cha mẹ. Ý con muốn ở vậy nuôi ba với má hoài mà thôi.

- Hay là con buồn vì chị dâu thất hiếu nên cam lòng ở gần bên mà trông nom ba con với má? Ðiều ấy con đừng lo. Má còn sức khoẻ, có thể lo liệu việc nhà. Ðến tháng giêng đây má cho vợ chồng thằng Hai ở riêng. Má với con Lê hủ hỉ cũng vui vậy. Con phải xét kỹ. Con mà nên vợ nên chồng rồi, lại xứng lứa vừa đôi thì là cái mừng cho cha mẹ đó con. Vả lại, gái lớn lấy chồng là lẽ tự nhiên. Nhà vô phước lắm mới có con gái mà không được làm sui đó! Miễn con thương cha mẹ là đủ rồi.

- Má sợ con hư sao?

- Ê! Nói bậy mà! Má đâu có nghĩ quấy vậy?

- Nếu chẳng vậy thì má để con được tự do một chút. Con ở đây cùng ba má; chừng nào trời khiến con ưng ai con sẽ vui lòng.

- Thế thì con chê chỗ má nói đó sao?

- Con không dám chê ai; chỉ tại lòng con chưa muốn thôi. Ðiều muốn của con bây giờ là xin má đừng ép. Ý con khác hơn thiên hạ: chẳng phải nơi giàu sang, quyền tước mà con tìm. Con chỉ muốn có chồng như thế nào cho đúng ý, nghĩa là người ấy hết tình yêu con, quí con, và con cũng có thể hết tình yêu quí lại được. Má đừng lo con chọn lầm. Không phải con dám tự phụ, song trời sanh con có cặp mắt biết xem đời, con xét người có chơn giá trị, ở cái tài đức. Cái trái tim nào làm cho cảm động được trái tim của con, ấy là của người đáng cho con trao thân gởi phận đó. Má bằng lòng không?

Bà mẹ thở dài:

- Con cưng mà muốn gì không được?

- Má, má buồn không? Nói đi.

- Không!

- Thôi, vô ngủ kẻo con đã lạnh.

o O o

Chương 5: Tám Năm Đã Trải Qua

Người ta, ai cũng có một lúc dường như quên ngày giờ đi, rồi thoạt nhiên lần tay tính lại cái thời kỳ thấm thoát bắt nhớ đến tình nầy nỗi kia mà luống bâng khuâng. Mãng lo nhớ cái cảnh đời sẽ tới mà lần lần quên những nỗi cam khổ đã trải rồi. Hồi tưởng lại chuyện gì đâu đâu, trong lòng bắt chán nản?

Tám năm đã trải qua.

Cảnh nhà của cô ba Dung trước kia thế nào mà bây giờ vắng teo!

Cô không còn cái hạnh phước được nghe tiếng kêu "con" rất yêu dấu của mẹ nhơn từ. Không còn cái hạnh phước đọc chuyện lạ, thơ hay cho cha nghe nữa. Tiếc thay! Lòng con quyết báo đáp ơn sanh thành dưỡng dục cho vừa, mà cha mẹ đã vội lìa trần tục.

Anh Hai chị Hai ra riêng ở làng khác. Con Lê có chồng có con rồi.

Một mình hiu quạnh với con thơ cùng đứa tớ gái trong cái nhà rộng rãi êm đềm, cô Dung tuy nét mặt vẫn tự nhiên chớ trong lòng ngổn ngang nỗi thảm.

Chiều chiều, mấy người hành khách thuờng thấy một người đàn bà xinh đẹp, bận áo dài đen, tha thướt đứng nhìn hoa, nét mặt rầu rầu như thương như nhớ ai không thế nào nguôi. Chẳng rõ ai có cái duyên được người thương nhớ thế mà có thấu lòng chăng nhẽ?

Ðứa bé chừng năm sáu tuổi, khi đánh vòng, khi rượt bướm, phút chốc chạy lại nắm, mà mơn trớn tay người áo dài đen.

- Má, chừng nào ba về?

Cô Dung chừng như tỉnh giấc mơ gượng cười:

- Còn ít tháng nữa ba về.

- Ít tháng là mấy ngày?

- Một tháng kể là ba mươi ngày; chừng vài ba cái ba mươi ngày như vậy.

Thằng nhỏ chìa tay lẩm bẩm tính:

- Dữ! Lâu quá lẽ chưa! Sao ba ở chi ngoải hoài vậy má?

- Con đừng hỏi chi, má muốn để ít ngày nữa rồi con biết. Bây giờ con phải ráng ở cho ngoan hơn nữa, đặng sau ba con mừng. Con mà làm cho cha mẹ vui lòng là biết thương cha mẹ, là có hiếu, nghe con. Con thương ba không?

Thằng nhỏ múa tay trả lời:

- Con thương ba cũng bằng thương má vậy, con muốn ngoan cho ba với má vui lòng. Mà, ngoan là sao, hả má?

