Mười khuôn mặt văn nghệ hôm nay 2
Mục lục
1. Trịnh Công Sơn
2. Túy Hồng
3. Nguyễn Thị Thuỵ Vũ
4. Dương Nghiễm Mậu
5. Nguyễn Đình Toàn
6. Nhật Tiến
7. Thế Uyên
8. Thế Phong
9. Bùi Giáng
10. Võ Hồng
2. Túy Hồng
3. Nguyễn Thị Thuỵ Vũ
4. Dương Nghiễm Mậu
5. Nguyễn Đình Toàn
6. Nhật Tiến
7. Thế Uyên
8. Thế Phong
9. Bùi Giáng
10. Võ Hồng
(Xếp theo thứ tự năm sinh từ nhỏ đến lớn: Trịnh Công Sơn, Tuý Hồng, Nguyễn Thị Thuỵ Vũ, Dương Nghiễm Mậu, Nguyễn Đình Toàn, Nhật Tiến, Thế Uyên, Thế Phong, Bùi Giáng, Võ Hồng).
Dans tous les domaines, le triomphe de la vie est la création.
Trong mọi địa hạt, sự đắc thắng của đời sống là sáng tạo.
Henry Bergson (1859-1941)
Tên: Bùi Nhật Tiến. Bút hiệu: Nhật Tiến. Sinh ngày: 24-08-1936 tại Hà Nội. Viết
văn từ năm 1957.
Tác phẩm:
1. Những người áo trắng, Huyền Trân xuất bản, 1959
2. Những vì sao lạc, Phượng Giang xuất bản, 1960
3. Thềm hoang (Giải Văn chương Toàn quốc), Đời Nay xuất bản, 1961
4. Mây hoàng hôn, Phượng Giang xuất bản, 1962
5. Người kéo màn, Huyền Trân xuất bản, 1962
6. Ánh sáng công viên, Phượng Giang xuất bản, 1963
7. Chuyện bé Phượng, Đông Phương xuất bản, 1964
8. Vách đá cheo leo, Đông Phương xuất bản, 1965
9. Chim hót trong lồng, Đông Phương xuất bản, 1966
10. Giấc ngủ chập chờn, Đông Phương xuất bản, 1967
11. Giọt lệ đen, Huyền Trân xuất bản, 1968
12. Quê nhà yêu dấu, Huyền Trân xuất bản, 1970
13. Lá chúc thư, Huyền Trân xuất bản, 1970
14. Tay ngọc, Huyền Trân xuất bản, 1971
Đã cộng tác với: Văn Hoá Ngày Nay, Tân Phong, Bách Khoa, Văn Học, Đông Phương…
Chủ biên Cơ sở Xuất bản Huyền Trân
Nhật Tiến và khung trời mơ ước
Nhật Tiến đi vào văn chương bằng tình thương, một tình thương nảy sinh trong tấm lòng đôn hậu. Tuổi trẻ mà Nhật Tiến đem vào văn chương, xuyên qua thân phận mình, không phải tuổi trẻ của giận dữ và phẫn nộ. Biết rằng, dù muốn dù không, cũng phải chấp nhận cuộc đời đã có đấy. Nó là vui, buồn, yêu, ghét. Nó là cánh mây bay lang thang trên vòm trời cao cả kia, hay đống rác thối tha nhung nhúc ruồi bọ này. Vì ý thức được như vậy nên Nhật Tiến không đi tìm cuộc đời qua kẻ khác, mà tìm ngay ở bản thân, trong đáy thẳm tâm linh, ở đấy, tiếng nói chân thành thì thầm cất lên từng âm thanh nấn nuối nó với vô vàn thương mến và chua xót!
Phương pháp hành văn của Nhật Tiến thật dung dị, thoải mái ngay cả những khi cần phải đưa câu chuyện vào mức độ cao nhất của kỹ thuật dựng truyện. Nhật Tiến, nhà văn tình cảm thiên về xã hội. Tất cả những dữ kiện do cuộc sống đẩy tới, tác động vào tâm thức nhà văn đều được Nhật Tiến điều hợp cho cân xứng ở mỗi lời nói, hay mỗi động tác để trở nên có hiệu năng truyền cảm.
Với 10 năm trong nghề, và 14 tác phẩm (tính đến tháng 5-1971), đã chứng minh đầy đủ ý chí và tài năng của một nhà văn đã quyết dấn thân vào nghiệp. Trong số 14 tác phẩm, đã có 3 cuốn: Thềm hoang, Người kéo màn và Tay ngọc tái bản tới 3 lần.
Nhật Tiến rất thận trọng trong vấn đề sáng tác vì luôn luôn tin rằng, danh tiếng của nhà văn không thể và không bao giờ được cấu tạo bằng sự giả trá. Nó cần được chọn lựa và đánh giá đúng mức qua thời gian, qua nhiều chặng thử thách bắt buộc mỗi người cầm bút phải vượt qua.
Nhật Tiến quả tình đã vượt qua nhiều thử thách, mỗi một thử thách dù thành công hay thất bại, đều giúp cho nhà văn những kinh nghiệm. Người ta cho rằng, con đường văn nghiệp của Nhật Tiến là cuộc sống bằng phẳng đồng thời cũng là sự tiếp nối của nền văn học tiền chiến. Có người nghĩ, Nhật Tiến đã dùng văn chương như một hình thức điểm trang cuộc đời, ở đấy, nó không nói lên cái khí phách, cái can đảm mà tuổi trẻ cần có. Cả hai thành kiến trên đều có phần ngộ nhận. Như hầu hết các nhà văn ở lứa tuổi trên dưới 30, Nhật Tiến cũng lớn lên trong chiến tranh, cũng đã được chứng kiến những cơn biến động lịch sử, ở đó, mỗi bài học đều được tuổi trẻ mua bằng máu lệ, mua bằng uất hận, đau thương! Chỉ có khác, cái nhìn, cái biết và cái sống không nằm chung ước lệ ở mỗi tâm tư, nên sự nói ra hay tỏ bày đều được hình thành theo cảm quan riêng biệt.
Tác phẩm đầu tay: Những người áo trắng (1959), với nội dung viết về đời sống của những cô gái mồ côi ở trong khuôn viên cô nhi viện. Tất cả nỗi u uẩn, thầm kín thuộc những linh hồn bơ vơ mà Chúa cũng không đủ quyền năng để ngăn cản hay cứu rỗi cho mỗi số phận! Những dòng nước mắt tủi hờn thấm vào lòng người, tạo nên nhức nhối:
… Bởi vì mỗi đứa chúng tôi có một cuộc sống riêng biệt. Cuộc sống chỉ sống trong những đêm trằn trọc, thao thức, xót xa đầy nước mắt.
Chúng tôi không phủ nhận công lao của các bà phước, của các nhà hảo tâm, của các cơ quan từ thiện. Nhưng tình nhân loại của các người đó mới chỉ an ủi được chúng tôi một phần nào sự đau khổ về vật chất, thiếu cơm, thiếu áo, trong quãng đời côi cút của chúng tôi.
Còn linh hồn chúng tôi, những linh hồn lạc lõng thiếu tình thương của cha mẹ, tình yêu của những con người đến tuổi dậy thì và thiếu cả cái ước vọng vô bờ của tuổi hoa niên, hỏi bàn tay nào xoa dịu được?
Cho nên tâm hồn chúng tôi là những tâm hồn khao khát sự thương yêu, hằn học với thực tại, để chỉ quay về vò xé lòng mình trong những đêm dài mất ngủ…
Đoạn văn trên, trích trong trang đầu cuốn sách, nó là lời nói chân thành của một cô nhi mang tên Quỳnh, nhân vật xưng "tôi" trong tác phẩm, viết thay lời vào truyện.
Người đọc chỉ cần suy luận qua những dòng chữ ai oán ấy, có thể hình dung thấy biết bao nhiêu tủi hờn đang vò xé những tâm hồn lạc loài, vì hoàn cảnh chung, phải chịu đựng lẫn nhau trong nhiều trạng huống khốn khó. Họ là những bé gái mồ côi được nhặt về từ mọi nơi, hoặc do chiến tranh, hoặc vì xã hội. Họ đến đây, ở đây, từ lúc còn măng sữa, rồi lớn lên trong vòng đai của Chúa, do các bà phước đại diện. Ngoài phần giáo lý họ cũng được giáo dục về học vấn như ở ngoài đời nhưng họ vẫn không thuộc hẳn về xã hội, với đầy đủ quyền hành của con người thế gian, để có thể vui buồn theo ý muốn. Ở đây, họ đã hiến dâng linh hồn cho Chúa vì miếng cơm, manh áo, vì hơi thở mà bố mẹ họ bởi không may nào đó, đã không cho họ có được. Do vậy, khi đã đến tuổi trưởng thành với những thắc mắc về thân phận, nhất là tình yêu phát hiện trong lòng tuổi dậy thì với nhớ thương hình bóng người yêu để sưởi ấm tình đời. Bởi thế, có người trốn đi vì không chịu nổi cô đơn, có cả các xác chết nữa, với từng cơn buồn dằng dặc! …
Nhưng rồi thời gian mòn mỏi trôi đi. những cô gái đã qua tuổi mơ mộng. Tình cảm đã khô cong và cuộc đời được hình dung như một chịu đựng ngày này qua ngày khác, gần như vô nghĩa. Lúc đó, chỉ còn tình thương và bổn phận. Rồi cứ thế, lần lượt và lần lượt:
… Trời về cuối đông, mây u ám phủ nặng trĩu cả bầu trời. Gió bên ngoài thổi nghiêng ngả, những cành cây trụi lá. Qua khung cửa kính chỗ tôi ngồi, ngoài kia là khung cảnh tiêu điều của một buổi chiều sắp tắt. Trời sâm sẩm tối, con đường nhựa xanh láng mướt dẫn đến vườn hoa hôm nay ngập nhiều lá vàng. Tôi chắc vườn hoa ngoài ấy bây giờ cũng xơ xác lá và vắng lặng bóng người. Tôi hình dung đến ngày xưa ở đấy.
Hình ảnh bé Phượng ngày nào khóc gọi chị Loan và mẹ bên phòng bà Nhân, hình ảnh con Dung bị người ta xin mất con Nguyệt, rồi câu chuyện của Liễu bỏ ra đi tìm một tình yêu lãng mạn, cái chết của Hoà, cái chết của con người phu hồ, những mồ cỏ xanh um ngoài nghĩa địa, mối tình tuyệt vọng của tôi.
Những ngày ấy quá xa rồi, vì bây giờ tôi không còn là một thiếu nữ khao khát yêu đương. Tôi già hơn trước nhiều và lý tưởng tôi là bổn phận…
Quỳnh
Cuốn sách Những người áo trắng được khép bằng hai trang thư, với một nỗi niềm vừa bâng khuâng như kẻ lữ hành đi vào vùng trời tuyệt vọng! Tâm hồn Nhật Tiến chứa nghẹn tình thương, thứ tình thương cao trọng, ở đó, lòng thù hận và nỗi bi thiết hình như được che khuất bởi những ước mơ tràn ngập ánh sáng của sự cứu rỗi thiêng liêng nào đó.
Khởi hành từ đấy, Nhật Tiến đi sâu vào thung lũng của tâm tư để tìm về cho riêng mình một tình thương khác qua tác phẩm Những vì sao lạc. Hình ảnh những đứa trẻ không may chẳng phải chỉ được nói đến, hay chỉ xảy ra trong vòng đai cô nhi viện mà nó còn hiện diện ngay ở giữa xã hội, dưới mái gia đình, trong những hoàn cảnh vô cùng ray rứt. Kỹ thuật dựng truyện của cuốn Những vì sao lạc (1960) đi chung một đường với Những người áo trắng, thay vì trang thư, cuốn sách được mở đầu bằng những trang bút ký của Khánh. Cái phương cách mở đầu này làm hại không ít cho tác phẩm. Đọc nó, người ta coi như đã đọc xong nội dung cuốn sách. Sự bất ngờ sảng khoái do người đọc khám phá ra trong tác phẩm không còn nữa. Sự tiếp nối của những trang sau chỉ là để giải thích hoặc biện minh cho một dữ kiện nào đó, được sắp đặt trước trong tâm thức nhà văn. Văn chương không phải như vậy. Nó không cần biện minh gì ngoài nó.
Nhưng chẳng phải vì thế, cuốn Những vì sao lạc không có giá trị về phương diện truyền cảm. Nhật Tiến đã dùng tài năng riêng để đưa người đọc vào một vùng trời mà sự trong trắng của tuổi thơ chỉ còn là giận hờn, oán trách! Những tội lỗi do tuổi trẻ gây ra đều từ bên ngoài tác động. Hoàn cảnh gia đình và chính người lớn đã dồn chúng vào ngõ cụt. Biết bao nhiêu dòng chữ, nhân danh tình thương để nói lên sự thực, may mắn thay, mọi đau đớn, tan vỡ đến cuối cùng được nhà văn hàn gắn lại mở lối thoát cho những kiếp người…
… Cuộc sống của tôi êm đềm như thế cho đến năm tôi mười hai tuổi. Tôi không muốn nhắc ra đây hình ảnh đổ vỡ của một thời gian hãi hùng khi loạn lạc. Chẳng phải một mình tôi chịu số phận như thế này, mà trong những ngày đen tối đã còn biết bao nhiêu đứa trẻ có cùng một hoàn cảnh như tôi, hoàn cảnh của những đứa con mất mẹ trong khói lửa ngùn ngụt ở khắp phương trời…
(Những vì sao lạc)
Đoạn văn đã nói rõ tất cả, nó là nguyên cớ chính để nhà văn xếp đặt những sự tình xung quanh một vấn đề đã quyết định.
Nội dung hai tác phẩm trên, Nhật Tiến vô tình đi gần với Dickens, văn hào Anh ở thế kỷ XIX. Dickens cũng vì những đứa trẻ không may mắn mà tranh đấu. Ông là nhà văn hiện thực xã hội, chuyên dùng ngòi bút để chống đối những kẻ đạo đức giả và ích kỷ, đốn hèn. Hình ảnh David Copperfield dưới nét mực tuyệt luân của Dickens, không thiếu gì trong xã hội Việt Nam hiện tại, nhân vật Khánh hay Quỳnh đã chứng minh, tuy rằng, sự so sánh chỉ như một thí dụ. Vấn đề làm khổ tâm Nhật Tiến nhất, vẫn là sự hiện hữu của một cuộc sống chẳng mấy tốt đẹp cho mỗi số phận, trong một xã hội còn nhiều cách biệt. Cuộc sống đó, không được thăng hoa liên tục trong sự mong mỏi của mỗi kiếp người. Nó cũng không được hình dung qua những khuôn mặt ra vào nơi trà đình tửu quán của một hạng người may mắn do số mệnh an bài. Cái cuộc sống mà Nhật Tiến cảm thấy gần gũi với mình, nó như hơi thở, như nỗi buồn, do đấy mình có trách nhiệm. Chính vì trách nhiệm và lương tâm nhà văn, nên Nhật Tiến đã tự dấn thân vào một cảnh huống vô cùng bi đát của những kiếp người vì không nhìn rõ ý nghĩa đời sống, nên vẫn sinh hoạt một cách vô tư và an phận, bên cạnh một đời sống khác tốt đẹp hơn hoàn cảnh của họ nhiều.
Đứng trên bình diện kỹ thuật, việc hình thành một tác phẩm, đòi hỏi nhà văn ngoài lòng trắc ẩn, phải có sự nhận định vô tư, sáng suốt về mọi khía cạnh của vấn đề được đặt ra. Cuộc sống với những cảnh ngộ chẳng mấy khích lệ, thường được soi qua tấm lăng kính bi thảm, đôi khi bị chi phối bởi những ước vọng thầm kín sâu xa nào khác, nên có thể vì đó, tác phẩm mất phần hiệu năng đích thực của nó. Nhưng đó không phải trường hợp Nhật Tiến với Thềm hoang.
Trong tác phẩm Thềm hoang (1961), nhà văn đã chiếu rọi vào những kiếp người có mặt giữa vòng đai xóm Cỏ, một xóm lao động nằm ngay trong lòng thành phố, để tìm về cho mình một ý hướng sáng tạo. Mọi sinh hoạt ở đây tuân theo quy luật riêng, nghĩa là mỗi con người đều có quyền hành và trách nhiệm độc lập. Sự liên hệ giữa người thân thuộc như bố mẹ, vợ chồng, con cái nhiều lúc cũng xem như thấy-có-đó, chứ không được nối kết bởi mối dây thân ái, tình ruột thịt cùng chung cảnh ngộ không may:
Ai đưa tôi đến chốn này
Ban đêm thì tối ban ngày thì đen
Ôm đàn gẩy khúc huyên thuyên
Nghêu ngao mấy điệu cho quên tháng ngày…
Bốn câu trên, Nhật Tiến đưa vào trang đầu của cuốn Thềm hoang nhằm mục đích mở cho người đọc hé nhìn thấy, bối cảnh ngột ngạt của một cảnh tượng đang quay cuồng, chen chúc và xô đẩy nhau đi vào bi trường kịch xã hội. Những khuôn mặt: bác Tốn, tay nghệ sĩ mù kiếm ăn bằng nghề hát dạo. Thằng Ích, mồ côi cha, khôn trước tuổi. Dượng Tám, tên lưu manh sống bám vào vợ con. U Tám, người con gái không may góa bụa nửa chừng xuân, mê lời tán dóc và thân thể cường tráng của gã đàn ông để rồi đau khổ, sau cùng kết liễu đời mình bằng sợi dây oan nghiệt! Ông Phó Ngữ goá vợ, có đứa con gái duy nhất, muốn nó có tấm chồng tử tế mà không xong. Khuôn mặt vợ lão Hói, tên bói bài tây, rượu chè be bét, lúc nào cũng tin có ông Trời, cùng nỗi thê thảm của Năm Trà với khuôn mặt Huệ, cô gái điếm đã hết thời xuân sắc mà vẫn gây sóng gió trong lòng bác Tốn, qua trí tưởng tượng. Ngần ấy thân phận xô đẩy nhau, lôi cuốn nhau, hoà trộn vào nhau để cấu tạo nên một cảnh huống vừa thương phẫn vừa bi thảm.
Trong Thềm hoang, Nhật Tiến đã viết, đã suy nghĩ rất nhiều về hoàn cảnh tâm lý của mỗi nhân vật. Nhật Tiến có một nhận xét rất tinh tế và tinh vi về từng trạng thái đã xô đẩy mỗi thân phận vào vị trí đau đớn của họ. Phương pháp hành văn gọn và mạnh nên gây xúc động thật tình qua sự khóc cười rất hồn nhiên mà cũng vô cùng bi thiết của mỗi vai trò, mỗi trường hợp, trong gần 300 trang sách. Hình ảnh bác Tốn, thằng Ích như được an bài do định mệnh. Hai vóc dáng ấy hiện diện từ trang đầu đến trang cuối, chỉ để nói tới sự liên hệ về quyền lợi của lớp người đã mất tương lai! Hai thân phận như hai chứng tích, in hằn vào tâm tưởng người đọc từng nỗi giày vò chua chát. Sinh ra ở đời, mỗi số phận đều cố tìm cách vượt mình, vượt thoát hiện tại, nhưng ông trời kia, ông trời, cách đây gần một thế kỷ, Nietzsche – triết gia Đức – đã gào to: Thượng Đế chết rồi! … nhưng sự thực, đối với con người phương Đông, mỗi thân phận ít nhiều gì, vẫn còn tin tưởng có ông Trời, ông Phật hay Chúa để bám víu vào, cầu xin và an ủi mỗi lần gặp không may. Bởi vậy, khi Nhật Tiến dựng Thềm hoang với các nhân vật nói trên và những sự tình xảy ra đều ẩn giấu bên trong sự an bài của một vị Trời nào đấy!
Hai bóng người hay hai bóng ma, cứ dật dờ mỗi đêm lang thang trên những lối mòn quen thuộc để bàn cãi vớ vẩn về một hoàn cảnh không thuộc về mình:
… Những lần hai bác cháu dẫn nhau đi qua ánh đèn đỏ gay gắt của các tiệm nhảy trên phố, có tiếng kèn xoáy vào không khí tĩnh mịch ban đêm, tiếng cốc tách va vào nhau lách cách, bác Tốn thường lắc vai nó:
"Nhảy đầm khoái chứ nhỉ?"
Ích đáp có vẻ thành thạo:
"Khoái đứt đuôi đi ấy chứ lị!"
"Dơ bỏ bố đi".
"Dơ mà lại khoái!"
"Khoái nhưng dơ!…"
(Thềm hoang, trang 14)
Lời đối thoại thật nhấm nhẳn, nhưng hồn nhiên trong việc tỏ bày những gì mình cảm thấy chứ không do suy nghĩ.
Từ nhảy đầm hai bác cháu đi sang vấn đề ăn uống. Thằng Ích chỉ thích bánh ga-tô, còn bác Tốn khoái phở, nhưng tuy khoái mà không dám ăn, vì giá một tô phở gần bằng cả buổi đi lang thang hát khô cổ, gảy đàn muốn rụng tay mới có được. Sự hợp tác giữa bác Tốn và thằng Ích được ấn định rõ ràng bằng cách chia đôi số tiền kiếm được mỗi buổi. Thằng Ích có công dẫn đường, bác Tốn có công trình diễn. Số tiền thằng Ích được chia, nó giấu đi một ít để ăn quà và mua đồ tặng con Ngoan – em gái nó – một phần, đưa cho mẹ để thêm vào ngân quỹ gia đình. Còn bác Tốn cố dè xẻn, dành tiền lấy Huệ, cô gái điếm loại rẻ tiền đã hết thời nhan sắc. Nhưng bác Tốn vẫn mê nàng qua lời tả của thằng Ích: Cô Huệ đẹp và thơm lắm, cô đánh môi son, mặc áo hồng, bận quần trắng. Bác Tốn mù nên chỉ "nhìn" người mình yêu qua trí tưởng tượng với ước mơ đắm đuối! Còn Huệ, cô gái giang hồ tuy đã hết thời, lại đau ốm luôn vì ham bán đắt rẻ thể xác mong đủ miếng ăn. Mỗi đêm hành nghề xong, lúc trở về xóm có ai nói xa xôi: "Mệt không cô Huệ ơi!" nàng lại chanh chua giận dữ: "Mệt cái phải gió. Cha tổ bố, ít tiền mà cứ muốn đẹp!" Không khí sống của xóm Cỏ, xóm điển hình cho những khu cặn bã của xã hội với những sinh hoạt cực kỳ sôi nổi. Những trận đòn chí tử của anh chồng say tặng vợ, với tiếng khóc, câu cười cùng lời nói thô tục được Nhật Tiến ghi chép tận tường để trình bày thực trạng. Ngay cả tình thương yêu trong trắng của hai anh em thằng Ích cũng được diễn tả bằng những dòng chữ nhạt nhoà nước mắt:
… Chúng nó (Ích và Ngoan) nghĩ đến ngày mai ngày kia và mãi mãi, buổi sáng phải đi mót củi khô và lá rụng ở mặt đường, buổi trưa nắng gắt, đi quẩy nước ở ngoài giếng, chiều tối, dượng Tám uống rượu lảo đảo trở về, chửi lảm nhảm tới khuya. Mỗi cử động mạnh của dượng, ngay lúc dượng chẳng đánh ai cả, cũng đủ làm cho tim Ích đập nhanh trong lồng ngực. Ích nghĩ dượng Tám thật tráo trở. Dượng vui đấy, mà giở mặt ngay đấy. Nhiều khi Ích có ý muốn mình được cầm một con dao nhọn hoắt mà đâm mạnh vào tim dượng. Máu đỏ phun ra sẽ làm nó rất kinh sợ nhưng cũng hả hê biết mấy…
… Cũng có lúc Ích ước ao mình được dẫn em bỏ trốn nhà ra đi. Điều ấy lại còn khó khăn hơn là sự cầm dao giết dượng Tám. Vì trong thành phố ồn ào này, tuy rộng rãi thật, nhưng nó chẳng biết là mình sẽ đi về đâu…
(Thềm hoang, trang 27)
Sự hình thành của một nếp sống không phải ngẫu nhiên mà có, đích thực nó phải trải qua nhiều giai đoạn. Ở mỗi giai đoạn lại tích luỹ thêm những bằng chứng, xác định rõ từng sự kiện đã xâm nhập vào trong tâm hồn của con người, để tạo nên nếp sống đó.
Nó còn có thể là một không gian địa ngục, được mô tả như hoàn cảnh đương nhiên, vây lút và cuốn tròn mỗi số phận không cho vượt thoát:
… Ở đường cái rẽ vào là ngay đầu xóm Cỏ. Có những mái lá nứt rạn chia ra lối hẹp. Vào những ngày mưa, lòng xóm hoá ra lòng cống, khi nước rút đi thì ngập bùn và rác rưởi. Mùi tanh nồng theo gió thoang thoảng bay đi. Mỗi lần đêm về, lối ngõ tối hun hút như một cái miệng có chiều sâu… Một vài ngọn đèn dầu đỏ đòng đọc lùa ánh sáng qua kẽ vách không soi hết những mô đá khấp khểnh nhô lên giữa những vũng bùn đen quánh. Ở đây về đêm có từng bóng áo trắng thấp thoáng sau mấy cái thùng xe đậu rải rác. Khách tìm hoa chụm đầu vào nhau thì thào. Que diêm bật lên rồi tắt ngúm. Ánh sáng teo lại theo tàn than rồi bóng tối lại tiếp tục bưng lấy tội lỗi một cách hối hả, vội vàng…
(Thềm hoang, trang 29) Đấy, cái môi trường sinh động của một lớp người được phác hoạ trong tâm trí, để rồi các hoạt cảnh lần lượt trình bày thật linh động theo ý muốn nhà văn, những con người chui rúc nơi đây, không phải hoàn toàn mất hết nhân tính. Nhưng cái nhân tính chỉ được Nhật Tiến ghi nhận bằng những nét mờ nhạt qua nhân vật bà Chín và một vài động tác si mê của bác Tốn với Huệ trong lúc nàng ốm đau. Có nhiều lúc, bác Tốn muốn nói với Huệ một câu, một câu thôi, nhưng vì mặc cảm tự ti nên bác tự nhủ: Xấu hổ bỏ bố đi!… Câu nói phơi bày cái tâm trạng đau xót của một kẻ đã tật nguyền mà lòng còn phơi phới tình xuân. Sở dĩ bác Tốn – nghệ sĩ mù – còn sống được ở cái xóm Cỏ này, chẳng phải chỉ có Huệ, còn thằng Ích và bao nhiêu người cùng cảnh ngộ, cũng nghèo như bác, cũng lam lũ như bác, nên khi vui bác thường cất cao giọng:
"Cô Huệ ơi!
Tôi theo cô đến tận góc bể chân trời
Sông sâu tôi cũng lội, núi đồi tôi cũng leo
Sang Tây, sang Nhật, sang Lào
Sang Tàu, sang Mỹ tôi theo đến cùng…
Ới! Cô Huệ ơi! …"
Đau đớn thay mối tình bác Tốn mơ tưởng, nó chỉ là mối tình suông, mối tình tuyệt vọng vì tuy nhan sắc Huệ đã xuống, nhưng chắc chắn không đời nào Huệ chịu làm vợ anh mù hát dạo kiếm cơm! …
Nhân vật u thằng Ích, một goá phụ còn xuân sắc với đôi mắt lá răm, da trắng trẻo mịn màng, cũng được nhà văn viết với những nét thật sắc, thật bi thương. U thằng Ích vì còn trẻ nên không giữ nổi tiết hạnh trước tên Tám, có thân thể vững chắc, có đôi cánh tay gân guốc mê mình, để rồi sau khi đã làm chủ được linh hồn và thể xác lại hành hạ mình cho tới chết. Ngày trước u thằng Ích mê dượng Tám vì sức vóc, bây giờ dượng lại dùng sức vóc để tặng vợ những trận đòn ác liệt mỗi khi nổi giận vì không có tiền chơi bời cờ bạc! Tiếng khóc, ôi! tiếng khóc của người đàn bà khốn khổ về đường chồng con, đêm đêm dựa mình vào cột gỗ ngoài hiên, than van cho số kiếp, trong khi gã đàn ông khốn nạn đang ngáy nặng nề với hơi men nồng nặc! … U thằng Ích, hình ảnh người đàn bà Việt Nam cũ, đã lỡ rồi, dù khổ cực đến đâu cũng gắng chịu cho đến ngày không chịu nổi nữa thì chết!
Hình ảnh lão Hói với dáng đi lom khom và cái đầu nhẵn thín, khuôn mặt choắt cheo, mày rậm, mũi đỏ, vai đeo túi vải có đựng cỗ bài tây cáu ghét và chiếc khăn tay dơ bẩn. Đấy chân dung và gia tài của lão Hói - thầy bói bài tây - luôn mồm đọc câu:
Ngọc xuất thiên cung thủ quả châu
Hoàng Thiên thương mến quả địa cầu
Giáng tạo thay đời không tranh đấu
Thế giới thanh bình khỏi thuế sâu…
Rồi lão giải thích cho bà con lối xóm nghe rằng: Ông ấy sinh ra mình, sinh ra cây cỏ, mọi thứ lu bù. Tây, Tàu, Anh, Mỹ gì cũng thua ông hết trọi! … rồi lão tự khen: Chèn ơi! Hay thiệt à! … Lão Hói là nguồn vui cho cả xóm Cỏ, nhân vật này có mặt trong Thềm hoang với dụng ý làm nhẹ bớt sự bi thảm của tác phẩm.
Vấn đề tình yêu trong cuốn sách không kém sôi động. Vì tình yêu là vấn đề muôn thuở của vạn vật chẳng cứ gì con người, nên ngoài mối tình tuyệt vọng của bác Tốn với Huệ cũng như cuộc tình đau đớn cả thể xác lẫn tinh thần của u thằng Ích và dượng Tám, còn có cuộc tình không kém nồng nhiệt, vô cùng bình dân giữa con Đào và anh phu xích lô Hai Đào, bất chấp cả bác Phó Ngữ – bố Đào – nổi tiếng khắc nghiệt trong vấn đề dạy dỗ con gái. Ý của Phó Ngữ muốn cho con Đào có tấm chồng đàng hoàng để ông được nở mày nở mặt với xóm giềng, ai ngờ con Đào lại phải lòng tên Hai Hào, người mà ông cho là không xứng đáng làm rể ông. Nhưng Phó Ngữ không chống nổi được quyết định của ông Tơ, bà Nguyệt đã xe duyên hai đứa:
… Gã ôm lấy cô gái vào hai cánh tay. Đào cũng ghì chặt lấy gã. Giọng gã ấp úng:
"Đào ơi! Mình ơi! …"
Cặp môi của gã hôn như mưa trên má Đào. Giây sau, gã nói:
"Nên" đây, tôi chở mình đi chợ".
"Chịu thôi, chúng nó chế chết…"
"Chế cái ‘nỗ’ đít! Mặc bố nó…"
"Chịu thôi. Để đến tối".
"Tối ở đâu?"
"Sau giếng đi".
"Mấy giờ?"
"Chín giờ". Thế là buổi tối hôm đó, hai bóng người tình tự sau bờ giếng đến khuya, ông Phó Ngữ đi tìm con với vẻ giận dữ:
"Sư bố thằng Hai Hào chim con gái ông… Ông thề ghè vỡ sọ mày ra, biết chưa?"
Rồi từ xó tối có tiếng xô ghế đứng dậy và gã thấy Phó Ngữ bổ ra với cây gậy quen thuộc ở trên tay. Hai Hào vội vàng la lên:
"Ơ… ơ… đâu nào… Tôi chim ở đâu nào…"
Phó Ngữ hét lớn:
"Ông biết rồi, ông biết tỏng ra rồi…"
Nói rồi lão vụt cho Hai Hào một gậy. Gã co chân ù té chạy. Lão già vùng lên đuổi theo. Giọng lão oang oang trong cái im lặng của đêm về xóm Cỏ:
"Bố thằng Hai Hào biết chưa… ông mà túm được thì ông rút lưỡi, biết chưa?"
Chính vì hành động nóng nảy của Phó Ngữ, con Đào sợ không dám về nhà tối hôm ấy. Hai đứa vì cùng chung hoàn cảnh và đương bị tình yêu mê hoặc nên liều:
… Đến quá nửa đêm lúc gã còn đang thao thức về số phận người yêu thì có tiếng cạy cửa và tiếng gọi thì thào:
"Mình ơi!"
Hai Hào bật dậy. Gã nhảy bổ ra tháo cái then cửa. Gã nom thấy Đào đứng ở dưới chân lão Hói, giọng gã xuýt xoa:
"Sao? Mình có "nàm" sao không? Có đau không?"
Đào lắc đầu:
"Tôi không về. Nom thấy ông ấy đuổi mình, tôi đi tuốt ra đường cái rồi vòng lối giếng về đây. Mình có… bị gì không?"
"Không, tôi nhanh chân chạy được".
"Khổ quá… thật là mình khổ vì tôi".
Hai Hào vội vàng bịt lấy miệng người yêu:
"Khỉ "nắm" nữa. Đã yêu nhau rồi mà mình cứ khách khí. Tôi khổ thế chứ, khổ nữa vì mình tôi cũng cam".
Đào cảm động ôm chầm lấy gã. Gã dìu nàng đi vào bóng tối… Có tiếng chuột chạy rinh rích trên rui nhà. Một lát có tiếng Đào dãy lên:
"Đừng mình ơi!… Tôi van mình".
Rồi Đào im bặt, chỉ còn tiếng ghế ngựa đu đi đu lại kêu cót két và tiếng Hai Hào thở mạnh như những lúc gã đạp xe chở nhiều đồ…
Rồi con Đào khóc, Hai Hào dỗ dành:
"Tôi ‘nạy’ mình. Đừng có khóc. Rồi mình ‘nấy’ nhau, cần gì".
"Nhưng bố biết thì bố tôi giết".
"Biết ‘nàm’ sao được. Chốc nữa tôi đưa mình về thật sớm".
"Ngộ tôi chửa thì sao?"
"Chả ‘nàm’ sao. Mình ‘nấy’ nhau rồi, tha hồ mà chửa!…"
Tất cả những diễn tiến trong Thềm hoang dù là tình yêu hay sự xích mích giữa người này, kẻ khác, hoặc những nỗi u uẩn chứa chấp trong lòng từng con người thuộc xóm Cỏ đều được Nhật Tiến mô tả với lương tri người cầm bút. Do đó, mỗi hành động, mỗi lời nói được cân nhắc để dẫn dắt người đọc đi vào không khí riêng biệt của câu chuyện. Cái hoàn cảnh xóm Cỏ, không phải hoàn cảnh mơ ước của con người, nhưng nó có đấy để chứng minh rằng, có nhiều cuộc sống khác nhau trong một không gian ước định. Tình yêu, đau buồn, oán giận, tủi nhục hình như lúc nào cũng quấn quít để hành hạ mỗi người, thay vì thương yêu và giúp đỡ lẫn nhau. Hình ảnh bác Nhan gái oánh lộn với Phó Ngữ chỉ vì muốn can thiệp vào chuyện con Đào với ý hướng tốt. Phó Ngữ vì giận con nên giận lây cả người muốn mang lại sự tốt đẹp cho gia đình mình. Trong lúc bác Nhan gái bị đánh tơi bời, đầu tóc rối bù, cúc áo sổ tung, bộ ngực hở ra thỗn thện thì bác Nhan giai, mặt xanh như tàu lá, chân tay run lẩy bẩy co vợ ra ngoài vòng chiến.
Cuộc chiến tay chân vừa diễn xong, lũ trẻ đã thôi reo hò, khích động thì cuộc đấu khẩu giữa Phó Ngữ và con Đào lại xảy ra:
"Đêm qua mày đi đâu?"
Đào mỉm cười gượng gạo:
"Tôi đi coi hát. Tích Điêu Thuyền".
"Điêu bằng mày không? Con đĩ ngựa! Đi coi hát sao mày không về?"
Mặt Đào vênh lên:
"Về chứ sao không về. Nhưng trời tối thui, tôi sợ ma, nên ngủ luôn ở nhà bạn".
"Ma cái con chó. Tao còn lạ gì… mày đi với thằng Hai Hào".
"Khắm chửa, hào với xu nào ở đâu mà cứ nói".
"Bộ mày tưởng tao đui hả? Tao nói cho mà nghe biết chưa, tao là tao không gả con cho đồ cu li cu leo ấy đâu".
"Cu li thì đã làm sao. Miễn là tốt thì thôi chứ".
"Nó tốt mặc bố nó. Tao đã bảo không là không mà".
Đào vặc lên:
"Nhưng mà tôi ngủ với nó rồi!"
Mồm Phó Ngữ đột nhiên há ra. Mắt lão trợn tròn nhìn cô gái quý. Tay lão sững sờ buông cái chén xuống đất khiến vỡ tan tành đồng thời miệng ngoác lên:
"Ối giời ơi… làm sao… mày làm sao với nó rồi?…"
Đào lí nhí:
"Ngủ rồi!"
Trước sự thực phũ phàng và không ngờ, Phó Ngữ chỉ còn biết rên rỉ những lời thảm thiết: "Ngủ rồi… ối con ơi… thế là con ăn cứt rồi! …"
Như thế đó, cứ như thế, từ nút thắt nọ sang nút thắt kia, Nhật Tiến đã dàn trải cơn đau trong từng dòng chữ nghẹn ngào. Việc con Đào và gã Hai Hào rốt cuộc cũng xong với "sự đã rồi" đặt Phó Ngữ vào đường cùng, không bằng lòng chỉ thiệt. Trong khi đó, con thuyền tình của bác Tốn thả trôi lênh đênh giữa vũng tâm linh vẫn mong muốn đỗ vào bến lòng nàng Huệ. Nghe tin Huệ đau ốm bác nhờ thằng Ích mua hộp bánh bích-quy đắt tiền mang biếu nàng với hy vọng sẽ được Huệ ban phát tình yêu. Nhưng bánh Huệ cứ lấy, yêu bác Tốn thì không, dù thân xác nàng lúc đó cũng chẳng còn gì cho thằng đàn ông mơ ước. Nào bệnh tật, nào nghèo đói, rạc rài! Nhưng đâu bác Tốn có nhìn thấy sự thật đó, bác vẫn nhìn nàng qua lời mô tả rất gợi cảm của thằng Ích: Da trắng, thịt thơm, môi son, áo đỏ và quần trắng, phấp phới ra vào lối ngõ.
Sự thực, màn bi kịch của tác phẩm không nằm ở các dữ kiện nói trên, mà nó xảy ra trong gia đình Năm Trà đi lính đóng đồn xa, vợ con ở nhà với mẹ già. Một buổi, người vợ trẻ của Năm Trà mua cho mẹ chồng và các con mỗi người một kỷ vật xong tuyên bố ra đi, vì không chịu nổi cơ cực quá lâu với cảnh phòng không chiếc bóng, trong lúc tuổi xuân chan chứa nhựa tình. Cảnh gia đình Năm Trà phút chốc bỗng biến thành địa ngục. Tuổi già không kiếm được tiền nuôi cháu, bà cụ phải đem ba đứa cháu nội mang cho nhà mồ côi, sau một đêm trắng khóc than tình đời! Cả ba đứa trẻ đều mặc quần áo mới do mẹ chúng mua tặng, đi theo bà đến một nơi mà tình thương nhân loại thay cho tình thương ruột thịt. Vì quá thương cháu và oán hận sự đời tích luỹ trong lòng già nên bà cụ phát điên.
Người đọc cảm thấy như trong hồn mình có một sợi dây vô hình thắt lại làm đau đớn toàn bộ thần kinh, qua lời văn chân thành và cảm động của Nhật Tiến. Nội dung tác phẩm Thềm hoang chảy loang như dòng lệ khổng lồ không bao giờ khô. Mỗi số phận được đề cập tới hình như đã an bài trong một bối cảnh khắt khe, để trở thành nỗi đau đứt nuối. Hình ảnh bác Nhan giai, ốm đau nằm nhà ăn bám vợ, thèm thịt bèn nghĩ cách bẫy chuột để nhậu nhưng chẳng may đang thui chuột, vợ về bắt gặp: … Bác Nhan nhe răng cười một mình. Bác trói con chuột vào một cái cời bằng sắt và đem xoay tròn trên than hồng như thể người ta quay những con lợn. Mùi lông khét lẹt xông lên. Lớp da nứt nẻ toác ra thành những kẽ nhỏ, tiết ra một thứ nước vàng, chảy sèo sèo trên ngọn lửa. Bác lẩm bẩm:
"Khét một tí, nhưng cháy hết lông rồi thơm phải biết".
Vừa lúc ấy, bác Nhan gái trở về. Bác đánh hơi thấy mùi khen khét khác thường, nên vội vàng chạy bổ xuống bếp. Nom thấy chồng đang cởi trần trùng trục loay hoay với con chuột nham nhở, bác giậm chân tru tréo:
"Ối giời đất ơi… ông tính ăn thịt chuột đấy à?"
Bác Nhan giai giật bắn người, đứng bật dậy. Nom thấy vợ, mặt bác đỏ bừng lên như một người phạm tội bị bắt quả tang. Bác ấp úng:
"Ơ… thì thịt chuột ngon chớ…"
"Ốm ai người ta ăn thịt chuột… mà lại là chuột cống tởm thế này thì bố ai mà nuốt được…"
Bác Nhan giai vừa tức vừa giận, vội nắm lấy áo vợ chì chiết:
"Thì nói bé cái mồm chứ nào. Hàng xóm nó biết thì còn ra cái chó gì nữa!…"
Thế rồi vì con chuột cống hai vợ chồng đánh lộn, nhưng bác giai sức yếu bị bác gái đè lên trên. Cánh tay bác giai bị kẹp chặt và bộ vú của bác gái sồ sề cộm trên ngực làm tức thở. Để rửa nhục luôn bác giai nói xẵng: "Ông sợ gì… đừng có trêu gan vào đây chớ. Sặc tiết lắm rồi đấy!" Trong khi đó, nhờ sự may mắn kỳ lạ, Huệ đã khỏi bệnh và bắt tình với một thằng Tây tên Jean, chung sống như tình vợ chồng. Cuộc tình này mang lại cho Huệ tiền và một đứa con (?). Bác Tốn nghe tin, buồn quá mua rượu nhắm với tôm khô nhưng nỗi buồn cứ thấm sâu vào lòng bác. Say rượu, bác Tốn ngủ vùi, trong giấc mơ Huệ hiện ra đẹp đẽ, trắng nõn như bà đầm mà ngày xưa khi chưa đui bác nom thấy ở trên đường phố.
Rồi tới cái chết của u Tám, mẹ thằng Ích và con Ngoan. U Tám thắt cổ chết vì xấu hổ có người chồng khốn nạn như dượng Tám, ăn cắp tiền và nữ trang của gái điếm để đánh bạc. Dượng Tám lừa Huệ bằng cách giả vờ mua xác thịt, chờ Huệ ngủ say mới đánh cắp. Từ phút này trở đi, anh em thằng Ích mất hẳn tình thương ruột thịt, để rồi thằng Ích cũng bắt đầu hư hỏng vì quân bài lá bạc. Và Huệ cũng lìa bỏ cõi đời trong lúc đang pha sữa cho thằng "Giăng". Bố nó đã về xứ trên chuyến tàu cuối cùng của Quân đội Pháp rời bỏ Việt Nam, sau 80 năm thống trị và 8 năm chinh chiến tốn hao bao nhiêu xương máu, vẫn không chiếm lại được thuộc địa.
Tác phẩm Thềm hoang được kết luận bằng sự trở về của Năm Trà trong bộ đồ lính nhóm nhếch cùng nét phong trần hiện rõ trên gương mặt với bà cụ điên không nhận ra con mình, vì sự vắng mặt của nó lâu ngày mới nên nông nỗi. Đứng trước sự kiện đau đớn đó, Năm Trà cũng nổi điên luôn, gã trả thù đời bằng cách đốt nhà. Cả xóm Cỏ tan hoang trong hoả hoạn với tiếng kêu khóc thảm thương.
Rồi một trận mưa đổ dữ dội xuống đống tro tàn như ông Trời muốn rửa sạch những nhơ bẩn của một khung cảnh khốn khó để tạo dựng một xã hội công bằng, hợp lý trong tương lai? Bác Tốn ôm thằng Giăng – con Huệ – vào lòng mà hôn, như hôn hình ảnh người yêu. Thằng Ích mơ tiếng sáo thay cho tiếng đàn trong dự tính kiếm sống ngày mai!…
Thềm hoang là bức tranh xã hội Việt Nam trong những năm cuối cùng có mặt Quân đội Pháp. Ở đấy, nhà văn đã tận dụng những chất liệu do cuộc sống cung cấp để sáng tạo với kỹ thuật tài tình, sâu sắc. Nói cho đúng, nỗi vui buồn của cuộc đời nó hiện diện thường xuyên trước mặt mỗi người như mưa như nắng nên không ai để ý, nhưng khi nỗi vui buồn đó được viết ra dưới sự nhận xét và phân tích của nhà văn, nó trở thành đời sống khác, đời sống được nghệ-thuật-hoá để tác động đến tâm thức người đọc qua môi trường văn học. Tác phẩm Thềm hoang đã chiếm Giải thưởng Văn chương Toàn quốc năm 1962 và tái bản đến 3 lần, nhưng không phải vì thế mà tác phẩm toàn bích, nó vẫn cho người đọc thấy tác giả hiện diện qua ngôn ngữ và suy nghĩ của vài nhân vật mà thực tế không thể có. Nhật Tiến, một tâm hồn đa cảm và có ý hướng dùng văn chương để trình bày thực trạng của một xã hội đã quá rách nát vì chiến tranh và nghèo đói. Nhật Tiến cũng biết rằng, cuộc đời chẳng thể nào thoả mãn được những nhu cầu của lý tưởng, ngay chính bản thân nhà văn cũng chẳng có gì đáng khích lệ trong địa hạt tinh thần. Sự kiện đó làm nhà văn phẫn uất khi nhìn thấy trong thực tế, những gì mình nghĩ, mình yêu quý nó chẳng có liên hệ, ảnh hưởng gì giữa nghệ thuật, tác giả và đời sống. Cái tâm trạng bi thương ấy, được biểu lộ trong tác phẩm Người kéo màn (1962).
Người kéo màn được viết với hình thức tiểu thuyết kịch, tức là dùng đối thoại để tạo hình ảnh và động tác tâm lý nhân vật thay vì dùng khuôn thức diễn tả thông thường. Phương pháp trình bày cũng gần giống như phương pháp viết kịch nhưng, thay vì kịch, các nhân vật chỉ nói và diễn xuất trong kích thước sân khấu, thì nó lại trải rộng ra giữa cuộc đời, các nhân vật được tự do đóng "vai trò thực" của mình trong một vị trí đã dành riêng cho họ giữa những trang sách.
Đời là trường kịch, Molière đã nói như vậy. Mỗi kẻ sinh ra đều phải chơi đúng vai trò của mình với phần vụ và trách nhiệm minh bạch. Kẻ nghệ sĩ, ngoài hoạt động thường nhật như mọi người, còn có một đời sống bên trong, đời sống của nội tâm cần phải tỏ bày. Cái chức năng của nghệ sĩ là vì đời mà dâng hiến những tinh hoa của riêng mình. Sự dâng hiến không phải để cầu xin ân huệ, mà phải được quyền tham dự vào sự dâng hiến đó. Nhưng việc đời đâu có giản dị như vậy. Nó được bủa vây và ngăn trở bởi những điều kiện thực tế, nghệ sĩ khó kinh qua, thản như có kinh qua được, khi nhìn lại, cũng đã mất mát ít nhiều vốn liếng riêng tư.
Tác phẩm Người kéo màn đã nói lên sự thật, cái sự thật vô cùng chua xót mỉa mai khi nhìn thấy công trình sáng tạo của mình không còn thuộc về mình nữa. Nó được thành hình với những ti tiện, với sự lợi dụng lẫn nhau để mưu mô quyền lợi riêng. Vở kịch đem lên sân khấu, không do giá trị thực của nó, mà phải đi qua nhiều sự thực, không dự trù trong ý nghĩ nhà văn.
Nội dung Người kéo màn được trình bày như một bất lực của nghệ thuật mà người nghệ sĩ luôn luôn mang vóc dáng chàng Từ Thức cô đơn. Những khuôn mặt trình bày trong tác phẩm đều được vẽ rõ, rất rõ với nét chì đậm để người đọc nhận thức về phần mình từng chi tiết và hoàn cảnh biến động thích hợp. Tác giả chỉ còn là cái bóng mơ hồ, mờ nhạt trong hoạt cảnh sân-khấu-cuộc-đời. Nó có đó chỉ để phủ nhận vai trò của mình trong phạm trù đời sống. Nội dung Người kéo màn trình bày cái thế đứng của nghệ sĩ với nhân vật "tác giả" qua lời đối thoại:
… Thiếu phụ áo đỏ: Vậy sao người ta không thể sống vô tư được. Chính sự vô tư mới là điều cần thiết để cho cuộc đời có ý nghĩa hơn. Và cuộc đời cũng chỉ cần những kẻ vô tư như vậy thôi.
Tác giả: Bởi thế anh chỉ là kẻ đi cúi đầu mà không dám ngửng lên. Anh không được bằng tất cả mọi người.
Thiếu phụ áo đỏ: Mình lại sắp sửa tự mâu thuẫn. Thôi em chán ngấy lên rồi. Mình đứng dậy đi. Sắp đến giờ trình diễn.
Tác giả: Anh chưa muốn đến. Anh chưa muốn phải chứng kiến những nhân vật trong vở kịch đã bị ruồng bỏ trong ý nghĩ của anh.
Những băn khoăn, nỗi khắc khoải trong tâm cảm kẻ sáng tạo là đã đoán thấy, nhận biết về mình những thiệt thòi. Vở kịch được trình diễn không do mình chủ động, các vai trò cũng không do mình đào tạo, cả khán giả nữa, cũng không vì tác giả mà có mặt. Bởi vậy, giữa kích thước một sân-khấu-ước-lệ, hay sân-khấu-cuộc-đời không thể nhận định được đâu thật, đâu giả? Chiếc màn nhung đỏ ngăn cách giữa khán giả (cuộc đời) và sân khấu, chỉ là một cản trở tạm thời, cũng như sự cách biệt giữa sân khấu và hậu trường chỉ là hai trạng thái của một khung cảnh. Chính vì người đời không nhìn rõ nên cứ đinh ninh: nó là sự cách biệt thực sự, nó không cùng chung ước lệ với cuộc sống bình thường. Những nhân vật: Nghĩa, Nga, đạo diễn, nhà Mạnh Thường Quân, lão già kéo màn, đứa bé, chàng nhạc sĩ thổi Clarinette, v.v. đều xoay quanh cái trục của ngộ nhận, mâu thuẫn và bi thảm đang hiện hữu giữa đời sống.
Sự mất thăng bằng trong tâm trí vai tác giả, chỉ để trình bày nỗi phẫn nộ và tuyệt vọng của thân phận. Kẻ nghệ sĩ như người mắc bệnh mộng du, luôn luôn sống trong ảo ảnh:
… Hắn thấy mình ngụp lặn trong sự nhục nhã. Bàn tay sờ lên người hắn, khiến hắn có cảm giác như đang bị quấn bởi thân hình mềm mại của một con rắn độc. Con rắn quấn cứng lấy vai hắn. Hắn mím môi lùi lại. Tất cả mọi cái ghê tởm đều xô hắn đến đường cùng. Hắn nghĩ: "Giá mình có một con dao". Với con dao hắn sẽ cắt da thịt của hắn, nhưng không phải để gột rửa sự ghê tởm mà để hành hạ mình…
(Người kéo màn, trang 38)
Cái bi kịch nội tâm đã dồn nhân vật vào ngõ cụt. Những nhơ bẩn do cuộc sống đưa lại, mình không từ chối được, mà dùng nó như hình phạt, để tự giày vò trong một cảnh ngộ chán chường, giữa giấc hôn mê:
… Ồ! Phải rồi! Mình đã từng đọc ở micro. Nhiều người ồn ào… Chắc người ta vỗ tay! Hắn cảm thấy sung sướng như một đứa trẻ. Hắn châm diêm đốt một điếu thuốc. Ánh lửa sáng lên soi khuôn mặt phờ phạc của hắn rồi tắt ngấm ở hai bờ môi. Người phu xích-lô ghếch xe lại phía hắn.
Người phu xe: "Đi" không cậu? Có chỗ này hay lắm!"
Tác giả: "Hay thật không?"
Người phu xe: "Ồ, còn phải nói! Tuyệt!"
Tác giả: "Đó tôi biết mà! Tác giả là tôi đấy".
(Người kéo màn, trang 40)
Lời đối thoại thật chua chát, mỉa mai như những nhát búa đập mạnh vào cân não. Trong khi đó các nhân vật khác cũng đang đóng trò, đóng trò thật sự trong hậu trường giữa đạo diễn và nhà Mạnh Thường Quân, giữa ông lão kéo màn và đứa bé, giữa Nghĩa và Nga, giữa gã nhạc sĩ và mối hờn ghen đau nhói.
Rồi cơn mộng du đưa tác giả vào cuộc sống thực trong kích thước một cái bar có rượu và gái. Ở đây, tác giả đóng vai diễn viên đồng thời cũng là kẻ sáng tạo. Hình ảnh đứa bé hoang và cô gái tên Hằng, không còn là một kỷ niệm mà trở thành một chứng tích hiển nhiên đang vây quanh, sống động đâu đây. Cứ thế lần lượt, mọi diễn viên đều ra trò, dù ở sân khấu hay hậu trường hoặc trong phòng hoá trang với bao nhiêu bỉ ổi, nhơ nhuốc. Cuối cùng, Nhật Tiến cho người đọc nhận thấy chủ điểm của cuốn sách: Đừng bao giờ trông đợi kẻ khác thương mình, giúp mình một cách bất vụ lợi và nghệ sĩ nói chung, lúc nào cũng là kẻ cô đơn, chịu thiệt thì, dù ở sân khấu nào cũng vậy!
Với những suy nghĩ miên man về xã hội, sau tác phẩm Người kéo màn, Nhật Tiến vẫn sáng tác theo lương tâm mình qua cuốn: Ánh sáng công viên (1963), Chuyện bé Phượng (1964), Vách đá cheo leo (1965), Chim hót trong lồng (1966), cho đến tác phẩm Giấc ngủ chập chờn thì Nhật Tiến đã ném suy tư của mình vào vùng lửa đạn. Hình ảnh chiến tranh mới thật sự làm Nhật Tiến rung động. Nhưng, sự rung động ở tác phẩm Giấc ngủ chập chờn không phải là một thái độ nhập thế mà nó vẫn do tình thương dẫn lối. Cái bối cảnh Nhật Tiến chọn lựa để hình thành suy nghĩ, nó là một bối cảnh sống dở, chết dở của những con người vật vã giữa hai lằn súng đạn với oán thù giăng mắc ngày đêm. Con người hoàn toàn bất lực trước cảnh huống bi thương mà lịch sử đang có nhiệm vụ thi hành.
Chân dung lão Đối với khung cảnh ấp Vĩnh Hựu, nơi lão đã sinh ra, sống ở đó gần chót đời với bao nhiêu thương mến mà giờ này nó trở thành bãi chiến trường của hai vùng Quốc – Cộng. Họ săn đuổi nhau, bắn giết nhau và quyết không đội trời chung ngay cả với những người liên hệ tình ruột thịt. Lão Đối sống vật vờ với hình ảnh thằng Đực đi theo bên "ngoải". Lão không muốn, nhưng nó đã bị móc nối ra Khu rồi trở về làm du kích xã. Thỉnh thoảng nó về ấp công tác, ghé thăm nhà để ăn một bữa no nê vì "ngoải" đói quá. Còn trường hợp thằng Há vì cơn nóng giận bắn chết người Trưởng đoàn Dân vệ, sợ tù, ăn cắp súng trốn ra Khu, khi nghe tin anh ruột lấy người yêu của mình đã viết thư cho anh: "Nghe tin anh lấy con Thư. Nó là người tình lý tưởng của tôi. Tôi thề không đội trời chung với anh đó". Anh nó tên Hoanh, lính dân vệ đóng đồn ở gần nhà. Nàng cười, cho Há còn con nít biết gì mà yêu đương. Hoanh khoẻ mạnh đẹp trai, Thư mê hơn. Nhưng đau đớn thay, Há trong chuyến trở về đánh đồn, lợi dụng lúc anh vắng nhà đã chui vô mùng chị dâu và cái gì đến đã phải đến. Và sau này trước khi chết, một lần chót, hắn lại làm một tên vô luân đối với anh ruột. Trong Giấc ngủ chập chờn không phải chỉ có thế, còn rất nhiều hoàn cảnh khốn nạn đã xô đẩy con người vào mục đích khốn nạn, như thằng Bình, thằng Sách, thằng Xương, thằng Hiệu, thằng Viễn, thằng Nam, thằng Tố, v.v.
Lão Đối tượng trưng cho người dân quê mến yêu mảnh đất chôn nhau cắt rốn đến chết không rời, thế mà cũng cảm thấy xa lạ ngay cả với quê hương mình. Đêm lão lắng nghe từng nhịp chân, từng tiếng động, vì nó liên hệ đến mạng sống của con lão và bà con thân thuộc trong Ấp. Cũng từ ngày chiến tranh thật sự xảy ra, lão Đối trở thành quyển sổ hộ tịch ghi chép số người ngã xuống. Ấp Vĩnh Hựu chẳng phải chỉ có mình lão Đối vì mảnh vườn, thửa ruộng mà gánh chịu nhục nhằn, còn nhiều người khác cũng vì nó sống chết, như mẹ anh Lầu, nhất định không vào ở trại gia binh.
… Nhiều lần Lầu nài nỉ lấy cớ ở nhà có khi nguy hiểm để thuyết phục bà cụ thì cụ chỉ đáp một cách thản nhiên:
"Nguy hiểm cái gì? Ai bắn, ai giết được tao. Chúng mày là Quốc gia, chúng mày có bắn không? Còn Cộng sản à? Thì bọn thằng Há, thằng Đực, thằng Bình, lũ con cháu trong nhà chớ ai?"
Lầu cãi lại:
"Nhưng tụi nó ngày xưa khác, bây giờ khác. Bây giờ chúng nó cầm súng giết người như ngoé, bộ chỉ có má là tụi nó thương sao?"
"Tao chẳng cần đứa nào thương hết. Mà điều khi không rồi tụi nó xách súng đến bắn tao đó chắc?"
"Nhưng tên bay đạn lạc biết thế nào mà lường".
"Ui chao! Tên bay đạn lạc. Nếu cái số nó có bị tên bay đạn lạc thì dù mày có chạy đi đâu cũng vẫn bị như thường".
Rồi cụ chép miệng:
"Ui, thôi đi! Nhà tao, tao ở. Nếu có chết tao cũng được chết ở đây, nơi quê cha đất tổ. Ai ăn nhằm cái gì mà lại dại dột bỏ đi đâu…"
(Giấc ngủ chập chờn, trang 62)
Bà cụ Lầu, lão Đối và tất cả những người già cả khác ai cũng nghĩ như vậy, nên các cụ thường nói:
"Tụi bây muốn giết nhau ở đâu thì giết, nhưng cấm bắn nhau ở trong các ngõ ngách này. Chẳng dây mơ cũng rễ má, ít nhiều gì thì tụi bây cũng có liên hệ gia đình, ruột thịt hay quê hương. Giết nhau trên phần đất của ông cha là nhục nhã. Tao bảo không nghe thì đừng hòng vô xin cơm nước gì nữa hết…"
(Giấc ngủ chập chờn, trang 63-64)
Điều răn dạy trên chẳng được đứa nào nghe theo, cũng như lão Đối đã nhiều lần nói với thằng Đực: "Mày theo ai thì kệ cha mày. Mà điều đi theo bên đây thì còn đôi giày, cái áo mà bận, chớ mày qua bên đó, chết trần, chết truồng ai thương!…"
Thằng Đực nào có nghe, khi đói nó mò về ăn cơm bố xong lại xách súng theo bên kia, để rồi mê Vấn, nữ cán bộ lãng mạn bỏ chồng, có nhân tình, coi sự chung đụng xác thịt là chuyện thường. Đực u mê trong vấn đề tình ái, sau một lần hoà vui nhục thể. Vấn xa Đực một thời gian khá dài, lúc gần sinh nở thì cho người liên lạc với Đực. Nghe tin, Đực đi cả ngày đường tới thăm và được Vấn sai mua một lô thuốc để chuẩn bị ngày lâm bồn, trong khi chưa biết chắc đã phải giọt máu của mình.
Đực làm gì ra tiền. Một đêm tối trời, trở lại nhà để làm khổ lão Đối:
… Một lát sau, Đực thổ lộ cho lão Đối tất cả tâm sự thầm kín của mình. Rồi gã kết luận:
"Các thứ thuốc cần dùng có ghi cả trong mảnh giấy đó. Tía cố lo mua giúp giùm tôi. Ở chợ không có thì lên quận, mà quận không có thì lên tỉnh".
Lão Đối hậm hực, vặc lên:
"Tổ cha mày, mày làm như tao phải chịu tội đi hoang cho mày không bằng".
Đực giận dữ:
"Hoang cái gì chứ. Bộ tía tưởng tôi coi nó như loại người mèo tha, quạ mổ ngoài giữa lộ sao. Nói cho tía hay, tôi lấy nó làm vợ đó".
"Mày lấy ai thì mặc cha mày. Mà điều đừng có ỉ eo gì với tao".
"Thì dẫu sao nó cũng là con dâu của tía mà".
"Dâu với dia gì. Mày ưng nó, mày ngủ với nó, mày có hỏi tao lấy một tiếng không?"
"Thì bây giờ tôi hỏi đó".
"Rồi nếu tao không ưng thì mày tính sao?"
"Chèn ơi! Thời buổi này mà tía làm như hồi tía còn xuân xanh. Chuyện vợ chồng thì chỉ mình tôi ưng là đủ chớ…"
(Giấc ngủ chập chờn, trang 169) Nhưng nói gì thì nói, vì tình thương đứa con duy nhất, lão Đối vẫn phải thu vén được hơn hai ngàn, tiền dành dụm bao lâu lên phố chợ mua thuốc đã ghi trong mảnh giấy. Ác thay, các loại thuốc hỏi mua, đều thuộc loại đắt tiền và thuốc cấm, nên phố chợ không có, lão mò lên tỉnh. Sau khi mua được thuốc, trở về bị bắt vì tin đồn lão đi lùng mua trụ sinh tiếp tế cho bên "ngoải", mặc dầu lão phản đối om sòm.
Trong Giấc ngủ chập chờn, Nhật Tiến đã phóng hồn vào khung trời sáng tạo, ở đó, tất cả mọi suy tư, mọi cảnh ngộ biến động, mọi xót thương, oán thù đều ở ngoài chiều kích sống của nhà văn, nên sự có mặt của Thư, người đàn bà nhà quê hư đốn, khi chồng vừa đăng lính biệt kích Mỹ đã có ý định ngoại tình, và chuẩn uý Dũng với vòng đai đòn, không mấy tương phù với thực tế. Cái sống, cái chết của những sinh vật có mặt chập chờn trong vùng "xôi đậu" sự thực nó có thê thảm, nhưng không thể có mẫu người như Thư, như Há. Trong tiểu thuyết nhà văn có quyền viết ra những gì mình muốn và chỉ dùng như biểu-tượng-cuộc-đời để tỏ bày ý nghĩ.
Tác phẩm Quê nhà yêu dấu cùng mang chung ước lệ như Giấc ngủ chập chờn, nó chỉ khác qua những khuôn mặt thơ ngây của Thu, của Hương, của Hạnh, thằng On, thằng Tư, v.v. là lứa tuổi nạn nhân chiến tranh.
Những nhân vật của Quê nhà yêu dấu cũng bám riết lấy quê hương như bám vào nguồn sống thiêng liêng cao cả. Ôi! Quê hương yêu dấu, quê hương Việt Nam đã bao lần tan nát, còn tan nát đến bao giờ? Những bờ tre, bụi chuối thân yêu, những mái gianh êm đềm chung vui hạnh phúc, những đêm trăng, sao mến yêu làm vậy? Này đây, từng khuôn mặt trẻ thơ vô tội, thay vì được đi học, được nô đùa vô tư, được nghe kể chuyện cổ tích, được sống những giờ phút thanh bình nhưng chiến tranh làm thui chột tất cả, làm vỡ tan tất cả để chỉ còn lại xơ xác, điêu tàn! Hình ảnh lão Bảy trong Quê hương yêu là hiện thân của lão Đối trong Giấc ngủ chập chờn và các tên như Huấn, Bằng, Hiếu, v.v. vẫn mang tâm trạng và hình thức như Há, Đực, Hoanh trong vòng đai Ấp Vĩnh Hựu giữa bối cảnh lịch sử này. Trong Quê hương yêu dấu, Nhật Tiến viết nhiều đoạn thật cảm động với con Hương bị mất một chân vì mìn trong chuyến đi xe hoả, đi theo mẹ lên tỉnh. Nhưng Hương còn bé quá chưa biết oán trách chỉ cầu xin cho có phép lạ nào, hoặc bà tiên trên trời làm ngưng tiếng súng để không còn một chuyến tàu nào bị mìn và bom đạn thôi rơi xuống đồng quê!
Niềm mơ ước đó, tiếc thay, chỉ là mơ ước của tuổi thơ, quê hương yêu dấu vẫn bị chiến tranh vò nát mỗi giờ phút và kẻ đi vào chiến trận nhiều khi được bình yên, kẻ ở nhà lại gánh chịu tang thương, chết chóc. Do đó, tình yêu thương không có chỗ dừng chân và kịp nảy nở ở các thôn xóm chẳng may thành bãi chiến trường và ai biết được trên những vẻ mặt kia, mọi cảm xúc đã nguội lạnh như hòn than nóng bỏng bị dìm sâu đáy nước! Và âm thanh dữ dội của những cuộc giao tranh, từ trên trời trút xuống, từ dưới đất búng lên, chát chúa, rền rĩ, liên tục đã giết chết những khả năng nghe và nghĩ của lũ trẻ không may trót đầu thai vào vùng lửa đạn!
Nghi ngờ, thù hận hình như lúc nào cũng lôi cuốn mỗi số phận vào guồng máy của cuộc chiến không thuộc về mình và những cái chết vô danh thảm thương làm mồi cho cá. Những đôi chân bị tàn tật vì mìn, chông và từng cơn đói khát đã làm con người trở thành thú vật. Cả tình yêu nữa, cũng gây nên bi thảm trong lòng người lớn và trẻ thơ như trường hợp chị Huấn chồng đi vắng lâu ngày, không chờ đợi được, nên đã lấy chồng khác. Khi đứa con thắc mắc, chị trơ trẽn cho rằng chuyện đó không liên quan gì đến con nít. Rồi sự trở về của Hoành, bố thằng Tư, người lính chiến cụt chân, phải chứng kiến cảnh quê nhà gai góc và nấm mộ của đứa con chưa xanh ngọn cỏ! Cánh bướm nào đó, những cánh bướm của mộng mơ đang bay chập chờn trong tiềm thức con Thu, con Hương hay con Hạnh cũng chỉ là ảo tưởng! Và mụ Phước kia nữa, vì lòng thương con, đứa con theo "ngoải", vẫn hàng ngày tiếp tế cho nó nắm cơm treo lên cành cây ở đầm Tròn!
Tất cả vì quê hương, cho quê hương, nhưng cuối cùng mọi người cũng phải bỏ nó để đêm đêm nhìn về qua đốm mắt hoả châu soi sáng chiến trường. Trên một ngọn đồi cao, hàng trăm con người biến thành trăm cây cột gỗ vô tri trồng tua tủa trên nền đất khô cằn, hướng về phía quê hương đang cháy đỏ. Họ im lặng, thứ im lặng của phẫn nộ hay tủi sầu nào ai đoán biết?…
Luôn luôn và lúc nào Nhật Tiến cũng khơi động tình thương người, thương mệnh nước. Sự đắm chìm vào cơn cuồng loạn của dục tình đâu đó, trong truyện của Nhật Tiến chỉ là để thoả mãn thị hiếu chứ nó không phản ánh trung thực nếp suy nghĩ của nhà văn. Tập truyện Giọt lệ đen (1968) hay Lá chúc thư (1969) cũng chỉ để nói lên tình thương ẩn nấp tự đáy thẳm của một tấm lòng đầy vị tha, bác ái.
Cái khung trời Nhật Tiến mơ ước, thật hiền hoà và trong sáng. Nó là ánh mắt tinh khiết của em bé thơ ngây. Nó là một bàn tay nồng ấm của tình mẹ thương con. Nó là tiếng cười pha-lê của tuổi ngọc. Nó là tiếng chim hót đầu cành nắng sớm. Nó là cánh bướm bay thênh thang ngoài nội cỏ. Nó là tiếng sáo diều vi vút giữa chiều tà trong không gian hiền hậu. Nó là tình người mến thương quấn quít. Nó là tất cả những gì mà nhân loại ước mơ: hoà bình, thân ái. Chính vì chân thành với nguyện vọng của mình nên Nhật Tiến đưa suy nghĩ vào tuổi nhỏ. Cái vườn đời xinh tươi ấy dù có bị cuộc đời xung quanh vây hãm bằng ti tiện, đê hèn, giả dối và cả đau buồn của chiến tranh nữa, nhưng trong nó vẫn còn giữ lại được những gì mà người lớn đã đánh mất.
Tác phẩm Tay ngọc chứng minh điều trên. Nội dung Tay ngọc không mang một ẩn dụ nào về tư tưởng, chỉ là những ý nghĩ hồn nhiên, hiền hoà như một dòng suối trong suốt chảy từ triền cao của ý thức. Tay ngọc gồm 18 bài bút ký, mỗi bài gói ghém một vấn đề của tuổi nhỏ đã sống gần gũi Chúa trong khuôn khổ giáo dục của các mẹ bề trên. Những cảnh tượng mà tuổi thơ nhìn thấy với cảm nghĩ tuyết băng, đã đánh thức tự đáy lương tri của mỗi cá nhân trong tập thể nhân loại, sự hối hận và ăn năn do lòng ích kỷ tạo nên. Trong bài đầu, Hạnh, một nữ sinh 16 tuổi, học cours troisième, nội trú trường Thánh Mẫu đã kể cho Mẹ Bề Trên nghe sự khốn cùng của những đứa bé xấu số được thu nhận vào Cô nhi viện. Chính vì được chứng kiến, nên Hạnh nhiệt thành xin một em bé khốn khổ nhất để làm chị đỡ đầu và nguyện đem hết khả năng sẵn có, giúp cho em đó vài tia hy vọng.
Nhưng không phải tuổi thơ nào cũng có lòng thánh thiện như Hạnh cả đâu, cũng có em thích ở nhà nghe bande nhạc như Diễm Hương. Lòng vị tha ở Hạnh, dưới ngòi bút Nhật Tiến, như một lý tưởng quá cao trọng, chẳng phải không có ở cõi đời này, nhưng rất hiếm. Nó hiếm như một tia nắng rọi giữa lòng giếng sâu khô cạn. Sở dĩ Hạnh kiên trì làm việc tốt vì có hướng dẫn của "ma soeur":
"Đừng có sợ hãi trên con đường khổ nhọc mà mình đang đi không có bạn đồng hành. Cái khó là ở chỗ mình biết giữ gìn đức tin cho đến phút kiệt lực, phút cuối cùng, phút mà lòng cảm thấy nguồn vui của một kẻ đã đem hết khả năng của mình ra phụng sự cho những điều tốt đẹp".
Lời nói trên là một phương châm, là kim chỉ nam cho mọi tấm lòng hướng thiện, chả cứ gì "ma soeur" nói ra, mà ở bất kỳ cơ quan từ thiện nào, dù Công giáo hay Phật giáo đều khuyên nhủ như vậy. Phật nói: Nước mắt chúng sinh đã ngập ba ngàn thế giới, cũng hàm chứa tình thương lai láng và mong cứu vớt con người ra khỏi bể trầm luân.
Không khí nội trú của trường Thánh Mẫu với đường lối giáo dục nghiêm khắc, ở đó, trước hết phải tin có Chúa, sau đấy phải tôn trọng lời Chúa dạy, nhưng cũng có những nữ sinh như Thu Cúc phản ứng bất ngờ trước "ma soeur" Cécile rằng mình là kẻ ngoại đạo, nên không thuộc Thánh Kinh. Và rồi mặc cho Hạnh thuyết phục, Thu Cúc vẫn cứ tin: Tất cả chỉ là bề ngoài giả dối! Nhưng không vì ý nghĩ của Thu Cúc mà Hạnh nản chí. Cô nữ sinh bé nhỏ ấy, vẫn vì lý tưởng của mình tận tình săn sóc đứa trẻ mồ côi, tật bệnh. Khung cảnh nội trú đôi khi cũng sôi động, biến chuyển qua mỗi trường hợp, mỗi vấn đề dù thuộc học vấn, giáo lý hay xã hội. Vì con người không phải ai cũng thánh thiện hoặc muốn trở thành thánh thiện, do đó, Nhật Tiến đã thực hiện tác phẩm với tâm lý nhân bản, bởi lòng thương ghét còn tuỳ ở cái Tâm mỗi người.
… Dầu sao, chúng con sẽ còn cố gắng thật nhiều nữa, để vun trồng lấy một bông hoa, một bông hoa quý báu nhất trong tất cả mọi bông hoa trên đời mà con đã được gặp. Bông hoa sẽ chào đón một tâm hồn bé bỏng đi vào một thế giới khác, ở đó không còn có mặc cảm, không còn có sợ sệt, rụt rè, đau khổ hay thiếu thốn.
Thưa Mẹ Bề Trên, bông hoa quý báu ấy chính là nụ cười hồn nhiên trên đôi môi bé bỏng của Thục vậy! …
(Tay ngọc, trang 183) Hạnh bằng lòng với nguồn vui của đời mình do mình sáng tạo. Nó là tình yêu trên tình yêu, là đời sống trên đời sống. Nó bắt rễ, đâm chồi nẩy lộc trong mọi suy nghĩ và hành động. Nó làm con người cảm thấy như mình được nâng bổng lên vùng trời thanh khiết, ở đó, sự hãnh tiến của đời sống nằm trong nguồn sáng láng của tình thương tuyệt vời. Chính vì lẽ ấy, nên Hạnh đã cảm hoá được Thu Cúc và Sơn – người tình của Cúc – tham gia vào Hội Tình Thương sau này.
Nhật Tiến, nhà văn đôn hậu, luôn luôn hướng suy nghĩ của mình vào những điều tốt. Sự thảm khốc nào đấy do chiến tranh gây nên, đều được Nhật Tiến mô tả qua khía cạnh xót thương, cùng sự bất lực của con người trước hoàn cảnh. Nhật Tiến không dùng ngòi bút của mình để cổ xuý cho hành động bất nhân, dù sự bội bạc và phản trắc của đời sống đã khắc sâu vào tâm khảm nhà văn những chứng tích. Cũng mang tâm trạng kẻ lưu đày bất đắc dĩ giữa thực tại, qua hình ảnh gã nông dân Lỗ Ma Ni trong tác phẩm Giờ thứ hai mươi lăm của Gheorghiu, Nhật Tiến bị ám ảnh, giãy giụa trong mỗi suy nghĩ về thân phận con người trước cường lực, trước bất hạnh. Nhà văn cố gắng chống lại cái giờ thứ hai mươi lăm đó, bằng cách níu lại chút tình người, giữa cơn phá sản tinh thần, chẳng những do chiến tranh, còn do sự ngờ vực, đày đoạ lẫn nhau, trong một thế giới đang đi dần vào tuyệt vọng!…
Trích văn Nhật Tiến
…Trời bên ngoài đã tối hẳn, căn buồng chật hẹp của Huệ chìm trong im lặng, cụ Chín mới đi hàng về đã rửa ráy bì bõm ở ngoài chum nước. Một lát cụ trở vào thắp cho Huệ cây đèn dầu đặt trên mặt bàn. Ánh sáng hiu hắt toả mờ mờ lên nếp vách. Huệ lấy cuốn truyện định đọc nhưng xem thấy mỏi mắt nên lại ném xuống. Nàng im lặng nằm nghe tiếng bà cụ dò dẫm một mình trong bóng tối. Có tiếng cụ mở nồi cơm lạch cạch và tiếng bát, thìa, va chạm nhau. Một lát sau có tiếng nhai lép nhép, nhỏ nhẹ. Từ lâu, Huệ đã quen với sự im lặng của cụ, ngay cả khi Huệ ốm nằm trên giường bệnh. Công việc của cụ hằng ngày có thêm việc khép cửa cho Huệ ngủ muộn, hạ bức chân gỗ xuống cho nắng khỏi chiếu vào đầu giường và buổi tối thắp hộ Huệ cây đèn dầu trên mặt bàn. Rất hoạ hoằn Huệ nghe thấy cụ hỏi thăm mình. Chỉ có những đêm Huệ ho rũ rượi và nằm rên một mình thì cụ mới trở dậy, dò dẫm đến bên đầu giường, sờ soạng:
"Có dầu đây cô này!"
Mắt Huệ mở to tìm cụ trong bóng tối lờ mờ. Huệ nom thấy khuôn mặt héo hoạn nạn và cằn cỗi của cụ chập chờn trước mắt như một bóng ma. Nàng nắm lấy bàn tay xương xẩu của cụ. Hai người lần trao cho nhau hộp dầu con hổ, rồi cụ lại lầm lũi trở vào, sau khi khêu cho Huệ ngọn đèn đã lụi bấc. Có lần Huệ muốn tỏ sự biết ơn của mình, nên hỏi thăm vu vơ:
"Hôm nay bán hàng được không cụ?"
Bà cụ nhìn Huệ, cái nhìn ngụ ý như trả lời, rồi mỗi người lại theo đuổi một ý nghĩ riêng. Sự cô độc ấy của cụ khiến Huệ ví cuộc đời cụ như cuộc đời của một con chó lang thang ở ngoài bãi hoang nơi mà dân xóm Cỏ đổ rác và các thứ hôi thối. Chúng nó sống rất dai dẳng, thiếu thốn và đầy chịu đựng. Sự chịu đựng có thể sánh ngang với bà cụ ở chung nhà với Huệ. Những đêm không ngủ, nghe tiếng cụ đập muỗi liên hồi trong bóng tối, Huệ nghĩ sao bà cụ không chết quách đi, tâm hồn sẽ được mát mẻ biết bao. Ý nghĩ ấy làm Huệ tưởng đến sự sống của mình. Thật ra thì cuộc đời Huệ cũng chẳng vẻ vang gì hơn.
Bệnh tật khiến nhan sắc của Huệ phai tàn một cách mau chóng. Hai gò má nhô cao lên, cặp mắt trũng sâu xuống. Hơn nữa, điều đáng lo nhất của Huệ là bộ ngực cứ teo lại, rúm ró như một mớ da vô tri giác. Nhiều hôm Huệ khóc thút thít một mình, nàng coi tất cả là một tai hoạ lớn lao đang đe doạ miếng cơm, manh áo.
Tác phẩm:
1. Những người áo trắng, Huyền Trân xuất bản, 1959
2. Những vì sao lạc, Phượng Giang xuất bản, 1960
3. Thềm hoang (Giải Văn chương Toàn quốc), Đời Nay xuất bản, 1961
4. Mây hoàng hôn, Phượng Giang xuất bản, 1962
5. Người kéo màn, Huyền Trân xuất bản, 1962
6. Ánh sáng công viên, Phượng Giang xuất bản, 1963
7. Chuyện bé Phượng, Đông Phương xuất bản, 1964
8. Vách đá cheo leo, Đông Phương xuất bản, 1965
9. Chim hót trong lồng, Đông Phương xuất bản, 1966
10. Giấc ngủ chập chờn, Đông Phương xuất bản, 1967
11. Giọt lệ đen, Huyền Trân xuất bản, 1968
12. Quê nhà yêu dấu, Huyền Trân xuất bản, 1970
13. Lá chúc thư, Huyền Trân xuất bản, 1970
14. Tay ngọc, Huyền Trân xuất bản, 1971
Đã cộng tác với: Văn Hoá Ngày Nay, Tân Phong, Bách Khoa, Văn Học, Đông Phương…
Chủ biên Cơ sở Xuất bản Huyền Trân
Nhật Tiến và khung trời mơ ước
Nhật Tiến đi vào văn chương bằng tình thương, một tình thương nảy sinh trong tấm lòng đôn hậu. Tuổi trẻ mà Nhật Tiến đem vào văn chương, xuyên qua thân phận mình, không phải tuổi trẻ của giận dữ và phẫn nộ. Biết rằng, dù muốn dù không, cũng phải chấp nhận cuộc đời đã có đấy. Nó là vui, buồn, yêu, ghét. Nó là cánh mây bay lang thang trên vòm trời cao cả kia, hay đống rác thối tha nhung nhúc ruồi bọ này. Vì ý thức được như vậy nên Nhật Tiến không đi tìm cuộc đời qua kẻ khác, mà tìm ngay ở bản thân, trong đáy thẳm tâm linh, ở đấy, tiếng nói chân thành thì thầm cất lên từng âm thanh nấn nuối nó với vô vàn thương mến và chua xót!
Phương pháp hành văn của Nhật Tiến thật dung dị, thoải mái ngay cả những khi cần phải đưa câu chuyện vào mức độ cao nhất của kỹ thuật dựng truyện. Nhật Tiến, nhà văn tình cảm thiên về xã hội. Tất cả những dữ kiện do cuộc sống đẩy tới, tác động vào tâm thức nhà văn đều được Nhật Tiến điều hợp cho cân xứng ở mỗi lời nói, hay mỗi động tác để trở nên có hiệu năng truyền cảm.
Với 10 năm trong nghề, và 14 tác phẩm (tính đến tháng 5-1971), đã chứng minh đầy đủ ý chí và tài năng của một nhà văn đã quyết dấn thân vào nghiệp. Trong số 14 tác phẩm, đã có 3 cuốn: Thềm hoang, Người kéo màn và Tay ngọc tái bản tới 3 lần.
Nhật Tiến rất thận trọng trong vấn đề sáng tác vì luôn luôn tin rằng, danh tiếng của nhà văn không thể và không bao giờ được cấu tạo bằng sự giả trá. Nó cần được chọn lựa và đánh giá đúng mức qua thời gian, qua nhiều chặng thử thách bắt buộc mỗi người cầm bút phải vượt qua.
Nhật Tiến quả tình đã vượt qua nhiều thử thách, mỗi một thử thách dù thành công hay thất bại, đều giúp cho nhà văn những kinh nghiệm. Người ta cho rằng, con đường văn nghiệp của Nhật Tiến là cuộc sống bằng phẳng đồng thời cũng là sự tiếp nối của nền văn học tiền chiến. Có người nghĩ, Nhật Tiến đã dùng văn chương như một hình thức điểm trang cuộc đời, ở đấy, nó không nói lên cái khí phách, cái can đảm mà tuổi trẻ cần có. Cả hai thành kiến trên đều có phần ngộ nhận. Như hầu hết các nhà văn ở lứa tuổi trên dưới 30, Nhật Tiến cũng lớn lên trong chiến tranh, cũng đã được chứng kiến những cơn biến động lịch sử, ở đó, mỗi bài học đều được tuổi trẻ mua bằng máu lệ, mua bằng uất hận, đau thương! Chỉ có khác, cái nhìn, cái biết và cái sống không nằm chung ước lệ ở mỗi tâm tư, nên sự nói ra hay tỏ bày đều được hình thành theo cảm quan riêng biệt.
Tác phẩm đầu tay: Những người áo trắng (1959), với nội dung viết về đời sống của những cô gái mồ côi ở trong khuôn viên cô nhi viện. Tất cả nỗi u uẩn, thầm kín thuộc những linh hồn bơ vơ mà Chúa cũng không đủ quyền năng để ngăn cản hay cứu rỗi cho mỗi số phận! Những dòng nước mắt tủi hờn thấm vào lòng người, tạo nên nhức nhối:
… Bởi vì mỗi đứa chúng tôi có một cuộc sống riêng biệt. Cuộc sống chỉ sống trong những đêm trằn trọc, thao thức, xót xa đầy nước mắt.
Chúng tôi không phủ nhận công lao của các bà phước, của các nhà hảo tâm, của các cơ quan từ thiện. Nhưng tình nhân loại của các người đó mới chỉ an ủi được chúng tôi một phần nào sự đau khổ về vật chất, thiếu cơm, thiếu áo, trong quãng đời côi cút của chúng tôi.
Còn linh hồn chúng tôi, những linh hồn lạc lõng thiếu tình thương của cha mẹ, tình yêu của những con người đến tuổi dậy thì và thiếu cả cái ước vọng vô bờ của tuổi hoa niên, hỏi bàn tay nào xoa dịu được?
Cho nên tâm hồn chúng tôi là những tâm hồn khao khát sự thương yêu, hằn học với thực tại, để chỉ quay về vò xé lòng mình trong những đêm dài mất ngủ…
Đoạn văn trên, trích trong trang đầu cuốn sách, nó là lời nói chân thành của một cô nhi mang tên Quỳnh, nhân vật xưng "tôi" trong tác phẩm, viết thay lời vào truyện.
Người đọc chỉ cần suy luận qua những dòng chữ ai oán ấy, có thể hình dung thấy biết bao nhiêu tủi hờn đang vò xé những tâm hồn lạc loài, vì hoàn cảnh chung, phải chịu đựng lẫn nhau trong nhiều trạng huống khốn khó. Họ là những bé gái mồ côi được nhặt về từ mọi nơi, hoặc do chiến tranh, hoặc vì xã hội. Họ đến đây, ở đây, từ lúc còn măng sữa, rồi lớn lên trong vòng đai của Chúa, do các bà phước đại diện. Ngoài phần giáo lý họ cũng được giáo dục về học vấn như ở ngoài đời nhưng họ vẫn không thuộc hẳn về xã hội, với đầy đủ quyền hành của con người thế gian, để có thể vui buồn theo ý muốn. Ở đây, họ đã hiến dâng linh hồn cho Chúa vì miếng cơm, manh áo, vì hơi thở mà bố mẹ họ bởi không may nào đó, đã không cho họ có được. Do vậy, khi đã đến tuổi trưởng thành với những thắc mắc về thân phận, nhất là tình yêu phát hiện trong lòng tuổi dậy thì với nhớ thương hình bóng người yêu để sưởi ấm tình đời. Bởi thế, có người trốn đi vì không chịu nổi cô đơn, có cả các xác chết nữa, với từng cơn buồn dằng dặc! …
Nhưng rồi thời gian mòn mỏi trôi đi. những cô gái đã qua tuổi mơ mộng. Tình cảm đã khô cong và cuộc đời được hình dung như một chịu đựng ngày này qua ngày khác, gần như vô nghĩa. Lúc đó, chỉ còn tình thương và bổn phận. Rồi cứ thế, lần lượt và lần lượt:
… Trời về cuối đông, mây u ám phủ nặng trĩu cả bầu trời. Gió bên ngoài thổi nghiêng ngả, những cành cây trụi lá. Qua khung cửa kính chỗ tôi ngồi, ngoài kia là khung cảnh tiêu điều của một buổi chiều sắp tắt. Trời sâm sẩm tối, con đường nhựa xanh láng mướt dẫn đến vườn hoa hôm nay ngập nhiều lá vàng. Tôi chắc vườn hoa ngoài ấy bây giờ cũng xơ xác lá và vắng lặng bóng người. Tôi hình dung đến ngày xưa ở đấy.
Hình ảnh bé Phượng ngày nào khóc gọi chị Loan và mẹ bên phòng bà Nhân, hình ảnh con Dung bị người ta xin mất con Nguyệt, rồi câu chuyện của Liễu bỏ ra đi tìm một tình yêu lãng mạn, cái chết của Hoà, cái chết của con người phu hồ, những mồ cỏ xanh um ngoài nghĩa địa, mối tình tuyệt vọng của tôi.
Những ngày ấy quá xa rồi, vì bây giờ tôi không còn là một thiếu nữ khao khát yêu đương. Tôi già hơn trước nhiều và lý tưởng tôi là bổn phận…
Quỳnh
Cuốn sách Những người áo trắng được khép bằng hai trang thư, với một nỗi niềm vừa bâng khuâng như kẻ lữ hành đi vào vùng trời tuyệt vọng! Tâm hồn Nhật Tiến chứa nghẹn tình thương, thứ tình thương cao trọng, ở đó, lòng thù hận và nỗi bi thiết hình như được che khuất bởi những ước mơ tràn ngập ánh sáng của sự cứu rỗi thiêng liêng nào đó.
Khởi hành từ đấy, Nhật Tiến đi sâu vào thung lũng của tâm tư để tìm về cho riêng mình một tình thương khác qua tác phẩm Những vì sao lạc. Hình ảnh những đứa trẻ không may chẳng phải chỉ được nói đến, hay chỉ xảy ra trong vòng đai cô nhi viện mà nó còn hiện diện ngay ở giữa xã hội, dưới mái gia đình, trong những hoàn cảnh vô cùng ray rứt. Kỹ thuật dựng truyện của cuốn Những vì sao lạc (1960) đi chung một đường với Những người áo trắng, thay vì trang thư, cuốn sách được mở đầu bằng những trang bút ký của Khánh. Cái phương cách mở đầu này làm hại không ít cho tác phẩm. Đọc nó, người ta coi như đã đọc xong nội dung cuốn sách. Sự bất ngờ sảng khoái do người đọc khám phá ra trong tác phẩm không còn nữa. Sự tiếp nối của những trang sau chỉ là để giải thích hoặc biện minh cho một dữ kiện nào đó, được sắp đặt trước trong tâm thức nhà văn. Văn chương không phải như vậy. Nó không cần biện minh gì ngoài nó.
Nhưng chẳng phải vì thế, cuốn Những vì sao lạc không có giá trị về phương diện truyền cảm. Nhật Tiến đã dùng tài năng riêng để đưa người đọc vào một vùng trời mà sự trong trắng của tuổi thơ chỉ còn là giận hờn, oán trách! Những tội lỗi do tuổi trẻ gây ra đều từ bên ngoài tác động. Hoàn cảnh gia đình và chính người lớn đã dồn chúng vào ngõ cụt. Biết bao nhiêu dòng chữ, nhân danh tình thương để nói lên sự thực, may mắn thay, mọi đau đớn, tan vỡ đến cuối cùng được nhà văn hàn gắn lại mở lối thoát cho những kiếp người…
… Cuộc sống của tôi êm đềm như thế cho đến năm tôi mười hai tuổi. Tôi không muốn nhắc ra đây hình ảnh đổ vỡ của một thời gian hãi hùng khi loạn lạc. Chẳng phải một mình tôi chịu số phận như thế này, mà trong những ngày đen tối đã còn biết bao nhiêu đứa trẻ có cùng một hoàn cảnh như tôi, hoàn cảnh của những đứa con mất mẹ trong khói lửa ngùn ngụt ở khắp phương trời…
(Những vì sao lạc)
Đoạn văn đã nói rõ tất cả, nó là nguyên cớ chính để nhà văn xếp đặt những sự tình xung quanh một vấn đề đã quyết định.
Nội dung hai tác phẩm trên, Nhật Tiến vô tình đi gần với Dickens, văn hào Anh ở thế kỷ XIX. Dickens cũng vì những đứa trẻ không may mắn mà tranh đấu. Ông là nhà văn hiện thực xã hội, chuyên dùng ngòi bút để chống đối những kẻ đạo đức giả và ích kỷ, đốn hèn. Hình ảnh David Copperfield dưới nét mực tuyệt luân của Dickens, không thiếu gì trong xã hội Việt Nam hiện tại, nhân vật Khánh hay Quỳnh đã chứng minh, tuy rằng, sự so sánh chỉ như một thí dụ. Vấn đề làm khổ tâm Nhật Tiến nhất, vẫn là sự hiện hữu của một cuộc sống chẳng mấy tốt đẹp cho mỗi số phận, trong một xã hội còn nhiều cách biệt. Cuộc sống đó, không được thăng hoa liên tục trong sự mong mỏi của mỗi kiếp người. Nó cũng không được hình dung qua những khuôn mặt ra vào nơi trà đình tửu quán của một hạng người may mắn do số mệnh an bài. Cái cuộc sống mà Nhật Tiến cảm thấy gần gũi với mình, nó như hơi thở, như nỗi buồn, do đấy mình có trách nhiệm. Chính vì trách nhiệm và lương tâm nhà văn, nên Nhật Tiến đã tự dấn thân vào một cảnh huống vô cùng bi đát của những kiếp người vì không nhìn rõ ý nghĩa đời sống, nên vẫn sinh hoạt một cách vô tư và an phận, bên cạnh một đời sống khác tốt đẹp hơn hoàn cảnh của họ nhiều.
Đứng trên bình diện kỹ thuật, việc hình thành một tác phẩm, đòi hỏi nhà văn ngoài lòng trắc ẩn, phải có sự nhận định vô tư, sáng suốt về mọi khía cạnh của vấn đề được đặt ra. Cuộc sống với những cảnh ngộ chẳng mấy khích lệ, thường được soi qua tấm lăng kính bi thảm, đôi khi bị chi phối bởi những ước vọng thầm kín sâu xa nào khác, nên có thể vì đó, tác phẩm mất phần hiệu năng đích thực của nó. Nhưng đó không phải trường hợp Nhật Tiến với Thềm hoang.
Trong tác phẩm Thềm hoang (1961), nhà văn đã chiếu rọi vào những kiếp người có mặt giữa vòng đai xóm Cỏ, một xóm lao động nằm ngay trong lòng thành phố, để tìm về cho mình một ý hướng sáng tạo. Mọi sinh hoạt ở đây tuân theo quy luật riêng, nghĩa là mỗi con người đều có quyền hành và trách nhiệm độc lập. Sự liên hệ giữa người thân thuộc như bố mẹ, vợ chồng, con cái nhiều lúc cũng xem như thấy-có-đó, chứ không được nối kết bởi mối dây thân ái, tình ruột thịt cùng chung cảnh ngộ không may:
Ai đưa tôi đến chốn này
Ban đêm thì tối ban ngày thì đen
Ôm đàn gẩy khúc huyên thuyên
Nghêu ngao mấy điệu cho quên tháng ngày…
Bốn câu trên, Nhật Tiến đưa vào trang đầu của cuốn Thềm hoang nhằm mục đích mở cho người đọc hé nhìn thấy, bối cảnh ngột ngạt của một cảnh tượng đang quay cuồng, chen chúc và xô đẩy nhau đi vào bi trường kịch xã hội. Những khuôn mặt: bác Tốn, tay nghệ sĩ mù kiếm ăn bằng nghề hát dạo. Thằng Ích, mồ côi cha, khôn trước tuổi. Dượng Tám, tên lưu manh sống bám vào vợ con. U Tám, người con gái không may góa bụa nửa chừng xuân, mê lời tán dóc và thân thể cường tráng của gã đàn ông để rồi đau khổ, sau cùng kết liễu đời mình bằng sợi dây oan nghiệt! Ông Phó Ngữ goá vợ, có đứa con gái duy nhất, muốn nó có tấm chồng tử tế mà không xong. Khuôn mặt vợ lão Hói, tên bói bài tây, rượu chè be bét, lúc nào cũng tin có ông Trời, cùng nỗi thê thảm của Năm Trà với khuôn mặt Huệ, cô gái điếm đã hết thời xuân sắc mà vẫn gây sóng gió trong lòng bác Tốn, qua trí tưởng tượng. Ngần ấy thân phận xô đẩy nhau, lôi cuốn nhau, hoà trộn vào nhau để cấu tạo nên một cảnh huống vừa thương phẫn vừa bi thảm.
Trong Thềm hoang, Nhật Tiến đã viết, đã suy nghĩ rất nhiều về hoàn cảnh tâm lý của mỗi nhân vật. Nhật Tiến có một nhận xét rất tinh tế và tinh vi về từng trạng thái đã xô đẩy mỗi thân phận vào vị trí đau đớn của họ. Phương pháp hành văn gọn và mạnh nên gây xúc động thật tình qua sự khóc cười rất hồn nhiên mà cũng vô cùng bi thiết của mỗi vai trò, mỗi trường hợp, trong gần 300 trang sách. Hình ảnh bác Tốn, thằng Ích như được an bài do định mệnh. Hai vóc dáng ấy hiện diện từ trang đầu đến trang cuối, chỉ để nói tới sự liên hệ về quyền lợi của lớp người đã mất tương lai! Hai thân phận như hai chứng tích, in hằn vào tâm tưởng người đọc từng nỗi giày vò chua chát. Sinh ra ở đời, mỗi số phận đều cố tìm cách vượt mình, vượt thoát hiện tại, nhưng ông trời kia, ông trời, cách đây gần một thế kỷ, Nietzsche – triết gia Đức – đã gào to: Thượng Đế chết rồi! … nhưng sự thực, đối với con người phương Đông, mỗi thân phận ít nhiều gì, vẫn còn tin tưởng có ông Trời, ông Phật hay Chúa để bám víu vào, cầu xin và an ủi mỗi lần gặp không may. Bởi vậy, khi Nhật Tiến dựng Thềm hoang với các nhân vật nói trên và những sự tình xảy ra đều ẩn giấu bên trong sự an bài của một vị Trời nào đấy!
Hai bóng người hay hai bóng ma, cứ dật dờ mỗi đêm lang thang trên những lối mòn quen thuộc để bàn cãi vớ vẩn về một hoàn cảnh không thuộc về mình:
… Những lần hai bác cháu dẫn nhau đi qua ánh đèn đỏ gay gắt của các tiệm nhảy trên phố, có tiếng kèn xoáy vào không khí tĩnh mịch ban đêm, tiếng cốc tách va vào nhau lách cách, bác Tốn thường lắc vai nó:
"Nhảy đầm khoái chứ nhỉ?"
Ích đáp có vẻ thành thạo:
"Khoái đứt đuôi đi ấy chứ lị!"
"Dơ bỏ bố đi".
"Dơ mà lại khoái!"
"Khoái nhưng dơ!…"
(Thềm hoang, trang 14)
Lời đối thoại thật nhấm nhẳn, nhưng hồn nhiên trong việc tỏ bày những gì mình cảm thấy chứ không do suy nghĩ.
Từ nhảy đầm hai bác cháu đi sang vấn đề ăn uống. Thằng Ích chỉ thích bánh ga-tô, còn bác Tốn khoái phở, nhưng tuy khoái mà không dám ăn, vì giá một tô phở gần bằng cả buổi đi lang thang hát khô cổ, gảy đàn muốn rụng tay mới có được. Sự hợp tác giữa bác Tốn và thằng Ích được ấn định rõ ràng bằng cách chia đôi số tiền kiếm được mỗi buổi. Thằng Ích có công dẫn đường, bác Tốn có công trình diễn. Số tiền thằng Ích được chia, nó giấu đi một ít để ăn quà và mua đồ tặng con Ngoan – em gái nó – một phần, đưa cho mẹ để thêm vào ngân quỹ gia đình. Còn bác Tốn cố dè xẻn, dành tiền lấy Huệ, cô gái điếm loại rẻ tiền đã hết thời nhan sắc. Nhưng bác Tốn vẫn mê nàng qua lời tả của thằng Ích: Cô Huệ đẹp và thơm lắm, cô đánh môi son, mặc áo hồng, bận quần trắng. Bác Tốn mù nên chỉ "nhìn" người mình yêu qua trí tưởng tượng với ước mơ đắm đuối! Còn Huệ, cô gái giang hồ tuy đã hết thời, lại đau ốm luôn vì ham bán đắt rẻ thể xác mong đủ miếng ăn. Mỗi đêm hành nghề xong, lúc trở về xóm có ai nói xa xôi: "Mệt không cô Huệ ơi!" nàng lại chanh chua giận dữ: "Mệt cái phải gió. Cha tổ bố, ít tiền mà cứ muốn đẹp!" Không khí sống của xóm Cỏ, xóm điển hình cho những khu cặn bã của xã hội với những sinh hoạt cực kỳ sôi nổi. Những trận đòn chí tử của anh chồng say tặng vợ, với tiếng khóc, câu cười cùng lời nói thô tục được Nhật Tiến ghi chép tận tường để trình bày thực trạng. Ngay cả tình thương yêu trong trắng của hai anh em thằng Ích cũng được diễn tả bằng những dòng chữ nhạt nhoà nước mắt:
… Chúng nó (Ích và Ngoan) nghĩ đến ngày mai ngày kia và mãi mãi, buổi sáng phải đi mót củi khô và lá rụng ở mặt đường, buổi trưa nắng gắt, đi quẩy nước ở ngoài giếng, chiều tối, dượng Tám uống rượu lảo đảo trở về, chửi lảm nhảm tới khuya. Mỗi cử động mạnh của dượng, ngay lúc dượng chẳng đánh ai cả, cũng đủ làm cho tim Ích đập nhanh trong lồng ngực. Ích nghĩ dượng Tám thật tráo trở. Dượng vui đấy, mà giở mặt ngay đấy. Nhiều khi Ích có ý muốn mình được cầm một con dao nhọn hoắt mà đâm mạnh vào tim dượng. Máu đỏ phun ra sẽ làm nó rất kinh sợ nhưng cũng hả hê biết mấy…
… Cũng có lúc Ích ước ao mình được dẫn em bỏ trốn nhà ra đi. Điều ấy lại còn khó khăn hơn là sự cầm dao giết dượng Tám. Vì trong thành phố ồn ào này, tuy rộng rãi thật, nhưng nó chẳng biết là mình sẽ đi về đâu…
(Thềm hoang, trang 27)
Sự hình thành của một nếp sống không phải ngẫu nhiên mà có, đích thực nó phải trải qua nhiều giai đoạn. Ở mỗi giai đoạn lại tích luỹ thêm những bằng chứng, xác định rõ từng sự kiện đã xâm nhập vào trong tâm hồn của con người, để tạo nên nếp sống đó.
Nó còn có thể là một không gian địa ngục, được mô tả như hoàn cảnh đương nhiên, vây lút và cuốn tròn mỗi số phận không cho vượt thoát:
… Ở đường cái rẽ vào là ngay đầu xóm Cỏ. Có những mái lá nứt rạn chia ra lối hẹp. Vào những ngày mưa, lòng xóm hoá ra lòng cống, khi nước rút đi thì ngập bùn và rác rưởi. Mùi tanh nồng theo gió thoang thoảng bay đi. Mỗi lần đêm về, lối ngõ tối hun hút như một cái miệng có chiều sâu… Một vài ngọn đèn dầu đỏ đòng đọc lùa ánh sáng qua kẽ vách không soi hết những mô đá khấp khểnh nhô lên giữa những vũng bùn đen quánh. Ở đây về đêm có từng bóng áo trắng thấp thoáng sau mấy cái thùng xe đậu rải rác. Khách tìm hoa chụm đầu vào nhau thì thào. Que diêm bật lên rồi tắt ngúm. Ánh sáng teo lại theo tàn than rồi bóng tối lại tiếp tục bưng lấy tội lỗi một cách hối hả, vội vàng…
(Thềm hoang, trang 29) Đấy, cái môi trường sinh động của một lớp người được phác hoạ trong tâm trí, để rồi các hoạt cảnh lần lượt trình bày thật linh động theo ý muốn nhà văn, những con người chui rúc nơi đây, không phải hoàn toàn mất hết nhân tính. Nhưng cái nhân tính chỉ được Nhật Tiến ghi nhận bằng những nét mờ nhạt qua nhân vật bà Chín và một vài động tác si mê của bác Tốn với Huệ trong lúc nàng ốm đau. Có nhiều lúc, bác Tốn muốn nói với Huệ một câu, một câu thôi, nhưng vì mặc cảm tự ti nên bác tự nhủ: Xấu hổ bỏ bố đi!… Câu nói phơi bày cái tâm trạng đau xót của một kẻ đã tật nguyền mà lòng còn phơi phới tình xuân. Sở dĩ bác Tốn – nghệ sĩ mù – còn sống được ở cái xóm Cỏ này, chẳng phải chỉ có Huệ, còn thằng Ích và bao nhiêu người cùng cảnh ngộ, cũng nghèo như bác, cũng lam lũ như bác, nên khi vui bác thường cất cao giọng:
"Cô Huệ ơi!
Tôi theo cô đến tận góc bể chân trời
Sông sâu tôi cũng lội, núi đồi tôi cũng leo
Sang Tây, sang Nhật, sang Lào
Sang Tàu, sang Mỹ tôi theo đến cùng…
Ới! Cô Huệ ơi! …"
Đau đớn thay mối tình bác Tốn mơ tưởng, nó chỉ là mối tình suông, mối tình tuyệt vọng vì tuy nhan sắc Huệ đã xuống, nhưng chắc chắn không đời nào Huệ chịu làm vợ anh mù hát dạo kiếm cơm! …
Nhân vật u thằng Ích, một goá phụ còn xuân sắc với đôi mắt lá răm, da trắng trẻo mịn màng, cũng được nhà văn viết với những nét thật sắc, thật bi thương. U thằng Ích vì còn trẻ nên không giữ nổi tiết hạnh trước tên Tám, có thân thể vững chắc, có đôi cánh tay gân guốc mê mình, để rồi sau khi đã làm chủ được linh hồn và thể xác lại hành hạ mình cho tới chết. Ngày trước u thằng Ích mê dượng Tám vì sức vóc, bây giờ dượng lại dùng sức vóc để tặng vợ những trận đòn ác liệt mỗi khi nổi giận vì không có tiền chơi bời cờ bạc! Tiếng khóc, ôi! tiếng khóc của người đàn bà khốn khổ về đường chồng con, đêm đêm dựa mình vào cột gỗ ngoài hiên, than van cho số kiếp, trong khi gã đàn ông khốn nạn đang ngáy nặng nề với hơi men nồng nặc! … U thằng Ích, hình ảnh người đàn bà Việt Nam cũ, đã lỡ rồi, dù khổ cực đến đâu cũng gắng chịu cho đến ngày không chịu nổi nữa thì chết!
Hình ảnh lão Hói với dáng đi lom khom và cái đầu nhẵn thín, khuôn mặt choắt cheo, mày rậm, mũi đỏ, vai đeo túi vải có đựng cỗ bài tây cáu ghét và chiếc khăn tay dơ bẩn. Đấy chân dung và gia tài của lão Hói - thầy bói bài tây - luôn mồm đọc câu:
Ngọc xuất thiên cung thủ quả châu
Hoàng Thiên thương mến quả địa cầu
Giáng tạo thay đời không tranh đấu
Thế giới thanh bình khỏi thuế sâu…
Rồi lão giải thích cho bà con lối xóm nghe rằng: Ông ấy sinh ra mình, sinh ra cây cỏ, mọi thứ lu bù. Tây, Tàu, Anh, Mỹ gì cũng thua ông hết trọi! … rồi lão tự khen: Chèn ơi! Hay thiệt à! … Lão Hói là nguồn vui cho cả xóm Cỏ, nhân vật này có mặt trong Thềm hoang với dụng ý làm nhẹ bớt sự bi thảm của tác phẩm.
Vấn đề tình yêu trong cuốn sách không kém sôi động. Vì tình yêu là vấn đề muôn thuở của vạn vật chẳng cứ gì con người, nên ngoài mối tình tuyệt vọng của bác Tốn với Huệ cũng như cuộc tình đau đớn cả thể xác lẫn tinh thần của u thằng Ích và dượng Tám, còn có cuộc tình không kém nồng nhiệt, vô cùng bình dân giữa con Đào và anh phu xích lô Hai Đào, bất chấp cả bác Phó Ngữ – bố Đào – nổi tiếng khắc nghiệt trong vấn đề dạy dỗ con gái. Ý của Phó Ngữ muốn cho con Đào có tấm chồng đàng hoàng để ông được nở mày nở mặt với xóm giềng, ai ngờ con Đào lại phải lòng tên Hai Hào, người mà ông cho là không xứng đáng làm rể ông. Nhưng Phó Ngữ không chống nổi được quyết định của ông Tơ, bà Nguyệt đã xe duyên hai đứa:
… Gã ôm lấy cô gái vào hai cánh tay. Đào cũng ghì chặt lấy gã. Giọng gã ấp úng:
"Đào ơi! Mình ơi! …"
Cặp môi của gã hôn như mưa trên má Đào. Giây sau, gã nói:
"Nên" đây, tôi chở mình đi chợ".
"Chịu thôi, chúng nó chế chết…"
"Chế cái ‘nỗ’ đít! Mặc bố nó…"
"Chịu thôi. Để đến tối".
"Tối ở đâu?"
"Sau giếng đi".
"Mấy giờ?"
"Chín giờ". Thế là buổi tối hôm đó, hai bóng người tình tự sau bờ giếng đến khuya, ông Phó Ngữ đi tìm con với vẻ giận dữ:
"Sư bố thằng Hai Hào chim con gái ông… Ông thề ghè vỡ sọ mày ra, biết chưa?"
Rồi từ xó tối có tiếng xô ghế đứng dậy và gã thấy Phó Ngữ bổ ra với cây gậy quen thuộc ở trên tay. Hai Hào vội vàng la lên:
"Ơ… ơ… đâu nào… Tôi chim ở đâu nào…"
Phó Ngữ hét lớn:
"Ông biết rồi, ông biết tỏng ra rồi…"
Nói rồi lão vụt cho Hai Hào một gậy. Gã co chân ù té chạy. Lão già vùng lên đuổi theo. Giọng lão oang oang trong cái im lặng của đêm về xóm Cỏ:
"Bố thằng Hai Hào biết chưa… ông mà túm được thì ông rút lưỡi, biết chưa?"
Chính vì hành động nóng nảy của Phó Ngữ, con Đào sợ không dám về nhà tối hôm ấy. Hai đứa vì cùng chung hoàn cảnh và đương bị tình yêu mê hoặc nên liều:
… Đến quá nửa đêm lúc gã còn đang thao thức về số phận người yêu thì có tiếng cạy cửa và tiếng gọi thì thào:
"Mình ơi!"
Hai Hào bật dậy. Gã nhảy bổ ra tháo cái then cửa. Gã nom thấy Đào đứng ở dưới chân lão Hói, giọng gã xuýt xoa:
"Sao? Mình có "nàm" sao không? Có đau không?"
Đào lắc đầu:
"Tôi không về. Nom thấy ông ấy đuổi mình, tôi đi tuốt ra đường cái rồi vòng lối giếng về đây. Mình có… bị gì không?"
"Không, tôi nhanh chân chạy được".
"Khổ quá… thật là mình khổ vì tôi".
Hai Hào vội vàng bịt lấy miệng người yêu:
"Khỉ "nắm" nữa. Đã yêu nhau rồi mà mình cứ khách khí. Tôi khổ thế chứ, khổ nữa vì mình tôi cũng cam".
Đào cảm động ôm chầm lấy gã. Gã dìu nàng đi vào bóng tối… Có tiếng chuột chạy rinh rích trên rui nhà. Một lát có tiếng Đào dãy lên:
"Đừng mình ơi!… Tôi van mình".
Rồi Đào im bặt, chỉ còn tiếng ghế ngựa đu đi đu lại kêu cót két và tiếng Hai Hào thở mạnh như những lúc gã đạp xe chở nhiều đồ…
Rồi con Đào khóc, Hai Hào dỗ dành:
"Tôi ‘nạy’ mình. Đừng có khóc. Rồi mình ‘nấy’ nhau, cần gì".
"Nhưng bố biết thì bố tôi giết".
"Biết ‘nàm’ sao được. Chốc nữa tôi đưa mình về thật sớm".
"Ngộ tôi chửa thì sao?"
"Chả ‘nàm’ sao. Mình ‘nấy’ nhau rồi, tha hồ mà chửa!…"
Tất cả những diễn tiến trong Thềm hoang dù là tình yêu hay sự xích mích giữa người này, kẻ khác, hoặc những nỗi u uẩn chứa chấp trong lòng từng con người thuộc xóm Cỏ đều được Nhật Tiến mô tả với lương tri người cầm bút. Do đó, mỗi hành động, mỗi lời nói được cân nhắc để dẫn dắt người đọc đi vào không khí riêng biệt của câu chuyện. Cái hoàn cảnh xóm Cỏ, không phải hoàn cảnh mơ ước của con người, nhưng nó có đấy để chứng minh rằng, có nhiều cuộc sống khác nhau trong một không gian ước định. Tình yêu, đau buồn, oán giận, tủi nhục hình như lúc nào cũng quấn quít để hành hạ mỗi người, thay vì thương yêu và giúp đỡ lẫn nhau. Hình ảnh bác Nhan gái oánh lộn với Phó Ngữ chỉ vì muốn can thiệp vào chuyện con Đào với ý hướng tốt. Phó Ngữ vì giận con nên giận lây cả người muốn mang lại sự tốt đẹp cho gia đình mình. Trong lúc bác Nhan gái bị đánh tơi bời, đầu tóc rối bù, cúc áo sổ tung, bộ ngực hở ra thỗn thện thì bác Nhan giai, mặt xanh như tàu lá, chân tay run lẩy bẩy co vợ ra ngoài vòng chiến.
Cuộc chiến tay chân vừa diễn xong, lũ trẻ đã thôi reo hò, khích động thì cuộc đấu khẩu giữa Phó Ngữ và con Đào lại xảy ra:
"Đêm qua mày đi đâu?"
Đào mỉm cười gượng gạo:
"Tôi đi coi hát. Tích Điêu Thuyền".
"Điêu bằng mày không? Con đĩ ngựa! Đi coi hát sao mày không về?"
Mặt Đào vênh lên:
"Về chứ sao không về. Nhưng trời tối thui, tôi sợ ma, nên ngủ luôn ở nhà bạn".
"Ma cái con chó. Tao còn lạ gì… mày đi với thằng Hai Hào".
"Khắm chửa, hào với xu nào ở đâu mà cứ nói".
"Bộ mày tưởng tao đui hả? Tao nói cho mà nghe biết chưa, tao là tao không gả con cho đồ cu li cu leo ấy đâu".
"Cu li thì đã làm sao. Miễn là tốt thì thôi chứ".
"Nó tốt mặc bố nó. Tao đã bảo không là không mà".
Đào vặc lên:
"Nhưng mà tôi ngủ với nó rồi!"
Mồm Phó Ngữ đột nhiên há ra. Mắt lão trợn tròn nhìn cô gái quý. Tay lão sững sờ buông cái chén xuống đất khiến vỡ tan tành đồng thời miệng ngoác lên:
"Ối giời ơi… làm sao… mày làm sao với nó rồi?…"
Đào lí nhí:
"Ngủ rồi!"
Trước sự thực phũ phàng và không ngờ, Phó Ngữ chỉ còn biết rên rỉ những lời thảm thiết: "Ngủ rồi… ối con ơi… thế là con ăn cứt rồi! …"
Như thế đó, cứ như thế, từ nút thắt nọ sang nút thắt kia, Nhật Tiến đã dàn trải cơn đau trong từng dòng chữ nghẹn ngào. Việc con Đào và gã Hai Hào rốt cuộc cũng xong với "sự đã rồi" đặt Phó Ngữ vào đường cùng, không bằng lòng chỉ thiệt. Trong khi đó, con thuyền tình của bác Tốn thả trôi lênh đênh giữa vũng tâm linh vẫn mong muốn đỗ vào bến lòng nàng Huệ. Nghe tin Huệ đau ốm bác nhờ thằng Ích mua hộp bánh bích-quy đắt tiền mang biếu nàng với hy vọng sẽ được Huệ ban phát tình yêu. Nhưng bánh Huệ cứ lấy, yêu bác Tốn thì không, dù thân xác nàng lúc đó cũng chẳng còn gì cho thằng đàn ông mơ ước. Nào bệnh tật, nào nghèo đói, rạc rài! Nhưng đâu bác Tốn có nhìn thấy sự thật đó, bác vẫn nhìn nàng qua lời mô tả rất gợi cảm của thằng Ích: Da trắng, thịt thơm, môi son, áo đỏ và quần trắng, phấp phới ra vào lối ngõ.
Sự thực, màn bi kịch của tác phẩm không nằm ở các dữ kiện nói trên, mà nó xảy ra trong gia đình Năm Trà đi lính đóng đồn xa, vợ con ở nhà với mẹ già. Một buổi, người vợ trẻ của Năm Trà mua cho mẹ chồng và các con mỗi người một kỷ vật xong tuyên bố ra đi, vì không chịu nổi cơ cực quá lâu với cảnh phòng không chiếc bóng, trong lúc tuổi xuân chan chứa nhựa tình. Cảnh gia đình Năm Trà phút chốc bỗng biến thành địa ngục. Tuổi già không kiếm được tiền nuôi cháu, bà cụ phải đem ba đứa cháu nội mang cho nhà mồ côi, sau một đêm trắng khóc than tình đời! Cả ba đứa trẻ đều mặc quần áo mới do mẹ chúng mua tặng, đi theo bà đến một nơi mà tình thương nhân loại thay cho tình thương ruột thịt. Vì quá thương cháu và oán hận sự đời tích luỹ trong lòng già nên bà cụ phát điên.
Người đọc cảm thấy như trong hồn mình có một sợi dây vô hình thắt lại làm đau đớn toàn bộ thần kinh, qua lời văn chân thành và cảm động của Nhật Tiến. Nội dung tác phẩm Thềm hoang chảy loang như dòng lệ khổng lồ không bao giờ khô. Mỗi số phận được đề cập tới hình như đã an bài trong một bối cảnh khắt khe, để trở thành nỗi đau đứt nuối. Hình ảnh bác Nhan giai, ốm đau nằm nhà ăn bám vợ, thèm thịt bèn nghĩ cách bẫy chuột để nhậu nhưng chẳng may đang thui chuột, vợ về bắt gặp: … Bác Nhan nhe răng cười một mình. Bác trói con chuột vào một cái cời bằng sắt và đem xoay tròn trên than hồng như thể người ta quay những con lợn. Mùi lông khét lẹt xông lên. Lớp da nứt nẻ toác ra thành những kẽ nhỏ, tiết ra một thứ nước vàng, chảy sèo sèo trên ngọn lửa. Bác lẩm bẩm:
"Khét một tí, nhưng cháy hết lông rồi thơm phải biết".
Vừa lúc ấy, bác Nhan gái trở về. Bác đánh hơi thấy mùi khen khét khác thường, nên vội vàng chạy bổ xuống bếp. Nom thấy chồng đang cởi trần trùng trục loay hoay với con chuột nham nhở, bác giậm chân tru tréo:
"Ối giời đất ơi… ông tính ăn thịt chuột đấy à?"
Bác Nhan giai giật bắn người, đứng bật dậy. Nom thấy vợ, mặt bác đỏ bừng lên như một người phạm tội bị bắt quả tang. Bác ấp úng:
"Ơ… thì thịt chuột ngon chớ…"
"Ốm ai người ta ăn thịt chuột… mà lại là chuột cống tởm thế này thì bố ai mà nuốt được…"
Bác Nhan giai vừa tức vừa giận, vội nắm lấy áo vợ chì chiết:
"Thì nói bé cái mồm chứ nào. Hàng xóm nó biết thì còn ra cái chó gì nữa!…"
Thế rồi vì con chuột cống hai vợ chồng đánh lộn, nhưng bác giai sức yếu bị bác gái đè lên trên. Cánh tay bác giai bị kẹp chặt và bộ vú của bác gái sồ sề cộm trên ngực làm tức thở. Để rửa nhục luôn bác giai nói xẵng: "Ông sợ gì… đừng có trêu gan vào đây chớ. Sặc tiết lắm rồi đấy!" Trong khi đó, nhờ sự may mắn kỳ lạ, Huệ đã khỏi bệnh và bắt tình với một thằng Tây tên Jean, chung sống như tình vợ chồng. Cuộc tình này mang lại cho Huệ tiền và một đứa con (?). Bác Tốn nghe tin, buồn quá mua rượu nhắm với tôm khô nhưng nỗi buồn cứ thấm sâu vào lòng bác. Say rượu, bác Tốn ngủ vùi, trong giấc mơ Huệ hiện ra đẹp đẽ, trắng nõn như bà đầm mà ngày xưa khi chưa đui bác nom thấy ở trên đường phố.
Rồi tới cái chết của u Tám, mẹ thằng Ích và con Ngoan. U Tám thắt cổ chết vì xấu hổ có người chồng khốn nạn như dượng Tám, ăn cắp tiền và nữ trang của gái điếm để đánh bạc. Dượng Tám lừa Huệ bằng cách giả vờ mua xác thịt, chờ Huệ ngủ say mới đánh cắp. Từ phút này trở đi, anh em thằng Ích mất hẳn tình thương ruột thịt, để rồi thằng Ích cũng bắt đầu hư hỏng vì quân bài lá bạc. Và Huệ cũng lìa bỏ cõi đời trong lúc đang pha sữa cho thằng "Giăng". Bố nó đã về xứ trên chuyến tàu cuối cùng của Quân đội Pháp rời bỏ Việt Nam, sau 80 năm thống trị và 8 năm chinh chiến tốn hao bao nhiêu xương máu, vẫn không chiếm lại được thuộc địa.
Tác phẩm Thềm hoang được kết luận bằng sự trở về của Năm Trà trong bộ đồ lính nhóm nhếch cùng nét phong trần hiện rõ trên gương mặt với bà cụ điên không nhận ra con mình, vì sự vắng mặt của nó lâu ngày mới nên nông nỗi. Đứng trước sự kiện đau đớn đó, Năm Trà cũng nổi điên luôn, gã trả thù đời bằng cách đốt nhà. Cả xóm Cỏ tan hoang trong hoả hoạn với tiếng kêu khóc thảm thương.
Rồi một trận mưa đổ dữ dội xuống đống tro tàn như ông Trời muốn rửa sạch những nhơ bẩn của một khung cảnh khốn khó để tạo dựng một xã hội công bằng, hợp lý trong tương lai? Bác Tốn ôm thằng Giăng – con Huệ – vào lòng mà hôn, như hôn hình ảnh người yêu. Thằng Ích mơ tiếng sáo thay cho tiếng đàn trong dự tính kiếm sống ngày mai!…
Thềm hoang là bức tranh xã hội Việt Nam trong những năm cuối cùng có mặt Quân đội Pháp. Ở đấy, nhà văn đã tận dụng những chất liệu do cuộc sống cung cấp để sáng tạo với kỹ thuật tài tình, sâu sắc. Nói cho đúng, nỗi vui buồn của cuộc đời nó hiện diện thường xuyên trước mặt mỗi người như mưa như nắng nên không ai để ý, nhưng khi nỗi vui buồn đó được viết ra dưới sự nhận xét và phân tích của nhà văn, nó trở thành đời sống khác, đời sống được nghệ-thuật-hoá để tác động đến tâm thức người đọc qua môi trường văn học. Tác phẩm Thềm hoang đã chiếm Giải thưởng Văn chương Toàn quốc năm 1962 và tái bản đến 3 lần, nhưng không phải vì thế mà tác phẩm toàn bích, nó vẫn cho người đọc thấy tác giả hiện diện qua ngôn ngữ và suy nghĩ của vài nhân vật mà thực tế không thể có. Nhật Tiến, một tâm hồn đa cảm và có ý hướng dùng văn chương để trình bày thực trạng của một xã hội đã quá rách nát vì chiến tranh và nghèo đói. Nhật Tiến cũng biết rằng, cuộc đời chẳng thể nào thoả mãn được những nhu cầu của lý tưởng, ngay chính bản thân nhà văn cũng chẳng có gì đáng khích lệ trong địa hạt tinh thần. Sự kiện đó làm nhà văn phẫn uất khi nhìn thấy trong thực tế, những gì mình nghĩ, mình yêu quý nó chẳng có liên hệ, ảnh hưởng gì giữa nghệ thuật, tác giả và đời sống. Cái tâm trạng bi thương ấy, được biểu lộ trong tác phẩm Người kéo màn (1962).
Người kéo màn được viết với hình thức tiểu thuyết kịch, tức là dùng đối thoại để tạo hình ảnh và động tác tâm lý nhân vật thay vì dùng khuôn thức diễn tả thông thường. Phương pháp trình bày cũng gần giống như phương pháp viết kịch nhưng, thay vì kịch, các nhân vật chỉ nói và diễn xuất trong kích thước sân khấu, thì nó lại trải rộng ra giữa cuộc đời, các nhân vật được tự do đóng "vai trò thực" của mình trong một vị trí đã dành riêng cho họ giữa những trang sách.
Đời là trường kịch, Molière đã nói như vậy. Mỗi kẻ sinh ra đều phải chơi đúng vai trò của mình với phần vụ và trách nhiệm minh bạch. Kẻ nghệ sĩ, ngoài hoạt động thường nhật như mọi người, còn có một đời sống bên trong, đời sống của nội tâm cần phải tỏ bày. Cái chức năng của nghệ sĩ là vì đời mà dâng hiến những tinh hoa của riêng mình. Sự dâng hiến không phải để cầu xin ân huệ, mà phải được quyền tham dự vào sự dâng hiến đó. Nhưng việc đời đâu có giản dị như vậy. Nó được bủa vây và ngăn trở bởi những điều kiện thực tế, nghệ sĩ khó kinh qua, thản như có kinh qua được, khi nhìn lại, cũng đã mất mát ít nhiều vốn liếng riêng tư.
Tác phẩm Người kéo màn đã nói lên sự thật, cái sự thật vô cùng chua xót mỉa mai khi nhìn thấy công trình sáng tạo của mình không còn thuộc về mình nữa. Nó được thành hình với những ti tiện, với sự lợi dụng lẫn nhau để mưu mô quyền lợi riêng. Vở kịch đem lên sân khấu, không do giá trị thực của nó, mà phải đi qua nhiều sự thực, không dự trù trong ý nghĩ nhà văn.
Nội dung Người kéo màn được trình bày như một bất lực của nghệ thuật mà người nghệ sĩ luôn luôn mang vóc dáng chàng Từ Thức cô đơn. Những khuôn mặt trình bày trong tác phẩm đều được vẽ rõ, rất rõ với nét chì đậm để người đọc nhận thức về phần mình từng chi tiết và hoàn cảnh biến động thích hợp. Tác giả chỉ còn là cái bóng mơ hồ, mờ nhạt trong hoạt cảnh sân-khấu-cuộc-đời. Nó có đó chỉ để phủ nhận vai trò của mình trong phạm trù đời sống. Nội dung Người kéo màn trình bày cái thế đứng của nghệ sĩ với nhân vật "tác giả" qua lời đối thoại:
… Thiếu phụ áo đỏ: Vậy sao người ta không thể sống vô tư được. Chính sự vô tư mới là điều cần thiết để cho cuộc đời có ý nghĩa hơn. Và cuộc đời cũng chỉ cần những kẻ vô tư như vậy thôi.
Tác giả: Bởi thế anh chỉ là kẻ đi cúi đầu mà không dám ngửng lên. Anh không được bằng tất cả mọi người.
Thiếu phụ áo đỏ: Mình lại sắp sửa tự mâu thuẫn. Thôi em chán ngấy lên rồi. Mình đứng dậy đi. Sắp đến giờ trình diễn.
Tác giả: Anh chưa muốn đến. Anh chưa muốn phải chứng kiến những nhân vật trong vở kịch đã bị ruồng bỏ trong ý nghĩ của anh.
Những băn khoăn, nỗi khắc khoải trong tâm cảm kẻ sáng tạo là đã đoán thấy, nhận biết về mình những thiệt thòi. Vở kịch được trình diễn không do mình chủ động, các vai trò cũng không do mình đào tạo, cả khán giả nữa, cũng không vì tác giả mà có mặt. Bởi vậy, giữa kích thước một sân-khấu-ước-lệ, hay sân-khấu-cuộc-đời không thể nhận định được đâu thật, đâu giả? Chiếc màn nhung đỏ ngăn cách giữa khán giả (cuộc đời) và sân khấu, chỉ là một cản trở tạm thời, cũng như sự cách biệt giữa sân khấu và hậu trường chỉ là hai trạng thái của một khung cảnh. Chính vì người đời không nhìn rõ nên cứ đinh ninh: nó là sự cách biệt thực sự, nó không cùng chung ước lệ với cuộc sống bình thường. Những nhân vật: Nghĩa, Nga, đạo diễn, nhà Mạnh Thường Quân, lão già kéo màn, đứa bé, chàng nhạc sĩ thổi Clarinette, v.v. đều xoay quanh cái trục của ngộ nhận, mâu thuẫn và bi thảm đang hiện hữu giữa đời sống.
Sự mất thăng bằng trong tâm trí vai tác giả, chỉ để trình bày nỗi phẫn nộ và tuyệt vọng của thân phận. Kẻ nghệ sĩ như người mắc bệnh mộng du, luôn luôn sống trong ảo ảnh:
… Hắn thấy mình ngụp lặn trong sự nhục nhã. Bàn tay sờ lên người hắn, khiến hắn có cảm giác như đang bị quấn bởi thân hình mềm mại của một con rắn độc. Con rắn quấn cứng lấy vai hắn. Hắn mím môi lùi lại. Tất cả mọi cái ghê tởm đều xô hắn đến đường cùng. Hắn nghĩ: "Giá mình có một con dao". Với con dao hắn sẽ cắt da thịt của hắn, nhưng không phải để gột rửa sự ghê tởm mà để hành hạ mình…
(Người kéo màn, trang 38)
Cái bi kịch nội tâm đã dồn nhân vật vào ngõ cụt. Những nhơ bẩn do cuộc sống đưa lại, mình không từ chối được, mà dùng nó như hình phạt, để tự giày vò trong một cảnh ngộ chán chường, giữa giấc hôn mê:
… Ồ! Phải rồi! Mình đã từng đọc ở micro. Nhiều người ồn ào… Chắc người ta vỗ tay! Hắn cảm thấy sung sướng như một đứa trẻ. Hắn châm diêm đốt một điếu thuốc. Ánh lửa sáng lên soi khuôn mặt phờ phạc của hắn rồi tắt ngấm ở hai bờ môi. Người phu xích-lô ghếch xe lại phía hắn.
Người phu xe: "Đi" không cậu? Có chỗ này hay lắm!"
Tác giả: "Hay thật không?"
Người phu xe: "Ồ, còn phải nói! Tuyệt!"
Tác giả: "Đó tôi biết mà! Tác giả là tôi đấy".
(Người kéo màn, trang 40)
Lời đối thoại thật chua chát, mỉa mai như những nhát búa đập mạnh vào cân não. Trong khi đó các nhân vật khác cũng đang đóng trò, đóng trò thật sự trong hậu trường giữa đạo diễn và nhà Mạnh Thường Quân, giữa ông lão kéo màn và đứa bé, giữa Nghĩa và Nga, giữa gã nhạc sĩ và mối hờn ghen đau nhói.
Rồi cơn mộng du đưa tác giả vào cuộc sống thực trong kích thước một cái bar có rượu và gái. Ở đây, tác giả đóng vai diễn viên đồng thời cũng là kẻ sáng tạo. Hình ảnh đứa bé hoang và cô gái tên Hằng, không còn là một kỷ niệm mà trở thành một chứng tích hiển nhiên đang vây quanh, sống động đâu đây. Cứ thế lần lượt, mọi diễn viên đều ra trò, dù ở sân khấu hay hậu trường hoặc trong phòng hoá trang với bao nhiêu bỉ ổi, nhơ nhuốc. Cuối cùng, Nhật Tiến cho người đọc nhận thấy chủ điểm của cuốn sách: Đừng bao giờ trông đợi kẻ khác thương mình, giúp mình một cách bất vụ lợi và nghệ sĩ nói chung, lúc nào cũng là kẻ cô đơn, chịu thiệt thì, dù ở sân khấu nào cũng vậy!
Với những suy nghĩ miên man về xã hội, sau tác phẩm Người kéo màn, Nhật Tiến vẫn sáng tác theo lương tâm mình qua cuốn: Ánh sáng công viên (1963), Chuyện bé Phượng (1964), Vách đá cheo leo (1965), Chim hót trong lồng (1966), cho đến tác phẩm Giấc ngủ chập chờn thì Nhật Tiến đã ném suy tư của mình vào vùng lửa đạn. Hình ảnh chiến tranh mới thật sự làm Nhật Tiến rung động. Nhưng, sự rung động ở tác phẩm Giấc ngủ chập chờn không phải là một thái độ nhập thế mà nó vẫn do tình thương dẫn lối. Cái bối cảnh Nhật Tiến chọn lựa để hình thành suy nghĩ, nó là một bối cảnh sống dở, chết dở của những con người vật vã giữa hai lằn súng đạn với oán thù giăng mắc ngày đêm. Con người hoàn toàn bất lực trước cảnh huống bi thương mà lịch sử đang có nhiệm vụ thi hành.
Chân dung lão Đối với khung cảnh ấp Vĩnh Hựu, nơi lão đã sinh ra, sống ở đó gần chót đời với bao nhiêu thương mến mà giờ này nó trở thành bãi chiến trường của hai vùng Quốc – Cộng. Họ săn đuổi nhau, bắn giết nhau và quyết không đội trời chung ngay cả với những người liên hệ tình ruột thịt. Lão Đối sống vật vờ với hình ảnh thằng Đực đi theo bên "ngoải". Lão không muốn, nhưng nó đã bị móc nối ra Khu rồi trở về làm du kích xã. Thỉnh thoảng nó về ấp công tác, ghé thăm nhà để ăn một bữa no nê vì "ngoải" đói quá. Còn trường hợp thằng Há vì cơn nóng giận bắn chết người Trưởng đoàn Dân vệ, sợ tù, ăn cắp súng trốn ra Khu, khi nghe tin anh ruột lấy người yêu của mình đã viết thư cho anh: "Nghe tin anh lấy con Thư. Nó là người tình lý tưởng của tôi. Tôi thề không đội trời chung với anh đó". Anh nó tên Hoanh, lính dân vệ đóng đồn ở gần nhà. Nàng cười, cho Há còn con nít biết gì mà yêu đương. Hoanh khoẻ mạnh đẹp trai, Thư mê hơn. Nhưng đau đớn thay, Há trong chuyến trở về đánh đồn, lợi dụng lúc anh vắng nhà đã chui vô mùng chị dâu và cái gì đến đã phải đến. Và sau này trước khi chết, một lần chót, hắn lại làm một tên vô luân đối với anh ruột. Trong Giấc ngủ chập chờn không phải chỉ có thế, còn rất nhiều hoàn cảnh khốn nạn đã xô đẩy con người vào mục đích khốn nạn, như thằng Bình, thằng Sách, thằng Xương, thằng Hiệu, thằng Viễn, thằng Nam, thằng Tố, v.v.
Lão Đối tượng trưng cho người dân quê mến yêu mảnh đất chôn nhau cắt rốn đến chết không rời, thế mà cũng cảm thấy xa lạ ngay cả với quê hương mình. Đêm lão lắng nghe từng nhịp chân, từng tiếng động, vì nó liên hệ đến mạng sống của con lão và bà con thân thuộc trong Ấp. Cũng từ ngày chiến tranh thật sự xảy ra, lão Đối trở thành quyển sổ hộ tịch ghi chép số người ngã xuống. Ấp Vĩnh Hựu chẳng phải chỉ có mình lão Đối vì mảnh vườn, thửa ruộng mà gánh chịu nhục nhằn, còn nhiều người khác cũng vì nó sống chết, như mẹ anh Lầu, nhất định không vào ở trại gia binh.
… Nhiều lần Lầu nài nỉ lấy cớ ở nhà có khi nguy hiểm để thuyết phục bà cụ thì cụ chỉ đáp một cách thản nhiên:
"Nguy hiểm cái gì? Ai bắn, ai giết được tao. Chúng mày là Quốc gia, chúng mày có bắn không? Còn Cộng sản à? Thì bọn thằng Há, thằng Đực, thằng Bình, lũ con cháu trong nhà chớ ai?"
Lầu cãi lại:
"Nhưng tụi nó ngày xưa khác, bây giờ khác. Bây giờ chúng nó cầm súng giết người như ngoé, bộ chỉ có má là tụi nó thương sao?"
"Tao chẳng cần đứa nào thương hết. Mà điều khi không rồi tụi nó xách súng đến bắn tao đó chắc?"
"Nhưng tên bay đạn lạc biết thế nào mà lường".
"Ui chao! Tên bay đạn lạc. Nếu cái số nó có bị tên bay đạn lạc thì dù mày có chạy đi đâu cũng vẫn bị như thường".
Rồi cụ chép miệng:
"Ui, thôi đi! Nhà tao, tao ở. Nếu có chết tao cũng được chết ở đây, nơi quê cha đất tổ. Ai ăn nhằm cái gì mà lại dại dột bỏ đi đâu…"
(Giấc ngủ chập chờn, trang 62)
Bà cụ Lầu, lão Đối và tất cả những người già cả khác ai cũng nghĩ như vậy, nên các cụ thường nói:
"Tụi bây muốn giết nhau ở đâu thì giết, nhưng cấm bắn nhau ở trong các ngõ ngách này. Chẳng dây mơ cũng rễ má, ít nhiều gì thì tụi bây cũng có liên hệ gia đình, ruột thịt hay quê hương. Giết nhau trên phần đất của ông cha là nhục nhã. Tao bảo không nghe thì đừng hòng vô xin cơm nước gì nữa hết…"
(Giấc ngủ chập chờn, trang 63-64)
Điều răn dạy trên chẳng được đứa nào nghe theo, cũng như lão Đối đã nhiều lần nói với thằng Đực: "Mày theo ai thì kệ cha mày. Mà điều đi theo bên đây thì còn đôi giày, cái áo mà bận, chớ mày qua bên đó, chết trần, chết truồng ai thương!…"
Thằng Đực nào có nghe, khi đói nó mò về ăn cơm bố xong lại xách súng theo bên kia, để rồi mê Vấn, nữ cán bộ lãng mạn bỏ chồng, có nhân tình, coi sự chung đụng xác thịt là chuyện thường. Đực u mê trong vấn đề tình ái, sau một lần hoà vui nhục thể. Vấn xa Đực một thời gian khá dài, lúc gần sinh nở thì cho người liên lạc với Đực. Nghe tin, Đực đi cả ngày đường tới thăm và được Vấn sai mua một lô thuốc để chuẩn bị ngày lâm bồn, trong khi chưa biết chắc đã phải giọt máu của mình.
Đực làm gì ra tiền. Một đêm tối trời, trở lại nhà để làm khổ lão Đối:
… Một lát sau, Đực thổ lộ cho lão Đối tất cả tâm sự thầm kín của mình. Rồi gã kết luận:
"Các thứ thuốc cần dùng có ghi cả trong mảnh giấy đó. Tía cố lo mua giúp giùm tôi. Ở chợ không có thì lên quận, mà quận không có thì lên tỉnh".
Lão Đối hậm hực, vặc lên:
"Tổ cha mày, mày làm như tao phải chịu tội đi hoang cho mày không bằng".
Đực giận dữ:
"Hoang cái gì chứ. Bộ tía tưởng tôi coi nó như loại người mèo tha, quạ mổ ngoài giữa lộ sao. Nói cho tía hay, tôi lấy nó làm vợ đó".
"Mày lấy ai thì mặc cha mày. Mà điều đừng có ỉ eo gì với tao".
"Thì dẫu sao nó cũng là con dâu của tía mà".
"Dâu với dia gì. Mày ưng nó, mày ngủ với nó, mày có hỏi tao lấy một tiếng không?"
"Thì bây giờ tôi hỏi đó".
"Rồi nếu tao không ưng thì mày tính sao?"
"Chèn ơi! Thời buổi này mà tía làm như hồi tía còn xuân xanh. Chuyện vợ chồng thì chỉ mình tôi ưng là đủ chớ…"
(Giấc ngủ chập chờn, trang 169) Nhưng nói gì thì nói, vì tình thương đứa con duy nhất, lão Đối vẫn phải thu vén được hơn hai ngàn, tiền dành dụm bao lâu lên phố chợ mua thuốc đã ghi trong mảnh giấy. Ác thay, các loại thuốc hỏi mua, đều thuộc loại đắt tiền và thuốc cấm, nên phố chợ không có, lão mò lên tỉnh. Sau khi mua được thuốc, trở về bị bắt vì tin đồn lão đi lùng mua trụ sinh tiếp tế cho bên "ngoải", mặc dầu lão phản đối om sòm.
Trong Giấc ngủ chập chờn, Nhật Tiến đã phóng hồn vào khung trời sáng tạo, ở đó, tất cả mọi suy tư, mọi cảnh ngộ biến động, mọi xót thương, oán thù đều ở ngoài chiều kích sống của nhà văn, nên sự có mặt của Thư, người đàn bà nhà quê hư đốn, khi chồng vừa đăng lính biệt kích Mỹ đã có ý định ngoại tình, và chuẩn uý Dũng với vòng đai đòn, không mấy tương phù với thực tế. Cái sống, cái chết của những sinh vật có mặt chập chờn trong vùng "xôi đậu" sự thực nó có thê thảm, nhưng không thể có mẫu người như Thư, như Há. Trong tiểu thuyết nhà văn có quyền viết ra những gì mình muốn và chỉ dùng như biểu-tượng-cuộc-đời để tỏ bày ý nghĩ.
Tác phẩm Quê nhà yêu dấu cùng mang chung ước lệ như Giấc ngủ chập chờn, nó chỉ khác qua những khuôn mặt thơ ngây của Thu, của Hương, của Hạnh, thằng On, thằng Tư, v.v. là lứa tuổi nạn nhân chiến tranh.
Những nhân vật của Quê nhà yêu dấu cũng bám riết lấy quê hương như bám vào nguồn sống thiêng liêng cao cả. Ôi! Quê hương yêu dấu, quê hương Việt Nam đã bao lần tan nát, còn tan nát đến bao giờ? Những bờ tre, bụi chuối thân yêu, những mái gianh êm đềm chung vui hạnh phúc, những đêm trăng, sao mến yêu làm vậy? Này đây, từng khuôn mặt trẻ thơ vô tội, thay vì được đi học, được nô đùa vô tư, được nghe kể chuyện cổ tích, được sống những giờ phút thanh bình nhưng chiến tranh làm thui chột tất cả, làm vỡ tan tất cả để chỉ còn lại xơ xác, điêu tàn! Hình ảnh lão Bảy trong Quê hương yêu là hiện thân của lão Đối trong Giấc ngủ chập chờn và các tên như Huấn, Bằng, Hiếu, v.v. vẫn mang tâm trạng và hình thức như Há, Đực, Hoanh trong vòng đai Ấp Vĩnh Hựu giữa bối cảnh lịch sử này. Trong Quê hương yêu dấu, Nhật Tiến viết nhiều đoạn thật cảm động với con Hương bị mất một chân vì mìn trong chuyến đi xe hoả, đi theo mẹ lên tỉnh. Nhưng Hương còn bé quá chưa biết oán trách chỉ cầu xin cho có phép lạ nào, hoặc bà tiên trên trời làm ngưng tiếng súng để không còn một chuyến tàu nào bị mìn và bom đạn thôi rơi xuống đồng quê!
Niềm mơ ước đó, tiếc thay, chỉ là mơ ước của tuổi thơ, quê hương yêu dấu vẫn bị chiến tranh vò nát mỗi giờ phút và kẻ đi vào chiến trận nhiều khi được bình yên, kẻ ở nhà lại gánh chịu tang thương, chết chóc. Do đó, tình yêu thương không có chỗ dừng chân và kịp nảy nở ở các thôn xóm chẳng may thành bãi chiến trường và ai biết được trên những vẻ mặt kia, mọi cảm xúc đã nguội lạnh như hòn than nóng bỏng bị dìm sâu đáy nước! Và âm thanh dữ dội của những cuộc giao tranh, từ trên trời trút xuống, từ dưới đất búng lên, chát chúa, rền rĩ, liên tục đã giết chết những khả năng nghe và nghĩ của lũ trẻ không may trót đầu thai vào vùng lửa đạn!
Nghi ngờ, thù hận hình như lúc nào cũng lôi cuốn mỗi số phận vào guồng máy của cuộc chiến không thuộc về mình và những cái chết vô danh thảm thương làm mồi cho cá. Những đôi chân bị tàn tật vì mìn, chông và từng cơn đói khát đã làm con người trở thành thú vật. Cả tình yêu nữa, cũng gây nên bi thảm trong lòng người lớn và trẻ thơ như trường hợp chị Huấn chồng đi vắng lâu ngày, không chờ đợi được, nên đã lấy chồng khác. Khi đứa con thắc mắc, chị trơ trẽn cho rằng chuyện đó không liên quan gì đến con nít. Rồi sự trở về của Hoành, bố thằng Tư, người lính chiến cụt chân, phải chứng kiến cảnh quê nhà gai góc và nấm mộ của đứa con chưa xanh ngọn cỏ! Cánh bướm nào đó, những cánh bướm của mộng mơ đang bay chập chờn trong tiềm thức con Thu, con Hương hay con Hạnh cũng chỉ là ảo tưởng! Và mụ Phước kia nữa, vì lòng thương con, đứa con theo "ngoải", vẫn hàng ngày tiếp tế cho nó nắm cơm treo lên cành cây ở đầm Tròn!
Tất cả vì quê hương, cho quê hương, nhưng cuối cùng mọi người cũng phải bỏ nó để đêm đêm nhìn về qua đốm mắt hoả châu soi sáng chiến trường. Trên một ngọn đồi cao, hàng trăm con người biến thành trăm cây cột gỗ vô tri trồng tua tủa trên nền đất khô cằn, hướng về phía quê hương đang cháy đỏ. Họ im lặng, thứ im lặng của phẫn nộ hay tủi sầu nào ai đoán biết?…
Luôn luôn và lúc nào Nhật Tiến cũng khơi động tình thương người, thương mệnh nước. Sự đắm chìm vào cơn cuồng loạn của dục tình đâu đó, trong truyện của Nhật Tiến chỉ là để thoả mãn thị hiếu chứ nó không phản ánh trung thực nếp suy nghĩ của nhà văn. Tập truyện Giọt lệ đen (1968) hay Lá chúc thư (1969) cũng chỉ để nói lên tình thương ẩn nấp tự đáy thẳm của một tấm lòng đầy vị tha, bác ái.
Cái khung trời Nhật Tiến mơ ước, thật hiền hoà và trong sáng. Nó là ánh mắt tinh khiết của em bé thơ ngây. Nó là một bàn tay nồng ấm của tình mẹ thương con. Nó là tiếng cười pha-lê của tuổi ngọc. Nó là tiếng chim hót đầu cành nắng sớm. Nó là cánh bướm bay thênh thang ngoài nội cỏ. Nó là tiếng sáo diều vi vút giữa chiều tà trong không gian hiền hậu. Nó là tình người mến thương quấn quít. Nó là tất cả những gì mà nhân loại ước mơ: hoà bình, thân ái. Chính vì chân thành với nguyện vọng của mình nên Nhật Tiến đưa suy nghĩ vào tuổi nhỏ. Cái vườn đời xinh tươi ấy dù có bị cuộc đời xung quanh vây hãm bằng ti tiện, đê hèn, giả dối và cả đau buồn của chiến tranh nữa, nhưng trong nó vẫn còn giữ lại được những gì mà người lớn đã đánh mất.
Tác phẩm Tay ngọc chứng minh điều trên. Nội dung Tay ngọc không mang một ẩn dụ nào về tư tưởng, chỉ là những ý nghĩ hồn nhiên, hiền hoà như một dòng suối trong suốt chảy từ triền cao của ý thức. Tay ngọc gồm 18 bài bút ký, mỗi bài gói ghém một vấn đề của tuổi nhỏ đã sống gần gũi Chúa trong khuôn khổ giáo dục của các mẹ bề trên. Những cảnh tượng mà tuổi thơ nhìn thấy với cảm nghĩ tuyết băng, đã đánh thức tự đáy lương tri của mỗi cá nhân trong tập thể nhân loại, sự hối hận và ăn năn do lòng ích kỷ tạo nên. Trong bài đầu, Hạnh, một nữ sinh 16 tuổi, học cours troisième, nội trú trường Thánh Mẫu đã kể cho Mẹ Bề Trên nghe sự khốn cùng của những đứa bé xấu số được thu nhận vào Cô nhi viện. Chính vì được chứng kiến, nên Hạnh nhiệt thành xin một em bé khốn khổ nhất để làm chị đỡ đầu và nguyện đem hết khả năng sẵn có, giúp cho em đó vài tia hy vọng.
Nhưng không phải tuổi thơ nào cũng có lòng thánh thiện như Hạnh cả đâu, cũng có em thích ở nhà nghe bande nhạc như Diễm Hương. Lòng vị tha ở Hạnh, dưới ngòi bút Nhật Tiến, như một lý tưởng quá cao trọng, chẳng phải không có ở cõi đời này, nhưng rất hiếm. Nó hiếm như một tia nắng rọi giữa lòng giếng sâu khô cạn. Sở dĩ Hạnh kiên trì làm việc tốt vì có hướng dẫn của "ma soeur":
"Đừng có sợ hãi trên con đường khổ nhọc mà mình đang đi không có bạn đồng hành. Cái khó là ở chỗ mình biết giữ gìn đức tin cho đến phút kiệt lực, phút cuối cùng, phút mà lòng cảm thấy nguồn vui của một kẻ đã đem hết khả năng của mình ra phụng sự cho những điều tốt đẹp".
Lời nói trên là một phương châm, là kim chỉ nam cho mọi tấm lòng hướng thiện, chả cứ gì "ma soeur" nói ra, mà ở bất kỳ cơ quan từ thiện nào, dù Công giáo hay Phật giáo đều khuyên nhủ như vậy. Phật nói: Nước mắt chúng sinh đã ngập ba ngàn thế giới, cũng hàm chứa tình thương lai láng và mong cứu vớt con người ra khỏi bể trầm luân.
Không khí nội trú của trường Thánh Mẫu với đường lối giáo dục nghiêm khắc, ở đó, trước hết phải tin có Chúa, sau đấy phải tôn trọng lời Chúa dạy, nhưng cũng có những nữ sinh như Thu Cúc phản ứng bất ngờ trước "ma soeur" Cécile rằng mình là kẻ ngoại đạo, nên không thuộc Thánh Kinh. Và rồi mặc cho Hạnh thuyết phục, Thu Cúc vẫn cứ tin: Tất cả chỉ là bề ngoài giả dối! Nhưng không vì ý nghĩ của Thu Cúc mà Hạnh nản chí. Cô nữ sinh bé nhỏ ấy, vẫn vì lý tưởng của mình tận tình săn sóc đứa trẻ mồ côi, tật bệnh. Khung cảnh nội trú đôi khi cũng sôi động, biến chuyển qua mỗi trường hợp, mỗi vấn đề dù thuộc học vấn, giáo lý hay xã hội. Vì con người không phải ai cũng thánh thiện hoặc muốn trở thành thánh thiện, do đó, Nhật Tiến đã thực hiện tác phẩm với tâm lý nhân bản, bởi lòng thương ghét còn tuỳ ở cái Tâm mỗi người.
… Dầu sao, chúng con sẽ còn cố gắng thật nhiều nữa, để vun trồng lấy một bông hoa, một bông hoa quý báu nhất trong tất cả mọi bông hoa trên đời mà con đã được gặp. Bông hoa sẽ chào đón một tâm hồn bé bỏng đi vào một thế giới khác, ở đó không còn có mặc cảm, không còn có sợ sệt, rụt rè, đau khổ hay thiếu thốn.
Thưa Mẹ Bề Trên, bông hoa quý báu ấy chính là nụ cười hồn nhiên trên đôi môi bé bỏng của Thục vậy! …
(Tay ngọc, trang 183) Hạnh bằng lòng với nguồn vui của đời mình do mình sáng tạo. Nó là tình yêu trên tình yêu, là đời sống trên đời sống. Nó bắt rễ, đâm chồi nẩy lộc trong mọi suy nghĩ và hành động. Nó làm con người cảm thấy như mình được nâng bổng lên vùng trời thanh khiết, ở đó, sự hãnh tiến của đời sống nằm trong nguồn sáng láng của tình thương tuyệt vời. Chính vì lẽ ấy, nên Hạnh đã cảm hoá được Thu Cúc và Sơn – người tình của Cúc – tham gia vào Hội Tình Thương sau này.
Nhật Tiến, nhà văn đôn hậu, luôn luôn hướng suy nghĩ của mình vào những điều tốt. Sự thảm khốc nào đấy do chiến tranh gây nên, đều được Nhật Tiến mô tả qua khía cạnh xót thương, cùng sự bất lực của con người trước hoàn cảnh. Nhật Tiến không dùng ngòi bút của mình để cổ xuý cho hành động bất nhân, dù sự bội bạc và phản trắc của đời sống đã khắc sâu vào tâm khảm nhà văn những chứng tích. Cũng mang tâm trạng kẻ lưu đày bất đắc dĩ giữa thực tại, qua hình ảnh gã nông dân Lỗ Ma Ni trong tác phẩm Giờ thứ hai mươi lăm của Gheorghiu, Nhật Tiến bị ám ảnh, giãy giụa trong mỗi suy nghĩ về thân phận con người trước cường lực, trước bất hạnh. Nhà văn cố gắng chống lại cái giờ thứ hai mươi lăm đó, bằng cách níu lại chút tình người, giữa cơn phá sản tinh thần, chẳng những do chiến tranh, còn do sự ngờ vực, đày đoạ lẫn nhau, trong một thế giới đang đi dần vào tuyệt vọng!…
Trích văn Nhật Tiến
…Trời bên ngoài đã tối hẳn, căn buồng chật hẹp của Huệ chìm trong im lặng, cụ Chín mới đi hàng về đã rửa ráy bì bõm ở ngoài chum nước. Một lát cụ trở vào thắp cho Huệ cây đèn dầu đặt trên mặt bàn. Ánh sáng hiu hắt toả mờ mờ lên nếp vách. Huệ lấy cuốn truyện định đọc nhưng xem thấy mỏi mắt nên lại ném xuống. Nàng im lặng nằm nghe tiếng bà cụ dò dẫm một mình trong bóng tối. Có tiếng cụ mở nồi cơm lạch cạch và tiếng bát, thìa, va chạm nhau. Một lát sau có tiếng nhai lép nhép, nhỏ nhẹ. Từ lâu, Huệ đã quen với sự im lặng của cụ, ngay cả khi Huệ ốm nằm trên giường bệnh. Công việc của cụ hằng ngày có thêm việc khép cửa cho Huệ ngủ muộn, hạ bức chân gỗ xuống cho nắng khỏi chiếu vào đầu giường và buổi tối thắp hộ Huệ cây đèn dầu trên mặt bàn. Rất hoạ hoằn Huệ nghe thấy cụ hỏi thăm mình. Chỉ có những đêm Huệ ho rũ rượi và nằm rên một mình thì cụ mới trở dậy, dò dẫm đến bên đầu giường, sờ soạng:
"Có dầu đây cô này!"
Mắt Huệ mở to tìm cụ trong bóng tối lờ mờ. Huệ nom thấy khuôn mặt héo hoạn nạn và cằn cỗi của cụ chập chờn trước mắt như một bóng ma. Nàng nắm lấy bàn tay xương xẩu của cụ. Hai người lần trao cho nhau hộp dầu con hổ, rồi cụ lại lầm lũi trở vào, sau khi khêu cho Huệ ngọn đèn đã lụi bấc. Có lần Huệ muốn tỏ sự biết ơn của mình, nên hỏi thăm vu vơ:
"Hôm nay bán hàng được không cụ?"
Bà cụ nhìn Huệ, cái nhìn ngụ ý như trả lời, rồi mỗi người lại theo đuổi một ý nghĩ riêng. Sự cô độc ấy của cụ khiến Huệ ví cuộc đời cụ như cuộc đời của một con chó lang thang ở ngoài bãi hoang nơi mà dân xóm Cỏ đổ rác và các thứ hôi thối. Chúng nó sống rất dai dẳng, thiếu thốn và đầy chịu đựng. Sự chịu đựng có thể sánh ngang với bà cụ ở chung nhà với Huệ. Những đêm không ngủ, nghe tiếng cụ đập muỗi liên hồi trong bóng tối, Huệ nghĩ sao bà cụ không chết quách đi, tâm hồn sẽ được mát mẻ biết bao. Ý nghĩ ấy làm Huệ tưởng đến sự sống của mình. Thật ra thì cuộc đời Huệ cũng chẳng vẻ vang gì hơn.
Bệnh tật khiến nhan sắc của Huệ phai tàn một cách mau chóng. Hai gò má nhô cao lên, cặp mắt trũng sâu xuống. Hơn nữa, điều đáng lo nhất của Huệ là bộ ngực cứ teo lại, rúm ró như một mớ da vô tri giác. Nhiều hôm Huệ khóc thút thít một mình, nàng coi tất cả là một tai hoạ lớn lao đang đe doạ miếng cơm, manh áo.
Bác Tốn biết tin Huệ ốm vào
lúc ngồi ăn cơm ở nhà bác Nhan. Cái Hôn nói:
"Cô Huệ thuê con hai đồng để giặt hộ cho cô ấy bộ quần áo".
Bác Nhan gái buông đôi đũa của mình xuống mâm, chửi đổng một câu:
"Tiên nhân cha con bỏ mẹ, lăn vào chỗ ấy để vi trùng nó ăn luỗng phổi mày ra à?"
Cái Hôn tưởng sẽ được khen vì số tiền nó kiếm ra lần đầu trong đời nó, không ngờ bị chửi nên mặt sưng lên. Một lát nó buông bát dằn dỗi đứng dậy. Mâm cơm vui vẻ đột nhiên im lặng đến khó chịu. Mọi người chỉ nghe thấy tiếng nhai ở trong mồm nhau. Mặt bác Tốn trở nên trầm ngâm và buồn bã. Mắt bác nhắm nghiền hẳn lại, bờ môi hơi trễ xuống, vừng trán thấp thoáng mấy nếp nhăn. Bác hình dung thấy Huệ mệt mỏi nằm sau lần chăn trắng, cặp mắt đen và sâu, hơi thở nhẹ nhàng, yếu ớt. Bác thấy tình yêu bừng lên như men rượu. Nếu Huệ có bác thì bác sẽ thức đêm để ngồi bên Huệ, rót nước cho Huệ uống, bón cháo cho Huệ ăn, bác vuốt ve trìu mến từng sợi tóc óng ả của Huệ. Những ý nghĩ ấy cứ ám ảnh trong đầu bác gây cho niềm yêu của bác càng thêm nung nấu.
Buổi tối, bác ôm đàn đi theo Ích ra ngoài phố, bác gợi chuyện:
"Cô Huệ mà ốm nhỉ…"
Ích nói:
"Ốm từ lâu rồi đấy chứ…"
"Thế mà tao không biết. Còn mày, sao mày biết?"
"Trưa nào gánh nước cháu chả đi qua".
"Dòm vào à?"
"Dòm chơi".
"Thấy cô ấy không?"
"Thấy chứ".
"Nằm ở đâu?"
"Ở giường chứ ở đâu".
Bác Tốn cười hề hề:
"Ừ nhỉ!"
Một lát thấy nó im lặng, bác lại nói:
"Mày thích ốm không?"
"Thích chứ! Ốm được nằm một chỗ, chẳng phải làm gì cả".
"Lại có cả cam ăn nữa".
"Gớm! Bác làm như triệu phú không bằng".
"Chắc cô Huệ thì có".
"Cháu không biết!"
"Mày dòm mà lại không biết!"
"Thật mà! Chỉ thấy cháo thôi!"
"Cháo gì?"
"Chắc cháo thịt".
Tự nhiên bác Tốn thấy vui. Bác hài lòng về sự ăn uống của Huệ. Điều ấy khiến bác trở nên mạnh bạo hơn, bác hỏi thằng Ích:
"Mày trông cô ấy có xanh xao lắm không?"
Ích nhìn vào mặt bác. Nó hơi ngạc nhiên thấy câu chuyện của bác chỉ xoay quanh có mỗi cô Huệ. Nhưng nó không nghĩ gì hơn cả. Nó đáp:
"Xanh đứt đi chứ! Nhất là cái mặt, nom như người chết trôi".
Bác Tốn thấy đau lòng. Bác định thăm hỏi nhưng sợ nói nhiều sự thực rõ hơn nữa, nên im lặng đi bên. Ngón tay bác bật mấy dây đàn. Lòng bác buồn thấm thía. Nhưng càng buồn, bác càng thương Huệ, càng muốn lấy Huệ làm vợ mình. Bác mơ màng nghĩ đến một cái nhà nhỏ, mái ngói, vách tường, ở đấy bác sống êm đềm bên cạnh Huệ. Sau những bữa cơm, Huệ quấn thuốc sâu kèn cho bác hút, hai người nói chuyện tương lai, chuyện thằng nhỏ xinh xinh mà Huệ sắp cho chào đời. Bác sờ tay lên bụng Huệ, sẽ hỏi thăm sự cựa quậy của nó, chắc Huệ sẽ nũng nịu mà trách bác:
"Nó cứ đạp em".
Tiếng em của Huệ xưng với bác sao mà êm đềm và thân yêu như thế. Bác chợt muốn hôn Huệ, muốn ôm Huệ vào lòng, nhưng bên cạnh bác vẫn chỉ là thằng Ích chập choạng bước đi ở trong bóng tối. Những ý nghĩ về Huệ làm bác thấy gần nàng hơn. Bác chợt nảy ra ý định mua cho Huệ một món quà. Cái sáng kiến ấy vụt bừng lên như ánh chớp của một vì sao đổi ngôi. Bác thấy thật là hay ho và ý nhị mà chưa bao giờ bác nghĩ tới. Lòng bác vụt xao xuyến như chính Huệ giơ tay cảm động nhận quà của bác, Huệ đang nhìn bác với lòng mến yêu, và bác cũng cảm động lây ngay từ phút ấy. Bác Tốn thấy lòng vui trở lại, tay bác sờ soạng lên mái tóc trơ trụi của thằng Ích. Bác khẽ lắc cái đầu nó rồi nói:
"Ích ơi, mày có biết ở đâu bán bánh không?"
Ích ngạc nhiên hỏi:
"Bác hỏi bánh làm gì?"
"Tao làm cái này!"
"Cái này là cái gì?"
"Cho! … Mua cho…"
"Cho ai?"
"Cái thằng lạ nhỉ! Cho ai chẳng được".
Ích toét ra cười:
"Thôi cháu biết rồi, bác cho cô Huệ chứ gì…"
Mặt bác Tốn chợt nóng lên, bác bối rối tưởng chừng như mọi người ai cũng đều rõ mối tình thầm kín của bác, cho nên bác vội lấp liếm:
"Ừ thì cho cô Huệ đã sao!"
"Bác lại muốn bắt nhân tình hả?"
"Thằng ranh! Chỉ nói bậy!"
"Nếu không thì tự dưng ai lại mất tiền tôi như thế. Đúng tủ con chuồn chuồn rồi…"
Bác Tốn cười hềnh hệch, tiếng cười như thú nhận sự thực với nó, rồi làm như nó là đồng minh với mình, bác co một cánh tay nó về phía sau, nói nhỏ:
"Tao mê thật đấy. Nhưng cấm mày bép xép nghe không?"
"Ai rỗi hơi, nói làm gì!"
"Thì tao cứ dặn thế, chứ còn mày thì tao biết".
Ích hỏi:
"Thế bác mê lâu chưa?"
Bác Tốn đưa cái cằm của mình về phía trước, hai hàm răng ngựa nhe ra dưới ánh đèn:
"Cũng lâu lâu".
"Thế mà tầm ngẩm thật… thảo nào có vẻ khoái cô ấy dữ…"
"Còn mày thì nghĩ sao? Bộ tao có ăn thua gì không?"
"Đứt đuôi đi rồi!"
"Sao lại đứt đuôi đi rồi?"
"Ồ! Có tiền thì muốn gì cô ấy chẳng được".
"Nhưng tao có xứng không ấy chứ?"
"Xứng đứt đuôi đi chứ còn phải chê gì nữa".
Lòng bác Tốn dào dạt vui sướng. Lúc này bác thật dễ dãi và thấy cần một niềm tin. Nên dù niềm tin ấy do thằng Ích mang lại cũng đủ cho bác sướng mê tơi đi rồi. Bác ôm chặt cây đàn vào ngực, rồi bác vừa gảy, vừa hát sẽ:
Trên trời xanh bóng trăng
Dưới bên con thuyền lội nước tung tăng…
Hai bác cháu đi lên chỗ có ánh đèn rực rỡ. Tiếng người ồn ào qua lại vang ở bên tai bác Tốn. Bác mở to mắt nhìn ngang ngửa. Một màng sáng đục thấp thoáng có những bóng đen mơ hồ đi qua mặt. Cái vui của một buổi chiều trong thành phố làm tăng thêm niềm vui trong lòng bác. Tình yêu dâng lên dào dạt, bác Tốn cảm thấy lòng ngây ngất.
Chợt Ích nắm tay bác dừng lại:
"Bánh đây này! Bác định mua thứ nào?"
"À… à… có những bánh gì?"
Ích đảo mắt ở trước tủ kính sáng choang đầy chai lọ:
"Ối ra! Bánh ga-tô, bánh đậu xanh, bánh khảo, bánh cốm, bánh sâm-banh, gì cũng có…"
Bác Tốn phân vân:
"Gì được nhỉ… mày thì mày mua cái gì?"
"Cháu thì cháu khoái ga-tô".
"Ga-tô! Ốm ai lại ăn bánh ga-tô! Thôi mày mua bánh bích quy đi".
"Độ bao nhiêu".
"Cầm lấy hai chục".
"Hai chục cơ! Sang thế! Hai ngày hát đấy"
"Thì mặc kệ tao".
Thằng Ích cầm tiền đi vào trong hiệu. Lần đầu tiên trong đời, nó được bước vào một hiệu sang như thế. Tay nó xoè sẵn tờ giấy bạc cho người bán hàng trông thấy, miệng nó nói:
"Bán cho hai chục bánh bích quy!"
Cô hàng nhìn nó chăm chú, rồi cô cầm tiền và lấy cho nó một hộp bánh. Thứ hộp sắt tây có bọc giấy bóng hẳn hoi. Ích vui mừng giơ cái hộp lên ngắm nghía. Nó nghĩ hai chục bạc có khác, cái hộp quý hơn cả những chiếc bánh ở trong. Nó chạy ra khoe rối rít:
"Hai chục đây này! Oai không chê được!"
Bác Tốn cảm động giơ tay đón lấy. Năm ngón xương xẩu của bác vuốt mãi lên nếp giấy phẳng và mịn. Đoạn bác đưa lên mũi ngửi. Bác cảm thấy ở đấy toát ra một mùi đặc biệt, vừa thơm, vừa mát, vừa sang trọng, phú quý. Lòng bác rộn ràng nghĩ đến lúc Huệ cầm hộp bánh ở trong tay. Huệ sẽ biết rằng bác nghĩ đến Huệ mà chỉ cần Huệ biết cho như thế là bác đã thấy tim mình đập mạnh lên rồi.
Sờ mó một hồi, bác trao cho thằng Ích rồi nói:
"Hôm nay về sớm một tí, mày chịu khó mang sang hộ tao nhé".
"Làm gì mà vội thế. Mình về thì cô ấy ngủ mất còn đâu".
"Nhưng để ban ngày không tiện. Hàng xóm người ta biết".
"Biết thì làm sao?"
"Xấu hổ bỏ bố đi".
Hai bác cháu cùng mỉm cười. Ích thu cái hộp vào trong bọc áo rồi nói:
"Cô Huệ được cái này thì sướng mê cu tơi đi rồi!"
"Bánh bích quy thì thiếu gì! Còn sợ cô ý chê nữa ấy chứ. Mày nghĩ có chê không?"
Ích đáp:
"Chả chê đâu".
"Ngộ cứ chê thì sao?"
"Thì chúng mình ăn".
"Mày nói như bố con chó xồm ấy".
"Thế chả ăn thì vứt đi à!"
"Ừ nhỉ! Nhưng chả chê đâu!"
Ích gắt lên:
"Rõ ấm ớ! Chê rồi lại không chê, rồi lại chê!"
Bác Tốn cười hềnh hệch:
"Ừ nhỉ! Thôi, đến tối rồi biết".
Ích nói:
"Tối thì cháu nói làm sao?"
"Mày nói thế nào tuỳ ý kiến của mày".
"Nói toạc ra là bác phải lòng cô ấy nhé!"
"Ấy chớ nói thế thì chết!"
"Sao chết?"
"Chết chứ, phải từ từ thôi cái đã mới được".
"Vậy cháu cứ đút hộp bánh vào cửa sổ nhé".
"Ấy đừng!… Phải nói chứ!"
"Sao bảo nói thì chết".
"Nói, nhưng nói khéo cơ chứ. Mày bảo tao phải lòng cô ấy thì bỏ bố tao rồi".
"Bác rõ rắc rối!"
"Mày ngu như bò ấy. Tâm lý phải thế chứ".
"Ừ, thì bác bảo phải nói cái gì nào!"
Bác Tốn gật gù:
"Mày phải nói tao quý cô ấy".
"Sao quý?"
"Hỏi thế thì đếch ai trả lời được".
"Nhỡ cô ấy hỏi thì cháu tịt mít à?"
"Mày không lo đâu, chả ai hỏi ngớ ngẩn như thế bao giờ". Ích gật đầu:
"Sao nữa?"
"Rồi tao nghe nói cô ấy mệt nặng…"
"Ai nói?"
"Cái thằng, ngang như đấm vào tai ấy. Ai nói chả được, nghe phong phanh mà…"
"…"
"Rồi mày bảo tao vì tình hàng xóm, mua tặng cô ấy cái này…"
"Sao nữa?"
"Rồi mày phải nghe cô ấy cảm ơn, cảm iếc gì thì về kể cho tao nghe".
"Như thế thì ngon! Đâu có phải tâm lý tâm liếc gì!"
"Thì tao đã bảo mà! Mày làm xong việc tao cho một chầu ga-tô thật no…"
"No là mấy cái?"
"Độ vài ba cái chứ gì?"
"Vài ba cái thì chả bõ dính răng".
"Thế mấy?"
"Mấy mà chả hết".
"Thôi bốn đi! Bốn là hết bố nó tám đồng với nhà ông rồi".
Ích cười hề hề. Nước dãi nó ứa ra. Nó nghĩ đến những miếng bánh ngọt lịm phết kem xanh đỏ mà nó sẽ được nhai ngấu nghiến một mình.
Lát sau, hai bác cháu dừng lại ở một cửa hiệu ăn. Mùi phở thơm lừng bốc lên ngào ngạt. Thằng Ích quên ngay hương vị bánh ngọt nó vừa tưởng tượng và nó vụt thấy đói cồn cào. Mắt nó đưa vào phía trong hiệu, lơ đãng ngắm mọi người ăn uống một cách thèm thuồng. Trong khi ấy, bác Tốn sửa lại dây đàn. Một ngón tay bác bật lên những nốt dạo nhạc, một tay bác khẽ dúi vào đầu thằng Ích. Như cái máy, Ích gân cổ cao lên, giọng làm ra điệu rung rung như tài tử thật sự:
"Đêm qua mơ dáng em đang ôm đàn gieo muôn tiếng tơ… Không gian trầm lắng… như âu yếm ru ai trong giấc mơ… Muốn nói cùng em ơ… ơ…"
Lòng bác Tốn bỗng thấy rạo rực, một niềm vui khó tả dâng lên làm bác xao xuyến. Hình ảnh Huệ, đánh môi đỏ, mặc áo hồng, phấn thơm sực nức hiện ra như một bà hoàng trong trí tưởng tượng của bác. Tay bác bật mạnh dây đàn, âm thanh rung lên trong bầu gỗ làm chối tai thằng Ích. Nó quay lại nhìn bác. Nó chợt mỉm cười vì lúc ấy, bác Tốn cũng đang mỉm cười vu vơ. Ích thấy hàm răng ngựa của bác trắng bóng ở dưới ánh đèn …
(Thềm hoang, trang 115-127)
"Cô Huệ thuê con hai đồng để giặt hộ cho cô ấy bộ quần áo".
Bác Nhan gái buông đôi đũa của mình xuống mâm, chửi đổng một câu:
"Tiên nhân cha con bỏ mẹ, lăn vào chỗ ấy để vi trùng nó ăn luỗng phổi mày ra à?"
Cái Hôn tưởng sẽ được khen vì số tiền nó kiếm ra lần đầu trong đời nó, không ngờ bị chửi nên mặt sưng lên. Một lát nó buông bát dằn dỗi đứng dậy. Mâm cơm vui vẻ đột nhiên im lặng đến khó chịu. Mọi người chỉ nghe thấy tiếng nhai ở trong mồm nhau. Mặt bác Tốn trở nên trầm ngâm và buồn bã. Mắt bác nhắm nghiền hẳn lại, bờ môi hơi trễ xuống, vừng trán thấp thoáng mấy nếp nhăn. Bác hình dung thấy Huệ mệt mỏi nằm sau lần chăn trắng, cặp mắt đen và sâu, hơi thở nhẹ nhàng, yếu ớt. Bác thấy tình yêu bừng lên như men rượu. Nếu Huệ có bác thì bác sẽ thức đêm để ngồi bên Huệ, rót nước cho Huệ uống, bón cháo cho Huệ ăn, bác vuốt ve trìu mến từng sợi tóc óng ả của Huệ. Những ý nghĩ ấy cứ ám ảnh trong đầu bác gây cho niềm yêu của bác càng thêm nung nấu.
Buổi tối, bác ôm đàn đi theo Ích ra ngoài phố, bác gợi chuyện:
"Cô Huệ mà ốm nhỉ…"
Ích nói:
"Ốm từ lâu rồi đấy chứ…"
"Thế mà tao không biết. Còn mày, sao mày biết?"
"Trưa nào gánh nước cháu chả đi qua".
"Dòm vào à?"
"Dòm chơi".
"Thấy cô ấy không?"
"Thấy chứ".
"Nằm ở đâu?"
"Ở giường chứ ở đâu".
Bác Tốn cười hề hề:
"Ừ nhỉ!"
Một lát thấy nó im lặng, bác lại nói:
"Mày thích ốm không?"
"Thích chứ! Ốm được nằm một chỗ, chẳng phải làm gì cả".
"Lại có cả cam ăn nữa".
"Gớm! Bác làm như triệu phú không bằng".
"Chắc cô Huệ thì có".
"Cháu không biết!"
"Mày dòm mà lại không biết!"
"Thật mà! Chỉ thấy cháo thôi!"
"Cháo gì?"
"Chắc cháo thịt".
Tự nhiên bác Tốn thấy vui. Bác hài lòng về sự ăn uống của Huệ. Điều ấy khiến bác trở nên mạnh bạo hơn, bác hỏi thằng Ích:
"Mày trông cô ấy có xanh xao lắm không?"
Ích nhìn vào mặt bác. Nó hơi ngạc nhiên thấy câu chuyện của bác chỉ xoay quanh có mỗi cô Huệ. Nhưng nó không nghĩ gì hơn cả. Nó đáp:
"Xanh đứt đi chứ! Nhất là cái mặt, nom như người chết trôi".
Bác Tốn thấy đau lòng. Bác định thăm hỏi nhưng sợ nói nhiều sự thực rõ hơn nữa, nên im lặng đi bên. Ngón tay bác bật mấy dây đàn. Lòng bác buồn thấm thía. Nhưng càng buồn, bác càng thương Huệ, càng muốn lấy Huệ làm vợ mình. Bác mơ màng nghĩ đến một cái nhà nhỏ, mái ngói, vách tường, ở đấy bác sống êm đềm bên cạnh Huệ. Sau những bữa cơm, Huệ quấn thuốc sâu kèn cho bác hút, hai người nói chuyện tương lai, chuyện thằng nhỏ xinh xinh mà Huệ sắp cho chào đời. Bác sờ tay lên bụng Huệ, sẽ hỏi thăm sự cựa quậy của nó, chắc Huệ sẽ nũng nịu mà trách bác:
"Nó cứ đạp em".
Tiếng em của Huệ xưng với bác sao mà êm đềm và thân yêu như thế. Bác chợt muốn hôn Huệ, muốn ôm Huệ vào lòng, nhưng bên cạnh bác vẫn chỉ là thằng Ích chập choạng bước đi ở trong bóng tối. Những ý nghĩ về Huệ làm bác thấy gần nàng hơn. Bác chợt nảy ra ý định mua cho Huệ một món quà. Cái sáng kiến ấy vụt bừng lên như ánh chớp của một vì sao đổi ngôi. Bác thấy thật là hay ho và ý nhị mà chưa bao giờ bác nghĩ tới. Lòng bác vụt xao xuyến như chính Huệ giơ tay cảm động nhận quà của bác, Huệ đang nhìn bác với lòng mến yêu, và bác cũng cảm động lây ngay từ phút ấy. Bác Tốn thấy lòng vui trở lại, tay bác sờ soạng lên mái tóc trơ trụi của thằng Ích. Bác khẽ lắc cái đầu nó rồi nói:
"Ích ơi, mày có biết ở đâu bán bánh không?"
Ích ngạc nhiên hỏi:
"Bác hỏi bánh làm gì?"
"Tao làm cái này!"
"Cái này là cái gì?"
"Cho! … Mua cho…"
"Cho ai?"
"Cái thằng lạ nhỉ! Cho ai chẳng được".
Ích toét ra cười:
"Thôi cháu biết rồi, bác cho cô Huệ chứ gì…"
Mặt bác Tốn chợt nóng lên, bác bối rối tưởng chừng như mọi người ai cũng đều rõ mối tình thầm kín của bác, cho nên bác vội lấp liếm:
"Ừ thì cho cô Huệ đã sao!"
"Bác lại muốn bắt nhân tình hả?"
"Thằng ranh! Chỉ nói bậy!"
"Nếu không thì tự dưng ai lại mất tiền tôi như thế. Đúng tủ con chuồn chuồn rồi…"
Bác Tốn cười hềnh hệch, tiếng cười như thú nhận sự thực với nó, rồi làm như nó là đồng minh với mình, bác co một cánh tay nó về phía sau, nói nhỏ:
"Tao mê thật đấy. Nhưng cấm mày bép xép nghe không?"
"Ai rỗi hơi, nói làm gì!"
"Thì tao cứ dặn thế, chứ còn mày thì tao biết".
Ích hỏi:
"Thế bác mê lâu chưa?"
Bác Tốn đưa cái cằm của mình về phía trước, hai hàm răng ngựa nhe ra dưới ánh đèn:
"Cũng lâu lâu".
"Thế mà tầm ngẩm thật… thảo nào có vẻ khoái cô ấy dữ…"
"Còn mày thì nghĩ sao? Bộ tao có ăn thua gì không?"
"Đứt đuôi đi rồi!"
"Sao lại đứt đuôi đi rồi?"
"Ồ! Có tiền thì muốn gì cô ấy chẳng được".
"Nhưng tao có xứng không ấy chứ?"
"Xứng đứt đuôi đi chứ còn phải chê gì nữa".
Lòng bác Tốn dào dạt vui sướng. Lúc này bác thật dễ dãi và thấy cần một niềm tin. Nên dù niềm tin ấy do thằng Ích mang lại cũng đủ cho bác sướng mê tơi đi rồi. Bác ôm chặt cây đàn vào ngực, rồi bác vừa gảy, vừa hát sẽ:
Trên trời xanh bóng trăng
Dưới bên con thuyền lội nước tung tăng…
Hai bác cháu đi lên chỗ có ánh đèn rực rỡ. Tiếng người ồn ào qua lại vang ở bên tai bác Tốn. Bác mở to mắt nhìn ngang ngửa. Một màng sáng đục thấp thoáng có những bóng đen mơ hồ đi qua mặt. Cái vui của một buổi chiều trong thành phố làm tăng thêm niềm vui trong lòng bác. Tình yêu dâng lên dào dạt, bác Tốn cảm thấy lòng ngây ngất.
Chợt Ích nắm tay bác dừng lại:
"Bánh đây này! Bác định mua thứ nào?"
"À… à… có những bánh gì?"
Ích đảo mắt ở trước tủ kính sáng choang đầy chai lọ:
"Ối ra! Bánh ga-tô, bánh đậu xanh, bánh khảo, bánh cốm, bánh sâm-banh, gì cũng có…"
Bác Tốn phân vân:
"Gì được nhỉ… mày thì mày mua cái gì?"
"Cháu thì cháu khoái ga-tô".
"Ga-tô! Ốm ai lại ăn bánh ga-tô! Thôi mày mua bánh bích quy đi".
"Độ bao nhiêu".
"Cầm lấy hai chục".
"Hai chục cơ! Sang thế! Hai ngày hát đấy"
"Thì mặc kệ tao".
Thằng Ích cầm tiền đi vào trong hiệu. Lần đầu tiên trong đời, nó được bước vào một hiệu sang như thế. Tay nó xoè sẵn tờ giấy bạc cho người bán hàng trông thấy, miệng nó nói:
"Bán cho hai chục bánh bích quy!"
Cô hàng nhìn nó chăm chú, rồi cô cầm tiền và lấy cho nó một hộp bánh. Thứ hộp sắt tây có bọc giấy bóng hẳn hoi. Ích vui mừng giơ cái hộp lên ngắm nghía. Nó nghĩ hai chục bạc có khác, cái hộp quý hơn cả những chiếc bánh ở trong. Nó chạy ra khoe rối rít:
"Hai chục đây này! Oai không chê được!"
Bác Tốn cảm động giơ tay đón lấy. Năm ngón xương xẩu của bác vuốt mãi lên nếp giấy phẳng và mịn. Đoạn bác đưa lên mũi ngửi. Bác cảm thấy ở đấy toát ra một mùi đặc biệt, vừa thơm, vừa mát, vừa sang trọng, phú quý. Lòng bác rộn ràng nghĩ đến lúc Huệ cầm hộp bánh ở trong tay. Huệ sẽ biết rằng bác nghĩ đến Huệ mà chỉ cần Huệ biết cho như thế là bác đã thấy tim mình đập mạnh lên rồi.
Sờ mó một hồi, bác trao cho thằng Ích rồi nói:
"Hôm nay về sớm một tí, mày chịu khó mang sang hộ tao nhé".
"Làm gì mà vội thế. Mình về thì cô ấy ngủ mất còn đâu".
"Nhưng để ban ngày không tiện. Hàng xóm người ta biết".
"Biết thì làm sao?"
"Xấu hổ bỏ bố đi".
Hai bác cháu cùng mỉm cười. Ích thu cái hộp vào trong bọc áo rồi nói:
"Cô Huệ được cái này thì sướng mê cu tơi đi rồi!"
"Bánh bích quy thì thiếu gì! Còn sợ cô ý chê nữa ấy chứ. Mày nghĩ có chê không?"
Ích đáp:
"Chả chê đâu".
"Ngộ cứ chê thì sao?"
"Thì chúng mình ăn".
"Mày nói như bố con chó xồm ấy".
"Thế chả ăn thì vứt đi à!"
"Ừ nhỉ! Nhưng chả chê đâu!"
Ích gắt lên:
"Rõ ấm ớ! Chê rồi lại không chê, rồi lại chê!"
Bác Tốn cười hềnh hệch:
"Ừ nhỉ! Thôi, đến tối rồi biết".
Ích nói:
"Tối thì cháu nói làm sao?"
"Mày nói thế nào tuỳ ý kiến của mày".
"Nói toạc ra là bác phải lòng cô ấy nhé!"
"Ấy chớ nói thế thì chết!"
"Sao chết?"
"Chết chứ, phải từ từ thôi cái đã mới được".
"Vậy cháu cứ đút hộp bánh vào cửa sổ nhé".
"Ấy đừng!… Phải nói chứ!"
"Sao bảo nói thì chết".
"Nói, nhưng nói khéo cơ chứ. Mày bảo tao phải lòng cô ấy thì bỏ bố tao rồi".
"Bác rõ rắc rối!"
"Mày ngu như bò ấy. Tâm lý phải thế chứ".
"Ừ, thì bác bảo phải nói cái gì nào!"
Bác Tốn gật gù:
"Mày phải nói tao quý cô ấy".
"Sao quý?"
"Hỏi thế thì đếch ai trả lời được".
"Nhỡ cô ấy hỏi thì cháu tịt mít à?"
"Mày không lo đâu, chả ai hỏi ngớ ngẩn như thế bao giờ". Ích gật đầu:
"Sao nữa?"
"Rồi tao nghe nói cô ấy mệt nặng…"
"Ai nói?"
"Cái thằng, ngang như đấm vào tai ấy. Ai nói chả được, nghe phong phanh mà…"
"…"
"Rồi mày bảo tao vì tình hàng xóm, mua tặng cô ấy cái này…"
"Sao nữa?"
"Rồi mày phải nghe cô ấy cảm ơn, cảm iếc gì thì về kể cho tao nghe".
"Như thế thì ngon! Đâu có phải tâm lý tâm liếc gì!"
"Thì tao đã bảo mà! Mày làm xong việc tao cho một chầu ga-tô thật no…"
"No là mấy cái?"
"Độ vài ba cái chứ gì?"
"Vài ba cái thì chả bõ dính răng".
"Thế mấy?"
"Mấy mà chả hết".
"Thôi bốn đi! Bốn là hết bố nó tám đồng với nhà ông rồi".
Ích cười hề hề. Nước dãi nó ứa ra. Nó nghĩ đến những miếng bánh ngọt lịm phết kem xanh đỏ mà nó sẽ được nhai ngấu nghiến một mình.
Lát sau, hai bác cháu dừng lại ở một cửa hiệu ăn. Mùi phở thơm lừng bốc lên ngào ngạt. Thằng Ích quên ngay hương vị bánh ngọt nó vừa tưởng tượng và nó vụt thấy đói cồn cào. Mắt nó đưa vào phía trong hiệu, lơ đãng ngắm mọi người ăn uống một cách thèm thuồng. Trong khi ấy, bác Tốn sửa lại dây đàn. Một ngón tay bác bật lên những nốt dạo nhạc, một tay bác khẽ dúi vào đầu thằng Ích. Như cái máy, Ích gân cổ cao lên, giọng làm ra điệu rung rung như tài tử thật sự:
"Đêm qua mơ dáng em đang ôm đàn gieo muôn tiếng tơ… Không gian trầm lắng… như âu yếm ru ai trong giấc mơ… Muốn nói cùng em ơ… ơ…"
Lòng bác Tốn bỗng thấy rạo rực, một niềm vui khó tả dâng lên làm bác xao xuyến. Hình ảnh Huệ, đánh môi đỏ, mặc áo hồng, phấn thơm sực nức hiện ra như một bà hoàng trong trí tưởng tượng của bác. Tay bác bật mạnh dây đàn, âm thanh rung lên trong bầu gỗ làm chối tai thằng Ích. Nó quay lại nhìn bác. Nó chợt mỉm cười vì lúc ấy, bác Tốn cũng đang mỉm cười vu vơ. Ích thấy hàm răng ngựa của bác trắng bóng ở dưới ánh đèn …
(Thềm hoang, trang 115-127)
Tên: Nguyễn Kim Dũng. Bút hiệu: Thế Uyên. Ngày sinh phỏng định: 16-3-1935 tại Cửa
Ô Yên Phụ, Hồ Tây, Hà Nội. Ngày sinh đúng: 14 tháng 8 năm Ất Hợi. Viết văn từ
năm 1960.
Tác phẩm:
1. Những hạt cát, truyện ngắn, 1964, Thời Mới xuất bản lần 1, 2 và 3
2. Mưa trong sương, kịch, Thời Mới xuất bản, 1964
3. Ngoài đêm, truyện ngắn, Nguyễn Đình Vượng xuất bản, 1965, Khai Trí tái bản 1970
4. Mười ngày phép của một người lính, đoản văn, Nam Sơn xuất bản, 1965, Khai Trí tái bản, 1971
5. Những ý nghĩ của bọt biển, đoản văn, Nam Sơn xuất bản, 1966
6. Nỗi chết không rời, truyện ngắn viết chung với Duy Lam, Nguyễn Đình Vượng xuất bản, 1966, Văn Uyển tái bản, 1969
7. Tiền đồn, truyện dài, Thời Mới xuất bản 1967, Khai Trí tái bản, 1971
8. Nghĩ trong một xã hội tan rã, tiểu luận, Thái Độ xuất bản, 1967, tái bản 1969
9. Bản tình ca, truyện ngắn, Thái Độ xuất bản, 1968
10. Chiến tranh cách mạng, tiểu luận, viết 1965, bổ túc 1968, Thái Độ xuất bản, 1968
11. Những người đã qua, đoản văn, Văn Uyển xuất bản, 1968
12. Kỹ thuật tuyên truyền chính trị, dịch J.M. Domenach, Thái Độ xuất bản, 1969
13. Tình dục, tuyển dịch Quốc Tế, Thái Độ xuất bản, 1969
14. Căn nhà người mẹ, đoản văn, Trí Đăng xuất bản, 1971
15. Đoạn đường chiến binh, đoản văn, Lá Bối xuất bản, 1971
16. Tiểu luận 3, Thái Độ xuất bản, 1971
17. Mưa trong sương, truyện ngắn, Ng Đình Vượng xuất bản, 1971
Đã cộng tác với: Tân phong, Văn học, Bách khoa, Khởi hành (Chí), Chính luận, Tiếng nói dân tộc, Điện tín (Báo), v.v.
Thế Uyên và ý thức cách mạng trong văn chương
"Xã hội tác động vào con người làm con người có phản ứng là suy nghĩ. Suy nghĩ đưa đến kết quả là sự lựa chọn một thái độ. Thái độ này như thế nào tùy thuộc tâm hồn từng người: thái độ lớn, rõ rệt, sâu đậm là thái độ của các tư tưởng gia, các vĩ nhân tạo thời thế. Thái độ nhỏ, mơ hồ, mờ nhạt là thái độ của con người thông thường…"
(Thế Uyên)
Thế Uyên, nhà văn trẻ đã vào đời bằng một thái độ. Thái độ đó được hình thành và xuyên qua văn chương để chấp nhận hay phản đối những gì mà nhà văn cảm thấy, nghĩ tới, do đời sống đưa lại với từng dữ kiện hiển nhiên, xác thực.
Trên nguyên lý, văn chương là một-cái-gì phù phiếm, nhằm mục đích đánh lừa thực tại, để ru người đọc vào một khung cảnh, một thế giới nào đó, do óc tưởng tượng của nhà văn thích như vậy, muốn như thế. Nhưng ngoài nguyên lý trên, đích thực, văn chương còn có khả năng và nhiệm vụ: chuyên chở, phổ biến từng sự việc hay những sự việc, từ một tâm hồn đến muôn vạn tâm hồn để tỏ bày thái độ. Thái độ của cá nhân, có thể đúng, có thể sai đối với đa số, nhưng thái độ là một cần thiết cho mỗi con người làm văn học nghệ thuật để chứng minh giá trị qua cá tính độc đáo và sung mãn ở mỗi cương vị người cầm bút. Sự thực, ở đời con người cứ sống mà không cần thái độ, cũng như không phải nhờ xã hội tác động mới biết suy nghĩ, hoặc có thể cứ suy nghĩ mà chẳng cần bày tỏ hay chọn lựa gì cả theo định nghĩa của Pascal: con người là một động vật siêu hình (l’homme est un animal métaphysique).
Những người làm văn học nghệ thuật hôm nay, họ đã can đảm nhìn vào sự thực, tức là cái nhìn vào bản chất đích danh của đời sống cũng như con người trực diện, để nhận xét và phán đoán, đôi khi quá nghiêm khắc ngay cả với mình.
Thế Uyên bước vào văn học với thái độ cứng rắn của lứa tuổi trên 20. Cái nhìn, cái biết và cái hiểu của Thế Uyên đối với cuộc sống đều đi qua chiến tranh, bất công của mỗi số phận, trong guồng máy sinh hoạt thường nhật do xã hội hình thành và chi phối. Bởi đó, mỗi xúc động, mỗi suy nghĩ của Thế Uyên đều chứa chấp trọn vẹn sự hờn giận, phẫn nộ pha thêm đớn đau, chua xót! Khởi hành từ trạng thái trên, Thế Uyên đã bày tỏ từng ý nghĩ bỏng cháy của mình qua rất nhiều khía cạnh, ở đấy, mọi sự kiện được trình bày đều nhuốm màu bi thương, phẫn uất, ngay cả vấn đề tình yêu.
Thế Uyên bước vào nghề văn không do tình cờ hay được hỗ trợ bởi hoàn cảnh, mà hiển nhiên là sự dấn thân, một tình nguyện. Khi cuộc Cách mạng tháng Tám 1945 thành công, cả dân tộc Việt Nam hò reo ăn mừng độc lập, Thế Uyên mới được 10 tuổi, còn ấu thơ, chưa qua khỏi ngưỡng cửa Tiểu học. Rồi chiến tranh toàn quốc chống Pháp bùng nổ hơn một năm sau, Thế Uyên cũng vẫn còn nguyên là đứa bé lẽo đẽo theo gia đình tản cư chạy loạn. Nói về ý thức lúc ấy, quả thực Thế Uyên chưa có một chút ý thức nào về cuộc sống, về chiến tranh cũng như hoàn cảnh chính trị với Nhất Linh, Hoàng Đạo và nhóm Tự Lực Văn Đoàn là những phần tử đối nghịch với Cách mạng dạo đó. Nếu có biết một phần rất nhỏ nào về "huyền thoại hoạt động" của các chú, các bác cũng đều do sự "nghe lỏm" giữa những câu chuyện mà người lớn trao đổi với nhau, hoặc do bố mẹ nói lại khi đã trưởng thành.
Nhưng có điều chắc chắn, không phải vì những hào quang chiếu tỏa từ Nhất Linh, Hoàng Đạo hay Thạch Lam mà Thế Uyên mơ ước đến sự nghiệp văn học sau này, mà đích thực cuộc sống với những mâu thuẫn cùng thân phận con người trong cuộc chiến, đã thấm dần vào cơ thể cũng như tâm tư của Thế Uyên những giọt cường toan, làm chết dần hồn nhiên và phóng khoáng thay vì phải có, ở trong tâm hồn đang tuổi thanh niên. Bởi vậy, những dòng đầu tiên của người trai trẻ, ngoài hai mươi, trút xuống mặt giấy đã mang nặng nỗi bỏng cháy, giãy giụa của thân phận làm người trước những sự kiện tưởng như không có phương thế sửa chữa, dù phương pháp hành văn của Thế Uyên lúc đầu, một phần chịu ảnh hưởng của nhóm Tự Lực Văn Đoàn. Sự chịu ảnh hưởng ở đây, những bước đầu khai phá, Thế Uyên không thể tránh được, muốn tránh cũng chưa đủ sức vì tài năng còn bị bủa vây trong không khí Đoạn tuyệt, Hai buổi chiều vàng, Bướm trắng của Nhất Linh hay Sợi tóc của Thạch Lam, v.v. Thế Uyên chắc cũng đoán biết điều đó, nên tự mình gỡ khỏi những ám ảnh. Chỉ trong thời gian ngắn, nhà văn đã tự tạo một bút pháp, một chỗ đứng trong nền văn nghệ Việt Nam. Nhưng Thế Uyên không chỉ mong có thế, muốn dùng văn chương để trình bày suông những gì nghĩ về thế hệ mình, về xã hội, mà đích thực, để xác định một vị trí và chiều hướng sáng tạo được ấn định rõ ràng trong tâm thức, dù tình yêu hay căm thù. Thế Uyên cũng bị cuốn vào cơn bão thác loạn của vấn đề dục tình, tuy chẳng mới mẻ gì, nhưng cũng làm choáng váng tâm trí, kèm theo là thực trạng của một xã hội xấu xa và tội lỗi.
Sự có mặt của nhà văn, có phải để gánh chịu buồn rầu, thê thảm và sầu não trước những vật vã khóc than của bao nghịch cảnh? Việc nhận thức đời sống, có được phán xét bằng sự sáng suốt, vô tư trước những đối tượng nhiều lúc ghê tởm, bỉ ổi? Lòng thương xót của nghệ sĩ phải chăng là một bổn phận đối với tha nhân? Tất cả, như những mắt lưới quây chặt lấy ưu tư – dù thầm kín – ở nội tâm của mỗi người làm văn nghệ.
Trong nghệ thuật, Thế Uyên muốn tự mình bay bổng lên cao và có đầy đủ quyền hành trong công việc sáng tác, vì nghệ thuật không thể dối trá hay ngụy trang, nó phải chân thành và tự do tuyệt đối, trong mọi vấn đề liên quan giữa suy nghĩ, con người và cuộc sống. Bởi vậy, mỗi lời nói, mỗi chữ viết không nhằm vào một trường hợp riêng rẽ, nó được điều hợp từng sự việc đi vào môi trường chung của nghệ thuật để tạo xúc động, tức là đóng góp vào công cuộc khai phóng đời sống với tìm tòi, khám phá bằng ý thức tiến bộ. Một số người cho rằng, văn Thế Uyên kém đạo đức, dâm đãng trong ngôn từ khi đề cập tới một vài trường hợp tình yêu và tuổi trẻ, vì chịu ảnh hưởng và vay mượn những ý nghĩ của Tây phương buông thả sau Đệ nhị thế chiến, hoặc bị mặc cảm dồn nén nên mới thác sinh ra những ngôn ngữ sượng sần làm đỏ mặt các nhà mô phạm.
Thế Uyên, một nhà văn trẻ, lớn lên trong chiến tranh và chấp nhận cuộc chiến này là có thực, cũng như sự có mặt của đời sống là hiển nhiên với mỗi thân phận, dù trai hay gái. Khi đề cập tới tình yêu trong những truyện đầu tay, lẽ dĩ nhiên (đây là mảnh đất thánh cho những cây viết trẻ) khuôn thức tình ái lứa đôi với những đòi hỏi cháy rừng rực ở trong lòng người con trai trên 20 tuổi phải là một ám ảnh, một thôi thúc cần phải tỏ bày và tỏ bày chẳng những với mình, còn với người.
Người đọc có thể nhận định về Thế Uyên qua Những hạt cát, tập truyện, do Thời Mới xuất bản (1964) với những đoạn văn:
… Quay lại, Duy thấy Hằng đã đương đứng trên cùng một cành, một tay nắm cành, một tay khoái chí đưa trái sung vào miệng. Nàng cố men ra phía Duy ngồi.
"Hằng ngồi xuống kia. Đi thế ngã đừng có trách"
Thiếu nữ lắc đầu cười, nhét nốt nửa trái ăn dở vào miệng: "Hằng biết bơi mà, có ngã cũng không sao…"
Nàng giơ tay ném vài quả về phía Duy. Tay vung lên quá mạnh, Hằng mất đà loạng choạng. Duy chưa kịp cử động, thiếu nữ đã ngã xuống ao. Nước tóe lên trắng xóa. Duy hoảng hốt, tay run lên, cành lá giao động. Nhưng Hằng đã ngoi lên tóc rũ bết xuống trán. Nàng vừa cười vừa ho sặc sụa leo lên bờ:
"Lâu lắm mới được tắm ao nhà…" Quần áo đẫm nước, lụa mỏng bám sát vào da thịt. Thiếu nữ cúi xuống, đột nhiên im bặt. Người Duy nóng lên như hồi nhỏ những hôm trời nóng, nấp trong chăn chơi đi trốn. Một cảm giác buồn buồn như có một con vật gì bò dọc theo sống lưng, mắt chàng không thể rời thân thể ướt nước trước mặt. Thiếu nữ rùng mình kêu lên: "Anh!… Quay đi anh…"
(Những hạt cát, trang 9)
… Có một lần Hằng đứng ngoài cổng, giơ tay với một cành hoa ti-gôn. Nàng rướn mình, ngực hiện rõ dưới làn áo mỏng. Duy muốn đặt tay lên, nhưng vội vã xua đuổi ngay ý tưởng ấy. Chàng vẫn chủ trương tình yêu tinh thần và tình yêu xác thịt phải cách biệt… Nhưng sau đó, Hằng đã nhiều lần bắt gặp thấy chàng đang nhìn ngực hay nhìn đùi mình một cách chăm chú. Duy cố gắng xua đuổi, kềm hãm lòng thèm muốn sôi nổi trong người.
Nhưng càng tìm cách kềm hãm, Duy càng thấy thèm muốn mãnh liệt. Chàng mê say thân thể mềm ấm đầy mùi hương quyến rũ, tìm đủ cơ hội để có thể ôm được trong tay. Thiếu nữ ngoan ngoãn và tin cậy, nhưng mỗi lần tay người đàn ông chạm vào ngực, nàng thường rùng mình và đẩy ra…
(Những hạt cát, trang 120)
Hai đoạn văn trên đã phản ánh trung thực cái dục tính phát sinh ở trong lòng người con trai mới lớn và sự xâm chiếm thể xác lúc này mới chỉ là một dự định, trong đó còn ẩn nấp e dè, ngượng ngập, hơn nữa, về phía người con gái, vẫn là gìn giữ, là một "kinh dị" ở trên đời, cần phải né tránh. Ngôn từ và ý tưởng của truyện rất gần không khí Bướm trắng:
… Trong lúc Thu ăn bánh, Trương ngồi nhìn chăm chú vào đôi môi Thu, Thu ăn dở một chiếc vừa đặt xuống, Trương cầm ngay chiếc bánh dở ăn nốt:
"Cả đời anh chưa bao giờ ăn chiếc bánh nào ngon hơn".
Thu thẹn nóng bừng cả mặt. Nàng hơi lo sợ, bất giác đưa khăn tay lên lau miệng. Trương hiểu ý:
"Em không sợ, anh không dám xúc phạm đến em, anh chỉ xin em cho phép anh cầm lấy bàn tay em trong một lúc, một lúc thôi".
(Bướm trắng, trang 121)
Nhất Linh đã viết về tình yêu như thế cách đây ba, bốn chục năm, khi nền luân lý cổ truyền phương Đông còn đè nặng trong tâm trí của mỗi con người Việt Nam thuộc mọi thành phần xã hội. Hầu hết những cuộc tình được đề cập tới trong tác phẩm của nhóm Tự Lực Văn Đoàn đều mang mẫu số chung, nghĩa là nó thuộc vào thứ tình yêu cao thượng, lý tưởng, tuy rằng các nhà văn, nhà thơ thuộc nhóm này đều theo Tây học, có tinh thần tiến bộ, muốn cải tạo xã hội Việt Nam lúc ấy bằng văn chương, trong khi sách của Flaubert với Madame Bovary, D.H. Lawrence với L’amant de Lady Chatterley cùng Phân tâm học của S. Freud đã xâm nhập vào thị trường văn hóa Việt Nam từ lâu. Nhưng hoàn cảnh và vị trí của các nhà văn, chẳng những thuộc nhóm Tự Lực Văn Đoàn, mà hầu hết các người làm văn nghệ thuở ấy (1930-45) đều không thể và không dám vượt qua bức tường luân lý quá chắc và quá cao được trấn giữ bởi các ông thầy Khổng - Mạnh.
Nhưng hôm nay là chuyện khác. Các nhà văn trẻ, tương đối đã được hoàn cảnh hỗ trợ và xã hội mặc nhiên thừa nhận giá trị suy tưởng tùy theo quan niệm và nhãn giới của mỗi thành phần nằm trong tập thể. Những ý nghĩ của nhà văn, đôi khi quá táo bạo, quá lộ liễu, quá trần truồng được phô bày dưới mắt người đọc ở cả hai khía cạnh: chiến tranh và tình yêu. Chiến tranh từ lâu đã trở thành một ám ảnh, một dằn vặt đè nặng trong tâm trí những người trai trẻ còn đang ngồi ghế nhà trường, do đó, một khi có hoàn cảnh, được dịp tỏ bày là họ không ngần ngại nói thẳng những gì cần phải nói trước công luận.
Tập Những hạt cát gồm 6 truyện ngắn, cả 6 truyện đều mang nội dung từa tựa nhau, nghĩa là dùng những sự kiện hiển nhiên để chuyên chở từng ý tưởng u uẩn được ngụy trang qua câu chuyện tầm thường, coi như không có gì mà đích thực, nó gói trọn một thái độ, một cưỡng chống với một trật tự, một cương tỏa nào đó:
… Tôi thiếp đi trong mệt mỏi, mơ thấy Nương lơ lửng trên trời xanh, lượn như một con bướm mới hong khô cánh. Tôi vẫy gọi, tôi gào thét. Nương cười, môi đẫm máu rồi đột nhiên rơi xuống, thân thể trần truồng giãy giụa trên hàng rào kẽm gai bao quanh đồn. Tôi bừng tỉnh giấc, mồ hôi thấm ướt lưng áo. Tôi lắng nghe. Đêm im lặng khác thường. Một vài tiếng ho khan ngoài sân buồn bã. Chắc địch sắp đánh đồn. Như thế cũng hay.
(Những hạt cát, Người lính lê dương, trang 48)
… Vô lý và vô ích. Tất cả triết thuyết bập bềnh lướt qua chàng, một đám học trò, lại thêm đám bèo trôi nhanh ngoài sông. Không giải quyết được gì cả và cũng không mang lại một lợi ích, một sức mạnh nào. Trí óc chàng bất lực ngất ngư trong những luận lý: "Je pense donc je suis" hay "je pense donc je ne suis plus"…? "To be or not to be"…?
(Những hạt cát, Qua sông, trang 82)
Tất cả những đam mê, hờn giận, do chiến tranh, tình yêu và cuộc sống đã xô Thế Uyên vào vùng trời u buồn, chán nản đến nghi hoặc ngay cả ý nghĩ của mình. Một cái sống, một cái chết, một nụ cười, một môi hôn, một vòng tay, tất cả như bủa vây nhà văn vào cơn mê, trong đó giãy giụa từng hình ảnh bùng nhùng vừa đáng yêu, vừa đáng ghét, vừa đáng kính, vừa đáng khinh.
Tập truyện Những hạt cát toát ra không khí u uất, trong một bối cảnh thê lương, ảm đạm với sự xâu xé ở nội tâm nhân vật. Đi từ cái nhìn rất thẳng thắn và trong sạch của Hằng qua cái cảm nghĩ hung hãn của Vinh khi muốn đẩy Thục xuống thung lũng, nếu có can đảm, vì biết mình là kẻ đến muộn trong tình yêu.
Thế Uyên hẳn nhiên khi xây dựng nhân vật trong sáng tác, đã ít nhiều cũng đặt tuổi trẻ của mình vào hoàn cảnh đó, dùng nó để biểu dương những suy nghĩ riêng tư nằm sau dòng chữ. Nhưng, tại sao với cái tuổi trên 20 ấy, cái tuổi đáng quý nhất của một đời người, với bao nhiêu hy vọng mà Thế Uyên đã sớm tiếp thu vào hồn mình những ung độc, để rồi bắt đầu từ giọt đắng thứ nhất, Thế Uyên vùng vằng lao mình vào thung lũng đau thương, hờn giận đến phẫn nộ cho tới bây giờ?
Cái hoàn cảnh khốn khó mà dân tộc Việt Nam phải trải qua 80 năm nô lệ với 25 năm chinh chiến và còn nữa, đâu có phải chỉ dành riêng cho Thế Uyên và thế hệ những người cùng tuổi? Sự vinh quang hay nỗi nhọc nhằn nào đó do một chế độ, hay xã hội tạo nên, đã tác động thật sâu đậm vào tâm thức nhà văn để từ đấy bắt nguồn cho thỏa hiệp hay chống đối. Sự chống đối nào cũng vậy, đều mang trong bản chất nó sự chủ quan tuyệt đối, nên bao giờ, lúc nào, nó cũng được phân tích và nhận xét với những ý kiến phần nào thiên lệch. Hoàn cảnh miền Nam nước Việt trong năm 1963, vô cùng sôi động với các cuộc đấu tranh, biểu tình chống chính quyền đàn áp Phật giáo. Toàn thể miền Nam lúc ấy như miếng giẻ rách bị nhúng nước. Sau bao nhiêu ngày nghẹt thở, tiếng súng 1.11.1963 đã phá vỡ một chế độ, để tạo dựng sự hỗn độn liên tục sau một thời gian ngắn vui mừng. Thế Uyên đã sắp hàng với Phật giáo quyết tâm đạp đổ những chướng ngại do chính quyền hay xã hội làm cản trở bước tiến hóa của Dân Tộc đang cần tự do, dân chủ hơn chống Cộng. Nhưng ở tuổi thanh niên, với số vốn kiến thức nhà trường, đã hành nghề thầy giáo, nhất là quay nhìn vào quá trình Cách mạng của nhóm Tự Lực Văn Đoàn thuộc bên ngoại, Thế Uyên cảm thấy và hình như thấp thoáng đâu đây sự bủa vây của một thế lực khác, trong đó, chưa chắc gì giá trị của suy tưởng và đời sống đã tốt đẹp hơn. Sự kiện này, người đọc nhận thấy ở truyện ngắn Những kẻ thuộc bài trong tập Ngoài đêm (1965). Nội dung truyện ngắn nói trên ẩn nấp một không khí vừa căm thù vừa sợ hãi trộn lẫn đam mê và chán chường. Sự dấn thân vào sự chống đối nào đó ở lớp tuổi Thế Uyên nó không nằm trong một khuôn thức thuần túy Cách mạng mà tỏa ra, làm cho mục tiêu chính bị nhạt nhòa theo những chi tiết phụ. Phương pháp hành văn của Thế Uyên theo lối mới, được ưa chuộng tại Âu châu mấy năm trước. Một số nhà văn trẻ ở phương Tây, họ quan niệm văn chương không phải dùng để nói một sự việc, mà đề cập tới nhiều sự việc trong một khung cảnh đã chứa đựng sự hỗn loạn như thế, do cuộc sống hình thành. Nhưng những người trẻ tuổi làm Cách mạng để chứng tỏ sự có mặt của mình trong một khoảnh khắc nào đó thôi, bởi thế, họ cũng dễ buông tay, khi không còn hứng thú:
… Du đứng dậy giải tán buổi họp. Thất vọng lần này để lại một hương vị ung thối, bất hợp lý, gây gấy của một cơn sốt rét rừng sắp bắt đầu. Mọi người ra về, từng kẻ một rón rén trên cầu thang thiếu bực, tối đen. Dù sao, khi ra trường, họ đã học được hơn chàng một định lý: "Những kẻ thuộc bài sẽ bị đọa đày". Họ đã học hơn chàng một hệ luận: "Quên bài, quên lời giáo huấn là yên thân". Không còn gì phải chứng minh cả, không còn gì phải chứng minh nữa. Nhưng chàng vì chua xót ung thối, uất ức, ngăn cản không cho phép chàng học thêm như họ… Suốt đời, suốt đời chàng… Tương lai đen tối mơ hồ hiện ra sau mỗi bước chân nhỏ dần của người cuối cùng ra về…
(Những kẻ thuộc bài, trang 41)
Câu chuyện "hoạt động" coi như đã xong một giai đoạn, chả biết làm gì hơn, những người trai trẻ lại quay về bản ngã đích danh của họ.
… Ba gã thanh niên ngơ ngẩn nhìn nhau. Định đề nghị:
"Đi chơi! Mai mày viết tiếp cũng được".
Dư gật đầu, xếp tập giấy lên bàn:
"Tao đề nghị đến một quán có cả gái. Truy hoan đôi khi khá cần thiết".
Hùng lắc đầu:
"Tao chỉ đến nhậu thôi. Hôm nay không hứng".
Định cười:
"Mày chỉ giả vờ!"
Hùng cười theo thú nhận:
"Chính thực ra mai Thu đến. Đi chơi gái về, hôm sau ôm người yêu, tao thấy nhơ bẩn thế nào ấy…" Dư im lặng xuống trước. Khói thuốc bốc vào mắt cay sè.
(Những kẻ thuộc bài, trang 43)
Ý thức về cuộc đời xuyên qua ngôn ngữ nhân vật trong sáng tác của Thế Uyên đã phản ánh phần nào tâm trạng một tầng lớp thanh niên trí thức đã ngồi ghế Đại học. Đứng trước ngã ba, họ chưa định hướng được, đâu là con lộ chính họ cần theo đuổi, cần ném cả sức lực thanh niên vào đó, dù Cách mạng hay đam mê. Họ chạy xông xáo, dớn dác chỗ nào cũng thấy mặt, kỳ thực họ chẳng ở đâu hết. Dù đi đâu, đến đâu và hoạt động có vẻ như sống chết với lý tưởng, nhưng rốt cuộc họ lại quay về đứng ở chỗ cũ, ở ngã ba cuộc sống để nguyền rủa lỗi lầm và đớn hèn của kẻ khác!
Nhận xét nêu trên, hiện diện ở hầu hết lớp tuổi trên dưới 20, khi cuộc đời chưa tiếp thu họ vì họ còn quá trẻ, trái lại họ cũng không thừa nhận cuộc đời vì cuộc đời quá già, quá xấu đối với ước mơ của họ.
Giọng văn của Thế Uyên thật chua chát khi đề cập tới thân phận của lứa tuổi thế hệ mình. Thế Uyên viết ra, như ghi nhận những chứng tích, ở đó, từng khắc khoải và giày vò được thể hiện như một hình phạt. Ngay cả trong khuôn viên đại học, nơi Thế Uyên đã biết, đã từng sống và sinh hoạt với nhiệt thành của tuổi trẻ, đã hoài vọng rất nhiều về tương lai nhưng khi đề cập tới, Thế Uyên cũng nhìn nó với cái nhìn thật soi mói, không phải ở khía cạnh học vấn mà ở khía cạnh tâm tư với những ý nghĩ vô cùng táo bạo. Người nữ sinh viên tên Phượng, được Thế Uyên nói đến, sự thực chỉ là mẫu người, một hình múa rối, để nhà văn dễ dàng bày tỏ ý kiến về vấn đề tình dục, cũng như sa đọa ở một khung cảnh, đã được ấn định rõ trong tâm cảm.
… Tôi vòng tay ra sau, đặt lên gáy Hãn. Thân thể đàn ông cứng và nóng khác lạ. Mức thân mật giữa hai đứa lên tới độ cao nhất. Chẳng còn gì hơn – trừ việc làm ái tình và việc này, khi tôi nép sát vào âm thanh, một bản nhạc Slow ưa thích, Hãn đã hỏi và lúc đó tôi đã từ chối. Từ chối vì thấy chưa muốn, chưa cần thiết…
… Chiếc xe đỗ lại, nép vào gốc thông. Tôi ngả người tì gáy lên ghế, mở miệng sẵn sàng tiếp đón những chiếc hôn và tất cả những gì tiếp theo. Tôi không bối rối nhiều dù còn là một trinh nữ – sách vở đã cho tôi biết quá rõ những gì phải tới cùng hậu quả. Bàn tay người đàn ông nóng và rát trên da lưng, những ngón tay chuyển động thành thạo, tạo những động tác cởi mở. Tôi khó chịu đột nhiên ngồi thẳng dậy, kéo tay ra. Sự thành thạo của Hãn với quần áo lót đàn bà làm tôi liên tưởng và vì thế hơi kinh tởm. Tôi nói:
"Thôi anh! Đưa em về!…"
Đoạn văn trên trích trong Khoảng trống, truyện thứ hai trong 6 truyện ngắn của tập Ngoài đêm.
Cái khoảng trống của tâm hồn, nhất là tâm hồn tuổi trẻ, nó hiện diện như nỗi thê thiết, để vì nó, nhân danh nó, tuổi trẻ có thể làm được những gì mình muốn khỏi cần hối tiếc. Từng đêm dạ vũ trong hoan ca với khăng khít của vòng tay và những đôi chân dìu nhau đi vào thế giới cuồng mê qua âm thanh đẩy đưa dục vọng. Nhưng sau đó, còn lại cái gì? Còn lại sự rã rời của thân xác, cái chán nản đến cùng cực của ý nghĩ qua không gian và thời gian. Mệt mỏi làm băng hoại nguồn sống hoa niên.
Tập truyện Ngoài đêm trình bày 6 hoạt cảnh, đôi khi sôi nổi, nhưng cũng vô cùng buồn bã, vô cùng khắc khoải.
Khởi đi từ một cảm nghĩ bé nhỏ của đời sống riêng tư, Thế Uyên dần dần tiến vào môi trường rộng lớn hơn, ở đấy, mỗi số phận không còn tùy thuộc nhiều vào mình nữa mà do kẻ khác định đoạt. Nhưng dù ở đâu, hoàn cảnh nào, nhà văn cũng tỏ ra không dễ dàng chấp nhận, ngay cả sự thực mà mình đã gánh chịu qua bộ quân phục do trường Bộ binh Thủ Đức khoác vào người. Thế Uyên tạo nên vấn đề để tra vấn ý thức, ngay cả tình yêu cũng không mang ý nghĩa thiêng liêng, nó trở thành một cái mốc cho nhà văn ném vào đấy từng vốc bùn! Nói vậy, không có nghĩa Thế Uyên vào đời toàn bằng hằn học, bất mãn cả đâu. Đôi khi, dù rất hiếm, nhà văn cũng biết gìn giữ cho mình chút hạnh phúc nhỏ nhoi để hy vọng ít nhiều giữa cuộc chiến này:
… Đi vòng qua mũi xe, leo lên, cái cánh gà. Chàng tì tay lên tay lái. Thi đây, trong vòng tay, trong ánh đèn hắt từ bên ngoài trên cao. Di muốn vòng tay ôm, muốn hôn. Thi ơi Thi, ngưng nhìn anh một chút để anh có thể ôm em. Thân thể run lên, Di nghiêng người cúi sát mặt Thi:
"Thi! Anh đã tưởng không bao giờ còn gặp nhau". Bàn tay nâng cằm Thi rung nhè nhẹ, đôi mắt mở to của Thi, đôi môi ướt nước mưa lạnh. Di hé miệng ngậm thật chặt. Đột nhiên chàng muốn làm nàng đau đớn, thật đau đớn…
(Ngoài đêm, trang 129)
Rồi hạnh phúc được che chở bằng chiếc poncho trong một góc đồn canh!… Rồi luân lý và đạo đức cũng như danh dự được phủ lấp bằng môi hôn, bằng giãy giụa của thân xác với đam mê rực lửa trong khi mơ nhỏ từng giọt bên ngoài!…
Hình ảnh cuộc chiến và cái giá mỗi thân phận người Việt Nam phải trả, bắt đầu từ truyện Ngoài đêm đã chiếm hết những suy nghĩ của Thế Uyên. Từ đồn canh tới trại binh, từ phiên trực tới cuộc hành quân, từ tình yêu nhục thể tới bâng khuâng và niềm cô đơn của con người trước chiến tranh, trong vũ trụ!
Tình dục đối với Thế Uyên lúc nào cũng là một ám ảnh, vấn đề chính cho mỗi câu chuyện, dù nó thuộc cái trục nào của suy tưởng cũng vậy. Nói đến tính dục không phải nói đến cái xấu xa, ghê tởm, phi đạo đức, phi luân lý, nhưng đích thực, để tỏ bày thái độ với cuộc sống, để chấp nhận giá trị của thực tại, trong đó con người chẳng phải thiên thần cũng chẳng phải là súc vật. Có điều chắc chắn, Thế Uyên viết không nhằm mục đích khích lệ ai theo gương mình, hoặc dùng văn chương để truyền bá dâm đãng. Thực ra, nhà văn viết cho mình, vì mình. Có nhiều sự thực đang dồn nén, giãy giụa trong nội tâm, tình dục chỉ là lớp sơn mỏng phủ ngoài để đánh lừa "loại gỗ". Đối với Thế Uyên "loại gỗ" đó mới cần, mới là căn bản của vấn đề, mới là con lộ chính mà người viết nhằm vào để dấn thân, đó là Ý thức cách mạng trong văn chương.
Cái tuổi trẻ của mỗi con người thường được nhìn qua tấm lăng kính kẻ khác. Từng nỗi băn khoăn, rạo rực mà con người có thể so sánh, đều nằm trong kích thước ngoại vật.
Thế Uyên nhìn chòng chọc vào đời sống với từng nỗi buồn vui có đấy, với thân phận một chiến sĩ tiền đồn ở vùng cao nguyên heo hút, quanh năm nắng cháy với mưa lũ và những gian khổ của chiến trường làm héo mòn suy nghĩ. Do đó, những ngày phép của người lính bao giờ cũng là niềm hân hoan và thiêng liêng nữa. Họ sử dụng giờ khắc quý báu đó vào những công việc cần thiết nhất, đáng giá nhất, trong đó có việc ngồi quán để nhìn đàn bà, con gái qua lại với những chiếc quần corsaire bó chẽn làm nổi bật những đường cong kín đáo. Họ nhìn như thế để làm gì, nếu không phải là để thèm muốn và cảm thấy hằn học với chính mình?
Thế Uyên đã qua những giờ phút đó và ghi nhận vào tác phẩm Mười ngày phép của một người lính những chua xót, ê chề với phẫn nộ về sự tương phản giữa hai nếp sống dưới một chế độ. Một bên cứ chịu hy sinh gian khổ kể cả máu xương, một bên cứ hưởng lạc:
… Tôi cho tay vào túi lấy bật lửa, một sợi dây đính chìa khóa với tấm lắc có ghi tên họ, số quân, loại máu. Ánh nắng chiều làm kim khí thoáng lóe sáng. Tôi nhớ, trong một khoảnh khắc và với một chút buồn, rằng tôi không phải là người ở đây, rằng tôi chỉ còn có chín ngày phép. Và từ đó, thật ngẫu nhiên, một cắt nghĩa, không đúng, một giải thích cho vấn đề đương thắc mắc, xuất hiện: chúng ta những người con gái với quần corsaire và tôi, người lính về phép, là người Việt Nam.
… Tôi đứng dậy ra về sau khi nghĩ rằng tất cả chỉ vì người Việt Nam ba mươi năm nay chưa bao giờ được phép làm người, rằng người đàn ông Việt Nam là những quân tốt đen, tốt sang hà, tốt thí cho những chủ nghĩa, những thế lực quốc tế, những tranh giành Nga, Mỹ, Pháp, Tàu, rằng đàn ông Việt Nam là dụng cụ, tất nhiên đàn bà Việt Nam phải mặc quần corsaire…
(Mười ngày phép của một người lính, trang 12-13)
Người đọc cảm thấy Thế Uyên đã trút tất cả giận hờn phẫn uất vào những dòng chữ và ý thức tranh đấu đã nhen nhúm qua ngôn ngữ. Cái giai đoạn vô cùng chênh vênh, vô cùng nguy hiểm của nước Việt Nam sau ngày Cách mạng 1.11.1963, đã tạo cho những người trai trẻ yêu nước mối lo sợ và tức giận. Thế Uyên nằm trong thành phần nói trên, nhất là lại đương cầm súng đi chiến đấu chống Cộng bảo vệ miền Nam tự do, cũng chính vì hai chữ Tự Do, bao nhiêu con người khốn đốn từ mấy đến chục năm qua và còn nữa!…
Nói chung, tập Mười ngày phép của một người lính chỉ là những ý nghĩ, dù tốt đẹp hay xấu xa, được trình bày dưới hình thức này hay hình thức khác, cũng chỉ để minh định một thái độ trước cuộc sống thật náo động, nó đương quay với tốc độ phi thường để nghiền nát những gì chạy ngược chiều với nó.
Đi từ ý nghĩ này sang ý nghĩ khác, ở mỗi ý nghĩ, nhà văn như nghiến răng, trợn mắt, sau cùng phỉ nhổ vào cuộc sống có đó, còn đó với những ngôn ngữ chát chúa làm ngỡ ngàng người đọc. Nhưng sự tức giận nào, hễ nói ra được tức là đã nguôi ngoai, lắng dịu phần nào giông tố trong lòng. Thế Uyên, nhà văn rất thành thực và thành khẩn, nên không ngại ngần khi giãi bày lập trường, cương vị của mình.
… Trước hết tôi là nhà văn chân thành, chân thành với đời sống, chân thành với mình. Nhưng thái độ khi nhập thế của chúng tôi là thái độ lãng mạn với cuộc đời. Bất cứ ai không cứ nhà văn, đều phải chọn vài thái độ với cuộc đời trước mặt và tùy theo thái độ đã lựa chọn, đời sống sẽ dị biệt với nhau. Cuộc đời đang ở trước mặt kia, nó là như thế, trọn vẹn như thế, còn nó là bi thảm, là sắc sắc không không, là tươi vui, v.v. tùy thái độ, cái nhìn của từng người…
… Tôi sẽ còn là người (hiểu theo định nghĩa ni ange ni bête, ni yoga ni commissaire politique) như thế nào khi nhìn một thiếu nữ 16 xinh tươi mà chỉ thấy thèm cái cơ thể mơn mởn, khi ôm người yêu trong tay chỉ cảm thấy khoái lạc nhục thể. Tôi sẽ là người ra sao nếu không tìm thấy nét anh hùng tuyệt vọng của những người đã và đang chiến đấu trong chiến cuộc hai mươi năm. Đôi khi tôi còn nghĩ rằng những cái gì gọi là đẹp của loài người, anh hùng, khí tiết, bác ái từ bi, công bằng, tự do, v.v. còn duy trì được có lẽ là do những kẻ lãng mạn với cuộc đời này. Và ngày nào không còn thế nữa, tôi sẽ không cần soi gương nhìn tóc bạc da nhăn, tôi cũng hiểu được tâm hồn tôi đã tàn úa, và không xa lắm, cái chết đương chờ đợi.
(Mười ngày phép của một người lính, Lãng mạn và cuộc đời, trang 47)
Những ý nghĩ tuy vụn vặt trong tập Mười ngày phép của một người lính nhưng ở trong mỗi trang, mỗi dòng, mỗi chữ đều mang nặng giá trị của suy tư để tiếp nối vào những ý tưởng khác trong tập Những ý nghĩ của bọt biển.
Ý nghĩ của Thế Uyên hay là thái độ cần có của một nhà văn đã ý thức được vai trò, vừa kiêu hãnh vừa khiêm nhường của mình, trong vận nước nổi trôi đã có tới bốn ngàn năm lịch sử phía sau! Bốn Ngàn Năm Lịch Sử là dĩ vãng quá dài đối với thế hệ hôm nay. Thế Uyên mang niềm băn khoăn đi tìm truyền thống dân tộc qua sách vở, qua ngoại giới, chỉ được gặp các thầy Khổng, Mạnh và những suy nghĩ không thuộc về tinh thần Việt Nam. Truy tầm không được, Thế Uyên phải tra tấn ý thức và chợt nhận ra, mình là người Việt Nam do tiếng mẹ ru từ lúc nằm nôi với những câu ca dao cổ kính, bằng mắt nhìn thấy ruộng lúa xanh tươi và tiếng sáo diều văng vẳng trong không gian buổi chiều, lúc còn thơ ấu. Thêm vào đấy là phong tục, tập quán với các ngày lễ Tết, hội hè, v.v.
Cái tinh thần Việt Nam mà nhà văn tìm kiếm, sự thực, nó hiện diện trong mỗi con người yêu nước, dù cầm súng hay không, miễn rằng nó phải hành xử với nhau bằng tinh thần Việt Nam trong đời sống và ngôn ngữ.
Mỗi ý nghĩ, Thế Uyên đều nêu lên một câu hỏi, một giận dỗi, đôi khi chính nhà văn không giải quyết mà dành phần cho độc giả. Từ "Lời giảng chót gửi học trò cũ" tới "Hai thái độ" là ý nghĩ cuối của tập sách gồm 12 ý nghĩ, mỗi cái đều hàm chứa những ẩn dụ nằm sau hàng chữ. Người đọc không nên tìm hiểu câu chuyện, chỉ cần đọc kỹ vài đoạn văn chính, ở đó, Thế Uyên đã nói thật, nói hết những gì mình suy nghĩ về con người và cuộc sống có mặt. Nhà văn hình như giãi bày tâm sự qua những ý nghĩ và dùng kỹ thuật ngắn gọn để chuyên chở ý muốn riêng tư tới người đọc. Nói một cách khác, Thế Uyên đã quan niệm văn chương như một vũ khí đấu tranh tư tưởng trong giai đoạn hiện tại, nên cố gắng làm sao với phương tiện tối thiểu đạt được kết quả tối đa. Do đó, Thế Uyên luôn luôn tìm kiếm phương thức hoạt động hợp tình, hợp lý ngay cả trong văn chương để đạt được mục đích. Sự kiện này hiện rõ trong các đoản văn của 4 tập: Mười ngày phép của một người lính, Những ý nghĩ của bọt biển, Những người đã qua và Căn nhà của mẹ cùng 3 tập tiểu luận: Nghĩ trong một xã hội tan rã, Chiến tranh cách mạng và Tiểu luận 3, do chính tác giả ấn hành năm nay (1971).
Thái độ của Thế Uyên rất minh bạch, xuất phát từ một điểm khiêm nhượng để tiến dần lên cao điểm mà không do sức hỗ trợ từ phía ngoài, tuy rằng nhà văn đã gặp rất nhiều trở ngại cả bạn lẫn thù. Nhưng nhà văn chắc chắn không sợ kẻ thù, dù cho kẻ thù là Cộng sản hay Tư bản mà đích thực, Thế Uyên sợ bạn. Sợ vì không lường được trước sự phản bội sẽ đến vào lúc nào, dịp nào? Điều này làm khổ nhà văn rất nhiều mỗi khi đề cập tới, nó thấp thoáng ẩn hiện trong mỗi câu chuyện nói về lòng tin nhau giữa những người cùng đứng chung chiến tuyến. Thế Uyên lúc nào cũng bị quây chặt bởi những vấn đề, những băn khoăn do đời sống đẩy tới, do nội tâm phát hiện. Người đọc có cảm tưởng nếu không viết được, nói được ra, nhà văn có thể vì nó mà chết, nên luôn luôn người đọc bắt gặp những thoáng run rẩy trong mỗi ý, tuy đã được ngụy trang bằng sự trầm tĩnh của phương pháp diễn tả qua một số ngôn từ mệt mỏi!…
Nhà văn cũng đã biết gian khổ của đời quân ngũ, đã nằm đồn và hành quân trong những điều kiện khốn khó, nhục nhằn, sầu tủi của mỗi số phận khi đụng chạm với sống, chết mỗi ngày, mỗi giờ, mỗi phút. Và còn biết bao nhiêu số phận kẻ khác liên đới, liên lụy vì chiến tranh! Tất cả những sự kiện đó trở thành ám ảnh, hình phạt trong mỗi suy nghĩ dai dẳng. Viết văn đã trên dưới 10 năm, Thế Uyên mới chỉ có một tác phẩm dài 234 trang. Truyện Tiền đồn, trước khi in thành sách đã được đăng từng kỳ trong tạp chí Bách khoa.
Nội dung tập truyện dài đầu tay đã nói lên một phần tình trạng đất nước và cuộc chiến với những oan khổ do định mệnh, do thế cuộc tạo nên, đẩy mỗi thân phận xa lạ nối kết vào nhau trong những mắt lưới hoàn cảnh. Cái tấm "phông" chiến tranh được dựng lên giữa vùng trời ảm đạm, ở đấy, máu lửa, căm thù và dục vọng thay phiên nhau hành hạ mỗi số phận, để rồi mất đi, vĩnh viễn mất đi như mớ bào ảnh trôi bập bềnh tản mác trong không khí cuộc đời.
Nói về cốt truyện,Tiền đồn không có cốt truyện, tức là không có cái "trục" thông thường, để người đọc có thể nắm vào đấy mà theo dõi, cũng như tóm lược sự biến chuyển tâm lý nhân vật chính và phụ, xoay quanh vấn đề nào đó. Người đọc sẽ vô cùng bỡ ngỡ, đôi khi bị lạc hướng nữa, khi đọc Tiền đồn. Cung cách viết và cấu tạo tác phẩm này, Thế Uyên không đi theo con đường cổ điển, người viết làm nó tan loãng, lẫn lộn, bắt người đọc phải tự đảm trách một phần vào công việc tìm hiểu, để nối những tan tác với nhau, tạo thành toàn thể vì văn chương hôm nay không nhằm cổ động hay phát động tư tưởng nào, nhưng một khi nó đã "sống", đã linh động, nó tự tạo lấy sự tình và biến cố. Nếu vạn nhất, những sự tình và biến cố đó, có nói lên một-cái-gì, cũng chỉ do tình cờ chứ không phải nhà văn muốn như vậy. Phương pháp cấu tạo này, sự thực, đã được các nhà văn nghệ đợt sống mới thế giới sử dụng từ nhiều năm qua.
Thế Uyên quan niệm, văn chương không phải công việc giải thích, dù giải thích một cách thông minh đi nữa, mà sứ mệnh của văn chương là trình bày như thế (tel quel) để tùy người đọc nhận định và đánh giá kết quả.
Hình ảnh Vũ, Định và bao nhiêu người đã và đang ngụp lặn trong cuộc chiến này đều do số mệnh đẩy đưa họ gặp nhau, cùng đứng chung chiến tuyến, rất có thể cùng chết với nhau trong một bất ngờ nào! Tâm trạng của họ, tâm trạng chung của giới thanh niên bị động viên vào lớp tuổi trên dưới 20. Họ chiến đấu rất hăng say, rất nhiệt tình nhưng đôi lúc, họ dừng lại tự hỏi, họ chiến đấu vì cái gì, cho ai?
… Tôi hay tự hỏi, một điều như thế này:
"Tại sao chúng ta có chính nghĩa nhưng chính nghĩa ấy lại không giúp gì hết trong việc chiến đấu. Anh, tôi, Vượng, Yên… tất cả những tên có mặt trong Tiểu đoàn này cũng như các đơn vị khác đều đồng ý là phải chống Cộng. Nhưng mọi sự đã chẳng ra làm sao hết. Tôi đã từng khai thác tù binh, tụi chúng tin tưởng ở chính nghĩa của chúng nó đến độ phát tởm lên được".
Chàng để súng nằm thăng bằng trên đùi, móc túi lấy bật lửa châm thuốc, nói:
"Tụi chúng ngu!"
Vũ quay lại hạ giọng thấp:
"Vì thế tụi chúng sung sướng hơn bọn mình!"
(Tiền đồn, trang 101)
Niềm băn khoăn của tuổi trẻ tham dự vào cuộc chiến đã phản ánh một phần nào, trong lời đối thoại. Họ chiến đấu, đồng ý, nhưng không phải chiến đấu để chiến đấu. Họ đòi hỏi lý tưởng, đòi hỏi sự minh bạch của chế độ. Họ muốn đừng bao giờ họ trở thành một tượng đá, một con vật hay một con người mất tri giác:
… Chàng cười, bỏ mẩu thuốc xuống đất, lấy mũi giày dí nát, Vũ tiếp tục nói:
"Hậu quả kỳ cục và đôi khi bực mình vì bị méo mó nghề nghiệp. Bây giờ nhìn cảnh vật, tôi không thấy đẹp hay xấu. Óc tự dưng chỉ thu nhận những chi tiết địa thế cần thiết cho việc tiến quân hay đóng quân mà thôi. Một hàng dừa chỉ có nghĩa là chỗ đó có nước, một bờ tre là nơi phục kích tốt cho địch, con đường quang đãng có nghĩa là dám bị bắn sẻ, trăng chỉ là một yếu tố để tính xem toán kích đêm nên cho đi lúc mấy giờ và về lúc mấy giờ…"
(Tiền đồn, trang 100)
Những câu nói, chắc chắn không phải để nói suông, trong đó hàm chứa sự mỉa mai nào đấy ở ngoài khả năng chống đối của cá nhân. Để khỏa lấp những thắc mắc và suy luận, những người sĩ quan trẻ tuổi đều mang trong lòng một vài vóc dáng đàn bà với đam mê nhục dục.
Vóc dáng của Linh, Bích và các cô gái bán vui đều hiện rõ trong mỗi suy nghĩ, ở trong lòng những người trẻ tuổi đang cầm súng bảo vệ miền Nam tự do:
… Vũ cố gắng vui thích. Mai đi phép: bốn ngày xa đơn vị, xa vùng chiến trận, bốn ngày thỏa mãn sinh lý. Nhưng chàng dù cười, dù nói nhiều, nỗi vui sướng vẫn như bồng bềnh bên ngoài chàng. Trở về nhà qua ngõ hẹp có cây trứng cá lớn, đứa con chạy ra, bữa cơm trưa ồn ào và sau đó chiếc màn kéo ngăn đôi căn buồng, Bích và chiếc háng của nàng và con vật háu ăn hùng hổ để rồi sau đó mồ hôi toát ra đầy người ngủ thiếp đi trong làn hơi nóng từ mái tôn tỏa xuống…
(Tiền đồn, trang 88)
Sự thôi thúc về tình dục không phải chỉ ở phía người sĩ quan trẻ tuổi cùng nỗi nhớ nhung thành phố qua lỗ châu mai của vọng gác tiền đồn. Nó còn đau đớn hơn, thê thảm hơn với số phận của vợ chồng anh Ba, người đàn ông quê mùa chỉ biết làm ruộng, ăn nằm với vợ và hồi hộp mỗi đêm phải đi đắp mô để ban ngày chính mình phá nó, cũng như cam chịu khi biết lơ mơ vợ mình đã ngủ với trai, phẫn chí, uống rượu cho khuây khỏa, lúc say khướt trở về, lại làm tình với vợ, mặc súng bắn, kệ chuyện đắp mô! …
Chị Ba, người đàn bà nhà quê không may cũng biết đam mê tình dục chẳng những với chồng mà còn với những đàn ông khác mê mình từ hồi con gái, như Tía, Uông, Hải, và tên Trưởng đồn Dân vệ. Nhưng ngoài tình yêu chính đáng với anh Ba, những cuộc ân ái vụng trộm khác đều do hoàn cảnh cấu tạo, chị Ba chỉ là con vật hy sinh, dù hy sinh một cách khoái lạc, dưới ngòi bút Thế Uyên:
… Chị đưa tay quàng lấy đầu chồng, kéo lên. Đầu gối người đàn ông lọt vào giữa hai đùi ấm áp, làm chị tự dưng muốn khép hai chân lại…
"… Thôi mình! Mấy ông hành quân lớn, đạn bắn tùm lum bây giờ. Tôi hổng chịu xách quần tụt vô hầm như bữa trước đâu".
