Thư
tình gửi một người, cuốn sách giải mã
Nhân
kỷ niệm 10 năm ngày nhạc sĩ Trịnh Công Sơn về cõi thiên thu 1/4 (2001-2011),
Nhà xuất bản Trẻ xuất bản cuốn sách “Thư tình gửi một
người” tập hợp
hơn 300 trang thư tình của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn gửi Ngô Vũ Dao Ánh, người
tình có ảnh hưởng mạnh mẽ và lâu bền trong cảm hứng sáng tạo âm nhạc của nhạc
sĩ. Điều đặc biệt là thông qua hàng trăm trang thư tình mà Dao Ánh đã cất giữ tận
đáy lòng gần nửa thế kỷ nay, người đọc không những được thưởng thức những trang
thư tài hoa lấp lánh mà còn được thâm nhập sâu vào thế giới nội cảm phong phú của
Trịnh Công Sơn, từ đó hiểu sâu hơn về ca từ và con người Trịnh Công Sơn.
Dao Ánh và Trịnh Công Sơn
Ảnh từ sách Thư tình gửi một người
Giải
mã ca từ Trịnh Công Sơn
Ca
từ Trịnh Công Sơn được mệnh danh là “lời của phù thủy”. Do đó,
việc hiểu đúng, hát đúng ca từ nhạc Trịnh là hết sức quan trọng, nếu không là
“sai một ly đi một dặm”. Trong nhạc Trịnh, ta bắt gặp nhiều hình ảnh, biểu tượng
như: chim di, dạ lan, loài sâu, mặt trời… cũng như nhiều cảm xúc đã được mã
hóa. “Thư tình gửi một người” đã giải mã những hình ảnh, biểu tượng,
những cảm xúc này, giúp người thưởng thức có những khám phá mới và thú vị về thế
giới nghệ thuật của Trịnh Công Sơn.
Hình ảnh “chim
di” xuất hiện trong ca khúc lừng
danh “Diễm xưa”, ca khúc
đánh dấu kỷ niệm mối tình của Trịnh Công Sơn với Ngô Vũ Bích Diễm (chị ruột của
Ngô Vũ Dao Ánh): “Mưa vẫn hay
mưa cho đời biển động, làm sao em nhớ những vết chim di”. Sau khi chia tay
Bích Diễm, Trịnh Công Sơn đã nhận được tình cảm sẻ chia của Dao Ánh qua thư từ
và từ đó, thư đi, tin lại, mối tình với Dao Ánh nảy nở. Hình ảnh “chim di” không xuất hiện trở lại với tên gọi
nguyên nghĩa của nó trong các tình khúc hậu “Diễm
xưa” nữa nhưng còn để lại dư ảnh
buồn thương trong ca khúc “Còn
tuổi nào cho em” viết cho Dao
Ánh: “Tuổi nào ghi dấu chân
chim qua trời”. Đặc biệt, hình ảnh “chim
di” còn được Trịnh Công Sơn
nhắc đi nhắc lại nhiều lần trong các trang thư tình gửi Dao Ánh, cho thấy bao nỗi
niềm, bao dư chấn buồn đau của “Diễm
xưa” còn trút gửi cả cho Dao
Ánh: “Ánh rồi cũng làm loài
chim di xám bỏ miền - giá - buốt này mà đi. Lúc đó anh chỉ còn ngồi nghe một lời
bể động” (thư Sài Gòn,
28.9.1964), “Tuy nhiên cũng
không thể không buồn khi nhớ đến những vết chân chim di một lần cất tiếng hót
cho mình và đã bay đi biền biệt. Dấu tích còn lại mơ hồ trong vùng sương mù huy
hoàng còn sót lại đó” (thư
Blao, 27.10.1964), “Con gái vẫn
thường là một loài chim di dễ quên vùng ở cũ” (thư Đà Nẵng, 10.11.1966).
http://www.nhaccuatui.com/nghe?M=KTQedtgqeS
http://www.nhaccuatui.com/nghe?M=KTQedtgqeS
Vậy chim di là loài chim gì, sống ở đâu? Nhà thơ
Phạm Tiến Duật kể: “Có một lần, khi nghe bài Diễm xưa, tôi bảo
Trịnh Công Sơn rằng có một câu phải sửa, là câu này: “… Làm sao em nhớ những vết chim di”. Cả bài
không nói tới một tên hoa, tên lá, tên chim nào, hà cớ gì lại có chim di! Có lẽ
nên đổi là chim đi, chỉ nói đến vết chân chim, là đủ. Trịnh Công Sơn bảo rằng
không sửa được, vì đấy là kỷ niệm riêng. Sơn nói về Huế nhưng viết ở Nha Trang.
Ở Nha Trang mới có loài chim di dỡn sóng. Lũ chúng ta cũng chỉ như loài chim di
dỡn sóng ở giữa đời này” (1). Như vậy, chim di dùng để chỉ những hình ảnh bay
biến bất thường, không nắm bắt được, không cầm giữ được, giống như tình yêu
mong manh vụt biến. Khái quát hơn nữa, chim di còn chỉ sự vô tăm tích của kiếp
người trong cõi phù thế.
Hình ảnh “dạ
lan” được nhắc tới trong ca
khúc “Dấu chân địa đàng”: “Nửa đêm đó lời ca dạ lan như ngại
ngùng”. Ca khúc này còn có tên là “Tiếng
hát dạ lan”. Nhà Dao Anh (cách nhà Trịnh Công Sơn một cây cầu là cầu Phú
Cam) trồng nhiều hoa dạ lan và loài hoa này không chỉ thơm ngát trong vườn nhà
Dao Ánh mà còn lừng hương trong nhạc Trịnh và trong nhiều bức thư tình tha thiết,
da diết của Trịnh Công Sơn gửi Dao Ánh: “Dạ
lan giờ này chắc đã ngạt ngào cả một vùng tối đó rồi, đã cài lên từng sợi tóc của
Ánh” (thư Blao, 31.12.1964), “Anh ao ước bây giờ mở cửa ra bỗng
dưng có chiếc cầu bắc qua dòng sông và anh bước qua cầu rồi rẽ về phía tay phải
đi đến căn nhà có mùi thơm dạ lan và đứng đó gọi tên Ánh thật thầm để chỉ vừa đủ
Ánh nghe” (thư Blao,
26.9.1965). Dĩ nhiên, “dạ lan” trong vùng kỷ niệm của Trịnh Công
Sơn cũng như trong nhạc Trịnh không đơn thuần để chỉ một loài hoa đáng yêu mà
còn là biểu tượng, là hiện thân của vẻ đẹp và tình yêu thầm kín, thanh tao, thắm
thiết của Dao Ánh, là biểu tượng, là hiện thân của cõi “địa đàng”, cõi “Thiên
Thai”, cõi mơ ước hạnh phúc bất tuyệt muôn đời của nhân loại: “Mưa đã trở về cùng với đêm. Như một
ngày nào Ánh rời xa anh để trở về với nếp sống bình thường, ở đó Ánh đi trên lối
đi quen thuộc của những người đã đi trước mà không cần phải nhìn những bảng số
hai bên đường. Sẽ bình thường và thản nhiên quên đã một lần dẫm chân qua một vực
- thẳm địa đàng mà anh đã linh cảm trước từ lâu, như “địa đàng còn in dấu chân bước
quên” của một thời anh đã âm
thầm nghĩ rằng biết đâu Ánh không lớn lên từ một loài dạ lan nào đó” (thư Blao, 27.10.1964), “Bây giờ là tiếng nói đêm của anh với
Ánh. Với Ánh dạ lan… ” (thư
Blao, 22.11.1964).
Cũng
trong ca khúc “Dấu chân địa đàng”, bên cạnh
hình ảnh “dạ lan” là hình ảnh “loài sâu” được nhắc
đi nhắc lại với nhiều trạng thái như ngủ: “Mùa xanh lá loài
sâu ngủ quên trong tóc chiều”, ca hát: “Vùng u tối loài sâu
hát lên khúc ca cuối cùng”, giải thoát ưu phiền: “Rồi từ đó loài sâu nửa đêm quên đi ưu phiền”. Loài
sâu này chính là một phiên bản khác của phận người, ôm chứa những buồn vui của
nhân sinh, điều này càng được thấy rõ hơn trong những bức thư của Trịnh Công
Sơn gửi Dao Ánh: “Ngôn ngữ đã mất đi
với những ngày nằm co như một loài - sâu - chiếu ở Blao” (thư Đà Lạt, 19.9.1964), “Ở đây cũng có loài sâu đất reo đêm” (thư Đà Lạt, 19.9.1964), “Đêm sáng mờ bên ngoài. Sâu đất reo rất trong ở bãi cỏ”(thư
Blao, 23.10.1964), “Đêm đã lạnh và đã
buồn. Cây cỏ lao xao. Anh chỉ còn nghe rõ tiếng sâu đất và tiếng dế reo… ” (thư Blao, 29.12.1964), “Đêm rất dày đen. Sâu đất của núi rừng cũng đã reo lên âm
thanh rất nhọn” (thư
Blao, 23.9.1965).
Hình
ảnh “loài sâu” này không xuất hiện trở lại ở những ca
khúc khác của Trịnh Công Sơn nhưng trong ca khúc “Phúc âm buồn”, một biến thể
khác của “loài sâu” đã hiện ra qua hình ảnh “loài thú nằm
co”: “Người nằm co như loài
thú khi mùa đông về”, “Người
nằm co như loài thú trong rừng sương mù”. Như thế, “loài sâu” chứ không phải
là một hình ảnh nào khác mới thể hiện trọn vẹn tính phức điệu của hồn người: vừa
khát khao dâng tặng đời những khúc nhạc lòng quý giá tinh luyện được như nguồn
nhạc của loài sâu đất, loài ve mùa hè được ấp ủ, dưỡng nuôi từ trong bào thai của
đất; vừa mang nỗi cô đơn nguyên ủy của phận người, cô đơn như là một cách thế để
giữ gìn bản ngã của mình, không vong thân, không vọng ngoại. Vì lẽ đó, dễ hiểu
vì sao không ít lần, Trịnh Công Sơn đã nhắn nhủ Dao Ánh: “Vọng ngoại quá nhiều chỉ làm hư
hao, thiệt thòi mình thêm mà thôi. Ở trên lý do đó anh đã luôn luôn cố gắng tách
rời đám đông, co mình về với mình, với Ánh. Ánh đã phải nhận ra điều đó từ lâu
rồi phải không” (thư
12.1.1967).
http://www.nhaccuatui.com/nghe?M=xQvMrqCtXa
http://www.nhaccuatui.com/nghe?M=xQvMrqCtXa
Ngô Vũ Dao Ánh (lúc 16 tuổi) và Trịnh Công Sơn
thời trẻ - Ảnh do gia đình nhạc sĩ TCS cung cấp,
Cùng
với lối sử dụng hình ảnh ví von hay nhân hóa về con người như vậy, đặc biệt,
trong nhạc Trịnh có nhiều hình ảnh đã được nâng lên thành biểu tượng, chẳng hạn,
biểu tượng “mặt trời” trong ca khúc “Xin mặt trời ngủ yên”. Dao
Ánh, nguồn sáng huyền thoại tình yêu của Trịnh Công Sơn hiểu theo cả nghĩa bóng
lẫn nghĩa đen, vì chính cái tên Dao Ánh mang hàm nghĩa chỉ “mặt trời”. Mà “mặt
trời” là nơi hoa hướng dương luôn hướng về, nên Trịnh Công Sơn đã gắn hình ảnh
Dao Ánh với vẻ đẹp lộng lẫy của hoa hướng dương: “Và xin mặt trời ngủ yên. Để Ánh là
tournesol (hoa hướng dương - chú thích của người hiệu đính sách) mãi mãi. Anh tưởng tượng một khuôn
mặt profil (nhìn nghiêng - chú thích của người hiệu đính sách) mà một đường sáng hồng của mặt trời
chạy dài từ chân tóc đến trán - mũi - cằm. Thật huyền thoại như tượng” (thư Blao, 3.9.1964), “Suốt con đường đó hoa tournesol mọc
vàng hai bên bụi. Rừng núi mùa này hoa vàng đó sáng rực. Sao không là sinh nhật
Ánh. Anh có ý nghĩ muốn đổi ngày sinh của Ánh đó. Ánh có bằng lòng không” (thư Đơn Dương, 11.11.1964).
http://www.nhaccuatui.com/nghe?M=uw4fOUcBIK
http://www.nhaccuatui.com/nghe?M=uw4fOUcBIK
Trịnh
Công Sơn đã cắt nghĩa đầy sâu sắc, thú vị về tên người tình của mình, đồng thời,
giải mã những cảm xúc sâu xa, chất chứa trong ca khúc “Xin mặt trời ngủ yên”: “Anh vừa học được
cách viết bằng chữ Nho tên của Ánh. Và cũng nhờ thế anh biết được vì sao Ánh
thích hoa mặt trời. Trong chữ Ánh có chữ Nhật là mặt trời. Và bài Xin mặt trời ngủ yên lại tình cờ có câu: ôi nhân loại, mặt trời trong tôi. Lúc viết bản này
anh đã có câu đó vì anh nghĩ là Ánh thích hoa mặt trời và mặt trời là nơi hoa
hướng dương nhìn về đó. Nên anh đã đem mặt trời nhốt vào trong anh” (thư Huế, 1.12.1966).
Thật
là chí lý, ý nhị và “đáo để” khúc nhôi. Chiến tranh đã mang đi bạn bè, không
còn ai, ngựa hồng đã mỏi vó chết trên đồi quê hương. Nhưng niềm tin ở con người,
ở tình người trong nhạc Trịnh không bao giờ mất: “Ôi nhân loại mặt trời và em thôi”, “Ôi nhân loại mặt trời
trong tôi”, “Ôi nhân loại còn
người trong tôi”. Trong tôi có nhân loại và em. Nhân loại và em là mặt trời trong tôi. Như
vậy, “nhân loại”, “em”, “mặt trời”, “tôi” giao hòa trong nhau hay đó chính là một.
Tất cả ở trong một. Trong một có tất cả, như Phật nói, trong một hạt cát có chứa
ba nghìn đại thiên thế giới, trong hạt cải có chứa núi Tu Di (tư duy “trong một
có tất cả” này còn được thể hiện trong nhiều ca khúc khác của Trịnh Công Sơn
như “Xa dấu mặt trời”: “Hôm nay thức dậy
không còn thấy mặt trời, không còn thấy một người, hơi thở ru đời như gió ru mây”, hay “Nhớ mùa thu Hà Nội”: “Hà Nội mùa thu mùa
thu Hà Nội, nhớ đến mộtngười
để nhớ mọi người”).
Từ
biểu tượng “mặt trời” chỉ sự soi chiếu, vỗ về ấm áp của tình người trong “Xin mặt trời ngủ yên”, sang đến các ca khúc khác về sau của Trịnh Công
Sơn, biểu tượng này chứa đựng nhiều ý nghĩa mới: khát vọng hòa bình mãnh liệt của
dân tộc, chân lý hòa bình tự do bất diệt của người Việt Nam: “Ta nung sôi ý chí mặt trời” (Cho quê hương mỉm cười), “Ta phải thấy mặt trời,
sáng trên quê hương này đầy loài người” (Ta phải thấy mặt trời). Như vậy,
biểu tượng “mặt trời” trong nhạc Trịnh Công Sơn được “mách bảo” bởi một người
tình có tên là Dao-Ánh-Hướng-Dương nhưng đã mang được những giá trị phổ quát
toàn nhân loại: tình yêu, tình người, niềm tin vào con người, lòng hướng thượng,
sự thức ngộ chân lý, sự đấu tranh vì hòa bình, tự do…
Có
khá nhiều hình ảnh, nhiều câu từ trong nhạc Trịnh đã được cảm và hiểu sâu sắc
hơn, thấm thía hơn như vậy nhờ được giải mã qua “Thư tình gửi một người”. Vẻ đẹp của người tình trong nhạc Trịnh thường là
vẻ buồn đẹp, tuổi buồn, mắt buồn, tóc buồn, tay buồn. Trong một lá thư gửi Trịnh
Công Sơn, Dao Ánh dù còn trẻ nhưng đã sớm nhận ra lẽ vô thường trong màu mắt buồn
của mình: “Ôi màu mắt rồi cũng
có ngày đổi màu như thế” (thư
Blao, 27/10/1964). Và thư Trịnh Công Sơn khi cảm tác về thành phố Đà Lạt đã thốt
lên: “Đêm Đà Lạt cũng buồn như mắt Ánh ngàn năm” (thư Đà Lạt, 21/3/1965).
Trong
ca khúc “Còn tuổi nào cho em”,
Trịnh Công Sơn đã vận hết bao vẻ đẹp của trời, của mây để đặc tả vẻ đẹp mắt buồn
Dao Ánh: “Trời xanh trong mắt
em sâu, mây xuống vây quanh giọt sầu”, “Tuổi
nào mơ kết mây trong sương mù”. Câu hát với hình ảnh lãng đãng “tuổi nào mơ kết mây trong sương
mù” đã được Trịnh Công Sơn cắt
nghĩa qua thư gửi Dao Ánh: “Ánh
có buồn lắm không. Hãy ngước mắt lên cho anh nhìn. Mây sẽ kết trên vùng mắt đó.
Anh đã nói như thế trong lời ca Còn
tuổi nào cho em cho Ánh, có bằng
lòng thế không?” (thư Blao,
31.12.1964).
http://www.nhaccuatui.com/nghe?M=C0FK8I85GN
http://www.nhaccuatui.com/nghe?M=C0FK8I85GN
Ý
nghĩa ca từ của Trịnh Công Sơn càng được soi tỏ hơn khi qua những bức thư tình
gửi Dao Ánh, Trịnh Công Sơn đã nói rõ về lý do ra đời của một ca khúc hoặc tự bạch
về nỗi niềm sâu kín của mình ký thác vào ca khúc đó. Trịnh Công Sơn cho biết,
ca khúc “Mưa hồng” ra đời bắt nguồn từ niềm giận dỗi của
Dao Ánh: “Anh hát lại bản Mưa hồng mà anh đã viết cho những
ngày Ánh giận anh ở Huế. Bản nhạc hát lại bỗng thấy buồn hơn” (thư Sài Gòn, 6.12.1964). Hiểu rõ lý
do ra đời như vậy của “Mưa hồng”,
người hát và người nghe nhạc Trịnh có sự bừng ngộ thú vị trước thông điệp nhân
văn sâu sắc gửi gắm qua lời ca bất tuyệt: “Cuộc
đời đó có bao lâu mà hững hờ”.
http://www.youtube.com/watch?v=PUfYIs92Y-M
http://www.youtube.com/watch?v=PUfYIs92Y-M
Ca
khúc “Ru em từng ngón xuân nồng” viết cho Dao Ánh diễn tả một trạng
thái tâm lý thật lạ: người hát ru cuộc tình, người ru dỗ, vỗ về người tình, “Đức
Giáo hoàng” tình ái lại là người ăn năn, trái ngược với điều ta vẫn thường gặp
trong nhà thờ: người được đức cha vỗ về mới là người ăn năn: “Thôi ngủ đi em, mưa ru em ngủ, tay
em kết nụ, nuôi trọn một đời, nuôi một đời người, mùa xuân vừa đến, xin mãi ăn
năn mà thôi”. Vì sao người giàu niềm đa cảm, giàu lượng từ bi (Yêu em
lòng chợt từ bi bất ngờ - Ru em) lại phải “ăn năn”? Từ “ăn năn” ở đây có tính chất như một “mật ngữ” của
tình ái đã được Trịnh Công Sơn giải thích một cách đầy thi vị và lý thú: “Anh đã hiểu được Ánh và bây giờ
càng cảm thấy không thể để mất Ánh. Cho anh tạ tội một lần và từ đây Ánh sẽ được
xem như một loài chim hồng thần thoại bay trên vùng - ăn - năn - của - anh. Tất
cả đã đi qua như trong cơn mê sảng” (thư
5.2.1965). Như thế, “ăn năn” ở đây là để tạ ơn đời, tạ ơn người
tình đã nuôi trọn hồn ta mà ta lại mắc lỗi, lại chưa vẹn niềm đền đáp. Như thế, “xin mãi ăn năn mà thôi” tức là càng “ăn năn” để càng được yêu người, yêu đời gấp bội
lần, yêu thêm cái phần thiếu hụt phải “tạ
tội” với người tình.