- Ngoan là không cãi lời má dạy. Phải biết yêu kính người chịu cực vì con, phải biết kiêng cữ điều má ngăn cấm, dầu ham muốn thế mấy cũng phải dằn lòng. Con ở như vậy được không?

- Ðược lắm! Con muốn sao người ta khen con giỏi hơn mấy đứa nhỏ kia. Hồi con biết đi, biết nói đến giờ, con có làm điều chi trái ý má không?

Mẹ ngó con, chúm chím cười mà trả lời:

- Cũng có một hai khi. Nhưng má không phiền con, má biết, hễ chừng con trộng [1] lên thì không hề làm như vậy nữa.

Thằng nhỏ ôm má nó, ngước mặt tỏ ra cách biết ơn:

- Má thiệt là nhơn từ. Năm nay con trộng rồi. Con biết rồi, con không hề làm một chút nào trái ý má nữa. Má ngồi xuống cho con hôn má đi.

Cô Dung cảm động, nước mắt gần tuôn rơi, ôm con vào lòng mà hôn hít và nựng nịu.

- Con là cục vàng của má đó con? Nàng lẩm bẩm câu ấy chẳng biết mấy lần, xem chừng nựng con là cái hạnh phước độc nhứt của nàng ở thế gian vậy.

Nàng nựng con rồi bắt nghĩ thầm; nghĩ thầm lại tựa hồ mắc cỡ với con, tựa hồ đã bất cẩn, lộ ra cho chú bé rõ ý kín.

Hôn con, tưởng rằng không còn cái hôn nào nồng nàn hơn; nhưng cô Dung nhớ đến chồng, rồi nghe như bên gò má có hơi thở của ai, nếu trong giấc mơ thì cô đã ngã mình ra cho ai đỡ lấy...

Cái hôn chồng cũng nồng nàn lắm kia mà!

Ở đời, có mấy đôi vợ chồng thương nhau bằng cái chơn tình? Chỉ có hai người đồng một cảm giác, đồng một tư tưởng, đồng một tấm lòng mới thương nhau bằng cái chơn ái tình. Thương nhau vì hiểu nhau; càng hiểu nhau lại càng thương vô tận. Nghèo khổ, tai nạn đã không thế làm phai lạt, mà lại tô điểm cho ái tình càng tốt đẹp, nấu nung ái tình lên đúng bậc thanh cao.

Có bị khổ vì tình rồi mới biết cái chơn ái tình. Không được thương nhau bằng cái chơn ái tình thì cái đời không còn vui thú gì, chẳng qua «vui là vui gượng kẻo mà, ai tri âm đó, mặn mà với ai!»

Ấy thế, tình là cần thiết cho đời người. Ðời người là giấc ngủ còn tình là cái chiêm bao; không có tình là không có sự sống. Có tâm sự mà không cùng nhau sớt thảm chia vui, thà sanh làm kiếp nào vô tri vô giác còn hơn.

Cô Dung không phải lắm phen phong trần lặn lội mà cô lịch duyệt nhiều. Cô trông gương của chị dâu và anh ruột lại nhờ tánh hay suy xét nên đã sớm hiểu rằng sự phú quí, vinh hoa chỉ là miếng mồi nhử cái mê tâm của người, khiến cho nhãn lực không phân biệt được nổi vàng thau.

Cô lại biết xét rộng ra nữa, là con người chẳng những bị ảnh hưởng của sự giàu sang mà còn bị ảnh huởng của cảnh ngộ; không cẩn thận thì cũng phải lầm lạc.

Ðôi trẻ kia năng gần nhau, lần lần thương nhau, tưởng rằng kết được vợ chồng thì lấy làm hòa hảo. Nhưng đến chừng thân yêu rồi lại có chỗ phiền, là vì khi lửa tình nguội bớt rồi, họ dòm thấy cái xấu của nhau, lấy làm ân hận, trách mình quá vội. Ăn năn mà có ích gì!

Thế cho nên cô rất dè dặt.

Cô thừơng tự bảo: người có trí suy xét, thì khỏi phải ăn năn. Lắm kẻ gặp cơn rầu duyên, tủi phận hay oán trách ông trời. Nàng chê họ không biết nghĩ xa: Trời là đấng từ thiện, nhưng lại là đấng công bình. Trời để cho người tự do thương nhau, nào có ép ai đâu! Thế mà chẳng thiếu chi người, khi lòng muốn tính việc xằng, cũng đổ là Trời xui, khi tự mình nhận mình vào chỗ hôi tanh cũng đổ tại Trời xui; khiến cho nói đến việc hôn nhơn, mấy cô xuân nữ lấy làm lo sợ bến nước đục trong của trời dành để!

Giúp người phải, xa kẻ quấy; biết thế tức là biết trời. Trời không có sắp đặt cho ai phải hạp với ai cả. Việc đó là nơi người kén chọn.

Cô Dung không có cái sợ quấy, cô chỉ tin ở sự công bình của Trời và tấm lòng chơn chánh của mình. Cô học khôn trong cảnh nghèo, và lấy làm cám ơn trời cho cô sanh làm con nhà nghèo. Có chịu cay đắng, nhọc nhằn mới biết suy rộng nghĩ xa, mới biết tâm địa của người thiên hạ; nhơn đó mà biết gìn lòng, dưỡng nết mình tử tế, thanh cao.

Cô chắc ý rằng cô lựa chẳng nhầm. Nếu chẳng đặng gặp người hiền để gởi phận trao duyên, thà là giữ tiết sạch giá trong mãn đời thôi; không phiền không tủi. Có chồng mà phải khổ tâm mới phiền tủi cho.

Ðến khi cô ưng anh học trò nghèo là Ðoàn Hữu Minh, thì bị chị dâu mai mỉa lắm điều: «Hay bộ khôn mà thật chí ngu! Chỗ quyền cao lộc cả không ưng, để sánh đôi vói bợm tay trắng túi khô, đặng làm mọi cho nó cả đời. Thật là uổng, mà xét kỹ cũng thật là đáng kiếp!"

Chính mình ông Nguyễn, bà Nguyễn cũng có ý buồn; song "ép dầu ép mỡ, ai nỡ ép duyên", nên đành để tự ý con; sau có đến nỗi nào nó không trách cha mẹ được.

Ðoàn Hữu Minh ở nhà cha mẹ vợ và đi dạy học; tánh nết hiền lương nên hai vợ chồng ông Nguyễn lần lần hết dạ yêu đương. Thầy ít giao thiệp; có thì giờ dư chỉ làm bạn với mấy quyển sách của mình nhín tiền mua, có khi đem ra bình phẩm với vợ hiền, lấy bao nhiêu đó làm thú vị.

Ðám cưới cô Dung rồi độ một năm thì có người cô của nàng qua đời. Vì chẳng kẻ thừa hưởng, nên sự nghiệp để cho ông Nguyễn. Nhờ vậy mà cảnh nhà ông ấy mới khá lên. Nhưng hưởng thanh nhàn được vài năm thì ông bà lần lượt khuất hết; con, rể, thương tiếc vô cùng.

Nhứt là cô Dung.

Trước kia, khi được mười tám xuân đầy đặn, tức là cái tuổi, mà máu đương chảy mạnh trong mạch lạc con người, tức là cái tuổi, mà lòng như hoa nở nụ cười, trông cho có chút tia sáng mặt trời hé vào là nở bùng ra, khiến cho người hửi lấy mùi thơm mà bưng khuâng cảm xúc, vì đâu mà cô vẫn thệ lòng không màng đến việc lứa đôi, chỉ lo phụng dưỡng huyên đường [2], nhọc nhằn bao nhiêu cô cũng coi là chưa vừa với ơn sanh dưỡng.

Than ôi! Những kẻ bất hạnh bị loài ác tử rẻ khinh, đày đọa mà còn tiếc chi, lại vẫn sống thừa; còn người mà con hiếu thảo cầu nguyện được trường sanh lại lòng nào thác vội!

Ông chết, bà chết, cô buồn cho đến xanh xao vàng vỏ, cho đến chồng phải sợ cho cô theo tầm [3] song thân ở chốn u minh.

Nhưng may vì cô còn được có cái tình chồng con quí yêu mầu nhiệm, cũng bằng giọt nước nhành dương [4], cho nên cái vít [5] trong lòng cô, lần lần cũng lành lại. Từ ấy cô thương chồng gia bội lên mà chồng cô cũng yêu cô không biết đâu là bờ là bến; thương nhau mà vẫn kính nhau; càng thương lại càng thấy cái tốt của nhau thêm lên mãi.

Cô thấy cử chỉ của chồng càng đem lòng kính phục tặng chồng là trai phi thường. Chồng thấy vợ nhiều khi chín chắn hơn mình, khen là gái quân tử.

Tối nào, hễ thiếp thêu thùa, vá may thì chàng làm văn xem sách. Mấy lúc trăng thanh gió mát thì kề vai nhau lững thững ở vườn hoa để bàn luận về thế thái nhơn tình, thỉnh thoảng khen nhau bằng cái ngó mặn mà, đằm thắm.

Cô Dung lại hiếu học. Ngày nào cô cũng để vài giờ xem sách cùng làm bài của mình xin chồng ra đề cho. Cô sửa bài học trò giúp chồng, có khi lựa đoạn sách hay đọc cho chồng nghe, miệng hữu duyên, cất giọng dịu dàng, bao nhiêu ngao ngán, bao nhiêu nhọc nhằn của đàn ông cũng nhờ đó mà tiêu tan cả.

Nhiều khi chồng cảm tình chan chứa, nhìn sửng sốt rơi giọt lệ không cầm:

- Mình ôi! Tôi tài đức chi mà được người vợ thế nầy. Mình làm cho tôi có phước lắm mình à! Dẫu tôi được làm vua, giàu sang hơn người, cũng không bằng được làm chồng của mình đó!

Cô đứng dậy, bước lại, choàng tay bụm miệng chồng cười:

- Mà mình thương tôi nhiều không?

- À! Như vậy thì sự thương của tôi có lấy gì làm quan trọng đâu. Tôi sợ là không biết làm thế nào tỏ hết lòng yêu quí của tôi đối với mình đó thôi.

Cũng thời một cái thương, nhưng không biết cái thương có khi là hại.

Hai vợ chồng Ðoàn Hữu Minh đã biết thương, lại mỗi người còn thầm ráng làm thế nào cho càng xứng đáng với nhau; rủi ai làm khổ tâm cho ai một chút thì xem cũng bằng đã phạm tội chi trọng, lấy làm xốn xang, bứt rứt.

Nhiều khi thầy xem sách mỏi mắt, xếp lại, nằm nhìn vợ, lòng lai láng cảm tình; càng xét tài đức của vợ bao nhiêu càng yêu quí trân trọng bấy nhiêu. Rồi, lại nghĩ, lại tủi: "Ðoàn Hữu Minh nầy có đáng chi mà được vợ như vầy. Nhìn lại địa vị của bạn đồng môn, kẻ quyền cao lộc cả người phú quí vinh huê, rồi ngẫm lại phần mình thật hèn kém trang phi phàm thục nữ, như người yêu dấu người kia, đáng ở lầu cao cửa rộng, đáng kẻ bẩm người thưa, chớ không phải sửa trắp nâng khăn cho kẻ tài hèn trí mọn".

Cô Ba độ hiểu cái cảm tưởng của chồng, rầy một câu khôi hài:

- Nhìn hoài! Vậy mà khi vào lớp, trò nào bỏ sách ngổn ngang, mình rầy người ta làm sao? Cấm mình đó nghe không!

Nhưng mà thầy cười, sẽ lén lại ngồi gần bên, vuốt tóc lẩm bẩm có một câu:

- Tôi có phước chi mà được vợ như vầy, mình?

Cô dừng tay lại mà ngó chồng một cách có duyên:

- Nếu mình tưởng cho mình là không đáng làm chồng tôi, thì là mình đày tôi như hạng nhi nữ tầm thường rồi. Một là tôi không biết lựa chồng; hai là tôi cũng ham những khoái lạc vật chất như ai... Tôi không tham mình à! Tôi muốn làm người theo cái phận thấp thỏi của tôi, nhưng vẫn được bằng lòng. Nói bất lợi mà nghe, nếu như mình rủi tật nguyền khổ khốn cùng, chẳng những tôi không khinh khi mình, mà lại còn xót xa cho cái khổ tâm của người quân tử. Mình cứ tự hỏi mình có phước gì. Vậy chớ tôi đây có phước gì? Nếu mình tưởng rằng nội cái tình thương của mình là chưa vừa cho tôi, thì tôi lấy làm e rằng sau nầy mình sắm được cho tôi sợi dây chuyền tốt, cái áo đẹp toàn là những đồ mà tôi không coi rằng quí- mình đã tưởng cho tình thương của mình đến đó là cùng đàng rồi.

Thầy cười:

- Thôi, thôi, thôi! Tôi phục lòng cao thượng! Mà mình cũng nên xét rằng: nghĩ vẩn nghĩ vơ cho phải bị rầy, là tại cái lòng tôi thương mình vô tận!

- Tôi muốn mình đừng vì yêu tôi mà tự hạ như vậy.

- Tôi biết tự trọng chớ; nhưng với người yêu, tôi phải hết sức khiêm nhường...

Nhưng bao giờ Ðoàn Hữu Minh xét đến phận mình cũng buồn.

Có cái óc thông minh, làm chi mà lại chẳng có cái hạnh phước học đến chốn đến nơi như ai? Có lòng lương hảo làm chi mà lại chẳng đặng dư giả đặng đền ơn sanh dưỡng cù lao, nâng đỡ anh em, bà con, giúp ích cho những kẻ tai nàn khốn lụy?

Thầy mang cái tiếng "thầy giáo" mà chẳng chút chi lấy làm vinh diệu, vẫn thấy mình tài không xứng chức. Cho rằng chàng hết lòng dạy dỗ trẻ thơ mà không bao giờ cầu đặng khen.

Lãnh cái chức vụ dạy đời, ít nữa phải văn chương loại thông cổ, thạo kim, cho xứng đáng với cái "lạy, bẩm" của học trò. Bao giờ nhớ đến câu "dốt đặc là hay chữ lỏng" thì thầy lấy làm thẹn.

Dễ thường khi cái thói ái kỷ [6] nó làm cho mình tự đắc mà quên cái khuyết điểm của mình. Thật thế, ai cũng có ít nhiều tự đắc; vì vậy mà nguôi thảm, bớt sầu; nhưng trái lại cũng vì vậy mà con người cứ ở một mực ngu đần thấp kém.