"Thì ôm quần tụt vô đã sao, như bữa trước đã sao?"
Chị thẹn nóng bừng má. Bữa đó, súng nổ tứ tung, ngồi sát vách đất hầm tay ôm mớ quần áo, tay bồng đứa nhỏ mà ảnh còn tiếp tục…
Cái hoạt cảnh đó, không hoàn toàn do trí tưởng tượng hoặc do óc sáng tạo của nhà văn, mà nó nói lên phần nào sự thực. Nếu ai đã có mặt trong vùng chiến trận dằng dai, phải thừa nhận các sự kiện nhà văn viết ra, nó chứng minh sự chai sạn ở tâm hồn những người dân quê nằm giữa hai lằn súng đạn! Sợ, họ vẫn sợ, nhưng không phải vì sợ mà ngưng tất cả sinh thú ở đời. Trái lại, vì chịu đựng quá lâu, nên họ quên đi và chấp nhận hoàn cảnh để bình thường hóa nó bằng hành động.
Thế Uyên trình bày chiến tranh dưới nhiều khía cạnh. Ở mỗi khía cạnh, nhà văn hé mở cho ta nhìn rõ từng nỗi bi thương không thể cưỡng chống trong một bối cảnh ngột ngạt của căm thù, chết chóc và thân phận con người. Từ người lính với nỗi đau vợ đi lấy ngoại nhân, đến sự ê chề của cấp chỉ huy khi đã mất thế lực, không còn chỗ tựa, bị người dưới nói hỗn, phải cắn răng nhẫn nhục, vì tuy là cấp dưới nhưng uy thế mạnh hơn, có bà con làm lớn! Cái đau, cái hận của từng người đều đi qua cái nhìn rất tinh tế của nhà văn.
Người viết, đôi khi lạnh lùng trong bút pháp và không ngần ngại nói lên ý nghĩ của mình về vóc dáng người bạn Mỹ ở bên cạnh cuộc chiến. Từng việc lần lượt được giãi bày như những mắt xích. Ở khoảng trống của mỗi mắt xích, nhà văn phác họa một khung cảnh, để người đọc nhìn qua đấy, có thể nhận định từng phần riêng rẽ, rất riêng rẽ, để rồi với chất xi-măng kỹ thuật, người viết cho gắn bó dần dần, tạo nên phối cảnh toàn diện của vấn đề. Đôi khi người đọc bắt gặp một vài đoạn, Thế Uyên đã nhìn và ghi nhận như Lawrence trong cuốn Người tình của Chatterley phu nhân, ở đấy, tình dục đã làm mờ hết trí năng, làm băng hoại luân lý và đạo đức trở thành lạc lõng! Những động tác ái tình dù ở trường hợp của Vũ với Bích, của Định với Linh hay của chị Ba với Tía, với Uông, với Hải và cả anh Ba nữa cũng chỉ là sự nhắc lại, hay khêu gợi sự việc với nhiều trường hợp trong nhiều hoàn cảnh, làm cho không khí Tiền đồn trở thành một sượng sần, vướng mắc. Ngay đến cái chết của Vũ, cái chết kiêu hùng giữa mặt trận với mùi cỏ thơm ân tình quá khứ và hình ảnh người đàn bà mang tên Bích với bức màn kéo ngăn đôi căn phòng!… Cũng như cái chết thê thảm của anh Ba lúc đang đắp mô, chị Ba chết trần truồng cạnh tên Hải – tên cán bộ Cộng sản – đã say mê chị khi trước. Nói đến cái chết tức nói đến sự bình đẳng của mỗi số phận, nhưng cái chết của chị Ba và tên Hải là cái chết đặc biệt trước sự hiện diện của Tía – người yêu chị từ lúc trẻ không có tiền để cưới hỏi làm vợ đành mang nỗi buồn suốt đời, nhưng cũng đã được chị cho chung vui nhục thể!…
Tên Hải và chị Ba chết mà không biết mình chết vì một trái trọng pháo giữa lúc đang cuồng mê khoái lạc: … Chị đã co chân lên cản, nhưng khi Hải cầm đầu gối ấn sang một bên, chị lỏng lẻo buông thả. Còn giữ chi, thôi cho nó lần nữa cho xong đi. Chị nghiêng đầu sang một bên cố nhìn mặt trăng qua lỗ quang lá trên cao, chờ đợi và chịu đựng. Chị toan nói mau lên cho tui còn vô với đứa nhỏ, nhưng lời nói không thốt ra vì một khoái cảm mới mẻ đã dâng lên. Chị hốt hoảng vì chính mình, sao lại thế, sao lại thấy… Chị cố nhìn cho được đủ vòng tròn của mặt trăng qua lỗ quang lá quá nhỏ, khi một tiếng súng một tiếng nổ bùng vang dội. Chị toan vùng lên nhưng Hải dùng sức mạnh ngăn cản.
"Buông tui ra! Vô hầm không chết…"
"Xa mà… coi còn xa mà… Im rồi đó thấy không. Tôi còn ở đây làm sao đánh lớn…"
(Tiền đồn, trang 205)
Chị Ba đi vào cái chết nửa vui, nửa sợ, cả tên Hải cũng vậy. Hai cái xác trần truồng đó đã khép lại một khoảng đời, một chút không gian rồi tan vào cát bụi!…
Tác phẩm Tiền đồn đã khích động người đọc chẳng những bằng ngôn từ, bằng hình ảnh mà còn làm cho tự đáy tâm tư bùng lên mối xót thương vô độ ở mỗi trạng huống hiện diện trong cuốn sách.
Thế Uyên, mang nhiều khát vọng, chẳng phải do ý hướng nổi tiếng, mà đích thực, muốn dùng nó để đạt được mục tiêu Cách mạng, dù Cách mạng trong tư tưởng. Do đấy, trong 10 năm văn nghiệp, nhà văn hầu như dành hết thời giờ cho suy nghĩ về những vấn đề xã hội, chính trị qua các tập tiểu luận. Ngay cả tác phẩm văn chương thuần túy, nhà văn cũng tìm mọi cách lồng vào bên trong cái ý hướng đó. Vấn đề tình dục mà Thế Uyên luôn luôn nhắc nhở, tỏ bày dưới hình thức nào đó đều hàm chứa dụng ý, che khuất đi một phần sự thực mà tác giả muốn viết, muốn đề cập tới một cách gián tiếp qua văn chương.
Thế Uyên, vốn dĩ trung thực nên anh chẳng nề hà gì khi nói về đất nước Việt Nam, một đất nước đã quá bi thảm vì hai chế độ: Quốc gia, Cộng sản. Mỗi viên đạn được bắn đi, dù bên này hay bên kia đều là của viện trợ. Cả hai bên đều lệ thuộc vào hai chủ nghĩa: Tư bản và Cộng sản.
… Nhưng chúng tôi, những người còn ở trong Quân lực, vì sinh kế hay vì võ nghiệp, những người đã, đang và sẽ nhập ngũ vì thi hành quân dịch hay vì quan niệm phục vụ tổ quốc qua binh nghiệp, đã an tâm chống Cộng trong những năm đầu của cuộc nội chiến và tin rằng mình chiến đấu để bảo vệ một chế độ trong đó con người được chọn lối sống mình muốn, thờ phụng Thượng Đế mình tin và lấy người mình yêu.
Những 1959, 60, 61 kế tiếp qua để rồi tới 63, 64, 65, 66 giữa tiếng súng nổ vang ngoài mặt trận và khói lựu đạn cay mù mịt, kẽm gai giăng mắc ở hậu phương, chúng tôi bắt đầu không hiểu nổi mỗi viên đạn bắn ra, mỗi kẻ nội thù chết đi, chúng ta tiến gần tới đâu. Rồi đến một ngày nào đó ở một tiền đồn, rừng rậm, ruộng lầy hay ở một góc hè phố đô thị, chúng tôi nhận ra rằng trong khi chống Cộng, chúng tôi đã vô tình bảo vệ, duy trì một xã hội thối nát, bất công, áp bức, một xã hội trong đó chỉ những người vô luân và có tiền bạc mới có chỗ đứng dưới ánh mặt trời…
(Nghĩ trong một xã hội tan rã, Sự thành hình của một thái độ, trang 11-12)
Tuy khẳng định thái độ đối với cuộc đời như trên, nhưng Thế Uyên không quá chủ quan nên đã nghi ngờ ngay cả suy nghĩ, kiến thức và kinh nghiệm của chính mình. Nhà văn làm ba cuộc hành trình thăm hỏi các vị đã có quá trình đấu tranh Cách mạng, có căn bản tri thức cao qua bằng cấp và các bậc tu sĩ khả kính, nhằm mục đích noi gương.
Cả ba cuộc hành trình đó đều cho Thế Uyên những thất vọng. Hành trình thứ nhất, với thành tích Cách mạng chống Pháp nay đã già nua an hưởng dư âm một thời và đặt lên vai con cháu cuộc chiến khốn khổ còn đấy. Hành trình thứ hai, chỉ gặp những tủ sách, bằng cấp và máy lạnh. Các tư tưởng Tây phương chẳng giúp ích gì cho quốc gia nhỏ bé này cả. Hành trình thứ ba chỉ để lại trong trí nhớ những thửa ruộng đất, những cơ sở kinh tài, những bạo động vi phạm lời răn dạy căn bản của đấng chí tôn trong một trai phòng, những lời giảng dạy về tình thương và tự nguyện vừa cất lên chưa được bao lâu đã đắm chìm vào tiếng reo hò xuống đường tranh đấu cho mục tiêu giai đoạn:
… Bởi thế, bước khởi đầu của chúng tôi không gì hơn là cùng nhau nhóm lên một ngọn lửa nhỏ để nhận diện nhau cho rõ, gạt bỏ mọi huyền thoại cũ, tìm hiểu cho thấy thực trạng để rồi cùng dưới đốm lửa lu mờ mà nhiều trận cuồng phong đang đe dọa dập tắt ấy, chúng tôi cùng nhìn về một hướng để nỗ lực tìm xem bây giờ cần phải học hỏi những gì và học ai, phải làm gì và làm ra sao, phải đến đâu và đi bằng đường nào.
Nhưng đêm tối đen thê thảm của dân tộc mỗi lúc thêm dày đặc, các cuồng phong mỗi ngày thêm ác liệt, đã có lúc đưa chúng tôi vào nỗi cô đơn và tuyệt vọng…
(Nghĩ về một xã hội tan rã, Những cuộc hành trình, trang 19)
Nội dung tập: Nghĩ trong một xã hội tan rã, Thế Uyên đã đặt rất nhiều vấn đề, những vấn đề không còn nằm trong văn chương nữa, nó thuộc về chính trị và tranh đấu. Do vậy, tập sách mang chiều hướng khác, mục tiêu khác, ở đó, cái uy quyền của văn chương không còn nguyên giá trị, nó phụ thuộc vào cái "thế đứng" của nhà văn trước xã hội hôm nay.
Nói về Thế Uyên là nói đến sự đa dạng của một con người đã trưởng thành trong "vận nước nổi trôi", đã gánh chịu nhiều gian khổ trên bước đường văn nghiệp. Thế Uyên bay lượn chập chờn từ đỉnh cao này sang đỉnh cao khác, ở mỗi nơi, nhà văn đều để lại những hạt giống và chờ ngày trổ mầm vươn lên ánh sáng màu lá mới. Vì muốn dùng văn chương vào mục đích nên ít nhiều gì, người đọc cũng cảm thấy như bị huyễn hoặc bởi ý muốn nào đó lẩn khuất trong mọi tác phẩm. Nhưng có lẽ, nhà văn cho đấy là vinh hạnh lớn lao đối với một người cầm bút trên 30 tuổi đời, 10 năm văn nghiệp, đã tự tạo cho mình một khung trời riêng biệt.
Thế Uyên, nhà văn phản kháng, luôn luôn chống đối thối nát và bất công xã hội. Những sự kiện được trình bày xuyên qua ngôn ngữ, thật bộc trực và nguyên vẹn. Từng vấn đề được đặt ra, đều nằm ngay trước mặt mỗi người, tại sao ta lại im tiếng? Lời than van hay nỗi oán trách chứa đựng ở nội tâm lâu ngày tích lũy thành ung độc làm bải hoải suy nghĩ, mỏi mòn ý chí phấn đấu. Sứ mệnh của văn chương hôm nay, chắc hẳn không còn phù phiếm, hiển nhiên là chân xác của đời sống phản ánh qua suy luận. Cuộc sống xô đẩy mỗi số phận vào từng cơn thảng thốt, con người nhiều lúc muốn buông xuôi hết cả để mặc cho số mệnh quyết định. Nhưng, ở cương vị nhà văn, có sự gì huyền bí thúc đẩy một cách khẩn cấp, làm rối loạn tâm thần nếu không nói hoặc viết ra được. Sự nói hay viết ra, chắc chắn cũng chẳng mang lại đổi thay, hoặc có ảnh hưởng sâu đậm trong ý thức chung về đời sống, nhưng ít nhất, nó có mặt để ghi nhận những chứng tích u uẩn hay cuồng nộ của thời đại. Thế là đủ.
Thế Uyên cũng là linh hồn của nhóm Thái Độ. Nhóm này tập trung được một số nhà văn, nhà thơ trẻ tiến bộ. Tất cả những sáng tác cũng như dịch thuật của các văn hữu trong nhóm đều được xuất bản dưới nhãn hiệu Thái Độ. Nhà xuất bản Thái Độ hoạt động rất đặc biệt, khi sáng khi tối, khi đen khi trắng. Có những ấn phẩm in đẹp phổ biến rộng rãi, có tập in ronéo phổ biến hạn chế. Thế Uyên là một trong số đông đảo người làm văn học nghệ thuật chống đối kịch liệt chế độ kiểm duyệt vì quan niệm rằng, người viết hoàn toàn chịu trách nhiệm trước công luận những gì do mình sáng tạo, đồng thời cũng ý thức được tầm quan trọng của Quốc gia, nên kiểm duyệt là điều vô lý, không dân chủ. Nhưng đòi hỏi là quyền nhà văn, còn có thể thỏa mãn được hay không, cũng tùy thuộc và nhiều yếu tố, trong đó có chiến tranh.
Thế Uyên còn trẻ lắm, sức sáng tạo còn dồi dào. Ngày mai với nhiều bất ngờ đang chờ ở phía trước.
Trích văn Thế Uyên
… Vũ quỳ lên cố gắng quan sát. Các đốm lửa không còn lóe sáng bên kia lộ. Khẩu trung liên bên cạnh tiếp tục tạo những vệt đỏ dài lao vào một mái nhà. Chàng đưa chân đạp mạnh vào mông xạ thủ: "Ngóc cái đầu lên nào! Định bắn chim đấy hả?". Người lính chồm lên: "Bắn sát mặt lộ cho tôi một băng nữa". Có một bàn tay đập đập vào chân, chàng quay lại:
"Cái gì?"
"Tư tưởng Đống đa hỏi có cần yểm trợ 81 không?"
Chàng cầm ống liên hợp, cố giữ cho hơi thở điều hòa:
"Thẩm quyền Vĩnh ba tôi nghe… Thôi, không cần…Tụi chúng rút rồi… Vĩnh! Vĩnh! Đây Vĩnh ba nghe không trả lời… Thôi bắn 60, thôi bắn 60!"
Đưa ống liên hợp lại cho hiệu thính viên, chàng quỳ thẳng dậy, không gian im lặng. Chàng gần như chỉ còn nghe thấy tiếng thở mạnh và tiếng ho khan rải rác. Chung quanh, những vệt thẫm nhạt bất động. Chàng quay đầu nhìn tứ phía, không còn dấu vết hoạt động nào của địch. Chàng cất tiếng hỏi: "Ra, tiểu đội 1 có ai bị không? Tiểu đội 2?"
Các giọng nói quen thuộc từ bóng tối, trong lùm cây, bờ đất lao xao:
"Vô sự, vô sự chuẩn úy…"
Hiệu thính viên kéo máy lom khom lại gần, đưa ống liên hợp:
"Cả Tư tưởng Đống đa lẫn Đống đa cho lệnh báo cáo".
Chàng tiếp tục nhìn vào khoảng đen thẫm nhạt bên kia quốc lộ, nói thấp giọng vào máy:
"Vĩnh ba báo cáo vô sự. Địch hướng về hướng sông, phỏng đoán là thám báo địch. Sẽ sang lục soát chiến trường trong năm phút nữa. Chấm hết".
Chàng cài vội ống liên hợp vào máy, không muốn nghe thêm các âm điện tử lẫn với những tiếng nói xôn xao đòi hỏi. Trăng chưa lên khỏi rặng cây chân trời nhưng một thứ ánh sáng nhàn nhạt, buồn tẻ, bất định đã làm các sự vật bắt đầu có đường nét rõ, gãy gọn hơn. Chàng cất tiếng, giữ cho vừa đủ nghe:
"Tất cả nạp một kẹp đạn mới! Tiểu đội 1 theo tôi".
Chàng đứng dậy, đầu và nửa thân phía trên chợt mát lạnh trong gió. Ngọn cây phía sau xào xạc, không gian chưa trở lại bình thường trong thứ ánh trăng còn non và nhạt nhẽo. Chàng giơ cao tay hạ xuống ra lệnh, những bóng đen vụt băng qua lộ. Chiếc cầu trắng phía xa, các căn nhà bên kia có những hàng cột đen phía trước chờ đợi. Dưới các mũ sắt, các đôi mắt không là gì hơn một khoảng đen thẫm hơn nhưng chàng biết chúng có đó và đang hướng về chàng chờ đợi. Chờ đợi gì? Một tiếng nổ làm chàng gục xuống hay một cái chết đột nhiên cho họ. Tứ bề vẫn mờ nhạt trong thứ ánh sáng không dứt khoát và khó chịu, chàng nói:
"Chắc chắn tụi nó chuồn hết rồi. Anh ra chia làm hai toán đi lục soát dãy nhà và nghĩa địa. Tôi đợi đây".
Chàng đặt khẩu súng xuống mặt nhựa, bỏ mũ xuống cố gắng bật lửa châm thuốc. Luồng gió đều đều làm tạt ngọn lửa nóng bỏng trên tay. Chiếc bật lửa rơi xuống tạo một tiếng va ngắn trên mặt đường. Tiếng nói cất lên từ phía sau:
"Chuẩn úy đứng thế, trông rõ lắm".
Không hiểu vì lý do gì, chàng đột nhiên có cảm tình với giọng nói đó, giọng nói vô danh, gần như không thuộc về một người nào đằng sau, có vẻ như phát sinh từ cái không gian lờ mờ hỗn độn đang bao quanh. Chàng ngồi xuống, kẹp chiếc mũ giữa hai đầu gối, gắng bật một lần nữa, đầu như lọt vào trong mũ khi vùng lửa đỏ bùng lên. Khói thuốc êm ả, mơn trớn làm chàng chợt nhận ra lưng, ngực ướt đẫm mồ hôi, những giọt buồn buồn chạy dài, dừng lại một khoảnh khắc ở thắt lưng rồi biến đi. Các nhà bên kia có tiếng lao xao, chàng lắng nghe, tiếng động vụt im. Tiếng Ra trầm khẽ từ một khoảng trũng bên vệ đường:
"Tụi chúng chắc bị hai tên. Có hai vũng máu sau bếp cái nhà kia".
Chàng tì một tay ngả người thấp xuống, cố định rõ hướng theo cánh tay Ra. Không gian ánh sáng rõ hẳn lên, mặt trăng tròn đã lên khỏi rặng cây, chàng nhận thấy tấm kim khí trên cổ tay người phụ tá lắc lư theo một nhịp điệu. Hai binh sĩ xuất hiện, hối hả lại gần:
"Tụi chó đẻ, chuẩn úy! Tụi chúng ban nãy đã nấp sau chuồng bò. Chính thằng Vịnh trông rõ ba đốm lửa hướng đó, quật vô một băng trung liên… Làm một con bò chết ngắc, một con ngắc ngư… Chuẩn úy cho gọi chủ bò dậy mổ lấy bán thịt?"
Chàng cúi xuống hút một hơi điếu thuốc để trong lòng mũ, trả lời không suy nghĩ.
"Cũng được. Anh Ra cho trung đội bố trí quanh khu này rồi hãy cho dân ra khỏi nhà".
Hai bóng đen khuất đi, chìm lẫn vào bóng tối của hàng cây. Tiếng đập cửa vang lên trong vùng yên tĩnh: "Cô bác mở cửa đi! Tụi tôi Cộng Hòa đây!". Chàng cúi xuống hút một hơi thuốc trong mũ, tiếng gọi và đập cửa lúc rõ lúc mờ theo sức mạnh yếu của gió. "Cô bác mở cửa… Cộng Hòa đây!". Chàng ngửa cổ cho gió lùa xuống ngực, các giọt mồ hôi se dần trên da. Các tiếng nói lẫn lộn, trao đổi, một vùng ánh đèn xuất hiện làm các bóng người hiện ra thành từng vệt dài trải về phía lộ. Vùng ánh sáng di chuyển về phía chuồng bò, những tiếng động khó xác định xuất xứ bắt đầu nhiều hơn. Chàng như muốn ngái ngủ, ánh đèn di chuyển qua các bóng xuất hiện trên tường làm đứa trẻ là chàng hơi sợ hãi kéo chăn lên trùm kín mít, giấc ngủ đến êm đềm và buổi sáng đến trong tiếng gà mẹ gọi con ngoài sân, những khung vàng nhạt trên vách của ánh nắng mặt trời qua khe hở trên khung cửa căn nhà tại quê cũ. Hơi nóng đầu thuốc bắt đầu tỏa vào ngón tay, chàng cúi xuống cố hút một hơi chót, buông mẩu thuốc xuống, bốc đất phủ lên từ từ. Chàng đứng dậy.
Vùng ánh sáng rực rỡ hẳn lên khi chàng bước vào sân nhà. Một đứa bé ngái ngủ ngồi thần người trước ngọn đèn nhỏ đặt trên đất, chàng dừng lại một khoảng thời gian, nhận ra đó là một đứa gái tóc rối rủ trên vai áo rách lộ một khoảng da trắng nhạt. Một nỗi xúc động xuất hiện, chàng tự nhủ: Nào có gì đâu, một cô bé gái ngồi ngái ngủ cạnh ngọn đèn dầu, chỉ có vậy. Nhưng nỗi xúc động vẫn còn đó, ray rứt và bí ẩn. Chàng băng qua sân, tới tì tay vào một then ngang nhìn vào chuồng bò: một con vật nằm dài mất một bên đùi, một người đàn ông cởi trần ngồi quay lưng lại lúi húi xẻ thịt, thỉnh thoảng bê một khối bầy nhầy vứt vào chiếc thúng. Nỗi xúc động tan biến đi khi chàng nhìn rõ người đàn bà ngồi cạnh thúng, hai tay tì trên đầu gối, bàn tay buông thõng xuống gần chạm đất. Tuyệt vọng và khốn khổ có đó rồi, điều chàng âm thầm lo sợ nó hiện ra đầy đủ như thế với hai vệt nước mắt trên da mặt đã bắt đầu nhăn của người đàn bà. Người đàn ông cởi trần mệt mỏi đứng dậy vặn người, hai bàn tay mở nguyên giang cách xa thân hình, các vệt máu bết dày đen thẫm óng lên giữa các kẽ ngón. "Giúp tui một chút chứ! Ngồi đó mà khóc ích chi!". Con bò thứ hai đứng sát vách chuồng đối diện bắt đầu run rẩy dữ dội, hai chân trước lẩy bẩy, các vết đạn thủng lỗ chỗ trên lớp lông vàng bết máu. Một bóng đen lại gần ngay cạnh làm chàng quay nghiêng đầu, nhận ra khuôn mặt binh sĩ xạ thủ trung liên đã chúi đầu bắn cả một băng đạn lên mái nhà. Nửa người trung đội phó đột hiện rõ trong vùng ánh đèn, đôi mắt nhỏ long lanh phản chiếu ánh sáng lộ vẻ điềm đạm, chàng thèm muốn có được thái độ ấy vì nỗi xúc động còn đang tiềm tàng, ray rứt. Có gì mà phải… đã có những dân nào bị chết… Chàng đứng thẳng người dậy, lấy thuốc châm hút. Phải rồi, có lẽ thế, chàng đã dửng dưng nhìn nhiều xác chết nhưng nhìn rõ chúng trong tư thế cứng ngắc, thực chết. Còn buổi tối, khối vô định dưới tấm bạt chiếc giày thòi khỏi sàn xe lắc lư trong vùng ửng đỏ và bây giờ nỗi thống khổ hiện ra kia, con bò run rẩy hấp hối và người đàn bà ngồi khóc. Ra nói với người đàn ông: "Bác mổ con kia đi. Nó sắp chết rồi". Người đàn ông làu nhàu một câu không rõ, lại gần vách cầm khúc gỗ lớn nhưng một người đã vụt bước vào đánh ngược báng súng vào đầu con bò. Con vật loạng choạng gục xuống, tứ chi tiếp tục run khẽ. Chàng nhận ra người đánh báng súng là xạ thủ trung liên. Bây giờ đầu hắn cúi xuống, vài đợt tóc dính bết mồ hôi trên trán. Ra nói: "Bán thịt cả hai con được chừng bao, bác?". Người đàn bà im lặng giơ tay quệt ngang mặt, chàng gọi nhỏ: "Ra, Cát, rút đi thôi…". Chàng hướng ra phía lộ và khi đi qua đứa bé ngồi trước ngọn đèn, chàng chợt nhớ ra đêm khuya ở quê ngoại, mẹ chàng đặt chàng ngồi cạnh ngọn đèn để giúp người bà săn sóc mấy con heo, bệnh bất ngờ. Mặt quốc lộ như không còn một vết bụi, loang loáng ánh trăng chạy dài về phía cây cầu đúc, chàng vẫy tay cho quân vượt qua khu đất trống, bóng tối của rặng cây cao úp phủ lên làm chàng bắt đầu nghe thấy tiếng dế kêu trong cỏ.
Tác phẩm:
1. Những hạt cát, truyện ngắn, 1964, Thời Mới xuất bản lần 1, 2 và 3
2. Mưa trong sương, kịch, Thời Mới xuất bản, 1964
3. Ngoài đêm, truyện ngắn, Nguyễn Đình Vượng xuất bản, 1965, Khai Trí tái bản 1970
4. Mười ngày phép của một người lính, đoản văn, Nam Sơn xuất bản, 1965, Khai Trí tái bản, 1971
5. Những ý nghĩ của bọt biển, đoản văn, Nam Sơn xuất bản, 1966
6. Nỗi chết không rời, truyện ngắn viết chung với Duy Lam, Nguyễn Đình Vượng xuất bản, 1966, Văn Uyển tái bản, 1969
7. Tiền đồn, truyện dài, Thời Mới xuất bản 1967, Khai Trí tái bản, 1971
8. Nghĩ trong một xã hội tan rã, tiểu luận, Thái Độ xuất bản, 1967, tái bản 1969
9. Bản tình ca, truyện ngắn, Thái Độ xuất bản, 1968
10. Chiến tranh cách mạng, tiểu luận, viết 1965, bổ túc 1968, Thái Độ xuất bản, 1968
11. Những người đã qua, đoản văn, Văn Uyển xuất bản, 1968
12. Kỹ thuật tuyên truyền chính trị, dịch J.M. Domenach, Thái Độ xuất bản, 1969
13. Tình dục, tuyển dịch Quốc Tế, Thái Độ xuất bản, 1969
14. Căn nhà người mẹ, đoản văn, Trí Đăng xuất bản, 1971
15. Đoạn đường chiến binh, đoản văn, Lá Bối xuất bản, 1971
16. Tiểu luận 3, Thái Độ xuất bản, 1971
17. Mưa trong sương, truyện ngắn, Ng Đình Vượng xuất bản, 1971
Đã cộng tác với: Tân phong, Văn học, Bách khoa, Khởi hành (Chí), Chính luận, Tiếng nói dân tộc, Điện tín (Báo), v.v.
Thế Uyên và ý thức cách mạng trong văn chương
"Xã hội tác động vào con người làm con người có phản ứng là suy nghĩ. Suy nghĩ đưa đến kết quả là sự lựa chọn một thái độ. Thái độ này như thế nào tùy thuộc tâm hồn từng người: thái độ lớn, rõ rệt, sâu đậm là thái độ của các tư tưởng gia, các vĩ nhân tạo thời thế. Thái độ nhỏ, mơ hồ, mờ nhạt là thái độ của con người thông thường…"
(Thế Uyên)
Thế Uyên, nhà văn trẻ đã vào đời bằng một thái độ. Thái độ đó được hình thành và xuyên qua văn chương để chấp nhận hay phản đối những gì mà nhà văn cảm thấy, nghĩ tới, do đời sống đưa lại với từng dữ kiện hiển nhiên, xác thực.
Trên nguyên lý, văn chương là một-cái-gì phù phiếm, nhằm mục đích đánh lừa thực tại, để ru người đọc vào một khung cảnh, một thế giới nào đó, do óc tưởng tượng của nhà văn thích như vậy, muốn như thế. Nhưng ngoài nguyên lý trên, đích thực, văn chương còn có khả năng và nhiệm vụ: chuyên chở, phổ biến từng sự việc hay những sự việc, từ một tâm hồn đến muôn vạn tâm hồn để tỏ bày thái độ. Thái độ của cá nhân, có thể đúng, có thể sai đối với đa số, nhưng thái độ là một cần thiết cho mỗi con người làm văn học nghệ thuật để chứng minh giá trị qua cá tính độc đáo và sung mãn ở mỗi cương vị người cầm bút. Sự thực, ở đời con người cứ sống mà không cần thái độ, cũng như không phải nhờ xã hội tác động mới biết suy nghĩ, hoặc có thể cứ suy nghĩ mà chẳng cần bày tỏ hay chọn lựa gì cả theo định nghĩa của Pascal: con người là một động vật siêu hình (l’homme est un animal métaphysique).
Những người làm văn học nghệ thuật hôm nay, họ đã can đảm nhìn vào sự thực, tức là cái nhìn vào bản chất đích danh của đời sống cũng như con người trực diện, để nhận xét và phán đoán, đôi khi quá nghiêm khắc ngay cả với mình.
Thế Uyên bước vào văn học với thái độ cứng rắn của lứa tuổi trên 20. Cái nhìn, cái biết và cái hiểu của Thế Uyên đối với cuộc sống đều đi qua chiến tranh, bất công của mỗi số phận, trong guồng máy sinh hoạt thường nhật do xã hội hình thành và chi phối. Bởi đó, mỗi xúc động, mỗi suy nghĩ của Thế Uyên đều chứa chấp trọn vẹn sự hờn giận, phẫn nộ pha thêm đớn đau, chua xót! Khởi hành từ trạng thái trên, Thế Uyên đã bày tỏ từng ý nghĩ bỏng cháy của mình qua rất nhiều khía cạnh, ở đấy, mọi sự kiện được trình bày đều nhuốm màu bi thương, phẫn uất, ngay cả vấn đề tình yêu.
Thế Uyên bước vào nghề văn không do tình cờ hay được hỗ trợ bởi hoàn cảnh, mà hiển nhiên là sự dấn thân, một tình nguyện. Khi cuộc Cách mạng tháng Tám 1945 thành công, cả dân tộc Việt Nam hò reo ăn mừng độc lập, Thế Uyên mới được 10 tuổi, còn ấu thơ, chưa qua khỏi ngưỡng cửa Tiểu học. Rồi chiến tranh toàn quốc chống Pháp bùng nổ hơn một năm sau, Thế Uyên cũng vẫn còn nguyên là đứa bé lẽo đẽo theo gia đình tản cư chạy loạn. Nói về ý thức lúc ấy, quả thực Thế Uyên chưa có một chút ý thức nào về cuộc sống, về chiến tranh cũng như hoàn cảnh chính trị với Nhất Linh, Hoàng Đạo và nhóm Tự Lực Văn Đoàn là những phần tử đối nghịch với Cách mạng dạo đó. Nếu có biết một phần rất nhỏ nào về "huyền thoại hoạt động" của các chú, các bác cũng đều do sự "nghe lỏm" giữa những câu chuyện mà người lớn trao đổi với nhau, hoặc do bố mẹ nói lại khi đã trưởng thành.
Nhưng có điều chắc chắn, không phải vì những hào quang chiếu tỏa từ Nhất Linh, Hoàng Đạo hay Thạch Lam mà Thế Uyên mơ ước đến sự nghiệp văn học sau này, mà đích thực cuộc sống với những mâu thuẫn cùng thân phận con người trong cuộc chiến, đã thấm dần vào cơ thể cũng như tâm tư của Thế Uyên những giọt cường toan, làm chết dần hồn nhiên và phóng khoáng thay vì phải có, ở trong tâm hồn đang tuổi thanh niên. Bởi vậy, những dòng đầu tiên của người trai trẻ, ngoài hai mươi, trút xuống mặt giấy đã mang nặng nỗi bỏng cháy, giãy giụa của thân phận làm người trước những sự kiện tưởng như không có phương thế sửa chữa, dù phương pháp hành văn của Thế Uyên lúc đầu, một phần chịu ảnh hưởng của nhóm Tự Lực Văn Đoàn. Sự chịu ảnh hưởng ở đây, những bước đầu khai phá, Thế Uyên không thể tránh được, muốn tránh cũng chưa đủ sức vì tài năng còn bị bủa vây trong không khí Đoạn tuyệt, Hai buổi chiều vàng, Bướm trắng của Nhất Linh hay Sợi tóc của Thạch Lam, v.v. Thế Uyên chắc cũng đoán biết điều đó, nên tự mình gỡ khỏi những ám ảnh. Chỉ trong thời gian ngắn, nhà văn đã tự tạo một bút pháp, một chỗ đứng trong nền văn nghệ Việt Nam. Nhưng Thế Uyên không chỉ mong có thế, muốn dùng văn chương để trình bày suông những gì nghĩ về thế hệ mình, về xã hội, mà đích thực, để xác định một vị trí và chiều hướng sáng tạo được ấn định rõ ràng trong tâm thức, dù tình yêu hay căm thù. Thế Uyên cũng bị cuốn vào cơn bão thác loạn của vấn đề dục tình, tuy chẳng mới mẻ gì, nhưng cũng làm choáng váng tâm trí, kèm theo là thực trạng của một xã hội xấu xa và tội lỗi.
Sự có mặt của nhà văn, có phải để gánh chịu buồn rầu, thê thảm và sầu não trước những vật vã khóc than của bao nghịch cảnh? Việc nhận thức đời sống, có được phán xét bằng sự sáng suốt, vô tư trước những đối tượng nhiều lúc ghê tởm, bỉ ổi? Lòng thương xót của nghệ sĩ phải chăng là một bổn phận đối với tha nhân? Tất cả, như những mắt lưới quây chặt lấy ưu tư – dù thầm kín – ở nội tâm của mỗi người làm văn nghệ.
Trong nghệ thuật, Thế Uyên muốn tự mình bay bổng lên cao và có đầy đủ quyền hành trong công việc sáng tác, vì nghệ thuật không thể dối trá hay ngụy trang, nó phải chân thành và tự do tuyệt đối, trong mọi vấn đề liên quan giữa suy nghĩ, con người và cuộc sống. Bởi vậy, mỗi lời nói, mỗi chữ viết không nhằm vào một trường hợp riêng rẽ, nó được điều hợp từng sự việc đi vào môi trường chung của nghệ thuật để tạo xúc động, tức là đóng góp vào công cuộc khai phóng đời sống với tìm tòi, khám phá bằng ý thức tiến bộ. Một số người cho rằng, văn Thế Uyên kém đạo đức, dâm đãng trong ngôn từ khi đề cập tới một vài trường hợp tình yêu và tuổi trẻ, vì chịu ảnh hưởng và vay mượn những ý nghĩ của Tây phương buông thả sau Đệ nhị thế chiến, hoặc bị mặc cảm dồn nén nên mới thác sinh ra những ngôn ngữ sượng sần làm đỏ mặt các nhà mô phạm.
Thế Uyên, một nhà văn trẻ, lớn lên trong chiến tranh và chấp nhận cuộc chiến này là có thực, cũng như sự có mặt của đời sống là hiển nhiên với mỗi thân phận, dù trai hay gái. Khi đề cập tới tình yêu trong những truyện đầu tay, lẽ dĩ nhiên (đây là mảnh đất thánh cho những cây viết trẻ) khuôn thức tình ái lứa đôi với những đòi hỏi cháy rừng rực ở trong lòng người con trai trên 20 tuổi phải là một ám ảnh, một thôi thúc cần phải tỏ bày và tỏ bày chẳng những với mình, còn với người.
Người đọc có thể nhận định về Thế Uyên qua Những hạt cát, tập truyện, do Thời Mới xuất bản (1964) với những đoạn văn:
… Quay lại, Duy thấy Hằng đã đương đứng trên cùng một cành, một tay nắm cành, một tay khoái chí đưa trái sung vào miệng. Nàng cố men ra phía Duy ngồi.
"Hằng ngồi xuống kia. Đi thế ngã đừng có trách"
Thiếu nữ lắc đầu cười, nhét nốt nửa trái ăn dở vào miệng: "Hằng biết bơi mà, có ngã cũng không sao…"
Nàng giơ tay ném vài quả về phía Duy. Tay vung lên quá mạnh, Hằng mất đà loạng choạng. Duy chưa kịp cử động, thiếu nữ đã ngã xuống ao. Nước tóe lên trắng xóa. Duy hoảng hốt, tay run lên, cành lá giao động. Nhưng Hằng đã ngoi lên tóc rũ bết xuống trán. Nàng vừa cười vừa ho sặc sụa leo lên bờ:
"Lâu lắm mới được tắm ao nhà…" Quần áo đẫm nước, lụa mỏng bám sát vào da thịt. Thiếu nữ cúi xuống, đột nhiên im bặt. Người Duy nóng lên như hồi nhỏ những hôm trời nóng, nấp trong chăn chơi đi trốn. Một cảm giác buồn buồn như có một con vật gì bò dọc theo sống lưng, mắt chàng không thể rời thân thể ướt nước trước mặt. Thiếu nữ rùng mình kêu lên: "Anh!… Quay đi anh…"
(Những hạt cát, trang 9)
… Có một lần Hằng đứng ngoài cổng, giơ tay với một cành hoa ti-gôn. Nàng rướn mình, ngực hiện rõ dưới làn áo mỏng. Duy muốn đặt tay lên, nhưng vội vã xua đuổi ngay ý tưởng ấy. Chàng vẫn chủ trương tình yêu tinh thần và tình yêu xác thịt phải cách biệt… Nhưng sau đó, Hằng đã nhiều lần bắt gặp thấy chàng đang nhìn ngực hay nhìn đùi mình một cách chăm chú. Duy cố gắng xua đuổi, kềm hãm lòng thèm muốn sôi nổi trong người.
Nhưng càng tìm cách kềm hãm, Duy càng thấy thèm muốn mãnh liệt. Chàng mê say thân thể mềm ấm đầy mùi hương quyến rũ, tìm đủ cơ hội để có thể ôm được trong tay. Thiếu nữ ngoan ngoãn và tin cậy, nhưng mỗi lần tay người đàn ông chạm vào ngực, nàng thường rùng mình và đẩy ra…
(Những hạt cát, trang 120)
Hai đoạn văn trên đã phản ánh trung thực cái dục tính phát sinh ở trong lòng người con trai mới lớn và sự xâm chiếm thể xác lúc này mới chỉ là một dự định, trong đó còn ẩn nấp e dè, ngượng ngập, hơn nữa, về phía người con gái, vẫn là gìn giữ, là một "kinh dị" ở trên đời, cần phải né tránh. Ngôn từ và ý tưởng của truyện rất gần không khí Bướm trắng:
… Trong lúc Thu ăn bánh, Trương ngồi nhìn chăm chú vào đôi môi Thu, Thu ăn dở một chiếc vừa đặt xuống, Trương cầm ngay chiếc bánh dở ăn nốt:
"Cả đời anh chưa bao giờ ăn chiếc bánh nào ngon hơn".
Thu thẹn nóng bừng cả mặt. Nàng hơi lo sợ, bất giác đưa khăn tay lên lau miệng. Trương hiểu ý:
"Em không sợ, anh không dám xúc phạm đến em, anh chỉ xin em cho phép anh cầm lấy bàn tay em trong một lúc, một lúc thôi".
(Bướm trắng, trang 121)
Nhất Linh đã viết về tình yêu như thế cách đây ba, bốn chục năm, khi nền luân lý cổ truyền phương Đông còn đè nặng trong tâm trí của mỗi con người Việt Nam thuộc mọi thành phần xã hội. Hầu hết những cuộc tình được đề cập tới trong tác phẩm của nhóm Tự Lực Văn Đoàn đều mang mẫu số chung, nghĩa là nó thuộc vào thứ tình yêu cao thượng, lý tưởng, tuy rằng các nhà văn, nhà thơ thuộc nhóm này đều theo Tây học, có tinh thần tiến bộ, muốn cải tạo xã hội Việt Nam lúc ấy bằng văn chương, trong khi sách của Flaubert với Madame Bovary, D.H. Lawrence với L’amant de Lady Chatterley cùng Phân tâm học của S. Freud đã xâm nhập vào thị trường văn hóa Việt Nam từ lâu. Nhưng hoàn cảnh và vị trí của các nhà văn, chẳng những thuộc nhóm Tự Lực Văn Đoàn, mà hầu hết các người làm văn nghệ thuở ấy (1930-45) đều không thể và không dám vượt qua bức tường luân lý quá chắc và quá cao được trấn giữ bởi các ông thầy Khổng - Mạnh.
Nhưng hôm nay là chuyện khác. Các nhà văn trẻ, tương đối đã được hoàn cảnh hỗ trợ và xã hội mặc nhiên thừa nhận giá trị suy tưởng tùy theo quan niệm và nhãn giới của mỗi thành phần nằm trong tập thể. Những ý nghĩ của nhà văn, đôi khi quá táo bạo, quá lộ liễu, quá trần truồng được phô bày dưới mắt người đọc ở cả hai khía cạnh: chiến tranh và tình yêu. Chiến tranh từ lâu đã trở thành một ám ảnh, một dằn vặt đè nặng trong tâm trí những người trai trẻ còn đang ngồi ghế nhà trường, do đó, một khi có hoàn cảnh, được dịp tỏ bày là họ không ngần ngại nói thẳng những gì cần phải nói trước công luận.
Tập Những hạt cát gồm 6 truyện ngắn, cả 6 truyện đều mang nội dung từa tựa nhau, nghĩa là dùng những sự kiện hiển nhiên để chuyên chở từng ý tưởng u uẩn được ngụy trang qua câu chuyện tầm thường, coi như không có gì mà đích thực, nó gói trọn một thái độ, một cưỡng chống với một trật tự, một cương tỏa nào đó:
… Tôi thiếp đi trong mệt mỏi, mơ thấy Nương lơ lửng trên trời xanh, lượn như một con bướm mới hong khô cánh. Tôi vẫy gọi, tôi gào thét. Nương cười, môi đẫm máu rồi đột nhiên rơi xuống, thân thể trần truồng giãy giụa trên hàng rào kẽm gai bao quanh đồn. Tôi bừng tỉnh giấc, mồ hôi thấm ướt lưng áo. Tôi lắng nghe. Đêm im lặng khác thường. Một vài tiếng ho khan ngoài sân buồn bã. Chắc địch sắp đánh đồn. Như thế cũng hay.
(Những hạt cát, Người lính lê dương, trang 48)
… Vô lý và vô ích. Tất cả triết thuyết bập bềnh lướt qua chàng, một đám học trò, lại thêm đám bèo trôi nhanh ngoài sông. Không giải quyết được gì cả và cũng không mang lại một lợi ích, một sức mạnh nào. Trí óc chàng bất lực ngất ngư trong những luận lý: "Je pense donc je suis" hay "je pense donc je ne suis plus"…? "To be or not to be"…?
(Những hạt cát, Qua sông, trang 82)
Tất cả những đam mê, hờn giận, do chiến tranh, tình yêu và cuộc sống đã xô Thế Uyên vào vùng trời u buồn, chán nản đến nghi hoặc ngay cả ý nghĩ của mình. Một cái sống, một cái chết, một nụ cười, một môi hôn, một vòng tay, tất cả như bủa vây nhà văn vào cơn mê, trong đó giãy giụa từng hình ảnh bùng nhùng vừa đáng yêu, vừa đáng ghét, vừa đáng kính, vừa đáng khinh.
Tập truyện Những hạt cát toát ra không khí u uất, trong một bối cảnh thê lương, ảm đạm với sự xâu xé ở nội tâm nhân vật. Đi từ cái nhìn rất thẳng thắn và trong sạch của Hằng qua cái cảm nghĩ hung hãn của Vinh khi muốn đẩy Thục xuống thung lũng, nếu có can đảm, vì biết mình là kẻ đến muộn trong tình yêu.
Thế Uyên hẳn nhiên khi xây dựng nhân vật trong sáng tác, đã ít nhiều cũng đặt tuổi trẻ của mình vào hoàn cảnh đó, dùng nó để biểu dương những suy nghĩ riêng tư nằm sau dòng chữ. Nhưng, tại sao với cái tuổi trên 20 ấy, cái tuổi đáng quý nhất của một đời người, với bao nhiêu hy vọng mà Thế Uyên đã sớm tiếp thu vào hồn mình những ung độc, để rồi bắt đầu từ giọt đắng thứ nhất, Thế Uyên vùng vằng lao mình vào thung lũng đau thương, hờn giận đến phẫn nộ cho tới bây giờ?
Cái hoàn cảnh khốn khó mà dân tộc Việt Nam phải trải qua 80 năm nô lệ với 25 năm chinh chiến và còn nữa, đâu có phải chỉ dành riêng cho Thế Uyên và thế hệ những người cùng tuổi? Sự vinh quang hay nỗi nhọc nhằn nào đó do một chế độ, hay xã hội tạo nên, đã tác động thật sâu đậm vào tâm thức nhà văn để từ đấy bắt nguồn cho thỏa hiệp hay chống đối. Sự chống đối nào cũng vậy, đều mang trong bản chất nó sự chủ quan tuyệt đối, nên bao giờ, lúc nào, nó cũng được phân tích và nhận xét với những ý kiến phần nào thiên lệch. Hoàn cảnh miền Nam nước Việt trong năm 1963, vô cùng sôi động với các cuộc đấu tranh, biểu tình chống chính quyền đàn áp Phật giáo. Toàn thể miền Nam lúc ấy như miếng giẻ rách bị nhúng nước. Sau bao nhiêu ngày nghẹt thở, tiếng súng 1.11.1963 đã phá vỡ một chế độ, để tạo dựng sự hỗn độn liên tục sau một thời gian ngắn vui mừng. Thế Uyên đã sắp hàng với Phật giáo quyết tâm đạp đổ những chướng ngại do chính quyền hay xã hội làm cản trở bước tiến hóa của Dân Tộc đang cần tự do, dân chủ hơn chống Cộng. Nhưng ở tuổi thanh niên, với số vốn kiến thức nhà trường, đã hành nghề thầy giáo, nhất là quay nhìn vào quá trình Cách mạng của nhóm Tự Lực Văn Đoàn thuộc bên ngoại, Thế Uyên cảm thấy và hình như thấp thoáng đâu đây sự bủa vây của một thế lực khác, trong đó, chưa chắc gì giá trị của suy tưởng và đời sống đã tốt đẹp hơn. Sự kiện này, người đọc nhận thấy ở truyện ngắn Những kẻ thuộc bài trong tập Ngoài đêm (1965). Nội dung truyện ngắn nói trên ẩn nấp một không khí vừa căm thù vừa sợ hãi trộn lẫn đam mê và chán chường. Sự dấn thân vào sự chống đối nào đó ở lớp tuổi Thế Uyên nó không nằm trong một khuôn thức thuần túy Cách mạng mà tỏa ra, làm cho mục tiêu chính bị nhạt nhòa theo những chi tiết phụ. Phương pháp hành văn của Thế Uyên theo lối mới, được ưa chuộng tại Âu châu mấy năm trước. Một số nhà văn trẻ ở phương Tây, họ quan niệm văn chương không phải dùng để nói một sự việc, mà đề cập tới nhiều sự việc trong một khung cảnh đã chứa đựng sự hỗn loạn như thế, do cuộc sống hình thành. Nhưng những người trẻ tuổi làm Cách mạng để chứng tỏ sự có mặt của mình trong một khoảnh khắc nào đó thôi, bởi thế, họ cũng dễ buông tay, khi không còn hứng thú:
… Du đứng dậy giải tán buổi họp. Thất vọng lần này để lại một hương vị ung thối, bất hợp lý, gây gấy của một cơn sốt rét rừng sắp bắt đầu. Mọi người ra về, từng kẻ một rón rén trên cầu thang thiếu bực, tối đen. Dù sao, khi ra trường, họ đã học được hơn chàng một định lý: "Những kẻ thuộc bài sẽ bị đọa đày". Họ đã học hơn chàng một hệ luận: "Quên bài, quên lời giáo huấn là yên thân". Không còn gì phải chứng minh cả, không còn gì phải chứng minh nữa. Nhưng chàng vì chua xót ung thối, uất ức, ngăn cản không cho phép chàng học thêm như họ… Suốt đời, suốt đời chàng… Tương lai đen tối mơ hồ hiện ra sau mỗi bước chân nhỏ dần của người cuối cùng ra về…
(Những kẻ thuộc bài, trang 41)
Câu chuyện "hoạt động" coi như đã xong một giai đoạn, chả biết làm gì hơn, những người trai trẻ lại quay về bản ngã đích danh của họ.
… Ba gã thanh niên ngơ ngẩn nhìn nhau. Định đề nghị:
"Đi chơi! Mai mày viết tiếp cũng được".
Dư gật đầu, xếp tập giấy lên bàn:
"Tao đề nghị đến một quán có cả gái. Truy hoan đôi khi khá cần thiết".
Hùng lắc đầu:
"Tao chỉ đến nhậu thôi. Hôm nay không hứng".
Định cười:
"Mày chỉ giả vờ!"
Hùng cười theo thú nhận:
"Chính thực ra mai Thu đến. Đi chơi gái về, hôm sau ôm người yêu, tao thấy nhơ bẩn thế nào ấy…" Dư im lặng xuống trước. Khói thuốc bốc vào mắt cay sè.
(Những kẻ thuộc bài, trang 43)
Ý thức về cuộc đời xuyên qua ngôn ngữ nhân vật trong sáng tác của Thế Uyên đã phản ánh phần nào tâm trạng một tầng lớp thanh niên trí thức đã ngồi ghế Đại học. Đứng trước ngã ba, họ chưa định hướng được, đâu là con lộ chính họ cần theo đuổi, cần ném cả sức lực thanh niên vào đó, dù Cách mạng hay đam mê. Họ chạy xông xáo, dớn dác chỗ nào cũng thấy mặt, kỳ thực họ chẳng ở đâu hết. Dù đi đâu, đến đâu và hoạt động có vẻ như sống chết với lý tưởng, nhưng rốt cuộc họ lại quay về đứng ở chỗ cũ, ở ngã ba cuộc sống để nguyền rủa lỗi lầm và đớn hèn của kẻ khác!
Nhận xét nêu trên, hiện diện ở hầu hết lớp tuổi trên dưới 20, khi cuộc đời chưa tiếp thu họ vì họ còn quá trẻ, trái lại họ cũng không thừa nhận cuộc đời vì cuộc đời quá già, quá xấu đối với ước mơ của họ.
Giọng văn của Thế Uyên thật chua chát khi đề cập tới thân phận của lứa tuổi thế hệ mình. Thế Uyên viết ra, như ghi nhận những chứng tích, ở đó, từng khắc khoải và giày vò được thể hiện như một hình phạt. Ngay cả trong khuôn viên đại học, nơi Thế Uyên đã biết, đã từng sống và sinh hoạt với nhiệt thành của tuổi trẻ, đã hoài vọng rất nhiều về tương lai nhưng khi đề cập tới, Thế Uyên cũng nhìn nó với cái nhìn thật soi mói, không phải ở khía cạnh học vấn mà ở khía cạnh tâm tư với những ý nghĩ vô cùng táo bạo. Người nữ sinh viên tên Phượng, được Thế Uyên nói đến, sự thực chỉ là mẫu người, một hình múa rối, để nhà văn dễ dàng bày tỏ ý kiến về vấn đề tình dục, cũng như sa đọa ở một khung cảnh, đã được ấn định rõ trong tâm cảm.
… Tôi vòng tay ra sau, đặt lên gáy Hãn. Thân thể đàn ông cứng và nóng khác lạ. Mức thân mật giữa hai đứa lên tới độ cao nhất. Chẳng còn gì hơn – trừ việc làm ái tình và việc này, khi tôi nép sát vào âm thanh, một bản nhạc Slow ưa thích, Hãn đã hỏi và lúc đó tôi đã từ chối. Từ chối vì thấy chưa muốn, chưa cần thiết…
… Chiếc xe đỗ lại, nép vào gốc thông. Tôi ngả người tì gáy lên ghế, mở miệng sẵn sàng tiếp đón những chiếc hôn và tất cả những gì tiếp theo. Tôi không bối rối nhiều dù còn là một trinh nữ – sách vở đã cho tôi biết quá rõ những gì phải tới cùng hậu quả. Bàn tay người đàn ông nóng và rát trên da lưng, những ngón tay chuyển động thành thạo, tạo những động tác cởi mở. Tôi khó chịu đột nhiên ngồi thẳng dậy, kéo tay ra. Sự thành thạo của Hãn với quần áo lót đàn bà làm tôi liên tưởng và vì thế hơi kinh tởm. Tôi nói:
"Thôi anh! Đưa em về!…"
Đoạn văn trên trích trong Khoảng trống, truyện thứ hai trong 6 truyện ngắn của tập Ngoài đêm.
Cái khoảng trống của tâm hồn, nhất là tâm hồn tuổi trẻ, nó hiện diện như nỗi thê thiết, để vì nó, nhân danh nó, tuổi trẻ có thể làm được những gì mình muốn khỏi cần hối tiếc. Từng đêm dạ vũ trong hoan ca với khăng khít của vòng tay và những đôi chân dìu nhau đi vào thế giới cuồng mê qua âm thanh đẩy đưa dục vọng. Nhưng sau đó, còn lại cái gì? Còn lại sự rã rời của thân xác, cái chán nản đến cùng cực của ý nghĩ qua không gian và thời gian. Mệt mỏi làm băng hoại nguồn sống hoa niên.
Tập truyện Ngoài đêm trình bày 6 hoạt cảnh, đôi khi sôi nổi, nhưng cũng vô cùng buồn bã, vô cùng khắc khoải.
Khởi đi từ một cảm nghĩ bé nhỏ của đời sống riêng tư, Thế Uyên dần dần tiến vào môi trường rộng lớn hơn, ở đấy, mỗi số phận không còn tùy thuộc nhiều vào mình nữa mà do kẻ khác định đoạt. Nhưng dù ở đâu, hoàn cảnh nào, nhà văn cũng tỏ ra không dễ dàng chấp nhận, ngay cả sự thực mà mình đã gánh chịu qua bộ quân phục do trường Bộ binh Thủ Đức khoác vào người. Thế Uyên tạo nên vấn đề để tra vấn ý thức, ngay cả tình yêu cũng không mang ý nghĩa thiêng liêng, nó trở thành một cái mốc cho nhà văn ném vào đấy từng vốc bùn! Nói vậy, không có nghĩa Thế Uyên vào đời toàn bằng hằn học, bất mãn cả đâu. Đôi khi, dù rất hiếm, nhà văn cũng biết gìn giữ cho mình chút hạnh phúc nhỏ nhoi để hy vọng ít nhiều giữa cuộc chiến này:
… Đi vòng qua mũi xe, leo lên, cái cánh gà. Chàng tì tay lên tay lái. Thi đây, trong vòng tay, trong ánh đèn hắt từ bên ngoài trên cao. Di muốn vòng tay ôm, muốn hôn. Thi ơi Thi, ngưng nhìn anh một chút để anh có thể ôm em. Thân thể run lên, Di nghiêng người cúi sát mặt Thi:
"Thi! Anh đã tưởng không bao giờ còn gặp nhau". Bàn tay nâng cằm Thi rung nhè nhẹ, đôi mắt mở to của Thi, đôi môi ướt nước mưa lạnh. Di hé miệng ngậm thật chặt. Đột nhiên chàng muốn làm nàng đau đớn, thật đau đớn…
(Ngoài đêm, trang 129)
Rồi hạnh phúc được che chở bằng chiếc poncho trong một góc đồn canh!… Rồi luân lý và đạo đức cũng như danh dự được phủ lấp bằng môi hôn, bằng giãy giụa của thân xác với đam mê rực lửa trong khi mơ nhỏ từng giọt bên ngoài!…
Hình ảnh cuộc chiến và cái giá mỗi thân phận người Việt Nam phải trả, bắt đầu từ truyện Ngoài đêm đã chiếm hết những suy nghĩ của Thế Uyên. Từ đồn canh tới trại binh, từ phiên trực tới cuộc hành quân, từ tình yêu nhục thể tới bâng khuâng và niềm cô đơn của con người trước chiến tranh, trong vũ trụ!
Tình dục đối với Thế Uyên lúc nào cũng là một ám ảnh, vấn đề chính cho mỗi câu chuyện, dù nó thuộc cái trục nào của suy tưởng cũng vậy. Nói đến tính dục không phải nói đến cái xấu xa, ghê tởm, phi đạo đức, phi luân lý, nhưng đích thực, để tỏ bày thái độ với cuộc sống, để chấp nhận giá trị của thực tại, trong đó con người chẳng phải thiên thần cũng chẳng phải là súc vật. Có điều chắc chắn, Thế Uyên viết không nhằm mục đích khích lệ ai theo gương mình, hoặc dùng văn chương để truyền bá dâm đãng. Thực ra, nhà văn viết cho mình, vì mình. Có nhiều sự thực đang dồn nén, giãy giụa trong nội tâm, tình dục chỉ là lớp sơn mỏng phủ ngoài để đánh lừa "loại gỗ". Đối với Thế Uyên "loại gỗ" đó mới cần, mới là căn bản của vấn đề, mới là con lộ chính mà người viết nhằm vào để dấn thân, đó là Ý thức cách mạng trong văn chương.
Cái tuổi trẻ của mỗi con người thường được nhìn qua tấm lăng kính kẻ khác. Từng nỗi băn khoăn, rạo rực mà con người có thể so sánh, đều nằm trong kích thước ngoại vật.
Thế Uyên nhìn chòng chọc vào đời sống với từng nỗi buồn vui có đấy, với thân phận một chiến sĩ tiền đồn ở vùng cao nguyên heo hút, quanh năm nắng cháy với mưa lũ và những gian khổ của chiến trường làm héo mòn suy nghĩ. Do đó, những ngày phép của người lính bao giờ cũng là niềm hân hoan và thiêng liêng nữa. Họ sử dụng giờ khắc quý báu đó vào những công việc cần thiết nhất, đáng giá nhất, trong đó có việc ngồi quán để nhìn đàn bà, con gái qua lại với những chiếc quần corsaire bó chẽn làm nổi bật những đường cong kín đáo. Họ nhìn như thế để làm gì, nếu không phải là để thèm muốn và cảm thấy hằn học với chính mình?
Thế Uyên đã qua những giờ phút đó và ghi nhận vào tác phẩm Mười ngày phép của một người lính những chua xót, ê chề với phẫn nộ về sự tương phản giữa hai nếp sống dưới một chế độ. Một bên cứ chịu hy sinh gian khổ kể cả máu xương, một bên cứ hưởng lạc:
… Tôi cho tay vào túi lấy bật lửa, một sợi dây đính chìa khóa với tấm lắc có ghi tên họ, số quân, loại máu. Ánh nắng chiều làm kim khí thoáng lóe sáng. Tôi nhớ, trong một khoảnh khắc và với một chút buồn, rằng tôi không phải là người ở đây, rằng tôi chỉ còn có chín ngày phép. Và từ đó, thật ngẫu nhiên, một cắt nghĩa, không đúng, một giải thích cho vấn đề đương thắc mắc, xuất hiện: chúng ta những người con gái với quần corsaire và tôi, người lính về phép, là người Việt Nam.
… Tôi đứng dậy ra về sau khi nghĩ rằng tất cả chỉ vì người Việt Nam ba mươi năm nay chưa bao giờ được phép làm người, rằng người đàn ông Việt Nam là những quân tốt đen, tốt sang hà, tốt thí cho những chủ nghĩa, những thế lực quốc tế, những tranh giành Nga, Mỹ, Pháp, Tàu, rằng đàn ông Việt Nam là dụng cụ, tất nhiên đàn bà Việt Nam phải mặc quần corsaire…
(Mười ngày phép của một người lính, trang 12-13)
Người đọc cảm thấy Thế Uyên đã trút tất cả giận hờn phẫn uất vào những dòng chữ và ý thức tranh đấu đã nhen nhúm qua ngôn ngữ. Cái giai đoạn vô cùng chênh vênh, vô cùng nguy hiểm của nước Việt Nam sau ngày Cách mạng 1.11.1963, đã tạo cho những người trai trẻ yêu nước mối lo sợ và tức giận. Thế Uyên nằm trong thành phần nói trên, nhất là lại đương cầm súng đi chiến đấu chống Cộng bảo vệ miền Nam tự do, cũng chính vì hai chữ Tự Do, bao nhiêu con người khốn đốn từ mấy đến chục năm qua và còn nữa!…
Nói chung, tập Mười ngày phép của một người lính chỉ là những ý nghĩ, dù tốt đẹp hay xấu xa, được trình bày dưới hình thức này hay hình thức khác, cũng chỉ để minh định một thái độ trước cuộc sống thật náo động, nó đương quay với tốc độ phi thường để nghiền nát những gì chạy ngược chiều với nó.
Đi từ ý nghĩ này sang ý nghĩ khác, ở mỗi ý nghĩ, nhà văn như nghiến răng, trợn mắt, sau cùng phỉ nhổ vào cuộc sống có đó, còn đó với những ngôn ngữ chát chúa làm ngỡ ngàng người đọc. Nhưng sự tức giận nào, hễ nói ra được tức là đã nguôi ngoai, lắng dịu phần nào giông tố trong lòng. Thế Uyên, nhà văn rất thành thực và thành khẩn, nên không ngại ngần khi giãi bày lập trường, cương vị của mình.
… Trước hết tôi là nhà văn chân thành, chân thành với đời sống, chân thành với mình. Nhưng thái độ khi nhập thế của chúng tôi là thái độ lãng mạn với cuộc đời. Bất cứ ai không cứ nhà văn, đều phải chọn vài thái độ với cuộc đời trước mặt và tùy theo thái độ đã lựa chọn, đời sống sẽ dị biệt với nhau. Cuộc đời đang ở trước mặt kia, nó là như thế, trọn vẹn như thế, còn nó là bi thảm, là sắc sắc không không, là tươi vui, v.v. tùy thái độ, cái nhìn của từng người…
… Tôi sẽ còn là người (hiểu theo định nghĩa ni ange ni bête, ni yoga ni commissaire politique) như thế nào khi nhìn một thiếu nữ 16 xinh tươi mà chỉ thấy thèm cái cơ thể mơn mởn, khi ôm người yêu trong tay chỉ cảm thấy khoái lạc nhục thể. Tôi sẽ là người ra sao nếu không tìm thấy nét anh hùng tuyệt vọng của những người đã và đang chiến đấu trong chiến cuộc hai mươi năm. Đôi khi tôi còn nghĩ rằng những cái gì gọi là đẹp của loài người, anh hùng, khí tiết, bác ái từ bi, công bằng, tự do, v.v. còn duy trì được có lẽ là do những kẻ lãng mạn với cuộc đời này. Và ngày nào không còn thế nữa, tôi sẽ không cần soi gương nhìn tóc bạc da nhăn, tôi cũng hiểu được tâm hồn tôi đã tàn úa, và không xa lắm, cái chết đương chờ đợi.
(Mười ngày phép của một người lính, Lãng mạn và cuộc đời, trang 47)
Những ý nghĩ tuy vụn vặt trong tập Mười ngày phép của một người lính nhưng ở trong mỗi trang, mỗi dòng, mỗi chữ đều mang nặng giá trị của suy tư để tiếp nối vào những ý tưởng khác trong tập Những ý nghĩ của bọt biển.
Ý nghĩ của Thế Uyên hay là thái độ cần có của một nhà văn đã ý thức được vai trò, vừa kiêu hãnh vừa khiêm nhường của mình, trong vận nước nổi trôi đã có tới bốn ngàn năm lịch sử phía sau! Bốn Ngàn Năm Lịch Sử là dĩ vãng quá dài đối với thế hệ hôm nay. Thế Uyên mang niềm băn khoăn đi tìm truyền thống dân tộc qua sách vở, qua ngoại giới, chỉ được gặp các thầy Khổng, Mạnh và những suy nghĩ không thuộc về tinh thần Việt Nam. Truy tầm không được, Thế Uyên phải tra tấn ý thức và chợt nhận ra, mình là người Việt Nam do tiếng mẹ ru từ lúc nằm nôi với những câu ca dao cổ kính, bằng mắt nhìn thấy ruộng lúa xanh tươi và tiếng sáo diều văng vẳng trong không gian buổi chiều, lúc còn thơ ấu. Thêm vào đấy là phong tục, tập quán với các ngày lễ Tết, hội hè, v.v.
Cái tinh thần Việt Nam mà nhà văn tìm kiếm, sự thực, nó hiện diện trong mỗi con người yêu nước, dù cầm súng hay không, miễn rằng nó phải hành xử với nhau bằng tinh thần Việt Nam trong đời sống và ngôn ngữ.
Mỗi ý nghĩ, Thế Uyên đều nêu lên một câu hỏi, một giận dỗi, đôi khi chính nhà văn không giải quyết mà dành phần cho độc giả. Từ "Lời giảng chót gửi học trò cũ" tới "Hai thái độ" là ý nghĩ cuối của tập sách gồm 12 ý nghĩ, mỗi cái đều hàm chứa những ẩn dụ nằm sau hàng chữ. Người đọc không nên tìm hiểu câu chuyện, chỉ cần đọc kỹ vài đoạn văn chính, ở đó, Thế Uyên đã nói thật, nói hết những gì mình suy nghĩ về con người và cuộc sống có mặt. Nhà văn hình như giãi bày tâm sự qua những ý nghĩ và dùng kỹ thuật ngắn gọn để chuyên chở ý muốn riêng tư tới người đọc. Nói một cách khác, Thế Uyên đã quan niệm văn chương như một vũ khí đấu tranh tư tưởng trong giai đoạn hiện tại, nên cố gắng làm sao với phương tiện tối thiểu đạt được kết quả tối đa. Do đó, Thế Uyên luôn luôn tìm kiếm phương thức hoạt động hợp tình, hợp lý ngay cả trong văn chương để đạt được mục đích. Sự kiện này hiện rõ trong các đoản văn của 4 tập: Mười ngày phép của một người lính, Những ý nghĩ của bọt biển, Những người đã qua và Căn nhà của mẹ cùng 3 tập tiểu luận: Nghĩ trong một xã hội tan rã, Chiến tranh cách mạng và Tiểu luận 3, do chính tác giả ấn hành năm nay (1971).
Thái độ của Thế Uyên rất minh bạch, xuất phát từ một điểm khiêm nhượng để tiến dần lên cao điểm mà không do sức hỗ trợ từ phía ngoài, tuy rằng nhà văn đã gặp rất nhiều trở ngại cả bạn lẫn thù. Nhưng nhà văn chắc chắn không sợ kẻ thù, dù cho kẻ thù là Cộng sản hay Tư bản mà đích thực, Thế Uyên sợ bạn. Sợ vì không lường được trước sự phản bội sẽ đến vào lúc nào, dịp nào? Điều này làm khổ nhà văn rất nhiều mỗi khi đề cập tới, nó thấp thoáng ẩn hiện trong mỗi câu chuyện nói về lòng tin nhau giữa những người cùng đứng chung chiến tuyến. Thế Uyên lúc nào cũng bị quây chặt bởi những vấn đề, những băn khoăn do đời sống đẩy tới, do nội tâm phát hiện. Người đọc có cảm tưởng nếu không viết được, nói được ra, nhà văn có thể vì nó mà chết, nên luôn luôn người đọc bắt gặp những thoáng run rẩy trong mỗi ý, tuy đã được ngụy trang bằng sự trầm tĩnh của phương pháp diễn tả qua một số ngôn từ mệt mỏi!…
Nhà văn cũng đã biết gian khổ của đời quân ngũ, đã nằm đồn và hành quân trong những điều kiện khốn khó, nhục nhằn, sầu tủi của mỗi số phận khi đụng chạm với sống, chết mỗi ngày, mỗi giờ, mỗi phút. Và còn biết bao nhiêu số phận kẻ khác liên đới, liên lụy vì chiến tranh! Tất cả những sự kiện đó trở thành ám ảnh, hình phạt trong mỗi suy nghĩ dai dẳng. Viết văn đã trên dưới 10 năm, Thế Uyên mới chỉ có một tác phẩm dài 234 trang. Truyện Tiền đồn, trước khi in thành sách đã được đăng từng kỳ trong tạp chí Bách khoa.
Nội dung tập truyện dài đầu tay đã nói lên một phần tình trạng đất nước và cuộc chiến với những oan khổ do định mệnh, do thế cuộc tạo nên, đẩy mỗi thân phận xa lạ nối kết vào nhau trong những mắt lưới hoàn cảnh. Cái tấm "phông" chiến tranh được dựng lên giữa vùng trời ảm đạm, ở đấy, máu lửa, căm thù và dục vọng thay phiên nhau hành hạ mỗi số phận, để rồi mất đi, vĩnh viễn mất đi như mớ bào ảnh trôi bập bềnh tản mác trong không khí cuộc đời.
Nói về cốt truyện,Tiền đồn không có cốt truyện, tức là không có cái "trục" thông thường, để người đọc có thể nắm vào đấy mà theo dõi, cũng như tóm lược sự biến chuyển tâm lý nhân vật chính và phụ, xoay quanh vấn đề nào đó. Người đọc sẽ vô cùng bỡ ngỡ, đôi khi bị lạc hướng nữa, khi đọc Tiền đồn. Cung cách viết và cấu tạo tác phẩm này, Thế Uyên không đi theo con đường cổ điển, người viết làm nó tan loãng, lẫn lộn, bắt người đọc phải tự đảm trách một phần vào công việc tìm hiểu, để nối những tan tác với nhau, tạo thành toàn thể vì văn chương hôm nay không nhằm cổ động hay phát động tư tưởng nào, nhưng một khi nó đã "sống", đã linh động, nó tự tạo lấy sự tình và biến cố. Nếu vạn nhất, những sự tình và biến cố đó, có nói lên một-cái-gì, cũng chỉ do tình cờ chứ không phải nhà văn muốn như vậy. Phương pháp cấu tạo này, sự thực, đã được các nhà văn nghệ đợt sống mới thế giới sử dụng từ nhiều năm qua.
Thế Uyên quan niệm, văn chương không phải công việc giải thích, dù giải thích một cách thông minh đi nữa, mà sứ mệnh của văn chương là trình bày như thế (tel quel) để tùy người đọc nhận định và đánh giá kết quả.
Hình ảnh Vũ, Định và bao nhiêu người đã và đang ngụp lặn trong cuộc chiến này đều do số mệnh đẩy đưa họ gặp nhau, cùng đứng chung chiến tuyến, rất có thể cùng chết với nhau trong một bất ngờ nào! Tâm trạng của họ, tâm trạng chung của giới thanh niên bị động viên vào lớp tuổi trên dưới 20. Họ chiến đấu rất hăng say, rất nhiệt tình nhưng đôi lúc, họ dừng lại tự hỏi, họ chiến đấu vì cái gì, cho ai?
… Tôi hay tự hỏi, một điều như thế này:
"Tại sao chúng ta có chính nghĩa nhưng chính nghĩa ấy lại không giúp gì hết trong việc chiến đấu. Anh, tôi, Vượng, Yên… tất cả những tên có mặt trong Tiểu đoàn này cũng như các đơn vị khác đều đồng ý là phải chống Cộng. Nhưng mọi sự đã chẳng ra làm sao hết. Tôi đã từng khai thác tù binh, tụi chúng tin tưởng ở chính nghĩa của chúng nó đến độ phát tởm lên được".
Chàng để súng nằm thăng bằng trên đùi, móc túi lấy bật lửa châm thuốc, nói:
"Tụi chúng ngu!"
Vũ quay lại hạ giọng thấp:
"Vì thế tụi chúng sung sướng hơn bọn mình!"
(Tiền đồn, trang 101)
Niềm băn khoăn của tuổi trẻ tham dự vào cuộc chiến đã phản ánh một phần nào, trong lời đối thoại. Họ chiến đấu, đồng ý, nhưng không phải chiến đấu để chiến đấu. Họ đòi hỏi lý tưởng, đòi hỏi sự minh bạch của chế độ. Họ muốn đừng bao giờ họ trở thành một tượng đá, một con vật hay một con người mất tri giác:
… Chàng cười, bỏ mẩu thuốc xuống đất, lấy mũi giày dí nát, Vũ tiếp tục nói:
"Hậu quả kỳ cục và đôi khi bực mình vì bị méo mó nghề nghiệp. Bây giờ nhìn cảnh vật, tôi không thấy đẹp hay xấu. Óc tự dưng chỉ thu nhận những chi tiết địa thế cần thiết cho việc tiến quân hay đóng quân mà thôi. Một hàng dừa chỉ có nghĩa là chỗ đó có nước, một bờ tre là nơi phục kích tốt cho địch, con đường quang đãng có nghĩa là dám bị bắn sẻ, trăng chỉ là một yếu tố để tính xem toán kích đêm nên cho đi lúc mấy giờ và về lúc mấy giờ…"
(Tiền đồn, trang 100)
Những câu nói, chắc chắn không phải để nói suông, trong đó hàm chứa sự mỉa mai nào đấy ở ngoài khả năng chống đối của cá nhân. Để khỏa lấp những thắc mắc và suy luận, những người sĩ quan trẻ tuổi đều mang trong lòng một vài vóc dáng đàn bà với đam mê nhục dục.
Vóc dáng của Linh, Bích và các cô gái bán vui đều hiện rõ trong mỗi suy nghĩ, ở trong lòng những người trẻ tuổi đang cầm súng bảo vệ miền Nam tự do:
… Vũ cố gắng vui thích. Mai đi phép: bốn ngày xa đơn vị, xa vùng chiến trận, bốn ngày thỏa mãn sinh lý. Nhưng chàng dù cười, dù nói nhiều, nỗi vui sướng vẫn như bồng bềnh bên ngoài chàng. Trở về nhà qua ngõ hẹp có cây trứng cá lớn, đứa con chạy ra, bữa cơm trưa ồn ào và sau đó chiếc màn kéo ngăn đôi căn buồng, Bích và chiếc háng của nàng và con vật háu ăn hùng hổ để rồi sau đó mồ hôi toát ra đầy người ngủ thiếp đi trong làn hơi nóng từ mái tôn tỏa xuống…
(Tiền đồn, trang 88)
Sự thôi thúc về tình dục không phải chỉ ở phía người sĩ quan trẻ tuổi cùng nỗi nhớ nhung thành phố qua lỗ châu mai của vọng gác tiền đồn. Nó còn đau đớn hơn, thê thảm hơn với số phận của vợ chồng anh Ba, người đàn ông quê mùa chỉ biết làm ruộng, ăn nằm với vợ và hồi hộp mỗi đêm phải đi đắp mô để ban ngày chính mình phá nó, cũng như cam chịu khi biết lơ mơ vợ mình đã ngủ với trai, phẫn chí, uống rượu cho khuây khỏa, lúc say khướt trở về, lại làm tình với vợ, mặc súng bắn, kệ chuyện đắp mô! …
Chị Ba, người đàn bà nhà quê không may cũng biết đam mê tình dục chẳng những với chồng mà còn với những đàn ông khác mê mình từ hồi con gái, như Tía, Uông, Hải, và tên Trưởng đồn Dân vệ. Nhưng ngoài tình yêu chính đáng với anh Ba, những cuộc ân ái vụng trộm khác đều do hoàn cảnh cấu tạo, chị Ba chỉ là con vật hy sinh, dù hy sinh một cách khoái lạc, dưới ngòi bút Thế Uyên:
… Chị đưa tay quàng lấy đầu chồng, kéo lên. Đầu gối người đàn ông lọt vào giữa hai đùi ấm áp, làm chị tự dưng muốn khép hai chân lại…
"… Thôi mình! Mấy ông hành quân lớn, đạn bắn tùm lum bây giờ. Tôi hổng chịu xách quần tụt vô hầm như bữa trước đâu".
"Thì ôm quần tụt vô đã sao, như bữa trước đã sao?"
Chị thẹn nóng bừng má. Bữa đó, súng nổ tứ tung, ngồi sát vách đất hầm tay ôm mớ quần áo, tay bồng đứa nhỏ mà ảnh còn tiếp tục…
Cái hoạt cảnh đó, không hoàn toàn do trí tưởng tượng hoặc do óc sáng tạo của nhà văn, mà nó nói lên phần nào sự thực. Nếu ai đã có mặt trong vùng chiến trận dằng dai, phải thừa nhận các sự kiện nhà văn viết ra, nó chứng minh sự chai sạn ở tâm hồn những người dân quê nằm giữa hai lằn súng đạn! Sợ, họ vẫn sợ, nhưng không phải vì sợ mà ngưng tất cả sinh thú ở đời. Trái lại, vì chịu đựng quá lâu, nên họ quên đi và chấp nhận hoàn cảnh để bình thường hóa nó bằng hành động.
Thế Uyên trình bày chiến tranh dưới nhiều khía cạnh. Ở mỗi khía cạnh, nhà văn hé mở cho ta nhìn rõ từng nỗi bi thương không thể cưỡng chống trong một bối cảnh ngột ngạt của căm thù, chết chóc và thân phận con người. Từ người lính với nỗi đau vợ đi lấy ngoại nhân, đến sự ê chề của cấp chỉ huy khi đã mất thế lực, không còn chỗ tựa, bị người dưới nói hỗn, phải cắn răng nhẫn nhục, vì tuy là cấp dưới nhưng uy thế mạnh hơn, có bà con làm lớn! Cái đau, cái hận của từng người đều đi qua cái nhìn rất tinh tế của nhà văn.
Người viết, đôi khi lạnh lùng trong bút pháp và không ngần ngại nói lên ý nghĩ của mình về vóc dáng người bạn Mỹ ở bên cạnh cuộc chiến. Từng việc lần lượt được giãi bày như những mắt xích. Ở khoảng trống của mỗi mắt xích, nhà văn phác họa một khung cảnh, để người đọc nhìn qua đấy, có thể nhận định từng phần riêng rẽ, rất riêng rẽ, để rồi với chất xi-măng kỹ thuật, người viết cho gắn bó dần dần, tạo nên phối cảnh toàn diện của vấn đề. Đôi khi người đọc bắt gặp một vài đoạn, Thế Uyên đã nhìn và ghi nhận như Lawrence trong cuốn Người tình của Chatterley phu nhân, ở đấy, tình dục đã làm mờ hết trí năng, làm băng hoại luân lý và đạo đức trở thành lạc lõng! Những động tác ái tình dù ở trường hợp của Vũ với Bích, của Định với Linh hay của chị Ba với Tía, với Uông, với Hải và cả anh Ba nữa cũng chỉ là sự nhắc lại, hay khêu gợi sự việc với nhiều trường hợp trong nhiều hoàn cảnh, làm cho không khí Tiền đồn trở thành một sượng sần, vướng mắc. Ngay đến cái chết của Vũ, cái chết kiêu hùng giữa mặt trận với mùi cỏ thơm ân tình quá khứ và hình ảnh người đàn bà mang tên Bích với bức màn kéo ngăn đôi căn phòng!… Cũng như cái chết thê thảm của anh Ba lúc đang đắp mô, chị Ba chết trần truồng cạnh tên Hải – tên cán bộ Cộng sản – đã say mê chị khi trước. Nói đến cái chết tức nói đến sự bình đẳng của mỗi số phận, nhưng cái chết của chị Ba và tên Hải là cái chết đặc biệt trước sự hiện diện của Tía – người yêu chị từ lúc trẻ không có tiền để cưới hỏi làm vợ đành mang nỗi buồn suốt đời, nhưng cũng đã được chị cho chung vui nhục thể!…
Tên Hải và chị Ba chết mà không biết mình chết vì một trái trọng pháo giữa lúc đang cuồng mê khoái lạc: … Chị đã co chân lên cản, nhưng khi Hải cầm đầu gối ấn sang một bên, chị lỏng lẻo buông thả. Còn giữ chi, thôi cho nó lần nữa cho xong đi. Chị nghiêng đầu sang một bên cố nhìn mặt trăng qua lỗ quang lá trên cao, chờ đợi và chịu đựng. Chị toan nói mau lên cho tui còn vô với đứa nhỏ, nhưng lời nói không thốt ra vì một khoái cảm mới mẻ đã dâng lên. Chị hốt hoảng vì chính mình, sao lại thế, sao lại thấy… Chị cố nhìn cho được đủ vòng tròn của mặt trăng qua lỗ quang lá quá nhỏ, khi một tiếng súng một tiếng nổ bùng vang dội. Chị toan vùng lên nhưng Hải dùng sức mạnh ngăn cản.
"Buông tui ra! Vô hầm không chết…"
"Xa mà… coi còn xa mà… Im rồi đó thấy không. Tôi còn ở đây làm sao đánh lớn…"
(Tiền đồn, trang 205)
Chị Ba đi vào cái chết nửa vui, nửa sợ, cả tên Hải cũng vậy. Hai cái xác trần truồng đó đã khép lại một khoảng đời, một chút không gian rồi tan vào cát bụi!…
Tác phẩm Tiền đồn đã khích động người đọc chẳng những bằng ngôn từ, bằng hình ảnh mà còn làm cho tự đáy tâm tư bùng lên mối xót thương vô độ ở mỗi trạng huống hiện diện trong cuốn sách.
Thế Uyên, mang nhiều khát vọng, chẳng phải do ý hướng nổi tiếng, mà đích thực, muốn dùng nó để đạt được mục tiêu Cách mạng, dù Cách mạng trong tư tưởng. Do đấy, trong 10 năm văn nghiệp, nhà văn hầu như dành hết thời giờ cho suy nghĩ về những vấn đề xã hội, chính trị qua các tập tiểu luận. Ngay cả tác phẩm văn chương thuần túy, nhà văn cũng tìm mọi cách lồng vào bên trong cái ý hướng đó. Vấn đề tình dục mà Thế Uyên luôn luôn nhắc nhở, tỏ bày dưới hình thức nào đó đều hàm chứa dụng ý, che khuất đi một phần sự thực mà tác giả muốn viết, muốn đề cập tới một cách gián tiếp qua văn chương.
Thế Uyên, vốn dĩ trung thực nên anh chẳng nề hà gì khi nói về đất nước Việt Nam, một đất nước đã quá bi thảm vì hai chế độ: Quốc gia, Cộng sản. Mỗi viên đạn được bắn đi, dù bên này hay bên kia đều là của viện trợ. Cả hai bên đều lệ thuộc vào hai chủ nghĩa: Tư bản và Cộng sản.
… Nhưng chúng tôi, những người còn ở trong Quân lực, vì sinh kế hay vì võ nghiệp, những người đã, đang và sẽ nhập ngũ vì thi hành quân dịch hay vì quan niệm phục vụ tổ quốc qua binh nghiệp, đã an tâm chống Cộng trong những năm đầu của cuộc nội chiến và tin rằng mình chiến đấu để bảo vệ một chế độ trong đó con người được chọn lối sống mình muốn, thờ phụng Thượng Đế mình tin và lấy người mình yêu.
Những 1959, 60, 61 kế tiếp qua để rồi tới 63, 64, 65, 66 giữa tiếng súng nổ vang ngoài mặt trận và khói lựu đạn cay mù mịt, kẽm gai giăng mắc ở hậu phương, chúng tôi bắt đầu không hiểu nổi mỗi viên đạn bắn ra, mỗi kẻ nội thù chết đi, chúng ta tiến gần tới đâu. Rồi đến một ngày nào đó ở một tiền đồn, rừng rậm, ruộng lầy hay ở một góc hè phố đô thị, chúng tôi nhận ra rằng trong khi chống Cộng, chúng tôi đã vô tình bảo vệ, duy trì một xã hội thối nát, bất công, áp bức, một xã hội trong đó chỉ những người vô luân và có tiền bạc mới có chỗ đứng dưới ánh mặt trời…
(Nghĩ trong một xã hội tan rã, Sự thành hình của một thái độ, trang 11-12)
Tuy khẳng định thái độ đối với cuộc đời như trên, nhưng Thế Uyên không quá chủ quan nên đã nghi ngờ ngay cả suy nghĩ, kiến thức và kinh nghiệm của chính mình. Nhà văn làm ba cuộc hành trình thăm hỏi các vị đã có quá trình đấu tranh Cách mạng, có căn bản tri thức cao qua bằng cấp và các bậc tu sĩ khả kính, nhằm mục đích noi gương.
Cả ba cuộc hành trình đó đều cho Thế Uyên những thất vọng. Hành trình thứ nhất, với thành tích Cách mạng chống Pháp nay đã già nua an hưởng dư âm một thời và đặt lên vai con cháu cuộc chiến khốn khổ còn đấy. Hành trình thứ hai, chỉ gặp những tủ sách, bằng cấp và máy lạnh. Các tư tưởng Tây phương chẳng giúp ích gì cho quốc gia nhỏ bé này cả. Hành trình thứ ba chỉ để lại trong trí nhớ những thửa ruộng đất, những cơ sở kinh tài, những bạo động vi phạm lời răn dạy căn bản của đấng chí tôn trong một trai phòng, những lời giảng dạy về tình thương và tự nguyện vừa cất lên chưa được bao lâu đã đắm chìm vào tiếng reo hò xuống đường tranh đấu cho mục tiêu giai đoạn:
… Bởi thế, bước khởi đầu của chúng tôi không gì hơn là cùng nhau nhóm lên một ngọn lửa nhỏ để nhận diện nhau cho rõ, gạt bỏ mọi huyền thoại cũ, tìm hiểu cho thấy thực trạng để rồi cùng dưới đốm lửa lu mờ mà nhiều trận cuồng phong đang đe dọa dập tắt ấy, chúng tôi cùng nhìn về một hướng để nỗ lực tìm xem bây giờ cần phải học hỏi những gì và học ai, phải làm gì và làm ra sao, phải đến đâu và đi bằng đường nào.
Nhưng đêm tối đen thê thảm của dân tộc mỗi lúc thêm dày đặc, các cuồng phong mỗi ngày thêm ác liệt, đã có lúc đưa chúng tôi vào nỗi cô đơn và tuyệt vọng…
(Nghĩ về một xã hội tan rã, Những cuộc hành trình, trang 19)
Nội dung tập: Nghĩ trong một xã hội tan rã, Thế Uyên đã đặt rất nhiều vấn đề, những vấn đề không còn nằm trong văn chương nữa, nó thuộc về chính trị và tranh đấu. Do vậy, tập sách mang chiều hướng khác, mục tiêu khác, ở đó, cái uy quyền của văn chương không còn nguyên giá trị, nó phụ thuộc vào cái "thế đứng" của nhà văn trước xã hội hôm nay.
Nói về Thế Uyên là nói đến sự đa dạng của một con người đã trưởng thành trong "vận nước nổi trôi", đã gánh chịu nhiều gian khổ trên bước đường văn nghiệp. Thế Uyên bay lượn chập chờn từ đỉnh cao này sang đỉnh cao khác, ở mỗi nơi, nhà văn đều để lại những hạt giống và chờ ngày trổ mầm vươn lên ánh sáng màu lá mới. Vì muốn dùng văn chương vào mục đích nên ít nhiều gì, người đọc cũng cảm thấy như bị huyễn hoặc bởi ý muốn nào đó lẩn khuất trong mọi tác phẩm. Nhưng có lẽ, nhà văn cho đấy là vinh hạnh lớn lao đối với một người cầm bút trên 30 tuổi đời, 10 năm văn nghiệp, đã tự tạo cho mình một khung trời riêng biệt.
Thế Uyên, nhà văn phản kháng, luôn luôn chống đối thối nát và bất công xã hội. Những sự kiện được trình bày xuyên qua ngôn ngữ, thật bộc trực và nguyên vẹn. Từng vấn đề được đặt ra, đều nằm ngay trước mặt mỗi người, tại sao ta lại im tiếng? Lời than van hay nỗi oán trách chứa đựng ở nội tâm lâu ngày tích lũy thành ung độc làm bải hoải suy nghĩ, mỏi mòn ý chí phấn đấu. Sứ mệnh của văn chương hôm nay, chắc hẳn không còn phù phiếm, hiển nhiên là chân xác của đời sống phản ánh qua suy luận. Cuộc sống xô đẩy mỗi số phận vào từng cơn thảng thốt, con người nhiều lúc muốn buông xuôi hết cả để mặc cho số mệnh quyết định. Nhưng, ở cương vị nhà văn, có sự gì huyền bí thúc đẩy một cách khẩn cấp, làm rối loạn tâm thần nếu không nói hoặc viết ra được. Sự nói hay viết ra, chắc chắn cũng chẳng mang lại đổi thay, hoặc có ảnh hưởng sâu đậm trong ý thức chung về đời sống, nhưng ít nhất, nó có mặt để ghi nhận những chứng tích u uẩn hay cuồng nộ của thời đại. Thế là đủ.
Thế Uyên cũng là linh hồn của nhóm Thái Độ. Nhóm này tập trung được một số nhà văn, nhà thơ trẻ tiến bộ. Tất cả những sáng tác cũng như dịch thuật của các văn hữu trong nhóm đều được xuất bản dưới nhãn hiệu Thái Độ. Nhà xuất bản Thái Độ hoạt động rất đặc biệt, khi sáng khi tối, khi đen khi trắng. Có những ấn phẩm in đẹp phổ biến rộng rãi, có tập in ronéo phổ biến hạn chế. Thế Uyên là một trong số đông đảo người làm văn học nghệ thuật chống đối kịch liệt chế độ kiểm duyệt vì quan niệm rằng, người viết hoàn toàn chịu trách nhiệm trước công luận những gì do mình sáng tạo, đồng thời cũng ý thức được tầm quan trọng của Quốc gia, nên kiểm duyệt là điều vô lý, không dân chủ. Nhưng đòi hỏi là quyền nhà văn, còn có thể thỏa mãn được hay không, cũng tùy thuộc và nhiều yếu tố, trong đó có chiến tranh.
Thế Uyên còn trẻ lắm, sức sáng tạo còn dồi dào. Ngày mai với nhiều bất ngờ đang chờ ở phía trước.
Trích văn Thế Uyên
… Vũ quỳ lên cố gắng quan sát. Các đốm lửa không còn lóe sáng bên kia lộ. Khẩu trung liên bên cạnh tiếp tục tạo những vệt đỏ dài lao vào một mái nhà. Chàng đưa chân đạp mạnh vào mông xạ thủ: "Ngóc cái đầu lên nào! Định bắn chim đấy hả?". Người lính chồm lên: "Bắn sát mặt lộ cho tôi một băng nữa". Có một bàn tay đập đập vào chân, chàng quay lại:
"Cái gì?"
"Tư tưởng Đống đa hỏi có cần yểm trợ 81 không?"
Chàng cầm ống liên hợp, cố giữ cho hơi thở điều hòa:
"Thẩm quyền Vĩnh ba tôi nghe… Thôi, không cần…Tụi chúng rút rồi… Vĩnh! Vĩnh! Đây Vĩnh ba nghe không trả lời… Thôi bắn 60, thôi bắn 60!"
Đưa ống liên hợp lại cho hiệu thính viên, chàng quỳ thẳng dậy, không gian im lặng. Chàng gần như chỉ còn nghe thấy tiếng thở mạnh và tiếng ho khan rải rác. Chung quanh, những vệt thẫm nhạt bất động. Chàng quay đầu nhìn tứ phía, không còn dấu vết hoạt động nào của địch. Chàng cất tiếng hỏi: "Ra, tiểu đội 1 có ai bị không? Tiểu đội 2?"
Các giọng nói quen thuộc từ bóng tối, trong lùm cây, bờ đất lao xao:
"Vô sự, vô sự chuẩn úy…"
Hiệu thính viên kéo máy lom khom lại gần, đưa ống liên hợp:
"Cả Tư tưởng Đống đa lẫn Đống đa cho lệnh báo cáo".
Chàng tiếp tục nhìn vào khoảng đen thẫm nhạt bên kia quốc lộ, nói thấp giọng vào máy:
"Vĩnh ba báo cáo vô sự. Địch hướng về hướng sông, phỏng đoán là thám báo địch. Sẽ sang lục soát chiến trường trong năm phút nữa. Chấm hết".
Chàng cài vội ống liên hợp vào máy, không muốn nghe thêm các âm điện tử lẫn với những tiếng nói xôn xao đòi hỏi. Trăng chưa lên khỏi rặng cây chân trời nhưng một thứ ánh sáng nhàn nhạt, buồn tẻ, bất định đã làm các sự vật bắt đầu có đường nét rõ, gãy gọn hơn. Chàng cất tiếng, giữ cho vừa đủ nghe:
"Tất cả nạp một kẹp đạn mới! Tiểu đội 1 theo tôi".
Chàng đứng dậy, đầu và nửa thân phía trên chợt mát lạnh trong gió. Ngọn cây phía sau xào xạc, không gian chưa trở lại bình thường trong thứ ánh trăng còn non và nhạt nhẽo. Chàng giơ cao tay hạ xuống ra lệnh, những bóng đen vụt băng qua lộ. Chiếc cầu trắng phía xa, các căn nhà bên kia có những hàng cột đen phía trước chờ đợi. Dưới các mũ sắt, các đôi mắt không là gì hơn một khoảng đen thẫm hơn nhưng chàng biết chúng có đó và đang hướng về chàng chờ đợi. Chờ đợi gì? Một tiếng nổ làm chàng gục xuống hay một cái chết đột nhiên cho họ. Tứ bề vẫn mờ nhạt trong thứ ánh sáng không dứt khoát và khó chịu, chàng nói:
"Chắc chắn tụi nó chuồn hết rồi. Anh ra chia làm hai toán đi lục soát dãy nhà và nghĩa địa. Tôi đợi đây".
Chàng đặt khẩu súng xuống mặt nhựa, bỏ mũ xuống cố gắng bật lửa châm thuốc. Luồng gió đều đều làm tạt ngọn lửa nóng bỏng trên tay. Chiếc bật lửa rơi xuống tạo một tiếng va ngắn trên mặt đường. Tiếng nói cất lên từ phía sau:
"Chuẩn úy đứng thế, trông rõ lắm".
Không hiểu vì lý do gì, chàng đột nhiên có cảm tình với giọng nói đó, giọng nói vô danh, gần như không thuộc về một người nào đằng sau, có vẻ như phát sinh từ cái không gian lờ mờ hỗn độn đang bao quanh. Chàng ngồi xuống, kẹp chiếc mũ giữa hai đầu gối, gắng bật một lần nữa, đầu như lọt vào trong mũ khi vùng lửa đỏ bùng lên. Khói thuốc êm ả, mơn trớn làm chàng chợt nhận ra lưng, ngực ướt đẫm mồ hôi, những giọt buồn buồn chạy dài, dừng lại một khoảnh khắc ở thắt lưng rồi biến đi. Các nhà bên kia có tiếng lao xao, chàng lắng nghe, tiếng động vụt im. Tiếng Ra trầm khẽ từ một khoảng trũng bên vệ đường:
"Tụi chúng chắc bị hai tên. Có hai vũng máu sau bếp cái nhà kia".
Chàng tì một tay ngả người thấp xuống, cố định rõ hướng theo cánh tay Ra. Không gian ánh sáng rõ hẳn lên, mặt trăng tròn đã lên khỏi rặng cây, chàng nhận thấy tấm kim khí trên cổ tay người phụ tá lắc lư theo một nhịp điệu. Hai binh sĩ xuất hiện, hối hả lại gần:
"Tụi chó đẻ, chuẩn úy! Tụi chúng ban nãy đã nấp sau chuồng bò. Chính thằng Vịnh trông rõ ba đốm lửa hướng đó, quật vô một băng trung liên… Làm một con bò chết ngắc, một con ngắc ngư… Chuẩn úy cho gọi chủ bò dậy mổ lấy bán thịt?"
Chàng cúi xuống hút một hơi điếu thuốc để trong lòng mũ, trả lời không suy nghĩ.
"Cũng được. Anh Ra cho trung đội bố trí quanh khu này rồi hãy cho dân ra khỏi nhà".
Hai bóng đen khuất đi, chìm lẫn vào bóng tối của hàng cây. Tiếng đập cửa vang lên trong vùng yên tĩnh: "Cô bác mở cửa đi! Tụi tôi Cộng Hòa đây!". Chàng cúi xuống hút một hơi thuốc trong mũ, tiếng gọi và đập cửa lúc rõ lúc mờ theo sức mạnh yếu của gió. "Cô bác mở cửa… Cộng Hòa đây!". Chàng ngửa cổ cho gió lùa xuống ngực, các giọt mồ hôi se dần trên da. Các tiếng nói lẫn lộn, trao đổi, một vùng ánh đèn xuất hiện làm các bóng người hiện ra thành từng vệt dài trải về phía lộ. Vùng ánh sáng di chuyển về phía chuồng bò, những tiếng động khó xác định xuất xứ bắt đầu nhiều hơn. Chàng như muốn ngái ngủ, ánh đèn di chuyển qua các bóng xuất hiện trên tường làm đứa trẻ là chàng hơi sợ hãi kéo chăn lên trùm kín mít, giấc ngủ đến êm đềm và buổi sáng đến trong tiếng gà mẹ gọi con ngoài sân, những khung vàng nhạt trên vách của ánh nắng mặt trời qua khe hở trên khung cửa căn nhà tại quê cũ. Hơi nóng đầu thuốc bắt đầu tỏa vào ngón tay, chàng cúi xuống cố hút một hơi chót, buông mẩu thuốc xuống, bốc đất phủ lên từ từ. Chàng đứng dậy.
Vùng ánh sáng rực rỡ hẳn lên khi chàng bước vào sân nhà. Một đứa bé ngái ngủ ngồi thần người trước ngọn đèn nhỏ đặt trên đất, chàng dừng lại một khoảng thời gian, nhận ra đó là một đứa gái tóc rối rủ trên vai áo rách lộ một khoảng da trắng nhạt. Một nỗi xúc động xuất hiện, chàng tự nhủ: Nào có gì đâu, một cô bé gái ngồi ngái ngủ cạnh ngọn đèn dầu, chỉ có vậy. Nhưng nỗi xúc động vẫn còn đó, ray rứt và bí ẩn. Chàng băng qua sân, tới tì tay vào một then ngang nhìn vào chuồng bò: một con vật nằm dài mất một bên đùi, một người đàn ông cởi trần ngồi quay lưng lại lúi húi xẻ thịt, thỉnh thoảng bê một khối bầy nhầy vứt vào chiếc thúng. Nỗi xúc động tan biến đi khi chàng nhìn rõ người đàn bà ngồi cạnh thúng, hai tay tì trên đầu gối, bàn tay buông thõng xuống gần chạm đất. Tuyệt vọng và khốn khổ có đó rồi, điều chàng âm thầm lo sợ nó hiện ra đầy đủ như thế với hai vệt nước mắt trên da mặt đã bắt đầu nhăn của người đàn bà. Người đàn ông cởi trần mệt mỏi đứng dậy vặn người, hai bàn tay mở nguyên giang cách xa thân hình, các vệt máu bết dày đen thẫm óng lên giữa các kẽ ngón. "Giúp tui một chút chứ! Ngồi đó mà khóc ích chi!". Con bò thứ hai đứng sát vách chuồng đối diện bắt đầu run rẩy dữ dội, hai chân trước lẩy bẩy, các vết đạn thủng lỗ chỗ trên lớp lông vàng bết máu. Một bóng đen lại gần ngay cạnh làm chàng quay nghiêng đầu, nhận ra khuôn mặt binh sĩ xạ thủ trung liên đã chúi đầu bắn cả một băng đạn lên mái nhà. Nửa người trung đội phó đột hiện rõ trong vùng ánh đèn, đôi mắt nhỏ long lanh phản chiếu ánh sáng lộ vẻ điềm đạm, chàng thèm muốn có được thái độ ấy vì nỗi xúc động còn đang tiềm tàng, ray rứt. Có gì mà phải… đã có những dân nào bị chết… Chàng đứng thẳng người dậy, lấy thuốc châm hút. Phải rồi, có lẽ thế, chàng đã dửng dưng nhìn nhiều xác chết nhưng nhìn rõ chúng trong tư thế cứng ngắc, thực chết. Còn buổi tối, khối vô định dưới tấm bạt chiếc giày thòi khỏi sàn xe lắc lư trong vùng ửng đỏ và bây giờ nỗi thống khổ hiện ra kia, con bò run rẩy hấp hối và người đàn bà ngồi khóc. Ra nói với người đàn ông: "Bác mổ con kia đi. Nó sắp chết rồi". Người đàn ông làu nhàu một câu không rõ, lại gần vách cầm khúc gỗ lớn nhưng một người đã vụt bước vào đánh ngược báng súng vào đầu con bò. Con vật loạng choạng gục xuống, tứ chi tiếp tục run khẽ. Chàng nhận ra người đánh báng súng là xạ thủ trung liên. Bây giờ đầu hắn cúi xuống, vài đợt tóc dính bết mồ hôi trên trán. Ra nói: "Bán thịt cả hai con được chừng bao, bác?". Người đàn bà im lặng giơ tay quệt ngang mặt, chàng gọi nhỏ: "Ra, Cát, rút đi thôi…". Chàng hướng ra phía lộ và khi đi qua đứa bé ngồi trước ngọn đèn, chàng chợt nhớ ra đêm khuya ở quê ngoại, mẹ chàng đặt chàng ngồi cạnh ngọn đèn để giúp người bà săn sóc mấy con heo, bệnh bất ngờ. Mặt quốc lộ như không còn một vết bụi, loang loáng ánh trăng chạy dài về phía cây cầu đúc, chàng vẫy tay cho quân vượt qua khu đất trống, bóng tối của rặng cây cao úp phủ lên làm chàng bắt đầu nghe thấy tiếng dế kêu trong cỏ.
Chị nghiêng đầu lắng nghe,
không gian đã trở lại bình thường, có tiếng lao xao trong khu vườn bên kia nhà:
"Yên rồi… Lên đi". Đốm lửa đỏ đầu thuốc lóe lên soi rõ chiếc mũi bóng
loáng mồ hôi của Ba, mùi khói ấm tỏa ra nồng nặc: "Lên thôi, anh! Hết súng
rồi". Chị giơ đứa con vào hai cánh tay chồng lờ mờ trong miệng hầm, đứa bé
mê ngủ quẫy mạnh.
"Nhà có bị sao không mình?"
Tiếng Ba từ một góc tối vẳng lại:
"Không có sao hết".
"Sao tối nay mấy ổng đánh nhau sớm như vậy há? Trăng mới lên mà".
Ba không trả lời, có tiếng ly va chạm vào nhau và tiếng nước chảy ở bàn, trăng đã bắt đầu làm rõ các cây cối ngoài vườn. Chị khẽ đẩy đứa bé vào phía trong, ngồi dựa vách nhìn ra ngoài khe cửa. Có tiếng heo ủn ỉn lại gần, chị ghé sát khe nhìn ra, gọi khẽ:
"Hai con heo hổng chịu vô chuồng ngủ!"
"Biết sao. Ra bây giờ dám đụng mấy ổng bất tử…"
Một bàn tay cứng ngắc lẫn mùi thuốc quàng quanh người, kéo chị ngả xuống ván, rồi một sức nặng nóng cứng thoảng hơi rượu phà vào mặt. Chị hoàn toàn buông thả, hài lòng nhưng vẫn thì thào:
"Thôi đi. Đợi chút đi, giờ này dám mấy ảnh tới gõ cửa bắt đi đắp mô".
"Mô nè!"
Bàn tay Ba làm một bên ngực chị đau tê dại:
"Nhẹ chứ, thằng nhỏ dậy bây giờ!"
…Tiếng Ba còn thở mạnh, chị ngồi dậy khua tay tìm quần. Ba co chân đặt lên chặn lại. Chị cười khẽ:
"Nhậu say, ham dữ hôn!"
Cánh tay lại vòng quanh lưng kéo xuống, chị ngả người theo chiều kéo, mở rộng thân thể chiều đón. Đột nhiên chị nghiêng người, hay tai vít vai Ba bất động, lắng nghe tiếng loa văng vẳng qua vách.
"Thôi xuống đi mình. Mấy ảnh về rồi đó, để sức mà đi đắp mô".
Ba úp chụp xuống giữ nguyên chị ở vị trí cũ:
"Mấy ảnh về cứ về. Tui cứ lo việc của tui!"
"Dữ hôn. Một lần rồi chứ nào phải… Nhậu lắm vô rồi lộn xộn hoài với tui!"
Ba thở mạnh nín thinh, nhưng chị không còn hứng thú. Tiếng loa đã nghe rõ hơn giữa tiếng chó sủa, chắc mấy ảnh đã về đến nhà bà Sáu. Chị rướn người chiều ý chồng, tiếng loa cắt đứt từng tiếng lọt qua vách làm thân thể trơ cứng, và khi Ba run rẩy hối hả rồi ngả người lăn sang bên cạnh, chị vội vã ngồi dậy nhìn qua khe. Ba bóng đen băng qua vườn, tiến vào sân. Chị quờ tay lay chồng:
"Mấy ảnh tới kia!"
Ba ngồi dậy, bước xuống đất lom khom mặc quần. Tiếng gõ cửa nhẹ, một giọng nói như cố làm ra vui vẻ và thân mật:
"Mở cửa cô bác! Chưa chín giờ đã đi ngủ dữ đa…"
Tiếng then cửa va lạch cạch, ánh trăng vụt hiện một khung vuông trên nền nhà. Chị nhìn qua vai chồng, cố nhận diện ba hình đen thẫm đứng xoay lưng lại ánh trăng, một tiếng ho nhẹ gần như quen thuộc. Giọng nói cũ tiếp tục:
"Phiền anh chị ra mần mấy cái mô… Cho tụi tay sai đế quốc Mỹ ngắc ngư chơi".
Một tiếng cười nhỏ chấm dứt câu nói, trơ trọi lạc lõng. Ba nín thinh đứng im, chị nín thinh nghĩ tới nỗi mệt mỏi từng nhát cuốc bổ xuống đất cứng tê dại cánh tay trong bóng đêm, mồ hôi chảy ra ướt đẫm vai lẫn sương đêm và sáng hôm sau từng toán quân vào xã thu thẻ kiểm tra với một câu nói nửa mời mọc nữa đe dọa: "Phiền cô bác ra phá giùm mấy cái mả HCM cho xe đò lưu thông, đồng bào buôn bán làm ăn chút chứ… Tụi tôi đợi trả thẻ cô bác ở lộ". Cứ như thế bao lần rồi, chị mỏi mệt nhắm mắt lại, người như muốn rã rời. Tiếng chân Ba bước nhanh lại góc nhà, ánh trăng mất vật cản ùa vào mặt và vẫn một tiếng ho quen thuộc ấy làm chị mở bừng mắt cố nhận rõ mặt người đàn ông từ lúc đầu vẫn đứng dưới bực thềm, bất động. Ba lại gần cửa, tiếng thuổng va vào cột vang động như một nỗi bực tức không dám thổ lộ. Chị nói:
"Thôi mấy anh cho tui ở nhà bữa nay. Tui đang đau, cả đứa nhỏ nữa".
"Thôi mà. Anh chị ráng chút chút, đóng góp cho giải phóng nhân dân… Đừng có lo! Tụi chúng không dám bắn vô đầu đồng bào đâu. Mấy bữa trước tụi chúng bị đồng bào kéo lên kiện trên quận vì bắn vô xã đó, còn ớn mà".
Tiếng nói từ bóng đêm đứng ngoài thềm cất lên, thật quen thuộc làm chị sững sờ:
"Thôi, để chị ở nhà bữa nay. Đứa nhỏ đau mà".
Xúc động đột ngột dâng lên làm chị nghẹn ngào, bàng hoàng. Đúng Hải, đúng Hải rồi, Hải chưa chết và đêm nay trở về đứng ngoài thềm trong ánh trăng với những tiếng ho dè dặt. Chị hơi rướn người về phía trước như để nhìn rõ hơn khuôn mặt chìm trong bóng tối, tiếng loa gọi theo chiều gió lan tới, những người đàn ông im lìm khoảnh khắc như ngủ thiếp. Không ai nói gì thêm và chị đứng đó cứng người ra, thân thể Ba bên cạnh chỉ còn như một cái cột một vách tường, những bóng đen ngoài hiên như cây cỏ trong vườn. Ba thở dài thật khẽ bước qua bực cửa, lẫn vào trong những bóng đen, lưỡi thuổng loang loáng hắt ánh trăng. Chị mơ hồ thấy đất lạnh thấm vào gót chân, cơ thể thôi rướn căng về trước, Hải đã trở thành bóng đen mờ mịt tan lẫn vào khu vườn khoảng hiên trắng dưới ánh trăng yên tĩnh. Chị bước ra ngoài ngồi xuống bậc thềm, hơi đất thấm vào mông vào đùi, ánh sáng trăng tứ bề, trên tóc, trên bàn tay, trên nỗi xao xuyến mong ước và tuyệt vọng. Hải đó, chưa chết và trở về như một bóng đen trên thềm đất, như một lôi cuốn tàn bạo làm người chị rũ rượi như khi tiếng súng uy quyền bắt chị lết xuống căn hầm nồng mùi đất ẩm mùi thuốc lá của chồng. Hải đã trở lại, Hải của buổi trưa ven sông lao vào Tía chửi rủa đấm đá túi bụi và chị đứng sững sợ hãi, muốn can hai kẻ, muốn chạy, muốn kêu. Hải của đồn bốc cháy ngùn ngụt, Hải chạy băng qua ruộng mía, sờ soạng vội vã và lục lạo, co quắp sức mạnh trên thân thể chị trên lớp lá cây xào xạc trong bóng đêm. Tiếng loa, tiếng ồn ào rầm rì từ phía trụ sở hội đồng xã vẳng lại, chị ngồi im trên thềm, ánh trăng rải đầy trên sân trên lá cây, lắng nghe tim đập khắc khoải. Chị ngồi im trên thềm, chờ đợi. Chờ đợi Hải sẽ trở lại, chị biết thế, hắn sẽ phải trở lại để sờ soạng, co quắp sức mạnh trên thân thể chịu đựng chiều đón. Không thể tuyệt vọng hơn được, mọi sự sẽ phải đến như thế. Tiếng loa, tiếng ồn ào rầm rì, tiếng chân người lan dần về quốc lộ. Da thịt khe khẽ ướt át nhờn trơn, mông bắt đầu ê ẩm, chị muốn đứng dậy ra vại nước tắm, chị muốn đổi thế ngồi, ánh trăng làm lo âu tăng cao dần, chị muốn lùi vào nhà, ẩn dưới hiên, trong bóng đêm. Nhưng cơ thể vẫn bất động, ánh trăng trên đất trên lá cây, tràn đầy trên tóc trên tay, trên nỗi chờ đợi đến tuyệt vọng một bóng đen sẽ từ bụi rậm, bờ cây xuất hiện như một sức mạnh co quắp phải đón nhận trên thân thể đang tê dại, rũ rượi, nhờn trơn…
(Trích Tiền đồn, từ trang 133 đến 144)
"Nhà có bị sao không mình?"
Tiếng Ba từ một góc tối vẳng lại:
"Không có sao hết".
"Sao tối nay mấy ổng đánh nhau sớm như vậy há? Trăng mới lên mà".
Ba không trả lời, có tiếng ly va chạm vào nhau và tiếng nước chảy ở bàn, trăng đã bắt đầu làm rõ các cây cối ngoài vườn. Chị khẽ đẩy đứa bé vào phía trong, ngồi dựa vách nhìn ra ngoài khe cửa. Có tiếng heo ủn ỉn lại gần, chị ghé sát khe nhìn ra, gọi khẽ:
"Hai con heo hổng chịu vô chuồng ngủ!"
"Biết sao. Ra bây giờ dám đụng mấy ổng bất tử…"
Một bàn tay cứng ngắc lẫn mùi thuốc quàng quanh người, kéo chị ngả xuống ván, rồi một sức nặng nóng cứng thoảng hơi rượu phà vào mặt. Chị hoàn toàn buông thả, hài lòng nhưng vẫn thì thào:
"Thôi đi. Đợi chút đi, giờ này dám mấy ảnh tới gõ cửa bắt đi đắp mô".
"Mô nè!"
Bàn tay Ba làm một bên ngực chị đau tê dại:
"Nhẹ chứ, thằng nhỏ dậy bây giờ!"
…Tiếng Ba còn thở mạnh, chị ngồi dậy khua tay tìm quần. Ba co chân đặt lên chặn lại. Chị cười khẽ:
"Nhậu say, ham dữ hôn!"
Cánh tay lại vòng quanh lưng kéo xuống, chị ngả người theo chiều kéo, mở rộng thân thể chiều đón. Đột nhiên chị nghiêng người, hay tai vít vai Ba bất động, lắng nghe tiếng loa văng vẳng qua vách.
"Thôi xuống đi mình. Mấy ảnh về rồi đó, để sức mà đi đắp mô".
Ba úp chụp xuống giữ nguyên chị ở vị trí cũ:
"Mấy ảnh về cứ về. Tui cứ lo việc của tui!"
"Dữ hôn. Một lần rồi chứ nào phải… Nhậu lắm vô rồi lộn xộn hoài với tui!"
Ba thở mạnh nín thinh, nhưng chị không còn hứng thú. Tiếng loa đã nghe rõ hơn giữa tiếng chó sủa, chắc mấy ảnh đã về đến nhà bà Sáu. Chị rướn người chiều ý chồng, tiếng loa cắt đứt từng tiếng lọt qua vách làm thân thể trơ cứng, và khi Ba run rẩy hối hả rồi ngả người lăn sang bên cạnh, chị vội vã ngồi dậy nhìn qua khe. Ba bóng đen băng qua vườn, tiến vào sân. Chị quờ tay lay chồng:
"Mấy ảnh tới kia!"
Ba ngồi dậy, bước xuống đất lom khom mặc quần. Tiếng gõ cửa nhẹ, một giọng nói như cố làm ra vui vẻ và thân mật:
"Mở cửa cô bác! Chưa chín giờ đã đi ngủ dữ đa…"
Tiếng then cửa va lạch cạch, ánh trăng vụt hiện một khung vuông trên nền nhà. Chị nhìn qua vai chồng, cố nhận diện ba hình đen thẫm đứng xoay lưng lại ánh trăng, một tiếng ho nhẹ gần như quen thuộc. Giọng nói cũ tiếp tục:
"Phiền anh chị ra mần mấy cái mô… Cho tụi tay sai đế quốc Mỹ ngắc ngư chơi".
Một tiếng cười nhỏ chấm dứt câu nói, trơ trọi lạc lõng. Ba nín thinh đứng im, chị nín thinh nghĩ tới nỗi mệt mỏi từng nhát cuốc bổ xuống đất cứng tê dại cánh tay trong bóng đêm, mồ hôi chảy ra ướt đẫm vai lẫn sương đêm và sáng hôm sau từng toán quân vào xã thu thẻ kiểm tra với một câu nói nửa mời mọc nữa đe dọa: "Phiền cô bác ra phá giùm mấy cái mả HCM cho xe đò lưu thông, đồng bào buôn bán làm ăn chút chứ… Tụi tôi đợi trả thẻ cô bác ở lộ". Cứ như thế bao lần rồi, chị mỏi mệt nhắm mắt lại, người như muốn rã rời. Tiếng chân Ba bước nhanh lại góc nhà, ánh trăng mất vật cản ùa vào mặt và vẫn một tiếng ho quen thuộc ấy làm chị mở bừng mắt cố nhận rõ mặt người đàn ông từ lúc đầu vẫn đứng dưới bực thềm, bất động. Ba lại gần cửa, tiếng thuổng va vào cột vang động như một nỗi bực tức không dám thổ lộ. Chị nói:
"Thôi mấy anh cho tui ở nhà bữa nay. Tui đang đau, cả đứa nhỏ nữa".
"Thôi mà. Anh chị ráng chút chút, đóng góp cho giải phóng nhân dân… Đừng có lo! Tụi chúng không dám bắn vô đầu đồng bào đâu. Mấy bữa trước tụi chúng bị đồng bào kéo lên kiện trên quận vì bắn vô xã đó, còn ớn mà".
Tiếng nói từ bóng đêm đứng ngoài thềm cất lên, thật quen thuộc làm chị sững sờ:
"Thôi, để chị ở nhà bữa nay. Đứa nhỏ đau mà".