http://www.nhaccuatui.com/nghe?M=vJ2dODdyN4
http://www.nhaccuatui.com/nghe?M=vJ2dODdyN4
Con
người tự biểu hiện của Trịnh Công Sơn: “Đôi
khi ta lắng nghe ta”
Không
chỉ giúp người đọc giải mã ca từ Trịnh Công Sơn, “Thư tình gửi một người” còn giúp
hiểu rõ, hiểu sâu hơn về con người Trịnh Công Sơn, thông qua phương thức tự biểu
hiện, tự soi chiếu chính mình của nhạc sĩ qua từng lá thư gan ruột. Soi chiếu
mình là nguyên tắc cốt lõi của người tu Phật, như Tuệ Trung Thượng Sĩ bảo: “Phản quan tự kỷ bổn phận sự, bất tùng tha đắc” (soi sáng lại chính mình là phận sự gốc,
chẳng từ nơi khác mà được). Sự thấu hiểu sâu sắc hơn về con người “bổn phận sự”
của Trịnh Công Sơn sẽ càng giúp phát hiện, khám phá thế giới nghệ thuật Trịnh
Công Sơn chính xác hơn và thấu đáo hơn.
Người
nhạc sĩ say sưa xưng tụng “quê
hương thần thoại” là người
yêu quê hương tha thiết, luôn đau đáu với vận nước, với phận người dân Việt: “Anh nói về đất đai trên quê hương
mình. Một ngày nào đó anh sẽ da du qua những miền chưa hề ghé đến. Có những buổi
sao mình thấy yêu thương quê hương đến thế này. Da thịt mình như được dựng nên
bằng đất đỏ và tâm hồn như được xây bằng cỏ cây hoa lá, bằng tiếng đàn buồn bã
của dân mình. Bao giờ nhắc lại chuyện quê hương anh cũng buồn” (thư Blao 23.10.1964). Cho dẫu buồn
đau vì quê hương đang bị chiến tranh tàn phá khốc liệt, nhạc sĩ vẫn vững tin ở
ngày mai tươi sáng của dân tộc: “Qua
lần chiến tranh này quê hương mình cũng sẽ trở lại với thuở hồng hoang. Anh
nhìn về anh và thấy mình cũng sắp tàn rữa đi để chờ một ngày mới đến” (thư 28.1.1966). Thuở “hồng hoang” mà Trịnh Công Sơn nói đến trong thư
chính là thuở ban đầu nguyên vẹn, thuở nguyên đán tuyệt vời, chính là cõi thần
tiên, cõi thần thoại bất diệt của quê hương Việt Nam được vẽ nên đầy ấn tượng
trong ca khúc “Xin mặt trời ngủ
yên”: “Sau chinh chiến ôi
quê hương thần thoại, thuở hồng hoang đã thấy đã xanh ngời liêu trai”.
http://music.vietfun.com/view.php?ID=5969&cat=1
http://music.vietfun.com/view.php?ID=5969&cat=1
Xuất
phát từ lòng yêu quê hương tha thiết, từ niềm tin ở “quê hương thần thoại” bất diệt, Trịnh Công Sơn đã lựa chọn
cho mình thái độ sống, hành động sống xứng đáng là đứa con Da Vàng của Mẹ Việt
Nam. Đất nước sẽ không có tự do, sẽ không thoát khỏi thảm cảnh “một ngục tù nuôi da vàng” (Ngày dài trên quê hương), nếu
mỗi người dân Da Vàng không nêu cao ý thức tự do. Trịnh Công Sơn đã chọn tự do: “Anh còn mừng một điều, trong những
cơn buồn dai - dẳng - thường - trực, là còn có được tự do, còn biết được chọn lựa
với ý nghĩa tròn đầy của nó. Ôi khi con người không còn sự chọn lựa thì tự do
đã bị tước đoạt hoàn toàn… Con người sẽ được một lần làm con - người - là - người
cho đỡ tủi hổ số phần mình đã bị vứt ra đó” (thư Đà Lạt 19.9.1964).
http://www.nhaccuatui.com/nghe?M=Xsscmbam3I
http://www.nhaccuatui.com/nghe?M=Xsscmbam3I
Lựa
chọn tự do, con người được sống với bản ngã, với lập trường của mình: “Nếu mình sống thực với bản chất mình thì đó đã là một khí giới
công hiệu nhất để đánh bẹp mọi lời gièm pha. Mình phải dám mang cả sự sống của
mình đánh cá với đám đông không có lập trường đó. Mình dựa trên thực chất của bản
ngã mình để đánh đổ đám người không có một bản ngã duy nhất để dựa vào. Thế nào
rồi mình cũng thắng. Con người phải có một cái gì rất thực để hãnh diện vì mình
đã thực hiện đúng sứ mệnh của đời sống, của condition humaine (thân phận làm người - chú thích của người hiệu đính sách)” (thư
Đà Lạt 20.9.1965).
Từ
sự lựa chọn tự do đó, lô gích tất yếu dẫn Trịnh Công Sơn đi đến quyết định phản
chiến: “Bao giờ có tin chắc
chắn về chuyện đi lính của anh, anh sẽ cho Ánh hay. Sẽ có dịp để đặt mình vào
những giới hạn khác. Sẽ bắt đầu một cuộc đời học trò gian nan hơn. Sẽ bỏ vào
lòng súng từng viên đạn phi lý để nhắm vào đầu vào mắt vào tim nhau. Anh đã hèn
nhát hay vì chiến tranh này quá thô bạo. Nhưng thôi anh sẽ câm bớt lại. Trong
xã hội này lý lẽ của kẻ yếu bao giờ cũng dễ biến thành những lời ngụy biện” (thư Blao 26.2.1965), “Tên anh đã có trong khóa 20… Một cuộc chiến tranh khốc liệt,
tàn nhẫn mang sẵn từ khởi đầu những mầm mống vô lý cùng cực của nó, anh đang
lao đao trên một chọn - lựa - quyết - định cuối cùng” (thư Đà Lạt 21.3.1965).
Sự
lựa chọn tự do và quyết định phản chiến đã tạo nên một thứ khí giới tinh thần để
chống lại sự đồng hóa: “Anh thấy mình ở
ngoài khổ người mà đời sống này đang cần. Sẽ còn rất nhiều bạn bè anh bị rơi
vào guồng máy. Sẽ còn rất nhiều người thân yêu anh trôi dạt về đời sống này như
những bọt bèo mù lòa. Mình không làm một nhà đạo đức nhưng mình phải biết chống
đối. Mỗi người phải tạo riêng cho mình một thứ khí giới để chống đối, mình hãy
tự dựng lên những cái đập vững chắc để ngăn mình khỏi trôi dạt về làm một loại
bè - lũ - rác - rến trong những hàng ngũ thối tha sẵn có. Đó cũng là niềm kiêu
hãnh thật sự. Đừng bao giờ để mình đồng hóa với bất cứ ai” (thư Sài Gòn 17.9.1966).
Chống
lại sự đồng hóa, Trịnh Công Sơn đã tả thực đầy bi phẫn về thảm trạng vong bản,
mất gốc xảy ra nhức nhối ngay trên chính quê hương của mình: “Đã qua thêm một chiều thứ bảy, một
ngày chủ nhật. Những khuôn mặt con gái rất đẹp, rất sang, rất nhã, rất cao đi
bên cạnh những người ngoại kiều trên đất nước này. Ôi làm sao giải thích cho hết
những ô nhục, những khúc mắc, những rối rắm trên mặt đất này nữa” (thư Sài Gòn 28.2.1965), “Thành phố này đang đầy rẫy những
chợ đen, ăn cắp, làm giàu phi pháp và con gái hư. Sẽ tan hoang cả khi người ngoại
quốc đã rút đi. Người ta sẽ mất đi hàng tỷ năm cũng chưa xây dựng lại nổi cái ý
thức trong con người” (thư Đà
Nẵng 12.11.1966). Cái ý thức đó, cái ý thức mà nhạc Trịnh tận lực vun bồi, xây
đắp đó chính là ý thức về nguồn, bám víu, neo giữ hồn mình với cội nguồn “nòi giống của Tiên” để có sức mạnh chống lại sự đồng hóa,
vong bản, vong thân.
Ngoài
sự tự biểu hiện thái độ sống, hành động sống, những bức thư tình của Trịnh Công
Sơn còn phác họa hành trình âm nhạc của nhạc sĩ qua các giai đoạn, với những
thiên hướng sáng tác độc đáo khác nhau. Từ những khúc kinh cầu cho tình yêu: “Ánh ơi, anh sẽ viết một loại ca khúc làm kinh cầu nguyện cho
những kẻ yêu nhau. Hãy yêu và tìm sự trường cửu ở trong đó” (thư Huế 28.11.1966), đến dòng nhạc
phản chiến: “Anh đang khởi sự thời
kỳ dọn mình để bắt đầu viết những ca khúc mới. Bây giờ là lúc những tiếng động
đã lắng xuống, những ồn ào bông đùa đã qua. Anh đang lắng nghe mỗi ngày, đang
chờ đợi những tiếng nói lạ lùng hơn khởi hứng cho mình” (thư Huế 8.3.1967) và nhạc thiền: “Có viết thêm vài bài hát mới. Melodie có khuynh hướng về
folk và lyrics (meslodie:
giai điệu; folk: nhạc dân gian; lyrics: lời bài hát - chú thích của người viết) thì có vẻ hơi thiền.
Có lẽ đến một lúc nào đó tâm hồn nó phải thiền một chút mới sống được” (thư Sài Gòn 8.6.1996).
Trong
nghệ thuật, thường vẫn có những trường hợp con người tiểu sử của tác giả không
trùng khít với con người nghệ thuật trong tác phẩm. “Văn học là nhân học”, đó
là một công thức “cổ điển” ai cũng biết, nhưng cũng có khi văn chưa hẳn đã là
người (như trường hợp Vũ Trọng Phụng viết rất giỏi, rất sành sõi về nạn cờ bạc,
ăn chơi… nhưng ngược lại, nhà văn là người sống rất hiền lành, mực thước). Với
trường hợp Trịnh Công Sơn thì lại khác, qua sự soi chiếu của “Thư tình gửi một người”, càng cho thấy rõ, con người Trịnh Công Sơn trong
đời (con người tiểu sử), trong đó có “con người tình sử” mộng mơ cùng Dao Ánh
và con người Trịnh Công Sơn trong nhạc (tức là “hình tượng tác giả”, nói theo
thuật ngữ của thi pháp học) có một sự trùng khít gần như là hoàn toàn. Nghĩa là
nhạc sĩ sống thế nào viết thế ấy, giữa đời và nhạc Trịnh Công Sơn có mối quan hệ
nhất quán: Đời thiết tha và Nhạc từ tâm, Đời đau thương và Nhạc thuốc thang, Đời
dấn thân và Nhạc phản chiến.
“Thư
tình gửi một người” như vậy đã vượt qua giới hạn của những bức thư tình riêng tư,
nói như nhà thơ Nguyễn Duy, “mối
tình cụ thể không còn nhưng một mối tình biểu tượng vẫn còn mãi” (2), giúp giải mã ca từ, soi chiếu con
người và thế giới nghệ thuật Trịnh Công Sơn. Nó sống cùng những biểu tượng
trong nhạc Trịnh, những biểu tượng về Trịnh và nó giúp soi chiếu những biểu tượng
đó càng thêm lấp lánh, đúng như một quy luật của cái đẹp, của mỹ học mà nhà thơ
Thôi Hộ thời Đường đã phát hiện: “Nhân
diện đào hoa tương ánh hồng” (Hoa
đào và mặt người cùng ánh lên sắc hồng).
(1) Trịnh Công Sơn người hát rong qua nhiều thế hệ, NXB Trẻ, TP. HCM, 2001, tr. 288.
(2) http://tuoitre.vn/Van-hoa-Giai-tri/431157/Trinh-Cong-Son-va-nhat-ky-tinh-yeu.html, thứ tư,
30/03/2011, 06:12 (GMT+7).
Nguyễn
Hoàn
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét