Những ca
khúc Giáng sinh
được mọi thời ưa chuộng
Lời ngỏ
Tiếng hát mừng Chúa ra đời đã được cất lên ngay từ lễ
Giáng sinh đầu tiên, trên khắp tầng trời cao thẳm:
Vinh danh Thiên Chúa trên trời,
Bình an dưới thế cho người thiện tâm
Rồi từ ngày đó, trải qua bao nhiêu năm tháng, những bản
thánh ca mừng Chúa ra đời đã vang vọng khắp nơi, từ trong các ngôi giáo đường
nguy nga lộng lẫy cho đến những miền thôn trang hẻo lánh nghèo nàn. Hài Nhi hạ
sinh trong một chuồng chiên bò đã được ngợi ca bằng hàng trăm bản hợp xướng du
dương trầm bổng của biết bao nhiêu ca đoàn, bằng tiếng hát điêu luyện lẫy lừng
của những ca sĩ nổi danh, bằng những giọng ca đơn sơ mộc mạc của người dân thôn
dã. Rất nhiều bài ca mừng lễ Giáng sinh đã được sáng tác bằng đủ mọi loại ngôn
ngữ, được hát lên, được trân quý, được ghi nhớ và đi theo với con người vào
dòng lịch sử, và sẽ mãi mãi còn được ca vang cho đến ngày sau cùng của trái đất.
Quê hương Việt Nam chúng ta đã đón nhận ánh sáng Tin
Mừng soi rọi từ hơn 400 năm. Nhưng chúng ta đã không có những bản thánh ca phổ
thông bằng tiếng Việt cho mãi tới khi đất nước được độc lập. Những bài ca mừng
Giáng sinh bằng Việt ngữ ra đời cùng một lần với rất nhiều bản thánh ca khác
khi giáo nhạc nở rộ vào thập niên 40. Những bài hát như “Hang Belem” của Hải
Linh, “Cao Cung Lên” của Hoài Đức và Nguyễn Khắc Xuyên..., được hát lên khắp
hang cùng ngõ hẻm và ngày nay lan tỏa ra khắp năm châu theo với đoàn người Công
giáo Việt.
Đã từ lâu chúng tôi mong mỏi được nghe kể về những
giai thoại liên quan đến các bản thánh ca Việt Nam. Chúng tôi nao nức muốn tìm
hiểu về các nhạc sĩ tác giả, hoàn cảnh sáng tác, tư liệu, nguồn cảm hứng, khó
khăn hoặc thuận lợi khi phổ biến, hay bất cứ chi tiết nào hoặc kỷ niệm nào về bản
nhạc, nhưng rất khó tìm được tài liệu. Có lẽ các nhạc sĩ - một số vị nổi danh
nay đã ra người thiên cổ - vì quá khiêm tốn nên không muốn đề cập, hoặc vì hoàn
cảnh khó khăn của đất nước và chiến tranh nên sách vở tài liệu đều bị tiêu hủy
hay thất lạc. Trong những năm gần đây, các trung tâm chuyên sản xuất video ca
nhạc ở hải ngoại - như Thúy Nga, Asia...- đã mời một số nhạc sĩ xuất hiện trong
các chương trình ca nhạc đặc biệt nhằm vinh danh họ, và các nhạc sĩ này đã kể lại
một ít giai thoại về cuộc đời sáng tác, những kỷ niệm chung quanh một số nhạc
phẩm..., có rất nhiều chi tiết lý thú khiến chúng ta hiểu thêm về cuộc đời họ,
về các bản nhạc họ sáng tác. Nhưng đối với nhạc tôn giáo, chúng ta chưa có những
chương trình như vậy.
Nhân mùa lễ mừng Chúa giáng trần, chúng tôi xin mời độc
giả cùng đọc với chúng tôi những chuyện kể về mấy ca khúc Giáng sinh được ưa
chuộng. Những chuyện này chúng tôi dịch thuật theo Ace Collins trong cuốn
Stories Behind the Best Loved Songs of Christmas. Cuối mỗi bài, chúng tôi in
nguyên văn bài hát và những bản chuyển âm sang Việt ngữ của nhạc sĩ Việt nam hoặc
của các giáo hội Thiên Chúa giáo (nếu có). Một số chuyện kể này đã xuất hiện
trên trang mạng VietCatholic mấy năm trước đây, nay chúng tôi tổng hợp lại. Ở
phần cuối loạt bài này, chúng tôi xin trình thuật một số tài liệu về các nhạc bản
“Hang Be lem” của Hải Linh và “Cao Cung Lên” của Hoài Đức. Ước mong các nhạc
sĩ, nhà nghiên cứu hay các vị viết lịch sử âm nhạc Công giáo Việt Nam tìm hiểu,
thâu thập và đưa ra những chuyện kể lý thú liên quan đến các bản nhạc Giáng
sinh Việt Nam khác mà chúng ta trân quý từ hơn nửa thế kỷ nay. - Phụng
Nghi
1. SILENT
NIGHT (Đêm Thánh Vô Cùng)
Năm 1817, cha Joseph Mohr,
lúc đó mới 25 tuổi, được bổ nhiệm làm linh mục phụ tá tại nhà thờ Thánh
Nicholas ở miền Oberndorf nước Áo.
Cậu Mohr ngay từ lúc thiếu
thời đã say mê âm nhạc, được đặt làm người phụ trách âm nhạc tại một nhà thờ
nhỏ; có lúc cậu đã sáng tác thơ và đặt lời cho những bài ca trong các nghi lễ
đặc biệt tại giáo đường. Khi trở thành linh mục, cha Mohr làm việc không biết
mệt mỏi trong các công tác từ thiện phục vụ thanh thiếu niên con các gia đình
nghèo khó trong vùng.
Một ngày mùa đông năm 1818,
cha Mohr đang cố công hoàn thành mọi sửa soạn cho thánh lễ Giáng sinh, một nghi
lễ mà cha đã hoạch định trước cả tháng. Mọi thứ đều đã xong xuôi, từ bài hát
cho đến bài giảng. Nhưng lúc cha dọn dẹp thánh đường mới khám ra một trở ngại
tưởng không thể khắc phục được: đó là chiếc phong cầm của nhà thờ bị hư. Nóng
lòng, cha lui cui hàng giờ đánh vật với hàng phím, với bàn đạp của chiếc đàn,
có lúc bò cả ra phía sau để mong tìm ra chỗ hư hỏng. Bất chấp mọi khó nhọc của
cha, chiếc đàn vẫn nằm ỳ ra không lên tiếng, im lặng chẳng khác cái lặng lẽ của
một đêm đông giá lạnh.
Nhận thấy không thể làm gì
hơn được, vị linh mục ngừng lại và cầu nguyện. Cha cầu xin Chúa cho cha tìm
được một giải pháp nào để đem được âm nhạc đến với giáo dân trong một ngày lễ
có ý nghĩa nhất trong năm. Có lẽ cha đã tìm được đáp ứng cho lời cầu nguyện của
cha phát sinh từ những sự việc xảy ra cách đấy gần cả hai năm.
Năm 1816, lúc phục vụ nơi
một thánh đường tại Mariapfarr, cha Mohr đã viết một bài thơ mừng Chúa Giáng
sinh. Bài thơ gồm 6 khổ, cha cảm hứng sáng tác trên đường đi bộ từ nhà ông nội
đến nhà thờ. Tuy có đưa cho vài người bạn xem bài thơ, nhưng cha chưa bao giờ
nghĩ đến chuyện phổ biến hoặc có ý định đem ra phổ nhạc. Khi được đổi đến xứ
đạo Oberndorf, cha mang theo bài thơ đó cùng với số vật dụng ít ỏi của mình.
Tìm lại bài thơ “Still
Nacht! Heilige Nacht!” (Đêm Yên Lặng! Đêm Thánh!)
trên bàn viết, cha đọc lại lúc này đã hai năm sau ngày sáng tác. Từ trước đến
nay, những vần thơ đó dường như không mấy quan trọng đối với cha, nhưng lúc này
đọc lại, cha thấy dường như Chúa đã cho cha một tia sáng hy vọng. Bỏ bài thơ
vào túi áo cha vội vã ra khỏi nhà. Chỉ còn mấy giờ nữa là thánh lễ nửa đêm bắt
đầu, vị linh mục băng nhanh qua những đường phố đầy tuyết phủ.
Cũng vào buổi chiều hôm đó, Franz Gruber, người giáo viên làng 31 tuổi đang
co ro trong căn phòng nhỏ bên cạnh trường học. Mặc dầu đã theo học phong cầm
với giáo sư nổi tiếng Georg Hardobler, Gruber cũng chỉ chơi đàn cho nhà thờ St.
Nicholas nhỏ bé. Đang miên man với mấy nốt nhạc trên chiếc đàn thì ông ngạc
nhiên nghe tiếng gõ cửa và thấy cha Morh bước vào. Ông nghĩ thầm: giờ này thì
cha đáng lẽ phải ở nhà thờ sửa soạn dâng thánh lễ, có đâu rảnh rang mà dạo
quanh thăm viếng bạn bè.
Sau câu chúc mừng Giáng sinh vội vã, vị linh mục hối hả kéo ông giáo làng
tới chiếc bàn nhỏ trong phòng và ra dấu bảo ngồi cạnh mình. Bằng giọng nói rõ
ràng là nản chí, cha kể cho ông nghe nỗi khó khăn trước mặt. Sau khi bảo Gruber
rằng chiếc đàn không thể sửa được, cha liền đem bài thơ ra và nói:
- Franz, anh xem có thể viết nhạc cho bài thơ này để ca đoàn hát được
không? Không có đàn thì ta chơi guitar vậy.
Rồi vị linh mục đưa mắt nhìn đồng hồ trên bàn, nói thêm: Không còn nhiều
giờ nữa đâu.
Đọc kỹ bài thơ, Gruber gật dầu. Ánh mắt và nụ cười của ông chứng tỏ ông
chấp nhận thử thách đó. Tin tưởng là Chúa đã sắp đặt mọi sự, cha Mohr vội vã
băng qua những đường phố ngập tuyết trở về nhà thờ, bỏ lại Gruber một mình ngồi
đó với bao nhiêu ý tưởng, trước một chiếc đồng hồ đang tích tắc kêu và một lời
cầu mong xin tìm ra hứng khởi.
Mấy tiếng đồng hồ sau hai người gặp nhau tại nhà thờ. Trong ngôi thánh
đường có ánh đèn tỏa sáng, Gruber đưa cho vị linh mục coi bản nhạc của mình.
Linh mục chấp thuận, dùng đàn guitar gảy lên những nốt nhạc rồi vội vã chuyển
cho ca đoàn đang chờ đợi tập dượt. Công trình tưởng chừng phải mất cả tuần lễ
thì nay chỉ cần mấy tiếng đồng hồ là xong. Không có nhiều thời giờ tập dượt,
cha Mohr và Gruber chỉ dạy được cho ca đoàn phần hòa âm bốn giọng của mỗi hai
câu thơ cuối.
Trong thánh lễ nửa đêm, cha Mohr và Gruber đứng trước bàn thờ giới thiệu
bản nhạc nhỏ bé và giản dị của hai người. Họ đâu ngờ rằng “Still Nacht! Heilige
Nacht!” không chỉ sẽ được nhớ tới vào ngày Giáng sinh kế tiếp trong ngôi làng
bé nhỏ của họ mà còn được ca hát khắp thế giới gần hai trăm năm sau nữa.
Mấy tuần lễ sau ngày tết dương lịch, anh chàng Karl Mauracher chuyên chế
tạo và sửa đàn phong cầm ngụ tại vùng thung lũng Ziller, đến nhà thờ St.
Nicholas để sửa đàn cho cha Mohr. Trong lúc anh lui cui sửa chữa, cha Mohr đem
câu chuyện cha đã dùng đàn guitar để chơi một bản nhạc phổ bài thơ cũ để cứu
vãn buổi lễ đêm Giáng sinh vừa qua. Cha hát cho anh chàng này nghe bản nhạc đó,
và nói rằng cha tin là Chúa đã nghe lời cha nguyện cầu. Thích thú vì bản nhạc,
anh chàng Karl lấy giấy ghi xuống bài ca và học thuộc lòng các nốt nhạc. Những
năm sau, theo với nghề nghiệp phải đi đây đi đó, anh giới thiệu bản nhạc này
với nhiều đô thị và thánh đường.
Bản “Still Nacht! Heilige Nacht!” nguyên thủy
Vào thế kỷ 19, ở nước Áo và nước Đức có nhiều nhạc sĩ du ca. Mỗi nhóm du ca
gồm các thành viên trong cùng một gia đình thường không chỉ hành nghề ca hát mà
còn làm những việc chuyên biệt khác để có tiền chi dụng trong lúc di chuyển từ
nơi này sang nơi khác. Năm 1832, nhóm du ca thuộc gia đình Stasser xuất hiện
tại một cộng đồng nhỏ nơi anh chàng sửa đàn Mauracher đang ráp đặt một chiếc
phong cầm. Trong thời gian ở đó, nhóm du ca này học được bài “Still Nacht!” và
mấy tuần sau đem trình bày tại một buổi diễn tại Leipzig, trước một đám thính
giả rất đông đến coi hội chợ. Nhận thấy bản nhạc này mang một sứ điệp tinh thần
sâu xa, hoàng đế nước Áo William IV truyền cho ca đoàn nhà thờ chính toà của
ông ca bản nhạc này trong nghi lễ Giáng sinh hàng năm. Một phần cũng vì lòng ưu
ái đó của nhà vua mà nhạc bản này lan tràn ra khắp miền đông Âu rồi tràn qua
Anh quốc.
Tháng 12 năm 1839 một nhóm du ca khác thuộc gia đình Rainer tới Nữu Ước.
Một phần chương trình của họ là trình bày bản “Still Natch!” bằng Anh ngữ
(Silent Night!) trước một cử tọa rất đông đảo tại thánh đường Chúa Ba Ngôi. Bản
nhạc trở thành phổ thông và được rất nhiều ca đoàn hát trong các nhà thờ. Vào
thời kỳ nội chiến ở Mỹ, bản nhạc “Silent Night” trở thành bài ca Giáng sinh phổ
biến nhất. Trong trận chiến giữa hai miền nam bắc, không hiếm thấy cảnh ngưng
chiến bốn ngày trong dịp lễ Giáng sinh, binh sĩ giữa hai miền thù nghịch cùng
buông súng, tụ họp lại để dự lễ, đọc Thánh kinh, chia sẻ quà cáp, và cùng ca
bài “Silent Night”.
Bài hát càng được phổ biến thì nguồn gốc càng bị phân hoá. Có nhiều lúc các
nhà xuất bản gán cho tác giả bản nhạc này là một trong các nhạc sĩ đại tài như
Bach, Beethoven hoặc Handel. Chỉ mãi tới khi Franz Gruber gửi tới các báo và
các nhà xuất bản bản sao tờ phổ nhạc của mình thì nguồn gốc đích thực mới được
công nhận. Mặc dầu vậy, nhiều giai thoại về lời ca của bản nhạc vẫn còn được
truyền tụng.
Cha Mohr qua đời trong cảnh nghèo khó vào năm 1848 trước khi được công nhận
là tác giả bài thơ được phổ nhạc. Cha mất nên không thể chứng minh câu chuyện,
do đó mới có truyền thuyết kể rằng bài thơ đã được viết ra vội vã sau khi khám
phá thấy chuột đã cắn hại chiếc phong cầm, chứ không phải thực ra là chiếc đàn
đã rất cũ và bị hư hại vì thời tiết quá lạnh. Truyền thuyết này được nhiều
người công nhận nhưng thật ra có vẻ tiểu thuyết hơn là sự thực.
Vào cuối thập niên 1800, bản “Silent Night” đã được phiên dịch ra khoảng
hơn 20 ngôn ngữ khác nhau và là nhạc bản không thể thiếu trong các lễ hội Giáng
sinh trên khắp thế giới. Sang đến thế kỷ 20, nhạc bản này đã đi ra khỏi các
giáo đường, hội nhập với những tập tục Giáng sinh khác.
Vào năm 1905 bản nhạc Silent Night được thu âm lần đầu tiên do ban nhạc
Haydn Quartet. Đó mới chỉ là khởi đầu, sau đó bản nhạc đã được thâu âm cả bao
nhiêu ngàn lần do các ban nhạc khác nhau trên khắp thế giới. Tới năm 1960,
Silent Night được công nhận là bản nhạc được ghi âm nhiều nhất trong lịch sử âm
nhạc.
Mặc dầu với tính cách phổ thông như vậy, trong tâm trí nhiều người, bản
Silent Night được viết ra lúc khởi đầu chỉ là một nhạc bản giản dị, một khúc
ngợi ca. Được sáng tác để làm cho nghi thức mừng lễ Giáng sinh có ý nghĩa hơn,
bản nhạc xưa cũ này vẫn còn mạnh mẽ và tươi mát như lần đầu tiên được hát lên
trong ngôi thánh đường nhỏ bé nơi nước Áo xa xôi. Như một lời cầu xin được đáp
ứng, Silent Night chỉ với mấy câu thơ ngắn ngủi cũng đủ mô tả được câu chuyện
Giáng sinh của đấng Cứu thế trong máng cỏ nghèo nàn.
Ghi chú:
1. Bản nhạc này đã được cố nhạc sĩ Hùng Lân “Việt hoá” từ hơn nửa thế kỷ
trước tại Việt nam và được hát trong các thánh đường Công giáo cũng như trên
các đài truyền thanh truyền hình từ đó đến nay trong mùa lễ Giáng sinh. Ông
không chuyển dịch bài ca nhưng đặt lời hoàn toàn mới, dùng những từ ngữ văn
chương bóng bảy như “xe chữ đồng, ơn châu báu không bờ bến, nhắp chén phiền,
vương phong trần, tuyết sương mịt mù...” Sau đây là lời ca do ông đặt:
- Đêm Thánh vô cùng
Giây phút tưng bừng
Đất với Trời xe chữ đồng
Đêm nay Chúa Con thần thánh
tôn thờ
Canh khuya Giáng sinh nơi
chốn hang lừa
Ơn châu báu không bờ bến
Biết tìm kiếm của chi đền.
- Ôi Chúa Thiên đàng
Cam mến cơ hàn
Nhắp chén phiền vương phong
trần
Than ôi Chúa thương người
đến quên mình
Bơ vơ chốn quê nhà lúc sinh
thành
Ai ham sống trong lạc thú
Nhớ rằng Chúa đang đền bù
- Tinh tú trên trời
Sông núi trên đời
Với Thánh thần mau kết lời
Cao rao Hóa công đã khéo an bài
Sai con hiến thân mong cứu nhân loại
Hang chiên máng rêu tạm trú
Bốn bề tuyết sương mịt mù
2. Bản Anh ngữ:
- Silent night, Holy night,
All is calm, all is bright
’Round yon virgin mother and child!
Holy infant so tender and mild,
Sleep in heavenly peace,
Sleep in heavenly peace.
- Silent night, Holy night
Shepherds quake at the sight
Glories stream from heaven afar,
Heavenly hosts sing “Alleluia”
Christ the Savior is born.
Christ the Savior is born.
- Silent night, Holy night
Son of God, love’s pure light
Radiant beams from Thy holy face
With the dawn of redeeming grace.
Jesus, Lord at thy birth.
3. Bản chuyển dịch của Hội
thánh Báp-tít Việt Nam:
- Đêm xuống êm đềm
Chuông thánh vang rền
Lướt lướt êm qua bao miền
Năm xưa ấy khắp nơi thanh vắng im lìm
Nhưng chuông thánh vẫn ngân nga khúc mơ huyền
Hoan nghênh Chúa con Trời giáng đến
Chuông thanh bình lắng buông êm đềm
- Đêm Chúa ra đời
Sao sáng trên trời
Có mấy người chăn quanh đồi
Nghe trong gió tiếng Thiên binh hát vang trời
Nghe trong gió tiếng Thiên binh hát vang lời
Giê-xu đến đem tình yêu tới
Đem thanh bình đến cho muôn người
- Năm tháng qua dần
Ai có hay rằng
Đã có lần Chúa xuống trần
Thương ta Chúa đến xóa bao vết thương lòng
Cho ta sống trong vui tươi với hy vọng
Ôi Giê-xu Chúa ru lòng êm ấm
Giữa khi cuộc thế đang xoay vần
4- Phiên bản khác của Hội
Thánh Tin Lành Việt Nam:
- Đêm thánh yên lặng! Đêm thánh an bình!
Đất vắng yên! Thiên quang ngời!
Chung quanh chỗ Ma-ri đang ngắm con mình,
Con Trai thánh rất tươi vui, rất an bình,
Đang yên giấc dưới trời vắng,
Êm đềm Thánh Vương nghi vệ.
- Đêm thánh yên lặng! Đêm thánh an bình!
Những kẻ chăn, bỗng hãi hùng,
Vinh quang sáng rỡ nơi thiên quốc soi rạng,
Muôn thiên sứ hát vang: Ha-lê-lu-gia!
Cứu Chúa giáng lâm trần thế!
Huy hoàng Thánh Vương lâm phàm!
- Đêm thánh yên lặng! Đêm thánh an bình!
Đức Chúa Con yêu thương đầy,
Dung quang thánh chiếu ra ân điển thiên đàng,
Như tia sáng cứu ân soi ánh huy hoàng,
Cứu Chúa giáng lâm trần thế!
Êm đềm Thánh Vương nghi vệ!
5. Nguyên bản bằng tiếng Áo:
Stille Nacht Stille Nacht,
Heilige Nacht!
Alles schlft, einsam wacht
Nur das traute, hoch heilige
Paar,
Holder Knabe im lockigen
Haar,
Schlaf in himmlischer Ruh!
Schlaf in himmlischer Ruh!
Stille nacht, heilige Nacht!
Hirten erst kundgemacht
Durch der Engel Halleluja!
Tưnt es laut von fern und
nah;
Christ, der Retter, ist da!
Christ, der Retter, ist da!
Stille Nacht, heilige Nacht!
Gottes Sohn, O wie lacht
Lieb aus deinem gưttlichen
Mund,
Da uns schlgt die rettende
Stund’,
Christ, in deiner Geburt!
Christ, in deiner Geburt!
Năm 1938, khi cuộc đại khủng
hoảng về kinh tế đang là vết thương trầm trọng trên khắp nước Mỹ và viễn ảnh về
một tương lai sáng sủa hơn còn biền biệt ở chân trời, thì anh chàng Bob May
thấy những ngày trước lễ Giáng sinh đang tới đậm một màu ảm đạm. Là một nhân
viên quảng cáo cho tiệm Montgomery Wards, sống bằng đồng lương rất khiêm tốn,
anh cảm thấy kiệt lực và sắp đến hồi khánh tận. Vợ anh, Evelyn, sau hai năm dài
chiến đấu với bệnh ung thư, sắp đến ngày thua cuộc. Họ nhìn nhau, người nọ đọc
được trong mắt người kia một nỗi thất vọng não nề. Đứa con gái của họ cũng nhận
thấy có điều không ổn trong gia đình.
Vào một tối tháng chạp mùa
đông lạnh, sau khi vào thăm mẹ đang nằm liệt giường, cô bé gái Barbara mới lên
bốn tuổi sà vào lòng bố dõng dạc hỏi: “Tại sao mẹ con lại không giống mẹ mấy bé
khác vậy?”
Làm sao có thể giải thích
cho con gái hiểu được rằng người mẹ đau yếu của bé cũng muốn chơi đùa với bé,
đọc chuyện cho bé nghe, và hơn hết, muốn được ở cạnh bé trong tất cả những giờ
phút quan trọng trong đời? Làm sao có thể nói cho một cô gái ngây thơ như bé
rằng bệnh tật và cái chết là một phần của đời sống này? Và mẹ của bé cũng mong
mỏi được như những người mẹ khác, nhưng bệnh tật đã làm cho cả hai mẹ con không
được hưởng những giây phút gần gũi bên nhau? Làm sao có thể cho bé những câu
trả lời bé muốn biết mà không làm tan nát trái tim nhỏ của bé?
Gió bấc thổi mạnh đập lạt
xạt vào của sổ căn chung cư hai phòng ở Chicago, Bob May ôm chặt đứa con vào
lòng và cố tìm câu trả lời cho con bé. Anh nhớ lại nỗi đau khổ phải chịu trong
thời thơ ấu vì anh rất khác mọi người. Lúc đó anh là một cậu bé nhỏ thó, gầy
còm, bị những đứa trẻ khác thường xuyên trêu chọc và gọi bằng những cái tên xấu
xa mà anh chẳng bao giờ muốn nhớ lại. Ngay lúc đã vào trường đại học, con người
anh cũng vẫn còn loắt choắt đến nỗi nhiều người vẫn tưởng lầm là một cậu bé.