Ðoàn Hữu Minh muốn làm người hoàn toàn, nghĩa là vừa giữ được cái thân thể tráng kiện, tấm lòng chơn chánh, vừa lo cho óc được minh mẫn...Cái tánh khiêm nhượng làm cho thầy thấy mình còn thiếu kém hoài.

Cô Dung không dè đâu ngày kia chồng xin phép đi Sài Gòn về, nét mặt hân hoan mà cho hay rằng đã thi đỗ bằng cấp tốt nghiệp mới rồi. Cái mừng của cô ta, nói sao cho xiết! Song, nghe vợ mừng, khen, chồng chỉ trả lời một cách khiêm nhường:

- Có chi! Tôi nhờ mình đó thôi. Tôi ráng thi đậu mà chi? Ðặng cho mình được cái vui tình cờ, đặng cho những người chê mình trước kia sẽ nói với nhau rằng mình thương tôi không uổng.

Cô hơi mắc cỡ, sẽ véo vai chồng mà nói:

- Mình yêu tôi đến thế, tôi phải lo đáp lại cách nào?

- Dễ mà! Có siêng làm cho một mớ bánh ngon ăn chơi thì đủ!

Rồi hai người đều cười. Vui thay cho cái cảnh vợ chồng hòa thuận.

Chú thích

[*] thay đổi thình lình

[1] khá lớn

[2] cha mẹ

[3] tìm

[4] do chữ dương chi thủy là nước của nhành dương=nước có phép Phật. Ðiển: về đời Tần, ông Thạch Lặc có người con trai chết ngất, có ông Phật- đồ-trừng người Thiên Trúc lấy cành dương nhúng vào nước rưới lên người, con Thạch Lặc tức khắc tỉnh lại. Thơ tôn giáo:... cam lồ rưới giọt nhành dương; thất tình lục dục như dường tiêu tan...Giọt nước nhành dương=sự cứu rỗi

[5] vết

[6] thương mình

CHƯƠNG 5 - NHỚ CHỒNG

N

hớ mà ra ngẩn, vào ngơ...

Người ta ngùi ngẩm nhớ nhau là tại vì đâu?

Cách đối đãi ân hậu, niềm ân ái mặn nồng, những cái làm cho nhau toại chí, vừa lòng, góp thành mối kỷ niệm bâng khuâng. Lại thêm chỗ cùng nhau thường đứng thường đi, luôn đến cây cỏ vô tình cũng dường như khêu gợi tâm sầu, hỏi khách tương tư chớ người yêu đâu vắng mà luống để ai ủ dột màu hoa?

Ðêm nằm lộn lại lăn qua, lạnh lẽo trời đông, quạnh hiu canh vắng, phút chốc ngọn gió lòn bên mí tóc, bắt nhớ chừng đến bàn tay nét mặt của bạn chung tình.

Thời gian lặng lẽ êm đềm, cho đến tiếng thằn lằn chắc lưỡi [1], giọng cóc nghiến răng [2] cũng làm cho rối giấc mơ màng, càng mong càng tưởng, càng nhớ càng thương, càng ảo não cho cảnh nệm nghiêng gối chích.

Ban ngày thì thằng bé San cứ nhắc:

- Má, chừng nào ba về?

Con nhớ cha còn có thể hỏi thăm; vợ trông chồng biết cùng ai thỏ thẻ?

Cô nhớ chồng!

Nếu có người thợ vẽ nào họa được cái nét rầu của cô Dung cơn dựa cửa nhìn sững, lúc bên đèn ngó trơ, thì sẽ là một bức tranh tuyệt diệu...

Chớ phải ở nơi xa, xa tít kia, Ðoàn Hữu Minh có cái thiên lý nhãn lực mà trông về. Cô Ba không ham sự vinh hoa phú quý. Cô chỉ ước sao chồng giữ được cái tiết tháo quân tử là đủ cho cái hạnh phước của cô. Nhưng, ý chồng muốn bay nhảy, cô không lẽ lại dám cấm phu quân, cách một năm sau khi thi đỗ tốt nghiệp - tức là phần thưởng xứng đáng cho người hữu chí - thì xin ra học ở Bắc thành.

May ra đắc lộ rồi thì chàng nghiễm nhiên là "ông" Trường Tiền [3], cô lại là "bà" Trường Tiền; nhưng có nghĩ đâu rằng cái địa vị vẻ vang mới lại làm cho giảm bớt cái thú vị nồng nàn của ân tình xưa?

Nhưng, hai người đã từng nói: "chúng ta đồng một tấm lòng". Thầy muốn được đặng danh, là có ý tỏ cho đời biết rằng người yêu của thầy lựa bạn chẳng lầm; cho vợ hiểu rằng nhờ chữ tình nên thầy có đủ kiên nhẫn, nghị lực mà làm được mọi việc.
Nhớ mấy lời ấy, cô Dung cũng an tâm. Thế như cùng nhau khắng khít như cặp oan ương [4] cách mặt, xa lời, dạ nào dạ chẳng ngậm ngùi, cho hay vẫn có tin nhau đi về, chia thương sớt nhớ.
May, nàng có thằng nhỏ San ngộ nghĩnh cho nên cũng nguôi được đôi chút nhớ thương. Nàng hay tưởng tượng ra lúc chồng về; chàng sẽ hân hoan, đứng nghiêng tai nghe con đọc rót những bài khuyến hiếu, những văn ngụ ngôn thỉnh thoảng chàng chím miệng cười rồi hôn con, hôn vợ, lấy làm đẹp ý...
Cô dằn lòng chờ, tự bảo rằng kiên là cái đặc tánh của người hiền phụ. Gặp cảnh éo le, trắc trở, còn chẳng núng nao, phương chi mới nội một cái "chờ" mà đã lấy làm khổ tâm sao?
Có chước làm cho khuây là lo việc dạy con. Cô thừa mấy khi xếp đặt trong nhà mà tập cho con biết ăn ở sạch sẽ, vén khéo, có thứ tự và tiết kiệm. Làm việc chi cô cũng có thằng bé theo hủ hỉ một bên; hoặc nó xem cách thế mà bắt chước, giúp dùm, tùy theo sức nó.
Cô không ham ép con sớm học chữ và học viết chỉ muốn nói cho có nghe chuyện hay tích lạ, rồi bảo nó thuật lại.
Lần lần đứa nhỏ biết khen cái hay, chê điều dở, thông minh dễ thương lắm.
Nhơn đó mà mẹ hiền rèn tánh nết con! Biết phép tắc, biết làm cho mọi người yêu dấu. Con làm quấy điều chi, mẹ không rầy ó om sòm. Cô Dung chỉ lừa dịp thuật chuyện ngỗ nghịch của trẻ nhỏ khác: thằng bé thông minh bèn hiểu mẹ phiền mình mà thú lỗi xin chừa.
Có lần, cô chờ lúc vắng người, mới kêu con mà giảng dạy; giọng nói khi oai nghiêm, khi dịu ngọt, khiến cho con nghe đã sợ mà thương, có cơn vì cảm động mà rơi nước mắt.
Ðiều cô lo đào luyện cho con hạng nhứt, là sự công bình, vì rằng cô cho cái đức ấy là căn bổn của các tánh tốt khác.
Trước hết cô tập cấm thằng nhỏ sợ vô lý, chẳng hề bao giờ cô dọa nó; kìa chú lạ; hoặc ông kẹ, hay ông ba bị chín quai! Chính mình cô lại khám phá ra cái tánh khiếp nhược của con. Thằng nhỏ cũng không hề biếng nhác, vì mẹ nó vẫn tỏ ra cái gương siêng năng.
Nó không sợ vô lý, không lười biếng, tất nhiên nó sẵn tánh can đảm để ngày sau làm kẻ nam nhi hoàn toàn, có can đảm mà xa điều quấy, có can đảm làm phải, dầu khó khăn hiểm nghèo cũng không sờn lòng.
Nó không nóng nảy như những đứa con nít thường vì mẹ nó thuần hậu ôn hòa. Nó lại sanh trong cái cảnh êm ái thì có bao giờ phải trái ý, phải giận hờn, đến nỗi khóc la.
Mẹ đã biết chăm sóc cho con được hình vóc tráng kiện tươi tốt, lại dồi mài cho con được cái óc thanh lịch, tinh lanh thì lẽ nào trí nó chẳng sáng suốt? Cho nên hễ nghe mẹ dạy điều chi thì nó hiểu biết ngay: trước khi ngồi, trước khi đi, có ý tứ xem coi rất cẩn thận. Trước khi nói, biết nghĩ suy; trước khi làm, biết xem xét. Chẳng bao giờ vì sự bất cẩn mà nó làm hại cho nó, hoặc phiền lụy đến ai. Mẹ dạy công bình thì nó hiểu rằng chẳng hề nên làm cho người khác phải buồn, phải khổ. Nó không chê ai, không trách ai. Khi nào nó làm cho kẻ khác buồn thì nó phải xốn xang hơn người buồn kia, và mau mau kiếm thế sửa lỗi.
Một hôm thằng San hái hoa đặng cặm vào bình. Rủi bị con ong chích nó sưng mặt. Mẹ vừa thoa thuốc vừa hỏi:
- Con phiền con ong ấy không?
Nó đáp:
- Con không phiền; vì nó tưởng rằng con bắt nó, hoặc con bẻ hoa đặng làm bầm dập như mấy trẻ kia, nên nó mới chích con. Côn trùng mà biết giữ mình nó, lại giữ mình dùm kẻ khác là đáng khen. Con chê con không dè dặt mà tránh con ong núp dưới hoa, không lanh lẹ mà tránh cây kim của nó.
Cô cười, hỏi tiếp:
- Giỏi, nhưng con không cố ý hại nó, mà nó báo cho con phải nhức nhối, con mới nghĩ sao?
- Con nghĩ nó cũng vô tội, phải không? Vì nó cũng không cố ý hại con. Nọc độc là của trời sanh cho nó, chớ không phải nó kiếm mà dùng. Nếu khi nãy, con cầm cây mà bẻ hoa, nó cũng đã chích cái cây; lại nếu con có đội nón thì nó lại chích đại vào nón. Nó không biết suy nghĩ như mình, lại là một điều bào chữa cho nó vô tội huống chi: "Như con ong mật là loài siêng năng". Con có học bài thuộc lòng, con còn nhớ, con khen nó là loài hữu ích. Nó chích con, con nghĩ công mà tha tội cho nó chớ!
Mẹ vỗ vai con mà khen:
- Tốt lắm! Ðược lắm. Vậy má mới không cười đứa nào làm mặt nhỏ mặt lớn với má!
Trong nhà thường có chuyện vui nhỏ nhỏ như vậy. Cô Dung thấy con sớm có trí rất lấy làm mừng.
Cô dạy con: "Người ta biết ăn ở công bình là để khỏi phạm điều tội ác và sửa những tội ác mình đã lỡ làm. Nhưng con đừng vội tưởng rằng hễ con biết phân biệt phải chăng đã gọi mình là lành trọn. Lũ kiến siêng năng kia đương tha mồi về nuôi gia quyến. Con ham bẻ trái mận, trái lê, con trèo lên cây, đạp nhằm mấy sanh mạng tan tành. Khi kia má sai con đi lấy cái khăn, rót chén nước; con vì lật đật mà bước trên mình con cóc nọ trầy hông. Ðó, má thí dụ thế. Con nào có ý làm hại chúng nó đâu, phải không? Nhưng vậy con cũng đã làm ra sự bất bình rồi. Thế cho nên con hãy để ý rằng ở đời, khó giữ mình tận thiện, tận mỹ lắm thay! một phút hơ hỏng là có thể gây ra lầm lỗi. Làm được một việc phải, đừng đem mà khoe khoang, những kẻ làm phải khoe khoang là chủ ý muốn kẻ khác khen trọng mình thôi, chớ không ắt đã có bụng tốt. Làm phải là bổn phận của mỗi người chớ có gì!"
Cô hằng nghĩ: "Kìa trong xã hội, người ta không được tự toại, người ta làm phiền cho nhau, mưu hại lẫn nhau, há chẳng phải tại ít lòng công bình sao? Ai cũng muốn mình đặng tự do, mà thường là không biết tự trọng cái tự do của mình và của kẻ khác; như thế đó, nếu không phải ngu si, thì là giả đạo đức; hay rầy, hay chê đời, hay làm bộ khôn lanh sửa đời, mà kỳ thật toàn là đám hữu tội cùng đồng loại; chỉ biết cạnh tranh, tật đố, gièm xiểm, chớ có cao thượng chút gì. Hạng thế ấy hay nghiêm khắc khi xét người mà hay dung chế lúc xét mình; có khi vì muốn che đậy, trốn tránh tội lỗi mà đổ nhầu cho kẻ vô can, thật đê hèn, khiếp nhược không gì bằng! Nhưng cũng ngộ đôi chút, dầu ác, dầu ngu, ai cũng giành cái hay, cái phải; rốt rồi cũng ngỡ mình là phải thật. Công bình mấy ai biết? mấy ai có sẵn cái bụng ăn ở công bình? ai quân tử? ai tiểu nhơn? Muốn phân biệt vàng thau, hãy xem người ở chỗ thực tế, ở nơi công việc làm..."
Vì có con mắt tinh đời, nên cô Ba thấy rõ đâu cạn, đâu sâu, đâu cao, đâu thấp. So sánh thiên hạ rồi dòm lại coi thái độ của chồng, thì lòng riêng cô lại càng thêm kính trọng. Cô ước thầm: "Tôi mà tập con tôi được tánh tình như vầy đủ cho tôi lấy làm có phước lắm rồi". Cô lo cho mấy kẻ khốn cùng ở gần mình. Cô hăng hái thật vui ở đời, là giúp cho kẻ khác đỡ buồn.
Khi bé San sáu tuổi, cô Dung mới khởi dạy đọc, rồi dạy viết chớ chưa cho đến trường. Cô thầm nói: "Ðể mình làm thầy con mình xem sao", làm ra cái thời khóa biểu để cho con biết giờ học, giờ chơi. Mà thường những giờ chơi lại là giờ học rất bổ ích.
Cô dẫn con đi dạo. Cô biết dùng vật liệu tự nhiên ở trong vườn mà giảng bài cách trí; hoặc chỉ mặt trăng mọc, vũng nước tràn mà cắt nghĩ địa dư. Nhờ vậy mà cái thì giờ đăng đẳng [5] của khách vọng phu cũng có lúc chạy mau đôi chút.
Còn nỗi nào mừng hơn là đôi bạn chung tình, Nam Bắc cách xa, dập dồn thương nhớ, mà ngày nay đặng tay nắm, mặt nhìn?
Ðoàn Hữu Minh về!
Công toại danh thành, cảnh nhà lại vui vẻ, đằm thắm hơn xưa.
Coi tình đời cũng ngộ. Cũng thời một Ðoàn Hữu Minh mà lúc làm anh "giáo" quèn kia, có mấy ai kính nể mấy ai yêu đương, ngày nay mang được cái lốt "ông" thôi thì thiếu chi kẻ e dè bẩm, khóm róm chào!
Trách chi thường vì cái hư danh mà người ta quần quấu, bấu, xé nhau!
Trách chi thường vì cái hư danh mà người đời hay ganh ghét nhau!
Ðoàn Hữu Minh không lấy sự người tôn trọng mình làm vinh diệu, mà lại cho làm sự buồn cười. Nghèo hèn ráng ở cho được trong sạch, ít ai biết mà kính vì; cao sang giàu có hôi tanh, cũng lắm người quí trọng.
Ðời là thế, có cần gì ai biết mình chi! Mình biết mình là vui vậy. Cái thói a dua, bợ đỡ, nó có từ thựơng cổ sẽ lưu truyền đến hậu lai. Lạ chi mà phải bận lòng.
Mấy ngày đầu khi mới về, khách tới mừng tân quan không dứt. Có người đến mời dự tiệc. Có người đem lễ vật cho. Nhưng chồng cô Dung vẫn kiếm thế từ đi cả.
Nhiều lời bàn bạc, nghe mới ngộ:
- Ðể tôi nói "ông Trường tiền mình" xin nhà nước phóng cái lộ theo ranh miếng ruộng tôi chơi...
- Còn tôi, tôi mượn ổng xin dời cái cầu sắt lại trước nhà tôi đặng tôi lập tiệm hàng xén...
Ít hôm sau, có cô Thường đến thăm. Chẳng phải là thật bụng mừng mà đến chia vui; ý chị dâu muốn rõ coi lời nói rằng Ðoàn Hữu Minh làm Trường Tiền, hư hay thiệt. Cô Dung hết lòng hậu đãi, nhưng không khỏi cho chị dâu, lúc ra khỏi nhà, buông tiếng chẳng lành.
- Bây giờ người ta làm bà rồi, coi bộ hí hất dữ chớ.
Ðoạn thở dài:
- Ôi! Chồng người ta thì vậy, còn đờn ông của tôi sao mà chỉ biết ăn rồi lo dưỡng vóc thôi. Thấy mà ngán!
Nói thật ra, chồng của cô Thường là người lương thiện mà những con người đê tiện như vợ y có biết gì câu "Hiền phụ kỉnh phu".
Cách một tuần, Ðoàn Hữu Minh cùng vợ con đi viếng cha mẹ ruột cùng anh Hai chị Hai, có đem cho mấy món đồ mua ở Hà Nội. Rồi cũng lần lượt đi đáp ơn cô bác đã chiếu cố.
Kế có giấy bổ chàng lãnh chức làm việc ở bổn tỉnh [6]. Cô Ba lấy làm sự may, vì nhà gần châu thành, tiện bề cho chồng đi về sớm tối.
Gần được một năm, gia quyến cô phải dời ở tạm nơi phố gần chợ, vì nhà cũ có nhiều chỗ cần phải sửa, thay vì. Hằng ngày, thừa mấy giờ rảnh, Ðoàn Hữu Minh cỡi xe đạp đi xem sóc việc làm. Chiều về hai vợ chồng bàn tính cách sẽ sắp đặt gia đạo thế nào, mơ tưởng các công cuộc tương lai làm sao...
Thầy nói thầm như thế, rồi vặn đèn cho tỏ lên, mà nằm đối mặt vợ cho đến ngủ mòn...
Chú thích:
[1] tiếng kêu của con thằn lằn như tiếng người chắc lưỡi
[2] tiếng cóc kêu như tiếng người nghiến răng
[3] cầu đường, ông trường tiền:trưởng ty cầu đường
[4] uyên ương một giống chim nước hình như con vịt mà bé. Con đực gọi là oan hay uyên, con cái gọi là ương, đi đâu cũng có đôi không rời nhau. Nghĩa bóng: vợ chồng thương nhau.
[5] dài vô tận
[6] tỉnh nhà

17/11/2015
Hồ Biểu Chánh
Theo https://isach.info/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

  Một lần đón trăng thu Mãi đến năm mười ba tuổi, tôi cũng chưa biết đón trung thu ra sao. Xóm làng nghèo, tối tối nhà nhà đóng cửa. Ánh t...