Xúc động đột ngột dâng lên làm chị nghẹn ngào, bàng hoàng. Đúng Hải, đúng Hải rồi, Hải chưa chết và đêm nay trở về đứng ngoài thềm trong ánh trăng với những tiếng ho dè dặt. Chị hơi rướn người về phía trước như để nhìn rõ hơn khuôn mặt chìm trong bóng tối, tiếng loa gọi theo chiều gió lan tới, những người đàn ông im lìm khoảnh khắc như ngủ thiếp. Không ai nói gì thêm và chị đứng đó cứng người ra, thân thể Ba bên cạnh chỉ còn như một cái cột một vách tường, những bóng đen ngoài hiên như cây cỏ trong vườn. Ba thở dài thật khẽ bước qua bực cửa, lẫn vào trong những bóng đen, lưỡi thuổng loang loáng hắt ánh trăng. Chị mơ hồ thấy đất lạnh thấm vào gót chân, cơ thể thôi rướn căng về trước, Hải đã trở thành bóng đen mờ mịt tan lẫn vào khu vườn khoảng hiên trắng dưới ánh trăng yên tĩnh. Chị bước ra ngoài ngồi xuống bậc thềm, hơi đất thấm vào mông vào đùi, ánh sáng trăng tứ bề, trên tóc, trên bàn tay, trên nỗi xao xuyến mong ước và tuyệt vọng. Hải đó, chưa chết và trở về như một bóng đen trên thềm đất, như một lôi cuốn tàn bạo làm người chị rũ rượi như khi tiếng súng uy quyền bắt chị lết xuống căn hầm nồng mùi đất ẩm mùi thuốc lá của chồng. Hải đã trở lại, Hải của buổi trưa ven sông lao vào Tía chửi rủa đấm đá túi bụi và chị đứng sững sợ hãi, muốn can hai kẻ, muốn chạy, muốn kêu. Hải của đồn bốc cháy ngùn ngụt, Hải chạy băng qua ruộng mía, sờ soạng vội vã và lục lạo, co quắp sức mạnh trên thân thể chị trên lớp lá cây xào xạc trong bóng đêm. Tiếng loa, tiếng ồn ào rầm rì từ phía trụ sở hội đồng xã vẳng lại, chị ngồi im trên thềm, ánh trăng rải đầy trên sân trên lá cây, lắng nghe tim đập khắc khoải. Chị ngồi im trên thềm, chờ đợi. Chờ đợi Hải sẽ trở lại, chị biết thế, hắn sẽ phải trở lại để sờ soạng, co quắp sức mạnh trên thân thể chịu đựng chiều đón. Không thể tuyệt vọng hơn được, mọi sự sẽ phải đến như thế. Tiếng loa, tiếng ồn ào rầm rì, tiếng chân người lan dần về quốc lộ. Da thịt khe khẽ ướt át nhờn trơn, mông bắt đầu ê ẩm, chị muốn đứng dậy ra vại nước tắm, chị muốn đổi thế ngồi, ánh trăng làm lo âu tăng cao dần, chị muốn lùi vào nhà, ẩn dưới hiên, trong bóng đêm. Nhưng cơ thể vẫn bất động, ánh trăng trên đất trên lá cây, tràn đầy trên tóc trên tay, trên nỗi chờ đợi đến tuyệt vọng một bóng đen sẽ từ bụi rậm, bờ cây xuất hiện như một sức mạnh co quắp phải đón nhận trên thân thể đang tê dại, rũ rượi, nhờn trơn…
(Trích Tiền đồn, từ trang 133 đến 144)
Tên: Đỗ Mạnh Tường. Bút hiệu: Thế Phong, Đinh Bạch Dân, Đường Bá Bổn. Sinh
ngày: 10-7-1932 tại Nghĩa Lộ (Yên Bái). Viết văn từ năm 1952
Tác phẩm:
1. Truyện của người tình phụ, Đại Nam Văn Hiến tái bản, 1965
2. Khu rác ngoại thành, Trình Bày tái bản, 1966
3. Nửa đường đi xuống, Đời Mới tái bản, 1968
4. Thuỷ và T6, Đại Nam Văn Hiến tư bản, 1969
5. Nhà văn, tác phẩm và cuộc đời, Đại Ngã tái bản, 1970
6. Việt Nam Under Fire and Flames, thơ, Đại Nam Văn Hiến
7. South VN – The Baby in the Arms of the American Nurse, thơ, Đại Nam Văn Hiến
8. Thế Phong by Thế Phong, Tự sự kể, Đại Nam Văn Hiến
9. Asian Morning Western Music (With the Preface of Professor Lloyd Fernando), Đại Nam Văn Hiến, 1971
(và khoảng 30 tác phẩm Ronéotypé)
Đã cộng tác với: Đời Mới, Văn Nghệ Tập San, Văn Hoá Á Châu, Nguồn Sống Mới, Trình Bày, Tenggara (Mã Lai), v.v.
Chủ trương Nhà xuất bản Đại Nam Văn Hiến.
Thế Phong và cơn mê dục vọng
Le Moi est halssable
(Cái Tôi đáng ghét)
B. Pascal (1632-1662)
… Thuở nhỏ, Thế Phong rất oán giận bố vì hai chuyện, và cho rằng bố không thương mình bằng mẹ. Một lần bố sai đi mua thuốc phiện, đường xa, phải cưỡi ngựa băng qua dòng suối lớn đang mùa nước lũ, bị nước cuốn mất ngựa suýt chết. Khi về, bố chỉ hỏi thuốc phiện mà không hỏi đến sự nguy hiểm của mình. Một lần, muốn cho con học, ông đã nhốt con trên sàn gác, sai người cất thang, dưới chất đầy cành gai, khi nào học thuộc bài mới được xuống…
Trong khuôn khổ sinh hoạt văn nghệ miền Nam, Thế Phong nghênh ngang bước vào, mang theo giông gió làm đổ vỡ bao nhiêu thần tượng cùng với những hằn học, bất mãn trước xã hội.
Không giống các văn nhân khác, dùng trí năng soi tỏ con người đối chiếu với sự vật, từ đó, phóng hồn vào khung trời sáng tạo với đầy đủ quyền hành do nghệ thuật trao phó để hình thành tác phẩm. Thế Phong tìm riêng cho mình một tư thế sáng tạo bằng cách mang bản thân ra làm vật thí nghiệm và dùng người thân, bạn hữu, người tình, cuộc sống như những chất liệu để xây dựng Sơn Nam văn chương. Điều này làm buồn lòng nhiều người. Thế Phong đã bị dư luận anh em oán giận, người tình than trách và sự hiện diện của tác phẩm Thế Phong như những bản cáo trạng kết án tử hình thế hệ mình. Nhà văn biết rõ điều đó, nhưng mọi thứ trên đời, dù ân nghĩa, dù tình yêu, dù phản bội đối với Thế Phong cũng chỉ như những phương tiện thôi, cứu cánh là nghệ thuật. Vì tin tưởng thế, muốn như thế, nên những sự kiện được viết thành văn, nó nằm ở ngoài dự tưởng của lương tâm mỗi con người bình thường.
Trước bước đường tiến tới vinh quang, mỗi nghệ sĩ phải tuỳ tài, tuỳ trí để lựa chọn ngả nào thích hợp với khả năng, với ý hướng và cũng ít nguy hiểm nhất để tiến tới ước vọng, vì không một ai có thể đạt được danh vọng trong vài ngày, vài tháng. Nghệ thuật là một công trình, ở đấy, mỗi tài năng đều phải lần lượt kinh qua những cay đắng và gian khổ, để rồi cùng với thời gian mà trưởng thành hoặc tàn lụi đi như một tuyệt vọng vô danh.
Sự thực, cuộc đời Thế Phong đã trải qua quá nhiều cay đắng và hệ luỵ do hoàn cảnh đẩy tới với oán hận triền miên. Nhưng đáng lẽ những cay đắng đó chỉ được dùng cho riêng mình trong sáng tác, Thế Phong lại lôi kéo theo những số phận khác cùng gánh chịu để gây nên ngộ nhận. Nhà văn biết, nhưng bất cần, vì nghĩ rằng, bản chất đích danh của sự sống không nằm trong xã hội mà ở mỗi con người nghĩ về sự sống đó với những yếu tố cấu tạo nên nó. Thế Phong, một nhà văn đã dám nói thực, viết thực những gì mình nghĩ, dù cho sự nghĩ đó chỉ nhằm vào mục tiêu đã lựa chọn. Chính vì đã chọn lựa, nên Thế Phong chấp nhận cả tốt lẫn xấu để sử dụng nó với chiều hướng có lợi cho mình, cho văn nghiệp của mình là đủ. Trong nền văn chương thế giới, thiếu gì những tác giả viết về mình, về xã hội và thế hệ mình với những sự việc hiển nhiên vây chặt lấy mỗi số phận như Collette, Marcel Proust, v.v. nhưng các vị đó chỉ dùng những nhân vật chung quanh họ như bằng chứng điển hình cho một tầng lớp xã hội nào đó, chứ không chỉ đích danh, hơn nữa, các vai trò đã được văn-chương-hoá nên không làm phiền lòng người được nói đến. Độc giả cũng chỉ coi như xem cuốn tiểu thuyết với những tình tiết khúc mắc thuộc kỹ thuật dựng truyện mà không có mặc cảm đọc bản án kết tội.
Thế Phong không viết như vậy, nhà văn đi vào từng sự việc và thuật lại y nguyên từng sự việc, tuy ở đôi chỗ có thay tên đổi họ, hoặc nguỵ tạo bằng danh từ riêng, nhưng những người cùng sinh hoạt chung môi trường, đoán biết ngay nhân vật đó là ai. Bởi vậy, những người được nhắc đến trong tác phẩm của Thế Phong, phần lớn là vật hy sinh, hoặc biến thành những viên gạch lót đường cho người viết đi tới sự nghiệp. Chính vì nhìn rõ cương vị của mình trong cuộc sống, một cuộc sống khốn nạn, tù hãm, bị vây lút bởi hoàn cảnh bất lợi cho riêng mình, nên đi đâu, ở đâu, Thế Phong cũng tự gây nên những sự việc, dù thuộc đời sống hay tình cảm, không nằm trong kích thước cuộc sống thông thường.
Thế Phong, nhà văn bất mãn thường trực, bất mãn với mình, với người, với xã hội. Sinh ra đời trong bối cảnh thanh bình của miền Thượng du, suốt khoảng ấu thơ được nuông chiều trong tay mẹ hiền, cho đến khi vừa đỗ xong Tiểu học thì đất nước cũng bắt đầu rối loạn vì tình hình chính trị và quân sự. Nghĩa Lộ, quê mẹ của nhà văn, là căn cứ địa, là chiến khu của Việt Minh, như chiến khu Bắc Sơn thuở tiền khởi nghĩa. Mồng 9 tháng 3-1945 quân Pháp mất Đông Dương vào tay quân Nhật sau một đêm giao chiến, các toán quân Pháp đóng ở cao nguyên, một phần đã rút theo ngả Nghĩa Lộ qua biên giới Trung Hoa để chống Nhật. Việt Minh cũng chống Nhật nên các toán quân du kích hoạt động tích cực ở khu vực này cho đến ngày Pháp trở lại Việt Nam, và Nghĩa Lộ lại bị cai trị dưới sức mạnh của quân đội Pháp, mới ngày nào lếch thếch, quần áo tả tơi, ăn xin, chạy trốn đoàn quân của Thiên Hoàng. Người dân Nghĩa Lộ qua mấy lần thay đổi chế độ, tan nát cả sự nghiệp cũng như lòng tin tưởng và hy vọng!…
Tất cả những diễn tiến trên, được Thế Phong nói rõ trong phần đầu của tác phẩm tự thuật: Nửa đường đi xuống (ấn bản đầu in Ronéo, 1960, sách in năm 1968).
Nhân vật xưng Nguyên trong tác phẩm là tác giả. Thế Phong dùng danh từ đặc hữu này để thay ngôi thứ nhất. Nguyên, cậu bé có tình rất sớm, mới hơn 10 tuổi hễ trông thấy gái là mê, cái tật này làm khổ nhà văn suốt cuộc sống, còn làm luỵ bao nhiêu đàn bà, con gái nhẹ dạ! Hình ảnh, nào Hương, Trinh, Tiên, Nga, Hải ở lứa tuổi 12, 13, v.v. đều làm cậu bé mơ mộng, muốn chiếm đoạt. Thời gian qua mau, chinh chiến đã phá vỡ tất cả mơ mộng của tuổi thơ. Tây đi, Nhật đến, Việt Minh đánh, rồi Cách mạng tháng Tám bùng nổ trên mọi nẻo đường đất nước. Sự có mặt của đoàn quân Cách mạng tại Nghĩa Lộ với Hồng, Quân, Vũ và Trung đoàn trưởng Sắc.
Trung đoàn trưởng Sắc đóng đô ở nhà một goá phụ, sau này, khi rút lui để lại cho bà một đứa con. Anh Trung đoàn trưởng tuy đã có tuổi, sắc mặt lầm lì, nghiêm khắc nhưng vẫn không lột bỏ hết quá khứ tình dục bỏng cháy, vì Cộng sản cũng chỉ là người với tất cả thú tính của nó. Quân đội Cách mạng không giữ được Nghĩa Lộ lâu, đám tàn quân Pháp chạy qua Tàu bữa nọ, quay về với trận chiến ác liệt, buộc quân Cách mạng phải triệt thoái. Nguyên làm bí thư cho Sắc nhưng không rút cùng quân Cách mạng, lại theo gia đình tản cư sâu trong rừng núi. Rồi ông Giáo, bố Nguyên, bị nghi ngờ theo Tây, bị bắt mang đi đâu không biết. Mẹ Nguyên nhất định trở về Nghĩa Lộ, về lại căn nhà thân yêu của mình với đồn điền và của cải chôn giấu. Nguyên cũng về theo mẹ. Căn nhà xưa, nay quân Pháp đóng, nhờ Nguyên biết tiếng Pháp nên công việc thu xếp cũng xong. Viên Thiếu tá Pháp Chỉ huy trưởng, thấy Nguyên thông minh nên muốn xin cho Nguyên sang Pháp học, Nguyên là con một, nên bà cụ không chịu.
Louis, tên Pháp lai Thái, khi Pháp mất quyền, chạy theo quân Cách mạng, lúc nghe tin Pháp về, trốn theo quân Pháp, bây giờ được phục hồi cấp Thiếu uý, giữ chức vụ Trưởng đồn. Louis mời Nguyên giúp việc. Thoạt đầu Louis còn tử tế, sau cũng làm bậy, cho lệnh giết trâu bò của dân làng. Một buổi Louis đem quân ra đồng bắn trâu bò thì đồn bị tấn công. Nguyên chạy vào lô-cốt, một thương binh Pháp bảo Nguyên: "Anh bắn đi, tôi sợ!… Việt Minh nhiều lắm!…" Nguyên bắn thật. Nhờ khẩu trung liên đó mà đẩy lui quân địch. Nguyên được tuyên dương.
Đời Nguyên còn qua nhiều giai đoạn vui buồn ở Nghĩa Lộ. Trung uý Guilleminot về chỉ huy căn cứ, yêu quý Nguyên vô cùng. Ông ta giúp đỡ Nguyên chẳng những ở Nghĩa Lộ, còn ở Hà Nội sau này. Một hôm Nguyên nhận được lá thư của Sắc, người Trung đoàn trưởng Việt Minh – gửi với lời báo tin ông Giáo vẫn khoẻ mạnh và Sắc đã thu xếp cho Nguyên đi Mạc Tư Khoa học. Chính vì bức thư này mà "petit Adjudant" Nguyên suýt bị tù do sự tố cáo bởi thù oán của đội Hồ. Sở dĩ Hồ có được lá thư vì lấy trộm của Nguyên trong lần đi tắm suối. Hồ giữ thư đó để làm áp lực với gia đình Nguyên trong vấn đề hắn định hỏi Bích, chị Nguyên làm vợ, không được. Sau cũng vì một tối đánh phé với Nguyên, Hồ thua cay nên ức, trình lá thư cho Trưởng đồn. Chuyện đó được giải quyết bằng cách quân đội Pháp chỉ cho Nguyên nghỉ phép dài hạn.
Cuộc đời Nguyên từ đó rong chơi bạc bài, lấy tiền mua hàng của mẹ đánh thua hết, rồi vay nợ, ăn cắp tiền bỏ ống của đứa em họ, đánh đập tàn nhẫn em gái mỗi lần nó không vay được tiền.
Tất cả những kỷ niệm, dù vui tươi hay cay đắng, Thế Phong đều viết ra, viết rất chân tình không úp mở:
… Nguyên đợi Ny về, hăm hở hỏi:
"Có tiền không?"
"Không ạ, bác bảo…"
"Tại sao?"
"Bác bảo anh đến mà lấy".
"Sao?…"
"Bác bảo…"
Ny muốn kéo dài để tránh anh thúc trả lời và những cái tát đổ hào quang con ngươi. Không bao giờ Ny về không có tiền mà không bị anh đánh. Nguyên đánh em rất vũ phu. Tiếng khóc lịm đi cho đến bao giờ chị Cửu can thiệp, Nguyên mới thôi.
Trong quãng đời bỉ ổi và đau khổ đối với em gái, Nguyên không thể quên được! …
(Nửa đường đi xuống, trang 157)
Chắc Nguyên không bao giờ quên được, chẳng những đối với Ny qua từng trận đòn tàn bạo mà còn bao nhiêu chuyện khác, trong đó có nỗi đau khổ của người mẹ thương xót đứa con duy nhất với nhiều hy vọng về tương lai, nay nó như vậy! Những ngày dài nối tiếp đi qua khung trời Nghĩa Lộ. Nguyên vì thương mẹ, không đánh bạc nữa, bắt đầu làm lại cuộc đời trai trẻ của mình, bằng cách đốt rẫy làm ruộng. Nhưng có lẽ, định mệnh đã sắp đặt sẵn cho Nguyên những điều kiện để đi vào từng sự việc, dù may mắn hay rủi ro. Vì chuyện làm ruộng Nguyên gặp Quán, cô gái quê thuộc thôn Đỗng cách xa nhà Nguyên độ mươi cây số. Quán, con nhà thường dân, nghèo hèn nhưng trời phú cho sắc đẹp mặn mà với dáng điệu quý phái (?). Quán đã có chồng chưa cưới tên Hời (lính Partisan), một hôm đi hành quân lục soát bắt gặp Quán trong cót thóc rồi mê nàng, bắt buộc gia đình Quán phải gả cho hắn. Hời già và nghèo, nên hắn dự định giết chết những ai nhiều tiền của, để có phương tiện cưới vợ. Quán không yêu Hời, lẽ đương nhiên. Chuyện Nguyên gặp Quán là kết thúc một ước mơ và cũng để giải toả trong lòng niềm oán hận đời!…
Cuộc tình rất thơ mộng của đôi trẻ cứ men theo những lối mòn, trên bờ nương, bên rừng cỏ cháy, trong từng đêm dài.
… Những đêm tàn dần theo nhau, bao giờ đôi trẻ ấy cũng mong thế. Khi yên giấc, là lúc cơ hội yêu đương sống động…
(Nửa đường đi xuống, trang 176)
Câu chuyện này làm gia đình Nguyên rất đau khổ. Quán, con nhà nghèo lại có chồng dù chưa cưới. Nhưng tuổi trẻ Nguyên đâu cần biết cái đó, cứ nhắm mắt theo tình yêu dẫn lối. Nhưng cuối cùng, Nguyên vẫn phải xa Quán, vì sợ bị tù theo đơn thưa, cũng do thù oán. Nguyên buộc lòng phải rời Nghĩa Lộ. Thế Phong đã viết những dòng thực sống và cảm động khi bị giam ở lô-cốt một đêm.
… Bước xuống hầm mùi tanh hôi xông lên, khi thấy anh vào, một tù binh nhếch mép cười gượng rồi im lặng. Nguyên không để ý đến sự có mặt của người bạn xấu số kia. Nguyên còn lợi dụng những giây phút còn ánh sáng, nhìn qua lỗ hổng lô-cốt, tìm hình bóng Quán, Nguyên cắn răng như muốn phá tan tù ngục và sự có mặt của thép gai xích sắt, tường vôi. Vô hiệu, chẳng tìm thấy Quán mà bóng đêm ập xuống. Xuống quá nhanh và phũ phàng!
Muỗi bắt đầu dạo nhạc. Người bạn tù bảo Nguyên:
"Tôi là Hoàng Văn Định. Tối nay tôi bị chúng xử bắn. Tôi yêu nước và đã mang bom ba càng ném vào chúng. Nhưng anh ơi! Bao giờ tôi mới thấy lại mẹ già, vợ và con thơ tôi. Tôi quê ở Hà Đông, Tiểu đoàn 12, Trung đoàn 97.
… Anh làm sao mà gặp gia đình tôi, để nói rằng trong cuộc kháng chiến, tôi đã chết bên anh, trong một miền hẻo lánh, để sau này kháng chiến thành công, gia đình tôi khỏi phải mong đợi…"
(Nửa đường đi xuống, trang 182)
Sự thực, trong cuộc kháng chiến chống Pháp chẳng phải chỉ có một mình Hoàng Văn Định chịu cảnh tù tội, bị đem xử bắn mà còn rất nhiều tấm gương anh hùng vì hai chữ Việt Nam dám hy sinh hết không tiếc nuối. Trường hợp Định với lời than van, chỉ chứng tỏ được cái tình người chứ chưa biểu lộ được cái quyết tâm của mỗi con người quốc gia yêu nước vào những năm 1946 đến 1954.
Vì may mắn và cũng do bà mẹ, Nguyên đi Hà Nội học để tránh cái không khí nghẹt thở của Nghĩa Lộ. Nguyên đâu có ngờ, chuyến đi này là mãi mãi, không một lần trở lại thăm thôn cũ quê xưa. Ngồi trên máy bay Nguyên nhìn xuống phi trường để tìm hình ảnh Quán, người yêu, người đã cho mình những ân ái mặn nồng của tuổi thơ, người đã khắc sâu vào tâm khảm mình những kỷ niệm đến chết chẳng hề phai lạt. Trong khi đó, Quán đến muộn, nàng không kịp nắm chặt lấy hình hài Nguyên để tỏ bày đôi câu giã từ. Nàng đứng ngớ ngẩn ở sân bay như con chim nhỏ lạc đàn. Khi máy bay sắp cất cánh, Nguyên mới chợt nhận ra vóc dáng thân yêu:
… Cánh quạt bắt đầu quay. Cánh cửa đóng lại. Bây giờ Nguyên mới hoàn hồn nhìn lại. Nghĩa Lộ từ giã mình bằng một sự yên lặng cô đơn. Bỗng Nguyên giật mình. Người đàn bà kia là nàng. Phải, đúng là Quán. Nguyên dùng bàn tay đập vào cửa kính. Và càng mạnh, khiến người chiêu đãi viên đi lại hỏi. Nhưng anh không kịp trả lời. "Tại sao ông đập cửa kính?" Vẫn đập nữa, mãi sau họ bảo:
"Ông có quên gì, thì chúng tôi sẽ gửi về sau cho ông". Nguyên thờ thẫn. Quán bây giờ chỉ còn là một dấu đen nhỏ. Anh gục đầu xuống đôi cánh tay…
(Nửa đường đi xuống, trang 185)
Trên đây, những dòng cuối của phần đầu cuốn sách. Khung trời Nghĩa Lộ trở về sau, được Thế Phong nhắc đến như một kỷ niệm đan xen những vui buồn và giọt máu Nguyên để lại trong thân thể Quán cũng làm nhà văn băn khoăn không ít ở những trang nối tiếp.
Thế Phong vì còn trẻ và quá tự tin nên luôn luôn đề cao mình về trí thông minh và lòng can đảm ngay từ thuở nhỏ. Điều này có thể đúng, nhưng có lẽ, khi viết nhà văn quá chủ quan, hơn nữa, Thế Phong thực hiện cuốn sách vào năm gần 30 tuổi, nên chỉ viết theo sự chỉ dẫn của tiềm thức, do đó, thể văn hồi tưởng nếu có tác động đến tâm thức tác giả, cũng do sự tán tụng mình ở trong khuôn thức nào đấy để tự thoả mãn!
Nhưng phải xác nhận, qua những sự việc thuộc phần đầu cuốn Nửa đường đi xuống, Thế Phong phải dùng hết khả năng và sự lanh lẹ của mình để đối phó với nhiều trường hợp dù thuận, dù không. Từ một đứa bé được nuông chiều, bước sang cuộc đời đầy khốn khó, tác giả đã dùng trí năng để kinh qua được rất nhiều trở ngại, chỉ riêng vấn đề tình ái, tuy tuổi còn nhỏ mà đã biết đam mê như gã thanh niên trưởng thành, nhất là giai đoạn 1945, khi nếp sống xã hội Việt Nam nói chung, vẫn chưa có gì đáng khích lệ trong vấn đề luyến ái. Ngay cả đoạn nói về vai trò của Sắc – người Trung đoàn trưởng Việt Minh – qua sự phân tích tâm lý, với nhận xét về mặt tình cảm của nhân vật, làm những trang sách trở nên nghi vấn. Vì ở cái tuổi 13, 14 dù thông minh cách nào đi nữa, cũng chẳng thể đoán biết một cách minh bạch về hành động của người Cộng sản đã chiến đấu cho Đảng, vì Đảng, đã hy sinh tình nghĩa bạn bè, tình nghĩa gối chăn cho Cách mạng. Người đọc tin chắc phần này được viết ra với suy luận, sau hơn 10 năm ngẫm nghĩ, đã sống, đã từng trải qua nhiều vui buồn thế cuộc!
Phần II của cuốn Nửa đường đi xuống (hay quyển truyện thứ hai) mở đầu bằng lá thư gửi một nữ y tá, người yêu. Mỗi phần sách, một phần đời của tác giả. Vì là tự thuật, nên tất cả mọi sự việc đều được viết ra có lớp lang, tuần tự theo thời gian. Nội dung lá thư chứa chấp nhiều cay đắng, hờn hận. Nó là lời chào vĩnh biệt. Nó là cơn đau vò xé nội tâm người trong cuộc. Tình yêu, ôi tình yêu, đứng trước nó, con người trở nên hèn mọn và sẵn sàng chấp nhận khổ đau một cách tự hào!… … Cách đây hai năm, anh đã viết cho em nhiều thư lắm. Nhưng chưa bao giờ gửi, mặc dù em cùng sống với anh trong một thành phố đang quen, cùng một bầu không khí lành lạnh buổi sáng, nóng bỏng càng tăng lúc non và già trưa. Hẳn là em ngạc nhiên, lẽ tất nhiên rồi, vì anh muốn đoạn tuyệt với quá vãng. Song anh làm sao có thể là một con người như bao xưa nữa tuyên bố trước mặt mọi người: Tôi lột xác và bỏ ngày qua, để nhìn rõ hiện tại, như thế là xây dựng cho ngày mai. Gần mười năm phục vụ, gần sáu năm thực tập cái lề lối, cái nếp sống bề ngoài thơn thớt nói cười để mà nham hiểm giết người không dao. Rồi anh chợt nhớ, nhớ quá lắm! Có những đêm, anh chắp tay vào má, trước ngọn đèn dầu ở xóm Chùa, bên bờ sông Tân Định, suy nghĩ mông lung, sau khi đã tự tử dần bằng những ly cà phê sánh đượm…
(Nửa đường đi xuống, trang 189-190)
Qua những dòng thư, người đọc đoán biết tâm trạng của tác giả. Cuộc đời đã quất những chiếc roi da ngang mặt, làm nổi hằn từng đau đớn qua chứng tích văn chương. Tác giả đã nói thực cho người yêu biết đừng tin tưởng vào bề ngoài mà xét đoán cái phong lưu bên trong, vì bề ngoài chỉ là chiếc mề-đay giả đấy thôi. Cả hai mặt đều khác sẵn từng nét xấu xa! Cuộc đời đã dạy cho Thế Phong nhiều bài học, nhưng không bao giờ nhà văn oán trách sự xấu nếu có đến với mình và cả sự tốt của người đời, cũng chỉ để giúp cho tác giả biết đứng trên hai thứ đó mà nhận diện cuộc sống đích danh.
Tác giả cũng chẳng cần che đậy, giấu giếm sự nghèo túng. Bạn mời đi ăn cưới, ăn mặc thật "luých", cúc manchette hình tareau đẹp bậc nhất của Paris mà thiếu 5 đồng tiền taxi phải nhờ chú rể hỏi vay một, trong những cô gái có mặt ở tiệc cưới. Đi từ lá thư vào truyện không cần qua đoạn chuyển tiếp thông thường của kỹ thuật hành văn, Thế Phong đưa được người đọc trở lui quá khứ, trở về khung trời Hà Nội, khi Nguyên vừa góp mặt, sau một chuyến bay. Từ đó, Nguyên ôm Hà Nội vào lòng với đam mê và tội lỗi.
Đến đâu, ở đâu, bóng dáng tình yêu cũng như bầy ma quái quấn riết lấy thân phận Nguyên để làm khuất chìm mọi ước vọng khác. Nguyên không ở đâu yên chỗ vì tính tình bừa bãi, phóng túng không chịu ép mình dưới khuôn thức nào của nếp sốn, nên sự đi, ở, đói, khát là những gần gũi nhất, trong một đời sống đã được điểm danh. Nhà ông Đội, một gia đình phong kiến rởm với kẻ hầu người hạ, với sự khinh bạc trong cách xưng hô làm Nguyên hờn giận, nên chỉ là những ngày tạm bợ. Rồi đến quán Mai Hương, vừa ở trọ vừa làm bồi bàn nhưng lòng vẫn nhớ Kiều, người bạn gái Tàu lai quen từ khi còn ở Nghĩa Lộ. Mấy tháng sau lại vào ở ký túc xá Phan Đình Phùng, phố hàng Đẫy, rồi lại tìm Kiều với mối tình dang dở, nhưng nàng đã lấy chồng Pháp để cứu gia đình lâm nạn. U hoài bắt đầu đến và Nguyên xin gió lạnh ở đâu, hãy về gác trọ thật nhiều để làm bạn với cô đơn!
Nguyên đi học, nổi tiếng là hy sinh quấy nghịch đã mấy lần suýt bị đuổi, tuy có khiếu về sinh ngữ. Tuổi học sinh vốn vô tư, hồn nhiên, nhưng vì vào đời quá sớm nên Nguyên đã có những nhận định và phong cách của một tráng niên. Trong mấy năm học, thi không bao giờ đậu vì ngoài môn sinh ngữ, môn nào cũng bết. Hình ảnh Thương, người nữ sinh cùng trường đã làm đẹp tuổi niên thiếu bằng những ước mơ hoa bướm. Một niên khoá qua đi rất nhanh.
Một buổi, người cô ruột của Nguyên đến ký túc xá bảo Nguyên về nhà ở. Nguyên mừng quá vì đang lo Nghĩa Lộ mất về quân kháng chiến sẽ không có tiền theo học, may gặp người cô giàu, thì dù cho Nghĩa Lộ có tan nát vì chiến trận, Nguyên cũng chẳng cần. Nhưng bài học đầu tiên đến với Nguyên là hành động của bà cô ruột, thải một lô quần áo cũ của chồng cho cháu. Nguyên bị chạm tự ái cho mình là con nhà giàu, mặc hàng Dormeuil đi học, đâu thèm mặc thừa. Giữa lúc cần tiền, một phong thư và chiếc "măng-đa" từ Nghĩa Lộ báo tin Quán, cô gái quê xứ Thái, đã sinh con gái. Trong khi đó mối tình cô nữ sinh tên Thương và Nguyên vẫn đi đều nhịp. Cách đó ít lâu, nhận được tin mẹ ốm nặng, Nguyên cũng không trở lên Nghĩa Lộ được vì mặt trận Thu Đông đang dìm cả vùng rừng núi vào biển lửa. Người mẹ rất mực thương chiều con, không một lần nhìn lại mặt Nguyên, từ buổi tiễn đưa đến lúc nhắm mắt lìa đời. Cả người cha bị bắt đi mất tích, sống chết ngày nào cũng chẳng ai hay biết!…
Nguyên bắt đầu viết văn. Từ đây, những đêm dài… Một nhận xét, Thế Phong quá tham lam trong vấn đề chọn lựa sự kiện đưa vào tác phẩm. Có nhiều việc thừa, hoặc không mấy cần thiết cho kỹ thuật dựng truyện, vẫn được viết tới, làm tâm trí người đọc bị phân tán, không gây nên tác động mãnh liệt vào một chủ điểm nào đó, được coi như chính yếu. Nửa đường đi xuống giống cái cây quá nhiều lá, đứng nhìn, người ta chỉ thấy một màu xanh nặng nề bao phủ mà không nom rõ cái "thế" vững chãi của thân cây với những nhánh, cành đang vươn cao sức sống. Có lẽ, vì nói tới mình, nên tất cả những gì "thuộc về mình" khó lòng gỡ bỏ, dù cho vì nó, tác phẩm có mất đi một phần hiệu năng truyền cảm. Chủ quan bao giờ cũng nguy hiểm, nhất là đối với văn chương, chúng ta không thể bắt chước G. Duhamel với ý nghĩ thầm kín: ôm ấp những cái gì thuộc giai cấp mình, chung quanh mình mà thôi.
Tội lỗi và tội lỗi, ở đâu, Nguyên cũng tạo ra cho mình chiếc "vực thẳm của Pascal". Mỗi lần phạm tội, Nguyên đều tìm nguyên cớ để khoả lấp, như trường hợp với Bảy, cô cháu họ của ông chú rể:
… Ở Hà Nội, những chiếc xe bọ hung màu xám chạy qua phố. Trên xe là những bộ mặt sát khí của các chú lính Pháp. Nguyên cảm thấy rằng sinh mạng con người chỉ là sợi tơ nhện chăng vào đêm giông tố. Nguyên thèm khát những bộ ngực nở nang…
Cái gì đến phải đến, Nguyên đã bị dục tình quật ngã, rồi Bảy mang thai sau hơn một trăm lần "ghi sổ". Chuyện này lúc đầu mọi người đều nghi cho chồng cô Thảo vô luân, đã ăn nằm với cháu gái. Nguyên càng tỏ ra mình vô can trước dư luận, nhưng sau mọi người đều biết là Nguyên. Bảy phải bỏ nhà ra đi với cái thai hơn 7 tháng. Nguyên đưa Bảy số tiền nhỏ còn lại, để nàng chi dụng, từ đó là hết. Đau thay thân phận đàn bà!…
Nguyên vừa đi học vừa tập viết văn, gửi đăng ở các nhật báo. Cái sự nghiệp văn học, Nguyên thường nhìn qua vóc dáng Nguyễn Công Hoan, Lê Văn Trương, Tô Hoài, v.v. còn xa lắm! Nguyên ở nhà bà cô cũng chẳng yên ấm gì. Vì không chịu được nếp sống của Nguyên, nên hai cô cháu gây gổ. Bà cô mắng rủa và đánh Nguyên. Tuổi trẻ không dằn được, Nguyên đấm lại bà cô sưng vù mắt. Sau đó, Nguyên bắt đầu lang thang với câu thề: Không bao giờ mình trở lại cái nhà này nữa.
Nguyên đến ở nhờ nhà bạn miệt chùa Vua. Buổi tối đang đánh phé với 3 bạn khác, có vụ Cảnh sát xét nhà. Lẽ dĩ nhiên, Nguyên không có tên trong sổ gia đình, phải về nằm bót. Khung cảnh cuộc thẩm vấn, được Thế Phong viết lại vô cùng xác thực, đã nói lên cái không khí nghẹn thở của Hà Nội, trong thời gian Pháp tạm chiến thành phố:
… Trưởng ban Điều tra chững chạc hỏi:
"Tên cậu là gì?"
"Thưa ông, Tạ Mạnh Nguyên".
"Làm báo?"
"Vâng".
Một lát sau, hình như hiểu ra điều gì, Trưởng ban "rờ-sẹt" gọi một thanh niên trẻ lại:
"Xem sổ có tên này không?"
Nguyên mừng thầm. Đến khi ông Trưởng ban quay phắt lại gọi:
“Hoàng ơi, affaire đây rồi. Nhà báo, c’est lui." Nguyên bắt đầu hơi lo, nhưng chưa biết chuyện gì. Nhớ lại lúc gần tảng sáng, anh nhìn sang khe cửa bên kia. Nhân viên điều tra thay phiên nhau đánh đập, đàn bà có, đàn ông có, choai choai có… Những tiếng khóc thét lên, im bặt tiếng van lạy như tế sao: Con đau quá!… văng vẳng trong tiềm thức anh.
"Tên mày là gì?"
"…"
"Mày buôn lậu Aspirine, Quinine, Streptomycine đem đâu? Tiếp tế cho Việt Minh, khai đi, đúng rồi, lại Quinines jaunes…"
"Con lạy quan, con trót dại buôn lấy tiền nuôi gia đình…"
"Lớn có thể đẻ con hàng mấy đứa, còn trót dại… Thằng gì… đâu, đánh cho nó khai. Allez…"
"Dạ…"
"Này gia đình này, không khai này, này không khai này, đ.m. chúng mày. Ông đánh cho bằng chết, có chửa này, thì… thời ra con này… Kh…ai…k…h…a…i hay không?"
Tiếng người đàn bà ban nãy, bây giờ chỉ còn giãy giụa vang từ trong căn phòng điều tra ra. Nguyên nhìn Hiển, cùng thấy cảnh loài người hành hạ lẫn nhau. Họ không nói, nhưng cả hai biết rằng, người đàn bà có đôi mắt đẹp lúc nãy, chỉ còn là một thân xác lõa thể bị dày vò. Hiến chương Liên Hiệp Quốc! Hiến chương Liên Hiệp Quốc bảo vệ nhân quyền… "Đánh cho bỏ mẹ nó đi", một người ra lệnh, "dí điện vào "số ta" nó!"
"Trời ơi! Con lạy quan, con chết, chết mất…"
"Chết đâu dễ thế, khai đi, nhanh lên quan tha, Marie hay Jacqueline, Ngọc, Tuyết, Nhung ai là Trưởng ban địch vận của các con. Khai đi… quan tha, ngoan lên nào. Má đỏ thế kia, da trắng thế kia, hoài của… khai để mà sống chứ? Khai đi…"
"Con chết mất, xin quan chớ… hại đời con là con gái… con khai, con khai, quan tha con… trời ơi… trời ơi!"
(Nửa đường đi xuống, trang 267-268)
Đoạn văn đã vẽ lại trước mắt người đọc một pha tra tấn thường xảy ra ở bất cứ quận Cảnh sát nào dưới thời Pháp chiếm lại Hà Nội, sau khi đã đẩy lui Trung đoàn Thủ Đô qua bên kia bờ Hồng Hà và đi xa nữa!…
Nguyên đã thấy chán nghề viết báo, có ý định vô Sài Gòn làm cuộc phiêu lưu. Nguyên xuống Hải Phòng, lên tàu Ville de Sài Gòn vào Nam với số tiền do mưu mẹo của Hiển người bạn tốt. Vào Nam, Nguyên không quen ai, ngoài hành lý tuỳ thân và đôi lời gửi gấm của bạn bè, với lá thiếp của Minh (nhà văn Nguyễn Minh Lang) giới thiệu người bạn làm báo ở Sài Gòn.
Trong suốt phần II của Nửa đường đi xuống, sự thật cũng chẳng có dữ kiện nào đặc biệt để mà nói, ngoài chuyện quấy phá, nghịch ngợm của tuổi trẻ, với vài lỗi lầm nặng nhẹ về dục vọng. Nhưng vì tác giả muốn trình bày sự diễn tiến của một đời người dấn thân vào trong văn chương, với những mốc vui buồn của nó, một cách trung thực, nên sự việc được nói tới, viết ra, đều ở ngoài văn chương. Phải qua đến phần III (quyển truyện thứ ba), Thế Phong mới thực sự đi vào môi trường dự định. Từng khuôn mặt anh em, bạn bè, người tình đã mất đi vĩnh viễn hay còn sống cùng kích thước không gian Sài Gòn, đều được vẽ lại với những hận thù và tiếc thương đằm thắm. Sóng gió bắt đầu thổi từng cơn giận dữ.
Những ngày đầu ở miền Nam trôi đi trong khốn khó. Đêm khách sạn cô đơn và lo ngại ngày mai, đến nỗi từ chối cả đàn bà mời vui. Nơi đây Nguyên gặp Hồ Hán Sơn, người chuyên viết lý thuyết Cách mạng, sau cũng vì Cách mạng, chết tối tăm!… Rồi cuộc đời đẩy đưa, vì có viết mấy cuốn sách về chính trị, Nguyên được giới thiệu để giữ chức vụ Ủy viên Báo chí kiêm Bí thư của Tổng trưởng Thông tin Phạm Xuân Thái. Nhưng miếng đỉnh chung này cũng chẳng hưởng được bao lâu. Sau câu chuyện xích mích, Nguyên xin thôi, để sau này phải thốt lên lời oán trách gay gắt, khi bị Phạm Tổng Trưởng từ chối không cho mượn tiền:
… Thuê nhà được hơn một tháng, Nguyên bắt đầu thất nghiệp. Chính anh tự bỏ việc làm. Nguyên biết ngày mai mình chẳng còn gì để bấu víu, nhưng anh đành bỏ. Ban đầu anh còn tiền ăn, dần dần không xoay sở vào đâu được, anh đến nhà một hoạ sĩ ăn nhờ. Tân ngạc nhiên khi thấy bạn không còn bút Parker treo ở túi áo như mọi bận:
"Sao bút đâu? Bán rồi sao?"
"Tất nhiên. Nếu tao không cầm quần áo toàn diện, bút máy, đồng hồ, không có tiền thuê nhà. Tao vay Phạm Tổng Trưởng, nhưng lão ta kêu không có. Chúng nó làm chính trị chỉ cần mình khi chúng cần. Nên kinh nghiệm dạy cho biết, khi chúng vời mình đến, phải cắt cổ chúng mà lấy tiền. Nếu không nắm cơ hội ấy, đừng có hòng moi tiền được của chúng…"
(Nửa đường đi xuống, trang 305-306)
Câu chuyện túng thiếu, chuyện thường xuyên đối với hầu hết những người làm văn nghệ, nhưng sự túng thiếu đối với Nguyên, một phần do tính hào phóng, lúc có tiền ăn chơi cho đã, ngày mai xét sau, lúc xét được, đã muộn! Biết bao nhiêu lần lỡ đà, quá trớn về tiền bạc cũng như tình ái, chẳng lần nào giúp cho Nguyên được mảy may kinh nghiệm để vượt thoát. Trên thực tế, Nguyên có thể kiếm ra tiền bằng nhiều cách, khi làm Ủy viên Báo chí, nhưng tuổi trẻ, còn nhìn đời qua lăng kính lý tưởng, Nguyên đã để lỡ, chắc không bao giờ tìm thấy lại cơ hội đó nữa!
Cái nghề viết văn, có gì đâu mà nhiều người ham mê vì nó, chịu khổ cực cả một đời. Có lẽ, nó là cái nghiệp! Sách viết xong mang bán, đi rạc cẳng, không chắc đã bán nổi, dù bán với giá tiền chết đói:
… Bằng hẹn với anh đã nhiều lần lắm. Không còn xe đạp anh đi bộ vào Chợ Quán. Nhưng phải đi làm sao cho đỡ mệt, đầu tiên anh đi bộ đến nhà Tấn, hy vọng có tiền uống nước mía. Tấn đi vắng, anh nhìn con đường dài rồi trẩy bộ. Đến nơi Bằng lại lỡ hẹn với anh, mặc dầu cuốn sách in được mấy chục trang. Mỏi mắt đợi, ông quản lý của nhà xuất bản thương hại bảo:
"Tôi chưa thấy ai chịu khó hơn anh!"
Mười lần đến nhà xuất bản là mười lần không gặp. Đừng buồn, cố rán thì sau này sẽ nổi tiếng, đỡ cực hơn!
Ông ta đưa cho Nguyên mười đồng, biết rằng Nguyên hết nhẵn tiền. Trở lại nhà bạn, mong đúng bữa, với bát cơm nóng ấm bụng vào buổi chiều. Nguyên nghĩ đến mùi thơm phức của cơm bốc lên, quả là khoan khoái, thèm muốn. Nguyên nhịn đói là thường. Nhiều buổi hết tiền, anh nằm ngủ hay cựa mình để nhớ đến mùi thơm xưa kia, ở tửu quán xa hoa. Ngày ở xóm Chùa, Nguyên đã không chỉ nhờ những bà hàng xôi cho chịu mỗi sáng, mà còn nhờ bà bánh chưng buổi chiều. Lỡ hôm nào, họ đau ốm hay không qua đây, Nguyên chờ đói…
(Nửa đường đi xuống, trang 308)
Cứ như thế, nhà văn kéo dài cuộc sống trong khốn quẫn triền miên hỏi làm sao không căm giận cuộc đời? Tác phẩm bán đắt, bán rẻ quanh quẩn tiêu cũng hết, trong khi đó, vẫn phải ăn, phải thuê nhà, phải tiêu một vạn thứ linh tinh, làm gì còn tinh thần mà ca tụng cuộc sống.
Trích Nhật ký của Nguyên, tháng 1 đến 12-1957:
… Lại hết tiền rồi. Bắt đầu chịu tiền cơm. Chưa biết ngày mai phiêu diêu rồi định đoạt cuộc sống ra sao?...
Chị chủ nhà giục tiền quá. Ba tháng rồi. Xuống nhà bạn xoay tiền không ra. Anh ta đưa mình lên quán Văn Sửu, định giao cho mình trông nom một loại sách văn nghệ, in nửa tháng một kỳ. Cuốn đầu tiên là của mình. Rồi công việc không đi đến đâu, lại ngưng. Trong khi ấy nợ chủ quán hai nghìn...
Thằng Vân đưa về nhà nó, nuôi mình gần một tháng viết tiếp cuốn sách. Và sửa soạn ra thăm bà cô để vay tiền trả nợ. Văn xem bói bài Tây cho mình, bảo chuyến đi xa có tiền. Mình chẳng tin bao giờ, sao lần này mình lại hy vọng có tiền như quẻ dặn là ở bà cô chăng? Nhân tiện ra thăm anh bạn văn nghệ gửi thư cho mình, ngày phát hành một cuốn sách nhỏ. Anh ta mời nhà văn ra chơi ăn bí-tết, vì trong thư anh viết theo giọng châm biếm: ngày xưa Vũ Trọng Phụng khi chết, than không có bí-tết. Tôi rất kính trọng và xin nói thật vậy. Lời của anh ở cuối thư.
Người bạn văn nghệ quý tài Nguyên mời ra ăn bí-tết, ai ngờ lại bị Nguyên lấy mất số tiền mười ngàn đồng do nhà triệu phú Trần Hoài dành dụm. Sau, trong cuốn Thế Phong, tác phẩm và cuộc đời, tác giả có viết lại lần nữa việc này.
Ăn cắp, hai chữ đó xấu lắm, một người biết tự trọng và có chút lương tâm, dù đói khổ cách mấy cũng không làm. Thế Phong đã làm vì quá túng thiếu, nợ nần, nào tiền nhà, tiền cơm, tiền cà phê, thuốc lá quá nhiều, đến nỗi người chồng nghi vợ có tình với Nguyên nên không đòi. Nguyên cần phải sống để viết, để hoàn thành dự ước: trở thành nhà văn nổi tiếng. Việc làm bất chính nay đã giải thoát cho Nguyên một thời gian ngắn trong vấn đề sống, nhưng những dằn vặt, lo sợ tù tội vẫn hằng đêm lởn vởn trong tâm trí và làm khổ Nguyên không ít.
Những người xung quanh đối với Nguyên không hoàn toàn xấu cả, còn có chị Năm Hưởng vẫn thỉnh thoảng phần cho Nguyên những thức ăn như xôi chè hoặc quả chuối. Chị Năm Hưởng, số phần lận đận qua mấy cầu chồng con. Những ý nghĩ đen tối về xác thịt bắt đầu nhen nhúm để đốt cháy lương tri Nguyên trong thèm khát dục tình. Nguyên thức khuya viết, những dòng chữ nào xuống mặt giấy vì đuôi con mắt và nụ cười của chị Năm như mời mọc ân ái. Chính vì muốn xâm chiếm chị Năm, Nguyên đã để ý cách thức mở cửa sao cho êm và chui vào mùng chị bằng cách nào? Đêm khuya, chờ cho anh chị chủ nhà ngũ kỹ, Nguyên thi hành dự định.
Mọi việc được giải quyết một cách suông sẻ. Sáng hôm sau, hàng xóm nghe tiếng chị Năm Hưởng nói như phân bua với chị Hai Nụ, chủ nhà Nguyên: Con mẹ ngủ nhờ đêm qua lười như hủi, ai lại giận chồng con mà nằm lì ở nhà mình. Nguyên cười trong chăn. Nhưng rồi, khốn khổ thay người đàn bà ấy, một mầm sống đã hình thành trong bụng, để rồi sau này, khi sinh nở, chỉ nhận được một hộp Hépatrol, thuốc bổ máu, giá hơn trăm bạc!
Thế Phong đã gieo vào cuộc đời vài mầm sống với dăm người đàn bà gặp gỡ trong các hoàn cảnh đặc biệt. Những đứa trẻ không may này, nếu trời để làm người lớn lên, không biết chúng có đọc lời nhắn trong cuốn sách để tìm thấy bố? Chúng sẽ nghĩ gì về trường hợp khốn nạn, ở đó, chúng góp mặt! Nguyên không hoàn toàn bất nhẫn đối với đàn bà cả đâu, Nguyên đã dám từ chối tình yêu cô Năm, người đàn bà cùng xóm gửi tặng. Cô Năm cũng lỡ dở đường chồng con, chỉ vì nghĩ đến chị Năm Hưởng với cái bào thai, đã mấy lần dùng thuốc phá không được, hối hận và hối hận!…
Đời sống cứ thắt dần từng nút, từng nút như sợi dây oan nghiệt đang xiết từ từ vào cuống họng kẻ chán đời. Nguyên đã cố gắng đến cùng, vẫn không giải quyết được vấn đề cơm áo. Cuốn sổ ghi nợ cứ chồng chất những con số nặng nề làm Nguyên muốn gục xuống. Một chiều, chị Hai Nụ nói: "Cậu Nguyên, chiều hôm nay, không thể nào nấu cơm cho cậu ăn nữa. Chị đưa tay lên lau mắt. Anh Hai tôi nói thế này, có khổ tôi không? Bảo tôi với cậu có tình ý với nhau, tôi sợ không đòi cậu!…"
(Nửa đường đi xuống, trang 349)
Qua phần IV của Nửa đường đi xuống (quyển truyện thứ tư), Nguyên đành rời bỏ Sài Gòn đi Rạch Giá để kiếm sống bằng nghề dạy học. Cũng chẳng được bao lâu, lại trở cánh quay về thành phố, như con thiêu thân không xa rời được ánh sáng. Những kỷ niệm đau đớn hay oán hận đều được nhắc nhở minh bạch, kể cả chuyện bị bệnh phong tình do cô gái làng chơi gửi tặng. Nhiều người cho rằng Thế Phong "cynique", nhưng đó là bản chất của Thế Phong, nhà văn không nguỵ tạo, nếu khác thế, chẳng còn Thế Phong hôm nay.
Những ngày vô định tiếp nối kéo lê trong phiêu bạt, tối nằm ngủ sợ ngày mai chóng sáng, phải nhìn thấy thực chất cuộc đời với những khuôn mặt chủ nợ.
Nguyên bứt đi khỏi xóm Chùa bằng cách bỏ trốn, để lại tất cả sách vở và đồ nhật dụng. Các tập bản thảo đã được lén lút mang dần ra khỏi nhà từ mấy bữa trước. Một cuộc sống tay ba: Tô, Thảo, Nguyên: những người trai bị đời hất hủi, được tổ chức trong một khuôn khổ không mấy khích lệ, vì luôn luôn họ bị ám ảnh, bị mặc cảm qua ý kiến của Tô:
"Mày bảo tao không chán chường sao được. Khi tuổi thanh niên của bọn mình đã chết một cách bất đắc dĩ. Chỉ còn sa ngã vào tình yêu, dù truỵ lạc, dù chà đạp lên luân lý!…"
(Nửa đường đi xuống, trang 373)
Vì vững tin như vậy, nên họ tạo một lối sống riêng và Nguyên có leo qua vách để làm tình với mụ me Tây về già trong đêm nào đó, cũng là chuyện thường. Khổ thay, người đàn bà đã lọc lõi ở đời về đường tình ái, vẫn bị thằng con trai đáng tuổi em út mình lừa dối!
Trong hoàn cảnh khốn khó như thế, những người ở xa Nguyên, không nhìn thấy sự thực, nên vẫn mơ mộng trong từng cánh thư gửi từ Hương Cảng. Nói rằng yêu, chưa đúng vì chẳng có lời yêu đương nào được ghi nhận, nói không yêu cũng sai, vì nội dung lá thư có hàm chứa những ý tình. Thế Phong đã viết rõ chuyện này trong cuốn tự truyện: Thế Phong, tác phẩm và cuộc đời (Đại Ngã tái bản, 1970) với những ray rứt, đứt nuối ở mỗi dòng, mỗi chữ.
Trong suốt phần IV của tác phẩm, dành để nói về mối tình trên với vài hình bóng con gái khác cùng những dang dở.
Phần V, cũng là phần chót của Nửa đường đi xuống, được viết với tâm trạng vô cùng bi đát. Tình yêu cũng chỉ là hư ảnh. Nghệ thuật còn xa vòi vọi, chân trời vẫn nặng trĩu mây mù. Cuộc sống nối tiếp trong thiếu thốn trường kỳ. Với tình yêu, không phải bao giờ Nguyên cũng là kẻ chiến thắng, dù rằng, có người con gái đã viết cho nhà văn, những dòng chữ đằm thắm, chân tình:
"Ông Nguyên ơi! Ông phải nhớ rằng, giả thử xã hội này tất cả đều ruồng bỏ ông, ông hãy tự hào sung sướng có một người bao giờ cũng tìm ông…
(Nửa đường đi xuống, trang 490)
Nhưng đau thay, cũng có giọng khinh bạc đến với Nguyên, qua câu chuyện được thuật lại cùng trong thư đó:
"…
"Thưa cô, tôi trông cô quen lắm".
"Thưa cô, có phải cô là cô Lam không ạ?
"Thưa cô, cô có nhận được báo của tôi gửi tặng chưa ạ?"
"Thưa cô, cô còn nhớ tôi không?"
"Thưa ông, tôi không còn nhớ ông là ai, tôi có quen một anh quét đường cùng ở xóm Chùa với tôi, mỗi lần tôi đi học về anh ta hay đón. Nhưng lâu nay, tôi không gặp nữa, vì xóm Chùa không còn rác nên anh ta thất nghiệp…"
(Nửa đường đi xuống, trang 491)
Hình ảnh những cái rủi luôn luôn chờ đợi, rình rập xung quanh Nguyên, đợi dịp thuận tiện xông ra đẩy Nguyên xuống bùn đen. Đã không tiền, không nơi ở, lại còn gặp nhiều điều không như ý, nên có lời nào viết về bạn hữu – trừ một vài người vì quá tốt hay may mắn – đều bị tác giả ném vào mặt những lời sỗ sàng, tàn bạo. Mỗi khuôn mặt trong trang sách đều mang theo vì vết chém của Nguyên. Nào thi sĩ Đạm, nào T.T. Hoàng, v.v. trong đoạn kết của cuốn sách với những cái tát cuối cùng và những lời sỉ nhục quá đáng! Thế Phong đã dùng hết sức mình để công phá lần chót, trả thù đời! Khi viết lại thân phận qua những gian truân, oán hận, Thế Phong không dằn được cái "váng nổi của ý thức" khi còn trẻ nên đã nói hết, viết hết những gì chứa chấp trong tâm tư, mặc kệ hậu quả. Câu mà thi sĩ Đạm nói ra: "Tất cả đều sợ anh" trong buổi tối Nguyên đánh Hoàng vì đã nói xấu mình khi vắng mặt, là như thế đó!
Cuốn sách tạm ngưng với vài lời cám ơn bạn bề, dù tốt dù phản phúc, nhưng họ đã cho nhà văn cái vốn sống để hoàn thành sự nghiệp.
Thế Phong luôn luôn khát vọng và mơ ước mình sẽ trở thành một Maxime Gorki Việt Nam [Maxime Gorki (1968-1936), sinh tại Nijni-Novgorod, một thành phố nằm ở ngã ba sông Volga và Oka. Thành phố có bến tàu lớn, cũng là trung tâm kỹ nghệ thép, xe hơi và cơ xưởng lọc dầu. Những tác phẩm nổi tiếng hoàn cầu như Tuổi thơ ấu của tôi (Ma vie d’enfant), Những kẻ lang thang (Les vagabonds), Người mẹ (La mère), v.v. đều được phiên dịch ra nhiều thứ tiếng và nhà nước miền Bắc cũng đã dịch ra Việt ngữ]. Thân thế và cuộc đời của Gorki cũng đã gánh chịu vô vàn tủi nhục, hận thù giai cấp tư bản, phong kiến, nên ông dấn thân vào Cách mạng Vô sản, dùng văn chương để trình bày cái xấu xa của xã hội thoái hoá, bóc lột, đề cao những tấm lòng vàng trong manh áo rách. Gorki đã khích động căm thù và dương danh vai trò vô sản trong mọi tác phẩm. Ông cũng đóng góp rất nhiều cho cuộc Cách mạng Nga tháng 10-1917. Do đó, ông được Nhà nước Liên Xô tôn xưng là đại anh hùng văn nghệ vô sản. Hoàn cảnh Việt Nam khác, dĩ nhiên, ước mơ lại càng khác nữa!
Thế Phong, tác phẩm và cuộc đời là sự nối tiếp những trang đời của tác giả. Ở Nửa đường đi xuống, Thế Phong còn nguỵ tạo danh tính các nhân vật được đề cập tới, nhưng ở cuốn Thế Phong, tác phẩm và cuộc đời, nhà văn đã cho người đọc biết tên thật của mỗi vai trò. Có nhiều chuyện được nhắc lại trong Nửa đường đi xuống với nhiều chi tiết hơn, những chi tiết nhức nhối làm chết sững lòng người.
Người con gái làm thơ: Cao Mỵ Nhân, đã cho Thế Phong nguồn đam mê tình ái và làm khổ nhà văn không ít trong suy nghĩ. Cuộc tình đằng đẵng, có lẽ sâu đậm nhất, sau mối tình vô vọng với nữ sĩ Linh Bảo. Tất cả nguồn cảm hứng sáng tạo trong thời gian này dành cho Cao Mỵ Nhân. Cuộc sống của Thế Phong vẫn chưa tìm thấy chân trời. Nhà xuất bản Đại Nam Văn Hiến in ronéo, lấy số kiểm duyệt mà vẫn ra đời với nợ nần và thiếu thốn. Trong khi đó sách bán rất chạy dù in lèm nhèm vì kỹ thuật ấn loát kém.
Vừa lo sống, vừa lo công việc nghệ thuật, vừa lo yêu, lúc nào ngần ấy thứ cũng đeo đẳng vào số phận nhà văn để hành hạ. Anh em, người này đi, người khác đến, cả những khuôn mặt đàn bà cũng vậy, như nàng Oanh – người tình cũ, gặp lại ở một trường hợp đặc biệt. Oanh đã tự tử không chết, bỏ chồng. Oanh đòi làm lại cuộc đời với Thế Phong, trong khi đó tình yêu với Cao Mỵ Nhân đang nồng nàn. Nhưng Thế Phong vẫn cùng Oanh đi Vũng Tàu, rồi những trận tình làm Oanh mang bầu. Nhà văn trốn tránh trách nhiệm bằng cách đổi chỗ ở. Đến Tết gặp nhau, Thế Phong đã chán, xô nàng xuống đường!…
Thế Phong viết lại rất lạnh lùng, tàn nhẫn. Mỗi dữ kiện được nhắc tới bao giờ cũng gói ghém trọn vẹn hai chữ: thù hận, không phải với cá nhân mà với cuộc đời. Thế Phong mê mải làm việc, có thể ngồi cả tháng trước máy chữ, đánh bản thảo trên giấy sáp để in ronéo. Sự thực, trong dòng sống, Thế Phong cũng có một chuyện tình chua xót với một người đàn bà goá gặp gỡ giữa đường. Người con gái này đã có con gái lớn, và hết lòng chung thuỷ với người chết, nhưng đốm lửa nên duyên, để rồi ân hận đến khi nhắm mắt! Trong đêm vắng, Thế Phong muốn thử xem người đàn bà bốn mươi, đáng tuổi chị mình đó, thờ chồng đến mức nào? Nhưng hỡi ơi! Con người đâu phải thần thánh, làm sao chống nổi được với đam mê thân xác, bên cạnh một chàng trai khoẻ mạnh. Thế rồi sau đêm hoan lạc đó, bà ta ở luôn. Biết cần phải có chồng mới sống chung được, bà bảo tác giả đưa tiền mua cỗ bài tây, để bà hành nghề bói bài kiếm ăn. Thế Phong đi vay tiền cho bà. Từ đó ngày ngày bà kiếm tiền nuôi hai miệng ăn bằng cỗ bài. Nhưng một buổi, bà không quay về nữa, tác giả biết bà bị cảnh sát bắt vì một tội gì đó, nên đã xúc động sáng tác bài thơ Cửa mở đón em về:
… Nửa đêm anh ôm suốt vòng lưng tưởng tượng,
Đêm không đèn mở cửa đón em về…
(Sai biệt)
Rồi một tối, bà trở lại cho biết, bị giam ở khám Chí Hoà, báo tin mình đã mang thai, mang thai sau bao năm thờ chồng! Nhà văn sợ quá, chợt nghĩ đến chị Năm Hưởng với hộp Hépatrol, bèn tìm cách tháo chạy. Chạy bà goá chửa xong, nàng Oanh lại sinh nở. Tác giả muốn giúp Oanh có chút tiền nằm ổ, biết vay không được, lại ăn cắp của bạn cùng nhà đem cho Oanh ở bệnh viện Hùng Vương. Chuyện vỡ lỡ, Thế Phong lên đường tìm chỗ khác trú ngụ. Chuyện ăn cắp còn đến với người bạn tốt, thấy nhà văn không có chỗ ngủ, mời đến nhà mình. Nửa đêm, nhà văn móc túi quần, mở ví lấy hết tiền rồi chuồn sớm, cũng chỉ vì quá túng quẫn.
Tất cả tác phẩm in Ronéo trong những năm 60, 61, 62 và 63 đều có ý hướng chống chính quyền, nhất là tập Mây Hà Nội của Nhị Nhu, hay tập Vô cùng của Đào Minh Lượng. Rồi đến chuyện gây gổ với Nguyên Sa, Hoàng Trọng Miên, Mặc Đỗ, Đỗ Tấn, Nguyễn Văn Trung, Vũ Khắc Khoan, v.v. Thế Phong đã nói hết trong tác phẩm này (Thế Phong, tác phẩm và cuộc đời). Nhưng chưa hết, còn nhiều khuôn mặt nữa, toàn những khuôn mặt anh em và đôi ba người tuy không làm văn nghệ nhưng dùng văn nghệ để phục vụ cho mình như Phạm Xuân Thái, Lý Trung Dung – Chủ tịch Mặt trận Bảo vệ Tự do Văn hoá. Ngay cả khuôn mặt Nguyễn Đức Quỳnh thuộc nhóm Hàn Thuyên, Hà Nội, người chủ trương Đàm Trường Viễn Kiến mà Thế Phong đã nhiều lần tham dự cũng bị kết tội làm mật thám cho Pháp, trong cuốn Nhận diện vóc dáng Nguyễn Đức Quỳnh. Còn nhiều, nhiều nữa, cả đàn bà lẫn đàn ông, mỗi người được Thế Phong đeo cho chiếc thẻ bài với dòng chữ số!…Mối tình Cao Mỵ Nhân tuy cuối cùng cũng tan vỡ, nhưng có lẽ, mối tình đẹp nhất đời, nên Thế Phong đã làm nhiều thơ vì nàng. Để tỏ bày lập trường văn nghệ và cũng để kiên trì thái độ, Thế Phong viết:
… Những ngày có dấu chân của chàng kỵ mã văn nghệ là tôi đây, quang cảnh miền Nam đã thay đổi. Tôi như là mũi tên không tha thứ một tên nào, dù có quyền hành móc sau đời sống văn nghệ, tôi cũng lao những mũi tên tẩm thuốc độc cảnh cáo hoặc khử trừ. Những tên làm xấu văn nghệ, đạo văn, mật vụ, chúng phải nghĩ tới đối tượng tôi, trước khi bắt tay vào việc. Có thể ghét bỏ tôi, nhưng chung quy phải nể và kính trọng tôi. Tôi đòi phải thừa nhận lỗi lầm, nhơ nhớp của họ, mới có căn để tránh và sửa chữa tội lỗi…
(Thế Phong, tác phẩm và cuộc đời, trang 199)
Những dòng trên, có chủ quan lắm không? Với tuổi trẻ cái gì cũng có thể đúng, ngay cả mặt trời kia, nếu nổ vỡ và nhiệt độ rớt xuống có làm cháy tan trái đất này, họ cũng coi như chuyện thường, vì họ không có gì để mất, ngoài tự ái! Nhưng rồi thời gian và tuổi đời chín dần, họ mới thấy, mới nhận biết, văn nghệ hay gì gì nữa cũng là thừa cả trước vũ trụ. Lão Tử đã nhìn rõ, nên mới cất lên hai chữ: Vô Vi.
Phải nhận rằng, Thế Phong rất yêu nghề, nguyện sống chết với nghiệp. Dù gặp bao nhiêu khốn khó, dù đói cơm rách áo, dù tình yêu tội lỗi quây chặt tâm hồn, dù đời có phụ rẫy, dù bạn bè tốt xấu, dù mình có hư đốn, nhưng không bao giờ Thế Phong xao lãng văn nghệ, thứ "văn nghệ đắng" không nuôi sống mình. Thế Phong viết ra những cái xấu của bản thân, của xã hội để ghi dấu khoảng đời, chuỗi thời gian góp mặt. Công việc nghĩ rằng dễ, nhưng thực khó.
Đã có lúc, nhà văn muốn tự huỷ đời sống của mình trong những ngày ở Tân Sa Châu vì quá tuyệt vọng! Nhưng với tuổi trẻ và được trời phú cho sức chịu đựng, Thế Phong đã vượt thoát, dù vượt thoát với ngàn vạn cay đắng, nhục nhằn!…
Ngoài hai tác phẩm tự-sự-kể: Nửa đường đi xuống, Thế Phong, tác phẩm và cuộc đời, được ghi nhận như những bài học đắt giá của đời sống văn nghệ, Thế Phong còn dùng văn chương để nói về đời sống tình cảm của một nữ văn sĩ nổi tiếng từ thời tiền chiến. Để tránh những khó khăn về kỹ thuật dựng nhân-vật-truyện, Thế Phong phải dùng lời nói đầu trong cuốn: Truyện của người tình phụ (1963) như sau:
Đây chỉ là một thể hiện cuộc đời qua tiểu thuyết mà xã hội cỏn con ấy không liên hệ gì, hoặc xa, gần với đời sống một cá nhân nào trong xã hội thực. Nói như thế, tác giả không trách nhiệm, biện giải, khi có ai muốn thể hiện tiểu thuyết này là có sự liên hệ đến họ.
Câu trên, thực tình, viết ra để có viết mà chẳng viết gì cả. Câu chuyện tình của người đàn bà có chút học vấn, vì gia đình hay duyên nợ (?) phải lấy anh chồng nhà quê không ưng ý, gặp người đàn ông hơn thế, mê liền, bỏ chồng đi theo, để rồi lại mê nữa, người thứ ba, thứ tư… Sự mê đắm một phần do nhục thể, một phần vì những hào quang sự nghiệp văn hoá và chính trị do người đàn ông toả ra. Cái tâm trạng đứng núi này trông núi nọ, rốt cuộc, ngọn núi nào lúc đến gần cũng ngần ấy thứ xấu xa, ghê tởm làm cả cuộc đời tan nát trong đam mê, ước vọng! Toàn bộ cuốn truyện không mấy xuất sắc, vì tình tiết cũng như cốt truyện không nằm ở môi trường chung của mọi thành phần xã hội, nó là ngoại lệ, nên chỉ có thể gây xúc động ở một vài tâm sự đồng cảnh ngộ nào đó. Hơn nữa, các sự kiện nói tới, được tiểu-thuyết-hoá quá độ trở thành giả tạo. Nghệ thuật một khi giả tạo, khó gây ảnh hưởng sâu đậm trong lòng người đọc.
Thế Phong, nhà văn có khuynh hướng xã hội. Những cảnh sống khốn cùng của một lớp người chỉ trông vào "đồ thừa" của quân đội Mỹ thải ra, cũng đủ nuôi sống một cách phong lưu cả gia đình. Những thân phận con người ngoại ô. Những thảm trạng xã hội, ở đấy, chỉ vì chút lợi lộc, con người có thể căm thù nhau mãn kiếp, có thể hy sinh luôn danh dự cũng như thể xác để đánh đổi lấy quyền lợi, dù quyền lợi nằm trong đống rác nhơ bẩn, thối tha. Truyện Khu rác ngoại thành được viết bằng nước mắt, bằng nỗi nghẹn ngào, trong mỗi trạng huống được đề cập tới. Phải xác nhận, từ ngày có sự hiện diện của quân đội Mỹ ở Việt Nam, sinh hoạt của thành phố đã thay đổi theo mức độ đáng ngại. Các "bar" mọc lên tua tủa và ổ mãi dâm lan tràn trong mọi ngõ ngách, ngay cả trung tâm thành phố. Giá sinh hoạt tăng vùn vụt, do đó, muốn sống còn, bắt buộc mỗi cá nhân, mỗi gia đình phải kiếm thêm bằng mọi cách. Truyện Khu rác ngoại thành với đống rác cao như núi, với những ti tiện, bỉ ổi trong vấn đề giành mối lợi, cái mối lợi do quân đội Mỹ vứt đi được viết ra với những tình tiết vô cùng cảm động. Hình ảnh người lính không quân tên Tiết với những anh "di-ai" Mỹ và vợ Tiết, gái điếm hoàn lương cùng nhiều vóc dáng khác quay tròn xung quanh đồng tiền làm người đọc chóng mặt:
… Tôi nhớ lại, những buổi tối mấy người Mỹ đến nhà Tiết chơi. Mỗi lần nhìn thấy taxi đậu trước cửa, vợ Tiết sai thằng con đem tiền ra trả, cho rằng cử chỉ đó là một thái độ chiều chuộng. Sau đó chị thường đem chuyện người Mỹ đến nhà chị chơi ra sao kể lại với hàng xóm, coi như đó là một vinh dự và lên mặt với mọi người. Năm gian nhà khu chúng tôi không rào giậu gì, bếp nước chung nhau một gian phụ nằm dài sau dãy nhà chính. Giấy má, rác rưởi vứt lung tung. Một buổi tối đun nước, vơ giấy nhóm bếp, thấy có bản nháp một lá thư viết bằng tiếng Anh. Tò mò tôi đọc. Nội dung lá thư đại khái như thế này: Bạn không phải mua quà tặng vợ tôi làm gì. Tôi chỉ muốn phiền bạn mua giúp tôi 50 tút Pall Mall, Lucky, Salem và 20 hộp thuốc píp 79. Noel năm nay tôi sẽ dẫn bạn tới một chỗ tuyệt thú. Con gái Việt Nam đẹp lắm!
Tối nay chở bạn ở nhà tôi.
Thân kính
Tiết
(Khu rác ngoại thành, trang 20)
Tiết tuy làm lính nhưng ăn mặc "luých" như một thứ công tử miền Nam giàu gốc. Trong nhà có đủ thứ sang trọng của một gia đình sung túc, nào nho, cam, đào hộp, thịt bò, bánh, kem, kẹo, cà phê, chocolate, xà bông bột, v.v. Nhưng vì miếng ăn, cái "đống rác" ấy lục đục với nhau:
… Xe ngoại kiều càng ngày càng đổ nhiều vỏ đạn rốc-kết, những thùng đạn đôi khi còn nguyên. Bọn Tàu đi mua đạn để lấy đồng với giá rẻ mạt. Bác Chánh bắt đầu làm đơn khiếu nại nhưng không cho tôi biết, khác hẳn với mọi lần, mỗi khi làm việc gì bác cũng thăm dò ý kiến tôi trước. Chủ căn nhà A (tức bác Chánh) khiếu nại rằng, đổ rác làm mất vệ sinh. Tôi chắc Trần có đóng góp vào việc thảo lá đơn này. Trong khi đó, ở một mặt khác, tôi được biết Trần cũng làm đơn tố cáo với Toà Đại Sứ, cơ quan quân sự Mỹ về việc xe ngoại kiều đi đổ rác được Tiết ve vãn, cho tiền, dẫn gái, nên đem đi đổ toàn những đồ nhà binh còn dùng được.
Tôi thấy không cần phải đóng góp thêm một ý kiến nào.
(Khu rác ngoại thành, trang 26)
Rồi cũng quanh đống rác, người ta chửi nhau, đánh nhau, thưa kiện để giết chết nguồn sống của nhau. Tiết đã bị quân cảnh bắt giữ vì dính líu vào vụ rác Mỹ. Trong khi Tiết bị hoạn nạn, ở nhà vợ Tiết lao đầu vào tội lỗi:
… Bây giờ không phải là mùa xuân nữa, mặc dầu chưa hết tháng Hai âm lịch. Thằng bé càng hát lớn, con bé càng khóc to hơn. Rồi thằng bé lại hát bài quốc ca để ru cháu nữa. Nhịp đi hùng mạnh của đoàn quân hình như đã không thể làm cho đứa bé hài lòng. Gần sáng mẹ nó mới trở về. Xóm lao động ở bìa rừng cao su, anh Bẩy loan tin về chuyện thực xảy ra đêm qua trong rừng "ái ân":
"Vợ thằng Tiết đêm qua cặp kè với ngoại kiều suốt sáng ở chiếc mả cũ trong rừng. Đ.m. thằng chồng mới bị bắt có ít bữa mà làm vậy rồi. Đồ chó điếm mà, bọn bay! Con đó trước làm điếm ở xóm Lăng, gái chơi bời mà!"
(Khu rác ngoại thành, trang 36)
Vợ Tiết, người đàn bà lai Tàu đã dày dạn tình đời, bướng bỉnh thừa nhận:
"… Đ.m. tụi bay. Tao không có tiền, tao nghèo, tao "đi" cho Mỹ. Bọn bay thối miệng học làm chi đây. Đ.m. tụi bay, chồng tao bị bắt tụi bay sướng ghê!"
Đời sống cứ tiếp tục chiều quay của nó. Những vui buồn cũng trở thành tầm thường như mưa nắng. Tác giả vẫn phải nhìn ngần ấy sự việc trong khuôn khổ đống rác và sự tàn nhẫn của chính mình khi không thích con chó khôn ngoan, yêu quý, đi lang thang kiếm ăn, tìm đực. Con vật bé mọn, bị quất một cây gậy lớn đến truỵ thai. Từ đó, nó ốm đau lê lết. Tác giả muốn mua thuốc cho nó mà không tiền vì thân mình còn phải ăn nhờ bác Chánh nên đã bi phẫn than rằng: Đời sống khốn nạn này không cho phép tôi làm để tự kiếm đủ miếng sống cho chính bản thân và một con chó! …
Trong tầng trời hoàn cảnh và trường hợp nào, hễ Thế Phong dấn thân vào đều bị bao phủ bởi những oán thù, bất mãn. Oán thù những luật lệ xã hội và bất mãn với thân phận làm người.
Tập truyện Khu rác ngoại thành gồm 3 truyện ngắn, mỗi truyện đều khuấy động tự đáy tâm tư những dằn vặt, đau đớn chẳng phải cho bản thân tác giả mà còn cho xã hội. Từ khuôn mặt Thu, người đàn bà xứ Huế, vợ bạn, đã nhiều đêm nhà văn muốn mở cửa ngang lẻn sang buồng nàng để tỏ tình, trong lúc người chồng đi làm xa, đến người đàn bà xứ Quảng lặn lội vào Sài Gòn tìm việc làm tôi tớ, việc không tìm được, lại tìm đúng anh thanh niên lãng tử, để Một đêm dài tình ái xảy ra. Người đàn bà xứ Quảng cũng thuộc nòi tình, nên "điều ấy" được nói ra một cách bình thản: "Có thiệt chi đâu anh, tôi và anh đều buồn về cuộc đời cả mà. Ngủ với nhau nói chuyện cho vui. Nhất là đêm nay trời lại mưa lâm râm…" Câu nói như đưa Thế Phong vào khung trời ước muốn, như kẻ đang đi giữa sa mạc gặp hố nước, gục đầu uống no nê. Tuy cái hố nước ấy đã có người uống trước, nhưng đấy không phải điều hệ trọng, cái hệ trọng là người đàn bà đã biết rõ cuộc tình này chỉ là chuyện tạm bợ, nên vui vẻ chia tay, chỉ xin được địa chỉ thật, để có mang thai, sinh con trai sẽ báo tin chung sống lâu dài, nếu hoàn cảnh cho phép.
Trong những câu chuyện nhà văn kể ra, viết ra, đều ẩn nấp trong dó những ý nghĩ chống đối, những chua chát não nề dù đã được nguỵ trang bằng đam mê nhục dục. Những chữ, những câu dùng để tự sỉ vả, buồn thay, nó lại là những lời nguyền rủa một xã hội, một chế độ, một thế hệ vì những thứ ấy đã tạo cho tác giả trở nên như thế, trở thành như thế!
Thế Phong viết rất nhiều truyện ngắn. Mỗi truyện trình bày một nhức mỏi về cuộc đời, dù ân tình hay thất vọng. Từng vết roi do cuộc đời quất vào mặt, Thế Phong nghiến răng chịu đựng rồi trả thù bằng ngôn ngữ. Nhà văn không tạo ra cuộc sống hoặc dùng cuộc sống như điểm tựa, nhưng đích thực, Thế Phong đã ném vào cuộc sống những vốc bùn vì cuộc sống, đối với nhà văn như một địa ngục. Đi suốt cả một đời thanh niên, tìm không thấy lý tưởng, Thế Phong uất hận viết thành thơ:
… Chợt nhớ rằng tổ quốc tôi đang lầm than nên trời Sài Gòn quanh năm không cần áo ấm, kiếm miếng sống đợi chờ trong đống rác ngoại nhân. Tôi đứng bên tiềm thức Ngã Tư Bảy Hiền, thấy trẻ con lớn lên bằng những miếng bánh mì còn sót và quà đứa anh tặng em, miếng sô-cô-la lượm…
(Thế Phong, tác phẩm và cuộc đời, trang 360)
Bị ám ảnh, vây hãm quá lâu trong túng thiếu, căm phẫn nên mỗi dòng, dù thơ hay văn cũng gói ghém trọn vẹn những đối kháng tự thâm tâm của một con người đã có quá khứ.
Tác phẩm của Thế Phong còn được dịch sang Anh ngữ, phổ biến ở ngoại quốc và đăng tải trong tờ Tenggara (Mã Lai) như: Viet Nam Under Fire and Flames (Việt Nam trong khói lửa, thơ); South Viet Nam, The Baby in the Arms of the Américan Nurse (Miền Nam, đứa nhỏ trong tay cô y tá Mỹ, thơ); Thế Phong by Thế Phong (tự sự kể), Asian Morning Western Music (Sáng, Á Đông, Nhạc Tây phương, thơ), với lời tựa của Giáo sư Llyood Fernando.
Phải chăng, Thế Phong đã mang hình ảnh một Don Quichotte, chàng hiệp sĩ lang thang có gương mặt trầm buồn, đánh nhau điên cuồng với những chiếc cối xay gió trên khắp nẻo đường phiêu bạt, nhân vật điển hình trong Don Quichotte de la Manche, cuốn tiểu thuyết triết lý và châm biếm bất hủ của đại văn hào Tây Ban Nha, Miguel de Cervantès (1547-1614). Nhưng tiếc thay, không có Sancho Panca tượng trưng cho ý thức, hiện diện ở đằng sau hay bên cạnh.
Trích văn Thế Phong
… Tiếng sóng biển đưa vào bờ, chim kêu từ phía sau đồi dội lại. Đường tối của rừng nhìn ra, trước tầm mắt là biển, phía sau là đồi núi.
Nằm trong một quán nhỏ bên lề đường Nước Ngọt, dưới ánh lửa lại hoà hợp với ánh đèn le lói, anh nằm thả khói nghĩ đến chuyện tình của Diệu. Nguyên nhận thấy nàng tinh tế vô cùng. Những tấm ảnh gửi cho anh đều không có chữ. Cho đến tấm thứ ba, mở đầu bằng dăm ba chữ: cô áo đen tặng anh Nguyên. Chẳng là như trong thư gửi trước, nàng hứa chụp một bức ảnh mặc quốc phục. Và tấm ảnh ấy, nàng chụp với một người đàn bà nữa.
Nguyên cười một mình như thoả mãn với ý nghĩ của mình vừa qua.
"Em mới ở Sài Gòn ra hở, ủa, em lại qua Vũng Tàu rồi mới tới đây? Cảm ơn em đã đem rượu ra cho lão".
Ông già rót rượu đưa lên nốc, con mèo quanh quẩn lấy chân. Màu đen xẫm nắng bao trùm lấy thân lão. Nguyên bỗng nảy ra ý kiến so sánh với cuộc sống người nguyên thuỷ. Chiếc quần đùi dài quá đầu gối, chiến lợi phẩm của quân đội Pháp trao làm kỷ niệm. Chiếc dây thừng thay chiếc thắt lưng. Nguyên nhớ đến ông già kể cho nghe rằng, lão vào Nam hơn hai mươi năm trời, làm bồi cho chính phủ Pháp, chính phủ Nhật, chính phủ Tây Thuộc, và bây giờ người ta gọi lão nấu bếp cho mấy sĩ quan Hoa Kỳ ra nghỉ mát ở Long Hải. Chẳng là lão nổi tiếng nấu bếp khéo nhất vùng này. Lão bảo với anh là lão từ chối. Lão tự cho rằng đời lão đã làm bồi lâu lắm rồi. Giàu có cũng chẳng còn đến với tuổi này, xây dựng lâu đài trên mặt cát cũng bị sóng thuỷ triều đạp đổ. Tham vọng càng nhiều càng chuốc thêm sầu não. Ăn uống càng say thì càng luỵ đến chiếc dạ dày! Từ giã cả đứa con trai duy nhất có danh chức trong làng, chỉ một ý thích, lão không muốn nhờ vả ai. Lão muốn sống cô độc với nghề bốc thuốc Nam và gánh củi ra phố bán vào buổi sáng. Cho đến khi chiều tà, chim bay về núi, lão quẩy cút rượu tòng teng trên vai về mạn Nước Ngọt, lách mình vào quán hẹp độc ẩm. Con mèo dưới mương ngóc đầu lên đón chủ. Nhà lão không khoá bao giờ, cho nên Nguyên đến đây đốt lửa, ung dung ngồi đợi lão.
Lão chỉ còn con mèo. Con mèo là bạn đường của lão. Nguyên quen lão vì lần trước qua Nước Ngọt, vào xin lão hớp nước. Thấy con mèo, Nguyên ôm lấy ve vuốt. Con mèo theo Nguyên dễ dàng. Cho nên giờ đây, con mèo vòng quanh chân Nguyên, chân lão, mũi mèo thương cảm chủ bằng cách thở hơi phừn phựt, chiếc đuôi cong lên, an ủi tuổi già sáu mươi của lão. Chẳng ai biết tên thật lão là gì? Cho đến cả quá vãng của lão. Người ta gọi lão là lão Hai.
Lão Hai quý Nguyên, vì lão thấy con mèo quý anh. Lão thường tin bạn loài vật để xem người. Lão tin là Nguyên tốt, vì có thế loài vật mới chóng làm quen. Lão hỏi Nguyên về cuộc đời. Tại sao Nguyên ra đây lại đến thăm lão, vì lão hiểu anh có nhà quen, nhưng cứ đến ngủ với lão. Vậy thì anh hãy kể cho lão nghe. Lão Hai im lặng, bùi ngùi. Nhưng Nguyên không tỏ thái độ về cuộc sống gần nhất của anh cho lão biết, hay nói khác đi, đoạn đường đang đi bước xuống của mình. Có những bữa cơm ngon lành ở nhà bà cô, Nguyên lại lo cho những bữa khác. Với Tô và Thảo ở xóm Đoàn Thị Điểm. Nguyên quên làm sao được những bữa cơm bốn đồng ở quán lao động đường Bà Huyện Thanh Quan. Nguyên được chứng kiến câu chuyện của người lao động. Một anh lao động trước kia là quân nhân, hình như anh ta mắc bệnh lao, cho nên mỗi lần anh ra quán, cô chủ lại xua đuổi như ruồi. Anh chỉ tay vào thân mình Nguyên:
"Ngày xưa tôi cũng khoẻ như anh. Sau mấy năm dài kháng chiến, rồi đầu hàng Pháp, đi lính cho ông Tâm, Hữu, bây giờ mãn lính ra, chuốc vào mình bệnh lao!"
Anh ta ho. Anh ta bảo Nguyên còn tiền cho anh ta được xin ăn một quả chuối dessert thì sung sướng lắm! Bỗng anh ta đưa mắt nhìn những người lính trai tráng đang nô đùa ngoài công lộ với gái, anh cười chua chát, nói như không cần cho ai nghe:
"Chúng nó mới nghĩ có đi lên, mà chưa đến lúc nghĩ đến ngày tàn tạ như tôi bây giờ".
Tất cả… Nguyên đều không kể cho lão nghe. Cả đến những bộ quần áo mà Nguyên đang mặc là của em Hoài. Khi Phúc ở Hoa Kỳ về, anh đã lấy công khai, rồi đưa cho ông chủ thợ giặt Lý Thái Tổ sửa lại. Nguyên chưa bao giờ thấy ông chủ thợ giặt hiểu mình bằng:
"Nhà văn có lúc nghèo, lúc giàu. Nổi tiếng như Vũ Trọng Phụng cũng vậy, sở dĩ tôi biết là có ông Quý đây, bạn của nhà văn khi còn sinh thời".
Nguyên không kể cho lão nghe. Nguyên chỉ nói là mến lão và muốn an ủi cảnh già của lão. Thế thôi. Câu cuối, Nguyên đáp:
"Cháu không còn gia đình thân thích nữa lão ơi!"
Nguyên không nhớ gia đình nữa. Mười năm rồi còn gì! Biền biệt những cô đơn, chán ngán. Cả ngay đến cuộc đời anh khi còn mẹ, khi theo cha, khi ở nhà vắng cha, khi từ giã cha mẹ sang quê người. Cuộc đời của Nguyên phải chăng sinh ra là cô độc, rồi thân lập thân đối với đời. Và như thế chỉ còn có tình yêu và tình bạn. Nên những chiều đẹp nhất Sài Gòn là chiều ảm đạm của anh. Sài Gòn vào những ngày thứ Bảy, Chủ nhật, vui nườm nượp. Người nào kẻ ấy có đôi, có tình thương, dầu là giả tạo đi nữa. Dầu cuộc sống của họ là những thanh niên chưa vợ, họ cũng còn có cha mẹ, anh em, họ hàng họp nhau trong những bữa cơm gia đình để trò chuyện. Nguyên không tin rằng một số bạn bè của anh có gia đình và họ chán chường với gia đình. Nguyên thèm đổi lấy một chút đầm ấm ấy rồi sau này phải chuốc vào một công việc nặng nề, anh không ta thán một lời nhỏ.
Khi yêu Diệu, con người mà anh cho rằng trải qua nhiều mật đắng, qua phút hân hoan, đứng trên xấu và tốt, anh tin rằng họ sẽ đem lại cho anh lòng tin và an ủi. Nguyên hiểu Diệu là từ chối đấy, nhưng yêu đấy, điều cần thiết là Nguyên có tránh được mũi dùi dư luận không? Hơn nữa là phải có một công việc làm để bảo đảm hạnh phúc.
Bỗng lão khuyên anh nên lập gia đình cho có bầu có bạn, cho những phút tẻ nhạt của cuộc đời còn có người an ủi vỗ về. Lão bảo Nguyên, chiều chiều chim ở biển bay về núi, ít con không có đôi, dầu nếu không nữa, chúng có đàn bao bọc. Nguyên gật đầu tán thành, nhưng chỉ là làm vui lão. Nguyên trong tình trạng nghĩ về cuộc sống. Anh còn mất nhiều thì giờ để vượt đắng, của một hồi Maxime Gorki thân lập thân tạo một sức mạnh vũ bão. Nhưng Nguyên còn thiếu một Natacha, qua truyện một đêm thu khi gặp gỡ người đàn bà bị hắt hủi, rồi nàng đã ấp ủ cho bản thân ông một đêm. Qua một đêm truyền hơi lạnh cho nhau, để sau này ông tạo cho mình một lòng tin, sức mạnh vũ bão. Kẻ ân nhân kia, ngay sáng hôm sau và trọn cuộc đời ông tìm kiếm không bao giờ còn gặp mặt!
Nguyên và lão đang đi trên mặt bãi cát Nước Ngọt. Sóng ngoài khơi vẫn xô lấp vào bờ cao ngất. Anh đi tận mãi xa mong chờ gió lùa thật mạnh vào lồng ngực mình. Âm hưởng của một khoảng trời xa xôi đưa lại, đã qua bao nhiêu lớp lọc biển khơi. Rồi trên vầng trán thanh niên hằn lại những đường nếp nhăn của suy tư. Đời vẫn còn thiếu một Natacha, của một lần trong đời thôi, mà chưa có. Sóng gió ngoài khơi vẫn gầm thét quay cuồng như làm chuyển động cả một sự não nùng. Tiếng gió ru bất khuất. Nhưng làm sao có phương kế xoa dịu lòng mình như mặt biển sóng bằng!
Tác phẩm:
1. Truyện của người tình phụ, Đại Nam Văn Hiến tái bản, 1965
2. Khu rác ngoại thành, Trình Bày tái bản, 1966
3. Nửa đường đi xuống, Đời Mới tái bản, 1968
4. Thuỷ và T6, Đại Nam Văn Hiến tư bản, 1969
5. Nhà văn, tác phẩm và cuộc đời, Đại Ngã tái bản, 1970
6. Việt Nam Under Fire and Flames, thơ, Đại Nam Văn Hiến
7. South VN – The Baby in the Arms of the American Nurse, thơ, Đại Nam Văn Hiến
8. Thế Phong by Thế Phong, Tự sự kể, Đại Nam Văn Hiến
9. Asian Morning Western Music (With the Preface of Professor Lloyd Fernando), Đại Nam Văn Hiến, 1971
(và khoảng 30 tác phẩm Ronéotypé)
Đã cộng tác với: Đời Mới, Văn Nghệ Tập San, Văn Hoá Á Châu, Nguồn Sống Mới, Trình Bày, Tenggara (Mã Lai), v.v.
Chủ trương Nhà xuất bản Đại Nam Văn Hiến.
Thế Phong và cơn mê dục vọng
Le Moi est halssable
(Cái Tôi đáng ghét)
B. Pascal (1632-1662)
… Thuở nhỏ, Thế Phong rất oán giận bố vì hai chuyện, và cho rằng bố không thương mình bằng mẹ. Một lần bố sai đi mua thuốc phiện, đường xa, phải cưỡi ngựa băng qua dòng suối lớn đang mùa nước lũ, bị nước cuốn mất ngựa suýt chết. Khi về, bố chỉ hỏi thuốc phiện mà không hỏi đến sự nguy hiểm của mình. Một lần, muốn cho con học, ông đã nhốt con trên sàn gác, sai người cất thang, dưới chất đầy cành gai, khi nào học thuộc bài mới được xuống…
Trong khuôn khổ sinh hoạt văn nghệ miền Nam, Thế Phong nghênh ngang bước vào, mang theo giông gió làm đổ vỡ bao nhiêu thần tượng cùng với những hằn học, bất mãn trước xã hội.
Không giống các văn nhân khác, dùng trí năng soi tỏ con người đối chiếu với sự vật, từ đó, phóng hồn vào khung trời sáng tạo với đầy đủ quyền hành do nghệ thuật trao phó để hình thành tác phẩm. Thế Phong tìm riêng cho mình một tư thế sáng tạo bằng cách mang bản thân ra làm vật thí nghiệm và dùng người thân, bạn hữu, người tình, cuộc sống như những chất liệu để xây dựng Sơn Nam văn chương. Điều này làm buồn lòng nhiều người. Thế Phong đã bị dư luận anh em oán giận, người tình than trách và sự hiện diện của tác phẩm Thế Phong như những bản cáo trạng kết án tử hình thế hệ mình. Nhà văn biết rõ điều đó, nhưng mọi thứ trên đời, dù ân nghĩa, dù tình yêu, dù phản bội đối với Thế Phong cũng chỉ như những phương tiện thôi, cứu cánh là nghệ thuật. Vì tin tưởng thế, muốn như thế, nên những sự kiện được viết thành văn, nó nằm ở ngoài dự tưởng của lương tâm mỗi con người bình thường.
Trước bước đường tiến tới vinh quang, mỗi nghệ sĩ phải tuỳ tài, tuỳ trí để lựa chọn ngả nào thích hợp với khả năng, với ý hướng và cũng ít nguy hiểm nhất để tiến tới ước vọng, vì không một ai có thể đạt được danh vọng trong vài ngày, vài tháng. Nghệ thuật là một công trình, ở đấy, mỗi tài năng đều phải lần lượt kinh qua những cay đắng và gian khổ, để rồi cùng với thời gian mà trưởng thành hoặc tàn lụi đi như một tuyệt vọng vô danh.
Sự thực, cuộc đời Thế Phong đã trải qua quá nhiều cay đắng và hệ luỵ do hoàn cảnh đẩy tới với oán hận triền miên. Nhưng đáng lẽ những cay đắng đó chỉ được dùng cho riêng mình trong sáng tác, Thế Phong lại lôi kéo theo những số phận khác cùng gánh chịu để gây nên ngộ nhận. Nhà văn biết, nhưng bất cần, vì nghĩ rằng, bản chất đích danh của sự sống không nằm trong xã hội mà ở mỗi con người nghĩ về sự sống đó với những yếu tố cấu tạo nên nó. Thế Phong, một nhà văn đã dám nói thực, viết thực những gì mình nghĩ, dù cho sự nghĩ đó chỉ nhằm vào mục tiêu đã lựa chọn. Chính vì đã chọn lựa, nên Thế Phong chấp nhận cả tốt lẫn xấu để sử dụng nó với chiều hướng có lợi cho mình, cho văn nghiệp của mình là đủ. Trong nền văn chương thế giới, thiếu gì những tác giả viết về mình, về xã hội và thế hệ mình với những sự việc hiển nhiên vây chặt lấy mỗi số phận như Collette, Marcel Proust, v.v. nhưng các vị đó chỉ dùng những nhân vật chung quanh họ như bằng chứng điển hình cho một tầng lớp xã hội nào đó, chứ không chỉ đích danh, hơn nữa, các vai trò đã được văn-chương-hoá nên không làm phiền lòng người được nói đến. Độc giả cũng chỉ coi như xem cuốn tiểu thuyết với những tình tiết khúc mắc thuộc kỹ thuật dựng truyện mà không có mặc cảm đọc bản án kết tội.
Thế Phong không viết như vậy, nhà văn đi vào từng sự việc và thuật lại y nguyên từng sự việc, tuy ở đôi chỗ có thay tên đổi họ, hoặc nguỵ tạo bằng danh từ riêng, nhưng những người cùng sinh hoạt chung môi trường, đoán biết ngay nhân vật đó là ai. Bởi vậy, những người được nhắc đến trong tác phẩm của Thế Phong, phần lớn là vật hy sinh, hoặc biến thành những viên gạch lót đường cho người viết đi tới sự nghiệp. Chính vì nhìn rõ cương vị của mình trong cuộc sống, một cuộc sống khốn nạn, tù hãm, bị vây lút bởi hoàn cảnh bất lợi cho riêng mình, nên đi đâu, ở đâu, Thế Phong cũng tự gây nên những sự việc, dù thuộc đời sống hay tình cảm, không nằm trong kích thước cuộc sống thông thường.
Thế Phong, nhà văn bất mãn thường trực, bất mãn với mình, với người, với xã hội. Sinh ra đời trong bối cảnh thanh bình của miền Thượng du, suốt khoảng ấu thơ được nuông chiều trong tay mẹ hiền, cho đến khi vừa đỗ xong Tiểu học thì đất nước cũng bắt đầu rối loạn vì tình hình chính trị và quân sự. Nghĩa Lộ, quê mẹ của nhà văn, là căn cứ địa, là chiến khu của Việt Minh, như chiến khu Bắc Sơn thuở tiền khởi nghĩa. Mồng 9 tháng 3-1945 quân Pháp mất Đông Dương vào tay quân Nhật sau một đêm giao chiến, các toán quân Pháp đóng ở cao nguyên, một phần đã rút theo ngả Nghĩa Lộ qua biên giới Trung Hoa để chống Nhật. Việt Minh cũng chống Nhật nên các toán quân du kích hoạt động tích cực ở khu vực này cho đến ngày Pháp trở lại Việt Nam, và Nghĩa Lộ lại bị cai trị dưới sức mạnh của quân đội Pháp, mới ngày nào lếch thếch, quần áo tả tơi, ăn xin, chạy trốn đoàn quân của Thiên Hoàng. Người dân Nghĩa Lộ qua mấy lần thay đổi chế độ, tan nát cả sự nghiệp cũng như lòng tin tưởng và hy vọng!…
Tất cả những diễn tiến trên, được Thế Phong nói rõ trong phần đầu của tác phẩm tự thuật: Nửa đường đi xuống (ấn bản đầu in Ronéo, 1960, sách in năm 1968).
Nhân vật xưng Nguyên trong tác phẩm là tác giả. Thế Phong dùng danh từ đặc hữu này để thay ngôi thứ nhất. Nguyên, cậu bé có tình rất sớm, mới hơn 10 tuổi hễ trông thấy gái là mê, cái tật này làm khổ nhà văn suốt cuộc sống, còn làm luỵ bao nhiêu đàn bà, con gái nhẹ dạ! Hình ảnh, nào Hương, Trinh, Tiên, Nga, Hải ở lứa tuổi 12, 13, v.v. đều làm cậu bé mơ mộng, muốn chiếm đoạt. Thời gian qua mau, chinh chiến đã phá vỡ tất cả mơ mộng của tuổi thơ. Tây đi, Nhật đến, Việt Minh đánh, rồi Cách mạng tháng Tám bùng nổ trên mọi nẻo đường đất nước. Sự có mặt của đoàn quân Cách mạng tại Nghĩa Lộ với Hồng, Quân, Vũ và Trung đoàn trưởng Sắc.
Trung đoàn trưởng Sắc đóng đô ở nhà một goá phụ, sau này, khi rút lui để lại cho bà một đứa con. Anh Trung đoàn trưởng tuy đã có tuổi, sắc mặt lầm lì, nghiêm khắc nhưng vẫn không lột bỏ hết quá khứ tình dục bỏng cháy, vì Cộng sản cũng chỉ là người với tất cả thú tính của nó. Quân đội Cách mạng không giữ được Nghĩa Lộ lâu, đám tàn quân Pháp chạy qua Tàu bữa nọ, quay về với trận chiến ác liệt, buộc quân Cách mạng phải triệt thoái. Nguyên làm bí thư cho Sắc nhưng không rút cùng quân Cách mạng, lại theo gia đình tản cư sâu trong rừng núi. Rồi ông Giáo, bố Nguyên, bị nghi ngờ theo Tây, bị bắt mang đi đâu không biết. Mẹ Nguyên nhất định trở về Nghĩa Lộ, về lại căn nhà thân yêu của mình với đồn điền và của cải chôn giấu. Nguyên cũng về theo mẹ. Căn nhà xưa, nay quân Pháp đóng, nhờ Nguyên biết tiếng Pháp nên công việc thu xếp cũng xong. Viên Thiếu tá Pháp Chỉ huy trưởng, thấy Nguyên thông minh nên muốn xin cho Nguyên sang Pháp học, Nguyên là con một, nên bà cụ không chịu.
Louis, tên Pháp lai Thái, khi Pháp mất quyền, chạy theo quân Cách mạng, lúc nghe tin Pháp về, trốn theo quân Pháp, bây giờ được phục hồi cấp Thiếu uý, giữ chức vụ Trưởng đồn. Louis mời Nguyên giúp việc. Thoạt đầu Louis còn tử tế, sau cũng làm bậy, cho lệnh giết trâu bò của dân làng. Một buổi Louis đem quân ra đồng bắn trâu bò thì đồn bị tấn công. Nguyên chạy vào lô-cốt, một thương binh Pháp bảo Nguyên: "Anh bắn đi, tôi sợ!… Việt Minh nhiều lắm!…" Nguyên bắn thật. Nhờ khẩu trung liên đó mà đẩy lui quân địch. Nguyên được tuyên dương.
Đời Nguyên còn qua nhiều giai đoạn vui buồn ở Nghĩa Lộ. Trung uý Guilleminot về chỉ huy căn cứ, yêu quý Nguyên vô cùng. Ông ta giúp đỡ Nguyên chẳng những ở Nghĩa Lộ, còn ở Hà Nội sau này. Một hôm Nguyên nhận được lá thư của Sắc, người Trung đoàn trưởng Việt Minh – gửi với lời báo tin ông Giáo vẫn khoẻ mạnh và Sắc đã thu xếp cho Nguyên đi Mạc Tư Khoa học. Chính vì bức thư này mà "petit Adjudant" Nguyên suýt bị tù do sự tố cáo bởi thù oán của đội Hồ. Sở dĩ Hồ có được lá thư vì lấy trộm của Nguyên trong lần đi tắm suối. Hồ giữ thư đó để làm áp lực với gia đình Nguyên trong vấn đề hắn định hỏi Bích, chị Nguyên làm vợ, không được. Sau cũng vì một tối đánh phé với Nguyên, Hồ thua cay nên ức, trình lá thư cho Trưởng đồn. Chuyện đó được giải quyết bằng cách quân đội Pháp chỉ cho Nguyên nghỉ phép dài hạn.
Cuộc đời Nguyên từ đó rong chơi bạc bài, lấy tiền mua hàng của mẹ đánh thua hết, rồi vay nợ, ăn cắp tiền bỏ ống của đứa em họ, đánh đập tàn nhẫn em gái mỗi lần nó không vay được tiền.
Tất cả những kỷ niệm, dù vui tươi hay cay đắng, Thế Phong đều viết ra, viết rất chân tình không úp mở:
… Nguyên đợi Ny về, hăm hở hỏi:
"Có tiền không?"
"Không ạ, bác bảo…"
"Tại sao?"
"Bác bảo anh đến mà lấy".
"Sao?…"
"Bác bảo…"
Ny muốn kéo dài để tránh anh thúc trả lời và những cái tát đổ hào quang con ngươi. Không bao giờ Ny về không có tiền mà không bị anh đánh. Nguyên đánh em rất vũ phu. Tiếng khóc lịm đi cho đến bao giờ chị Cửu can thiệp, Nguyên mới thôi.
Trong quãng đời bỉ ổi và đau khổ đối với em gái, Nguyên không thể quên được! …
(Nửa đường đi xuống, trang 157)
Chắc Nguyên không bao giờ quên được, chẳng những đối với Ny qua từng trận đòn tàn bạo mà còn bao nhiêu chuyện khác, trong đó có nỗi đau khổ của người mẹ thương xót đứa con duy nhất với nhiều hy vọng về tương lai, nay nó như vậy! Những ngày dài nối tiếp đi qua khung trời Nghĩa Lộ. Nguyên vì thương mẹ, không đánh bạc nữa, bắt đầu làm lại cuộc đời trai trẻ của mình, bằng cách đốt rẫy làm ruộng. Nhưng có lẽ, định mệnh đã sắp đặt sẵn cho Nguyên những điều kiện để đi vào từng sự việc, dù may mắn hay rủi ro. Vì chuyện làm ruộng Nguyên gặp Quán, cô gái quê thuộc thôn Đỗng cách xa nhà Nguyên độ mươi cây số. Quán, con nhà thường dân, nghèo hèn nhưng trời phú cho sắc đẹp mặn mà với dáng điệu quý phái (?). Quán đã có chồng chưa cưới tên Hời (lính Partisan), một hôm đi hành quân lục soát bắt gặp Quán trong cót thóc rồi mê nàng, bắt buộc gia đình Quán phải gả cho hắn. Hời già và nghèo, nên hắn dự định giết chết những ai nhiều tiền của, để có phương tiện cưới vợ. Quán không yêu Hời, lẽ đương nhiên. Chuyện Nguyên gặp Quán là kết thúc một ước mơ và cũng để giải toả trong lòng niềm oán hận đời!…
Cuộc tình rất thơ mộng của đôi trẻ cứ men theo những lối mòn, trên bờ nương, bên rừng cỏ cháy, trong từng đêm dài.
… Những đêm tàn dần theo nhau, bao giờ đôi trẻ ấy cũng mong thế. Khi yên giấc, là lúc cơ hội yêu đương sống động…
(Nửa đường đi xuống, trang 176)
Câu chuyện này làm gia đình Nguyên rất đau khổ. Quán, con nhà nghèo lại có chồng dù chưa cưới. Nhưng tuổi trẻ Nguyên đâu cần biết cái đó, cứ nhắm mắt theo tình yêu dẫn lối. Nhưng cuối cùng, Nguyên vẫn phải xa Quán, vì sợ bị tù theo đơn thưa, cũng do thù oán. Nguyên buộc lòng phải rời Nghĩa Lộ. Thế Phong đã viết những dòng thực sống và cảm động khi bị giam ở lô-cốt một đêm.
… Bước xuống hầm mùi tanh hôi xông lên, khi thấy anh vào, một tù binh nhếch mép cười gượng rồi im lặng. Nguyên không để ý đến sự có mặt của người bạn xấu số kia. Nguyên còn lợi dụng những giây phút còn ánh sáng, nhìn qua lỗ hổng lô-cốt, tìm hình bóng Quán, Nguyên cắn răng như muốn phá tan tù ngục và sự có mặt của thép gai xích sắt, tường vôi. Vô hiệu, chẳng tìm thấy Quán mà bóng đêm ập xuống. Xuống quá nhanh và phũ phàng!
Muỗi bắt đầu dạo nhạc. Người bạn tù bảo Nguyên:
"Tôi là Hoàng Văn Định. Tối nay tôi bị chúng xử bắn. Tôi yêu nước và đã mang bom ba càng ném vào chúng. Nhưng anh ơi! Bao giờ tôi mới thấy lại mẹ già, vợ và con thơ tôi. Tôi quê ở Hà Đông, Tiểu đoàn 12, Trung đoàn 97.
… Anh làm sao mà gặp gia đình tôi, để nói rằng trong cuộc kháng chiến, tôi đã chết bên anh, trong một miền hẻo lánh, để sau này kháng chiến thành công, gia đình tôi khỏi phải mong đợi…"
(Nửa đường đi xuống, trang 182)
Sự thực, trong cuộc kháng chiến chống Pháp chẳng phải chỉ có một mình Hoàng Văn Định chịu cảnh tù tội, bị đem xử bắn mà còn rất nhiều tấm gương anh hùng vì hai chữ Việt Nam dám hy sinh hết không tiếc nuối. Trường hợp Định với lời than van, chỉ chứng tỏ được cái tình người chứ chưa biểu lộ được cái quyết tâm của mỗi con người quốc gia yêu nước vào những năm 1946 đến 1954.
Vì may mắn và cũng do bà mẹ, Nguyên đi Hà Nội học để tránh cái không khí nghẹt thở của Nghĩa Lộ. Nguyên đâu có ngờ, chuyến đi này là mãi mãi, không một lần trở lại thăm thôn cũ quê xưa. Ngồi trên máy bay Nguyên nhìn xuống phi trường để tìm hình ảnh Quán, người yêu, người đã cho mình những ân ái mặn nồng của tuổi thơ, người đã khắc sâu vào tâm khảm mình những kỷ niệm đến chết chẳng hề phai lạt. Trong khi đó, Quán đến muộn, nàng không kịp nắm chặt lấy hình hài Nguyên để tỏ bày đôi câu giã từ. Nàng đứng ngớ ngẩn ở sân bay như con chim nhỏ lạc đàn. Khi máy bay sắp cất cánh, Nguyên mới chợt nhận ra vóc dáng thân yêu:
… Cánh quạt bắt đầu quay. Cánh cửa đóng lại. Bây giờ Nguyên mới hoàn hồn nhìn lại. Nghĩa Lộ từ giã mình bằng một sự yên lặng cô đơn. Bỗng Nguyên giật mình. Người đàn bà kia là nàng. Phải, đúng là Quán. Nguyên dùng bàn tay đập vào cửa kính. Và càng mạnh, khiến người chiêu đãi viên đi lại hỏi. Nhưng anh không kịp trả lời. "Tại sao ông đập cửa kính?" Vẫn đập nữa, mãi sau họ bảo:
"Ông có quên gì, thì chúng tôi sẽ gửi về sau cho ông". Nguyên thờ thẫn. Quán bây giờ chỉ còn là một dấu đen nhỏ. Anh gục đầu xuống đôi cánh tay…
(Nửa đường đi xuống, trang 185)
Trên đây, những dòng cuối của phần đầu cuốn sách. Khung trời Nghĩa Lộ trở về sau, được Thế Phong nhắc đến như một kỷ niệm đan xen những vui buồn và giọt máu Nguyên để lại trong thân thể Quán cũng làm nhà văn băn khoăn không ít ở những trang nối tiếp.
Thế Phong vì còn trẻ và quá tự tin nên luôn luôn đề cao mình về trí thông minh và lòng can đảm ngay từ thuở nhỏ. Điều này có thể đúng, nhưng có lẽ, khi viết nhà văn quá chủ quan, hơn nữa, Thế Phong thực hiện cuốn sách vào năm gần 30 tuổi, nên chỉ viết theo sự chỉ dẫn của tiềm thức, do đó, thể văn hồi tưởng nếu có tác động đến tâm thức tác giả, cũng do sự tán tụng mình ở trong khuôn thức nào đấy để tự thoả mãn!
Nhưng phải xác nhận, qua những sự việc thuộc phần đầu cuốn Nửa đường đi xuống, Thế Phong phải dùng hết khả năng và sự lanh lẹ của mình để đối phó với nhiều trường hợp dù thuận, dù không. Từ một đứa bé được nuông chiều, bước sang cuộc đời đầy khốn khó, tác giả đã dùng trí năng để kinh qua được rất nhiều trở ngại, chỉ riêng vấn đề tình ái, tuy tuổi còn nhỏ mà đã biết đam mê như gã thanh niên trưởng thành, nhất là giai đoạn 1945, khi nếp sống xã hội Việt Nam nói chung, vẫn chưa có gì đáng khích lệ trong vấn đề luyến ái. Ngay cả đoạn nói về vai trò của Sắc – người Trung đoàn trưởng Việt Minh – qua sự phân tích tâm lý, với nhận xét về mặt tình cảm của nhân vật, làm những trang sách trở nên nghi vấn. Vì ở cái tuổi 13, 14 dù thông minh cách nào đi nữa, cũng chẳng thể đoán biết một cách minh bạch về hành động của người Cộng sản đã chiến đấu cho Đảng, vì Đảng, đã hy sinh tình nghĩa bạn bè, tình nghĩa gối chăn cho Cách mạng. Người đọc tin chắc phần này được viết ra với suy luận, sau hơn 10 năm ngẫm nghĩ, đã sống, đã từng trải qua nhiều vui buồn thế cuộc!
Phần II của cuốn Nửa đường đi xuống (hay quyển truyện thứ hai) mở đầu bằng lá thư gửi một nữ y tá, người yêu. Mỗi phần sách, một phần đời của tác giả. Vì là tự thuật, nên tất cả mọi sự việc đều được viết ra có lớp lang, tuần tự theo thời gian. Nội dung lá thư chứa chấp nhiều cay đắng, hờn hận. Nó là lời chào vĩnh biệt. Nó là cơn đau vò xé nội tâm người trong cuộc. Tình yêu, ôi tình yêu, đứng trước nó, con người trở nên hèn mọn và sẵn sàng chấp nhận khổ đau một cách tự hào!… … Cách đây hai năm, anh đã viết cho em nhiều thư lắm. Nhưng chưa bao giờ gửi, mặc dù em cùng sống với anh trong một thành phố đang quen, cùng một bầu không khí lành lạnh buổi sáng, nóng bỏng càng tăng lúc non và già trưa. Hẳn là em ngạc nhiên, lẽ tất nhiên rồi, vì anh muốn đoạn tuyệt với quá vãng. Song anh làm sao có thể là một con người như bao xưa nữa tuyên bố trước mặt mọi người: Tôi lột xác và bỏ ngày qua, để nhìn rõ hiện tại, như thế là xây dựng cho ngày mai. Gần mười năm phục vụ, gần sáu năm thực tập cái lề lối, cái nếp sống bề ngoài thơn thớt nói cười để mà nham hiểm giết người không dao. Rồi anh chợt nhớ, nhớ quá lắm! Có những đêm, anh chắp tay vào má, trước ngọn đèn dầu ở xóm Chùa, bên bờ sông Tân Định, suy nghĩ mông lung, sau khi đã tự tử dần bằng những ly cà phê sánh đượm…
(Nửa đường đi xuống, trang 189-190)
Qua những dòng thư, người đọc đoán biết tâm trạng của tác giả. Cuộc đời đã quất những chiếc roi da ngang mặt, làm nổi hằn từng đau đớn qua chứng tích văn chương. Tác giả đã nói thực cho người yêu biết đừng tin tưởng vào bề ngoài mà xét đoán cái phong lưu bên trong, vì bề ngoài chỉ là chiếc mề-đay giả đấy thôi. Cả hai mặt đều khác sẵn từng nét xấu xa! Cuộc đời đã dạy cho Thế Phong nhiều bài học, nhưng không bao giờ nhà văn oán trách sự xấu nếu có đến với mình và cả sự tốt của người đời, cũng chỉ để giúp cho tác giả biết đứng trên hai thứ đó mà nhận diện cuộc sống đích danh.
Tác giả cũng chẳng cần che đậy, giấu giếm sự nghèo túng. Bạn mời đi ăn cưới, ăn mặc thật "luých", cúc manchette hình tareau đẹp bậc nhất của Paris mà thiếu 5 đồng tiền taxi phải nhờ chú rể hỏi vay một, trong những cô gái có mặt ở tiệc cưới. Đi từ lá thư vào truyện không cần qua đoạn chuyển tiếp thông thường của kỹ thuật hành văn, Thế Phong đưa được người đọc trở lui quá khứ, trở về khung trời Hà Nội, khi Nguyên vừa góp mặt, sau một chuyến bay. Từ đó, Nguyên ôm Hà Nội vào lòng với đam mê và tội lỗi.
Đến đâu, ở đâu, bóng dáng tình yêu cũng như bầy ma quái quấn riết lấy thân phận Nguyên để làm khuất chìm mọi ước vọng khác. Nguyên không ở đâu yên chỗ vì tính tình bừa bãi, phóng túng không chịu ép mình dưới khuôn thức nào của nếp sốn, nên sự đi, ở, đói, khát là những gần gũi nhất, trong một đời sống đã được điểm danh. Nhà ông Đội, một gia đình phong kiến rởm với kẻ hầu người hạ, với sự khinh bạc trong cách xưng hô làm Nguyên hờn giận, nên chỉ là những ngày tạm bợ. Rồi đến quán Mai Hương, vừa ở trọ vừa làm bồi bàn nhưng lòng vẫn nhớ Kiều, người bạn gái Tàu lai quen từ khi còn ở Nghĩa Lộ. Mấy tháng sau lại vào ở ký túc xá Phan Đình Phùng, phố hàng Đẫy, rồi lại tìm Kiều với mối tình dang dở, nhưng nàng đã lấy chồng Pháp để cứu gia đình lâm nạn. U hoài bắt đầu đến và Nguyên xin gió lạnh ở đâu, hãy về gác trọ thật nhiều để làm bạn với cô đơn!
Nguyên đi học, nổi tiếng là hy sinh quấy nghịch đã mấy lần suýt bị đuổi, tuy có khiếu về sinh ngữ. Tuổi học sinh vốn vô tư, hồn nhiên, nhưng vì vào đời quá sớm nên Nguyên đã có những nhận định và phong cách của một tráng niên. Trong mấy năm học, thi không bao giờ đậu vì ngoài môn sinh ngữ, môn nào cũng bết. Hình ảnh Thương, người nữ sinh cùng trường đã làm đẹp tuổi niên thiếu bằng những ước mơ hoa bướm. Một niên khoá qua đi rất nhanh.
Một buổi, người cô ruột của Nguyên đến ký túc xá bảo Nguyên về nhà ở. Nguyên mừng quá vì đang lo Nghĩa Lộ mất về quân kháng chiến sẽ không có tiền theo học, may gặp người cô giàu, thì dù cho Nghĩa Lộ có tan nát vì chiến trận, Nguyên cũng chẳng cần. Nhưng bài học đầu tiên đến với Nguyên là hành động của bà cô ruột, thải một lô quần áo cũ của chồng cho cháu. Nguyên bị chạm tự ái cho mình là con nhà giàu, mặc hàng Dormeuil đi học, đâu thèm mặc thừa. Giữa lúc cần tiền, một phong thư và chiếc "măng-đa" từ Nghĩa Lộ báo tin Quán, cô gái quê xứ Thái, đã sinh con gái. Trong khi đó mối tình cô nữ sinh tên Thương và Nguyên vẫn đi đều nhịp. Cách đó ít lâu, nhận được tin mẹ ốm nặng, Nguyên cũng không trở lên Nghĩa Lộ được vì mặt trận Thu Đông đang dìm cả vùng rừng núi vào biển lửa. Người mẹ rất mực thương chiều con, không một lần nhìn lại mặt Nguyên, từ buổi tiễn đưa đến lúc nhắm mắt lìa đời. Cả người cha bị bắt đi mất tích, sống chết ngày nào cũng chẳng ai hay biết!…
Nguyên bắt đầu viết văn. Từ đây, những đêm dài… Một nhận xét, Thế Phong quá tham lam trong vấn đề chọn lựa sự kiện đưa vào tác phẩm. Có nhiều việc thừa, hoặc không mấy cần thiết cho kỹ thuật dựng truyện, vẫn được viết tới, làm tâm trí người đọc bị phân tán, không gây nên tác động mãnh liệt vào một chủ điểm nào đó, được coi như chính yếu. Nửa đường đi xuống giống cái cây quá nhiều lá, đứng nhìn, người ta chỉ thấy một màu xanh nặng nề bao phủ mà không nom rõ cái "thế" vững chãi của thân cây với những nhánh, cành đang vươn cao sức sống. Có lẽ, vì nói tới mình, nên tất cả những gì "thuộc về mình" khó lòng gỡ bỏ, dù cho vì nó, tác phẩm có mất đi một phần hiệu năng truyền cảm. Chủ quan bao giờ cũng nguy hiểm, nhất là đối với văn chương, chúng ta không thể bắt chước G. Duhamel với ý nghĩ thầm kín: ôm ấp những cái gì thuộc giai cấp mình, chung quanh mình mà thôi.
Tội lỗi và tội lỗi, ở đâu, Nguyên cũng tạo ra cho mình chiếc "vực thẳm của Pascal". Mỗi lần phạm tội, Nguyên đều tìm nguyên cớ để khoả lấp, như trường hợp với Bảy, cô cháu họ của ông chú rể:
… Ở Hà Nội, những chiếc xe bọ hung màu xám chạy qua phố. Trên xe là những bộ mặt sát khí của các chú lính Pháp. Nguyên cảm thấy rằng sinh mạng con người chỉ là sợi tơ nhện chăng vào đêm giông tố. Nguyên thèm khát những bộ ngực nở nang…
Cái gì đến phải đến, Nguyên đã bị dục tình quật ngã, rồi Bảy mang thai sau hơn một trăm lần "ghi sổ". Chuyện này lúc đầu mọi người đều nghi cho chồng cô Thảo vô luân, đã ăn nằm với cháu gái. Nguyên càng tỏ ra mình vô can trước dư luận, nhưng sau mọi người đều biết là Nguyên. Bảy phải bỏ nhà ra đi với cái thai hơn 7 tháng. Nguyên đưa Bảy số tiền nhỏ còn lại, để nàng chi dụng, từ đó là hết. Đau thay thân phận đàn bà!…
Nguyên vừa đi học vừa tập viết văn, gửi đăng ở các nhật báo. Cái sự nghiệp văn học, Nguyên thường nhìn qua vóc dáng Nguyễn Công Hoan, Lê Văn Trương, Tô Hoài, v.v. còn xa lắm! Nguyên ở nhà bà cô cũng chẳng yên ấm gì. Vì không chịu được nếp sống của Nguyên, nên hai cô cháu gây gổ. Bà cô mắng rủa và đánh Nguyên. Tuổi trẻ không dằn được, Nguyên đấm lại bà cô sưng vù mắt. Sau đó, Nguyên bắt đầu lang thang với câu thề: Không bao giờ mình trở lại cái nhà này nữa.
Nguyên đến ở nhờ nhà bạn miệt chùa Vua. Buổi tối đang đánh phé với 3 bạn khác, có vụ Cảnh sát xét nhà. Lẽ dĩ nhiên, Nguyên không có tên trong sổ gia đình, phải về nằm bót. Khung cảnh cuộc thẩm vấn, được Thế Phong viết lại vô cùng xác thực, đã nói lên cái không khí nghẹn thở của Hà Nội, trong thời gian Pháp tạm chiến thành phố:
… Trưởng ban Điều tra chững chạc hỏi:
"Tên cậu là gì?"
"Thưa ông, Tạ Mạnh Nguyên".
"Làm báo?"
"Vâng".
Một lát sau, hình như hiểu ra điều gì, Trưởng ban "rờ-sẹt" gọi một thanh niên trẻ lại:
"Xem sổ có tên này không?"
Nguyên mừng thầm. Đến khi ông Trưởng ban quay phắt lại gọi:
“Hoàng ơi, affaire đây rồi. Nhà báo, c’est lui." Nguyên bắt đầu hơi lo, nhưng chưa biết chuyện gì. Nhớ lại lúc gần tảng sáng, anh nhìn sang khe cửa bên kia. Nhân viên điều tra thay phiên nhau đánh đập, đàn bà có, đàn ông có, choai choai có… Những tiếng khóc thét lên, im bặt tiếng van lạy như tế sao: Con đau quá!… văng vẳng trong tiềm thức anh.
"Tên mày là gì?"
"…"
"Mày buôn lậu Aspirine, Quinine, Streptomycine đem đâu? Tiếp tế cho Việt Minh, khai đi, đúng rồi, lại Quinines jaunes…"
"Con lạy quan, con trót dại buôn lấy tiền nuôi gia đình…"
"Lớn có thể đẻ con hàng mấy đứa, còn trót dại… Thằng gì… đâu, đánh cho nó khai. Allez…"
"Dạ…"
"Này gia đình này, không khai này, này không khai này, đ.m. chúng mày. Ông đánh cho bằng chết, có chửa này, thì… thời ra con này… Kh…ai…k…h…a…i hay không?"
Tiếng người đàn bà ban nãy, bây giờ chỉ còn giãy giụa vang từ trong căn phòng điều tra ra. Nguyên nhìn Hiển, cùng thấy cảnh loài người hành hạ lẫn nhau. Họ không nói, nhưng cả hai biết rằng, người đàn bà có đôi mắt đẹp lúc nãy, chỉ còn là một thân xác lõa thể bị dày vò. Hiến chương Liên Hiệp Quốc! Hiến chương Liên Hiệp Quốc bảo vệ nhân quyền… "Đánh cho bỏ mẹ nó đi", một người ra lệnh, "dí điện vào "số ta" nó!"
"Trời ơi! Con lạy quan, con chết, chết mất…"
"Chết đâu dễ thế, khai đi, nhanh lên quan tha, Marie hay Jacqueline, Ngọc, Tuyết, Nhung ai là Trưởng ban địch vận của các con. Khai đi… quan tha, ngoan lên nào. Má đỏ thế kia, da trắng thế kia, hoài của… khai để mà sống chứ? Khai đi…"
"Con chết mất, xin quan chớ… hại đời con là con gái… con khai, con khai, quan tha con… trời ơi… trời ơi!"
(Nửa đường đi xuống, trang 267-268)
Đoạn văn đã vẽ lại trước mắt người đọc một pha tra tấn thường xảy ra ở bất cứ quận Cảnh sát nào dưới thời Pháp chiếm lại Hà Nội, sau khi đã đẩy lui Trung đoàn Thủ Đô qua bên kia bờ Hồng Hà và đi xa nữa!…
Nguyên đã thấy chán nghề viết báo, có ý định vô Sài Gòn làm cuộc phiêu lưu. Nguyên xuống Hải Phòng, lên tàu Ville de Sài Gòn vào Nam với số tiền do mưu mẹo của Hiển người bạn tốt. Vào Nam, Nguyên không quen ai, ngoài hành lý tuỳ thân và đôi lời gửi gấm của bạn bè, với lá thiếp của Minh (nhà văn Nguyễn Minh Lang) giới thiệu người bạn làm báo ở Sài Gòn.
Trong suốt phần II của Nửa đường đi xuống, sự thật cũng chẳng có dữ kiện nào đặc biệt để mà nói, ngoài chuyện quấy phá, nghịch ngợm của tuổi trẻ, với vài lỗi lầm nặng nhẹ về dục vọng. Nhưng vì tác giả muốn trình bày sự diễn tiến của một đời người dấn thân vào trong văn chương, với những mốc vui buồn của nó, một cách trung thực, nên sự việc được nói tới, viết ra, đều ở ngoài văn chương. Phải qua đến phần III (quyển truyện thứ ba), Thế Phong mới thực sự đi vào môi trường dự định. Từng khuôn mặt anh em, bạn bè, người tình đã mất đi vĩnh viễn hay còn sống cùng kích thước không gian Sài Gòn, đều được vẽ lại với những hận thù và tiếc thương đằm thắm. Sóng gió bắt đầu thổi từng cơn giận dữ.
Những ngày đầu ở miền Nam trôi đi trong khốn khó. Đêm khách sạn cô đơn và lo ngại ngày mai, đến nỗi từ chối cả đàn bà mời vui. Nơi đây Nguyên gặp Hồ Hán Sơn, người chuyên viết lý thuyết Cách mạng, sau cũng vì Cách mạng, chết tối tăm!… Rồi cuộc đời đẩy đưa, vì có viết mấy cuốn sách về chính trị, Nguyên được giới thiệu để giữ chức vụ Ủy viên Báo chí kiêm Bí thư của Tổng trưởng Thông tin Phạm Xuân Thái. Nhưng miếng đỉnh chung này cũng chẳng hưởng được bao lâu. Sau câu chuyện xích mích, Nguyên xin thôi, để sau này phải thốt lên lời oán trách gay gắt, khi bị Phạm Tổng Trưởng từ chối không cho mượn tiền:
… Thuê nhà được hơn một tháng, Nguyên bắt đầu thất nghiệp. Chính anh tự bỏ việc làm. Nguyên biết ngày mai mình chẳng còn gì để bấu víu, nhưng anh đành bỏ. Ban đầu anh còn tiền ăn, dần dần không xoay sở vào đâu được, anh đến nhà một hoạ sĩ ăn nhờ. Tân ngạc nhiên khi thấy bạn không còn bút Parker treo ở túi áo như mọi bận:
"Sao bút đâu? Bán rồi sao?"
"Tất nhiên. Nếu tao không cầm quần áo toàn diện, bút máy, đồng hồ, không có tiền thuê nhà. Tao vay Phạm Tổng Trưởng, nhưng lão ta kêu không có. Chúng nó làm chính trị chỉ cần mình khi chúng cần. Nên kinh nghiệm dạy cho biết, khi chúng vời mình đến, phải cắt cổ chúng mà lấy tiền. Nếu không nắm cơ hội ấy, đừng có hòng moi tiền được của chúng…"
(Nửa đường đi xuống, trang 305-306)
Câu chuyện túng thiếu, chuyện thường xuyên đối với hầu hết những người làm văn nghệ, nhưng sự túng thiếu đối với Nguyên, một phần do tính hào phóng, lúc có tiền ăn chơi cho đã, ngày mai xét sau, lúc xét được, đã muộn! Biết bao nhiêu lần lỡ đà, quá trớn về tiền bạc cũng như tình ái, chẳng lần nào giúp cho Nguyên được mảy may kinh nghiệm để vượt thoát. Trên thực tế, Nguyên có thể kiếm ra tiền bằng nhiều cách, khi làm Ủy viên Báo chí, nhưng tuổi trẻ, còn nhìn đời qua lăng kính lý tưởng, Nguyên đã để lỡ, chắc không bao giờ tìm thấy lại cơ hội đó nữa!
Cái nghề viết văn, có gì đâu mà nhiều người ham mê vì nó, chịu khổ cực cả một đời. Có lẽ, nó là cái nghiệp! Sách viết xong mang bán, đi rạc cẳng, không chắc đã bán nổi, dù bán với giá tiền chết đói:
… Bằng hẹn với anh đã nhiều lần lắm. Không còn xe đạp anh đi bộ vào Chợ Quán. Nhưng phải đi làm sao cho đỡ mệt, đầu tiên anh đi bộ đến nhà Tấn, hy vọng có tiền uống nước mía. Tấn đi vắng, anh nhìn con đường dài rồi trẩy bộ. Đến nơi Bằng lại lỡ hẹn với anh, mặc dầu cuốn sách in được mấy chục trang. Mỏi mắt đợi, ông quản lý của nhà xuất bản thương hại bảo:
"Tôi chưa thấy ai chịu khó hơn anh!"
Mười lần đến nhà xuất bản là mười lần không gặp. Đừng buồn, cố rán thì sau này sẽ nổi tiếng, đỡ cực hơn!
Ông ta đưa cho Nguyên mười đồng, biết rằng Nguyên hết nhẵn tiền. Trở lại nhà bạn, mong đúng bữa, với bát cơm nóng ấm bụng vào buổi chiều. Nguyên nghĩ đến mùi thơm phức của cơm bốc lên, quả là khoan khoái, thèm muốn. Nguyên nhịn đói là thường. Nhiều buổi hết tiền, anh nằm ngủ hay cựa mình để nhớ đến mùi thơm xưa kia, ở tửu quán xa hoa. Ngày ở xóm Chùa, Nguyên đã không chỉ nhờ những bà hàng xôi cho chịu mỗi sáng, mà còn nhờ bà bánh chưng buổi chiều. Lỡ hôm nào, họ đau ốm hay không qua đây, Nguyên chờ đói…
(Nửa đường đi xuống, trang 308)
Cứ như thế, nhà văn kéo dài cuộc sống trong khốn quẫn triền miên hỏi làm sao không căm giận cuộc đời? Tác phẩm bán đắt, bán rẻ quanh quẩn tiêu cũng hết, trong khi đó, vẫn phải ăn, phải thuê nhà, phải tiêu một vạn thứ linh tinh, làm gì còn tinh thần mà ca tụng cuộc sống.
Trích Nhật ký của Nguyên, tháng 1 đến 12-1957:
… Lại hết tiền rồi. Bắt đầu chịu tiền cơm. Chưa biết ngày mai phiêu diêu rồi định đoạt cuộc sống ra sao?...
Chị chủ nhà giục tiền quá. Ba tháng rồi. Xuống nhà bạn xoay tiền không ra. Anh ta đưa mình lên quán Văn Sửu, định giao cho mình trông nom một loại sách văn nghệ, in nửa tháng một kỳ. Cuốn đầu tiên là của mình. Rồi công việc không đi đến đâu, lại ngưng. Trong khi ấy nợ chủ quán hai nghìn...
Thằng Vân đưa về nhà nó, nuôi mình gần một tháng viết tiếp cuốn sách. Và sửa soạn ra thăm bà cô để vay tiền trả nợ. Văn xem bói bài Tây cho mình, bảo chuyến đi xa có tiền. Mình chẳng tin bao giờ, sao lần này mình lại hy vọng có tiền như quẻ dặn là ở bà cô chăng? Nhân tiện ra thăm anh bạn văn nghệ gửi thư cho mình, ngày phát hành một cuốn sách nhỏ. Anh ta mời nhà văn ra chơi ăn bí-tết, vì trong thư anh viết theo giọng châm biếm: ngày xưa Vũ Trọng Phụng khi chết, than không có bí-tết. Tôi rất kính trọng và xin nói thật vậy. Lời của anh ở cuối thư.
Người bạn văn nghệ quý tài Nguyên mời ra ăn bí-tết, ai ngờ lại bị Nguyên lấy mất số tiền mười ngàn đồng do nhà triệu phú Trần Hoài dành dụm. Sau, trong cuốn Thế Phong, tác phẩm và cuộc đời, tác giả có viết lại lần nữa việc này.
Ăn cắp, hai chữ đó xấu lắm, một người biết tự trọng và có chút lương tâm, dù đói khổ cách mấy cũng không làm. Thế Phong đã làm vì quá túng thiếu, nợ nần, nào tiền nhà, tiền cơm, tiền cà phê, thuốc lá quá nhiều, đến nỗi người chồng nghi vợ có tình với Nguyên nên không đòi. Nguyên cần phải sống để viết, để hoàn thành dự ước: trở thành nhà văn nổi tiếng. Việc làm bất chính nay đã giải thoát cho Nguyên một thời gian ngắn trong vấn đề sống, nhưng những dằn vặt, lo sợ tù tội vẫn hằng đêm lởn vởn trong tâm trí và làm khổ Nguyên không ít.
Những người xung quanh đối với Nguyên không hoàn toàn xấu cả, còn có chị Năm Hưởng vẫn thỉnh thoảng phần cho Nguyên những thức ăn như xôi chè hoặc quả chuối. Chị Năm Hưởng, số phần lận đận qua mấy cầu chồng con. Những ý nghĩ đen tối về xác thịt bắt đầu nhen nhúm để đốt cháy lương tri Nguyên trong thèm khát dục tình. Nguyên thức khuya viết, những dòng chữ nào xuống mặt giấy vì đuôi con mắt và nụ cười của chị Năm như mời mọc ân ái. Chính vì muốn xâm chiếm chị Năm, Nguyên đã để ý cách thức mở cửa sao cho êm và chui vào mùng chị bằng cách nào? Đêm khuya, chờ cho anh chị chủ nhà ngũ kỹ, Nguyên thi hành dự định.
Mọi việc được giải quyết một cách suông sẻ. Sáng hôm sau, hàng xóm nghe tiếng chị Năm Hưởng nói như phân bua với chị Hai Nụ, chủ nhà Nguyên: Con mẹ ngủ nhờ đêm qua lười như hủi, ai lại giận chồng con mà nằm lì ở nhà mình. Nguyên cười trong chăn. Nhưng rồi, khốn khổ thay người đàn bà ấy, một mầm sống đã hình thành trong bụng, để rồi sau này, khi sinh nở, chỉ nhận được một hộp Hépatrol, thuốc bổ máu, giá hơn trăm bạc!
Thế Phong đã gieo vào cuộc đời vài mầm sống với dăm người đàn bà gặp gỡ trong các hoàn cảnh đặc biệt. Những đứa trẻ không may này, nếu trời để làm người lớn lên, không biết chúng có đọc lời nhắn trong cuốn sách để tìm thấy bố? Chúng sẽ nghĩ gì về trường hợp khốn nạn, ở đó, chúng góp mặt! Nguyên không hoàn toàn bất nhẫn đối với đàn bà cả đâu, Nguyên đã dám từ chối tình yêu cô Năm, người đàn bà cùng xóm gửi tặng. Cô Năm cũng lỡ dở đường chồng con, chỉ vì nghĩ đến chị Năm Hưởng với cái bào thai, đã mấy lần dùng thuốc phá không được, hối hận và hối hận!…
Đời sống cứ thắt dần từng nút, từng nút như sợi dây oan nghiệt đang xiết từ từ vào cuống họng kẻ chán đời. Nguyên đã cố gắng đến cùng, vẫn không giải quyết được vấn đề cơm áo. Cuốn sổ ghi nợ cứ chồng chất những con số nặng nề làm Nguyên muốn gục xuống. Một chiều, chị Hai Nụ nói: "Cậu Nguyên, chiều hôm nay, không thể nào nấu cơm cho cậu ăn nữa. Chị đưa tay lên lau mắt. Anh Hai tôi nói thế này, có khổ tôi không? Bảo tôi với cậu có tình ý với nhau, tôi sợ không đòi cậu!…"
(Nửa đường đi xuống, trang 349)
Qua phần IV của Nửa đường đi xuống (quyển truyện thứ tư), Nguyên đành rời bỏ Sài Gòn đi Rạch Giá để kiếm sống bằng nghề dạy học. Cũng chẳng được bao lâu, lại trở cánh quay về thành phố, như con thiêu thân không xa rời được ánh sáng. Những kỷ niệm đau đớn hay oán hận đều được nhắc nhở minh bạch, kể cả chuyện bị bệnh phong tình do cô gái làng chơi gửi tặng. Nhiều người cho rằng Thế Phong "cynique", nhưng đó là bản chất của Thế Phong, nhà văn không nguỵ tạo, nếu khác thế, chẳng còn Thế Phong hôm nay.
Những ngày vô định tiếp nối kéo lê trong phiêu bạt, tối nằm ngủ sợ ngày mai chóng sáng, phải nhìn thấy thực chất cuộc đời với những khuôn mặt chủ nợ.
Nguyên bứt đi khỏi xóm Chùa bằng cách bỏ trốn, để lại tất cả sách vở và đồ nhật dụng. Các tập bản thảo đã được lén lút mang dần ra khỏi nhà từ mấy bữa trước. Một cuộc sống tay ba: Tô, Thảo, Nguyên: những người trai bị đời hất hủi, được tổ chức trong một khuôn khổ không mấy khích lệ, vì luôn luôn họ bị ám ảnh, bị mặc cảm qua ý kiến của Tô:
"Mày bảo tao không chán chường sao được. Khi tuổi thanh niên của bọn mình đã chết một cách bất đắc dĩ. Chỉ còn sa ngã vào tình yêu, dù truỵ lạc, dù chà đạp lên luân lý!…"
(Nửa đường đi xuống, trang 373)
Vì vững tin như vậy, nên họ tạo một lối sống riêng và Nguyên có leo qua vách để làm tình với mụ me Tây về già trong đêm nào đó, cũng là chuyện thường. Khổ thay, người đàn bà đã lọc lõi ở đời về đường tình ái, vẫn bị thằng con trai đáng tuổi em út mình lừa dối!
Trong hoàn cảnh khốn khó như thế, những người ở xa Nguyên, không nhìn thấy sự thực, nên vẫn mơ mộng trong từng cánh thư gửi từ Hương Cảng. Nói rằng yêu, chưa đúng vì chẳng có lời yêu đương nào được ghi nhận, nói không yêu cũng sai, vì nội dung lá thư có hàm chứa những ý tình. Thế Phong đã viết rõ chuyện này trong cuốn tự truyện: Thế Phong, tác phẩm và cuộc đời (Đại Ngã tái bản, 1970) với những ray rứt, đứt nuối ở mỗi dòng, mỗi chữ.
Trong suốt phần IV của tác phẩm, dành để nói về mối tình trên với vài hình bóng con gái khác cùng những dang dở.
Phần V, cũng là phần chót của Nửa đường đi xuống, được viết với tâm trạng vô cùng bi đát. Tình yêu cũng chỉ là hư ảnh. Nghệ thuật còn xa vòi vọi, chân trời vẫn nặng trĩu mây mù. Cuộc sống nối tiếp trong thiếu thốn trường kỳ. Với tình yêu, không phải bao giờ Nguyên cũng là kẻ chiến thắng, dù rằng, có người con gái đã viết cho nhà văn, những dòng chữ đằm thắm, chân tình:
"Ông Nguyên ơi! Ông phải nhớ rằng, giả thử xã hội này tất cả đều ruồng bỏ ông, ông hãy tự hào sung sướng có một người bao giờ cũng tìm ông…
(Nửa đường đi xuống, trang 490)
Nhưng đau thay, cũng có giọng khinh bạc đến với Nguyên, qua câu chuyện được thuật lại cùng trong thư đó:
"…
"Thưa cô, tôi trông cô quen lắm".
"Thưa cô, có phải cô là cô Lam không ạ?
"Thưa cô, cô có nhận được báo của tôi gửi tặng chưa ạ?"
"Thưa cô, cô còn nhớ tôi không?"
"Thưa ông, tôi không còn nhớ ông là ai, tôi có quen một anh quét đường cùng ở xóm Chùa với tôi, mỗi lần tôi đi học về anh ta hay đón. Nhưng lâu nay, tôi không gặp nữa, vì xóm Chùa không còn rác nên anh ta thất nghiệp…"
(Nửa đường đi xuống, trang 491)
Hình ảnh những cái rủi luôn luôn chờ đợi, rình rập xung quanh Nguyên, đợi dịp thuận tiện xông ra đẩy Nguyên xuống bùn đen. Đã không tiền, không nơi ở, lại còn gặp nhiều điều không như ý, nên có lời nào viết về bạn hữu – trừ một vài người vì quá tốt hay may mắn – đều bị tác giả ném vào mặt những lời sỗ sàng, tàn bạo. Mỗi khuôn mặt trong trang sách đều mang theo vì vết chém của Nguyên. Nào thi sĩ Đạm, nào T.T. Hoàng, v.v. trong đoạn kết của cuốn sách với những cái tát cuối cùng và những lời sỉ nhục quá đáng! Thế Phong đã dùng hết sức mình để công phá lần chót, trả thù đời! Khi viết lại thân phận qua những gian truân, oán hận, Thế Phong không dằn được cái "váng nổi của ý thức" khi còn trẻ nên đã nói hết, viết hết những gì chứa chấp trong tâm tư, mặc kệ hậu quả. Câu mà thi sĩ Đạm nói ra: "Tất cả đều sợ anh" trong buổi tối Nguyên đánh Hoàng vì đã nói xấu mình khi vắng mặt, là như thế đó!
Cuốn sách tạm ngưng với vài lời cám ơn bạn bề, dù tốt dù phản phúc, nhưng họ đã cho nhà văn cái vốn sống để hoàn thành sự nghiệp.
Thế Phong luôn luôn khát vọng và mơ ước mình sẽ trở thành một Maxime Gorki Việt Nam [Maxime Gorki (1968-1936), sinh tại Nijni-Novgorod, một thành phố nằm ở ngã ba sông Volga và Oka. Thành phố có bến tàu lớn, cũng là trung tâm kỹ nghệ thép, xe hơi và cơ xưởng lọc dầu. Những tác phẩm nổi tiếng hoàn cầu như Tuổi thơ ấu của tôi (Ma vie d’enfant), Những kẻ lang thang (Les vagabonds), Người mẹ (La mère), v.v. đều được phiên dịch ra nhiều thứ tiếng và nhà nước miền Bắc cũng đã dịch ra Việt ngữ]. Thân thế và cuộc đời của Gorki cũng đã gánh chịu vô vàn tủi nhục, hận thù giai cấp tư bản, phong kiến, nên ông dấn thân vào Cách mạng Vô sản, dùng văn chương để trình bày cái xấu xa của xã hội thoái hoá, bóc lột, đề cao những tấm lòng vàng trong manh áo rách. Gorki đã khích động căm thù và dương danh vai trò vô sản trong mọi tác phẩm. Ông cũng đóng góp rất nhiều cho cuộc Cách mạng Nga tháng 10-1917. Do đó, ông được Nhà nước Liên Xô tôn xưng là đại anh hùng văn nghệ vô sản. Hoàn cảnh Việt Nam khác, dĩ nhiên, ước mơ lại càng khác nữa!
Thế Phong, tác phẩm và cuộc đời là sự nối tiếp những trang đời của tác giả. Ở Nửa đường đi xuống, Thế Phong còn nguỵ tạo danh tính các nhân vật được đề cập tới, nhưng ở cuốn Thế Phong, tác phẩm và cuộc đời, nhà văn đã cho người đọc biết tên thật của mỗi vai trò. Có nhiều chuyện được nhắc lại trong Nửa đường đi xuống với nhiều chi tiết hơn, những chi tiết nhức nhối làm chết sững lòng người.
Người con gái làm thơ: Cao Mỵ Nhân, đã cho Thế Phong nguồn đam mê tình ái và làm khổ nhà văn không ít trong suy nghĩ. Cuộc tình đằng đẵng, có lẽ sâu đậm nhất, sau mối tình vô vọng với nữ sĩ Linh Bảo. Tất cả nguồn cảm hứng sáng tạo trong thời gian này dành cho Cao Mỵ Nhân. Cuộc sống của Thế Phong vẫn chưa tìm thấy chân trời. Nhà xuất bản Đại Nam Văn Hiến in ronéo, lấy số kiểm duyệt mà vẫn ra đời với nợ nần và thiếu thốn. Trong khi đó sách bán rất chạy dù in lèm nhèm vì kỹ thuật ấn loát kém.
Vừa lo sống, vừa lo công việc nghệ thuật, vừa lo yêu, lúc nào ngần ấy thứ cũng đeo đẳng vào số phận nhà văn để hành hạ. Anh em, người này đi, người khác đến, cả những khuôn mặt đàn bà cũng vậy, như nàng Oanh – người tình cũ, gặp lại ở một trường hợp đặc biệt. Oanh đã tự tử không chết, bỏ chồng. Oanh đòi làm lại cuộc đời với Thế Phong, trong khi đó tình yêu với Cao Mỵ Nhân đang nồng nàn. Nhưng Thế Phong vẫn cùng Oanh đi Vũng Tàu, rồi những trận tình làm Oanh mang bầu. Nhà văn trốn tránh trách nhiệm bằng cách đổi chỗ ở. Đến Tết gặp nhau, Thế Phong đã chán, xô nàng xuống đường!…
Thế Phong viết lại rất lạnh lùng, tàn nhẫn. Mỗi dữ kiện được nhắc tới bao giờ cũng gói ghém trọn vẹn hai chữ: thù hận, không phải với cá nhân mà với cuộc đời. Thế Phong mê mải làm việc, có thể ngồi cả tháng trước máy chữ, đánh bản thảo trên giấy sáp để in ronéo. Sự thực, trong dòng sống, Thế Phong cũng có một chuyện tình chua xót với một người đàn bà goá gặp gỡ giữa đường. Người con gái này đã có con gái lớn, và hết lòng chung thuỷ với người chết, nhưng đốm lửa nên duyên, để rồi ân hận đến khi nhắm mắt! Trong đêm vắng, Thế Phong muốn thử xem người đàn bà bốn mươi, đáng tuổi chị mình đó, thờ chồng đến mức nào? Nhưng hỡi ơi! Con người đâu phải thần thánh, làm sao chống nổi được với đam mê thân xác, bên cạnh một chàng trai khoẻ mạnh. Thế rồi sau đêm hoan lạc đó, bà ta ở luôn. Biết cần phải có chồng mới sống chung được, bà bảo tác giả đưa tiền mua cỗ bài tây, để bà hành nghề bói bài kiếm ăn. Thế Phong đi vay tiền cho bà. Từ đó ngày ngày bà kiếm tiền nuôi hai miệng ăn bằng cỗ bài. Nhưng một buổi, bà không quay về nữa, tác giả biết bà bị cảnh sát bắt vì một tội gì đó, nên đã xúc động sáng tác bài thơ Cửa mở đón em về:
… Nửa đêm anh ôm suốt vòng lưng tưởng tượng,
Đêm không đèn mở cửa đón em về…
(Sai biệt)
Rồi một tối, bà trở lại cho biết, bị giam ở khám Chí Hoà, báo tin mình đã mang thai, mang thai sau bao năm thờ chồng! Nhà văn sợ quá, chợt nghĩ đến chị Năm Hưởng với hộp Hépatrol, bèn tìm cách tháo chạy. Chạy bà goá chửa xong, nàng Oanh lại sinh nở. Tác giả muốn giúp Oanh có chút tiền nằm ổ, biết vay không được, lại ăn cắp của bạn cùng nhà đem cho Oanh ở bệnh viện Hùng Vương. Chuyện vỡ lỡ, Thế Phong lên đường tìm chỗ khác trú ngụ. Chuyện ăn cắp còn đến với người bạn tốt, thấy nhà văn không có chỗ ngủ, mời đến nhà mình. Nửa đêm, nhà văn móc túi quần, mở ví lấy hết tiền rồi chuồn sớm, cũng chỉ vì quá túng quẫn.
Tất cả tác phẩm in Ronéo trong những năm 60, 61, 62 và 63 đều có ý hướng chống chính quyền, nhất là tập Mây Hà Nội của Nhị Nhu, hay tập Vô cùng của Đào Minh Lượng. Rồi đến chuyện gây gổ với Nguyên Sa, Hoàng Trọng Miên, Mặc Đỗ, Đỗ Tấn, Nguyễn Văn Trung, Vũ Khắc Khoan, v.v. Thế Phong đã nói hết trong tác phẩm này (Thế Phong, tác phẩm và cuộc đời). Nhưng chưa hết, còn nhiều khuôn mặt nữa, toàn những khuôn mặt anh em và đôi ba người tuy không làm văn nghệ nhưng dùng văn nghệ để phục vụ cho mình như Phạm Xuân Thái, Lý Trung Dung – Chủ tịch Mặt trận Bảo vệ Tự do Văn hoá. Ngay cả khuôn mặt Nguyễn Đức Quỳnh thuộc nhóm Hàn Thuyên, Hà Nội, người chủ trương Đàm Trường Viễn Kiến mà Thế Phong đã nhiều lần tham dự cũng bị kết tội làm mật thám cho Pháp, trong cuốn Nhận diện vóc dáng Nguyễn Đức Quỳnh. Còn nhiều, nhiều nữa, cả đàn bà lẫn đàn ông, mỗi người được Thế Phong đeo cho chiếc thẻ bài với dòng chữ số!…Mối tình Cao Mỵ Nhân tuy cuối cùng cũng tan vỡ, nhưng có lẽ, mối tình đẹp nhất đời, nên Thế Phong đã làm nhiều thơ vì nàng. Để tỏ bày lập trường văn nghệ và cũng để kiên trì thái độ, Thế Phong viết:
… Những ngày có dấu chân của chàng kỵ mã văn nghệ là tôi đây, quang cảnh miền Nam đã thay đổi. Tôi như là mũi tên không tha thứ một tên nào, dù có quyền hành móc sau đời sống văn nghệ, tôi cũng lao những mũi tên tẩm thuốc độc cảnh cáo hoặc khử trừ. Những tên làm xấu văn nghệ, đạo văn, mật vụ, chúng phải nghĩ tới đối tượng tôi, trước khi bắt tay vào việc. Có thể ghét bỏ tôi, nhưng chung quy phải nể và kính trọng tôi. Tôi đòi phải thừa nhận lỗi lầm, nhơ nhớp của họ, mới có căn để tránh và sửa chữa tội lỗi…
(Thế Phong, tác phẩm và cuộc đời, trang 199)
Những dòng trên, có chủ quan lắm không? Với tuổi trẻ cái gì cũng có thể đúng, ngay cả mặt trời kia, nếu nổ vỡ và nhiệt độ rớt xuống có làm cháy tan trái đất này, họ cũng coi như chuyện thường, vì họ không có gì để mất, ngoài tự ái! Nhưng rồi thời gian và tuổi đời chín dần, họ mới thấy, mới nhận biết, văn nghệ hay gì gì nữa cũng là thừa cả trước vũ trụ. Lão Tử đã nhìn rõ, nên mới cất lên hai chữ: Vô Vi.
Phải nhận rằng, Thế Phong rất yêu nghề, nguyện sống chết với nghiệp. Dù gặp bao nhiêu khốn khó, dù đói cơm rách áo, dù tình yêu tội lỗi quây chặt tâm hồn, dù đời có phụ rẫy, dù bạn bè tốt xấu, dù mình có hư đốn, nhưng không bao giờ Thế Phong xao lãng văn nghệ, thứ "văn nghệ đắng" không nuôi sống mình. Thế Phong viết ra những cái xấu của bản thân, của xã hội để ghi dấu khoảng đời, chuỗi thời gian góp mặt. Công việc nghĩ rằng dễ, nhưng thực khó.
Đã có lúc, nhà văn muốn tự huỷ đời sống của mình trong những ngày ở Tân Sa Châu vì quá tuyệt vọng! Nhưng với tuổi trẻ và được trời phú cho sức chịu đựng, Thế Phong đã vượt thoát, dù vượt thoát với ngàn vạn cay đắng, nhục nhằn!…
Ngoài hai tác phẩm tự-sự-kể: Nửa đường đi xuống, Thế Phong, tác phẩm và cuộc đời, được ghi nhận như những bài học đắt giá của đời sống văn nghệ, Thế Phong còn dùng văn chương để nói về đời sống tình cảm của một nữ văn sĩ nổi tiếng từ thời tiền chiến. Để tránh những khó khăn về kỹ thuật dựng nhân-vật-truyện, Thế Phong phải dùng lời nói đầu trong cuốn: Truyện của người tình phụ (1963) như sau:
Đây chỉ là một thể hiện cuộc đời qua tiểu thuyết mà xã hội cỏn con ấy không liên hệ gì, hoặc xa, gần với đời sống một cá nhân nào trong xã hội thực. Nói như thế, tác giả không trách nhiệm, biện giải, khi có ai muốn thể hiện tiểu thuyết này là có sự liên hệ đến họ.
Câu trên, thực tình, viết ra để có viết mà chẳng viết gì cả. Câu chuyện tình của người đàn bà có chút học vấn, vì gia đình hay duyên nợ (?) phải lấy anh chồng nhà quê không ưng ý, gặp người đàn ông hơn thế, mê liền, bỏ chồng đi theo, để rồi lại mê nữa, người thứ ba, thứ tư… Sự mê đắm một phần do nhục thể, một phần vì những hào quang sự nghiệp văn hoá và chính trị do người đàn ông toả ra. Cái tâm trạng đứng núi này trông núi nọ, rốt cuộc, ngọn núi nào lúc đến gần cũng ngần ấy thứ xấu xa, ghê tởm làm cả cuộc đời tan nát trong đam mê, ước vọng! Toàn bộ cuốn truyện không mấy xuất sắc, vì tình tiết cũng như cốt truyện không nằm ở môi trường chung của mọi thành phần xã hội, nó là ngoại lệ, nên chỉ có thể gây xúc động ở một vài tâm sự đồng cảnh ngộ nào đó. Hơn nữa, các sự kiện nói tới, được tiểu-thuyết-hoá quá độ trở thành giả tạo. Nghệ thuật một khi giả tạo, khó gây ảnh hưởng sâu đậm trong lòng người đọc.
Thế Phong, nhà văn có khuynh hướng xã hội. Những cảnh sống khốn cùng của một lớp người chỉ trông vào "đồ thừa" của quân đội Mỹ thải ra, cũng đủ nuôi sống một cách phong lưu cả gia đình. Những thân phận con người ngoại ô. Những thảm trạng xã hội, ở đấy, chỉ vì chút lợi lộc, con người có thể căm thù nhau mãn kiếp, có thể hy sinh luôn danh dự cũng như thể xác để đánh đổi lấy quyền lợi, dù quyền lợi nằm trong đống rác nhơ bẩn, thối tha. Truyện Khu rác ngoại thành được viết bằng nước mắt, bằng nỗi nghẹn ngào, trong mỗi trạng huống được đề cập tới. Phải xác nhận, từ ngày có sự hiện diện của quân đội Mỹ ở Việt Nam, sinh hoạt của thành phố đã thay đổi theo mức độ đáng ngại. Các "bar" mọc lên tua tủa và ổ mãi dâm lan tràn trong mọi ngõ ngách, ngay cả trung tâm thành phố. Giá sinh hoạt tăng vùn vụt, do đó, muốn sống còn, bắt buộc mỗi cá nhân, mỗi gia đình phải kiếm thêm bằng mọi cách. Truyện Khu rác ngoại thành với đống rác cao như núi, với những ti tiện, bỉ ổi trong vấn đề giành mối lợi, cái mối lợi do quân đội Mỹ vứt đi được viết ra với những tình tiết vô cùng cảm động. Hình ảnh người lính không quân tên Tiết với những anh "di-ai" Mỹ và vợ Tiết, gái điếm hoàn lương cùng nhiều vóc dáng khác quay tròn xung quanh đồng tiền làm người đọc chóng mặt:
… Tôi nhớ lại, những buổi tối mấy người Mỹ đến nhà Tiết chơi. Mỗi lần nhìn thấy taxi đậu trước cửa, vợ Tiết sai thằng con đem tiền ra trả, cho rằng cử chỉ đó là một thái độ chiều chuộng. Sau đó chị thường đem chuyện người Mỹ đến nhà chị chơi ra sao kể lại với hàng xóm, coi như đó là một vinh dự và lên mặt với mọi người. Năm gian nhà khu chúng tôi không rào giậu gì, bếp nước chung nhau một gian phụ nằm dài sau dãy nhà chính. Giấy má, rác rưởi vứt lung tung. Một buổi tối đun nước, vơ giấy nhóm bếp, thấy có bản nháp một lá thư viết bằng tiếng Anh. Tò mò tôi đọc. Nội dung lá thư đại khái như thế này: Bạn không phải mua quà tặng vợ tôi làm gì. Tôi chỉ muốn phiền bạn mua giúp tôi 50 tút Pall Mall, Lucky, Salem và 20 hộp thuốc píp 79. Noel năm nay tôi sẽ dẫn bạn tới một chỗ tuyệt thú. Con gái Việt Nam đẹp lắm!
Tối nay chở bạn ở nhà tôi.
Thân kính
Tiết
(Khu rác ngoại thành, trang 20)
Tiết tuy làm lính nhưng ăn mặc "luých" như một thứ công tử miền Nam giàu gốc. Trong nhà có đủ thứ sang trọng của một gia đình sung túc, nào nho, cam, đào hộp, thịt bò, bánh, kem, kẹo, cà phê, chocolate, xà bông bột, v.v. Nhưng vì miếng ăn, cái "đống rác" ấy lục đục với nhau:
… Xe ngoại kiều càng ngày càng đổ nhiều vỏ đạn rốc-kết, những thùng đạn đôi khi còn nguyên. Bọn Tàu đi mua đạn để lấy đồng với giá rẻ mạt. Bác Chánh bắt đầu làm đơn khiếu nại nhưng không cho tôi biết, khác hẳn với mọi lần, mỗi khi làm việc gì bác cũng thăm dò ý kiến tôi trước. Chủ căn nhà A (tức bác Chánh) khiếu nại rằng, đổ rác làm mất vệ sinh. Tôi chắc Trần có đóng góp vào việc thảo lá đơn này. Trong khi đó, ở một mặt khác, tôi được biết Trần cũng làm đơn tố cáo với Toà Đại Sứ, cơ quan quân sự Mỹ về việc xe ngoại kiều đi đổ rác được Tiết ve vãn, cho tiền, dẫn gái, nên đem đi đổ toàn những đồ nhà binh còn dùng được.
Tôi thấy không cần phải đóng góp thêm một ý kiến nào.
(Khu rác ngoại thành, trang 26)
Rồi cũng quanh đống rác, người ta chửi nhau, đánh nhau, thưa kiện để giết chết nguồn sống của nhau. Tiết đã bị quân cảnh bắt giữ vì dính líu vào vụ rác Mỹ. Trong khi Tiết bị hoạn nạn, ở nhà vợ Tiết lao đầu vào tội lỗi:
… Bây giờ không phải là mùa xuân nữa, mặc dầu chưa hết tháng Hai âm lịch. Thằng bé càng hát lớn, con bé càng khóc to hơn. Rồi thằng bé lại hát bài quốc ca để ru cháu nữa. Nhịp đi hùng mạnh của đoàn quân hình như đã không thể làm cho đứa bé hài lòng. Gần sáng mẹ nó mới trở về. Xóm lao động ở bìa rừng cao su, anh Bẩy loan tin về chuyện thực xảy ra đêm qua trong rừng "ái ân":
"Vợ thằng Tiết đêm qua cặp kè với ngoại kiều suốt sáng ở chiếc mả cũ trong rừng. Đ.m. thằng chồng mới bị bắt có ít bữa mà làm vậy rồi. Đồ chó điếm mà, bọn bay! Con đó trước làm điếm ở xóm Lăng, gái chơi bời mà!"
(Khu rác ngoại thành, trang 36)
Vợ Tiết, người đàn bà lai Tàu đã dày dạn tình đời, bướng bỉnh thừa nhận:
"… Đ.m. tụi bay. Tao không có tiền, tao nghèo, tao "đi" cho Mỹ. Bọn bay thối miệng học làm chi đây. Đ.m. tụi bay, chồng tao bị bắt tụi bay sướng ghê!"
Đời sống cứ tiếp tục chiều quay của nó. Những vui buồn cũng trở thành tầm thường như mưa nắng. Tác giả vẫn phải nhìn ngần ấy sự việc trong khuôn khổ đống rác và sự tàn nhẫn của chính mình khi không thích con chó khôn ngoan, yêu quý, đi lang thang kiếm ăn, tìm đực. Con vật bé mọn, bị quất một cây gậy lớn đến truỵ thai. Từ đó, nó ốm đau lê lết. Tác giả muốn mua thuốc cho nó mà không tiền vì thân mình còn phải ăn nhờ bác Chánh nên đã bi phẫn than rằng: Đời sống khốn nạn này không cho phép tôi làm để tự kiếm đủ miếng sống cho chính bản thân và một con chó! …
Trong tầng trời hoàn cảnh và trường hợp nào, hễ Thế Phong dấn thân vào đều bị bao phủ bởi những oán thù, bất mãn. Oán thù những luật lệ xã hội và bất mãn với thân phận làm người.
Tập truyện Khu rác ngoại thành gồm 3 truyện ngắn, mỗi truyện đều khuấy động tự đáy tâm tư những dằn vặt, đau đớn chẳng phải cho bản thân tác giả mà còn cho xã hội. Từ khuôn mặt Thu, người đàn bà xứ Huế, vợ bạn, đã nhiều đêm nhà văn muốn mở cửa ngang lẻn sang buồng nàng để tỏ tình, trong lúc người chồng đi làm xa, đến người đàn bà xứ Quảng lặn lội vào Sài Gòn tìm việc làm tôi tớ, việc không tìm được, lại tìm đúng anh thanh niên lãng tử, để Một đêm dài tình ái xảy ra. Người đàn bà xứ Quảng cũng thuộc nòi tình, nên "điều ấy" được nói ra một cách bình thản: "Có thiệt chi đâu anh, tôi và anh đều buồn về cuộc đời cả mà. Ngủ với nhau nói chuyện cho vui. Nhất là đêm nay trời lại mưa lâm râm…" Câu nói như đưa Thế Phong vào khung trời ước muốn, như kẻ đang đi giữa sa mạc gặp hố nước, gục đầu uống no nê. Tuy cái hố nước ấy đã có người uống trước, nhưng đấy không phải điều hệ trọng, cái hệ trọng là người đàn bà đã biết rõ cuộc tình này chỉ là chuyện tạm bợ, nên vui vẻ chia tay, chỉ xin được địa chỉ thật, để có mang thai, sinh con trai sẽ báo tin chung sống lâu dài, nếu hoàn cảnh cho phép.
Trong những câu chuyện nhà văn kể ra, viết ra, đều ẩn nấp trong dó những ý nghĩ chống đối, những chua chát não nề dù đã được nguỵ trang bằng đam mê nhục dục. Những chữ, những câu dùng để tự sỉ vả, buồn thay, nó lại là những lời nguyền rủa một xã hội, một chế độ, một thế hệ vì những thứ ấy đã tạo cho tác giả trở nên như thế, trở thành như thế!
Thế Phong viết rất nhiều truyện ngắn. Mỗi truyện trình bày một nhức mỏi về cuộc đời, dù ân tình hay thất vọng. Từng vết roi do cuộc đời quất vào mặt, Thế Phong nghiến răng chịu đựng rồi trả thù bằng ngôn ngữ. Nhà văn không tạo ra cuộc sống hoặc dùng cuộc sống như điểm tựa, nhưng đích thực, Thế Phong đã ném vào cuộc sống những vốc bùn vì cuộc sống, đối với nhà văn như một địa ngục. Đi suốt cả một đời thanh niên, tìm không thấy lý tưởng, Thế Phong uất hận viết thành thơ:
… Chợt nhớ rằng tổ quốc tôi đang lầm than nên trời Sài Gòn quanh năm không cần áo ấm, kiếm miếng sống đợi chờ trong đống rác ngoại nhân. Tôi đứng bên tiềm thức Ngã Tư Bảy Hiền, thấy trẻ con lớn lên bằng những miếng bánh mì còn sót và quà đứa anh tặng em, miếng sô-cô-la lượm…
(Thế Phong, tác phẩm và cuộc đời, trang 360)
Bị ám ảnh, vây hãm quá lâu trong túng thiếu, căm phẫn nên mỗi dòng, dù thơ hay văn cũng gói ghém trọn vẹn những đối kháng tự thâm tâm của một con người đã có quá khứ.
Tác phẩm của Thế Phong còn được dịch sang Anh ngữ, phổ biến ở ngoại quốc và đăng tải trong tờ Tenggara (Mã Lai) như: Viet Nam Under Fire and Flames (Việt Nam trong khói lửa, thơ); South Viet Nam, The Baby in the Arms of the Américan Nurse (Miền Nam, đứa nhỏ trong tay cô y tá Mỹ, thơ); Thế Phong by Thế Phong (tự sự kể), Asian Morning Western Music (Sáng, Á Đông, Nhạc Tây phương, thơ), với lời tựa của Giáo sư Llyood Fernando.
Phải chăng, Thế Phong đã mang hình ảnh một Don Quichotte, chàng hiệp sĩ lang thang có gương mặt trầm buồn, đánh nhau điên cuồng với những chiếc cối xay gió trên khắp nẻo đường phiêu bạt, nhân vật điển hình trong Don Quichotte de la Manche, cuốn tiểu thuyết triết lý và châm biếm bất hủ của đại văn hào Tây Ban Nha, Miguel de Cervantès (1547-1614). Nhưng tiếc thay, không có Sancho Panca tượng trưng cho ý thức, hiện diện ở đằng sau hay bên cạnh.
Trích văn Thế Phong
… Tiếng sóng biển đưa vào bờ, chim kêu từ phía sau đồi dội lại. Đường tối của rừng nhìn ra, trước tầm mắt là biển, phía sau là đồi núi.
Nằm trong một quán nhỏ bên lề đường Nước Ngọt, dưới ánh lửa lại hoà hợp với ánh đèn le lói, anh nằm thả khói nghĩ đến chuyện tình của Diệu. Nguyên nhận thấy nàng tinh tế vô cùng. Những tấm ảnh gửi cho anh đều không có chữ. Cho đến tấm thứ ba, mở đầu bằng dăm ba chữ: cô áo đen tặng anh Nguyên. Chẳng là như trong thư gửi trước, nàng hứa chụp một bức ảnh mặc quốc phục. Và tấm ảnh ấy, nàng chụp với một người đàn bà nữa.
Nguyên cười một mình như thoả mãn với ý nghĩ của mình vừa qua.
"Em mới ở Sài Gòn ra hở, ủa, em lại qua Vũng Tàu rồi mới tới đây? Cảm ơn em đã đem rượu ra cho lão".
Ông già rót rượu đưa lên nốc, con mèo quanh quẩn lấy chân. Màu đen xẫm nắng bao trùm lấy thân lão. Nguyên bỗng nảy ra ý kiến so sánh với cuộc sống người nguyên thuỷ. Chiếc quần đùi dài quá đầu gối, chiến lợi phẩm của quân đội Pháp trao làm kỷ niệm. Chiếc dây thừng thay chiếc thắt lưng. Nguyên nhớ đến ông già kể cho nghe rằng, lão vào Nam hơn hai mươi năm trời, làm bồi cho chính phủ Pháp, chính phủ Nhật, chính phủ Tây Thuộc, và bây giờ người ta gọi lão nấu bếp cho mấy sĩ quan Hoa Kỳ ra nghỉ mát ở Long Hải. Chẳng là lão nổi tiếng nấu bếp khéo nhất vùng này. Lão bảo với anh là lão từ chối. Lão tự cho rằng đời lão đã làm bồi lâu lắm rồi. Giàu có cũng chẳng còn đến với tuổi này, xây dựng lâu đài trên mặt cát cũng bị sóng thuỷ triều đạp đổ. Tham vọng càng nhiều càng chuốc thêm sầu não. Ăn uống càng say thì càng luỵ đến chiếc dạ dày! Từ giã cả đứa con trai duy nhất có danh chức trong làng, chỉ một ý thích, lão không muốn nhờ vả ai. Lão muốn sống cô độc với nghề bốc thuốc Nam và gánh củi ra phố bán vào buổi sáng. Cho đến khi chiều tà, chim bay về núi, lão quẩy cút rượu tòng teng trên vai về mạn Nước Ngọt, lách mình vào quán hẹp độc ẩm. Con mèo dưới mương ngóc đầu lên đón chủ. Nhà lão không khoá bao giờ, cho nên Nguyên đến đây đốt lửa, ung dung ngồi đợi lão.
Lão chỉ còn con mèo. Con mèo là bạn đường của lão. Nguyên quen lão vì lần trước qua Nước Ngọt, vào xin lão hớp nước. Thấy con mèo, Nguyên ôm lấy ve vuốt. Con mèo theo Nguyên dễ dàng. Cho nên giờ đây, con mèo vòng quanh chân Nguyên, chân lão, mũi mèo thương cảm chủ bằng cách thở hơi phừn phựt, chiếc đuôi cong lên, an ủi tuổi già sáu mươi của lão. Chẳng ai biết tên thật lão là gì? Cho đến cả quá vãng của lão. Người ta gọi lão là lão Hai.
Lão Hai quý Nguyên, vì lão thấy con mèo quý anh. Lão thường tin bạn loài vật để xem người. Lão tin là Nguyên tốt, vì có thế loài vật mới chóng làm quen. Lão hỏi Nguyên về cuộc đời. Tại sao Nguyên ra đây lại đến thăm lão, vì lão hiểu anh có nhà quen, nhưng cứ đến ngủ với lão. Vậy thì anh hãy kể cho lão nghe. Lão Hai im lặng, bùi ngùi. Nhưng Nguyên không tỏ thái độ về cuộc sống gần nhất của anh cho lão biết, hay nói khác đi, đoạn đường đang đi bước xuống của mình. Có những bữa cơm ngon lành ở nhà bà cô, Nguyên lại lo cho những bữa khác. Với Tô và Thảo ở xóm Đoàn Thị Điểm. Nguyên quên làm sao được những bữa cơm bốn đồng ở quán lao động đường Bà Huyện Thanh Quan. Nguyên được chứng kiến câu chuyện của người lao động. Một anh lao động trước kia là quân nhân, hình như anh ta mắc bệnh lao, cho nên mỗi lần anh ra quán, cô chủ lại xua đuổi như ruồi. Anh chỉ tay vào thân mình Nguyên:
"Ngày xưa tôi cũng khoẻ như anh. Sau mấy năm dài kháng chiến, rồi đầu hàng Pháp, đi lính cho ông Tâm, Hữu, bây giờ mãn lính ra, chuốc vào mình bệnh lao!"
Anh ta ho. Anh ta bảo Nguyên còn tiền cho anh ta được xin ăn một quả chuối dessert thì sung sướng lắm! Bỗng anh ta đưa mắt nhìn những người lính trai tráng đang nô đùa ngoài công lộ với gái, anh cười chua chát, nói như không cần cho ai nghe:
"Chúng nó mới nghĩ có đi lên, mà chưa đến lúc nghĩ đến ngày tàn tạ như tôi bây giờ".
Tất cả… Nguyên đều không kể cho lão nghe. Cả đến những bộ quần áo mà Nguyên đang mặc là của em Hoài. Khi Phúc ở Hoa Kỳ về, anh đã lấy công khai, rồi đưa cho ông chủ thợ giặt Lý Thái Tổ sửa lại. Nguyên chưa bao giờ thấy ông chủ thợ giặt hiểu mình bằng:
"Nhà văn có lúc nghèo, lúc giàu. Nổi tiếng như Vũ Trọng Phụng cũng vậy, sở dĩ tôi biết là có ông Quý đây, bạn của nhà văn khi còn sinh thời".
Nguyên không kể cho lão nghe. Nguyên chỉ nói là mến lão và muốn an ủi cảnh già của lão. Thế thôi. Câu cuối, Nguyên đáp:
"Cháu không còn gia đình thân thích nữa lão ơi!"
Nguyên không nhớ gia đình nữa. Mười năm rồi còn gì! Biền biệt những cô đơn, chán ngán. Cả ngay đến cuộc đời anh khi còn mẹ, khi theo cha, khi ở nhà vắng cha, khi từ giã cha mẹ sang quê người. Cuộc đời của Nguyên phải chăng sinh ra là cô độc, rồi thân lập thân đối với đời. Và như thế chỉ còn có tình yêu và tình bạn. Nên những chiều đẹp nhất Sài Gòn là chiều ảm đạm của anh. Sài Gòn vào những ngày thứ Bảy, Chủ nhật, vui nườm nượp. Người nào kẻ ấy có đôi, có tình thương, dầu là giả tạo đi nữa. Dầu cuộc sống của họ là những thanh niên chưa vợ, họ cũng còn có cha mẹ, anh em, họ hàng họp nhau trong những bữa cơm gia đình để trò chuyện. Nguyên không tin rằng một số bạn bè của anh có gia đình và họ chán chường với gia đình. Nguyên thèm đổi lấy một chút đầm ấm ấy rồi sau này phải chuốc vào một công việc nặng nề, anh không ta thán một lời nhỏ.
Khi yêu Diệu, con người mà anh cho rằng trải qua nhiều mật đắng, qua phút hân hoan, đứng trên xấu và tốt, anh tin rằng họ sẽ đem lại cho anh lòng tin và an ủi. Nguyên hiểu Diệu là từ chối đấy, nhưng yêu đấy, điều cần thiết là Nguyên có tránh được mũi dùi dư luận không? Hơn nữa là phải có một công việc làm để bảo đảm hạnh phúc.
Bỗng lão khuyên anh nên lập gia đình cho có bầu có bạn, cho những phút tẻ nhạt của cuộc đời còn có người an ủi vỗ về. Lão bảo Nguyên, chiều chiều chim ở biển bay về núi, ít con không có đôi, dầu nếu không nữa, chúng có đàn bao bọc. Nguyên gật đầu tán thành, nhưng chỉ là làm vui lão. Nguyên trong tình trạng nghĩ về cuộc sống. Anh còn mất nhiều thì giờ để vượt đắng, của một hồi Maxime Gorki thân lập thân tạo một sức mạnh vũ bão. Nhưng Nguyên còn thiếu một Natacha, qua truyện một đêm thu khi gặp gỡ người đàn bà bị hắt hủi, rồi nàng đã ấp ủ cho bản thân ông một đêm. Qua một đêm truyền hơi lạnh cho nhau, để sau này ông tạo cho mình một lòng tin, sức mạnh vũ bão. Kẻ ân nhân kia, ngay sáng hôm sau và trọn cuộc đời ông tìm kiếm không bao giờ còn gặp mặt!
Nguyên và lão đang đi trên mặt bãi cát Nước Ngọt. Sóng ngoài khơi vẫn xô lấp vào bờ cao ngất. Anh đi tận mãi xa mong chờ gió lùa thật mạnh vào lồng ngực mình. Âm hưởng của một khoảng trời xa xôi đưa lại, đã qua bao nhiêu lớp lọc biển khơi. Rồi trên vầng trán thanh niên hằn lại những đường nếp nhăn của suy tư. Đời vẫn còn thiếu một Natacha, của một lần trong đời thôi, mà chưa có. Sóng gió ngoài khơi vẫn gầm thét quay cuồng như làm chuyển động cả một sự não nùng. Tiếng gió ru bất khuất. Nhưng làm sao có phương kế xoa dịu lòng mình như mặt biển sóng bằng!
Tấm ảnh khiến cho Nguyên say
mê điên dại, cuồng loạn, nhất là tấm ảnh Diệu gửi cho anh vào những ngày gần cuối
năm. Tấm lưới chụp phủ lên mái tóc, làn da, khuôn mặt có đôi mắt đa tình ấy. Và
còn một bông huệ trắng cài. Và còn nữa, những dòng chữ ân tình cao đẹp: "Ảnh
chụp tại phi trường Kaitak, 11 tháng 5 ở Cảng Thơm. Thời gian qua, người càng
già, càng xấu và càng dễ ghét".
Nguyên đã tự thưởng mình bằng cách lên phố mua thuốc lá thơm, mua sách, mua tấm kính lồng vào khung tấm ảnh kia đặt trên bàn viết. Với số tiền ba trăm định để dành cho công việc gì đó mà anh cũng chưa biết. Nhưng anh tiêu vào kỷ niệm ấy cho lòng mình giải thoát, cảm ơn đời đã cho mình một kỷ niệm đẹp vô cùng. Nguyên còn vào thư viện để thoả lòng yêu Diệu, thì anh gặp một cô bạn học cũ ngày xưa. Mỏng manh, vì đây là lần thứ nhì gặp gỡ. Nguyên được biết nàng có cảm tình với nhà văn. Sau này, Nguyên viết một truyện ngắn lưu niệm một mối tình của nơi đây qua một tiêu đề "Người kỳ nữ sông Kỳ Cùng". Nguyên trở về nhà trọ. Anh đã dọn nhà về xóm Đạo, sau khi Hoài phải đổi lên Pleiku. Sở dĩ có tiền do nhà xuất bản Lê Thoan đưa trả anh một số đặt trước cho tác phẩm.
Nguyên nhớ lần trước, anh viết thư trả lời Diệu hơi ác ý và trịch thượng đối với tình yêu. Nghĩa là sau khi đọc những thư của nàng, Nguyên biết nàng có cảm tình với mình. Anh hạ bút:
"Trong đời nhà văn của mình, chưa bao giờ có chìa khoá để tả một cặp thất tình. Và quả là vẫn chưa có cơ hội Diệu ạ. Muốn tả lại tình tiết của nhân vật bị tình yêu cho ăn vọt, hẳn rằng tối thiểu phải có có hội sống, rồi từ đấy mới tưởng tượng được. Phải không Diệu?".
Nguyên ray rứt bồn chồn. Mình yêu nàng vẫn trịch thượng như bao nhiêu mối tình khác. Nhưng Diệu đã hơn họ là mình ngỏ tình yêu trước. Không hiểu sao lần này anh lại biên thư cho nàng, hỏi về truyện hai đứa cho kia có phải gái không? Anh hồi hộp mong rằng tin đưa lại đúng như mình nghĩ. Nguyên đọc lại "Sống nhờ" của Mạnh Phú Tứ để giải quyết về mối tình kia cho có phần ổn thoả. Nhân vật Dần trong "Sống nhờ" lần này cảm thông với anh sâu xa. Nguyên thú thật để mà nói với Diệu rằng, vai Dần làm anh thương xót. Anh phải có một chính sách để đối với hai đứa con nàng cho gia đình êm thấm. Nhưng ý nghĩ ấy mới hình thành trong "Nhật ký" chưa gửi cho Diệu bằng thư. Rồi anh lại kể, so sánh mối tình đẹp như Zadsekine và Prétovich của Tourgueniev trong "Mối tình đầu". Rồi lại gạt đi vì cho rằng mối tình kia có đẹp chăng nữa, thì họ có lấy được nhau đâu? Anh lại đem mối tình ấy ví với A. Musset và George Sand, sau Nguyên lại kết luận rằng Chopin là người được G. Sand yêu hơn và cuối cùng nàng vẫn thương con hơn hết…
Thường thường vào những ngày thứ Sáu trong tuần, anh nhận được thư Diệu. Cho nên với anh ngày ấy, anh cho là thứ Sáu ban ân lành, dọn mình để nhận thư từ phương xa đưa lại…
Nguyên đã tự thưởng mình bằng cách lên phố mua thuốc lá thơm, mua sách, mua tấm kính lồng vào khung tấm ảnh kia đặt trên bàn viết. Với số tiền ba trăm định để dành cho công việc gì đó mà anh cũng chưa biết. Nhưng anh tiêu vào kỷ niệm ấy cho lòng mình giải thoát, cảm ơn đời đã cho mình một kỷ niệm đẹp vô cùng. Nguyên còn vào thư viện để thoả lòng yêu Diệu, thì anh gặp một cô bạn học cũ ngày xưa. Mỏng manh, vì đây là lần thứ nhì gặp gỡ. Nguyên được biết nàng có cảm tình với nhà văn. Sau này, Nguyên viết một truyện ngắn lưu niệm một mối tình của nơi đây qua một tiêu đề "Người kỳ nữ sông Kỳ Cùng". Nguyên trở về nhà trọ. Anh đã dọn nhà về xóm Đạo, sau khi Hoài phải đổi lên Pleiku. Sở dĩ có tiền do nhà xuất bản Lê Thoan đưa trả anh một số đặt trước cho tác phẩm.
Nguyên nhớ lần trước, anh viết thư trả lời Diệu hơi ác ý và trịch thượng đối với tình yêu. Nghĩa là sau khi đọc những thư của nàng, Nguyên biết nàng có cảm tình với mình. Anh hạ bút:
"Trong đời nhà văn của mình, chưa bao giờ có chìa khoá để tả một cặp thất tình. Và quả là vẫn chưa có cơ hội Diệu ạ. Muốn tả lại tình tiết của nhân vật bị tình yêu cho ăn vọt, hẳn rằng tối thiểu phải có có hội sống, rồi từ đấy mới tưởng tượng được. Phải không Diệu?".
Nguyên ray rứt bồn chồn. Mình yêu nàng vẫn trịch thượng như bao nhiêu mối tình khác. Nhưng Diệu đã hơn họ là mình ngỏ tình yêu trước. Không hiểu sao lần này anh lại biên thư cho nàng, hỏi về truyện hai đứa cho kia có phải gái không? Anh hồi hộp mong rằng tin đưa lại đúng như mình nghĩ. Nguyên đọc lại "Sống nhờ" của Mạnh Phú Tứ để giải quyết về mối tình kia cho có phần ổn thoả. Nhân vật Dần trong "Sống nhờ" lần này cảm thông với anh sâu xa. Nguyên thú thật để mà nói với Diệu rằng, vai Dần làm anh thương xót. Anh phải có một chính sách để đối với hai đứa con nàng cho gia đình êm thấm. Nhưng ý nghĩ ấy mới hình thành trong "Nhật ký" chưa gửi cho Diệu bằng thư. Rồi anh lại kể, so sánh mối tình đẹp như Zadsekine và Prétovich của Tourgueniev trong "Mối tình đầu". Rồi lại gạt đi vì cho rằng mối tình kia có đẹp chăng nữa, thì họ có lấy được nhau đâu? Anh lại đem mối tình ấy ví với A. Musset và George Sand, sau Nguyên lại kết luận rằng Chopin là người được G. Sand yêu hơn và cuối cùng nàng vẫn thương con hơn hết…
Thường thường vào những ngày thứ Sáu trong tuần, anh nhận được thư Diệu. Cho nên với anh ngày ấy, anh cho là thứ Sáu ban ân lành, dọn mình để nhận thư từ phương xa đưa lại…
(Trích Nửa đường đi xuống, từ
trang 403-410)
Bùi Giáng
Bùi Giáng và thủ bút
Sinh ngày: 17-12-1926 tại Quảng Nam
Tác phẩm:
1. Lá hoa cồn (Thơ)
2. Thi ca tư tưởng (Đi vào cõi thơ), Nhà xuất bản An Tiêm, 1969
3. Sa mạc phát tiết (Thơ), Nhà xuất bản An Tiêm, 1969
4. Martin Heidegger (Vấn đề căn bản của Siêu hình học), Nhà xuất bản Võ Tánh, 1969
5. Mùa thu trong thi ca (Tư tưởng và thơ), Nhà xuất bản An Tiêm, 1970
6. Sa mạc trường ca (Thơ), Nhà xuất bản An Tiêm, 1970
7. Ngày tháng ngao du, NXB An Tiêm, 1971
Bùi Giáng - Người thi sĩ chối bỏ thi ca
Bùi Giáng (trung niên thi sĩ), thuở còn bé, ham đọc thơ. Bỏ học về nhà quê chăn trâu. Làm thật nhiều thơ, thân tặng chuồn chuồn và châu chấu.
Bùi Giáng đã tự giới thiệu với dòng chữ trên, được in ở mép bìa tập thơ Sa mạc phát tiết do nhà An Tiêm xuất bản năm 1969. Lời giới thiệu đó cũng là ý hướng tỏ bày quan niệm về chiều hướng thi ca của thi sĩ. Cõi sống này không làm gì còn ai, có ai biết và hiểu thơ nữa, nên người thơ đành gửi tinh hoa, huyết lệ mình cho đám côn trùng đồng nội! Mỉa mai thay, Bùi Giáng! Đi già nửa vòng đời với gần 30 năm đọc sách, làm thơ, để hôm nay nói lên lời cay độc! Bùi Giáng đã sử dụng cái tinh thể của ngôn ngữ để đạt tới thượng đỉnh của suy nghĩ, nhưng không cần ai biết suy nghĩ đó để làm gì? Thơ với Bùi Giáng, đích thực không phải cứu cánh, chỉ được thực hiện nhằm giải tỏa ám ảnh về thân phận trong vòng đai cuộc sống nhiều băn khoăn với ý thức siêu hình. Cái sa-mạc-cõi-đời-thế-giới-hôm-nay đầy ngụy trang, bất trắc. Nó u tối như vùng địa ngục, nếu không, cũng rừng rú man rợ, hỗn loạn trước mắt nhìn thi sĩ.
Bùi Giáng - người thơ, không ở trong trạng thái bình thường cả tâm hồn lẫn nghệ thuật. Sự đòi hỏi về mình, cho mình cái tuyệt đối trong sáng tạo là yếu tố căn bản cho mỗi cá nhân làm văn học, nghệ thuật. Tuyệt đối, con người từ vạn cổ đã đi tìm tuyệt đối. Nhưng tuyệt đối cũng như chân lý, chúng không phải vật thể để con người có thể dùng mắt nhìn, dùng tay sờ, dùng trực giác phán đoán và phân tích chúng qua suy luận. Tuyệt đối là vô hình, vô ảnh. Nó sống do mơ ước, cũng chết theo mơ ước! Cũng chính vì con người ham tìm tuyệt đối nên mới nảy sinh tiến bộ. Cái tuyệt đối biến mất, và trở thành tương đối lúc con người tưởng rằng đã tới nó. Vậy, cái điều thi nhân mơ ước giữa cõi Thơ, đi tìm tuyệt đối trong tư tưởng, ngôn ngữ, mãi mãi chỉ là thất bại! Điều này, khi luận về chữ "Đạo" Lão Tử đã nói:
…"Có một cái nó bao gồm hết thảy, nó sinh ra trước khi có Trời có Đất. Nó yên tĩnh biết bao! Nó trơ trọi biết bao! Nó đứng một mình và không thay đổi. Nó hồi chuyển về bản thể của nó không một chút nguy hại và nó là Mẹ của Vũ Trụ. Ta không biết tên nó, nên gọi nó là "Hành Lộ" là "Đường Đi"(the Path). Miễn cưỡng ta gọi nó là "Vô Cùng Tận" (the Infinite). Vô Cùng Tận là Phù Du (Fleeting); Phù Du là Tiêu Tán (the Vanishing); Tiêu Tán là Phản Hồi (the Reverting). Đạo ở "Thông Lộ" (Passage) hơn ở trong "Hành Lộ" (Path). Nó là tinh thần của "Vũ Trụ Biến Hóa", – sự sinh trưởng không ngừng luôn luôn quay trở về bản thể để sinh sản ra những hình thức mới. Nó cuộn mình lại như rồng, biểu tượng sở thích của môn đồ Đạo gia. Nó cuốn lại và tỏa ra như mây. Có thể ví Đạo như cuộc Biến Thiên Vĩ Đại. Theo chủ quan, nó là khí chất của Vũ Trụ. Tuyệt Đối của nó là Tương Đối…
(Trà đạo - Tiểu luận, trang 53-54, Okakura Kakuzo, Bảo Sơn dịch)
Thơ có phải là Đạo? Không, thơ không phải là Đạo nhưng nó sinh hoạt tương tự như Đạo, nghĩa là nó cũng đi tìm cái biến thiên vĩ đại trong cõi mông lung Trời Đất. Nó đi tìm niềm Tin trong mắt nhìn, hồn nghĩ. Cái niềm Tin đó không lệ thuộc vào nguyên tắc hay giáo lý của Đạo Pháp mà nó phiêu phiêu giữa ý thức của cá nhân, trong cái Nhìn và cái Nghĩ về Vũ Trụ đối chiếu với bản-thể-đời-sống. Người thơ vừa đóng vai Giáo Chủ vừa làm tín đồ ngoan đạo. Thơ, tiếng nói siêu ngôn ngữ. Cái giá trị mỹ cảm của nó, không lệ thuộc vào sự thẩm xét có tính cách thông thường mà thuộc về cái-gì-bền-bỉ và cao-đẹp-nhất của con người trong địa hạt suy tưởng. Thơ, không phải là cơ hội giải trí, nó có tính cách sùng mộ. Trong thi ca, cái đẹp không nhất thiết phải có Chân, có Thiện. Nó được quan niệm rộng rãi hơn, tự do hơn và vượt trên những thứ đó. Bởi vậy, sự dấn thân của thi nhân không phải để giành về phần mình những đặc ân, mà chính để ban phát đặc ân cho kẻ khác, còn mình chỉ thâu nhận khổ đau, khắc nghiệt.
Nói vậy, không hàm chứa ý nghĩa tuyệt đối của mỗi số phận thi nhân ở môi trường thi ca, mà nhằm tỏ bày ý niệm. Bùi Giáng, người làm thơ đã chối bỏ thi ca vì đã nhìn rõ cái mong manh của ngôn ngữ trước Định Mệnh và cõi Siêu Hình. Có lẽ, vì chịu ảnh hưởng quá nhiều các triết thuyết Tây phương và gần đây của Đông phương, nhất là giáo lý Phật giáo, nên người thơ đã đánh mất bản ngã, để chịu giày vò trong "vòng quay" của các nhà đại-tư-tưởng cả Đông lẫn Tây, làm cho ngơ ngác. Nhưng ác thay, cũng nhớ nó, để có vóc dáng đặc biệt Bùi Giáng hôm nay:
… Chân nhân đời xưa đưa ra một "chủ thuyết" nào đó, đều có như là tình phi đắc dĩ? Chẳng đừng được mà phải nói. Nói ra, mà vẫn có chỗ như là chẳng muốn nói ra.
Chẳng đừng được mà phải nói tới nhân nghĩa, lễ nghĩa, như Khổng Tử. Chẳng đừng được mà phải nói bỏ nhân nghĩa, lễ nghĩa đi, như Lão Tử. Chẳng đừng được mà viết Tề Vật Luận, như Trang Tử. Trang Tử thường dùng phép "Chi ngôn", ấy là bởi ông đứng ngay giữa cơn lốc của sự tình bất đắc dĩ: muốn gác bỏ chuyện thị phi, mà vẫn cứ bị bó buộc phải nêu mãi chuyện thị phi…
… Sau ba cái khối Khổng, Lão, Trang, tư tưởng Trung Hoa đã đi vào phiên nhiên trong cung bậc Đường Thi. Rồi nó kết tinh trong truyện Kiều của Nguyễn Du. Truyện Kiều là chỗ dung hợp của Khổng, Lão, Trang và Phật.
Người tư tưởng sẽ không còn dám viết gì về tư tưởng nữa. Trang Tử tái sinh sẽ nghĩ sao về cuốn Nam Hoa Kinh của ông? Ông sẽ viết một bộ Tân Nam Hoa Kinh, hay là ông hồn nhiên ngâm câu thơ Hồ Dzếnh?
"Thơ về nắng sáng lừng bay
Gấp đi ánh phượng cho ngày rạng ra".
Hoặc câu thơ của Xuân Diệu:
"Trưa hôm nay con ngồi như trẻ nhỏ
Giữa đáy trưa trong lòng mẹ vô cùng.
Con là sáo mẹ là ngàn vạn gió
Mẹ là trời con là hạt sương rung
Sương uống mãi chẳng bao giờ hết sáng
Của trời cao chói lọi mỗi triều ngày
Sáo ca mãi lòng tre run choáng váng
Gió vẫn đầy ngàn nội bốn phương bay"
Thơ như thế là cái chốn của "tâm vô thố hồ thị phi, hưu hồ thiên quân.
(Thi ca tư tưởng)
Chính vì say mê triết thuyết này nọ, nên Bùi Giáng bị ám ảnh đến nỗi nghi hoặc cả thi ca và càng lúc, càng đưa thi ca vào vùng trời u mặc để cười giỡn cho vui, vì đời là chiêm bao cả! Cái Có, cái Không, cái Còn, cái Mất hàm trong tinh thể của Tạo Hóa mà sức người không có cách nào làm cho lay động! Đúng, Bùi Giáng đã đi vào chiêm bao giữa cuộc sống vì cuộc sống vừa khủng khiếp vừa nên thơ, con người không thể dùng luận lý để biện minh phải trái. Nhưng dù nói gì mặc lòng, đích thực Bùi Giáng bị cái hàng rào triết học bủa vây thật chặt chẽ. Giả dụ, Bùi Giáng không đọc sách Triết, hoặc chú trọng tới vấn đề Siêu hình mà chỉ làm thơ thôi, chắc thơ Bùi Giáng không mang sắc thái độc đáo với tinh thần u mặc thâm thúy của Lão Tử, kèm theo đấy, nào Platon (triết gia Hy Lạp, môn đồ của Socrate và là thầy của Aristote), nào Parménide, Nietzsche, Dylan Thomas, Rilke, Hoelderlin, Baudelaire, v.v. là những khuôn mặt lớn của Tư Tưởng và Thi Ca Thế Giới để chứng tỏ khả năng hiểu biết của mình. Đôi lúc, người thơ cũng bị lôi cuốn vào khung trời quái dị qua hình ảnh "thiên tài đày đọa" Edgar Allan Poe, người đã có những tưởng tượng dị thường với cái nhìn ma quỷ, luôn luôn bị ám ảnh bởi các "thiên thần kỳ quái" trong kích thước văn nghệ quốc tế.
Thơ Bùi Giáng súc tích, chứa đựng nhiều u uẩn. Cái khung trời sáng láng, hiền hậu, chan hòa mơ ước phiêu bồng của buổi nào xa xôi, vẫn thấp thoáng hiện về trong thi nhân qua những vần điệu:
Rồi mai đi về xứ nào chẳng biết
Đỗ quang ôi và có lẽ quyên ôi
Đi lìa xa xứ sở của mặt trời
Thì chuyện cũ cũng như từng chưa biết…
Ngày mai, ôi! ngày mai khi con người lìa xa cuộc thế, khi mắt đã nhắm không còn nhìn thấy mặt trời cùng người quen, kẻ lạ, thì còn nói làm chi cũ, mới? Cái chết nào đó chết biết từ đâu tới làm mờ mịt cõi nhân gian! Nó làm người đi quên hết, quên "dấu tiên sa" và "đông tàn thu gãy", cả chút tình Đông Á cũng trôi vào về xứ nào mù thẳm, nhưng xin em, người yêu dấu, còn ở lại cõi đời cứ nô đùa, cười vui như chuyện qua rồi:
Tôi chẳng rõ cội nguồn tôi ly biệt
Dấu tiên sa và ngấn tích tiên nga
Bờ dạt bèo hay bến lạnh trôi hoa
Ngày ngóng mộng hay đêm chờ máu chảy
Xuân thơ dại hay đông tàn thu gãy
Chút tình xưa Đông Á mất đâu rồi
Rồi mai đi về xứ nào chẳng biết
Những người em hãy ở lại bên đời
Nô hay đùa xin cứ mỉm hai môi…
(Sa mạc phát tiết)
Sự đi, ở tùy số mệnh, nhưng người thơ sở dĩ phải nói ra để chứng tỏ, mình đã sẵn sàng chờ đón nó, không hề sợ hãi. Vì thế mỗi lời nói, mỗi chữ viết, mỗi ý nghĩ tuy cay đắng, nhưng vô cùng thành thực. Sống và chết, hai vấn đề cùng chung định lý: có sinh phải có tử. Vì ý thức rõ ràng, nên người thơ thung dung tỏ bày tâm sự:
"Thưa em rượu uống bây giờ
Là trăm năm gục hai bờ tử sinh…"
"Thưa em rượu uống bây giờ
Là thiên cổ lụy còn trơ bên mình…"
"Thưa em rượu uống bây giờ
Là trong lát nữa lên bờ đuổi ma…"
"Thưa em rượu uống bây giờ
Là thiên thu lại còn trơ hận trường…"
(Sa mạc phát tiết, Rượu uống)
Bài "Rượu uống" hàm chứa một ý tình tuy can đảm, nhưng quả thực thê lương. Nếu đời sống chỉ được sinh ra để chờ đợi cái chết, chắc chẳng còn ai muốn có mặt ở cõi đời này cho mệt xác. Mọi cuộc đua tranh, mọi cố gắng để làm cho cuộc sống mỗi ngày mỗi tốt đẹp hơn cũng là thừa. Nhưng may mắn thay, cái tinh thần hoài nghi và bi quan ấy không phải là giáo điều cho mỗi kiếp người. Nó chỉ được phát sinh trong một cảnh huống, một trạng thái bất thường của cá nhân thi sĩ. Có thể nó bi quan, yếm thế và người thơ cấu tạo cũng nhằm mục đích tác động riêng mình bằng buồn đau, giận hờn cho khuây khỏa xót thương. Sự chấp nhận hay không, thuộc quyền người thưởng ngoạn.
Con người cô đơn, mãi mãi cô đơn vì mỗi con người, tự nó đã là điều xa lạ. Chính vì mặc cảm cô đơn nên con người cảm thấy nhỏ bé trước rộng lớn của Vũ Trụ. Sự hiện hữu nào đó, có nghĩa gì đối với Sa-Mạc-Hư-vô? Con người sợ Hư Vô, nhưng vẫn muốn tìm hiểu Hư Vô là cái gì mà khiếp đảm thế? Con người phải dùng đến suy luận để giải đoán băn khoăn qua môn học Siêu Hình. Đã bao nhiêu thế kỷ, qua nhiều công khó tìm tòi nghiên cứu mong đem lại một định nghĩa rõ ràng, để ấn định minh bạch cương vị con người và linh hồn trước Vũ Trụ. Nhưng cho tới nay, hình như các nhà đại-tư-tưởng vẫn chỉ đưa ra những nguyên cớ siêu hình mà chưa đạt tới cái tinh thể siêu hình tức là giá trị tâm linh và chu kỳ con người trước Hư-Không-Tuyệt-Đối. Bởi vậy, Bùi Giáng khuyên mọi người đừng nói làm gì đến giao hưởng, đến Tồn Tại và Hư Vô. Bận tâm làm gì cái Nếp Gấp Siêu Hình "bất khả tư nghị" trong Sein und Zeit, trong Holzwege hoặc trong Der Satz vom Grund. Sống trong cái cõi "tư lự dị thường đó" mệt lắm! Nó trừu tượng quá. Nó bao trùm mọi sinh hoạt tâm tư và ngoại giới, ngay cả ngôn ngữ nữa. Cái sa mạc Chân-Không-Tịch-Mịch chắn ngang tầm suy nghĩ đã có đủ những đau đớn rồi đó. Ngay cả Heidegger, một trong những triết gia đã cấu tạo nên triết thuyết Hiện Sinh, một nhà Đại-Tư-Tưởng chẳng những của Đức Quốc mà còn của thế giới nữa, người đã mở ra được một chân trời siêu hình rộng rãi nhất, nhưng từ xa, con người u mê đứng ngắm mãi vẫn chẳng thấy vóc dáng mình đâu! Bùi Giáng cũng đề cập đến vấn đề căn bản của Siêu Hình Học qua Heidegger mà người thơ đã chịu ảnh hưởng nhiều trong ý hướng thi ca. Điều này, trái ngược hẳn với Nguyên Sa, học Triết và dạy Triết, nhưng làm thơ rất trữ tình, không để lộ chút gì dính dấp giữa thi ca và triết học. Có lẽ Nguyên Sa đã quan niệm rõ ràng, mục đích của triết học là đi tìm cái nguyên nhân đầu tiên còn nghệ thuật là sáng tạo và phát huy chăng?
Bùi Giáng đi vào trời Thơ như một trận hiện diện dị thường trong khiếm diện, gây nên một tình tự vừa hoang vắng vừa chan hòa, một khuyết phạp thường hằng lại để mọc ra sum suê những lá cây viên mãn cứ xô ùa nhau đụng mãi:
Hồn tại thể tan lìa trong điệu ấy
Vâng là rằng không ấy phủ mây xuân
Núi bất tuyệt mưa đầu truông phượng dậy
Bước lên miền lũng thẳm bạch dương thân
Cỏ phát tiết bờ khơi sông dẫn sóng
Biển lên trời đầu ngọn mở nghe chim
Đất từ tạ Lam Kiều ngân nguyệt vọng
Nắm xuân xanh về giữa tối khuya tìm… Ngôn ngữ trong thơ Bùi Giáng đi vào cõi suy tưởng. Ở đấy, người thơ như bị cấu xé giữa Thực và Mộng. Tiếng thơ buồn bay lang thang trong vòm cong trí tuệ để bất chợt vượt thoát ra khỏi kiềm tỏa tung vào quỹ đạo dự ước, trong tâm cảm người thơ. Giữa cái say sưa vô độ, linh hồn bay lả lả, ngất ngất trong cõi rộng rinh ảo tưởng. Nó là một tư lường không định trước. Từ một khắc khoải đơn sơ đi vào thênh thang mộng mị đầy hào quang diễm lệ:
… Khung cảnh hẹp tờ bay trong mấy ngón
Chết là gieo vàng lộn mấy phen rồi
Sầu nhan sắc đèn lay trong mấy ngọn
Đến năm sau chờ buổi trước không lời
Nhưng màu lá nhớ màu cây đầu ngõ
Thị thành vui gì sắp sửa sang đèo
Gió khuyến khích trong dập dồn hiểm họa
Hồn thu phong trường kiếm dựng cho bèo…
(Sa mạc phát tiết, Phát tiết)
Cuộc sống là trò chơi, thay đổi bất tường trong mỗi giờ phút, nhan sắc chỉ là hư ảnh, cũng như dấu bèo in trên mặt nước làm uổng đi cái khí phách "thu phong trường kiếm". Chết là gieo vàng, là luân hồi tiền kiếp mấy phen rồi sinh tử? Vì:
Con chim sầu tuyết băng nguồn
Mở heo hút cỏ phơi truồng đá xanh
Trên vòm thời đại đi quanh
Rách quần quỹ đạo tan vành nguyệt hoa…
(Sa mạc phát tiết)
Bùi Giáng đã thấy rõ thân phận mình với chu kỳ góp mặt và thấp thoáng cõi hư vô mở rộng bát ngát làm choáng váng mặt mày. Để chứng minh sự có đấy, Bùi Giáng luôn luôn đòi hỏi về phần mình cái nguyên cớ đầu tiên của lẽ sinh tồn, giữa vũ trụ thuần nhất, bất khả phân, bất biến của Aristote. Cái cõi vô hình, vô ảnh nó làm thi nhân cảm thấy thương thật đấy, nhưng nó là vùng sa-mạc-hoang-liêu chẳng ngào ngạt hương hoa và chất ngất mến thương. Giữa ý nghĩ mơ hồ của tiềm thức, chợt nở lên đóa hoa tâm ý: tình yêu và thương tiếc, cả hai vòng tử sinh quấn quít, như tinh thể giao hòa cùng bản thể giữa vòm trời hiền hậu:
Vì ảo mộng ở chân mình đi tới
Bước chân trời muôn hướng gọi mây xanh
Nên mùa nọ đường nằm canh ngõ lội
Đến tìm nhau ở dưới bóng thiên tài…
Em gục khóc, em mỉm cười với mộng
Với môi răng và khóe hạnh mày ngài
Với dáng dấp tuổi rằm trăng lay động
Sầu nguyên tiêu tư lự nước trôi dài…
(Sa mạc phát tiết, Dặm mòn, LHC)
Tự cổ, mối sầu có cùng với bao niềm ăn năn vì đã trót làm kiếp thi nhân. Con người đi từ cuộc sống vào chiêm bao hay trái lại, nhưng trong địa hạt thi ca đích thực con người đi tìm đau khổ và thất bại! Cái vùng trời Siêu-Thoát, cái Sa-Mạc-Hư-Không mà người thơ thong dong bước vào, mong tìm thấy chân lý, chao ôi! nào ngờ phải gặp lại tiền kiếp hoang vu, cùng với bàng hoàng, điên điên tỉnh tỉnh, mập mờ không phân định. Nó là Vô Thường đó! Một khi đối diện với nó, ở trong nó rồi thì không còn chi thắc mắc, không còn gì thiết tha, ân cần, vồ vập.
… Nếu giả sử mùa xuân thu lại căn cơ thiết lập mọi cuộc cơn tồn sinh tồn hoạt, thì cái sự vụ bàn hư luận tới nó, có thật là thập phân tầm phào lẩn thẩn? Không còn dâu biển thì mất luôn cả trường sinh tử diệt phù du? Mọi mọi mất hết cả, thì còn lại riêng một cái chi? Mọi mọi mất đi, chẳng lẽ duy chỉ còn riêng Cô Em Mọi Nhỏ? Hỡi ôi!…
(Mùa thu trong thi ca)
Bùi Giáng đi vào thơ, luôn luôn đeo bên mình niềm ám ảnh của thần học để giãy giụa trong đó với băn khoăn, tuy trong thâm tâm, một thoáng nào đó, cũng muốn buông xuôi cho nhẹ nợ. Bùi Giáng đối thoại với Nietzsche, Sophocole, Parménide, Khổng Tử, Lão Tử, Sartre, Camus, v.v. lại còn trò chuyện với Brigitte Bardot, với Marylin Monroe, cô đào chiếu bóng đã tự tử ở bên trời Mỹ quốc năm nào, và cô em Mọi nhỏ cùng "Phùng Khánh mẫu thân" nữa:
… Nhiều người hỏi tôi có quả Phùng Khánh đã có đẻ tôi ra đời chăng. Bà đẻ tôi ra lúc nào?
Sự thật là Phùng Khánh chẳng hề có đẻ ra tôi một phen nào cả. Tôi nay bốn mươi bốn tuổi đầu. Phùng Khánh chỉ mới hai mươi sáu tuổi. Làm sao một thiếu nữ hai mươi sáu tuổi lại có thể đẻ ra một ông cụ luống tuổi bốn mươi bốn, bốn mươi lăm?…
… Thế thì bởi đâu Phùng Khánh lại là mẫu thân của tôi mặc dù bà không đẻ ra tôi? Ấy là bởi cái đường tơ luận lý học như thế này: Phùng Khánh vốn là bà mẹ Việt Nam. Vậy tất nhiên Phùng Khánh là mẹ của tôi vậy. Nếu tôi không nhận Phùng Khánh là mẹ, thì chẳng ra tôi là người nào? Hoặc người Cao Miên. Hoặc con dân Âu Mỹ ư?… Huống nữa là: Phùng Khánh là bà mẹ của loài người. Tôi là con người. Vậy Phùng Khánh là mẹ của tôi. Nếu tôi không phải là con của Phùng Khánh, thì chẳng ra tôi chẳng phải là con người? Chẳng ra tôi là con vật?
Phân tích nghiêm mật luận lý học ra như thế, rành rành Phùng Khánh là Mẹ của tôi.
… Mỗi khi tôi mơ màng nghĩ tới dung nghi diễm lệ Phùng Khánh thì dòng thơ bát ngát lại tuôn ra ào ào. Vậy thì hiển nhiên tài của tôi là do liên tồn Phùng Khánh đẻ ra vậy…
(Thi ca tư tưởng)
Người thơ đã sử dụng luận lý học để giải thích về "mẫu thân Phùng Khánh". Nó thật hay đùa? Nó là chiêm bao hay thực tại? Nó là sự mất thăng bằng trí não hay công việc thuần túy của luận lý học? Sự vụ này lạc quan hay bi quan? Là thất bại hay hy vọng? Dù nó là gì đi nữa, ít nhất, thi sĩ cũng đưa ra một mẫu người để bấu víu vào mà lý luận qua thi ca cho đỡ buồn, cũng như Nietzsche đã dùng Zarathoustra để khai triển thuyết siêu nhân và ý lực của quyền uy, qua tập văn vần trong khung trời triết học Tây phương. Mục đích và giá trị tuy khác nhau nhưng ý hướng là một.
Có người cho rằng, Bùi Giáng lập dị. Có người nói, vì mất thăng bằng trí não nên thi nhân mới nảy sinh ý nghĩ bất bình thường qua ngôn ngữ thi ca. Bệnh hoạn, điều may mắn hay bất hạnh cho mỗi con người làm văn học, nghệ thuật? Nếu không vì bệnh hoạn, làm sao Hàn Mặc Tử có thể chuốt sáng trời thơ Việt Nam qua ngôn ngữ thống thiết, nghẹn ngào. Tiếng thơ Hàn Mặc Tử kêu khóc không thôi từ mấy chục năm rồi đó! Cái vừng trăng lạnh lẽo mơ hồ lần quanh trái đất với chu kỳ đều đặn kia, đã dìm chết thi hào Lý Bạch dưới đáy nước đêm nào với cơn say chưa dứt. Nó còn làm thể xác Hàn Mặc Tử đớn đau đến tột độ, mỗi lần nó "lên ngôi" nên tự đáy lòng người thơ bật lên vần điệu vừa ghê rợn vừa nguy nga:
Gió rít từng cao trăng ngã ngửa
Vỡ tan tành vũng đọng vàng khô
Ta nằm trong vũng trăng đêm ấy
Sáng dậy điên cuồng mửa máu ra…
(Say trăng, Hàn Mặc Tử)
Và thi nhân đã hơn một lần, xin chị Hằng tha thứ cho bàn tay tội lỗi của mình đã kẻ lên trăng những ngôn từ si mê, cuồng dại! Cái khuôn mặt xanh xao ấy, tạo nên bao nhiêu mộng mơ cho kiếp làm thơ? Vùng ánh sáng mát dịu chảy từ trời cao đối với thi nhân là mơ, là mộng, là nguồn yêu thương vô lượng. Giữa cõi thinh không mù khơi, dòng Ngân Hà xa xôi quá, các vì tinh tú lạnh lẽo quá, không làm cõi nhân gian ấm áp hằng đêm, chỉ có vầng trăng treo lơ lửng với bí mật quyến rũ qua trí tưởng tượng của thi nhân mà thôi. Nhưng đau thay, khoa học đã làm trăng mất hẳn nét thiêng liêng từ khi có bàn chân nhân thế bước chậm chạp trên thân thể chị Hằng và còn để lại dấu tích đến bao lâu nữa?… Bích Khê cũng vì bệnh lao, tạo nên tập Tinh huyết. Phạm Hầu, họa sĩ kiêm thi sĩ, chết vì bệnh thần kinh tại nhà thương Vôi (Bắc Giang) cách đây mấy chục năm, cũng để lại ít bài thơ bất hủ. Vậy, bệnh hoạn đâu phải là một đọa đày toàn diện cho mỗi số phận tài hoa? Cái thân xác đầy tội lỗi, nhơ nhớp có đáng gì, mà phải quan tâm. Người thơ bước trên mặt trái đất nhưng tâm hồn bay bổng giữa thinh không. Một khung trời sáng tạo chói lói có muôn vạn ánh hào quang rực rỡ – vì mặt trời thì bị nhân gian hãm giữa trái tim – để rọi vào hố thẳm nhân gian từng ý nghĩ tuyệt vời, diễm lệ. Bùi Giáng làm thơ, nhưng chẳng bao giờ thừa nhận thi ca là lẽ sống duy nhất của đời mình. Người thơ coi kiếp sống như một hiện hữu bất đắc dĩ, nên làm thơ cho khuây khỏa ám ảnh, cái ám ảnh thực sâu đậm, bi thương giữa cõi đời hỗn mang và suy tưởng thuần khiết. Bùi Giáng cho rằng, con người đã đánh mất cái nghĩa thiêng liêng của nó rồi. Nó không còn linh hồn nữa. Nó được chỉ huy và phán xét bằng ước lệ. Nó tàn nhẫn, độc ác ngay với chính nó. Thời đại hôm nay đã in đậm vết tích rừng rú với hổ, báo, heo, v.v, Con người biến thành dã nhân tự bao giờ chẳng biết! Bùi Giáng thoát hồn vào ảo giác để nhận ra sự thật:
Trần gian rộng rộng hơn nhiều nữa
Mênh mông hơn và bát ngát mây hơn
Thì thua kém hay so le tàn úa
Thì thế thôi giới luật cũng phiêu bồng
Một mây chiều nguyệt có khổ buồn không?
(Mùa thu trong thi ca, Vì như vậy)
Thua kém, so le, tàn úa cũng vậy cả thôi. Cái phù du mệnh số đi song hàng với rộng rộng trần gian thì con người lấy gì để cưỡng chống, lấy gì để sinh tồn qua kiếp trăm năm? Và Thượng Đế kia, Đấng Tối Cao, Tối Linh mà con người hằng kính cẩn, liệu có còn giữ nguyên tín mộ?
Hỏi: Tại sao các hạ tin rằng có Thượng Đế?
Đáp: Bởi vì nếu không tin là có, ắt phải tin rằng không có, mà hễ tin là không có, ắt thời gian phong cảnh sẽ hoang liêu. Mọi "dưỡng chất trần gian" ắt sẽ do sa mạc cung cấp. àm sao chịu đựng nổi sự tình đó? Uống một chai la-de, mà nghĩ rằng đó là của cải do hư vô ban cho, thì hỡi ôi! Làm sao còn sum suê uống ăn nhậu nhẹt thơ mộng được nữa. Tuy nhiên…
Hỏi: Tuy nhiên thế nào?
Đáp: Tuy nhiên tại hạ thỉnh thoảng cũng đánh mất Thượng Đế.
Hỏi: Thỉnh thoảng đánh mất như thế nào?
Đáp: Như trường hợp chán chường một cách đột ngột không còn muốn uống la-de.
Hỏi: Hoặc như thế nào nữa?
Đáp: Hoặc như trường hợp đọc sách vũ hiệp tới chương kết thúc.
Hỏi: Vì sao như thế?
Đáp: Vì kết thúc, thì tức nhiên là chấm dứt hết mọi miền cõi liên tồn. Còn biết lấy đâu mà đeo đuổi chiêm bao được nữa. Hỡi ơi! Đến sách vũ hiệp mà cũng kết thúc, thì Trời Xanh Thượng Đế cũng thi đua nhau tử vong, tiêu tán tuốt hết cả ngấn tích di hài…
(Mùa thu trong thi ca, Vấn đáp)
Hình như, không cách nào Bùi Giáng kinh qua được cái gốc suy luận về Siêu Hình. Luôn luôn người thơ đặt cho mình mối băn khoăn về cái Còn, cái Mất. Đi từ vật thể qua tinh thể đến khách thể rồi chủ thể, sự gì cũng tiêu tan trước Hư Không làm người thơ chán mỏi:
Bây giờ ai biết hỏi ai
Dù lòng biển rộng sông dài thênh thênh…
Cái cõi thơ trinh nguyên, đôn hậu mà tự cổ các thi nhân thường nhìn vào đấy, coi như cứu cánh, nó đã xa vời, chìm khuất. Bùi Giáng thường gặp mình, giữa hồn mình. Cô đơn và cô đơn trước bạt ngàn vướng mắc. Mảnh trời xanh kia, trái đất hệ lụy này và kiếp sống bọt bèo như mối vấn vương làm người thơ khắc khoải, trốn mình trong đường mòn suy tưởng. Nhưng suy tưởng chỉ dẫn vào tuyệt lộ trước Hư Vô. Sợ quá, người thơ ôm đầu nức nở. Những mơ ước nào đó, những khát vọng rồ dại nào đó, cũng chỉ để đi tới đỉnh nhọn của chán chường! Nào có gì đâu? Nào còn gì đâu? Một chu kỳ ngắn ngủi, một góp mặt vô danh, một ganh đua vô ích. Trời thì lãng quên, Đất lại vô tình. Ta hiện hữu hay ta thừa thãi cùng nghĩa, vì cát bụi lại trở về cát bụi! Thơ Bùi Giáng, có nhiều bài đọc nghe vui vui, nhưng nếu tìm hiểu sâu xa, phân tích kỹ, nó vẫn chứa đựng trọn vẹn những nỗi niềm bi đát: nào tình yêu vọng tưởng qua vóc dáng mẫu thân Phùng Khánh, nào "dồn nén" qua nuồng Mọi Cao Nguyên, với vú đồi căng mộng Monroe, Bardot, v.v. Không biết cái tình này có nằm trong diễn trình Phân Tâm Học của Freud không? Nó là "Es" (Bản Ngã) qua "Ich" (Cá Ngã)? Nó đã được Ueberich (Thượng Ngã) kiểm soát chưa?
Người con gái lội qua khe
Bàn chân với nước lạnh đè lên nhau
Nỗi niềm tưởng lại xưa sau
Bàn chân với nước cùng nhau lại đè.
(Sa mạc phát tiết, Bàn chân với nước, LH)
Thơ Bùi Giáng mang nhiều ẩn dụ ở chiều sâu ngôn ngữ. Lời thơ tuy đơn sơ, ý thơ tuy thanh thoát, nhưng tâm trạng chắc gì xuôi mái? Thư gửi nương tử Monroe là hình thức u mặc hay chứa chấp mối ẩn ức?
Ngày nương tử còn bình sinh cuộc sống, tại hạ vốn có phen một đôi lần đôi lúc nằm ngủ chiêm bao thấy nương tử ghé về thăm nước Việt. Nương tử đưa bàn tay mềm mại nắm lấy cái hình hài xương xẩu của tại hạ, rồi ẵm bổng tại hạ ở trong lòng lộng bát ngát vô biên của liên tồn nương tử… Trong lúc nằm khoanh tròn ở trong lòng nương tử, tại hạ có sờ nhè nhẹ (sẹ sẹ) vào chỗ rốn của nương tử, thì cảm thấy một mối sung sướng siêu phàm. Nhưng mà bỗng nhiên lúc bấy giờ nương tử thét lên tiếng "Chao ôi! Nhột quá, nhột quá". Đồng thời nương tử vung hai cánh tay, thì tại hạ té lăn nhào xuống đất, giữa một thửa ruộng bùn lầy…
(Mùa thu trong thi ca)
Lá thư viết với ý nghĩ thật ngộ nghĩnh. Bùi Giáng viết đùa, nhưng cũng có phần thực nằm trong dục tính của thi nhân. Bùi Giáng đùa qua triết học, đùa với nhiều nhân vật siêu phàm chứ chẳng riêng gì nàng Monroe. Có khác, ở mỗi người, thi nhân đùa mỗi cách. Đây có lẽ, một phương pháp dùng để tạm trốn mình chốc lát vì suy nghĩ và làm thơ khổ quá!
Bùi Giáng làm nhiều thứ thơ lắm. Ngoài thơ Việt, còn thơ Pháp và Anh cũng như chữ Nho viết bằng quốc ngữ nữa. Có thể nói, không thi sĩ nào làm nhiều thơ bằng Bùi Giáng. Nhiều ở đây, không phải tất cả, cũng không có nghĩa toàn bích, mà chỉ để chứng minh sức sáng tạo rất phong phú của thi nhân. Cái cõi thơ đích thực Bùi Giáng hằng nguyện cầu và mơ ước nó vẫn mênh mang dâu bể, bát ngát ở đầu bến Mê, với bóng dáng chàng nghệ sĩ phiêu đãng Gaugin:
Ngài đã gặp tượng đá kia của đá
Một hoàng hôn hồn lữ thứ tiêu tao
Ngài đã thử trao cho ngàn cây lá
Gọi chim bay về mỉm miệng cười chào
Ngài đã định một lần kia thư thả
Dưới trăng rằm vô định tuyệt tăm hơi
Mở ngọn cỏ tìm vết chân hội họa
Giấu quan san liều một trận không lời
Ngài bắt gặp một lần kia xứ lạ
Nước mênh mông hồ hải mộng xanh trời
Ngài đã vạch một ngân hà óng ả
Cho tinh kỳ du ngoạn giữa kim bôi
Và tinh sương thấp thoáng lấp chôn rồi…
(Sa mạc phát tiết)
Gaugin (1848-1903), nhà danh họa thuộc phái Dã Thú (Fauvisme) đã bỏ nước Pháp qua đảo Tahiti để làm hội họa. Gaugin kẻ đam mê chẳng những màu sắc, còn ma túy và tình yêu nhục thể. Gaugin, nghệ sĩ trên nghệ sĩ, dấn thân để tìm về cho mình chân trời sáng tạo mới và cuối cùng đã bất tử trong địa hạt nghệ thuật tạo hình thế giới. Người thơ cũng muốn làm cuộc lãng du để mong gặp được chân trời mới trong trí tưởng, nhưng ở cương vị của người thơ bé nhỏ và hiền lành trước cuộc sống Việt Nam, đành gửi hồn qua vóc dáng Gaugin với hàng hàng tưởng niệm!
Thơ Bùi Giáng không có chiều hướng rõ rệt ở mỗi giai đoạn. Nó được cấu tạo miên man, tùy hứng. Nó tự do tuyệt đối. Người thơ là ông Hoàng, là Lãnh chúa trong địa hạt thuộc riêng mình. Bởi vậy, trong mỗi tác phẩm, đều có phần của tác phẩm khác. Nó giao hòa trong mọi chiều tư tưởng để hình thành dòng thơ đặc biệt Bùi Giáng. Người thơ quyết định hết và chịu toàn trách nhiệm. Bùi Giáng sáng tác không cần đắn đo hơn thiệt trong mỗi bài, mỗi ý. Thơ Bùi Giáng tựa như cơn gió, lúc tản mác thổi dịu nhẹ mơn man da thịt, khi tập trung từ xa tắp không gian, cuốn thành cơn lốc quét từng luồng giận dữ làm đổ vỡ, xiêu dạt trần gian.
Viết về thơ Bùi Giáng, nên hệ-thống-hóa hoặc phân loại một cách thông thường tức là giết người thơ vậy, vì Bùi Giáng không chỉ làm thơ với ý nghĩa chung chung, mà đích thực người thơ dùng thi ca để chuyên chở tư tưởng và phô diễn những trạng thái phức tạp nảy sinh giữa cõi lòng chứa chấp nhiều hệ lụy.
Người thưởng ngoạn thơ cũng vậy, thích thì đọc, nếu không, cứ việc vứt xuống bất kỳ chỗ nào. Bùi Giáng làm thơ cho mình, nhưng tại đời. Cuộc đời chán quá! Công danh, phú quý là cái gì đâu, làm con người ham hố đến quên cả chức phận thiêng liêng mà Đấng Tối Cao ban riêng cho loài người, đó là một linh hồn thuần khiết để hướng vào Chân, Thiện, Mỹ. Người thơ u uẩn đi vào cõi Tịch Mịch. Bùi Giáng làm thơ thật tự nhiên không kiểu cách, gò bó, dù đôi chỗ để lộ ý kiêu bạc ngay cả với mình:
Hãy mang tôi tới giữa đời
Giết tôi chết giữa cõi đời mốc meo
Hãy mang tôi tới nắng chiều
Giết tôi chết giữa một chiều khe nương
Hãy mang tôi tới dặm trường
Giết tôi chết giữa con đường bơ vơ
Hãy mang tôi tới bất ngờ
Giết tôi ngẫu nhĩ trong giờ ngẫu nhiên
Hãy mang tôi tới diện tiền
Giết tôi chết giữa người thuyền quyên kia.
(Sa mạc trường ca, Cầu nguyện ca) Giết tôi, hãy giết tôi trong những điều kiện do tôi mong muốn và tự nguyện. Một cuộc đời mốc meo, nhàm chán, một khe mương dơ dáy, một dặm trường bơ vơ và một ngẫu nhiên nào đó, hay giữa tôi và thuyền quyên đang "diện tiền" góp vui, thì cái chết đó cũng là điều thú vị lắm chứ? Cái chết rất triết học vì với triết học người ta chẳng có chơi một cơn, đùa một cuộc, nhảy múa một vòng, vậy cái chết do thi nhân mong muốn cũng chỉ như một nuôi dưỡng sinh tồn quẩn quanh giữa suy tư và cõi đời chán mỏi mà thôi!…
Bùi Giáng là một hiện tượng. Người yêu thơ phải nhìn Bùi Giáng qua phong cách độc đáo, ở đấy, mỗi dòng, mỗi chữ, mỗi ý, được viết ra là máu thịt của thi nhân dâng hiến cho đời. Thơ Bùi Giáng không thuộc môn phái nào hết. Nó không cũ, chẳng mới. Nó có thể là thơ, là tư tưởng, đôi khi thơ và tư tưởng lẫn lộn giao hòa tạo thành một vùng "mờ mịt thức mây". Thơ Bùi Giáng như cơn đau chưa dứt, như nỗi bàng hoàng chiêm bao chợt tỉnh, để rồi lại chìm vào chiêm bao khác. Nó bâng khuâng ở mỗi vần, mỗi chữ. Có lúc, nó buồn bã như niềm tuyệt vọng! Người yêu thơ cứ phải men lần theo, như đi trên một hành lang trú ngụ nhiều điều bí mật. Mỗi khúc quanh lại mở ra những kỳ dị phi thường. Cái trạng thái hỗn mang này Hàn Mặc Tử đã thấy:
Bây giờ tôi dại tôi điên
Chắp tay tôi lạy cả miền không gian…
Kể từ năm 1924, André Breton và một số nhà thơ tiến bộ đồng ký tên vào bản tuyên ngôn, chính thức khai trương trường Siêu Thực giữa vòm trời thi ca Lãng Mạn Tây Phương. Cũng kể từ đó, khuôn mặt thi ca thế giới đổi thay. Thơ đã có một ngôi vị cao hơn trong ước lệ xã hội. Thơ vượt thoát dần dần mọi quy luật và đồng thời cởi bỏ những ràng buộc quá chặt chẽ và phi lý trong vần điệu, ngôn từ. Ở Việt Nam, thi sĩ Thanh Tâm Tuyền cũng đưa ra một quan niệm về thi ca, tuy không phải bản tuyên ngôn về thơ mới, nhưng nội dung bản văn cũng tóm lược đầy đủ chủ điểm của vấn đề:
… Người thơ hôm nay quan niệm rằng: người ta có thể viết những bài thơ có vần điệu, nhưng người ta không biết làm thơ… Trong thơ hôm nay có một số tiếng bỗng mất tích, một số khác biến dạng và vô số những tiếng lạ xuất hiện làm nên cái thế giới riêng. Cái thế giới ấy quá kỳ quái với người đọc, người ta không hề quen thuộc, chưa nghe nói tới và ngỡ mình lạc vào một tinh cầu khác. Thơ hôm nay là một tinh cầu biệt lập với thơ hôm qua. Người ta không tìm thấy trên tinh cầu này những cảnh tượng, những sự vật trong trí người ta vẫn coi là vĩnh viễn không đổi dời của thơ. Trong thơ hôm nay không còn những bông hoa kiều diễm, những đêm trăng huyền ảo, những buổi chiều bâng khuâng, những mối tình thơ mộng dù tan vỡ, những nhớ nhung cách trở tự nhiên, những khúc đàn ca nhịp nhàng, người kỹ nữ bên Tầm Dương, tà áo tha thướt trong ánh nắng, mùa xuân với giọng chim ca, mùa thu trong lá vàng, những cơn mưa buồn hiu hắt không thôi, cái tâm hồn của ngàn đời còn run hoài chưa hết những đau thương vỡ mộng, thoáng qua của một hình bóng, một cơn gió, một bóng mây…
… Trong thơ hôm nay, người ta lạc vào cái thế giới có những đêm tối nghẹn ngào, những ánh sáng của lộ liễu, những bệnh viện lạnh lẽo, những nấm mộ hoang vu, những thành phố đổ nát không chim muông, chỉ những gạch ngói, những nỗi lặng câm khắc khoải, những cặp mắt đen cú vọ, những hoảng kinh xô đẩy của loài cầm thú trốn chạy thiên tai, những mối tuyệt vọng sâu thẳm không được cứu vớt, những hồn chết dần trong thèm khát tương lai, những ràng buộc vô lý vào cuộc đời lạ mặt với đám đông ồn ào nhung nhúc, những tầm thường khổ đau gọi ra tên tuổi, cái tâm hồn hôm nay chịu vùi dập bởi những khốn nạn tang thương đòi giải phóng ngay chính ở hiện tại…
… Trong thơ hôm nay hoặc là thiên nhiên không được nhắc đến nhường chỗ cho những vỉa hè, cột đèn, gạch ngói, khối sắt, khối thép, da thịt, tay chân, mặt mũi hoặc là hiện ra thản nhiên lạnh lùng khó chịu nếu không muốn nhập với một ý thức…
(Nỗi buồn trong thơ hôm nay)
Trên đây, chỉ tóm lược ý chính của bài văn, nhưng cũng đủ chứng minh sự dứt khoát của Thanh Tâm Tuyền trong vấn đề thi ca. Bùi Giáng không nói gì cả, nhưng toàn bộ thi phẩm của Bùi Giáng đã khơi động một trời thơ rộng rinh, bát ngát. Thi nhân không dấn thân vào đâu hết, coi cuộc đời như cõi rong chơi tạm bợ. Làm thơ cũng là một cách rong chơi cho quên đi từng đắn đo, phiền muộn! Bùi Giáng đi vào thơ như đi vào cõi vô định. Không có chọn lựa hay thử thách, chỉ có xúc cảm và ngôn ngữ giao thoa, diễn đạt những gì ám ảnh trong hồn. Với từng bước khoảng khoát nhưng rất ưu tư, người thơ đăm đăm ngó về phía trước qua sự tàn phai của vật giới trong cái bất diệt của Tạo Hóa:
Mây năm sắc giăng sông mười sáu
Tuổi mười lăm đổ máu ấu thơ
Tin vui giục giã hai bờ
Mỗi buồn chết gục từng giờ đi qua…
(Sa mạc thi ca, Xuân)
Thời gian, ai cũng sợ nó. Sáng, trưa, chiều, tối, cái nhịp đi rất êm nhưng vô cùng nghiệt ngã làm chia lìa tất cả:
Nằm xuống đất bất bình một lúc
Chợt nghe ra từng phút đang trôi
Sát na gây cấn hồi lời
Xin thâm tạ đất và trời xa nhau.
(Sa mạc thi ca, Một tấm áo)
Đất trời xa nhau đành một lẽ. Nó là cái xa của vũ trụ bất biến tự cõi vô cùng, trời đất vẫn quấn quít luân chuyển bồi hồi trong vòng ảnh hưởng lẫn nhau. Nhưng cái xa của con người và cuộc sống, cái bất lực của chủ thể và Hư-Không-Tuyệt-Đối, sự vụ đó mới thật đau thương! Cái nên thơ của Horace trong thi ca với quan niệm Thượng Đế là thuần nhất, chân lý cũng thuần nhất hình như cũng phôi pha theo năm tháng, với bao nhiêu tìm tòi của nhiều thế hệ qua nhiều triết thuyết. Một vùng Chân-Không-Tịch-Mịch còn đó, dù cho tinh lực của đời sống (force vitale) có là căn bản thiết yếu cho mọi sinh hoạt tinh thần hay vật chất, dù nó là yếu tố sinh tồn cho mọi chu kỳ nhân loại, nó vẫn thuộc về trừu tượng. Đời sống cho đi hay giữ lại cũng chẳng có cách nào ra thoát khỏi vòng "tử sinh hữu mệnh". Vì ham tuyệt đối của suy nghĩ nên Bùi Giáng thường tỏ ý buồn phiền về hai danh từ thực mênh mông và bi đát: Thực-Tại với Hư-Không. Nó là đám rong rêu bám chặt vào chiếc sọ suy tư, nó đẩy thi nhân vào vùng sương mù dày đặc. Người thơ đưa tay quờ quạng lần đường, và cuối cùng phải trông cậy vào niềm tin để khai thông mê lộ qua bài thơ Chấp trước:
Không trước đông thì trước tây
Không trước cây thì trước lá
Không trước ma đầu gió thì trước quỷ cuối sương
Không trước thiên đường thì trước Ba La Mật
Không trước thật thì trước hư
Không trước hư thì trước hữu…
Bài thơ gồm 29 chữ không ở đầu mỗi câu. Không cái nọ thì cái kia, không người này thì người khác, có nghĩa là khi ta góp hơi thở thứ nhất, đời sống đã có sẵn những phiền lụy và cảnh huống vây quanh, vậy "cố chấp" làm gì trước sự kiện đã rành rành như vậy? Tại sao không kinh qua, không vượt lên để giải tỏa kềm hãm, để tìm đến cõi tịnh độ lâng lâng? Lời than thở choáng váng của Chúa Jésus trên đỉnh Golgotha hay lời từ bi của Đức Phật dưới cội Bồ Đề, muôn đời vẫn là sự "thấu suốt cơ cực trần gian" trong vòng tay độ lượng. Vì thế, trước cuộc đời, Bùi Giáng chẳng cần tỏ bày thái độ, cứ dửng dưng sống theo ý mình, thả tâm hồn vào cõi đẩy đưa tới đâu cũng được! Chuyện đời dù ngàn năm trước, trăm năm sau, hay bây giờ cũng vậy thôi! Nếu đôi khi dáng dấp cuộc đời có được người thơ nghĩ đến, cũng chỉ có nghĩa như nói đến trò chơi cút bắt có đấy. Hãy cứ vui đùa cho nhẹ bớt buồn thương. Phẫn nộ hoặc nguyền rủa xã hội là điều vô ích! Ngay cả chiến tranh và cái chết do nó tạo nên, cũng được tượng trưng bằng "nuồng" Mọi nhỏ. Cái chết đó, lẽ đương nhiên thuộc số mệnh, nên có tìm cách tránh cũng vô ích! Hoạt cảnh chiến tranh cũng được "siêu-hình-hóa" qua cuộc "luận lý" dí dỏm, chứa chấp ẩn dụ giữa hai linh hồn Monroe và Mọi Nhỏ:
Monroe: Chị tự tử đã đành. Sao em cũng tự tử? Em ở trong rừng mát mẻ, em tự tử làm gì cho phí mất cái màu da bồ quân bánh mật của em như thế?
Mọi nhỏ: Em đâu có tự tử. Chính thật ra cái hòn đạn nó tự tử em.
Monroe: Hòn đạn nào như thế? Mọi nhỏ: Hòn đạn hoặc là trái bom gì đấy. Nó nổ một trận tam bành. Nó tự tử mất em, đồng thời với cái truông đèo thơ mộng chiều hôm qua.
Monroe: Sao em không dời đi nơi nào ẩn trú, lại ở yên một chỗ mà chờ đợi đạn bom làm gì như thế?
Mọi nhỏ: Dời đi nơi khác, thì đồng thời phải dời cái truông đèo đi nơi khác. Em sức mấy mà làm cho xuể sự đó. Kể ra lúc bấy giờ em cũng chợt có cái ý định lặn xuống ở dưới đáy nước khe kia thì thật là bảo đảm, nhưng không kịp. Cái bom nó nổ còn chớp nhoáng hơn cái ý định nảy ra trong đầu óc em.
Monroe: Lần sau em phải lo xa hơn mới được.
Mọi nhỏ: Lo xa như thế nào?
Monroe: Em phải sắp đặt có ý định cho sẵn sàng trước đi.
Mọi nhỏ: Trước bao lâu?
Monroe: Một tuần lễ là ít nhất. Chẳng hạn như trái bom nó nổ vào Chủ nhật tuần này, thì em phải sắp đặt cái ý định lặn xuống khe từ hôm Chủ nhật tuần trước.
Mọi nhỏ: Còn nếu như mình sắp đặt xong xuôi cái ý định, mà rồi ra rốt cuộc cái trái bom nó không nổ thì có phải là uổng cái công trình sắp đặt kể biết mấy mươi?
Monroe: Đâu có chi mà uổng. Cuộc sắp đặt chỉnh tề, tự nơi nó cũng đã làm một cái gì thơ mộng lắm rồi. Cũng tỷ như chàng thi sĩ kia bao năm trời nó làm thơ tặng chị, mặc dù nó biết rằng chị đã chết rồi, thì làm sao tiếp nhận được những bài thơ nhớ nhung của nó.
(Mùa thu trong thi ca)
Tất cả sắp đặt đều vô ích trước định mệnh. Con người và định mệnh luôn luôn chơi trò ú tim để chụp bắt nhau ở mỗi cung số. Chính vì người thơ đã thấy được và biết qua thực tại, nên mỗi suy nghĩ như niềm đau hủy diệt! Nhưng cuộc sống là một dòng nối tiếp vĩnh cửu cũng như Vũ Trụ, chỉ có khác, nó thay đổi theo mỗi giai đoạn góp mặt của từng lớp người liên tiếp và liên tục, nên cái qua đi và cái sắp đến, không chắc đã nằm chung ước lệ. Thơ Bùi Giáng ít có chuyện đề cao tình yêu hay lãng đãng nhớ nhung một vóc dáng đàn bà nào. Tình yêu chỉ được coi như chuyện đùa bỡn qua từng ý nghĩ u mặc. Bản chất người thơ như vậy:
Em xin chàng chớ lai rai
Con đường thôn lấm ngày dài chi mô
Mở môi ngôn ngữ hồ đồ
Vén xiêm em lội xuống hồ nước kia…
(Lá hoa cồn, Thôn nữ)
Trinh nữ em có mặc áo quần
Mà không ắt hẳn là quần thật xinh
Nếu như em chẳng mặc quần
Thì ông trời ắt càng mừng rỡ hơn…
(Sa mạc phát tiết, Tuy nhiên)
Thơ Bùi Giáng không quấn quít, vội vã. Ngôn từ đi dần vào thản nhiên, suôn sẻ gần như buông lơi trước mắt. Nhiều bài cho người đọc cảm tưởng, làm thơ dễ quá! Nhưng xin chớ tưởng lầm. Cái hồn nhiên, thư thái đó là kết quả của công phu học hỏi, ví như vị Trưởng Thượng dày công tu luyện tới mức "thượng thừa", đã nhập Đạo rồi, thì sắc diện và thân xác bên ngoài ngó nhẹ như tơ, nhưng nội tại thâm hậu, tóm thâu càn khôn một mối.
Bùi Giáng thường nhìn cuộc đời qua tấm lăng kính bi quan, có lẽ vì mải mê suy luận. Người thơ cho rằng, cái nhân loại man rợ này đã làm ung thối hết mọi tinh hoa, và máy móc làm con người trở thành nô lệ cho phương tiện, Bùi Giáng phải đi tìm cái tinh thể đích danh của thi ca trong suy tưởng. Mỗi con người là một vũ trụ của riêng nó, tại sao chẳng ai hay biết? Cái vùng Chân-Không-Tịch-Mịch kia nào có xa gì và chiếc cánh cửa cuối cùng đều mở cho mỗi kiếp sống đó ru? Thi nhân đi tìm Heidegger trong ngôn ngữ, tư tưởng để nguôi ngoai thần trí. Nhưng cuối cùng: "Một dị báu huyền mộng huyền sương đìu hiu như đàm hoa nhất hiện. Tại miền biển tục sông lam (August vốn xưa kia từng ra phiêu du miền biển) có một cái gì động đậy (dù sao chăng cũng, tuy nhiên ấy mà), và ngoài kia có một thanh âm nào động khía bọt mơ hồ, một cái gì khả dĩ nghe ra đường gân nhúc nhích, hỡi ôi! một trận thúy lục hòa âm, thủy triều hòa tấu. Tại đây – hư vô gặp gỡ hư vô, ở đâu? Chẳng phải là ở đó, cũng chẳng phải là một cái lỗ, hoặc một khe hang. Chỉ biết cam lòng đành phận lắc đầu mà thôi…". (SHHNM, Bùi Giáng, trang 306, có kèm theo phần Đức ngữ, nguyên tác của Heidegger)
Nhưng câu hỏi đầu tiên: "Đáo cùng do đâu mà có hiện thể, sao lại chẳng là hư không?" vẫn chìm sâu trong Nếp Gấp của nó. Người thơ muốn cùng lúc làm một triết gia? Không hẳn như thế. Bùi Giáng bị ám ảnh bởi hư vô nên muốn tìm hư vô trong tất cả mọi tư tưởng của các đại-triết-gia phương Tây lẫn phương Đông. Vấn đề này mất nhiều thì giờ và làm khổ người thơ không ít. Có lẽ, nó là nghiệp chướng! Người thơ còn để Parménide, triết gia Hy Lạp ở giữa thế kỷ thứ V và VI trước Công nguyên, đối thoại với thi hào Nguyễn Du về chiều hướng tư tưởng:
Nguyễn Du: Kể từ thiên thu đứng lại?
Parménide: Đứng lại tự bao giờ hỡi tướng công? Lão hủ mạo muội đáp nhé: đứng lại từ giữa cuộc chuyển di trên một đường-rẽ-trắng-ngã-ba, đi về trong ngôn ngữ của tồn lưu lịch sử ngậm ngùi.
Nguyễn Du: Vì sao lịch sử ngậm ngùi? Thưa lão trượng! Chắc rằng lão trượng còn kinh? Giấc mơ quỷ dị bên mình còn reo?
Parménide: Thưa tướng công, tướng công từng đã linh cảm tấn kịch bi hùng riêng biệt của non sông này, và đặc dị của dân tộc này. Linh cảm đến mức độ nào, mà lời về trong ngôn ngữ tướng công đã dạy triều mênh mông đến thế? Đó là điều lão hủ không dám chắc mình đã nghĩ ra, và đó cũng là nguyên nhân khiến lão hủ không ngại dặm nghìn nước thẳm tìm tới viếng tướng công bận này.
Nguyễn Du: Dám thưa lão trượng: sao gọi là linh cảm. Tại hạ cũng không rõ mình đã linh cảm trong cơn xuất thần trên nhịp phiêu bồng chiêm bao… hay là tại hạ đã xuất phóng hoạt tồn trước những điều trông thấy. Trông thấy một lần và bàng hoàng suốt xứ. Và biên thùy từ đó đã mờ xóa hết để miền cõi kết tụ và hiển hiện ra ở trong ánh vàng nhị bội của một vừng nguyệt biên cương.
Parménide: Những điều trông thấy…
Nguyễn Du: Vâng. Tại hạ đã nhìn suốt tuổi thanh xuân mình. Và từ đó về sau…
Parménide: Từ đó về sau tướng công đã nguyện làm liệp hộ.
Nguyễn Du: Được chăng, thưa lão trượng?
Parménide: Được. Đó là điều kiện tiên khởi cho mọi cuộc tái lập trùng tu. Làn ánh sáng Như Lai đã ngậm ngùi về trên Việt Nam vô song từ đó.
Nguyễn Du: Vì sao ngậm ngùi riêng biệt trên non nước Việt Nam?
Parménide: Vì Việt Nam là cái chốn, cái nơi của mọi cuộc tương xưng sử lịch cõi trần bên mép bờ Hình Nhi Hạ Khổng.
Nguyễn Du: Vâng ạ. Và bên cõi miền của Thiên Chúa giáo xa xôi rã rời trong mạch thẳm. Nguyên tuyên Hy Lạp không nhắc nhở lời nào cho làn nước chảy lang thang.
Parménide: Đó cũng là nguyên nhân xui ta về viếng tướng công. Mà ban sơ ta tưởng không thể nào tìm ra lời thích đương để thốt. Nhưng thưa tướng công, ngôn ngữ của tướng công còn khép mở một ẩn ngữ xui lòng ta xao xuyến. Tướng công cùng tư lự trong một cõi với ta. Nhưng những điều trông thấy của tướng công còn dội vào đáy thẳm linh hồn tướng công đến một độ nào ta không rõ lắm. Nêu câu hỏi tại chỗ đó, có là thô lỗ trống trải chăng? Có làm tướng công phiền muộn chăng?
Nguyễn Du: Lão trượng yên lòng. Chính tại hạ vừa rồi đã có ý nêu ra trong cái lời thốt… Xuất phóng hoạt tồn trước những điều trông thấy. Trông thấy một lần, và bàng hoàng suốt xứ…
Thiên cổ vô cùng giang mạc mạc…
(Trăng châu thổ)
Cuộc đàm luận Parménide - Nguyễn Du ở giữa cõi U Minh! Vì sao lại xảy ra sự tình như vậy trong ý nghĩ của Bùi Giáng? Có lẽ qua tìm hiểu, thi sĩ đã khám phá ra giữa hai thiên tài có những điểm trùng hợp về ý tưởng. Hơn hai ngàn năm trước Parménide đã ý thức được cõi Vô-Cùng-Bất-Diệt trong tập thơ De la Nature và Nguyễn Du cũng đã thấu suốt "những điều trông thấy…" nên "trải qua một cuộc bể dâu", cũng là trải qua khoảng Chân-Không-Tịch-Mịch. Nguyễn Du vì rõ "Trước, Sau" nên tạ đáy tiềm thức hiện ra một dòng sống không ngơi nghỉ từ tiền kiếp tới mai hậu. Cố gắng làm chi, cõi Hư Vô thì câm tiếng, thời gian vẫn ác nghiệt, còn không gian lại ngoảnh mặt làm thinh.
… Biết thân chạy chẳng khỏi trời
Cũng liều mặt phấn cho rồi ngày xanh…
… Nàng rằng tiền định tiên tri
Duyên xưa đầy đặn phúc sau dồi dào…
… Xập xè én liệng lầu không
Cỏ lan mặt đất rêu phong dấu giày…
(Kiều) Có thể do đấy, Tố Như đi tìm Vô Cùng qua vóc dáng Giác Duyên? Nguyễn Du, phải chăng là cái gạch nối giữa Lão Tử chối bỏ và Khổng Tử dấn thân, giữa con người và cõi Siêu Thoát trong đạo Phật? Parménide đi tìm Nguyễn Du cũng vì "duyên xưa, phúc sau" để soi tỏ cái thâm hậu của Đông phương trầm mặc! Nguyễn Du đã đau đớn vì "biết" mà không tránh được mệnh trời, "thấy" mà vẫn phải làm theo duyên nghiệp với nàng Kiều mười lăm năm lưu lạc! Chẳng rõ Bùi Giáng có "biết" và "thấy" gì không, hay cũng vì chữ nghiệp mà tự đày ải vào cõi mông lung của luận lý, làm điêu đứng đời sống và chết sững tâm hồn trong vần điệu? Nguồn thơ Bùi Giáng không chảy chung một mạch nước, nó tỏa ra nhiều nhánh, ở mỗi nhánh lại chứa đựng từng buồn phiền riêng biệt. Nhưng cuộc sống đâu phải lúc nào cũng cho ta thất vọng và con người đâu cần phải có một kiến thức căn bản triết học mới sống được? Cái đời sống hồn nhiên, giản dị, mỗi người đều có thể tự mình hình thành một cách thỏa đáng, miễn tự biết và đừng có tham vọng. Người thơ chắc cũng muốn tìm đời sống hồn nhiên đó cho mình, nhưng chỉ gặp những "đoạn trường", để từ đó, đi dần vào mê loạn tâm trí:
Cuộc điên đã chấm dứt rồi
Bây giờ điên nữa cho đời điên thêm
Dưới trời thiên hạ hằng đêm
Đổ ra thiên thượng ở trên hằng ngày
Dấu chân tỳ tử an bài
Mép rìa xuôi ngược nét ngài nở nang.
(Sa mạc phát tiết, Nỗi buồn)
Cái điên của thi nhân, sự thực, không làm phiền lụy đến ai hết, nó thuộc về đời sống riêng, người yêu thơ chỉ cần cảm thông chứ không cần lý luận.
Thỏ lặn ác tà mộng tưởng hao
Mòn con mắt một cõi chiêm bao
Ngũ canh tầm nã con đò dọc
Tam giác tinh hà ảnh động dao
Quá khứ liên tồn vô ngấn tích
Sáng tiền minh nguyệt chiếu hoàng mao
Hai hàng mọc cỏ thu sương ngậm
Vành vạnh lê hoa chước chước chào…
(Sa mạc phát tiết, Quỷ ma đối thoại)
Nguyên vẹn dồn nén và ám ảnh, từ chiêm bao ám ảnh đi: Năm canh không ngủ để tầm nã "con "đò dọc" và "liên tồn" không ngấn tích, có ánh trăng chiếu sáng "hoàng mao" với hai hàng cỏ mọc ngậm sương thu chào đón. Chao ôi! Cô đơn nó sầu thảm đến thế sao, nó giày vò thể xác như vậy sao? Nó là quỷ ma quấn riết vòng trí não vì:
… Mưa đẩy thời gian xuống tuyệt vời
Bay về đủng đỉnh cụng đầu tôi
Tháng theo ngày dậy rằm xanh nguyệt
Ba góc càn khôn lộn bốn trời.
(Sa mạc phát tiết, Đường cong)
"Ba góc càn khôn lộn bốn trời" chỉ là ngôn ngữ tượng trưng trong thi ca, nhưng chắc phải quyến rũ lắm, đam mê lắm, nên người thơ mới ngất ngây giữa thi tứ!…
Bùi Giáng, nhà thơ siêu thoát, coi đời như giấc chiêm bao, nên đùa vui để khuây khỏa, cho quên đi ngày tháng buồn tênh, và đắm chìm nhớ thương vào cõi U-Hoài-Tịch-Mịch. Bùi Giáng, người đã chối bỏ thi ca chẳng phải vì câu nói của Platon thuở nào, đã chạm tới tự ái thi nhân, mà chính vì thi ca bất lực, không có quyền năng cứu vãn được thân phận ai cả, lại còn làm cho con người chán chường thêm! Bùi Giáng đọc nhiều, nhớ nhiều, nhưng càng đọc, càng nhớ lại càng dìm sâu tâm hồn vào cõi mơ cuồng loạn đổ vỡ:
… Nếu Thượng Đế quả thật yêu thương loài người thì Thượng Đế nên tạo ra nhiều nương tử khổng lồ. Ấy là cốt để làm gì? Ấy là cốt phòng khi nào bọn chán đời muốn lọt vào lòng mẹ trở lại thì có chỗ để lọt đầu chui vào. Và như vậy sẽ còn có cơ hội được sinh ra đời lần khác, khởi sự làm trở lại một thằng bé sơ sinh tuyệt nhiên không biết sao gọi là chán đời.
Tuy nhiên vì trái đất nhỏ hẹp quá, nếu tạo ra Nương Tử khổng lồ thì các nàng sẽ không có chỗ trú. Vậy trước tiên, Thượng Đế nên thổi phồng trái đất to ra gấp mười lần, thì sự tình sẽ được dàn xếp viên mãn về sau.
(Thi ca tư tưởng, Thượng Đế)
Buổi nào đó, Bùi Giáng gặp cõi Tịch Mịch chắc thi nhân mới hết băn khoăn về ý thức Siêu Hình, về nguyên cớ thứ nhất: Đáo cùng do đâu mà có hiện thể, sao lại chẳng là hư không?… hẳn nhiên, trong ngôn ngữ thi ca đã có điều đó rồi!
Bùi Giáng dấn thân vào triết học mong tìm trong đó vài điều hợp ý mình. Nhưng có lẽ, càng vào sâu càng gặp thất vọng và cảm thấy đi sai con đường dự tưởng. Hơn nữa, giữa cuộc đời người thơ gặp nhiều u uẩn với bao thị phi rối rắm làm buồn lòng không ít. Bùi Giáng như đứng mấp mé trước hiểm họa "Tẩu Hỏa Nhập Ma", nên cuối cùng, muốn trút bỏ hết để trở về với những cánh chuồn chuồn và châu chấu trong đồng ruộng quê hương tuổi nhỏ?…
Trích thơ Bùi Giáng
Rượu uống
Thưa em rượu uống bây giờ
Là trăm năm gục hai bờ tử sinh
Động hờ hững Chúa điêu linh
Em làm Hoàng Hậu mọc tình cỏ phơi
Nhà ma cửa quỷ đi đời
Chìm hơi thở đục trong lời sương xanh
Càn khôn xiêm mỏng che mành
Về trong thiên hạ em thành thiên thân
Thưa em rượu uống bây giờ
Là thiên cổ lụy còn trơ bên mình
Tài hoa tiếng vọng điêu linh
Phạm Đan Phượng chết theo Quỳnh Như sao
Thưa em từ bữa nghiêng chào
Chớm trang đầu chợt sóng trào trường giang
Em đi rắc lá trên đàng
Cỏ xanh rì mọc suốt càn khôn kia
Mùa xuân mưa rưới mộng lìa
Về trong nắng hạ mép bìa sai bâu
Thưa em rượu uống bây giờ
Là trong lát nữa lên bờ đuổi ma
Chạy quanh cồn cụm lá già
Rách như bươm suốt ruộng sa mạc đồng
Càn khôn gió đổ chất chồng
Rú như beo rống như hùm đổi hang
Trên rừng dưới lũng tan hoang
Vẫn sừng sững bóng chắn ngang quỷ sầu
Thưa em rượu uống bây giờ
Là trong lát nữa trăng mờ hỏi ma
Hỗn mang về giữa hiên nhà
Bây giờ cố quận tên là chiêm bao
Nhìn nhau trong lũy ngoài hào
Lời phôi dựng một điệu chào dị sai
Trên đầu thế kỷ chia hai
Nguồn man mác lạnh tìm ai bây giờ
Thưa em rượu uống bây giờ
Là thiên thu lại còn trơ hận trường
Cầm chung dâu biển khôn lường
Chân trời mộng lý con đường chia ba
Nam đình doanh trại dàn qua
Trống chầu trùng ngộ thưa là không mong
Hoạt tồn phát tiết sầu đong
Tràng giang thế kỷ xô dòng xuống lên.
(Lá hoa cồn)
Từ Thứ
Người đã bỏ đường kia ở lại
Để đi vào đối diện hư không
Bờ thánh thót thu sau về vạn đại
Lời chào kia nức nở lạnh vân mồng
Bóng trắng như sương - vàng bay pha bạc
Quanh Trường Thành bờ cõi đất in rêu
Dòng trở lại ngậm ngùi khe bến cát
Gió mông lung vì mây nổi lưng đèo
Xuân đi đến đi về nằm ở giữa
Hẹn một kỳ bấn loạn mấy mùa đông
Màu tuyết bạch mơ màng trang lệ ứa
Rớt xung quanh lá đú đởn cầu vồng
Từ vĩnh biệt một lần đi từ đó
Nước xuôi dòng cổ độ chẳng nhìn theo
Lòng lây lất bên trời phương hướng nọ
Mắt ngu ngơ nhìn bọt nước sa bèo.
(Lá hoa cồn)
Câu hỏi
Những con chim vào đời quá sớm
Đứng một mình nhìn xuống ngó lên
Mùa măng mọc măng mai mới chớm
Đã vô cùng u tối van xin
Đất mồ côi một mùa dằng dặc
Gió chân trời quá khứ trăm năm
Triều sông bể bao giờ sẽ tắt
Theo hồn hoa lá dại đêm rằm
Tìm cố quận xanh mờ thủy nguyệt
Kiếm quê hương khóc bích ngạn nào
Nhung nhớ chết đọa đày biền biệt
Gió một vùng huyền mộng chiêm bao.
(Lá hoa cồn) Em mọi điên
Một tiếng hát giữa rừng hô hấp
Chết trăm năm ẩn ấp khung đời
Trời ma đất quỷ hai nơi
Em điên từ bữa ra đời em điên
Beo và cọp trước tiên chạy trốn
Vượn đìu hiu nhìn lộn cây hoa
Em về giũ áo mù sa
Tiền trình vạn lý anh là đười ươi.
Nửa đêm
Lời vui nói cạn mấy chiều
Tiếng buồn nhỏ giọt như triều sương bay
Bâng quơ hồn mộng lạc loài
Nửa đêm sực tỉnh di hài sử xanh
Phiêu bồng dậy lớp đạp thanh
Tuổi xuân bỏ lại biên thành chiêm bao
Hồng sơn mấy ngọn tư trào
Mừng theo trận gió bước vào chân mây
Chiêm bao
Chết từ trận gió sử xanh
Trước đèn câu chuyện âm thanh không lời
Gót đi đứng giữa khung trời
Thâm u mộng đổ hiên nhà
Ngoảnh về Thượng Đế thưa là chúng con.
Đừng đi vào
Đừng đi vào du dương trong đêm lành tốt nọ
Đừng đi vào thuần khiết giấc mơ kia
Triền miên ấy sẽ băng tuôn vạn đại
Thạch nham kia còn ấy mép chia rìa
Rìa chia mép dặm khuya đêm ngất tạnh
Mù khơi dâng tiền diện lạnh ra đời
Đừng đi nữa một lần kia cánh nhạn
Bờ nấu nung trong cõi mộng ra ngoài
Cây phát tiết chùm xuân xanh nộ phóng
Gió lao lung trời khổ lụy thu hồi
Hồi thu lệnh võ vàng trong bóng nguyệt
Sơ khai đi hồng lậu lạc thêm loài.
Ophelia
Cho xin màu lục một lần
Cho xin màu liễu một lần thử buông
Ngày mai hẹn ước trôi nguồn
Em về quá khứ mang buồn lang thang.
Mây bình nguyên
Cành trở lại trên đầu xuân lệch dạng
Bên mặt trời chùm sóng mọc mai sau
Phiến sương nâu đó đứng lại trong màu
Giờ vội vã trời nhìn trong khóe mắt
Kỷ niệm nào từ đất vội ra đi
Ngày lâu sao vì tháng nhớ năm vì
Ngày thung lũng trong lời xa tiếng
Hồ nước mây từ cõi biệt vô cùng
Tà áo bay xanh vĩnh viễn sau lưng
Đèo lưng ngựa đá ghềnh vang từ bữa
Buồn cao nguyên từ đô hội sang tuần
Xin chắp rừng vào suốt xứ mông lung
Đường xây dựng gục lưng gỗ bó
Mộng ông bay sực tỉnh giữa chân người
Đến bây giờ – quang gánh lệ trong ngươi
Em Hà em Phương em về nước chảy
Mây bình nguyên buồn ngủ nhớ nhung miền
Xứ sở nào gió ruộng mặn đồng chiêm.
(Lá hoa cồn)
Gió cây trút lá
Tuần trăng lệch đầu hoa trong cổ độ
Tự bao giờ trời đất bỏ quên ta
Vết thương nhớ ngậm ngùi không chỗ trú
Nước đêm rằm về biển động chia xa
Chiều lại đi một giờ là đi biệt
Chiều mang theo là suốt xứ mang theo
Hình vội vã góp thân về gió tuyết
Thổi mông lung làm sương bóng lên đèo
Đêm cầu nguyện đau thương là bất tuyệt
Kéo điêu linh sầm lãnh đổ nguyên tuyền
Mây vần vũ như mộng đầu thao thiết
Người đã đi ta mất hết uy quyền
Bờ nước chảy bảo ta về đất thượng
Hỏi cao nguyên có hận đồng bằng
Hỏi bách lý đến bây giờ có muộn
Rừng ong bay gấu mỉm miệng thưa rằng…
(Lá hoa cồn)
Lá cây
Tôi về gởi lá đầu cây
Mốt mai từ giã hai tay còn cầm
Mùa xuân hoa nở tình câm
Màu trăng ly biệt trong tâm hồn người
Một phương gió lạ giập vùi
Hình em ca sĩ ngậm ngùi ngón tay.
Chấp trước
Không trước Đông thì trước Tây
Không trước cây thì trước lá
Không trước ma đầu gió thì trước quỷ cuối sương
Không trước Thiên đường thì trước Ba la mật
Không trước thật thì trước hư
Không trước hư thì trước hữu
Không trước Nữu Ước thì trước Bắc Kinh
Không trước thình lình thì trước đột ngột
Không trước ủ dột thì trước đìu hiu
Không trước nắng chiều thì trước mưa sớm
Không trước ốm thì trước đau
Không trước gió dậy cuộc sống sang giàu thì trước mưa dàn con phú quý
Không trước bồ đào túy lúy thì trước mỹ tửu đăm chiêu
Không trước phù kiều thì trước trụ cột
Không trước nhà dột thì trước dậu thưa
Không trước chưa vừa thì trước ắt đủ
Không trước xiêm hồng ủ rũ thì trước duệ địa trưởng quần
Không trước tuyệt nhiễm duyên vi bột trần thì trước khai tính đức vi hợp giác
Không trước diệu hoa lầu các thì trước tràng hột hóa sinh
Không trước ngạc kình thì trước kiện cáp
Không trước la porte étroite thì trước la voste immense
Không trước Lý Thương Ẩn phân vân thì trước ca nhi thánh thót
Không trước con chim hót thì trước con gấu kêu
Không trước tồn lập con mèo, thì trước tập trung con cá
Không trước liên tồn cái lá, thì trước tồn lý lún phún in rêu
Không trước sóng nam hải dậy triều thì trước le promontoire hellénique
Không trước l’existentialisme est un humanisme thì trước l’être maléfique et le temps abyssal
Không trước l’hôpital Grall thì trước la fatalité de l’Océan Pacifique
Không trước le grand Jeu d’Héraclite thì trước les drames titaniques de Shakespeare
Kể làm sao xiết mép rìa
Ngổn ngang chấp trước miền kia cõi này
Sịch mành lam đái hoàng khai
Nhất căn hồng đái chạy dài hai cung
Thái sơ thị vẫy thị vùng
Chùm bông thị rụng cuối cùng thị rơi.
Tác phẩm:
1. Lá hoa cồn (Thơ)
2. Thi ca tư tưởng (Đi vào cõi thơ), Nhà xuất bản An Tiêm, 1969
3. Sa mạc phát tiết (Thơ), Nhà xuất bản An Tiêm, 1969
4. Martin Heidegger (Vấn đề căn bản của Siêu hình học), Nhà xuất bản Võ Tánh, 1969
5. Mùa thu trong thi ca (Tư tưởng và thơ), Nhà xuất bản An Tiêm, 1970
6. Sa mạc trường ca (Thơ), Nhà xuất bản An Tiêm, 1970
7. Ngày tháng ngao du, NXB An Tiêm, 1971
Bùi Giáng - Người thi sĩ chối bỏ thi ca
Bùi Giáng (trung niên thi sĩ), thuở còn bé, ham đọc thơ. Bỏ học về nhà quê chăn trâu. Làm thật nhiều thơ, thân tặng chuồn chuồn và châu chấu.
Bùi Giáng đã tự giới thiệu với dòng chữ trên, được in ở mép bìa tập thơ Sa mạc phát tiết do nhà An Tiêm xuất bản năm 1969. Lời giới thiệu đó cũng là ý hướng tỏ bày quan niệm về chiều hướng thi ca của thi sĩ. Cõi sống này không làm gì còn ai, có ai biết và hiểu thơ nữa, nên người thơ đành gửi tinh hoa, huyết lệ mình cho đám côn trùng đồng nội! Mỉa mai thay, Bùi Giáng! Đi già nửa vòng đời với gần 30 năm đọc sách, làm thơ, để hôm nay nói lên lời cay độc! Bùi Giáng đã sử dụng cái tinh thể của ngôn ngữ để đạt tới thượng đỉnh của suy nghĩ, nhưng không cần ai biết suy nghĩ đó để làm gì? Thơ với Bùi Giáng, đích thực không phải cứu cánh, chỉ được thực hiện nhằm giải tỏa ám ảnh về thân phận trong vòng đai cuộc sống nhiều băn khoăn với ý thức siêu hình. Cái sa-mạc-cõi-đời-thế-giới-hôm-nay đầy ngụy trang, bất trắc. Nó u tối như vùng địa ngục, nếu không, cũng rừng rú man rợ, hỗn loạn trước mắt nhìn thi sĩ.
Bùi Giáng - người thơ, không ở trong trạng thái bình thường cả tâm hồn lẫn nghệ thuật. Sự đòi hỏi về mình, cho mình cái tuyệt đối trong sáng tạo là yếu tố căn bản cho mỗi cá nhân làm văn học, nghệ thuật. Tuyệt đối, con người từ vạn cổ đã đi tìm tuyệt đối. Nhưng tuyệt đối cũng như chân lý, chúng không phải vật thể để con người có thể dùng mắt nhìn, dùng tay sờ, dùng trực giác phán đoán và phân tích chúng qua suy luận. Tuyệt đối là vô hình, vô ảnh. Nó sống do mơ ước, cũng chết theo mơ ước! Cũng chính vì con người ham tìm tuyệt đối nên mới nảy sinh tiến bộ. Cái tuyệt đối biến mất, và trở thành tương đối lúc con người tưởng rằng đã tới nó. Vậy, cái điều thi nhân mơ ước giữa cõi Thơ, đi tìm tuyệt đối trong tư tưởng, ngôn ngữ, mãi mãi chỉ là thất bại! Điều này, khi luận về chữ "Đạo" Lão Tử đã nói:
…"Có một cái nó bao gồm hết thảy, nó sinh ra trước khi có Trời có Đất. Nó yên tĩnh biết bao! Nó trơ trọi biết bao! Nó đứng một mình và không thay đổi. Nó hồi chuyển về bản thể của nó không một chút nguy hại và nó là Mẹ của Vũ Trụ. Ta không biết tên nó, nên gọi nó là "Hành Lộ" là "Đường Đi"(the Path). Miễn cưỡng ta gọi nó là "Vô Cùng Tận" (the Infinite). Vô Cùng Tận là Phù Du (Fleeting); Phù Du là Tiêu Tán (the Vanishing); Tiêu Tán là Phản Hồi (the Reverting). Đạo ở "Thông Lộ" (Passage) hơn ở trong "Hành Lộ" (Path). Nó là tinh thần của "Vũ Trụ Biến Hóa", – sự sinh trưởng không ngừng luôn luôn quay trở về bản thể để sinh sản ra những hình thức mới. Nó cuộn mình lại như rồng, biểu tượng sở thích của môn đồ Đạo gia. Nó cuốn lại và tỏa ra như mây. Có thể ví Đạo như cuộc Biến Thiên Vĩ Đại. Theo chủ quan, nó là khí chất của Vũ Trụ. Tuyệt Đối của nó là Tương Đối…
(Trà đạo - Tiểu luận, trang 53-54, Okakura Kakuzo, Bảo Sơn dịch)
Thơ có phải là Đạo? Không, thơ không phải là Đạo nhưng nó sinh hoạt tương tự như Đạo, nghĩa là nó cũng đi tìm cái biến thiên vĩ đại trong cõi mông lung Trời Đất. Nó đi tìm niềm Tin trong mắt nhìn, hồn nghĩ. Cái niềm Tin đó không lệ thuộc vào nguyên tắc hay giáo lý của Đạo Pháp mà nó phiêu phiêu giữa ý thức của cá nhân, trong cái Nhìn và cái Nghĩ về Vũ Trụ đối chiếu với bản-thể-đời-sống. Người thơ vừa đóng vai Giáo Chủ vừa làm tín đồ ngoan đạo. Thơ, tiếng nói siêu ngôn ngữ. Cái giá trị mỹ cảm của nó, không lệ thuộc vào sự thẩm xét có tính cách thông thường mà thuộc về cái-gì-bền-bỉ và cao-đẹp-nhất của con người trong địa hạt suy tưởng. Thơ, không phải là cơ hội giải trí, nó có tính cách sùng mộ. Trong thi ca, cái đẹp không nhất thiết phải có Chân, có Thiện. Nó được quan niệm rộng rãi hơn, tự do hơn và vượt trên những thứ đó. Bởi vậy, sự dấn thân của thi nhân không phải để giành về phần mình những đặc ân, mà chính để ban phát đặc ân cho kẻ khác, còn mình chỉ thâu nhận khổ đau, khắc nghiệt.
Nói vậy, không hàm chứa ý nghĩa tuyệt đối của mỗi số phận thi nhân ở môi trường thi ca, mà nhằm tỏ bày ý niệm. Bùi Giáng, người làm thơ đã chối bỏ thi ca vì đã nhìn rõ cái mong manh của ngôn ngữ trước Định Mệnh và cõi Siêu Hình. Có lẽ, vì chịu ảnh hưởng quá nhiều các triết thuyết Tây phương và gần đây của Đông phương, nhất là giáo lý Phật giáo, nên người thơ đã đánh mất bản ngã, để chịu giày vò trong "vòng quay" của các nhà đại-tư-tưởng cả Đông lẫn Tây, làm cho ngơ ngác. Nhưng ác thay, cũng nhớ nó, để có vóc dáng đặc biệt Bùi Giáng hôm nay:
… Chân nhân đời xưa đưa ra một "chủ thuyết" nào đó, đều có như là tình phi đắc dĩ? Chẳng đừng được mà phải nói. Nói ra, mà vẫn có chỗ như là chẳng muốn nói ra.
Chẳng đừng được mà phải nói tới nhân nghĩa, lễ nghĩa, như Khổng Tử. Chẳng đừng được mà phải nói bỏ nhân nghĩa, lễ nghĩa đi, như Lão Tử. Chẳng đừng được mà viết Tề Vật Luận, như Trang Tử. Trang Tử thường dùng phép "Chi ngôn", ấy là bởi ông đứng ngay giữa cơn lốc của sự tình bất đắc dĩ: muốn gác bỏ chuyện thị phi, mà vẫn cứ bị bó buộc phải nêu mãi chuyện thị phi…
… Sau ba cái khối Khổng, Lão, Trang, tư tưởng Trung Hoa đã đi vào phiên nhiên trong cung bậc Đường Thi. Rồi nó kết tinh trong truyện Kiều của Nguyễn Du. Truyện Kiều là chỗ dung hợp của Khổng, Lão, Trang và Phật.
Người tư tưởng sẽ không còn dám viết gì về tư tưởng nữa. Trang Tử tái sinh sẽ nghĩ sao về cuốn Nam Hoa Kinh của ông? Ông sẽ viết một bộ Tân Nam Hoa Kinh, hay là ông hồn nhiên ngâm câu thơ Hồ Dzếnh?
"Thơ về nắng sáng lừng bay
Gấp đi ánh phượng cho ngày rạng ra".
Hoặc câu thơ của Xuân Diệu:
"Trưa hôm nay con ngồi như trẻ nhỏ
Giữa đáy trưa trong lòng mẹ vô cùng.
Con là sáo mẹ là ngàn vạn gió
Mẹ là trời con là hạt sương rung
Sương uống mãi chẳng bao giờ hết sáng
Của trời cao chói lọi mỗi triều ngày
Sáo ca mãi lòng tre run choáng váng
Gió vẫn đầy ngàn nội bốn phương bay"
Thơ như thế là cái chốn của "tâm vô thố hồ thị phi, hưu hồ thiên quân.
(Thi ca tư tưởng)
Chính vì say mê triết thuyết này nọ, nên Bùi Giáng bị ám ảnh đến nỗi nghi hoặc cả thi ca và càng lúc, càng đưa thi ca vào vùng trời u mặc để cười giỡn cho vui, vì đời là chiêm bao cả! Cái Có, cái Không, cái Còn, cái Mất hàm trong tinh thể của Tạo Hóa mà sức người không có cách nào làm cho lay động! Đúng, Bùi Giáng đã đi vào chiêm bao giữa cuộc sống vì cuộc sống vừa khủng khiếp vừa nên thơ, con người không thể dùng luận lý để biện minh phải trái. Nhưng dù nói gì mặc lòng, đích thực Bùi Giáng bị cái hàng rào triết học bủa vây thật chặt chẽ. Giả dụ, Bùi Giáng không đọc sách Triết, hoặc chú trọng tới vấn đề Siêu hình mà chỉ làm thơ thôi, chắc thơ Bùi Giáng không mang sắc thái độc đáo với tinh thần u mặc thâm thúy của Lão Tử, kèm theo đấy, nào Platon (triết gia Hy Lạp, môn đồ của Socrate và là thầy của Aristote), nào Parménide, Nietzsche, Dylan Thomas, Rilke, Hoelderlin, Baudelaire, v.v. là những khuôn mặt lớn của Tư Tưởng và Thi Ca Thế Giới để chứng tỏ khả năng hiểu biết của mình. Đôi lúc, người thơ cũng bị lôi cuốn vào khung trời quái dị qua hình ảnh "thiên tài đày đọa" Edgar Allan Poe, người đã có những tưởng tượng dị thường với cái nhìn ma quỷ, luôn luôn bị ám ảnh bởi các "thiên thần kỳ quái" trong kích thước văn nghệ quốc tế.
Thơ Bùi Giáng súc tích, chứa đựng nhiều u uẩn. Cái khung trời sáng láng, hiền hậu, chan hòa mơ ước phiêu bồng của buổi nào xa xôi, vẫn thấp thoáng hiện về trong thi nhân qua những vần điệu:
Rồi mai đi về xứ nào chẳng biết
Đỗ quang ôi và có lẽ quyên ôi
Đi lìa xa xứ sở của mặt trời
Thì chuyện cũ cũng như từng chưa biết…
Ngày mai, ôi! ngày mai khi con người lìa xa cuộc thế, khi mắt đã nhắm không còn nhìn thấy mặt trời cùng người quen, kẻ lạ, thì còn nói làm chi cũ, mới? Cái chết nào đó chết biết từ đâu tới làm mờ mịt cõi nhân gian! Nó làm người đi quên hết, quên "dấu tiên sa" và "đông tàn thu gãy", cả chút tình Đông Á cũng trôi vào về xứ nào mù thẳm, nhưng xin em, người yêu dấu, còn ở lại cõi đời cứ nô đùa, cười vui như chuyện qua rồi:
Tôi chẳng rõ cội nguồn tôi ly biệt
Dấu tiên sa và ngấn tích tiên nga
Bờ dạt bèo hay bến lạnh trôi hoa
Ngày ngóng mộng hay đêm chờ máu chảy
Xuân thơ dại hay đông tàn thu gãy
Chút tình xưa Đông Á mất đâu rồi
Rồi mai đi về xứ nào chẳng biết
Những người em hãy ở lại bên đời
Nô hay đùa xin cứ mỉm hai môi…
(Sa mạc phát tiết)
Sự đi, ở tùy số mệnh, nhưng người thơ sở dĩ phải nói ra để chứng tỏ, mình đã sẵn sàng chờ đón nó, không hề sợ hãi. Vì thế mỗi lời nói, mỗi chữ viết, mỗi ý nghĩ tuy cay đắng, nhưng vô cùng thành thực. Sống và chết, hai vấn đề cùng chung định lý: có sinh phải có tử. Vì ý thức rõ ràng, nên người thơ thung dung tỏ bày tâm sự:
"Thưa em rượu uống bây giờ
Là trăm năm gục hai bờ tử sinh…"
"Thưa em rượu uống bây giờ
Là thiên cổ lụy còn trơ bên mình…"
"Thưa em rượu uống bây giờ
Là trong lát nữa lên bờ đuổi ma…"
"Thưa em rượu uống bây giờ
Là thiên thu lại còn trơ hận trường…"
(Sa mạc phát tiết, Rượu uống)
Bài "Rượu uống" hàm chứa một ý tình tuy can đảm, nhưng quả thực thê lương. Nếu đời sống chỉ được sinh ra để chờ đợi cái chết, chắc chẳng còn ai muốn có mặt ở cõi đời này cho mệt xác. Mọi cuộc đua tranh, mọi cố gắng để làm cho cuộc sống mỗi ngày mỗi tốt đẹp hơn cũng là thừa. Nhưng may mắn thay, cái tinh thần hoài nghi và bi quan ấy không phải là giáo điều cho mỗi kiếp người. Nó chỉ được phát sinh trong một cảnh huống, một trạng thái bất thường của cá nhân thi sĩ. Có thể nó bi quan, yếm thế và người thơ cấu tạo cũng nhằm mục đích tác động riêng mình bằng buồn đau, giận hờn cho khuây khỏa xót thương. Sự chấp nhận hay không, thuộc quyền người thưởng ngoạn.
Con người cô đơn, mãi mãi cô đơn vì mỗi con người, tự nó đã là điều xa lạ. Chính vì mặc cảm cô đơn nên con người cảm thấy nhỏ bé trước rộng lớn của Vũ Trụ. Sự hiện hữu nào đó, có nghĩa gì đối với Sa-Mạc-Hư-vô? Con người sợ Hư Vô, nhưng vẫn muốn tìm hiểu Hư Vô là cái gì mà khiếp đảm thế? Con người phải dùng đến suy luận để giải đoán băn khoăn qua môn học Siêu Hình. Đã bao nhiêu thế kỷ, qua nhiều công khó tìm tòi nghiên cứu mong đem lại một định nghĩa rõ ràng, để ấn định minh bạch cương vị con người và linh hồn trước Vũ Trụ. Nhưng cho tới nay, hình như các nhà đại-tư-tưởng vẫn chỉ đưa ra những nguyên cớ siêu hình mà chưa đạt tới cái tinh thể siêu hình tức là giá trị tâm linh và chu kỳ con người trước Hư-Không-Tuyệt-Đối. Bởi vậy, Bùi Giáng khuyên mọi người đừng nói làm gì đến giao hưởng, đến Tồn Tại và Hư Vô. Bận tâm làm gì cái Nếp Gấp Siêu Hình "bất khả tư nghị" trong Sein und Zeit, trong Holzwege hoặc trong Der Satz vom Grund. Sống trong cái cõi "tư lự dị thường đó" mệt lắm! Nó trừu tượng quá. Nó bao trùm mọi sinh hoạt tâm tư và ngoại giới, ngay cả ngôn ngữ nữa. Cái sa mạc Chân-Không-Tịch-Mịch chắn ngang tầm suy nghĩ đã có đủ những đau đớn rồi đó. Ngay cả Heidegger, một trong những triết gia đã cấu tạo nên triết thuyết Hiện Sinh, một nhà Đại-Tư-Tưởng chẳng những của Đức Quốc mà còn của thế giới nữa, người đã mở ra được một chân trời siêu hình rộng rãi nhất, nhưng từ xa, con người u mê đứng ngắm mãi vẫn chẳng thấy vóc dáng mình đâu! Bùi Giáng cũng đề cập đến vấn đề căn bản của Siêu Hình Học qua Heidegger mà người thơ đã chịu ảnh hưởng nhiều trong ý hướng thi ca. Điều này, trái ngược hẳn với Nguyên Sa, học Triết và dạy Triết, nhưng làm thơ rất trữ tình, không để lộ chút gì dính dấp giữa thi ca và triết học. Có lẽ Nguyên Sa đã quan niệm rõ ràng, mục đích của triết học là đi tìm cái nguyên nhân đầu tiên còn nghệ thuật là sáng tạo và phát huy chăng?
Bùi Giáng đi vào trời Thơ như một trận hiện diện dị thường trong khiếm diện, gây nên một tình tự vừa hoang vắng vừa chan hòa, một khuyết phạp thường hằng lại để mọc ra sum suê những lá cây viên mãn cứ xô ùa nhau đụng mãi:
Hồn tại thể tan lìa trong điệu ấy
Vâng là rằng không ấy phủ mây xuân
Núi bất tuyệt mưa đầu truông phượng dậy
Bước lên miền lũng thẳm bạch dương thân
Cỏ phát tiết bờ khơi sông dẫn sóng
Biển lên trời đầu ngọn mở nghe chim
Đất từ tạ Lam Kiều ngân nguyệt vọng
Nắm xuân xanh về giữa tối khuya tìm… Ngôn ngữ trong thơ Bùi Giáng đi vào cõi suy tưởng. Ở đấy, người thơ như bị cấu xé giữa Thực và Mộng. Tiếng thơ buồn bay lang thang trong vòm cong trí tuệ để bất chợt vượt thoát ra khỏi kiềm tỏa tung vào quỹ đạo dự ước, trong tâm cảm người thơ. Giữa cái say sưa vô độ, linh hồn bay lả lả, ngất ngất trong cõi rộng rinh ảo tưởng. Nó là một tư lường không định trước. Từ một khắc khoải đơn sơ đi vào thênh thang mộng mị đầy hào quang diễm lệ:
… Khung cảnh hẹp tờ bay trong mấy ngón
Chết là gieo vàng lộn mấy phen rồi
Sầu nhan sắc đèn lay trong mấy ngọn
Đến năm sau chờ buổi trước không lời
Nhưng màu lá nhớ màu cây đầu ngõ
Thị thành vui gì sắp sửa sang đèo
Gió khuyến khích trong dập dồn hiểm họa
Hồn thu phong trường kiếm dựng cho bèo…
(Sa mạc phát tiết, Phát tiết)
Cuộc sống là trò chơi, thay đổi bất tường trong mỗi giờ phút, nhan sắc chỉ là hư ảnh, cũng như dấu bèo in trên mặt nước làm uổng đi cái khí phách "thu phong trường kiếm". Chết là gieo vàng, là luân hồi tiền kiếp mấy phen rồi sinh tử? Vì:
Con chim sầu tuyết băng nguồn
Mở heo hút cỏ phơi truồng đá xanh
Trên vòm thời đại đi quanh
Rách quần quỹ đạo tan vành nguyệt hoa…
(Sa mạc phát tiết)
Bùi Giáng đã thấy rõ thân phận mình với chu kỳ góp mặt và thấp thoáng cõi hư vô mở rộng bát ngát làm choáng váng mặt mày. Để chứng minh sự có đấy, Bùi Giáng luôn luôn đòi hỏi về phần mình cái nguyên cớ đầu tiên của lẽ sinh tồn, giữa vũ trụ thuần nhất, bất khả phân, bất biến của Aristote. Cái cõi vô hình, vô ảnh nó làm thi nhân cảm thấy thương thật đấy, nhưng nó là vùng sa-mạc-hoang-liêu chẳng ngào ngạt hương hoa và chất ngất mến thương. Giữa ý nghĩ mơ hồ của tiềm thức, chợt nở lên đóa hoa tâm ý: tình yêu và thương tiếc, cả hai vòng tử sinh quấn quít, như tinh thể giao hòa cùng bản thể giữa vòm trời hiền hậu:
Vì ảo mộng ở chân mình đi tới
Bước chân trời muôn hướng gọi mây xanh
Nên mùa nọ đường nằm canh ngõ lội
Đến tìm nhau ở dưới bóng thiên tài…
Em gục khóc, em mỉm cười với mộng
Với môi răng và khóe hạnh mày ngài
Với dáng dấp tuổi rằm trăng lay động
Sầu nguyên tiêu tư lự nước trôi dài…
(Sa mạc phát tiết, Dặm mòn, LHC)
Tự cổ, mối sầu có cùng với bao niềm ăn năn vì đã trót làm kiếp thi nhân. Con người đi từ cuộc sống vào chiêm bao hay trái lại, nhưng trong địa hạt thi ca đích thực con người đi tìm đau khổ và thất bại! Cái vùng trời Siêu-Thoát, cái Sa-Mạc-Hư-Không mà người thơ thong dong bước vào, mong tìm thấy chân lý, chao ôi! nào ngờ phải gặp lại tiền kiếp hoang vu, cùng với bàng hoàng, điên điên tỉnh tỉnh, mập mờ không phân định. Nó là Vô Thường đó! Một khi đối diện với nó, ở trong nó rồi thì không còn chi thắc mắc, không còn gì thiết tha, ân cần, vồ vập.
… Nếu giả sử mùa xuân thu lại căn cơ thiết lập mọi cuộc cơn tồn sinh tồn hoạt, thì cái sự vụ bàn hư luận tới nó, có thật là thập phân tầm phào lẩn thẩn? Không còn dâu biển thì mất luôn cả trường sinh tử diệt phù du? Mọi mọi mất hết cả, thì còn lại riêng một cái chi? Mọi mọi mất đi, chẳng lẽ duy chỉ còn riêng Cô Em Mọi Nhỏ? Hỡi ôi!…
(Mùa thu trong thi ca)
Bùi Giáng đi vào thơ, luôn luôn đeo bên mình niềm ám ảnh của thần học để giãy giụa trong đó với băn khoăn, tuy trong thâm tâm, một thoáng nào đó, cũng muốn buông xuôi cho nhẹ nợ. Bùi Giáng đối thoại với Nietzsche, Sophocole, Parménide, Khổng Tử, Lão Tử, Sartre, Camus, v.v. lại còn trò chuyện với Brigitte Bardot, với Marylin Monroe, cô đào chiếu bóng đã tự tử ở bên trời Mỹ quốc năm nào, và cô em Mọi nhỏ cùng "Phùng Khánh mẫu thân" nữa:
… Nhiều người hỏi tôi có quả Phùng Khánh đã có đẻ tôi ra đời chăng. Bà đẻ tôi ra lúc nào?
Sự thật là Phùng Khánh chẳng hề có đẻ ra tôi một phen nào cả. Tôi nay bốn mươi bốn tuổi đầu. Phùng Khánh chỉ mới hai mươi sáu tuổi. Làm sao một thiếu nữ hai mươi sáu tuổi lại có thể đẻ ra một ông cụ luống tuổi bốn mươi bốn, bốn mươi lăm?…
… Thế thì bởi đâu Phùng Khánh lại là mẫu thân của tôi mặc dù bà không đẻ ra tôi? Ấy là bởi cái đường tơ luận lý học như thế này: Phùng Khánh vốn là bà mẹ Việt Nam. Vậy tất nhiên Phùng Khánh là mẹ của tôi vậy. Nếu tôi không nhận Phùng Khánh là mẹ, thì chẳng ra tôi là người nào? Hoặc người Cao Miên. Hoặc con dân Âu Mỹ ư?… Huống nữa là: Phùng Khánh là bà mẹ của loài người. Tôi là con người. Vậy Phùng Khánh là mẹ của tôi. Nếu tôi không phải là con của Phùng Khánh, thì chẳng ra tôi chẳng phải là con người? Chẳng ra tôi là con vật?
Phân tích nghiêm mật luận lý học ra như thế, rành rành Phùng Khánh là Mẹ của tôi.
… Mỗi khi tôi mơ màng nghĩ tới dung nghi diễm lệ Phùng Khánh thì dòng thơ bát ngát lại tuôn ra ào ào. Vậy thì hiển nhiên tài của tôi là do liên tồn Phùng Khánh đẻ ra vậy…
(Thi ca tư tưởng)
Người thơ đã sử dụng luận lý học để giải thích về "mẫu thân Phùng Khánh". Nó thật hay đùa? Nó là chiêm bao hay thực tại? Nó là sự mất thăng bằng trí não hay công việc thuần túy của luận lý học? Sự vụ này lạc quan hay bi quan? Là thất bại hay hy vọng? Dù nó là gì đi nữa, ít nhất, thi sĩ cũng đưa ra một mẫu người để bấu víu vào mà lý luận qua thi ca cho đỡ buồn, cũng như Nietzsche đã dùng Zarathoustra để khai triển thuyết siêu nhân và ý lực của quyền uy, qua tập văn vần trong khung trời triết học Tây phương. Mục đích và giá trị tuy khác nhau nhưng ý hướng là một.
Có người cho rằng, Bùi Giáng lập dị. Có người nói, vì mất thăng bằng trí não nên thi nhân mới nảy sinh ý nghĩ bất bình thường qua ngôn ngữ thi ca. Bệnh hoạn, điều may mắn hay bất hạnh cho mỗi con người làm văn học, nghệ thuật? Nếu không vì bệnh hoạn, làm sao Hàn Mặc Tử có thể chuốt sáng trời thơ Việt Nam qua ngôn ngữ thống thiết, nghẹn ngào. Tiếng thơ Hàn Mặc Tử kêu khóc không thôi từ mấy chục năm rồi đó! Cái vừng trăng lạnh lẽo mơ hồ lần quanh trái đất với chu kỳ đều đặn kia, đã dìm chết thi hào Lý Bạch dưới đáy nước đêm nào với cơn say chưa dứt. Nó còn làm thể xác Hàn Mặc Tử đớn đau đến tột độ, mỗi lần nó "lên ngôi" nên tự đáy lòng người thơ bật lên vần điệu vừa ghê rợn vừa nguy nga:
Gió rít từng cao trăng ngã ngửa
Vỡ tan tành vũng đọng vàng khô
Ta nằm trong vũng trăng đêm ấy
Sáng dậy điên cuồng mửa máu ra…
(Say trăng, Hàn Mặc Tử)
Và thi nhân đã hơn một lần, xin chị Hằng tha thứ cho bàn tay tội lỗi của mình đã kẻ lên trăng những ngôn từ si mê, cuồng dại! Cái khuôn mặt xanh xao ấy, tạo nên bao nhiêu mộng mơ cho kiếp làm thơ? Vùng ánh sáng mát dịu chảy từ trời cao đối với thi nhân là mơ, là mộng, là nguồn yêu thương vô lượng. Giữa cõi thinh không mù khơi, dòng Ngân Hà xa xôi quá, các vì tinh tú lạnh lẽo quá, không làm cõi nhân gian ấm áp hằng đêm, chỉ có vầng trăng treo lơ lửng với bí mật quyến rũ qua trí tưởng tượng của thi nhân mà thôi. Nhưng đau thay, khoa học đã làm trăng mất hẳn nét thiêng liêng từ khi có bàn chân nhân thế bước chậm chạp trên thân thể chị Hằng và còn để lại dấu tích đến bao lâu nữa?… Bích Khê cũng vì bệnh lao, tạo nên tập Tinh huyết. Phạm Hầu, họa sĩ kiêm thi sĩ, chết vì bệnh thần kinh tại nhà thương Vôi (Bắc Giang) cách đây mấy chục năm, cũng để lại ít bài thơ bất hủ. Vậy, bệnh hoạn đâu phải là một đọa đày toàn diện cho mỗi số phận tài hoa? Cái thân xác đầy tội lỗi, nhơ nhớp có đáng gì, mà phải quan tâm. Người thơ bước trên mặt trái đất nhưng tâm hồn bay bổng giữa thinh không. Một khung trời sáng tạo chói lói có muôn vạn ánh hào quang rực rỡ – vì mặt trời thì bị nhân gian hãm giữa trái tim – để rọi vào hố thẳm nhân gian từng ý nghĩ tuyệt vời, diễm lệ. Bùi Giáng làm thơ, nhưng chẳng bao giờ thừa nhận thi ca là lẽ sống duy nhất của đời mình. Người thơ coi kiếp sống như một hiện hữu bất đắc dĩ, nên làm thơ cho khuây khỏa ám ảnh, cái ám ảnh thực sâu đậm, bi thương giữa cõi đời hỗn mang và suy tưởng thuần khiết. Bùi Giáng cho rằng, con người đã đánh mất cái nghĩa thiêng liêng của nó rồi. Nó không còn linh hồn nữa. Nó được chỉ huy và phán xét bằng ước lệ. Nó tàn nhẫn, độc ác ngay với chính nó. Thời đại hôm nay đã in đậm vết tích rừng rú với hổ, báo, heo, v.v, Con người biến thành dã nhân tự bao giờ chẳng biết! Bùi Giáng thoát hồn vào ảo giác để nhận ra sự thật:
Trần gian rộng rộng hơn nhiều nữa
Mênh mông hơn và bát ngát mây hơn
Thì thua kém hay so le tàn úa
Thì thế thôi giới luật cũng phiêu bồng
Một mây chiều nguyệt có khổ buồn không?
(Mùa thu trong thi ca, Vì như vậy)
Thua kém, so le, tàn úa cũng vậy cả thôi. Cái phù du mệnh số đi song hàng với rộng rộng trần gian thì con người lấy gì để cưỡng chống, lấy gì để sinh tồn qua kiếp trăm năm? Và Thượng Đế kia, Đấng Tối Cao, Tối Linh mà con người hằng kính cẩn, liệu có còn giữ nguyên tín mộ?
Hỏi: Tại sao các hạ tin rằng có Thượng Đế?
Đáp: Bởi vì nếu không tin là có, ắt phải tin rằng không có, mà hễ tin là không có, ắt thời gian phong cảnh sẽ hoang liêu. Mọi "dưỡng chất trần gian" ắt sẽ do sa mạc cung cấp. àm sao chịu đựng nổi sự tình đó? Uống một chai la-de, mà nghĩ rằng đó là của cải do hư vô ban cho, thì hỡi ôi! Làm sao còn sum suê uống ăn nhậu nhẹt thơ mộng được nữa. Tuy nhiên…
Hỏi: Tuy nhiên thế nào?
Đáp: Tuy nhiên tại hạ thỉnh thoảng cũng đánh mất Thượng Đế.
Hỏi: Thỉnh thoảng đánh mất như thế nào?
Đáp: Như trường hợp chán chường một cách đột ngột không còn muốn uống la-de.
Hỏi: Hoặc như thế nào nữa?
Đáp: Hoặc như trường hợp đọc sách vũ hiệp tới chương kết thúc.
Hỏi: Vì sao như thế?
Đáp: Vì kết thúc, thì tức nhiên là chấm dứt hết mọi miền cõi liên tồn. Còn biết lấy đâu mà đeo đuổi chiêm bao được nữa. Hỡi ơi! Đến sách vũ hiệp mà cũng kết thúc, thì Trời Xanh Thượng Đế cũng thi đua nhau tử vong, tiêu tán tuốt hết cả ngấn tích di hài…
(Mùa thu trong thi ca, Vấn đáp)
Hình như, không cách nào Bùi Giáng kinh qua được cái gốc suy luận về Siêu Hình. Luôn luôn người thơ đặt cho mình mối băn khoăn về cái Còn, cái Mất. Đi từ vật thể qua tinh thể đến khách thể rồi chủ thể, sự gì cũng tiêu tan trước Hư Không làm người thơ chán mỏi:
Bây giờ ai biết hỏi ai
Dù lòng biển rộng sông dài thênh thênh…
Cái cõi thơ trinh nguyên, đôn hậu mà tự cổ các thi nhân thường nhìn vào đấy, coi như cứu cánh, nó đã xa vời, chìm khuất. Bùi Giáng thường gặp mình, giữa hồn mình. Cô đơn và cô đơn trước bạt ngàn vướng mắc. Mảnh trời xanh kia, trái đất hệ lụy này và kiếp sống bọt bèo như mối vấn vương làm người thơ khắc khoải, trốn mình trong đường mòn suy tưởng. Nhưng suy tưởng chỉ dẫn vào tuyệt lộ trước Hư Vô. Sợ quá, người thơ ôm đầu nức nở. Những mơ ước nào đó, những khát vọng rồ dại nào đó, cũng chỉ để đi tới đỉnh nhọn của chán chường! Nào có gì đâu? Nào còn gì đâu? Một chu kỳ ngắn ngủi, một góp mặt vô danh, một ganh đua vô ích. Trời thì lãng quên, Đất lại vô tình. Ta hiện hữu hay ta thừa thãi cùng nghĩa, vì cát bụi lại trở về cát bụi! Thơ Bùi Giáng, có nhiều bài đọc nghe vui vui, nhưng nếu tìm hiểu sâu xa, phân tích kỹ, nó vẫn chứa đựng trọn vẹn những nỗi niềm bi đát: nào tình yêu vọng tưởng qua vóc dáng mẫu thân Phùng Khánh, nào "dồn nén" qua nuồng Mọi Cao Nguyên, với vú đồi căng mộng Monroe, Bardot, v.v. Không biết cái tình này có nằm trong diễn trình Phân Tâm Học của Freud không? Nó là "Es" (Bản Ngã) qua "Ich" (Cá Ngã)? Nó đã được Ueberich (Thượng Ngã) kiểm soát chưa?
Người con gái lội qua khe
Bàn chân với nước lạnh đè lên nhau
Nỗi niềm tưởng lại xưa sau
Bàn chân với nước cùng nhau lại đè.
(Sa mạc phát tiết, Bàn chân với nước, LH)
Thơ Bùi Giáng mang nhiều ẩn dụ ở chiều sâu ngôn ngữ. Lời thơ tuy đơn sơ, ý thơ tuy thanh thoát, nhưng tâm trạng chắc gì xuôi mái? Thư gửi nương tử Monroe là hình thức u mặc hay chứa chấp mối ẩn ức?
Ngày nương tử còn bình sinh cuộc sống, tại hạ vốn có phen một đôi lần đôi lúc nằm ngủ chiêm bao thấy nương tử ghé về thăm nước Việt. Nương tử đưa bàn tay mềm mại nắm lấy cái hình hài xương xẩu của tại hạ, rồi ẵm bổng tại hạ ở trong lòng lộng bát ngát vô biên của liên tồn nương tử… Trong lúc nằm khoanh tròn ở trong lòng nương tử, tại hạ có sờ nhè nhẹ (sẹ sẹ) vào chỗ rốn của nương tử, thì cảm thấy một mối sung sướng siêu phàm. Nhưng mà bỗng nhiên lúc bấy giờ nương tử thét lên tiếng "Chao ôi! Nhột quá, nhột quá". Đồng thời nương tử vung hai cánh tay, thì tại hạ té lăn nhào xuống đất, giữa một thửa ruộng bùn lầy…
(Mùa thu trong thi ca)
Lá thư viết với ý nghĩ thật ngộ nghĩnh. Bùi Giáng viết đùa, nhưng cũng có phần thực nằm trong dục tính của thi nhân. Bùi Giáng đùa qua triết học, đùa với nhiều nhân vật siêu phàm chứ chẳng riêng gì nàng Monroe. Có khác, ở mỗi người, thi nhân đùa mỗi cách. Đây có lẽ, một phương pháp dùng để tạm trốn mình chốc lát vì suy nghĩ và làm thơ khổ quá!
Bùi Giáng làm nhiều thứ thơ lắm. Ngoài thơ Việt, còn thơ Pháp và Anh cũng như chữ Nho viết bằng quốc ngữ nữa. Có thể nói, không thi sĩ nào làm nhiều thơ bằng Bùi Giáng. Nhiều ở đây, không phải tất cả, cũng không có nghĩa toàn bích, mà chỉ để chứng minh sức sáng tạo rất phong phú của thi nhân. Cái cõi thơ đích thực Bùi Giáng hằng nguyện cầu và mơ ước nó vẫn mênh mang dâu bể, bát ngát ở đầu bến Mê, với bóng dáng chàng nghệ sĩ phiêu đãng Gaugin:
Ngài đã gặp tượng đá kia của đá
Một hoàng hôn hồn lữ thứ tiêu tao
Ngài đã thử trao cho ngàn cây lá
Gọi chim bay về mỉm miệng cười chào
Ngài đã định một lần kia thư thả
Dưới trăng rằm vô định tuyệt tăm hơi
Mở ngọn cỏ tìm vết chân hội họa
Giấu quan san liều một trận không lời
Ngài bắt gặp một lần kia xứ lạ
Nước mênh mông hồ hải mộng xanh trời
Ngài đã vạch một ngân hà óng ả
Cho tinh kỳ du ngoạn giữa kim bôi
Và tinh sương thấp thoáng lấp chôn rồi…
(Sa mạc phát tiết)
Gaugin (1848-1903), nhà danh họa thuộc phái Dã Thú (Fauvisme) đã bỏ nước Pháp qua đảo Tahiti để làm hội họa. Gaugin kẻ đam mê chẳng những màu sắc, còn ma túy và tình yêu nhục thể. Gaugin, nghệ sĩ trên nghệ sĩ, dấn thân để tìm về cho mình chân trời sáng tạo mới và cuối cùng đã bất tử trong địa hạt nghệ thuật tạo hình thế giới. Người thơ cũng muốn làm cuộc lãng du để mong gặp được chân trời mới trong trí tưởng, nhưng ở cương vị của người thơ bé nhỏ và hiền lành trước cuộc sống Việt Nam, đành gửi hồn qua vóc dáng Gaugin với hàng hàng tưởng niệm!
Thơ Bùi Giáng không có chiều hướng rõ rệt ở mỗi giai đoạn. Nó được cấu tạo miên man, tùy hứng. Nó tự do tuyệt đối. Người thơ là ông Hoàng, là Lãnh chúa trong địa hạt thuộc riêng mình. Bởi vậy, trong mỗi tác phẩm, đều có phần của tác phẩm khác. Nó giao hòa trong mọi chiều tư tưởng để hình thành dòng thơ đặc biệt Bùi Giáng. Người thơ quyết định hết và chịu toàn trách nhiệm. Bùi Giáng sáng tác không cần đắn đo hơn thiệt trong mỗi bài, mỗi ý. Thơ Bùi Giáng tựa như cơn gió, lúc tản mác thổi dịu nhẹ mơn man da thịt, khi tập trung từ xa tắp không gian, cuốn thành cơn lốc quét từng luồng giận dữ làm đổ vỡ, xiêu dạt trần gian.
Viết về thơ Bùi Giáng, nên hệ-thống-hóa hoặc phân loại một cách thông thường tức là giết người thơ vậy, vì Bùi Giáng không chỉ làm thơ với ý nghĩa chung chung, mà đích thực người thơ dùng thi ca để chuyên chở tư tưởng và phô diễn những trạng thái phức tạp nảy sinh giữa cõi lòng chứa chấp nhiều hệ lụy.
Người thưởng ngoạn thơ cũng vậy, thích thì đọc, nếu không, cứ việc vứt xuống bất kỳ chỗ nào. Bùi Giáng làm thơ cho mình, nhưng tại đời. Cuộc đời chán quá! Công danh, phú quý là cái gì đâu, làm con người ham hố đến quên cả chức phận thiêng liêng mà Đấng Tối Cao ban riêng cho loài người, đó là một linh hồn thuần khiết để hướng vào Chân, Thiện, Mỹ. Người thơ u uẩn đi vào cõi Tịch Mịch. Bùi Giáng làm thơ thật tự nhiên không kiểu cách, gò bó, dù đôi chỗ để lộ ý kiêu bạc ngay cả với mình:
Hãy mang tôi tới giữa đời
Giết tôi chết giữa cõi đời mốc meo
Hãy mang tôi tới nắng chiều
Giết tôi chết giữa một chiều khe nương
Hãy mang tôi tới dặm trường
Giết tôi chết giữa con đường bơ vơ
Hãy mang tôi tới bất ngờ
Giết tôi ngẫu nhĩ trong giờ ngẫu nhiên
Hãy mang tôi tới diện tiền
Giết tôi chết giữa người thuyền quyên kia.
(Sa mạc trường ca, Cầu nguyện ca) Giết tôi, hãy giết tôi trong những điều kiện do tôi mong muốn và tự nguyện. Một cuộc đời mốc meo, nhàm chán, một khe mương dơ dáy, một dặm trường bơ vơ và một ngẫu nhiên nào đó, hay giữa tôi và thuyền quyên đang "diện tiền" góp vui, thì cái chết đó cũng là điều thú vị lắm chứ? Cái chết rất triết học vì với triết học người ta chẳng có chơi một cơn, đùa một cuộc, nhảy múa một vòng, vậy cái chết do thi nhân mong muốn cũng chỉ như một nuôi dưỡng sinh tồn quẩn quanh giữa suy tư và cõi đời chán mỏi mà thôi!…
Bùi Giáng là một hiện tượng. Người yêu thơ phải nhìn Bùi Giáng qua phong cách độc đáo, ở đấy, mỗi dòng, mỗi chữ, mỗi ý, được viết ra là máu thịt của thi nhân dâng hiến cho đời. Thơ Bùi Giáng không thuộc môn phái nào hết. Nó không cũ, chẳng mới. Nó có thể là thơ, là tư tưởng, đôi khi thơ và tư tưởng lẫn lộn giao hòa tạo thành một vùng "mờ mịt thức mây". Thơ Bùi Giáng như cơn đau chưa dứt, như nỗi bàng hoàng chiêm bao chợt tỉnh, để rồi lại chìm vào chiêm bao khác. Nó bâng khuâng ở mỗi vần, mỗi chữ. Có lúc, nó buồn bã như niềm tuyệt vọng! Người yêu thơ cứ phải men lần theo, như đi trên một hành lang trú ngụ nhiều điều bí mật. Mỗi khúc quanh lại mở ra những kỳ dị phi thường. Cái trạng thái hỗn mang này Hàn Mặc Tử đã thấy:
Bây giờ tôi dại tôi điên
Chắp tay tôi lạy cả miền không gian…
Kể từ năm 1924, André Breton và một số nhà thơ tiến bộ đồng ký tên vào bản tuyên ngôn, chính thức khai trương trường Siêu Thực giữa vòm trời thi ca Lãng Mạn Tây Phương. Cũng kể từ đó, khuôn mặt thi ca thế giới đổi thay. Thơ đã có một ngôi vị cao hơn trong ước lệ xã hội. Thơ vượt thoát dần dần mọi quy luật và đồng thời cởi bỏ những ràng buộc quá chặt chẽ và phi lý trong vần điệu, ngôn từ. Ở Việt Nam, thi sĩ Thanh Tâm Tuyền cũng đưa ra một quan niệm về thi ca, tuy không phải bản tuyên ngôn về thơ mới, nhưng nội dung bản văn cũng tóm lược đầy đủ chủ điểm của vấn đề:
… Người thơ hôm nay quan niệm rằng: người ta có thể viết những bài thơ có vần điệu, nhưng người ta không biết làm thơ… Trong thơ hôm nay có một số tiếng bỗng mất tích, một số khác biến dạng và vô số những tiếng lạ xuất hiện làm nên cái thế giới riêng. Cái thế giới ấy quá kỳ quái với người đọc, người ta không hề quen thuộc, chưa nghe nói tới và ngỡ mình lạc vào một tinh cầu khác. Thơ hôm nay là một tinh cầu biệt lập với thơ hôm qua. Người ta không tìm thấy trên tinh cầu này những cảnh tượng, những sự vật trong trí người ta vẫn coi là vĩnh viễn không đổi dời của thơ. Trong thơ hôm nay không còn những bông hoa kiều diễm, những đêm trăng huyền ảo, những buổi chiều bâng khuâng, những mối tình thơ mộng dù tan vỡ, những nhớ nhung cách trở tự nhiên, những khúc đàn ca nhịp nhàng, người kỹ nữ bên Tầm Dương, tà áo tha thướt trong ánh nắng, mùa xuân với giọng chim ca, mùa thu trong lá vàng, những cơn mưa buồn hiu hắt không thôi, cái tâm hồn của ngàn đời còn run hoài chưa hết những đau thương vỡ mộng, thoáng qua của một hình bóng, một cơn gió, một bóng mây…
… Trong thơ hôm nay, người ta lạc vào cái thế giới có những đêm tối nghẹn ngào, những ánh sáng của lộ liễu, những bệnh viện lạnh lẽo, những nấm mộ hoang vu, những thành phố đổ nát không chim muông, chỉ những gạch ngói, những nỗi lặng câm khắc khoải, những cặp mắt đen cú vọ, những hoảng kinh xô đẩy của loài cầm thú trốn chạy thiên tai, những mối tuyệt vọng sâu thẳm không được cứu vớt, những hồn chết dần trong thèm khát tương lai, những ràng buộc vô lý vào cuộc đời lạ mặt với đám đông ồn ào nhung nhúc, những tầm thường khổ đau gọi ra tên tuổi, cái tâm hồn hôm nay chịu vùi dập bởi những khốn nạn tang thương đòi giải phóng ngay chính ở hiện tại…
… Trong thơ hôm nay hoặc là thiên nhiên không được nhắc đến nhường chỗ cho những vỉa hè, cột đèn, gạch ngói, khối sắt, khối thép, da thịt, tay chân, mặt mũi hoặc là hiện ra thản nhiên lạnh lùng khó chịu nếu không muốn nhập với một ý thức…
(Nỗi buồn trong thơ hôm nay)
Trên đây, chỉ tóm lược ý chính của bài văn, nhưng cũng đủ chứng minh sự dứt khoát của Thanh Tâm Tuyền trong vấn đề thi ca. Bùi Giáng không nói gì cả, nhưng toàn bộ thi phẩm của Bùi Giáng đã khơi động một trời thơ rộng rinh, bát ngát. Thi nhân không dấn thân vào đâu hết, coi cuộc đời như cõi rong chơi tạm bợ. Làm thơ cũng là một cách rong chơi cho quên đi từng đắn đo, phiền muộn! Bùi Giáng đi vào thơ như đi vào cõi vô định. Không có chọn lựa hay thử thách, chỉ có xúc cảm và ngôn ngữ giao thoa, diễn đạt những gì ám ảnh trong hồn. Với từng bước khoảng khoát nhưng rất ưu tư, người thơ đăm đăm ngó về phía trước qua sự tàn phai của vật giới trong cái bất diệt của Tạo Hóa:
Mây năm sắc giăng sông mười sáu
Tuổi mười lăm đổ máu ấu thơ
Tin vui giục giã hai bờ
Mỗi buồn chết gục từng giờ đi qua…
(Sa mạc thi ca, Xuân)
Thời gian, ai cũng sợ nó. Sáng, trưa, chiều, tối, cái nhịp đi rất êm nhưng vô cùng nghiệt ngã làm chia lìa tất cả:
Nằm xuống đất bất bình một lúc
Chợt nghe ra từng phút đang trôi
Sát na gây cấn hồi lời
Xin thâm tạ đất và trời xa nhau.
(Sa mạc thi ca, Một tấm áo)
Đất trời xa nhau đành một lẽ. Nó là cái xa của vũ trụ bất biến tự cõi vô cùng, trời đất vẫn quấn quít luân chuyển bồi hồi trong vòng ảnh hưởng lẫn nhau. Nhưng cái xa của con người và cuộc sống, cái bất lực của chủ thể và Hư-Không-Tuyệt-Đối, sự vụ đó mới thật đau thương! Cái nên thơ của Horace trong thi ca với quan niệm Thượng Đế là thuần nhất, chân lý cũng thuần nhất hình như cũng phôi pha theo năm tháng, với bao nhiêu tìm tòi của nhiều thế hệ qua nhiều triết thuyết. Một vùng Chân-Không-Tịch-Mịch còn đó, dù cho tinh lực của đời sống (force vitale) có là căn bản thiết yếu cho mọi sinh hoạt tinh thần hay vật chất, dù nó là yếu tố sinh tồn cho mọi chu kỳ nhân loại, nó vẫn thuộc về trừu tượng. Đời sống cho đi hay giữ lại cũng chẳng có cách nào ra thoát khỏi vòng "tử sinh hữu mệnh". Vì ham tuyệt đối của suy nghĩ nên Bùi Giáng thường tỏ ý buồn phiền về hai danh từ thực mênh mông và bi đát: Thực-Tại với Hư-Không. Nó là đám rong rêu bám chặt vào chiếc sọ suy tư, nó đẩy thi nhân vào vùng sương mù dày đặc. Người thơ đưa tay quờ quạng lần đường, và cuối cùng phải trông cậy vào niềm tin để khai thông mê lộ qua bài thơ Chấp trước:
Không trước đông thì trước tây
Không trước cây thì trước lá
Không trước ma đầu gió thì trước quỷ cuối sương
Không trước thiên đường thì trước Ba La Mật
Không trước thật thì trước hư
Không trước hư thì trước hữu…
Bài thơ gồm 29 chữ không ở đầu mỗi câu. Không cái nọ thì cái kia, không người này thì người khác, có nghĩa là khi ta góp hơi thở thứ nhất, đời sống đã có sẵn những phiền lụy và cảnh huống vây quanh, vậy "cố chấp" làm gì trước sự kiện đã rành rành như vậy? Tại sao không kinh qua, không vượt lên để giải tỏa kềm hãm, để tìm đến cõi tịnh độ lâng lâng? Lời than thở choáng váng của Chúa Jésus trên đỉnh Golgotha hay lời từ bi của Đức Phật dưới cội Bồ Đề, muôn đời vẫn là sự "thấu suốt cơ cực trần gian" trong vòng tay độ lượng. Vì thế, trước cuộc đời, Bùi Giáng chẳng cần tỏ bày thái độ, cứ dửng dưng sống theo ý mình, thả tâm hồn vào cõi đẩy đưa tới đâu cũng được! Chuyện đời dù ngàn năm trước, trăm năm sau, hay bây giờ cũng vậy thôi! Nếu đôi khi dáng dấp cuộc đời có được người thơ nghĩ đến, cũng chỉ có nghĩa như nói đến trò chơi cút bắt có đấy. Hãy cứ vui đùa cho nhẹ bớt buồn thương. Phẫn nộ hoặc nguyền rủa xã hội là điều vô ích! Ngay cả chiến tranh và cái chết do nó tạo nên, cũng được tượng trưng bằng "nuồng" Mọi nhỏ. Cái chết đó, lẽ đương nhiên thuộc số mệnh, nên có tìm cách tránh cũng vô ích! Hoạt cảnh chiến tranh cũng được "siêu-hình-hóa" qua cuộc "luận lý" dí dỏm, chứa chấp ẩn dụ giữa hai linh hồn Monroe và Mọi Nhỏ:
Monroe: Chị tự tử đã đành. Sao em cũng tự tử? Em ở trong rừng mát mẻ, em tự tử làm gì cho phí mất cái màu da bồ quân bánh mật của em như thế?
Mọi nhỏ: Em đâu có tự tử. Chính thật ra cái hòn đạn nó tự tử em.
Monroe: Hòn đạn nào như thế? Mọi nhỏ: Hòn đạn hoặc là trái bom gì đấy. Nó nổ một trận tam bành. Nó tự tử mất em, đồng thời với cái truông đèo thơ mộng chiều hôm qua.
Monroe: Sao em không dời đi nơi nào ẩn trú, lại ở yên một chỗ mà chờ đợi đạn bom làm gì như thế?
Mọi nhỏ: Dời đi nơi khác, thì đồng thời phải dời cái truông đèo đi nơi khác. Em sức mấy mà làm cho xuể sự đó. Kể ra lúc bấy giờ em cũng chợt có cái ý định lặn xuống ở dưới đáy nước khe kia thì thật là bảo đảm, nhưng không kịp. Cái bom nó nổ còn chớp nhoáng hơn cái ý định nảy ra trong đầu óc em.
Monroe: Lần sau em phải lo xa hơn mới được.
Mọi nhỏ: Lo xa như thế nào?
Monroe: Em phải sắp đặt có ý định cho sẵn sàng trước đi.
Mọi nhỏ: Trước bao lâu?
Monroe: Một tuần lễ là ít nhất. Chẳng hạn như trái bom nó nổ vào Chủ nhật tuần này, thì em phải sắp đặt cái ý định lặn xuống khe từ hôm Chủ nhật tuần trước.
Mọi nhỏ: Còn nếu như mình sắp đặt xong xuôi cái ý định, mà rồi ra rốt cuộc cái trái bom nó không nổ thì có phải là uổng cái công trình sắp đặt kể biết mấy mươi?
Monroe: Đâu có chi mà uổng. Cuộc sắp đặt chỉnh tề, tự nơi nó cũng đã làm một cái gì thơ mộng lắm rồi. Cũng tỷ như chàng thi sĩ kia bao năm trời nó làm thơ tặng chị, mặc dù nó biết rằng chị đã chết rồi, thì làm sao tiếp nhận được những bài thơ nhớ nhung của nó.
(Mùa thu trong thi ca)
Tất cả sắp đặt đều vô ích trước định mệnh. Con người và định mệnh luôn luôn chơi trò ú tim để chụp bắt nhau ở mỗi cung số. Chính vì người thơ đã thấy được và biết qua thực tại, nên mỗi suy nghĩ như niềm đau hủy diệt! Nhưng cuộc sống là một dòng nối tiếp vĩnh cửu cũng như Vũ Trụ, chỉ có khác, nó thay đổi theo mỗi giai đoạn góp mặt của từng lớp người liên tiếp và liên tục, nên cái qua đi và cái sắp đến, không chắc đã nằm chung ước lệ. Thơ Bùi Giáng ít có chuyện đề cao tình yêu hay lãng đãng nhớ nhung một vóc dáng đàn bà nào. Tình yêu chỉ được coi như chuyện đùa bỡn qua từng ý nghĩ u mặc. Bản chất người thơ như vậy:
Em xin chàng chớ lai rai
Con đường thôn lấm ngày dài chi mô
Mở môi ngôn ngữ hồ đồ
Vén xiêm em lội xuống hồ nước kia…
(Lá hoa cồn, Thôn nữ)
Trinh nữ em có mặc áo quần
Mà không ắt hẳn là quần thật xinh
Nếu như em chẳng mặc quần
Thì ông trời ắt càng mừng rỡ hơn…
(Sa mạc phát tiết, Tuy nhiên)
Thơ Bùi Giáng không quấn quít, vội vã. Ngôn từ đi dần vào thản nhiên, suôn sẻ gần như buông lơi trước mắt. Nhiều bài cho người đọc cảm tưởng, làm thơ dễ quá! Nhưng xin chớ tưởng lầm. Cái hồn nhiên, thư thái đó là kết quả của công phu học hỏi, ví như vị Trưởng Thượng dày công tu luyện tới mức "thượng thừa", đã nhập Đạo rồi, thì sắc diện và thân xác bên ngoài ngó nhẹ như tơ, nhưng nội tại thâm hậu, tóm thâu càn khôn một mối.
Bùi Giáng thường nhìn cuộc đời qua tấm lăng kính bi quan, có lẽ vì mải mê suy luận. Người thơ cho rằng, cái nhân loại man rợ này đã làm ung thối hết mọi tinh hoa, và máy móc làm con người trở thành nô lệ cho phương tiện, Bùi Giáng phải đi tìm cái tinh thể đích danh của thi ca trong suy tưởng. Mỗi con người là một vũ trụ của riêng nó, tại sao chẳng ai hay biết? Cái vùng Chân-Không-Tịch-Mịch kia nào có xa gì và chiếc cánh cửa cuối cùng đều mở cho mỗi kiếp sống đó ru? Thi nhân đi tìm Heidegger trong ngôn ngữ, tư tưởng để nguôi ngoai thần trí. Nhưng cuối cùng: "Một dị báu huyền mộng huyền sương đìu hiu như đàm hoa nhất hiện. Tại miền biển tục sông lam (August vốn xưa kia từng ra phiêu du miền biển) có một cái gì động đậy (dù sao chăng cũng, tuy nhiên ấy mà), và ngoài kia có một thanh âm nào động khía bọt mơ hồ, một cái gì khả dĩ nghe ra đường gân nhúc nhích, hỡi ôi! một trận thúy lục hòa âm, thủy triều hòa tấu. Tại đây – hư vô gặp gỡ hư vô, ở đâu? Chẳng phải là ở đó, cũng chẳng phải là một cái lỗ, hoặc một khe hang. Chỉ biết cam lòng đành phận lắc đầu mà thôi…". (SHHNM, Bùi Giáng, trang 306, có kèm theo phần Đức ngữ, nguyên tác của Heidegger)
Nhưng câu hỏi đầu tiên: "Đáo cùng do đâu mà có hiện thể, sao lại chẳng là hư không?" vẫn chìm sâu trong Nếp Gấp của nó. Người thơ muốn cùng lúc làm một triết gia? Không hẳn như thế. Bùi Giáng bị ám ảnh bởi hư vô nên muốn tìm hư vô trong tất cả mọi tư tưởng của các đại-triết-gia phương Tây lẫn phương Đông. Vấn đề này mất nhiều thì giờ và làm khổ người thơ không ít. Có lẽ, nó là nghiệp chướng! Người thơ còn để Parménide, triết gia Hy Lạp ở giữa thế kỷ thứ V và VI trước Công nguyên, đối thoại với thi hào Nguyễn Du về chiều hướng tư tưởng:
Nguyễn Du: Kể từ thiên thu đứng lại?
Parménide: Đứng lại tự bao giờ hỡi tướng công? Lão hủ mạo muội đáp nhé: đứng lại từ giữa cuộc chuyển di trên một đường-rẽ-trắng-ngã-ba, đi về trong ngôn ngữ của tồn lưu lịch sử ngậm ngùi.
Nguyễn Du: Vì sao lịch sử ngậm ngùi? Thưa lão trượng! Chắc rằng lão trượng còn kinh? Giấc mơ quỷ dị bên mình còn reo?
Parménide: Thưa tướng công, tướng công từng đã linh cảm tấn kịch bi hùng riêng biệt của non sông này, và đặc dị của dân tộc này. Linh cảm đến mức độ nào, mà lời về trong ngôn ngữ tướng công đã dạy triều mênh mông đến thế? Đó là điều lão hủ không dám chắc mình đã nghĩ ra, và đó cũng là nguyên nhân khiến lão hủ không ngại dặm nghìn nước thẳm tìm tới viếng tướng công bận này.
Nguyễn Du: Dám thưa lão trượng: sao gọi là linh cảm. Tại hạ cũng không rõ mình đã linh cảm trong cơn xuất thần trên nhịp phiêu bồng chiêm bao… hay là tại hạ đã xuất phóng hoạt tồn trước những điều trông thấy. Trông thấy một lần và bàng hoàng suốt xứ. Và biên thùy từ đó đã mờ xóa hết để miền cõi kết tụ và hiển hiện ra ở trong ánh vàng nhị bội của một vừng nguyệt biên cương.
Parménide: Những điều trông thấy…
Nguyễn Du: Vâng. Tại hạ đã nhìn suốt tuổi thanh xuân mình. Và từ đó về sau…
Parménide: Từ đó về sau tướng công đã nguyện làm liệp hộ.
Nguyễn Du: Được chăng, thưa lão trượng?
Parménide: Được. Đó là điều kiện tiên khởi cho mọi cuộc tái lập trùng tu. Làn ánh sáng Như Lai đã ngậm ngùi về trên Việt Nam vô song từ đó.
Nguyễn Du: Vì sao ngậm ngùi riêng biệt trên non nước Việt Nam?
Parménide: Vì Việt Nam là cái chốn, cái nơi của mọi cuộc tương xưng sử lịch cõi trần bên mép bờ Hình Nhi Hạ Khổng.
Nguyễn Du: Vâng ạ. Và bên cõi miền của Thiên Chúa giáo xa xôi rã rời trong mạch thẳm. Nguyên tuyên Hy Lạp không nhắc nhở lời nào cho làn nước chảy lang thang.
Parménide: Đó cũng là nguyên nhân xui ta về viếng tướng công. Mà ban sơ ta tưởng không thể nào tìm ra lời thích đương để thốt. Nhưng thưa tướng công, ngôn ngữ của tướng công còn khép mở một ẩn ngữ xui lòng ta xao xuyến. Tướng công cùng tư lự trong một cõi với ta. Nhưng những điều trông thấy của tướng công còn dội vào đáy thẳm linh hồn tướng công đến một độ nào ta không rõ lắm. Nêu câu hỏi tại chỗ đó, có là thô lỗ trống trải chăng? Có làm tướng công phiền muộn chăng?
Nguyễn Du: Lão trượng yên lòng. Chính tại hạ vừa rồi đã có ý nêu ra trong cái lời thốt… Xuất phóng hoạt tồn trước những điều trông thấy. Trông thấy một lần, và bàng hoàng suốt xứ…
Thiên cổ vô cùng giang mạc mạc…
(Trăng châu thổ)
Cuộc đàm luận Parménide - Nguyễn Du ở giữa cõi U Minh! Vì sao lại xảy ra sự tình như vậy trong ý nghĩ của Bùi Giáng? Có lẽ qua tìm hiểu, thi sĩ đã khám phá ra giữa hai thiên tài có những điểm trùng hợp về ý tưởng. Hơn hai ngàn năm trước Parménide đã ý thức được cõi Vô-Cùng-Bất-Diệt trong tập thơ De la Nature và Nguyễn Du cũng đã thấu suốt "những điều trông thấy…" nên "trải qua một cuộc bể dâu", cũng là trải qua khoảng Chân-Không-Tịch-Mịch. Nguyễn Du vì rõ "Trước, Sau" nên tạ đáy tiềm thức hiện ra một dòng sống không ngơi nghỉ từ tiền kiếp tới mai hậu. Cố gắng làm chi, cõi Hư Vô thì câm tiếng, thời gian vẫn ác nghiệt, còn không gian lại ngoảnh mặt làm thinh.
… Biết thân chạy chẳng khỏi trời
Cũng liều mặt phấn cho rồi ngày xanh…
… Nàng rằng tiền định tiên tri
Duyên xưa đầy đặn phúc sau dồi dào…
… Xập xè én liệng lầu không
Cỏ lan mặt đất rêu phong dấu giày…
(Kiều) Có thể do đấy, Tố Như đi tìm Vô Cùng qua vóc dáng Giác Duyên? Nguyễn Du, phải chăng là cái gạch nối giữa Lão Tử chối bỏ và Khổng Tử dấn thân, giữa con người và cõi Siêu Thoát trong đạo Phật? Parménide đi tìm Nguyễn Du cũng vì "duyên xưa, phúc sau" để soi tỏ cái thâm hậu của Đông phương trầm mặc! Nguyễn Du đã đau đớn vì "biết" mà không tránh được mệnh trời, "thấy" mà vẫn phải làm theo duyên nghiệp với nàng Kiều mười lăm năm lưu lạc! Chẳng rõ Bùi Giáng có "biết" và "thấy" gì không, hay cũng vì chữ nghiệp mà tự đày ải vào cõi mông lung của luận lý, làm điêu đứng đời sống và chết sững tâm hồn trong vần điệu? Nguồn thơ Bùi Giáng không chảy chung một mạch nước, nó tỏa ra nhiều nhánh, ở mỗi nhánh lại chứa đựng từng buồn phiền riêng biệt. Nhưng cuộc sống đâu phải lúc nào cũng cho ta thất vọng và con người đâu cần phải có một kiến thức căn bản triết học mới sống được? Cái đời sống hồn nhiên, giản dị, mỗi người đều có thể tự mình hình thành một cách thỏa đáng, miễn tự biết và đừng có tham vọng. Người thơ chắc cũng muốn tìm đời sống hồn nhiên đó cho mình, nhưng chỉ gặp những "đoạn trường", để từ đó, đi dần vào mê loạn tâm trí:
Cuộc điên đã chấm dứt rồi
Bây giờ điên nữa cho đời điên thêm
Dưới trời thiên hạ hằng đêm
Đổ ra thiên thượng ở trên hằng ngày
Dấu chân tỳ tử an bài
Mép rìa xuôi ngược nét ngài nở nang.
(Sa mạc phát tiết, Nỗi buồn)
Cái điên của thi nhân, sự thực, không làm phiền lụy đến ai hết, nó thuộc về đời sống riêng, người yêu thơ chỉ cần cảm thông chứ không cần lý luận.
Thỏ lặn ác tà mộng tưởng hao
Mòn con mắt một cõi chiêm bao
Ngũ canh tầm nã con đò dọc
Tam giác tinh hà ảnh động dao
Quá khứ liên tồn vô ngấn tích
Sáng tiền minh nguyệt chiếu hoàng mao
Hai hàng mọc cỏ thu sương ngậm
Vành vạnh lê hoa chước chước chào…
(Sa mạc phát tiết, Quỷ ma đối thoại)
Nguyên vẹn dồn nén và ám ảnh, từ chiêm bao ám ảnh đi: Năm canh không ngủ để tầm nã "con "đò dọc" và "liên tồn" không ngấn tích, có ánh trăng chiếu sáng "hoàng mao" với hai hàng cỏ mọc ngậm sương thu chào đón. Chao ôi! Cô đơn nó sầu thảm đến thế sao, nó giày vò thể xác như vậy sao? Nó là quỷ ma quấn riết vòng trí não vì:
… Mưa đẩy thời gian xuống tuyệt vời
Bay về đủng đỉnh cụng đầu tôi
Tháng theo ngày dậy rằm xanh nguyệt
Ba góc càn khôn lộn bốn trời.
(Sa mạc phát tiết, Đường cong)
"Ba góc càn khôn lộn bốn trời" chỉ là ngôn ngữ tượng trưng trong thi ca, nhưng chắc phải quyến rũ lắm, đam mê lắm, nên người thơ mới ngất ngây giữa thi tứ!…
Bùi Giáng, nhà thơ siêu thoát, coi đời như giấc chiêm bao, nên đùa vui để khuây khỏa, cho quên đi ngày tháng buồn tênh, và đắm chìm nhớ thương vào cõi U-Hoài-Tịch-Mịch. Bùi Giáng, người đã chối bỏ thi ca chẳng phải vì câu nói của Platon thuở nào, đã chạm tới tự ái thi nhân, mà chính vì thi ca bất lực, không có quyền năng cứu vãn được thân phận ai cả, lại còn làm cho con người chán chường thêm! Bùi Giáng đọc nhiều, nhớ nhiều, nhưng càng đọc, càng nhớ lại càng dìm sâu tâm hồn vào cõi mơ cuồng loạn đổ vỡ:
… Nếu Thượng Đế quả thật yêu thương loài người thì Thượng Đế nên tạo ra nhiều nương tử khổng lồ. Ấy là cốt để làm gì? Ấy là cốt phòng khi nào bọn chán đời muốn lọt vào lòng mẹ trở lại thì có chỗ để lọt đầu chui vào. Và như vậy sẽ còn có cơ hội được sinh ra đời lần khác, khởi sự làm trở lại một thằng bé sơ sinh tuyệt nhiên không biết sao gọi là chán đời.
Tuy nhiên vì trái đất nhỏ hẹp quá, nếu tạo ra Nương Tử khổng lồ thì các nàng sẽ không có chỗ trú. Vậy trước tiên, Thượng Đế nên thổi phồng trái đất to ra gấp mười lần, thì sự tình sẽ được dàn xếp viên mãn về sau.
(Thi ca tư tưởng, Thượng Đế)
Buổi nào đó, Bùi Giáng gặp cõi Tịch Mịch chắc thi nhân mới hết băn khoăn về ý thức Siêu Hình, về nguyên cớ thứ nhất: Đáo cùng do đâu mà có hiện thể, sao lại chẳng là hư không?… hẳn nhiên, trong ngôn ngữ thi ca đã có điều đó rồi!
Bùi Giáng dấn thân vào triết học mong tìm trong đó vài điều hợp ý mình. Nhưng có lẽ, càng vào sâu càng gặp thất vọng và cảm thấy đi sai con đường dự tưởng. Hơn nữa, giữa cuộc đời người thơ gặp nhiều u uẩn với bao thị phi rối rắm làm buồn lòng không ít. Bùi Giáng như đứng mấp mé trước hiểm họa "Tẩu Hỏa Nhập Ma", nên cuối cùng, muốn trút bỏ hết để trở về với những cánh chuồn chuồn và châu chấu trong đồng ruộng quê hương tuổi nhỏ?…
Trích thơ Bùi Giáng
Rượu uống
Thưa em rượu uống bây giờ
Là trăm năm gục hai bờ tử sinh
Động hờ hững Chúa điêu linh
Em làm Hoàng Hậu mọc tình cỏ phơi
Nhà ma cửa quỷ đi đời
Chìm hơi thở đục trong lời sương xanh
Càn khôn xiêm mỏng che mành
Về trong thiên hạ em thành thiên thân
Thưa em rượu uống bây giờ
Là thiên cổ lụy còn trơ bên mình
Tài hoa tiếng vọng điêu linh
Phạm Đan Phượng chết theo Quỳnh Như sao
Thưa em từ bữa nghiêng chào
Chớm trang đầu chợt sóng trào trường giang
Em đi rắc lá trên đàng
Cỏ xanh rì mọc suốt càn khôn kia
Mùa xuân mưa rưới mộng lìa
Về trong nắng hạ mép bìa sai bâu
Thưa em rượu uống bây giờ
Là trong lát nữa lên bờ đuổi ma
Chạy quanh cồn cụm lá già
Rách như bươm suốt ruộng sa mạc đồng
Càn khôn gió đổ chất chồng
Rú như beo rống như hùm đổi hang
Trên rừng dưới lũng tan hoang
Vẫn sừng sững bóng chắn ngang quỷ sầu
Thưa em rượu uống bây giờ
Là trong lát nữa trăng mờ hỏi ma
Hỗn mang về giữa hiên nhà
Bây giờ cố quận tên là chiêm bao
Nhìn nhau trong lũy ngoài hào
Lời phôi dựng một điệu chào dị sai
Trên đầu thế kỷ chia hai
Nguồn man mác lạnh tìm ai bây giờ
Thưa em rượu uống bây giờ
Là thiên thu lại còn trơ hận trường
Cầm chung dâu biển khôn lường
Chân trời mộng lý con đường chia ba
Nam đình doanh trại dàn qua
Trống chầu trùng ngộ thưa là không mong
Hoạt tồn phát tiết sầu đong
Tràng giang thế kỷ xô dòng xuống lên.
(Lá hoa cồn)
Từ Thứ
Người đã bỏ đường kia ở lại
Để đi vào đối diện hư không
Bờ thánh thót thu sau về vạn đại
Lời chào kia nức nở lạnh vân mồng
Bóng trắng như sương - vàng bay pha bạc
Quanh Trường Thành bờ cõi đất in rêu
Dòng trở lại ngậm ngùi khe bến cát
Gió mông lung vì mây nổi lưng đèo
Xuân đi đến đi về nằm ở giữa
Hẹn một kỳ bấn loạn mấy mùa đông
Màu tuyết bạch mơ màng trang lệ ứa
Rớt xung quanh lá đú đởn cầu vồng
Từ vĩnh biệt một lần đi từ đó
Nước xuôi dòng cổ độ chẳng nhìn theo
Lòng lây lất bên trời phương hướng nọ
Mắt ngu ngơ nhìn bọt nước sa bèo.
(Lá hoa cồn)
Câu hỏi
Những con chim vào đời quá sớm
Đứng một mình nhìn xuống ngó lên
Mùa măng mọc măng mai mới chớm
Đã vô cùng u tối van xin
Đất mồ côi một mùa dằng dặc
Gió chân trời quá khứ trăm năm
Triều sông bể bao giờ sẽ tắt
Theo hồn hoa lá dại đêm rằm
Tìm cố quận xanh mờ thủy nguyệt
Kiếm quê hương khóc bích ngạn nào
Nhung nhớ chết đọa đày biền biệt
Gió một vùng huyền mộng chiêm bao.
(Lá hoa cồn) Em mọi điên
Một tiếng hát giữa rừng hô hấp
Chết trăm năm ẩn ấp khung đời
Trời ma đất quỷ hai nơi
Em điên từ bữa ra đời em điên
Beo và cọp trước tiên chạy trốn
Vượn đìu hiu nhìn lộn cây hoa
Em về giũ áo mù sa
Tiền trình vạn lý anh là đười ươi.
Nửa đêm
Lời vui nói cạn mấy chiều
Tiếng buồn nhỏ giọt như triều sương bay
Bâng quơ hồn mộng lạc loài
Nửa đêm sực tỉnh di hài sử xanh
Phiêu bồng dậy lớp đạp thanh
Tuổi xuân bỏ lại biên thành chiêm bao
Hồng sơn mấy ngọn tư trào
Mừng theo trận gió bước vào chân mây
Chiêm bao
Chết từ trận gió sử xanh
Trước đèn câu chuyện âm thanh không lời
Gót đi đứng giữa khung trời
Thâm u mộng đổ hiên nhà
Ngoảnh về Thượng Đế thưa là chúng con.
Đừng đi vào
Đừng đi vào du dương trong đêm lành tốt nọ
Đừng đi vào thuần khiết giấc mơ kia
Triền miên ấy sẽ băng tuôn vạn đại
Thạch nham kia còn ấy mép chia rìa
Rìa chia mép dặm khuya đêm ngất tạnh
Mù khơi dâng tiền diện lạnh ra đời
Đừng đi nữa một lần kia cánh nhạn
Bờ nấu nung trong cõi mộng ra ngoài
Cây phát tiết chùm xuân xanh nộ phóng
Gió lao lung trời khổ lụy thu hồi
Hồi thu lệnh võ vàng trong bóng nguyệt
Sơ khai đi hồng lậu lạc thêm loài.
Ophelia
Cho xin màu lục một lần
Cho xin màu liễu một lần thử buông
Ngày mai hẹn ước trôi nguồn
Em về quá khứ mang buồn lang thang.
Mây bình nguyên
Cành trở lại trên đầu xuân lệch dạng
Bên mặt trời chùm sóng mọc mai sau
Phiến sương nâu đó đứng lại trong màu
Giờ vội vã trời nhìn trong khóe mắt
Kỷ niệm nào từ đất vội ra đi
Ngày lâu sao vì tháng nhớ năm vì
Ngày thung lũng trong lời xa tiếng
Hồ nước mây từ cõi biệt vô cùng
Tà áo bay xanh vĩnh viễn sau lưng
Đèo lưng ngựa đá ghềnh vang từ bữa
Buồn cao nguyên từ đô hội sang tuần
Xin chắp rừng vào suốt xứ mông lung
Đường xây dựng gục lưng gỗ bó
Mộng ông bay sực tỉnh giữa chân người
Đến bây giờ – quang gánh lệ trong ngươi
Em Hà em Phương em về nước chảy
Mây bình nguyên buồn ngủ nhớ nhung miền
Xứ sở nào gió ruộng mặn đồng chiêm.
(Lá hoa cồn)
Gió cây trút lá
Tuần trăng lệch đầu hoa trong cổ độ
Tự bao giờ trời đất bỏ quên ta
Vết thương nhớ ngậm ngùi không chỗ trú
Nước đêm rằm về biển động chia xa
Chiều lại đi một giờ là đi biệt
Chiều mang theo là suốt xứ mang theo
Hình vội vã góp thân về gió tuyết
Thổi mông lung làm sương bóng lên đèo
Đêm cầu nguyện đau thương là bất tuyệt
Kéo điêu linh sầm lãnh đổ nguyên tuyền
Mây vần vũ như mộng đầu thao thiết
Người đã đi ta mất hết uy quyền
Bờ nước chảy bảo ta về đất thượng
Hỏi cao nguyên có hận đồng bằng
Hỏi bách lý đến bây giờ có muộn
Rừng ong bay gấu mỉm miệng thưa rằng…
(Lá hoa cồn)
Lá cây
Tôi về gởi lá đầu cây
Mốt mai từ giã hai tay còn cầm
Mùa xuân hoa nở tình câm
Màu trăng ly biệt trong tâm hồn người
Một phương gió lạ giập vùi
Hình em ca sĩ ngậm ngùi ngón tay.
Chấp trước
Không trước Đông thì trước Tây
Không trước cây thì trước lá
Không trước ma đầu gió thì trước quỷ cuối sương
Không trước Thiên đường thì trước Ba la mật
Không trước thật thì trước hư
Không trước hư thì trước hữu
Không trước Nữu Ước thì trước Bắc Kinh
Không trước thình lình thì trước đột ngột
Không trước ủ dột thì trước đìu hiu
Không trước nắng chiều thì trước mưa sớm
Không trước ốm thì trước đau
Không trước gió dậy cuộc sống sang giàu thì trước mưa dàn con phú quý
Không trước bồ đào túy lúy thì trước mỹ tửu đăm chiêu
Không trước phù kiều thì trước trụ cột
Không trước nhà dột thì trước dậu thưa
Không trước chưa vừa thì trước ắt đủ
Không trước xiêm hồng ủ rũ thì trước duệ địa trưởng quần
Không trước tuyệt nhiễm duyên vi bột trần thì trước khai tính đức vi hợp giác
Không trước diệu hoa lầu các thì trước tràng hột hóa sinh
Không trước ngạc kình thì trước kiện cáp
Không trước la porte étroite thì trước la voste immense
Không trước Lý Thương Ẩn phân vân thì trước ca nhi thánh thót
Không trước con chim hót thì trước con gấu kêu
Không trước tồn lập con mèo, thì trước tập trung con cá
Không trước liên tồn cái lá, thì trước tồn lý lún phún in rêu
Không trước sóng nam hải dậy triều thì trước le promontoire hellénique
Không trước l’existentialisme est un humanisme thì trước l’être maléfique et le temps abyssal
Không trước l’hôpital Grall thì trước la fatalité de l’Océan Pacifique
Không trước le grand Jeu d’Héraclite thì trước les drames titaniques de Shakespeare
Kể làm sao xiết mép rìa
Ngổn ngang chấp trước miền kia cõi này
Sịch mành lam đái hoàng khai
Nhất căn hồng đái chạy dài hai cung
Thái sơ thị vẫy thị vùng
Chùm bông thị rụng cuối cùng thị rơi.
Võ Hồng
Võ Hồng và thủ bút
Sinh ngày: 5-5-1921 tại Ngân Sơn, quận Tuy An, tỉnh Phú Yên (Trung Việt). Viết
văn từ năm 1959.
Tác phẩm:
1. Hoài cố nhân, Ban Mai xuất bản, 1959
2. Lá van xanh, Thời Mới xuất bản, 1962
3. Vết hằn năm tháng, Lá Bối xuất bản, 1966
4. Con suối mùa xuân, Lá Bối xuất bản, 1966
5. Khoảng mát, An Tiêm xuất bản, 1966
6. Hoa bươm bướm, Lá Bối xuất bản, 1966
7. Người về đầu non, Văn xuất bản, 1968
8. Bên kia đường, Mặt Trời xuất bản, 1968
9. Gió cuốn, Lá Bối xuất bản, 1968
10. Những giọt đắng, Lá Bối xuất bản,1969
11. Trầm mặc cây rừng, Lá Bối xuất bản, 1971
12. Như cánh chim bay, Lá Bối xuất bản, 1971
Đã cộng tác với: Bách Khoa, Văn Hữu, Mai, Giáo Dục Phổ Thông, Văn, Giữ Thơm Quê Mẹ, Tin Văn, v.v.
Võ Hồng và quê hương bất hạnh
Trong không khí sinh động của văn nghệ miền Nam Việt Nam mười năm qua, vóc dáng Võ Hồng như một khiêm nhượng, một trầm lặng vì chiều hướng sáng tác cũng như kỹ thuật hành văn của nhà văn không nằm chung với ước lệ thời đại, thời đại cháy bỏng môi hôn, vòng tay bấn loạn và thể xác cuồng mê!… Võ Hồng cô đơn di hành trên lộ trình nghệ thuật do mình chọn lựa. Nhà văn không dễ dàng chấp nhận sự thiếu chân thành, không chạy theo thị hiếu độc giả, không thỏa mãn đòi hỏi nhất thời của thị trường chữ nghĩa. Nhận định về Võ Hồng, quả thực Trần Thiện Đạo, đã soi sáng đúng mức giá trị và cương vị của Võ Hồng trước cuộc đời và văn học:
… Có những kẻ mà mỗi lời nói, mỗi cử động, mỗi hành vi chừng như được trời phú cho một thứ tiềm lực tự tại, đủ sức làm chấn động dư luận một thời, nhưng, cũng hệt như bong bóng thổi phồng nhờ bầu khí giả tạo, lời nói ấy, cử động ấy, hành vi ấy thường chỉ chiếm mặt tiền thời sự trong giây lát để rồi cùng với thời gian mà mất dạng vĩnh viễn.
Võ Hồng không thuộc thành phần minh tinh ngắn ngủi ấy. Chúng ta ít nghe nói tới anh, nhưng đồng thời, chúng ta lại chừng như hiếm khi thấy anh vắng bóng lâu dài trên trường chữ nghĩa xứ này sắp tròn mười năm qua. Là vì bản tính của anh vốn mang thứ sắc thái vừa âm thầm, vừa tế nhị của hạng người chừng mực, và văn phẩm của anh biểu lộ tính chất mực thước, mực thước đến độ khiêm tốn và e dè.
(Hoài cố nhân, Nghĩ về Võ Hồng T.T.ĐX, 67)
Đúng, Võ Hồng một nhà văn mực thước, không thiếu phần trang trọng, cẩn thận trong mỗi sáng tác. Nhưng chính cũng vì thế, tác phẩm của Võ Hồng chỉ có ảnh hưởng với một lớp độc giả nào đó, ưa suy nghĩ, thích trở lại quá khứ để tìm về kỷ niệm, tìm khoảng thời gian đã mất để thấy có mình. Võ Hồng sáng tác rất đều, như nhà điêu khắc cần cù đục, giũa để biến tảng đá xù xì thành một công trình mỹ thuật. Xuyên qua hơn mười tác phẩm, người đọc, rất ít gặp những thoáng đam mê rực lửa, những hung cuồng ân ái với ngất ngây mùi da thịt. Người ta thấy từng dòng u buồn lên nhè nhẹ, từng xót xa đắm chìm tâm trí, từng bâng khuâng tiếc nuối, từng cơn đau úp mặt, từng đắng cay tủi nhục của kiếp người bơ vơ giữa cuộc chiến tàn khốc đã và đang tiếp diễn trên quê hương bất hạnh này.
Võ Hồng viết, như kể lể nỗi buồn thương lãng đãng, như gửi gấm ở mỗi dòng chữ sự chán mỏi đến tận cùng, nhưng vẫn làm vẻ thản nhiên, dung dị. Võ Hồng viết nhiều thể truyện, nhưng có lẽ, chỉ những truyện viết về cuộc chiến, dù thuộc quá khứ, mới thể hiện đúng bản chất Võ Hồng. Vì ở đấy, qua đấy, nhà văn đã đi vào chiều sâu ý thức, để nói lên những gì cần nói qua lời văn, qua từng hoàn cảnh khốn khó. Võ Hồng đã sống và trải qua những buồn vui thế cuộc, đã say mê lý tưởng với nhiệt tình. Nhưng cuối cùng, cánh chim rã rời tìm về tổ cũ, tìm về bao tháng ngày xa lắc trong tâm tư và đối diện thường trực với thực tại nhức nhối phía trước. Tất cả những thầm kín đó, được trải rộng trong kích thước vừa đủ, với những sự tình giằng co qua tâm trạng mỗi nhân chứng, cùng câu cười tiếng khóc âm vang trong tiềm thức người đọc. Việt Nam, ôi! Việt Nam, hai tiếng đó như gieo vào lòng mỗi người yêu nước những giày vò với nhiều hưng phế do lịch sử đẩy đưa: 80 năm nô lệ Pháp, bao nhiêu đối kháng nổi lên qua Đông Kinh Nghĩa Thục, Hoàng Hoa thám, Việt Nam Quốc Dân Đảng, v.v. đều đi vào thất bại. Sự thất bại thê thảm giữa sức mạnh tinh thần và vũ khí tối tân, thất bại giữa tổ chức khoa học với nếp sống tùy thời. Nhưng dù sao, các chứng tích lịch sử ấy cũng đã thức tỉnh phần nào cơn mê muội của một lũ người cầu an hưởng lợi, để "gây vốn" sau này cho cuộc vùng lên vĩ đại của dân tộc.
Võ Hồng, con người tha thiết với quê hương, đất nước, đã dấn thân trong suốt 9 năm khói lửa, chịu bao nhiêu gian khổ, bao nhiêu cay đắng, chỉ dành cho phần mình ít ỏi kỷ niệm và một chút niềm tin. Kỷ niệm và niềm tin, được Võ Hồng trải trong hai tác phẩm Hoa bươm bướm (1966), Như cánh chim bay (1971) cùng vài ba truyện ngắn in rải rác trong các tập truyện.
Tác phẩm Hoa bươm bướm, bắt đầu bằng khoảng thời gian báo trước sự chuyển mình của lịch sử. Khuôn mặt của Quý và Thức với những lời đối thoại sắc và khô đã tạo nên không khí nặng nề của một khung cảnh sắp đi vào môi trường khác với bất trắc không thể lường đoán. Những người trẻ tuổi đã ý thức được vai trò của mình trước lịch sử. Quân Pháp đầu hàng Nhật sau đêm mồng 9 tháng 3-1945, người Pháp thua không phải là hết, không phải do đó, nước Việt Nam được an hưởng thái bình. Trái lại, với hành động thất nhân tâm của quân phiệt Nhật, người thanh niên Việt Nam lúc ấy đã nhìn ra nhiệm vụ, một nhiệm vụ thiêng liêng. Họ không tin Nhật có thể thắng trận chiến này, nhưng vì hoàn cảnh chúng ta phải hợp tác với Nhật để chờ thời. Cái thời đó đến mau hay chậm còn tùy vận nước:
… Má tôi cứ nghĩ rằng ba ngàn mẫu ruộng ở An Hòa và dãy lầu đường Mayer nuôi dưỡng tôi sung túc hơn mọi bằng cấp.
"Người ta đi học không chỉ vì bằng cấp".
"Cố nhiên là chị nói đúng và tôi cũng đồng ý như chị".
Sinh viên ở lại Hà Nội có nhiều việc để làm lắm. Giai đoạn này là giai đoạn của thế hệ chúng ta. Thằng Thanh, thằng Hiệp vào trường Thanh Niên Tiền Tuyến ở Huế. Ban xã hội của Tổng hội Sinh viên hoạt động đắc lực trong việc cứu đói. Các tổ chức chính trị lớp công khai, lớp bí mật làm sôi nổi không khí của Thủ đô.
"Nhưng chúng tôi không tin là quân Nhật thắng trận".
"Nhiều người cũng tin như vậy, nhưng hoạt động chính trị đâu có phải vì tin rằng quân đội Nhật thắng trận? Cuộc đảo chánh mồng 9 tháng 3 là cái dịp tốt để dân tộc ta giải quyết lấy vận mệnh của mình. Vận mệnh của mình không phải do quân Nhật giải quyết".
Thức nhấm nháp tách nước trà vừa đưa mắt nhìn lên đầu tủ. Bức ảnh Thống chế Pétain treo lấp sau lọ hoa cúc trắng. Thức chỉ lên bức ảnh:
"Chị vẫn còn trung thành với Thống chế?"
Quỳ mỉm cười:
"Đâu có, bà nội đã hạ bức ảnh xuống hôm 9-3, nhưng tôi ngăn lại, muốn giữ bức ảnh đó một thời gian để nhìn chơi. Ít nhất nó cũng nói với mình nhiều hơn là một mảnh tường trống trơn hay một bức tranh tầm thường. Cốt nhất là mình hết nghe nó nói".
"Phải, tôi vừa nghe nó nói rằng: đừng tin ở một sự huy hoàng nào hết. Cái gì rồi cũng qua đi…"
(Hoa bươm bướm, trang 8-9)
Những khuôn mặt của Thức cũng như Cẩn – sinh viên kiến trúc – hiện diện trong tác phẩm Hoa bươm bướm, như một thoáng qua. Tác giả dùng họ trong khoảnh khắc, để thực hiện một ý tình nào đó, được nhà văn xác định rõ ràng trước khi viết. Thức yêu Quỳ, muốn cùng nàng kết tóc, nhưng Quỳ cô gái trí thức, học trường đầm, không yêu Thức mà cũng chưa yêu ai ở giai đoạn này, kể cả Cẩn và người sinh viên luôn luôn sốt sắng mỗi khi Quỳ nhờ vả. Tác giả đã dùng thị xã Đà Lạt, nơi nghỉ mát của nhà giàu, với những chiếc va-li sang trọng, với khung cảnh nên thơ của núi rừng cao nguyên để ghi nhận những đổ vỡ, hận thù cũng như khí thế vùng lên của đám dân thị xã, từ lâu được an hưởng thanh bình và khí hậu ưu đãi.
Chính trong khuôn khổ thị xã này, do thực dân tạo nên, những người Pháp đã sống vô cùng khốn khó trong trại tập trung (Cité Decoux) dưới quyền kiểm soát của quân Nhật, dưới sự khinh khi của người dân nô lệ hôm qua, nay được dịp trả thù cho hả cơn tức giận, mối thù 80 năm mất nước! Nhưng không phải mọi người đều như thế, trường hợp Quỳ đã giúp đỡ Caroline – người bạn gái cùng học Philo ở Lycée – trong lúc khốn khó, bằng cách mua giúp thức ăn, để ít ngày sau, Quỳ đã mang lụy với Ủy ban Cách mạng Thị xã Đà Lạt. Hình ảnh người Pháp, trong những ngày bị hạ bệ, thật thê thảm, dưới nét mực Võ Hồng:
… Một người Pháp già đi ngược chiều với nàng, mặt cúi xuống nhìn đất và hai tay xách giỏ nặng. Những gói bọc giấy chen lấn với cải su, khoai tây, hành. Một bó kiệu tây thò đầu ra ngoài miệng giỏ. Quỳ có cảm tưởng ông ta mang nặng 80 năm tội lỗi trên vai. Hai giỏ thức ăn trĩu năng hai bên tấm thân gầy, cao ngã chúi về trước khiến nàng liên tưởng đến cái dấu chấm hết. Chấm hết những trang sử do Courbet, Rigault de Genouilly, Varenne, Decoux viết ở trên đất này…
(Hoa bươm bướm, trang 25)
Nhưng trong khi ấy, miền Bắc thiếu gạo. Một triệu người vừa gục xuống lòng đất. Chính phủ Trần Trọng Kim, dù là bù nhìn của quân phiệt Nhật, cũng vẫn phải tìm đủ mọi cách trợ giúp miền Bắc, để cứu những người dân quê sống thoi thóp chờ vụ lúa sắp tới. Sự chuyên chở lúa gạo trong thời gian đó phải xin phép cơ quan Nhật dù chở từ tỉnh nọ qua tỉnh kia. Một triệu người miền Bắc chết đói cũng do tội của Nhật và Pháp. Nhật bắt bỏ ruộng trồng đay, Pháp cấm chuyên chở gạo từ miền thừa sang miền thiếu.
Trong các hình thức trợ giúp cứu tế, có cuộc tổ chức văn nghệ. Quỳ đóng góp cho đêm văn nghệ đó bài ca Chùa Hương, thơ Nguyễn Nhược Pháp, Hoàng Quý phổ nhạc. Quỳ đã thấy Luân, bí thư của Tổng Đốc, và nàng tức giận vì dáng điệu Luân khinh khỉnh dễ ghét. Luân, một thanh niên có học mới ra đời, ném mình vào công việc của chính quyền lúc ấy, với mớ kiến thức cứng ngắc qua sự hiểu biết về luật lệ hành chính, luôn luôn nghiêm minh trong vấn đề giao tế. Luân người Trung, học ở Hà Nội, đã trải qua những giờ phút căng thẳng thẳng nhất của cố đô Thăng Long khi quân Nhật đe dọa Đông Dương bằng vũ lực, cũng như đã chứng kiến những trận oanh tạc của phi cơ Mỹ xuống Hà Nội hồi quân Nhật chiếm đóng. Võ Hồng viết rất chính xác về không khí miền Bắc trong thời gian đó:
… Trên bãi đất trống cạnh hồ Thiền Quang, người ta đào những hầm hình chữ Chi, rộng bốn tấc và sâu không hơn tám tấc. Người đứng lổn nhổn dưới hầm (gọi là hào thì đúng hơn).
Trên bãi chợ hàng Da, người ta không đào hào mà lại đắp hào cao trên mặt đất. Hào xây bằng gạch. Có còi báo động, kẻ mua người bán và đồng bào ở mươi đường phố lân cận, đội nón, che ô, chen chúc nhau vào ngồi trong hào. Luân có ý nghĩ thú vị, giá mình là phi công oanh tạc, ở trên máy bay nhìn xuống thấy cảnh tượng ngổn ngang và ngớ ngẩn này, chỉ thương hại và buồn cười và không nỡ bắn phá gì hết…
(Hoa bươm bướm, trang 38)
Vì an ninh chung, Luân cũng phải tản cư ra khỏi thành phố Hà Nội, về miền quê, tránh bom đạn. Miền quê đất Bắc được nhà văn vẽ lại bằng những nét thật duyên dáng, thật nên thơ, qua ruộng mạ xanh non, qua cánh đồng phẳng thấp, qua con đường làng quanh co rợp bóng tre với ao bèo, ao rau muống có chiếc cầu ván nhỏ bắc ra lòng ao. Đoạn văn này, chắc chắn tác động sâu xa vào tâm thức những người di cư đã gần 20 năm nay, không nhìn thấy quê hương yêu dấu cảnh vật thân thuộc như hàng cau, mái rạ, đụn rơm, v.v. nhưng sự thật chúng vẫn sống mãi trong lòng những con người "thiên lý tương tư".
Dù bom đạn có rơi xuống mỗi ngày mọi người cũng không vì nó mà bỏ quên sự sống. Lúc nào có máy bay, chui xuống hầm, máy bay đi, lại công nào việc nấy.
Những yếu điểm của thị xã Đà Lạt do quân Nhật trấn giữ. Việc sung công nhà cửa được thi hành bừa bãi. Nhà của bà nội Quỳ cũng bị niêm phong trưng dụng vì nó nằm trong vòng đai phòng thủ. Quỳ nhờ Hảo – cô bạn gái – đến cầu cứu Luân, người của chính quyền Việt Nam, mong can thiệp với cơ quan Nhật trả nhà. Luân từ chối khéo vì sợ bị nghi ngờ không trong sạch. Quỳ hậm hực trong lòng. Nhưng rồi nàng vẫn lấy lại được nhà, do Cẩn giới thiệu với Mai Trang, người đàn bà quen lớn với Tòa sứ Nhật. Người ta đồn đại, Mai Trang là tình nhân của ông Sứ Nhật Ishikawa, ông này đã du học ở Ba-lê, nói tiếng Pháp giọng parisien, và nhiều chuyện bí mật xoay quanh thân phận Mai Trang cùng thế lực của nàng. Mai Trang làm Trưởng đoàn Hồng Thập Tự do Tòa Sứ Nhật đỡ đầu, vì sự giao dịch công việc, nàng quen Luân và có nhiều cảm tình với chàng. Luân, gã thanh niên trí thức ngây thơ, tin tưởng vào sự giúp đỡ thực tình của Nhật cho Việt Nam, nên chàng không muốn có sơ hở nào về tư cách, có thể làm mất tín nhiệm đối với họ. Luân không giúp ai việc gì để lụy đến mình. Ngay cả với bạn thân, muốn chàng giúp đỡ trong vấn đề chuyên chở gạo, Luân cũng thẳng thắn từ chối, để nhận những câu trách móc gần như chửi rủa:
…"Thôi, tao bắt tay mày. Đừng tưởng tao giận vì số lợi hai mươi tấn gạo ấy đâu. Vì tao sẽ vẫn cứ chở như thường. Nhưng bằng cách khác. Bằng cách gì mày biết không?"
"…"
"Bằng cách này".
Tiến móc ví trong túi áo, rồi ra dấu đếm tiền bằng ngón tay.
"Tao đi liền bây giờ, xuống Tòa Sứ Nhật Bản. Tao sẽ có chữ ký nửa giờ sau. Mày cứ ngồi yên đấy mà làm ông Khổng Tử đời nay…"
(Hoa bươm bướm, trang 63) Tiền và đàn bà là nhất, bất cứ ở thời đại nào. Nó có sức mạnh thay đen đổi trắng, làm đảo lộn những giá trị. Nó làm cho con người thăng hoa đời sống hay chịu ô danh, nhục nhã suốt đời. Nó là luật chơi, kẻ nào từ chối, tức là từ chối luật chơi, không biết sống, trước sau gì cũng bị nó nghiến nát.
Lời ước đoán của Thức ở đầu cuốn truyện đã thành sự thực. Nhật thua trận sau hai trái bom nguyên tử ném xuống Hiroshima và Nagasaki. Lợi dụng thời cơ, phong trào Việt Minh từ bóng tối nhảy vọt ra ánh sáng chính trị, với thành tích ám sát, tuyên truyền thuộc thời gian bí mật, để khích động quần chúng tham gia vào công việc cướp chính quyền toàn quốc. Những cuộc mít-tinh, biểu tình được tổ chức đại quy mô với đông đảo thành phần tham dự. Những khẩu hiệu yêu nước được hô to. Những bàn tay nắm chặt giơ cao. Luồng gió Cách mạng đã hất Luân ra khỏi chính quyền thị xã. Luân đứng trên ban-công nhìn đoàn biểu tình, trông rõ từng nét mặt quen thuộc, bạn bè và đám công chức tuy không hăng hái lắm, nhưng đi thẳng hàng ngay lối. Điều này chứng tỏ tinh thần kỷ luật mà "các nhà nước" đã thay nhau dạy họ. Cuộc cướp chính quyền của Việt Minh tại thị xã, không gặp khó khăn nào cả. Hôm sau, nhà Luân bị chính quyền Cách mạng niêm phong. Chàng phải đi ở nhờ nhà Hảo. Căn nhà đó là của Chính phủ cũ cấp cho Luân, nay Chính phủ chết rồi, chàng không có quyền ở lại. Mất căn nhà ấm cúng, trong khung cảnh thơ mộng, thực tình Luân cũng tiếc, nhưng không tiếc bằng chiến thắng của Cách mạng mà không phải trả bằng máu.
Sau khi cướp chính quyền, Cách mạng miền Nam cũng không có thời gian để tổ chức chu đáo guồng máy cai trị. Dưới Sài Gòn súng đã nổ, quân đội Pháp đã theo chân quân Anh vào đất cũ. Từ đó, những chuyện lộn xộn bắt đầu xảy ra, giữa chính quyền Cách mạng và quân đội Pháp. Dân chúng sôi sục căm thù, muốn dùng sức người để tiêu diệt đoàn quân Cécile với súng ống tối tân, máy bay, xe tăng nờm nợp. Còn quân Nhật tuy bại trận nhưng vẫn còn đủ sức mạnh để làm khó chính quyền Cách mạng lúc đó.
Mai Trang đến thăm Luân trong một hoàn cảnh không mấy thuận lợi. Qua câu chuyện, Luân mới biết nàng là cán bộ Việt Minh "nằm vùng" trong lòng địch. Nếu quân Nhật không bại trận sớm, có lẽ nàng đã bị "Kem-pei-tai" bắt. Mai Trang ngỏ ý mời Luân tham gia Ủy ban, nhưng Luân e dè. Nhân dịp này, nàng cũng cho Luân biết luôn thân thế mình. Mai Trang cô gái miền Nam, ra Hà Nội học ở Couvent rồi lấy chồng làm Tham Tá, người Bắc. Lấy nhau 6 năm, chưa sinh con, theo tục lệ cổ, gia đình bắt chồng nàng phải lấy vợ lẽ, để có người nối dõi. Nàng không chịu, đành ly dị, tuy hai vợ chồng vẫn yêu thương nhau. Bây giờ nàng cô đơn, hoàn toàn cô đơn trước cuộc đời này.
… Mai Trang chợt rùng mình. Giọng nàng nhỏ lại như một hơi thở, run run:
"Trang thấy lành lạnh. Mất hết cả rồi. Tuyệt vọng rồi. Còn dè dặt để đợi chờ gì nữa? Luân, anh hãy ôm vai Trang đi. Trong năm phút".
Luân nhìn Trang, bỡ ngỡ vì lời đề nghị bất ngờ.
"Kìa, Trang bảo thật mà. Vas-y mon enfant, ne fais pas l’idiot".
Luân quàng tay ôm Mai Trang. Nàng ôm choàng lấy Luân, siết chặt giữa vòng tay rồi gục đầu vào vai chàng. Ngón tay Luân bấm vào vai, vào lưng. Thịt mềm, ấm dưới ngón tay. Mùi thơm của tóc, của phấn, của làn áo mỏng làm chàng ngây ngất. Mai Trang ngẩn mặt lên. Đôi mắt nàng ướt đầm:
"Anh hôn Trang đi. Hôn cho rõ dài".
Luân cúi xuống hôn trên đôi môi…
(Hoa bươm bướm, trang 86-87)
Câu chữ Pháp, Mai Trang dùng để ra lệnh cho Luân, vừa yêu mến vừa trịch thượng, nhưng sở dĩ nàng phải dùng nó, nhằm che lấp sự trơ trẽn của ngôn ngữ. Đoạn văn trên, rất hiếm hoi trong các tác phẩm của Võ Hồng. Nó được ghi nhận như một ngoại lệ.
Không khí sinh hoạt của dân chúng thị xã Đà Lạt như ứ nghẹn bởi sự đe dọa của chiến tranh Pháp – Việt. Các thanh niên bắt buộc phải tập quân sự và tham gia đoàn tự vệ. Các công sở lặng lẽ rời thành phố. Dân chúng đã được lệnh tản cư. Có người quá nghèo không còn tiền để sinh sống nên vấn đề tản cư làm họ lo lắng, nếu không đi, bị coi là Việt gian tính mệnh khó mà an toàn. Võ Hồng đã viết rất đúng tâm trạng và hoàn cảnh xã hội trong giai đoạn ấy, dù hoàn cảnh được thu hẹp trong một gia đình:
… Anh bếp cũ của nhà Quỳ, gặp nàng bệu bạo khóc:
"Dù có lệnh tản cư nhưng nhà cháu nghèo quá, lấy tiền đâu mà mua vé tàu ra Bắc cả gia đình. Còn nếu ở lại, thì thành Việt gian cũng chết".
Bà nội nhất định không tản cư.
"Con bảo nội tản cư về đâu bây giờ? Quê hương ở dưới Tân Châu, Hồng Ngự mà bây giờ về đó sao được? Giặc đã dậy ở dưới đó rồi. Chạy xuống trại hầm, trại mát thì nội ở nhờ nhà ai? Thôi nội cứ ở đây".
"Nhưng ở đây người ta bảo là Việt gian".
"Nội già rồi. Làm Việt ngay hay Việt gian gì cũng được".
(Hoa bươm bướm, trang 97)
Bà cụ nhất định không đi chỉ vì sợ cảnh ăn nhờ, ở đậu khổ lắm, không chịu nổi. Giữa lúc ấy, Quỳ đang bị ban Đặc vụ theo dõi vì nàng tiếp tế cho Caroline ở Cité Decoux, trại tập trung người Pháp dưới thời Nhật. Mai Trang lại hiện ra cứu nàng, bằng cách bảo làm đơn xin gia nhập Đoàn nữ cứu thương. Hai ngày sau, Quỳ đã mặc blouse trắng với chữ thập đỏ trên mũ.
Tình hình căng thẳng, mọi người lũ lượt ra khỏi thành phố, trong đó có Luân. Cái cảnh tản cư lê thê, lếch thếch, đi chỗ này, nghe tin địch đánh chỗ kia với tâm trạng vô cùng hoang mang. Những ngày tản cư là những ngày sống tạm với nhiều lo âu phiền muộn cho mỗi số phận, mỗi gia đình. Nhất là tản cư ở vùng rừng núi càng chán. Chả biết làm gì kiếm sống, ngày ngày nhìn rừng núi, đêm đêm nghe hổ "à ùm, "lép bép" với vượn kêu, chim hú, muỗi, vắt như chấu làm sao chịu nổi?
Luân được mời tham gia vào Ủy ban Cách mạng vì chàng quen biết lớn với quân Nhật khi còn ở Tòa Tổng Đốc. Người ta mời Luân, nhằm để giải quyết các khó khăn giữa tàn quân Nhật và Ủy ban trong vấn đề đụng chạm về quân sự. Luân nhận lời, để tránh những ngày tản cư buồn nản.
Thị xã Đà Lạt thật sự đi vào không khí chiến tranh. Quỳ đã vượt thoát được nguy hiểm qua bốn trạm kiểm soát của quân Nhật. Nàng phải hóa trang thành cô gái nghèo khổ, lem luốc để tránh sự háo sắc của lính Nhật. Nhưng không may cho Quỳ, khi đến trạm kiểm soát của bên ta, nàng bị giữ lại, do lệnh của Ban Chỉ huy. Cuộc điều tra được thực hiện với những câu cật vấn như bắt buộc phải nhận tội. Quỳ choáng váng vì không ngờ sự tình có thể xảy ra như vậy. Chuyện nàng mua giùm thức ăn cho Caroline, chỉ do tình thương đối với người bạn học, hơn nữa, việc đó ở dưới thời chính phủ Trần Trọng Kim, nay người ta khép tội nàng tiếp tế cho địch, trong khi nàng vì Cách mạng ra khỏi thị xã.
Khi cuộc chiến mới bắt đầu, vấn đề kiểm soát thật gắt gao đối với người thành phố. Mặc chiếc áo popeline có hai sọc xanh đỏ, mang một tấm gương nhỏ soi mặt, cũng đủ yếu tố kết tội làm do thám cho địch. Cái cảnh xử tử Việt gian trong thời kháng chiến được Võ Hồng viết thật xúc động. Nó như bản cáo trạng. Nó thảm thiết và tàn nhẫn. Nó là số đông mù quáng:
… Hôm đó là chiều Chủ nhật, các nhân viên nghỉ việc, phòng giấy đóng cửa. Một người đội viên nói với bạn đồng đội:
"Hôm kia mình mới đi coi xử tử Việt gian".
"Xử ở đâu?"
"Ở bãi cỏ sân vận động dưới Dran. Thằng cha can tội lùa bò về bán cho Pháp. Nó khôn, lùa đi toàn bằng ngả Ankroet. Bị đặc vụ của ta bắt dẫn về dưới này. Ban Chỉ huy Mặt trận xử tử".
"Nó có sợ không?"
"Sợ như cha chết. Dẫn nó ra cột ở cây xử bắn, nó khóc lạc giọng, khản tiếng. Giọng nó khan đặc và cứ gào: Trăm lạy chính phủ! Chính phủ tha con. Trăm lạy đồng bào, đồng bào xin giùm với chính phủ tha cho con, con đội ơn đồng bào. Con đội ơn chính phủ".
"Đồng bào đi coi có đông không?"
"Đông như kiến… Lần đầu tiên xử bắn mà!"
"Nó lạy đồng bào rồi đồng bào nói sao?"
"Mỗi lần nó kêu khóc nhờ đồng bào xin giùm với chính phủ thì đồng bào lại hô to: Bắn! Bắn!…"
(Hoa bươm bướm, trang 126)
Đó, cái mạng con người trong chiến tranh nó như vậy và tòa án nhân dân chỉ tượng trưng cho một quyết định đã xếp đặt trước.
May mắn, Quỳ được tha để sung vào Ban Tuyên truyền, vì họ đang cần một người giỏi Pháp ngữ để phiên dịch tài liệu. Luân có lại thăm Quỳ trong trại giam một lần. Vì cơ sở ở gần nhau, nên họ thường gặp. Sự hiểu lầm giữa hai người lúc trước, đã dần dần tan biến. Tên Đạo, Trưởng ban Tuyên truyền mê Quỳ, nàng nói chuyện này với Luân. Quỳ ghét Đạo, nhưng vẫn phải làm việc dưới quyền hắn. Luân cảm thấy bâng khuâng vì bắt đầu yêu Quỳ thầm kín. Quỳ cũng vậy, nhưng khi nói chuyện nàng vẫn gọi Luân bằng ông, xưng em. Một buổi chiều, Đạo giữ Quỳ ở lại bàn giấy vì lý do công tác, nhưng mục đích để tỏ tình. Quỳ chống cự. Đạo toan dùng bạo lực, Luân chợt vào. Đạo căm thù, tìm cách đưa mỗi người đi một ngả. Luân ở lại với toán liên lạc. Quỳ theo cơ sở đến Tháp Chàm.
Trong mấy ngày Luân công tác đặc biệt tại Fimmon để điều đình với quân Nhật về vụ Vệ Quốc bắn chết tên lính Nhật, Mai Trang tìm đến chỗ ở của Luân. Không gặp, nàng viết thư để lại. Nội dung lá thư đầy lời lẽ âu yếm và nói sơ qua về đời sống với gian truân, cũng tỏ ý lo ngại cho số mệnh Luân. Trang đã yêu Luân thật rồi.
Những ngày chịu áp lực quân sự nó nặng nề hơn cả khi giao chiến. Con người sống với lo âu, chán nản. Túng thiếu, bệnh tật luôn luôn đe dọa. Súng đạn như chờ sẵn để kết liễu đời mình. Mới khởi đầu chiến tranh mà thương binh đã thiếu thuốc men, ngắc ngoải trong tay tử thần. Những thanh niên yêu nước gục ngã mỗi ngày. Tin từ mặt trận đưa về, chẳng mấy khích lệ. Tiếng súng đến đâu, Ủy ban và dân chạy đến đấy. Từng đêm đen dày đặc giăng ngang tầm mắt mỗi người lìa quê hương, lìa thành phố với tiện nghi quen thuộc.
Rồi định mệnh đẩy đưa, Luân lại gặp Quỳ ở một sân ga, khi toàn bộ cơ sở rút khỏi tầm đạn. Luân đã mệt mỏi, Quỳ cũng mệt mỏi. Nhiều người mệt mỏi, dù mới phiêu bạt mấy tháng. Nhưng tình yêu làm tuổi trẻ dựa vào nhau mà sống, mà tin tưởng. Hai bàn tay lồng quấn quít trong đêm tối với hơi nóng thân xác tỏa ra làm tan đi giá lạnh đêm dài lưu lạc.
Mai Trang đã xuôi về một làng miền biển. Nàng mua đìa cá tạo phương tiện sinh sống. Quân Pháp chiếm dần từng nơi, như vết dầu loang. Trang nghe tin Luân chết trận, nhưng không đúng. Một chiều, Luân và Quỳ gặp lại Mai Trang. Cả ba đều mừng rỡ. Câu chuyện vui buồn, gian khổ vì chiến tranh được kể lại. Những người chạy loạn bắt đầu túng thiếu vì chỉ ăn mà không sản xuất. Đồ quý giá bán dần mòn cũng hết, kể cả áo quần. Thuốc lá thơm, cà phê phè phỡn trong những ngày đầu tản cư, bây giờ không còn. Có người phải giã gạo thuê đổi lấy miếng cơm. Có người xoay xở buôn bán quanh quẩn để sống qua ngày. Cuộc chiến chẳng biết đến bao giờ chấm dứt. Chiến tranh không những làm chết người ở tiền tuyến, còn ở hậu phương, chết vì ốm đau thiếu thuốc, thiếu cơm. Nghiêm, một nghệ sĩ 22 tuổi đời, chết chẳng trối trăng một lời, sau những ngày nằm bệnh. Bốn nhạc sĩ đã khiêng chiếc quan tài ra khu đất trống đầu làng, nơi trẻ vẫn thả bò ăn cỏ rải rác trên những ngôi mộ cũ.
Võ Hồng viết đơn sơ nhưng vô cùng thê thiết. Thân phận con người trước súng đạn như thế đó. Nếu chàng nghệ sĩ 22 tuổi đời kia sống ở nơi có đầy đủ thuốc men, hoặc được nuôi dưỡng tử tế chắc thoát khỏi lưỡi hái tử thần. Thảng hoặc, nếu vì đoản số, ít nhất, anh ta cũng không đến nỗi mang xuống tuyền đài sự câm nín đau buồn như vậy!
Những ngày Quỳ và Luân sống với Mai Trang thật thần tiên. Mai Trang lo liệu chu đáo vì yêu Luân. Nhưng đau thay, một tối nàng đã nhìn ra sự thực. Trong đêm vắng, dưới bụi chuối, Luân ghì chặt Quỳ giữa vòng tay, và cánh tay Quỳ cũng như những sợi dây leo quấn chặt lấy thân xác đàn ông. Thế là hết! Bao nhiêu yêu dấu, vỗ về cũng bằng thừa. Mai Trang thua cuộc, nhưng vì lòng quảng đại, đã giúp hai kẻ yêu nhau vượt thoát được hoàn cảnh, một hoàn cảnh khốn khó trong lúc chiến tranh tràn vào khu vực Phương Cựu, nơi họ đang có mặt. Hành động tàn bạo của quân Pháp như hiếp dâm, đốt nhà được nhà văn mô tả rất sát, rất sinh động làm người đọc vừa hứng thú, vừa tức giận, oán thù!
Luân và Quỳ đã thoát, dìu nhau đi vào khung trời tình ái với mặn nồng hoa bướm ở phương nào đó, chiến tranh chưa in dấu. Còn Mai Trang, nàng dấn thân vào cuộc chiến để tìm quên, có lẽ.
Hoa bươm bướm, tác phẩm đã lấy giai đoạn đầu của cuộc chiến địa phương làm bối cảnh, ở đó, nhà văn phác họa những nét chính và sử dụng những mẫu người tượng trưng cho mỗi thành phần xã hội lúc ấy. Võ Hồng viết rất nhiệt tình, trung thực. Với cái nhìn tinh tế và trí xét đoán minh bạch nhằm mục đích đưa người đọc tìm về quá khứ oai hùng nhưng đau xót, qua nhiều đổ vỡ, qua bao nhiêu xác người trai trẻ gục xuống, bao nhiêu dòng lệ đã tuôn trào! Có điều đáng tiếc, nhân vật Mai Trang quá lý tưởng, và sự có mặt của một bóng đàn ông trong buổi tối ở nhà nàng ở làng Phương Cựu, dù hình ảnh này chỉ được dùng như biểu tượng Cách mạng, nhưng nó không đủ chứng minh sự dấn thân của Mai Trang vào "tổ chức" qua lá thư cuối sách. Vả lại, nếu Mai Trang đã "hoạt động bí mật" cho Mặt trận từ hồi Nhật, trên thực tế, ai cho phép nàng có được một thời gian tương đối thanh thản để mơ mộng, rượt bắt tình yêu? Sự việc tuy nhỏ nhưng có thể vì nó, cuốn sách mất đi một phần tác dụng.
Võ Hồng lúc nào cũng bị quê hương, chiến tranh bủa vây suy nghĩ. Cũng chính ở môi trường này, Võ Hồng viết thoát và đạt nhất. Nó là mảnh vườn màu mỡ nhưng có nhiều gai nhọn mọc ngầm dưới thớ đất, đôi khi làm đau chân người chăm bón. Chuyện quê hương và chiến tranh đã hai mươi lăm năm rồi, nước Việt Nam bất hạnh đã kinh qua quá nhiều đau khổ, quá nhiều tan nát. Những con người may mắn thoát chết, nhìn trở lui con đường đã đi, không khỏi kinh hãi, nhưng nó vẫn đủ sức làm mình nhớ thương vời vợi. Nó đã ghi dấu khoảng đời đẹp nhất của tuổi hoa niên. Cuộc chiến ngày hôm qua, còn ướt đẫm máu người dân vô tội, kéo lê trong hồn những lằn roi khổ nhục. Hôm nay, cuộc chiến còn đó, súng đạn còn đấy, tan vỡ còn đây, chỉ thay đổi mục tiêu, đối tượng. Người dân Việt Nam qua mấy lần đau thương, nên chẳng còn gì để đau thương hơn nữa. Nó đã chai sạn trong trí não. Nó băng giá trong mọi suy nghĩ về số phận làm người. Cuộc chiến hôm qua, để đuổi quân xâm lăng ra khỏi bờ cõi, khôi phục nền độc lập cho dân tộc. Cuộc chiến hôm nay, sự tranh thủ giữa hai ý thức hệ trong một quốc gia. Nhưng dù nội dung cuộc chiến có vì gì đi nữa, trên thực tế, hình thức của nó vẫn là trò chơi tàn bạo, lấy cái chết mặc cả sự sống!
Truyện Bên đập Đồng Cháy, in trong tập Những giọt đắng (1969) đã nói lên trọn vẹn nỗi lòng người dân quê nước Việt. Mặt trận tràn lan, bom đạn liếm dần vào ruộng vườn, làng mạc. Thân phận mỗi người tùy thuộc vào may rủi, muốn an toàn tính mệnh bắt buộc phải rời bỏ nơi chôn nhau cắt rốn. Sống, ai cũng muốn, mà xa lìa mái nhà yêu mến với nhiều kỷ niệm chả ai nỡ. Sự giằng co, níu kéo như một cực hình vò xé nội tâm con người. Bà Xự trong truyện Bên đập Đồng Cháy, nạn nhân của sự giằng co đó: … Bà Xự ngồi yên trên ngạch cửa, hai dòng nước mắt lặng lẽ chảy trên gò má.
Bỏ nhà bỏ cửa mà đi. Bỏ ruộng nương, bỏ vườn tược, bỏ khúc sông và cái bến nhỏ này mà đi. Không, tôi không muốn đi đâu hết. Năm mươi tuổi trên đầu rồi, tôi muốn ngồi yên một chỗ, nằm yên một chỗ mà chết cũng được. Chết là gì? Nhắm hai con mắt lại, nhẹ nhàng buông xuôi hai tay. Khỏi đi cấy. Khỏi cầm quạt giê lúa. Khỏi phải gánh nước đổ vào chum. Khỏi quơ củi nhay vào bếp. Khỏi làm khỏi ăn khỏi lo khỏi tính. Thôi cứ để cho tôi chết. Bà con cứ đi đi. Tôi lớn lên ở trên mảnh đất này, bắt đầu ngắt lá táo, lá keo bỏ vào mẻ sành mảnh chén làm trò chơi nấu cơm với chị em bạn. Rồi cúi lưng xuống tập quơ cỏ lúa, cầm cái cuốc nhỏ tậy dãy cỏ bắp. Đội thúng đi mót lúa, ôm cái rổ đi mò ốc.
Không, không. Tôi muốn chết trên mảnh đất này…
(Những giọt đắng, Bên đập Đồng Cháy, trang 79-80)
Muốn chết ở trên mảnh đất này, mảnh đất đã chứng kiến thân phận mình từ thuở sơ sinh đến bây giờ. Nhưng ngoài kỷ niệm trên, đích thực còn có ám ảnh khôn nguôi khác. Bên đập Đồng Cháy, bà đã gặp ái tình. Năm Xự đã cho bà những giây phút đắm say của thời con gái, khi còn mang tên Lụa. Biết đến bao giờ bà mới quên được, một buổi xế chiều êm đẹp, bà đang cắt cỏ ở bờ soi mía kia. Gió đồng trống thổi vật vã những thân mía như thổi vào lòng tuổi trẻ niềm yêu và Năm Xự đẹp trai, khỏe mạnh, có đôi lông mày đen rậm đã làm xiêu lòng trinh nữ. Rồi từ đấy hai tâm hồn khắng khít. Hạnh phúc lứa đôi dìu họ đi vào vùng trời ân ái. Nhưng uổng thay, số Lụa lận đận, chỉ một trận cảm thương hàn Năm Xự chết! Lụa ở vậy nuôi con khôn lớn, mong sau có phận nhờ. Thằng Xang lớn lên, cầm cày thay bố, không thích lấy vợ, tuy bà Xự muốn nó yên bề. Đến tuổi, thằng Xang đi quân dịch. Ở nhà, bà Xự tính mua hoa xoan, đợi ngày nó mãn lính. Nhưng hỡi ơi! cây xoan trước cửa nhà mới nở hoa một lần, nó đã gục ngã nơi chiến trường vì bị phục kích ở Phù Cát. Thế là hết, bà Xự chẳng còn gì để mong đợi, hy vọng! Do đó, mảnh đất này dù có thành bãi chiến trường, thân xác dù có tan hoang, nát bấy vì bom đạn, bà vẫn cứ ở lại chốn đây với đối với và kỷ niệm. Bà Xự đi tìm kỷ niệm thật. Bà trở lại đập Đồng Cháy, chỗ hẹn hò thuở ban đầu, nơi bờ soi, bên đập nước, có hai mái đầu xanh kề nhau tình tự:
… Bà Xự chợt nhìn xuống lòng nước, soi thấy bóng mình. Hình ảnh cô Lụa tan biến vun vút.
Hết rồi! Hết rồi! Không! Tôi không đi đâu hết. Tôi đã mất hết cả rồi. Tuổi xuân xanh. Chồng tôi. Con tôi. Chỉ còn đập nước này mà tiếng ào ào tuôn đổ không hề thay đổi. Nó đã nhìn thấy tôi tóc đen mướt và má tròn phúng phính. Nó đã nhìn thấy tôi trẻ đẹp và được thương yêu. Chỉ có nó. Nó nhắc nhở đến chồng tôi. Đến hạnh phúc của tôi. Mọi người khác đều nói: Chiến tranh. Chạy giặc. Súng nổ. Bệnh. Đói. Chết… Tôi không còn đủ sức để chống chọi. Cho tôi an nghỉ.
… Thôi bà con đi đi. Chúc bà con mạnh giỏi. Cho tôi ở lại. Không, xin cho tôi ở lại. Tội nghiệp thân tôi. Tôi đã…
(Những giọt đắng, Bên đập Đồng Cháy, trang 98-99)
Bà Xự tự chọn cho mình cái chết ở nơi mà thiên nhiên đã cùng bà tạo nên nhiều kỷ niệm nhất. Trong khi ấy, đoàn người tản cư chạy dớn dác ra khỏi vùng lửa đạn. Nhưng dù nguy hiểm, không ai nỡ bở bà Xự, họ quay lại tìm, gọi. Tiếng gọi của họ bị khỏa lấp vào tiếng bom và tiếng đập nước đổ ào ào! …
Võ Hồng vì đã phiêu bạt trong cuộc chiến quá lâu, nên những gì viết ra đều căn cứ một phần vào sự thực. Đi từ những sự thực, nhà văn dàn trải suy tư của mình trên mặt giấy. Mỗi chữ Võ Hồng viết về chiến tranh như một giọt đắng. Giọt đắng ấy thấm dần vào hồn người làm ngất ngư hình dáng cuộc đời!
Trong những ngày dài kháng chiến, không phải lúc nào nhà văn cũng được ưu đãi và hoàn cảnh cho phép thảnh thơi suy nghĩ. Đi kháng chiến, không phải ai cũng là "đảng viên" mà đa số vì lòng yêu nước, muốn đóng góp chút gì cho dân tộc, để khỏi thẹn với lương tâm. Tác giả đã dạy học, đã tham gia tổ chức, nhưng một ngày, chính phủ chủ trương biên chế mới, nhà văn bị đẩy ra ngoài "cuộc chơi". Trong lúc bơ vơ chờ học nghề mới kiếm sống, nhà văn được một gia đình học sinh cũ, mời về tá túc. Thân phụ học sinh, trước làm Chánh Tổng, giàu có, tính tình phóng khoáng hào hiệp, nhưng sau những năm "ủng hộ" cũng chẳng còn gì ngoài cái xác dinh cơ rộng lớn. Người học trò cũ, tên Phùng đã đi bộ đội và chiến đấu ở Đông Miên, Hạ Lào gì đó. Ông Chánh tiếp đãi nhà văn rất tử tế vì tình sư đệ với con ông một phần, một phần đồng cảnh ngộ. Ông bị chính quyền cô lập vì thuộc thành phần địa chủ, còn nhà văn bị gạt ra ngoài vì "biên chế":
… Ông Chánh bảo tôi:
"Thầy ở đây chơi, bao lâu cũng được. Chỗ này quê mùa, ăn tiêu ít tốn kém. Chỉ cần có gạo và mắm".
"Tôi còn đủ sức để mua được gạo".
"Thầy ăn mỗi tháng cho mạnh nhất là bốn giạ lúa. Nhiều lắm thì sợ tôi không kham nổi chớ bốn giạ, tôi có thể giúp thầy".
"Cám ơn ông, nhưng xin để tôi tự lo liệu phần gạo mắm".
"Trước ngày Cách mạng thì tha hồ, nhà tôi có thể cung phụng cho mươi người một lúc cũng không nao núng. Nhưng bây giờ thì phần lúa giảm tô, phần ruộng bỏ hoang vì nông dân ly khai nhập bộ đội thiếu người canh tác".
… Rau cỏ thì dễ. Người ta thường dùng củ mì hay khoai lang nấu ghé với cơm. Có ăn ghé như vậy một thời gian rồi được ăn bữa cơm mùa – nghĩa là cơm nấu toàn gạo – mới thấy ngon…
(Trầm mặc cây rừng, trang 178)
Trên thực tế, nhiều vùng trong nước, quanh năm đói kém, phải ăn cơm trộn ngô khoai là thường, nói chi đến giặc giã. Nhưng gia đình ông Chánh thuộc giai cấp phú hào, nên chuyện thiếu thốn là điều cực nhọc. Trong thời gian dài thất nghiệp, ngày ngày nhìn xung quanh dãy núi cao chớn chở bao vây, nhìn thân cây bồ lời cao vút với những tổ quạ, tổ ác lót bằng những chà cây lòi sòi, nhìn từng buổi chiều đi cô đơn, nhớ quê hương cách trở với lo sợ tương lai trước mặt.
Nhưng một buổi, người con gái quê mùa hiện ra như niềm an ủi. Tình yêu len nhè nhẹ vào hai tâm hồn, thứ tình yêu ỡm ờ chỉ nhìn bằng mắt và nói chuyện bâng quơ. Thịnh, tên cô gái, con bà Chức Bảy, có quen với gia đình nhà văn. Thịnh có học đôi chút và trời phú cho thông minh nên lời nói ngụ nhiều ý tứ, khác hẳn với các cô gái cùng vùng. Nhà văn càng lúc càng lâm vào thế kẹt của sinh sống, phải bán cả đồng hồ tay và có ý định hồi cư. Thịnh biết chuyện nên buồn.
Tết năm đó quân Pháp mở chiến dịch lớn tấn công tỉnh Phú Yên, Đèo Cả và mặt Tây Nguyên. Nhà văn đeo ba-lô tìm đường tháo chạy theo đoàn cán bộ xã. Quân Pháp đánh bất ngờ làm mạnh ai nấy trốn, nhà văn không có dịp chào Thịnh một câu, một câu thôi, vì tự thâm tâm, mình đã yêu nàng, chắc Thịnh cũng vậy. Có ngờ đâu, cuộc chạy giặc đưa nhà văn về thành. Từ đấy, nhớ thương vời vợi. Ít lâu sau, vùng đất của Thịnh bị khuất phục dưới sức mạnh của súng đạn. Một hôm, ông Chánh đưa vợ vô Sài Gòn chữa bệnh ghé thăm, kể chuyện quê hương, có nói về Thịnh. May quá, nàng chưa lấy chồng. Nhà văn gửi quà: một xấp hàng vải, gương lược và nhiều lọ nước hoa!… Thương nhớ theo thời gian lãng đãng!…
Chẳng may, vợ nhà văn mất vì chứng hoại huyết, sau ba tháng nằm bệnh. Không chịu được cảnh chăn đơn gối chiếc, sau ngày đoạn tang, nhà văn nghĩ đến một người đàn bà. Có nhiều đàn bà được giới thiệu nhưng Võ Hồng chỉ nghĩ đến Thịnh, cô gái quê chất phác:
… Trong những hồi cô đơn, tôi hay nghĩ đến Thịnh. Tôi còn nhớ tâm hồn tươi mát của nàng, yêu dao động và không đòi hỏi quá nhiều ở cuộc đời. Nàng sống hiền hòa thanh thản và tôi muốn đem những tiện nghi hiện tôi có được chia sớt cùng nàng. Tôi cảm thấy cuộc đời của tôi sẽ được bình ổn hơn. Tâm hồn trong sáng yêu đời mang lại cho nàng một năng lực tự tại khó lay chuyển… Sống giữa một vùng rừng núi xa xôi, tôi có cảm tưởng nàng chịu ảnh hưởng cái vóc dáng uy nghi của thiên nhiên hoang dã và nét uy nghi đó in dấu trên mọi cử chỉ nhỏ của nàng. Tôi yêu quý sự nghiêm cẩn trì trọng đó của loài đá tảng, của thân cây rừng hơn là sự bén nhạy linh hoạt của giống lau sậy… (Trầm mặc cây rừng, trang 193)
Nhưng tiếc thay, mơ ước của nhà văn không thực hiện được, vì sống ở đời, mỗi người đã được an bài theo cung số, do đó mới có đau khổ và oan trái. Tuy đã lấy chồng, nhưng Thịnh còn đó, nhớ thương còn đó, mặc cảm nghèo hèn và định mệnh đã đẩy nàng vào khung trời khác, vĩnh viễn thành một kỷ niệm in dấu trong tâm hồn. Thịnh nghĩ mình quê mùa nên sự gặp gỡ ngày trước đối với nàng chỉ là ước mong trong tuyệt vọng. Những giọt nước mắt không phải để chứng minh lòng thương yêu, mà để tiễn đưa cuộc tình chết yểu với hối tiếc ngàn năm!
Võ Hồng, nhà văn tình cảm. Tất cả mọi suy nghĩ, dù nhớ thương sầu hận, dù căm thù uất ức, bao giờ sự việc cũng do tình cảm hướng dẫn chớ không bởi lý trí. Người ta thường cho rằng, các văn nhân thi sĩ đều là những người nhiều cảm tính, nhờ đấy họ mới biết rung động trước mọi nghịch cảnh do cuộc đời hoặc thiên nhiên đẩy tới, cộng vào sự hiểu biết riêng tư, mới tạo nên tác phẩm. Điều này chỉ đúng một nửa. Nghệ thuật hôm nay, đòi hỏi nhiều hơn thế. Nó không còn là những rung động tầm thường và ước lệ. Nó khơi động tự chiều sâu ý thức, bắt mỗi người làm văn học nghệ thuật phải tra vấn lương tâm, phải suy luận về mỗi dữ kiện được trình bày, phải có một chức năng và nhiệm vụ trong cung cách sinh hoạt văn nghệ. Nó chính là ý thức đời sống trên đời sống vậy. Vì thế, sứ mệnh của văn nghệ không còn nằm ở môi trường riêng biệt thuộc tâm cảm, nó tỏa rộng trong đời sống thứ hai, ở đó, người nghệ sĩ đóng vai trò điều hợp.
Tác phẩm Như cánh chim bay, là sự tiếp nối lịch sử dân tộc đã được Võ Hồng khơi động trong Hoa bươm bướm. Đời sống của các nhân vật như Luân, Quỳ, Tịch, v.v. lại trình diện độc giả với hoàn cảnh khác, ở đấy, mỗi số phận như bị ném vào một môi trường không mấy khích lệ. Trong Hoa bươm bướm nhà văn mới đề cập tới giai đoạn đầu cuộc chuyển mình của lịch sử và bối cảnh chiến tranh chỉ được dàn trải trong một kích thước tương đối nhỏ. Như cánh chim bay diễn tiến trong khung cảnh bề thế hơn, vì cuộc chiến không còn nằm ở phạm vi cục bộ. Ở tác phẩm này, Võ Hồng viết công phu, nghiên cứu kỹ về khía cạnh tâm lý cũng như hoàn cảnh, vị trí của mỗi phần hành có mặt trong những trang sách. Cái trục chiến tranh đứng sừng sững như uy quyền Cách mạng bắt mọi số phận phải chấp nhận dù muốn, dù không.
Luân tượng trưng cho lớp trí thức trẻ, tuy không dấn thân vào Cách mạng, nhưng sẵn sàng thi hành một cách nghiêm chỉnh phần vụ của mình, dù cho phần vụ đó chẳng phải điều mơ ước. Quỳ, cô gái học trường đầm, khi trước, nói chuyện bằng tiếng Pháp gọi người làm trong nhà là "La nhà quê" để tỏ ý khinh bỉ, thuộc thành phần giàu có trong Nam, nay bỗng nhiên phải gánh chịu cùng với Luân, những khốn khó của chiến tranh, tuy không nói ra, nhưng chắc chẳng vui gì, dù có tình yêu hỗ trợ. Còn nhiều khuôn mặt khác nữa, tác giả đưa lên rồi xóa đi sau khi "nó" đã thi hành xong phần vụ. Nó như những chiếc bong bóng bơm hơi khinh khí, bay lên, bay lên đến độ cao nào đó, sức ép sẽ làm nổ tung, không để lại vết tích nào. Người đọc bắt gặp những chiếc bong bóng ấy bay rải rác đó đây, chờ lúc người đọc sơ ý, nó biến mất như những bóng ma. Võ Hồng viết Như cánh chim bay rất sống động, sâu sắc. Từng niềm đau được nghĩ tới, nói tới, vừa đủ để người đọc cảm thấy có chứ không vì nó mà bải hoải ý nghĩ. Võ Hồng cũng không quên vẽ vài nét tươi vui, dí dỏm để làm vơi nhẹ cái u uất, bi phẫn của mỗi trạng huống khốn khó, đang bủa vây những thân phận trong cuộc chiến cũng như tình yêu. Nội dung tác phẩm Như cánh chim bay đặt nặng về phần vụ công tác Bình dân giáo dục. Có lẽ, nhà văn đã hoạt động cho nó, vì nó, suốt thời gian kháng chiến, nên vấn đề được trình bày thông suốt, khúc chiết, chẳng những ở nhân vật mà còn ở lề lối hoạt động dưới hệ thống chỉ huy của Trung ương. Các vấn đề khác như quân sự, kinh tế, chính trị, tôn giáo, v.v. được đề cập vừa đủ, hầu chỉ để chứng minh cho mỗi sự việc ở hoàn cảnh chung, đã tạo nên hành động. Người đọc tin rằng, những ngày phiêu bạt trong kháng chiến đã giúp vốn cho nhà văn rất nhiều, tuy rằng câu chuyện và sự tình cũng chưa vượt ra ngoài kích thước hạn định nơi quê nhà yêu dấu!…
Chính vì viết về nơi mình đã sống từ ấu thơ đến trưởng thành nên nhà văn thuộc làu từng địa danh cũng như nếp sống địa phương. Yếu tố này giúp Võ Hồng kinh qua được rất nhiều trở ngại trong vấn đề điều khiển nhân vật và dàn trải không gian.
Luân và Quỳ ở đoạn kết trong Hoa bươm bướm đã rời Phương Cựu– vùng chiến trận – bằng đường biển. Luân đưa Quỳ về nhà mình ở vì nơi đây tương đối còn yên ổn. Cuộc chiến vẫn lằng nhằng. Tin đồn lúc đánh, lúc đàm. Hội nghị Đà Lạt và Fontainebleau vẫn được khai diễn. Quân Pháp không từ bỏ mộng xâm lăng nên tìm đủ cách gây khó khăn cho Chính phủ Cách mạng bằng chính trị và quân sự. Cuộc sống ở những vùng chưa có khói lửa cũng được điều hành theo quy tắc cách mạng. Công tác phát triển Đời Sống Mới trong các thôn ấp được áp dụng triệt để qua việc bài trừ mê tín dị đoan, gây ý thức vệ sinh chung trong làng xã. Luân sống trong hồi hộp, lo âu vì là con địa chủ lại thuộc thành phần trí thức. Cách mạng không mấy ưa thành phần này. Luân và Quỳ mỗi người ở mỗi nơi, thỉnh thoảng ghé thăm nhau. May mắn, Luân gặp Bường, đang giữ công việc Hiệu trưởng Trường Lục quân Trung học Ngân Sơn. Bường mời Luân hợp tác. Để tránh sự nghi ngờ, chàng giúp Bường một thời gian. Sau đó, vì một tai nạn xảy ra tại Trường Lục quân, Luân chuyển qua làm Trưởng ban Bình dân Học vụ Huyện và sau này giữ chức vụ Trưởng Ty. Ông Chánh muốn Luân lấy cô Tuyền, con gái ông Ấm giàu có vì hai nhà đã có giao ước với nhau từ trước. Luân không chịu. Ít lâu sau, đám cưới giữa Luân và Quỳ, do ông chú ruột đứng làm chủ hôn. Tuy đã lập gia đình, nhưng Luân phải theo cơ quan di chuyển để bảo toàn bí mật và tránh mặt trận. Rồi những chuyện rắc rối về tình cảm giữa Nương và Phượng. Quỳ sống trong hạnh phúc nhưng lòng vẫn nhớ thương thành phố cũ. Quỳ được các cán bộ địa phương quý mến vì uy tín của Luân, hơn nữa, nàng vô hại. Khi sinh nở, Quỳ được săn sóc chu đáo. Đột nhiên Tịch đưa Thức (hai nhân vật trong Hoa bươm bướm) đến thăm. Thức, chàng thanh niên Quỳ yêu lúc trước bây giờ làm Tư lệnh phó Liên khu Bảy. Tịch xin đi theo Thức vô Nam để thăm gia đình và xem con vợ nó còn chờ mình hay lấy chồng khác rồi. Luân và Quỳ ở lại với khắc khoải. Luân lúc này đã thôi làm Trưởng ty Bình dân Học vụ, chờ ngày nhận nhiệm vụ mới bên Trung học.
Cái "trục" Như cánh chim bay giản dị như vậy. Nhưng bên trong cái giản dị ấy, nhà văn đã gói ghém biết bao nhiêu vấn đề, bao nhiêu mắt lưới. Ở mỗi mắt lưới lại hiện ra những sự việc, những mâu thuẫn làm câu chuyện biến đổi không ngừng lôi kéo người đọc vào ý muốn của người viết. Nhà văn đưa người đọc trở về thời gian đã mất, để tìm kiếm cái tuổi trẻ hào hùng trong lòng quê hương bất khuất. Võ Hồng viết chân thực không những với mình còn với người. Những gì được biểu hiện dưới nét bút Võ Hồng đều sống đầy đủ, nguyên vẹn. Mỗi sự việc đưa vào truyện như cuốn vào một chứng tích xác tín chứ không ngụy tạo, do đó, người đọc như bị hút vào một không khí sống động và các vai trò như chập chờn trước mặt với vóc dáng và ngôn ngữ đặc biệt. Chủ tịch Quang xuề xòa, Phó chủ tịch Trương Thực tạo vẻ nghiêm trang, xã Mãi Ủy viên tài chánh cẩn thận, tin có ma quỷ, Tràng, Ủy viên thanh niên bộp chộp, Ký, Hành và Tuyển hăng hái quá đà. Ngần ấy khuôn mặt làm sôi động hẳn những trang đầu cuốn sách trong vấn đề phát động công tác Đời Sống Mới:
… Xã Mãi, Ủy viên tài chính đang lóc cóc gõ bàn toán miệng không ngừng đọc cửu chương: tứ thất nhì bát… lục bát tứ chi… ngủ cửu tứ ngũ … ngửng đầu lên: "Linh lắm mấy ông ơi! Khi khiển Tướng đi trấn đóng, thầy rót cho ly rượu đổ lên đầu Tướng rồi đưa một bàn tay tựa sau lưng Tướng, thế mà Tướng tự động lúc la lúc lắc đi ra tới phương trấn đóng của mình".
Chủ tịch xua bàn tay:
"Mê tín! Mê tín! Ủy ban phát động phong trào bài trừ mê tín dị đoan thế mà ủy viên lý luận kiểu đó thì chết. Phản Cách mạng".
"Là mình nói nhỏ với nhau nghe riêng".
Xã Mãi cười gượng:
"Vả lại chuyện gì chớ chuyện ma quỷ không tin sao được? Cái nhà từ đường ông Chánh Lộc có ma đó. Thằng Bài không tin tới nằm ngủ bị ma nó đánh bầm mình. Cậu Nẫm cũng không tin, tới nằm ngủ bị ma nó khiêng quăng lên quăng xuống cả đêm".
"Uở! Biểu thôi. Tốp lại. Phản Cách mạng vừa vừa chứ".
Tràng, Ủy viên thanh niên đang nghe hào hứng chợt bị bắt tốp lại, nằn nì:
"Thây kệ nó, Bác. Để ông Ủy viên tài chính kể tiếp nghe chơi. Đang tới chỗ hay mà. Đang hồi gay cấn…"
"Không được. Ở đây nhĩ mục quan chiêm. Có muốn nghe bữa nào xuống nhà ổng, ổng nói cho nghe".
Vừa lúc ấy, ba người thanh niên quần vải xita xám, áo sơ-mi trắng ồn ào bước vào, lại gần bàn Chủ tịch:
"Xin báo cáo với Chủ tịch: Bọn cháu đã làm "vườn không nhà trống" cái thủ kỳ của ông thầy Ba rồi. Đêm qua ba đứa cháu lẻn vô nhà thầy Ba khiêng tất cả tướng đá, bài vị đem ném xuống sông hết. Còn cái chuông và cái mõ… Kỳ ơi, móc đưa cái chuông mày. Còn thằng Hành, đưa cái mõ…"
(Như cánh chim bay, trang 9-10)
Kỹ thuật hành văn ở đoạn này vui vui cốt đưa người đọc đi vào những trang sau với từng sự tình khốn khó đã được ấn định trong tâm thức nhà văn. Cuộc nói chuyện đi lan man sang vấn đề thánh tổ của mỗi nghề như hát bội, hành khất, v.v. Chủ tịch Quang có bằng Tiểu học, xuất thân Đội Trạm, tức trạm phát thư dưới thời Pháp thuộc. Phó Chủ tịch Trương Thạc, nắm hết quyền hành trong xã vì còn trẻ và học hơn Chủ tịch. Phong trào phát triển Đời Sống Mới còn hô hào đốt hết tàn tích nô lệ và phong kiến như sắc Vua ban hoặc bằng Cửu Phẩm Văn Giai. Lúc phát động, có người mù chữ Nho, sợ quá, đốt cả văn tự điền thổ để phi tang. Khi biết đã muộn!
Đúng thời gian đó, Luân và Quỳ có mặt, liền bị nghi ngờ. Dù có lời xác nhận hạnh kiểm và cương vị chính trị của Phó Chủ tịch Thạc, Luân vẫn bị xã Mãi, thứ "răng đen mã tấu" buộc vào thành phần khả nghi vì Luân đã hợp tác với chính phủ Trần Trọng Kim. Còn Quỳ, được gán cho vai trò nữ gián điệp! Trong giai đoạn đầu của Cách mạng thành phần trí thức về quê, ít nhiều gì cũng bị ở vào trường hợp này, nếu không tham gia bí mật từ trước, hoặc có anh em, họ hàng hoạt động trong "mặt trận" lúc đó.
Quỳ ở An Thổ với buồn thương, lo lắng, gặp ông bà Thành Mỹ cũng ở Đà Lạt, bất ngờ "bị tản cư" ở đấy, trong chuyến về thăm bà già, kẹt luôn. Quỳ băn khoăn nghĩ đến tương lai, không hiểu rồi cái gì sẽ đến với mình? Vì cuộc đời không phải là chiều dài của con đường, để có thể đo lường được mức đi, mức tới. Nó là một không gian có nghìn vạn ngả đi, do đó Quỳ cảm thấy choáng váng, như con chim nhỏ lạc đàn giữa bão tố. Nhưng cũng may, trong cuộc sống còn đó những người tốt như Nữ, cán bộ phụ nữ Huyện, tuy con nhà quan, nhưng sớm giác ngộ và ý thức được sự chuyển vận của lịch sử, nên tích cực phục vụ. Luân biết tâm trạng của người yêu, nên luôn luôn tìm cách an ủi, khuyến dụ bằng những lý lẽ, tuy không mấy vui tươi, nhưng thực tế: Không còn con đường nào khác hơn là phải sống với những người làm Cách mạng một cách hồn nhiên và yêu mến cả ưu lẫn khuyết điểm của họ. Quỳ ngoan ngoãn vâng lời như đứa con nít, tuy rằng trong lòng nàng không nguôi quên cái nếp sống quen thuộc thuở xưa, với căn phòng đầy đủ tiện nghi, với tiếng xe hơi rú mỗi lần leo dốc ngang hông nhà, và tiếng cổng sắt rít ở chiếc villa bên cạnh. Nay khung cảnh trước mặt, đối với Quỳ như một hờn tủi: cái giường tre ọp ẹp, nhà tranh vách đất và rui mè xám mốc, mạng nhện giăng lưới thả tơ đen rơi lòng thòng!…
Luân đã lao đầu vào công tác Bình dân Học vụ, sau một thời gian ngắn giúp việc điều hành tại Trường Lục quân Ngân Sơn. Công tác này ở dưới khả năng của Luân, nhưng tính vốn dè dặt, hơn nữa không phải người của "Mặt trận" nên mọi hành động, mọi ngôn ngữ, Luân hết sức giữ gìn, tránh né. Võ Hồng viết rất đúng, rất sát về tâm lý cũng như cương vị của vai trò thanh niên trí thức không đảng phái nằm trong guồng máy chính quyền Cách mạng lúc đó.
Vấn đề phát động phong trào chống nạn mù chữ, cũng có nhiều lý thú, các xã nhất tề đóng cổng đố chữ vào ngày Rằm âm lịch. Lực lượng giáo viên được huy động đông đảo tham gia công tác. Ai không thuộc hai mươi bốn chữ cái, khỏi đi chợ. Đó là giai đoạn đầu, còn những giai đoạn kế tiếp, sẽ trắc nghiệm khó hơn:
… Giáo Khiết thuyết trình về kết quả của biện pháp đó:
"Quý ông tưởng tượng một chị gánh cá mù chữ từ An Ninh gánh chạy lên chợ Trùng Lương. Ở Tiên Châu chị ta gặp một cổng. Giáo viên chận lại hỏi chữ, bắt chị học thuộc một chữ T chẳng hạn rồi mới cho đi. Lên Diêm Điền phải học thêm một chữ nữa. Giả dụ rằng chị có quen với anh giáo viên ở Diêm Điền, nhưng không sao. Lọt tới xã An Thạch thì giáo viên An Thạch đóng cổng ở nhà thờ Mằng Lăng, rồi một cổng ở chợ Lò Gốm, một cổng ở cầu Phường Lụa. Vượt qua xã An Ninh thì một cổng ở xã Long Hòa, một cổng ở Nhất Trí, một cổng ở đèo Cây Cam. Tiếp đến xã An Nghiệp lại…"
"Thế thì ươn cá của mụ ta rồi. Về nhà chồng đánh" – lời một đại biểu.
"Ai biểu trốn học? Bình dân Học vụ đã thành lập hơn nửa năm rồi, giáo viên chỉ đóng cổng hỏi hai mươi bốn chữ cái. Có làm biếng lắm mới không thuộc…"
"Lỡ mụ ta chửa đẻ hay đau bệnh nửa năm đó thì sao?…"
(Như cánh chim bay, trang 69)
Cuộc thảo luận bị cắt đứt ngang đây, vấn đề đóng cổng khảo chữ được tiến hành theo đúng kế hoạch.
Trong khi Quỳ đang sống yên lành với gia đình ông bà Thành Mỹ, chủ tiệm may, thì Trần Chắc, tên tùy phái Ty Ngân Khố Đà Lạt, trước có quen với chị bếp của Quỳ hiện ra định làm hỗn với nàng trong lúc gia đình vắng vẻ. Nữ tình cờ bắt gặp và cho Quỳ biết gốc gác tên Chắc với tư cách bê bối của hắn. Nó ve vãn, mồi chài với ẩn ý hiến Quỳ cho tên Ninh Pồ, gã thanh niên con nhà giàu, bê tha nghiện hút, đánh bạc và chơi gái.
Nhưng, sự có mặt của vai trò Trần Chắc, Ninh Pồ có thực sự cần thiết cho diễn tiến của nội dung tác phẩm? Chắc không, vì mục đích của cuốn sách không nhằm vào việc đả phá các phần tử đó. Vả lại, trên thực tế, những bộ mặt Trần Chắc, Ninh Pồ không có đất sống dưới thời Cách mạng. Bởi vậy, chúng là chứng tích vô ích, làm hại không ít đến toàn bộ tác phẩm. Nó là hạt cát của Pascal đó.
Tuy không được sự chấp thuận của gia đình, nhưng đám cưới Luân– Quỳ vẫn tiến hành tại nhà ông Trợ, chú Luân. Ông Trợ là nhà Nho, nhưng có tâm hồn phóng khoáng, thông cảm được với lớp người trẻ, nên đứng chủ hôn cho cháu, sau khi cố gắng thuyết phục ông anh không xong. Tiệc cưới được tổ chức trong lúc tình hình đất nước chả ra làm sao. Hội nghị bế tắc. D’Argenlieu tách miền cao nguyên thành Tây kỳ, trong Nam có Chính phủ Nam-Kỳ-Tự-Trị. Song song với Hội nghị Liên-Bang-Đông-Dương cũng họp tại Đà Lạt gồm: Nam-Kỳ Quốc, Ai Lao và Cao Miên. Nhưng không vì thế mà đám cưới của Luân bớt phần vui vẻ. Các cấp thuộc Ban Bình dân Học vụ đều tham dự đông đủ để chia vui:
… Giáo Khiết không đợi mời lâu, đẩy ghế đứng dậy khề khà nói:
"Hôm nay là ngày vui nhất trong đời của ông Trưởng Ban tôi. Tuy ông nhỏ tuổi hơn tôi nhưng mà ông làm lớn hơn tôi. Tôi không có món quà nào xứng đáng để mừng ông nên xin có mấy câu thơ kính tặng. Nếu cử tọa cho phép, tôi xin đọc". "Cho phép! Cho phép!" …
Giáo Khiết chậm rãi móc túi lôi ra một mớ giấy tờ. Rồi lại mò ở túi áo bên kia, vỗ ở túi áo ngực. Có tiếng hỏi:
"Sao đó? Mất bài thơ rồi hả?"
Giáo Khiết cười toe toét hàm răng đen:
"Dạ đâu có. Kiếm cái gương".
Khi mò lên túi áo ngực lôi ra được cái gương, đặt ngay ngắn lên mũi rồi thì lại đến lượt phải chọn lựa trong mớ giấy tờ xếp tư xếp tám đó để kiếm cho được bài thơ.
Cuối cùng khi đã nắm được tác phẩm văn chương của mình, ông đằng hắng liên tiếp ba, bốn tiếng:
"Bình dân Học vụ có dâu hiền"
Giáo Khiết cúi gầm mặt xuống, nhìn cử tọa qua khoảng trống trên gọng gương, giải thích:
"Đây ý nói là bà Trưởng Ban về làm dâu gia đình Bình dân Học vụ".
"Được rồi. Hiểu rồi".
"Gái sắc trai tài sánh tựa tiên"
Có tiếng hỏi:
"Ông đã thấy tiên chưa mà nói "sánh tựa tiên"?
Giáo Khiết lại toe toét cười:
"Dạ thưa chưa. Nhưng mà "xưa bày nay làm", thuở ông bà mình nói "đẹp như tiên" nên tôi nói theo".
"Được, giảng nghe thông. Xin đọc tiếp".
"Xây dựng gia đình cùng tổ quốc"
"Hay, đúng chính sách. Cần lao, gia đình, Tổ quốc. Đọc tiếp câu nữa!"
"Dạ tôi mới làm tới đó. Câu chót nghĩ chưa ra…"
(Như cánh chim bay, trang 93-95)
Cuộc vui nào rồi cũng tàn. Đời Quỳ đã vĩnh viễn bước qua giai đoạn mới. Căn nhà gỗ với bờ tre, bãi mía, ruộng vườn, từ nay quấn riết lấy đời nàng. Còn "quê hương của chị" với Đà Lạt, Sài Gòn, villa Les Fauvettes, dãy nhà ở đường Sabourain trở nên xa xôi, nó không thuộc về nàng nữa.
Tiếng súng báo hiệu chiến tranh đã nổ ở Hải Phòng, rồi một tháng sau, lệnh toàn quốc kháng chiến được ban hành. Đêm 19-12-1946, hồi 20 giờ 00 nhà đèn nổ, cả thành phố Hà Nội đắm chìm vào bóng tối. Tiếng súng giao chiến bắt đầu ở những khu phố, do Tự vệ Thành bắn ngăn cuộc tiến quân của Pháp. Cả nước Việt Nam bắt đầu từ giờ phút đó mới thật sự lâm chiến toàn diện. Ở những miền cuộc chiến chưa lan tới, đều tổ chức mít-tinh, biểu tình hô hào toàn dân tham gia cứu quốc. Các đoàn thể: Phụ lão cứu quốc, Phụ nữ cứu quốc, Thanh niên cứu quốc, Nhi đồng cứu quốc, được huy động đóng góp vào cuộc kháng chiến với mọi nỗ lực. Phong trào tòng quân diệt giặc được phát động mạnh mẽ. Các thanh niên hăng hái xung phong, cũng có người lẩn tránh bằng cách nhảy vào các cơ quan Xã, Huyện làm việc hành chính cho yên thân. Bộ mặt địa phương thay đổi hẳn vì lớp người tản cư. Đời sống tỉnh thành và nông thôn hòa hợp một cách bất đắc dĩ. Người dân quê có dịp để làm khó người thành phố trong một vài vấn đề ăn ở và tập tục. Nhưng người thành phố họ khôn lắm, họ biết lựa chiều đón gió, nên lần lần họ vượt qua mọi trở ngại. Có người chạy mãi ăn hết tiền, mở quán nước kiếm sống. Chẳng may vợ con lại đau yếu vì không hợp thủy thổ nên bực tức gắt gỏng lung tung, ngay cả trước mặt khách hàng. Tâm trạng đó sở dĩ có, vì quá chán chường hoàn cảnh, đến khi biết khách hàng là cán bộ cao cấp của Huyện, lại khúm núm, sợ sệt:
… Được biết kẻ đối diện là Phó Chủ tịch Huyện, chủ quán bỗng đứng rón rén, và cánh tay trái tự nhiên để gập trước bụng. Xếp ly, lau bàn, anh ta chỉ dùng tay mặt. Thấy bấy nhiêu cử chỉ đó chưa đủ chuộc lại những sự vô lễ lấc cấc lúc nãy, chủ quán dừng tay lau, gãi đầu lí nhí nói:
"Dạ thưa ông Phó Chủ tịch, bữa nay ông ra chủ tọa lễ xung phong nhập ngũ?"
"Ờ".
(Như cánh chim bay, trang 111)
Uy quyền Cách mạng to lắm, nhất là lúc mới bắt đầu kháng chiến. Mọi người nên dè chừng, kẻo mất mạng oan vì hai chữ: phản động. Chính sách tiêu thổ, vườn không nhà trống, được thi hành thật khẩn thiết. Những dãy phố bị triệt hạ chỉ còn trơ lại vài mảnh tường chơ vơ lở lói, trông thật thảm. Người có nhà tiếc đứt ruột, vẫn phải gượng cười.
Mặt trận miền Trung, quân Pháp đã đánh vào đèo Cả. Quân kháng chiến rút. Dân chúng chạy tán loạn, vơ quàng vơ quáng được cái gì hay cái nấy, có người vội quá lúc nhìn lại, toàn đồ đáng vứt đi. Chỉ riêng các gia đình "Ba Tàu" bình chân như vại vì họ thuộc phe Đồng Minh thắng trận. Đau đớn hơn cả là những người trước có liên hệ với Pháp, làm giàu nhờ Pháp đến lúc này, tính mạng coi như "ngàn cân treo sợi tóc", dù đã dâng hiến cho Cách mạng tất cả tài sản của mình như ông Vạn Lợi. Ông Vạn Lợi sợ bị thủ tiêu nên đêm đêm nằm sợ cả tiếng chó sủa. Nương là con ông Vạn Lợi, thuở nhỏ Luân thường đến thăm ba nàng. Nương yêu Luân từ lâu, không có cơ hội tỏ tình, bây giờ chỉ còn oán trách! Chiến trận lại đưa Tính, Trưởng ban Trinh sát, người đã bắt Quỳ ở trạm kiểm soát Đà Lạt (trong Hoa bươm bướm) và đã tặng nàng bốn cái tát! Nhưng thời gian làm họ hiểu nhau, dần dà. Tính kể chuyện Đà Lạt làm Quỳ quên khuấy hận xưa. Chiến trận vẫn lan dần, từ địa điểm này qua địa điểm khác. Quân Pháp hành quân vũ bão để mong thanh toán con mồi. Nhưng càng đánh, càng cảm thấy còn lâu mới đạt được kết quả.
Vóc dáng Mai Trang cũng được nhắc nhở đến, với những nghi vấn như hồi nàng hoạt động dưới thời Nhật. Người nói, nàng về thành lấy tên Sứ Tây, người nói, nàng đang cưỡi ngựa chỉ huy mặt trận Djiring, Đa Nhim. Nàng biến thành một ám ảnh của nhà văn, bỏ thương vương tội, nên sự nhắc tới cũng chỉ để nói lên một ảo ảnh, không thực, nhưng đẹp. Trong thành phần tản cư, có mặt các công chức làm việc từ hồi Pháp thuộc. Họ không được Cách mạng ưu đãi hay tin cẩn lẽ đương nhiên. Họ chỉ được dùng như các chuyên viên, vì họ thuộc làu thủ tục hành chính. Giai cấp họ, được nhà văn nói đến qua vai trò Tham Huy và Phán Liễn. Tham Huy làm việc rất siêng năng, cần mẫn, không kêu ca về đời sống kháng chiến kham khổ, cũng như công tác nặng nề. Nhưng một buổi Tây càn quét một vùng gần đấy, mọi người không thấy Tham Huy nữa, thì ra hắn đã chuồn theo Tây về Nha Trang. Còn Phán Liễn làm phán sự tòa Sứ Sông Cầu từ năm 1935. Hắn có tật hay la lối. Làm việc với Cách mạng mà động một chút nhắc tới "hồi xưa… hồi còn tụi Tây… mấy năm trước… hồi trước". Những câu nói này, chỉ được phát biểu sau khi thấy Cách mạng đối xử dễ dãi. Tuy nhớ tiếc hồi xưa như vậy, mà hắn không chuồn theo Tây, có lẽ vì chưa gặp dịp, hoặc thiếu khôn ngoan như Tham Huy. Khi nghe tin Tham Huy về thành, hắn nói như kể công: Đấy, bây giờ mới biết, ai ngay, ai gian!
Vì tình hình chiến sự, một số cơ quan thuộc miền Nam phải điều động ra Trung. Sự hiện diện của các cán bộ miền Nam được nhà văn viết ra nhằm mục đích nói lên sự hòa đồng nếp sống. Có những gia đình thôn quê, không muốn cho cơ quan đóng ở nhà mình, làm phiền, mất tự do, phần nữa, sợ do thám địch biết, báo máy bay bắn phá thì cơ nghiệp ra tro. Đi theo đoàn cán bộ miền Nam, có Tịch (nhân vật trong Hoa bươm bướm).
Kháng chiến càng kéo dài, đời sống càng kham khổ. Ruộng vườn bỏ hoang không ai cày cấy. Buôn bán không được. Tiền nong khó kiếm nên người dân phải tiết kiệm phòng thân. Hình ảnh đó được nhà văn khoác lên vai Hương Năm Dỏn, người nông dân suốt ngày ở trần, hà tiện áo. Chả cứ gì Hương Năm Dỏn, còn nhiều vùng vì quá thiếu thốn cũng phải hà tiện vậy. Thằng Tang con Năm Dỏn, tuy nhà chưa đến nỗi nghèo, nhưng phong trào khỏa thân lan rộng nó cũng làm theo:
… Một buổi trưa ở nhà mãi đùa nghịch với lũ bạn, trống trường đánh lúc nào không hay. Khi chị giục đi học, cu cậu lật đật chạy vào ôm sách phóng xuống trường. Đường xuống trường bình yên. Vào lớp ngồi, cu cậu gật gù nghĩ đến cuộc chơi lý thú vừa qua, miệng tủm tỉm cười. Chợt có ngọn gió mát từ cửa hông lọt qua, luồn xuống bàn chân trống mát mẻ. Tiếp theo, những ngọn gió mát nữa. Mát quá! Nhưng hình như mát có… hơi nhiều. Cu cậu cảm thấy có cái gì khang khác. Cu cậu nhìn xuống: "Chết cha".
Cu cậu vội phóng nhanh ra cửa, chạy ù một mạch về nhà để… mặc quần…
(Như cánh chim bay, trang 202-203)
Đoạn văn dí dỏm trên cho độc giả nhìn thấy, hoặc hồi tưởng quãng thời gian đã trôi mất vào quá khứ nhưng thực ra, nó vẫn có đó, còn đó, ở nhiều nơi, ngay hôm nay, với cuộc chiến khốc liệt hơn, tàn bạo hơn mà nông thôn đang gánh chịu. Vì quá thiếu thốn nhu cầu, người ta bắt thèm đủ thứ từ cục đường, chiếc kẹo. Nói ra, nghe có vẻ tầm thường nhưng thực tế, nó làm khổ con người không ít.
Đoàn cán bộ miền Nam đóng đô ở nhà Hương Năm Dỏn. Ông ta thích thằng Tịch lắm, muốn nó làm rể ông. Nhưng con Lé xấu quá, thằng Tịch chê. Con Lé lại bắt tình với anh cán bộ nào đó, viết quốc ngữ chưa thông. Trong thư tống tình lại thòng thêm: "Tái bút. À, nhớ đem theo cho anh mượn một trăm hai rồi bữa nào anh sẽ trả lại". Một bữa, Hương Năm Dỏn vớ được lá thư trong túi áo con Lé, ông tưởng thư của thằng Tịch gửi nó, ông mừng rơn. Lúc tra hỏi, biết không phải, ông đánh con Lé một trận gần chết.
Luân vẫn hoạt động theo nhịp đi của kháng chiến. Công tác cứ thăng tiến điều hòa, nhưng cơ sở phải di chuyển luôn để bảo mật. Có lẽ, do sự sắp xếp của định mệnh (?) Ty Bình dân Học vụ lại đóng ở nhà Phượng. Huỳnh Bộ, chồng Phượng không ưa gì kháng chiến, vạn bất đắc dĩ mới phải để cho cơ quan mượn nhà, nhưng hắn luôn luôn tìm cớ la lối về những chuyện lặt vặt với dụng ý làm mọi người chán mà dời đi nơi khác. Phượng quen biết với Luân từ lâu, một cô gái thông minh lấy được chồng giàu nhưng ngu đần nên nàng khổ. Nàng chưa biết Luân đã lấy vợ. Phượng muốn bỏ chồng theo Luân. Thấy không thể dối Phượng mãi được, Luân đã nói cho nàng biết sự thực:
… Nước mắt Phượng chảy thành dòng trên hai má, nàng cung cánh tay lên lau:
"Phải như anh chưa cưới vợ… Ừ, phải như anh chưa cưới vợ thì em sẵn sàng đạp bỏ hết, đạp bỏ những ruộng, những vườn, những lúa má đường đậu, những bó giấy bạc. Em yêu anh âm thầm trong những ngày anh lui tới chơi với ba em. Em không dám nói. Em đinh ninh là anh đã hứa hẹn với ai rồi, khi anh còn học ở Hà Nội. Em yêu trong tuyệt vọng. Em đâu có ngờ, người vợ của anh là người anh gặp sau em". Phượng cầm bàn tay Luân:
"Anh còn nhớ, bàn tay này đã một lần săn sóc cho em không?"
Luân nhìn nàng không nói:
"Chắc anh quên…"
(Như cánh chim bay, trang 271-272)
Quá khứ, lúc nào có dịp là Võ Hồng lại đưa hồn mình vào quá khứ. Từng hình ảnh, từng kỷ niệm như nằm chết giả trong tiềm thức chờ dịp thuận tiện lại vùng dậy hành hạ nhà văn. Quá khứ làm cho mỗi người không mất đời sống và thời gian dù có bay đi, cũng chỉ để tạo thành kỷ niệm. Kỷ niệm bao giờ cũng đẹp, dù đau đớn, tan vỡ! …
Vốn con người chân thực, Luân không muốn tự mình gây nên rắc rối tình cảm nên chàng tìm mọi cách tránh né Phượng. Quỳ đã mang thai, nàng được Nữ và các cán bộ phụ nữ Huyện quý mến. Nhưng làm sao nàng quên được dĩ vãng, mỗi khi nàng cùng Nữ ra ngồi ở bờ sông nhìn trời nước, tìm về quá khứ:
… Buổi chiều trên sông thật buồn. Những ngọn núi, những bờ sậy, bờ tre in ngược bóng xuống mặt sông im lặng. Tiếng một con cá quẫy, những tiếng mơ hồ nào chợt dấy lên, chợt im đi ở từ bên kia bãi đưa sang, cách trở, xa xôi như một cõi nào khác. Một cánh chim đêm bay vụt qua, nhẹ nhàng rồi trong một thoáng, lẩn mất vào màn tối sẫm của doi núi Hà Bằng…
(Như cánh chim bay, trang 295)
Lời văn thật nhẹ, thật thấm. Nó là thiên nhiên với sự chuyển động của vạn vật. Nó là tiếng lòng Quỳ đang trải rộng trong nhớ thương mịt mù. Nó là nỗi cô đơn xa vắng của tương lai mất hút. Nó là sự thật, buồn vui có đấy. Dù nó là gì nữa, Quỳ vẫn cứ mãi mãi là nàng, đang bị cuộc chiến đẩy đưa theo định mệnh.
Luân đã quyết tâm rời trụ sở khỏi nhà Phượng sau chuyến đi công tác tại Xuân Phước, có Phượng đi cùng. Luân nghĩ, phải thoát ra cái lưới giăng quanh mình. Mình là con chim đang đậu ngang tầm tay của Phượng. Nàng muốn chụp bắt. Quyết định dời trụ sở được thi hành. Luân đi công tác để tránh gặp Phượng. Hôm dọn trụ sở, Phượng như điên dại, nàng lục trong ba-lô của Luân, thấy một tấm ảnh. Phượng nhìn thật lâu rồi bỏ trả, hai tay ôm mặt khóc. Thật không may cho Luân, Ty vừa dời sang chỗ mới được hai ngày thì bị máy bay oanh kích. Một nhân viên bị thương. Hồ sơ thất tán. Một cuộc kiểm thảo được tổ chức. Theo quyết định, Luân bị giải nhiệm chức vụ Trưởng Ty, chờ giữ nhiệm vụ khác bên Trung học. Đứa con gái đầu lòng ra đời như một an ủi. Luân và Quỳ vẫn sống trong hạnh phúc, thứ hạnh phúc tương đối trong cuộc chiến đang tiếp diễn đó đây.
Một buổi, Tịnh đưa Thức đến thăm Quỳ:
… Quỳ thật bối rối về sự hiện diện đột ngột của Thức. Nàng vụt nhiên lẫn lộn những việc quá khứ và hiện tại. Như những lớp thủy tra đang nằm ngủ yên lành thứ tự chợt những chuyển động tạo sơn dữ dội gây thành nếp gấp, lớp này trượt lên lớp kia, xáo trộn vị trí. Thức nhắc nhở quá khứ. Thức là quá khứ, một quá khứ dồn dập biết bao nhiêu là biến cố. Lùi xa về trước qua khỏi một cái mốc nào đó… Ừ, cái mốc giới hạn bởi một sự hiện diện cũng của Thức một ngày tương đối thanh bình ở Đà Lạt nơi căn phòng khách nhà Nội, có một lọ hoa cúc trắng thật lớn, có anh Cẩn – anh Cẩn là tượng trưng cho những biến cố bắt đầu …
(Như cánh chim bay, trang 374)
Cái gì đến sẽ đến. Tịch và Thức đã vô Nam, tức là trở về quê hương của Quỳ mà tự thâm tâm, nàng vẫn mơ ước quay về nó. Nhưng lúc này, nàng như cánh chim bay, bay xa mãi qua bao nhiêu trùng lớp núi non không biết ngày nào mới trở về tổ cũ. Để an ủi Quỳ, Luân cho rằng trước sau gì, không phải hai ba cánh, mà bốn năm cánh chim, cũng sẽ lũ lượt bay về tổ cũ, cành xưa!…
Tác phẩm Như cánh chim bay mới chỉ nói đến một phần của kháng chiến cả sự việc lẫn không gian, thời gian. Biết bao nhiêu khuôn mặt đã mất đi vĩnh viễn trong quên lãng. Biết bao nhiêu số phận bị dập vùi, bao nhiêu oan uổng, bao nhiêu buồn vui trong 9 năm khói lửa, để Việt Nam chia đôi huyết lệ? Gần 20 năm rồi đó. Gần 20 năm với cuộc chiến vẫn kéo dài, còn bao nhiêu khuôn mặt nữa đang mất hay sắp mất? Và khuôn mặt của Chung trong tác phẩm, thời nào cũng có. Họ chỉ nghĩ đến quyền lợi riêng mình với những tính toán ti tiện, còn tìm đủ mọi lý lẽ để bào chữa. Cũng như Luân và Quỳ tượng trưng cho đông đảo nhân dân có mặt trong kháng chiến, không phải do chủ nghĩa, mà chính thực, bị cuốn theo chiều gió! …
Như cánh chim bay, tác phẩm có giá trị chẳng phải vì văn chương, mà chính do những dữ kiện được đề cập tới, nó là một phần nhỏ lịch sử oai hùng của dân tộc mà Võ Hồng đã sống, đã biết. Chỉ tiếc, ở vài chỗ tác giả đã dùng "ngôn ngữ hôm nay" để cho các nhân vật thuộc 25 năm qua nói, nên nó mất đi cái nguyên thể của thời gian, không gian cũ.
Võ Hồng, có lẽ, chỉ sống bằng kỷ niệm chất đầy trong tiềm thức, nên có thể xác định, những gì Võ Hồng viết về quá khứ bao giờ cũng cảm động, dễ lôi cuốn người đọc, bởi lẽ đơn giản, nhà văn, hơn một lần, vì nó mà gian truân, khổ đau hành hạ con người và quê hương Việt Nam một phần tư thế kỷ rồi đó. Nó như nỗi ám ảnh đến chết không rời trong mỗi ý thức mến yêu tổ quốc.
Muốn hiểu Võ Hồng, không gì hơn là nghe nhà văn tâm sự với Trần Thiện Đạo, trong lá thư đề ngày 5.4.1967:
… Tôi tự nói là chiến tranh làm khổ tôi, thì tôi phải lợi dụng lại chiến tranh, ghi những điều mà chỉ kẻ nạn nhân mới biết được…
Sống ở ngoài đời cũng như khi viết, tôi vẫn thường giữ cốt cách vô tư, yêu cái đẹp tự nó mà không lý luận, để cho lòng mình thật rung động, rồi tìm chữ mà diễn tả…
Với 12 tác phẩm ngắn dài, Võ Hồng đã diễn tả đời mình và tình yêu dù có cho nhau cay đắng hay ngọt bùi, lúc nào Võ Hồng cũng tha thiết, cũng say mê, như say mệ một sắc đẹp được hình dung qua dự tưởng miên man giữa hai miền: Thực, Mộng. Trích văn Võ Hồng
… Giặc Pháp đổ bộ càn quét một trận lên xã An Chấn. Dân chúng chưa quen chuẩn bị, hơ hải bạ gì cũng chèn chặt vào quang gánh thành ra một số lúng túng chạy không kịp. Một số chạy kịp thì khi tai qua nạn khỏi, tháo quang gánh ra chỉ thấy toàn những đồ đáng vất đi. Trái lại, những đồ vật quý giá thì bỏ lại, bị giặc thu vét hoặc bị giặc đốt cháy theo ngôi nhà. Đồng bào rút kinh nghiệm, phát triển việc may ba-lô.
Trước 1945, cái ba-lô thỉnh thoảng mới đánh đai một cách trưởng giả trên vai Hướng đạo sinh đi cắm trại. Người ta gọi nó là cái xắc. Sau 1945, nó xuất hiện ở khắp mọi gia đình. Sau vài lần bị giặc càn, mỗi gia đình phát triển đến ba, bốn cái. Ban đầu ba-lô còn may bằng vải kaki, sau thay bằng vải xita, sau đó được may bằng vải ta mỏng. Cũng chẳng ai bảo sao, có điều cần nhớ là khi gùi lên chạy thì hai tay phải đỡ lấy nó, hoặc nếu không thì phải ôm nó kè kè bên hông. Vì nếu không thì mỏng quá nó toạc mất. Sau đó, có người nghĩ đến dùng bao tải, bao bố cũ để may. Được thể, thôi thì gặp vải gì cũng may được. Còn kiểu thì tự do. Từ cái xắc rập kiểu Âu châu, sang đến Việt Nam nó tha hồ thêm túi, bớt túi, bỏ nắp, thay đai, to bề ngang, cao bề đứng, lớn thì bằng cái bồ con, nhỏ thì bằng cái gối. Và nó ngang nhiên thay cái va-li kiểu cách, lạc hậu, thay đôi nừng, đôi thúng kềnh càng nặng nề. Mỗi người một ba-lô, trẻ con tuổi nào thì may cho cái ba-lô cỡ ấy, tất cả gia tài tống kỹ vào ba-lô lên vai, chân lên đường. Còn đến đâu thì cán bộ xã sẽ cho biết.
Ở các nước khác, ba-lô đi với khăn quàng, mũ kaki, can, tất cao cổ, giày đinh. Ở Việt Nam, bạn đồng hành của nó là ruột nghé. Ruột nghé là một cái túi vải đựng gạo. Thật là tiện lợi: cho gạo đầy ruột nghé, quàng ngang bụng rồi cột gút hai đầu. Cái ruột nghé mắc nghẽn ngang xương bàn tọa. Cái ba-lô sau lưng, cái ruột nghé ngang bụng, thế cứ trước mặt mà đi. Thỉnh thoảng đặt hai cùi chỏ nghỉ trên vòng ruột nghé, y như một cuộc đi ngoạn cảnh!
Cái ruột nghé thật là tiện lợi. Đi đâu mà có nó ngang hông tức như là dõng dạc bảo chủ nhà rằng:
"Bạn ơi, tôi có đủ cơm ăn cho tôi rồi. Bạn đừng lo. Tôi không làm phiền bạn đâu. Hột gạo lúc này quý lắm, tôi biết rõ". Quả thật như vậy, chạy tản cư vào nhà người quen mà có đem theo ruột nghé gạo thì ta mạnh ghé vào lắm vì ta chắc chắn là người quen của ta họ sẽ mạnh bạo đón tiếp ta. Cuộc chiến tranh càng kéo dài thì hột gạo càng quý. Lý do vì công việc đồng áng bị công tác kháng chiến làm trở ngại một phần. Một phần nữa là vì bom đạn mà mương đập bị phá, nhiều đồng lúa bị bỏ hoang. Khi lúa gạo dư đủ, được khách đến chơi nhà là một cái thú, đôi khi là một vinh dự, nhưng khi gạo phải tính từng ký, từng lon thì dù có hiếu khách đến đâu người ta cũng bị bắt buộc phải tính từng bữa ăn. Thế thì không còn cử chỉ nào đẹp bằng khi đi đến đâu mà cần tới nhà quen ở lại đôi ba ngày thì cứ thành thật tháo ruột nghé đong mỗi bữa sét lon gạo gởi ngay bà chủ nhà. Chạy tản cư không biết rõ con đường phiêu lưu dài ngắn thế nào thì cái ruột nghé gạo là món bảo đảm tối thiểu.
Quỳ sắp lại ba-lô của mình, loại bỏ những món không cần thiết và sắp xếp các món đem theo, theo thứ tự ưu tiên. Nếu lâm vào trường hợp mà cái ba-lô coi như quá nặng, quá cồng kềnh thì nàng sẽ bỏ lại hết mà chỉ rút mang theo một cái xắc. Trong cái xắc đó lại có một cái túi nhỏ đựng những vật quý giá như nữ trang, vàng, tiền, giấy tờ hộ tịch để phòng khi phải chọn lựa đem theo rất ít thì nàng cũng đã sẵn sàng.
Khi moi túi ba-lô ra, nàng suýt bật cười vì gói Zênxaquine bật tung trước mặt. Những viên tròn lăn chạy trên mặt bàn như bánh xe. Đó là thuốc nội hóa dùng trị sốt rét do Ty Y tế bào chế. Từ khi kháng chiến bắt đầu, Trung ương đã đề ra khẩu hiệu: "Trường kỳ kháng chiến nhất định thắng lợi" nên khuyến cáo các ngành sinh hoạt hãy đặt nặng vấn đề tự túc, cố gắng thay những món ngoại hóa nhập cảng bằng hàng nội hóa: giấy nội hóa, lụa nội hóa, bông gòn thấm nước nội hóa. Bác sĩ Quốc, Trưởng Ty Y tế được báo cáo ở miệt Phong Thăng, Phong Thái đồng bào hay lột vỏ cây dền nấu nước uống trị sốt rét liền thi đua với các ngành xin kinh phí mua về hàng trăm ký vỏ dền. Vỏ đó đem giã nát, rây nhỏ rồi cho vào khuôn in ra thành từng viên to bằng viên Aspirine và dày gấp đôi. Uống mỗi lần năm viên, thứ bột cây này hay nằm lì bám chặt ở nơi yết hầu làm rát mặt da và phải chiêu đến vài ly nước mới tống nổi chúng xuống dạ dày. Thuốc phát không cho cán bộ và đồng bào nên sức tiêu thụ rất mạnh. Có điều uống vào dường như chẳng có công hiệu gì cả nên sau chừng ba tháng phổ biến, đến kỳ thuốc chót chẳng ai thèm xin và đem cho cũng chẳng ai thèm nhận nữa. Quỳ không hiểu đã đặt tên cho loại thuốc đó "Zên" là dền, điều đó dễ hiểu, nhưng sao không gọi là Zénaquine cho tiện mà gọi là Zênxaquine trẹo họng rắc rối? Đối với cán bộ không biết chữ Pháp thì tên của món thuốc được nỉ non là Dền-xa-kin, nỉ non như tên một bản nhạc, một bài thơ, một lời than tuyệt vọng kiểu Hoàng xa Tâm, Anh xa em.
Ủy ban kháng chiến hành chính Tỉnh và các Ty dọn về An Định. Thường cứ cách bốn, năm tháng, lâu nhất là chín, mười tháng, cơ quan phải dời chỗ để phòng ngừa gián điệp địch đã dò biết được vị trí và báo cáo về đến tận bộ chỉ huy địch. Thường có trường hợp cơ quan vừa dời đi một ngày là hôm sau máy bay địch nhào xuống đến bốn năm chiếc bắn phá tan tành ngôi nhà. Dân chúng chuyền tai nhau không biết bao nhiêu là tin tức liên quan đến việc đó, nào là gián điệp gởi tin về Nha Trang bị chậm, nào là nhờ Công an bên ta chận bắt được gián điệp. Đồng bào đồn rằng cơ quan không phải đột nhiên mà dời trụ sở mà thường là sau khi bắt được tin tức cho biết tình báo địch đã tìm ra vị trí trụ sở của mình. Thành ra mỗi khi cơ quan dời đi là chủ nhà cũng lo kiếm chỗ bà con tị nạn vài ngày.
Phán Liễn gùi ba-lô lếch thếch dẫn đi đầu, chân cẳng mỏi rã, chửi thề luôn miệng. Vấp hòn đá cũng chửi, bị cành tre quất vào mặt cũng chửi. Tham Huy đi kề sau, cười hì hì:
"Chửi chi cho uổng hơi? Để dành sức mà đi".
Tá, Nghị, Chất, Sang, những nhân viên trẻ tuổi nói chuyện luôn miệng rì rầm suốt cả chặng đường.
"Đi ra An Định nghe nói có sông phải không tụi mày?" – Nghị hỏi. "Tao chịu thua xứ Phú Lộc rồi. Ba ngày mới tắm một lần".
"Ai như mi làm biếng? Chịu khó xách nước mà tắm chớ ai hầu hạ mi?"
"Giếng sâu cả mười thước, ngó xuống hun hút như đường đi Âm phủ".
Sang gọi:
"Tá ơi! Sao nãy giờ cứ câm miệng như hến vậy mày? Nhớ "em" hả? Tao biết nội đây chỉ có mày là muốn ở lại Phú Lộc hơn hết. Chắc giờ này "em" cũng đang ngồi nhớ mày vừa ngâm ca dao kháng chiến:
Thương chi cho uổng tấm tình
Nẫu về quê nẫu, bỏ mình bơ vơ.
Ba người tùy phái gánh ba đôi nừng cao trong đựng hồ sơ, máy đánh chữ và bút chì văn phòng. Sức nặng làm còng lưng họ và họ im lặng chạy những bước ngắn, không nói một lời. Tiếng Phán Liễn oang oang ở đằng trước:
"Nghe nói ở An Định con gái đẹp lắm… Để…"
Câu nói ngắt ngang đó và người ta thấy Phán Liễn đứng dừng lại, ngồi chổm xuống đất, né một bên nhường đường cho người sau đi tới.
"Sao đó? Tụt quai dép rồi hả?"
"Chớ còn gì nữa? Từ sáng đến giờ cứ thấy lùa kéo quai dép hoài".
"Giày dép như rứa, ném cha hắn xuống ruộng cho rồi".
Phán Liễn không nói, mò túi ba-lô lấy ra dụng cụ xỏ dây dép của mình, hì hục sửa lại. Đôi dép lốp cao-su bị mòn còn mỏng lét, lỗ xỏ dây lại quá rộng nên dây cứ tụt hoài. Phán Liễn biết cố tật của dép nên đi đâu cũng mang theo cái dụng cụ xỏ dây dép gồm một miếng thiếc mỏng, dài, bề ngang một phân và xếp làm đôi. Không có tiền để mua dép mới. Chín đứa con và một bà vợ tiểu thơ năng đau yếu.
…Sau khi sửa xong dây dép, Phán Liễn đứng dậy lúp xúp chạy theo, chạy kịp người chót rồi lại len lỏi muốn chạy lên đầu hàng. "Coi chừng đó! Coi chừng sút dây dép nữa đó!"
Phán Liễn không trả lời. Tham Huy vẫn giọng lửng lơ:
"Thằng cha ni già rồi mà nhát gan dữ. Sợ ma lắm sao mà không dám đi sau?"
"Ma gì? Có "ma phăm" thì đây mới sợ".
"Rứa sao lại cứ đòi vọt lên trước? Đi tản tản ra để nhỡ có máy bay thì lủi vào ruộng mía. Chứ đi cái kiểu chi mà kéo dài cả đoàn hàng mười lăm hai mươi thước thế này? Có máy bay thì nhất định cả Ủy ban dọn lên Thiên Đàng hết".
"Sợ gì? Bộ đội người ta hành quân đi cả đoàn dài, người ta còn không sợ. Hễ nghe tiếng máy bay gần quá chạy không kịp thì cứ ngồi im xuống đất, không nhúc nhích. Máy bay nó tưởng lầm là một bờ đê, một dãy bụi bờ".
"Nói nghe có giọng huấn luyện viên dữ. Người ta đồng phục màu xám, màu tím than thì máy bay nó mới lầm, đằng này áo trắng, quần xanh, áo xanh, quần xám, lộn xộn lạo xạo lại hai cái nón trắng hếu của thằng Tá và anh tùy phái".
Cả bọn giật mình la lối:
"Quỷ ơi! Sao hai con quỷ không lấy cây ngụy trang? Vậy mà từ xế tới giờ không ai để ý".
Tùy phái nhe răng cười trừ.
"Chiều rồi mà, mấy thầy. Tàu bay đâu có lối giờ này?…"
(Trích Những cánh chim bay, từ trang 173-183)
Gửi
Trong suốt thời gian làm việc để thực hiện cuốn sách, kẻ viết như bị ám ảnh bởi những vui buồn không phân định. Vui vì mỗi tác phẩm mở ra trước mắt một khung trời riêng biệt, lại trình bày một cảnh trí thật linh động lôi cuốn kẻ viết vào cơn mê kỳ thú.
Những người làm văn nghệ hôm nay – nhất là những người trẻ tuổi – nhờ hoàn cảnh, họ đã có được môi trường thuận lợi và nhiều cơ hội có thể phát triển tài năng qua nghệ thuật. Đời sống nghệ thuật bây giờ không thu nhỏ trong chu vi hạn hẹp của một vài nhóm, tóm trọn uy quyền sinh sát trong tay như thời tiền chiến. Nói đến văn nghệ tiền chiến là nói đến cái gì ghê gớm, cao siêu, cách biệt, là nói đến thứ văn nghệ đóng kín, đầy mặc cảm tự tôn của nhóm Tự Lực Văn Đoàn, Tiểu Thuyết Thứ Bảy, Trung Bắc Chủ Nhật, v.v. Những người làm văn nghệ trẻ lúc ấy, không dễ gì lọt qua được cửa ải của một trong mấy nhóm đó. Họ tự cao, tự đại không muốn ai tham dự vào sinh hoạt ngôn ngữ của họ, trừ một vài người có tài năng thật đặc biệt và cũng phải giao du rộng, họa may! Cái "văn phiệt" ấy, mừng thay, nó không hiện diện ở vùng trời nghệ thuật hôm nay, thảng hoặc nếu có, nó cũng không dám hoạt động công khai.
Sự thực, các nhóm văn nghệ nói trên, đứng từ cái nhìn hôm nay để nhận định, cũng chẳng có gì ghê gớm, vĩ đại, mà sao thời đó nó khiếp đảm đến thế? Mỗi bài văn, mỗi dòng chữ của họ có ảnh hưởng sâu đậm, làm độc giả thời ấy mê cảm đến kính phục. Nhưng, thời gian đã đẩy lui họ vào dĩ vãng. Họ đã làm xong nhiệm vụ đối với lịch sử văn học nghệ thuật Việt Nam. Có người còn sống, có người đã khuất bóng. Có người để lại danh thơm, có người chìm vào hư không vĩnh viễn! …
Sở dĩ kẻ viết phải nói đến, khơi động lại dòng thời gian chìm khuất vì trong lòng có mối thương xót riêng tư. Mối thương xót đó, từ mấy chục năm rồi, làm kẻ viết đau đớn vô cùng, lại càng đau đớn hơn, từ khi nuôi ý định về mười khuôn mặt văn nghệ hôm nay. Nguyên kẻ viết có người anh ruột, vì say mê văn nghệ mà chết cô đơn lạnh lẽo trong vòng đai đồn điền cao-su Lộc Ninh cách đây gần ba mươi năm. Khi mất anh mới 29 tuổi, còn trẻ hơn cả người ít tuổi nhất, viết trong cuốn sách này. Anh tên Thức, con thứ ba trong gia đình có tám anh em (7 trai, 1 gái). Kẻ viết đứng thứ sáu. Anh Thức trông đẹp trai và thật dễ thương. Anh rất thông minh, ưa mơ mộng. Anh đi vào nghiệp viết văn, làm thơ từ năm 18 tuổi. Kẻ viết lúc ấy còn nhỏ, nên không đủ khả năng tìm hiểu sâu xa về văn nghệ nhưng rất thích hai bài văn: Trịnh chúa Lê nương và Đông về thu cúc rụng viết theo đề tài dã sử do anh sáng tác, đăng tải trong tờ tuần báo Tiểu thuyết thứ bảy (vào năm 1938 hay 1939 gì đó), dưới bút hiệu: Bảo Cầm.
Chẳng biết vì lý do nào, sau đó ít lâu, đương đi làm cho một hãng buôn Pháp với lương tháng 30 đồng (bây giờ vào khoảng 40 ngàn), anh xin thôi việc, để dấn thân hẳn vào cuộc đời văn nghệ mà không cho gia đình biết trước. Bố mẹ thật buồn phiền, nhưng đã lỡ đành chịu.
Từ đó, ngày ngày anh đọc sách và viết. Anh dịch thơ của Vitor Hugo, Lamartine và tập Les Nuits của Alfred de Musset cùng nhiều tập truyện của Guy de Maupassant, Alphonse Daudet và Pierre Loti nữa. Chữ anh tốt và bay bướm. Bản thảo anh viết cũng cầu kỳ, cẩn thận, trang nào trông cũng sạch sẽ, không tẩy xóa lem nhem.
Trong gia đình, anh thương mến kẻ viết nhất, vì cho rằng kẻ viết có "tâm hồn". Mỗi khi sáng tác hoặc dịch xong bài nào vừa ý, anh thường đưa cho xem. Lúc ấy, kẻ viết chỉ biết phục tài anh qua những câu văn hoa mỹ. Ban ngày, anh viết liên miên, nhưng sau bữa cơm chiều, anh đóng bộ thật đẹp đi chơi tới khuya, có khi suốt sáng mới về.
Có nhiều sáng, kẻ viết nhìn da mặt anh tái mét, nhợt nhạt, chợt la lên. Anh vội ra dấu bảo im, rồi vào buồng riêng đóng chặt cửa, đánh phấn bôi môi để lấy lại sắc diện hồng hào. Bố mẹ la rầy hoài về chuyện đi đêm, nhưng anh không làm sao bỏ được tật đó. Mẹ không như bố, tuy mắng mà vẫn dấm dúi tiền cho anh tiêu. Dù đi chơi đêm, anh vẫn viết đều gửi các báo. Nhưng bài gửi thì nhiều mà chẳng thấy đăng mấy, trừ vài tờ hàng ngày, cho đăng vào trang ba. Lâu dần, nản chí, anh đi lu bù cả mấy ngày mới trở về nhà. Quần áo lúc đi thẳng nếp, trông tươm tất, khi về, nhăn nhúm tang thương, cổ áo sơ-mi vàng khè dơ dáy. Mẹ phải cho tiền đưa tiệm giặt, ủi lại cho ngay ngắn, dễ coi.
Thời gian qua đi, hết mùa lạnh sang mùa nóng. Một bữa, kẻ viết nhìn thấy anh gói bộ đồ dạ mà mẹ mới cho tiền may hồi Tết. Vô tình, kẻ viết hỏi: "Anh mang đi đâu?" Anh bảo: "Mang đi hấp". Tuy thắc mắc vì bộ đồ còn mới nguyên nhưng cũng đành tin như vậy.
Dạo sau anh ít viết. Đêm đi, ngày ngủ, trông anh phờ phạc hẳn. Mẹ chửi mắng chán rồi ôm mặt khóc, bố giận không thèm nói tới.
Một buổi mẹ bảo: "Con thử theo anh, xem nó đi những đâu mà tối nào cũng đi vậy? Mẹ nhìn sắc mặt nó độ này xấu quá!" Nghe lời mẹ, tối đó, kẻ viết lẽo đẽo theo anh, giữ khoảng cách độ 50 thước. Anh vô tình cứ đi không quay đầu nhìn lại. Anh đi mãi lên phố hàng Quạt, rồi dừng bước trước căn nhà lụp xụp, đẩy cửa bước vào. Ánh đèn mờ nhạt từ bên trong hắt dài bóng anh xuống vỉa hè một thoáng. Cánh cửa khép nhanh, nhưng không kín, để lộ một đường ánh sáng nhỏ chảy dài từ trên xuống dưới. Kẻ viết lướt nhanh đến, ghé mắt nhòm qua khe cửa. Trong nhà vắng hoe. Ở góc chiếc cầu thang gỗ nhỏ, một đứa bé đang cắm cúi học bài. Mùi nha phiến thoang thoảng đâu đây. Đứng một lúc lâu, kẻ viết hiểu sự tình gì đã đến với anh. Nhưng vì tò mò, kẻ viết se sẽ đẩy cửa lách vào. Đứa bé không ngẩng đầu lên. Kẻ viết bước nhẹ lên cầu thang. Hương nha phiến tỏa ngào ngạt. Căn gác thấp và tối om. Cái cửa độc nhất vào buồng lại đóng kín. Kẻ viết cố tìm khe hở để nhòm nhưng không thấy. Giữa lúc đó, có tiếng giày nặng nề bước lên. Kẻ viết vội nép người sát vào tường. Hai gã trai trẻ khệnh khạng nhô dần lên, toát nồng hơi rượu. Gã đi trước cho tay xoay núm cửa: "A, thằng Thức đây rồi!" Kẻ viết tự nhiên thấy tim mình như có sợi dây thắt lại. Họ xăm xăm bước vào. Kẻ viết ngó mắt nhòm theo, thấy anh mình đang nằm nghiêng, mắt nhắm lại, mồm ngậm chặt chiếc dọc tẩu kéo ro ro. Dưới ánh sáng lờ mờ, mấy thân người nằm bất động chung quanh vài ngọn đèn dầu lạc.
Về đến nhà mẹ hỏi: "Sao con?" Kẻ viết không dám cho mẹ biết sự thật, đành nói dối: "Con thấy anh đi ci-nê". Mẹ bảo: "Ci-nê gì mà suốt đêm?" Kẻ viết nói loanh quanh để mẹ yên lòng vì lúc ấy, mặt mẹ đã long lanh giọt lệ, tóc mẹ đã ngả màu dưới ánh đèn.
Những tối kế tiếp anh vẫn đi. Trong nhà có thứ gì quý, tự nhiên biến dần. Do đó, mẹ càng nghi ngờ, nhưng không bảo kẻ viết theo nữa, cho người khác đi rình. Lần này, gia đình biết rõ sự thực. Bố chửi, mẹ khóc, anh em đều buồn, nhà như có đám tang. Trước anh còn chối, sau nghe mẹ nói đúng quá, anh đành nhận có hút vì vui với anh em. Cả nhà xúm vào dỗ dành khuyên nhủ, anh hứa chừa. Mẹ nói, cần bao nhiêu tiền uống thuốc cai mẹ cho. Mẹ mua của ngon vật lạ cho mình anh ăn thôi. Lúc này anh làm thơ giải sầu. Những vần thơ lục bát nghe buồn đứt ruột. Ở nhà uống thuốc độ nửa tháng, trong anh béo tốt hẳn ra. Ai cũng mừng, nhất là mẹ. Một tối, anh rủ kẻ viết đi ci-nê, vì đi một mình mẹ không cho, sợ hút lại. Hai anh em lững thững lên rạp Olympia ở chợ Hàng Da xem phim "Je suis un évadé" do tài tử Henry Fonda đóng. Anh chỉ mua có một vé đưa cho kẻ viết, bảo vào xem một mình để anh đi thăm bạn bè, lâu ngày không gặp. Trong lòng kẻ viết thật bối rối, toan trả vé đi theo anh, sợ có gì mẹ lại khóc, khổ lắm! Nhưng khi nhìn thấy nét mặt anh, bỗng thương hại. Anh nói: "Tan ci-nê cứ chờ đây, anh đón cùng về".
Buổi tối đó, trong khi kẻ viết đang mê mải với tài diễn xuất của Henry Fonda, anh đi hút lại. Rồi những hôm sau, anh tìm cớ ra phố mỗi ngày. Năm ấy, anh mới 24 tuổi. Bố mẹ thấy không xong, bèn mắng nhiếc đuổi khỏi nhà. Việc này chỉ nhằm dọa cho anh sợ để bỏ hút, nhưng hình như định mệnh đã bắt anh phải gian truân, làm sao anh cưỡng chống?
Kẻ viết nhớ như in trong đầu, tối đó trời mưa lạnh, anh lí nhí chào bố mẹ rồi xách chiếc va-li cũ mèm lầm lũi ra đi. Kẻ viết lên lầu đứng trên ban-công nhìn theo anh, tới đầu phố anh rẽ ngang, mất hút. Hai dòng lệ lăn tròn trên má tự lúc nào!
Rồi một buổi chiều chạng vạng, kẻ viết đang đứng trên lầu ngó trời buồn, trước khuôn cửa, bỗng nhìn thấy anh đứng nép dưới mái hiên một căn nhà phía bên kia đường giơ tay vẫy. Kẻ viết vội xuống lầu, đi nhanh đến phía anh, nhìn sững sờ. Mới xa gia đình có gần một tháng mà sao anh xơ xác quá vậy? Khuôn mặt anh gầy rộc hẳn đi, râu anh tốt, lâu không cạo, mọc tua tủa như râu Lý Thiết Quài. Kẻ viết ôm chặt lấy anh, khóc ngất. Anh cũng khóc. Toàn thân anh hôi hám, vì quần áo lâu không giặt quyện vào mùi dầu lạc và khói thuốc phiện làm buồn nôn. Sau cơn xúc động, kẻ viết hỏi: "Bây giờ anh ở đâu, làm gì để sống?" Mắt anh đục ngầu bờn bợt, vẻ tinh anh hôm nào không còn nữa. Anh nói thì thào" "Mấy bữa nữa, vào Sài Gòn làm báo!" "Anh quen ai trong đó? Thôi về nhà, từ hôm anh đi, mẹ khóc hoài, khổ lắm!" Anh lắc đầu: "Không, anh không về nhà nữa!" Nói xong, anh cúi xuống nhìn màu đất xám ngoét dưới chân. Kẻ viết thấy anh mặc bộ đồ cũ, hỏi: "Bộ đồ mới may hồi Tết đâu, sao anh không mặc lại mang bộ này trông nhơm nhếch quá!" Anh nói: "Bộ đó đã đem cầm ở nhà Vạn Bảo rồi, chưa có tiền chuộc!" Kẻ viết muốn hỏi anh nhiều, nhiều nữa rằng, vì sao anh nghiện? Tại sao anh đang làm sung sướng thế, lại xin thôi? Tại sao anh làm khổ cả gia đình, để mẹ khóc suốt ngày? Tại sao anh lấy đồ quý đi bán làm bố rầy mẹ la? Thuốc phiện có gì mà nó hành hạ anh khốn khổ thế này?… Nhưng những câu hỏi như đọng ở cuống họng, không sao thốt thành lời. Bỗng anh nắm chặt tay kẻ viết: "Em có tiền không, đưa anh mượn, mai đi chuộc bộ quần áo để mặc vào Sài Gòn làm ăn". Sài Gòn, đối với kẻ viết lúc đó xa lắm, xa tít mù khơi, có lẽ đến chết mình cũng không thể biết cái xứ đó. Kẻ viết chợt nghĩ đến số tiền bỏ ống. Số tiền này do các anh lớn đi làm (trong đó có anh), mỗi tháng cho một, hai đồng để ăn quà, mua sách, còn bỏ ống để dành, khi cần mua sắm những gì mình thích.
Kẻ viết không nói, đi nhanh về nhà, trèo hai bậc thang một, lên lầu, lôi cái ống tre già cất dưới gầm tủ. Tiếng bạc cắc chạm nhau rổn rảng trong ống tre. Kẻ viết không nhớ rõ bao nhiêu, nhưng thấy cũng hơi nằng nặng. Lúc xuống gần hết cầu thang, gặp mẹ. Mẹ hỏi: "Mày đi đâu mà chạy sầm sầm như bị ma đuổi thế này?" Kẻ viết dừng lại, đưa nhanh ống tiền ra phía sau lưng, nhìn mẹ cười lảng. Mẹ buồn nên không để ý.
Cầm ống tiền, tay anh hơi run, nói khẽ: "Mai mốt đi làm, có tiền sẽ trả lại em!" Xong anh vỗ nhẹ vào vai kẻ viết như an ủi, rồi lầm lì bước đi. Kẻ viết có ngờ đâu, đó là lần sau cùng được nhìn anh. Anh vào Sài Gòn thật, nhà nhận được thư gửi ra. Anh không viết gì ngoài việc hỏi thăm và xin lỗi bố mẹ cùng anh em, cuối thư, anh nhờ kẻ viết cất giữ giùm anh mấy tập bản thảo và mấy tờ báo có đăng bài anh viết, khi nào cần sẽ viết thư ra, gửi vào Sài Gòn cho anh. Đọc thư, mẹ lại khóc suốt ngày, lầm bầm oán trách người nào đã rủ rê anh đi vào con đường thuốc sái. Lâu lâu lại nhận được một lá thư, lời lẽ chán nản vì đời sống Sài Gòn cũng khó lắm, nhất là làm báo. Mẹ bảo kẻ viết biên thư trả lời và hỏi, nếu anh bằng lòng, mẹ lấy vé tàu gửi vào để anh trở ra. Mẹ nhấn mạnh gần như van xin con, hãy bỏ thuốc phiện. Thư gửi đi, mãi không thấy anh trả lời. Mấy thư sau, cũng chẳng có hồi âm.
Mẹ đành nhớ thương đứa con tài hoa mà mẹ yêu quý nhất bằng nước mắt, với tiếng thở dài hằng đêm.
Bẵng đi vài năm, gia đình bỗng nhận được tin, do một người bạn cùng làm với anh ở đồn điền cao-su Lộc Ninh báo tin, anh đã mất vì cạy mụt "đinh râu" (Staphyloccie malingne de la face). Nguyên do tính anh hay làm dáng, buổi sáng rửa mặt soi gương thấy cái mụt, tưởng nhầm là trứng cá, cho tay cạy lên. Chỉ mấy tiếng đồng hồ, mặt anh sưng to bằng cái đĩa và sau 48 giờ anh mất, dù đã được các y tá của bệnh xá săn sóc tận tình. Trong thư nói, đám táng đã được anh em cùng sở lo chu đáo, gia đình cứ yên tâm. Người bạn cũng cho biết, anh đã bỏ thuốc phiện gần một năm, và định đến Tết sẽ trở ra Bắc thăm nhà. Sở dĩ, anh lên làm đồn điền, do người bạn Pháp quen từ Hà Nội giới thiệu. Anh đi vào lòng đất, do số mệnh đã đành, nhưng nếu thời ấy có thuốc trụ sinh, chắc ít ân hận hơn.
Mẹ khóc ngất từng cơn, cả nhà khóc. Bàn thờ anh, được thiết lập ở căn buồng nhỏ trên lầu, nơi xưa anh thường ngồi viết. Tấm ảnh được lồng khung kính, treo ngay ngắn trên tường. Chiếc bát hương nhỏ, màu xanh biếc lởm chởm những chân nhang đỏ chói, trông thật buồn! Kẻ viết trang trọng đặt tập bản thảo của anh ngay ngắn trên bàn thờ, trong đó có cả hai số Tiểu thuyết thứ bảy và các tờ nhật báo Đông Pháp, Ngọ báo, v.v.
Mỗi chiều, mẹ đều cúng cơm, nhìn ảnh anh rồi khóc cả giờ chưa dứt!…
Anh Thức,
Hôm nay em ngồi viết những dòng này để kính dâng hương hồn anh, người anh tài hoa vắn số. Anh mất đi như một vô danh. Nhưng cũng nhờ anh, em đã tránh thoát được cám dỗ của Phù Dung Tiên Nữ. Trong suốt dòng sống nghệ thuật, đã bao lần, em ngồi bên cạnh khay đèn với những người bạn làm văn nghệ rất thân từ tuổi hoa niên, nhưng không một lần, em dám kề môi vào chiếc dọc tẩu để tìm hiểu cảm giác!
Em cũng biết, khi bước chân vào văn nghệ, một là anh chưa đủ thứ nhất để tự mình hình thành giá trị, hai là không gặp được hoàn cảnh may mắn, mà số mệnh lại run rủi cho anh đi vào đam mê trước khi tìm đường đến sự nghiệp. Những người làm văn nghệ trẻ bây giờ, không phải họ đều có may mắn hơn anh thuở trước. Cũng có một số, mắc vào vòng oan nghiệt của ma túy lúc công chưa thành, danh chưa đạt. Một số kinh qua được trong đó, có những khuôn mặt trai trẻ được em viết nơi đây; nhưng ngày mai, chưa biết?… Chỉ biết cái lề lối sống bê tha, trác táng không phải là "sinh hoạt mẫu" cho thế hệ văn nghệ hôm nay, một phần nhờ cuộc chiến sôi bỏng với các vấn đề lớn do cuộc sống đẩy tới, đã cuốn họ vào guồng máy làm cho choáng váng, hơn nữa, họ đi vào khung trời văn nghệ vì ý thức được cái ý nghĩa cao cả của nghệ thuật, tự nó đã là nguồn đam mê vô hạn.
Em gia nhập nghiệp văn hôm nay là để tiếp tục con đường mà định mệnh đã bắt anh bỏ dở. Em tin, trong cõi Chân Không Tịch Mịch kia, anh đang nhìn em trìu mến như thuở nào chúng ta còn thơ ấu. Em nguyện cố gắng gìn giữ chút hương thơm của gia đình mà ngẫu nhiên em được trao vinh dự.
Tác phẩm:
1. Hoài cố nhân, Ban Mai xuất bản, 1959
2. Lá van xanh, Thời Mới xuất bản, 1962
3. Vết hằn năm tháng, Lá Bối xuất bản, 1966
4. Con suối mùa xuân, Lá Bối xuất bản, 1966
5. Khoảng mát, An Tiêm xuất bản, 1966
6. Hoa bươm bướm, Lá Bối xuất bản, 1966
7. Người về đầu non, Văn xuất bản, 1968
8. Bên kia đường, Mặt Trời xuất bản, 1968
9. Gió cuốn, Lá Bối xuất bản, 1968
10. Những giọt đắng, Lá Bối xuất bản,1969
11. Trầm mặc cây rừng, Lá Bối xuất bản, 1971
12. Như cánh chim bay, Lá Bối xuất bản, 1971
Đã cộng tác với: Bách Khoa, Văn Hữu, Mai, Giáo Dục Phổ Thông, Văn, Giữ Thơm Quê Mẹ, Tin Văn, v.v.
Võ Hồng và quê hương bất hạnh
Trong không khí sinh động của văn nghệ miền Nam Việt Nam mười năm qua, vóc dáng Võ Hồng như một khiêm nhượng, một trầm lặng vì chiều hướng sáng tác cũng như kỹ thuật hành văn của nhà văn không nằm chung với ước lệ thời đại, thời đại cháy bỏng môi hôn, vòng tay bấn loạn và thể xác cuồng mê!… Võ Hồng cô đơn di hành trên lộ trình nghệ thuật do mình chọn lựa. Nhà văn không dễ dàng chấp nhận sự thiếu chân thành, không chạy theo thị hiếu độc giả, không thỏa mãn đòi hỏi nhất thời của thị trường chữ nghĩa. Nhận định về Võ Hồng, quả thực Trần Thiện Đạo, đã soi sáng đúng mức giá trị và cương vị của Võ Hồng trước cuộc đời và văn học:
… Có những kẻ mà mỗi lời nói, mỗi cử động, mỗi hành vi chừng như được trời phú cho một thứ tiềm lực tự tại, đủ sức làm chấn động dư luận một thời, nhưng, cũng hệt như bong bóng thổi phồng nhờ bầu khí giả tạo, lời nói ấy, cử động ấy, hành vi ấy thường chỉ chiếm mặt tiền thời sự trong giây lát để rồi cùng với thời gian mà mất dạng vĩnh viễn.
Võ Hồng không thuộc thành phần minh tinh ngắn ngủi ấy. Chúng ta ít nghe nói tới anh, nhưng đồng thời, chúng ta lại chừng như hiếm khi thấy anh vắng bóng lâu dài trên trường chữ nghĩa xứ này sắp tròn mười năm qua. Là vì bản tính của anh vốn mang thứ sắc thái vừa âm thầm, vừa tế nhị của hạng người chừng mực, và văn phẩm của anh biểu lộ tính chất mực thước, mực thước đến độ khiêm tốn và e dè.
(Hoài cố nhân, Nghĩ về Võ Hồng T.T.ĐX, 67)
Đúng, Võ Hồng một nhà văn mực thước, không thiếu phần trang trọng, cẩn thận trong mỗi sáng tác. Nhưng chính cũng vì thế, tác phẩm của Võ Hồng chỉ có ảnh hưởng với một lớp độc giả nào đó, ưa suy nghĩ, thích trở lại quá khứ để tìm về kỷ niệm, tìm khoảng thời gian đã mất để thấy có mình. Võ Hồng sáng tác rất đều, như nhà điêu khắc cần cù đục, giũa để biến tảng đá xù xì thành một công trình mỹ thuật. Xuyên qua hơn mười tác phẩm, người đọc, rất ít gặp những thoáng đam mê rực lửa, những hung cuồng ân ái với ngất ngây mùi da thịt. Người ta thấy từng dòng u buồn lên nhè nhẹ, từng xót xa đắm chìm tâm trí, từng bâng khuâng tiếc nuối, từng cơn đau úp mặt, từng đắng cay tủi nhục của kiếp người bơ vơ giữa cuộc chiến tàn khốc đã và đang tiếp diễn trên quê hương bất hạnh này.
Võ Hồng viết, như kể lể nỗi buồn thương lãng đãng, như gửi gấm ở mỗi dòng chữ sự chán mỏi đến tận cùng, nhưng vẫn làm vẻ thản nhiên, dung dị. Võ Hồng viết nhiều thể truyện, nhưng có lẽ, chỉ những truyện viết về cuộc chiến, dù thuộc quá khứ, mới thể hiện đúng bản chất Võ Hồng. Vì ở đấy, qua đấy, nhà văn đã đi vào chiều sâu ý thức, để nói lên những gì cần nói qua lời văn, qua từng hoàn cảnh khốn khó. Võ Hồng đã sống và trải qua những buồn vui thế cuộc, đã say mê lý tưởng với nhiệt tình. Nhưng cuối cùng, cánh chim rã rời tìm về tổ cũ, tìm về bao tháng ngày xa lắc trong tâm tư và đối diện thường trực với thực tại nhức nhối phía trước. Tất cả những thầm kín đó, được trải rộng trong kích thước vừa đủ, với những sự tình giằng co qua tâm trạng mỗi nhân chứng, cùng câu cười tiếng khóc âm vang trong tiềm thức người đọc. Việt Nam, ôi! Việt Nam, hai tiếng đó như gieo vào lòng mỗi người yêu nước những giày vò với nhiều hưng phế do lịch sử đẩy đưa: 80 năm nô lệ Pháp, bao nhiêu đối kháng nổi lên qua Đông Kinh Nghĩa Thục, Hoàng Hoa thám, Việt Nam Quốc Dân Đảng, v.v. đều đi vào thất bại. Sự thất bại thê thảm giữa sức mạnh tinh thần và vũ khí tối tân, thất bại giữa tổ chức khoa học với nếp sống tùy thời. Nhưng dù sao, các chứng tích lịch sử ấy cũng đã thức tỉnh phần nào cơn mê muội của một lũ người cầu an hưởng lợi, để "gây vốn" sau này cho cuộc vùng lên vĩ đại của dân tộc.
Võ Hồng, con người tha thiết với quê hương, đất nước, đã dấn thân trong suốt 9 năm khói lửa, chịu bao nhiêu gian khổ, bao nhiêu cay đắng, chỉ dành cho phần mình ít ỏi kỷ niệm và một chút niềm tin. Kỷ niệm và niềm tin, được Võ Hồng trải trong hai tác phẩm Hoa bươm bướm (1966), Như cánh chim bay (1971) cùng vài ba truyện ngắn in rải rác trong các tập truyện.
Tác phẩm Hoa bươm bướm, bắt đầu bằng khoảng thời gian báo trước sự chuyển mình của lịch sử. Khuôn mặt của Quý và Thức với những lời đối thoại sắc và khô đã tạo nên không khí nặng nề của một khung cảnh sắp đi vào môi trường khác với bất trắc không thể lường đoán. Những người trẻ tuổi đã ý thức được vai trò của mình trước lịch sử. Quân Pháp đầu hàng Nhật sau đêm mồng 9 tháng 3-1945, người Pháp thua không phải là hết, không phải do đó, nước Việt Nam được an hưởng thái bình. Trái lại, với hành động thất nhân tâm của quân phiệt Nhật, người thanh niên Việt Nam lúc ấy đã nhìn ra nhiệm vụ, một nhiệm vụ thiêng liêng. Họ không tin Nhật có thể thắng trận chiến này, nhưng vì hoàn cảnh chúng ta phải hợp tác với Nhật để chờ thời. Cái thời đó đến mau hay chậm còn tùy vận nước:
… Má tôi cứ nghĩ rằng ba ngàn mẫu ruộng ở An Hòa và dãy lầu đường Mayer nuôi dưỡng tôi sung túc hơn mọi bằng cấp.
"Người ta đi học không chỉ vì bằng cấp".
"Cố nhiên là chị nói đúng và tôi cũng đồng ý như chị".
Sinh viên ở lại Hà Nội có nhiều việc để làm lắm. Giai đoạn này là giai đoạn của thế hệ chúng ta. Thằng Thanh, thằng Hiệp vào trường Thanh Niên Tiền Tuyến ở Huế. Ban xã hội của Tổng hội Sinh viên hoạt động đắc lực trong việc cứu đói. Các tổ chức chính trị lớp công khai, lớp bí mật làm sôi nổi không khí của Thủ đô.
"Nhưng chúng tôi không tin là quân Nhật thắng trận".
"Nhiều người cũng tin như vậy, nhưng hoạt động chính trị đâu có phải vì tin rằng quân đội Nhật thắng trận? Cuộc đảo chánh mồng 9 tháng 3 là cái dịp tốt để dân tộc ta giải quyết lấy vận mệnh của mình. Vận mệnh của mình không phải do quân Nhật giải quyết".
Thức nhấm nháp tách nước trà vừa đưa mắt nhìn lên đầu tủ. Bức ảnh Thống chế Pétain treo lấp sau lọ hoa cúc trắng. Thức chỉ lên bức ảnh:
"Chị vẫn còn trung thành với Thống chế?"
Quỳ mỉm cười:
"Đâu có, bà nội đã hạ bức ảnh xuống hôm 9-3, nhưng tôi ngăn lại, muốn giữ bức ảnh đó một thời gian để nhìn chơi. Ít nhất nó cũng nói với mình nhiều hơn là một mảnh tường trống trơn hay một bức tranh tầm thường. Cốt nhất là mình hết nghe nó nói".
"Phải, tôi vừa nghe nó nói rằng: đừng tin ở một sự huy hoàng nào hết. Cái gì rồi cũng qua đi…"
(Hoa bươm bướm, trang 8-9)
Những khuôn mặt của Thức cũng như Cẩn – sinh viên kiến trúc – hiện diện trong tác phẩm Hoa bươm bướm, như một thoáng qua. Tác giả dùng họ trong khoảnh khắc, để thực hiện một ý tình nào đó, được nhà văn xác định rõ ràng trước khi viết. Thức yêu Quỳ, muốn cùng nàng kết tóc, nhưng Quỳ cô gái trí thức, học trường đầm, không yêu Thức mà cũng chưa yêu ai ở giai đoạn này, kể cả Cẩn và người sinh viên luôn luôn sốt sắng mỗi khi Quỳ nhờ vả. Tác giả đã dùng thị xã Đà Lạt, nơi nghỉ mát của nhà giàu, với những chiếc va-li sang trọng, với khung cảnh nên thơ của núi rừng cao nguyên để ghi nhận những đổ vỡ, hận thù cũng như khí thế vùng lên của đám dân thị xã, từ lâu được an hưởng thanh bình và khí hậu ưu đãi.
Chính trong khuôn khổ thị xã này, do thực dân tạo nên, những người Pháp đã sống vô cùng khốn khó trong trại tập trung (Cité Decoux) dưới quyền kiểm soát của quân Nhật, dưới sự khinh khi của người dân nô lệ hôm qua, nay được dịp trả thù cho hả cơn tức giận, mối thù 80 năm mất nước! Nhưng không phải mọi người đều như thế, trường hợp Quỳ đã giúp đỡ Caroline – người bạn gái cùng học Philo ở Lycée – trong lúc khốn khó, bằng cách mua giúp thức ăn, để ít ngày sau, Quỳ đã mang lụy với Ủy ban Cách mạng Thị xã Đà Lạt. Hình ảnh người Pháp, trong những ngày bị hạ bệ, thật thê thảm, dưới nét mực Võ Hồng:
… Một người Pháp già đi ngược chiều với nàng, mặt cúi xuống nhìn đất và hai tay xách giỏ nặng. Những gói bọc giấy chen lấn với cải su, khoai tây, hành. Một bó kiệu tây thò đầu ra ngoài miệng giỏ. Quỳ có cảm tưởng ông ta mang nặng 80 năm tội lỗi trên vai. Hai giỏ thức ăn trĩu năng hai bên tấm thân gầy, cao ngã chúi về trước khiến nàng liên tưởng đến cái dấu chấm hết. Chấm hết những trang sử do Courbet, Rigault de Genouilly, Varenne, Decoux viết ở trên đất này…
(Hoa bươm bướm, trang 25)
Nhưng trong khi ấy, miền Bắc thiếu gạo. Một triệu người vừa gục xuống lòng đất. Chính phủ Trần Trọng Kim, dù là bù nhìn của quân phiệt Nhật, cũng vẫn phải tìm đủ mọi cách trợ giúp miền Bắc, để cứu những người dân quê sống thoi thóp chờ vụ lúa sắp tới. Sự chuyên chở lúa gạo trong thời gian đó phải xin phép cơ quan Nhật dù chở từ tỉnh nọ qua tỉnh kia. Một triệu người miền Bắc chết đói cũng do tội của Nhật và Pháp. Nhật bắt bỏ ruộng trồng đay, Pháp cấm chuyên chở gạo từ miền thừa sang miền thiếu.
Trong các hình thức trợ giúp cứu tế, có cuộc tổ chức văn nghệ. Quỳ đóng góp cho đêm văn nghệ đó bài ca Chùa Hương, thơ Nguyễn Nhược Pháp, Hoàng Quý phổ nhạc. Quỳ đã thấy Luân, bí thư của Tổng Đốc, và nàng tức giận vì dáng điệu Luân khinh khỉnh dễ ghét. Luân, một thanh niên có học mới ra đời, ném mình vào công việc của chính quyền lúc ấy, với mớ kiến thức cứng ngắc qua sự hiểu biết về luật lệ hành chính, luôn luôn nghiêm minh trong vấn đề giao tế. Luân người Trung, học ở Hà Nội, đã trải qua những giờ phút căng thẳng thẳng nhất của cố đô Thăng Long khi quân Nhật đe dọa Đông Dương bằng vũ lực, cũng như đã chứng kiến những trận oanh tạc của phi cơ Mỹ xuống Hà Nội hồi quân Nhật chiếm đóng. Võ Hồng viết rất chính xác về không khí miền Bắc trong thời gian đó:
… Trên bãi đất trống cạnh hồ Thiền Quang, người ta đào những hầm hình chữ Chi, rộng bốn tấc và sâu không hơn tám tấc. Người đứng lổn nhổn dưới hầm (gọi là hào thì đúng hơn).
Trên bãi chợ hàng Da, người ta không đào hào mà lại đắp hào cao trên mặt đất. Hào xây bằng gạch. Có còi báo động, kẻ mua người bán và đồng bào ở mươi đường phố lân cận, đội nón, che ô, chen chúc nhau vào ngồi trong hào. Luân có ý nghĩ thú vị, giá mình là phi công oanh tạc, ở trên máy bay nhìn xuống thấy cảnh tượng ngổn ngang và ngớ ngẩn này, chỉ thương hại và buồn cười và không nỡ bắn phá gì hết…
(Hoa bươm bướm, trang 38)
Vì an ninh chung, Luân cũng phải tản cư ra khỏi thành phố Hà Nội, về miền quê, tránh bom đạn. Miền quê đất Bắc được nhà văn vẽ lại bằng những nét thật duyên dáng, thật nên thơ, qua ruộng mạ xanh non, qua cánh đồng phẳng thấp, qua con đường làng quanh co rợp bóng tre với ao bèo, ao rau muống có chiếc cầu ván nhỏ bắc ra lòng ao. Đoạn văn này, chắc chắn tác động sâu xa vào tâm thức những người di cư đã gần 20 năm nay, không nhìn thấy quê hương yêu dấu cảnh vật thân thuộc như hàng cau, mái rạ, đụn rơm, v.v. nhưng sự thật chúng vẫn sống mãi trong lòng những con người "thiên lý tương tư".
Dù bom đạn có rơi xuống mỗi ngày mọi người cũng không vì nó mà bỏ quên sự sống. Lúc nào có máy bay, chui xuống hầm, máy bay đi, lại công nào việc nấy.
Những yếu điểm của thị xã Đà Lạt do quân Nhật trấn giữ. Việc sung công nhà cửa được thi hành bừa bãi. Nhà của bà nội Quỳ cũng bị niêm phong trưng dụng vì nó nằm trong vòng đai phòng thủ. Quỳ nhờ Hảo – cô bạn gái – đến cầu cứu Luân, người của chính quyền Việt Nam, mong can thiệp với cơ quan Nhật trả nhà. Luân từ chối khéo vì sợ bị nghi ngờ không trong sạch. Quỳ hậm hực trong lòng. Nhưng rồi nàng vẫn lấy lại được nhà, do Cẩn giới thiệu với Mai Trang, người đàn bà quen lớn với Tòa sứ Nhật. Người ta đồn đại, Mai Trang là tình nhân của ông Sứ Nhật Ishikawa, ông này đã du học ở Ba-lê, nói tiếng Pháp giọng parisien, và nhiều chuyện bí mật xoay quanh thân phận Mai Trang cùng thế lực của nàng. Mai Trang làm Trưởng đoàn Hồng Thập Tự do Tòa Sứ Nhật đỡ đầu, vì sự giao dịch công việc, nàng quen Luân và có nhiều cảm tình với chàng. Luân, gã thanh niên trí thức ngây thơ, tin tưởng vào sự giúp đỡ thực tình của Nhật cho Việt Nam, nên chàng không muốn có sơ hở nào về tư cách, có thể làm mất tín nhiệm đối với họ. Luân không giúp ai việc gì để lụy đến mình. Ngay cả với bạn thân, muốn chàng giúp đỡ trong vấn đề chuyên chở gạo, Luân cũng thẳng thắn từ chối, để nhận những câu trách móc gần như chửi rủa:
…"Thôi, tao bắt tay mày. Đừng tưởng tao giận vì số lợi hai mươi tấn gạo ấy đâu. Vì tao sẽ vẫn cứ chở như thường. Nhưng bằng cách khác. Bằng cách gì mày biết không?"
"…"
"Bằng cách này".
Tiến móc ví trong túi áo, rồi ra dấu đếm tiền bằng ngón tay.
"Tao đi liền bây giờ, xuống Tòa Sứ Nhật Bản. Tao sẽ có chữ ký nửa giờ sau. Mày cứ ngồi yên đấy mà làm ông Khổng Tử đời nay…"
(Hoa bươm bướm, trang 63) Tiền và đàn bà là nhất, bất cứ ở thời đại nào. Nó có sức mạnh thay đen đổi trắng, làm đảo lộn những giá trị. Nó làm cho con người thăng hoa đời sống hay chịu ô danh, nhục nhã suốt đời. Nó là luật chơi, kẻ nào từ chối, tức là từ chối luật chơi, không biết sống, trước sau gì cũng bị nó nghiến nát.
Lời ước đoán của Thức ở đầu cuốn truyện đã thành sự thực. Nhật thua trận sau hai trái bom nguyên tử ném xuống Hiroshima và Nagasaki. Lợi dụng thời cơ, phong trào Việt Minh từ bóng tối nhảy vọt ra ánh sáng chính trị, với thành tích ám sát, tuyên truyền thuộc thời gian bí mật, để khích động quần chúng tham gia vào công việc cướp chính quyền toàn quốc. Những cuộc mít-tinh, biểu tình được tổ chức đại quy mô với đông đảo thành phần tham dự. Những khẩu hiệu yêu nước được hô to. Những bàn tay nắm chặt giơ cao. Luồng gió Cách mạng đã hất Luân ra khỏi chính quyền thị xã. Luân đứng trên ban-công nhìn đoàn biểu tình, trông rõ từng nét mặt quen thuộc, bạn bè và đám công chức tuy không hăng hái lắm, nhưng đi thẳng hàng ngay lối. Điều này chứng tỏ tinh thần kỷ luật mà "các nhà nước" đã thay nhau dạy họ. Cuộc cướp chính quyền của Việt Minh tại thị xã, không gặp khó khăn nào cả. Hôm sau, nhà Luân bị chính quyền Cách mạng niêm phong. Chàng phải đi ở nhờ nhà Hảo. Căn nhà đó là của Chính phủ cũ cấp cho Luân, nay Chính phủ chết rồi, chàng không có quyền ở lại. Mất căn nhà ấm cúng, trong khung cảnh thơ mộng, thực tình Luân cũng tiếc, nhưng không tiếc bằng chiến thắng của Cách mạng mà không phải trả bằng máu.
Sau khi cướp chính quyền, Cách mạng miền Nam cũng không có thời gian để tổ chức chu đáo guồng máy cai trị. Dưới Sài Gòn súng đã nổ, quân đội Pháp đã theo chân quân Anh vào đất cũ. Từ đó, những chuyện lộn xộn bắt đầu xảy ra, giữa chính quyền Cách mạng và quân đội Pháp. Dân chúng sôi sục căm thù, muốn dùng sức người để tiêu diệt đoàn quân Cécile với súng ống tối tân, máy bay, xe tăng nờm nợp. Còn quân Nhật tuy bại trận nhưng vẫn còn đủ sức mạnh để làm khó chính quyền Cách mạng lúc đó.
Mai Trang đến thăm Luân trong một hoàn cảnh không mấy thuận lợi. Qua câu chuyện, Luân mới biết nàng là cán bộ Việt Minh "nằm vùng" trong lòng địch. Nếu quân Nhật không bại trận sớm, có lẽ nàng đã bị "Kem-pei-tai" bắt. Mai Trang ngỏ ý mời Luân tham gia Ủy ban, nhưng Luân e dè. Nhân dịp này, nàng cũng cho Luân biết luôn thân thế mình. Mai Trang cô gái miền Nam, ra Hà Nội học ở Couvent rồi lấy chồng làm Tham Tá, người Bắc. Lấy nhau 6 năm, chưa sinh con, theo tục lệ cổ, gia đình bắt chồng nàng phải lấy vợ lẽ, để có người nối dõi. Nàng không chịu, đành ly dị, tuy hai vợ chồng vẫn yêu thương nhau. Bây giờ nàng cô đơn, hoàn toàn cô đơn trước cuộc đời này.
… Mai Trang chợt rùng mình. Giọng nàng nhỏ lại như một hơi thở, run run:
"Trang thấy lành lạnh. Mất hết cả rồi. Tuyệt vọng rồi. Còn dè dặt để đợi chờ gì nữa? Luân, anh hãy ôm vai Trang đi. Trong năm phút".
Luân nhìn Trang, bỡ ngỡ vì lời đề nghị bất ngờ.
"Kìa, Trang bảo thật mà. Vas-y mon enfant, ne fais pas l’idiot".
Luân quàng tay ôm Mai Trang. Nàng ôm choàng lấy Luân, siết chặt giữa vòng tay rồi gục đầu vào vai chàng. Ngón tay Luân bấm vào vai, vào lưng. Thịt mềm, ấm dưới ngón tay. Mùi thơm của tóc, của phấn, của làn áo mỏng làm chàng ngây ngất. Mai Trang ngẩn mặt lên. Đôi mắt nàng ướt đầm:
"Anh hôn Trang đi. Hôn cho rõ dài".
Luân cúi xuống hôn trên đôi môi…
(Hoa bươm bướm, trang 86-87)
Câu chữ Pháp, Mai Trang dùng để ra lệnh cho Luân, vừa yêu mến vừa trịch thượng, nhưng sở dĩ nàng phải dùng nó, nhằm che lấp sự trơ trẽn của ngôn ngữ. Đoạn văn trên, rất hiếm hoi trong các tác phẩm của Võ Hồng. Nó được ghi nhận như một ngoại lệ.
Không khí sinh hoạt của dân chúng thị xã Đà Lạt như ứ nghẹn bởi sự đe dọa của chiến tranh Pháp – Việt. Các thanh niên bắt buộc phải tập quân sự và tham gia đoàn tự vệ. Các công sở lặng lẽ rời thành phố. Dân chúng đã được lệnh tản cư. Có người quá nghèo không còn tiền để sinh sống nên vấn đề tản cư làm họ lo lắng, nếu không đi, bị coi là Việt gian tính mệnh khó mà an toàn. Võ Hồng đã viết rất đúng tâm trạng và hoàn cảnh xã hội trong giai đoạn ấy, dù hoàn cảnh được thu hẹp trong một gia đình:
… Anh bếp cũ của nhà Quỳ, gặp nàng bệu bạo khóc:
"Dù có lệnh tản cư nhưng nhà cháu nghèo quá, lấy tiền đâu mà mua vé tàu ra Bắc cả gia đình. Còn nếu ở lại, thì thành Việt gian cũng chết".
Bà nội nhất định không tản cư.
"Con bảo nội tản cư về đâu bây giờ? Quê hương ở dưới Tân Châu, Hồng Ngự mà bây giờ về đó sao được? Giặc đã dậy ở dưới đó rồi. Chạy xuống trại hầm, trại mát thì nội ở nhờ nhà ai? Thôi nội cứ ở đây".
"Nhưng ở đây người ta bảo là Việt gian".
"Nội già rồi. Làm Việt ngay hay Việt gian gì cũng được".
(Hoa bươm bướm, trang 97)
Bà cụ nhất định không đi chỉ vì sợ cảnh ăn nhờ, ở đậu khổ lắm, không chịu nổi. Giữa lúc ấy, Quỳ đang bị ban Đặc vụ theo dõi vì nàng tiếp tế cho Caroline ở Cité Decoux, trại tập trung người Pháp dưới thời Nhật. Mai Trang lại hiện ra cứu nàng, bằng cách bảo làm đơn xin gia nhập Đoàn nữ cứu thương. Hai ngày sau, Quỳ đã mặc blouse trắng với chữ thập đỏ trên mũ.
Tình hình căng thẳng, mọi người lũ lượt ra khỏi thành phố, trong đó có Luân. Cái cảnh tản cư lê thê, lếch thếch, đi chỗ này, nghe tin địch đánh chỗ kia với tâm trạng vô cùng hoang mang. Những ngày tản cư là những ngày sống tạm với nhiều lo âu phiền muộn cho mỗi số phận, mỗi gia đình. Nhất là tản cư ở vùng rừng núi càng chán. Chả biết làm gì kiếm sống, ngày ngày nhìn rừng núi, đêm đêm nghe hổ "à ùm, "lép bép" với vượn kêu, chim hú, muỗi, vắt như chấu làm sao chịu nổi?
Luân được mời tham gia vào Ủy ban Cách mạng vì chàng quen biết lớn với quân Nhật khi còn ở Tòa Tổng Đốc. Người ta mời Luân, nhằm để giải quyết các khó khăn giữa tàn quân Nhật và Ủy ban trong vấn đề đụng chạm về quân sự. Luân nhận lời, để tránh những ngày tản cư buồn nản.
Thị xã Đà Lạt thật sự đi vào không khí chiến tranh. Quỳ đã vượt thoát được nguy hiểm qua bốn trạm kiểm soát của quân Nhật. Nàng phải hóa trang thành cô gái nghèo khổ, lem luốc để tránh sự háo sắc của lính Nhật. Nhưng không may cho Quỳ, khi đến trạm kiểm soát của bên ta, nàng bị giữ lại, do lệnh của Ban Chỉ huy. Cuộc điều tra được thực hiện với những câu cật vấn như bắt buộc phải nhận tội. Quỳ choáng váng vì không ngờ sự tình có thể xảy ra như vậy. Chuyện nàng mua giùm thức ăn cho Caroline, chỉ do tình thương đối với người bạn học, hơn nữa, việc đó ở dưới thời chính phủ Trần Trọng Kim, nay người ta khép tội nàng tiếp tế cho địch, trong khi nàng vì Cách mạng ra khỏi thị xã.
Khi cuộc chiến mới bắt đầu, vấn đề kiểm soát thật gắt gao đối với người thành phố. Mặc chiếc áo popeline có hai sọc xanh đỏ, mang một tấm gương nhỏ soi mặt, cũng đủ yếu tố kết tội làm do thám cho địch. Cái cảnh xử tử Việt gian trong thời kháng chiến được Võ Hồng viết thật xúc động. Nó như bản cáo trạng. Nó thảm thiết và tàn nhẫn. Nó là số đông mù quáng:
… Hôm đó là chiều Chủ nhật, các nhân viên nghỉ việc, phòng giấy đóng cửa. Một người đội viên nói với bạn đồng đội:
"Hôm kia mình mới đi coi xử tử Việt gian".
"Xử ở đâu?"
"Ở bãi cỏ sân vận động dưới Dran. Thằng cha can tội lùa bò về bán cho Pháp. Nó khôn, lùa đi toàn bằng ngả Ankroet. Bị đặc vụ của ta bắt dẫn về dưới này. Ban Chỉ huy Mặt trận xử tử".
"Nó có sợ không?"
"Sợ như cha chết. Dẫn nó ra cột ở cây xử bắn, nó khóc lạc giọng, khản tiếng. Giọng nó khan đặc và cứ gào: Trăm lạy chính phủ! Chính phủ tha con. Trăm lạy đồng bào, đồng bào xin giùm với chính phủ tha cho con, con đội ơn đồng bào. Con đội ơn chính phủ".
"Đồng bào đi coi có đông không?"
"Đông như kiến… Lần đầu tiên xử bắn mà!"
"Nó lạy đồng bào rồi đồng bào nói sao?"
"Mỗi lần nó kêu khóc nhờ đồng bào xin giùm với chính phủ thì đồng bào lại hô to: Bắn! Bắn!…"
(Hoa bươm bướm, trang 126)
Đó, cái mạng con người trong chiến tranh nó như vậy và tòa án nhân dân chỉ tượng trưng cho một quyết định đã xếp đặt trước.
May mắn, Quỳ được tha để sung vào Ban Tuyên truyền, vì họ đang cần một người giỏi Pháp ngữ để phiên dịch tài liệu. Luân có lại thăm Quỳ trong trại giam một lần. Vì cơ sở ở gần nhau, nên họ thường gặp. Sự hiểu lầm giữa hai người lúc trước, đã dần dần tan biến. Tên Đạo, Trưởng ban Tuyên truyền mê Quỳ, nàng nói chuyện này với Luân. Quỳ ghét Đạo, nhưng vẫn phải làm việc dưới quyền hắn. Luân cảm thấy bâng khuâng vì bắt đầu yêu Quỳ thầm kín. Quỳ cũng vậy, nhưng khi nói chuyện nàng vẫn gọi Luân bằng ông, xưng em. Một buổi chiều, Đạo giữ Quỳ ở lại bàn giấy vì lý do công tác, nhưng mục đích để tỏ tình. Quỳ chống cự. Đạo toan dùng bạo lực, Luân chợt vào. Đạo căm thù, tìm cách đưa mỗi người đi một ngả. Luân ở lại với toán liên lạc. Quỳ theo cơ sở đến Tháp Chàm.
Trong mấy ngày Luân công tác đặc biệt tại Fimmon để điều đình với quân Nhật về vụ Vệ Quốc bắn chết tên lính Nhật, Mai Trang tìm đến chỗ ở của Luân. Không gặp, nàng viết thư để lại. Nội dung lá thư đầy lời lẽ âu yếm và nói sơ qua về đời sống với gian truân, cũng tỏ ý lo ngại cho số mệnh Luân. Trang đã yêu Luân thật rồi.
Những ngày chịu áp lực quân sự nó nặng nề hơn cả khi giao chiến. Con người sống với lo âu, chán nản. Túng thiếu, bệnh tật luôn luôn đe dọa. Súng đạn như chờ sẵn để kết liễu đời mình. Mới khởi đầu chiến tranh mà thương binh đã thiếu thuốc men, ngắc ngoải trong tay tử thần. Những thanh niên yêu nước gục ngã mỗi ngày. Tin từ mặt trận đưa về, chẳng mấy khích lệ. Tiếng súng đến đâu, Ủy ban và dân chạy đến đấy. Từng đêm đen dày đặc giăng ngang tầm mắt mỗi người lìa quê hương, lìa thành phố với tiện nghi quen thuộc.
Rồi định mệnh đẩy đưa, Luân lại gặp Quỳ ở một sân ga, khi toàn bộ cơ sở rút khỏi tầm đạn. Luân đã mệt mỏi, Quỳ cũng mệt mỏi. Nhiều người mệt mỏi, dù mới phiêu bạt mấy tháng. Nhưng tình yêu làm tuổi trẻ dựa vào nhau mà sống, mà tin tưởng. Hai bàn tay lồng quấn quít trong đêm tối với hơi nóng thân xác tỏa ra làm tan đi giá lạnh đêm dài lưu lạc.
Mai Trang đã xuôi về một làng miền biển. Nàng mua đìa cá tạo phương tiện sinh sống. Quân Pháp chiếm dần từng nơi, như vết dầu loang. Trang nghe tin Luân chết trận, nhưng không đúng. Một chiều, Luân và Quỳ gặp lại Mai Trang. Cả ba đều mừng rỡ. Câu chuyện vui buồn, gian khổ vì chiến tranh được kể lại. Những người chạy loạn bắt đầu túng thiếu vì chỉ ăn mà không sản xuất. Đồ quý giá bán dần mòn cũng hết, kể cả áo quần. Thuốc lá thơm, cà phê phè phỡn trong những ngày đầu tản cư, bây giờ không còn. Có người phải giã gạo thuê đổi lấy miếng cơm. Có người xoay xở buôn bán quanh quẩn để sống qua ngày. Cuộc chiến chẳng biết đến bao giờ chấm dứt. Chiến tranh không những làm chết người ở tiền tuyến, còn ở hậu phương, chết vì ốm đau thiếu thuốc, thiếu cơm. Nghiêm, một nghệ sĩ 22 tuổi đời, chết chẳng trối trăng một lời, sau những ngày nằm bệnh. Bốn nhạc sĩ đã khiêng chiếc quan tài ra khu đất trống đầu làng, nơi trẻ vẫn thả bò ăn cỏ rải rác trên những ngôi mộ cũ.
Võ Hồng viết đơn sơ nhưng vô cùng thê thiết. Thân phận con người trước súng đạn như thế đó. Nếu chàng nghệ sĩ 22 tuổi đời kia sống ở nơi có đầy đủ thuốc men, hoặc được nuôi dưỡng tử tế chắc thoát khỏi lưỡi hái tử thần. Thảng hoặc, nếu vì đoản số, ít nhất, anh ta cũng không đến nỗi mang xuống tuyền đài sự câm nín đau buồn như vậy!
Những ngày Quỳ và Luân sống với Mai Trang thật thần tiên. Mai Trang lo liệu chu đáo vì yêu Luân. Nhưng đau thay, một tối nàng đã nhìn ra sự thực. Trong đêm vắng, dưới bụi chuối, Luân ghì chặt Quỳ giữa vòng tay, và cánh tay Quỳ cũng như những sợi dây leo quấn chặt lấy thân xác đàn ông. Thế là hết! Bao nhiêu yêu dấu, vỗ về cũng bằng thừa. Mai Trang thua cuộc, nhưng vì lòng quảng đại, đã giúp hai kẻ yêu nhau vượt thoát được hoàn cảnh, một hoàn cảnh khốn khó trong lúc chiến tranh tràn vào khu vực Phương Cựu, nơi họ đang có mặt. Hành động tàn bạo của quân Pháp như hiếp dâm, đốt nhà được nhà văn mô tả rất sát, rất sinh động làm người đọc vừa hứng thú, vừa tức giận, oán thù!
Luân và Quỳ đã thoát, dìu nhau đi vào khung trời tình ái với mặn nồng hoa bướm ở phương nào đó, chiến tranh chưa in dấu. Còn Mai Trang, nàng dấn thân vào cuộc chiến để tìm quên, có lẽ.
Hoa bươm bướm, tác phẩm đã lấy giai đoạn đầu của cuộc chiến địa phương làm bối cảnh, ở đó, nhà văn phác họa những nét chính và sử dụng những mẫu người tượng trưng cho mỗi thành phần xã hội lúc ấy. Võ Hồng viết rất nhiệt tình, trung thực. Với cái nhìn tinh tế và trí xét đoán minh bạch nhằm mục đích đưa người đọc tìm về quá khứ oai hùng nhưng đau xót, qua nhiều đổ vỡ, qua bao nhiêu xác người trai trẻ gục xuống, bao nhiêu dòng lệ đã tuôn trào! Có điều đáng tiếc, nhân vật Mai Trang quá lý tưởng, và sự có mặt của một bóng đàn ông trong buổi tối ở nhà nàng ở làng Phương Cựu, dù hình ảnh này chỉ được dùng như biểu tượng Cách mạng, nhưng nó không đủ chứng minh sự dấn thân của Mai Trang vào "tổ chức" qua lá thư cuối sách. Vả lại, nếu Mai Trang đã "hoạt động bí mật" cho Mặt trận từ hồi Nhật, trên thực tế, ai cho phép nàng có được một thời gian tương đối thanh thản để mơ mộng, rượt bắt tình yêu? Sự việc tuy nhỏ nhưng có thể vì nó, cuốn sách mất đi một phần tác dụng.
Võ Hồng lúc nào cũng bị quê hương, chiến tranh bủa vây suy nghĩ. Cũng chính ở môi trường này, Võ Hồng viết thoát và đạt nhất. Nó là mảnh vườn màu mỡ nhưng có nhiều gai nhọn mọc ngầm dưới thớ đất, đôi khi làm đau chân người chăm bón. Chuyện quê hương và chiến tranh đã hai mươi lăm năm rồi, nước Việt Nam bất hạnh đã kinh qua quá nhiều đau khổ, quá nhiều tan nát. Những con người may mắn thoát chết, nhìn trở lui con đường đã đi, không khỏi kinh hãi, nhưng nó vẫn đủ sức làm mình nhớ thương vời vợi. Nó đã ghi dấu khoảng đời đẹp nhất của tuổi hoa niên. Cuộc chiến ngày hôm qua, còn ướt đẫm máu người dân vô tội, kéo lê trong hồn những lằn roi khổ nhục. Hôm nay, cuộc chiến còn đó, súng đạn còn đấy, tan vỡ còn đây, chỉ thay đổi mục tiêu, đối tượng. Người dân Việt Nam qua mấy lần đau thương, nên chẳng còn gì để đau thương hơn nữa. Nó đã chai sạn trong trí não. Nó băng giá trong mọi suy nghĩ về số phận làm người. Cuộc chiến hôm qua, để đuổi quân xâm lăng ra khỏi bờ cõi, khôi phục nền độc lập cho dân tộc. Cuộc chiến hôm nay, sự tranh thủ giữa hai ý thức hệ trong một quốc gia. Nhưng dù nội dung cuộc chiến có vì gì đi nữa, trên thực tế, hình thức của nó vẫn là trò chơi tàn bạo, lấy cái chết mặc cả sự sống!
Truyện Bên đập Đồng Cháy, in trong tập Những giọt đắng (1969) đã nói lên trọn vẹn nỗi lòng người dân quê nước Việt. Mặt trận tràn lan, bom đạn liếm dần vào ruộng vườn, làng mạc. Thân phận mỗi người tùy thuộc vào may rủi, muốn an toàn tính mệnh bắt buộc phải rời bỏ nơi chôn nhau cắt rốn. Sống, ai cũng muốn, mà xa lìa mái nhà yêu mến với nhiều kỷ niệm chả ai nỡ. Sự giằng co, níu kéo như một cực hình vò xé nội tâm con người. Bà Xự trong truyện Bên đập Đồng Cháy, nạn nhân của sự giằng co đó: … Bà Xự ngồi yên trên ngạch cửa, hai dòng nước mắt lặng lẽ chảy trên gò má.
Bỏ nhà bỏ cửa mà đi. Bỏ ruộng nương, bỏ vườn tược, bỏ khúc sông và cái bến nhỏ này mà đi. Không, tôi không muốn đi đâu hết. Năm mươi tuổi trên đầu rồi, tôi muốn ngồi yên một chỗ, nằm yên một chỗ mà chết cũng được. Chết là gì? Nhắm hai con mắt lại, nhẹ nhàng buông xuôi hai tay. Khỏi đi cấy. Khỏi cầm quạt giê lúa. Khỏi phải gánh nước đổ vào chum. Khỏi quơ củi nhay vào bếp. Khỏi làm khỏi ăn khỏi lo khỏi tính. Thôi cứ để cho tôi chết. Bà con cứ đi đi. Tôi lớn lên ở trên mảnh đất này, bắt đầu ngắt lá táo, lá keo bỏ vào mẻ sành mảnh chén làm trò chơi nấu cơm với chị em bạn. Rồi cúi lưng xuống tập quơ cỏ lúa, cầm cái cuốc nhỏ tậy dãy cỏ bắp. Đội thúng đi mót lúa, ôm cái rổ đi mò ốc.
Không, không. Tôi muốn chết trên mảnh đất này…
(Những giọt đắng, Bên đập Đồng Cháy, trang 79-80)
Muốn chết ở trên mảnh đất này, mảnh đất đã chứng kiến thân phận mình từ thuở sơ sinh đến bây giờ. Nhưng ngoài kỷ niệm trên, đích thực còn có ám ảnh khôn nguôi khác. Bên đập Đồng Cháy, bà đã gặp ái tình. Năm Xự đã cho bà những giây phút đắm say của thời con gái, khi còn mang tên Lụa. Biết đến bao giờ bà mới quên được, một buổi xế chiều êm đẹp, bà đang cắt cỏ ở bờ soi mía kia. Gió đồng trống thổi vật vã những thân mía như thổi vào lòng tuổi trẻ niềm yêu và Năm Xự đẹp trai, khỏe mạnh, có đôi lông mày đen rậm đã làm xiêu lòng trinh nữ. Rồi từ đấy hai tâm hồn khắng khít. Hạnh phúc lứa đôi dìu họ đi vào vùng trời ân ái. Nhưng uổng thay, số Lụa lận đận, chỉ một trận cảm thương hàn Năm Xự chết! Lụa ở vậy nuôi con khôn lớn, mong sau có phận nhờ. Thằng Xang lớn lên, cầm cày thay bố, không thích lấy vợ, tuy bà Xự muốn nó yên bề. Đến tuổi, thằng Xang đi quân dịch. Ở nhà, bà Xự tính mua hoa xoan, đợi ngày nó mãn lính. Nhưng hỡi ơi! cây xoan trước cửa nhà mới nở hoa một lần, nó đã gục ngã nơi chiến trường vì bị phục kích ở Phù Cát. Thế là hết, bà Xự chẳng còn gì để mong đợi, hy vọng! Do đó, mảnh đất này dù có thành bãi chiến trường, thân xác dù có tan hoang, nát bấy vì bom đạn, bà vẫn cứ ở lại chốn đây với đối với và kỷ niệm. Bà Xự đi tìm kỷ niệm thật. Bà trở lại đập Đồng Cháy, chỗ hẹn hò thuở ban đầu, nơi bờ soi, bên đập nước, có hai mái đầu xanh kề nhau tình tự:
… Bà Xự chợt nhìn xuống lòng nước, soi thấy bóng mình. Hình ảnh cô Lụa tan biến vun vút.
Hết rồi! Hết rồi! Không! Tôi không đi đâu hết. Tôi đã mất hết cả rồi. Tuổi xuân xanh. Chồng tôi. Con tôi. Chỉ còn đập nước này mà tiếng ào ào tuôn đổ không hề thay đổi. Nó đã nhìn thấy tôi tóc đen mướt và má tròn phúng phính. Nó đã nhìn thấy tôi trẻ đẹp và được thương yêu. Chỉ có nó. Nó nhắc nhở đến chồng tôi. Đến hạnh phúc của tôi. Mọi người khác đều nói: Chiến tranh. Chạy giặc. Súng nổ. Bệnh. Đói. Chết… Tôi không còn đủ sức để chống chọi. Cho tôi an nghỉ.
… Thôi bà con đi đi. Chúc bà con mạnh giỏi. Cho tôi ở lại. Không, xin cho tôi ở lại. Tội nghiệp thân tôi. Tôi đã…
(Những giọt đắng, Bên đập Đồng Cháy, trang 98-99)
Bà Xự tự chọn cho mình cái chết ở nơi mà thiên nhiên đã cùng bà tạo nên nhiều kỷ niệm nhất. Trong khi ấy, đoàn người tản cư chạy dớn dác ra khỏi vùng lửa đạn. Nhưng dù nguy hiểm, không ai nỡ bở bà Xự, họ quay lại tìm, gọi. Tiếng gọi của họ bị khỏa lấp vào tiếng bom và tiếng đập nước đổ ào ào! …
Võ Hồng vì đã phiêu bạt trong cuộc chiến quá lâu, nên những gì viết ra đều căn cứ một phần vào sự thực. Đi từ những sự thực, nhà văn dàn trải suy tư của mình trên mặt giấy. Mỗi chữ Võ Hồng viết về chiến tranh như một giọt đắng. Giọt đắng ấy thấm dần vào hồn người làm ngất ngư hình dáng cuộc đời!
Trong những ngày dài kháng chiến, không phải lúc nào nhà văn cũng được ưu đãi và hoàn cảnh cho phép thảnh thơi suy nghĩ. Đi kháng chiến, không phải ai cũng là "đảng viên" mà đa số vì lòng yêu nước, muốn đóng góp chút gì cho dân tộc, để khỏi thẹn với lương tâm. Tác giả đã dạy học, đã tham gia tổ chức, nhưng một ngày, chính phủ chủ trương biên chế mới, nhà văn bị đẩy ra ngoài "cuộc chơi". Trong lúc bơ vơ chờ học nghề mới kiếm sống, nhà văn được một gia đình học sinh cũ, mời về tá túc. Thân phụ học sinh, trước làm Chánh Tổng, giàu có, tính tình phóng khoáng hào hiệp, nhưng sau những năm "ủng hộ" cũng chẳng còn gì ngoài cái xác dinh cơ rộng lớn. Người học trò cũ, tên Phùng đã đi bộ đội và chiến đấu ở Đông Miên, Hạ Lào gì đó. Ông Chánh tiếp đãi nhà văn rất tử tế vì tình sư đệ với con ông một phần, một phần đồng cảnh ngộ. Ông bị chính quyền cô lập vì thuộc thành phần địa chủ, còn nhà văn bị gạt ra ngoài vì "biên chế":
… Ông Chánh bảo tôi:
"Thầy ở đây chơi, bao lâu cũng được. Chỗ này quê mùa, ăn tiêu ít tốn kém. Chỉ cần có gạo và mắm".
"Tôi còn đủ sức để mua được gạo".
"Thầy ăn mỗi tháng cho mạnh nhất là bốn giạ lúa. Nhiều lắm thì sợ tôi không kham nổi chớ bốn giạ, tôi có thể giúp thầy".
"Cám ơn ông, nhưng xin để tôi tự lo liệu phần gạo mắm".
"Trước ngày Cách mạng thì tha hồ, nhà tôi có thể cung phụng cho mươi người một lúc cũng không nao núng. Nhưng bây giờ thì phần lúa giảm tô, phần ruộng bỏ hoang vì nông dân ly khai nhập bộ đội thiếu người canh tác".
… Rau cỏ thì dễ. Người ta thường dùng củ mì hay khoai lang nấu ghé với cơm. Có ăn ghé như vậy một thời gian rồi được ăn bữa cơm mùa – nghĩa là cơm nấu toàn gạo – mới thấy ngon…
(Trầm mặc cây rừng, trang 178)
Trên thực tế, nhiều vùng trong nước, quanh năm đói kém, phải ăn cơm trộn ngô khoai là thường, nói chi đến giặc giã. Nhưng gia đình ông Chánh thuộc giai cấp phú hào, nên chuyện thiếu thốn là điều cực nhọc. Trong thời gian dài thất nghiệp, ngày ngày nhìn xung quanh dãy núi cao chớn chở bao vây, nhìn thân cây bồ lời cao vút với những tổ quạ, tổ ác lót bằng những chà cây lòi sòi, nhìn từng buổi chiều đi cô đơn, nhớ quê hương cách trở với lo sợ tương lai trước mặt.
Nhưng một buổi, người con gái quê mùa hiện ra như niềm an ủi. Tình yêu len nhè nhẹ vào hai tâm hồn, thứ tình yêu ỡm ờ chỉ nhìn bằng mắt và nói chuyện bâng quơ. Thịnh, tên cô gái, con bà Chức Bảy, có quen với gia đình nhà văn. Thịnh có học đôi chút và trời phú cho thông minh nên lời nói ngụ nhiều ý tứ, khác hẳn với các cô gái cùng vùng. Nhà văn càng lúc càng lâm vào thế kẹt của sinh sống, phải bán cả đồng hồ tay và có ý định hồi cư. Thịnh biết chuyện nên buồn.
Tết năm đó quân Pháp mở chiến dịch lớn tấn công tỉnh Phú Yên, Đèo Cả và mặt Tây Nguyên. Nhà văn đeo ba-lô tìm đường tháo chạy theo đoàn cán bộ xã. Quân Pháp đánh bất ngờ làm mạnh ai nấy trốn, nhà văn không có dịp chào Thịnh một câu, một câu thôi, vì tự thâm tâm, mình đã yêu nàng, chắc Thịnh cũng vậy. Có ngờ đâu, cuộc chạy giặc đưa nhà văn về thành. Từ đấy, nhớ thương vời vợi. Ít lâu sau, vùng đất của Thịnh bị khuất phục dưới sức mạnh của súng đạn. Một hôm, ông Chánh đưa vợ vô Sài Gòn chữa bệnh ghé thăm, kể chuyện quê hương, có nói về Thịnh. May quá, nàng chưa lấy chồng. Nhà văn gửi quà: một xấp hàng vải, gương lược và nhiều lọ nước hoa!… Thương nhớ theo thời gian lãng đãng!…
Chẳng may, vợ nhà văn mất vì chứng hoại huyết, sau ba tháng nằm bệnh. Không chịu được cảnh chăn đơn gối chiếc, sau ngày đoạn tang, nhà văn nghĩ đến một người đàn bà. Có nhiều đàn bà được giới thiệu nhưng Võ Hồng chỉ nghĩ đến Thịnh, cô gái quê chất phác:
… Trong những hồi cô đơn, tôi hay nghĩ đến Thịnh. Tôi còn nhớ tâm hồn tươi mát của nàng, yêu dao động và không đòi hỏi quá nhiều ở cuộc đời. Nàng sống hiền hòa thanh thản và tôi muốn đem những tiện nghi hiện tôi có được chia sớt cùng nàng. Tôi cảm thấy cuộc đời của tôi sẽ được bình ổn hơn. Tâm hồn trong sáng yêu đời mang lại cho nàng một năng lực tự tại khó lay chuyển… Sống giữa một vùng rừng núi xa xôi, tôi có cảm tưởng nàng chịu ảnh hưởng cái vóc dáng uy nghi của thiên nhiên hoang dã và nét uy nghi đó in dấu trên mọi cử chỉ nhỏ của nàng. Tôi yêu quý sự nghiêm cẩn trì trọng đó của loài đá tảng, của thân cây rừng hơn là sự bén nhạy linh hoạt của giống lau sậy… (Trầm mặc cây rừng, trang 193)
Nhưng tiếc thay, mơ ước của nhà văn không thực hiện được, vì sống ở đời, mỗi người đã được an bài theo cung số, do đó mới có đau khổ và oan trái. Tuy đã lấy chồng, nhưng Thịnh còn đó, nhớ thương còn đó, mặc cảm nghèo hèn và định mệnh đã đẩy nàng vào khung trời khác, vĩnh viễn thành một kỷ niệm in dấu trong tâm hồn. Thịnh nghĩ mình quê mùa nên sự gặp gỡ ngày trước đối với nàng chỉ là ước mong trong tuyệt vọng. Những giọt nước mắt không phải để chứng minh lòng thương yêu, mà để tiễn đưa cuộc tình chết yểu với hối tiếc ngàn năm!
Võ Hồng, nhà văn tình cảm. Tất cả mọi suy nghĩ, dù nhớ thương sầu hận, dù căm thù uất ức, bao giờ sự việc cũng do tình cảm hướng dẫn chớ không bởi lý trí. Người ta thường cho rằng, các văn nhân thi sĩ đều là những người nhiều cảm tính, nhờ đấy họ mới biết rung động trước mọi nghịch cảnh do cuộc đời hoặc thiên nhiên đẩy tới, cộng vào sự hiểu biết riêng tư, mới tạo nên tác phẩm. Điều này chỉ đúng một nửa. Nghệ thuật hôm nay, đòi hỏi nhiều hơn thế. Nó không còn là những rung động tầm thường và ước lệ. Nó khơi động tự chiều sâu ý thức, bắt mỗi người làm văn học nghệ thuật phải tra vấn lương tâm, phải suy luận về mỗi dữ kiện được trình bày, phải có một chức năng và nhiệm vụ trong cung cách sinh hoạt văn nghệ. Nó chính là ý thức đời sống trên đời sống vậy. Vì thế, sứ mệnh của văn nghệ không còn nằm ở môi trường riêng biệt thuộc tâm cảm, nó tỏa rộng trong đời sống thứ hai, ở đó, người nghệ sĩ đóng vai trò điều hợp.
Tác phẩm Như cánh chim bay, là sự tiếp nối lịch sử dân tộc đã được Võ Hồng khơi động trong Hoa bươm bướm. Đời sống của các nhân vật như Luân, Quỳ, Tịch, v.v. lại trình diện độc giả với hoàn cảnh khác, ở đấy, mỗi số phận như bị ném vào một môi trường không mấy khích lệ. Trong Hoa bươm bướm nhà văn mới đề cập tới giai đoạn đầu cuộc chuyển mình của lịch sử và bối cảnh chiến tranh chỉ được dàn trải trong một kích thước tương đối nhỏ. Như cánh chim bay diễn tiến trong khung cảnh bề thế hơn, vì cuộc chiến không còn nằm ở phạm vi cục bộ. Ở tác phẩm này, Võ Hồng viết công phu, nghiên cứu kỹ về khía cạnh tâm lý cũng như hoàn cảnh, vị trí của mỗi phần hành có mặt trong những trang sách. Cái trục chiến tranh đứng sừng sững như uy quyền Cách mạng bắt mọi số phận phải chấp nhận dù muốn, dù không.
Luân tượng trưng cho lớp trí thức trẻ, tuy không dấn thân vào Cách mạng, nhưng sẵn sàng thi hành một cách nghiêm chỉnh phần vụ của mình, dù cho phần vụ đó chẳng phải điều mơ ước. Quỳ, cô gái học trường đầm, khi trước, nói chuyện bằng tiếng Pháp gọi người làm trong nhà là "La nhà quê" để tỏ ý khinh bỉ, thuộc thành phần giàu có trong Nam, nay bỗng nhiên phải gánh chịu cùng với Luân, những khốn khó của chiến tranh, tuy không nói ra, nhưng chắc chẳng vui gì, dù có tình yêu hỗ trợ. Còn nhiều khuôn mặt khác nữa, tác giả đưa lên rồi xóa đi sau khi "nó" đã thi hành xong phần vụ. Nó như những chiếc bong bóng bơm hơi khinh khí, bay lên, bay lên đến độ cao nào đó, sức ép sẽ làm nổ tung, không để lại vết tích nào. Người đọc bắt gặp những chiếc bong bóng ấy bay rải rác đó đây, chờ lúc người đọc sơ ý, nó biến mất như những bóng ma. Võ Hồng viết Như cánh chim bay rất sống động, sâu sắc. Từng niềm đau được nghĩ tới, nói tới, vừa đủ để người đọc cảm thấy có chứ không vì nó mà bải hoải ý nghĩ. Võ Hồng cũng không quên vẽ vài nét tươi vui, dí dỏm để làm vơi nhẹ cái u uất, bi phẫn của mỗi trạng huống khốn khó, đang bủa vây những thân phận trong cuộc chiến cũng như tình yêu. Nội dung tác phẩm Như cánh chim bay đặt nặng về phần vụ công tác Bình dân giáo dục. Có lẽ, nhà văn đã hoạt động cho nó, vì nó, suốt thời gian kháng chiến, nên vấn đề được trình bày thông suốt, khúc chiết, chẳng những ở nhân vật mà còn ở lề lối hoạt động dưới hệ thống chỉ huy của Trung ương. Các vấn đề khác như quân sự, kinh tế, chính trị, tôn giáo, v.v. được đề cập vừa đủ, hầu chỉ để chứng minh cho mỗi sự việc ở hoàn cảnh chung, đã tạo nên hành động. Người đọc tin rằng, những ngày phiêu bạt trong kháng chiến đã giúp vốn cho nhà văn rất nhiều, tuy rằng câu chuyện và sự tình cũng chưa vượt ra ngoài kích thước hạn định nơi quê nhà yêu dấu!…
Chính vì viết về nơi mình đã sống từ ấu thơ đến trưởng thành nên nhà văn thuộc làu từng địa danh cũng như nếp sống địa phương. Yếu tố này giúp Võ Hồng kinh qua được rất nhiều trở ngại trong vấn đề điều khiển nhân vật và dàn trải không gian.
Luân và Quỳ ở đoạn kết trong Hoa bươm bướm đã rời Phương Cựu– vùng chiến trận – bằng đường biển. Luân đưa Quỳ về nhà mình ở vì nơi đây tương đối còn yên ổn. Cuộc chiến vẫn lằng nhằng. Tin đồn lúc đánh, lúc đàm. Hội nghị Đà Lạt và Fontainebleau vẫn được khai diễn. Quân Pháp không từ bỏ mộng xâm lăng nên tìm đủ cách gây khó khăn cho Chính phủ Cách mạng bằng chính trị và quân sự. Cuộc sống ở những vùng chưa có khói lửa cũng được điều hành theo quy tắc cách mạng. Công tác phát triển Đời Sống Mới trong các thôn ấp được áp dụng triệt để qua việc bài trừ mê tín dị đoan, gây ý thức vệ sinh chung trong làng xã. Luân sống trong hồi hộp, lo âu vì là con địa chủ lại thuộc thành phần trí thức. Cách mạng không mấy ưa thành phần này. Luân và Quỳ mỗi người ở mỗi nơi, thỉnh thoảng ghé thăm nhau. May mắn, Luân gặp Bường, đang giữ công việc Hiệu trưởng Trường Lục quân Trung học Ngân Sơn. Bường mời Luân hợp tác. Để tránh sự nghi ngờ, chàng giúp Bường một thời gian. Sau đó, vì một tai nạn xảy ra tại Trường Lục quân, Luân chuyển qua làm Trưởng ban Bình dân Học vụ Huyện và sau này giữ chức vụ Trưởng Ty. Ông Chánh muốn Luân lấy cô Tuyền, con gái ông Ấm giàu có vì hai nhà đã có giao ước với nhau từ trước. Luân không chịu. Ít lâu sau, đám cưới giữa Luân và Quỳ, do ông chú ruột đứng làm chủ hôn. Tuy đã lập gia đình, nhưng Luân phải theo cơ quan di chuyển để bảo toàn bí mật và tránh mặt trận. Rồi những chuyện rắc rối về tình cảm giữa Nương và Phượng. Quỳ sống trong hạnh phúc nhưng lòng vẫn nhớ thương thành phố cũ. Quỳ được các cán bộ địa phương quý mến vì uy tín của Luân, hơn nữa, nàng vô hại. Khi sinh nở, Quỳ được săn sóc chu đáo. Đột nhiên Tịch đưa Thức (hai nhân vật trong Hoa bươm bướm) đến thăm. Thức, chàng thanh niên Quỳ yêu lúc trước bây giờ làm Tư lệnh phó Liên khu Bảy. Tịch xin đi theo Thức vô Nam để thăm gia đình và xem con vợ nó còn chờ mình hay lấy chồng khác rồi. Luân và Quỳ ở lại với khắc khoải. Luân lúc này đã thôi làm Trưởng ty Bình dân Học vụ, chờ ngày nhận nhiệm vụ mới bên Trung học.
Cái "trục" Như cánh chim bay giản dị như vậy. Nhưng bên trong cái giản dị ấy, nhà văn đã gói ghém biết bao nhiêu vấn đề, bao nhiêu mắt lưới. Ở mỗi mắt lưới lại hiện ra những sự việc, những mâu thuẫn làm câu chuyện biến đổi không ngừng lôi kéo người đọc vào ý muốn của người viết. Nhà văn đưa người đọc trở về thời gian đã mất, để tìm kiếm cái tuổi trẻ hào hùng trong lòng quê hương bất khuất. Võ Hồng viết chân thực không những với mình còn với người. Những gì được biểu hiện dưới nét bút Võ Hồng đều sống đầy đủ, nguyên vẹn. Mỗi sự việc đưa vào truyện như cuốn vào một chứng tích xác tín chứ không ngụy tạo, do đó, người đọc như bị hút vào một không khí sống động và các vai trò như chập chờn trước mặt với vóc dáng và ngôn ngữ đặc biệt. Chủ tịch Quang xuề xòa, Phó chủ tịch Trương Thực tạo vẻ nghiêm trang, xã Mãi Ủy viên tài chánh cẩn thận, tin có ma quỷ, Tràng, Ủy viên thanh niên bộp chộp, Ký, Hành và Tuyển hăng hái quá đà. Ngần ấy khuôn mặt làm sôi động hẳn những trang đầu cuốn sách trong vấn đề phát động công tác Đời Sống Mới:
… Xã Mãi, Ủy viên tài chính đang lóc cóc gõ bàn toán miệng không ngừng đọc cửu chương: tứ thất nhì bát… lục bát tứ chi… ngủ cửu tứ ngũ … ngửng đầu lên: "Linh lắm mấy ông ơi! Khi khiển Tướng đi trấn đóng, thầy rót cho ly rượu đổ lên đầu Tướng rồi đưa một bàn tay tựa sau lưng Tướng, thế mà Tướng tự động lúc la lúc lắc đi ra tới phương trấn đóng của mình".
Chủ tịch xua bàn tay:
"Mê tín! Mê tín! Ủy ban phát động phong trào bài trừ mê tín dị đoan thế mà ủy viên lý luận kiểu đó thì chết. Phản Cách mạng".
"Là mình nói nhỏ với nhau nghe riêng".
Xã Mãi cười gượng:
"Vả lại chuyện gì chớ chuyện ma quỷ không tin sao được? Cái nhà từ đường ông Chánh Lộc có ma đó. Thằng Bài không tin tới nằm ngủ bị ma nó đánh bầm mình. Cậu Nẫm cũng không tin, tới nằm ngủ bị ma nó khiêng quăng lên quăng xuống cả đêm".
"Uở! Biểu thôi. Tốp lại. Phản Cách mạng vừa vừa chứ".
Tràng, Ủy viên thanh niên đang nghe hào hứng chợt bị bắt tốp lại, nằn nì:
"Thây kệ nó, Bác. Để ông Ủy viên tài chính kể tiếp nghe chơi. Đang tới chỗ hay mà. Đang hồi gay cấn…"
"Không được. Ở đây nhĩ mục quan chiêm. Có muốn nghe bữa nào xuống nhà ổng, ổng nói cho nghe".
Vừa lúc ấy, ba người thanh niên quần vải xita xám, áo sơ-mi trắng ồn ào bước vào, lại gần bàn Chủ tịch:
"Xin báo cáo với Chủ tịch: Bọn cháu đã làm "vườn không nhà trống" cái thủ kỳ của ông thầy Ba rồi. Đêm qua ba đứa cháu lẻn vô nhà thầy Ba khiêng tất cả tướng đá, bài vị đem ném xuống sông hết. Còn cái chuông và cái mõ… Kỳ ơi, móc đưa cái chuông mày. Còn thằng Hành, đưa cái mõ…"
(Như cánh chim bay, trang 9-10)
Kỹ thuật hành văn ở đoạn này vui vui cốt đưa người đọc đi vào những trang sau với từng sự tình khốn khó đã được ấn định trong tâm thức nhà văn. Cuộc nói chuyện đi lan man sang vấn đề thánh tổ của mỗi nghề như hát bội, hành khất, v.v. Chủ tịch Quang có bằng Tiểu học, xuất thân Đội Trạm, tức trạm phát thư dưới thời Pháp thuộc. Phó Chủ tịch Trương Thạc, nắm hết quyền hành trong xã vì còn trẻ và học hơn Chủ tịch. Phong trào phát triển Đời Sống Mới còn hô hào đốt hết tàn tích nô lệ và phong kiến như sắc Vua ban hoặc bằng Cửu Phẩm Văn Giai. Lúc phát động, có người mù chữ Nho, sợ quá, đốt cả văn tự điền thổ để phi tang. Khi biết đã muộn!
Đúng thời gian đó, Luân và Quỳ có mặt, liền bị nghi ngờ. Dù có lời xác nhận hạnh kiểm và cương vị chính trị của Phó Chủ tịch Thạc, Luân vẫn bị xã Mãi, thứ "răng đen mã tấu" buộc vào thành phần khả nghi vì Luân đã hợp tác với chính phủ Trần Trọng Kim. Còn Quỳ, được gán cho vai trò nữ gián điệp! Trong giai đoạn đầu của Cách mạng thành phần trí thức về quê, ít nhiều gì cũng bị ở vào trường hợp này, nếu không tham gia bí mật từ trước, hoặc có anh em, họ hàng hoạt động trong "mặt trận" lúc đó.
Quỳ ở An Thổ với buồn thương, lo lắng, gặp ông bà Thành Mỹ cũng ở Đà Lạt, bất ngờ "bị tản cư" ở đấy, trong chuyến về thăm bà già, kẹt luôn. Quỳ băn khoăn nghĩ đến tương lai, không hiểu rồi cái gì sẽ đến với mình? Vì cuộc đời không phải là chiều dài của con đường, để có thể đo lường được mức đi, mức tới. Nó là một không gian có nghìn vạn ngả đi, do đó Quỳ cảm thấy choáng váng, như con chim nhỏ lạc đàn giữa bão tố. Nhưng cũng may, trong cuộc sống còn đó những người tốt như Nữ, cán bộ phụ nữ Huyện, tuy con nhà quan, nhưng sớm giác ngộ và ý thức được sự chuyển vận của lịch sử, nên tích cực phục vụ. Luân biết tâm trạng của người yêu, nên luôn luôn tìm cách an ủi, khuyến dụ bằng những lý lẽ, tuy không mấy vui tươi, nhưng thực tế: Không còn con đường nào khác hơn là phải sống với những người làm Cách mạng một cách hồn nhiên và yêu mến cả ưu lẫn khuyết điểm của họ. Quỳ ngoan ngoãn vâng lời như đứa con nít, tuy rằng trong lòng nàng không nguôi quên cái nếp sống quen thuộc thuở xưa, với căn phòng đầy đủ tiện nghi, với tiếng xe hơi rú mỗi lần leo dốc ngang hông nhà, và tiếng cổng sắt rít ở chiếc villa bên cạnh. Nay khung cảnh trước mặt, đối với Quỳ như một hờn tủi: cái giường tre ọp ẹp, nhà tranh vách đất và rui mè xám mốc, mạng nhện giăng lưới thả tơ đen rơi lòng thòng!…
Luân đã lao đầu vào công tác Bình dân Học vụ, sau một thời gian ngắn giúp việc điều hành tại Trường Lục quân Ngân Sơn. Công tác này ở dưới khả năng của Luân, nhưng tính vốn dè dặt, hơn nữa không phải người của "Mặt trận" nên mọi hành động, mọi ngôn ngữ, Luân hết sức giữ gìn, tránh né. Võ Hồng viết rất đúng, rất sát về tâm lý cũng như cương vị của vai trò thanh niên trí thức không đảng phái nằm trong guồng máy chính quyền Cách mạng lúc đó.
Vấn đề phát động phong trào chống nạn mù chữ, cũng có nhiều lý thú, các xã nhất tề đóng cổng đố chữ vào ngày Rằm âm lịch. Lực lượng giáo viên được huy động đông đảo tham gia công tác. Ai không thuộc hai mươi bốn chữ cái, khỏi đi chợ. Đó là giai đoạn đầu, còn những giai đoạn kế tiếp, sẽ trắc nghiệm khó hơn:
… Giáo Khiết thuyết trình về kết quả của biện pháp đó:
"Quý ông tưởng tượng một chị gánh cá mù chữ từ An Ninh gánh chạy lên chợ Trùng Lương. Ở Tiên Châu chị ta gặp một cổng. Giáo viên chận lại hỏi chữ, bắt chị học thuộc một chữ T chẳng hạn rồi mới cho đi. Lên Diêm Điền phải học thêm một chữ nữa. Giả dụ rằng chị có quen với anh giáo viên ở Diêm Điền, nhưng không sao. Lọt tới xã An Thạch thì giáo viên An Thạch đóng cổng ở nhà thờ Mằng Lăng, rồi một cổng ở chợ Lò Gốm, một cổng ở cầu Phường Lụa. Vượt qua xã An Ninh thì một cổng ở xã Long Hòa, một cổng ở Nhất Trí, một cổng ở đèo Cây Cam. Tiếp đến xã An Nghiệp lại…"
"Thế thì ươn cá của mụ ta rồi. Về nhà chồng đánh" – lời một đại biểu.
"Ai biểu trốn học? Bình dân Học vụ đã thành lập hơn nửa năm rồi, giáo viên chỉ đóng cổng hỏi hai mươi bốn chữ cái. Có làm biếng lắm mới không thuộc…"
"Lỡ mụ ta chửa đẻ hay đau bệnh nửa năm đó thì sao?…"
(Như cánh chim bay, trang 69)
Cuộc thảo luận bị cắt đứt ngang đây, vấn đề đóng cổng khảo chữ được tiến hành theo đúng kế hoạch.
Trong khi Quỳ đang sống yên lành với gia đình ông bà Thành Mỹ, chủ tiệm may, thì Trần Chắc, tên tùy phái Ty Ngân Khố Đà Lạt, trước có quen với chị bếp của Quỳ hiện ra định làm hỗn với nàng trong lúc gia đình vắng vẻ. Nữ tình cờ bắt gặp và cho Quỳ biết gốc gác tên Chắc với tư cách bê bối của hắn. Nó ve vãn, mồi chài với ẩn ý hiến Quỳ cho tên Ninh Pồ, gã thanh niên con nhà giàu, bê tha nghiện hút, đánh bạc và chơi gái.
Nhưng, sự có mặt của vai trò Trần Chắc, Ninh Pồ có thực sự cần thiết cho diễn tiến của nội dung tác phẩm? Chắc không, vì mục đích của cuốn sách không nhằm vào việc đả phá các phần tử đó. Vả lại, trên thực tế, những bộ mặt Trần Chắc, Ninh Pồ không có đất sống dưới thời Cách mạng. Bởi vậy, chúng là chứng tích vô ích, làm hại không ít đến toàn bộ tác phẩm. Nó là hạt cát của Pascal đó.
Tuy không được sự chấp thuận của gia đình, nhưng đám cưới Luân– Quỳ vẫn tiến hành tại nhà ông Trợ, chú Luân. Ông Trợ là nhà Nho, nhưng có tâm hồn phóng khoáng, thông cảm được với lớp người trẻ, nên đứng chủ hôn cho cháu, sau khi cố gắng thuyết phục ông anh không xong. Tiệc cưới được tổ chức trong lúc tình hình đất nước chả ra làm sao. Hội nghị bế tắc. D’Argenlieu tách miền cao nguyên thành Tây kỳ, trong Nam có Chính phủ Nam-Kỳ-Tự-Trị. Song song với Hội nghị Liên-Bang-Đông-Dương cũng họp tại Đà Lạt gồm: Nam-Kỳ Quốc, Ai Lao và Cao Miên. Nhưng không vì thế mà đám cưới của Luân bớt phần vui vẻ. Các cấp thuộc Ban Bình dân Học vụ đều tham dự đông đủ để chia vui:
… Giáo Khiết không đợi mời lâu, đẩy ghế đứng dậy khề khà nói:
"Hôm nay là ngày vui nhất trong đời của ông Trưởng Ban tôi. Tuy ông nhỏ tuổi hơn tôi nhưng mà ông làm lớn hơn tôi. Tôi không có món quà nào xứng đáng để mừng ông nên xin có mấy câu thơ kính tặng. Nếu cử tọa cho phép, tôi xin đọc". "Cho phép! Cho phép!" …
Giáo Khiết chậm rãi móc túi lôi ra một mớ giấy tờ. Rồi lại mò ở túi áo bên kia, vỗ ở túi áo ngực. Có tiếng hỏi:
"Sao đó? Mất bài thơ rồi hả?"
Giáo Khiết cười toe toét hàm răng đen:
"Dạ đâu có. Kiếm cái gương".
Khi mò lên túi áo ngực lôi ra được cái gương, đặt ngay ngắn lên mũi rồi thì lại đến lượt phải chọn lựa trong mớ giấy tờ xếp tư xếp tám đó để kiếm cho được bài thơ.
Cuối cùng khi đã nắm được tác phẩm văn chương của mình, ông đằng hắng liên tiếp ba, bốn tiếng:
"Bình dân Học vụ có dâu hiền"
Giáo Khiết cúi gầm mặt xuống, nhìn cử tọa qua khoảng trống trên gọng gương, giải thích:
"Đây ý nói là bà Trưởng Ban về làm dâu gia đình Bình dân Học vụ".
"Được rồi. Hiểu rồi".
"Gái sắc trai tài sánh tựa tiên"
Có tiếng hỏi:
"Ông đã thấy tiên chưa mà nói "sánh tựa tiên"?
Giáo Khiết lại toe toét cười:
"Dạ thưa chưa. Nhưng mà "xưa bày nay làm", thuở ông bà mình nói "đẹp như tiên" nên tôi nói theo".
"Được, giảng nghe thông. Xin đọc tiếp".
"Xây dựng gia đình cùng tổ quốc"
"Hay, đúng chính sách. Cần lao, gia đình, Tổ quốc. Đọc tiếp câu nữa!"
"Dạ tôi mới làm tới đó. Câu chót nghĩ chưa ra…"
(Như cánh chim bay, trang 93-95)
Cuộc vui nào rồi cũng tàn. Đời Quỳ đã vĩnh viễn bước qua giai đoạn mới. Căn nhà gỗ với bờ tre, bãi mía, ruộng vườn, từ nay quấn riết lấy đời nàng. Còn "quê hương của chị" với Đà Lạt, Sài Gòn, villa Les Fauvettes, dãy nhà ở đường Sabourain trở nên xa xôi, nó không thuộc về nàng nữa.
Tiếng súng báo hiệu chiến tranh đã nổ ở Hải Phòng, rồi một tháng sau, lệnh toàn quốc kháng chiến được ban hành. Đêm 19-12-1946, hồi 20 giờ 00 nhà đèn nổ, cả thành phố Hà Nội đắm chìm vào bóng tối. Tiếng súng giao chiến bắt đầu ở những khu phố, do Tự vệ Thành bắn ngăn cuộc tiến quân của Pháp. Cả nước Việt Nam bắt đầu từ giờ phút đó mới thật sự lâm chiến toàn diện. Ở những miền cuộc chiến chưa lan tới, đều tổ chức mít-tinh, biểu tình hô hào toàn dân tham gia cứu quốc. Các đoàn thể: Phụ lão cứu quốc, Phụ nữ cứu quốc, Thanh niên cứu quốc, Nhi đồng cứu quốc, được huy động đóng góp vào cuộc kháng chiến với mọi nỗ lực. Phong trào tòng quân diệt giặc được phát động mạnh mẽ. Các thanh niên hăng hái xung phong, cũng có người lẩn tránh bằng cách nhảy vào các cơ quan Xã, Huyện làm việc hành chính cho yên thân. Bộ mặt địa phương thay đổi hẳn vì lớp người tản cư. Đời sống tỉnh thành và nông thôn hòa hợp một cách bất đắc dĩ. Người dân quê có dịp để làm khó người thành phố trong một vài vấn đề ăn ở và tập tục. Nhưng người thành phố họ khôn lắm, họ biết lựa chiều đón gió, nên lần lần họ vượt qua mọi trở ngại. Có người chạy mãi ăn hết tiền, mở quán nước kiếm sống. Chẳng may vợ con lại đau yếu vì không hợp thủy thổ nên bực tức gắt gỏng lung tung, ngay cả trước mặt khách hàng. Tâm trạng đó sở dĩ có, vì quá chán chường hoàn cảnh, đến khi biết khách hàng là cán bộ cao cấp của Huyện, lại khúm núm, sợ sệt:
… Được biết kẻ đối diện là Phó Chủ tịch Huyện, chủ quán bỗng đứng rón rén, và cánh tay trái tự nhiên để gập trước bụng. Xếp ly, lau bàn, anh ta chỉ dùng tay mặt. Thấy bấy nhiêu cử chỉ đó chưa đủ chuộc lại những sự vô lễ lấc cấc lúc nãy, chủ quán dừng tay lau, gãi đầu lí nhí nói:
"Dạ thưa ông Phó Chủ tịch, bữa nay ông ra chủ tọa lễ xung phong nhập ngũ?"
"Ờ".
(Như cánh chim bay, trang 111)
Uy quyền Cách mạng to lắm, nhất là lúc mới bắt đầu kháng chiến. Mọi người nên dè chừng, kẻo mất mạng oan vì hai chữ: phản động. Chính sách tiêu thổ, vườn không nhà trống, được thi hành thật khẩn thiết. Những dãy phố bị triệt hạ chỉ còn trơ lại vài mảnh tường chơ vơ lở lói, trông thật thảm. Người có nhà tiếc đứt ruột, vẫn phải gượng cười.
Mặt trận miền Trung, quân Pháp đã đánh vào đèo Cả. Quân kháng chiến rút. Dân chúng chạy tán loạn, vơ quàng vơ quáng được cái gì hay cái nấy, có người vội quá lúc nhìn lại, toàn đồ đáng vứt đi. Chỉ riêng các gia đình "Ba Tàu" bình chân như vại vì họ thuộc phe Đồng Minh thắng trận. Đau đớn hơn cả là những người trước có liên hệ với Pháp, làm giàu nhờ Pháp đến lúc này, tính mạng coi như "ngàn cân treo sợi tóc", dù đã dâng hiến cho Cách mạng tất cả tài sản của mình như ông Vạn Lợi. Ông Vạn Lợi sợ bị thủ tiêu nên đêm đêm nằm sợ cả tiếng chó sủa. Nương là con ông Vạn Lợi, thuở nhỏ Luân thường đến thăm ba nàng. Nương yêu Luân từ lâu, không có cơ hội tỏ tình, bây giờ chỉ còn oán trách! Chiến trận lại đưa Tính, Trưởng ban Trinh sát, người đã bắt Quỳ ở trạm kiểm soát Đà Lạt (trong Hoa bươm bướm) và đã tặng nàng bốn cái tát! Nhưng thời gian làm họ hiểu nhau, dần dà. Tính kể chuyện Đà Lạt làm Quỳ quên khuấy hận xưa. Chiến trận vẫn lan dần, từ địa điểm này qua địa điểm khác. Quân Pháp hành quân vũ bão để mong thanh toán con mồi. Nhưng càng đánh, càng cảm thấy còn lâu mới đạt được kết quả.
Vóc dáng Mai Trang cũng được nhắc nhở đến, với những nghi vấn như hồi nàng hoạt động dưới thời Nhật. Người nói, nàng về thành lấy tên Sứ Tây, người nói, nàng đang cưỡi ngựa chỉ huy mặt trận Djiring, Đa Nhim. Nàng biến thành một ám ảnh của nhà văn, bỏ thương vương tội, nên sự nhắc tới cũng chỉ để nói lên một ảo ảnh, không thực, nhưng đẹp. Trong thành phần tản cư, có mặt các công chức làm việc từ hồi Pháp thuộc. Họ không được Cách mạng ưu đãi hay tin cẩn lẽ đương nhiên. Họ chỉ được dùng như các chuyên viên, vì họ thuộc làu thủ tục hành chính. Giai cấp họ, được nhà văn nói đến qua vai trò Tham Huy và Phán Liễn. Tham Huy làm việc rất siêng năng, cần mẫn, không kêu ca về đời sống kháng chiến kham khổ, cũng như công tác nặng nề. Nhưng một buổi Tây càn quét một vùng gần đấy, mọi người không thấy Tham Huy nữa, thì ra hắn đã chuồn theo Tây về Nha Trang. Còn Phán Liễn làm phán sự tòa Sứ Sông Cầu từ năm 1935. Hắn có tật hay la lối. Làm việc với Cách mạng mà động một chút nhắc tới "hồi xưa… hồi còn tụi Tây… mấy năm trước… hồi trước". Những câu nói này, chỉ được phát biểu sau khi thấy Cách mạng đối xử dễ dãi. Tuy nhớ tiếc hồi xưa như vậy, mà hắn không chuồn theo Tây, có lẽ vì chưa gặp dịp, hoặc thiếu khôn ngoan như Tham Huy. Khi nghe tin Tham Huy về thành, hắn nói như kể công: Đấy, bây giờ mới biết, ai ngay, ai gian!
Vì tình hình chiến sự, một số cơ quan thuộc miền Nam phải điều động ra Trung. Sự hiện diện của các cán bộ miền Nam được nhà văn viết ra nhằm mục đích nói lên sự hòa đồng nếp sống. Có những gia đình thôn quê, không muốn cho cơ quan đóng ở nhà mình, làm phiền, mất tự do, phần nữa, sợ do thám địch biết, báo máy bay bắn phá thì cơ nghiệp ra tro. Đi theo đoàn cán bộ miền Nam, có Tịch (nhân vật trong Hoa bươm bướm).
Kháng chiến càng kéo dài, đời sống càng kham khổ. Ruộng vườn bỏ hoang không ai cày cấy. Buôn bán không được. Tiền nong khó kiếm nên người dân phải tiết kiệm phòng thân. Hình ảnh đó được nhà văn khoác lên vai Hương Năm Dỏn, người nông dân suốt ngày ở trần, hà tiện áo. Chả cứ gì Hương Năm Dỏn, còn nhiều vùng vì quá thiếu thốn cũng phải hà tiện vậy. Thằng Tang con Năm Dỏn, tuy nhà chưa đến nỗi nghèo, nhưng phong trào khỏa thân lan rộng nó cũng làm theo:
… Một buổi trưa ở nhà mãi đùa nghịch với lũ bạn, trống trường đánh lúc nào không hay. Khi chị giục đi học, cu cậu lật đật chạy vào ôm sách phóng xuống trường. Đường xuống trường bình yên. Vào lớp ngồi, cu cậu gật gù nghĩ đến cuộc chơi lý thú vừa qua, miệng tủm tỉm cười. Chợt có ngọn gió mát từ cửa hông lọt qua, luồn xuống bàn chân trống mát mẻ. Tiếp theo, những ngọn gió mát nữa. Mát quá! Nhưng hình như mát có… hơi nhiều. Cu cậu cảm thấy có cái gì khang khác. Cu cậu nhìn xuống: "Chết cha".
Cu cậu vội phóng nhanh ra cửa, chạy ù một mạch về nhà để… mặc quần…
(Như cánh chim bay, trang 202-203)
Đoạn văn dí dỏm trên cho độc giả nhìn thấy, hoặc hồi tưởng quãng thời gian đã trôi mất vào quá khứ nhưng thực ra, nó vẫn có đó, còn đó, ở nhiều nơi, ngay hôm nay, với cuộc chiến khốc liệt hơn, tàn bạo hơn mà nông thôn đang gánh chịu. Vì quá thiếu thốn nhu cầu, người ta bắt thèm đủ thứ từ cục đường, chiếc kẹo. Nói ra, nghe có vẻ tầm thường nhưng thực tế, nó làm khổ con người không ít.
Đoàn cán bộ miền Nam đóng đô ở nhà Hương Năm Dỏn. Ông ta thích thằng Tịch lắm, muốn nó làm rể ông. Nhưng con Lé xấu quá, thằng Tịch chê. Con Lé lại bắt tình với anh cán bộ nào đó, viết quốc ngữ chưa thông. Trong thư tống tình lại thòng thêm: "Tái bút. À, nhớ đem theo cho anh mượn một trăm hai rồi bữa nào anh sẽ trả lại". Một bữa, Hương Năm Dỏn vớ được lá thư trong túi áo con Lé, ông tưởng thư của thằng Tịch gửi nó, ông mừng rơn. Lúc tra hỏi, biết không phải, ông đánh con Lé một trận gần chết.
Luân vẫn hoạt động theo nhịp đi của kháng chiến. Công tác cứ thăng tiến điều hòa, nhưng cơ sở phải di chuyển luôn để bảo mật. Có lẽ, do sự sắp xếp của định mệnh (?) Ty Bình dân Học vụ lại đóng ở nhà Phượng. Huỳnh Bộ, chồng Phượng không ưa gì kháng chiến, vạn bất đắc dĩ mới phải để cho cơ quan mượn nhà, nhưng hắn luôn luôn tìm cớ la lối về những chuyện lặt vặt với dụng ý làm mọi người chán mà dời đi nơi khác. Phượng quen biết với Luân từ lâu, một cô gái thông minh lấy được chồng giàu nhưng ngu đần nên nàng khổ. Nàng chưa biết Luân đã lấy vợ. Phượng muốn bỏ chồng theo Luân. Thấy không thể dối Phượng mãi được, Luân đã nói cho nàng biết sự thực:
… Nước mắt Phượng chảy thành dòng trên hai má, nàng cung cánh tay lên lau:
"Phải như anh chưa cưới vợ… Ừ, phải như anh chưa cưới vợ thì em sẵn sàng đạp bỏ hết, đạp bỏ những ruộng, những vườn, những lúa má đường đậu, những bó giấy bạc. Em yêu anh âm thầm trong những ngày anh lui tới chơi với ba em. Em không dám nói. Em đinh ninh là anh đã hứa hẹn với ai rồi, khi anh còn học ở Hà Nội. Em yêu trong tuyệt vọng. Em đâu có ngờ, người vợ của anh là người anh gặp sau em". Phượng cầm bàn tay Luân:
"Anh còn nhớ, bàn tay này đã một lần săn sóc cho em không?"
Luân nhìn nàng không nói:
"Chắc anh quên…"
(Như cánh chim bay, trang 271-272)
Quá khứ, lúc nào có dịp là Võ Hồng lại đưa hồn mình vào quá khứ. Từng hình ảnh, từng kỷ niệm như nằm chết giả trong tiềm thức chờ dịp thuận tiện lại vùng dậy hành hạ nhà văn. Quá khứ làm cho mỗi người không mất đời sống và thời gian dù có bay đi, cũng chỉ để tạo thành kỷ niệm. Kỷ niệm bao giờ cũng đẹp, dù đau đớn, tan vỡ! …
Vốn con người chân thực, Luân không muốn tự mình gây nên rắc rối tình cảm nên chàng tìm mọi cách tránh né Phượng. Quỳ đã mang thai, nàng được Nữ và các cán bộ phụ nữ Huyện quý mến. Nhưng làm sao nàng quên được dĩ vãng, mỗi khi nàng cùng Nữ ra ngồi ở bờ sông nhìn trời nước, tìm về quá khứ:
… Buổi chiều trên sông thật buồn. Những ngọn núi, những bờ sậy, bờ tre in ngược bóng xuống mặt sông im lặng. Tiếng một con cá quẫy, những tiếng mơ hồ nào chợt dấy lên, chợt im đi ở từ bên kia bãi đưa sang, cách trở, xa xôi như một cõi nào khác. Một cánh chim đêm bay vụt qua, nhẹ nhàng rồi trong một thoáng, lẩn mất vào màn tối sẫm của doi núi Hà Bằng…
(Như cánh chim bay, trang 295)
Lời văn thật nhẹ, thật thấm. Nó là thiên nhiên với sự chuyển động của vạn vật. Nó là tiếng lòng Quỳ đang trải rộng trong nhớ thương mịt mù. Nó là nỗi cô đơn xa vắng của tương lai mất hút. Nó là sự thật, buồn vui có đấy. Dù nó là gì nữa, Quỳ vẫn cứ mãi mãi là nàng, đang bị cuộc chiến đẩy đưa theo định mệnh.
Luân đã quyết tâm rời trụ sở khỏi nhà Phượng sau chuyến đi công tác tại Xuân Phước, có Phượng đi cùng. Luân nghĩ, phải thoát ra cái lưới giăng quanh mình. Mình là con chim đang đậu ngang tầm tay của Phượng. Nàng muốn chụp bắt. Quyết định dời trụ sở được thi hành. Luân đi công tác để tránh gặp Phượng. Hôm dọn trụ sở, Phượng như điên dại, nàng lục trong ba-lô của Luân, thấy một tấm ảnh. Phượng nhìn thật lâu rồi bỏ trả, hai tay ôm mặt khóc. Thật không may cho Luân, Ty vừa dời sang chỗ mới được hai ngày thì bị máy bay oanh kích. Một nhân viên bị thương. Hồ sơ thất tán. Một cuộc kiểm thảo được tổ chức. Theo quyết định, Luân bị giải nhiệm chức vụ Trưởng Ty, chờ giữ nhiệm vụ khác bên Trung học. Đứa con gái đầu lòng ra đời như một an ủi. Luân và Quỳ vẫn sống trong hạnh phúc, thứ hạnh phúc tương đối trong cuộc chiến đang tiếp diễn đó đây.
Một buổi, Tịnh đưa Thức đến thăm Quỳ:
… Quỳ thật bối rối về sự hiện diện đột ngột của Thức. Nàng vụt nhiên lẫn lộn những việc quá khứ và hiện tại. Như những lớp thủy tra đang nằm ngủ yên lành thứ tự chợt những chuyển động tạo sơn dữ dội gây thành nếp gấp, lớp này trượt lên lớp kia, xáo trộn vị trí. Thức nhắc nhở quá khứ. Thức là quá khứ, một quá khứ dồn dập biết bao nhiêu là biến cố. Lùi xa về trước qua khỏi một cái mốc nào đó… Ừ, cái mốc giới hạn bởi một sự hiện diện cũng của Thức một ngày tương đối thanh bình ở Đà Lạt nơi căn phòng khách nhà Nội, có một lọ hoa cúc trắng thật lớn, có anh Cẩn – anh Cẩn là tượng trưng cho những biến cố bắt đầu …
(Như cánh chim bay, trang 374)
Cái gì đến sẽ đến. Tịch và Thức đã vô Nam, tức là trở về quê hương của Quỳ mà tự thâm tâm, nàng vẫn mơ ước quay về nó. Nhưng lúc này, nàng như cánh chim bay, bay xa mãi qua bao nhiêu trùng lớp núi non không biết ngày nào mới trở về tổ cũ. Để an ủi Quỳ, Luân cho rằng trước sau gì, không phải hai ba cánh, mà bốn năm cánh chim, cũng sẽ lũ lượt bay về tổ cũ, cành xưa!…
Tác phẩm Như cánh chim bay mới chỉ nói đến một phần của kháng chiến cả sự việc lẫn không gian, thời gian. Biết bao nhiêu khuôn mặt đã mất đi vĩnh viễn trong quên lãng. Biết bao nhiêu số phận bị dập vùi, bao nhiêu oan uổng, bao nhiêu buồn vui trong 9 năm khói lửa, để Việt Nam chia đôi huyết lệ? Gần 20 năm rồi đó. Gần 20 năm với cuộc chiến vẫn kéo dài, còn bao nhiêu khuôn mặt nữa đang mất hay sắp mất? Và khuôn mặt của Chung trong tác phẩm, thời nào cũng có. Họ chỉ nghĩ đến quyền lợi riêng mình với những tính toán ti tiện, còn tìm đủ mọi lý lẽ để bào chữa. Cũng như Luân và Quỳ tượng trưng cho đông đảo nhân dân có mặt trong kháng chiến, không phải do chủ nghĩa, mà chính thực, bị cuốn theo chiều gió! …
Như cánh chim bay, tác phẩm có giá trị chẳng phải vì văn chương, mà chính do những dữ kiện được đề cập tới, nó là một phần nhỏ lịch sử oai hùng của dân tộc mà Võ Hồng đã sống, đã biết. Chỉ tiếc, ở vài chỗ tác giả đã dùng "ngôn ngữ hôm nay" để cho các nhân vật thuộc 25 năm qua nói, nên nó mất đi cái nguyên thể của thời gian, không gian cũ.
Võ Hồng, có lẽ, chỉ sống bằng kỷ niệm chất đầy trong tiềm thức, nên có thể xác định, những gì Võ Hồng viết về quá khứ bao giờ cũng cảm động, dễ lôi cuốn người đọc, bởi lẽ đơn giản, nhà văn, hơn một lần, vì nó mà gian truân, khổ đau hành hạ con người và quê hương Việt Nam một phần tư thế kỷ rồi đó. Nó như nỗi ám ảnh đến chết không rời trong mỗi ý thức mến yêu tổ quốc.
Muốn hiểu Võ Hồng, không gì hơn là nghe nhà văn tâm sự với Trần Thiện Đạo, trong lá thư đề ngày 5.4.1967:
… Tôi tự nói là chiến tranh làm khổ tôi, thì tôi phải lợi dụng lại chiến tranh, ghi những điều mà chỉ kẻ nạn nhân mới biết được…
Sống ở ngoài đời cũng như khi viết, tôi vẫn thường giữ cốt cách vô tư, yêu cái đẹp tự nó mà không lý luận, để cho lòng mình thật rung động, rồi tìm chữ mà diễn tả…
Với 12 tác phẩm ngắn dài, Võ Hồng đã diễn tả đời mình và tình yêu dù có cho nhau cay đắng hay ngọt bùi, lúc nào Võ Hồng cũng tha thiết, cũng say mê, như say mệ một sắc đẹp được hình dung qua dự tưởng miên man giữa hai miền: Thực, Mộng. Trích văn Võ Hồng
… Giặc Pháp đổ bộ càn quét một trận lên xã An Chấn. Dân chúng chưa quen chuẩn bị, hơ hải bạ gì cũng chèn chặt vào quang gánh thành ra một số lúng túng chạy không kịp. Một số chạy kịp thì khi tai qua nạn khỏi, tháo quang gánh ra chỉ thấy toàn những đồ đáng vất đi. Trái lại, những đồ vật quý giá thì bỏ lại, bị giặc thu vét hoặc bị giặc đốt cháy theo ngôi nhà. Đồng bào rút kinh nghiệm, phát triển việc may ba-lô.
Trước 1945, cái ba-lô thỉnh thoảng mới đánh đai một cách trưởng giả trên vai Hướng đạo sinh đi cắm trại. Người ta gọi nó là cái xắc. Sau 1945, nó xuất hiện ở khắp mọi gia đình. Sau vài lần bị giặc càn, mỗi gia đình phát triển đến ba, bốn cái. Ban đầu ba-lô còn may bằng vải kaki, sau thay bằng vải xita, sau đó được may bằng vải ta mỏng. Cũng chẳng ai bảo sao, có điều cần nhớ là khi gùi lên chạy thì hai tay phải đỡ lấy nó, hoặc nếu không thì phải ôm nó kè kè bên hông. Vì nếu không thì mỏng quá nó toạc mất. Sau đó, có người nghĩ đến dùng bao tải, bao bố cũ để may. Được thể, thôi thì gặp vải gì cũng may được. Còn kiểu thì tự do. Từ cái xắc rập kiểu Âu châu, sang đến Việt Nam nó tha hồ thêm túi, bớt túi, bỏ nắp, thay đai, to bề ngang, cao bề đứng, lớn thì bằng cái bồ con, nhỏ thì bằng cái gối. Và nó ngang nhiên thay cái va-li kiểu cách, lạc hậu, thay đôi nừng, đôi thúng kềnh càng nặng nề. Mỗi người một ba-lô, trẻ con tuổi nào thì may cho cái ba-lô cỡ ấy, tất cả gia tài tống kỹ vào ba-lô lên vai, chân lên đường. Còn đến đâu thì cán bộ xã sẽ cho biết.
Ở các nước khác, ba-lô đi với khăn quàng, mũ kaki, can, tất cao cổ, giày đinh. Ở Việt Nam, bạn đồng hành của nó là ruột nghé. Ruột nghé là một cái túi vải đựng gạo. Thật là tiện lợi: cho gạo đầy ruột nghé, quàng ngang bụng rồi cột gút hai đầu. Cái ruột nghé mắc nghẽn ngang xương bàn tọa. Cái ba-lô sau lưng, cái ruột nghé ngang bụng, thế cứ trước mặt mà đi. Thỉnh thoảng đặt hai cùi chỏ nghỉ trên vòng ruột nghé, y như một cuộc đi ngoạn cảnh!
Cái ruột nghé thật là tiện lợi. Đi đâu mà có nó ngang hông tức như là dõng dạc bảo chủ nhà rằng:
"Bạn ơi, tôi có đủ cơm ăn cho tôi rồi. Bạn đừng lo. Tôi không làm phiền bạn đâu. Hột gạo lúc này quý lắm, tôi biết rõ". Quả thật như vậy, chạy tản cư vào nhà người quen mà có đem theo ruột nghé gạo thì ta mạnh ghé vào lắm vì ta chắc chắn là người quen của ta họ sẽ mạnh bạo đón tiếp ta. Cuộc chiến tranh càng kéo dài thì hột gạo càng quý. Lý do vì công việc đồng áng bị công tác kháng chiến làm trở ngại một phần. Một phần nữa là vì bom đạn mà mương đập bị phá, nhiều đồng lúa bị bỏ hoang. Khi lúa gạo dư đủ, được khách đến chơi nhà là một cái thú, đôi khi là một vinh dự, nhưng khi gạo phải tính từng ký, từng lon thì dù có hiếu khách đến đâu người ta cũng bị bắt buộc phải tính từng bữa ăn. Thế thì không còn cử chỉ nào đẹp bằng khi đi đến đâu mà cần tới nhà quen ở lại đôi ba ngày thì cứ thành thật tháo ruột nghé đong mỗi bữa sét lon gạo gởi ngay bà chủ nhà. Chạy tản cư không biết rõ con đường phiêu lưu dài ngắn thế nào thì cái ruột nghé gạo là món bảo đảm tối thiểu.
Quỳ sắp lại ba-lô của mình, loại bỏ những món không cần thiết và sắp xếp các món đem theo, theo thứ tự ưu tiên. Nếu lâm vào trường hợp mà cái ba-lô coi như quá nặng, quá cồng kềnh thì nàng sẽ bỏ lại hết mà chỉ rút mang theo một cái xắc. Trong cái xắc đó lại có một cái túi nhỏ đựng những vật quý giá như nữ trang, vàng, tiền, giấy tờ hộ tịch để phòng khi phải chọn lựa đem theo rất ít thì nàng cũng đã sẵn sàng.
Khi moi túi ba-lô ra, nàng suýt bật cười vì gói Zênxaquine bật tung trước mặt. Những viên tròn lăn chạy trên mặt bàn như bánh xe. Đó là thuốc nội hóa dùng trị sốt rét do Ty Y tế bào chế. Từ khi kháng chiến bắt đầu, Trung ương đã đề ra khẩu hiệu: "Trường kỳ kháng chiến nhất định thắng lợi" nên khuyến cáo các ngành sinh hoạt hãy đặt nặng vấn đề tự túc, cố gắng thay những món ngoại hóa nhập cảng bằng hàng nội hóa: giấy nội hóa, lụa nội hóa, bông gòn thấm nước nội hóa. Bác sĩ Quốc, Trưởng Ty Y tế được báo cáo ở miệt Phong Thăng, Phong Thái đồng bào hay lột vỏ cây dền nấu nước uống trị sốt rét liền thi đua với các ngành xin kinh phí mua về hàng trăm ký vỏ dền. Vỏ đó đem giã nát, rây nhỏ rồi cho vào khuôn in ra thành từng viên to bằng viên Aspirine và dày gấp đôi. Uống mỗi lần năm viên, thứ bột cây này hay nằm lì bám chặt ở nơi yết hầu làm rát mặt da và phải chiêu đến vài ly nước mới tống nổi chúng xuống dạ dày. Thuốc phát không cho cán bộ và đồng bào nên sức tiêu thụ rất mạnh. Có điều uống vào dường như chẳng có công hiệu gì cả nên sau chừng ba tháng phổ biến, đến kỳ thuốc chót chẳng ai thèm xin và đem cho cũng chẳng ai thèm nhận nữa. Quỳ không hiểu đã đặt tên cho loại thuốc đó "Zên" là dền, điều đó dễ hiểu, nhưng sao không gọi là Zénaquine cho tiện mà gọi là Zênxaquine trẹo họng rắc rối? Đối với cán bộ không biết chữ Pháp thì tên của món thuốc được nỉ non là Dền-xa-kin, nỉ non như tên một bản nhạc, một bài thơ, một lời than tuyệt vọng kiểu Hoàng xa Tâm, Anh xa em.
Ủy ban kháng chiến hành chính Tỉnh và các Ty dọn về An Định. Thường cứ cách bốn, năm tháng, lâu nhất là chín, mười tháng, cơ quan phải dời chỗ để phòng ngừa gián điệp địch đã dò biết được vị trí và báo cáo về đến tận bộ chỉ huy địch. Thường có trường hợp cơ quan vừa dời đi một ngày là hôm sau máy bay địch nhào xuống đến bốn năm chiếc bắn phá tan tành ngôi nhà. Dân chúng chuyền tai nhau không biết bao nhiêu là tin tức liên quan đến việc đó, nào là gián điệp gởi tin về Nha Trang bị chậm, nào là nhờ Công an bên ta chận bắt được gián điệp. Đồng bào đồn rằng cơ quan không phải đột nhiên mà dời trụ sở mà thường là sau khi bắt được tin tức cho biết tình báo địch đã tìm ra vị trí trụ sở của mình. Thành ra mỗi khi cơ quan dời đi là chủ nhà cũng lo kiếm chỗ bà con tị nạn vài ngày.
Phán Liễn gùi ba-lô lếch thếch dẫn đi đầu, chân cẳng mỏi rã, chửi thề luôn miệng. Vấp hòn đá cũng chửi, bị cành tre quất vào mặt cũng chửi. Tham Huy đi kề sau, cười hì hì:
"Chửi chi cho uổng hơi? Để dành sức mà đi".
Tá, Nghị, Chất, Sang, những nhân viên trẻ tuổi nói chuyện luôn miệng rì rầm suốt cả chặng đường.
"Đi ra An Định nghe nói có sông phải không tụi mày?" – Nghị hỏi. "Tao chịu thua xứ Phú Lộc rồi. Ba ngày mới tắm một lần".
"Ai như mi làm biếng? Chịu khó xách nước mà tắm chớ ai hầu hạ mi?"
"Giếng sâu cả mười thước, ngó xuống hun hút như đường đi Âm phủ".
Sang gọi:
"Tá ơi! Sao nãy giờ cứ câm miệng như hến vậy mày? Nhớ "em" hả? Tao biết nội đây chỉ có mày là muốn ở lại Phú Lộc hơn hết. Chắc giờ này "em" cũng đang ngồi nhớ mày vừa ngâm ca dao kháng chiến:
Thương chi cho uổng tấm tình
Nẫu về quê nẫu, bỏ mình bơ vơ.
Ba người tùy phái gánh ba đôi nừng cao trong đựng hồ sơ, máy đánh chữ và bút chì văn phòng. Sức nặng làm còng lưng họ và họ im lặng chạy những bước ngắn, không nói một lời. Tiếng Phán Liễn oang oang ở đằng trước:
"Nghe nói ở An Định con gái đẹp lắm… Để…"
Câu nói ngắt ngang đó và người ta thấy Phán Liễn đứng dừng lại, ngồi chổm xuống đất, né một bên nhường đường cho người sau đi tới.
"Sao đó? Tụt quai dép rồi hả?"
"Chớ còn gì nữa? Từ sáng đến giờ cứ thấy lùa kéo quai dép hoài".
"Giày dép như rứa, ném cha hắn xuống ruộng cho rồi".
Phán Liễn không nói, mò túi ba-lô lấy ra dụng cụ xỏ dây dép của mình, hì hục sửa lại. Đôi dép lốp cao-su bị mòn còn mỏng lét, lỗ xỏ dây lại quá rộng nên dây cứ tụt hoài. Phán Liễn biết cố tật của dép nên đi đâu cũng mang theo cái dụng cụ xỏ dây dép gồm một miếng thiếc mỏng, dài, bề ngang một phân và xếp làm đôi. Không có tiền để mua dép mới. Chín đứa con và một bà vợ tiểu thơ năng đau yếu.
…Sau khi sửa xong dây dép, Phán Liễn đứng dậy lúp xúp chạy theo, chạy kịp người chót rồi lại len lỏi muốn chạy lên đầu hàng. "Coi chừng đó! Coi chừng sút dây dép nữa đó!"
Phán Liễn không trả lời. Tham Huy vẫn giọng lửng lơ:
"Thằng cha ni già rồi mà nhát gan dữ. Sợ ma lắm sao mà không dám đi sau?"
"Ma gì? Có "ma phăm" thì đây mới sợ".
"Rứa sao lại cứ đòi vọt lên trước? Đi tản tản ra để nhỡ có máy bay thì lủi vào ruộng mía. Chứ đi cái kiểu chi mà kéo dài cả đoàn hàng mười lăm hai mươi thước thế này? Có máy bay thì nhất định cả Ủy ban dọn lên Thiên Đàng hết".
"Sợ gì? Bộ đội người ta hành quân đi cả đoàn dài, người ta còn không sợ. Hễ nghe tiếng máy bay gần quá chạy không kịp thì cứ ngồi im xuống đất, không nhúc nhích. Máy bay nó tưởng lầm là một bờ đê, một dãy bụi bờ".
"Nói nghe có giọng huấn luyện viên dữ. Người ta đồng phục màu xám, màu tím than thì máy bay nó mới lầm, đằng này áo trắng, quần xanh, áo xanh, quần xám, lộn xộn lạo xạo lại hai cái nón trắng hếu của thằng Tá và anh tùy phái".
Cả bọn giật mình la lối:
"Quỷ ơi! Sao hai con quỷ không lấy cây ngụy trang? Vậy mà từ xế tới giờ không ai để ý".
Tùy phái nhe răng cười trừ.
"Chiều rồi mà, mấy thầy. Tàu bay đâu có lối giờ này?…"
(Trích Những cánh chim bay, từ trang 173-183)
Gửi
Trong suốt thời gian làm việc để thực hiện cuốn sách, kẻ viết như bị ám ảnh bởi những vui buồn không phân định. Vui vì mỗi tác phẩm mở ra trước mắt một khung trời riêng biệt, lại trình bày một cảnh trí thật linh động lôi cuốn kẻ viết vào cơn mê kỳ thú.
Những người làm văn nghệ hôm nay – nhất là những người trẻ tuổi – nhờ hoàn cảnh, họ đã có được môi trường thuận lợi và nhiều cơ hội có thể phát triển tài năng qua nghệ thuật. Đời sống nghệ thuật bây giờ không thu nhỏ trong chu vi hạn hẹp của một vài nhóm, tóm trọn uy quyền sinh sát trong tay như thời tiền chiến. Nói đến văn nghệ tiền chiến là nói đến cái gì ghê gớm, cao siêu, cách biệt, là nói đến thứ văn nghệ đóng kín, đầy mặc cảm tự tôn của nhóm Tự Lực Văn Đoàn, Tiểu Thuyết Thứ Bảy, Trung Bắc Chủ Nhật, v.v. Những người làm văn nghệ trẻ lúc ấy, không dễ gì lọt qua được cửa ải của một trong mấy nhóm đó. Họ tự cao, tự đại không muốn ai tham dự vào sinh hoạt ngôn ngữ của họ, trừ một vài người có tài năng thật đặc biệt và cũng phải giao du rộng, họa may! Cái "văn phiệt" ấy, mừng thay, nó không hiện diện ở vùng trời nghệ thuật hôm nay, thảng hoặc nếu có, nó cũng không dám hoạt động công khai.
Sự thực, các nhóm văn nghệ nói trên, đứng từ cái nhìn hôm nay để nhận định, cũng chẳng có gì ghê gớm, vĩ đại, mà sao thời đó nó khiếp đảm đến thế? Mỗi bài văn, mỗi dòng chữ của họ có ảnh hưởng sâu đậm, làm độc giả thời ấy mê cảm đến kính phục. Nhưng, thời gian đã đẩy lui họ vào dĩ vãng. Họ đã làm xong nhiệm vụ đối với lịch sử văn học nghệ thuật Việt Nam. Có người còn sống, có người đã khuất bóng. Có người để lại danh thơm, có người chìm vào hư không vĩnh viễn! …
Sở dĩ kẻ viết phải nói đến, khơi động lại dòng thời gian chìm khuất vì trong lòng có mối thương xót riêng tư. Mối thương xót đó, từ mấy chục năm rồi, làm kẻ viết đau đớn vô cùng, lại càng đau đớn hơn, từ khi nuôi ý định về mười khuôn mặt văn nghệ hôm nay. Nguyên kẻ viết có người anh ruột, vì say mê văn nghệ mà chết cô đơn lạnh lẽo trong vòng đai đồn điền cao-su Lộc Ninh cách đây gần ba mươi năm. Khi mất anh mới 29 tuổi, còn trẻ hơn cả người ít tuổi nhất, viết trong cuốn sách này. Anh tên Thức, con thứ ba trong gia đình có tám anh em (7 trai, 1 gái). Kẻ viết đứng thứ sáu. Anh Thức trông đẹp trai và thật dễ thương. Anh rất thông minh, ưa mơ mộng. Anh đi vào nghiệp viết văn, làm thơ từ năm 18 tuổi. Kẻ viết lúc ấy còn nhỏ, nên không đủ khả năng tìm hiểu sâu xa về văn nghệ nhưng rất thích hai bài văn: Trịnh chúa Lê nương và Đông về thu cúc rụng viết theo đề tài dã sử do anh sáng tác, đăng tải trong tờ tuần báo Tiểu thuyết thứ bảy (vào năm 1938 hay 1939 gì đó), dưới bút hiệu: Bảo Cầm.
Chẳng biết vì lý do nào, sau đó ít lâu, đương đi làm cho một hãng buôn Pháp với lương tháng 30 đồng (bây giờ vào khoảng 40 ngàn), anh xin thôi việc, để dấn thân hẳn vào cuộc đời văn nghệ mà không cho gia đình biết trước. Bố mẹ thật buồn phiền, nhưng đã lỡ đành chịu.
Từ đó, ngày ngày anh đọc sách và viết. Anh dịch thơ của Vitor Hugo, Lamartine và tập Les Nuits của Alfred de Musset cùng nhiều tập truyện của Guy de Maupassant, Alphonse Daudet và Pierre Loti nữa. Chữ anh tốt và bay bướm. Bản thảo anh viết cũng cầu kỳ, cẩn thận, trang nào trông cũng sạch sẽ, không tẩy xóa lem nhem.
Trong gia đình, anh thương mến kẻ viết nhất, vì cho rằng kẻ viết có "tâm hồn". Mỗi khi sáng tác hoặc dịch xong bài nào vừa ý, anh thường đưa cho xem. Lúc ấy, kẻ viết chỉ biết phục tài anh qua những câu văn hoa mỹ. Ban ngày, anh viết liên miên, nhưng sau bữa cơm chiều, anh đóng bộ thật đẹp đi chơi tới khuya, có khi suốt sáng mới về.
Có nhiều sáng, kẻ viết nhìn da mặt anh tái mét, nhợt nhạt, chợt la lên. Anh vội ra dấu bảo im, rồi vào buồng riêng đóng chặt cửa, đánh phấn bôi môi để lấy lại sắc diện hồng hào. Bố mẹ la rầy hoài về chuyện đi đêm, nhưng anh không làm sao bỏ được tật đó. Mẹ không như bố, tuy mắng mà vẫn dấm dúi tiền cho anh tiêu. Dù đi chơi đêm, anh vẫn viết đều gửi các báo. Nhưng bài gửi thì nhiều mà chẳng thấy đăng mấy, trừ vài tờ hàng ngày, cho đăng vào trang ba. Lâu dần, nản chí, anh đi lu bù cả mấy ngày mới trở về nhà. Quần áo lúc đi thẳng nếp, trông tươm tất, khi về, nhăn nhúm tang thương, cổ áo sơ-mi vàng khè dơ dáy. Mẹ phải cho tiền đưa tiệm giặt, ủi lại cho ngay ngắn, dễ coi.
Thời gian qua đi, hết mùa lạnh sang mùa nóng. Một bữa, kẻ viết nhìn thấy anh gói bộ đồ dạ mà mẹ mới cho tiền may hồi Tết. Vô tình, kẻ viết hỏi: "Anh mang đi đâu?" Anh bảo: "Mang đi hấp". Tuy thắc mắc vì bộ đồ còn mới nguyên nhưng cũng đành tin như vậy.
Dạo sau anh ít viết. Đêm đi, ngày ngủ, trông anh phờ phạc hẳn. Mẹ chửi mắng chán rồi ôm mặt khóc, bố giận không thèm nói tới.
Một buổi mẹ bảo: "Con thử theo anh, xem nó đi những đâu mà tối nào cũng đi vậy? Mẹ nhìn sắc mặt nó độ này xấu quá!" Nghe lời mẹ, tối đó, kẻ viết lẽo đẽo theo anh, giữ khoảng cách độ 50 thước. Anh vô tình cứ đi không quay đầu nhìn lại. Anh đi mãi lên phố hàng Quạt, rồi dừng bước trước căn nhà lụp xụp, đẩy cửa bước vào. Ánh đèn mờ nhạt từ bên trong hắt dài bóng anh xuống vỉa hè một thoáng. Cánh cửa khép nhanh, nhưng không kín, để lộ một đường ánh sáng nhỏ chảy dài từ trên xuống dưới. Kẻ viết lướt nhanh đến, ghé mắt nhòm qua khe cửa. Trong nhà vắng hoe. Ở góc chiếc cầu thang gỗ nhỏ, một đứa bé đang cắm cúi học bài. Mùi nha phiến thoang thoảng đâu đây. Đứng một lúc lâu, kẻ viết hiểu sự tình gì đã đến với anh. Nhưng vì tò mò, kẻ viết se sẽ đẩy cửa lách vào. Đứa bé không ngẩng đầu lên. Kẻ viết bước nhẹ lên cầu thang. Hương nha phiến tỏa ngào ngạt. Căn gác thấp và tối om. Cái cửa độc nhất vào buồng lại đóng kín. Kẻ viết cố tìm khe hở để nhòm nhưng không thấy. Giữa lúc đó, có tiếng giày nặng nề bước lên. Kẻ viết vội nép người sát vào tường. Hai gã trai trẻ khệnh khạng nhô dần lên, toát nồng hơi rượu. Gã đi trước cho tay xoay núm cửa: "A, thằng Thức đây rồi!" Kẻ viết tự nhiên thấy tim mình như có sợi dây thắt lại. Họ xăm xăm bước vào. Kẻ viết ngó mắt nhòm theo, thấy anh mình đang nằm nghiêng, mắt nhắm lại, mồm ngậm chặt chiếc dọc tẩu kéo ro ro. Dưới ánh sáng lờ mờ, mấy thân người nằm bất động chung quanh vài ngọn đèn dầu lạc.
Về đến nhà mẹ hỏi: "Sao con?" Kẻ viết không dám cho mẹ biết sự thật, đành nói dối: "Con thấy anh đi ci-nê". Mẹ bảo: "Ci-nê gì mà suốt đêm?" Kẻ viết nói loanh quanh để mẹ yên lòng vì lúc ấy, mặt mẹ đã long lanh giọt lệ, tóc mẹ đã ngả màu dưới ánh đèn.
Những tối kế tiếp anh vẫn đi. Trong nhà có thứ gì quý, tự nhiên biến dần. Do đó, mẹ càng nghi ngờ, nhưng không bảo kẻ viết theo nữa, cho người khác đi rình. Lần này, gia đình biết rõ sự thực. Bố chửi, mẹ khóc, anh em đều buồn, nhà như có đám tang. Trước anh còn chối, sau nghe mẹ nói đúng quá, anh đành nhận có hút vì vui với anh em. Cả nhà xúm vào dỗ dành khuyên nhủ, anh hứa chừa. Mẹ nói, cần bao nhiêu tiền uống thuốc cai mẹ cho. Mẹ mua của ngon vật lạ cho mình anh ăn thôi. Lúc này anh làm thơ giải sầu. Những vần thơ lục bát nghe buồn đứt ruột. Ở nhà uống thuốc độ nửa tháng, trong anh béo tốt hẳn ra. Ai cũng mừng, nhất là mẹ. Một tối, anh rủ kẻ viết đi ci-nê, vì đi một mình mẹ không cho, sợ hút lại. Hai anh em lững thững lên rạp Olympia ở chợ Hàng Da xem phim "Je suis un évadé" do tài tử Henry Fonda đóng. Anh chỉ mua có một vé đưa cho kẻ viết, bảo vào xem một mình để anh đi thăm bạn bè, lâu ngày không gặp. Trong lòng kẻ viết thật bối rối, toan trả vé đi theo anh, sợ có gì mẹ lại khóc, khổ lắm! Nhưng khi nhìn thấy nét mặt anh, bỗng thương hại. Anh nói: "Tan ci-nê cứ chờ đây, anh đón cùng về".
Buổi tối đó, trong khi kẻ viết đang mê mải với tài diễn xuất của Henry Fonda, anh đi hút lại. Rồi những hôm sau, anh tìm cớ ra phố mỗi ngày. Năm ấy, anh mới 24 tuổi. Bố mẹ thấy không xong, bèn mắng nhiếc đuổi khỏi nhà. Việc này chỉ nhằm dọa cho anh sợ để bỏ hút, nhưng hình như định mệnh đã bắt anh phải gian truân, làm sao anh cưỡng chống?
Kẻ viết nhớ như in trong đầu, tối đó trời mưa lạnh, anh lí nhí chào bố mẹ rồi xách chiếc va-li cũ mèm lầm lũi ra đi. Kẻ viết lên lầu đứng trên ban-công nhìn theo anh, tới đầu phố anh rẽ ngang, mất hút. Hai dòng lệ lăn tròn trên má tự lúc nào!
Rồi một buổi chiều chạng vạng, kẻ viết đang đứng trên lầu ngó trời buồn, trước khuôn cửa, bỗng nhìn thấy anh đứng nép dưới mái hiên một căn nhà phía bên kia đường giơ tay vẫy. Kẻ viết vội xuống lầu, đi nhanh đến phía anh, nhìn sững sờ. Mới xa gia đình có gần một tháng mà sao anh xơ xác quá vậy? Khuôn mặt anh gầy rộc hẳn đi, râu anh tốt, lâu không cạo, mọc tua tủa như râu Lý Thiết Quài. Kẻ viết ôm chặt lấy anh, khóc ngất. Anh cũng khóc. Toàn thân anh hôi hám, vì quần áo lâu không giặt quyện vào mùi dầu lạc và khói thuốc phiện làm buồn nôn. Sau cơn xúc động, kẻ viết hỏi: "Bây giờ anh ở đâu, làm gì để sống?" Mắt anh đục ngầu bờn bợt, vẻ tinh anh hôm nào không còn nữa. Anh nói thì thào" "Mấy bữa nữa, vào Sài Gòn làm báo!" "Anh quen ai trong đó? Thôi về nhà, từ hôm anh đi, mẹ khóc hoài, khổ lắm!" Anh lắc đầu: "Không, anh không về nhà nữa!" Nói xong, anh cúi xuống nhìn màu đất xám ngoét dưới chân. Kẻ viết thấy anh mặc bộ đồ cũ, hỏi: "Bộ đồ mới may hồi Tết đâu, sao anh không mặc lại mang bộ này trông nhơm nhếch quá!" Anh nói: "Bộ đó đã đem cầm ở nhà Vạn Bảo rồi, chưa có tiền chuộc!" Kẻ viết muốn hỏi anh nhiều, nhiều nữa rằng, vì sao anh nghiện? Tại sao anh đang làm sung sướng thế, lại xin thôi? Tại sao anh làm khổ cả gia đình, để mẹ khóc suốt ngày? Tại sao anh lấy đồ quý đi bán làm bố rầy mẹ la? Thuốc phiện có gì mà nó hành hạ anh khốn khổ thế này?… Nhưng những câu hỏi như đọng ở cuống họng, không sao thốt thành lời. Bỗng anh nắm chặt tay kẻ viết: "Em có tiền không, đưa anh mượn, mai đi chuộc bộ quần áo để mặc vào Sài Gòn làm ăn". Sài Gòn, đối với kẻ viết lúc đó xa lắm, xa tít mù khơi, có lẽ đến chết mình cũng không thể biết cái xứ đó. Kẻ viết chợt nghĩ đến số tiền bỏ ống. Số tiền này do các anh lớn đi làm (trong đó có anh), mỗi tháng cho một, hai đồng để ăn quà, mua sách, còn bỏ ống để dành, khi cần mua sắm những gì mình thích.
Kẻ viết không nói, đi nhanh về nhà, trèo hai bậc thang một, lên lầu, lôi cái ống tre già cất dưới gầm tủ. Tiếng bạc cắc chạm nhau rổn rảng trong ống tre. Kẻ viết không nhớ rõ bao nhiêu, nhưng thấy cũng hơi nằng nặng. Lúc xuống gần hết cầu thang, gặp mẹ. Mẹ hỏi: "Mày đi đâu mà chạy sầm sầm như bị ma đuổi thế này?" Kẻ viết dừng lại, đưa nhanh ống tiền ra phía sau lưng, nhìn mẹ cười lảng. Mẹ buồn nên không để ý.
Cầm ống tiền, tay anh hơi run, nói khẽ: "Mai mốt đi làm, có tiền sẽ trả lại em!" Xong anh vỗ nhẹ vào vai kẻ viết như an ủi, rồi lầm lì bước đi. Kẻ viết có ngờ đâu, đó là lần sau cùng được nhìn anh. Anh vào Sài Gòn thật, nhà nhận được thư gửi ra. Anh không viết gì ngoài việc hỏi thăm và xin lỗi bố mẹ cùng anh em, cuối thư, anh nhờ kẻ viết cất giữ giùm anh mấy tập bản thảo và mấy tờ báo có đăng bài anh viết, khi nào cần sẽ viết thư ra, gửi vào Sài Gòn cho anh. Đọc thư, mẹ lại khóc suốt ngày, lầm bầm oán trách người nào đã rủ rê anh đi vào con đường thuốc sái. Lâu lâu lại nhận được một lá thư, lời lẽ chán nản vì đời sống Sài Gòn cũng khó lắm, nhất là làm báo. Mẹ bảo kẻ viết biên thư trả lời và hỏi, nếu anh bằng lòng, mẹ lấy vé tàu gửi vào để anh trở ra. Mẹ nhấn mạnh gần như van xin con, hãy bỏ thuốc phiện. Thư gửi đi, mãi không thấy anh trả lời. Mấy thư sau, cũng chẳng có hồi âm.
Mẹ đành nhớ thương đứa con tài hoa mà mẹ yêu quý nhất bằng nước mắt, với tiếng thở dài hằng đêm.
Bẵng đi vài năm, gia đình bỗng nhận được tin, do một người bạn cùng làm với anh ở đồn điền cao-su Lộc Ninh báo tin, anh đã mất vì cạy mụt "đinh râu" (Staphyloccie malingne de la face). Nguyên do tính anh hay làm dáng, buổi sáng rửa mặt soi gương thấy cái mụt, tưởng nhầm là trứng cá, cho tay cạy lên. Chỉ mấy tiếng đồng hồ, mặt anh sưng to bằng cái đĩa và sau 48 giờ anh mất, dù đã được các y tá của bệnh xá săn sóc tận tình. Trong thư nói, đám táng đã được anh em cùng sở lo chu đáo, gia đình cứ yên tâm. Người bạn cũng cho biết, anh đã bỏ thuốc phiện gần một năm, và định đến Tết sẽ trở ra Bắc thăm nhà. Sở dĩ, anh lên làm đồn điền, do người bạn Pháp quen từ Hà Nội giới thiệu. Anh đi vào lòng đất, do số mệnh đã đành, nhưng nếu thời ấy có thuốc trụ sinh, chắc ít ân hận hơn.
Mẹ khóc ngất từng cơn, cả nhà khóc. Bàn thờ anh, được thiết lập ở căn buồng nhỏ trên lầu, nơi xưa anh thường ngồi viết. Tấm ảnh được lồng khung kính, treo ngay ngắn trên tường. Chiếc bát hương nhỏ, màu xanh biếc lởm chởm những chân nhang đỏ chói, trông thật buồn! Kẻ viết trang trọng đặt tập bản thảo của anh ngay ngắn trên bàn thờ, trong đó có cả hai số Tiểu thuyết thứ bảy và các tờ nhật báo Đông Pháp, Ngọ báo, v.v.
Mỗi chiều, mẹ đều cúng cơm, nhìn ảnh anh rồi khóc cả giờ chưa dứt!…
Anh Thức,
Hôm nay em ngồi viết những dòng này để kính dâng hương hồn anh, người anh tài hoa vắn số. Anh mất đi như một vô danh. Nhưng cũng nhờ anh, em đã tránh thoát được cám dỗ của Phù Dung Tiên Nữ. Trong suốt dòng sống nghệ thuật, đã bao lần, em ngồi bên cạnh khay đèn với những người bạn làm văn nghệ rất thân từ tuổi hoa niên, nhưng không một lần, em dám kề môi vào chiếc dọc tẩu để tìm hiểu cảm giác!
Em cũng biết, khi bước chân vào văn nghệ, một là anh chưa đủ thứ nhất để tự mình hình thành giá trị, hai là không gặp được hoàn cảnh may mắn, mà số mệnh lại run rủi cho anh đi vào đam mê trước khi tìm đường đến sự nghiệp. Những người làm văn nghệ trẻ bây giờ, không phải họ đều có may mắn hơn anh thuở trước. Cũng có một số, mắc vào vòng oan nghiệt của ma túy lúc công chưa thành, danh chưa đạt. Một số kinh qua được trong đó, có những khuôn mặt trai trẻ được em viết nơi đây; nhưng ngày mai, chưa biết?… Chỉ biết cái lề lối sống bê tha, trác táng không phải là "sinh hoạt mẫu" cho thế hệ văn nghệ hôm nay, một phần nhờ cuộc chiến sôi bỏng với các vấn đề lớn do cuộc sống đẩy tới, đã cuốn họ vào guồng máy làm cho choáng váng, hơn nữa, họ đi vào khung trời văn nghệ vì ý thức được cái ý nghĩa cao cả của nghệ thuật, tự nó đã là nguồn đam mê vô hạn.
Em gia nhập nghiệp văn hôm nay là để tiếp tục con đường mà định mệnh đã bắt anh bỏ dở. Em tin, trong cõi Chân Không Tịch Mịch kia, anh đang nhìn em trìu mến như thuở nào chúng ta còn thơ ấu. Em nguyện cố gắng gìn giữ chút hương thơm của gia đình mà ngẫu nhiên em được trao vinh dự.
Sài Gòn, ngày 1 tháng 7 năm 1971
Tạ Tỵ
Nguồn: talawas.org
eva air của hãng nào
vé máy bay 2 chiều đi mỹ
korean airlines vietnam
đại lý bán vé máy bay đi mỹ
giá vé máy bay đi canada
Những Chuyến Đi Cuộc Đời
Ngau Hung Du Lich
Tri Thức Du Lịch