Mặc dầu có cấp bằng đại học,
nhưng vì nền kinh tế trong nước đang trong tình trạng trì trệ nên May không thể
kiếm được việc khá hơn cái công việc anh đang làm ở tiệm Wards, một việc dưới
khả năng và kiến thức của anh. Vậy mà khi gặp được Evelyn và cưới nàng làm vợ
anh cảm thấy mình như một ông hoàng. Lần đầu tiên trong đời anh có một nơi chốn
để sống thoải mái không bị gò bó vì khuôn thước của con người. Đứa con gái chào
đời cho anh một viễn ảnh lạc quan rằng thời gian tốt đẹp đang ló rạng ở chân
trời. Nhưng rồi Evelyn mắc bệnh, cuộc chiến đấu chống lại bệnh ung thư đó không
những làm hao mòn mọi năng lực của nàng mà cũng làm tiêu tan bao nhiêu tiền bạc
hai người dành dụm được. Bob phải bán đi mọi vật dụng có giá trị trong nhà và
sống trong cảnh chật vật thiếu thốn.
Nhưng trong cái đêm đông gió
lạnh đó, mặc dầu có đủ lý do để than van, khóc lóc, Bob cũng muốn cho cho đứa
con gái của anh hiểu rằng vẫn còn chút gì hy vọng, và dù có khác biệt với người
khác nhưng đó cũng chẳng phải là điều đáng hổ thẹn. Nhưng trên hết cả, anh muốn
rằng bé lúc nào cũng được yêu thương. Lấy kinh nghiệm bản thân trong quá khứ,
anh tạo ra câu chuyện về một con nai có cái mũi đỏ, sáng và lớn. Và lúc cô bé
Barbara lắng nghe, anh mô tả cho bé hay, dưới hình thức một câu chuyện, cái nỗi
khổ của những kẻ bị khinh khi là khác người, nhưng cả những niềm vui khi có ai
đó khám phá ra địa vị đặc biệt của họ trên cõi đời này.
Bé Barbara rất thích thú nên
sau đó đêm nào cũng đòi bố thuật lại câu chuyện. Cứ mỗi lần kể lại, câu chuyện
càng thêm sống động hơn, và con nai Rudolph không còn là một nhân vật tưởng
tượng nữa mà cứ như là thành viên trong gia đình anh vậy. (Chuyện thuật
rằng con nai Rudolph có cái mũi đỏ au và nhẵn bóng nhìn vào như thấy sáng lên
chẳng khác một bóng đèn. Mọi nai khác thường cười nhạo và không chơi với nó.
Nhưng rồi một chiều trước lễ Giáng sinh trời âm u đầy sương mù, ông già Noel
đến bảo nó: Rudolph, con có cái mũi sáng quá, con muốn hướng dẫn chiếc xe kéo
quà Giáng sinh cho ta đêm nay không? Thế là Rudolph không còn bị các nai khinh
thường nữa mà lại được yêu mến, hoan hô.)
Không có tiền mua quà Giáng
sinh cho con năm đó, Bob định chép câu chuyện chú nai Rudolph vào một tập giấy
và dùng tài khéo léo của một nghệ sĩ để minh họa các hình ảnh. Nhiều buổi tối,
sau khi vợ con đã đi ngủ, Bob cặm cụi tỉ mỉ cố hoàn thành món quà độc nhất đó
của anh dành cho đứa con. Nhưng thảm cảnh đã xảy đến với gia đình anh ngay
trước lễ Giáng sinh: Evelyn vợ anh gục ngã trước tử thần trong cuộc chiến đấu
với bệnh ung thư.
Dù cho những trang cuối cùng
của tập sách thấm đượm nước mắt, Bob nhất định không bỏ cuộc. Anh biết con gái
hơn lúc nào hết cần có câu chuyện để nâng đỡ tinh thần. Anh cầu xin cho có đủ
năng lực để hoàn thành dự tính đó. Và những cố gắng của anh đã được tưởng
thưởng khi thấy đứa bé hớn hở vui cười với món quà là tập sách Chú Nai
Rodolph Mũi Đỏ vào buổi sáng ngày lễ Giáng sinh năm đó.
Tuy không có hứng thú muốn
tham dự các lễ lạc gì, nhưng mấy ngày sau đó Bob bắt buộc phải đến dự buổi liên
hoan của nhân viên hãng Montgomery Wards. Mấy người đồng sự trong ban quảng cáo
yêu cầu anh kể chuyện nhi đồng vào đêm đó. Mặc dầu không thích, nhưng anh đem
theo tập chuyện và khi đến lúc đã chỉ định, anh leo lên bục cao trước đám đông
và đọc câu chuyện chú nai Rudolph. Sau những chuỗi cười mọi người đứng bật dậy
để hoan hô anh và câu chuyện nhi đồng của anh bằng những tràng pháo tay rộn rã.
Mọi người đều yêu thích chú nai Rudolph và muốn có một tập chuyện để đem về
nhà.
Ông chủ hãng Montgomery
Wards là Stewell Avery đánh hơi thấy hãng có thể có lợi nhờ câu chuyện chú nai
đó. Trả cho anh chàng May đang túng thiếu và nợ nần một món tiền nhỏ tác quyền,
ông cho in 10 ngàn bản chuyện chú nai Rudolph để gửi đến các tiệm Montgomery
Wards trên toàn nước Mỹ kịp vào lễ Giáng sinh năm 1939. Đáp ứng thật là khả
quan, nên trong vòng 6 năm sau đó cứ mỗi đứa bé đến thăm ông già Noel tại tiệm
thì được tặng một tập sách in câu chuyện chú nai của May.
Đến năm 1946 thì Montgomery
Wards đã tặng ra 6 triệu bản chuyện Rudolph và các nhà xuất bản lớn tới tấp yêu
cầu Stewell Avery cho phép in lại chuyện đó. Bằng một nghĩa cử cao đẹp chưa bao
giờ thấy nơi một ông giám đốc, Avery trao trả lại bản quyền câu chuyện cho anh
chàng Bob May. Một năm sau, nhờ sách được in ra ào ạt, anh trở thành một người
giầu có.
Với câu chuyện đã trờ thành
một best seller, nhiều món đồ chơi và sản phẩm dựa theo cốt truyện được sản
xuất và trọn cuộc đời của anh chàng May trở thành khá giả chỉ nhờ vào một câu
chuyện nhỏ anh kể cho đứa con gái. Anh tục huyền và có một gia đình mới đông
vui hơn. Thế rồi người em rể của anh tên Johny Marks quyết định đem câu chuyện
kể làm thành bài hát.
Marks là người đã viết nhạc
cho nhiều ca sĩ thu thanh, hy vọng rằng ca sĩ lừng danh Bing Crosby sẽ thu âm
bản nhạc Rudolph the Red-Nosed Reindeer cho mình. Khi Bing Crosby qua đời,
Marks yêu cầu nữ ca sĩ Dinah Shore, nhưng nàng từ chối. Một số ca sĩ khác cũng
được yêu cầu nhưng không ai chịu. Cuối cùng đến phiên anh chàng ca sĩ cao-bồi
Gene Autry được mời. Marks nghĩ rằng Autry đang tìm một bài nào đó tiếp theo
sau bản nhạc Giáng sinh rất ăn khách “Here Come Santa Claus”. Vả nữa, Autry lại
thường hay ca những bản nhạc nhi đồng vì thiếu nhi là khán giả chính của ca sĩ
này.
Giống như Crosby, Shore và
các nghệ sĩ khác, Autry không thấy thích thú bản nhạc về chú nai. Anh mới tìm
được bản nhạc thiếu nhi “If It Doesn’t Snow This Christmas” và cảm thấy sẽ ăn
khách hơn. Tuy biết chắc bản nhạc vừa nói rất hay và thích hợp cho thiếu nhi,
nhưng Marks cứ năn nỉ Autry nghe thử bản nhạc chú nai Rudolph một lần nữa xem
sao, hay có thể cho con nai một phần trong mặt B của đĩa nhạc cũng được.
Autry đem bản nhạc về nhà và
hát cho vợ là Ina nghe, phàn nàn rằng đã có nhiều bài hát về con nai rồi. Ina
thì lại nghĩ khác. Khi nàng nghe đến câu “Chúng không cho con nai tội nghiệp
được chơi trò chơi nào với chúng cả”, nàng mủi lòng và bảo chồng nhận thu
thanh bài hát đó.
Hãng dĩa Columbia muốn Autry
thu thanh bốn bản nhạc phát hành vào dịp lễ Giáng sinh và bài “Rudolph” được
chọn thu cuối cùng. Mấy tuần lễ sau đó Autry trình bày bản “Rudolph” tại cuộc
thi đấu Madison Square Garden Rodeo và được mọi người hoan hô nhiệt liệt. Vậy
là nhờ đám khán giả đấu bò ngưỡng mộ, bản nhạc con nai qua mặt cả ba bài nhạc
Giáng sinh kia trở thành một thành công lớn cho ca sĩ Autry khi phát hành năm
1949, nhảy lên đứng hàng thứ hai những dĩa hát bán chạy nhất, chỉ sau có bản
“White Christmas”.
Đối với hàng chục triệu
thiếu nhi đủ mọi lứa tuổi, qua sách vở, dĩa hát, truyền hình và phim ảnh, con
nai Rudolph đã trở thành biểu tượng thế tục của mùa lễ Giáng sinh, chẳng khác
gì ông già Noel vậy. Trong lúc có nhiều bài học có thể rút ra từ câu truyện kỳ
thú này - chẳng hạn như phải có nghị lực để dù có khác người mình vẫn cứ là
mình, hoặc khác người đôi khi cũng là điều may mắn - còn có một bài học lớn hơn
nhiều do câu chuyện và bài hát đem lại nhưng thường bị lãng quên. Đó là: Khi ta
chân thành trao tặng một món quà bằng cả trái tim yêu thương, món quà đó sẽ trở
lại với ta và được nhân lên gấp bội quá điều ta mong mỏi. Với bài học đó, con
nai giả tưởng Rudolph và gia đình anh May bằng xương bằng thịt, cứ như vẫn còn
tồn tại sau hơn sáu thập niên khi câu chuyện được kể buổi ban đầu.
You know Dasher, and Dancer, and Prancer, and Vixen,
Comet, and Cupid, and Donner and Blitzen
But do you recall
The most famous reindeer of all.
Rudolph, the red-nosed reindeer had a very shiny nose
And if you ever saw it you would say it glows.
All of the other reindeer used to laugh and call him names
They never let poor Rudolph play in any reindeer games.
Then one foggy Christmas eve, Santa came to say:
“Rudolph with your nose so bright,
Won’t you guide my sleigh tonight?”
Then all the reindeer loved him as they shouted out with glee,
Rudolph the red-nosed reindeer, you’ll go down in history!
2- Bản chuyển âm của Nguyễn
Ngọc Thiện: Chiếc Xe Nai
Đêm vắng không người rét căm căm
Mưa tuyết đang phủ bay trắng tinh
Nghe tiếng chuông vọng đến vang vang
Đêm tối tăm bỗng dưng sáng ngời
Vang tiếng trượt dài chiếc xe nai
Và bòng người tóc bạc rất quen
đem đến cho đời tiếng reo vui
đây đó vang tiếng cười trẻ thơ.
Như đêm tối bỗng nhiên lùi xa
Cùng tối tăm mịt mù
Nào cùng nhau ta cất tiếng hát
Với ánh sao đêm sáng ngời.
đêm tối nghe vọng tiếng xe nai
Nghe trái tim của ta sáng sao
đang hát theo nhịp chiếc xe nai
Hòa tiếng cười trẻ thơ.
đêm Chúa Giáng Sinh ngàn ánh sao
Ngời sáng lên hòa tiếng ca
Hát vang lời chúc nhau
Niềm ước mơ ngày Giáng Sinh
Bầu trời đầy ngàn sao
đang hát với nhau tiếng ca vang lừng...
3. JINGLE
BELLS (Chuông Reo Vang)
Jingle Bells có lẽ là bản
nhạc mùa Giáng sinh được nhiều người biết nhất, được ca hát nhiều nhất ở nước
Mỹ. Đối với hàng triệu người, ca khúc nhỏ bé và đơn giản này không thể thiếu
được trong mùa lễ Giáng sinh cũng như mùa Giáng sinh không thể thiếu ông già
Noel, con nai Rudolph, cây thông, thiệp mừng, quà cáp và những bữa tiệc thịnh
soạn. Vậy mà có điều rất mực trớ trêu là bản nhạc Jingle Bells chẳng chứa lấy
một câu một chữ nào đề cập đến ngày lễ lớn đó cả, và thực ra nó được viết để
hát trong một ngày lễ khác biệt hẳn lễ Giáng sinh.
Anh James S. Pierpont, một
người sinh trưởng tại Medford tiểu bang Massachusetts, rất có năng khiếu về âm
nhạc. Ngay từ lúc còn nhỏ anh đã không chỉ trình diễn trong ca đoàn nhà thờ mà
lại còn đánh đàn phong cầm nữa. Lớn lên anh phụ giúp cha là mục sư giáo phái
Unitarian tại Medford, làm việc với ca đoàn và các ca viên, nhạc sĩ. Vào năm
1840, chàng thanh niên Pierpont được giao nhiệm vụ sáng tác một nhạc phẩm đặc
biệt để hát trong dịp lễ Tạ Ơn. Nhìn qua khung cửa ngôi nhà của cha anh tại số
87 đường Mystic, anh thấy mấy người thanh niên đang lái những chiếc xe trượt
tuyết từ trên đồi cao đổ xuống. Nai nịt thật ấm để ngăn ngừa cái lạnh thấu da
bên ngoài trời lúc đó, anh bước ra khỏi nhà. Nhìn họ anh nhớ lại nhiều lần cũng
đã đua xe trượt tuyết như một môn chơi thể thao vui nhộn với những tiếng chuông
kêu lanh canh. Không chỉ đứng nhìn, anh liền nhảy vào tham dự cuộc chơi với họ.
Trò chơi chấm dứt khoảng một tiếng đồng hồ sau và anh là người thắng cuộc.
Khi bước trở về nhà, tâm trí
anh đã nảy ra một khúc nhạc, và khi ngồi cạnh lò sưởi cho ấm áp anh đã ngân nga
một vài đoạn ngắn. Cảm thấy như đã có cái sườn làm nền cho bản nhạc mà nhà thờ
của thân phụ anh cần đến, anh khoác áo lạnh vào người rồi băng qua những con
đường ngập tuyết đến nhà bà Otis Waterman, người đàn bà duy nhất ở thị trấn
Medford có chiếc đàn dương cầm. Lúc gặp bà ra mở cửa, anh nói: “Tôi vừa nảy ra
một khúc nhạc trong đầu đây”. James là chỗ quen biết với bà từ lâu, bà biết
James muốn gì nên vội nhường lối cho anh bước vào nhà.
Ngồi xuống cạnh chiếc đàn cũ
kỹ, James đánh lên từng nốt nhạc của bài ca. Bà Waterman lắng nghe chăm chú,
cất tiếng nói: “Đúng là những tiếng leng keng vui tai anh thấy ngoài kia đó
mà.” Ít phút sau khi anh đờn xong bản nhạc, bà bảo anh: “Bài hát này rồi sẽ
thành công khắp tỉnh đấy.”
Buổi tối hôm đó, anh đem
những nốt nhạc leng keng ghép lại với những gì anh quan sát được khi đua xe
trượt tuyết lúc ban ngày và nhớ lại cả những chiếc xe trượt băng do ngựa kéo
nữa. Vậy là bài hát “One Horse Open Sleigh (Chiếc xe một ngựa trượt băng)” ra
đời.
James tập bài hát đó cho ca
đoàn nhà thờ Medford. Đến ngày lễ Thanksgiving thì toàn bài nhạc có phần hoà âm
được đem ra trình diễn. Tại vùng New England lúc ấy, Thanksgiving là ngày lễ
quan trọng nhất nên có rất nhiều người tham dự. Họ nhiệt liệt hoan nghênh bài
hát đó nên nhiều người yêu cầu James và ca đoàn trình bày một lần nữa vào dịp
lễ Giáng sinh. Mặc dầu bài hát đề cập đến cảnh ngựa đua xe trượt băng, lối hẹn
hò trai gái và cá cược, chẳng có vẻ gì thích hợp với không khí nhà thờ chút
nào, nhưng lần trình diễn này lại là một thành công lớn đến nỗi một số khách
tới thánh đường dự lễ đã xin bản nhạc đem về địa phương của mình. Vì bài ca
được hát vào ngày 25 tháng chạp là ngày lễ Giáng sinh, nên họ dạy cho anh em bè
bạn hát như một bài nhạc mừng Giáng sinh thực thụ.
Pierpont có ngờ đâu bản nhạc
của mình lại có sức truyền lan đến thế, anh chỉ biết một điều là người ta thích
bản nhạc “mùa đông” của anh, nên khi di chuyển tới Savanah tiểu bang Georgia
anh mang theo bản nhạc này. Anh tìm được người chịu xuất bản bài hát đó năm
1857, nhưng mãi đến năm 1864 khi tờ báo Salem Evening News đăng bài tường thuật
câu chuyện về bản nhạc đó thì anh James mới biết được là mình đã viết được một
tác phẩm đặc biệt. Vào lúc ấy bài ca đã mau chóng phổ biến thành bản nhạc phổ
thông nhất vùng New England rồi lan tràn xuống phía nam. Trong khoảng 20 năm
sau đó, “Jingle Bells” có lẽ là bản nhạc hát dạo mùa Giáng sinh được phổ biến
nhất trong nước.
Là một trong những bản nhạc
cổ nhất nước Mỹ, bài ca mừng lễ Thanksgiving này là một tưởng tượng rất phong
phú về khung cảnh miền thôn dã có tuyết phủ mùa đông, có xe di chuyển trên
tuyết, và những tiếng lục lạc kêu leng keng trên cổ ngựa, hơn một thế kỷ qua đã
ghi đậm ảnh hưởng vào những hình ảnh mùa Giáng sinh trên các thiệp chúc mừng,
sách báo, phim ảnh và cả những nhạc bản Giáng sinh khác nữa.
Bài ca mùa Giáng sinh có vẻ
như “kỳ cục” này của Pierpont đã được thu thanh cả trăm lần. Benny Goodman,
Glenn Miller, Les Paul, ai cũng đã leo lên đỉnh cao với “Jingle Bells”. Nhưng
người thành công nhất là Bing Crosby và các chị em Andrew Sisters. Bản nhạc
leng keng vui tai này còn xuất hiện trong nhiều cuốn phim của Hollywood, trong
các show trên đài truyền hình, và một phần của bản nhạc có khi lại được đưa vào
trong một bài ca Giáng sinh khác. Bản nhạc rất thành công của Bobby Helm chẳng
hạn có nhan đề “Jingle Bells Rock” phần lớn là cảm hứng từ Jingle Bells, và như
vậy lại một lần nữa chứng tỏ thành công của một bài ca thế tục đã đóng góp cho
ngày lễ Giáng sinh.
Ngày nay, hình như chỗ nào
cũng thấy hát Jingle Bells. Ít có người đã được thấy cái xe trượt băng do ngựa
kéo, nhưng cả triệu người đã treo những chiếc chuông leng keng ở cửa vào dịp lễ
Giáng sinh. Hình ảnh ông già Noel thường gặp nhất là cảnh ông ngồi trên chiếc
xe trượt băng kéo bởi những con nai cổ đeo một vòng lục lạc. Rất nhiều bản nhạc
mừng Giáng sinh hoặc các quảng cáo thương mại trên TV mở đầu bằng những tiếng
chuông vui. Nhờ có anh chàng James Pierpont và lời yêu cầu soạn ra một nhạc bản
cho ngày Thanksgiving mà ta có được Jingle Bells, và mỗi lần nhìn thấy hình ảnh
tuyết và chiếc xe trượt băng người ta lại nghĩ ngay đến ngày lễ Giáng sinh.
1. Lời ca bản Jingle Bells:
Dashing through the snow
On a one-horse open sleigh,
Over the fields we go, Laughing all the way;
Bells on bob-tail ring,
making spirits bright,
Jingle bells, jingle bells, jingle all the way!
O what fun it is to ride In a one-horse open sleigh
A day or two ago, I thought Íd take a ride,
And soon Miss Fanny Bright
Was seated by my side;
The horse was lean and lank;
Misfortune seemed his lot;
He got into a drifted bank, And we, we got upsot.
Jingle Bells, Jingle Bells, Jingle all the way!
What fun it is to ride In a one-horse open sleigh.
A day or two ago,
the story I must tell
I went out on the snow
And on my back I fell;
A gent was riding by In a one-horse open sleigh,
He laughed as there I sprawling lie,
But quickly drove away.
Jingle Bells, Jingle Bells, Jingle all the way!
What fun it is to ride In a one-horse open sleigh.
Now the ground is white
Go it while yoúre young,
Take the girls tonight
And sing this sleighing song;
Just get a bob-tailed bay
Two-forty as his speed
Hitch him to an open sleigh
And crack! yoúll take the lead.
Jingle Bells, Jingle Bells, Jingle all the way!
What fun it is to ride In a one-horse open sleigh.
2. Lời ca bản Jignle Bell
Rock của Bobby Helms
Jingle bell, jingle bell, jingle bell rock
Jingle bells swing and jingle bells ring
Snowing and blowing up bushels of fun
Now the jingle hop has begun
Jingle bell, jingle bell, jingle bell rock Jingle bells chime in
jingle bell time
Dancing and prancing in Jingle Bell Square In the frosty air.
What a bright time, it’s the right time
To rock the night away Jingle bell time is a swell time
To go gliding in a one-horse sleigh Giddy-up jingle horse,
pick up your feet Jingle around the clock
Mix and a-mingle in the jingling feet
That’s the jingle bell,
That’s the jingle bell,
That’s the jingle bell rock.
3. Bài ca đã được nhạc sĩ
Nguyễn Duy đặt lời Việt rất tài tình để trở thành một bài hát mùa Giáng sinh,
tiếng lục lạc leng keng trên cổ ngựa đã biến thành tiếng chuông giáo đường vang
vang:
Một trời sáng trong an lành,
và một vùng tuyết ôm cây cành,
một ngày sáng bao la tình,
một nỗi sướng vui hồi sinh.
Mừng ngày Chúa sinh ra đời,
người người đó đây vui cười,
rộn ràng hỉ hoan chào đón
Ngôi Hai Thiên Chúa Giáng sinh cho đời.
Chuông mênh mông,
chuông mênh mông,
chuông giáo đường ấm cúng.
Chuông thanh thanh,
chuông thanh thanh,
tiếng chuông xe chạy nhanh (ớ).
Chuông vang vang,
chuông vang vang,
chuông báo mừng đêm thánh.
Chuông ngân ngân,
chuông ngân ngân,
ôi tiếng chuông trong tim mình
4. O HOLY NIGHT (Ôi
Đêm Thánh)
Chuyện kể về ca khúc “O Holy
Night” khởi đầu ở nước Pháp, nhưng sau đã tràn ra khắp thế giới. Ca khúc thật
giản dị này, phát khởi do lời yêu cầu của một giáo sĩ, sau này đã trở thành một
trong những ca khúc Giáng sinh được ưa chuộng nhất mà còn đánh dấu một cuộc
cách mạng kỹ thuật đã mãi mãi thay đổi phương thức truyền đạt âm nhạc đến quảng
đại quần chúng.
Vào năm 1847, Placide
Cappeau de Roquemaure là một ủy viên thương chính phụ trách về rượu tại một
tỉnh nhỏ nước Pháp. Ông ít đi lễ lạy tại nhà thờ nhưng lại có tài làm thơ. Và
ông rất đỗi ngạc nhiên khi được cha chính xứ nhờ ông sáng tác một bài thơ để
đọc trong thánh lễ Giáng sinh. Tuy vậy nhà thi sĩ cũng rất hân hạnh được thi
thố tài năng cho giáo xứ.
Trên chiếc xe ngựa lọc cọc
lăn bánh trên con đường gồ ghề bụi bặm dẫn đến thủ đô Pháp quốc, Cappeau suy
nghĩ về lời yêu cầu của vị linh mục. Bài thơ sắp sáng tác dĩ nhiên phải là một
bài thơ đạo, trọng điểm là lễ Giáng sinh, và dựa vào Kinh Thánh. Ông đã dùng
Phúc âm thánh Luca làm chỉ dẫn. Cappeau tưởng tượng ông đang chứng kiến việc
Chúa hài đồng sinh hạ tại Belem. Ý nghĩ được hiện diện trong đêm cực thánh đó
đã gây thi hứng cho ông sáng tác, và khi chiếc xe tới Paris thì ông đã hoàn
thành bài thơ “Cantique de Noel” (Bài ca lễ Giáng sinh).
Hứng khởi với sáng tác của
mình, ông quyết định đó không chỉ đơn thuần là một bài thơ mà còn phải là một
ca khúc được một nhạc sĩ tài ba phổ nhạc. Không có năng khiếu về âm nhạc,
Cappeau tìm đến bạn mình là Adolphe Charles Adams để nhờ giúp.
Adolphe sinh năm 1803, lớn
hơn Cappeau 5 tuổi, là con một nhạc sĩ cổ điển thời danh và đã học tại nhạc
viện Paris. Tới năm 1829 Adolphe đã hoàn thành nhạc kịch Pierre et Catherine. Tiếp theo sau thành công đó là Richard en Palestine, rồi đến các vũ khúc
ballet viết cho các nhạc kịch Faust, la Fille du Danube, La Jolie Fille de
Gand. Tài năng và danh tiếng lan rộng, ông đã được yêu cầu soạn hòa âm cho các
giàn nhạc và vũ ballet trên khắp thế giới. Vậy mà bài thơ người bạn Cappeau
trao cho ông lại là một thử thách khác xa những đơn đặt hàng đến từ Luân đôn,
Bá linh hay St. Petersburg.
Nghiên cứu bài thơ Cantique de Noel, Adolphe thấy toàn lời ca triển dương
tinh thần Giáng sinh của Đấng Cứu thế. Là người gốc Do Thái, ông thấy những lời
đó ca tụng một ngày lễ mà ông không mừng, một con người mà ông không nhận là
con của Thượng đế. Nhưng thúc đẩy nhiều hơn bởi tình bạn với Cappeau, ông mau
mắn và ân cần làm việc, cố gắng kết hợp những dòng nhạc với lời thơ đẹp của
Cappeau và sau cùng hoàn thành một tác phẩm hài lòng cả nhà thi sĩ và vị linh
mục chính xứ. Ba tuần lễ sau đó tác phẩm được trình bày trong thánh lễ nửa đêm
Giáng sinh. Cả ông thi sĩ lẫn nhà soạn nhạc đã không ngờ trước được những gì sẽ
xẩy ra sau đêm đó.
Khởi đầu, ca khúc đã được đón tiếp nồng nhiệt tại các giáo đường ở nước
Pháp trong tất cả các nghi thức của ngày lễ Giáng sinh. Nhưng khi tác giả của
bài thơ là Cappeau từ bỏ giáo hội để gia nhập phong trào xã hội, và các nhà
chức trách trong giáo hội khám phá thấy rằng người phổ nhạc Adolphe là một
người Do thái, thì nhạc bản này - lúc đó đã lớn mạnh và trở thành bài ca Giáng
sinh được ưa chuộng nhất tại Pháp - lại đột nhiên bị giáo hội phủ nhận. Giới
cầm quyền giáo hội nước Pháp lúc đó tuyên bố rằng bản “Cantique de Noel” không
thích hợp trong các nghi lễ tại giáo đường vì không có phong vị thánh nhạc và
lời ca “hoàn toàn thiếu tinh thần tôn giáo”. Tuy giáo hội cố chôn bản nhạc, vậy
mà giáo dân Pháp vẫn tiếp tục hát, và một thập niên sau, một nhà văn Mỹ đã đưa
ca khúc này ra trước một thính giả mới nơi cách nước Pháp cả nửa vòng trái đất.
Sanh ngày 13 tháng 5 năm 1813 tại Boston, John Sullivan Dwight đã tốt
nghiệp trường đại học Harvard và trường Thần học. Ông trở thành mục sư giáo
phái Unitarian tại Northampton, tiểu bang Massachusetts, nhưng do một nguyên
nhân nào đó cứ mỗi lần giảng thuyết trước đám đông là ông trở bệnh. Bất hạnh
này làm ông cứ phải giam mình trong nhà, không dám xuất hiện trước quần chúng
và do đó không thể làm nhiệm vụ mục sư được.
Là người rất thông minh và có tài, Dwight phải tìm cách khác để thi thố tài
năng. Ông dùng khả năng viết lách để thành lập tờ báo chuyên về âm nhạc
Dwight’s Journal of Music. Suốt ba thập niên ông lặng lẽ làm việc, phê bình và
đánh giá các nhạc bản một cách cẩn trọng. Tuy ông không xuất hiện được trước
đám đông, nhưng một số các nhạc sĩ có tài và những người ưa chuộng âm nhạc vùng
đông bắc nước Mỹ đã thích thú những bài viết có uy tín của ông. Trong lúc tìm
kiếm các ca khúc mới để thẩm định, ông đọc được “Cantique de Noel” nói trên
bằng Pháp văn, và ông cảm thấy yêu mến ngay lời ca của bản nhạc này.
Ông không chỉ thấy phải giới thiệu bản nhạc Giáng sinh tuyệt diệu này cho
thính giả Mỹ mà còn cảm nhận trong thâm tâm rằng bài ca còn đi xa hơn câu
chuyện Giáng sinh của Chúa nữa. Là một người có tinh thần giải phóng rất cao,
ông bày tỏ mạnh mẽ quan điểm của mình bằng những câu trong bài ca: “Quả thực,
Người dạy ta yêu nhau. Luật của Người là tình thương, và Tin mừng của Người là
hoà bình. Xích xiềng sẽ bị bẻ gẫy vì nô lệ là anh em ta, và nhờ danh Người sẽ
thôi không còn áp bức.” Bản văn thể hiện trung thực quan điểm của ông về chế độ
nô lệ ở miền Nam lúc đó. Người viết lời ca tin rằng Chúa đến để giải thoát mọi
người và trong bản nhạc này người ta thấy rõ thực tại đó.
Giữ ý chính của nguyên tác, Dwight phiên dịch lời ca một cách tài hoa ra
Anh ngữ, đem in trong báo của ông và xuất bản trong mấy cuốn sách âm nhạc thời
đó. Bản nhạc mau chóng được quần chúng Mỹ ưa chuộng, đặc biệt là ở miền Bắc
trong thời kỳ Nội chiến.
Trở lại nước Pháp, mặc dầu bản nhạc “Cantique de Noel” bị cấm hát trong các
nhà thờ gần hai thập niên, nhiều người vẫn hát tại nhà. Có một truyền thuyết kể
rằng vào đêm trước lễ Giáng sinh năm 1871, giữa trận chiến ác liệt giữa quân
đội Đức và Pháp trong chiến tranh Pháp-Phổ, một binh sĩ Pháp bỗng dưng nhảy ra
khỏi hầm trú ẩn lầy lội. Binh sĩ cả hai bên nhìn chằm chằm vào anh chàng có vẻ
điên khùng này. Tay không mang vũ khí, anh đứng ngang nhiên ngước mặt nhìn trời
cất cao giọng hát những câu mở đầu của bản Cantique de Noel: “Minuit,
chrétiens, C’est l’heure solennelle, Où l’Homme Dieu descendit jusqu’à nous”
(“Nửa đêm rồi, hỡi người giáo hữu. Đây là giờ trọng thể Con Chúa
xuống trần đến với chúng ta”). Đến lúc đó thì một anh lính bộ binh người
Đức trèo ra khỏi nơi trú ẩn và hát đáp lại:”Vom Himmel hoch, da komm’ich
her. Ich bring’euch gute neue Mar, Der guten Mar
bring’ich so viel. Davon ich sing’n und sagen will.” Đó là phần mở đầu ca khúc “Ta từ trời xuống thế” của Martin Luther.
Chuyện kể rằng sau đó trận chiến ngưng lại 24 giờ đồng hồ cho binh sĩ hai bên
cùng tạm thời hoà hoãn để mừng ngày lễ Giáng sinh. Có lẽ câu chuyện này phần
nào thúc đẩy giáo hội Pháp chấp nhận bản Cantique de Noel được xứng đáng hát
lên trong các nghi lễ tôn giáo như trước.
Vào ngày trước lễ Giáng sinh năm 1906, Adams người thi sĩ sáng tác bài thơ
thì đã chết từ lâu, còn nhạc sĩ Cappeau và dịch giả Dwight đều đã già cả. Hôm
đó, Reginald Fessenden, một giáo sư đại học Pittsburgh 33 tuổi và trước kia là
chuyên viên hoá học phụ tá cho nhà bác học Mỹ Thomas Edison, đã thực hiện một
chuyện mà từ lâu vẫn tưởng không thể làm được. Xử dụng một loại máy phát điện
mới, Fessenden nói vào chiếc máy khuếch đại và đó là lần đầu tiên trong lịch
sử, tiếng nói của con người được truyền đi trên làn sóng không gian:”Và xảy
ra trong những ngày ấy, có lệnh của hoàng đế Xêda, là mọi người phải được kiểm
tra”, ông cất cao giọng đọc thật rõ ràng, hy vọng tiếng nói truyền đi tới
một địa điểm xa ông đã ước định trong thí nghiệm.
Những chuyên viên vô tuyến trên các tàu biển và tại các toà báo thật ngạc
nhiên và sững sờ khi thấy những làn sóng xung động thường ngày họ nhận được
bằng mã số phát ra trên mấy chiếc loa nhỏ xíu bỗng nhiên bị ngưng lại và giọng
nói của vị giáo sư phát ra khi ông đọc đoạn Tin mừng nói trên trong sách thánh
Luca. Một số người lúc đó tưởng chừng là một phép lạ khi nghe được, lần đầu
tiên tiếng nói con người được chuyển thành làn sóng điện và truyền đi đến một
nơi xa. Một số người khác tưởng chừng họ nghe được tiếng nói của thiên thần.
Fessenden có lẽ không biết được những cảm giác sững sờ ông gây ra trên các
tàu biển và văn phòng báo chí vào lúc đó, ông không biết sự kiện nhiều người
chạy vội đến máy vô tuyến để lắng nghe những âm thanh tưởng chừng như phép lạ
đó. Thế nên, sau khi đọc xong đoạn Tin mừng, Fessenden nâng chiếc vĩ cầm của
ông lên và chơi bản “O Holy Night”, bản nhạc đầu tiên được truyền đi trên làn
sóng vô tuyến. Bản nhạc chấm dứt và buổi truyền thanh kết thúc. Vậy là âm nhạc
đã tìm được một phương tiện mới để tràn lan khắp thế giới.
Từ buổi được hát lên lần đầu trong thánh lễ Giáng sinh nhỏ bé năm 1847, bản
nhạc “O Holy Night” đã được hát lên cả triệu lần tại các thánh đường trên khắp
thế giới. Và từ buổi một nhóm người ít ỏi được nghe phát thanh lần đầu trên làn
sóng vô tuyến, bản nhạc đã trở thành một trong những thánh ca được thu thanh và
được trình diễn nhiều lần nhất trong kỹ nghệ âm nhạc. Tổng số đĩa nhạc do nhiều
ban nhạc trình bày đã lên đến hàng chục triệu.
Bản nhạc này, xuất phát do lời yêu cầu của một linh mục không tên tuổi,
viết ra bởi một thi sĩ sau này lìa bỏ giáo hội, phổ nhạc bởi một người Do thái,
và được mang đến quần chúng Mỹ vừa như một công cụ để soi chiếu tội ác của chế
độ nô lệ vừa để tường thuật lễ Giáng sinh của Chúa, đã lớn mạnh để trở thành
một trong những ca khúc đẹp tuyệt vời của mùa Giáng sinh.
1. Sau đây là lời ca của bản nhạc bằng Anh ngữ:
Oh holy night!
The stars are brightly shining
It is the night of the dear Savior’s birth!
Long lay the world in sin and error pining
Till he appear’d and the soul felt its worth.
A thrill of hope the weary world rejoices
For yonder breaks a new and glorious morn!
Fall on your knees
Oh night divine
Oh night when Christ was born
Oh night divine
Oh night divine
Led by the light of Faith serenely beaming
With glowing hearts by His cradle we stand
So led by light of a star sweetly gleaming
Here come the wise men from Orient land
The King of Kings lay thus in lowly manger
In all our trials born to be our friend.
Truly He taught us to love one another
His law is love and His gospel is peace
Chains shall He break for the slave is our brother
And in His name all oppression shall cease
Sweet hymns of joy in grateful chorus raise we,
Let all within us praise His holy name.
2. Nguyên bản Pháp ngữ:
Minuit, Chrétiens!
Paroles: Placide Cappeau de Roquemaure.
Musique: Adolphe Adam 1847
Minuit! Chrétiens, c’est
l’heure solennelle
Où l’homme Dieu descendit
jusqu’à nous,
Pour effacer la tache
originelle
Et de son père arrêter le
courroux:
Le monde entier tressaille
d’espérance
A cette nuit qui lui donne
un sauveur
Peuple, à genoux attends ta
délivrance,
Noël! Noël! Voici le
Rédempteur!
Noël! Noël! Voici le
Rédempteur!
De notre foi que la lumière
ardente
Nous guide tous au berceau
de l’enfant
Comme autrefois, une étoile
brillante
Y conduisit les chefs de
l’Orient
Le Roi des Rois naît dans
une humble crèche,
Puissants du jour fiers de
votre grandeur,
A votre orgueil c’est de là
qu’un Dieu prêche,
Courbez vos fronts devant le
Rédempteur!
Courbez vos fronts devant le
Rédempteur!
Le Rédempteur a brisé toute
entrave,
La terre est libre et le
ciel est ouvert
Il voit un frère où n’était
qu’un esclave
L’amour unit ceux
qu’enchaînait le fer,
Qui lui dira notre
reconnaissance?
C’est pour nous tous qu’il
naît, qu’il souffre et meurt:
Peuple, debout! Chante ta
délivrance,
Noël! Noël! Chantons le
Rédempteur!
Noël! Noël! Chantons le
Rédempteur!
Phiên khúc chót (bản Pháp ngữ) có thể tạm dịch như sau:
Đấng Cứu thế đã bẻ gãy mọi
xích xiềng,
Đất đã tự do và trời đã rộng
mở,
Ngài nhìn ra anh em mình nơi
một người nô lệ,
Tình yêu nối kết những ai bị
xích xiềng,
Ai nói được với Ngài lòng
biết ơn của chúng ta?
Vì tất cả chúng ta nên Ngài
sinh ra, chịu khổ đau và chết đi:
Dân Chúa Hỡi, hãy đứng lên,
hát mừng sự giải thoát của ngươi.
Noël! Noël! Ta hãy ca mừng
Đấng Cứu Độ.
Noël! Noël! Ta hãy ca mừng
Đấng Cứu Độ
Ghi chú: Có điều ngạc nhiên là trong lời nguyên thủy này của Placide
Cappeau de Roquemaure ta không thấy có câu nào khiến John Sullivan Dwight có
thể dịch ra Anh ngữ với nội dung như sau (xin coi đoạn cuối bài ca ghi trên):
“Quả thực, Người dạy ta yêu
nhau.
Luật của Người là tình
thương,
và Tin mừng của Người là hoà
bình.
Xích xiềng sẽ bị bẻ gẫy vì
nô lệ là anh em ta,
và nhờ danh Người sẽ thôi
không còn áp bức.”
3- Bản Việt ngữ của Cao Minh Thắng: Đêm Thánh
1- Ôi đêm rất thánh
Ngàn sao sáng ngời trên chốn
cao đón Con Vua Trời
Yêu nhân thế xuống làm người
Muôn dân muôn nước từ lâu
đắm chìm trong bóng đêm
Tới khi Người đến thì màn
đêm bỗng tan dần
Một niềm hy vọng cho đất
trời hát mừng chúc khen.
Một vì sao lạ đang tỏa rạng
ánh hào quang.
Hãy quỳ lạy đi! Và nghe thần
nhạc hòa ca vang!
Đêm thánh cho trần thế,
Đêm nhiệm màu!
Khi Đấng Cứu thế sinh ra
Đêm thánh! Rộn tiếng ca thiên thần
Đêm Chúa giáng sinh.
Hài Nhi đang nằm trong máng lừa quá yêu gian trần
Trời đông giá sinh ra đời
Ba vua từ xa đến viếng Chúa Hài nhi
Với vàng, nhũ hương thật quý và hương thơm của mộc dược
Trong nôi bé nhỏ, Vua của trời đất dệt giấc thơ
Thiên cung hát mừng
“Bình an cho chúng sinh”
Chúa yêu ta đó!
Sinh xuống làm bạn của ta.
4- Bản Việt ngữ của Anh Linh: Chúa
Ra Đời
Kìa một vì sao soi sáng khắp trời muôn ánh huyền.
Chúa Con ra đời thành Be Lem chốn hang hèn.
Vì lòng từ nhân, Thiên Chúa đã mặc lấy xác phàm,
xuống nơi trần thế cùng ta sống rất âm thầm.
Bao năm sống ẩn thân khó nghèo với người thế gian,
mong sao khắp trần gian mau tìm thấy niềm tin.
Hỡi muôn ngàn dân! Hãy hát chào mừng Vị Cứu Tinh.
Người đến, người đến cứu ta thoát chốn điêu linh.
Toàn dân cùng đứng hoan ca mừng Người Giáng Sinh.
Mục đồng dậy mau theo ánh sáng về đây kính thờ.
Chúa Con ra đời miền hoang vu chốn hang lừa.
Đừng ngần ngại chi, hang đá hãy vào xem Chúa Trời,
khác chi người thế, nằm run khóc với Mẹ Người.
Anh em chớ hoài nghi mau quỳ gối thờ kính tôn.
Ngôi Hai Chúa từ nhân đã mặc xác phàm nhân.
Hỡi muôn ngàn dân! Hãy hát chào mừng Vị Cứu Tinh.
Người đến, người đến cứu ta thoát chốn điêu linh.
Toàn dân cùng đứng hoan ca mừng Người Giáng Sinh.
Ngài là niềm tin, sao sáng dẫn đường đưa lối về.
Những ai tâm hồn nhiều đau thương gánh nặng nề.
Tìm nguồn ủi an, xin hãy nhớ ngày xưa Chúa ta
khó khăn hèn yếu lẻ loi giữa chốn hang lừa.
Nêu gương sáng dạy ta danh lợi thế đừng thiết tha,
theo gương Chúa ngày xưa coi thường kiếp phù hoa.
Hỡi muôn ngàn dân! Hãy hát chào mừng Vị Cứu Tinh,
Người đến, người đến cứu ta thoát chốn điêu linh.
Toàn dân cùng đứng hoan ca mừng Người Giáng Sinh.
4- Phiên bản của Hội Thánh
Tin Lành Việt Nam: Đêm Thánh
- Kìa vùng trời đông ngôi sao Tin Lành soi thánh quang,
Con Trời tự hạ thành nhân giữa đêm huy hoàng;
Vì lòng Ngài yêu nhân thế đắm chìm nơi bến mê,
Ra đời làm giá cao quí cứu chúng sinh về;
Bao năm cảnh đời như giữa đêm ác tội khiếp kinh,
Hôm nay khắp trời trông rõ quang cảnh bình minh.
Đ.K:
Chúa sanh giờ đây,
Đêm thánh vinh quang vui vẻ bấy!
Đêm phước hạnh đấy,
Đêm bình hòa, đêm an ninh,
Đêm Chúa từ ái,
Ấy đêmThần Tử giáng sinh.
- Mục đồng gặp ngay Anh Nhi trong chuồng chiên đáng thương,
Đơn thành thờ lạy thần nhân hiển vinh lạ thường;
Tìm thờ lạy Vua xưa bác sĩ nhìn sao ruổi dong,
Nay ta thành kính cùng tôn Chúa cách hết lòng;
Jêsus trải trường đau khổ thương cảm nhược điểm ta,
Ban ơn giữ gìn ta khỏi mưu quỉ quyền ma.
- Ngài từng dạy ta nên yêu thương cùng nhau chớ phai,
Yêu là luật Ngài, bình an ấy Tin Lành Ngài;
Ngài vì tội nô nên bẻ xích xiềng ma quỉ kia,
Danh Ngài truyền đến, bao áp chế thảy xa lìa;
Ta nên hết lòng tôn kính danh Đấng vừa giáng sinh,
Dâng lên khúc thần ca cảm ơn Chúa diệu vinh.
5- ADESTE
FIDELES O Come All Ye Faithul
Bản nhạc Adeste Fideles (O
Come All Ye Faithful) đã được hát trong các thánh đường Tin Lành và Công giáo
mỗi mùa Giáng sinh gần hai trăm năm qua và trong các thánh lễ Công giáo nhiều năm
trước nữa. Vào thế kỷ 20, ca khúc này cũng đã được các ca sĩ thượng thặng thâu
thanh hàng trăm lần, và các đĩa nhạc đó đã đạt nhiều kỷ lục cũng như đã nhẩy
lên hàng những đĩa nhạc bán chạy nhất (top ten) tới ba lần, được dịch ra hơn
150 ngôn ngữ khác nhau và được các nhà phê bình đánh giá là “ca khúc Giáng sinh
vĩ đại nhất”. Vậy mà điều đáng ngạc nhiên là mãi đến khi thế chiến thứ hai chấm
dứt người ta mới biết được tên tác giả của ca khúc đó.
Suốt nhiều thế kỷ, người ta
cứ tưởng tác giả của bản nhạc này là một giáo sĩ vô danh sống trước hoặc trong
thời Trung cổ. Có truyền thuyết cho rằng lời ca của bản nhạc này là do thánh
Bonaventura viết. Thế nên mọi người đều rất ngạc nhiên khi một học giả người
Anh tên là Maurice Frost khám phá ra 7 bản nhạc này được chép tay có chữ ký của
một linh mục Công giáo người Anh tên là John Francis Wade. Lý do nào khiến cho
tên tuổi của cha Wade không được ai biết là tác giả của bản nhạc thời danh này
vẫn còn là một điều bí ẩn không ai giải thích được. Tuy nhiên, hoàn cảnh vị
linh mục sáng tác bản nhạc này lại như một chuyện phiêu lưu thú vị.
Năm 1745, năm linh mục Wade
mới 35 tuổi, cuộc xung đột giữa giáo hội Anh giáo và Công giáo đạt đến cao độ
và cha Wade đã nằm giữa gọng kìm của cuộc thánh chiến đó. Nhiều tín hữu Công giáo
phải rút vào sống đạo trong thầm lặng. Để tránh tù đầy và cái chết, nhiều linh
mục phải bỏ trốn khỏi nước Anh, trong đó có cha Wade. Cha đến sinh sống tại
miền Douay nước Pháp nơi có nhiều tín hữu Công giáo người Anh và những người
chống đối hoàng gia Anh cư ngụ. Nơi đây cha được giao một công tác quan trọng.
Vì có nhiều hồ sơ, văn bản của các xứ đạo nước Anh bị thất lạc trong cuộc xung
đột nói trên, nhiệm vụ của cha Wade là truy tìm và xác định các nhạc bản công
giáo, để rồi ghi chép và bảo tồn cho các thế hệ tương lai. Cha làm việc hết sức
cẩn trọng, cố gắng hết mình để không bỏ sót một nhạc bản nào có giá trị tinh
thần và lịch sử, coi công việc là một tìm kiếm khó nhọc và lâu dài.
Là một người được học hỏi về
thư họa và cũng là một nhạc sĩ có tài, cha Wade đã không chỉ bảo toàn được các
bản thánh ca thời đó, mà còn sắp xếp, trình bày và phân phối cho các xứ đạo
khắp châu Âu. Cha đã tìm được và, qua nét họa và chữ viết tuyệt đẹp, đã phổ
biến được nhiều bản nhạc thất truyền từ lâu, và những nhạc bản đó lại được hát
vang trong các thánh lễ khắp Âu châu và nhiều nơi khác.
Ngoài việc tìm kiếm những
nhạc bản thất truyền, cha Wade còn có hứng sáng tác những ca khúc mới, dĩ nhiên
bằng La ngữ vì cha là linh mục công giáo. Vào khoảng năm 1750 ngài sáng tác
xong những nốt nhạc cuối cùng của bản “Adeste Fideles” và năm kế tiếp xuất bản
trong tập nhạc “Cantus Diversi”. Khoảng 10 năm sau, cha hoàn thiện và đặt lời
cho bản nhạc. Vậy là ca khúc này được xuất bản ở hai thời điểm khác nhau với
tên cha là tác giả, thế mà không hiểu tại sao đến năm 1841 khi Frederrik
Oakeley phiên dịch nguyên bản bài ca ra tiếng Anh không thấy ghi tên của ngài.
Cũng từ đó nhiều truyền thuyết về người khai sinh ra bản nhạc ra đời, nhưng
không có tên của cha Wade.
Vào những năm 1800 tên tuổi
thánh Bonaventura được nổi bật lên là tác giả bản nhạc, và chắc là phải có lý
do. Có thể là trong khi làm công tác nói trên tại Pháp, cha Wade đã tìm được
một số bản nhạc của thánh nhân, và những bản nhạc đó đã ảnh hưởng hoặc gợi hứng
cho cha Wade.
Chuyện kế tiếp thường được
mọi người kể đi kể lại, là vào năm 1860 bản nhạc này được trình bày ở sứ quán
Bồ đào nha tại Luân đôn. Nhạc sĩ phong cầm Vincent Novello giới thiệu với thính
giả rằng bản nhạc do một người tên là John Redding sáng tác. Vậy là Redding
được công nhận là tác giả của ca khúc tuy rằng bản thảo của cha Wade xuất hiện
trước đó cả thế kỷ đã vô hiệu hoá sự công nhận này. Redding đem xuất bản và đặt
tên là “Nhạc bản Bồ đào nha”. Vì sự việc đó nên nhiều người nghĩ rằng Redding
viết nhạc còn lời ca là do một người Bồ đào nha nào đó soạn thảo.
Tại Mỹ, cũng như trên khắp
thế giới, nhiều nhà thờ đã hát bản thánh ca này từ trước năm 1900. Bản nhạc
cũng là trọng điểm của phong trào hát dạo thánh ca nở rộ khắp nước. Nhiều ban
nhạc đi đến từng nhà hát các ca khúc Giáng sinh, và bản nhạc này luôn luôn được
hát lên hoặc kết thúc với lời điệp khúc thật hùng hồn.
Trong mùa lễ Giáng sinh năm
1905, ban nhạc lớn nhất thời đó là Peerless Quartet ghi âm và phát hành bản
nhạc này. Vào lúc mà phương tiện truyền thanh chưa xuất hiện để có thể chuyển
đạt âm nhạc đến quảng đại quần chúng, thì đĩa nhạc này xuất hiện đã bán được cả
hàng ngàn bản và nhảy lên đứng hàng thứ bảy trên bảng National Hit Parade. Ban
nhạc Peerless Quartet tuy đã ghi âm cả hàng ngàn bản nhạc nhưng ca khúc này trở
thành biểu tượng của họ về thánh nhạc.
Năm 1915, người ca sĩ giọng
nam cao (tenor) gốc Ái nhĩ lan nổi tiếng nhất thế giới đã ghi âm ca khúc này và
đưa lên đứng hạng nhì trong bảng sắp hạng toàn quốc năm đó. Một thập niên sau,
ban nhạc American Gee Club lại chứng tỏ một lần nữa rằng bản nhạc này vẫn là ca
khúc Giáng sinh hàng đầu của dân chúng Mỹ. Trong thời kỳ mà rất ít bản thánh ca
tìm được sự yêu chuộng đồng nhất nơi dân chúng, nhạc bản này vẫn giữ được vị
thế hàng đầu cho mãi tới khi ca sĩ lừng danh Crosby thâu thanh bản nhạc “White
Christmas”. Dĩ nhiên khi phát hành đĩa nhạc, Crosby còn thâu âm và phát hành
kèm theo cả bản “O Come” này nữa. Cũng chính vào thời điểm này, Maurice Frost
đánh tan những nghi vấn về tác giả bản nhạc khi khám phá ra người khai sinh ca
khúc này là linh mục Wade và trả lại cho ngài cái vinh dự là tác giả bản
nhạc.
Tác quyền và tài năng của
cha Wade phải được công nhận và tuyên dương. Sống giữa thời đại có những tranh
chấp của các giáo hội, ngài đã chấp nhận cuộc đời ly hương để bảo vệ đức tin,
đã tận tụy suốt thời gian lưu vong để bảo tồn những văn bản của giáo hội trong
lúc một số người khác muốn xóa bỏ, ngài đã chứng tỏ nhiệt tâm phụng sự Chúa và
giáo hội. Từng chữ từng câu trong bản thánh ca này không những chỉ chứng minh
đức tin của tác giả mà còn triển dương đức tin đó nữa. Giữa một thời mà giáo
hội đang ở trong tình trạng chiến tranh, chỉ người nào thực sự tin tưởng vào
thánh đức của Chúa mới có thể viết nên một bài ca có khả năng đem tất cả những
người Ki tô giáo hiệp nhất lại với nhau mỗi dịp Giáng sinh về để cùng nhau phủ
phục trước Đấng Cứu Thế sinh hạ làm người.
Ghi chú:
1. Bản Adeste Fideles (tiếng
Latinh) đã được hát trong các thánh đường Việt nam trước công đồng Vatican II.
Sau đây là ba phiên khúc và điệp khúc bằng La ngữ:
Adeste
fideles,
laeti triumphantes;
venite, venite in Bethlehem;
natum videte regem
angelorum.
II
Deum de Deo,
lumen ad lumine,
gestant puellae viscera,
Deum verum, genitum non
factum.
III
en grege relicto,
humiles ad cunas,
vocati pastores appropiant.
et nos ovanti gradu
festinemus,
Điệp khúc:
Venite
adoremus
Venite
adoremus
Venite
adoremus Dominum
2. Bản Anh ngữ:
O come, all ye faithful, joyful and triumphant.
Come ye, O come ye, to Bethlehem;
Come and behold Him, born the King of angels;
Điệp khúc:
O come, let us adore Him,
O come, let us adore Him,
O come, let us adore Him,
Christ, the Lord.
O sing, choirs of angels,
sing with exultations, O sing all ye citizens of heav’n above. Glory to God,
all Glory in the highest
Yea, Lord we greet thee,
Born this happy morning, Jesus, to thee be glory giv’n Word of the father, now
in flesh appearing
3. Bản Việt ngữ hát trong
các thánh đường Công giáo Việt nam:
Hôm nay toàn dân Chúa Trời
Vui mừng chiến thắng khải hoàn
Hân hoan trông về Bêlem với muôn lòng thành
Chúa ta đã giáng sinh
Vua vũ trụ vua thiên đình
Điệp khúc:
Nhân gian hãy mau đến tôn thờ
Nhân gian hãy mau đến tôn thờ
Nay Đấng muôn dân đang chờ đã sinh làm người
Ngôi Hai
kìa đã xuống trần
Khiêm nhường sinh chốn hang lừa
Con xin dâng niềm ủi an thiết tha dịu dàng
Chúa ta đã giáng sinh
Vua vũ trụ vua thiên đình
4. Bản chuyển âm của Hội Thánh Tin Lành Báp-Tít Việt Nam:
Hỡi môn đồ trung tín, dìu dắt nhau vui hát du dương
Vô nơi Bet-lê-hem chiêm ngưỡng thật tận tường,
Chúa tể muôn sứ thánh nay Giáng sinh chỗ tầm thường.
Mau mau cùng nhau đến tôn thờ
Mau mau cùng nhau đến tôn thờ
Mau đến nơi đây tôn thờ Chúa Giê-xu Vua ta.
Giê-xu từ
Đức Chúa Trời, Thánh quang do chính Thánh quang
Nhưng đâu khinh thị tử cung nữ trinh bần hàn
Cứu Chúa nay giáng sanh không bởi tinh huyết thành toàn
Ban âm nhạc thiên sứ đều trổi vang lên khúc hân hoan,
Thiên dân mau đồng thanh ca xướng điệu nhịp nhàng:
Sáng danh Cha nơi cao, vinh hiển thuộc Chúa mọi đàng!
Hoan nghênh Thần Nhân Giê-xu giáng sanh ở giữa chúng tôi
Bao vinh quang thuộc Anh Nhi thánh kia đời đời
Đấng Cha sai giáng sanh trong xác thịt, ấy Đạo Trời
6. THE
FIRST NOEL (Đêm Giáng sinh đầu tiên)
The First Noel là bài dân ca
mùa Giáng sinh cổ xưa nhất mà ngày nay còn hát. Mặc dầu được in ra lần đầu tiên
vào năm 1833, bản nhạc này đã xuất hiện trước đó ít nhất cũng khoảng 300 năm.
Nguyên bản phát xuất từ đâu và vào thời điểm nào thì vẫn còn là một nghi vấn,
và cả hai nước Anh, Pháp đều dành phần xuất xứ. Chữ “Noel” cho biết có thể bản
nhạc đã khởi đầu từ nước Pháp (Noel là tiếng Pháp chỉ ngày lễ Giáng sinh),
nhưng một số sự việc lại chứng minh ngược lại, nghĩa là bài ca xuất phát từ
nước Anh rồi mới truyền qua nước Pháp. Nhưng điều chắc chắn không còn phải nghi
ngờ gì nữa là bài ca thể hiện đức tin và tinh thần của tác giả; tuy bài ca thật
xưa cổ nhưng mỗi lần hát lên lại làm sống động thêm niềm tin đó.
Như đã có hai quan điểm khác
nhau về xuất xứ của bài ca thì cũng có hai cách đánh vần tên của bài hát. Ở
nước Anh, và đôi lúc cả ở Mỹ, chữ “Noel” được viết khác đi, và tên bài hát trở
thành “The First Nowell”. Dĩ nhiên là tại Pháp, chữ Noel vẫn được duy trì. Dù
là noel hay nowell thì ý nghĩa ở cả hai ngôn ngữ đều giống nhau: đó là tiếng
reo vui chỉ ngày sinh của Đấng Cứu thế. Vậy mà, trong lúc tác giả vô danh của
bản nhạc hiển nhiên biết rõ về ngôn ngữ để dùng mở đầu phần điệp khúc của bài
ca, thì lại thiếu sót đôi điểm về Kinh thánh. Điều này cho ta thấy thêm được
cái quá trình của người sáng tác.
The First Noel là một trong
số ít bản ca Giáng sinh thủa ban đầu còn sót lại tới ngày nay được xếp vào loại
dân ca. Người phụ trách viết nên bài ca này hiển nhiên rất hứng khởi về lễ
Giáng sinh và hiểu rất rõ điều kỳ diệu của sự nghiệp giáng thế của Đức Giêsu,
nhưng lại không nắm vững được toàn diện câu chuyện Thánh kinh thuật lại về sự
Giáng sinh đó. Ở thời kỳ Trung cổ, sự việc này gần như là một định luật chứ
không phải là một ngoại lệ.
Trong thời điểm lúc bản “The
First Noel” được viết ra, có rất ít bản Thánh kinh được lưu hành trong dân
gian. Hầu hết Thánh kinh lưu trữ ở trong nhà thờ, tu viện, và viết bằng tiếng
La tinh. Người dân thường ít khi được đích thân thấy cuốn sách thánh hoặc giả
có được thấy chăng nữa cũng không đọc được vì đa số dân chúng thời đó đều thất
học.
Đó có lẽ là trường hợp của
tác giả The First Noel. Không có sách thánh làm hướng dẫn, người viết chỉ dựa
theo những gì đã nghe kể lại về biến cố giáng sinh của Chúa. Hầu hết các chi
tiết tác giả kể lại đều đúng, nhưng lại lầm khi thuật rằng các mục đồng đã theo
dấu ngôi sao để tìm tới chỗ Chúa sinh ra. Thánh kinh không nói ngôi sao đã dẫn
lối cho mục đồng, nhưng là chỉ đường cho các nhà đạo sĩ đến từ phương
đông.
Một yếu tố chính yếu khác
trong bản cổ ca này cho biết bài ca do một người không có kiến thức về ngữ pháp,
đó là cách cấu tạo các câu. Thí dụ, trong nguyên bản, câu “This child truly
there born he was” thì đơn giản không phải là cấu trúc của người biết ngữ
pháp. Tuy nhiên, cái tinh thần toát ra từ bản The First Noel đã bù lại cái
thiếu sót có vẻ chuyên biệt này. Cái tinh thần đó, kết hiệp với phong tục hàng
năm của dân chúng miền Scandinavia có lẽ đã là đảm bảo cho sự sống còn của bản
cổ ca này.
Trong thời kỳ Trung cổ, dân
chúng nước Anh đã giữ cái tập quán về khúc củi Yule do người Viking để lại. Cứ
mỗi mùa đông, người trong gia đình lại vào rừng đốn một khúc cây lớn, kéo về
nhà, cắt bỏ cành và khoét rỗng ruột. Rồi họ nhồi vào bọng cây đó các hương
liệu, dầu, đồ thơm, và đem đặt vào lò sưởi. Họ phun chất nhen lửa chung quanh
khúc củi, rồi cô con gái trong nhà hoặc bà vợ đốt củi bằng que cây còn lại từ
khúc củi năm trước. Những gia đình có đốt khúc củi Yule hàng năm tin rằng họ sẽ
được may mắn trong nhà.
Khi những người theo tập tục
đó trở lại theo đạo Chúa, họ đem áp dụng tục này vào lễ Giáng sinh. Đối với họ,
cây gỗ hiển nhiên tượng trưng gỗ của cây thánh giá và hương liệu là cuộc sống
cao đẹp Chúa dành cho mỗi người tín hữu do sự hy sinh của Người trên thánh giá
đó. Khúc củi được đưa về nhà hôm trước lễ Giáng sinh và được đốt lên, hy vọng
sẽ âm ỉ suốt 12 ngày của mùa lễ để lụi tàn vào ngày mùng 6 tháng giêng, ngày kỷ
niệm các nhà đạo sĩ đến dâng lễ vật lên Chúa. Nếu khúc củi cháy lâu được như
vậy đó là dấu hiệu ngôi nhà được chúc phúc.
Tại nước Anh, The First Noel
được hát lên hàng năm khi những người nông dân bắt đầu đốt khúc củi Yule. Như
vậy bài ca trở thành phần mở đầu của mùa Giáng sinh. Đặc biệt là đối với các em
nhỏ, bài ca là dấu hiệu bắt đầu những ngày kỳ thú nhất của chúng trong năm.
Cùng với thời gian, cái tập tục đốt củi Yule vẫn được duy trì và mang theo với
nó âm nhạc của bài ca này. Tuy nhạc và lời không được ghi chép trong sách vở,
nhưng bản The First Noel vẫn tiếp tục tồn tại.
Trong cuộc sống ba trăm năm
đầu của bài ca, cũng giống như số phận của nhiều ca khúc khác, bản The First
Noel không được dùng trong các nghi lễ tôn giáo. Những bài hát mới dù có thấm
đượm chuyện tích trong Thánh Kinh cũng không được ca hát trong hầu hết các
thánh đường. Vì có sự khinh thường của hàng giáo sĩ nên những bài ca đại loại
như The First Noel trở thành những khúc ca ngày lễ của đám dân giả. Nó phản ảnh
niềm vui của mùa lễ Giáng sinh, sự kỳ diệu của việc Con Chúa xuống cứu độ loài
người không phân biệt sang hèn. Những bài hát như vậy trở thành một phần của
truyền thống gia đình, và nhiều bài hát mùa lễ ngày nay rất được yêu chuộng có
lẽ đã mai một đi nếu không được truyền lại từ thế hệ này sang thế hệ khác theo
truyền thống đó.
Cả bài hát The First Noel và
tập tục đốt khúc củi Yule mùa lễ Giáng sinh đã tìm đường vào nước Pháp khoảng
thế kỷ thứ 15, có lẽ do những đoàn hát dạo người Anh đã đem giới thiệu với công
chúng Pháp. Cũng giống người Anh, thường dân Pháp đã chấp nhận bài ca này và sứ
điệp của nó, lại còn thay đổi đi theo đường lối riêng của họ: Bài này được trẻ
em ca theo lối hát đuổi.
Năm 1833, bản nhạc The First
Noel được William Sandys đem xuất bản. Hành nghề luật sư nhưng ông lại thích âm
nhạc và trong lúc rảnh rang còn đi sưu tập dân ca Anh, Pháp. Ông cho in bài The
First Noel vào tuyển tập các bài dân ca Giáng sinh. Đã được giai cấp nông dân
yêu thích từ lâu nên vào khoảng giữa thập niên 1800 lúc giáo hội Anh giáo bắt
đầu dùng những bài hát mới trong các nghi lễ thì bản nhạc này được quảng đại
quần chúng rất mực hoan nghênh.
Nhạc bản này, hiển nhiên đã
được gợi hứng từ câu chuyện Giáng sinh của Đấng Cứu thế và có lẽ viết ra do một
người bình dân ít học, vẫn còn là bài ca được mọi thời yêu mến. Nhưng điều làm
người ta thắc mắc là không hiểu tại sao bài hát này còn tồn tại trong khi rất
nhiều bản nhạc dân ca Giáng sinh khác - trong đó nhiều bài dùng lời ca hay hơn
- lại bị rơi vào quên lãng. Có thể điều quan yếu là tác giả đã đặt vào bài ca
một tinh thần mừng vui hớn hở hiếm thấy. Tất cả những ai đã hát nhạc bản này
đều không nghi ngờ rằng người viết đã không chỉ xác tín mỗi lời viết ra mà còn
hứng khởi về câu chuyện kể lại. Vì vậy bản nhạc này tượng trưng cho cái tinh
anh đích thực của lễ Giáng sinh, cái tinh tuý được triển dương nhiều lần trong
mỗi mùa lễ: đó là lời loan báo tin vui ngày Chúa xuống trần. Tuy tập tục đốt
khúc củi Yule đã tàn lụi theo với tháng năm nhưng bài ca The First Noel thì mỗi
mùa Giáng sinh vẫn mãi mãi còn bừng sáng.
1. Lời ca bài The First
Noel:
The first noel the angel did say
Was to certain poor shepherds in fields as they lay -
In fields where they lay keeping their sheep,
On a cold winter’s night that was so deep.
Điệp khúc:
Noel,
noel, noel, noel,
Born is the king of Israel.
They
looked up and saw a star
Shining in the east, beyond them far;
And to the earth it gave great light,
And so continued both day and night.
And by the light of the same star,
Three wise men came from country far;
To seek for a king was their intent,
And to follow the star wherever it went.
This star drew nigh to the northwest,
O’er Bethlehem it took its rest;
And there it did both stop and stay,
Right over the place where Jesus lay.
Then they did know assuredly
Within that house, the King did lie
One entered in then for to see
And found the babe in poverty.
Then entered in those wise men three,
Full rev’rently upon their knee;
And offered there, in His presence,
The gold, and myrrh, and frankincense.
If we in our time do well
We shall be free from death and hell
For God hath prepared for us all
A resting place in general.
Giữa trời mùa đông giá. Trong máng chiên nghèo nàn,
Con Chúa sinh xuống đời, để cứu rỗi cả nhân loại.
Giữa trời mùa đông vắng, muôn tiếng ngân nhịp nhàng
Thiên sứ vang lời hòa ca tôn kính Con Vua Trời
Điệp khúc:
No-el,
No-el, No-el, No-el
Đấng
sinh xuống trần là vua Is-ra-el
3- Phiên bản của Hội Thánh Tin Lành Việt Nam:
- Nô-ên đầu tiên thiên sứ
rao truyền cho kẽ chăn nghèo
đang thức quanh miền, Quây
quần cùng nhau canh giử chiên
nhà, Đêm giá canh trường
thân phủ sương già.
Đ.K:
Nô-ên, Nô-ên, Nô-ên,
Nô-ên,
Chính đêm sanh Vua
Y-sơ-ra-ên!
- Cũng nhờ hào quang do
chính sao nầy, Bác sĩ ba người chung
đến vui vầy, Bước lần lần
theo sao sáng trên trời, Nôn nả
đi tìm Vua mới ra đời.
- Nay mừng nô-ên ta hát một
bài, Cung kính khen ngợi Chân
Chúa thiên đài, Muôn vật
được nên do Chúa phán tuyên,
Tuôn huyết tha tội ơn cứu
linh huyền.
7- I’LL BE
HOME FOR CHRISTMAS (Tôi sẽ về nhà mừng lễ Giáng sinh)
Hàng triệu người đã một thời
ấp ủ bài ca này - những người thành kính lắng nghe từng lời và từng nốt nhạc,
nương hồn theo từng xúc cảm đan dệt thành lời bài hát – nay đã ra người thiên
cổ. Tuổi tác đã cướp đi những thanh niên thiếu nữ đã lần đầu tiên ôm ấp nhạc
bản “I’ll Be Home for Christmas”, không phải chỉ như một bài ca mà còn như một
lời kinh nguyện. Đối với người già người trẻ trong những ngày đen tối nhất của
thế chiến thứ II, những người con, những cha mẹ, ông bà, cô cậu chú bác thì
“I’ll Be Home for Christmas” tượng trưng cho họ niềm hy vọng, giấc mơ và lời
kinh nguyện đẹp đẽ hơn bất cứ bài ca, phim ảnh hay câu truyện nào khác. Nhiều
người ngày nay nghe nhạc bản này có thể nghĩ là nó quá sướt mướt, nhưng khi mới
ra đời nó đã được nhanh chóng trở thành bài ca ăn khách nhất.
Nhạc bản này có thể là một
bài ca mùa Giáng sinh rất giản dị. Có lời mở đầu, một phiên khúc và một điệp
khúc, chỉ có 12 dòng chữ nhưng mô tả nỗi nhớ nhà chân thành. Vậy mà cách thế 12
dòng chữ này đánh động cả một dân tộc trong thời chiến chinh bất định, cũng như
cung cách nó tiếp tục đánh động con người thời nay, làm cho bài ca thế tục này
trở thành một trong những ca khúc tinh thần thiêng liêng nhất trong mọi thời
đại.
Đó là năm 1942, và nhà viết
lời ca Kim Gannon biết rất rõ những xúc cảm khi chiến đấu trong một trận chiến
ở hai mặt trận. Tại Brooklyn là quê hương của nàng, không phải chỉ có hàng ngàn
gia đình cho con em vào quân đội mà nhiều gia đình đã mất con trong cuộc chiến.
Mùa lễ Giáng sinh thường là thời gian hoan hỉ trong thị trấn này của New York,
nhưng năm đó lại thấy khác hẳn một cách lạ kỳ. Đường phố vẫn được trang hoàng,
cây thông vẫn bày bán nơi góc phố và ông già Noel vẫn rung chuông mỉm cười với
trẻ thơ, nhưng không khí chiến tranh đã bao trùm lên những ngày lễ. Thật khó mà
nghĩ tới quà cáp và hoà bình trên dương thế khi cha mẹ nóng lòng đọc tin tức và
nguyện cầu cho đừng thấy người mang điện tín đem hung tin dừng lại trước của
nhà mình. Còn tệ hơn nữa là không ai chắc chắn rằng nước Mỹ sẽ thắng trong trận
chiến khủng khiếp này.
Kim thấy những cảnh tượng
đau lòng diễn ra hàng ngày – lời cầu nguyện của những người cha người mẹ lòng
đầy xúc động, những giọt nước mắt của những tân binh đang được người thân tiễn
biệt tại các sân ga, những bước chân hối hả chạy đến gần người phu trạm mong
nhận được một phong thư của người thân. Nàng biết những tin tức đọc trên đài
phát thanh vừa như là một lời nguyền rủa vừa là lời chúc phúc. Mọi người đều có
nhu cầu muốn biết những gì đang xảy ra ở Âu châu và trên Thái bình dương, nhưng
nỗi lo sợ cùng đến với lòng mong biết đó...một nỗi lo sợ thấm thía khi cha mẹ,
vợ con nghe tin một trận đánh lớn vừa bùng nổ nơi người con, người cha, người
chồng mình mới nêu địa danh trong lá thư sau cùng gửi về nhà. Khi mùa lễ Giáng
sinh đến, nỗi trầm cảm, âu lo vì xa cách người thân càng trở nên tồi tệ hơn.
Không phải chỉ có những gia
đình có quân nhân tại nước ngoài mới chìm đắm trong một thế giới bất định và âu
lo, mà còn nhiều thanh niên thiếu nữ vùng thôn quê bỏ nhà đi làm việc tại các
văn phòng và nhà máy tại New York và các đô thị lớn khác. Cũng như nhiều binh
sĩ trong quân đội, chiến tranh đã đưa biết bao nhiêu người dân sự rời xa quê.
Nhiều kẻ lần đầu tiên sống xa gia đình vào dịp lễ Giáng sinh, họ thật cô đơn và
nhớ nhà.
Khi Kim Gannon ngồi xuống
với ngọn bút trên tay để ghi lại những cảnh tượng chung quanh nàng và những
người ở khắp nước Mỹ, tình cảm dạt dào chắc đã làm cho lúc viết ca khúc “I’ll
Be Home for Christmas” rất mực khó khăn. Thật có rất nhiều điều phải nói, nhiều
điều bị mất mát do những người bị chia ly vì đêm đen hoả ngục của chiến chinh.
Vậy mà thay vì cố ôm đồm viết về mọi sự, nhà văn chỉ viết, bằng lối thẳng tắp
và không có gì là phức tạp, về nỗi đau trong tim khi phải xa nhà vào dịp lễ
Giáng sinh. Ngắn, trực tiếp và ngọt ngào, thi sĩ Kim chỉ bằng mấy dòng chữ ngắn
ngủi đã hoàn toàn thu tóm được cảm xúc của hàng trăm triệu con người.
Những lời ca của Kim Gannon
được đem tới nhà soạn nhạc Walter Kent, cũng là một người dân New York. Kent
hiểu thấu nỗi buồn của mùa lễ. Kent cũng là người đã sáng tác ca khúc tình cảm
được nhiều người ưa chuộng “White Cliffs of Dover” nên biết rõ bản nhạc cần
giai điệu nào. Bằng đôi mắt tâm thần ông nhìn thấy những chiếc ghế không người
ngồi ở bàn ăn, những người mẹ cố gắng mỉm cười qua màn lệ khi nướng bánh cho
những người còn hiện diện trong gia đình, những món quà lễ Giáng sinh treo trên
cây thông chưa mở (trong thời kỳ này những món quà giáng sinh thường rất giản
dị và buộc trên cây chứ chưa gói và đặt dưới cây thông như hiện nay). Với những
hình ảnh đó trong đầu, ông đi tìm những nốt nhạc thích hợp để dệt lên lời ca.
Khi hoàn thành tác phẩm, ông đã viết nên một giai điệu mơ màng, hy vọng, phù
hợp hoàn toàn với lời ca của Kim Gannon.
Một trong những điều kỳ diệu
của bài ca này là nó nghe như một lá thư gửi về nhà hơn là một bài hát mừng
Giáng sinh tiêu biểu. Nó không chỉ có một nỗi buồn thấm thía trong lời ca và
điệu nhạc mà còn chứa chan hy vọng. Nó như lời một người thủy thủ, một chiến
binh nhắn gửi người nhớ mong họ rằng họ sẽ trở về một ngày không xa. “I’ll Be
Home for Christmas” để cho người nghe một lời nhắn gửi chung cuộc và tức tốc: “Đừng
thất vọng, rồi chúng ta sẽ đoàn tụ đấy thôi.”
Tính chất thiêng liêng của
nhạc bản này đến từ sứ điệp gần như một lời kinh cầu nguyện. Lễ Giáng sinh tại
Hoa kỳ luôn luôn là hướng về gia đình và tưởng nhớ Đấng đã tác tạo nên gia
đình. Thế chiến thứ II đã phá vỡ mối giây gắn bó đó và làm xáo trộn các truyền
thống của ngày lễ, “I’ll Be Home for Christmas” xác nhận một cách hùng hồn niềm
hy vọng rằng khi sự việc đổi thay thì với thời gian, mọi người sẽ trở về đoàn
tụ.
Ngày 4-10-1943 Bing Crosby
thu âm bản “I’ll Be Home for Christmas”. Đây là bản đơn ca sau hơn 200 bản nhạc
ông đã ghi âm, đã nhảy lên hàng ăn khách thứ hai, chỉ sau “White Christmas” là
bản nhạc ăn khách hàng đầu năm 1942. Bản White Christmas đứng đầu bảng 17 tuần
liên tiếp sau khi phát hành, đến năm 1943 lại đứng thêm một tháng ruỡi nữa. Vậy
mà giữa khung cảnh chiến tranh, “I’ll Be Home for Christmas” lại được phát
thanh nhiều hơn và bán ra nhiều hơn. Nó mau chóng trở thành nhạc bản được yêu
cầu nhiều lần nhất trong những cuộc trình diễn cho binh sĩ mùa Giáng sinh tại
các căn cứ ở Âu châu và Thái bình dương. Một số nhà viết lịch sử có nói rằng
đối với quân nhân và gia đình họ thì bản nhạc thể hiện tinh thần ái quốc ngang
bằng với bản “God Bless America”.
Trong suốt cuộc thế chiến
thứ II, chiến tranh Triều tiên và Việt nam, bài ca này tượng trưng và thể hiện
những tình tự của những người ở tiền tuyến cũng như nỗi xúc cảm của người ở nhà
cầu mong cho họ được an toàn trở về. Nó được thu thanh không biết bao nhiêu lần
do nhiều nghệ sĩ khác nhau và hàng triệu đĩa nhạc đã được bán ra. Nhưng xa hơn
những con số bán được đáng kể đó, là phương thức bài ca được nâng niu do mọi
người trong xã hội. Như là một lời chứng về tính chất đầy hy vọng của nó, bài
hát tuy không có một nhắc nhở đề cập nào đến Đức Giêsu hoặc là lễ Giáng sinh
đầu tiên, nhưng suốt 50 năm qua nó đã được dùng hàng ngàn lần trong các cuộc
trình tấu và các chương trình thuộc nhà thờ vào dịp mừng lễ Giáng sinh.
Ngày nay, hơn năm thập niên
sau khi bài ca được công nhận như một lời kinh cầu ngày lễ cho thế chiến thứ
II, “I’ll Be Home for Christmas” vẫn còn khuấy lên nhiều xúc cảm mới. Hầu hết
những người trở về nhà mừng lễ Giáng sinh sau cuộc đại chiến đã giã từ thế giới
này để bước sang một thế giới khác. Nhưng vì những đóng góp và hy sinh của họ
là những người đã phục vụ tổ quốc trong những ngày đen tối, họ vẫn luôn luôn
trở về mừng lễ Giáng sinh với chúng ta trong tâm hồn, trong ký ức và trong giấc
mơ đầy hy vọng của chúng ta.
Lời ca của bài hát I’ll
Be Home For Christmas:
I'll be home for Christmas,
You can count on me.
Please have snow and mistletoe
And presents under the tree.
Christmas Eve will find me,
Where the love light gleams.
I'll be home for Christmas,
If only in my dreams.
Christmas Eve will find me,
Where the love light gleams.
I'll be home for Christmas,
If only in my dreams.
8. TWELVE
DAYS OF CHRISTMAS (Mười Hai Ngày Mùa Lễ Giáng Sinh)
Bài Toát
Yếu Giáo Lý Của Thời Cấm Cách
Ngày đầu
tiên của mùa lễ Giáng sinh, Người yêu chân tình của tôi tặng tôi Một con gà gô
đậu trên cây lê.
Ngày thứ
hai của mùa lễ Giáng sinh, Người yêu chân tình của tôi tặng tôi Hai con cu gáy
Và một con gà gô đậu trên cây lê.
Ngày thứ
ba của mùa lễ Giáng sinh Người yêu chân tình của tôi tặng tôi Ba con gà mái
Pháp, hai con cu gáy Và một con gà gô đậu trên cây lê…
Ngày thứ
tư của mùa lễ Giáng sinh Người yêu chân tình của tôi tặng tôi Bốn con chim gù,
ba con gà mái Pháp…
Ngày thứ
năm của mùa lễ Giáng sinh Người yêu chân tình của tôi tặng tôi Năm chiếc nhẫn
vàng…
Ngày thứ
sáu của mùa lễ Giáng sinh Người yêu chân tình của tôi tặng tôi Sáu con ngỗng
đang đẻ trứng…
Ngày thứ
bảy của mùa lễ Giáng sinh Người yêu chân tình của tôi tặng tôi Bảy con thiên
nga đang bơi lội…
Ngày thứ
tám của mùa lễ Giáng sinh Người yêu chân tình của tôi tặng tôi Tám tì nữ đang
vắt sữa…
Ngày thứ
chín của mùa lễ Giáng sinh Người yêu chân tình của tôi tặng tôi Chín thiếu nữ
đang khiêu vũ…
Ngày thứ
mười của mùa lễ Giáng sinh Người yêu chân tình của tôi tặng tôi Mười ông chủ
đang nhảy nhót…
Ngày thứ
mười một của mùa lễ Giáng sinh Người yêu chân tình của tôi tặng tôi Mười một
người thổi tiêu đang thổi tiêu…
Ngày thứ
mười hai của mùa lễ Giáng sinh Người yêu chân tình của tôi tặng tôi Mười hai
tay trống đang đánh trống…
Đối với hàng triệu người thì
bài hát “The Twelve Days of Christmas” chẳng qua chỉ là một bài nhạc giả tưởng
gồm toàn những điều hư cấu. Những con số và quà tặng nêu trong bài hát tưởng
chừng như vô nghĩa làm nhiều người liên tưởng đến những bài như “Grandma Got
Run Over by a Reindeer” (Bà Nội bị Con Nai húc phải) hoặc “I saw Mommy Kissing
Santa Claus” (Tôi thấy má hôn ông già Noel).Vậy mà bài hát này - ngày nay
ta thấy dường như chẳng có ý nghĩa gì cả - lại đã có một thời được dùng làm
công cụ giảng dậy rất quan trọng tại nước Anh của Giáo hội Công giáo.
Khoảng đầu thế kỷ 16, người
Công giáo tại Anh bị cấm thực hành đức tin. Chỉ có Anh giáo mới là tôn giáo duy
nhất hợp pháp trong toàn đế quốc Anh. Người Công giáo nào nói hoặc viết về đức
tin của mình sẽ bị bắt và bị xử theo luật pháp thời đó. Nếu vi phạm nặng, họ sẽ
bị treo cổ hoặc phân thây. Trẻ con hoặc người lớn đều bị luật pháp này chi
phối, và tuổi tác của người tuyên xưng đức tin, dù còn nhỏ, cũng chẳng phải là
yếu tố để nhà nước tha không áp dụng những luật lệ khắt khe.
Trước nguy cơ bị bắt bớ và
cả cái chết, hàng triệu người không chịu từ bỏ tôn giáo mà cha ông tổ tiên của
họ đã theo. Vì thế, cũng giống như tín hữu thời sơ khai của giáo hội ở La mã,
những người Công giáo Anh đi vào nếp sống ẩn mật. Họ tổ chức những thánh lễ
“chui”, đóng kín cửa để học hỏi giáo lý và giấu giếm mọi dấu vết về đạo trong
nhà. Họ gần như tạo thành một xã hội khép kín.
Một trong những vấn đề khó
khăn nhất của giáo hội thầm lặng lúc đó là việc dạy dỗ giáo lý cho con cái. Vì
viết ra bất cứ điều gì liên quan đến đức tin Công giáo có thể làm mất mạng cả
người viết lẫn người đọc, do đó giáo lý phải được biến cải thành những dấu hiệu
bí mật. Một trong những ám hiệu có kết quả nhất của giáo hội thầm lặng lúc đó
là một bài nhạc giáng sinh mà trên bề mặt tưởng chừng như chẳng có ý nghĩa gì.
Điều trớ trêu là bài hát kỳ cục này lại rất phổ thông, đã len lỏi trong quảng
đại quần chúng, tìm lối vô các thính đường âm nhạc, và vào ngay cả cung điện
của hoàng gia nữa. Rất có ít người, và chắc không phải là nhà vua và chức sắc
của Anh giáo lúc đó, nghi ngờ cái ý nghĩa tiềm ẩn đàng sau lời ca là những yếu tố
căn bản về giáo lý của Giáo hội Công giáo đang bị chính quyền đặt ra ngoài vòng
pháp luật.
Khi bài nhạc mới trở thành
phổ biến, nhiều người Anh giải thích rằng ý nghĩa của “The Twelve Days of
Christmas” nằm ở số ngày, không phải ở những món quà tặng. Có nhiều giả thuyết
dựa trên lối giải thích đó, đi từ lý thuyết nói rằng nó tượng trưng cái số ngày
trước ngày 25 tháng chạp, cho đến lối giải thích là các lời trong bản nhạc mô
tả tập tục tặng quà lâu tới 12 ngày sau lễ Giáng sinh. Trong lúc luận bàn về số
ngày mà bài hát đề cập tới, ý nghĩa của những món quà kỳ cục trong bài hát
thường bị bỏ qua, coi như là cái tưởng tượng thái quá của anh chàng trẻ tuổi si
tình, với lý luận rằng quà tặng ở đây không mang ý nghĩa nào hết vì người si
tình ít khi suy nghĩ hoặc hành động một cách hợp lý. Thế là mọi suy đoán đều
khác xa sự thực, ở đây quà tặng mới là căn bản để tìm ra mật hiệu.
Số ngày không gì khác hơn
chỉ là dấu hiệu giản dị của thời gian giữa lễ Giáng sinh và lễ Hiển linh, ngày
kỷ niệm sự việc các đạo sĩ tới chiêm bái vị vua mới sinh hạ. Ý nghĩa bí ẩn đối
với trẻ em Công giáo không phải trong số 12 ngày, mà nằm ở những món quà rất
đặc biệt. Khi trẻ em hát, chúng không nghĩ đến những món quà thực mà liên tưởng
tới điều khác hẳn. Mỗi trẻ em Công giáo đều được dạy rằng tình yêu thanh khiết
và chân thành chỉ duy nhất đến từ Thiên Chúa. Do đó ngay từ khởi đầu bản nhạc
chúng hiểu rằng bài ca này nói về tình yêu của Chúa, chẳng phải mối tình của
anh chàng trai đang o bế cô gái.
Sự quan trọng của cái chết
và sự phục sinh của Chúa là căn bản của đức tin – và của bài hát nữa – nên được
lặp đi lặp lại sau mỗi phiên khúc mới. Con gà gô đậu trên cây lê tượng trưng
cho lòng can đảm và sự sốt sắng tận tụy con người phải chứng tỏ trong cuộc sống
ở trần gian. Gà gô mẹ thường lừa cho kẻ thù đi xa để che chở đàn con không biết
tự vệ. Cũng giống như gà mẹ hy sinh mạng sống cho con mình thế nào thì Chúa Cứu
Thế đối với chúng ta cũng vậy. Cộng thêm với hình ảnh đó, cây lê còn là biểu
tượng của thập giá, cả hai gộp lại làm món quà thứ nhất tượng trưng cho món quà
tuyệt đối mà Chúa hài nhi trao tặng trong ngày lễ Giáng sinh. Món quà thứ hai,
hai con chim cu gáy, được hiểu là cả Tân ước và Cựu ước của Kinh Thánh. Cu gáy
còn tượng trưng cho chân lý và hoà bình, một lần nữa nhấn mạnh mối liên hệ chặt
chẽ giữa Chúa và ngày lễ Giáng sinh.
Ngày nay, “ba con gà mái
Pháp “ không có giá trị gì mấy, nhưng ở thế kỷ 16 lại là những món ăn rất đắt
giá chỉ người giầu có mới mua được. Bữa tiệc mà có gà mái Pháp là bữa tiệc chỉ
dành cho bậc vua chúa. Trong bài hát, gà mái tượng trưng cho những lễ vật quý
giá do các đạo sĩ đem tới. Khi trẻ em hát phiên khúc thứ ba, chúng không nghĩ
tới ba con gà mái mà liên tưởng đến vàng, nhũ hương và mộc dược. Bốn con chim
đang gáy chỉ bốn tác giả sách Phúc âm đã ghi chép cuộc đời của Chúa Giêsu và sứ
vụ của Người từ lúc giáng sinh đến ngày chịu chết. Ý nghĩa đích thực của những
con chim ở đây là Matthêu, Marcô, Luca và Gioan. Tiếp theo với chủ đề Kinh
thánh, “năm chiếc nhẫn “ chỉ năm cuốn sách Cựu ước mà người tín hữu cho là
“luật Môisen” còn người Do thái gọi là sách luật “Torah”.
Khi hát lên, những món quà
này không chỉ nhắc nhớ trẻ em rằng tội lỗi làm con người xa lìa ơn thánh mà còn
đề cập đến việc Chúa cứu chuộc xuống để giải thoát và lập lại con đường trở về
với Ngài. “Sáu con ngỗng đang đẻ trứng” có vẻ là khôi hài đối với người hát
không biết ý nghĩa đích thực của nó, nhưng đối với người công giáo thì dễ hiểu
và hợp lý. Chúa đã tạo dựng trái đất trong sáu ngày. Cũng giống như trứng là
tượng trưng cho cuộc sống mới, những con ngỗng đẻ trứng là trình thuật sự sáng
tạo trời đất và sự sống của Chúa từ hư vô. “Bảy con thiên nga đang bơi lội”
cũng là một điều kỳ bí đối với những người không biết. Trong thư gửi tín hữu
Rôma thánh Phaolô có đề cập đến ơn Chúa Thánh Thần. Những tặng phẩm đó là: ơn
khôn ngoan, ơn hiểu biết, ơn phân biệt, ơn can đảm, ơn tri thức, ơn sốt sắng và
ơn kính sợ (Rôma 12:6-8) tượng trưng bằng con thiên nga, loại chim được coi là
duyên dáng và đẹp đẽ nhất ở nước Anh. Do đó trẻ em được dậy là khi chúng hiệp
nhất với Chúa thì ơn của Chúa Thánh Thần sẽ tác động trong cuộc sống của chúng
cũng dễ dàng như con thiên nga bơi lội tung tăng trên mặt nước. “Tám tì nữ đang
vắt sữa” tượng trưng cho loại người tầm thường được Chúa đến phục vụ và cứu
vớt.
Vào thời điểm bài hát này
được viết ra, không có việc nào thấp kém hơn việc làm trong nông trại và chăn
nuôi gia súc. Một người đàn bà làm công việc như vậy thường không có giá trị gì
đối với chủ. Vậy mà Chúa Cứu Thế, vua của nhân loại, lại xuống phục vụ con người
không phân biệt giàu nghèo, dòng dõi, phái tính… Con số tám trong câu này còn
chỉ tám mối phúc thật đề cập đến trong Tin Mừng Thánh Matthêu: Phúc cho người
tinh thần nghèo khó, người khóc than, người hiền hậu, người đói khát, người từ
bi, người tâm hồn trong sạch, người phục vụ hòa bình, người công chính (Mat. 5:
3-10) Trong câu kế tiếp, hoa quả của Chúa Thánh Thần: đức yêu thương, sự vui
mừng, bình an, nhẫn nại, tử tế, nhân hậu, trung tín, hiền lành và tự chế được
ẩn dấu đàng sau hình ảnh chín người thiếu nữ đang nhảy múa.
Ngoài ra, sự nhảy múa chỉ
cái vui đích thực và sự thưởng công khi ta phục vụ Chúa. “Mười ông chủ đang
nhảy nhót” tượng trưng 10 điều răn. Vì ông chủ thì thường được coi là người
công chính, đáng kính trọng, và là người quyết định về luật pháp trong địa phận
của ông, nên dễ hiểu là 10 ông chủ tượng trưng 10 giới răn Chúa đã truyền cho
Moisê.
Có 12 tông đồ nhưng cuối
cùng một người đã từ bỏ Chúa và sự cứu chuộc của Người. Hình ảnh 11 người thổi
tiêu là hình ảnh 11 vị tông đồ đã rao truyền lời Chúa, cuộc sống và sự sống lại
của Người cho thế giới. Món quà sau cùng, “12 tay trống đang đánh trống” tượng
trưng cho giáo huấn quan trọng nhất đối với mọi người Công giáo. Được gọi là
Kinh Tin Kính các thánh tông đồ, một bản tuyên xưng đức tin có 12 điểm. Cái
trống có thể được dùng như là một tượng trưng nhịp bước mà bài kinh này dạy cho
các tín đồ hàng ngày phải đi theo Chúa. Kinh Tin Kính rất quen thuộc ngay cả
với những người không thuộc Giáo hội Công giáo.
Không rõ những người Công
giáo nước Anh khi sáng tác bản nhạc này và dạy cho trẻ con, có muốn cho ý nghĩa
đích thực của bài hát được dấu kín mãi mãi không. Khi việc hành đạo Công giáo
không còn là một tội phạm ở nước Anh nữa, có lẽ tác giả cũng muốn tiết lộ những
điều ẩn tàng trong đó. Vậy mà khi đức tin đã được giải phóng, những lời trong
bài ca này vẫn giữ nguyên như cũ và chẳng ai buồn liên hệ nó với những bài hát
khác có đề cập đến sự giáng sinh của Chúa.
Ngay cả bây giờ, 400 năm sau
thời điểm đó, dù The Twelve Days of Christmas đã được thâu thanh hàng trăm lần
và được trình diễn hàng ngàn lần, ít người hát lên mà không cười thầm vì ý
nghĩa kỳ cục và làn hơi thật dài phải dùng để trình bày cho xong bài hát. Có
điều kỳ thú nữa là dù bản nhạc được ngụy trang để che dấu nội dung lúc ban đầu,
nó vẫn tồn tại với thời gian, cũng như Giáo hội Công giáo vẫn sống còn bất chấp
những bách hại của người Anh thủa đó.
Lời ca của bản The Twelve
Days of Christmas (Chúng tôi không tìm được bản Việt ngữ nào):
On the
first day of Christmas
my true love sent to me:
A partridge in a pear tree.
On the
second day of Christmas
my true love sent to me:
Two turtle doves
And a Partridge in a pear tree.
On the
third day of Christmas
my true love sent to me:
Three French Hens,
Two turtle doves
And a Partridge in a pear tree.
On the
fourth day of Christmas
my true love sent to me:
Four calling birds,
Three French Hens,
Two turtle doves
And a Partridge in a pear tree.
On the
fifth day of Christmas
my true love sent to me:
Five golden rings,
Four calling birds,
Three French Hens,
Two turtle doves
And a Partridge in a pear tree.
On the
sixth day of Christmas
my true love sent to me:
Six geese a laying,
Five golden rings,
Four calling birds,
Three French Hens,
Two turtle doves
And a Partridge in a pear tree.
On the
seventh day of Christmas
my true love sent to me:
Seven swans a swimming,
Six geese a laying,
Five golden rings,
Four calling birds,
Three French Hens,
Two turtle doves
And a Partridge in a pear tree.
On the
eighth day of Christmas
my true love sent to me:
Eight maids a milking,
Seven swans a swimming,
Six geese a laying,
Five golden rings,
Four calling birds,
Three French Hens,
Two turtle doves
And a Partridge in a pear tree.
On the
ninth day of Christmas
my true love sent to me:
Nine ladies dancing,
Eight maids a milking,
Seven swans a swimming,
Six geese a laying,
Five golden rings,
Four calling birds,
Three French Hens,
Two turtle doves
And a Partridge in a pear tree.
On the
tenth day of Christmas
my true love sent to me:
Ten lords a leaping,
Nine ladies dancing,
Seven swans a swimming,
Six geese a laying,
Five golden rings,
Four calling birds,
Three French Hens,
Two turtle doves
And a Partridge in a pear tree.
On the
eleventh day of Christmas
my true love sent to me:
Eleven pipers piping,
Ten lords a leaping,
Nine ladies dancing,
Eight maids a milking,
Seven swans a swimming,
Six geese a laying,
Five golden rings,
Four calling birds,
Three French Hens,
Two turtle doves
And a Partridge in a pear tree.
On the
twelfth day of Christmas
my true love sent to me:
Twelve drummers drumming,
Eleven pipers piping,
Ten lords a leaping,
Nine ladies dancing,
Eight maids a milking,
Seven swans a swimming,
Six geese a laying,
Five golden rings,
Four calling birds,
Three French Hens,
Two turtle doves
And a Partridge in a pear tree.
9. JOY TO
THE WORLD (Niềm Vui cho Thế Giới)
Hai nhà viết ca khúc sáng
giá – mặc dầu chưa bao giờ gặp nhau – đã cùng tạo nên một trong những ca khúc
mừng Giáng sinh lâu bền nhất. Mỗi người đã vượt qua những phương thức cố định
khi làm việc và đi tiên phong trong mọi mặt về công việc họ làm. Hơn nữa, là
những người đem bản nhạc tới thế giới, cả hai đều cố đem nhạc tôn giáo đi vào
một thời đại mới. Vì họ ở cách xa nhau nửa vòng trái đất và cách biệt nhau gần
một thế kỷ thời gian, họ không hay biết rằng với sự hợp tác của nhau, họ đã tạo
nên một bản nhạc cổ điển phi thời gian dành cho ngày lễ, dành cho mọi lứa tuổi
và mọi loại thính giả. Và trong thực tế, có lẽ cả Isaac Watts và Lowell Mason
đều không biết họ đã trao tặng cho thế giới một nhạc bản mừng Giáng sinh nữa.
Isaac Watts sanh ngày 17
tháng 7 năm 1674 tại Southampton, nước Anh. Cha ông cũng tên là Isaac, là một
khuôn mặt cách mạng thuộc giáo hội Tin lành. Ý chí mạnh mẽ và ngoan cường,
người cha này làm thợ giày và thợ may để sinh sống, đang ở trong tù khi đứa con
ra chào đời. Ông ta là một trọng phạm bất phục tùng quốc giáo, bị kết tội đã
giảng dậy những tư tưởng cấp tiến không được Giáo hội Anh giáo và các học giả
theo quốc giáo thời đó chấp nhận. Như vậy, ở tuổi rất sớm, chắc chắn là người
con đã được ông bố truyền cho những lối suy nghĩ tự do.
Isaac Watts lớn lên, làm
việc thờ phượng tại nhà thờ cộng đoàn tại Southampton. Hầu hết trẻ con Anh với
khả năng trí thức như Isaac thường được gửi đến học tại Oxford hoặc Cambridge,
nhưng vì không thuộc giáo hội Anh giáo nên Isaac được gửi học tại Independant
Academy tại Stoke, Newington. Nơi đó – chắc là noi gương cha mình – ông tiếp
tục bày tỏ tính chất chống đối. Không bằng lòng với hiện trạng của mọi sự, ông
thắc mắc về mọi điều. Ông đòi hỏi phải biết tại sao ông và bất cứ ai cũng phải
chấp nhận sự thỏa mãn về mọi việc trong khi những việc đó có thể được làm cho
tốt đẹp hơn nhiều. Mặc dầu học hành khá tiến bộ, nhưng Isaac bỏ học viện ở tuổi
20 sau khi đã học tiếng Hy lạp, Do thái và Latinh, để trở về nhà sống với
cha.
Giống như hầu hết mọi người
trai trẻ, Watts thấy âm nhạc ở nhà thờ thời đó không có tinh thần và theo giọng
đều đều buồn nản. Ông không thấy có niềm vui hay cảm xúc do những bài hát tiêu
chuẩn do ca đoàn hoặc do cộng đoàn hát. Vậy mà khi cả thế hệ trẻ trung thời đó
giữ im lặng thì Isaac phàn nàn với cha về những từ ngữ cổ trong các thánh vịnh
hát ở nhà thờ. Người cha, không bao giờ có óc duy trì truyền thống, thách thức
con xem có làm ra được gì tốt đẹp hơn không. Điều thách thức này làm nổ bùng những
sáng kiến mà kết quả là Isaac đã sáng tác hơn 600 bản thánh ca và hàng trăm bài
thơ.
“Behold
the Glories of the Lamb” là bản tụng ca đầu tiên của Isaac. Tiếp theo
sau là nhiều bài khác. Trong một thời gian, hầu hết các sáng tác của ông đã gặp
phải những miệt thị vì không ai muốn có những bản dịch Kinh thánh mới. Một số
người còn cho là anh chàng trai trẻ Isaac là người lạc giáo hoặc là công cụ của
ma quỷ. Nhưng ông quyết không bỏ cuộc. Ông thường xuyên thách đố những người
chung quanh bằng những bài ca mới và những tư tưởng mới về đức tin.
Sau nhiều năm sinh sống bằng
nghề dạy học tư, Isaac được làm phụ tá cho tiến sĩ Isaac Chauncey tại nguyện
đường độc lập Mark Lane ở Luân đôn. Ba năm sau, lúc này 26 tuổi, Isaac trở
thành mục sư. Nhờ ở phần nào phong cách đạo đức trong công việc và những ý
tưởng mới mẻ của ông, giáo hội này phát triển nhanh chóng. Với địa vị mới và
được tôn trọng, cuối cùng ông đã có thể xuất bản các bản nhạc của ông.
Qua những bản thánh ca và
các bài viết về thần học, ông trở thành một trong những giáo sĩ nổi tiếng nhất
tại Anh. Elizabeth Singer, một thiếu nữ cảm xúc sâu xa do các bài viết gây hứng
khởi của ông nên viết thư cho ông và mau chóng trở thành một người mến mộ ông
rất mực. Nàng cầu hôn với ông bằng một lá thư. Khi ông chấp thuận, nàng vội vã
tìm đến, lòng đầy ưu tư. Thay vì vun quén cho tình yêu một đời đó được bền
chặt, cuộc gặp gỡ giữa hai người chú tâm hoàn toàn vào tác giả và các tác phẩm
mà không đề cập gì đến Elizabeth cả. Sau này nàng nói rằng: “Ông ta chỉ cao có
một thước rưỡi, mặt nông cạn, mũi khoằm xuống, xương lưỡng quyền nhô cao, mắt
nhỏ và lờ đờ như chết.” Không thể nhìn ngắm người đàn ông trước mặt để thấy
được vẻ sáng suốt rực rỡ nằm ẩn tàng ở bên trong, người thiếu nữ vội vã trở về
nhà ngay. Cõi lòng tan nát, Watts lao mình vào việc viết lách, không bao giờ
tìm tình yêu nơi người đàn bà nào khác.
Chính trong lúc nghiên cứu
thánh vịnh 98 mà Isaac hứng khởi sáng tác bài ca nổi tiếng nhất này. Trong câu
thứ 4 của thánh vịnh, Isaac nghiền ngẫm: “Cả trái đất hãy tung hô Chúa, mừng
vui lên, reo hò đàn hát”. Chú trọng vào câu này và câu 5 tiếp theo sau đó,
Isaac đặt bút viết một bài thơ 4 khổ gọi là “Niềm vui cho Thế giới”. Đặt
theo nhịp ca thông dụng, bài thơ thường được hát theo điệu nhạc của bài “Come
Thou Fount of Every Blessing.” Nhưng vì Isaac đã dám viết lại bản thánh
vịnh nên ít người tín hữu tại Anh chấp nhận bài ca của ông.
Isaac không chịu từ bỏ nỗ
lực làm cho thánh ca trở thành có ý nghĩa hơn đối với người bình dân. Ông tiếp
tục viết và phát hành các bài ca mới dù phải đương đầu với những chỉ trích ngày
càng tăng. The Psalms of David Imitated in the Language of the New
Testament and Applied to the Christian State and Worship được xuất bản
năm 1719. Bộ sách này, tràn ngập những bản nhạc cổ điển ngày nay vẫn còn biết
tới như “We’re Marching to Zion,” “When I Survey the Wondrous Cross,” “At
the Cross,” và “This Is the Day the Lord Has Made,” không những chỉ
được các Kitô hữu người Anh dần dần đón nhận mà còn gây cảm hứng cho những
người khác như Charles Wesley và John Newton để họ sáng tác những bài thánh ca
mới dựa trên kinh nghiệm cá nhân. Ít có nghi ngờ rằng ý chí ngoan cường và nỗ
lực thường xuyên của ông nhằm đem âm nhạc Kitô giáo đến người dân thường giữ
cho “Joy to the World!” trong mắt công chúng dài lâu sau khi tác giả mất năm
1748. Nó cũng khởi sự một cuộc cách mạng trong lề lối suy tư về âm nhạc Kitô
giáo hiện đại.
44 năm sau, Lowell Mason
sanh tại Orange, bang New Jersey. Thời niên thiếu anh điều khiển ca đoàn nhà
thờ và dạy ở trường ca hát. Mặc dầu có nhiều người nghĩ anh có tài về âm nhạc
nhưng Mason không thấy có cách nào kiếm sống bằng tài năng đó. Năm 1812 chàng
thanh niên này di chuyển về Savannah, bang Georgia, và bắt đầu làm nghề ngân
hàng. Nhưng đam mê âm nhạc vẫn còn trong tâm hồn anh. Trong thời gian rảnh rỗi,
anh học hòa âm, viết lời ca, và trở thành học trò của nhà soạn nhạc thời danh
Hendel. Với ảnh hưởng của nhạc sĩ người Đức này, anh gửi cho nhà xuất bản ở
Boston một cuốn sách gồm âm nhạc và hoà âm do anh sáng tác. Khi sách bị từ chối
theo lẽ đương nhiên, vì quần chúng Mỹ lúc đó muốn có nhạc dân ca mới chứ không
phải nhạc theo tiêu chuẩn cổ điển, Mason quyết định chỉ dùng tài năng mình vào
dịp cuối tuần để dạy ở trường giáo lý nhà thờ và làm người chơi đàn cho giáo
đường Presberyterian tại địa phương. Hãy tưởng tượng cú sốc của anh vào năm
1827 khi anh thấy không những âm nhạc của mình tìm được nhà chịu xuất bản, mà
Hiệp Hội Handel and Haydn tại Massachusetts còn đặt mua 50 ngàn cuốn sách nhạc
của anh! Lập tức, anh rời miền nam, di chuyển về Boston.
Trong 20 năm kế tiếp, Lowell
là người thúc đẩy và làm náo động giới âm nhạc tại New England. Cũng giống như
Isaac Watts, Lowell thấy mình là một nhà cách mạng, không ngừng đưa ra những ý
kiến mới mẻ. Các trường học vào thời đó không chú ý gì tới âm nhạc, do đó ông
bỏ tiền túi ra thành lập một chương trình âm nhạc đầu tiên tại trường học công
lập ở Boston. Ông cũng trở thành người xuất bản âm nhạc quan trọng nhất ở đô
thị này, đã sáng tác hơn 600 bản thánh ca, gồm cả những bài như “My Faith
Looks Up to Thee” và “Nearer My God to Thee.”
Năm 1836, do tình yêu đối
với những nhà soạn nhạc cổ điển người Đức chưa phai, ông đã sáng tác một giai
điệu mới gợi hứng từ 2 bản nhạc trong tấu khúc Messiah của Handel là “Lift
Up Your Head” và “Comfort Ye.” Sau khi hoàn thành công trình này,
ông đã tác tạo một cái gì hoàn toàn mới, một bản tụng ca hồ hởi mà ông đặt tên
là “Antioch” dựa theo tên một đô thị ở Syria (Ang-ti-ô-ki-a) là điểm khởi hành
của thánh Phaolô trong hai cuộc hành trình truyền giáo đầu tiên. “Antioch” phải
có lời ca đi kèm, nhưng tác giả cần có thời gian mới tìm được sứ điệp đi theo
với nhạc của ông. Ba năm sau, trong cuốn sách hát nhan đề Modern
Psalmist, cuối cùng Mason đã nối kết một trong những lời ca được cảm hứng
từ thánh vịnh vào nhạc điệu của ông. Vào lúc này mọi người đã sẵn sàng đón nhận
“Joy to the World!”.
Năm 1911 Elise Stevenson
người đã có thành công lớn lao trong những ngày đầu của âm nhạc thu thanh với
những bản như “Shine On, Harvest Moon” và “Are You Sincere?”, gia
nhập Ban Hợp xướng Trinity để cho ra đời bản nhạc “Joy to the World!” vào dịp
lễ Giáng sinh. Đĩa nhạc ghi âm mỗi mặt một bản (single) này của hãng Victor
Records đã nhảy lên hàng thứ năm trong danh sách nhạc bán chạy nhất, và ghi dấu
lần đầu tiên âm nhạc của Watts và Mason xuất hiện trên danh sách nhạc bình dân,
hiện đại (mặc dầu sau này “Joy to the World!” đã gợi hứng cho một nhóm gọi là
“Three Dog Night” sáng tác một bản nhạc rock ăn khách).
Làm cách nào bản thánh ca
này trở thành một bản nhạc mừng Giáng sinh vẫn còn là điều kỳ bí. Lấy hứng từ
Thánh kinh Cựu ước – không có từ ngữ nào đề cập đến sự giáng sinh của Đức Giêsu
ngoài câu “Chúa đã tới (the Lord is come)” – “Joy to the World!” dường như là
bài ca của mọi mùa, có thể hát vào tháng 7 cũng như tháng 12. Tuy nhiên, vì một
lý do nào đó, người Mỹ nhận bài hát này như bài ca tiêu chuẩn mùa lễ Giáng
sinh. Có lẽ vì từ bài ca toát lên một tinh thần hoan hỉ, làm người ta “cảm
nghiệm” như một thánh ca Giáng sinh thực thụ.
“Joy to the World!” là một
trong những bản thánh ca Giáng sinh được ưa chuộng nhất hiện nay. Nhưng vì nó
không lấy cảm hứng từ 4 sách Tin mừng trong Tân ước, nó cũng đứng ra một mình
như một nhạc bản Giáng sinh thông dụng không có chủ đề Giáng sinh. Có lẽ đó là
tính cách thích hợp, vì cả hai tác giả Isaac Watts và Lowell Mason đã cố công
làm cho người ta thấy được Thánh kinh kết hợp với âm nhạc theo phong cách mới.
Watts và Mason biết, và chúng ta nữa cũng nên nhớ, rằng người Kitô hữu nên biểu
lộ niềm hân hoan mỗi ngày và mọi ngày trong cuộc đời vì “Chúa đã tới.”
1. Lời ca bằng Anh ngữ:
Joy to the world! The Lord is come!
Let earth receive her King;
Let every heart prepare Him room,
And heaven and nature sing
And heaven and nature sing
And heaven, and heaven and nature sing
Joy to the earth! The Savior reigns!
Let men their songs employ;
While fields and floods, rocks, hills and plains
Repeat the sounding joy
Repeat the sounding joy
Repeat, repeat the sounding joy
No more let sins and sorrows grow
Nor thorns infest the ground
He comes to make His blessings flows
Far as the curse is found
Far as the curse is found
Far as, far as the curse is found
He rules the world with truth and grace
And makes the nations prove
The glories of His righteousness
And wonders of His love
And wonders of His love
And wonders, wonders of His love
2. Lời Việt của nhạc sĩ
Hoàng Kim (có ghi nhạc của ca khúc này là của G.F. Handel):
Tiếng muôn thiên thần hỉ hoan ca mừng
Lừng vang đồng xanh đêm vắng
Chúa sáng danh trên trời
Chúc thái an cho đời
Người người dạt dào niềm vui
Đất trời ngợp đầy hạnh phúc
Trong giờ phút linh thiêng
Chúa Con ra đời
Sống trong
u sầu đã bao năm trường
Giờ đây ngàn dân vui sướng
Bóng tối nay xa nhòa
Ánh sáng lên chan hoà
Hãy mau
trông nhìn ánh sao rạng ngời
Nào ta cùng nhau đi tới
Kính bái vua Thiên đình
Giáng thế đem an bình
3. Phiên bản của Hội Thánh
Tin Lành Việt Nam:
- Phước cho nhân loại! Chúa ta ra đời:
Trần gian nghênh vua vô đối;
Kíp mở cửa lòng tiếp rước Con Trời,
Bầu trời vạn vật hòa thinh,
Bầu trời vạn vật hòa thinh,
Trời đất xướng ca kính khen Vua mình.
- Phước cho nhân loại! Chúa nay cai trị:
Muôn dân âu ca hoan hỉ,
Hải đảo sơn hà trổi bản ca thi,
Đồng hòa vận điệu mừng vui,
Đồng hòa vận điệu mừng vui,
Hòa khúc thánh ca hỉ hân muôn đời.
- Chúa đến tiêu diệt ác khiên bệnh tật,
Tật lê không sinh trên đất;
Chúa đến đem lại suối phước chân thật,
Tràn ngập mọi vùng họa ương,
Tràn ngập mọi vùng họa ương,
Nguyền rủa biến ra phước ân thiên thượng.
- Lẽ chánh ơn lành Chúa đem cai trị,
Làm cho muôn dân khai trí,
Thấy rõ vinh quang chính nghĩa trị vì,
Lòng đại từ Ngài lạ thay!
Lòng đại từ Ngài lạ thay!
Từ ái Chúa ta cổ kim ai tày.
10. O
COME, O COME, EMMANUEL
(Emmanuel,
xin hãy đến, xin hãy đến)
“O Come, O Come,
Emmanuel” có lẽ là bài ca mừng Giáng sinh cổ xưa nhất mà ngày nay chúng ta còn
hát. Bản thánh ca bình dân này xuất phát từ thế kỷ thứ 9 và tượng trưng một
loạt những nghi thức quan trọng và cổ kính do giáo hội Công giáo cử hành. Nó
cũng trình bày những vai trò khác nhau trong Kinh thánh mà giáo hội tin rằng
Đức Giêsu đã hoàn tất. Tính chất phổ cập của đức tin trình bày trong bài ca này
có thể được thấy rõ rệt nhất với sự kiện là từ một bản thánh ca hát bằng La ngữ
và chỉ được dùng trong các thánh lễ Công giáo chính thức, nó đã vượt biên giới
để trở thành bài hát được dịch ra nhiều ngôn ngữ và được mọi chi phái Kitô giáo
trên thế giới công nhận.
Chúng ta không biết tác giả
của “O Come, O Come, Emmanuel”. Chắc đó là một tu sĩ đan viện hay một linh mục
đã viết lời trước năm 800. Ông cũng là một học giả thông thạo cả Cựu ước và Tân
ước. Sau khi hoàn tất, thánh ca đã được dùng trong nhiều nhà thờ và tu viện ở
châu Âu và trở thành một phần quan trọng của giáo hội. Vậy mà suốt 51 tuần lễ
trong năm, người ta không dùng tới, chỉ dành cho những buổi kinh chiều ở tuần
lễ sau cùng của mùa Vọng trước ngày mừng Chúa ra đời.
Trong hình thức nguyên thủy,
“O Come, O Come, Emmanuel” là một trong những “Tiền khúc Lớn” hoặc “Những
Chữ O Lớn” (Great Antiphone or Great O’s (1). Nguyên bản bằng
La tinh, đóng khung trong 7 câu, trình bày các quan điểm khác nhau theo Thánh
kinh về đấng Messia. Mỗi ngày một câu được hát lên trong 7 ngày sau cùng trước
lễ Giáng sinh.
Vượt lên trên tính cách rất
đơn giản và hầu như hoàn toàn đơn điệu buồn nản của nhạc được xử dụng vào thời
đó, những lời ca lại vẽ nên hình ảnh phong phú về nhiều lời tiên tri trong Kinh
thánh đã được thực hiện do sự giáng sinh của Đức Kitô. Vì thế câu chuyện về “O
Come, O Come, Emmanuel” thực ra là một sự học hỏi cô đọng về đấng Messia theo
Kinh Thánh, Người là ai, Người tượng trưng cho điều gì và tại sai Người phải
xuống thế. Ngay cả ngày nay, nếu bạn là một học sinh học Kinh thánh chăm chỉ,
lời ca của bài hát này cũng tỏ bày câu truyện được bộc lộ về đấng Messia.
Đối với những người ở thời
đại đen tối (Dark Ages) – khi mà ít có ai được đọc hay tiếp cận với Kinh thánh
– bài hát là một trong ít thí dụ cho biết làm cách nào quan điểm của Cựu ước và
Tân ước về đấng Messia lại phối hợp được với nhau trong sự giáng sinh và cuộc
đời của Đức Giêsu. Vì lý do nó mang chuyện về đấng Cứu thế kể thành sống động
suốt hàng trăm năm khi người bình dân sống trong dốt nát và tăm tối, “O Come, O
Come, Emmanuel” được xếp hạng là một trong những bài ca quan trọng nhất trong
lịch sử đức tin Kitô giáo.
Bài ca được chấp nhận rộng
rãi khắp nơi là do công của một người tên là John Mason Neale. Ông sanh ngày 24
tháng giêng năm 1818, là linh mục Anh giáo được học hỏi tại trường đại học
Trinity ở Cambridge. Rất xuất sắc, có thể viết và nói hơn 20 ngôn ngữ, đáng lẽ
ông sẽ có một tương lai rất sáng lạn. Nhưng lại có nhiều người sợ trí thông
minh và sự sáng suốt của ông. Lúc đó các nhà lãnh đạo giáo hội nghĩ là ông quá
hăng say truyền đạo, quá cấp tiến, và suy nghĩ quá tự do nên không thể để cho
có ảnh hưởng lên quần chúng. Vì thế thay vì được làm việc mục vụ tại Luân đôn,
ông được giáo hội sai tới vùng các đảo Madiera ở miền biển tây bắc Phi
châu.
Bị đẩy ra ngoài nơi được mọi
người chú ý và ban phát cho chức vụ làm giám sát tại một địa điểm gần như bị
quên lãng như vậy, người ta nghĩ rằng ông và các ý tưởng của ông sẽ không bao
giờ tìm được chỗ phát triển tại Anh quốc. Vậy mà Neale lại từ chối không chịu
từ bỏ những gì liên hệ đến Chúa và đến ơn gọi của mình. Với lương bổng hằng năm
chỉ có 27 anh kim, ông thiết lập dòng tu nữ St Margaret. Từ tu hội này ông bắt
đầu kiến tạo một nhà nuôi trẻ mồ côi và một nhà trú ngụ cho gái giang hồ. Và
những công việc cao cả ấy chỉ mới là bước đầu.
Khi không làm việc mục vụ
cho những kẻ có thể được gọi là “những người hèn mọn nhất” đó, con người mảnh
khảnh và yếu đuối tên Neale này lại đi xem xét mọi khía cạnh của các bài viết
dựa trên Kinh thánh mà lúc đó ông có thể kiếm được. Chính trong khi nghiên cứu
học hỏi này, Neale gặp được bài hát “O Come, O Come, Emmanuel” bằng tiếng
Latinh trong một cuốn sách nhan đề Psalteroium Cantionum Catholicarum.
Nắm bắt được sự quan trọng nơi văn bản đầy cảm hứng của bài ca, ông dịch các từ
ngữ ra tiếng Anh. Trong bản khởi đầu của ông, lời bài hát bắt đầu bằng “Draw
nigh, draw nigh, Emmanuel (Xin Emmanuel hãy xích đến gần)”.
Mặc dầu được hát không biết
bao lần mỗi dịp lễ Giáng sinh, nhiều ý nghĩa phong phú của bài hát đã bị đặt ra
bên lề hoặc bị mất. Trong lúc cả hai vị - người đan sĩ cổ xưa và vị linh mục
sống trong cảnh lưu vong đày ải – có lẽ sẽ ngạc nhiên rằng ai đó còn nhớ tới
tác phẩm của họ và việc chỉ có một số ít người nhận ra ảnh hưởng hoàn toàn của
các từ ngữ chắc chắn sẽ làm cho họ bất mãn lắm. Vì hát một bài ca mà không cảm
nghiệm được sức mạnh và sự huy hoàng của ý nghĩa của nó là tầm thường hóa cả
nhạc và lời.
Câu đầu tiên của bài hát lấy
từ sách tiên tri Isaia 7:14 và sách Tin mừng theo thánh Matthêu 1:23. Nó giới
thiệu đấng Emmanuel – “Thiên Chúa ở cùng chúng ta” – và Israel như là tượng
trưng cho thế giới Kitô giáo, bị lưu đầy trên một thế giới tối tăm và tội lỗi.
Chương 11 sách tiên tri
Isaia dùng làm chủ đề cho câu mở đầu bằng “O come, thou rod of Jesse, free”
(Xin hãy đến, hỡi Người là Cây gậy của Jesse, xin giải thoát. Trong một số bản
dịch khác gọi là “Branch of Jesse,” nhành cây của Jesse). Trong câu đó the rod
of Jesse (cây gậy của Jesse) chỉ Đức Kitô, chỉ có mình Người có thể đánh bại
được Satan và đem lại cuộc sống vĩnh cửu cho những kẻ tin theo Người.
“O come, O Dayspring,
come and cheer (Ôi xin hãy đến, hỡi Rạng Đông, xin đến và tung hô)”
diễn tả hình ảnh ngôi sao mai, một quan niệm có thể truy cập từ sách Malachi
4:2. Trong câu này, bài hát kể rằng đấng Cứu độ tới sẽ mang lại công lý, lương
hảo và chân lý. Người sẽ soi sáng và xua đuổi bóng tối. Cũng như Malachi đã hứa
hẹn: “Mặt trời công chính sẽ mọc lên trong đôi cánh có sức chữa lành.” (2)
Lời ca tiếp theo trở thành “O
come, thou key of David” (Xin hãy đến, hỡi Người là Chìa Khóa của David).
Từ ngữ trong câu này giải thích rằng vị Vua mới giáng sinh nắm giữ chìa khóa
nước trời, và chỉ có qua Người mới vào được thiên quốc.
Câu thơ bắt đầu bằng “O
come, o come, Adonai” (Xin hãy đến, xin hãy đến, hỡi Adonai) (trong một số
bản có chép “O come, thou wisdom from on high” (Xin hãy đến, hỡi Người là Minh
Triết từ trời cao) đặt trọng tâm vào nguồn gốc của sự khôn ngoan đích thực, chỉ
đến được từ Chúa qua Con của Người. Qua đấng Cứu thế, sự khôn ngoan này có thể
đi vào khắp nơi trên thế giới, đem lại hòa bình và thông cảm cho mọi con người.
Do đó, giáo huấn và gương mẫu của Đức Kitô thể hiện tất cả các lời tiên tri
trong Cựu ước.
Ngay cả ngày nay, khi được
hát nơi hành lang công cộng do một nhóm du ca hay trong một chương trình truyền
hình đặc biệt, tiếng hát thuở ban đầu của các vị đan sĩ một thời xa xưa quên lãng
vẫn tưởng chừng như còn nghe thấy đâu đây. Mặc dầu được dịch ra nhiều thứ tiếng
và hát lên theo nhiều cung cách thể điệu và hòa âm khác nhau, tính chất đơn
giản nhưng đạo đức của bài hát vẫn còn nguyên vẹn. Đó là một lời tôn kính, một
lời ngợi ca không phải chỉ về sự giáng sinh của Con Chúa Trời nhưng còn là sự
thể hiện lời hứa của Thiên Chúa đem Con của Người xuống trần gian. Trong bài
hát giản dị nhưng xuất sắc này, những tiếng nói của hàng giáo sĩ của một thời
quá vãng còn vang vọng thúc giục thế giới ngày nay chấp nhận và thờ kính vị
Vua, Người đã thực thi lời hứa cao cả nhất của Thiên Chúa với con cái của
Người.
1. Lời
ca (do Ace Collins ghi trong sách):
O come, o come, Emmanuel,
And ransom captive Israel,
That mourns in lonely exile here
Until the Son of God appear.
Điệp khúc:
Rejoice! Rejoice! Emmanuel
Shall come to thee, O Israel.
O come,
thou rod of Jesse, free
Thine own from Satan’s tyranny;
From depths of hell thy people save
And give them vict’ry o’er the grave.
O come, O
Dayspring, come and cheer
Our spirits by thine advent here;
And drive away the shades of night
And pierce the clouds and bring us light.
O Come
Thou Key of David, come
And open wide our heavenly home;
Make safe the way that leads on high,
And close the path to misery.
O come, O
come, Adonai,
Who in thy glorious majesty
From Sinai’s mountain, clothes in awe,
Gavest thy folk the elder law.
2. Lời ca (theo giáo hội
Công giáo):
O Come, O Come Emmanuel
And ransom captive Israel
That mourns in lonely exile here
Until the Son of God appear.
Điệp khúc: Rejoice!
Rejoice! Emmanuel shall come to thee, O Israel.
O Come,
Thou Wisdom from on high,
And order all things mightily
To us the path of knowledge show
And teach us in her ways to go.
O Come, O
Come, Thou Lord of might,
Who to Thy tribes on Sinai’s height
In ancient times did give the law
In cloud, and majesty, and awe.
O Come
Thou Rod of Jesse’s stem,
From every foe deliver them
That trust in thy power to save,
And give them victory o’er the grave.
O Come
Thou Key of David, come
And open wide our heavenly home;
Make safe the way that leads on high,
That we no more have cause to sigh.
O Come
Thou Dayspring from on High
And cheer us by Thy drawing nigh.
Disperse the gloomy clouds of night
And death’s dark shadow put to flight.
O Come,
Desire of Nations, bind
In one the hearts of all mankind.
Bid every strife and quarrel cease,
3. Chúng tôi không tìm được
bài nhạc Việt nào chuyển dịch ca khúc này, ngoại trừ phiên bản sau đây của Hội
Thánh Tin Lành Việt Nam:
- Vì yêu nhân gian Jêsus đến nơi dương trần.
Máng cỏ đê hèn thân Chúa cam chịu bần hàn.
Cô đơn nghèo nàn với biết bao nhọc nhằn.
Ngài đem an vui đến cho tất cả nhân loại.
Hãy hát vang lên! Danh Ngài
Em-ma-nu-ên.
Chúa đến dương trần để cứu rỗi
mọi tội nhân.
- Trần gian đau thương con
người sống trong vô vọng.
Nhưng có tin mừng do Chúa
Con Trời hạ sinh.
Âu lo, phiền muộn Chúa gánh
thay loài người.
Trần gian khinh chê chối bỏ
chính Vua muôn đời.
Ấy bởi thương tôi Jêsus
chẳng than một lời.
Nhân thế vô vọng, Chúa đến
để ban bình an.
- Tại Gô-gô-tha nhân loại
đóng đinh Con Trời.
Thập giá khổ hình Jêsus gánh
thay tội nhân.
Đau thương một mình Chúa
gánh thay tội tình.
Vì yêu nhân gian Jêsus phó
bỏ thân vàng.
Ấy bởi thương anh trên đồi
huyết Chiên Con tràn.
Hãy đến bên Ngài, xin Chúa
thứ tha tội anh.
Ghi chú:
(1) “O” antiphons là những tiền khúc cuối mùa Vọng, những tiền khúc kêu
vọng, tức là 7 tiền khúc thuộc phần kinh chiều (Vespers) hát trong các tu viện
trước và sau Tụng ca Magnificat của 7 ngày trước lễ Giáng sinh (từ ngày 17 đến
ngày 23 tháng 12), tất cả đều bắt đầu bằng chữ “O” nghĩa là Lạy:
Ngày 17: Lạy đấng Thượng Trí, Người xuất phát từ miệng đấng Tối Cao...xin
đến dạy chúng con đường lối khôn ngoan.
Ngày 18: Lạy Thiên Chúa và Đấng Cai quản nhà Israel...xin đến giang cánh
tay mở rộng để cứu chuộc chúng con
Ngày 19: Lạy Cội Jesse....xin hãy đến giải thoát chúng con, đừng nấn ná
nữa.
Ngày 20: Lạy Chìa Khoá David và Vương Trượng nhà Israel...xin hãy đến, giải
thoát người đang bị giam tù, người ngồi trong tối tăm và trong bóng tối sự
chết.
Ngày 21: Lạy Bình Minh từ Phương Đông....xin hãy đến và soi sáng những kẻ
ngồi trong tối tăm và trong bóng tối sự chết.
Ngày 22: Lạy Đức Vua của Muôn dân....xin hãy đến và giải thoát con người
Chúa đã tạo dựng nên từ bùn đất.
Ngày 23: Lạy Emmanuel, Thiên Chúa ở cùng chúng tôi...xin hãy đến cứu chúng
con, lạy Thượng đế Chúa chúng con.
(2) Sách tiên tri Ma-la-khi của giáo hội Công giáo không có chương 4. Câu
tương đương là ở chương 3 câu 20: “Mặt trời công chính sẽ mọc lên mang theo các
tia sáng chữa lành bệnh”.
11 - HANG BE LEM
Đêm
đông lạnh lẽo Chúa sinh ra đời
Nằm
trong hang đá, nơi máng lừa.
Trông
hang Bêlem…
Những câu hát ấy, khởi đi từ giữa thập niên 1940 của thế kỷ trước, vẫn còn
vang vọng mỗi dịp mừng lễ Giáng sinh, từ trong các thánh đường Công giáo tại
Việt Nam và theo chân đoàn con cái Chúa đi khắp những miền xa xôi trên thế
giới, từ những đài phát thanh, đài truyền hình đến tận các tư gia. Bài hát thật
giản dị, dễ nhớ, đã đi sâu vào lòng người, không chỉ những người Công giáo Việt
Nam. Nhiều người thú nhận đó là bài thánh ca Giáng sinh đầu tiên và duy nhất mà
họ thuộc nằm lòng.
Điều gì đã làm cho bài hát rất giản dị, trong sáng ấy còn vang vọng mãi
trong lòng người suốt hơn nửa thế kỷ? Và ai dám bảo là nó sẽ không tồn tại đến
chừng nào còn người Công giáo Việt?
Lúc sinh thời, cố nhạc sĩ Hải Linh đã có lần kể về sự ra đời của bài
hát Hang Bê-lem :
“Đó là bài đầu tiên mà tôi viết vào tháng 11 năm 1945. Lúc ấy tôi được
25 tuổi và đang dạy học ở trường thầy Giảng Bùi Chu.
Một hôm, tôi đi ngang qua Tòa soạn bán nguyệt san Đường Sống ở Nam Định,
ông Minh Châu - chủ nhiệm - thấy tôi thường hay hát nên đố tôi làm được một bài
để đăng vào báo Đường Sống nhân mùa Giáng Sinh. Tôi nhận lời và hẹn ba ngày sau
trở lại.
Sau ba ngày tôi đưa bản nhạc Hang Bê-lem tới Tòa soạn và tập sơ qua cho một
số anh chị em trong Tòa soạn. Khi hát lên, mọi người thấy thích quá nên ông
Minh Châu mới thương lượng với tôi thế này: Ông sẽ trả chi phí cho người cầm
bản nhạc lên Hà Nội để tìm Mạnh Quỳnh và thuê Mạnh Quỳnh khắc vào bản gỗ. Sau
khi đã in 2000 số báo Đường Sống, ông Minh Châu sẽ cho tôi lại bản gỗ của bản
nhạc. Tôi cũng đồng ý như vậy.
Tôi còn nhớ, lúc đó tôi đã in ra 500 bản với giá 3 hào hay 3 xu gì đó. Tôi
gởi lên Hà Nội 10 bản. Một số nhà thờ hát và nhiều người thấy hay nhưng không
tìm đâu ra bản nhạc. Thật đúng tôi là một anh nhà quê ! Đối với thủ đô Hà Nội
mà chỉ có gởi 10 bản nhạc !”. Một điều rất đặc biệt là Cha Kim Định đã mua một
bản danh dự với giá 100 đồng ! Tôi cũng gửi biếu Đức Cha Phạm Ngọc Chi – lúc ấy
còn là Linh mục và đang dạy ở trường Lý Đoán Phát Diệm – một bản.
Bài Hang Bê-lem đã ra đời như thế, và đã được chính tác
giả điều khiển ca đoàn nhà thờ chính tòa Phát Diệm hát lần đầu tiên trong thánh
lễ Đêm Giáng Sinh năm 1945. Cũng chính nhờ sự thành công của bài hát này, Hải
Linh đã được Giám Mục Phạm Ngọc Chi gởi đi du học ở Âu Châu vào năm 1950.
Hải Linh tên thật là Phanxicô Trần Văn Linh, sinh ngày 4 tháng 10 năm 1920
tại làng Ứng Luật phủ Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình, giáo phận Phát Diệm, trong một
gia đình đạo hạnh. Người em trai thứ sáu của ông cũng là một linh mục nhạc sĩ
(Lm Trần công Hoan tức nhạc sĩ Hùng An).
Năm lên 12 tuổi ông vào tu tập tại Trường Thử ở Trung Linh (Nam Định), nơi
đây ông được Lm Rangel người Pháp (tên Việt là cố Lễ) tập luyện ca nhạc và khơi
động năng khiếu về âm nhạc. Ông sớm say mê âm nhạc, tự tìm tòi học hỏi. Năm 16
tuổi ông vào học ở Chủng viện Ninh Cường, nơi đây ông đã phụ trách tập hát và
đệm đàn ở nhà thờ.
Năm 1940, lúc 20 tuổi, Hải Linh vào học tại trường Thầy Giảng (Bùi Chu) và
sau đó được giữ lại để dạy Pháp văn và âm nhạc tại trường. Đây là thời gian Hải
Linh bắt đầu sáng tác một số bài hát đạo cũng như đời. Có lẽ bài hát đạo đầu
tay của Hải Linh là bản nhạc rất phổ thông “Mẹ ơi, đoái thương xem nước Việt
Nam” sáng tác vào khoảng năm 1944 giữa khi đất nước đang lâm cảnh chiến
tranh tàn khốc. Hải Linh cùng với Vũ Minh Trân và một số bạn hữu khác như Thăng
Ca (Lm. Ngô Duy Linh), Võ Thanh (Lm. Vũ Đình Trác), Hồ Khanh (Lm. Trần Thái
Hiệp)… thành lập Nhạc đoàn Sao Mai, và đã xuất bản nhiều tập ca vịnh như: Ca
vịnh Đức Mẹ (1946), Ca vịnh Đức Mẹ Fatima – Thánh cả Giuse (1949), Ca vịnh
Thánh Tâm – Thánh Thể (1949)… Trong số các bài của thời kỳ sơ khởi này có những
bài ngày nay vẫn còn phổ biến như “Lòng con đau đớn thiết tha…”, “Ngày nay
con đến hát khen mừng Mẹ Chúa Thiên Đàng”, “Nguyện xin Thánh cả Giuse quyền cao
sang…”, nổi bật nhất là bài “Hang Belem”, sáng tác cho mùa Giáng
sinh 1945.
Đầu năm 1950 ông được gửi đi du học tại Roma, nhưng 5 tháng sau đổi qua
Pháp. Từ 1-5-1951 ông học nhạc tại Viện Giáo Nhạc thuộc Institut Catholique de
Paris, đồng thời học sáng tác tại Trường Nhạc César Franck do giáo sư Guy de
Lioncourt làm giám đốc và trực tiếp hướng dẫn Hải Linh. Chính Giáo sư đã thổ
lộ, theo lời kể của Cố Nhạc sĩ Lm Hoàng Kim: “Trong suốt cuộc đời dạy học của
tôi, tôi chỉ gặp được hai người có tài, một người Nhật, làm trưởng ban nhạc Đài
Phát thanh Nhật Bản và người thứ hai là Phanxicô Hải Linh.”
Ngoài việc học chính thức tại hai trường nói trên, Hải Linh còn tìm học
hoặc trao đổi thêm với một số giáo sư nổi tiếng khác về ngũ âm cũng như về điều
khiển ban nhạc. Các tác phẩm ông sáng tác trong thời kỳ du học tại Paris đã nói
lên nỗi thao thức muốn tìm một nhạc ngữ phù hợp với ngôn ngữ đa thanh của dân
tộc: Chúa Khải Hoàn, Ave Maria 1, Ngợi Khen, nhất là các bài Ra Khơi,
Nhạc Việt, Hò Non Mước, Cóc Quân, Duyên Kỳ Ngộ, Chuông Hòa Bình, Lâm Khốc…mang
đầy âm hưởng dân tộc. Giáo sư Guy de Lioncourt đã nhiều lần tỏ vẻ thích thú khi
nghe “Monsieur Francois” (Người Pháp gọi Hải Linh bằng tên thánh Phanxicô) giải
thích tại sao chỗ này thì viết thoáng mỏng, chỗ kia phải đơn giản hóa hòa âm,
chỗ khác phải viết theo tinh thần đối âm, chỗ khác nữa lại phải đi cùng chiều
thay vì có thể đi ngược chiều… chung qui là cốt đề cao tính giai điệu của nhạc
ngữ dân tộc và nhất là tôn trọng thanh điệu (dấu giọng) của ngôn ngữ Việt Nam.
Hải Linh là một người du học không mất gốc, một học trò biết tự trọng và được
người Thầy xứng danh là bậc Thầy tôn trọng và thán phục quí mến. Từ đó, Hải
Linh càng ngày càng xác tín hơn về hướng đi của mình trong công việc đưa nhạc
ngữ dân tộc từ bậc giai điệu (đơn điệu) lên bậc đa âm đa điệu, và hai chủ đề
chính cho các sáng tác của mình sẽ là: Tôn Vinh Thiên Chúa và Tán Tụng Quê
Hương.
Năm 1956, ông trở về Việt Nam, ngoài việc dạy Hợp ca tại Viện Quốc gia Âm
nhạc, ông thành lập Ca đoàn Hồn Nước nhằm thực hiện hoài bão của mình là Trình
Tấu Sống Động các tác phẩm được soạn ra bằng một Lối Viết Thoáng Mỏng theo tinh
thần Á Đông. Thành lập vào tháng 2/1957 thì tháng 6/1957 Ca Đoàn đã sơ diễn tại
rạp Thống Nhất trong dịp lễ phát thưởng của trường trung học Nguyễn Bá Tòng.
Ngày 23/12/57 Ca đoàn Hồn Nước dưới sự điều khiển của Hải Linh đã được hoan hô
nhiệt liệt trong buổi ra mắt công chúng đầu tiên tại rạp Olympic (Saigon). Tiếp
tục trong các năm sau, những lần trình tấu của Ca trưởng Hải Linh đều có tiếng
vang… Các bản nhạc ông sáng tác trong thời kỳ này gồm có: Ave Maria 3
(Tấu lạy Bà), Ra Đời, Nữ Vương Hòa Bình, Đàlạt Trăng Mờ, Lòng Mẹ, Cung Đàn Bạc
Mệnh 1,2,3, Chinh Phụ Ngâm, Chuỗi Cười… (Riêng bài Nữ Vương Hòa Bình đã
đoạt giải nhất trong cuộc thi sáng tác cho Đại Hội Thánh Mẫu toàn quốc năm
1959). Trước đó, năm 1958 ông lập gia đình với cô Phạm Thị Ly.
Năm 1961 Hải Linh được học bổng sang nghiên cứu âm nhạc, giáo dục tại Đại
học Ohio (Hoa Kỳ). Tại đây, ông cũng được các nhạc trưởng, nhạc công và khán
thính giả Hoa Kỳ tán thưởng, nhất là trong lối trình diễn sống động và tinh tế.
Năm 1969 ông sang Pháp dự định hoàn thành luận án tiến sĩ về “Cơ cấu giai điệu
trong nhạc Việt”, nhưng vì một số lý do, nên phải bỏ dở luận án.
Trở về nước năm 1970, ngoài việc dạy nhạc tại Đại học Đà Lạt, Nhạc sư Hải
Linh tham gia Ủy ban Thánh Nhạc toàn quốc, tiếp tục củng cố ca đoàn Hồn Nước và
thực hiện các cuốn băng: Một Giờ Hợp Ca 1 và 2, đồng thời dạy nhiều lớp ca
trưởng tại Saigon và Đà Lạt. Các bản nhạc sáng tác ông trong thời kỳ này: Te
Deum, Ave Maria 2, Bộ lễ Nữ Vương Hòa Bình, Hồng Ân Thiên Chúa, Thằng Bờm,
Tiếng Thu, Con Bướm Trắng, Đồng Tiền Vạn Lịch … Đại hội Thánh Nhạc
Toàn Quốc năm 1972 tại trường Lasan Taberd cũng là một cái mốc đáng ghi nhớ
trong giai đoạn này.
Từ năm 1975 đến 1986 ông tiếp tục đào tạo ca trưởng, phần lớn tại tư gia
đồng thời cũng dạy đệm đàn, sáng tác cho một ít người, và cũng có những lần mở
lớp tập hát, những lần hát Thánh ca đây đó trong khuôn khổ Nhà nước cho phép.
Đặc biệt, bài Khúc Ca Mặt Trời được hát lần đầu tiên tại Nhà
thờ Đa-kao vào tháng 10 năm 1979 nhân kỷ niệm 50 năm Dòng Phanxicô được thành
lập tại Việt Nam. Vào năm 1982, dịp kỷ niệm 800 năm ngày sinh của Thánh Tổ phụ
Phanxicô, phần lớn Trường Ca Các Tạo Vật đã hoàn tất và được
trình tấu lần đầu cũng tại nhà thờ Đa-kao. Dịp nầy, Hải Linh đã lập Nhóm Quê
Hương để vừa học vừa góp tay thực hiện các chương trình đã đề ra cùng với mấy
học trò còn lại: Phác họa và khai triển các chương trong 2 cuốn sách “Lối Viết
Thoáng Mỏng” và “Lối Trình Tấu Sống Động”. Các bài hát khác được sáng tác trong
giai đoạn này gồm có: Vinh Danh Thiên Chúa, Phượng Trì, Kinh Lạy Cha,
Khúc Nhạc Cảm Tạ, Chúc Tụng Thánh Giuse, Tình Non Nước, Hoan Ca Mùa Trường
Xuân, Thơ Thơ 1,Thơ Thơ 2, Tán Tụng Hồng Ân, Tình Chúa Yêu Tôi, Bến Thiên Đàng,
Yêu Con Đời Đời, Mùa Hồng Ân, Mẹ Vô Nhiễm, Xuân Về … (Các bài từ Tán
tụng Hồng Ân trở đi là soạn chung với một số tác giả khác).
Ngày 8/5/1986 ông rời Việt Nam đi đoàn tụ gia đình tại Mỹ. Ông cư ngụ tại
New Orleans, bang Louisiana, cùng nơi với Linh mục nhạc sư Ngô Duy Linh.
Chưa kịp nghỉ ngơi, ông đã tập dượt cho Ca đoàn Hợp tuyển Việt Nam để hát
tại Đại hội mục vụ Thánh nhạc toàn quốc tổ chức tại New Orleans chiều ngày
1/7/1986. Tại đây gần 800 người gồm Ca trưởng, nhạc công Dương cầm, Quản cầm và
các nhạc sĩ sáng tác công giáo Mỹ đã cảm phục tài nghệ của Nhạc sư Hải
Linh.
Kế đó, ông mở các lớp Ca Trưởng tuần tự ở nhiều tiểu bang khác nhau (New
Orleans (LA), California, Portland (Oregon), Missouri, Texas…) đồng thời tập
dượt cho những Ca đoàn ở nhiều nơi khác nhau để hát trong các dịp lễ. Trong gần
20 tháng ở Mỹ, Nhạc sư đã tập dượt để điều khiển trên 12 buổi ca hát chính
thức. Buổi điều khiển có ý nghĩa sau cùng đối với ông có lẽ là đêm Giáng Sinh
24/12/1987 tại họ đạo Đức Mẹ Lên Trời ở Avondale, bang Louisiana, khi bài thánh
ca Hang Bê-lem tròn 42 tuổi. Trách nhiệm nặng nề lo tập hát cho Đại lễ Phong
Thánh tại Roma năm 1988 cũng là nỗi ưu tư lo lắng nhất cuối đời Nhạc sư. Hải
Linh đã sáng tác thêm một số bài hát cho dịp này, như Nhân Chứng Đức
Tin, Bài Ca Khải Hoàn…và đã lên chương trình tập dượt ở nhiều nơi.
Ngày 6/1/1988 nhạc sư rời New Orleans đi Los Angeles để tập hát theo chương
trình dự tính, và đã từ trần vì bị nhồi máu cơ tim, lúc 6 giờ 30 chiều ngày hôm
đó tại bệnh viện Fountain Valley (California). Nơi an nghỉ cuối cùng của ông là
nghĩa trang Avodale (Louisiana).
Chuyện kể về cố nhạc sĩ Hải Linh không dừng lại ở sáng tác đầu tay Hang
Bê-lem mà còn được nhắc nhở nhiều đến các tác phẩm âm nhạc nổi tiếng
sau này của ông về đạo cũng như về đời: Trường Ca Các Tạo Vật (dùng
lời kinh của thánh Phanxicô, sáng tác chung với Xuân Thảo) gồm 10 bài, Trường
ca Ave Maria (phổ thơ Hàn Mặc Tử) gồm 10 bài. Và một số bài thánh ca
riêng lẻ như Kính mừng Nữ Vương, Tán tụng hồng ân, Ngài Là Thiên
Chúa (Te Deum)… và một số bài thánh ca khác đã được hát trong 40 năm
qua.
Về phần nhạc thế tục, cố nhạc sĩ đã để lại trong kho tàng âm nhạc Việt Nam
những tác phẩm như: Đại tấu khúc Chinh phụ ngâm(trích thơ Đặng Trần
Côn). Tác phẩm này được viết theo nhạc Việt nhưng hình thức vẫn theo lối cổ
điển Tây phương, chia làm ba hành âm (mouvement): Từ khi có lệnh chiến chinh “Trống
tràng thành lung lay bóng nguyệt” cho đến khi người chinh phụ tiễn
chinh phu lên đường lo việc nước. Cảnh người chinh phụ cô đơn chiếc bóng ở lại
nhà săn sóc mẹ già và con thơ “Gà eo óc gáy sương năm trống”. Phần
kết kể lại ngày đoàn viên… Đại tấu chuông hòa bình viết cho
dàn đại hòa tấu và ban hợp xướng cùng với một số nhạc khí cổ truyền; Nhạc
kịch thơ Duyên kỳ ngộ (thơ Hàn Mặc Tử) là một thể loại tiểu nhạc kịch
(micro-opera); Trường ca cung đàn bạc mệnh (trích thơ của
Nguyễn Du trong tác phẩm truyện Kiều) gồm bốn cung chia ra như sau:
- Cung thứ nhất, gồm 10 bài, tả tiếng đàn của Thúy Kiều gảy cho Kim Trọng
nghe
- Cung thứ hai, gồm 6 bài, mô tả tiếng đàn của Thúy Kiều gảy cho Thúc Sinh
và Hoạn Thư nghe.
- Cung thứ ba là tiếng đàn của Thúy Kiều gảy cho Hồ Tôn Hiến.
- Và cung thứ tư là tiếng đàn của Thúy kiều gảy cho Kim Trọng lúc tái hồi.
Thật đáng tiếc, cố nhạc sĩ Hải Linh đã chưa hoàn tất cung đàn bạc mệnh cuối
cùng… Riêng các tác phẩm âm nhạc độc lập (không nằm trong bộ hay trường ca nào)
cũng rất đáng chú ý như: Đà Lạt trăng mờ, Ra đời (thơ Hàn Mặc Tử
), Nhạc Việt, Hương quê, Ra khơi, Tình nước non, Cóc quân đả phá thiên
đình, Thằng Bờm có cái quạt mo… Về phương diện học thuật, cố nhạc sĩ
đã để lại những kinh nghiệm sáng tác, kỹ thuật và phương pháp điều khiển dàn
giao hưởng và hợp xướng qua hai cuốn sách mang tên Lối viết thoáng
mỏng và Lối trình tấu sống động.
Cây đại thụ trong làng thánh nhạc Công giáo Việt Nam đã không còn nữa,
nhưng bóng mát vẫn còn tỏa rộng. Sự nghiệp của Hải Linh vẫn còn được kế thừa
nơi những người ca trưởng ông đã đào tạo trong và ngoài nước, duy chỉ có tài
năng của ông là không ai thay thế được. Tuy nhiên di sản ông để lại, những nhạc
bản để tôn vinh Thiên Chúa và tán tụng quê hương, sẽ mãi mãi tồn tại với thời
gian, nhất là mỗi mùa Giáng sinh trở lại tiếng hát về Hang đá Be lem lại cất
lên khắp các thánh đường Công giáo, và âm hưởng còn vang vọng mãi nơi hồn
người:
Đêm đông lạnh lẽo Chúa sinh ra đời…
Hang Bê-lem
Đêm đông lạnh lẽo Chúa sinh
ra đời
Chúa sinh ra đời nằm trong
hang đá nơi máng lừa.
Trông hang Bê lem ánh sáng
tỏa lan tưng bừng
Nghe trên không trung tiếng
hát thiên thần vang lừng
Đàn hát (réo rắt tiếng hát),
xướng ca (dư âm vang xa).
Đây Chúa thiên tòa giáng
sinh vì ta.
Người hỡi (hãy kịp bước
tới), đến xem (nơi hang Bê lem)
Nửa đêm mừng Chúa giáng sinh
ra chốn gian trần
Người đem ơn phúc xuống cho
muôn dân lầm than
1- Nơi hang Bê lem thiên thần xướng ca
Thiên Chúa vinh danh chúng nhân an hòa
2- Nơi hang Bê lem chiên lừa thở hơi
Tan giá đêm đông ấm thân Con
Người.
3- Nơi hang Bê lem mục đồng
xúm quanh
Ca hát vang lừng mến yêu
chân thành.
4- Nơi hang Bê lem huy hoàng
ánh sao
Đưa lối Ba Vua phương đông
đến chầu
5- Nơi hang Bê lem ta quỳ thiết tha
Xin Chúa nhân hiền xuống ơn chan hòa
12 - CAO
CUNG LÊN
Ngày 7 tháng 7 năm 2006 đã
tắt đi một ngôi sao sáng trên vòm trời thánh nhạc Công giáo Việt Nam. Nhạc sĩ
Hoài Đức, người mà hơn 50 năm trước đây cho chào đời những tác phẩm thánh ca mở
đầu cho nền âm nhạc Công giáo Việt Nam, đã an nghỉ trong Chúa tại thành phố
Saigon sau 83 năm tại thế. Tuy thể xác đi về cùng cát bụi nhưng tinh anh của
ông vẫn còn lại mãi mãi cùng với những nhạc bản ông để lại cho người Công giáo
Việt Nam, nhất là những bản nhạc giáng sinh được hát lên mỗi năm ngày kỷ niệm
Chúa giáng trần.
Hoài Đức sinh ngày 1 tháng 7
năm 1923 tại xã Vĩ Nhuế phủ Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định (ngày nay là xã Yên Đồng,
tỉnh Nam Hà). Xã Vĩ Nhuế cũng là nơi giáo quyền xây dựng Giáo Xứ Kẻ Nấp. Năm
1938 chú bé Hoài Đức tốt nghiệp Sơ Học Pháp Việt và vào Tiểu Chủng Viện Hoàng
Nguyên cũng năm này. Sau 6 năm học tập, thầy Hoài Đức được cử về giúp xứ Bút
Đông. Ngày 1 tháng 9 năm 1945, thày nhập Đại Chủng Viện Xuân Bích Hà Nội. Mới
chưa được một tháng, nhân biến cố Quân đội Nhật tiến đánh Đông Dương, Quân đội
Trung Hoa chiếm Đại Chủng Viện, các chủng sinh được lệnh tản cư. Tháng 9 năm
1946, Đại Chủng Viện mở cửa lại, thầy Hoài Đức cùng các bạn trở về tiếp tục tu
học. Lúc bấy giờ, cha Bề trên và các linh mục giáo sư đại chủng viện đều là
người Pháp. Công việc học hành chỉ mới tiến triển được 3 tháng thì phong trào
toàn quốc kháng chiến chống Pháp bùng nổ. Các linh mục người Pháp bị câu lưu.
Các thầy được lệnh sơ tán về những địa phương xa Hà Nội. Thầy Hoài Đức trở về
lại Bút Đông, giúp cha Trần Tiến Đức. Trong thời gian này thày lấy bút hiệu là
Hoài Đức, theo thầy kể thì bút hiệu này là để tỏ lòng mến thương linh mục Trần
Tiến Đức là cha bảo dưỡng.
Thời gian tản cư kéo dài từ
tháng 12 năm 1946 tới tháng 10 năm 1948, sau đó thầy Hoài Đức trở về Đại Chủng
Viện Xuân Bích để tiếp tục học 4 năm Triết học và Thần học. Vì mới tản cư về,
thầy cần phải có căn cước, nên lấy tên là Lê đức Triệu, cũng nhân đó khai luôn
bút hiệu Hoài Đức vào tờ căn cước. Không biết khi mới sinh ra, cha mẹ thầy đặt
cho thầy tên gì, có tài liệu ghi là Lê Danh Hích (?).
Sau 4 năm học ở đại chủng
viện, thầy Hoài Đức được lãnh nhận 4 “chức nhỏ”, nhưng vì bệnh suy tim nên Đức
Giám mục Trịnh Như Khuê đã chỉ định thầy đi giúp xứ Kẻ Noi, rồi Sở Kiện... Vì
tình hình chiến sự, thầy bỏ Sở Kiện tìm cách về lại Hà Nội. Niên học năm 1952,
thầy được bổ nhiệm làm giáo sư Tiểu Chủng Viện Piô XII (ở Quần Ngựa), lúc ấy
linh mục Nguyễn Huy Mai đang là Hiệu trưởng Trường Dũng Lạc, được thuyên chuyển
về làm Giám Đốc Chủng Viện.
Rồi biến cố “chia đôi đất
nước” ngày 20-7-1954 xảy đến. Ngày 18-7-1954, toàn bộ Tiểu Chủng viện Piô XII
trong đó có thầy Hoài Đức, lên tầu di cư vào Nam. Địa chỉ sau cùng của Chủng
Viện Piô XII là 223 Nguyễn Tri Phương, Chợ Lớn. Thầy Hoài Đức dạy giáo nhạc tại
đây cho tới đầu niên học 1957 mới về lại Đại Chủng Viên Xuân Bích cũng đã di
chuyển vào Nam và tọa lạc tại Thị Nghè. Sau khi hoàn tất chương trình “đào tạo
linh mục”, ngày 6 tháng 6 năm 1960 thầy thụ phong linh mục và vẫn tiếp tục làm
giáo sư kiêm giám luật tại Chủng Viện Piô XII.
Năm 1966, Chủng Viện Piô XII
chấm dứt hoạt động theo lệnh Toà Thánh, cha Hoài Đức được thuyên chuyển lên
Giáo phận Kontum làm giáo sư tại Tiểu Chủng Viện Thừa Sai, năm sau được bổ
nhiệm phó Bề trên kiêm quản lý Chủng Viện. Hết niên học 1967-1968, cha được
chuyển về Saigon đảm nhận chức vụ Thư Ký Thường Trực Ủy Ban Thánh Nhạc Toàn
Quốc do đề nghị của Đức Cha Phạm văn Thiên đặc trách Phụng Vụ và Thánh Nhạc.
Thánh 7 năm 1969, cha đã từ nhiệm chức vụ này và được thuyên chuyển lên Ban Mê
Thuật làm quản lý tài sản Nhà Chung Ban Mê Thuật. Lúc ấy Đức Cha Nguyễn Huy Mai
đang cai quản Giáo phận này. Ở đây cha Hoài Đức kiêm nhiệm Giám đốc Cơ quan Từ
thiện Caritas, Chủ tịch phong trào Công lý và Hoà bình. Với những trách vụ kể
trên, cha Hoài Đức đã cố gắng xây dựng các cơ sở giáo phận như tu viện, tập
viện, nhà dưỡng lão, quán cơm xã hội, khai thác đồn điền cà phê, phân phối các
phẩm vật cứu trợ...
Tháng 3 năm 1975, Cách mạng
“giải phóng” Ban Mê Thuật, Đức cha Mai và cha Hoài Đức đã ở lại, không di tản.
Thời gian này cả hai vị đã gặp rất nhiều khó khăn. Ngày 14 tháng 1 năm 1977 cha
Hoài Đức khăn gói lên đường vào trại cải tạo Mê Văn Đặc Lắc. Ở trại này được
vài tháng, cha được chuyển ra ngoài Bắc. Sau nhiều lần chuyển từ trại này qua
trại khác, năm 1979 cha Hoài Đức cùng một số cha khác (khoảng 20 vị) “định cư”
tại trại Thanh Cẩm Thanh Hóa. Tại trại này cha Hoài Đức bị bệnh “tai biến mạch
máu não”, nhờ một bạn tù người Hoa chữa trị, bệnh thuyên giảm, nhưng sức khoẻ
từ đó kém đi rất nhiều.
Tháng 11 năm 1987, cha Hoài
Đức được thả về cùng với khoảng 50 bạn tù. Cha ngụ nơi nhà người em họ tại số
491/ 74A Lê văn Sĩ Phường 12 Quận 3 Saigon. Đây là nơi cha được chỉ định cư
trú, theo lệnh chính quyền. Vào khoảng năm 1997, bệnh cũ lại bộc phát, cha bị á
khẩu, toàn thân dần dần tê liệt và cha đã được chuyển về nhà Hưu Dưỡng Hà Nội
(116/ 3 Hùng Vương, P.9, Q.5 Saigon) và mất tại đây.
Thánh ca
Hoài Ðức
Những bài hát do Hoài Ðức
sáng tác hầu như đã đi vào linh hồn người Công Giáo Việt Nam. Có lẽ không một
tín hữu người Việt nào ngay từ nhỏ lại không mấp máy trên môi hay chưa từng
thưởng thức những bài thánh ca bất hủ như Cùng Ði Bêlem, Mùa Ðông Năm Ấy, Dâng
Mẹ, Cung Chúc Trinh Vương... đặc biệt là bản nhạc “Cao Cung Lên” - ca khúc đã
đưa tên tuổi Hoài Ðức lên tột đỉnh. Nếu bên Âu Mỹ có những ca khúc bất tử về
Giáng Sinh như Silent Night, Jingle Bell thì Việt Nam những “Ðêm Ðông” của Hải
Linh và “Cao Cung Lên” của Hoài Ðức vẫn còn sống mãi trong lòng người.
Linh mục nhạc sĩ Hoài Ðức
sáng tác thánh ca để đời không bằng số lượng mà là bằng chất lượng tác phẩm.
Toàn bộ cuộc đời sáng tác của ngài chỉ có 91 bài. Tuy nhiên nhiều ca khúc của
ngài luôn đi vào lòng người, luôn có giá vượt thời gian, vẫn luôn được nhà thờ
dùng trong phụng vụ. Không có mùa Noel nào lại không nghe những lời ca du dương
của nhạc sĩ Hoài Ðức, như:
“Cao cung lên, khúc nhạc
Thiên Thần Chúa, hòa trong làn gió, nhè nhẹ vấn vương...” (Cao Cung
Lên)
hay “Kìa trông huy hoàng
vì sao chiếu soi gần xa khắp miền...” (Cùng Ði Belem)
hoặc “Mùa đông năm ấy,
sao sáng soi cuối trời, Mùa đông năm ấy Con Chúa sinh xuống đời...” (Mùa
Ðông Năm Ấy)...
Và trong các buổi chầu Thánh
Thể, ta luôn luôn nghe được lời cầu xin cho Ðức Giáo Hoàng: “Này Con Là Ðá”.
Thậm chí bài sáng tác đầu tiên của ngài “Thánh tâm Giêsu vua đất Việt” sáng tác
năm 1945 trong hoàn cảnh chinh chiến, ngày nay vẫn còn nhiều nơi sử dụng.
Nhạc sĩ Hoài Ðức đặc biệt có
lòng tôn kính Ðức Mẹ, đã dành tới 18 sáng tác về Ðức Mẹ.
Quá trình sáng tác của Hoài
Đức có thể chia làm ba giai đoạn:
Giai đoạn 1: Những ca khúc
ngẫu hứng (1945-1949), dù mang tính ngẫu hứng nhưng có những bài ca xuất thần,
giá trị vượt thời gian như bài Thánh Tâm Giêsu Vua Ðất Việt, Thiếu Nhi Công
Giáo Việt Nam, Cung Chúc Trinh Vương, Ðêm Ðông Âm U... đặc biệt là nhạc phẩm
Cao Cung Lên (Giáng Sinh 1945).
Giai đoạn 2: Những ca khúc
bài bản (1950-1975), điệu nhạc giản dị, hướng hẳn về bình ca, lời ca lấy từ
sách kinh nguyện, Thánh Kinh, Ca Vịnh. Những bài ca nổi tiếng: Bí Tích Nhiệm
Mầu, Ngắm Mình Thánh Chúa, Thờ Lạy Chúa... và những ca khúc về Ðức Mẹ.
Giai đoạn 3: Những ca khúc
thầm (1977-1987) viết trong thời kỳ ngài bị giam tù, sáng tác chuyển hẳn sang
thể loại hợp xướng. Có thể kể một số bài: Cho Ðến Bao Giờ (Ca Vịnh 12), Con
Thức Trông Cậy Chúa (CV 62); Hỡi Toàn Cầu (Thánh Vịnh 99), Lạy Chúa Ðừng Trách
Mắng Con (TV 6); Nếu Chúa Không Ơn Lại (TV 123), Ngồi Bên Bờ Sông Babylon (TV
136)... Hầu hết những bài thánh ca hợp xướng sáng tác trong giai đoạn này chưa
được phổ biến, còn xa lạ với giáo dân.
PV: Cao Cung Lên là một hiện
tượng, một trong những bản thánh ca Giáng Sinh được nhiều người biết, hát thuộc
lòng và mến mộ nhất. Cha có thể cho biết thời gian sáng tác và cảm hứng lúc ấy?
Linh mục Hoài Ðức (Lm. HÐ): Năm
1945, đại chủng viện Xuân Bích tạm đóng cửa, vì quân đội Trung Hoa trưng dụng
cơ sở chủng viện để đóng quân, các chủng sinh phải sơ tán về nhà quê, địa
phương gần đó. Tôi về Bút Ðông (Nam Ðịnh), xứ sở của linh mục bảo dưỡng tôi là
Linh mục Trần Tiến Ðức, và qua Noel năm 1945 ở đó. Cũng chính thời kỳ đó, tôi
bắt đầu tập tễnh làm quen với sáng tác thánh ca. Một lần, tôi cùng với cộng
đoàn giáo hữu đọc kinh chiều và làm giờ viếng hang đá vừa xong, giữa lúc mọi
người về thì hồi chuông nguyện nổi lên. Lúc ấy tôi cũng đang bước trên bậc
thang từ trên nền nhà thờ xuống sân bên ngoài, bỗng nhiên trong trí óc tôi nảy
ra một cung điệu phảng phất âm thanh của tiếng chuông đang ngân vang trên tháp
chuông. Tôi liền bước chậm lại và thả hồn theo tứ nhạc đó, khi xuống tới sân
nhà thờ thì trong trí óc đã hình thành xong đoạn điệp khúc Cao Cung Lên. Ngay
lúc đó, tôi về phòng riêng chép lại điệp khúc đó và phiên khúc 1 của bài hát
thì nguồn cảm hứng tắt ngấm. Tôi liền đưa bản nhạc cho Nguyễn Khắc Xuyên xem,
vì Nguyễn Khắc Xuyên cũng đang ở Bút Ðông. Nguyễn Khắc Xuyên khen tứ nhạc hay
và hợp với bầu khí Noel, liền nhận lời đặt mấy phiên khúc sau. Nên người nào
tinh ý sẽ nhận thấy ngay văn phong của những phiên khúc sau có đôi chút khác
với văn phong của điệp khúc và phiên khúc 1.
PV: Ðấy là trang mở đầu của
những bài thánh ca bằng tiếng Việt. Như vậy, thưa cha, trong điều kiện còn manh
nha, việc khơi dòng thật khó. Vậy chứ, trường hợp và động cơ nào thúc đẩy cha
đến với thánh nhạc, thánh ca?
Lm. HÐ: Có thể nói là hoàn
toàn ngẫu nhiên. Suốt 6 năm tu học ở tiểu chủng viện Latinh Hoàng Nguyên, tôi
không có gì xuất sắc về âm nhạc. Cũng có được tập đàn harmonium vài năm, sau vì
kém mắt nên xin thôi. Tiếng thì khàn khàn, đục đục, lại ương ương, không thể
hát hay được. Năm 1945, vì thời cuộc phải tạm nghỉ học triết lý ở đại chủng
viện Xuân Bích, tôi về với cha nuôi xứ Bút Ðông, có Nguyễn Khắc Xuyên vốn quen
biết Hùng Lân rồi. Tôi chưa có ý niệm gì về việc sáng tác nhạc cả. Nhưng chỉ có
tấm lòng ước ao khao khát hòa bình cho đất nước, trước mắt là mong có hòa bình
để mau được về tiếp tục học tại đại chủng viện. Với tâm tình đạo đức cầu nguyện
đó, và với cái vốn ít ỏi hiểu biết về nhạc lý cộng với chút hiểu biết sơ đẳng
về tư tưởng thần học, tôi nghêu ngao mấy câu để cầu nguyện xin Trái Tim Cực
Thánh Chúa Giêsu ban cho đất nước Việt Nam được hòa bình. Khi đã thành hình một
bài hát, tôi ghi lại và đem gởi cho anh Hùng Lân làm lễ ra mắt để xin gia nhập
nhạc đoàn. Cũng vì thế mà lúc đầu bài hát ấy như sau: “Giêsu, dưới chân Chúa
con sấp mình, muôn vàn thiết tha dâng lòng thờ kính. Lòng còn tha thiết tháng
năm sống đời an ninh. Chúa ơi nỡ tâm ngoảnh mặt làm ngơ sao đành.” Ðến sau
tôi phải sửa lại thế này: “Giêsu, chúng con tới đây sấp mình, chân thành
dâng Chúa tấm lòng thờ kính, đoàn con mong ước tháng năm sống đời an ninh, Chúa
ơi hãy ban xuống cho Việt Nam thanh bình.”
Ðược anh Hùng Lân khích lệ
và chỉ dẫn dần dần, tôi bước vào con đường sáng tác từ đấy, nhưng vẫn không có
ý sống trong âm nhạc, và chỉ sáng tác những khi nào có hứng thực về chủ đề nào
này ra trong trí óc, và tâm hồn sống với chủ đề đó. Không ham muốn sáng tác
nhiều bài.
PV: Cha có thể phác họa lại
hoàn cảnh lịch sử và những năm đầu của thánh nhạc, thánh ca Việt Nam?
Lm. HÐ: Có khi phải lấy thời
điểm năm 1940. Trước thời điểm đó chưa có thánh nhạc Việt. Khi nói đến thánh
nhạc là phải nói đến những bài hát trong phụng vụ. Mà tất cả nền phụng vụ bấy
giờ đều được cử hành bằng tiếng Latinh. Thánh Lễ, chầu Thánh Thể phải đọc hay
hát bằng tiếng Latinh. Những bài hát đều lấy từ cuốn Paroissien Romain hay cuốn
Cantus Pro Festis Solemnioribus, hoặc là cuốn Cantus Officiorum in Cantus
Gregoriano, và trong giờ chầu Thánh Thể thì hát những bài in trong sách Cantus
Selecti Ad Bennedictionem, hoặc cuốn Cantus ad Bennedictionem (quen gọi là cuốn
Biton). Ðôi khi được hát những bài không phải là tiếng Latinh thì hát bài bằng
tiếng Pháp, chủ yếu là lấy trong cuốn Cantiques de la Jeunesse. Còn những bài
hát bằng tiếng Việt thì chưa có, hay nói cách khác là chưa có ai làm ra cả.
Trong miền Nam có cha Phaolô Quy và Phaolô Ðạt có làm một ít bài: “Thanh niên
với Ðức Mẹ”, “Thanh niên với Chúa Hài Ðồng”, tập cho các chủng sinh Latinh
Hoàng Nguyên, hát được một vài lần rồi cũng rơi vào quên lãng.
Năm 1943 hay 1944, có một
linh mục cao tuổi, quen gọi là Cha Già Vượng, ở xứ Nam Ðịnh, một mình đã cho ấn
hành những 10 cuốn thánh ca, gồm có những bài ca lấy cung điệu ở những bài ca
tiếng Pháp, hay tiếng Latinh, còn lời ngài đặt bằng tiếng Việt Nam, giọng văn
đơn sơ, mộc mạc, đã được phổ biến mạnh trong một thời gian.
Còn kể đến bài hát bằng
tiếng Việt Nam mà chưa được hát chính thức trong nhà thờ thời ấy, là bộ Vãn
Dâng Hoa, được các hội dâng hoa các nơi sử dụng trong mùa hoa Tháng Năm. Nhưng
không phải là các bài thánh ca phụng vụ, chỉ hát để dâng hoa kính Ðức Mẹ. Có
nhiều bộ Vãn Dâng Hoa, ở địa phận Hà Nội thì khác, ở Bùi Chu thì lại khác. Có
khi trong một địa phận, mỗi xứ hát một hay hai Vãn Dâng Hoa khác nhau, đặc biệt
về ngôn từ và cung điệu.
Tóm lại, các nghi lễ thời ấy
đều làm bằng tiếng Latinh, với linh mục chủ tế trên bàn thờ, còn giáo dân chỉ
biết đọc kinh, ngắm lễ bằng tiếng Việt, chứ hát lời kinh bằng tiếng Việt thì
chưa có, ngoại trừ Ca Vãn Dâng Hoa.
Rồi vào năm 1940 trở đi, đã
xuất hiện những ca khúc Việt Nam hoàn toàn, nghĩa là do người Việt Nam soạn cả
phần nhạc và lời, như Lê Thương với bài Ðàn Xuân, Ðặng Văn Hân với bài Men Cùng
Sườn Non, Thẩm Oánh với bài Tâm Hồn Anh Tìm Em, rồi tới những bài hát hướng đạo
của nhóm Hoàng Quý, như Trên Sông Bạch Ðằng, Lửa Rừng Ðêm, Nhớ Quê, tiếp những
bài ca ái quốc như Tiếng Gọi Thanh Niên của Lưu Hữu Phước, Tiếng Quân Ca của
Văn Cao, nung nấu lòng yêu nước của mọi người nhất là những thanh niên có học.
Ðang lúc ấy, Hùng Lân với Thiên Phụng là những thanh niên vào lứa tuổi 20, đã
nghĩ ngay đến việc tập hợp một số anh em để thành lập một nhạc đoàn chuyên soạn
ra những bản thánh ca hoàn toàn Việt Nam thay cho những bài thánh ca tiếng nước
ngoài như trước, thể hiện tinh thần dân tộc độc lập tự do của người Việt Nam,
nhạc đoàn Lê Bảo Tịnh ra đời từ đó.
PV: Cha có thể nhớ lại một
số tác phẩm mà cha đã sáng tác từ thủa ban đầu cho đến ngày hôm nay?
Lm. HÐ: Vì có chủ trương
không ham sáng tác nhiều nên tôi nhớ mang máng con số những bài hát tôi sáng
tác chỉ vào chừng 80 bài thôi; còn một số bài tôi đã nháp rồi thấy không ưng ý
hay không thích nữa thì tôi bỏ luôn, cũng vào khoảng ba bốn chục bài nữa. Tôi
nói thêm rằng: Thời gian sáng tác nhiều nhất là thời gian học ở đại chủng viện,
“ăn cắp” giờ học riêng để làm bài hát. Nhưng luật chủng viện không cho phép,
các cha giáo sư nghiêm ngặt về vấn đề đó, thậm chí đã có cha giáo khám túi
chủng sinh xem có tờ giấy nháp nào về bài hát không. Ðến khi làm linh mục rồi,
ra làm việc mục vụ thì rất ít có cơ hội để sáng tác cho ra hồn nữa. Ðó là kinh
nghiệm của riêng tôi thôi.
Qua chính lời tác giả bài
hát Cao Cung Lên vừa kể trên, chúng ta được biết nhạc bản danh tiếng này được
thành hình ra sao và trong trường hợp nào. Hoài Đức cũng cho chúng ta một
thoáng nhìn về tình hình giáo nhạc Việt Nam thời kỳ phôi thai với nỗ lực ban
đầu của những cây đại thụ trong làng âm nhạc Công giáo như Hùng Lân, Nguyễn
Khắc Xuyên…, chính nhờ những vị này, cũng như nhờ Hoài Đức, trong vai trò những
người tiền phong, mà ngày nay người Công giáo Việt chúng ta mới có được một nền
âm nhạc phong phú dùng trong phụng tự.
Hoài Đức không còn nữa,
nhưng những bản thánh ca cha để lại vẫn còn được hát lên hầu như mỗi ngày nơi
các thánh đường Công giáo trong và ngoài nước. Riêng nhạc bản “Cao Cung Lên”
vẫn còn vút bay như những tiếng chuông vang, như những nốt nhạc của các vị
thiên thần Chúa trong ngày lễ giáng sinh đầu tiên, và chắc sẽ còn mãi mãi ngân
vang mỗi năm khi mùa lễ Giáng sinh trở lại.
Cao Cung
Lên
Cao cung lên khúc nhạc thiên thần Chúa
Hòa trong làn gió nhè nhẹ vấn vương.
Ôi linh thiêng lắng nghe thoang thoảng cung đàn
Một đêm khuya vang vẳng trong tuyết sương
Đàn ơi cứ rung những điệu réo rắt:
Hát khen Con Một Chúa Trời, rày sinh xuống cõi đời
Hỡi người dương thế lặng nghe cung đàn
Mau tìm cho tới thờ kính Vua giáng trần.
1. Thôi hỡi trần gian im tiếng đi mà cung kính.
Chúa Con sinh ra trong máng cỏ hang lừa.
Tuy Chúa là Vua muôn nước suy phục tôn kính.
Chúa bỏ ngai vàng sinh xuống trần đêm xưa.
2. Thôi hỡi ngàn mây đen xám u mờ tăm tối.
Hãy mau tan đi nay Chúa đã xuống đời.
Trên cõi trời cao, sao sáng chân thật đưa lối.
Hãy mang tin lành cho nhân loại nơi nơi.
3. Thôi hỡi trần gian bao tuyết sương cùng gió rét.
Cớ sao nỡ làm cho Chúa lạnh vô ngần.
Ôi Ðấng Toàn Năng xưa quá yêu người tha thiết.
Xuống chịu khổ hèn trên tuyết ngàn dặm sương.
4. Thôi hỡi hồn tôi ghi nhớ trong lòng sâu thẳm.
Chúa sinh đêm nay nên bé nhỏ khó hèn.
Con quyết từ nay yêu Chúa trong tình đằm thắm.
Muốn để đền bù lại cõi đời bạc đen.
Phụng
Nghi
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét