Nhơn tình ấm lạnh 1
CHƯƠNG 1
Huỳnh Tú Phan mới cất một nhà lầu, gần châu thành Bạc Liêu cửa
ngó ra lộ đi Sóc Trăng. Nhà cất kinh dinh kiểu vẻ xinh đẹp, nền cao cửa rộng tường
chắc, thang lài, tứ hướng đều có làm cửa sổ đặng ánh sáng lọt vào nhà. Hai từng
đều lót gạch bông đặng lau chùi cho sạch, nóc lợp ngói móc đỏ lòm, cửa sổ sơn dầu
xám láng bóng.
Trước có dọn một cái sân rộng lớn, chánh giữa đã xây hòn non
trên hồ nước, trên đỉnh ông tiều lum khum gánh củi, dưới khe ngư ông thong thả
ngồi câu, bên kia thằng mục cỡi trâu ãn, bên nọ chú cày đi ra ruộng.
Ở ngoài đi vô khỏi cửa ngỏ rồi tẻ ra hai đường vô nhà. Dọc
theo hai đường ấy đã trồng bông đủ thứ, bông vàng xen bông trắng, lá đỏ lộn lá
xanh, hai bên lại đương dọn hai cái bồn, tính để trồng cây coi cho đẹp. Phía
sau có cất một cái nhà dài tám căn, rồi chia ra chỗ xây bếp, chỗ chứa đồ, chỗ để
xe hơi, chỗ để xe ngựa, còn dư mấy căn dành để cho gia đinh ở.
Khoảng đất cất nhà nầy thật là rộng lớn, không còn bỏ trống,
nhiều chỗ chưa thấy trồng cây gì. Tuy vậy mà mặt đất đã ban bằng phẳng, có lẽ
chừng chủ nhà dọn nền nhà mới sẽ trồng mận, ương cam, hoặc trồng cau, đặt chuối
chi đây chớ chẳng không.
Phía trước dọc theo mé lộ, đã xây tường rồi rào song sắt, còn
ba phía kia xây trụ bạch cấm rào cây. Người đi đường, hễ đi ngang qua thấy nhà
mới nguy nga thường hay nghị luận, kẻ khen nhà cất đúng kiểu, người tiếc xung
quanh nhà chưa trồng cây, kẻ chê nhà cất xa châu thành, người lại nói muốn khoe
của nên cất nhà tốt hơn thiên hạ.
Tú Phan cất nhà vừa xong đương lo đóng tủ, mua bàn, đặt giường,
sắm ghế đặng ăn lễ tân gia, thình lình hay tin quan trên xét công làm hội đồng
địa hạt gần hai khóa và mỗi kỳ nhà nước phóng trái đều sẵn lòng đem bạc cho vay
nhiều, nên thưởng chức Huyện Hàm, đặng rở ràng trong hương xã.
Chữ phú đã được nay thêm chữ quý nữa, người đời phần nhiều hễ
được như vậy thì toại chí phỉ nguyền. Tú Phan là người ở trong bậc thường dân
xuất thân, nhờ vận hội may mắn được giàu, nay cũng nhờ vận hội may mắn được
sang nữa, thầm nghĩ có tiền mà không có chức thì cũng không oai, từ rày mình có
tiền mà lại có chức, giàu sang gồm đủ, sự mơ ước đã được rồi chẳng lo chi nữa.
Tú Phan lật đật sắm sửa dọn dẹp nhà mới cho xong, Ðịnh chiều chúa nhựt 20
janvier (1) sẽ thiết tiệc lớn làm lễ tân gia với tân quan luôn một bữa. Hồng
thiệp gởi đi rồi, từ bà con cho đến người quen biết, ai ai cũng đều nao nức lo
sắm lễ vật đặng đi khánh hạ.
Ngày vui đã đến, sắp đặt cũng vừa xong. Sớm mai chúa nhựt, sắp
tá điền, độ gần vài mươi người, chia nhau tốp bắc thang trèo lên mấy cửa treo cờ,
tốp đóng nọc giăng dây cùng ngoài sân đặng treo đèn.
Huỳnh Tú Phan, vừa tròn năm mươi hai, mặt dài trán rộng, râu
vuốt ngoẳng lên hai bên mép, tóc ít lại điểm bạc hoa râm, chân đi giày thêu cườm,
mình mặc áo quần lụa trắng, mắt mang kiếng gọng vàng, miệng ngậm đót mã não
(2), ra đứng trước sân coi tá điền treo đèn buộc cờ. Cửa ngỏ sắt sơn màu đỏ
lòm, mà lại còn biểu cậm tàu dừa vòng nguyệt, rồi kết bông coi cho rực rỡ thêm.
Trong nhà bàn cẩm ghế mây, cái nào cũng mới tinh, mà còn biểu lau chùi, đặng
nhìn cho thấy mặt. Trên mỗi bàn đều để một bình bông, bông thiệt cắm xen bông
giả nên mới thoáng ngó qua không biết bông nào là bông làm, bông nào là bông trồng.
Dựa mấy gốc cột đều có một chậu kiểng, chỗ nầy để bùm sụm (3), chỗ kia để càng
thăng (4), bên nầy để cau lá vàng, bên kia để đinh lăng (5) trắng. Mấy cửa sổ đều
treo màn thêu bông giấy ngang dọc.
Trong buồng, vợ Tú Phan là Ðoàn Thị Xuân, tuổi vừa 45, nước
da trắng; gương mặt tròn, đầu tóc bới thả đều, móng tay chuốc mũi viết, tay đeo
cà rá; cổ vấn dây chuyền, đương ngồi trên ván ăn trầu mà nói chuyện với mấy người
đàn bà dưới Cái Cùng lên cung hạ. Con gái Tú Phan là Huỳnh Phi Phụng, tay ôm
hai tấm màn thêu, ở trên lầu lần từng nấc thang đi xuống. Cô tuổi mới 17, nước
da trắng đỏ, đầu tóc đen huyền, hàm rãng trắng đều như hột bầu, ngón tay dài
trông như da giấy, mình mặc áo lãnh màu bông phấn, quần lụa Bom Bay6 mới tinh,
chân đi giày thêu cườm, bông tay cà rá dây chuyền đều nhận hột xoàn lóng lánh.
Cô xuống hết thang rồi mới nói với mẹ:
- Con đã kết hai tấm màn rồi đây má. Ðể đưa cho ba đặng biểu
họ treo hé.
Thị Xuân ngó hai tấm màn rồi gật đầu. Mấy người đàn bà đương
nói chuyện, ai cũng day lại ngó Phi Phụng rồi nói với Thị Xuân: "Cô hai
nay lớn dữ! Bà cũng gần làm sui rồi".
Phi Phụng nghe nói mắc cở nên ôm hai tấm màn lật đật đi ra
ngoài trước, Thị Xuân tay xỉa thuốc, mắt ngó ra cửa sổ mà đáp: "Ôi! Họ muốn
làm sui thiếu gì! Có hai ba chỗ gắm ghé, mà ba nó nói còn nhỏ nên chưa chịu gả.
Tôi có một mình nó nên cưng lắm. Ba nó nói cực chẳng đã tôi phải để cho nó đi học
trên Sài Gòn mấy nãm nay. Xưa rày tôi nói lắm mới chịu lên mà đem nó về đó
đa".
Ở dưới bếp sắp (7) Triều Châu lãnh dọn tiệc, tốp xe đồ, tốp
nhóm lửa. Nói chuyện xí xô xí xào, còn sắp gia đinh nấu cỗ Việt Nam đãi khách
đàn bà, đứa xắt thịt, đứa lặt rau chộn rộn chàng ràng như nhóm chợ.
Phi Phụng đưa hai tấm màn cho cha rồi cha con đứng coi tá điền
treo hai bên cửa buồng. Màn treo vừa rồi thì có một thầy, trạc chừng 19, 20 tuổi
gương mặt sáng rỡ, tướng đi khoan thai, mình mặc quần trắng, áo nỉ đen, cổ thắt
cà vạt màu tím; đầu đội nón trắng, chân mang giày vàng, ở ngoài cửa ngõ thủng
thẳng đi vô nhà. Phi Phụng dòm thấy, miệng chúm chím cười rồi nói với cha:
- Anh ký Linh đến kìa ba. Cha chả bữa nay ảnh diện áo quần
coi đẹp dữ.
Tú Phan dòm ra thấy Phan Duy Linh, con của người bạn thân thiết
với mình hồi trước, đương làm ký lục trong Hương Sở Bạc Liêu, rồi cũng cười, chờ
Duy Linh bước vô nhà mà hỏi:
- Bữa nay chúa nhựt cháu nghỉ hả?
- Dạ, bữa nay cháu nghỉ, nên lật đật đến cung hạ bác và ở
giúp đãi khách hầu bác.
- Ô! Được đa! Sấp nhỏ ở nhà đây nó khờ lắm, vậy cháu ở chơi đặng
coi sắp đặt dùm cho bác.
- Cô hai về hôm nào?
Phi Phụng nghe hỏi tới mình thì tay vịn ghế, mắt liếc Duy
Linh đáp:
- Em về hôm thứ ba.
- Hổm rày tôi không hay, chớ tôi dè có cô về thì tôi ra thăm
cô.
- Em muốn sai bầy trẻ cho anh hay, song em nghe ba em nói có
mời anh đến nên không dám làm rộn anh.
Duy Linh đem nón móc trên đầu nai gần cửa sổ, Phi Phụng đi lần
lại bàn cẩn để ở giữa nhà, thấy trong bình cắm ba bông huệ lộn xộn với bông vải,
bèn thò tay kéo nhánh bông huệ để vô lổ mũi mà hửi, mắt ngó theo Duy Linh.
Lúc ấy Tú Phan mắc ở ngoài cửa, Duy Linh cất nón rồi day lại
thấy Phi Phụng ngó mình liền hỏi:
- Cô học năm nay đã thi bằng cấp sơ học rồi hay chưa?
- Chưa, em còn ngồi lớp nhì, qua sang năm em đi thi mới đặng.
Mà ba với má em tính bắt ở nhà, không cho đi học nữa, thế nên em không trông
mong bằng cấp rồi.
- Bác Huyện tính như vậy cũng phải. Con nhà nghèo nàn phải học
thi lấy cho được bằng sơ học đặng đi dạy học kiếm lương ăn. Cô là con nhà giàu
sang, học để biết việc đời với người ta vậy thôi, cần gì phải có bằng cấp.
- Con người ở đời giàu nghèo mấy hồi. Nếu em học lỡ dở như vậy,
rủi sau em nghèo biết làm nghề gì nuôi miệng?
- Làm sao nghèo được. Cô khéo lo viển vông quá.
- Húy, cuộc đời dời đổi không ngừng; ai dám chắc giàu ba họ
cho được anh.
Tú Phan ngoài cửa bước vô, nghe con nói như vậy cười nói với
Duy Linh: "Quan phủ gởi đi hạ một tấm biển tốt quá. Bầy trẻ đương khiêng
vô nhà kìa".
Duy Linh với Phi Phụng ngó ra cửa thấy hai người khiêng vô một
tấm biển sơn son chữ thiếp vàng coi lộng lẫy lắm. Vô tới nhà rồi hai người
khiêng mới dựng tấm biển dựa cánh cửa rồi móc túi lấy đưa cho Tú Phan một phong
thơ. Tú Phan xé thơ coi sơ qua rồi dạy khiêng tấm biển treo trên cửa giữa ngó
vô nhà. Chừng treo rồi, ai nấy đương đứng nhắm, Phi Phụng mới hỏi cha:
- Bốn chữ lớn viết ngay giữa nói gì ba?
- Bốn chữ đó là:"phước lộc trùng lai"
- "Phước lộc trùng lai" nghĩa là gì?
- Nghĩa là phước lộc đến một lượt, ý quan Phủ muốn nói ba có
phước cất được nhà mới mà lại được chức Huyện Hàm nữa.
- Chữ Việt Nam kỳ quá, có 4 chữ mà cắt nghĩa ra dài dữ, còn
hai hàng chữ nhỏ mỗi bên đó nói giống gì vậy ba?
- Bên nầy " Huỳnh phủ đại nhơn huynh vinh thăng hàm tri
huyện chi khánh" còn bên kia "Bạc Liêu nhứt hạng Tri Phủ Trần Bá Thiện
cung hạ".
Duy Linh nghe Tú Phan đọc dứt lời liền hỏi:
- Quan Phủ mừng tân quan mà sao không mừng tân gia luôn một
lượt vậy bác há?
Tú Phan cười đáp rằng:
- Ờ, cái đó cũng kỳ; trong thiếp mời ăn tân gia với tân quan
mà không biết tại sao quan Phủ quên. Hay ổng cho nghĩa tân quan trọng hơn tân
gia nên ổng để tân quan mà thôi.
Tú Phan nói chưa dứt lời thì lại thấy họ khiêng về một bộ tranh
cẩn với một cặp lục bình lớn và đưa một phong thơ nữa. Tú Phan xé thơ coi rồi
cười mà nói với mấy người kia:
- Mấy em về nói qua cảm ơn ông Bá hộ nhé!
Tú Phan day lại nói với Duy Linh rằng:
- Ðồ nầy của Bá hộ Siêu ở dưới Trà Nho. Duy Linh dở bộ tranh ra
xem, đoạn ôm cặp lục bình để lên trên bàn. Tú Phan dạy gia đinh treo bộ tranh cẩn
trên vách rồi đứng ngắm với Duy Linh, còn Phi Phụng vô trong buồng.
Tú Phan mới nói với Duy Linh:
- Ông Phủ Thiện với Bá hộ Siêu muốn làm sui với bác nên hai
ông đi hạ đồ tốt quá?
Duy Linh nghe nói thì cúi mặt xuống đất một hồi mới nói:
- Bác có một mình cô hai, ông nào muốn làm sui thì một ông
thôi, chớ hai ông đều muốn làm sui hết sao được.
- Họ thấy bác giàu lại chỉ có một đứa con nên họ chộn rộn; nếu
bác đành chỗ nào mà gả một chỗ chớ con đâu có gả cho hết được. Mà hai nhà nầy
bác coi chưa vừa con mắt, quan Phủ sang trọng sánh với bác xứng sui gia lắm,
nhưng ngặt ông khắc bạc quá nên sợ con hết đức; thằng con ổng học không bằng ai
hết. Còn Bá hộ Siêu giàu lớn, song ông quê mùa thô tục; thằng con ông lại dốt đặc
không biết chi cả. Chắc bác không thể làm sui với ông được.
- Cô hai cũng đã trọng tuổi rồi, mà cô lại học cũng khá bởi vậy
bác có gả chỗ nào cháu tưởng cũng nên dọ ý cổ.
- Chớ sao! Con gái đời nay gả bán như lớp trước sao được, huống
chi nó có học, thuở nay đã tập quen theo tánh văn minh. Hễ bác chọn lựa xong rồi,
bác phải hỏi dọ nó lại rồi mới nhận lời với người ta chớ. Tại hai chỗ nầy bác
không ưng bụng nên bác chưa nói với nó... À hôm trước bác đi Sài Gòn về bác gặp
cha con ông hội đồng Lâm Yên ở Trà Kha. Cháu biết thằng con ông hội đồng Lâm
Yên không?
- Thưa biết.
- Ờ, nó tên gì vậy?
- Thưa tên Lâm Thủ Thiệp.
- Ông hội đồng xấu người mà ông có thằng con ngộ quá há? Ông
nói nó đi Tây học mấy năm nay đã đậu Tú Tài, không biết có thiệt như vậy không?
- Thưa, nó đậu tú tài thiệt.
- Sao cháu biết?
- Hôm tháng trước cháu có đọc nhựt trình cháu có thấy nói việc
ấy.
- Ờ, nếu vậy quý lắm. Chà chà! Ông hội đồng nầy có phước quá
há? Trông ổng muốn làm sui với bác hay sao mà bữa gặp bác, ổng hỏi thăm tuổi
con nọ. Rể như thằng đó bác đành bụng lắm a.
- Cháu nghe nói Lâm Yên bị thua quá nên trong nhà nghèo rồi.
- Hứ! Người ta giàu có, nát vỏ cũng còn bờ tre chớ, lẽ nào mà
tới hại.
- Mấy người bài bạc chẳng chắc chắn gì đâu. Họ nóng mũi trong
một sòng thì cũng đủ hết nhà.
- Phải, cháu sợ như vậy cũng phải. Mình làm sui với mấy người
bài bạc ví như họ thua thì thế nhà họ cũng chẳng cần gì đến mình, sợ là sợ thằng
rể nó giống tánh cha nó rồi nó đánh bài bạc nữa mới khổ cho mình đa.
Tú Phan nói dứt lời rồi đứng ngó Duy Linh rồi gục gặc đầu
(8). Phi Phụng trong buồng bước ra thưa ba:
- Cơm dọn rồi vậy mời ba vô ăn đặng cho anh ký ảnh ăn với. Tú
Phan dắt Duy Linh vô nhà sau ăn cơm. Duy Linh bước vô tới cửa buồng; liền chắp
tay xá Thị Xuân với mấy người khách đàn bà. Thị Xuân gật đầu rồi hỏi Duy Linh:
- Cháu lại hồi nào?
- Dạ cháu tới hồi sớm.
- Vậy mà có hay đâu!
- Dạ, nãy giờ cháu ở ngoài với bác trai.
- Cháu còn ở căn phố chỗ bác ghé hồi đó, hay là đã dọn đi ở
chỗ khác?
- Thưa, cháu còn ở đó.
Một người khách đàn bà mới hỏi Thị Xuân:
- Thầy nầy là ai mà kêu bằng cháu?
Thị Xuân cười đáp:
- Khổ dữ hôn! Mấy chị quên rồi hay sao? Nó là con chú Hương
Chánh Hiển, anh em đồng hương với nhà tôi, hồi trước làm ruộng với nhau ở dưới
Cái Cùng Ðó.
- Vậy hay sao? Trời ơi! Hồi đó còn nhỏ, bây giờ nó lớn lên
coi lạ hẳn. Từ khi hai vợ chồng ông Hương mất rồi nó có về dưới nữa đâu mà biết.
Bây giờ cháu làm việc gì ở đâu vậy cháu?
Duy Linh nghe hỏi liền đáp rằng:
- Thưa, cháu làm ký lục ngoài Sở Thương Chánh
- Cháu ăn lương bao nhiêu một tháng?
- Thưa, 30 đồng.
- Cháu có kiếm chác tiền ngoài được hay không?
Duy Linh nghe hỏi tới câu đó thì mắc cỡ nên cúi mặt xuống đất
rồi nói nho nhỏ:
- Thưa, không.
Tú Phan mới mời mấy bà ngồi chung đặng nói chuyện chung cho
vui. Tú Phan với Duy Linh ngồi trên đầu bàn, còn mấy bà với Phi Phụng ngồi dài
hai bên. Ăn cơm rồi Tú Phan dắt Duy Linh lên lầu coi cách dọn dẹp.
Trên lầu còn rực rở hơn từng dưới nữa. Kiểng để dài theo lan
can ngoài trước. Chiều đứng chơi mát mẽ vô cùng. Trên cửa giữa có treo một
khuôn biển lớn, để hai chữ "Huỳnh Phủ ", đi ngoài đường ai cũng thấy,
giữa nhà treo 20 ngọn đèn, bình sầu, bong bóng, tòng tuội (9) toàn bằng pha lê.
Hai bên vách lót hai bộ ván gõ dầy hơn một gang, giữa để một bàn cẩn mặt tròn,
cốt tiện lớn hai tay ôm không giáp. Phía trong hai bên lập hai bàn thờ, ghề chạm,
lý to, tranh sơn thủy màu tươi, hình bá huê đa dạng. Phía sau dóng hai buồng, mỗi
buồng đều có hai cửa sổ, lại để giường đồng, mùng lưới, tủ đá ty, nệm ruột gà
(10). Duy Linh xem vật nào cũng trầm trồ, đi đến đâu cũng khen ngợi. Tú Phan
nghe Duy Linh khen thì khoái chí, nên dắt đi coi cùng hết, đi từ ngoài cửa tới
trong buồng. Coi hết rồi Tú Phan ra ngồi ngoài ghế giữa vuốt râu hỏi Duy Linh:
- Bác cất nhà như vậy, cháu có nghe ai chê không?
- Trong xứ nầy có cái nhà nào bằng nhà bác đâu mà họ dám chê.
- Bác cất nhà rồi, tính lại tốn gần bốn muôn đồng, còn tiền
mua cuộc đất bác không kể đa.
- Nhà bác cất đồ sộ thiệt, mà điều tốn tiền nhiều quá.
- Ôi! Bác không có con trai, để dành tiền làm gì. Ruộng bác
đã nhiều rồi mua làm gì nữa. Tuy cất nhà tốn hao nhiều, mà hễ ruộng bác trúng đều,
bác thâu huê lợi chừng một mùa thì đủ, có hại chi mà sợ. Hồi bác tính cất nhà,
bác gái cháu theo cằn nhằn hoài. May mà bác làm bướng nên bây giờ mới có cái
nhà xứng đáng, chớ phải bác nghe lời bác gái cháu thì bây giờ làm Huyện hàm mà ở
cái nhà cũ ở dưới Cái Cùng, khó coi quá.
- Bác thiệt có phước lắm, nên bây giờ mới được như vầy.
- Ờ, đó cũng là cái mạng, đa cháu. Hồi bác 28 tuổi, con vợ
trước của bác sanh dị tâm, bác buồn rầu bỏ nó đi xuống đây, trong lưng bác có bảy
tám chục đồng, chớ nhiều nhõi gì đâu. Mà bác xuống đây cũng nhờ ông già cháu,
chớ bác sanh trưởng ở Chợ Lớn, bác có quen lớn với ai ở dưới nầy đâu. Hai vợ chồng
chú làm ăn ở Chợ Lớn không mấy khá nên mới dắt nhau xuống trước dưới nầy mướn
ruộng làm. Cách ít tháng chú về Chợ Lớn thăm bà con, chú thấy gia đạo của bác lộn
xộn chú rủ bác đi với chú. Bác xuống ở đậu với chú rồi mướn ruộng làm. Cách vài
năm bác có dư ít trăm, rồi cưới bác gái cháu bây giờ đó, lần lần lớp bác mua ruộng
thuộc, lớp bác khẩn đất hoang, vợ chồng bác cố chí gắng công nên mới làm giàu
được.
- Bác nói tại số mạng, thiệt phải. Cũng một thời đi làm ruộng
với nhau, mà bây giờ bác giàu sang còn ông thân cháu buồn rầu đến vong mạng.
- Tại số mạng chớ biết làm sao bây giờ! Hồi đó hai anh em đứng
khẩn đất mà khai phá. Ông già cháu khẩn cho tới 400 mẫu, chú khai phá gần xong
rủi bị người ta tranh, chú đi kiện mấy năm mất tiền mà đất cũng mất luôn, vợ chồng
chú sầu não đến nỗi bỏ mình chớ phải mà chú dành được 400 mẫu đất đó thì bây giờ
chú cũng giàu lớn. Ðất đó tốt quá, năm nay họ cho mướn đến 4 giạ một công.
Tú Phan với Duy Linh đương nói chuyện bỗng nghe từng dưới có
tiếng người lao xao rồi Phi Phụng lại lên nói: "Thưa ba, có thầy Cai với
hương chức dưới Cái Cùng lên, nên má biểu lên mời ba xuống nói chuyện với
khách". Tú Phan nghe nói lật đật mang giày xuống thang. Phi Phụng với Duy
Linh cũng đi xuống theo một lượt.
Tú Phan xuống lầu vừa ra tới cửa buồng, ngó thấy thầy Cai tổng
Trường với hơn mười ông hương chức ở miệt Cái Cùng thì mừng rỡ chào hỏi lăng
xăng. Tú Phan vời Cai tổng Trường ngồi tại ghế giữa, còn mời hương chức ngồi mấy
bàn hai bên. Duy Linh xuống sau cũng bước ra chào hỏi, rồi kêu gia đinh biểu
đem trầu thuốc và nước ra đãi khách. Thầy Cai uống nước rồi mới ngó hương chức
và gục gật đầu, hương chức hội ý, rồi sắp trà rượu để lên trên bàn, lại có một
tấm hoành tròng tố đỏ, chữ thêu vàng, một đôi liễn cùng chữ thêu với hai nồi
pháo. Thầy cai liếc thấy hương chức dọn rồi, thầy mới đứng dậy chắp tay nói với
Tú Phan: "Thưa ông, tôi với hương chức hay tin ông cất nhà mới đã hoàn
thành rồi mà ông lại được vinh thăng hàm Tri Huyện anh em tôi mừng quá. Hôm
nay, ông làm lễ tân quan, anh em tôi ở dưới ruộng chẳng có vật chi quý, đáng
đem làm lễ vật cung hạ ông, vậy tạm đỡ ít chục chai rượu, một tấm hoành, một
đôi liễn và ít nồi pháo đến làm lễ mừng ông với bà huyện phú quý vinh hoa trùng
trùng phúc lộc.
Tú Phan cũng chắp tay đáp: " Thầy với hương chức có lòng
tưởng đến tôi, đến uống rượu chơi với tôi cũng đủ rồi, cần gì phải đem lễ vật".
Có một ông hương chức râu dài bạc hoa râm thưa: " Bẩm quan huyện, theo
phong tục của mình thì phải có vậy mới đủ lễ". Tú Phan cười rồi biểu gia
đinh đem tấm hoành và đôi liễn đem treo lên trên vách, còn pháo với rượu đem vô
trong buồng.
Tú Phan dắt hương chức với thầy Cai đi coi nhà mới. Lên trên
lầu thầy Cai Trường thấy hai bên dọn hai bàn thờ còn chánh giữa để trống thầy mới
nói rằng: " Nếu ông mua thêm một cái tủ áo ông để chỗ nầy chắc đẹp lắm".
Tú Phan đáp rằng: "Tôi muốn biểu đem cái tủ sắt lên để
đó, ngặt bà nó cản hoài, nên tôi phải bỏ trống. Tôi tính thôi để rồi đám nầy, rồi
tôi sẽ mướn thợ đóng một cái trang thờ ông Quan Đế (11). Có một ông hương chức
thưa rằng: "Bẩm ông, ông tính như vậy thì phải lắm. Chánh giữa thờ ông
Quan Ðế, hai bên thờ ông bà trúng cách biết chừng nào". Duy Linh đứng
trong nghe mấy lời tức cười nôn ruột, song sợ thất lễ nên lấy tay bụm miệng
không dám cười. Một ông hương chức khác lại nói: "Đóng trang cũng được, bằng
không để trống như vầy coi cũng đẹp". Duy Linh lại càng tức cười hơn nữa,
song cũng không dám cười. Dắt đi coi cùng trong ngoài rồi, Tú Phan mới xuống dạy
gia đinh đem rượu cỏ-nhác (12) rót mời thầy Cai với hương chức uống.
Đồng hồ gõ 3 giờ Tú Phan thấy thầy cai đang nói chuyện với
Duy Linh, mới cáo lỗi đặng thay áo bịt khăn, bởi vì đã gần chiều rồi nên phải sửa
soạn tiếp khách. Cách một hồi Tú Phan trở ra, mình mặc một cái áo tố xanh, bông
thêu bằng chỉ bạc, lót lãnh màu hường, trong lại mặc áo trắng dài, bâu ủi cứng
mà lại cài chặt, nên cổ day qua day lại coi không được thong thả, quần nhiễu bắc
thảo mới may chưa mặc lần nào, mà bởi tại không ủi nên có mấy lằn ngang coi
không được thẳng thắn. Giầy bót chinh vàng cũng còn mới chưa mang lần nào, nên
đi trên gạch bông muốn trợt lại kêu tiếng trèo trẹo. Khăn đen bịt thật khéo,
song vì lớp nhiều quá nên chần vần một đống trên đầu coi không được thanh bai lắm.
Tú Phan lại ngồi ngang với thầy Cai rồi lấy một điếu thuốc cắm
vào ống điếu hút. Hương chức thấy ăn mặc đàng hoàng thì trong ý kính phục lắm
nên cứ ngó Tú Phan hoài. Trong nhà chủ khách nói chuyện, còn ngoài sân khách
Triều Châu dọn 5 cái bàn tròn lớn mỗi cái đều phủ vải đỏ, rồi sắp ghế mây vòng
xung quanh. Lối 4 giờ rưỡi nghe có tiếng xe hơi ngừng ngay cửa ngõ, Tú Phan dòm
ra thấy thầy hội đồng Lâm Yên đang mở cửa xe leo xuống với con trai thầy là Lâm
Thủ Hiệp, rồi đứng nói chuyện với thằng coi máy xe hơi. Thầy Cai Trường không
biết là ai, mới hỏi Tú Phan rằng:
- Ai đó, coi bộ khi cũng ở xa như tôi hay sao nên mới tới sớm
dữ vậy?
- Anh Hội Ðồng Yên ở dưới Trà Kha.
Duy Linh nghe nói tên Hội Ðồng Yên lật đật bước ra cửa mà
dòm. Hội Ðồng Yên bịt khăn Ðen, áo sa-ten (13) lót màu trứng diệt, mặc quần
Châu xá trắng, đi giày bót chinh đen, đi trước còn Thủ Hiệp mặc bộ đồ Tây nỉ
xám, mỏng, trong áo lá cũng nỉ xám, ngực lòi áo lót mồ hôi trắng có thêu bông
nho nhỏ, bâu áo cứng mà lại láng ngời, cổ thắt nơ đen. Ðầu đội nón rơm, chân
mang giày su-đê (14) lòi vớ lụa màu tím thủng thẳng đi theo sau.
Hai cha con ông hội Ðồng Yên vừa bước tới thang trước cửa thì
Tú Phan chạy ra tiếp rước vô nhà, rồi mời chung một bàn với thầy Cai, Thủ Hiệp
vừa muốn ngồi thì hội đồng Yên lay láy chỉ một bàn trống bên kia, ý muốn biểu
con qua bên đó mà ngồi, Tú Phan thấy vậy mới nói rằng:
- Ðể ông tú ổng ngồi bên nầy với mình mà. Ngồi, ngồi đó ông
tú.
Lâm Yên đáp rằng:
- Nó là con cháu đâu dám đến thế.
- Không hại gì mà. Tuy còn nhỏ tuổi, song cũng là một ông tú
tài chớ, ngồi đó ông tú, ngồi mà.
- Không nên đâu, con qua bàn bên kia ngồi chơi con. Thu Hiệp
nghe lời cha biểu như vậy liền đi qua bàn bên tay mặt. Tú Phan bất đắc dĩ phải
kêu Duy Linh cậy ngồi nói chuyện chơi với Thủ Hiệp cho vui.
Thằng coi máy xe hơi của Lâm Yên lần lần bưng đồ vô. Ai cũng
ngó coi lễ vật khinh trọng thế nào, thì thấy có 4 tấm tranh thêu, tròng bằng tơ
vàng với một bộ ly rượu cỗ với bầu bằng bạc, còn ly thì ở trong xi vàng coi thiệt
là đẹp. Lâm Yên trình lễ vật rồi ngồi uống nước với ông Cai tổng Trường và chủ
nhà.
Bên nầy Duy Linh ngồi cầm khách với Thủ Hiệp, nên phải kiếm
chuyện mà nói; với mở ra hỏi đi học bên Tây đã về hồi nào, còn tính trở qua học
nữa hay thôi. Duy Linh hỏi câu nào thì Thủ Hiệp trả lời theo câu ấy; nhưng Duy
Linh xem ý Thủ Hiệp không vui nói chuyện, cứ ngó ngoài sân, chớ không thèm ngó
mình, thì anh ta không dám hỏi nữa nên ngồi lặng thinh mà xem áo tốt của Thủ Hiệp
mà thôi.
Lần lần khách tựu tới thêm, kẻ đem rượu, người đem hoành
(15), kẻ đem pháo, người đem liễn đến mà cung hạ. Gần 6 giờ quan Phủ Trần Bá
Thiên mới đến với thầy Cai tổng sở tại, ba bốn nhị viên hội đồng địa hạt, và mấy
thầy thông ngôn ký lục. Quan Phủ lại có dắt con trai của ngài là Trần Bá Kính
theo nữa. Tú Phan và mấy người khách tới trước vừa thấy quan Phủ xuống xe lật đật
đứng dậy ra cửa đón rước. Quan Phủ mặc áo tơ thêu bông bạc, đeo mề đay một dề
phủ giáp ngực, tay cầm ba ton (16) miệng ngậm xì gà coi oai nghi lẫm liệt. Còn
Bá Kính đầu bịt khăn đen, mình mặc áo sa-ten lót, chân đi giày vàng mới, vừa đi
vô vừa cười coi bộ hớn hở lắm. Quan Phủ bước vô ai nấy đều chắp tay xá dài sát
rạt. Ngài đi ngay lại bàn giữa mà ngồi cái ghế lớn để ở trong, mặt ghế có lót nệm
bông còn sau lưng cũng có để gối thêu mà dựa. Ngài dòm thấy thầy Cai dạt ra ngồi
mấy bàn hai bên để có một mình ngài ngồi bàn giữa, còn mấy thầy hội đồng với mấy
thầy thông ký tản lạc, kẻ ngồi người đứng, kẻ ở trong nhà, người ra ngoài sân,
ngài mới kêu thầy cai và ông Phán được qua bàn giữa mà ngồi với ngài. Tú Phan với
Duy Linh chộn rộn, đi mời khách ngồi, rồi hối gia đinh đem rượu khai vị ra mà
đãi.
Quan phủ đương ngồi uống rượu, bỗng thấy mặt xã trưởng Cái
Cùng ngài kêu mà nói:
- Xã, sao mầy không lo thâu thuế mà đóng cho kho cho tất số,
lại để bê trễ dữ vậy? Quan Chánh Lớn biểu tao viết trác quở làng, mầy được trác
hay chưa?
Xã Chọn nghe quan Phủ kêu lật đật chạy lại chắp tay xá, chừng
nghe quan Phủ nói tới chuyện quan Chánh quở làng thì mặt biến sắc và nói:
- Bẩm quan lớn, xin quan lớn thương dùm làng chúng tôi.
- Thương nỗi gì? Tháng nầy mà sắc thuế còn thiếu cho tới 2
ngàn đồng!
- Bẩm quan lớn, làng tôi còn thiếu thuế nhiều là vì mấy ông
điền chủ ở xa họ không chịu đem bạc đến mà đóng! Làng chúng tôi có phúc bẩm ba
bốn lần xin quan lớn Chánh thâu dùm mà họ cũng trơ trơ, chớ phải chúng tôi dám
bê trễ đâu.
- Tưởng là còn thiếu có một sắc thuế đó mà hay sao? Thuế
đinh, thuế thoàn (17), cắc nào cũng còn thiếu hết thảy chớ.
- Bẩm quan lớn, làng tôi có thiếu thuế đinh là tại có mấy chục
dân đào (trốn) nên thâu không được.
- Thì thâu trước đi, ai biểu để trễ làm chi cho chúng nó đào?
- Bẩm quan lớn.......
- Thôi, thôi đừng bẩm chi nữa.
Xã Chọn xá quan Phủ rồi đi lại bàn ngồi coi bộ xẻn lẻn và buồn
bực lắm. Quan Phủ không thèm ngó Xã Chọn cứ bưng ly rượu mà uống, rồi day qua
nói với thầy Cai sở tại:
- Hôm thứ năm quan Chánh đi với tôi xuống Hưng Hội ngài thấy
đường xá sạch sẽ ngài khen làng ta. Nầy, sao mà thầy không coi mà biểu làng trồng
bông trước nhà hội, để bỏ đất trống cho cỏ mọc coi xấu quá vậy?
Thầy Cai thưa rằng:
- Bẩm quan lớn, hôm trước tôi có biểu làng một lần rồi mà họ
lôi thôi nên chưa chịu làm. Bẩm, để mai tôi xuống tôi biểu nữa.
- Ừ! Biểu họ làm đi. Nếu họ còn lôi thôi, thầy phúc bẩm cho
tôi đặng tôi nói với quan Chánh phạt cho họ biết chừng.
Quan Phủ vừa nói dứt lời bá hộ Siêu bước vô nhà. Tú Phan bước
lại chào hỏi. Bá hộ Siêu chắp tay xá quan Phủ, quan Phủ lật đật đứng dậy bắt
tay. Bá hộ Siêu bở ngỡ sợ nắm tay quan Phủ thất lễ; mà ngài đã đưa tay nếu mình
không chịu nắm tay thì càng lỗi hơn nữa, nên đưa hết hai tay ra nắm tay quan Phủ
còn đầu thì lại gục gặc ba bốn cái. Quan Phủ ngó ra phía sau biểu:
- Bầy trẻ trong nhà có đứa nào đó, bây nhắc thêm lại đây một
cái ghế cho ông bá hộ Siêu ngồi chút coi bây.
Sấp trai dọn dạ rân và nhắc ghế đem lại. Bá Hộ Siêu bước lui
ít bước rồi thưa:
- Bẩm quan lớn, để tôi ngồi bàn bên nầy cũng được.
Quan Phủ nói lớn:
- Không ông ngồi bên nầy nói chuyện chơi mà... Thầy cai, thầy
ngồi nới ra một chút đặng trẻ để ghế vô cho ông bá hộ ngồi với.
Bá hộ Siêu ngồi rồi trai dọn bưng lại một ly rượu để ngay trước
mặt. Tú Phan bước lại mời bá hộ uống rượu. Quan phủ nói tiếp:
- Uống đi ông bá hộ, uống đi. Nghe nói mấy năm nay ông trúng
(18) lắm phải không?
- Dạ bẩm kha khá chớ không trúng lắm.
- Hứ! Ai chia với ông mà ông sợ nói dấu.
- Bẩm, tôi đâu dám nói dấu quan lớn.
- Theo như mùa nầy ông góp được chừng bao nhiêu?
- Dạ, chừng 80 ngàn thùng.
- Dữ hông! Hôm trước tôi nói chuyện với quan Chánh, ngài hỏi
trong tỉnh nầy ai giàu, tôi có chỉ ông. Bữa nào ông có dịp đến tòa Bố lại bàn
tôi, tôi dắt trình diện với quan Chánh nghe.
- Dạ.
- Mấy tháng nay tôi không có đi dưới miệt Trà Nho. Ðể bữa nào
rảnh tôi đi xuống dưới rồi ghé nhà ông chơi.
- Dạ.
Trời tối lần lần, đèn từ trong nhà ra tới ngoài sân đều đốt đỏ.
Lại thêm trăng rằm mới mọc rọi vào cửa sáng trưng. Mấy thầy ngồi ngoài sân uống
rượu cười giỡn vang rần còn phía ngoài hàng rào người ta tụ lại đứng coi chen
nhau chật nức. Ðã vậy còn thêm xe hơi, xe ngựa, xe kéo đậu bít hết đường, còn
sau bếp sấp khách Triều Châu nấu cổ sửa soạn dọn ăn chạy tới lui lộn xộn.
Ðúng 7 giờ rượu khai vị uống xong rồi, chủ nhà dạy dọn cỗ và
mời khách nhập tiệc. Hai thầy Cai, mấy thầy Hội Ðồng, ông Phán Lược, bá hộ Siêu
với chủ nhà đều ngồi chung tại bàn giữa với quan Phủ, còn bao nhiêu khách ngồi
bàn nào tùy khách, gởi vậy kẻ ở trong nhà, người ngồi ngoài sân không biết sao
mà sắp được.
Duy Linh mắc chạy đi mời khách lăng xăng, chừng khách ngồi
xong rồi, anh ta mới đi kiếm một chỗ trống mà ngồi. Ra ngoài sân thấy có một
cái bàn có mười thầy nhỏ nhỏ ngồi còn trống tới 2 chỗ, anh ta mới lại đó ngồi
ngó vòng thấy Lâm Thủ Hiệp ngồi nghiễm nhiên ít hay nói chuyện còn Bá Kính nói
cười không dứt, nói thì chau mày vác mặc, cười há miệng vỗ bàn, khi kêu với người
ngồi xa mà hỏi, khi thúc vai người không ngồi gần mà rầy, Duy Linh cứ ngồi coi
chơi không nói chi hết.
Mãn tiệc rồi, đến lúc trai dọn rót rượu sam-banh (19) ai nấy
đều lẳng lặng trông coi quan Phủ ngài chúc mừng cho ông Huyện Hàm như thế nào.
Cách một hồi lâu, quan Phủ đứng dậy tay bưng ly rượu mắt ngó ông chủ nhà nói:
- Quan Huyện, ông đã cất được ngôi nhà tốt, mà quan trên còn
ban thưởng cho ông chức Huyện Hàm. Tôi và mấy thầy thiệt mừng vui cho ông lắm.
Vậy nên tôi thay mặt cho mấy thầy dự tiệc nầy vừa mừng ông, vừa chúc ông Khương
Ninh Phú Quý.
Quan Phủ ngừng một chút, mặt mày coi tái xanh tay bưng ly rượu
rung rung, đằng hắng một tiếng rồi nói tiếp:
- Tôi xin uống cạn ly rượu nầy để chúc mừng ông.
Quan Phủ nói dứt lời liền bưng rượu uống cạn. Hai thầy cai vỗ
tay rồi mấy bàn khác cũng vỗ tay đôm đốp.
Lúc quan Phủ tỏ lời chúc mừng thì Duy Linh với mấy thầy ngồi
ãn bàn ngoài sân chạy vào đứng dựa theo mấy cửa nghe. Chừng vỗ tay rồi Duy Linh
ngó chủ nhà trân trân, tưởng chủ nhà sẽ nói ít lời tạ ơn quan khách. Nào dè Tú
Phan không nói chi hết, bưng ly sâm-banh uống hết phân nửa, rồi day lại ngó dáo
dác, thấy Duy Linh bèn kêu mà biễu rằng: "Ký, cháu biểu bầy trẻ đi đốt
pháo đi cháu".
Duy Linh lật đật bước ra sân hô lên một tiếng rồi hơn 10 dây
pháo treo ngoài hàng rào nổ vang tai, lửa nháng đất sáng lòa, khói xông trời mù
mịt. Chủ nhà và quan khách thảy đều ra sân đứng hứng mát và xem pháo. Thủ Hiệp
chắp tay đi qua đi lại một lát ngoái đầu dòm vào nhà một cái, còn Bá Kính dắt một
thầy nhỏ nhỏ đi dọc theo chái nhà, ra phía sau rồi đứng ngoài cửa sổ nhón chân
ngó vào.
Quan khách tụ tập chỗ 5 người, chỗ 3 người mà nói chuyện,
không ai thấy cử chỉ của Thủ Hiệp với Bá Kính, chỉ một mình Duy Linh liếc thấy,
miệng chúm chím mà lòng lạnh ngắt như đồng. Duy Linh bỏ đi ra xa rồi đứng ngó
vào nhà, bỗng thấy trên lầu có hai người đứng núp mấy chậu kiểng mà xem pháo.
Bóng trăng tỏ rạng lại thêm đèn trước sân sáng lòa. Duy Linh
thấy một người mặc áo đen, một người mặc áo màu bông phấn, biết chắc người mặc
áo màu bông phấn ấy là Phi Phụng càng tức cười thầm, cười mình không tầm hoa mà
lại gặp hoa còn họ mong ngó nguyệt mà không thấy nguyệt.
Mười mấy dây pháo nổ dứt rồi, quan phủ mới từ chủ nhà về.
Quan khách cũng lần lần lui hết, chỉ còn mình Duy Linh ở lại chơi gần 11 giờ mới
về.
-------------------------------------
1 tháng giêng
2 đốt: ống điếu, mã não: loại đá ngọc quý (ambre). Ống hút
thuốc điếu bằng mã não
3 loại cây kiểng có lá độ bằng đầu ngón tay, trái ngọt, thích
ứng để cắt tỉa
4 cần thăng, càn thăng, cần lăng, cằn thăn: loại kiểng tương
tợ như cây bùm sụm nhưng có gai, cần thăng và bùm sụm là hai loại kiểng thích ứng
cho cắt tỉa
5 loại cây thuốc họ nhơn sâm, thường trồng làm kiểng.
6 thành phố của Ấn Ðộ, nổi tiếng về lụa tốt
7 một nhóm người
8 gật đầu nhiều lần tỏ ý ưng thuận
9 dãy chuỗi, girlande, guirlande
10 nệm nhún có lò so.
11 Quan công hay Quan Vân Trường trong nhóm đào viên kết
nghĩa Lưu Quan Trường thời lập Hán
12 (Cognac), rượu mạnh.
13 Satin
14 (soulier), giày hay dép
15 bức hoành, tranh
16 gậy
17 thuyền
18 trúng mùa, được mùa
19 ruợu bọt nổi tiếng của Pháp ở vùng Champagne
CHƯƠNG 2 -
Ðường từ nhà huyện hàm Tú Phan vào chợ Bạc Liêu dài chừng
1000 thước. Hai bên lề trồng cây hàng thẳng băng, nhành giao du, gốc trồi trọc,
trên lá ngữa ngang trời, dưới cỏ mọc che kín đất. Trong lòng đường đổ đá trải
kín cát, rồi cán đằng trang (20).
Ðêm đã khuya nên trên đường không còn ai đi nữa, trăng thiệt
tỏ mà mấy nhà ở dọc theo đường lại kín cửa ngủ hết. Duy Linh ra khỏi cửa ngõ
nhà ông Huyện Hàm rồi, thủng thẳn khoan bước về nhà. Ði vài chục bước ngó ngoái
lại một lần, thấy vách tường trắng toát, nóc lầu hồng hồng, trước cửa lầu ngọn
đèn sáng trưng. Sau nhà bếp dạng người còn náo nức. Bóng trăng vì nhành áng nên
chỗ mờ chỗ tỏ, cây cỏ bị gió đằng lên ngọn lắc qua lắc lại. Giọng ngâm nga nghe
tiếng dế khóc, bên chân bay sập sận (21) thấy cánh chim quơ trước mặt. Ðêm
thanh, cảnh tĩnh dầu người dũng phu tục tử cũng phải suy nghĩ bâng khuâng huống
chi Duy Linh là người học hỏi tuy tầm thường, tuổi tác tuy xung ấu (22) song
chút đỉnh đã nếm mùi trần cay đắng ít nhiều, đã thấy thế đạo gay go, nay gặp cảnh
thanh tịnh như vầy, không thể nào không cảm xúc được. Anh ta đi được một khúc
xa rồi lấy nón cặp nách và móc thuốc ra đốt hút, tay chắp sau lưng, mắt ngó xuống
đất bộ coi suy nghĩ lắm. Suy việc chi? Nghĩ việc gì? Dầu không nói ra người ta
cũng biết rồi.
Ông thân của Duy Linh là Hương Chánh Hiển vốn là người đồng
hương và là bạn thân thiết của ông Huyện Tú Phan. Ông Tú Phan gặp cảnh gia đình
biến loạn, thất chí ngã lòng rồi đi theo ông Chánh Hiển xuống dưới Cái Cùng,
anh em nương đở nhau làm ăn, nhà ở gần nhau. Hương Chánh Hiển sanh Duy Linh được
vài ba năm kế Tú Phan sanh Phi Phụng. Lúc Duy Linh với Phi Phụng còn thơ ấu thì
chơi với nhau, ra bờ kinh coi ghe chạy bườm; khi dắt nhau vô vườn chuối xé lá
che trại. Ði chơi rủi gặp mương sâu rãnh lớn Duy Linh vo quần xắn áo cõng Phi
Phụng cho khỏi lấm chân, mà gặp ổi chín me ngon Duy Linh cũng để dành cho Phi
Phụng nếm thử. Ðến chừng hai trẻ được chín mười tuổi Tú Phan với Hương Chánh Hiển
cũng đem gởi hết ở chung tại nhà thầy giáo Kỉnh trên Bạc Liêu đặng cho đứa học
trường con gái, đứa học trường con trai. Năm Duy Linh đúng 15 tuổi thi đậu vào
trường lớn nên hai đứa mới cách nhau, trai thẳng bước lên Mỹ Tho, gái lui chân
về quê quán. Trót hơn mười năm bầu bạn há chẳng yêu, chẳng mến, chẳng tưởng
nhau sao? Ðã biết cách vài năm sau Duy Linh gặp việc nhà bối rối, mẹ cha cỡi hạc,
sự nghiệp điêu tàn, phải bỏ học trở về lo tính, còn Phi Phụng phải lên Sài Gòn
vào nữ học đường, nên hai trẻ ít gặp nhau, nhưng tình dan díu vẫn còn đầm ấm
như xưa. Tuy nay lớn lên đứng ngồi ăn nói đều phải kiêng dè, song trong sự
kiêng dè ấy cũng không phai được vẻ dan díu thuở xưa.
Duy Linh thường trọng Phi Phụng như đóa hao thơm vừa mới nở,
sợ mưa sa nắng táp đổ nhụy xuống màu, thường kính Phi Phụng như cục ngọc quý đã
được trao dồi, sợ bụi đóng bùn pha mặt lì nước đục. Hôm nay, Duy Linh gặp được
Phi Phụng lòng mừng chưa thỏa, kế nghe Tú Phan kể những chuyện nhiều nơi gấm
ghé muốn kết tóc se tơ, làm Duy Linh chưng hửng sượng mặt lạnh lùng, bởi vậy
khi về một mình có thể nào suy nghĩ việc chi khác hơn là việc ấy được.
Trăng thanh gió mát mà Duy Linh nhớ tới Phi Phụng có chồng mồ
hôi rịnh hai bên màng tang ướt dầm, lật đật thúc bước về nhà, không dám nghểu
nghển một mình ngoài đường vắng. Anh ta lầm lũi đi vô tới Châu Thành, tiếng
giày khua dưới đá nghe lốp bốp, chó ngủ trước cửa nhà ở dựa đường giựt mình ra
đứng sủa om sòm. Anh ta cứ ngó xuống đất mà đi, không thèm kể đến. Lúc đi ngang
qua truờng học gặp một người đàn bà chân đi giày thêu, mình mặc áo lụa trắng, đầu
choàng khăn trắng, thấy Duy Linh mắt chăm chỉ ngó, miệng chúm chím cười mà đi.
Duy Linh không lưu tâm, cứ ngay đường đi riết.
Qua khỏi cầu, tới một dãy phố bên tay mặt Duy Linh ghé vô căn
đầu thấy trong nhà đèn còn chong trên bàn giữa. Duy Linh mới gõ cửa kêu rằng:
"Cử a! Cử, dậy mở cửa". Nghe trong nhà có tiếng "Dạ", rồi kế
cửa mở có một đứa trai chừng 15, 16 tuổi tay nắm cánh cửa, mắt leo nheo, đứng
nép một bên cho Duy Linh vào mà miệng thưa: "Thầy mới về", tiếng nghe
nhựa (23) lắm. Duy Linh không trả lời, đi thẳng lại kệ mà móc nón rồi thay áo cởi
giày.
Thằng Cử đứng sớ rớ một bên đó đặng coi thầy nó sai khiến việc
chi chăng. Duy Linh thay đồ rồi đi thẳng ra nhà sau rửa mặt; lại nói với thằng
Cử: "Thôi mầy đóng cửa rồi đi ngủ đi". Thằng Cử vâng lời ra đóng cửa,
chừng trở vô nó gặp Duy Linh rồi thưa: "Thưa thầy, tôi có nấu nước trà
nóng để trên kệ đó. Thầy có khát uống vài chén rồi sẽ nghỉ". Duy Linh đáp
rằng: "Ừ, để đó mặc tao. Mầy đi ngủ đi, đặng sáng dậy sớm đi chợ".
Thằng Cử đi ngủ, còn Duy Linh lau mặt trở ra ngoài trước xách
bình nước trà để trên kệ rót một tách. Trà nóng uống không được, bởi vậy Duy
Linh bưng tách mà đợi cho nguội mắt ngó cùng nhà, thấy bàn gỗ, mặt hột xoài để
phía trước bàn tuy nhỏ mà lau chùi sạch trơn không có chút bợn, thấy bốn cái ghế
mây để xung quanh, ghế tuy cũ mà mặt còn bằng, chân còn chắc, thấy bộ ván gõ mỏng
để dựa vách quét cũng sạch, lại thêm có để một cái gối để cho mình nằm, thấy
bàn thờ phía trong, bàn cao mà lư lại nhỏ nên coi không tương xứng. Duy Linh để
tách nước xuống, đi lại rút một cây nhang kê vào đèn đốt rồi cắm trên bàn thờ.
Anh trở lại bưng tách nước đem để trên bàn hột xoài rồi kéo ghế ngồi chống tay
ngó hai bên vách cây, ngó bên nầy thấy giấy nhựt trình dán theo vách đã cũ rồi
nên đổi màu vàng khè, day bên kia nghe tiếng ngáy khò khò, ấy là người lân cận
đương ngon giấc điệp. Tách nước nguội, Duy Linh uống xong mới vặn đèn cho thấp
ngọn rồi đi lại bộ ván nằm. Anh ta nằm ngửa, mắt nhắm lim dim, tay gác ngang
trán và nghĩ thầm: "Con Phi Phụng nãm nay đã 17 tuổi rồi chừng ấy có chồng
thì vừa, chớ còn đợi đến chừng nào nữa? Con gái như cái hoa, lúc đương nở người
ta yêu chớ lúc tàn người ta ai thèm chuộng? Lâm Thủ Hiệp học giỏi, đẹp trai đứng
ngồi tề chỉnh, văn nói nho nhã. Phi Phụng mà được một người như thế làm chồng
coi mới xứng đáng. Mà ông Tú Tài nầy coi tánh nết chắc kiêu ngạo, đã vậy ông hội
Ðồng Yên bài bạc quá lớn, sợ chẳng khỏi hết nhà. Phi Phụng thuở nay ăn ở sung
sướng, hay nói hay cười nếu nhà chồng nghèo và ông chồng nghiêm khắc chắc Phi
Phụng không vui được. Còn Trần Bá Kỉnh là con quan, ở trong nhà tôi tớ bẩm
thưa, ra ngoài tổng làng kiêng nể. Phi Phụng được một người chồng như thế, nghĩ
cũng nên mừng. Cha chả! Mà quan phủ ngài khắc bạc quá, ý muốn làm giàu cho lớn
mà không cực trí nhọc công, còn cậu con học hỏi dở dang, bộ tích lất khất, ngày
sau quan phủ hết thời, rồi cha con ắt bị chúng khi, con chẳng khỏi người ghét.
Không được, Phi Phụng không nên vào nhà ấy. Còn bá hộ Siêu, Ối! Cái thằng cha
đó kể làm gì? Giàu lớn thiệt, coi bộ cà khù quá; còn thằng con là Ba Quận ăn mặc
như du côn, giàu thì giàu chớ, ai chịu chồng như vậy? Phi Phụng nghèo lắm hay
sao mà ham tiền ưng nó?
Duy Linh nghĩ tới đó tức giận nằm không được, nên lồm cồm ngồi
dậy vấn thuốc đốt hút. Gà lối xóm tiếp nhau gáy nghe vang tai, cách xa lại nghe
có tiếng chó sủa văng vẳng. Anh ta ngồi hút thuốc mà nói thầm: "Không được,
ba chỗ đó tôi coi không được chỗ nào hết. Ðể bữa nào tôi gặp Phi Phụng tôi biểu
đừng thèm ưng thì bác Huyện gả sao được?"
Duy Linh tắt đèn rồi đi vào trong buồn tính ngủ đặng sáng đi
làm việc, chẳng dè vô nằm cứ thao thức hoài, hễ nhắm mắt thấy Phi Phụng đứng
ngay trước mặt, hễ nhớ tới Thủ Hiệp, Bá Kỉnh và Ba Quận thì nổi giận dường như
kẻ thù. Ðêm ấy Duy Linh thao thức đến 4 giờ sáng, mòn mỏi quá mới ngủ được. Mấy
bữa sau, nếu anh ta đi làm việc thì thôi, chớ hễ về nhà nhớ việc Phi Phụng sẽ
có chồng, mà nhớ rồi thì bức rức, ăn không ngon, ngủ không an. Một đêm nọ canh
khuya vắng vẻ, Duy Linh nằm trong buồng nghe tiếng đồng hồ nhỏ để ngoài bàn thờ
kêu tích tắc, anh ta nhớ Phi Phụng rồi nước mắt chảy đầm đìa, nghĩ thầm rằng nếu
mình được ở chung với Phi Phụng một nhà mà Phi Phụng đừng có chồng, thật chẳng
còn gì vui vẽ hơn nữa.
Lại một đêm khác Duy Linh cũng nằm nhớ Phi Phụng rồi nghĩ:
"Chớ chi bác Huyện gả Phi Phụng cho mình, chắc vợ chồng ăn ở với nhau hòa
thuận lắm. Ngặt mình nghèo nàn côi cút, học ít mà của không có. Bác Huyện đã
giàu mà bây giờ lại thêm sang, đời nào bác chịu gả cho mình, Ðể gả cho Tú Tài
ngồi nghiêm nhiễm, làm màu thần thánh, gả cho con quan bộ vúc vắc như Bát Hợi
(24) tái sanh, gả cho nhà giàu trí hạ để con ăn mặc như đàng điếm.
Tuy nói thì nói vậy, chớ thuở nay vợ chồng bác thương mình
như con trong nhà, hồi chưa cất nhà mới về trên nầy vợ chồng ở dưới Cái Cùng
bác gái đi chợ lần nào cũng ghé thăm mình, chớ phải là bác phụ mình sao? Mà
ngày nay bác được giàu đó cũng nhờ cha mẹ mình dẫn đường giúp bác mới được vậy?
Nếu bác gả Phi Phụng cho mình cũng được, chớ có chi nhục đâu. Mà Phi Phụng ưng
mình hay không? Có lý nào nó không ưng? Anh em gần nhau hơn 10 năm trường, mình
thương yêu nó, nó trìu mến mình, nay nếu bác gả chắc nó mừng lắm. Cha chả! Nếu
mình cưới Phi Phụng được, đừng thèm làm việc nữa làm chi, lương một tháng đôi
ba chục đồng đáng bao nhiêu, mình xin đi xuống ở dưới Cái Cùng coi ruộng đặng
làm giàu thêm cho bác nữa. Mà có đi thì đi một mình, chớ đem Phi Phụng theo muỗi
mòng cắn nó cực khổ tội nghiệp, để nó ở nhà cho sung sướng, nửa tháng hoặc là một
tháng mình về thăm nó một lần cũng được, vợ chồng là nghĩa trăm năm, ở xa cũng
vậy mà ở gần cũng vậy, chớ phải ở gần mới thương nhau sao". Duy Linh nghĩ
tới đó mặt mày hớn hở, dường như Tú Phan đã chịu gả Phi Phụng cho anh ta rồi
như vậy.
Ngày giờ thắm thoát, mới chúa nhựt đó rồi kế đến chúa nhựt nữa.
Sớm mai Duy Linh thức dậy ngồi trên ghế hút thuốc, ngó ra ngoài đường thấy
thiên hạ đi chợ dập dìu, nào đàn bà bưng rổ có đứa con nhỏ nắm vạt áo chạy
theo, nào con gái gánh lúa, tay trái đánh đòn xa coi dịu hoặc. Mặt trời tỏa
sáng, dọi mấy hột sương trên ngọn cỏ lấp loáng đỏ xanh. Gió bấc thổi hơi phất
vào mình lành lạnh. Duy Linh nhớ gần tới Tết rồi nên tính phải mua hồng cam
quýt, quét dọn bàn thờ đặng cúng quảy ông bà cha mẹ. Mà rồi anh ta lại nghĩ bữa
nay mới 22, để chừng 28, 29 đi mua cũng chẳng muộn gì, nhà có một tớ miễn là
mua đồ cúng thôi, chớ cần gì mua nhiều nên phải lo trước.
Bảy giờ rưởi thằng Cử đi chợ về. Duy Linh nhớ lại bữa chúa nhựt
trước lối giờ nầy mình đương thay áo đổi quần đi cung hạ bác Huyện. Anh ta nhớ
tới việc đó lại nhớ tới Phi Phụng. Mà nhớ tới Phi Phụng thì trong lòng thắc mắc
khó chịu, nên bỏ ra trước cửa, đứng ngó ngoài đường một hồi rồi lại trở vào nhà
đi tới đi lui, ngồi không yên mà nằm cũng không tiện. Cách một hồi anh ta thay
áo mang giày, tính đi thăm ông Huyện Hàm Tú Phan đặng lập thế dò lòng Phi Phụng
coi trong ba chỗ đương gấm ghé trao tơ, cô đành chỗ nào hay là cô chê luôn cả
ba, không ưng chỗ nào hết.
Mặt trời đã lên tới mái nhà, ngoài đường kẻ lại người qua lại
càng đông hơn nữa. Duy Linh thủng thẳng mà đi, ai dòm thấy cũng tưởng người vô
sự ngao du, chớ không dè Duy Linh mang mối tình riêng nặng trĩu trong lòng. Ở
nhà không được nên phải ra đi, mà đi đây một rủi một may, nếu may thì toại chí
vui lòng, còn nếu rủi thì ngậm cay nuốt đắng. Duy Linh ra khỏi châu thành thấy
nóc nhà lầu của Tú Phan nắng dọi đỏ lòm trong lòng khoan khoái nên xăm xăm đi
riết. Bên tay mặt nông phu đang gặt lúa xa xa, kẻ bịt trùm khăn, kẻ đội nón lá,
người mặc áo, kẻ ở trần, kẻ khum bưng, người ngóc cổ. Bên tay trái mấy nhà lá
đương dọn dẹp ăn Tết, chỗ trồng bông đỏ vàng trước cửa, chỗ phát cỏ sạch sẽ sau
hè. Khúc nầy sắp con nít tóc chớp phất phới, đứa ở truồng dông dổng đương xúm
nhau chơi dưới gốc cây. Trước kia chị đàn bà tay xách gói, tay bồng em bộ đi
xăng xái (25). Cảnh thú dường ấy nếu một người thợ khéo vẽ, hoặc một ông làm
thi hay trông thấy thì được cảm xúc rồi chắc sẽ có một bức tranh thủy mặc (26),
hoặc một bài thi ngụ ngôn chớ chẳng không. Ngặt Duy Linh không phải là thợ vẽ,
cũng không phải là thi nhân, lại bị một niềm riêng châm chích trong lòng, bởi vậy
anh ta chỉ thấy có cái nóc lầu của thành phố chớ không thấy cảnh nào nữa hết.
Duy Linh bước vô sân bụng khoan khoái mừng, song rờ ngực hồi
hộp nhảy, khi ở nhà trí tính lăng xăng nhiều chuyện, chừng đến đây lòng bối rối
không biết đến làm chi. Anh ta bước lên thang rồi vào cửa giửa, thấy nhà trước
vắng teo không có ai hết. Anh ta để nón trên bàn, vừa ngó vô cửa buồng thấy Phi
Phụng ở trong giở màn ngó ra rồi nói rằng:
- Ô kìa anh Ký!
Duy Linh miệng cười, chân phăng phăng đi lại, Phi Phụng mình
mặc áo nhiễu màu hột gà, quần hàng Bom-Bay trắng, chân mang dép trắng có kết
bông màu hường, cũng giở màn bước ra vừa cười vừa nói:
- Anh ngồi trên ghế đó anh Ký. Ngồi đó chơi.
Phi Phụng lại day mặt vô buồng kêu gia dịch biểu lên lầu lấy
thuốc đem xuống để cho Duy Linh hút. Duy Linh kéo ghế ngồi. Phi Phụng cũng ngồi
tại bộ ván dựa cửa sổ gần đó rồi nói:
- Thuốc hút đó anh Ký. Hổm nay sao anh không ra chơi?
- Ngày thường tôi mắc làm việc nên đi chơi đâu có được.
- Ô! Phải a, tôi quên nữa chớ! Mà anh làm việc ban ngày chớ
ban đêm làm việc gì? Sao chiều làm việc rồi, anh không đi thẳng ra ngoài nầy ăn
cơm ở chơi, chín mười giờ rồi về ngủ?
- Ngày thường đi chơi sao được?
- Trong chợ ra đây mà xa xôi gì?
- Bác đi đâu vắng vậy cô hai?
- Ba với má tôi đi khỏi hết.
- Hứ, đi hồi nào?
- Ba tôi đi Sài Gòn hôm qua, còn má tôi đi xuống ruộng hồi
khuya. Duy Linh trước khi ra đi tính đến đây lập thế dò thử lòng Phi Phụng coi
trong ba chỗ đương gấm ghé kết duyên với cô đó, vậy cô đành chỗ nào. Nay vô nhà
rồi, lại nghe nói vợ chồng ông Huyện Hàm đi khỏi hết ấy là một dịp rất may mắn
cho anh ta giáp mặt với Phi Phụng, thế mà trong lòng bợ ngợ, ngoài mặt sượng
sùng, không còn tính hỏi han chi hết. Duy Linh ngồi lặng thinh một hồi lâu rồi
hỏi:
- Bác Huyện đi Sài Gòn chơi hay là có chuyện chi?
- Hôm qua thầy Hội Ðồng Lâm Yên đem xe hơi lại rồi rủ ba tôi
đi Sài Gòn chơi với thầy và người con thầy. Ở nhà không việc chi nên ba tôi đi chơi.
- Hổm nay thầy Hội Ðồng Lâm Yên ra đây thường lắm hay sao?
- Hôm đãi tiệc rồi cho tới bữa nay thẩy có ghé đây hai ba lần,
lần nào thẩy cũng dắt người con thẩy theo hết. Anh có biết người con thẩy
không?
- Biết.
- Nghe nói hôm đãi tiệc cũng có người đó nữa mà, phải không
anh Ký?
- Phải.
- Họ nói người đó thi đậu Tú Tài bên Tây rồi, biết phải thiệt
hay không?
- Thiệt chớ!
- À, anh Ký, anh có hay hai ba chỗ cậy mai đi nói tôi hay
không?
- Hay.
- Ai nói cho anh hay?
- Bác Huyện nói bữa hổm.
- Nói hôm nào?
- Hôm bữa sửa soạn rồi chiêu đãi tiệc đó.
- Ba tôi nói với anh làm sao đâu, anh thuật lại nghe thử coi.
- Bác nói quan Phủ, thầy Hội Ðồng Lâm Yên, với Bá hộ Siêu, ba
người đều ngắm nghé làm sui với bác.
- Hôm tối thứ tư má tôi cũng có nói với tôi như vậy. Con quan
phủ là cậu Bá Kỉnh tôi có biết, con thầy hội đồng Lâm Yên tôi cũng ngó thấy,
còn con ông Bá hộ Siêu tôi chưa biết. Anh biết người đó hôn?
- Biết, người đó đi chợ hoài.
- Người đó ra thế nào, học trường nào vậy anh?
- Con nhà giàu, mà không có học hỏi chi hết.
- Húy! Cha chả! Có chồng mà dốt đặc ai chịu cho được.
Duy Linh nghe Phi Phụng nói như vậy cười rồi đáp:
- Người ta dốt nhưng người ta có tiền nhiều. Ðời nầy hễ có tiền
nhiều thì dại cũng hóa ra khôn, còn nghèo sát khô, dầu khôn cũng hóa ra dại, miễn
giàu cho lớn thôi cần gì hay chữ?
- Anh nói nghe kỳ quá! Giàu mà dốt đặc họ khinh bỉ lắm chớ.
- Họ khinh lén sau lưng, chớ trước mặt ai dám khinh? Vậy chớ
cô không thấy hôm đãi tiệc đó sao.
- Thấy giống gì?
- Bá hộ Siêu dốt đặc, mà ông vừa bước vô nhà quan Phủ lật đật
bước dậy nắm tay chào hỏi rồi mời ngồi chung một bàn đó sao.
Phi Phụng tức cười, Duy Linh thấy vậy cũng cười theo rồi Duy
Linh mới tiếp hỏi:
- Cô chê con ông bá hộ Siêu, còn hai người kia cô đành người
nào?
- Tại ba với má tôi liệu thế nào liệu lấy, chớ tôi có biết
đâu mà nói.
- Phải, phận con gái hễ việc vợ chồng phải để cho cha mẹ định.
Song cô là người có học, cô cũng phải suy sét mà lựa chọn, chớ nếu cô phú cho
cha mẹ, rủi cha mẹ định không vừa ý cô rồi cô mang khổ trọn đời chắc là cô ăn
năn lắm. Ví như bác Huyện biểu, cô lựa chọn người nào đâu cô nói nghe thử chơi.
Phi Phụng cúi mặt xuống, tay cạy móng cắn, Duy Linh trong
lòng bâng khuâng, ngó Phi Phụng hỏi riết, túng quá Phi Phụng mới nói: "Tôi
coi trong ba người đó, duy chỉ có con thầy hội Ðồng Lâm Yên được hơn hết".
Phận con gái hễ ai hỏi tới việc vợ chồng tự nhiên mắc cở, Phi
Phụng tuy là có học chữ Tây nên không nhút nhác như con gái thường, lại yêu mến
Duy Linh cũng như anh ruột, song cô cũng bợ ngợ không muốn bày tỏ thiệt tình.
Tại Duy Linh hỏi hoài, cực chẳng đã cô phải phát biểu cái thiệt
tình của cô ra. Chẳng dè Duy Linh nghe cô nói cặp mắt chói lòa, mồ hôi nhỏ giọt,
bao nhiêu lòng mơ ước đều tan rã như sương bị nắng khói lên trời, bởi vậy ngồi
trân trân, muốn khóc mà khóc không được, muốn cười mà cười cũng không kham. Anh
lấy làm khó chịu rồi bỏ ra ngoài. Phi Phụng thấy Duy Linh đứng dậy mà đi thì
ngó theo, song không hiểu chi hết. Duy Linh ngó ngoài đường một hồi không khóc
mà hai con mắt ướt rượt. Anh lật đật lấy khăn lau nước mắt rồi trở vô nhà. Phi
Phụng thấy Duy Linh bèn nói:
- Anh ở ăn cơm chơi anh Ký.
- Không được. Tôi thăm một chút thôi. Tôi mắc về đặng đi qua
Vĩnh Trạch có việc. Duy Linh nghĩ tới đó giọt lệ chứa chan đau lòng đòi đoạn, không
dám giận, không dám phiền ai chi hết, chỉ phiền mình nghèo, học dở, bởi vậy mà
thua sút người chớ chi mình giàu lớn như Bá Hộ Siêu quyền to như quan Phủ Thiện,
học giỏi lại đẹp trai như Lâm Thủ Thiệp, mình đủ tài, đủ trí, đủ sức, đủ lực,
mà làm cho Phi Phụng được sang giàu vinh hiển, được sung sướng trọn đời, mà Phi
Phụng chê mình để kết duyên cùng người khác mình giận mới đáng. Mà bây giờ mình
làm sao cho trở nên giàu, trở nên sang, cái thứ làm ký lục mỗi tháng được 30 đồng
bạc lương rồi tiêu xài hết 28 đồng làm sao mà giàu sang cho được? Ðã biết cha mẹ
mình có để lại cho mình 12 mẫu ruộng, huê lợi của mình mỗi nãm có 350 thùng
lúa, còn của người ta kể đến 50.000 thùng, nếu mình sánh với người ta sức của
mình như con muỗi còn sức người ta như con voi mình sánh sao cho kịp.
Duy Linh hết buồn rồi tính, hết tính rồi giận, hết giận rồi
lo, bởi vậy nằm trăn trở hoài cho đến gần 4 giờ khuya mới ngủ. Ngày Nguyên Ðán
đã đến gần Duy Linh dạy thằng Cử dọn dẹp nhà cửa lau chùi bàn thờ, rồi mấy đêm
sau anh ta mới đi mua sắm lễ, đặng cúng cha mẹ ông bà trong lúc xuân nhựt. Duy
Linh thất trí nên nhứt định ba ngày Tết đóng cửa ở nhà, không viếng thăm ai hết.
Chiều mùng một, Duy Linh nghe tiếng pháo nổ vang rân, ở chợ thấy người đi hớn hở
ngoài đường, dòm trong nhà hiu quạnh một tớ một thầy, nghĩ thân phận nghèo hèn
thua người sút bạn, anh ta lại càng buồn hơn nữa.Tuy buồn song anh ta nghĩ rằng
thiên hạ chẳng có ai có tình nghĩa chi với mình, dẫu vậy nếu mình không chúc mừng
năm mới họ cũng không trách mình được. Chí như ông Huyện Tú Phan là bạn chí
thân của cha mình thuở trước lại đãi mình rất trọng, mấy năm nay mình ở xa nên
ngày Tết mình không viếng thì ông dung chế, chớ năm nay ông về ông ở (thiếu)
Trong mấy ngày Tết anh ta đã không đi chơi mà chừng hết Tết rồi
anh ta cũng ở nhà rất ảo nảo.
Một buổi chiều thứ bảy, anh ta buồn quá nằm nhà không được
nên bận đồ mát lên chợ, tính kiếm chỗ giải khuây. Ði vừa tới chợ may gặp thầy
ký Hòa cũng đi chơi, hai người dắt nhau thủng thẳng đi dài theo mấy tiệm mà coi
hàng hóa. Ði tới nhà hàng chú Tửng, hai thầy thấy trong tủ kiếng trưng hàng hóa
rực rỡ, mới bước vào rồi lại đứng ngay cái tủ đựng cá mòi hộp đủ thứ xem, Ký
Hòa chỉ một hộp mà nói:
- Thứ đó ngon hơn hết.
Duy Linh cãi lẽ nói thứ đó không tốt, rồi chỉ một hộp khác
khen quý. Hai thầy đương cãi với nhau, bỗng đâu Bá Kỉnh bước vô nghe cãi lại
xen vô mà cãi. Bá Kỉnh chê hai thầy nói bậy cả hai rồi chỉ một thứ cá khác mà
nói thứ đó mới thiệt ngon hơn hết. Duy Linh không chịu thua cứ theo cãi hoài.
Bá Kỉnh nói rằng:
- Từ thuở nhỏ chí lớn ta đã ăn đủ thứ cá mòi, ta lại không biết
thứ nào ngon hay sao? Chú mầy nghèo mạt, tiền đâu mà có ăn tới cá mòi hộp nên
biết thứ nào ngon thứ nào dở.
Duy Linh đã có bụng ghét Bá Kỉnh, nay nhục mạ mình như vậy
nên giận run, dằn không được, nên xốc lại bộp tai Bá Kỉnh. Bá Kỉnh không chịu
nhịn nên nhảy tới thoi Duy Linh lại, may nhờ Ký Hòa với chú Tửng ra can, chớ
không còn đánh lộn với nhau nữa.
Bá Kỉnh về thuật lại cho quan Phủ nghe. Quan Phủ nổi giận rồi
biểu con làm đơn đem đến cò thưa, sang bữa sau ông cò đòi Duy Linh và Bá Kỉnh,
gạn hỏi đầu đuôi rồi dạy Duy Linh phải xin lỗi Bá Kỉnh, bằng không thì ông cò
phúc bẩm xin tòa phạt. Duy Linh yếu thế nên phải xin lỗi kẻ thua, đã bị Bá Kỉnh
nhục mạ trước, mà còn phải xin lỗi Bá Kỉnh nữa bởi vậy về nhà tức tưởi ngủ
không được.
Duy Linh nằm đêm nghĩ lại vì tại mình nghèo nên người ta
không yêu thương mình mà cũng tại mình nghèo hèn nên người ta hiếp đáp, nếu
mình muốn cho kẻ yêu người trọng mình thì phải giàu sang mới được. Mà làm sao
giàu sang cho được bây giờ? Làm vịêc quan như mình bây giờ biết chừng nào mới
giàu? Mà nếu mình xin thôi, rồi trở xuống Cái Cùng lo cày cấy 12 mẫu đất của
cha mẹ để lại dẫu mình có chịu cực cho lắm đi nữa thì bất quá đủ ăn hoặc dư dả
mà thôi, chớ cũng không giàu bằng họ đựơc. Có lẽ mình ra buôn bán họa may năm
mười năm mình mới giàu lớn được chăng. Ngặt buôn bán bây giờ không có vốn thì
làm sao khai tiệm cho được, nếu mình cậy bác Huyện Hàm giúp sức có lẽ bác sẵn
lòng, mà thà là mình chết phức đi cho rồi, chớ Phi Phụng nó đã không nghĩ tới
mình, lẽ nào mình lại còn cầu lụy tới cha mẹ nó giúp đỡ?
Bởi Duy Linh lao tâm thất chí, nên lờ đờ, lững đững, đi làm
việc mà không cố đến việc làm. Bữa nọ gần cuối tháng ông Phán Tàu giao cho Duy
Linh một cuốn sổ bán muối biểu cộng riết đặng ông lấy sổ mà ông phúc bẩm cho
quan trên. Duy Linh lòng khô héo trí lảng lơ, bởi vậy cộng xong đưa sổ cho ông
Phán Tàu gởi đi rồi chừng ông Thán dò lại thì trật hơn 5 ngàn tạ muối.
Ông Thán nổi giận rầy Duy Linh một hồi rồi lại còn vào méc với
ông chủ, làm cho ông chủ phạt Duy Linh hết nữa tháng lương.
Duy Linh nỗi lòng đã uất ức, ở đời đã bị hiếp đáp, nay làm việc
lại còn bị quở phạt nữa nên ăn hết ngon nằm hết ngủ, cứ lo mưu kiếm kế đặng làm
cho trở nên giàu sang, chắc rằng mình trở nên giàu sang tự nhiên thiên hạ yêu
thương, kính trọng hết quở trách. Anh ta tính trọn nửa tháng rồi nhứt định thục
(27) ruộng lấy bạc đặng làm vốn mua bán.
Một bữa chúa nhựt Duy Linh đi xuống Cái Cùng nói với Hương Cả
Mai mà thục ruộng. Vì 12 mẫu ruộng của Duy Linh đất tốt mà lại còn hượt lắm, bởi
vậy Duy Linh xin thục 1500 mà Hương Cả Mai lại nài biểu 2000 đồng, thầm tính rằng
Duy Linh thục quá mắc tự nhiên bán luôn chớ chẳng bao giờ chuộc lại. Duy Linh
không hiểu ý riêng của Hương Cả Mai, nên cũng chịu thục 2000 lại có bụng mừng
thầm, nghĩ rằng hễ có vốn thêm nhiều chừng nào thì mình mua bán dễ hơn chừng ấy.
Hương Cả Mai hẹn tuần sau Duy Linh xuống làm tờ rồi ổng sẽ chồng
bạc (28), Duy Linh về nhà lo tính bán đồ đạc rồi xin thôi làm việc đặng lên Sài
Gòn buôn bán. Ðến tối thứ tư, Duy Linh đương nằm tính coi bây giờ phải bán vật
gì bỗng nghe tiếng xe hõi đậu trước cửa nhà có một gia dịch của Tú Phan bước vô
thưa rằng ông Huyện Hàm mời Duy Linh ra nhà cho ông nói chuyện chi. Duy Linh muốn
kiếm cớ khiếu từ, ngặt tên gia dịch đã thấy mình nằm không, lại sẵn có xe hõi
rước nữa, không thế nào cáo từ được, nên phải thay đồ rồi lên xe đi tưởng có việc
chi quan hệ, chẳng dè Duy Linh vừa bước vô nhà Tú Phan hỏi:
- Bác nghe cháu tính bán ruộng cho Hương Cả Mai vậy chớ có
thiệt như vậy hay không?
Duy Linh đứng chưng hửng một hồi, thầm nghĩ nếu mình nói thật
cũng không ích gì, nên hỏi lại:
- Thưa, ai nói với bác rằng cháu bán ruộng?
- Ở dưới Cái Cùng họ lên họ nói.
- Có lẽ Hương Cả Mai muốn mua nên bày chuyện như vậy, chớ
cháu đâu có bán.
- Ôi, họ nói mà bác không tin, nên bác mới kêu cháu hỏi cho
chắc, có lẽ nào cháu bán ruộng mà không báo cho bác hay. Mà cháu có cần dùng tiền
làm việc chi nói với bác giúp cho, cần gì phải bán. Còn như bán ruộng đó giáp
ranh với ruộng bác, thà cháu bán cho bác còn có nghĩa hơn chớ bán cho họ uổng lắm.
- Duy Linh nghe Tú Phan nói mấy lời trong lòng ăn năn, muốn tỏ
thiệt với Tú Phan, rồi hồi việc Hương Cả Mai, để thục cho Tú Phan song anh ta
nghĩ rằng nếu nói thiệt sợ Tú Phan ngăn trở hoặc hỏi phăng tới khó tỏ chân tình
được, nên nói dối luôn:
- Họ ðặt chuyện xin bác đừng tin. Cháu có cần dùng tiền làm
việc chi đâu mà phải bán ruộng.
Duy Linh về nhà nằm tính rằng phải làm cho mau, nếu để trì
hoãn sợ bại lộ, nên chúa nhựt sau xuống Cái Cùng làm tờ thì dặn Hương cả Mai với
ba Hương chức đứng thị phải kín miệng dùm đừng cho ai biết, lấy hai ngàn đồng bạc
rồi trở về Bạc Liêu, sang bữa sau làm đơn xin thôi việc liền. Ông chủ dụt dặt
không chịu cho thôi, ông Phán Tàu có đứa cháu không có vịêc làm, đã mấy tháng
nay muốn đem nó vào sở thương chánh, song không có dịp, nay thấy Duy Linh xin
thôi lòng lấy làm đắc ý, bởi vậy ở ngoài làm mặt nhân nghĩa theo an ủi Duy
Linh, mà vô trong lại kẽ vạch với ông chủ nói rằng Duy Linh biếng nhác, bởi vậy
ông chủ mới nhận lời để Duy Linh thôi việc.
Trai vừa mới lớn lên, hễ có bạc ngàn trong lưng hay tự đắc,
Duy Linh không giống người thường, bởi vậy có bạc rồi lại càng lo tính ăn ngủ
không được. Anh ta đem bàn thờ gởi ký Hòa còn đồ đạc trong nhà bán hết, rồi trả
phố cho chủ; thằng Cử là con mồ côi muốn trọn nghĩa tớ trung, nên quyết theo
giúp đở Duy Linh, chớ không chịu về xứ. Duy Linh sắp đặt việc nhà, thâu xếp
hành lý xong rồi, bèn định sáng bửa sau xuống tàu ra Sóc Trăng rồi lên Sài Gòn.
Tớ thầy đem đồ đạc ở đậu nhà ký Hòa. Chiều bữa ấy anh ta buồn lắm nên ra nhà Tú
Phan, tính thấy mặt Phi Phụng một lần chót rồi vĩnh biệt. Duy Linh bước vô vợ
chồng Tú Phan ra mừng, còn Phi Phụng niềm nở lắm. Trong nhà dọn cơm vừa rồi, vợ
chồng Tú Phan mời Duy Linh vào ăn cơm cho nó vui. Duy Linh thấy Phi Phụng ruột
đau như cắt, mắt tức quáng gà (29) bởi vậy biểu ăn cơm thì đi, sang ngồi ăn
không nói chuyện như mấy lần trước nữa. Ăn cơm rồi, bà Huyện Hàm mắc đi xuống
nhà bếp, còn ông Huyện lại đi lên lầu, để cho Phi Phụng ngồi đó nói chuyện với
Duy Linh. Duy Linh buồn bực lại ái ngại quá, nên đứng dậy bỏ đi ra trước sân.
Trăng mới mọc, chiếu trời một góc đỏ lòm, gió thổi lao xao, lay động mấy nhành
lúc lắc. Duy Linh đương đứng suy nghĩ việc riêng của mình, bỗng nghe sau lưng
có tiếng giày đi nhè nhẹ, lật đật day lại thấy Phi Phụng vừa đi tới vừa hỏi nho
nhỏ:
- Anh có việc chi, mà coi bộ anh buồn dữ vậy anh Ký? Hồi nhỏ
anh có việc chi vui, hoặc có việc gì buồn, anh cũng có đều nói cho em biết. Sao
bây giờ anh buồn mà anh không nói cho em hay?
Giọng nói đã thanh tao, mà lời lẽ pha bi thảm làm Duy Linh cảm
xúc nên nghẹn ngào, không biết sao trả lời chỉ ứa nước mắt rồi day mặt qua chỗ
khác đáp:
- Tôi có buồn về việc chi đâu.
Duy Linh nói có mấy tiếng bỗng nghe Tú Phan ở trong nhà kêu:
- Ký a, cháu vô coi chiếc cà rá bác mới mua đây.
Phi Phụng nghe tiếng cha nên day gót trở vô nhà, Duy Linh ngẩn
ngơ lén lấy khãn lau nước mắt rồi cũng vô theo.
Duy Linh ở chơi tới chín giờ tối rồi cáo từ ôm ấp việc riêng
trong lòng, không tỏ cho ai biết hết. Ra vừa khỏi cửa nước mắt tuôn dầm dề, đi
một khúc đường suy nghĩ một hồi, ban đầu nhớ tới mấy lời Phi Phụng hỏi khi nãy
đau đớn không chịu được, nên muốn trở lại tỏ thật cho Tú Phan nghe hoặc may ra
Tú Phan có niệm tình cũ nghĩa xưa cầm ở lại gả Phi Phụng cho mình hay tỏ riêng
cho một mình Phi Phụng biết hoặc may Phi Phụng có cảm nghĩa động tình rồi trao
tơ kết tóc với mình không thèm ưng nơi nào khác. Bởi tình nặng đau lòng riêng lẽ,
nên nghĩ như vậy, nhưng yêu thương nhau phải biết tôn trọng nhau. Duy Linh
thương Phi Phụng chẳng phải vì sắc như ai, hoặc yêu vì tiền như ai, yêu là vì gần
gụi nhau đã mười mấy năm trường, thương là bởi tâm tánh đều giống nhau cũng như
ruột thịt. Bởi cái tình cao thượng như vậy, nên vừa tính trở lại tỏ thiệt nỗi
niềm, lại nghĩ rằng ví như Phi Phụng cảm nghĩa động tình chịu kết hôn với mình,
mà với cái thân phận nghèo nàn và tài hèn mọn nầy có đủ làm cho Phi Phụng vui vẻ
sang trọng trọn đời chăng? Duy Linh lắc đầu, day lại ngó nóc nhà lầu của Tú
Phan một hồi, rồi lau nước mắt đi về nhà của ký Hòa.
Sáng hôm sau, Duy Linh với thằng Cử gởi đồ xuống tàu đi Sài
Gòn, ký Hòa xuống tàu đưa, chừng tàu sửa soạn chạy Duy Linh dặn: "Anh cho
tôi gởi đồ thờ tại nhà anh trong ít ngày, chừng nào tôi có chỗ ở yên rồi tôi sẽ
cho thằng Cử về nhà chở lên. Xin anh đừng phiền cũng đừng nói cho ai biết tôi
lên Sài Gòn nghe". Ký Hòa gật đầu rồi tàu mở dây, súp lê (30) chạy tuốt.
Duy Linh đứng trên boong (31) tàu ngó lại chợ, tấm lòng chua
xót, nét mặt dàu dàu, sóng khỏa hai bên bờ ghe xuồng nhàu lộn thấy mà thương,
chưn vịt quạt ầm ầm lấp tiếng người nói chuyện nghe càng ảo não. Tàu chạy một
lát chẳng còn thấy nhà cửa chi hết, bên nầy là lá dừa lóng sóng gió thổi ngọn
cúi xuống rồi ngóc lên bên kia đồng ruộng minh mông, trời nhuộm mặt chỗ xanh chỗ
đỏ. Duy Linh trông thấy rưng rưng giọt lệ.
Ly hương giở bước đau lòng.
Tình ngao ngán tủi,
Phận long đong buồn.
Xót vì mỏng manh cánh chuồn.
-----------------------------------------
20 bằng phẳng
21 lên cao xuống thấp theo nhịp cánh: bay không giỏi
22 thơ ấu
23 kéo dài dài ngáy ngủ
24 Bát Giới, người theo Tam Tạng đi thỉnh kinh trong Tây Du
Ký
25 hăng hái
26 mực tàu hòa với nước, một bộ môn của hội họa
27 chuộc, chữ nầy sai: đã không tiền mà chuộc ruộng nữa thì
làm sao có vốn, ở đây phải có nghĩa là cầm hay cố, vì trong câu sau đã có chữ
chuộc.
28 giao tiền mặt
29 một chứng bịnh mắt, hễ tối là không thấy đường
30 soufler=thổi gió như thụt ống bễ của thợ rèn: ở ðây là thổi
còi tàu.
31 (Pont): sàn nóc tàu
CHƯƠNG 3 -
T
hường nghe thiên hạ họ dạy nhau rằng: "Người chân chánh
thì đáng yêu, còn kẻ giả dối thì đáng ghét". Chẳng hiểu vì cớ nào họ đã dạy
như vậy, mà ở đời thói giả dối ngày càng tràn lan khắp cả quan dân, còn điều
chân chánh coi ngày càng tiêu mất hết. Cha dạy con, ấy là vì sợ con dốt thiên hạ
cười, nên cần mẫn đó thôi. Con thương cha, ấy là sợ thất hiếu thiên hạ khinh
nên cực chẳng đã phải làm màu cung kính. Chồng yêu vợ, ấy là vì tiền bạc, vợ
kính chồng ấy bởi thế thần, bạn bè thân nhau, vì có ý muốn nhờ nhau, kẻ một xóm
giúp nhau, ấy là lưu tâm trông người trả. Lòng người giả dối đến nỗi người nầy
muốn nói chuyện với người khác, khi mới mở miệng phải nói trước: "Tôi nói
thiệt với anh", nhưng cũng chưa ắt những lời nói ra đó là những lời nói
thiệt.
Quan Phủ Trần Bá Thiện cậy mai tới cầu Tú Phan gả Phi Phụng
cho Bá Kỉnh, tuy quan Phủ thấy ông Huyện Hàm với bà Huyện Hàm là người hiền đức
muốn kết nghĩa sui gia, nhưng kỳ thật quan Phủ thấy Tú Phan có một đứa con gái
mà nhà tốt ruộng nhiều, nên tính kế làm giàu cho con khỏi mệt nhọc. Hội Ðồng
Lâm Yên muốn làm sui với Tú Phan, tuy nói rằng thấy Phi Phụng nết na đằm thắm
mà thương, nhưng kỳ thiệt gia thế suy đồi, tính đem bằng cấp tú tài của con đặng
phục hồi sự sản. Bá Hộ Siêu cũng vậy muốn làm sui với Tú Phan là ý muốn cho con
sau nầy được hưởng hai cái gia tài, mà ngoài môi rộn ràng dường như trọng người
hơn trọng của.
Tú Phan là người đã có nghèo trước rồi ngày nay mới được
giàu, vốn xuất thân hèn hạ, may gặp thời mà cũng nhờ tiền, nên mới được vinh hiển,
nhưng ông ít hay suy thế thái nhân tình, bởi vậy không hiểu thấu lời nói ngoài
môi không giống việc tính trong bụng, ông thấy quan Phủ quyền cao chức lớn thì
đẹp ý, ông thấy Thủ Hiệp đẹp trai học giỏi ông rất ưng lòng, mà thấy bá hộ Siêu
là đệ nhứt phú ông trong tỉnh ông cũng không muốn phụ. Ra giêng rồi, mai mối đến
hoài mà Tú Phan cứ nói rằng để thủng thẳng rồi sẽ tính; chẳng phải là Tú Phan
chê hết ba chỗ mà dụt dặt, ấy là tại ba chỗ đều xứng đáng nên không biết gả chỗ
nào. Vợ chồng Tú Phan bàn tính nhau hoài đến 3, 4 tháng cũng chưa nhứt định.
Còn ba chỗ làm sui trông đợi bao lâu cũng không mỏi trí.
Bữa nọ Tú Phan đi xuống dưới Cái Cùng đặng thăm ruộng. Bà Huyện
Hàm ở nhà thừa lúc canh khuya vắng vẻ, lại thêm giọt mưa rả rít quanh thềm bà mới
tỏ nhỏ hỏi lòng con coi trong ba chỗ, ý nó đành chỗ nào. Bà hỏi ba Quận thì nó
trề môi, hỏi Bá Kỉnh thì Phi Phụng lắc đầu, còn hỏi tới Thủ Hiệp thì làm thinh
mà nét mặt lại có vẻ mắc cở. Bà Huyện biết ý con nên không hỏi nữa. Chừng Tú Phan
về bà tỏ lại, Tú Phan ngồi một hồi suy nghĩ mà nói rằng: "Tôi cũng muốn gả
nó chỗ đó, chỉ sợ quan Phủ ngài hờn".
Bước qua đầu tháng 5 vợ chồng Tú Phan cũng chưa xác định việc
hôn nhơn cho con. Bữa nọ Tú Phan đi xuống ruộng, khi trở về gặp một đám mưa to
lớn giữa đường. Về đến nhà Tú Phan cảm mạo nằm mê man, trán nóng hầm, chân lạnh
ngắt. Bà Huyện Hàm lo sợ nên rước thầy chạy thuốc lăng xăng. Thầy thuốc Phùng
chẩn bạch rồi nói rằng: "Ông Huyện cảm nặng nhưng chẳng có chi đáng sợ, để
thầy hốt vài thang ông sẽ trổi dậy ăn cơm. Bà Huyện nghe nói vậy có bụng mừng.
Thiệt quả ông Hàm uống hai thang thuốc rồi tỉnh táo, bớt nóng, ngồi dậy nói
chuyện được, lại biết đói đòi ăn cháo nào dè uống thang thứ ba bịnh trở nặng, lại
nóng mê sảng không biết chi hết. Bà Huyện với Phi Phụng lo sợ nên vừa tảng sáng
sai gia dịch đem xe hơi đi rước ông thầy thuốc.
Ông thầy thuốc đầu bịt khãn nhiễu đen mặc áo xuyến dài, chân
đi giày hàm ếch, mắt đeo kiếng trắng, râu le the không mấy sợi, đầu bạc hoa
râm, xe tới cửa bước xuống thủng thẳng đi vô nhà, dường như đi chơi chớ không
phải đi cứu người bịnh nặng. Vô nhà rồi ông ngồi tại ghế giữa lấy thuốc lá vấn
hút, chừng thấy Bà Huyện ra chào, ông mới hỏi hưỡn đãi:
- Thưa bà, nghe bầy trẻ nó nói quan Huyện mê sảng nữa hay
sao?
Bà Huyện đáp:
- Thưa phải, không biết tại sao uống thang thuốc đêm nay nóng
vùi, nằm mê man không biết chi hết. Vậy xin thầy hút thuốc rồi lên lầu tuần mạch
lại đặng hốt thang khác thử coi.
Ông thầy gục gật đầu, song cũng ngồi hút thuốc như thường
không lật đật chi hết, bà Huyện thấy vậy bỏ vô buồng, cách một hồi lâu sai Phi
Phụng ra mời ông ra coi mạch một lần nữa, chừng ấy ông mới chịu đứng dậy theo
Phi Phụng chớ không ông cũng còn ngồi đó hoài, làm cho người ta tưởng đâu ông
ngồi được bàn tốt ghế êm nên ông không đành bỏ chỗ. Coi mạch rồi ông thầy trở
xuống cũng ngồi chỗ đó mà nói:
- Tôi đã nói ông đã cảm nặng, tuy vậy mà không hại gì, xin bà
với cô hai đừng lo, để thủng thẳng tôi trị. Tôi có gặp nhiều người bịnh nặng
hơn nữa, mà tôi cứu sống như chơi, bịnh của quan Huyện có chi khó lắm đâu mà sợ.
Bà Huyện hối gia dịch đem xe ra đưa ông thầy thuốc về rồi đợi
lấy thuốc luôn một thể. Uống thang thứ tư vô, tưởng là nhẹ được, chẳng dè bịnh
cũng như cũ, ông Huyện Hàm cũng nằm mê man hoài. Đêm ấy bà Huyện xẩn bẩn một
bên chồng, không dám ngủ, còn Phi Phụng cũng ngồi tại ghế dựa trên giường, mặt
mày buồn nghiến cặp mắt ướt dầm. Canh khuya gió thổi ngoài sân nghe vùn vụt, ngọn
đèn trên án chớp nhoáng, khi tỏ rạng khi lờ mờ. Phi Phụng bước ra ngoài rồi mở
cửa sổ sau ngó xuống bếp, gia dịch đều ngủ hết, trên trời mây giăng mù mịt,
không thấy một ngôi sao lại lúc chớp, lúc gầm làm cho người buồn lại càng thêm
tủi. Phi Phụng khép cửa sổ trở vào phòng, vừa bước tới cửa, bỗng nghe tiếng con
chim kêu trên nóc nhà làm cho cô giựt mình, Đứng ngó mẹ rồi mẹ con nhìn nhau sửng
sốt.
Phi Phụng muốn kiếm chuyện nói cho quên phức cái điềm chẳng
lành vừa mới nghe đó nên thưa mẹ:
- Thôi, mẹ đi nghỉ một chút đi, để con ngồi đây với ba.
Bà Huyện lắc đầu đáp:
- Ðể má thức, con đi nghỉ vài giờ rồi thức dậy thay cho má đi
nghỉ. Phi Phụng vâng lời rồi trở về phòng mình ngang đó. Cô ta thấy cha bịnh nặng
lo sợ quá nên nằm gát tay qua trán thao thức trằn trọc hoài. Cô lo gần rồi tính
xa, việc nầy chưa xong kế qua lo việc nọ. Cô đương ảo nảo thì bỗng nhớ tới Duy
Linh, cô mới nghĩ rằng hồi nhỏ hễ có việc chi buồn mình nói cho Duy Linh thì
Duy Linh lo cho hết. Nay việc buồn của mình lớn quá mà Duy Linh không có mặt,
nghĩ thiệt rủi không biết chừng nào. Không biết bây giờ ảnh ở đâu! Họ nói ảnh bị
con quan Phủ khinh bỉ rồi lại bị ông Phán Tàu hiếp đáp; ảnh tức chí nên mới bỏ
xứ mà đi. Họ lại nói hôm tháng ba ảnh sai thằng ở về chở đồ thờ nhưng ảnh dặn
nó, nên nó không chịu nói ảnh ở xứ nào. Có tội gì mà phải sợ dữ như vậy? Mà ví
dầu ảnh có giận họ nên ảnh không muốn cho biết chỗ ở, còn nhà mình ảnh giận hờn
điều chi sao lúc ảnh đi, ảnh không cho hay, rồi mấy tháng chẳng có thơ từ chi của
ảnh? Hay mình có làm điều chi chẳng phải ảnh giận luôn tới mình? Phải rồi, chắc
ảnh phiền cha mẹ mình giàu có mà không giúp đở cho ảnh làm ăn, để ảnh nghèo nàn
nên mới bị kẻ khinh bỉ, người hiếp đáp. Bậy quá, mấy năm nay mình không nghĩ tới
việc đó. Chớ chi mình nói với cha mẹ mình hoặc giúp vốn cho ảnh làm ăn buôn
bán, hoặc giao ruộng cho ảnh cai quản chắc ảnh có đi đâu làm chi. Mà nếu ảnh ở
gần lúc nầy chắc hẳn ảnh giúp ích cho nhà mình biết chừng nào.
Phi Phụng vừa suy nghĩ tới đó, bỗng nghe tiếng mẹ nói nhỏ bên
kia rồi lại nghe tiếng giày, nên lật đật ngồi dậy chạy qua, thấy mẹ đương bưng
nước cho cha uống. Phi Phụng lấy tay rờ trán cha rồi hỏi: "Ba bớt không
ba?" Tú Phan gật đầu rồi nằm xuống đắp mền lại. Phi Phụng không chịu đi ngủ
nữa, cứ ngồi đó với mẹ cho tới sáng.
Những người quen biết nghe nói ông Huyện Hàm đau cũng đều đến
thăm viếng nhứt là quan Phủ Thiện với hội Ðồng Yên đến thãm ngày một. Quan Phủ
nói với bà Huyện Hàm để cho ngài rước thầy thuốc Tây ra cho coi mạch rồi trị bịnh
cho ông Huyện, bởi vì ngài sợ thầy thuốc Việt Nam không thông mạch lạc, rủi phạm
thuốc rồi gỡ không ra. Bà Huyện không bằng lòng nên đáp: "Bẩm quan lớn,
ông thầy thuốc Việt Nam nầy giỏi lắm, để ổng trị thêm ít bữa nữa coi".
Quan Phủ muốn cãi nhưng nghĩ mình muốn cầu thân không nên trái ý bà chủ nhà; bởi
vậy ngài lặng thinh, không đốc rước thầy thuốc Tây nữa. Hội Ðồng Yên đến thăm lại
chỉ thầy ba Hớn dưới Cái Hưu và thầy Hương Sư Phi bên Phú Lộc nói rằng hai người
ấy có danh và hỏi bà Huyện nếu bà bằng lòng thầy sẽ cho xe rước. Bà Huyện cũng
không chịu cứ theo uống thuốc của thầy Phùng mà thôi.
Chẳng phải thuốc của thầy Phùng thiệt hay, hay là bịnh của
ông Huyện không phải là bịnh nặng, mà đau trót mười bữa rồi, ông Huyện thủng thẳng
bớt lần, miệng hôi cơm nên chưa ăn đặng, song đã hết nóng lạnh nên trổi dậy rồi
đi trong nhà như thường. Quan Phủ Thiện, hội Ðồng Lâm Yên, và bá hộ Siêu nghe
nói ông Huyện bịnh giảm áp tới thăm nữa. Duy bá hộ Siêu thấy ông Huyện chưa thiệt
mạnh nên không dám nói việc hôn nhơn, còn hai người kia lanh lợi nhắc khéo ông
Huyện. Ông Huyện cũng chưa nhứt định, nên ông phải thừa cái bịnh của ông mà
khuyên hai người kia hoãn hoãn, đợi chừng ông thiệt mạnh hẳn hay.
Con người làm việc nhiều khi coi chơn chánh lắm, nhưng kỳ
trung xảo trá vô cùng. Có lẽ ông trời thấy vậy nên dối người chơi, nên có nhiều
khi đương vui lại khiến cho người ta buồn, vừa mừng lại khiến cho sợ. Ông Huyện
Hàm bịnh giảm cả nhà đều mừng, nào dè ông ra vô được có năm bảy bữa rồi ổng nằm
lại, lần nầy coi bịnh nặng hơn lần trước nữa. Ông thầy Phùng hốt thuốc, nhưng uống
thuốc cũng như không, bịnh chẳng giảm chút nào, lại ông Huyện hễ thấy mặt vợ
con ông lắc đầu hoài rồi rưng rưng nước mắt, làm cho vợ con lo sợ không biết chừng
nào.
Một đêm nọ bịnh ổng nặng quá, ổng biết không thể sống được nữa,
nên ổng kêu vợ con lại đứng một bên rồi ổng gắng gượng mà trối: "Ông trời
biểu tôi phải theo ông theo bà thì phải chịu... Vậy nếu tôi chẳng may nhắm mắt
rồi thì mẹ nó đừng có buồn lắm, phải làm khuây khỏa mà coi sóc việc nhà, nhứt
là phải lo cho con, kẻo sau nó cực khổ tội nghiệp". Ông Huyện mới nói mấy
lới mệt quá nói không được nữa, nên ổng phải nghỉ một hồi rồi mới nói tiếp:
"Tôi đã tính gả con Phi Phụng cho Thủ Hiệp, chẳng dè trời khiến tôi chết
không kịp thấy con có chồng. Vậy hễ tôi chết rồi mẹ nó cứ gả cho Thủ Hiệp chẳng
cần phải đợi mãn tang, bởi để trì hoãn sợ quan Phủ ngài oán, rồi khổ cho mẹ nó.
Song phải đợi chôn cất tôi rồi mới nói chuyện đó, chớ không nên nói trước. Nếu
quan Phủ có trách cứ đổ thừa cho tôi, nói rằng tôi trối như vậy nên không dám
cãi. Thủ Hiệp tôi coi nó xứng với con mình lắm, bởi vậy thế nào mẹ nó cũng phải
gả cho Thủ Hiệp, chớ đừng có gả cho người khác. Thôi hai mẹ con đi nghỉ đi. Ðể
cho tôi nghỉ một chút".
Bà Huyện với Phi Phụng nước mắt chảy dầm dề, mẹ nắm tay con
khóc rấm rứt, không nói chi được hết. Ðến 5 giờ sáng ông Huyện Hàm mệt quá, bà
Huyện phải choàng tay qua cổ đở ông ngồi dốc dốc, còn Phi Phụng đứng quạt. Cách
chẳng bao lâu ông Huyện Hàm tắt thở trên tay bà, mẹ con than khóc om sòm, tôi tớ
trong nhà đều chạy vô, đứa nào xem thấy cũng đều rơi lụy.
Bà Huyện Hàm lo đám tang cho chồng thật là trọng thể. Bà xin
phép để quan tài trong nhà 8 bữa đặng cho thợ xuống Cái Cùng đắp nền bông, xây
kim tĩnh rồi cư tang chồng trong đất của mình. Bà sai người nhà đi Sài Gòn mua
đồ đạc về lo cho đám tang chẳng thua đám nào hết. Hai vợ chồng quan Phủ ra thị
sự luôn luôn, cũng như đám tang của người trong thân. Thầy hội đồng Lâm Yên
cũng dắt con lên coi sóc dùm, duy có Bá hộ Siêu đến thăm rồi về lo cổ bàn đi
phúng điếu. Bà Huyện thấy vợ chồng quan Phủ đoái tưởng làm cho đám tang rất rỡ
ràng, bà ái ngại vô cùng, nên bà không dám nói đến lời di chúc. Chừng tống táng
xong ít ngày rồi bà sẽ mời quan Phủ với thầy hội đồng đến một lượt đặng bà thuật
di ngôn của quan Huyện cho rõ ràng, để khỏi mích lòng. Bà tính như vậy là bà thật
tình, song bà sợ cũng chẳng khỏi quan Phủ phiền trách nên do dự hoài.
Ở đời có nhiều vận hội lạ lùng có khi việc đã nên, thấy trước
rồi lại hóa ra hư, việc quấy đã bày ra tỏ tường mà ai cũng cho là phải. Mà việc
quấy thiên hạ cho là phải, ấy là tại bụng người ta dua bợ chẳng luận làm gì,
chí ý việc gần mà hóa nên hư, nghĩ thiệt không biết làm sao mà liệu trước. Phi
Phụng là gái dung nhan tuấn tú, lại thêm phú quý phi phong nếu cha mẹ tính gả
chồng có lẽ nào lại gặp chồng không xứng đáng? Khiến chi có Thủ Hiệp là trai học
giỏi, khôi ngô, rồi lại thêm có Bá Kỉnh là con nhà quyền quý nữa làm cho vợ chồng
Tú Phan do dự không biết gả cho người nào. Bữa Tú Phan tắt hơi, ông có trối gả
Phi Phụng cho Thủ Hiệp, lời người chết nỡ lòng nào dám trái, mối tơ điều đã buột
Phi Phụng với Thủ Hiệp rồi, còn ai bứt nữa được. Rủi khiến Tú Phan tuy thương
con, song cũng trọng thân mình, muốn cho con có chồng xứng tài, lại muốn cho
đám tang mình được trọng thể, nên dặn vợ phải gả con cho Thủ Hiệp, nhưng lại biểu
đợi chôn cất xong rồi thì hãy nói, làm cho quan Phủ có dịp ra ơn, rồi bà Huyện
Hàm khó mà mở miệng.
Bà Huyện Hàm đợi đến đám cúng tuần 21 ngày, bà mới mời vợ chồng
quan Phủ với hội đồng Lâm Yên đến. Bà dọn cơm đãi khách xong rồi dở chuyện chồng
di ngôn phải gả Phi Phụng cho Thủ Hiệp nói lại cho khách nghe. Hội đồng Lâm Yên
nghe nói mừng thầm, nên ngồi nghiêm cẩn (32) còn miệng chum chím mà nói rằng:
- Hồi quan Huyện còn sanh tiền tôi có xin làm sui, nay dầu chẳng
may quan Huyện mất rồi, tôi chẳng dám quên lời. Vậy bà tính thế nào tôi cũng
xin vâng, chớ tôi đâu dám cãi!
Quan Phủ ngồi dựa trên ghế giữa, mặt giận coi tái xanh, không
thèm nói chi hết. Bà Phủ ngồi trên ván ăn trầu, tay mặt xĩa thuốc sống, đưa bộ
cà rá hột xoàn ra chiếu màu xanh đỏ, bà tằng hắng nói:
- Bà Huyện nói chơi hay sao, chớ có lẽ nào ông Huyện trối như
vậy, mà hổm nay không nghe ai nói hết. Lấy cái lý ra mà nói, vợ chồng tôi cậy
mai đến trước, vậy bà phải làm sui với chồng tôi mới phải chớ. Hay là bà chê vợ
chồng tôi không xứng đáng nên bà đặt chuyện gả chỗ khác cho dễ?
Bà Huyện Hàm là người ít nói, nghe mấy lời gay gắt bà khó chịu
không biết nói sao được. Cách một hồi bà mới đáp:
- Bẩm bà lớn, tôi đâu dám chê quan lớn với bà lớn. Tôi sợ phận
tôi nhỏ nhoi không dám làm sui với bà lớn chớ, nếu bà lớn thương, tôi đội ơn biết
chừng nào. Ngặt ông Huyện ổng trối như vậy nếu tôi cãi lời thì tội lỗi lắm.
Bà Huyện vừa nói dứt lời bà Phủ muốn đáp, bỗng nghe có tiếng
xe hơi ngừng ngoài ngõ, rồi lại thấy có một người trai bước xuống xe, bước vô cửa
ngõ xâm xâm đi riết vào nhà, tay lại cầm cái khăn chấm hai con mắt. Ai thấy người
lạ cũng đều ngó. Người trai ấy trạc chừng 24 hoặc 25 tuổi, nước da trắng, gương
mặt tròn, đầu cúp tóc (33), lại bịt khăn tang, mình mặc áo xuyến đen, bận quần
bố trắng mà sổ lai, chân đi đôi giày Tây đen, gió thổi bay ống quần thấy lòi
đôi vớ trắng. Người ấy bước vô cửa, thấy hội đồng Lâm Yên ngồi đó bèn chắp tay
xá rồi hỏi:
- Bẩm ông, không biết nhà nầy của ông Huyện Hàm Huỳnh Tú Phan
hay chăng?
Lâm Yên nghe bà Huyện Hàm thuật lời Tú Phan trối phải gả Phi
Phụng cho con của mình trong bụng vui mừng không xiết kể; đến chừng bà Phủ nói
gay, có ý lóng tay nghe coi bà Huyện đối đáp như thế nào, lại đương tính thầm
trong bụng đặng chừng nào bà Phủ nói động tới mình có sẵn lời đáp lại.
Bởi đương lo liệu nên có người lạ bước vô hỏi như vậy, không
vui mà trả lời; song không lẽ người ta hỏi mà làm thinh, nên liếc ngó người
trai ấy rồi đáp:
- Phải, nhà ông Huyện Hàm là nhà nầy, thầy ở đâu xa hay sao
mà hỏi vậy? Người trai gật đầu đáp:
- Thưa phải, tôi ở xa, trên Chợ Lớn.
Người trai ấy ngước mắt ngó vô trong thấy bà Phủ với bà Huyện
Hàm đương ngồi trên bộ ván dựa cửa sổ, liền cúi đầu hỏi nhỏ Lâm Yên rằng:
- Bẩm ông, hai bà ngồi đó bà nào là dì Huyện của tôi đâu, xin
ông làm ơn chỉ giùm.
Lâm Yên chúm chím cười, ngó vô trong nhà một cái rồi mới day
lại hỏi:
- Thầy không biết hay sao? bà Huyện ngồi phía trong mặc quần
đen áo trắng đó.
Người trai đó nghe nói liền bước vô; đi ngang quan Phủ không
biết ai, song cúi đầu xá ngài một cái, rồi mới đi ngay lại bộ ván xá hai bà. Bà
Huyện Hàm thấy người lạ, không biết là ai nên ngồi ngó xửng; bà vừa muốn hỏi
thì người trai ấy thưa rằng:
- Thưa dì, cha tôi đau bịnh gì mà mất, mà cha tôi mất hôm
nào, sao dì không đánh dây thép cho tôi hay, làm cho tôi không thấy mặt cha tôi
như vậy, nghĩ thật là tức tủi quá.
Người trai ấy nói mấy lời rồi đứng khóc rống lên nghe rất thảm
thiết. Cả nhà ai nấy đều chưng hửng, mà người chưng hửng nhiều hơn hết là bà
Huyện Hàm, bởi vì vợ chồng ăn ở với nhau trót 22 năm trời, biết rằng hồi trước
chồng mình có người vợ trên Chợ Lớn, nhân vì người vợ ấy trắc nết, nên chồng
mình giận bỏ xứ đi xuống Cái Cùng làm ruộng rồi sau mới gặp mình, song không
nghe nói ở với người vợ đó có con, mà sao bây giờ tên trai nầy lại đến nói như
vậy? Bà Huyện ngồi suy nghĩ không biết nói sao được. Quan Phủ bà Phủ và hội Ðồng
Lâm Yên đều chong mắt ngó bà, có ý đợi bà trả lời đặng cho biết người trai ấy
là ai.
Cách một hồi người trai ấy mới bớt khóc, bà Huyện mới hỏi rằng:
- Thầy là ai ở đâu, thuở nay tôi không biết mà sao thầy lại đến
đây mà chuyện gì lạ dữ vậy?
Người trai ấy vòng tay đáp:
- Thưa dì, tôi tên là Huỳnh Tú Cẩm, trưởng nam của cha tôi,
dì không biết mặt mà dì cũng không nghe cha tôi nói nữa sao?
- Không mà, ổng cưới tôi đã 22 năm nay, có một đứa con gái mà
thôi chớ ổng có con tí con riêng nào ở đâu.
- Thưa dì, tôi là con dòng chánh, má tôi là Lưu Mỹ Lệ. Sanh
tôi rồi cha mẹ tôi cắn đắng với nhau, cha tôi buồn rầu rồi mới giao tôi cho ông
ngoại và bà ngoại tôi nuôi, đặng rảnh chân rảnh tay đi làm ăn, vậy thuở nay cha
tôi không nói cho dì biết hay sao?
- Không. Tôi biết ổng có một người vợ trước, nhưng mà người vợ
đó không có con mà.
- Thưa có chớ! Con là tôi đây.
Bà Huyện ngồi ngẩn ngơ, liếc ngó bà Phủ rồi ngó quan Phủ với
hội đồng Lâm Yên có ý muốn hỏi coi phải làm sao mà phân giải. Bà Phủ chúm chím
cười rồi têm trầu ăn, không nói chi hết. Quan Phủ thì nhịp giày dưới gạch, day
mặt ngó ngoài sân, gục gặc đầu, coi bộ không muốn can dự tới. Còn Lâm Yên ngó
Huỳnh Tú Cẩm trân trân ý muốn bà Huyện đuổi phứt đi cho rồi, song không biết kế
chi mà bày cho được. Tú Cẩm lấy khăn lau nước mắt rồi bệu bạo nói:
- Cha tôi không muốn cho tôi về ở chung một nhà, hồi tôi còn
nhỏ biểu tôi phải ở trên Chợ Lớn đặng học, chừng tôi khôn lớn rồi lại biểu tôi ở
trển làm việc đừng có xuống dưới nầy muỗi mòng cực khổ. Lần nào về Sài Gòn cũng
cho tiền, năm ngoái lại mua đất rồi cất nhà cho tôi ở. Phải tôi dè cha tôi mạng
vắn như vầy, thì cha đâu con đó, đặng chết sống thấy mặt nhau chớ tôi có chịu ở
tư ở riêng làm chi đâu.
Tú Cẩm nói rồi lại khóc rống lên nữa. Bà Huyện ngồi lặng
thinh, mà sắc mặt coi lo lắm. Hai vợ chồng quan Phủ đứng dậy cáo từ ra về. Khi
ra tới cửa bà Phủ day lại nói với Bà Huyện:
- Chuyện bầy trẻ nhỏ đó, bà Huyện phải liệu lại, chớ nói như
vậy tôi không nghe đa.
Bà Huyện đáp rằng:
- Thưa bà lớn, tại ổng trối như vậy, bây giờ tôi cãi lời sao
được.
Bà Phủ nói với:
- Không biết bà liệu sao thì liệu lấy.
Bà Huyện trở vô nhà, khi đi ngang qua bàn giữa, hội đồng Lâm
Yên đứng dậy thưa:
- Thưa chị, tôi với quan Huyện thuở nay anh em thương nhau lắm,
vì biết tâm trí của nhau nên quan Huyện trối như vậy. Chị nghĩ đó mà coi, phận
tôi đâu dám sánh với quan Phủ, vì quan Huyện thương tôi nên phú thác việc nhà
cho tôi. Hồi nãy chị cũng đã thấy, vợ chồng quan Phủ giận lắm. Nhưng chị đừng
ngại chi hết. Việc nhà có chi uất trắc, chị chịu khó kêu trẻ kêu tôi lên tôi
tính cho, không sao đâu mà sợ. Quan Huyện đã trối như vậy mà bà Phủ hăm dọa nỗi
gì. Cha chả, có lẽ nào phải ép chị vị lòng quan Phủ mà quên lời trối của quan
Huyện được hay sao?
Bà Huyện gật đầu đáp:
- Việc đó rảnh rang để vài bữa tôi sẽ tính. Vợ chồng quan Phủ
có giận thì giận chớ tôi đâu dám cãi lời chồng tôi.
Lâm Yên nghe nói rất mừng nên cáo từ rồi cũng lên xe hơi ra về.
Bà Huyện vừa muốn xây lưng lại muốn trở vô buồng Tú Cẩm bước tới đón mà hỏi:
- Thưa dì, dì thờ cha tôi chỗ nào đâu, xin dì cho phép tôi đến
trước bàn thờ tôi lạy cha tôi?
Bà Huyện nghe nói đứng khựng, không biết sao trả lời nên bỏ lại
ván ngồi ăn trầu không nói chi hết, một lát liếc ngó Tú Cẩm một cái nhưng sắc mặt
lo lắng lắm.
Tú Cẩm thấy vậy bèn kéo ghế ra ngồi, rồi nói bệu bạo rằng:
- Sớm mai hôm qua người quen ở Sóc Trăng đi Sài Gòn gặp tôi họ
nói cha tôi mất rồi tôi mới hay. Tôi nghe tin chẳng khác nào sét đánh bên tai.
Tôi khóc gần hết nước mắt, lật đật về nấu cơm cúng rồi xé khăn tang bịt. Tôi nóng
nảy quá, tưởng là mới mất, dì còn quàng để một đôi tháng nên đêm hồi hôm tôi mướn
xe hơi đi riết xuống đây. Tôi không dè dì chôn gấp quá, thiệt tôi nghĩ chừng
nào tôi càng thêm tủi chừng ấy.
Tú Cẩm nói tới đó rồi khóc tấm tức tấm tửi, Phi Phụng ở trong
buồng lén dòm thấy khách về hết, nhưng sao lại thấy có một người trai lạ ngồi
khóc, không hiểu người ấy là ai nên đứng dựa vào cửa buồng, đứng lóng tai nghe.
Cách một hồi bà Huyện mới tằng hắng rồi nói:
- Thầy nói nghe kỳ quá, tôi không biết sao mà nói với thầy.
Tôi biết ông Huyện của tôi hồi sanh tiền không có con riêng nào hết. Vợ chồng ở
với nhau đã 20 năm trường lẽ nào ổng có con riêng mà tôi không biết. Thầy nói
sao chớ!
Tú Cẩm đáp rằng:
- Thưa dì, trong ý dì tưởng tôi giả mạo đến đây đặng tranh
gia tài hay sao?... Thưa dì, đời nầy luật pháp hẳn hòi, nếu ai có quyền hưởng
gia tài thì mới hưởng được, chớ dễ gì mà giả mạo. Tôi là con, có khai sanh,
rành rẽ chớ tôi đâu có giả mạo.
Tú Cẩm nói tới đó rồi liếc ngó bà Huyện, có ý muốn xem coi sắc
mặt bà thế nào, bà Huyện nghe nói có khai sanh rành rẽ, thì bà biến sắc trong
trí lo sợ không biết Tú Cẩm đến đây là để tranh gia tài, hay là đến có ý khác.
Vã lại không biết Tú Cẩm có quyền tranh gia tài hay không, nên bà ngồi suy nghĩ
một hồi lâu rồi bà mới nói:
- Không được, thuở nay tôi không biết thầy là ai, bây giờ ông
Huyện mất rồi thầy đến nói như vậy tôi tin sao được.
- Thưa dì, tôi là con ở xa, nghe cha chết lật đật xin phép dì
đặng tôi lạy cha tôi, mà dì không cho thiệt dì hẹp quá.
- Tôi không biết mà sao cho thầy lạy cho được.
- Thưa dì, rất đổi là người dưng nghe cha tôi chết đến điếu
bái dì còn cho lạy thay, huống chi tôi là con trong nhà?
- Phải, họ là người dưng nhưng tôi biết họ, chớ thầy tôi
không biết mà lại xưng là con tôi khó liệu quá.
- Nếu dì không cho tôi lạy cha tôi cũng không dám trách dì.
Nhưng xin dì thương phận tôi, chớ dì làm như vậy cũng tội nghiệp cho phận tôi lắm
chớ.
- Nếu thầy thiệt là con, thầy phải làm sao cho ra thiệt lẽ chớ
thầy nói ngang như vậy không được.
- Thưa dì, tôi cũng biết xét phận tôi. Dầu dì không thương dì
đuổi tôi về chớ. Ðâu tôi dám kiện thưa dì.
- Như thầy thật là con, thầy có thương thầy để bụng, chớ tôi
đâu có biết thầy là ai đâu mà nhìn thầy.
- Thôi, dì không cho tôi lạy cha thì thôi. Song dì làm phước
chỉ dùm mộ của cha tôi đặng tôi đến đó thăm một chút cũng được.
Bà Huyện ngồi suy nghĩ một hồi rồi mới đáp:
- Tôi tang ổng ở dưới ruộng; thầy biết ở đâu mà chỉ cho thầy.
- Xin dì cho người nhà dắt tôi đi.
- Không được. Dưới Cái Cùng xa lắm, chớ phải ở gần đây hay
sao?
(thiếu)
- Không phải là tôi không cho. Tôi không biết thầy là ai, tôi
làm sao dám chỉ mồ mã cho thầy.
Tú Cẩm xụ mặt coi sắc giận dữ lắm, vùng đứng dậy nói:
- Thôi, nếu muốn biết rồi sẽ biết. Thưa dì tôi về.
Tú Cẩm xá bà Huyện rồi bước ra về. Ra tới cửa anh ta đứng suy
nghĩ rồi lại trở vô nói:
- Thưa dì, con em tôi nó có ở nhà hay không. Xin dì cho tôi
thấy mặt nó một chút, kẻo xưa nay nghe cha tôi nói hoài song tôi không được biết
mặt nó.
Bà Huyện nói rằng:
- Nó đi khỏi.
Tú Cẩm mới xá nữa rồi ra đi. Bà Huyện dòm theo cho đến chừng
Tú Cẩm lên xe hơi chạy đi rồi, bà mới ngồi khoanh tay thở dài. Phi Phụng ở
trong buồng bước ra hỏi thăm coi ai lạ mặt mà xưng con như vậy, bà Huyện đem hết
tình hình thuật lại cho Phi Phụng nghe. Phi Phụng ngồi suy nghĩ giây lâu rồi mới
hỏi mẹ rằng:
- Mà thiệt má có nghe ba nói có con riêng hay không?
- Không
- Nếu không có, chắc thầy nầy thầy giả mạo chớ gì.
- Má cũng nghi lắm, nên má không cho thầy lạy và cũng không
chỉ mộ.
- Họ thấy nhà mình giàu, họ mạo xưng con cháu đặng xin tiền
chớ gì? Má đừng có tin
- Con tưởng má dại lắm sao?
- Nầy, mà người đó xưng là con của ba vậy má coi gương mặt có
giống ba chút nào hay không?
- Má coi kỹ lắm, ba con mặt dài, còn thầy nầy mặt tròn như vậy
giống nỗi gì, chân tóc, cánh tay, chân mày, bàn tay không có chỗ nào giống hết
và tướng đi giọng nói cũng khác nữa.
- Má nhìn thiệt kỹ hay không?
- Kỹ lắm chớ.
- Nếu không giống mà xưng con nỗi gì!
-Bà Huyện cười xong trong trí cũng không được yên nên đứng dậy
đi vô buồng nằm liền.
------------------------------
32 trang nghiêm, cẩn thận
33 (couper), cắt, hớt tóc
CHƯƠNG 4 -
Ở Tòa bố đi lại tòa án, đi chừng nửa đường, thấy bên tay trái
có một cái nhà trệt năm căn, nền xây, nóc cũ, trước sân có mấy cây gáo lớn, sau
hè có một dãy nhà nhỏ, hai bên có trồng mấy hàng lan trổ bông đỏ, đó là dinh của
quan Phủ Trần Bá Thiện.
Trời vừa đứng bóng, trong nhà Bá Kỉnh xếp tay sau lưng, đi
qua đi lại miệng hút gió. Ngoài thềm có một tên lính đương ngồi, trước cửa ngõ
con chó cò (chó trắng) nằm dưới bóng lim; con chó cò thấy Bá Kỉnh đứng dậy ngoắc
đuôi chạy theo mừng, tên lính lật đật chạy ra xá còn Bá Kỉnh mon men đứng ra
trước thềm miệng cười ngỏn ngoẻn, mắt liếc cha mẹ, tuy không hỏi, song ý muốn
biết coi cha mẹ ra nhà bà Huyện Hàm, vậy đã tính việc hôn nhơn của mình xong
hay chưa.
Quan Phủ về nhà lột khăn để trên bàn rồi đi thẳng lại ghế giữa
ngồi. Bà Phủ đi lại bộ ván lót dựa cửa sổ và lấy trầu têm và nói:
- Con mẹ mới học mặt làm giọng sang, giọng nó nói nghe phát
ghét. Nó lại dám khinh thị mình nữa chớ! Tôi đã nói với ông rồi đa, tôi không
thèm làm sui với con mẹ nhà Huyện Phán đâu.
- Cha chả! Mình như vầy mà nó dám chê để gả nó cho quân cờ bạc!
Thôi, đừng thèm, thiếu gì con nhà giàu sang bằng mười nó, nó tưởng mình cầu nó
hay sao? Nầy ông phải tính sao đặng rửa hờn, chớ để nó khinh dể mình như vậy xấu
hổ lắm, nói cho ông biết.
Quan Phủ vuốt râu nói:
- Ðể đó cho tôi mà, để tôi làm cho nó biết sức tôi. Bếp, ra
biểu đây! Tên lính nghe kêu dạ rân lật đật chạy ra. Quan Phủ mới dạy:
- Lát nữa mầy đi lên trên nhà khách hoặc đi ra ngoài chợ kiếm
coi có cái xe hơi số G.C208 đậu đâu hay không. Như mầy kiếm được mầy mời người
đi xe đó tên là Huỳnh Tú Cẩm vô đây cho tao nói chuyện, nhớ không?
Tên lính dạ, đoạn xá quan Phủ ra đi. Tới ba giờ chiều Tú Cẩm
ngừng xe hơi ngay cửa quan Phủ và vội vàng đi vô nhà. Quan Phủ ngồi trong ngó
thấy lật đật ra cửa tiếp rước niềm nở lắm. Quan Phủ mời ngồi rồi hỏi:
- Sao? Bà Huyện tính dắt thầy xuống thăm mộ ông Huyện hay
không?
- Thưa, không.
- Hứ, sao vậy?
- Thưa, dì tôi không muốn nhìn biết tôi. Rất đỗi là tôi xin lạy
cha tôi còn không cho thay, huống chi là dắt đi thăm mộ.
- Tình cha con người ta, có lý nào bà Huyện lại không nghĩ đến.
- Thưa, tôi nãn nỉ hết sức mà dì tôi không cho tôi lạy. Bà Phủ
đương ngủ trưa trong buồng, nghe nói chuyện giựt mình thức dậy đi ra, không kịp
rửa mặt nên tóc xụ hai bên lổ tai, mặt còn sật sừ. Bà chào Tú Cẩm và kêu đứa ở
lấy khăn nước đem ra cho bà lau mặt. Bà vén tóc lên để lau, và nói với Tú Cẩm:
- Bà Huyện ở ác thiệt! Cha người ta mất đã không chịu đánh
dây thép, hoặc sai người đi nói cho người ta hay, bây giờ người ta tìm đến, lại
không chịu cho người ta lạy, coi còn ai nhẫn tâm như thế hay không?
Quan Phủ tiếp nói:
- Tôi là anh em bạn thiết của ông Huyện. Thuở nay ông Huyện
có việc gì cũng đều nhờ tôi hết thảy. Có tôi giúp nên mới được chức Huyện Hàm
đó đa. Hồi trước ông Huyện thường nói với tôi rằng ổng có một người con trai đầu
lòng ở trên Chợ Lớn. Tôi có khuyên ổng đem về nhà mà nuôi. Ông nói bà Huyện khó
lắm nên ổng không dám. Thiệt bây giờ tôi mới biết bụng của bà Huyện. Hèn chi
ông Huyện không dám nhìn thầy cũng phải lắm mà!
Tú Cẩm ngồi ngó quan Phủ, bộ coi ra lo lắm.
Bà Phủ lại nói:
- Tình cha con người ta mà ở vậy coi tức quá! Hay là bà Huyện
sợ thầy giành gia tài?
Tú Cẩm ngó bà Phủ trân trân, song cũng không trả lời. Quan Phủ
lại tiếp nói:
- Bà Huyện sợ liệu khỏi hay sao? Sự nghiệp của cha người ta tự
nhiên phải chia cho người ta hưởng với, chớ bả giành ăn hết một mình được hay
sao? Ôi! Mà hồi trước ông Huyện có làm khai sanh cho thầy đủ phép hay không?
- Thưa, có.
- À! Nếu thầy có khai sanh tự nhiên phải chia gia tài cho thầy
chớ. Nếu bà Huyện không chịu thầy làm đơn kiện đi. Tôi chỉ dùm cho, không hại
chi đâu mà sợ, tức người ta quá mà!.
Tú Cẩm nhớ tới những lời hội đồng Lâm Yên nói với bà Huyện Tú
Phan hồi sớm mai thì biết quan Phủ xúi kiện ấy là vì bà Huyện không chịu làm
sui với ngài, để làm sui với Lâm Yên ngài giận. Tú Cẩm muốn thừa cơ hội đặng lập
thêm vi kiến (vây cánh), song lại nghĩ rằng quan Phủ tử tế với mình đây là ngài
muốn cậy tay trả oán riêng dùm ngài, chớ không phải ngài động tâm vì nghĩa, người
dường ấy dù thế lực bao lớn, dẫu trí thức bao nhiêu cũng chẳng nên tin cậy lắm.
Vã lại, người ta là người quyền thế trong tỉnh, lại có tính hẹp lượng, hễ ai
làm sai ý thì giận dữ, ai làm mất lợi thì thù hằn nay ngài nói theo mình coi dễ
lắm, sợ mai ngài nói theo bà Huyện cũng chẳng khó gì, người dường ấy mình cũng
chẳng nên làm mích bụng. Tú Cẩm nghĩ như vậy rồi thưa:
- Thưa, tôi đến đây tứ cố vô thân, quan lớn có lòng thương
tôi đội ơn hằng ngày. Ngặt là vì tôi phận làm con! Cha tôi mới mất, nấm mồ chưa
khô, dầu dì tôi không thương tôi cũng phải chịu chớ tôi đâu dám sanh sự thưa kiện.
Ðể thủng thẳng tôi cậy quan lớn với bà lớn làm ơn nói dùm, có lẽ lần lần hoặc
may dì tôi hồi tâm mà thương tôi chăng.
Bà Phủ gật đầu đáp:
- Nói như thầy vậy phải đa. Ði kiện bây giờ đã hao tốn lại
còn mang tiếng không tốt. Thôi, để ít ngày rồi vợ chồng tôi nói giúp cho, nhưng
bây giờ thầy tính đi về hay còn ở dưới nầy chơi?
- Thưa bà lớn, tôi xuống Cái Cùng tìm viếng mộ của cha tôi
vài bữa rồi tôi sẽ
về.
- Ồ, nếu thầy còn ở dưới nầy, vậy để chiều hoặc mai tôi ra
nói dùm với bà Huyện thử coi. Thôi, chừng thầy ở Cái Cùng về, thầy ghé đây tôi
trả lời cho.
- Dạ, nếu quan lớn với bà lớn nói giúp dùm cho tôi, tôi đội
ơn ngàn ngày. Tú Cẩm ra đi rồi, vợ chồng quan Phủ mới bàn với nhau tính dùng Tú
Cẩm đặng hăm dọa Huyện Phan, nếu bà sợ Tú Cẩm dành gia tài bà khứng làm sui với
mình đặng cậy thế mình sẽ hăm dọa Tú Cẩm lại rồi biểu bà Huyện cho nó năm ba
trăm đồng bạc thôi, còn như bà Huyện không chịu làm sui thì dầu bà có nhìn Tú Cẩm
hay không nhìn mình cũng xúi Tú Cẩm đi kiện đặng bà Huyện bái xái chơi cho bỏ
ghét.
Sáng bữa sau, bà Phủ ra nhà bà Huyện Hàm vừa mới bước vô cửa
bà làm bộ bơ lơ bãi bãi nói rằng:
- Bà Huyện chu chã! Việc đã tùm lum mà sao bà ngồi ở nhà đó?
Bà Huyện lật đật đứng dậy chào và hỏi rằng:
- Thưa có việc chi mà tùm lum?
Bà Phủ ngồi rồi đáp:
- Vậy chớ bà tính với người trai hôm đó làm sao bây giờ nó cậy
đến ông Phủ đặng làm đơn dùm đặng nó đến tòa kiện bà xin tòa giao gia tài hết
cho nó.
- Thưa, nó muốn kiện tự nó, chớ tôi có tính việc gì với nó
đâu.
- Bà nói như vậy sao được.
- Thưa, chớ tôi biết nói sao bây giờ? Thuở nay tôi không biết
nó là ai, nay ổng mất rồi nó đến xưng là con riêng của ổng, tôi có biết nó thiệt
hay giả mà nhìn.
Bà Phủ lết lại ngồi gần bà Huyện và nói nhỏ:
- Nầy, nó có khai sanh và thơ từ của ông Huyện cho ông Phủ
coi đủ hết. Thiệt nó là con riêng của ông Huyện chớ đâu phải là giả mạo đâu.
Ông Phủ thấy nó khóc lóc năn nỉ thì động lòng nên coi ý ổng muốn giúp nó để kiện
bà. Vậy phải liệu thế nào, chớ để nếu nó vào đơn rồi khó gở lắm đa.
- Nó muốn kiện thì kiện, tôi có sợ chi đâu. Ai cũng biết vợ
chồng tôi làm cháy da phỏng trán mới có được gia sản chút đỉnh nầy. Nay rủi ổng
qua đời rồi mẹ con tôi tưởng; dầu có thiệt là con riêng của ổng đi nữa, có công
lao gì mà bây giờ lại tranh? Quan tòa công bình lắm, nó có kiện thì kiện chớ có
lý nào tòa lại dạy tôi phải giao gia tài cho nó được.
- Bà không hiểu lề luật, bà nói ngang quá! Theo luật bây giờ
hễ của cha là con hưởng, nếu bà có giỏi lắm bất quá bà dành lại chừng phân nửa
là phần thật con hai đó thôi, bề nào bà cũng phải chia cho nó nửa.
- Có được đâu.
- Theo luật bà cãi sao được?
- Ruộng đất của tôi, nhà cửa cũng của tôi, ai làm sao dành được?
- Ô, thôi, bà để rồi bà coi.
- Thưa, tôi không sợ chi hết.
- Bà Phủ hăm dọa quá song vẫn thấy bà Huyện không nao núng, không
biết tính sao, nên suy nghĩ một hồi rồi nói ngọt:
- Nầy, Bà Huyện, bà nói như vậy tôi nghĩ cũng phải đôi chút.
Nhưng bà phải xét lại, chớ theo ý tôi hễ kiện thưa đã thất công lại hao tốn của
bà lắm chớ không phải dễ. Vậy là thà bà liệu kế nào tính cho êm chẳng hay hơn
sao.
- Người ta muốn kiện, tôi biết làm sao cản được.
- Tôi biết bây giờ có một mình ông Phủ ổng cản được? Ngặt hôm
qua bà nói chuyện đó ông Phủ ổng phiền quá, bây giờ tôi có dám nói với ổng đâu.
- Thưa, hồi ông Huyện tôi còn sanh tiền quan Phủ ăn ở tử tế với
quan Huyện tôi quá? Có lý nào ông Huyện tôi mới mất quan Phủ lại đành giúp
thiên hạ đoạt sự nghiệp của tôi sao?
- Ừ, tôi cũng có nói với ổng như bà mới nói đó. Song ổng trả
lời rằng bà là chị em còn thằng kia là con cháu nó cũng là máu thịt của ông Huyện;
nay bà giàu có, bà không chịu nhìn nhận nó, để nó nghèo cực cũng tủi bụng của
ông Huyện dưới cữu tuyền, bởi vậy nếu bà muốn hòa, bà nên chịu khó vô nói phải
trái với ổng đôi lời rồi hứa làm sui tôi chắc ổng hết phiền bà nữa, mà hễ ổng
không dự thì thằng kia không dám kiện. Bà tính lại đi.
- Thưa, sự làm sui ông Huyện đã có trối như vậy, tôi đâu dám
cãi lời.
- Ối, lúc hấp hối ông Huyện ổng nói càn, hơi nào bà nghe
theo.
- Thưa không được. Lời trối của chồng nếu mình cải đi, ngày
sau mình chết xuống cữu tuyền còn mặt mũi nào thấy chồng nữa.
- Nếu vậy bà nhứt định làm sui với thằng hội đồng Lâm Yên thật
hay sao?
- Thưa, tôi phải làm theo lời chồng tôi dặn.
- À, nếu vậy thì tại bà, ngày sau chị em khỏi trách nhau. Bà
Phủ biết nói không được nữa, nên làm giận đứng dậy cáo từ ra về. Một vị tri Phủ
trong tỉnh, quan trên ngó xuống thì yêu chuộng, dân dưới dòm lên thì kính sợ,
muốn việc gì cũng được hết, chẳng ai dám ngăn trở, tính việc gì cũng được hết
chẳng ai dám cãi lẽ. Thuở nay được ngôn tính kế tùng đó quen rồi, nên tưởng
mình cũng như thần thánh ai có món ngon vật quý đều phải đem nộp dâng; tưởng bạc
vàng ruộng đất của dân sự ấy là của mình hễ chừng nào mình muốn họ phải sớt
chia cho. Tâm tính của vợ chồng quan Phủ như vậy, nên tính làm sui với Huyện
Hàm Tú Phan mà tính không xong, tự nhiên tức giận, không thể nào nguôi ngoai được.
Tưởng lại trong lúc ấy nếu có một nhà giàu nào giàu hơn nhà Tú Phan và con gái
lại dung nhan đẹp đẽ hơn Phi Phụng, Ðến xin làm sui với quan Phủ đi nữa, chắc vợ
chồng quan Phủ chịu liền, chẳng hề tiếc Phi Phụng một chút nào hết, nhưng dầu kết
được thông gia với nhà khác, giàu hơn, sang hơn tuy vui mừng thật, song trong
lòng vẫn chẳng hết giận bà Huyện Phan được.
Tức! Tức lắm! Cách vài năm trước dòm thấy Tú Phan giàu lớn mà
có một đứa con gái thôi, vợ chồng quan Phủ tính kết sui gia đặng cho con mình
ngày sau được sung sướng. Muốn sui gia đồng bực, khỏi ai cười dưới trèo lên,
trên với xuống, nên bày mưu thiết kế đặng làm cho Tú Phan được chức Huyện Hàm,
theo người khác cái công ắt có lợi nhiều, nhưng với ông Phủ, vì muốn bắt cá lớn
nên chẳng nệ công ngồi câu, bởi
vậy cho nên không có lợi gì, mà trong bụng mừng thầm chắc rằng
cái nghĩa ấy ngày sau sẽ có lợi lớn. Nào dè công ngồi câu mệt nhọc cá vẫn vơ
không chịu táp mồi lại còn nhảy vào rổ của người câu khác.
Cái giận mất oai, tuy cũng giận, song giận bề ngoài, chớ cái
giận mất lợi thì giận thấu xương, vậy giận rồi sanh oán. Tánh tình người thiếu
đức dục đều giống như vậy hết, duy người biết liêm sĩ, trọng danh dự mới không
vì danh lợi mà giận, có giận là giận người làm cho mình phạm nghĩa hoặc động đến
danh giá của mình thôi. Vợ chồng quan Phủ hầm hầm, trông cho Tú Cẩm trở về đặng
xúi Tú Cẩm đi kiện để làm hại bà Huyện Hàm chơi cho bỏ ghét.
Cách hai bữa Tú Cẩm đi Cái Cùng ghé ý muốn dọ coi bà Huyện liệu
lẽ thế nào. Bà Phủ nói rằng bà đã nói giúp hết lời, nhưng bà Huyện Hàm nằng nặc
quyết không chịu nhìn biết Tú Cẩm. Bà nhắc tới chuyện đó bà giận thiệt, nên
luôn dịp ấy bà mới xúi Tú Cẩm đi kiện. Tuy Tú Cẩm biết bà giận đó không chắc giận
dùm việc của mình, song cũng dạ dạ cầm chừng, nói rằng để về Chợ Lớn ít bữa sắp
đặt viêc nhà xong sẽ tính việc thưa kiện.
Tú Cẩm qua Sóc Trăng giao tờ khai sanh cho trạng sư, rồi mướn
làm đơn kiện bà Huyện Tú Phan, xin tòa phải dạy niêm yết hết tài sản và lên án
giao lại cho mình hưởng. Bà Huyện Hàm ỷ lại tài sản của chồng để lại là tài sản
của vợ chồng làm ra, bà chắc ý không ai tranh được, nên bà chẳng sợ chi hết. Bà
vâng theo lời trối của chồng nên bà định ngày rồi cho hội đồng Lâm Yên đi hỏi,
song vì trong nhà có tang, bà không muốn làm rình rang nên bà xin họ đàng trai
đi ít người trong thân thôi, chớ đừng có mời đông người.
Còn 5 ngày nữa mới tới đám hỏi, bỗng đâu trưởng tòa đến trình
án rồi làm sổ biên hết gia tài đồ vật trong nhà. Bà Huyện Hàm bối rối vô cùng,
muốn chạy cậy quan Phủ lo tính dùm song nhớ lại quan Phủ đã nghịch rồi làm sao
cậy được? Bà sai người xuống Trà Kha mời hội đồng Lâm Yên lên, rồi bà thuật lại
việc nhà lại cho ông sui nghe. Lâm Yên làm mặt lạnh khuyên bà đừng lo, có mình
bao bọc cho, ai làm gì cũng không được đâu mà sợ. Lâm Yên thiệt hết lòng bảo bọc,
bởi vì quyền lợi bà Huyện bây giờ là quyền lợi của mình, nên lên Cần Thơ mướn
trạng sư chống trả với Tú Cẩm.
Tú Cẩm không thèm qua Bạc Liêu nữa, vì sợ quan Phủ kể công
ơn, nên cứ ở bên Sóc Trăng, để cho trạng sư đi hầu. Tuy vậy vợ chồng quan Phủ
đi đâu cũng đều khoe khoang, nói tại bà Huyện không nghe lời mình nên mới sanh
sự như vậy, chớ nếu bà Huyện nghe lời thì Tú Cẩm đâu dám thưa kiện. Bà Huyện
không phiền quan Phủ và chẳng hề ăn năn về sự bà tự hôn bao giờ. Tuy vậy bà lo
quá nên bà xin với Lâm Yên đình đám hỏi lại, đợi việc nhà xong rồi bà sẽ định
ngày khác. Lâm Yên thấy cá đã vào giỏ rồi, trước sau gì mình cũng ăn, chớ không
ai giành được, cũng chịu đình đám hỏi.
Việc kiện dây dưa đến 5, 6 tháng tòa Bạc Liêu cũng chưa xử được.
Trạng sư của bà Huyện cãi lẽ, nói rằng Tú Cẩm mạo tên chớ không phải là con, dầu
con thiệt đi nữa gia sản của Tú Phan là gia sản của bà Huyện hưởng trọn đời, chừng
nào bà trăm tuổi già thì Phi Phụng hưởng, chớ Tú Cẩm không có quyền gì giành được.
Tòa dạy bà Huyện phải sao lục nộp một tờ hôn thú của bà và một tờ khai sanh của
Phi Phụng.
Bà mướn lục hết sức song trong bộ đời không có hôn thú của bà
và không có khai sanh của con. Hởi ôi! Chừng ấy bà mới biết khi trước nhà nghèo
không dè ngày sau có sự lớn đến nỗi chúng thèm, nên ngày nay bà mới thất lý như
vậy. Bà tính cậy làng tổng chứng nhận dùm rằng bà là vợ, còn Phi Phụng là con của
Tú Phan, quan Phủ hay tin liền kêu làng tổng dặn trước, nên không ai dám đứng
ra làm chứng hết.
Bà Huyện thất lý nên bà lo sợ quá; bà tính cùng thế rồi mới cậy
Lâm Yên đi kiếm Tú Cẩm năn nỉ dùm cho bà. Bà nhứt định nếu Tú Cẩm bãi nại dù Tú
Cẩm đòi ăn năm ngàn đồng bà cũng chịu. Lâm Yên chịu đi nói dùm, nhưng vì tiếc 5
ngàn đồng bạc nên không chịu nói, đi chơi vài ngày rồi về nói dối rằng Tú Cẩm
không chịu. đến ngày tòa xữ, tòa xét ra Tú Cẩm là con của Tú Phan có khai sanh
đủ phép, còn bà Huyện xưng là vợ song không có hôn thú, Phi Phụng xưng là con lại
không có khai sanh, nên tòa xử gia tài của Tú Phan chỉ một mình Tú Cẩm được hưởng
thôi, song trong án có buộc Tú Cẩm phải cấp dưỡng cho mẹ con Phi Phụng nếu
không đem về nuôi thì mỗi tháng đóng tiền cơm một trăm đồng bạc.
Bà Huyện về nói lại cho con hay. Phi Phụng tức giận nên không
chịu thua, khuyên mẹ đừng có buồn phải kiếm cớ đặng chống cự cho đến cùng, ví
như thiệt thất lý thì giao hết tài sản cho Tú Cẩm và ra tay không, chớ chẳng chịu
ở cho Tú Cẩm nuôi, mà cũng không thèm lãnh tiền cấp dưỡng. Bà Huyện nằm khóc
hoài, tính hết sức cũng không ra kế chi hết.
Vợ chồng quan Phủ lấy làm đắc ý, ông nói: "Không nghe lời
tôi tự nhiên tán gia tại sản, có gì lạ đâu". Còn bà cũng nói: "Đáng đời
lắm, có vậy đó con mẹ đó mới hết phách lối".
Hội đồng Lâm Yên nghe bà Huyện thất kiện song không đến thãm,
đợi chừng bà Huyện sai người đi mời mới chịu đến, nói dối rằng mấy bữa nay khó ở
nên nghe thất kiện không đến được, bà Huyện hỏi ý Lâm Yên coi bây giờ phải liệu
thế nào? Lâm Yên khuyên bà Huyện phải chống án lên tòa trên, rồi mướn trạng sư
giỏi hơn cãi lẻ chắc phá án được. Bà Huyện nghe lời liền mở tủ lấy một ngàn đồng
bạc giao cho Lâm Yên và cậy đi Sài Gòn mướn dùm trạng sư đi chống án.
Qua bữa sau, lúc mặt trời mới mọc bà Huyện đương ngồi uống nước,
còn Phi Phụng đương d8ứng gần đó cắt cuống trầu, mẹ buồn xo không nói, không cười,
con cũng buồn lơ lững như sầu như não. Tuy ánh mặt trời dọi vào cửa sáng lòa gạch
đỏ, tiếng chim sâu kêu bên chái réo tắt giọng đồng, nhưng nhà có việc buồn nên
cảnh đẹp cũng chẳng vui, lòng có việc lo rầu dịp vui cũng không muốn. Cách một
hồi lâu Phi Phụng mới nói:
- Không biết anh Duy Linh bây giờ ảnh ở đâu? Chớ chi mấy lúc
như vầy có ảnh ở gần cậy mượn ảnh tiện quá. Chừng má d8i hầu tòa trên Sài Gòn,
má kiếm thử coi gặp ảnh không nghe má.
Bà Huyện gật đầu, bỗng nghe tiếng xe hơi ngừng ngoài ngõ, thấy
Tú Cẩm thủng thẳng bước vô nhà. Lần nầy Tú Cẩm mặc bộ đồ Tây trắng, song trên
nón và dưới cánh tay có quấn nỉ đen. Bà Huyện vừa ngó thấy thì nói:
- Thằng đó nó còn đến đây làm chi nữa!
Phi Phụng ngó ra cửa và hỏi:
- Ai đó má?
- Tú Cẩm chớ ai.
- À, vậy hay sao?
Phi Phụng nghe nói tới tên Tú Cẩm giận dữ, nên lại đầu ván dựa
cửa sổ ngồi, có ý muốn biết coi anh ta đến nói việc chi. Tú Cẩm bước vô nhà, thấy
bà Huyện đương ngồi ăn trầu nên đi lại đứng ngay trước mặt chào hỏi, thấy Phi
Phụng ngồi phía sau liếc ngó một cái, mới lại kéo ghế ngồi, tuy cặp mắt ngó
trong ngó ngoài, song ngó đâu rồi cũng ngó Phi Phụng. Bà Huyện không chào Tú Cẩm
song Tú Cẩm chào bà, bà cũng không ừ, cách một hồi lâu bà mới hỏi:
- Thầy đã đi kiện mẹ con tôi, bây giờ thầy đến đây làm chi nữa?
Tú Cẩm nghe nói mặt buồn xo, ngồi ngẫm nghĩ một hồi rồi mới
đáp:
- Thưa dì, phận con khờ dại, cha con mới mất, nấm mã chưa khô
nay con sanh lòng bất hiếu ra thưa kiện dì, cái tội của con đó dì quở trách rầy
la bao nhiêu con cũng phải chịu, chớ con không dám chối cãi. Song dì xét lại
cho con nhờ. Con mà đi kiện đó chẳng phải là con có ý muốn tranh gia tài, bởi
vì con cũng có cơm đủ ăn, áo đủ mặc, chớ không phải đói rách sanh tâm tà quấy.
Số là hôm mới nghe tin cha con mất, con đương buồn rầu đau đớn, xuống đến đây
dì giận không cho con lạy, lại dì cũng không chỉ mồ mã, con lấy làm phiền lòng,
rồi lại bị thiên hạ xúi vô nữa, nên con mới đi kiện lỡ. Nay con xuống đây là để
nãn nỉ tạ lỗi với dì, xin dì thương phận con đừng chấp tội nghiệp. Tuy con
không ở gần, song con cũng biết cha được giàu lớn như vầy là nhờ công dì cực khổ.
Nếu cha con vô phước không sống trăm tuổi để hưởng phú quý vinh hoa, gia tài nầy
tự nhiên phải để dì và em con hưởng, nếu dì có lòng thương con, dì cho chút đỉnh
ấy là may, còn ví như dì không thương đi nữa không cho con đồng nào hết con
cũng phải chịu chớ con đâu dám trách? Con lỡ làm quấy đi kiện dì bây giờ con ăn
năn quá, vậy xin dì thứ lỗi cho con. Con ngồi giữa nhà nầy con thề với dì rằng
tuy con đặng kiện mặc dầu, mà nếu dì thương, con cũng để hết gia tài lại cho dì
và em con hưởng, chớ con đâu dám lãnh.
Bà Huyện thấy Tú Cẩm đến nhà tưởng đặng kiện rồi nên dành gia
sản sự nghiệp, chẳng dè Tú Cẩm lại như vậy, làm bà ngạc nhiên không biết trả lời
sao. Phi Phụng thấy mẹ lặng thinh nên rước lời đáp với Tú Cẩm:
- Tôi sợ miệng thầy nói thủy chung như vậy chớ bụng thầy
không phải như vậy. Nếu thiệt thầy không cố ý tranh gia tài thầy kiện làm gì?
- Thuở nay anh em không gặp nhau lần nào, không biết tánh
nhau, nên em mới nghĩ bụng qua như vậy. Nhưng em nên nghĩ lại, nếu qua chủ ý
quyết tranh gia tài của cha nay qua đặng kiện rồi qua cần gì xuống đây năn nỉ
dì?
- Thầy đặng kiện là đặng kiện tòa sơ, chớ nếu lên tòa trên thầy
chắc gì đặng nữa?
Tú Cẩm ngó ngay Phi Phụng miệng chúm chím cười và nói:
- Hễ qua có ý tới đâu qua cũng đặng hết thảy, em đừng nghe lời
người ta chống án tốn hao. Nhưng bây giờ qua đã biết lỗi nên qua tới đây xin lỗi
dì và xin để nguyên gia tài cho dì và em hưởng trọn, vậy em còn tính chống cự nữa
làm chi? Qua nói thiệt với em, dẫu dì có chống án qua cũng chẵng thèm đi hầu.
Bà Huyện nghe Tú Cẩm nói tới chừng nào bà càng ngạc nhiên chừng
ấy. Khá thương người chất thiệt vì lòng ngay thẳng nên tưởng mọi người đều ngay
thẳng như mình không dè thiên hạ ở đời phần nhiều đều xảo trá, việc phải họ nói
ra quấy, việc quấy họ xoay ra phải, họ tính một đường nhưng nói một ngả, người
nầy gạt người nọ, hễ nghe hơi tiền là dẹp liêm sĩ, bỏ nghĩa nhân dành giựt
nhau, đến nát thân thế, nhục danh dự, mà họ cũng vui làm, bởi hễ ai giành được
là hay, ai gạt giỏi là khôn nên đua nhau gạt gẫm dành giựt. Bà Huyện tuy nay đã
giàu sang, song bà dốc ở ruộng rẫy. Không nếm trải nhân tình thế thái cho lắm,
bà có biết ai gian ai ngay, ai chân thật, ai giả dối. Bà nghe Tú Cẩm nói nhỏ nhẹ
dịu ngọt, bà tưởng những lời nói đó là thiệt, bà tưởng giọng dịu ngọt ấy là giọng
ăn năn, nên lửa giận của bà nguôi lạnh dần dần, đến chừng Tú Cẩm nói bà chống
án anh ta cũng không đi hầu thì bà mừng quá, nên bà vùng nói:
- Nếu thầy biết lỗi thầy không tranh gia tài nầy nữa thì lẽ
nào tôi đành để thầy nghèo khổ hay sao?
Tú Cẩm thò tay vào túi lấy khăn lau cặp mắt rồi bệu bạo nói:
- Thưa dì, nếu dì thương con như vậy con kính phục dì biết chừng
nào. Từ nhỏ chí lớn con không có mẹ, cha con lại ở xa, lâu lâu mới về thăm giây
lát, xưa nay hễ con nhớ tới thân phụ của con, con ngậm ngùi khóc tủi hoài. Ngày
nay con đã lớn khôn mà cha con lại lìa trần về âm cảnh. Trên đời bây giờ con chỉ
còn có một mình em con, đây là máu thịt với dì là thân thuộc thôi. Vậy nếu dì
thương con, con chẳng dám xin dì vật chi hết, chỉ xin dì cho con ở dưới nầy trước
là hương khói cho cha con, sau hủ hỉ với dì và gần gụi với em, đặng cho cha yên
lòng nơi cửu tuyền và thân con đỡ bơ vơ trên dương thế.
Bà Huyện động lòng quá, không nói chi được hết. Tú Cẩm thừa
lúc bà đương bối rối như vầy mới nói riết tới và tính để về nhà bán hết ruộng đất
rồi sẽ trở xuống ở.
Tú Cẩm về rồi bà Huyện lộ sắc mừng và tỏ ý muốn sai người đi
mời hội đồng Lâm Yên đặng cậy lên Sài Gòn xin trạng sư rút đơn đừng chống án nữa.
Phi Phụng cản mẹ, nói rằng không biết chừng Tú Cẩm nghe mình chống án, sợ lên
tòa trên mình đặng kiện nên giả mưu lập chước làm vậy, đặng mình bãi nại. Anh
ta đã được tòa án sơ rồi nếu mình không chống án, tự nhiên anh ta có lý rồi
cách ít ngày anh ta thi hành án ấy để lấy hết gia tài mình mới nói sao được? Bà
Huyện nghe có lý nên bà không tính chuyện bãi nại nữa.
Tòa trên cho hay đến rằm tháng chạp sẽ xử. Bữa mùng 8 Tú Cẩm
xuống nữa nói với bà Huyện và Phi Phụng rằng có người chịu mua đất, mua nhà rồi,
song hẹn ra giêng sẽ làm giấy chồng bạc. Tú Cẩm ở đó ăn cơm và xông pha trong
nhà, lên trên lầu, xuống dưới bếp không ngại chi hết mà bà Huyện cũng không
ngăn trở. Tú Cẩm cứ kiếm Phi Phụng đặng nói chuyện, hễ nói thì ngon ngọt, giọng
thâm trầm, miệng chúm chím cười, mắt láo liên ngó. Ðến tối Tú Cẩm mới nhắc đến
chuyện tòa trên đòi hầu, và mớm lời xin bà Huyện đi với mình lên Sài Gòn đặng
biểu trạng sư làm bãi nại. Bà Huyện không chịu đi, lại nói nếu Tú Cẩm không cần
đắc thất (34) mặc tòa xử thế nào cũng được bề gì cũng đã tốn hao rồi, vậy không
bãi nại.
Tú Cẩm biết ý bà Huyện không chịu bãi nại mới tính làm cho bà
giải đãi (35) vội nói:
- Dì muốn để tòa xử cũng được. Con nói thiệt bữa đó con không
đi hầu, vái cho tòa xử cho con thất đặng con khỏi mang lỗi với dì.
Bà Huyện nghe nói càng mừng, bởi vậy đêm ấy bà nói chuyện với
Tú Cẩm cho với 1 giờ khuya mới đi ngủ.
Sáng bữa sau Tú Cẩm trở về Chợ Lớn. Bà Huyện xuống nhà Lâm
Yên thuật chuyện Tú Cẩm không thèm đi hầu cho Lâm Yên nghe và cậy Lâm Yên thay
mặt đi hầu thế cho bà, Lâm Yên bị nóng lạnh mấy bữa, trong mình không được khỏe,
lại nghe Tú Cẩm nói không đi hầu không lo sợ chi nữa, nên nói với bà Huyện cho
Thủ Hiệp đi hầu thế, bởi việc kiện của mình đã có trạng sư lo liệu nên đi cũng
được, không đi cũng được. Bà Huyện thì giải đãi như vậy, còn Tú Cẩm hễ xuống Bạc
Liêu là nói không đi hầu, mà chuồn về Chợ Lớn có ý lo lắng lắm, đến ngày tòa xử,
hai bên trạng sư cãi sơ một hồi, rồi tòa trên bác đơn của tiên cáo và xử y án
tòa sơ.
Thủ Hiệp về nói lại cho Lâm Yên hay, cha con dắt nhau lên nói
cho bà Huyện nghe làm bà thất sắc. Bà hỏi bữa đó có Tú Cẩm đi hầu hay không, Thủ
Hiệp nói thấy có ba người vô nghe tòa xử, và có một người theo nói chuyện với
trạng sư của Tú Cẩm hoài. Bà biểu tả sơ hình dạng người ấy té ra quả là Tú Cẩm.
Hai cha con Lâm Yên về rồi bà huyện với Phi Phụng đều lo lắng,
bàn tính với nhau hoài không biết Tú Cẩm thiệt giả lẽ nào. Mùng một Tết Tú Cẩm
đi xe hơi xuống mừng tuổi, bộ cũng thân thiết, nói cũng nhỏ nhoi như lần trước,
nhưng không nói tới chuyện kiện thưa nữa, đến tối cáo từ ra về, nói rằng đợi
làm giấy bán nhà xong sẽ xuống ở chung luôn.
Mẹ con bà Huyện nửa tin nửa nghi, nên ăn không ngon ngủ không
yên. Qua rằm tháng giêng Tú Cẩm chở hai rương quần áo và dắt một đứa nhỏ tên thằng
Su xuống rồi lạy bà Huyện xin ở. Bà Huyện đã thất thế nên không dám chống cự, lại
thấy Tú Cẩm nhỏ nhoi thật tình cũng đem lòng thương, bà dạy dọn phòng trên lầu
cho Tú Cẩm ở, còn mẹ con bà ở dưới.
Trong hai tháng đầu Tú Cẩm ăn ở mềm mỏng dễ thương lắm, cung
kính bà Huyện, bợ đỡ Phi Phụng coi sóc việc nhà, tử tế với tôi tớ. Lần lần anh
ta nhân dịp bà Huyện xuống ruộng mới xin phép đi theo. Xuống dưới Cái Cùng anh
ta mượn tá điền dắt đi chơi, hễ ra khỏi nhà thì biểu dắt đi xem cho giáp hết mấy
sở ruộng của Tú Phan.
Bà Huyện thấy Tú Cẩm ăn ở như vậy, trong lòng bớt nghi, nhứt
là thấy Tú Cẩm nhứt định không chịu vô chợ Bạc Liêu chơi, lại quan Phủ gởi thơ
mời ba lần song anh ta cứ cáo từ không chịu đến, bà Huyện càng thêm tin nữa.
Tôi tớ trong nhà ai cũng kính trọng Tú Cẩm, duy có Phi Phụng hễ thấy mặt Tú Cẩm
trong lòng không yên, mặc dầu Tú Cẩm nói với Phi Phụng rất mềm mỏng ngọt ngào,
song không hiểu vì cớ nào cô ta không ưa, ở một nhà lại cứ lánh mặt hoài, thậm
chí ăn cơm cô cũng ăn riêng, chớ không chịu ngồi ăn chung.
Qua tháng tư Tú Cẩm tính đi Sài Gòn chơi nên xin bà Huyện một
ngàn đồng bạc đặng mua đồ. Bà Huyện đưa có hai trăm anh ta lấy nhưng sắc mặt
không vui và ra xe hơi đi Sài Gòn liền. Từ ấy về sau anh ta đi chơi thường, hễ
đi thì xa hoặc Sóc Trăng, Cần Thơ hoặc Mỹ Tho, Sài Gòn chớ chẳng hề nào chịu
chơi trong Bạc Liêu. Mỗi lần đi đều xin tiền nhiều, và lấy xe hơi nhà đi. Bà
Huyện than túng anh ta nói hôm tháng giêng góp mấy chục ngàn giạ lúa thiếu gì
tiền mà sợ hết.
Bữa nọ có khách ở dưới Trà Kha ghé thăm, thấy Phi Phụng bèn
thử hỏi bà Huyện tính chừng nào mới cho Thủ Hiệp đi lễ hỏi. Bà Huyện ngồi ngẫm
nghĩ một rồi rồi đáp rằng bà có ý trông thầy hội đồng Yên, bây giờ bà đã rãnh
rang việc nhà rồi vậy nên tự ý thầy muốn định ngày nào cũng được. Tú Cẩm ngồi
lóng tai nghe, chừng khách về rồi anh ta mới nói với bà Huyện: "Hồi nãy
con nghe chuyện dì gả em con cho Thủ Hiệp phải hay không? Xin dì đừng thèm sui
với chỗ đó, con không bằng Ðâu. Lâm Yên tính làm sui với dì là vì nó thấy dì
giàu còn Thủ Hiệp tính cưới em của con là nó muốn bán cái bằng cấp của nó. Quân
đó ra gì mà gả? Ðể thủng thẳng con kiếm chỗ sang trọng bằng mười nó nữa, chớ
quân đó mà sang trọng gì?"
Bà Huyện ngồi ngó Tú Cẩm trên bàn, cách một hồi bà mới đáp:
"Khi ổng gần tắt hơi ổng có trối phải gả chỗ đó, bởi vậy tao phải nghe lời.
Thế nào tao cũng phải gả cho Thủ Hiệp chớ chỗ nào giàu sang cho mấy đi nữa tao
cũng không ham".
- Không được đâu! Gả chỗ đó con không vừa lòng chút nào hết.
- Con của ổng thì ổng gả, ai dám cãi? Ông muốn gả chỗ nào tùy
ổng chớ.
- Người ta nói: "Quyền huynh thế trưởng". Cha chết
rồi, bây giờ con cầm quyền trong nhà, vậy dì phải để con định.
- Hả! Bây giờ mầy nói nghe trái tai quá! Phi Phụng là con
tao, nay ổng mất rồi tao gả nó sao mầy lại cản?
- Không phải con cản không cho dì gả em. Tuy con là trưởng
nam nên quyền trong nhà bây giờ thuộc về tay con, song dì muốn gả em thì gả.
Con cản là cản không cho gả chỗ đó chớ.
Bà Huyện bỏ đi vô mùng không thèm nói chuyện nữa. Phi Phụng
đã không ưa Tú Cẩm, nay nghe Tú Cẩm cãi với mẹ về sự ấy cô giận lắm, một là Tú
Cẩm sao dám thị nhục người cha đã hứa hôn, mà mình cũng trộm ước gởi phận trăm
năm, hai là giận Tú Cẩm đã ló ngón bất lương, mới ở có mấy tháng mà đã muốn cầm
quyền, nếu ở lâu chắc chẳng khỏi đoạt hết sự nghiệp. Cô ta không lẽ nói ra,
song trong bụng thầm vái Lâm Yên chọn ngày đi hỏi cho mau, đặng coi Tú Cẩm làm
sao cản cho được. Ðêm ấy cô nằm suy nghĩ tới suy nghĩ lui, tính dầu cô ta ưng
Thủ Hiệp, Tú Cẩm có giận, chiếu án tòa ra để dành hết gia tài đi nữa, cô ta
cũng không cần, bởi vì người còn thì của còn, miễn là đừng phụ lời trối của cha
và miễn là có chồng xứng ý thì thôi, dầu nghèo cũng được.
Sáng hôm sau bà Huyện nằm trên ván gác tay qua trán mắt ngó
ra cửa sổ. Phi Phụng ngồi thêu dựa bên giường mặt sáng trưng, bàn tay dịu nhiểu.
Tú Cẩm ở trên lầu đi xuống, Phi Phụng thấy dạng, xụ mặt coi bộ ghét lắm. Tú Cẩm
thấy vậy cười hỏi:
- Tại qua không chịu gả em cho con Lâm Yên nên từ hôm qua đến
nay em ghét qua phải hôn? Em đừng giận. Thứ đồ chưng bằng cấp đặng kiếm vợ giàu
có nên thân gì. Để thủng thẳng qua chọn chỗ xứng đáng rồi qua sẽ chỉ cho dì gả
em.
Phi Phụng giận quá dằn không được, nên buông cây kim đáp sẵn:
- Phận tôi là gái, cha mẹ định chỗ nào phải ưng chỗ ấy, anh
không được phép cản trở.
- Qua là anh cả, sao qua không được phép cản? Nếu qua không
xem xét để cho dì gả em nhằm chỗ không biết điều, ngày sau em buồn rầu cực khổ
trọn đời, há qua không có lỗi hay sao?
- Tôi không cần anh lo cho tôi.
- Qua là anh qua phải lo, chớ qua phải đợi em cầu nữa hay
sao?
- Anh ở đây miễn no cơm ấm áo là đủ rồin anh đừng có đèo bồng,
anh không được phép xía vô chuyện nhà của tôi.
- À há! Em tưởng qua bần cùng đói cơm thiếu áo nên tới đây ở
nhờ ăn bám hay sao?
- Nếu anh giàu sang anh tới đây làm gì?
- Ô hay, nhà của cha qua ở, của của qua qua ăn, chớ em biểu bỏ
hết cho em ăn một mình hay sao?
- Tôi không muốn cho anh ở đây nữa.
- Dầu không muốn cũng không được. Có lý nào nhà của qua, qua
lại dành cho thằng Thủ Hiệp hay sao? Là thằng điếm cho nó về đây ở, còn qua lại
ở chỗ khác.
- Anh lỗ mảng quá, tôi nói trước cho anh biết, người ta không
có mặt anh không được mắng lén người ta như vậy đa.
- Tại sao em binh thằng đó dữ vậy?
- Tôi không binh ai hết, song tôi không muốn ai nói lén ai.
- Chừng qua nói dẫu qua nói trước mặt nó qua cũng nói, chớ sợ
hay sao qua phải nói lén?
- Nếu có giỏi hãy đến nhà người ta nói đi.
- Thôi, em đừng có giận, để qua hỏi em một điều nầy: Vì cớ
nào em ưng Thủ Hiệp, còn không chịu ưng chỗ khác?
- Anh không được phép hỏi chuyện đó.
- Tại sao?
Bà Huyện nằm nghe hai đằng gây gổ với nhau bà đã hiểu ý Tú Cẩm
muốn ỷ thế chuyên quyền; bà chắc lần lần rồi đây Tú Cẩm chẳng khỏi dành thâu
huê lợi, dành giữ chìa khóa. Bà lấy làm buồn hết sức song vì thất thế bà không
biết tính sao, nên bà mới dịu ngọt trả lời thế cho Phi Phụng:
- Tại cha nó đã gả nó cho Thủ Hiệp, bây giờ nó ưng chỗ khác
sao được?
- Tôi không chịu chỗ đó.
- Mà tao cũng đã hứa lời với người ta rồi nữa.
- Tự ý dì, nếu dì gả cho Thủ Hiệp tôi không cho đồng tiền nào
hết. Chừng nào đám cưới thì dì làm chỗ khác chớ tôi không cho làm trong nhà nầy.
- Mầy nói sao vậy? Tao có xin tiền mầy đâu, mầy lại hăm dọa
không cho tiền, còn nhà của tao tao làm đám cưới cho con tao, mà mầy cản nổi
gì?
- À, dì đi vay để làm đám cưới thì được, chớ tôi không cho xuất
tiền trong tủ. Còn nhà nầy là của tôi, chớ không phải nhà của ai hết.
- Ủa! Bây giờ mầy tính giựt hết gia tài sự sản của tao hay
sao?
- Tôi có giựt của ai đâu? Gia tài sự sản nầy của tôi tôi làm
chủ có giấy tờ đủ phép, chớ!
Bà Huyện nghe tới đó bà nghẹn cổ, nước mắt tuôn đầm đìa,
không nói chi được nữa, Phi Phụng giận run đứng dậy lại chỉ mặt Tú Cẩm nói lớn:
- Mầy là thằng điếm chó! Mầy là quân ăn cướp! Bây giờ mầy
tính đuổi mẹ con tao phải không? Trời ơi! Ngó xuống mà coi đây nè! Cha mẹ tôi
làm đổ mồ hôi xót con dắt mới có ruộng vườn nhà cửa, bây giờ quân bá vơ ở đâu
nó đến giựt, trời ngó xuống mà coi!
Phi Phụng dậm chân than khóc nghe rất thảm thiết. Tú Cẩm ngồi
tỉnh như thường và nói huỡn đãi:
- Qua có đuổi em hồi nào đâu? Quan tòa dạy phải nuôi em với
dì. Nếu em ở đây qua nuôi đầy đủ chớ! Em ở đây em ăn mặc bao nhiêu qua cũng chịu
hết. Song qua không muốn cho em ưng thằng Thủ Hiệp. Em liệu lấy.
Tú Cẩm nói dứt lời rồi bỏ lên lầu. Bà Huyện ngồi khóc không
nói chi được. Phi Phụng tức giận mặt mày tái xanh, cô lau nước mắt rồi nói với
mẹ:
- Má, thôi má vô tủ lấy quần áo đi chỗ khác mà ở, con không bằng
lòng ở đây nữa. Trời đã khiến cho mẹ con mình lao đao lận đận, thì mình phải chịu
chớ không nên phiền trách. Mình đã mắc mưu quân khốn khiếp rồi bây giờ còn ở
đây làm gì? Đi má, đi cho khuất con mắt, ở đây con thấy mặt nó con khó chịu lắm.
Tại má thấy nó khóc lóc nên má tin nên bây giờ đến nỗi nầy. Thôi để nhà nầy cho
nó ở.
Bà Huyện nghe con nói bà đau đớn chịu không được, bà cứ ngồi
lắc đầu hoài. Cách một hồi bà kêu đứa ở đem xe hơi ra cho bà đi xóm. Phi Phụng
không chịu ở nhà nên lên xe cùng đi với bà.
Bà Huyện xuống Trà Kha ghé nhà Lâm Yên thuật lại chuyện đầu
đuôi mọi việc cho Lâm Yên và cậy Lâm Yên tính dùm. Phi Phụng ngồi ngoài xe
không chịu vô nhà. Lâm Yên nghe nói thì gật đầu ngồi ngẫm nghĩ hồi lâu mới đáp:
- Nó kiện đặng án tòa dưới rồi tòa trên nó cũng đặng nữa, bây
giờ làm sao được? Nhà là nhà của nó, nên nó ở bà không phép đuổi, còn nếu nó làm
gắt bà còn phải giao hết tiền bạc ruộng đất cho nó nữa.
Bà Huyện tức ấm ức nên nói cho hả hơi bớt thôi, chớ Lâm Yên
cũng tính không ra kế chi. Bà trở về đánh liều chạy vô nhà quan Phủ khóc lóc và
xin vợ chồng quan Phủ làm phước cứu dùm. Quan phủ lơ láo không muốn nghe còn bà
Phủ giọng thấp giọng cao, nói nói cười cười, những lời bà nói ra đều là những lời
cay chua chớ không được một lời nào gọi là thương tưởng.
Mẹ con bà Huyện dắt nhau về đến nhà trời đã gần tối. Ðêm ấy
bà ngủ không được cứ ngồi khóc hoài. Tú Cẩm không hỏi thăm coi ngày ấy bà đi
đâu, lại theo nói dã lã, làm như không có chuyện gì mích nhau. Phi Phụng thấy mặt
Tú Cẩm thì giận, nghe tiếng Tú Cẩm thì ghét nên đêm ấy cứ dục mẹ xuống ruộng cất
nhà lá ở đừng thèm ở chung với Tú Cẩm nữa. Bà nghe lời con, nên sáng bữa sau bà
tom góp áo quần mở tủ lấy bốn ngàn đồng bạc và đồ nữ trang của bà và đồ của Phi
Phụng rồi biểu gia đinh dọn ghe cho bà đi ruộng. Tú Cẩm năn nỉ xin bà ở lại
nhà, nói rằng lúc ấy trời mưa gió bà xuống ruộng muỗi mòng cực khổ. Mẹ con bà
Huyện không thèm trả lời, ăn cơm sớm mai rồi dắt nhau xuống ghe đi tuốt.
--------------------------------------
34 được thua
35 dây dưa, làm lôi thôi để kéo thời giờ
CHƯƠNG 5 -
N
gười trẻ tuổi tính thường nóng nảy, nếu muốn làm việc chi hễ
ai ngăn cản buồn rầu không thể khuây được, nếu đã ưa vật nào ai cắt cớ chê vật ấy
tức giận không thể dằn được. Có người chê tánh ấy là tánh xấu, còn có kẻ lại
khen tánh ấy là tánh tốt. Lời chê không được đúng và lời khen cũng không được
nhầm, bởi vì nếu mình muốn làm việc phải, song người ta theo ngăn cản, dường ấy
há chẳng đáng hay sao? Còn như việc quấy, mình muốn làm nếu người ta cản sao
mình lại buồn. Cái quấy mình lại yêu, nếu người ta chê sao mình lại giận?
Như những người khen chê là người ngoài, mấy việc họ ngó thấy
là việc của thiên hạ, không quan hệ chi đến họ nên họ mới thơ thới trong lòng
mà nghị luận phải quấy được, thản như họ muốn người ta cản, họ yêu, lại người
ta chê, sợ e họ không khỏi tối mắt nóng lòng, rồi họ quyết định chỗ họ muốn là
phải, chỗ họ yêu là hay, dầu ai cằn nhằn họ cũng buồn, dầu ai chê trúng họ cũng
giận.
Phi Phụng là gái mới lớn lên, tuy tánh tình chơn chánh không
chịu nghe lời hoa nguyệt, không ưa thấy dạng bướm ong, song khi cô còn tại trường
hay là lúc cô về đến nhà, hễ đêm khuya vắng vẻ, bóng trăng man mát, tiếng dế chắc
chiu, cô nằm nhớ việc quá vãng, suy việc tương lai, lắm lúc cô tưởng đến sự
trăm năm tơ tóc. Cô thôi học về ở nhà không được mấy ngày, kế cô nghe có ba chỗ
gấm ghé muốn vầy duyên cầm sắc. Gái quê mùa dốt nát, coi bạc tiền là trọng, biết
ruộng đất mà thôi, chắc ưng ba Quận là con bá hộ Siêu đặng là dâu phú hộ. Gái
ham quyền mê tước, muốn kẻ bẩm người thưa, thì chắc ưng Bá Kỉnh là con quan Phủ
Thiện, Phi Phụng không phải là không muốn giàu lại cũng không phải là không muốn
sang, nhưng tại vì có học mấy năm nên chỗ kiến thức rộng rãi, sự ao ước thanh
nhã, bởi vậy tự nhiên cô đành Thủ Hiệp hơn hai người kia, cô không thèm biết
Lâm Yên nghèo hay giàu, cô không thèm xét Thủ Hiệp tốt hay xấu.
Cô đã chủ tâm rồi, lại thêm lúc cha gần tắc hơi, là lúc cô
đau đớn buồn thảm hơn hết trong đời, cha lại trối phải gả cô cho Thủ Hiệp, làm
cho ý muốn của cô càng thêm chắc, lòng yêu của cô càng thêm sâu. Tuy cô không tỏ
tâm sự của cô cho ai biết nhưng cô đã thầm nguyện se tơ kết tóc với Thủ Hiệp
thôi, dầu ai hiển vinh phú quý hơn cô cũng không màng, dầu nước biển cạn đá núi
mòn, cô cũng không đổi. Thình lình Tú Cẩm cản không gả cô cho Thủ Hiệp mà không
nói duyên cớ, gieo tiếng xấu cho Thủ Hiệp mà không chỉ xấu chỗ nào, nhè chỗ muốn
của cô mà ngăn, nhè chỗ yêu của cô mà chiết, bởi vậy cô buồn rồi tức, cô giận
nói sanh rầy, cô không chịu suy xét coi Tú Cẩm cản cô nhầm hay không, chê có
đúng hay không, cô quyết thà bỏ gia tài cho phỉ dạ ước mơ, chớ không chịu trái
ý muốn đặng tấm thân yên ổn.
Mẹ con dắt nhau xuống Cái Cùng, bà Huyện tính đi chơi một đôi
tháng cho giải khuây phiền nảo và nom coi Tú Cẩm xử sự như thế nào còn Phi Phụng
giận quá
không chịu thấy mặt Tú Cẩm, còn ra đi thì quyết định đi luôn,
nếu Tú Cẩm còn ở trong nhà cô thề không bao giờ trở về đó nữa. Bởi chí cô như vậy,
nên xuống ở đậu nhà hương Cả Mai, là người hóa ruộng của bà Huyện vừa mới hai
ngày thì cô cứ theo xúi giục mẹ cất nhà ở. Ban đầu bà còn dục dặc, Phi Phụng
nói riết bà cũng xiêu lòng, nên bà xuất cậy người mua cây ngói rồi cất một cái
nhà ba căn trỏ cửa ra bờ kinh, vách đóng ván bổ kho, nóc lợp ngói không phong
tô (36), ai đi ngang qua cũng tưởng cất một cái lẫm lúa nhỏ.
Nhà cất xong rồi bà Huyện mua ván giường bàn ghế sơ sài dọn về
nhà đó. Tuy vật dụng không đủ, nhưng chánh giữa nhà bà cũng có dọn một bàn để tối
sớm thờ chồng, có người thấy mẹ con bà bỏ nhà lầu xuống ở nhà nhỏ như vậy lấy
làm lạ, nên theo hỏi bà hoài. Bà không muốn tỏ việc nhà cho ai biết nên bà nói ở
Bạc Liêu nóng cực bởi vậy bà trở về ruộng đặng dưởng nhàn, có con trai lớn coi
nhà bà không còn muốn trên nhà nữa.
Từ ngày xuống ở Cái Cùng tuy bà Huyện và Phi Phụng không nói
ra, song hai mẹ con đều có ý trông Lâm Yên định ngày nào đặng tính cuộc hôn
nhơn phứt cho rồi. Nào dè Lâm Yên không vãng lai lại cũng không có tin tức chi
hết. Bởi hứa làm sui với nhau không có mai dong (37), nên bây giờ bà Huyện
không biết mượn ai đi nhắc. Mẹ con trông đợi hoài cho tới gần Tết bà Huyện mới
tính trở về Bạc Liêu thăm nhà, sau mở tủ lấy thêm bạc. Bà biểu Phi Phụng đi với
bà, Phi Phụng nói: "Con cũng muốn về thăm nhà lắm, ngặt sợ về gặp mặt người
đó con không chịu được, vậy thôi má đi một mình, để con ở lại coi nhà.".
Bà Huyện về tới nhà, Tú Cẩm dòm thấy liền chạy ra mừng rỡ, chừng
nghe nói Phi Phụng không về anh ta lộ sắc buồn. Bà Huyện đi cùng từ trước ra
sau, từ trên xuống dưới, thấy tài vật còn nguyên như cũ, không dời đổi món nào
hết. Bà hỏi riêng mấy đứa ở chúng nó nói Tú Cẩm mỗi tháng đều lấy xe hơi đi Sài
Gòn, khi ở năm bữa, khi ở mười bữa, mà hễ ở nhà buồn bực nhắc nhở bà với cô hai
hoài. Ðến chiều bà Huyện mở tủ sắt, tính lấy bạc đi chợ mua ít cây lãnh, ít vóc
nhiễu rồi khuya trở xuống ruộng. Nào dè mở ra thấy tủ trống trơn, không còn một
đồng bạc nào hết. Bà nghẹn ngào không biết nói sao được, muốn hỏi Tú Cẩm ngặt
chìa khóa bà cầm, lại rồi ra đi bà không giao, bây giờ mất bà nói sao được?
Bà tức giận nên đi xuống ghe đi liền Tú Cẩm năn nỉ bà ở lại
ít ngày và xin cho trẻ ở xuống rước Phi Phụng bà không thèm nghe, quyết trở về
Cái Cùng. Ðêm ấy lối bốn giờ đêm bà về tới. Ghe vừa ghé bến bà dòm lên bà thấy
đèn đuốc sáng lòa, lại người ta vào ra lộn xộn, bà không hiểu có việc chi nên lật
đật nhẩy lên bờ kinh. Hương tuần Bộn đương đứng ngoài cửa dòm thấy bà liền chạy
ra nói:
- Thưa bà hại quá lớn quá, bà đi vắng ăn cướp đánh dọn nhà sạch
trơn rồi.
Bà Huyện nghe nói thất kinh liền hỏi vội:
- Cha chả! Vậy còn con nhỏ tôi có hại gì hay không?
- Thưa cô hai chạy ra khỏi nhà, không bị đánh đập chi hết!
- Trời ôi! Ác nghiệt chi lắm vậy!
Bà Huyện vào nhà, Hương chức và dân đương ngồi đầy nhà liền đứng
dậy, kẻ thuật người hỏi lăng xăng, Phi Phụng thấy mẹ thì khóc chớ không nói chi
được hết. Bà Huyện xem xét bạc vàng để trong tủ đều bị ăn cướp lấy hết, mẹ con
bây giờ mỗi người chỉ còn một cái quần với cái áo mặc đó thôi. Hương chức và
dân nói chuyện vang tai, kẻ tức chạy tới trễ, người khen rượt theo xa làm bà
Huyện đã bị ăn cướp còn tốn thêm trầu nước chớ không ít chi cả. Sáng ngày sau,
những người quen biết ở trong làng tới thăm lại còn làm cho bà phải tiếp rước mệt
nhọc nữa.
Chừng khách vãng bà mới thuật lại chuyện bạc để trong tủ sắt
mất hết lại cho Phi Phụng nghe. Phi Phụng ngồi khóc nói:
- Quân đó nó lấy, chớ ai vô đó được.
- Mẹ khóa kỹ lưỡng, chìa khóa mẹ giữ nó làm sao lấy được, con
đừng có nói như vậy không nên.
- Trời ơi! Má tưởng tủ sắt đó chắc lắm hay sao? Vậy chớ nó
không biết kêu thợ làm khóa giả đặng nó mở hay sao?
Bà Huyện nghe nói rồi suy nghĩ một hồi thở ra, bỏ đi vô buồng
nằm. Bà nghĩ là mẹ con bây giờ áo quần mất hết, đồ nữ trang còn có một chiếc đồng
hồ mắt tre, Phi Phụng còn một sợi dây chuyền nhỏ, một chiếc đồng hồ với một đôi
bông hột xoàn, còn bạc thì trong túi bà, bà còn 17 đồng đem theo đó thôi. Bà mới
mượn của hương cả Mai 100 đồng bạc đặng may áo quần thêm ít cái và mua đồ ăn Tết
luôn thể, nghĩ rằng ra giêng góp lúa không thiếu chi tiền mà lo.
Năm ấy được mùa, từ điền chủ cho đến tá điền thảy đều vui vẽ.
Ăn Tết rồi bài bạc nổi lên đánh rầm rầm, xóm nầy hốt me, xóm kia đánh phé, nay
người nầy ăn năm bảy trăm, mai người nọ thua tám chín ngàn. Bà Huyện phải đi đến
hương cả Mai, hội đồng Lễ, cựu Xã Cục, hương sư Thắng nhắc chừng, sợ thả lỏng họ
bài bạc thua hết rồi khó mà đòi đủ huê lợi.
Lối rằm tháng giêng Tú Cẩm ngồi ghe đi xuống Cái Cùng, hỏi
thăm bà Huyện rồi tìm đến, Phi Phụng thấy dạng rồi rút vô buồng, để một mình bà
Huyện nói chuyện, Tú Cẩm nghe nói bà Huyện bị ăn cướp thì bứt rứt, trách bà sao
không nghe lời bỏ nhà đi dưới ruộng làm chi đến nỗi bị cướp như vậy, rồi lại
trách sao bà không cho hay đặng anh ta mua áo quần đem xuống cho bà và đi báo
quan xin lính đi kiếm bắt quân gian ác.
Ðêm ấy anh ta cứ theo năn nỉ bà Huyện và Phi Phụng về Bạc
Liêu ở, để anh ta coi góp lúa dùm cho, anh ta nói đến hai ba ngày nhưng bà Huyện
cũng không xiêu lòng, túng thế anh ta ra về và nói: "Con nói đã hết lời
song dì với em không chịu. vậy để con làm cho dì không góp được một hột lúa nào
hết cho dì coi".
Tú Cẩm về Bạc Liêu mướn trưởng tòa xuống nhà mấy chủ đất rao
cấm, phải đóng lúa ruộng cho Tú Cẩm chớ không được đóng cho bà Huyện. Mấy chủ
hóa đất dục dặc sợ đóng cho bà Huyện rồi Tú Cẩm kiện phải đóng một lần nữa, nên
ví lúa lại không đóng cho ai hết, rồi bà Huyện cầm tờ tá đến tòa kiện. Tòa đòi
Tú Cẩm trình án tòa xử bà Huyện thất và dạy mấy chủ hóa đất phải đóng lúa cho
Tú Cẩm.
Bà Huyện về nói lại cho Phi Phụng nghe. Phi Phụng tức giận
khóc một hồi rồi nói: "Má thấy hay chưa? Hồi mới con đã nói nó làm bộ nhỏ
nhoi đặng giựt của mình nay coi có quả như vậy hay không? Thôi trời đã khiến
như vậy xin má chớ buồn, để cho nó ăn, đừng thèm tranh cản chi nữa."
Cách ít ngày Tú Cẩm xuống bán lúa, theo năn nỉ xin mẹ con bà
Huyện trở về Bạc Liêu, Phi Phụng giận quá nên dằn không được nên mắng Tú Cẩm
nhiều lời rất nặng nề tàn nhẫn. Tú Cẩm liệu nói không được nên phải từ ra về,
trước khi xuống ghe lén để trong ô trầu 500 đồng bạc đặng cho bà Huyện dùng.
Phi Phụng khuyên mẹ nên đem bạc ấy quăng xuống sông đi bởi sự sản nó giựt hết rồi
bây giờ còn mặt mũi nào lấy tiền của nó? Bà Huyện cũng biết tức, biết giận, mà
công bà làm cực khổ mới có sản nghiệp ấy, có lẽ bà tức giận nhiều hơn Phi Phụng
bội phần song bà nghĩ bà còn thiếu hương cả Mai 100 đồng, đã mấy tháng nay chưa
trả được, trong nhà bây giờ lại sạch trơn, bởi vậy bà phải dằn lòng để trả nợ
và tiêu xài, chớ chi bà còn tiền, quăng xuống sông bà cũng không tiếc.
Bà Huyện hết của đêm buồn rầu ăn ngủ không được, lần lần hình
vóc gầy mòn, da mặt sâu, tóc điểm bạc, mới 47 tuổi, mà coi như người 55 hay 60
tuổi. Cách chẳng bao lâu bà nhuốm bịnh. Ban đầu Phi Phụng tưởng mẹ cảm mạo
phong sương sơ sài, chẳng dè bịnh ngày càng càng nặng, mới đau có nửa tháng mà
thầy thuốc nào coi mạch cũng đều chạy hết. Phi Phụng lấy làm bối rối, nhưng vì
có một mẹ một con nên đành phải gượng gạo làm khuây đặng nuôi mẹ cho vuông
tròn. Ðến bữa mùng 5 tháng 5 bà Huyện thấy trong mình đã gần mòn hõi rồi nên bà
kêu Phi Phụng lại gần một bên rồi nói: "Cha mẹ sanh con, coi con như ngọc,
tính làm giàu đặng thân con ngày sau sung sướng, chẵng dè trời khiến số con cực
khổ, không được hưởng của mẹ cha mà sợ duyên phận của con lại lỡ làng đi nữa.
Má nghĩ muôn việc đều tại trời, vậy con chớ nên phiền trách cha mẹ, dầu có bề
nào con cũng bền lòng vững chí, đừng buồn rầu thái quá không nên".
Bà nói tới đó rồi mệt nói không tiếp được nữa. Phi Phụng đã
đau đớn trong lòng nay nghe mẹ dạy lại càng đau đớn hơn nữa, song cô ôm mẹ mà
khóc nho nhỏ, chớ không khóc rống om sòm như lúc cha tắt hơi năm trước. Bà Huyện
nằm thở hoi hóp đến 4 giờ chiều bà tắt hơi, những người ở lân cận chạy tới, ai
thấy thân Phi Phụng cũng cảm động. Có người khuyên Phi Phụng sai đứa ở lên Bạc
Liêu kêu Tú Cẩm. Phi Phụng không chịu và đáp: "Mẹ tôi chết tôi chôn; bà
con trong làng có lòng thương đến giúp tôi đội ơn lắm, chớ tôi không cần cho ai
hay hết".
Hương cả Mai lãnh phần đi Bạc Liêu mua hòm và đồ đạc dùng
trong đám tang dùm cho Phi Phụng. Tuy Phi Phụng không chịu cho Tú Cẩm hay, song
bây giờ ông đã hóa đất của Tú Cẩm sợ e Tú Cẩm không khỏi phiền trách, bởi vậy
khi lên Bạc Liêu mua đồ xong rồi ông mới ra nhà báo tin cho Tú Cẩm hay. Tú Cẩm
nghe nói lật đật mở tủ lấy 2000 đồng bạc rồi thay áo đổi quần tính đi theo ghe
hương cả Mai mà đi xuống dưới Cái Cùng. Bước xuống ghe anh ta thấy hương cả Mai
đã mua một cái hòm bằng cây Sao, anh ta không chịu biểu chèo ghe trở lại chạy
bù thêm tiền đổi lấy một cái bằng cây Huỳnh Hương, và mua thêm hàng lụa để dùng
tẩm liệm rồi mới đi.
Phi Phụng thấy Tú Cẩm tới thì trong lòng bất bình lắm, muốn
đuổi phứt về cho rồi, ngặt mẹ chết chưa liệm, không lẽ làm rầy rà trong nhà,
nên cô dằn lòng lo việc tống táng cho toàn vẹn, Tú Cẩm tới lo đám tang rất trọng,
xin phép quan để cúng tế năm ngày, rước thợ hồ xây kim tĩnh gần mồ ông Huyện đặng
ngày sau làm mã cho dễ. Những người quen biết tới điếu tang dập dìu; Lâm Yên ở
trên Trà Kha cũng sai người đi điếu tang dùm và tỏ rằng Lâm Yên có bịnh nên bổn
thân đến không được.
Tống táng xong rồi, tốn hao bao nhiêu Tú Cẩm chịu hết, không
để cho Phi Phụng hao đồng nào. Tú Cẩm khuyên Phi Phụng trở về nhà lớn ở đặng
anh em hủ hỉ với nhau, Phi Phụng đáp: "Vì anh nên mẹ tôi mới buồn rầu chết
đó. Tôi nhứt định không thấy mặt anh nữa, thôi, của cải của cha mẹ tôi, tôi để
trọn cho anh ăn, tôi không thèm hưởng đâu, anh đừng có nói thất công vô
ích". Tú Cẩm cứ theo năn nỉ hoài, nói không được túng thế phải khóc lóc
song Phi Phụng cũng không xiêu lòng, Tú Cẩm hỏi Phi Phụng có cần tiền bạc mấy
ngàn anh ta sẽ đem cho. Phi Phụng lắc đầu đáp: "Một đồng bạc của anh tôi
cũng không thèm lấy. Thà tôi đi làm mướn tôi ăn, chớ tôi không thèm lãnh của
anh đâu". Tú Cẩm ra về nhưng coi sắc mặt buồn bực lắm.
Phi Phụng là mọt cô gái tánh tình cứng cỏi gặp nguy hiểm cô tỉnh
táo như thường, hễ bất bình là dầu ai cô cũng không nể, hễ trái ý dầu bạc triệu
cô cũng không ham.
Ví cái tánh cứng cỏi ấy nên thân cô mới lao đao lận đận như vậy,
mà có lẽ cũng nhờ có cái tánh cứng cỏi đó nên gặp cảnh như vầy cô không buồn rầu,
hết cơ nghiệp cô coi cũng như mất một cái hộp quẹt, mất mẹ yêu dấu tuy đau đớn
trong lòng song cô nhứt định không đổi tánh, tưởng bậc nam nhi ít ai cũng được
như cô. Những người trong làng ai thấy cử chỉ của cô cũng cho là kỳ. Tuy vậy ai
cũng kính sợ chớ không ai dám chê cô. Mà họ cho là cô kỳ, song không ai chịu
xét thử coi vì cớ gì mà cô lại khác hơn người ta, tại làm sao cô lại không chịu
ở nhà lớn, lại đành hẩm hút nơi đồng ruộng cho cực khổ tấm thân?
Nếu ai chịu suy đoán tự nhiên ngó thấy tâm trí của cô rõ
ràng, cô mất sự nghiệp không buồn, cô thà vùi tấm thân nơi đồng ruộng, chớ
không chịu về chung chạ với Tú Cẩm, ấy chẳng qua vì chàng Thủ Hiệp mà thôi! Tú
Cẩm đoạt hết gia tài cô giận, nhưng lòng giận của cô còn có ngày nguội, chớ Tú
Cẩm trở hôn của cô, cô đã giận càng thêm oán, rồi oán với giận hòa hợp lại, dầu
đến chừng nào cô cũng không tài nào quên được. Lòng của cô như thế làm sao trở
về Bạc Liêu? Mà cô ở Cái Cùng, tuy cực khổ, song ngày như đêm cô cứ tưởng thầm
trong bụng rằng cô ở đây là ở tạm, sớm muộn gì rồi Thủ Hiệp cũng cưới cô, bởi vậy
cực cô không than, và nghèo cô cũng không sợ. Khối tình của cô ban đầu tại cha
mẹ gây cho cô, mà lần lần cô lại nung đúc dài mãi thêm, cô làm cho nó cứng chắc
vững bền rồi cô ôm ấp khối tình ấy hoài, cô vui với nó, cô buồn với nó, cô
trông nó, cô giận nó, cô khóc nó, cô mừng nó, cô mê mẫn nên quên hết thế sự,
không kể giàu nghèo, không màng sướng cực.
Có đêm cô nằm một mình cô nhớ khi mẹ cô khuất Lâm Yên không đến
mà Thủ Hiệp cũng không đến thì cô buồn vừa nghĩ là Lâm Yên không đến vì có bịnh
nên cậy người đến điếu tang dùm còn Thủ Hiệp không đến chắc là Thủ Hiệp không
có ở trong nhà chớ không lẽ người có học mà vong hôn bội ước, Phi Phụng nặng
tình rồi tưởng ai cũng nặng tình như mình nên mới trông đợi Thủ Hiệp hoài không
nghi ngờ chi hết.
Bữa nọ trời chiều mát mẽ, cô lại nhà Hương cả Mai chơi. Cô đến
đó không có ông Cả ở nhà, bà Cả tiếp rước mời ngồi, mới nói chuyện chợt thấy có
một chú trùm đem nhựt trình đến cho ông Cả. Đã lâu rồi Phi Phụng không đọc sách
và cũng không xem báo. Nay đi chơi cô thấy có tờ nhựt báo cô mừng lắm nên mở ra
xem. Cô dòm chương đầu, thấy mấy bài luận dông dài làm cho cô buồn ý nên cô lật
qua chương sau. Vừa mới liếc thấy một bài bằng chữ lớn tựa đề: "Trai tài
gái sắc." Cô đương khoan khoái về duyên cầm sắc, lại gặp một bài như vậy,
tự nhiên cô muốn đọc, thử coi gái nào có chồng trước mình, đọc thử coi trai nào
học giỏi có bằng Thủ Hiệp hay không lại dám xưng trai tài. Hởi ôi! Cô mới đọc
vài hàng thì cặp mắt chói lòa tay cầm tờ nhựt trình run run mặt tái xanh, chân
lạnh ngắt, lưng mồ hôi ướt đẫm. Phi Phụng buông tờ nhựt trình đứng dậy liền từ
bà cả về liền. Bà cả không hiểu tâm sự của Phi Phụng, song bà thấy cô xem nhựt
trình rồi nghi, nên kêu con ra biểu đọc hết chương ấy cho bà nghe, té ra theo
bài trai tài gái sắc đó nói, ngày rằm tháng 6 Lâm Thủ Hiệp, con của hội đồng
Lâm Yên ở Trà Kha (Bạc Liêu) sang học bên Pháp đã học đậu tú tài. Lễ cưới cô Hà
Thị Ngà, ái nữ ban biện Hà Xuân Vinh: nhà cự phú ở Phú Lộc (Sóc Trăng ).
Phi Phụng ra khỏi nhà bà cả Mai thì tối tăm mặt mày không thấy
đường đi, cô ngó qua nghiêng lại như người say, một tay ôm áo, một tay xách
giày, trẻ nhỏ ngó thấy kỳ quá, nên đứng ngó sững. Cô về đến nhà không kịp rửa
chân, quăng giày dưới ván rồi đi thẳng vào buồng nằm khóc. Bấy nay cô mong đợi
Thủ Hiệp bao nhiêu, bây giờ cô buồn rầu bấy nhiêu. Thôi, thân phận cô từ rày
còn gì trông mong nữa! Mẹ cha vĩnh biệt, sự nghiệp điêu tàn, nhờ có một chút
tình riêng nó làm đỡ buồn nay chút tình ấy cũng tan rã, thế thì sự sống của cô
còn nghĩa gì! Cô nằm nhắm mắt mà giọt lụy đầm đìa, trong trí tối đen không biết
đâu mà suy tưởng. Cách một rồi cô vùng dậy nói: "Không có lý nào Thủ Hiệp
đành bỏ tôi đi cưới vợ khác. Mấy người làm nhựt trình họ nghe phong phanh rồi họ
đặt điều nói bướng. Tôi vì ảnh mà thân ra cực khổ như vầy, lẽ nào ảnh không biết
hay sao lại nở tâm đành lòng phụ bạc".
Cô bới đầu rồi bước ra rót nước uống như thường. Trời đã tối
nên trẻ ở khép cửa đốt đèn. Cô đốt một cây nhang cắm trên bàn thờ rồi lại ván
ngồi. Trẻ ở dọn cơm bưng lên cô lắc đầu khoát tay, tỏ ý cô không muốn ăn. Tứ bề
vắng vẻ, bỗng nghe ngoài kinh có tiếng ghe chèo sạt sạt rồi lại có người cất giọng
hát mấy câu lảnh lót:
Nghĩ tơ duyên quá bớ
Giận căn nợ bời rời
Đau lòng ai lắm bớ ai ơi
ơ xui chi gặp gỡ...
Chẳng trọn đời với nhau!
Phi Phụng nghe giọng hát rất bi thảm. Và câu hát lại giống
tâm sự của cô, nên cô mủi lòng ngồi khóc sướt mướt. Cô buồn rầu ăn ngủ không được
nhưng trong lòng cô cứ nói thầm rằng không lẽ nào Thủ Hiệp lại đành lòng bỏ cô
đi cưới vợ. Cô đếm từng ngày, đến chiều 14 cô biểu đứa ở đi mượn ghe đặng khuya
cô đi Bạc Liêu.
Cô xuống ghe hồi trời hừng sáng, lối 10 giờ cô lên tới Trà
Kha, cô biểu ngừng ghe ngang cửa Lâm Yên, song đậu mé bên sông, rồi cô ở trong
lén dòm. Thiệt quả,
nhà Lâm Yên trưng rực rỡ, trước sân cất một cái rạp, ngoài
treo cờ, trong thắt bông, khách khứa đông đầy, trẻ nhỏ trửng (38) rần rật. Cô
ngồi khoanh tay ngó hoài, không nói chi hết. Cách chừng nửa giờ đồng hồ, cô
nghe con nít chạy la: "Rước dâu về" om sòm, rồi thấy xe hơi liên tiếp
nhau tới, ngừng ngay trước cửa Lâm Yên.
Thủ Hiệp đầu bịt khăn nhiễu đen, áo rộng mình xanh lót đỏ,
trên xe vén áo bước xuống đưa tay vịn cho nàng dâu xuống xe. Phi Phụng ngồi
trong ghe ngó trân trân, song mắc ngó Thủ Hiệp nên không nhìn rõ nàng dâu, chừng
sực nhớ lại muốn coi nàng dâu thì nàng dâu đã đi vô cửa nên thấy áo rộng xanh
thôi, chớ không thấy chi nữa.
Hai người chèo ghe đã có nghe ông Huyện khi gần tắt hơi ngài
có trối phải gả Phi Phụng cho con Lâm Yên, nay lên tới Trà Kha thấy Lâm Yên cưới
vợ cho con, xe hơi rầm rộ, thiên hạ đông đầy thì biết rõ ý của Phi Phụng đau đớn
là dường nào, nên nghe biểu nhổ sào chèo ghe về, họ vâng lời ngay, không hỏi thử
coi sao cô nói đi Bạc Liêu lại không đi và cũng không dám hỏi coi sao Thủ Hiệp
đã nói cô rồi bây giờ đi cưới vợ khác? Hai người chèo ghe tuy họ dốt nát quê
hèn, nhưng họ thấy phận cô như vậy họ cũng động lòng, trông cho cô nói chuyện họ
nói lời an ủi cho cô đở buồn. Chẳng dè cô nằm im lìm, cho đến chừng ghe về đến
nhà, cô bước lên rồi ngó lại hai người chèo cười nói tỉnh táo: "Hai anh vô
nhà bầy trẻ dọn cơm ăn rồi hãy về".
Cái khối tình thình lình ta ra nước, chảy cuồn cuộn không thể
ngăn nổi, chỗ mơ ước thình lình hóa ra khói, rồi bay nghi ngút, không thể cầm lại
nữa, người có tâm huyết gặp cảnh như vậy còn cười còn nói như thường nghĩ thiệt
kỳ lạ. Phi Phụng xác không phải bằng cây, ruột gan không phải bằng đá, cách mấy
ngày trước vừa nghe phong phanh chưa chắc Thủ Hiệp bỏ mình đi lấy vợ khác, sau
lại buồn rầu ăn ngủ không được còn bữa nay đã thấy tận mắt rồi, chẳng còn nghi
ngờ gì nữa, sao lại tỉnh táo như thường? Ấy là Phi Phụng cứng cỏi nay thấy chắc
chắn Thủ Hiệp đã bội ước rồi, không thèm mơ tưởng nữa, rồi lại đâm ghét. Xưa trọng
Thủ Hiệp bao nhiêu, giờ cũng chê thầm tánh tình bấy nhiêu. Vì mắc ghét, mắc chê
cô quên buồn, quên rầu chớ có chi lạ.
Ở nhà, có tôi tớ lộn xộn, có lối xóm tới chơi, vẫn vui vẻ như
thường, dường như chẳng có trắc trở tâm sự hết chi vậy, duy lúc ban đêm cô nằm
một mình ngọn đèn leo lét bóng, luồng gió phất phơ màng, cô suy xét việc đời,
nhớ việc cũ nghĩ việc mới, có bữa cô lạnh trong lòng rồi muốn bỏ nhà đi lên Sài
Gòn, xin vào trường học nữa, học hoài; học cho thật giỏi, không thèm lấy chồng.
Ban đầu cô tính sơ qua chớ chưa thiệt quyết định, chẳng dè từ ấy về sau đêm cô
tính quanh quất rồi cũng nghĩ tới việc đó hoài. Cách chừng nửa tháng Tú Cẩm lại
xuống Cái Cùng, vừa bước vô nhà liền nói với cô:
- Hồi trước qua có nói với em rằng Thủ Hiệp là thằng chó điếm,
bây giờ em coi có quả như vậy không? Nó đã cưới vợ khác rồi? Nó thấy gia tài
bây giờ về qua hết, em không có tiền nên nó bỏ em kiếm nhà giàu khác thấy chưa?
Phi Phụng nghe nói cúi đầu không nói chi hết. Tú Cẩm tưởng
Phi Phụng chịu thua nên thừa dịp năn nỉ biểu Phi Phụng về Bạc Liêu mà ở. Phi Phụng
không chịu đi.
Tú Cẩm nói rằng nếu Phi Phụng không chịu về Bạc Liêu anh ta
cũng ở đây hoài không chịu về. Phi Phụng thấy vậy liền tom góp quần áo, bỏ vào
giỏ mây, rồi nói:
- Về Bạc Liêu tôi về. Mà anh phải để tôi về trước hai bữa, rồi
anh về sau, chớ tôi không chịu về chung một lượt.
Tú Cẩm gật đầu rồi biểu Phi Phụng lấy ghe của anh ta đi, chừng
nào về tới nhà rồi cho ghe trở xuống rước anh ta. Phi Phụng đốt nhang cắm trên
bàn thờ, nước mắt tuôn đầm đìa, song ráng lạy bốn lạy rồi xách gói xuống ghe ra
đi.
Tú Cẩm thấy Phi Phụng bằng lòng trở về Bạc Liêu với mình,
trong lòng mừng rỡ vô cùng, muốn mướn ghe khác về theo liền ngặt đã nói lỡ với
Phi Phụng rằng mình ở chờ ghe xuống rước rồi sẽ về, nên cực chẳng đã phải ở dưới
Cái Cùng, song nóng nảy nằm ngồi không yên, cứ ra vô trông ghe hoài.
Trông trọn một ngày đó thấy ghe không trở xuống, anh ta bức rức
trong lòng, nghĩ thầm rằng chắc bị gió ngược nên ghe trở xuống không kịp. Chẵng
dè trông,mãi cũng không thấy ghe. Qua bữa sau gần 12 giờ trưa ghe mới tới. Tú Cẩm
rầy mấy tên bạn và hỏi cớ nào xuống trể nãi như vậy. Mấy người chèo ghe thưa:
- Hôm qua anh em tôi về tới nhà 3 giờ chiều. Anh em tôi muốn
trở xuống liền để rước cậu. Ngặt cô hai không cho nói rằng anh em tôi chèo ghe
trọn một ngày mệt hỏi, nên biểu ở nhà nghỉ một đêm đến hồi khuya nầy cô hai mới
cho đi.
Tú Cẩm nghe nói gật đầu, rồi lặng thinh không rầy nữa. Anh ta
hối bạn ăn cơm riết rồi nhổ sào chèo trở về Bạc Liêu liền. Lối 7 giờ tối anh ta
trở về nhà; khi bước vô nhà trong lòng khấp khởi, ngó quanh quất không thấy dạng
Phi Phụng bèn kêu gia dịch mà hỏi:
- Cô hai đâu bây? Từ hôm qua đến nay bây có lo cơm nước cho
cô ăn tử tế không?
Thằng Su chạy ra thưa:
- Thưa cậu, hôm qua cô hai về tôi dọn cơm nước tử tế. Cô hai
ngủ nhà đêm hồi hôm, đến khuya cô thức dậy sớm, biểu tôi coi nhà đặng cô vô chợ
mua đồ ãn, không biết cô đi đâu, từ khuya cho đến bây giờ không thấy trở cô về.
Tú Cẩm nghe nói liến biến sắc, ngồi dựa ngữa trên ghế hỏi lớn:
- Hôm qua cô về có xách theo một gói quần áo; vậy chớ khi cô
đi cô có đem cái xách ấy hay không?
- Thưa, hồi chiều nầy tôi thấy cô không trở về tôi mới coi lại
thì cái xách ấy đâu mất, không có trong buồng.
Tú Cẩm ngồi thở ra, bộ mặt coi chẳng vui, biểu đem xe hơi ra
đặng anh ta ra chợ. Xe hơi đậu trước thềm rồi anh ta đứng suy nghĩ, không chịu
lên xe, lại biểu thằng Su với thằng Tự ngồi xe đi kiếm hỏi thăm coi có ai thấy
Phi Phụng đi đâu hay không?
Cách vài giờ đồng hồ xe trở về. Tú Cẩm vừa nghe tiếng xe ra đứng
trước cửa ngóng. Thằng Su thằng Tự xuống xe thưa:
- Cô hai đi Sài Gòn hồi sớm mai rồi.
Tú Cẩm hỏi rằng:
- Sao mầy biết? Ai nói với mầy?
- Tôi gặp anh lính gác cầu tàu, tôi hỏi thăm anh ta nói hồi sớm
mai anh ta thấy cô hai xuống tàu "Hirondelle" đi rồi.
- Thưa cậu, tôi sợ cô ra Đại Ngãi rồi sang tàu
"Pélican" đi Mỹ Tho, chớ có qua Đại Ngãi hoặc Rạch Lớp làm gì?
- Tú Cẩm chắp tay sau lưng đi qua đi lại trước sân không thèm
nói nữa... Ði cho đến 12 giờ khuya mới chịu vô nhà ngủ.
----------------------------------
36 la phong, trần nhà
37 người làm mai mối
38 chơi giỡn một cách mạnh bạo
CHƯƠNG 6 -
P
hi Phụng đi đâu? Nào ai biết, còn Phạm Duy Linh một là tình,
hai là chán đời, ba là muốn lập nghiệp nên bỏ xứ đi trước rồi.
Duy Linh một thầy một tớ chở đồ lên Sài Gòn, tuy bỏ xứ sở ra
đi mà trong lòng đau đớn sắc mặt kém vui, song sự uất ức còn dồi dào trong trí,
tình lở dở cứ theo đuổi trong lòng, bởi vậy đi dọc đường hăm hở quyết trong
lòng cần mẫn làm cho trở nên giàu, quyết bươn chãi cho trở nên sang đặng ngày
sau dầu không chắp được mối tơ duyên cũng ngó ngay bạn giàu sang không hổ.
Thảm thương thay người trẻ tuổi lại chán đời! Lòng nhiệt
thành thì thiệt nhiệt thành, chí quảng đại thì thiệt quảng đại, nhưng vì chưa
quen thuộc đường đời, chưa lịch lãm nhân sự, bởi vậy lòng nhiệt thành đã vô ích
mà lại hại mình, còn chí quảng đại phát ra không hợp thời nên đã không được
khen lại bị người khinh bỉ.
Duy Linh trong lưng có 2000 đồng bạc trí quyết làm trở nên
giàu sang, đi dọc đường không tính trước coi phải làm việc gì trở nên giàu, phải
dùng chước nào đặng trở nên sang, bởi vậy chừng xe lửa lên tới Sài Gòn rồi thầy
trò khiêng rương ra khỏi ga, đứng ngó dáo dác không biết đâu đặng đi.
Có một xa phu tưởng Duy Linh là học trò nhập trường nên kê xe
lại nói:
- Vô trường nào để tôi kéo đi cho.
Duy Linh còn đứng ngơ ngẩn không nghe lời tên xa phu nói, lại
tên xa phu tưởng Duy Linh chịu nên để xe trước mặt chờ. Cách một hồi Duy Linh mới
hỏi tên xa phu:
- Ở đây có khách sạn nào, anh làm ơn chở rương tôi lại đó rồi
tôi trả tiền cho. Tên xa phu nghe nói biết là người không thạo Sài Gòn, mà cũng
không từng dùng xe kéo, nên chúm chím cười mà nói:
- Có! Có, để tôi kéo lại Nam Ðồng Hương gần đây. Nhà ngủ Nam
Ðồng Hương sạch sẽ lại rộng rãi lắm.
Vừa nói vừa bưng cái rương để lên xe. Thằng Cử xách theo cái
gói quần áo của nó, thấy tên xa phu ốm yếu nó sợ bưng không nổi, nên nó để cái
gói xuống đất rồi phụ để rương lên xe. Tên xa phu cản không cho tiếp, một mình
để rương lên xe rồi biểu thằng Cử để luôn cái gói lên nữa rồi kéo xe đi trước,
còn hai thầy trò Duy Linh đi theo sau.
Từ ga xe lửa tới Đại Đồng Nam khách sạn dầu đi ngã đường
Schroeder hay là đi ngã đường Amiral Roze cũng chừng vài trăm thước, nhưng tên
xa phu dòm thấy Duy Linh không biết đường nên kéo đi vòng vo theo đường Colonel
Boudonnet, qua đường Chemin Des Dames, xuống đường Lagrandère, trở lại Amiral
Rose rồi mới chịu vô đường Amiral Courbet.
Khi đến trước Nam Ðồng Hương tên xa phu để xe xuống đất rồi
chạy vô tiệm. Cách chẳng bao lâu rồi thấy trong tiệm có hai thằng bồi chạy ra
khiêng rương đem vô. Duy Linh móc bóp lấy hai cắc bạc. Tên xa phu trả lại nói:
- Trời ơi! đường xa mà cái rương lại quá nặng, trả như vậy
sao được. Duy Linh không biết trả sao cho vừa, hỏi tên xa phu thì nó không chịu
định giá, túng thế đưa thêm một cắc, trong bụng tính thầm nếu nó còn kêu nài
thì sẽ thêm một cắc nữa là 4 cắc. Tên xa phu không dè Duy Linh đã tính sẵn
trong trí như vậy, chớ không phải nó được 3 cắc rồi mà gọi rằng đủ, nên lấy tiền
rồi kéo xe đi lại phía chợ Mới.
Duy Linh vô tiệm theo bồi lên phòng. Thằng bồi hỏi coi thầy
trả tiền xe hay chưa, thầy nói rằng đã trả 3 cắc rồi. Thằng bồi chưng hửng hỏi
thầy ở đâu đi lại đó mà trả 3 cắc. Thầy nói thầy mướn chở rương từ ga xe lửa lại
đây. Thằng bồi lắc đầu nói:
- Ở ga lại đây trả một cắc đã mắc rồi, sao thầy trả tới 3 cắc.
Duy Linh biết rằng mình lầm nhưng không thấy hổ, thầy chỉ giận bọn hạ lưu gian
dối, nên thầy đáp:
- Thây kệ nó! Nó ăn gian vài cắc bạc không đủ cho nó làm giàu
được. Ngoài miệng thầy nói mấy lời ấy, song trong trí thầy lại nói thầm
"Nghèo thì nghèo chớ phải lập chi tính gian dối chi vậy? Bậy lắm, đừng
thèm học cái thói đó, mình phải dùng nhân nghĩa đặng làm giàu, phải do chơn
chánh đặng trở nên sang với hay, chớ giựt của người ta mà làm giàu, quỳ lại người
ta cho mình sang thì đừng thèm."
Duy Linh rửa mặt chải đầu và thay quần áo và sai thằng Cử đi
kiếm mua bánh mì về cho thầy trò ăn đở, chớ thầy không muốn đi kiếm tiệm cơm
ăn.
Ăn uống xong rồi thằng Cử vì đi tàu xe hai ngày mệt mỏi nên nằm
trên ván ngủ khò. Thầy đóng cửa phòng nằm bên giường hút thuốc, thấy trong
phòng sạch sẽ, đèn khí sáng lòa lại nghe dưới đường Amiral Courbert rần rần
luôn luôn, tiếng người nói, tiếng xe chạy, tiếng máy xe hơi quay, tiếng rao bán
mì cháo, lộn nhau không dứt, làm thầy ta hồi hộp trong lòng, và thuở nay không
quen cái cảnh rầm rộ ấy nên lấy làm khó chịu lắm.
Ðến khuya tiếng người rãn bớt, tiếng xe vắng dần. Duy Linh
yên trí mới nghĩ đến việc của mình. Anh ta tính để rạng ngày đi dạo các nẻo đường
coi thiên hạ buôn bán làm ăn thế nào rồi sẽ kiếm mướn một căn phố hàng để bán.
Qua bữa sau anh ta thức dậy vòng theo chợ, thấy phố phường một
hai từng lầu, tiệm nào hàng hóa cũng chứa đầy dẫy, dọn rực rỡ, chẳng có một căn
nào trống. Anh ta nghĩ vốn mình có 2000 đồng bạc, chắc không thể nào lập một tiệm
lớn như họ được, mà dầu có phố trống cho mình mướn đi nữa, thì biết mua thứ chi
và mua ở đâu mà bán.
Ði đến trưa trở về khách sạn trong lòng lấy làm buồn bực. Chiều
mát anh ta đi nữa, đi vòng mấy đường khác thấy có một căn phố đóng, ngoài cửa đề
bảng "cho mướn",. song coi lại thì thấy phố đó nhằm đường không có
buôn bán, nếu có mướn thì mướn Ðặng ở, chớ không mua bán vật chi được.
Ðêm ấy Duy Linh nằm trong phòng lo tới tính lui thao thức
hoài không ngủ được, lấy làm tức tối vì có vốn nhưng không biết làm sao buôn
bán. Tuy trí quyết làm giàu của anh ta còn bền vững như hồi ở Bạc Liêu mới ra
đi, song đến tận nơi dòm thấy buôn bán là một nghề không dễ gì, trong lòng lo sợ.
Mà lo sợ là không làm giàu mau được, chớ không phải lo làm giàu không được.
Anh ta lại nghĩ dầu mình tính buôn bán vật chi cũng phải sắp
đặt một đôi tháng rồi dọn tiệm mới xong. Mình ở khách sạn mỗi ngày và một đêm bị
trả tiền phòng hết 2 đồng, hai thầy trò ăn uống dầu có tằn tiện cho lắm đi nữa
cũng phải tốn hết 1 đồng, cộng sở phí mỗi ngày là 3 đồng tính ra mỗi tháng tới
90 đồng. Anh ta nhớ tới số 90 đồng thì giựt mình, nên tính đi kiếm nhà quen xin
ở đậu bớt tốn tiền, rồi sẽ liệu bề làm ăn.
Sáng hôm sau Duy Linh đi vô Cầu Kho, tính kiếm nhà người chú
họ là Phạm Phước Ðằng để nương náo, Phạm Phước Ðằng gốc ở Chợ Lớn, bà con một đầu
ông cố với Phạm Duy Hiển. Khi Phạm Duy Hiển còn sanh tiền, mỗi lần đi Sài Gòn đều
ghé thăm và anh em mỗi năm đều có gởi thơ cho nhau vài lần. Tuy bà con đã xa
xôi song anh em một họ không còn ai, nên tình thương nhau cũng như anh em ruột.
Ngày Phạm Duy Hiển mất, Phạm Duy Linh có đánh dây thép cho Phạm Phước Ðằng hay.
Vì đường xa xôi Phước Ðằng không xuống điếu bái được, song cũng có gởi thơ phân
ưu tới mẹ con Duy Linh.
Duy Linh vô tới chợ Cầu Kho hỏi thăm họ chỉ nhà đường nhà thờ,
nên tìm được. Vì thuở nay Duy Linh không gặp mặt Phước Ðằng lần nào, không hiểu
tánh tình, không rõ cách cư xử, nên Duy Linh tới cửa trong lòng lấy làm ái ngại.
Anh ta đứng ngoài ngó vô thấy một tòa nhà ngói vách gạch ba căn, sạch sẽ, cao
ráo, chung quanh nhà trồng bông bụp tụi (39) mà làm rào, trước có một cái sân
nhỏ mà trồng bông chơi, còn hai bên có hai khoảng đất trống, bề ngang chừng năm
ba thước. Duy Linh đương đứng ngó, bỗng đâu có một tên gia dịch của Phước Ðằng
đi chợ về, xách giỏ xăm xăm đi vô cửa. Duy Linh kêu lại hỏi thãm: "Họ nói
nhà nầy của ông Phạm Phước Ðằng, có phải như vậy hay không anh".
Tên gia dịch gật đầu nói phải rồi bỏ đi vô. Duy Linh đi theo
vô sân rồi bước lên thềm đứng ngó vô nhà, thấy bàn ghế láng bóng, chưng dọn lộng
lẫy nhưng không thấy ai phía trước hết. Duy Linh đứng đợi hồi lâu, làm bộ ho
coi có ai ra hay không, té ra ho hai ba tiếng mà cũng không thấy ai ra.
Anh ta bước xuống thềm và đi vòng lại góc tường, dòm theo đường
của tên gia dịch đi vô hồi nãy cũng chẳng thấy ai, song nghe tiếng nói chuyện
nho nhỏ ở phía sau nhà bếp. Duy Linh đứng ngó một hồi nữa, bỗng nghe trong nhà
có tiếng giày. Anh ta lật đật trở lại bước lên thềm mà tằng hắng, nghe trong buồng
có tiếng đàn bà kêu:
- Sảnh à! Có ai ở ngoài trước kìa, sao mầy không ra ngoài coi
nhà, lại rút vô bếp làm giống gì đó vậy?
Tức thì có một đứa con gái trạc 16, 17 tuổi, bận quần vải
đen, cặp mắt lộ lại lớn, miệng rộng, môi mỏng, mặt có thẹo hai ba đường, coi bộ
hung ác lắm, ở trong buồng sốc sốc đi ra hỏi:
- Thầy đi đâu?
Duy Linh lột nón cầm trong tay, bước vô cửa rồi đáp:
- Tôi ở dưới Bạc Liêu, sẵn có dịp lên Sài Gòn ghé đây thăm
chú thím tôi. Có chú thím tôi ở nhà không?
Con tên là Sảnh ấy liền đáp:
- Có, mà ông tôi còn ngủ; còn bà tôi đã thức dậy rồi còn rữa
mặt. Thầy ngồi chơi một chút, để tôi vô thưa lại với bà tôi.
Duy Linh bước vô, không dám kéo ghế giữa ngồi, song đứng lâu
đã mỏi chân, nên lại ngồi ghé nơi đầu ván bên tay mặt. Anh ta dòm coi trong nhà
dọn dẹp thật đẹp, cửa buồng cửa sổ đều có treo màn, hai bên hai bàn thờ, chánh
giữa để một tủ sắt lớn, trên đầu tủ lại có thờ bức tượng Quan Âm. Anh ta liếc
thấy trong cửa buồng có một người đàn bà đứng núp tấm mành mành mà dòm, song
người ấy không chịu ra, nên anh phải ngó lơ ra ngoài sân, làm bộ như không thấy.
Duy Linh nghi Phước Ðằng đã thức dậy nên nghe có tiếng nói
chuyện với vợ, thiệt quả cách chẳng bao lâu thì thấy có một người đàn ông độ chừng
50 tuổi đầu cúp kiểu ma ninh, tóc đã bạc hoa râm, mép có râu vuốt ngoảnh lên
hai bên, bận áo lục soạn trắng quần lãnh đen, chân đi giày hàm ếch ở trong buồng
bước ra ngó Duy Linh hỏi:
- Thầy là ai tôi không biết, đến có việc chi hay chăng?
Duy Linh đoán chắc người ấy là chủ nhà nên lật đật đứng dậy
thưa:
- Thưa chú, cháu là con của Hương Chánh Hiển dưới Bạc Liêu.
Người ấy quả thật là Phạm Phước Ðằng, vừa mới nghe Duy Linh
xưng là con của Hương Chánh Hiển liền nói:
- Vậy hay sao! Té ra cháu là con của anh hai sao? Bất nhơn dữ
hôn! Bà con mà thuở nay không gặp nhau, chừng gặp nhau ngó nhau như người dưng.
Phước Ðằng day mặt vô buồng kêu vợ:
- Má nó a! Con của anh hai ở Bạc Liệu đây nè! Vậy mà nãy giờ
má nó không biết, tưởng là thầy nào đến vay hỏi tiền bạc chớ. Cháu năm nay mấy
tuổi, có vợ con gì hay chưa? Nãm trước chú hay anh hai chị hai mất nhưng mắc bận
việc nhà quá nên không xuống được. Anh hai có một mình cháu thôi, chớ có đứa
nào nữa đâu há? Cháu qua bên ghế đây ngồi, cháu.
Phước Ðằng hỏi nói lăng xăng làm cho Duy Linh không biết đâu
mà trả lời. Kế đó lại người vợ bước ra nữa. Duy Linh đứng dậy chắp tay chào, liếc
coi người đã gần 50 tuổi, bới tóc vén vung, mặt dồi phấn, bận áo lụa trắng, áo
màu tro, lại có đeo bông tai, cà rá, dây chuyền, nhẫn hột xoàn chiếu xanh xanh
đỏ đỏ. Vợ Phước Ðằng đứng ngó Duy Linh tay xỉa thuốc sống, cách lâu dài và nói:
- Vậy mà con nhỏ ở nó vô nó nói có thầy nào lạ, nên có dè là
cháu đến đâu. Tội nghiệp cháu vô phước quá! Chẳng bao lớn mà mồ côi hết cả cha
lẫn mẹ. Cháu có vợ rồi hay chưa....
Duy Linh nghe hỏi lấy làm buồn, nên đứng dậy rón rén thưa:
- Cha với má cháu mất mấy năm nay, phần cháu buồn rầu lo việc
nhà, phần cháu ăn ở không yên nên cháu chưa dám tính tới việc đôi bạn.
Phước Ðằng nói:
- Năm trước anh hai có ghé một lần, ảnh nói chuyện kiện ruộng
đất dành với ai đó, vậy ảnh kiện đặng hay thất?
- Thưa chú! Thất. Cha cháu bị thất vụ kiện ấy nên buồn rầu
mang bịnh đến chết đó đa.
- Té ra thất kiện hay sao? Ảnh còn sở ðất nào khác nữa hay không?
- Thýa, cha Cha cháu thất kiện hết mấy trăm mẫu ruộng. Bây giờ để lại cho cháu
còn có 12 mẫu.
- Bất nhân dữ hôn! Ảnh có mắc nợ ai nữa không?
- Thưa không.
- Thôi, vậy cũng may cho cháu. Chớ nếu ảnh để nợ lại càng khổ
cho cháu.
Ba người ngồi ngó nhau, chẳng còn biết việc chi hỏi nữa. Cách
một hồi vợ chồng Phước Ðằng mới nói.
- Cháu lên Sài Gòn chơi hay là đi có việc chi?
- Thưa chú thím, chẳng dấu chi. Cháu lên Sài Gòn tính lập tiệm
buôn bán.
- Cháu có vốn liếng gì hay không mà tính buôn bán.
- Thưa, cháu có vài ngàn đồng bạc.
Phýớc Ðằng suy nghĩ một hồi rồi nói:
- Ở Sài Gòn tuy buôn bán thịnh thật, song tiệm nhiều phố xá lại
mắc quá, nên coi buôn bán cũng chẳng có lợi bao nhiêu. Mà thuở nay cháu có tập
buôn bán rồi hay chưa?
- Thưa, chưa.
- Húy! Nếu cháu chưa thạo nghề buôn mà xướng ra lập tiệm thì
lỗ chết còn gì. Không được đâu. Ðể chú nói cho cháu nghe: Phàm làm một người
buôn bán, cần nhứt phải biết tính toán cho giỏi, rồi cũng phải giao hảo với người
ta nhiều, bởi vì nếu không biết tính toán vác tiền đi mua thứ hàng người ta ít
dùng đem về bán không chạy, vốn đã mắc kẹt không sanh lợi được, mà hàng để lâu
rồi hư mục sau rồi phải chịu bán lỗ rẻ, còn không quen biết người ta cho nhiều
tự nhiên ít mối hàng; mà ít mối hàng sợ lỗ sở phí chớ đâu có lời được. Cháu thuở
nay chưa quen buôn bán có biết thứ nào họ dùng nhiều để mua, thứ hàng nào họ ít
dùng mà chừa. Còn cháu lên đây còn xứ lạ không quen biết với ai làm sao có mối
hàng đông cho được? Chú coi cháu buôn bán không xong đâu, sợ cháu làm ít tháng
rồi lỗ hết vốn.
Duy Linh suy nghĩ biết những lời của Phước Ðằng mới nói đó đều
có lý nhưng vì trong lòng còn đang sốt sắng về việc thương mãi nên tính thầm rằng
nếu mình chưa biết thứ hàng nào họ cần dùng nhiều thì mình đi chơi đặng dọ một
ít lâu cho biết rõ rồi sẽ làm, còn như mình chưa quen với ai rồi thủng thẳng
mình sẽ làm quen, có khó gì; ở đời có nghề nào dễ, hễ muốn ăn phải lăn vào bếp,
nếu mình thấy khó rồi do dự thì làm sao làm giàu cho được. Duy Linh nghĩ như vậy
rồi thưa:
- Chú thương cháu nên chú chỉ đường phải nẻo quấy cho cháu
như vậy cháu lấy làm cảm ơn chú lắm. Song cháu đã quyết chí và cháu đã biết
cháu có đủ trí buôn bán được.
- Cháu học đã có bằng cấp tài năng rồi hay chưa?
- Thưa cháu học trường Mỹ Tho có vài năm kế cha mẹ cháu qua đời,
cháu phải thôi, không học nữa được.
- Học Mỹ Tho đã được vài năm, cũng khá rồi. Nầy, cháu để chú
nói cho cháu nghe; đời nầy khó làm ăn lắm, phải khôn lanh quỷ quyệt lắm mới làm
ra tiền, chớ chân chất thật thà dầu có tiền họ cũng ăn hết. Cháu còn nhỏ tuổi,
chưa lịch lãm việc đời, bây giờ trong kiến họ mình còn mình chú là lớn, không lẽ
chú không dìu dắt cháu. Chú tính như vầy: Cháu hãy làm một lá đơn xin vào sở
Trường Tiền làm việc. Mấy thầy ngoài Trường Tiền họ hỏi tiền chú hoài nên chú
quen thiếu gì. Chú dắt cháu ra chú gởi gấm cho họ, chắc họ đem cháu vô được.
Cháu làm việc lãnh lương để tiêu xài, còn số bạc vốn của cháu đó để chú cho vay
dùm cho. Cháu học đã khá chắc có lẽ làm không thua sút họ, còn số hai ngàn đồng
bạc chú cho góp tháng góp ngày, bề nào mỗi tháng cũng sanh lợi được đôi ba chục
đồng bạc tính ra một năm cũng lợi được đôi ba trăm, tích tụ nhiều năm ắt cũng
khá được. Cháu hãy nghe lời chú làm như vậy đi, chớ đừng có bắt chước họ bày đặt
lập tiệm buôn bán, không khá đâu.
Duy Linh ngồi lặng thinh, không trả lời, thầm nghĩ mình đã
không chịu làm việc quan, nên bỏ xứ lên đây lẽ nào bây giờ mình lại xin vào sở
Trường Tiền mà làm. Trường Tiền thì lại hơn gì Thương Chánh? Còn cho tiền góp
tuy lợi nhiều song nếu có lợi nhiều tất nhiên thất đức. Mình quyết làm trở nên
người giàu sang, trước hết cần phải tu nhân tích đức, chớ mình làm việc thất đức
bất nhân thì làm sao trở nên giàu sang được.
Vợ chồng Phước Ðằng thấy Duy Linh ngồi lặng thinh tưởng Duy
Linh nghe lời nên ông chồng nói tiếp:
- Cháu còn nhỏ, cháu không hiểu, hồi trước chú đây với ông
già cháu hai anh em ở trong Chợ Lớn mỗi người trong nhà có chừng đôi ba trăm đồng
bạc vốn chớ đâu có nhiều. Khi anh với chị hai tính xuống Bạc Liêu khẩn đất làm
ruộng, anh hai có rủ chú. Chú mới ra Sài Gòn tính vào hãng buôn làm. Chú học
ít, tuy biết nói tiếng Pháp, song nói liều mạng trúng trật trối kệ, may gặp chủ
tử tế nên ban đầu cho chú đứng bán rồi sau cho chú đi đòi tiền. Chú làm ít năm
khôn lanh lắm nên dư được một ngàn. Chú đi làm, còn thím cháu ở nhà cho tiền góp,
chẳng bao lâu chú trở nên giàu. Chẳng giấu cháu làm chi, bây giờ chú có mấy
muôn rồi. Cái nhà với cuộc đất đây hồi trước chú mua có một ngàn rưởi mà bây giờ
đáng năm sáu ngàn. Còn những hột xoàn của thím cháu và của con nhỏ đeo nếu tính
hết cũng gần muôn. Mấy nãm nay chú không thèm làm việc chi hết, cứ ở nhà húng
hính cho vay lấy lời xài. Ai vay lớn chú cũng cho, ai vay nhỏ chú cũng cho,
song vay lớn phải thế giấy ruộng, còn vay nhỏ phải góp tháng hoặc góp ngày. Bây
giờ huê lợi của chú một tháng xê xích hai ba trăm, cháu coi sung sướng hay
không, chớ phải hồi trước chú nghe lời anh hai chú đi làm ruộng thì làm sao
giàu được như vầy? Nghĩ lại mỗi người đều có số mạng riêng, chắc mạng của chú tốt
nên trời mới để dành phần, còn anh hai tại mạng xấu nên làm cực khổ mà không ra
cái cóc rác gì hết.
Duy Linh nghe nhắc tới việc cha mẹ thì buồn nên ngồi chim bỉm.
Cách một hồi thấy dọn cơm, vợ chồng Phước Ðằng mời Duy Linh đi ăn cơm. Vợ chồng
Phước Ðằng niềm nở tử tế, nên Duy Linh tuy lạ mà không bở ngở chút nào. Duy
Linh có ý trông cho chủ nhà hỏi thăm chỗ ở, đặng mình thừa dịp xin ở đậu, song
hai vợ chồng hỏi việc nầy, nhắc việc nọ, nói không dứt, nhưng không chịu hỏi tới
chỗ ở của mình. Chừng ăn cơm rồi, Duy Linh không kể hiềm nghi nữa, nên nói phứt
rằng mình lên Sài Gòn một thầy một tớ không quen biết ai, ở khách sạn hoài thì
hao tốn nhiều, vậy xin cho đùm đậu ít ngày chừng kiếm thế làm ăn được rồi sẽ mướn
phố ở.
Phước Ðằng nghe nói thì ngó vợ, người vợ liền đáp:
- Ở trong nầy đi làm việc thật có xa một chút. Song nếu cháu
muốn ở thì được, có hại chi đâu.
Phước Ðằng tiếp mà nói:
- Con nhỏ ở trong trường cả tháng mới về một lần; nhà chú rộng
rinh có hai vợ chồng ở trong buồng còn phía ngoài bỏ trống. Vậy cháu vô đây đặng
ở cho khỏi tốn hao. Cháu có đem đồ đạc theo hay không? Thôi, ra lấy đồ vô đây
mà ở.
Duy Linh tạ ơn rồi ra khách sạn trả tiền phòng và chở rương
vô Cầu Kho mà ở đậu. Ðêm ấy Phước Ðằng nhắc Duy Linh, biểu làm đơn cho sẵn đặng
sáng ngày anh ta dắt ra sở Trường Tiền xin dùm cho việc làm. Duy Linh nghe những
lời Phước Ðằng khuyên dạy hồi sớm mai tuy không tỏ ý ra, song trong lòng đã quyết
định rồi, bởi vậy vừa nghe tới việc xin làm việc quan liền đứng dậy thưa:
- Thưa chú, hồi sớm mai chú dạy cháu mấy lời cháu không dám
cãi, song cháu lại nghĩ bụng cháu không muốn làm việc quan chút nào hết, nên
cháu sợ làm không kham, rủi phận cháu đã lỡ dở, mà chú lại gởi gấm lại e mang
tiếng. Vậy cháu xin chú thím làm phước cho cháu đùm đậu ít ngày đặng cháu lo
làm ăn. Ơn chú thím giúp cho cháu bấy nhiêu đó cũng đã nặng bề rồi, cháu chưa ắt
ngày sau đền đáp được không dám làm nhọc lòng thất công chú nữa.
Phước Ðằng nghe nói ngó vợ chưng hửng, không hiểu vì cớ nào
mình sẵn lòng giúp đở cho cháu có sở làm, nay nó lại không chịu, nên hỏi:
- Sao cháu không chịu làm việc quan?
- Thưa chú, ý cháu muốn buôn bán, chớ làm việc khó lòng quá,
nên cháu không ham chút nào hết.
- Nầy cháu, đời nầy học trò ra trường mỗi năm đều năm ba
trăm, đứa nào cũng đi xin việc làm, bởi đông quá nên nhiều đứa có bằng cấp tốt
nghiệp đủ hết mà cũng kiếm không được chỗ làm. Chú có thể làm cho cháu có chỗ
việc làm được, ấy là may cho cháu lắm, sao cháu lại chê? Cháu phải tính lại,
cháu phải đi làm việc quan cho có danh tiếng chút đỉnh, rồi thủng thẳng chú kiếm
con gái tử tế nói vợ dùm cho cháu, chớ cháu không làm thầy nói vợ sao được?
- Thưa chú, chú thương cháu nên chú tính cho cháu như vậy,
thiệt cháu cảm ơn vô cùng. Song phận cháu nghèo hèn, một mình cháu làm chưa chắc
đủ ãn, đâu dám tính kết đôi bạn?
Vợ Phước Ðằng cười nói:
- Cháu sợ có vợ rồi phải nuôi nó hay sao? Nếu nói vợ dùm cho
cháu ta lựa chỗ có ăn cho cháu nhờ cậy được, chớ ai khờ dại gì kiếm con nhà
nghèo đặng cho cháu nuôi nó hay sao mà cháu lo sợ.
- Thưa thím, làm trai hễ có vợ phải nuôi vợ, chớ nhờ vợ sao
phải. Nhưng vì bụng cháu chưa muốn cưới vợ, nên chưa tính chớ không phải sợ cưới
vợ nghèo. Chẳng giấu chi chú thím, cháu ở dưới Bạc Liêu vì phận nghèo hèn bị
người ta khinh dể, nên cháu mới lên đây quyết chí làm sao trở nên giàu sang cho
được, cháu mới vừa lòng.
Phước Ðằng nghe nói vỗ tay cười ngất rồi đáp:
- Nếu cháu muốn giàu sang làm sao không chịu nghe lời chú?
Cháu buôn bán biết có giàu được hay không, còn không chịu làm việc quan trở nên
giàu sang sao được? Cháu phải đi làm việc quan rồi đi cưới vợ nhà giàu sang chớ.
Cháu coi như ông Huyện Hàm Tấn đó bây giờ danh giá ông bay đi cùng sáu tỉnh,
khi trước ổng là người gì? Ông học ít hơn cháu nữa. Họ nói hồi trước ổng học
trường tỉnh Sa Ðéc vừa tới lớp ba hay lớp nhì gì đó, rồi ổng lên Sài Gòn xin việc
mà làm. Ông làm sở Trường Tiền có mấy năm kế ổng đụng một người vợ ở Chợ Lớn
giàu quá, ổng xin thôi làm việc quan, về ở theo bên vợ, nhờ gia tài ở bên vợ ổng
trở nên giàu lớn, rồi sau ổng mua chức Huyện Hàm, vinh quang biết chừng nào. Hồi
trước ổng lên Sài Gòn trong lưng không có tới 10 đồng bạc, mà cũng không có ai
đỡ đần. Bây giờ cháu lên đây đã có vốn được vài ngàn, lại có chú giúp đỡ, nếu
cháu có chí muốn trở nên giàu sang thế coi dễ hơn ổng nhiều lắm. Vậy cháu phải
nghe lời chú, cháu xin vào sở Trường Tiền làm đi. Chú quen với nhà giàu Sài
Gòn, Chợ Lớn thiếu gì, để chú coi chỗ nào cháu có thể nhờ cậy được chú sẽ làm
mai dùm cho cháu. Mà như cháu không muốn lấy vợ thành thị chú sẽ kiếm vợ Lục Tỉnh
cho, nhà giàu dưới Lục Tỉnh lắm ruộng đất cháu càng nhờ được nhiều.
Vợ Phước Ðằng xen vô nói:
- Nầy cha nó, con Kiềm là con ông bá hộ Bảy ở trong Chợ Lớn,
nó ra chơi hoài với con nhỏ nhà mình đó, tôi coi nó xứng với cháu đây lắm. Con
đó mềm mỏng dễ thương, có nết mà lại có sắc. Còn ông bá hộ Bảy, ổng giàu gia sản
tới năm ba muôn, tại chỉ có hai đứa con, nếu cháu đụng vô chỗ đó chẳng khác nào
chuột sa hũ nếp, sung sướng biết chừng nào.
Phước Ðằng đáp:
- Ta còn quen nhiều chỗ giàu hơn nữa, chớ như ông bá hộ Bảy
mà kể làm gì. Nếu mình làm cho cháu ngày sau giàu sang hơn ông Huyện Hàm Tấn đó
mới là quý chớ.
Duy Linh có sắc mắc cở nên ngồi chúm chím cười rồi thưa:
- Ông huyện hàm nào chú nói đó tại cái mạng của ổng như vậy
nên ổng mới giàu sang được. Cháu không có cái mạng kỳ cục đó, nên chắc là cháu
không làm như ổng được đâu.
- Sao vậy?
- Giàu do sức mình làm ra kia họ mới kiêng, chớ nhờ vợ nên
làm giàu thì ai khen giỏi!
- Ủa! Thế nào miễn là giàu có thôi chớ! Người ta không thèm
nhọc công làm, người ta dùng trí mà trở nên giàu, như vậy khôg phải giỏi giang
sao?
- Xin chú tha tội cho phép cháu cạn tỏ. Cái trí đó không phải
là trí quân tử.
- Hại gì! Bây giờ thiên hạ kính phục ổng quá, ai dám khi dể ổng
đâu nào?
- Thưa phải, họ kính phục chớ đâu dám khi dể. Song kính phục ấy
là họ bị quyền lợi câu thúc, hoặc sợ ổng giận không cho vay tiền hoặc sợ ổng ỷ
thế hiếp đáp nên họ sợ chớ trong bụng họ khi dể thầm, ai làm sao mà cản được?
- Ôi! Hơi đâu lo việc đó cháu! Ở đời nầy hễ có tiền nhiều là
sang, chớ tài đức cho lắm mà không tiền thì có ra gì? Cháu không thấy sao? Mấy ổng
nhiều tiền chừng nào, càng sang trọng, thiên hạ càng kính phục chừng ấy, chớ ai
dám chê cười. Nay mình cưới vợ giàu thiệt hại gì đến ai, mà dầu có hại thì hại
một nhà thôi, chớ không hại chi đến dân trong tổng trong quận, hoặc trong tỉnh
sao cháu lại sợ họ khi dể?
- Thưa chú, gạt dân ngu mà lấy tiền, hiếp dân yếu mà giựt của,
theo như chú mới nói đó, lại càng bậy hơn kiếm vợ giàu mà ăn chực nữa. Người khờ
dại họ không biết phân biệt chánh tà, hễ thấy tiền nhiều quyền lớn họ sợ nên họ
kính phục, chớ kẻ biết điều họ coi ra gì?
- Ðời nầy được bao nhiêu người biết điều đâu, cháu kể cho chú
nghe thử coi. Cháu đốt đuốc kiếm cùng trong nước mình sợ cũng không được tới
trăm người. Mà dầu có tới trăm người biết điều đi nữa, cũng không ích gì, bởi
vì hơn hai mươi triệu người khen còn 100 người chê thì sợ nỗi gì. Chú e 100 người
biết điều đó bị thiên hạ nó ganh ghét nữa đó cháu. Sanh nhằm đời nào phải theo
thói tục đời nấy hơi đâu câu chấp. Cháu hãy nghe lời chú xin vào sở Trường Tiền
làm cho có danh tiếng chút đỉnh đi rồi chú giúp cho.
- Thưa chú, cháu không dám cãi với chú cho hết lời, chớ theo
ý cháu nghĩ thứ làm thầy thông thầy ký mà danh tiếng gì. Như cháu đứng buôn
bán, cháu làm chủ lấy cháu, bán không gạt ai, mua hàng tới kỳ trả tiền đủ, dường
ấy cháu không sang hơn thầy thông thầy ký hay sao?
- Phải, chú hiểu ý cháu lắm. Mà tại thời nầy họ ưa thông
ngôn, ký lục, chớ họ không chuộng nghề khác, nhân tâm như vậy cháu phải chìu
theo, chớ trái làm chi.
Duy Linh không đáp nữa, ngồi thở dài, sắc mặt coi chẳng vui.
Vợ Phước Đằng thấy vậy mới nói:
- Ý cháu nó không muốn làm việc quan thì thôi, ba nó ép làm
chi, nó cũng có vốn chút đỉnh để nó buôn bán thử coi.
Duy Linh nghe lời vợ Phước Ðằng nói mấy lời, sợ bà ta giận
nên cười dã lã đáp:
- Thưa thím, cháu lên đây muôn việc đều nhờ chú thím. Thiệt
cháu cũng muốn buôn bán quá, nên cháu quả quyết, vậy để thủng thẳng ít ngày cho
cháu suy nghĩ lại rồi sẽ hay.
Duy Linh móc túi lấy một gói 20 tấm giấy một trăm đưa cho Phước
Ðằng và nói:
- Thưa chú, làm ơn cho cháu gởi hai ngàn đồng bạc đặng chú cất
dùm, chớ cháu để trong mình hoài coi bất tiện quá.
Phước Ðằng thò tay cầm lấy xấm bạc, miệng hỏi:
- Cháu gởi đây là đặng cho chú cho vay dùm, hay là gởi cho
chú cất.
- Thưa, chú cất dùm, chớ đừng cho vay!
- Cháu không chịu cho vay sao? để chú cho vay dùm đặng có lợi
thêm cho cháu; ở đất nầy người ta không cho tiền bạc ở không, tiền bạc gì mà lại
đem cất cho uổng.
- Thưa chú, cháu có chút vốn thiệt cháu cũng muốn sanh lợi lắm,
song muốn sanh lợi phải làm thế nào kia, chớ cho vay tuy có lời mà cũng có hại
nữa.
- Tại là sao? Ồ, cháu sợ họ giựt phải không? Cháu khờ quá! Chẳng
hiểu họ cho vay thế nào, chớ thuở nay chú cho vay có lợi luôn luôn, đâu có hại
mà sợ. Ðể chú nói cách chú cho vay cho cháu nghe: như có hai ngàn đồng bạc, chú
lựa chỗ nào chắc chắn chú cho vay 1000. Ai muốn vay phải thế chấp bằng khoán đất,
hoặc phải có người giàu đứng bảo đảm mới được. Muốn mãn năm trả vốn lời một lượt
chú tính tiền nhẹ hơn hết là 300 đồng, còn nặng là 400 đồng. Như muốn góp mỗi
tháng thì góp 120 đồng, góp 12 tháng tất số. Cháu tính lại coi một ngàn đồng mỗi
tháng có lời ít nhứt cũng 25 đồng, còn 1000 nữa chú cho vay góp nhỏ, từ 50 đồng
sắp xuống, nghĩa là cho 20 chỗ, như muốn góp 3 tháng mỗi tháng góp 20 đồng; như
muốn góp 5 tháng mỗi tháng góp 13 đồng. Còn như muốn góp tiền ngày mỗi ngày phải
góp 1đ,30, góp 50 ngày tất số. Mỗi người vay mình ăn lời 15 đồng, tính ra 20
người số lời được 300 đồng mà số lời ấy là lời từ 3 đến 5 tháng thế thì một năm
mình lời 600 đồng. Ví như vài chỗ trốn mình mất vốn có trên 100 đồng thôi, có hại
chỗ nào đâu. Nếu cháu để cho chú cho vay dùm một năm chú kiếm lợi cho cháu tám
chín trãm đồng, cháu chịu hay không?
- Thưa chú, theo như chú tính đó cho vay lợi thiệt song cháu
sợ thất đức quá, nên cháu không dám cho vay.
- Trời ơi! Ở đời nầy mà cháu lo nhân nghĩa đức hạnh quá như vậy,
có làm ăn nghề gì được? Nếu chú sợ như cháu đó, làm sao ngày nay chú có sự nghiệp
đến mấy muôn đây!
Vợ Phước Ðằng nãy giờ nằm dài trên ván cho con Sảnh quạt, chừng
nghe chồng nói tới đó thì lồm cồm ngồi dậy nhổ trầu mà nói:
- Sao cho vay mà cháu gọi là thất đức? Mình cho vay là làm ơn
cho người ta lắm chớ. Người ta nghèo rủi gặp tai vạ như cha mẹ chết, vợ con
đau, người ta không sẵn tiền chôn cất cha mẹ, hoặc chạy thuốc cho vợ con. Mình
cho người ta vay tức là mình giúp cho người ta trọn hiếu, mình cứu vợ con người
ta; mình làm đó là làm nhơn, ai dám chê mình thất đức?
- Thưa thím, nếu mình giúp tiền mà không ăn lời thì mới gọi
là ơn được, chớ giúp tiền còn ăn lời, nhứt là ăn lời nhiều, đã không ơn mà lại
mang oán là khác.
- Thím cho vay từ thuở nay chưa thấy ai oán. Ai tới đây họ
cũng năn nỉ, họ xin làm ơn cho họ, nếu họ oán sao họ còn năn nỉ?
Duy Linh muốn cãi, song sợ tỏ hết ý sanh mích lòng, nên cười
rồi đứng dậy lấy thuốc hút.
Vợ chồng Phước Ðằng không hiểu ý Duy Linh, tưởng Duy Linh hồi
nãy cải việc không làm việc cho quan rồi bây giờ cãi không chịu cho vay nữa, là
cãi chơi vậy thôi, nên mở tủ cất bạc rồi đi ngủ, trong lòng cứ tính kiếm chỗ
cho vay dùm, đặng Duy Linh có danh tịếng và có vốn thêm chút đỉnh.
Còn Duy Linh đã nhứt định rồi, nên đi ngủ trong trí cứ tính lập
tiệm buôn bán hoài, quyết không chịu sang giàu theo kế của chú thím bày đó.
CHƯƠNG 7 -
M
ỗi ngày hễ Duy Linh thức dậy thay áo đổi quần rồi đi mất, cho
tới 11 giờ mới về ăn cơm. Buổi chiều cũng vậy, từ 3 giờ đến 5 giờ chẳng có Duy
Linh ở nhà. Duy Linh đi khắp các nẻo đường đặng coi có thế chi buôn bán được
hay không.
Vợ chồng Phước Ðằng thấy cháu còn nhỏ, lại thuở nay chưa đến
Sài Gòn lần nào, tưởng nó đi sở thú, đi xem nhà hàng, đi chơi cho biết cảnh
xinh thú lịch đất kinh thành nên không hỏi nó đi đâu, và cũng không nhắc tới sự
xin việc làm.
Bữa nào hễ chiều ăn cơm rồi Duy Linh cũng thấy có nhiều người
đến nhà chú, đàn ông có, đàn bà cũng có, người mặc đồ tử tế vào cửa lớn, còn kẻ
quần vắn áo cụt thì đi vòng cửa sau. Duy Linh thấy có khách thì bỏ ra ngoài,
nên không biết khách đến có việc chi.
Duy Linh đi chơi ít bữa rồi biết rằng vốn của mình có hai
ngàn đồng bạc, nếu mình muốn buôn bán thì bây giờ chỉ lập tiệm hớt tóc, tiệm
may hay là lập quán bán cà-fê với tạp hóa chút đỉnh thôi, chớ không thể khai tiệm
lớn được.
Mà mình không biết may, nếu lập tiệm may mình phải mướn thợ rồi
phú thác hết cho họ, biết họ có tử tế hết lòng với mình hay không? Lập quán
cà-fê coi cũng bất tiện, bởi mình không thạo nghề ấy nên làm chắc cũng khó lời
được. Còn tiệm hớt tóc hoạ may mình làm được, bởi hồi còn đi học, mình hay hớt
tóc dùm cho học trò nên quen tay rồi, bây giờ mình cầm bào cầm kéo không thua
gì thợ, nếu mình làm chủ thợ khó ăn qua với mình được. Ví như mình lập tiệm hớt
tóc mình sẽ mua dầu thơm, nước gội, phấn dồi mặt, phấn đánh răng mình bán, lần
lần rồi mình sẽ bán tới giày, vớ, nón bâu, áo sơ mi, khăn hỉ mũi, có lẽ trong
ít năm mình sẽ khá. Mà bây giờ căn phố nào trống cho mình mướn để khai tiệm?
Duy Linh đang suy nghĩ tới đó lấy làm buồn, bởi vậy nên mỗi
ngày đi hoài, trông chỗ nào trống có thể lập tiệm đặng sẽ mướn liền.
Cách chẳng bao lâu tới cuối tháng, lại nhằm bữa chiều thứ bảy,
Duy Linh ăn cơm rồi, lúc chạng vạng tối ra ngoài đường hóng mát. Hút chưa tàn
điếu thuốc bỗng thấy một cái xe kéo ngừng ngay trước cửa, người ngồi trên xe bước
xuống đi thẳng vào nhà. Duy Linh đứng tránh một bên cho người ấy đi, tuy không
nhìn kỹ, song thấy đầu bịt khăn đóng, mắt mang kiếng, mình mặc áo dài đen chói
láng láng, dưới bận quần (40) Tây rộng ống lại đi giày vàng, tay cầm ba ton
huơi lên chống xuống, đi coi bộ khoan thai lắm. Khi người ấy qua khỏi, Duy Linh
mới ngồi chồm hổm dựa cửa ngó ra đường, thấy tên xa phu ngồi thở dốc hai tay nắm
hai vạt áo quạt lia quạt lịa, làm xe nhúng lên nhúng xuống còn lồng đèn treo
phía sau lúc lắc như gió thổi đong đưa.
Duy Linh nghe trong nhà nói chuyện om sòm, nhưng vì không để
ý đến, nên không hiểu nói chuyện gì. Cách một hồi mới nghe Phước Ðằng kêu nói lớn:
"Cháu à cháu, vô đây biểu cháu. Có ông chủ bút lại đây, vậy vô nói chuyện
chơi". Duy Linh ứng tiếng dạ, lật đật đứng dậy đi vô nhà.
Trong nhà đốt đèn sáng lòa, Duy Linh bước vô chắp tay cúi đầu
chào khách, liếc coi người khách mà chú mình kêu là ông chủ bút đó, tuổi chừng
35, da trắng, miệng dài, mày thưa, càm nhọn, y phục sắc sảo, bộ tướng đoan
trang. Duy Linh chào trọn lễ, nhưng người khách ngước mặt làm ngơ rồi gục gặt đầu
mà thôi, chớ không thèm đứng dậy đáp lễ. Duy Linh thấy khách cao kỳ thì trong bụng
không vui, song nghĩ thầm ông chủ bút là bực kiến thức cao minh, chẳng lẽ lại
là người đồng bậc với mình, nên cũng không lấy đó làm hổ thẹn. Duy Linh đương bợ
ngợ chưa kịp nói chi hết kế Phước Ðằng nói:
- Ðó, thằng cháu tôi đó, nó ở Bạc liêu mới lên ở mấy bữa nay.
Nó học khá quá mà không chịu làm việc quan, y lại muốn buôn bán. Nầy cháu, ông
đây là ông Cao Minh Chiếu biệt hiệu Đại Quang, chắc cháu có nghe danh ông rồi
chớ?
Duy Linh đáp rằng:
- Dạ, thưa cháu có nghe danh ông lâu rồi, vì phận cháu quê
mùa, nên không có duyên hội diện cùng ông. Nay may mắn cho cháu lắm.
Ông chánh chủ bút Cao Minh Chiếu thò tay vào túi lấy cặp kính
ra kẹp ngang sóng mũi, rồi ngó Duy Linh rồi kéo tay áo cho lòi cặp măng séc
(41) trắng mới ủi láng ngời, rồi nói:
- Thầy em ở dưới Lục Tỉnh mới lên Sài Gòn mà ứng đối nghe tao
nhã quá! Ở đời nầy chẳng có chi buồn hơn là thấy người đồng bang của mình chủ
hướng ngày càng thêm tệ. Mấy ông thanh niên tân học bây giờ họ gặp nhau cứ nói
ròng tiếng Pháp, nói trúng cũng nói, nói trật cũng nói, họ bỏ tiếng mẹ đẻ của
mình, trong ý của họ cho tiếng Việt nam quê mùa, phải tiếng Pháp mới ra người
văn minh! Tôi đây nói tiếng Pháp dở lắm sao? nhưng gặp người Việt Nam tôi chỉ
nói ròng tiếng Việt chừng nào gặp người Pháp tôi mới nói tiếng Pháp.
Phước Ðằng gật đầu cười và đáp:
- Luận như ông vậy tôi phục lắm. Người mình nói tiếng mình
nghe không ngộ hay sao, cần gì phải dùng tiếng ngoại quốc.
Phước Ðằng day lại thấy Duy Linh còn đứng sớ rớ bèn biểu:
- Ngồi đó cháu, ngồi nghe ông chủ bút nói chuyện chơi. Ngồi
ghế đây. Ông chủ bút đây là người cao kiến, từ ngày ông ra chấp bút viết báo
Sài Gòn cho tới LụcTỉnh ai cũng khen ngợi, danh giá ông bay khắp ba kỳ, chẳng
ai không nghe danh ông. Ngồi đó cháu, ngồi đi mà, đừng ké né chi hết.
Duy Linh thấy chú nài ép, nên kéo một cái ghế dang ra ngoài
ngồi. Cao Minh Chiếu nghe lời khen ngợi coi bộ vui lòng ngó Phước Ðằng nói tiếp:
- Tôi cầm bút viết báo, tôi không phải như họ vậy đâu. Tờ báo
là cái gì? Tờ báo là cơ quan để khai thông dân trí, bình phẩm nhân tình, cải
lương phong tục, tỏ bày chánh ý, binh vực quyền lợi, cái nghĩa vụ của người
bình bút trong tòa soạn quý hóa biết chừng nào, cái trách nhiệm của nhà ngôn luận
nặng bề biết bao nhiêu! Tôi đứng trong làng báo hơn mười năm nay, bạn đồng nghiệp
tôi ai cũng kiêng nể tôi, mà độc giả ai cũng yêu mến tôi, ấy là vì tôi chẳng hề
khi nào rời tôn chỉ trên. Tôi không thèm làm quan, mà ông coi bây giờ có ông phủ
ông huyện nào danh giá được như tôi vậy hay không?
Phước Ðằng gật đầu hoài, coi bộ vừa ý lắm. Duy Linh từ thuở
nay ưa đọc báo Việt ngữ, song chưa được nghe một vị chủ bút nào nói chuyện, nay
nghe Cao Minh Chiếu can đảm hùng biện trong lòng lấy làm kính phục nên ngồi im
lóng tai nghe.
Cao Minh Chiếu hứng chí, lấy cặp kính cầm trên tay, rồi trợn
mắt chau mày nói:
- Ông có coi kỹ mấy bài xã thuyết của tôi không? Khi thì ký
tên Đại Quang, khi thì ký T. N. B mấy bài đó đều là của tôi hết thảy.
Phước Ðằng đáp:
- Mấy bài kuận của ông tôi coi kỹ lắm chớ.
Cao Minh Chiếu lại nói:
- Tôi luận trong mấy bài "Cải Lương Phong Tục» đó họ phục
quá. Ôi, còn nói: tiểu thuyết " Bể Ái Thuyền Tình» tôi đăng mấy tuần nay
ai đọc cũng mê mẩn. Nhứt là đọc giả Sài Gòn họ ưa tiểu thuyết của tôi lắm. Lúc
nầy tôi đang khảo cứu về quốc văn, tôi tính cổ động làm sao cho nền văn minh của
mình vững bền đẹp đẽ. Ông nghĩ coi, các nước bên Âu Mỹ nước nào nền quốc văn
cũng rực rở, mình đứng vào bậc trí thức há làm lơ, không lo xây đắp nền quốc
văn của mình hay sao?
Phước Ðằng nghe nói tới đó trong long càng thêm kính phục nên
khen:
- Ông lo lắng cho xã hội quá như vậy, công của ông thiệt lớn
không biết chừng nào.
Cao Minh Chiếu chúm chím cười và tính nói nữa bỗng nghe Duy
Linh hỏi:
- Thưa ông, ông mới nói ông lo cổ động đặng làm cho quốc tự
được bền vững đẹp đẽ. Ông tính việc đó hay lắm; nhưng không biết ông cổ động
cách nào?
Minh Chiếu ngó Duy Linh đáp:
- Thầy không hiểu, nước mình không phải không có quốc văn. Mấy
bộ truyện như Kim Vân Kiều, Nhị Ðộ Mai, Cung Oán Ngâm Khúc, Chinh Phụ Ngâm, Lục
Vân Tiên là những bộ sách văn chương lỗi lạc, ý tứ thâm trầm, xét coi văn
chương chẳng kém văn nước nào hết. Đồng bang ta không để ý đến, mấy ông cựu học
trò giỏi chữ Hán, bây giờ mấy ông tân họ học giỏi chữ Pháp lại cứ dùng chữ
Pháp, họ cũng không chịu dùng quốc văn, bởi vậy quốc văn của ta lu mờ hoài, nay
tôi tính cổ động là cổ động cho người mình dùng chữ mình, đặng làm cho nền quốc
văn vững bền đẹp đẽ.
- Thưa ông, ông là bậc cao minh trí trức, tôi kính phục ông lắm.
Nhưng tôi muốn tỏ ý tôi chút đỉnh cùng ông chẳng hay ông có cho phép hay chăng?
- Không sao mà, thầy em muốn phô diễn điều chi xin cứ việc
nói ngay đi, có chi đâu mà ngại. Tôi ưa cãi lẽ lắm, có cãi lẽ mới nảy ra ý chớ.
- Thưa thầy, ông tính cổ động khuyên lơn người mình phải dùng
chữ mình là chữ quốc ngữ, đặng làm quốc văn thịnh phát, ý nghe hay thật ngặt
cách làm coi có chỗ khó lắm.
- Sao thầy gọi là khó?
- Thưa, khó là vầy: Ở Việt nam bây giờ trong số một trăm người,
một người biết chữ Tàu, vài người biết chữ Tây, 27 người biết chữ quốc ngữ mà
thôi, còn lại 70 người dốt đặc không biết thứ chữ nào hết. Mà hai người biết chữ
Tây ấy họ cũng biết chữ quốc ngữ, nên nếu họ muốn viết chữ quốc ngữ cũng được
chớ chẳng phải không. Vậy bây giờ muốn cho mọi người đều dùng chữ quốc ngữ dầu
cổ động cho mấy đi nữa sợ cũng không công hiệu được, bởi 70 người dốt đặc đó họ
không có biết viết, biết đọc chữ quốc ngữ đâu mà dùng. Tôi tưởng hay hơn hết là
ông yêu cầu chánh phủ lập trường học cho khắp mọi nơi, và cổ động cho các bậc
trí thức hiệp lại với các nhà tư bổn lập thêm trường riêng nữa, làm như vậy
trong năm mười năm người mình đều biết chữ quốc ngữ hết, chừng ấy ông không cần
cổ động tự nhiên họ cũng dùng chữ quốc ngữ.
- Thầy nói nghe cũng có lý. Nhưng mình cầm viết mà viết báo
mình phải cổ động chớ.
Duy Linh chúm chím cười rồi nói tiếp:
- Thưa ông, dầu hết thảy mọi người Việt Nam đều biết đọc biết
viết chữ quốc ngữ, tôi sợ nền quốc văn của mình cũng không rực rỡ được.
- Sao vậy? Thầy nói cái đó mới kỳ đa!
- Thưa ông, theo ngu ý của tôi, trong các nước văn minh bên
Âu hay bên Mỹ, ngày nay thấy nền quốc văn của họ nguy nga rực rỡ đó, là nhờ họ
có văn nhân đông, có nhiều bác sĩ, mỗi vị đều gia tâm đặt sách vở truyện lưu
truyền đời nầy sang đời kia nên mới được như vậy. Trong nước mình bây giờ mọi
người đều biết quốc ngữ, mà biết là đọc cho xuôi câu, biết viết trúng vấn đề mà
thôi, còn học thức không chi hết tôi sợ viết một bức thơ e cũng không xong. Có
tài trí gì mà làm sách vở hay như truyện Kim Vân Kiều, trông gì giúp nền quốc
văn cho rực rỡ được.
Cao Minh Chiếu ngồi lặng thinh một hồi rồi ngó Phước Ðằng mà
nói:
- Thầy em đây nghị luận nghe được quá. Mà nói nghe cũng thanh
nhã như lời nói của mấy người viết báo,
Minh Chiếu lại day qua hỏi Duy Linh.
- Thuở nay thầy có viết bài ấn hành vào tờ báo hay không?
- Thưa không, tôi học sơ thiển quá, nên đâu dám múa men nơi
trường nghị luận.
- Hứ! Thầy biết nói tiếng đó, là viết báo được rồi, chớ còn đợi
cho có tài làm chi nữa. Nãy giờ tôi nghe thầy dùng mấy tiếng "thạnh
phát", "cao minh", "trí thức", "văn minh Âu Mỹ",
"trường nghị luận" đó là giỏi quá.
- Thưa, tôi đọc báo tôi thấy mấy ông viết báo hay dùng mầy tiếng
ấy nên tôi mới bắt chước nói, chớ có trau dồi quốc văn đâu mà giỏi.
- Mà thuở nay thầy có hay viết quốc văn hôn?
- Thưa, viết quốc văn là sao? Viết chữ quốc ngữ đó phải
không?
- Ừ, chữ quốc ngữ đó là quốc văn chớ gì.
- Thưa, quốc ngữ tôi viết thường.
- Ờ, nếu thầy có rảnh viết thử ít bài luận rồi gởi cho tôi dượt
(42) thử coi, như được thì tốt bằng có chỗ nào sai tôi sửa cho rồi đăng báo.
Phước Ðằng nghe Minh Chiếu khen Duy Linh trong bụng mừng thầm
nên nói:
- Nếu ông vui lòng dạy bảo nó để tôi biểu nó tập viết. Ông liệu
thử coi nếu nó viết được, ông có thể nào đem nó vô báo quán giúp đở bài vở cho
ông được hay không?
Minh Chiếu đứng dậy bỏ cặp kiếng vào túi và đáp:
- Ðược, nếu thầy viết được tôi nói với ông tổng lý cho thầy
vào làm ngay. Minh Chiếu móc bóp phơi lấy 20 đồng bạc giấy đưa cho Phước Ðằng
và nói nho nhỏ:
- Tôi mới lãnh lương nên mới lật đật đem vô cho ông đây.
Phước Ðằng cười và cũng đáp nho nhỏ:
- Ông gấp quá mai mốt cũng được mà.
Minh Chiếu cáo từ ra về. Phước Ðằng đưa ra khỏi trước cửa, chừng
Minh Chiếu lên xe đi rồi mới trở vô nhà.
Vợ Phước Ðằng ở sau mới bước ra hỏi chồng:
- Ông chủ bút có đưa tiền hay không?
- Có, ổng đưa rồi.
- Ông còn góp mấy tháng nữa mới hết?
- Ba tháng.
- Nghe nói ổng ăn lương trên một trăm đồng làm giống gì hết
mà phải hỏi tiền góp như vậy.
- Má nó hỏi cái đó mới thiệt là kỳ đó: Người ta làm chánh chủ
bút, giao thiệp rộng, quyền thế nhiều, bước ra khỏi nhà phải đi xe, mà đi xe
cũng phải ngồi hạng nhứt. Ăn xài cho xứng danh giá của mình tự nhiên phải túng
thốn, cái đó có lạ gì đâu.
- Tôi nói chuyện trong nhà nghe chơi vậy thôi, chớ tiền của ổng
ổng xài, ổng vay bạc của mình mình ăn lời, chớ can chi đâu mà sợ.
- Ông có tánh khoe khoang, song ổng khá hỏi tiền hễ tới ngày
thì đóng góp không để trễ như họ.
- Nầy tôi nói cho mình hay thầy Bảy Vàng thầy tính giựt mấy
chục đồng bạc đó đa! Bạc đã tới kỳ năm sáu bữa rày rồi mà thẩy không chịu góp.
Từ hôm qua tới nay tôi sai con Sảnh lại nhà thẩy đòi, thẩy trốn đi lỗ nào không
biết. Vợ thẩy lại làm mặt lạnh nói không biết tiền bạc gì mà đòi, thẩy có thiếu
thì kiếm thẩy mà lôi lưng thẩy. Ðể mai tôi sai con Sảnh ra sở thẩy làm kéo lưng
thẩy cho thẩy biết chừng.
- Ừ, phải đòi thẩy chớ. Nếu thẩy lôi thôi tôi đưa giấy cho
trưởng tòa kiện rồi bắt giam thâu mất chỗ làm đa, nói cho thẩy biết.
Duy Linh ngồi nghe hai vợ chồng Phước Ðằng nói những việc cho
vay đòi nợ trong lòng không được vui nhưng vì mình ở đậu trong nhà, nên không
dám chen vô nói chi hết.
Phước Ðằng day lại nói với Duy Linh:
- Nầy cháu, chú mới nghĩ một việc nầy hay lắm: cháu sợ ràng
buột nên không chịu làm việc nhà nước, vậy thôi cháu ra viết báo đi. Làm nhựt
trình bây giờ ăn lương đã rộng mà thiên hạ lại kêu mình là "ký giả",
tên tuổi mình bay khắp sáu tỉnh, sang trọng biết chừng nào. Làm nghề đó có lợi
mà cũng có danh; còn hai ngàn đồng bạc của cháu để đây chú cho vay dùm, trong
ít năm cháu sẽ lại giàu lại sang nữa. Cháu làm đi.
Duy Linh suy nghĩ, nhớ khi mình còn ở dưới Bạc Liêu thiên hạ
họ đọc nhựt trình kẻ khen ông ký giả nầy, người chê ông ký giả kia, tên mấy ông
ký giả thiên hạ đều biết hết thảy. Anh ta lại nhớ ông Cao Minh Chiếu ngồi đàm
luận hồi nãy, lời tuy suông sẽ, nhưng chí lại không cao, mà toàn bộ làm tướng
coi quan trọng lắm. Nếu mình viết báo mình nghị luận cao sâu hơn ông tự nhiên
mình sang trọng hơn ông, mà mình có tiền mình không đi vay hỏi ai mình càng quý
hơn nhiều. Tuy vậy thuở nay mình chưa viết một bài nào trong nhựt trình, không
biết mình có viết được hay không? Duy Linh suy tới nghĩ lui bụng muốn làm ký giả,
song trí sợ không viết được bài nên trả lời lôi thôi:
- Thưa chú, thuở nay cháu không có tập viết báo, không biết
cháu có viết được hay không, mà dám viết bướng.
- Thuở nay cháu có đọc nhựt trình thường hay không?
- Thưa chú, đọc thì cháu đọc hằng ngày, nhựt trình nào cũng đọc
hết thảy.
- Nếu cháu có đọc nhựt trình, tự nhiên cháu viết được chớ có
chi khó đâu. Cháu cứ viết như họ đó là được.
- Sợ cháu học ít quá, viết không bằng họ.
- Cháu không hiểu: cháu tưởng như ông chánh chủ bút Cao Minh
Chiếu đó ổng học giỏi lắm hay sao? Chú biết ổng rõ lắm, ổng không biết một chữ
Tàu nào hết. Ông viết dùng bậy cho xuôi câu mà thôi, trúng trật trối kệ. Còn chữ
Tây ổng học lam nham chưa có bằng cấp sơ học. Cháu coi đó, ổng học lôi thôi
quá, mà dám ra làm chánh chủ bút rồi bây giờ danh ổng nổi phao phao đó sao. Chú
còn biết nhiều ông chủ bút khác cũng như vậy. Chú dám chắc cháu làm báo không
thua họ đâu. Cháu làm đi. Thôi mai chiều viết thử một bài luận gì đó rồi đưa
cho chú đưa cho ông Minh Chiếu coi thử, như được chú cậy ông đem cháu vô báo
quán làm.
Duy Linh trong ý đã chịu rồi, song sợ không kham nỗi ngồi cười,
chớ không dám tỏ lời vâng chịu.
Vợ chồng Phước Ðằng vào phòng nằm nghỉ. Duy Linh nằm ngoài thổn
thức suy nghĩ coi bây giờ mình phải viết một bài chi. Bởi anh ta uất ức vì căn
duyên nên trong trí vừa nghĩ tới chuyện con nhà giàu sang dành nhau mà cầu hôn
với Phi Phụng. Anh ta ngồi dậy lồm cồm lại bàn, viết luận về "Gái phải biết
kén chồng". Anh ta đọc đi đọc lại, bôi chỗ nầy thêm chỗ nọ, chừng coi vừa
ý rồi mới chép lại bỏ túi và tắt đèn đi ngủ.
Đồng hồ gõ một giờ khuya mà Duy Linh hãy còn rộn trong trí
nên chưa ngủ được. Anh ta nghĩ bài luận mình viết chắc hay lắm. Anh ta viết
thêm một bài nữa, song chưa biết phải giải vấn đề gì. Anh ta suy nghĩ một hồi,
nhớ tới Bá Kỉnh khinh bỉ mình trong lòng phát giận nên tính sáng mai sẽ viết
thêm một bài nữa luận về " Ỷ thế cậy quyền".
Sáng bữa sau Duy Linh dậy sớm, thấy chú thím còn ngủ hết, mới
lấy giấy viết thêm một bài nữa. Anh ta sửa và chép lại vừa rồi thì Phước Ðằng
thức dậy. Vì Duy Linh lấy việc mình đương uất ức làm đề mục đem ra luận, nên
hai bài văn chương hùng hồn, lý tưởng cao sâu, song bài trước ý hơi trách kẻ sắc
tài, còn bài sau ý hơi khinh người quyền thế.
Phước Ðằng xem rồi khen nức khen nở, ăn cơm xong lại còn đọc
cho vợ nghe nữa.
Tối hôm đó Phước Ðằng dắt Duy Linh ra nhà Cao Minh Chiếu. Ðọc
rồi bụng ông khen thầm, nhưng sợ nếu mình khen Duy Linh tưởng giỏi nên không
kiêng nể mình nên nói: "Thầy viết như vầy đăng báo cũng được. Vậy để mai
tôi sửa lại rồi đăng báo dùm cho".
Phước Ðằng nghe Minh Chiếu nói bài của Duy Linh đăng báo được
mừng rỡ hết sức, liền cậy Minh Chiếu đem Duy Linh vào phụ bút trong "Đại Đồng
Nhựt Báo". Minh Chiếu thầm nghĩ Duy Linh còn trẻ tuổi nếu mình cho phụ bút
dễ sai khiến; vã lại Duy Linh mới tập viết tự nhiên ham viết bài, hễ viết nhiều
được mình càng khỏe bớt. Đã vậy Phước Ðằng cậy mình, nếu mình giúp dùm được có
lẽ sau mình vay hỏi bạc tiền cũng dễ. Minh Chiếu nghĩ như vậy nên hứa để sáng
mai sẽ nói với ông Tổng Lý chịu dùng Duy Linh làm phụ bút, định lương mỗi tháng
50 đồng và biểu Duy Linh mau mau ra lãnh việc.
Phước Ðằng lấy làm mừng rỡ, nên bữa sau dắt Duy Linh ra báo
quán tạ ơn Cao Minh Chiếu, cậy Minh Chiếu tiến dẫn Duy Linh cho ông Tổng Lý và
dạy dỗ dùm cho Duy Linh quen nghề nghiệp.
Duy Linh mới vào viết báo, chưa thông thạo, nên bỡ ngỡ mọi bề,
nhưng vì anh đắc chí vui lòng, quyết làm cho nổi danh trong sáu tỉnh, nên ngồi
tại báo quán không rời cây viết, mãn giờ về nhà trí cũng lo tính hoài. Vợ chồng
Phước Ðằng thấy Duy Linh tánh nết mềm mỏng, lòng càng yêu mến, nên biểu Duy
Linh cứ ở đậu nhà mình cho khỏi hao tốn. Tuy vợ chồng Phước Ðằng không nói tới
chuyện tiền cơm, song Duy Linh thầm tính để tới tháng anh ta trả tiền cơm của
mình và cũng trả luôn cho thằng Cử nữa.
Cách chẳng bao lâu tới lễ Phục Sanh (43). Ông Lý định ra số
báo thứ bảy rồi nghỉ số thứ hai sau. Chiều thứ bảy báo ra rồi Duy Linh đi về trong
bụng thầm tính dùng hai ngày nghĩ để viết bài thật nhiều, như có rảnh rang sẽ
khởi thử một bổn tiểu thuyết tả tình riêng của mình chơi.
Xe lửa tới Cầu Kho, Duy Linh bước xuống đi bộ về nhà, vừa đi
vừa tính coi phải luận việc gì, tay cầm tờ báo mới mực còn ướt, nên mấy đầu
ngón tay lấm lem. Anh ta lầm lũi đi, khi tới cửa vùng quẹo vô, thấy có hai nàng
con gái đương đứng tại cửa ngõ. Duy Linh bở ngở không biết là ai, bụng nghĩ thầm
trong hai nàng ấy có lẽ một nàng là con của Phước Ðằng song không biết là nàng
nào. Duy Linh không dám ngó chán chường, và cũng không dám chào hỏi, chỉ dở nón
thôi. Hai nàng cúi đầu đáp lễ, đứng nép mỗi nàng mỗi bên để khoảng giữa trống
cho Duy Linh vào nhà.
Duy Linh vào nhà thay áo đổi quần nghe tiếng vợ chồng Phước Ðằng
đang nói chuyện dưới nhà sau, rồi lại nghe ngoài ngõ có tiếng lãnh lót kêu con
Sảnh biểu đem ra hai cái ghế.
Trời xâm xẩm tối. Duy Linh vặn đèn lên và trải tờ báo mới đem
về trên bàn đọc lại hai bài của mình. Phước Ðằng ở trong buồng bước ra ngó thấy
Duy Linh bèn nói:
- Cháu về rồi đây mà. Con em cháu nó chơi ngoài trước cửa,
nãy giờ cháu có gặp nó hay chưa?
Duy Linh đáp:
- Thưa hồi nãy cháu về cháu có thấy hai cô đứng chơi trước cửa.
Té ra bữa nay có cô em về hay sao?
Phước Ðằng ngó ra ngoài cửa thấy hai nàng con gái đương ngồi
mỗi người một cái ghế đương nói chuyện, bèn day lại nói với Duy Linh:
- Ờ. lễ Phục Sanh bãi trường được một tuần nên hồi chiều má
nó vô rước về. Con em cháu nó mặc áo trắng đó, còn con mặc áo màu xanh kia là
con ba Kiềm con ông bá hộ Bảy trong Chợ Lớn. Hai chị em nó học một trường thân
thiết với nhau lắm, nên lần nào có lễ con nọ cũng theo con nhỏ ở nhà ra đây
chơi một đêm rồi sáng hôm sau mới về.
Duy Linh nghe vậy hay vậy, thấy Phước Ðằng chỉ tay ngoài cửa
cũng ngó theo, thấy hai nàng mỹ nữ ngồi cũng như thấy hai chậu bông đẹp, ngó
thì trong lòng càng kính trọng, chớ chẳng sanh cảm tình chút nào hết.
Cơm dọn rồi, Phước Ðằng kêu Duy Linh vào ăn. Vợ Phước Ðằng với
con gái là cô hai Thanh và con ông bá hộ Bảy là cô ba Kiềm cũng ngồi ăn chung một
bàn.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét