Một thế hệ mới
Đó là một thế hệ có trình độ học vấn, đa tài và hoạt động ở
nhiều lĩnh vực xã hội. Họ sáng tạo nghệ thuật và có nhiều điều kiện
giao lưu quốc tế. Họ khẳng định một thế hệ trẻ hôm nay của một đất
nước mở cửa và hội nhập, hoàn toàn khác với thế hệ nhà thơ đi trước trưởng
thành trong chiến tranh. Nguyễn Hữu Hồng Minh cho biết: “Có xu thế thăm
dò và cổ vũ mọi tìm kiếm, mọi thể nghiệm trong nghệ thuật Thơ của người viết trẻ…. Đó
là thế hệ dò tìm, phác họa chân dung, gương mặt của chính mình sau chiến tranh. Nói
cách khác, giả sử cha anh chúng tôi đã sinh trưởng vào thời điểm như chúng tôi,
thế hệ của e-mail, chat, internet…, khi thông tin đang mở rộng và thu hẹp lại
thế giới, thì chắc họ cũng phải trăn trở, cũng phải thể nghiệm như chúng
tôi... Dò tìm gương mặt mới của thế hệ “(1)
Xin đơn cử một vài trường hợp
Nguyễn Vĩnh Tiến, Đại Học Kiến Trúc Hà Nội, tốt nghiệp
loại giỏi, Cao học Pháp Ngữ (Master Francophone) “Toulouse-Hà nội
2001-2004”. Chủ tịch HĐQT, Tổng Giám đốc Công ty CP Kiến Trúc & Thương
Mại Việt Pháp (T-group), là người "bay giữa kiến trúc, nhạc và thơ”. Văn Cầm Hải, Cử nhân Văn Khoa, Cử nhân Luật khoa. Tu nghiệp báo chí tại
Hà Lan 2002 - Được mời tham gia chương trình Viết Văn Quốc Tế tại University Of
Iowa (The University of Iowa, International Writing Program), Mỹ, 2005. Nguyễn
Thúy Hằng, họa sĩ, tốt nghiệp Đại học Mỹ thuật TP HCM, học nâng
cao về hội họa đương đại tại Mỹ. Lê Vĩnh Tài, Đại học Y Khoa
Tây Nguyên, Buôn Ma Thuột, làm nghề tự do. Phan Huyền Thư, tốt nghiệp đại
học Tổng hợp khoa Văn năm 1993, là biên kịch hãng phim Tài liệu và khoa học
trung ương. Nguyễn Vĩnh Nguyên khoa ngữ văn, Đại học Đà Lạt, 2001, là
phóng viên văn hóa của báo Sài gòn Tiếp thị. Vi Thùy Linh, Đại học
báo chí, Trần Ngọc Tuấn, Đại học Kinh tế thành phố Hồ Chí Minh, Nguyễn
Hữu Hồng Minh, Nhà thơ. Nhà văn. Nhà báo, từng được trung tâm văn học
Literaturwerkstatt (Berlin) và Viện Goethe Institut (Munich) tổ chức dịch tác
phẩm và mời sang Đức nói chuyện, giao lưu, đọc thơ, được giới thiệu trên tạp chí Thi Bình (số 5.2005) Hàn Quốc, được đánh giá là một trong số ít những
nhà thơ trẻ triển vọng, có nhiều cách tân đột phá của thi ca Việt Nam hiện đại.
Nguyễn Huy Thiệp đã từng nhận xét như thế này, và tôi tin rằng
ông đã ngộ nhận. ”Nhìn vào danh sách hơn 1000 hội viên Hội Nhà văn Việt
Nam người ta đều thấy đa số đều chỉ là những người già nua không có khả năng,
sáng tạo và hầu hết đều… "vô học", tự phát mà thành danh.
Trong số này có tới hơn 80% là nhà thơ tức là những người chỉ dựa vào
"cảm hứng" để tùy tiện viết ra những lời lẽ du dương phù phiếm vô
nghĩa, nhìn chung là lăng nhăng, trừ có dăm ba thi sĩ tài năng thực sự (số này
đếm trên đầu ngón tay) là còn ghi được dấu ấn ở trong trí nhớ người đời còn
toàn bộ có thể nói là vứt đi cả.(2)
Trong bài viết này, tôi sẽ tiếp cận thơ trẻ ở ý thức sáng tạo
của tác giả, ở thi pháp và phong cách (nếu có) để thử phác họa chân dung
từng nhà thơ, định hình gương mặt của một thế hệ nhà thơ mới qua những
tên tuổi ít nhiều đã tự khẳng định mình trong thơ ca
Những gương mặt mới
1. Nguyễn Hữu Hồng Minh: Là người được tạp chí
Thi Bình (số 5.2005) Hàn Quốc, đánh giá là một trong số ít những nhà
thơ trẻ triển vọng, có nhiều cách tân đột phá của thi ca Việt Nam hiện
đại.
Thơ của anh là thơ tư tưởng. Anh suy tư sâu sắc những trải
nghiệm;
”Sự sống thật là sự sống réo trên đầu sự chết”
(Sự Sống Thật)
Anh thấy sự chết hiển hiện trong tất cả tồn tại.
“Tôi thấy cái chết ló dạng trong những câu thơ tôi vừa viết…
“Chúng ta người đã chết lại bàn cãi quá ồn ào về cái chết“
(Sự Vụ)
Hiện hữu đối với NHHM là hiện hữu thừa và dơ bẩn (Ghi
Chép Rời), hiện hữu phân rã (Sóc Trăng, Lỗ Thủng Lịch Sử).
Con người xa lạ với chính mình, xa lạ với tha nhân. ”Giữa chúng ta những
bến không bờ/ Những bờ không bến/ Chúng ta nhị nguyên“ (Giữa
Chúng Ta). “Đôi khi tôi giật mình vì một tiếng nói xa lạ/ như tôi
tìm được thanh đới mình từ cổ họng những người đã chết” (Tiếng Nói Bội
Trương). NHHM không thể hình dung nổi người yêu của mình Giữa
một “cuộc tồn tại không tình yêu, không em trơ vắng hoang điạ những ngón
tay đồ tể khai quật hoa văn xác ướp“ (Mẫu Tự). Tất cả vui lấp
trong cát, tuyệt vọng. “Em ơi, hãi bới cát tìm cuống họng cho anh/ để
anh tập đánh vần lại chữ A/ A!A!A!/ Trước một đời sống cát“ (Bài
Cát).
NHHM mất phương hướng trong cõi hiện sinh chỉ là những mảnh vỡ. Hắn là một kẻ không đầu, không tay chân, không cả dương vật, không tiếng nói.
Một Ngày Tự Do cũng là tự do ý thức về cái chết, hiện
sinh Chậm Như Thùng Thuốc Nổ.
“Nhưng khi hắn cần dương vật thì hắn biết bỏ quên ở Sài gòn
Hắn cần đầu thì mới hay vứt ở Hà Nội
Hắn cần khua khoắng chân tay thì đã rụng rơi đâu đó ở Cà Mau
Dạng háng! Hãy dạng háng!
Hắn kêu lên với những tiếng của lỗ đít...”
(Lỗ Thủng Lịch Sử)
“Y lang bang đâu khi không đầu?
(Ăn Hải cảng)
NHHM trăn trở nhiều về thơ ca, nhưng thơ ca cũng chết, anh bế
tắc
Mi không phải là thi sĩ!
Khốn nạn mi không phải là thi sĩ!
Đừng ảo tưởng!
Chữ nghĩa đã hoá gạch đá xây mồ táng mi…
… Giã từ thôi, giã từ.
Trên bàn tay bại liệt của mi ngòi bút trơ cạn dòng suối
máu...
(Giã từ)
Có thể nhận thấy NHHM còn đang trải nghiệm, anh
chưa đạt tới ý thức về nỗi chết bằng Haller trong Sói Cô Đơn (Steppenwolf)
của Hermann Hesse. Anh nhận ra một thế giới xa lạ nhưng chưa nhìn thấy cái xa
lạ, phi lý như trong Kẻ Xa Lạ (L’étranger) và Ngộ Nhận (Le
malentendu) của A. Camus. Anh vẫn còn hăm hở “ăn“ trong cuộc hiện sinh
và “Không nghĩ mình có thể ăn nhiều thế“ (Ăn Hải Cảng) mà chưa
chưa trải nghiệm trạng thái buồn nôn của J.P.Sartre. Anh chưa vượt
qua được hiện sinh như S. Kierkegaard hay Nietzsche. NHHM mới chỉ chạm tới tư
tưởng về hiện sinh. Có thể anh sẽ còn đi tiếp hành trình tư tưởng của mình
trong thơ ca.
Về nghệ thuật, Thơ NHHM chưa vượt qua được những
thành tựu của người đi trước. Thơ anh giàu chất suy tưởng,
nhưng suy tưởng của anh không phong phú bằng Chế Lan Viên, anh thể hiện tư tưởng
hiện sinh nhưng anh chưa tiếp cận được cách viết dòng ý thức như
thơ Thanh Tâm Tuyền (bài thơ Phẫu Tích là một bài có cách viết gần như
bài thơ ĐEN của Thanh Tâm Tuyền). Khi anh viết về những trải nghiệm ăn chơi,
người đọc còn nhận thấy ảnh hưởng của Đỗ. KH. Anh đem cái tục vào thơ chẳng
khác gì những nhà thơ “hậu hiện đại“ nói tục như những kẻ đầu đường
xó chợ.
“Hoảng loạn và kinh sợ khi hắn phát hiện ra mình vẫn sống mà
làm việc với những xác chết.
Đi đứng ngoằn nghèo như ma trơi, linh hồn quỷ nhập tràng luôn
dụ khị hắn làm những trò mê cuồng và quái đản.
(Lỗ Thủng Lịch Sử)
Đọc những dòng thơ trên, người đọc hẳn hoài nghi về ý thức
sáng tạo của anh. Anh cho rằng: “Thực ra ngôn ngữ rất ít hoạt động. Nó
“ngủ” là chính. Nó chỉ thức dậy và quậy tung náo loạn do ý thức điều khiển của
bộ não và cảm giác. Nó cũng không có từ đẹp hay từ xấu. Từ đẹp hay xấu là
do cảm quan cá nhân của người sử dụng và bối cảnh sử dụng...”. Nói về nhà
thơ nhà văn, anh chủ trương: “Tại sao khi họ dám xây dựng, tạo ra được một nhân
vật thì lại không dám để mình biến thành một nhân vật trong mắt kẻ khác?”, vì
thế anh dùng từ “vô tư” và nêu đích danh những đồng nghiệp văn chương làm đối
tượng chơi chữ của mình. Tôi nghĩ rằng, văn chương, ngôn ngữ không chỉ là con
chữ trung tính, mà còn là văn hóa, tư tưởng, và thẩm mỹ. Anh đã lật đổ những
“đại tự sự“ để dùng cái ấy vỗ vào mặt đồng
nghiệp của anh. Xin nhớ, họ là những người có nhân cách, là những
nhân vị xã hội, một Con Người với tất cả giá trị văn hóa, lịch sử và
truyền thống dân tộc. Anh đánh đồng họ với cái giống của anh và muốn
đối xử với họ chỉ bằng cái giống bản năng sinh vật thì hẳn đó là một sự tha
hóa, không còn là nghệ thuật nữa.
NHHM chưa định hình một khuôn mặt thơ với những giá trị
tư tưởng, nghệ thuật của riêng anh.
2. Vi Thùy Linh: Đối với Vi Thùy Linh , tình yêu và thơ là định mệnh. Nhà thơ
tâm sự: ”Mười hai năm làm thơ, sống cho thơ, tôi ngày càng thấm thía thơ là định
mệnh của tôi… Có hai lĩnh vực trường tồn qua mọi thời đại, bởi sức mạnh thiêng
liêng vượt qua mọi ranh giới, khác biệt, màu da, ngôn ngữ: đó là Tình yêu và
Nghệ thuật. Sống cho thơ và vì thơ mà sống đẹp, tôi vẫn tiếp tục hành trình
thơ, hành trình tình yêu của mình.” (Sống Thơ, 6.2007). Trước Vi Thùy Linh
(VTL) đã có nhiều người làm thơ tình, VTL đã làm mới thơ tình như thế nào?
Thơ tình VTL là thơ tình của người đang yêu, đang đắm say hạnh
phúc và hoan lạc. VTL miêu tả cuồng nhiệt hạnh phúc nhục thể hòa trong hạnh
phúc tinh thần trong nhiều bài thơ như Âu Cơ, Tình Tự Ca, Trên Ngực Anh,
..
Hồi hộp đến cuối đường tơ lụa
Tây Tạng mê ảo cuồng hoa
Trứng nhộn nhịp thụ thai
Âu Cơ rũ váy rũ nghiệt ngã
Lại hứng hứng gió thốc
Thôi miên những cánh cửa chồi răng
Hoa Thùy Linh
Đàn đàn mũi tên bay từ giữa hai đùi
Bắn nát sự cam phận.
Tây Tạng mê ảo cuồng hoa
Trứng nhộn nhịp thụ thai
Âu Cơ rũ váy rũ nghiệt ngã
Lại hứng hứng gió thốc
Thôi miên những cánh cửa chồi răng
Hoa Thùy Linh
Đàn đàn mũi tên bay từ giữa hai đùi
Bắn nát sự cam phận.
(Âu Cơ)
“Suốt đêm suốt đêm/
Những khát khao được giải phóng“
Trong đam mê và say đắm nghiệm sinh tình yêu nhục
thể, VTL đặt thành những tín niệm... Tình yêu làm nên nhân loại “Trong
lòng em, anh khai thị thế gian“ (Âu Cơ). Tình yêu là ánh sáng, là ngày
mới là sự sống.
“Cả thế giới chật ních buồn phiền bỗng nhiên vắng lặng
Để loài người học yêu nhau trở lại
Để loài hoa không bao giờ mãn khai, hé mở“ (Đường Ong)
Để loài người học yêu nhau trở lại
Để loài hoa không bao giờ mãn khai, hé mở“ (Đường Ong)
Tình yêu cứu rỗi nhân loại
“… Thế giới loạn ly vì lũ khủng bố cuồng man ngu muội cực đoan
quá khích
Nắm lấy tay nhau, những bàn tay không biên giới!...
… Những làn môi mọng đỏ đòi hôn như dâu tây đòi nước và ánh
sáng.
Nếu cả loài người đều yêu nghệ thuật và thơ hay, sẽ không còn
cái ác”.
(Hãy phủ thơ khắp thế giới của em!)
VTL kêu gọi giải phóng phụ nữ
“Hãy vĩnh biệt cuộc sống tĩnh mịch đơn điệu
Chịu đựng nô lệ giới tính bằng bị động
Hãy yêu nhau, đừng chần chừ nữa
Đừng giam đời trong hèn yếu, sợ đàm tiếu điều tiếng lên án từ những kẻ vô hồn bạc nhược
Nào cùng đi Hãy vĩnh biệt cuộc sống tĩnh mịch đơn điệu
Chịu đựng nô lệ giới tính bằng bị động
Hãy yêu nhau, đừng chần chừ nữa
Đừng giam đời trong hèn yếu, sợ đàm tiếu điều tiếng lên án từ những kẻ vô hồn bạc nhược
Nào cùng đi”
Chịu đựng nô lệ giới tính bằng bị động
Hãy yêu nhau, đừng chần chừ nữa
Đừng giam đời trong hèn yếu, sợ đàm tiếu điều tiếng lên án từ những kẻ vô hồn bạc nhược
Nào cùng đi Hãy vĩnh biệt cuộc sống tĩnh mịch đơn điệu
Chịu đựng nô lệ giới tính bằng bị động
Hãy yêu nhau, đừng chần chừ nữa
Đừng giam đời trong hèn yếu, sợ đàm tiếu điều tiếng lên án từ những kẻ vô hồn bạc nhược
Nào cùng đi”
(Bản Đồ Tình yêu)
Em giải phóng em trong thế giới tâm hồn
Hỡi những người phụ nữ, hãy yêu và sống đến cùng như mình muốn
Đừng mặc cảm giấu che! Nín đi! Bắt đầu cuộc sống không cần chịu
đựng, chờ chiếu cố
(Yêu cùng George Sand)
VTL khai thác triệt để những phần thân thể và những
hoạt động giao hoan tình dục, những cảm giác vật chất và tinh thần: Bàn
Tay, Đôi mắt Anh, Trên Ngực Anh, môi hôn, làn da, ”lưng anh
lưng em tự sóng” “anh hòa em vào máu“
Anh hạ trời xuống Anh nâng đất lên
Anh bùng vỡ thanh xuân cuồng điên
Trên lưng Anh, bơi mải miết ngón ngón em dài trắng
Môi em trườn đêm căng
Duỗi chân dài, em nối những ranh giới, những núi đồi, sông biển,
nhịp nhịp qua cầu đùi muốt
Vào lúc Anh lên em lên Anh
Thụ tạo giấc mơ ấp ủ
Em đạt khát khao làm Mẹ
(Nơi Ánh Sáng)
Yêu là liều, bất chấp ngặt nghèo ngăn cấm
Chẳng có gì trói buộc, hoãn, sợ run
Lúc 12 giờ đêm đến gần Anh đang đợi
Phòng ngủ biển xanh mây bay thiên thanh
Chiếc giường đàn hương - máy bay bằng gỗ
Dâng mình lên theo cơ thể ngút ngàn
Dâng từng đợt mưa say đợt cắn
Anh trai tráng hệt như chưa lần nào
Em nữ tính nhiều mà sao vẫn thiếu
Đóa nhung đen nở mịn đường cỏ ấm
Còn nợ mùa thu vì em trắng quá
Suốt đời mải miết chạy theo tình yêu
(Tình Tự Ca)
Tuy say đắm nhục thể nhưng VTL vẫn đủ tỉnh táo để suy tư về
tình yêu trong những tương quan nhân loại, nhìn đời tươi
xanh
Anh dắt em đi mãi trong màu xanh thành phố, trên triền xanh của
sóng, giữa không tận bầu trời
Chúng mình đã đi qua bao thế kỷ bất an, sao loài người yếu đuối
đến thế?!
Chúng mình đã đi qua ánh sáng bao nền văn minh huy
hoàng, mà nhân gian vẫn tìm gì mãi thế?! Điều quan
trọng nhất, bí mật hệ trọng nhất là biết yêu nhau trong sự sống tận cùng
Đi bộ qua những vòm trời, anh nằm bên em giữa thời đại mệt
nhoài rạn bóng những thế kỷ
Nhắm mắt để chuỗi ánh nhìn vẹn nguyên phát hàng triệu tia
bích ngọc
Máu anh truyền em truyền đời xanh thẳm
(Xanh)
Ta đi tìm thời gian đã mất trong thời gian đang trôi
Thong thả yêu nhau bằng khí lực thanh xuân, giữa chớp nhoáng
ngày đêm - tình huống nghiệt ngã của tạo hóa
Tận hưởng xuân ngưng lại mùa huyền bí
Làm như quên tình tiết trai gái hôn cháy cả giao thừa...
Trên da thịt đôi ta, theo hơi thở Anh, mưa xuân đang ấm
Gió lên tình, vờ không phân biệt nổi mùi nàng với ngàn hoa
(Ngưng lại mùa xuân)
VTL cũng có những bài thơ tạo được những xúc cảm thẩm mỹ mạnh
mẽ, khổng chỉ về niềm hoan lạc và về cả nổi buồn (Nhật Thực, Phía Ngày Tắt
Nắng)
Khi anh đẩy em bằng mắt
Trăng vừa tròn mười chín!
Em đã thả đi bao nỗi buồn
Buộc bằng tóc rụng,
Tóc đã rụng mùa mùa nhiều rồi
Mà chưa thấy nắng lên,
Em òa vỡ,
Những nỗi đau chèn nhau,
Em lầm lũi đến trước cổng nhà anh!
Nhặt xác nỗi buồn còn tươi nguyên,
Đốt lên thành lửa ném lên trời,
Đốt lên thành lửa ném lên trời
(Phía Ngày Tắt Nắng)
Trăng vừa tròn mười chín!
Em đã thả đi bao nỗi buồn
Buộc bằng tóc rụng,
Tóc đã rụng mùa mùa nhiều rồi
Mà chưa thấy nắng lên,
Em òa vỡ,
Những nỗi đau chèn nhau,
Em lầm lũi đến trước cổng nhà anh!
Nhặt xác nỗi buồn còn tươi nguyên,
Đốt lên thành lửa ném lên trời,
Đốt lên thành lửa ném lên trời
(Phía Ngày Tắt Nắng)
Nếu so sánh với thơ tình Xuân Diệu, Xuân Quỳnh, Nguyên Sa,
thơ tình Vi Thùy Linh đã mới hơn nhiều. Người đọc vẫn nhận thấy trong thơ
VTL chất đắm say của Xuân Diệu, chất suy tư tỉnh táo và đằm thắm thủy chung của Xuân Quỳnh, những tinh tế ngôn ngữ của Nguyên Sa, nhưng ở VTL, đúng
như nhà thơ tự nhận định, thơ VTL được viết bằng ngôn ngữ tinh
ròng, phong phú, bằng giọng tâm sự chân thành gần gũi giàu nữ tính
“Trổ nhiều ô cửa bằng vòm chữ, ngôn ngữ là di sản văn
hóa
Viết bằng tiếng Việt thật đẹp và cuốn hút, miệt mài quá mức”
(Yêu cùng George Sand)
Vì thế dù miêu tả tình dục, ngôn ngữ thơ VTL không trần tục
thô thiển, mà vẫn giữ được sự chừng mực, vừa đủ bộc lộ tất cả những
mê đắm, vừa đủ tỉnh táo giữ được cái đẹp của thơ ca trong cái đẹp cuộc sống
tươi xanh để tạo nên những giá trị mới cho thơ tình. Tuy nhiên, về
nghệ thuật, thơ VTL không mới.
Tôi nghĩ rằng tình yêu, tình dục, niềm hoan lạc trong tình
yêu không phải là tất cả. Cuộc sống có bao nhiêu vấn đề cần tiếng nói của thơ
ca. Khi tuổi thanh xuân qua đi, khi những trách nhiệm xã hội chồng chất lên vai
và khi tình yêu chỉ còn lại những giông bão sau những sắc màu của cầu vồng rực
rỡ, thịt da chai lỳ nhục cảm, thay vào đó là những đớn
đau thân xác (bệnh tật, sự tàn phai...), không biết VTL có còn viết
được những dòng thơ sung mãn như những gì chị đã viết. Không phải trong thơ chị
đã ánh lên những nét nhăn muộn phiền rồi đó sao. Dù sao VTL vẫn còn đang rất trẻ.
Tự nhủ không thể yêu ai nữa
Người đàn bà sống một mình, vừa muốn quên, vừa mong ngóng
Chị cố tránh con đường xưa…
Lại đêm…
Lại đêm…
(Thiếu Phụ và Con Đường)
Người đàn bà sống một mình, vừa muốn quên, vừa mong ngóng
Chị cố tránh con đường xưa…
Lại đêm…
Lại đêm…
(Thiếu Phụ và Con Đường)
Quả không vui chút nào khi bài viết này chưa kịp công bố thì
tôi nhận được tin: “tháng 11 này VTL sẽ ngừng làm thơ, Ít nhất là 5
năm tới cô sẽ không làm thơ nữa. Vì cô không muốn mãi làm thiếu nữ trong thi
ca. Cô muốn làm người đàn bà từng trải.” (theo Thùy Vân- An Ninh thế giới -
phongdiep.net 23.10.2008)
3. Lê Vĩnh Tài: Thơ Lê Vĩnh Tài khó đọc. Anh chủ trương vậy.
“Thơ, theo tôi nghĩ, nên bí ẩn chứ không nên bày tỏ, nên lỏng lẻo chứ
không bắt buộc…” “Thông điệp của thơ mang tính ẩn dụ và đôi khi khá
kiên nhẫn (và lắm lúc khá tàn nhẫn), không thể “bày tỏ hàng ngày”. (trả lời
phỏng vấn của Nguyễn Đức Tùng) Người đọc không đủ kiên nhẫn sẽ bỏ thơ anh mà
đi. Nhưng thơ anh có sức ám ảnh. Chữ nghĩa của anh trùng trùng điệp điệp, chữ gọi
chữ, lời tiếp lời, như không bến không bờ. Tôi không hình dung nổi anh lấy đâu
ra chữ để làm phong phú thơ anh đến thế. Đó chính là phẩm
chất thi sĩ ở anh, và hơn nữa, khả năng sáng tạo thật dồi dào. Anh không trau
chuốt lời như nhà thơ Lãng Mạn, không dụng công chữ nghĩa như Lê Đạt, không sử
dụng những kỹ thuật của thơ Hình Thức hay Hậu Hiện Đại. Làm thơ, với
anh tự nhiên như sự sống. Anh cho biết: ”Làm thơ là một việc tự
nhiên và “tuôn chảy” vô cùng, nhiều thứ cùng đến và cùng chồng mờ lên nhau cùng
một lúc,...”Tiếng Việt trong thơ anh là tiếng Việt mộc mạc chân thực, tự nhiên,
bởi thơ anh là thơ tâm sự, là lời chia xẻ những suy tư về cuộc sống. Tuy nhiên
tư duy nghệ thuật của anh là từ hiện thực, qua so sánh liên tưởng trở thành ẩn
dụ. Có những ẩn dụ gần gũi dễ nhận ra, nhưng có những liên tưởng đứt đoạn, nhảy
vọt, tạo ra những ẩn dụ đứt lìa với cái gốc hiện thực, thành ra khó
hiểu. Đọc thơ anh vì thế có lúc mệt nhoài mà vẫn bất lực, bởi vì như anh nói “nhiều
thứ cùng đến và cùng chồng mờ lên nhau cùng một lúc”, đành để cho những cảm
giác mơ hồ, những ẩn nghĩa lãng đãng mãi trong hồn, chờ mong một lúc nào đó hiện
hình trở lại trong cõi nhân sinh
Thơ của anh hay ở cách nhìn, cách thể hiện và cách
đặt vấn đề, tất cả đều rất riêng, một kiểu tư duy nghệ thuật của riêng anh.
Xin đọc:
Sự bình yên đã vắng bóng người
những tấn bê tông rơi như thiên thạch
vỡ đôi để lại bầu trời
xanh đến mức không làm sao tin nổi
máu của người lại có thể rơi
những giấc mơ chồng lên nhau lộn xộn
khi người từ 30 mét... ừ, thôi
không kịp lau mồ hôi và bùn sau mấy ngày mưa dầm và lạnh
từ nay mưa cũng thiếu hơi người
những tấn bê tông như mặt trời đang buồn và lặn
trong tưởng tượng của người
đêm đồng bằng những ngôi nhà đèn chong bên cửa sổ
cứ nhìn lên như mắt của người
còn khối bê tông trách nhiệm không rơi được
vì bắt đầu thấm máu
dù muốn chìm xuống sông Hậu
Anh nói đến vụ sập cầu Cần Thơ. Đó là điều không làm sao
tin nổi, một tai họa khủng khiếp như thiên thạch vỡ đôi để lại bầu
trời. Máu, mồ hôi, bùn đất, ước mơ của bao nhiêu người đã bị vùi lấp, nhưng rồi
người ta quên rất nhanh như ngày tàn (mặt trời đang buồn và lặn) Chỉ
có gia đình những nạn nhân, và chính nạn nhân, những ngôi nhà đèn
chong bên cửa sổ/ cứ nhìn lên như mắt của người.Anh lên tiếng quyết liệt đòi
phải có trách nhiệm. “còn khối bê tông trách nhiệm không rơi được/ vì bắt đầu
thấm máu/ dù muốn chìm xuống sông Hậu/ thật sâu. Bài thơ có sức lay động
xâu xa lòng người bởi những hình ảnh cứ soi vào mắt người đọc. Những người đã
chết, mắt cứ nhìn lên, trong khi những người có trách nhiệm lại muốn sự việc
chìm xuống thật sâu. Những ngôi nhà đèn chong bên cửa sổ héo hắt
biết là chừng nào. Tứ thơ rất lạ.” Những công nhân đã chết đột ngột, “… không kịp
lau mồ hôi và bùn sau mấy ngày mưa dầm và lạnh/ từ nay mưa cũng thiếu hơi người”.
Họ đổ mồ hôi cả khi trong mưa dầm và lạnh, họ làm cho mưa nắng thấm mồ hôi và
tình người.
Thơ Lê Vĩnh Tài là thơ của tình người thẳm sâu những kiếp
nghèo, kiếp khổ, hun hút bóng đêm. Anh nói nhiều đến nước mắt. Thế giới thơ của
anh là thế giới của bóng đêm. Anh xác nhận: “Vì xét cho cùng, “những điều chỉ
tìm thấy trong thơ” chính là nước mắt, thiếu những điều tìm thấy đó thì cũng
không còn đôi mắt nữa.“
...”nước mắt tràn trên mặt
tôi quên mất mình còn gương mặt
không biết mình còn là người hay không
tôi quên mất mình còn gương mặt
không biết mình còn là người hay không
(xa quá không sao biết được)
đêm ơi
ví dụ như ta đang bình minh
mặt trời trên trang giấy ngày xưa ta vẽ (*)
mỗi lúc một đỏ hơn
mỗi lúc một đớn đau hơn
đêm còn muốn một điều gì nữa?
(như một gợi nhớ của đêm)
ví dụ như ta đang bình minh
mặt trời trên trang giấy ngày xưa ta vẽ (*)
mỗi lúc một đỏ hơn
mỗi lúc một đớn đau hơn
đêm còn muốn một điều gì nữa?
(như một gợi nhớ của đêm)
Anh có những bài thơ xúc động về những thân phận của bóng
đêm, những người chết ngoài biển, bị tàn phá trong giông bão (Những Căn Nhà Bây
Giờ Nền Cát Trắng, nếu mỗi người dân sau cơn bão bị mua hóa giá một ngôi biệt
thự), Người trồng bưởi lao đao vì tin đồn ăn bưởi ung thư (Trong Thời Đại
Nguy Cơ), nỗi khát khao tự do của nhân dân Tây Tạng (Ba Khúc Một Giấc mơ),
dân nghèo trong kinh tế thị trường (bài 8%, Bù Lỗ, Nằm Vạ),
những đứa trẻ bị bỏ rơi (Một Mai Qua Cơn Mê) về những tương phản
đau lòng (Thế là Chịu Thua, Đố Vui, Những ngày Mưa Mưa Mãi Không
Thôi, Viết Được 26 Câu)... nhất là những đoạn thơ viết về cha
mẹ, về người yêu và bạn bè, trĩu nặng ưu tư xót thương. Bài Hay Là Gió Làm
Em Nước Mắt, Đêm và Những Khúc Rời của Vũ là những bài một
bài rất hay về tình yêu, tình bạn và những suy tư thân phận
“đừng tìm môi trong môi
chỉ nước rơi trong mắt
chảy thương nhớ lên trời
nước ơi luân hồi sinh ra từ giấc ngủ
Vũ nghĩ gì khi cựa quậy trong áo quan …
… Vũ đã cố gắng ngủ
không còn hy vọng gì
cuộc đời này xanh xao màu xám
pha hai màu trắng và đen
như lá cờ màu cam
pha hai màu vàng đỏ
sự sống pha vào cái chết
Vũ mơ được nhiều không?
người chết không còn giấc mộng
người chết không còn yêu
Vũ yêu được nhiều không?
(Đêm và Những Khúc Rời của Vũ)
LVT ưu tư nhiều về hiện sinh, về thế sự. Anh tra hỏi “sống
để làm gỉ/ sống sẽ làm gì/ sống sẽ còn gì và một loạt câu hỏi tại
sao, tại sao, tại sao (Xa Quá Không Sao Biết Được). Anh nhận
ra sự phi lý vô nghĩa, nỗi bất lực hiện sinh, con người lạc mất trong
một thế giới xa lạ (Rồi Sớm Mai Im Lặng sương Mù) con
người phải sống giả dối, phải đeo mặt nạ, “nói thật là một tội”. Tuy
nhiên thơ anh không phải là thơ tư tưởng, anh nghiêng về nghiền ngẫm cuộc đời
“những ngày mưa bốc khói không thôi
tàn tro đã bay như phù thủy
cái gì cũng phi lý
sự nghèo nàn tất tả thức khuya”
(những ngày mưa mưa mãi không thôi...)
Nỗi day dứt lớn nhất trong thơ LVT là nỗi day dứt về thơ, về
chính sự tồn tại của nhà thơ. Thơ bất lực trước cuộc sống, còn nhà thơ bị cuộc
sống tha hoá (Những Câu Thơ Như Gió Rã Rời, Thi Sĩ, cãi Nhau Với T, Ngang
qua festival thơ, 2008, hãy Nhìn Gần Hơn Nữa Hỡi Nhà Thơ...)
tại sao cứ nhìn thấy điều này thơ nói về điều khác
hay thơ không còn mắt để nhìn
hay nhàu nát đã thành ngơ ngác
thơ thật mềm trên trang báo bị mưa
nhiều nơi phố đã bắt đầu cúp điện
những hàng cây đổ gục tắc đường
bông hoa giấy giả vờ suy tưởng
cố thông minh hơn kẻ làm vườn
với chiếc kéo không xương
tỉa tót giam mình -> bốn bức tường tưởng tượng
tội nghiệp
không ai biết trái tim của chàng
thi sĩ đang vo tròn = nắm đấm
mưa ướt đẫm
một cái gì làm chàng khó thở
đám mây nằm bất động bãi đờm
(những câu thơ như gió rã rời)
Thơ đánh số (30 bài) của LVT là sự tự phê bình về thơ
và nhà thơ. LVT biến nỗi ưu tư day dứt thành nụ cười khôi hài tràn nước mắt về
thực tại thơ. Anh có tài sáng tạo ra những câu chuyện mang ý nghĩa ẩn dụ, khả
năng sáng tạo thật phong phú. Cái nhìn sắc xảo, phê phán mạnh mẽ nhưng hiền
lành (Khác với cái nhìn lật đổ của Xuân Sách trong Chân Dung Nhà Văn)
Anh vận dụng một vài thủ pháp Hậu Hiện Đại, nhưng vừa đủ chừng mực, như ta và
quen gặp trong cái hài dân gian
“có một bài thơ vì quá trớn đã té nhào ra trang giấy, vỡ tung
ra những tiếng kêu, khóc, chửi bới, đau đớn... nhưng không thấy văng ra một chữ
nào một người tò mò lại xem, khen, chê... nhưng không nhìn kịp bài thơ (vì
cũng không có chữ nào) mà tha hồ bình luận khi chỉ cầm trên tay mảnh vỡ một
người nữa hùa theo cũng xem, khen, chê... và trên tay cũng là mảnh vỡ (nhưng vụn
và nhỏ hơn mảnh vỡ hồi nãy) thêm người nữa, người nữa, người người nữa...
mọi người vào hùa xúm lại xem, khen, chê... và lần này chỉ còn là những hạt bụi
trên tay bài thơ quá chán (mệt) nên đã bốc hơi bay đi hết (thành
mưa, rơi xuống một khu rừng nào đó... thành gió, cũng bay đến một đến một chỗ
nào đó) không ai thấy trang giấy nằm khóc òa” (thơ 2)
4. Phan Huyền Thư: Nhìn Phan Huyền Thư cười, tôi không nghĩ được rằng
tâm hồn chị lại hoang vu lạnh lẽo đến như vậy. PHT là nhà thơ “tắm gội nỗi
buồn“ trong băng giá cô đơn, “chỉ có đêm hiểu/ nỗi đau tôi... Tôi
khóc/ trăng tà biết/ giọt nước mắt vô nghĩa...” (Chia sẻ)
Nếu chỉ đọc riêng lẻ từng bài, người đọc chỉ thấy những dòng
thơ lạnh lẽo đến vô cảm, bởi vì những câu thơ ấy viết bằng cảm thức của một người
đã cáo phó đời mình trong tình yêu, viết bởi trái tim rỗng ngực
Em thở dài
buốt mùa đông rỗng ngực
buồn xa xa thương cũng xa xa
Thoát xác vọt lên trần nhà
nhìn thi thể co ro
góc giường than khóc
(Rỗng Ngực)
Tôi muốn tự mình
lồng ảnh vào khung
"Đóng vào không
tìm nơi treo trang trọng?"
Như đã qua đời
lồng ảnh vào khung
"Đóng vào không
tìm nơi treo trang trọng?"
Như đã qua đời
(Cáo Phó)
PHT đã trầm mình “chèo thuyền vớt xác mình trên sông“ cô
đơn. ”nuốt vào những thì thầm/ ghìm nén yếu đuối/ nhếch môi/ Anh ở kia/
ở ngay đây/ khoảng cách ngàn tiếng gọi/ vô thanh (Bi Ca) Đó là những
thảng thốt hiện sinh. PHT năm mơ thấy mình chết, có những người tình xếp hàng,
những kẻ thù yêu, những bạn bè, tất cả tụ về đông đủ để tiễn đưa, PHT trong áo
quan cười xúc động “duy một người cả đời tôi đơn phương yêu thầm nhớ trộm là
đương nhiên chẳng thấy đâu (Giấc Mơ) Ta hiểu nỗi yêu ấy, nỗi
cô đơn ấy, khát vọng ấy sâu thẳm đến thế nào
Rỗng Ngực, Nằm Nghiêng, Gió, Khắc Thạch, Sương, Tạ ơn... là những
bài thơ diễn tả rất hay nỗi cô đơn. Lý trí tỉnh táo sắc xảo nhưng con tim,
phía sau khối giá băng, chập chờn, ám ảnh nỗi yêu không rời
Dịu dàng nhé anh
mơ rất dễ tan,
sương rất dễ vỡ
gió rất dễ đổ
Tình thường hay tận
người vẫn thường đau
(Tạ Ơn)
mơ rất dễ tan,
sương rất dễ vỡ
gió rất dễ đổ
Tình thường hay tận
người vẫn thường đau
(Tạ Ơn)
Tay em
níu đám mây lang bạt
đòi bắt một hạt mưa
Cũ và thừa
Tay em
lúc quấn quít thành giường
lúc mỏi mòn ngậm miệng
Anh biết không
em vẫn chìa tay
Thế kỷ sau
biết đâu có một ngày
níu đám mây lang bạt
đòi bắt một hạt mưa
Cũ và thừa
Tay em
lúc quấn quít thành giường
lúc mỏi mòn ngậm miệng
Anh biết không
em vẫn chìa tay
Thế kỷ sau
biết đâu có một ngày
(Van Nài)
Niềm kiêu hãnh
đã ngủ vùi
bởi lời ru lâm li.
Em chỉ dám giữ anh bằng ánh mắt van nài
bàn tay do dự.
Góc vườn ngái ngủ
Biết thế nào cũng sẽ rụng
lá úa
liều mình
nhắm mắt chọn điểm rơi
đã ngủ vùi
bởi lời ru lâm li.
Em chỉ dám giữ anh bằng ánh mắt van nài
bàn tay do dự.
Góc vườn ngái ngủ
Biết thế nào cũng sẽ rụng
lá úa
liều mình
nhắm mắt chọn điểm rơi
(Liều)
Vách đá tôi nằm
còn chỉ hốc rêu cong
Đợi mưa xuống
còn chỉ hốc rêu cong
Đợi mưa xuống
(Khắc Thạch)
Không có tình yêu, PHT thấy mình là người thừa trong cõi thế
gian (Nằm vạ Tháng Giêng), không yêu trong hiện thực, PHT yêu trong
những phút lãng mạn (Lãng Mạn Giải lao, Rỗng Ngực). Không giữ được
tình yêu thì PHT sống độ lượng, lấy việc viết làm trải
nghiệm sự sống:
Thôi chẳng chờ
lấp lánh hạnh phúc
dưới cát nóng buổi trưa
(Độ Lượng)
lấp lánh hạnh phúc
dưới cát nóng buổi trưa
(Độ Lượng)
Viết
nỗi buồn của tôi thành tình yêu của anh
tình yêu vô sinh
nỗi buồn thụ tinh ý nghĩ…
Viết
viết
viết đi, chữ không còn là chữ…
nỗi buồn của tôi thành tình yêu của anh
tình yêu vô sinh
nỗi buồn thụ tinh ý nghĩ…
Viết
viết
viết đi, chữ không còn là chữ…
Viết
nỗi sống buồn của tôi
nỗi sống buồn của tôi
(Viết)
PHT biết rõ trái tim mình trong biển đa đoan: “Em
u mê từ thuở/ theo gió đi chăn mây”
Ngủ mê suốt mùa lũ
tỉnh dậy cũng sông
cột buồm đã gẫy
biển đa đoan cần lầm lỗi
để viện cớ trở về.
Em xanh xao từ thuở
không dạy bảo được tim.
tỉnh dậy cũng sông
cột buồm đã gẫy
biển đa đoan cần lầm lỗi
để viện cớ trở về.
Em xanh xao từ thuở
không dạy bảo được tim.
(Nghĩ Lại)
Thêm chút hơi ấm
em sẽ được hong
sưng nằng nặng dìu nhau ngã ba Tiền Đường
chìa tay đi anh, cho em nắm…
… Em về phía dòng sông
Rất nhiều hoa đăng trầm hồn bình yên
yếu đuối
lập lờ trôi theo tiếng cầm hải
bập bùng
chập chùng
khơi.
(bài số 2)
Thơ của PHT cũng không dễ đọc dễ cảm, đó là thơ của lý trí.
PHT sử dụng cách nói ngụ ý, từ đó tứ thơ phát triển thành ẩn dụ. Những liên tưởng
nhiều khi nhảy vọt, đứt đoạn, lắp ghép, khiến cho trí tưởng tượng
của người đọc không theo kịp. Mỗi bài thơ là một mảnh của suy tư và tâm trạng, vì thế cần ghép nhiều mãnh lại với nhau mới có thể đọc được tiếng nói trái
tim nhà thơ. Chỉ khi người đọc cùng nhà thơ thâm nhập sâu vào thế giới cảm thức
đằng sau hình ảnh, ngôn từ, lúc ấy mới nhận ra ánh sáng rất riêng trong thơ PHT
5. Ly Hoàng Ly: Ngôn ngữ là ký hiệu được mã hóa, nó chứa đựng những tín niệm
của cộng đồng. Ngôn ngữ trong tay nhà thơ lại được mã hoá một lần nữa. Tùy theo kiểu tư duy nghệ thuật, mỗi nhà thơ có cách mã hóa ngôn ngữ khác nhau. Muốn
đọc được thơ, người đọc phải tìm được cách giải mã, tức là cái chìa khóa để mở
cửa vào vườn thơ. Ly Hoàng Ly có cách mã hóa riêng, tạo nên
khuôn mặt thơ riêng. Ly Hoàng Ly vừa là nhà thơ, vừa là hoạ sĩ, nghệ sĩ của
nghệ thuật sắp đặt, nghệ thuật trình diễn (Installation art và Performance art).
LHL thổ lộ: “Installation, Performance art nó cũng ảnh hưởng và tạo cảm hứng rất
nhiều khi Ly làm thơ… khi làm thơ thì dĩ nhiên nó xuất phát từ những con chữ,
nhưng con người Ly lúc đó đầy hình ảnh về Installation, Performance art, những
suy nghĩ về nó, chắc chắn không cần phải cố tình gì cả, tự nó bật ra thôi“. Như
vậy muốn đọc được thơ LHL nhất thiết phải đọc trong tương quan nghệ thuật sắp đặt
và trình diễn
Theo Như Huy (3), tác phẩm của Nghệ Thuật Sắp Đặt chỉ
tạo nên một không gian giúp người xem thư giãn và thưởng thức, để rồi
tự diễn giải, chứ không áp đặt một thông điệp hay quan điểm tư tưởng rõ rệt nào
từ tác giả. Người xem hãy huy động tối đa trí tưởng tượng của bản thân và điều
cốt yếu là phải tin vào chính mình, vào chính câu chuyện mà mình tìm thấy.
Nghệ Thuật Trình Diễn (Performance Art - P.A) là tác phẩm
được trình bày bằng cơ thể nghệ sĩ trong một khoảng thời gian, không gian nhất
định, trong đó sự giao lưu tương tác giữa nghệ sĩ và khán giả là yếu tố chủ chốt.
P.A là sự kết hợp của rất nhiều loại hình nghệ thuật biểu diễn như sân khấu, âm
nhạc, múa, đan xen nhiều phong cách sáng tạo nghệ thuật khác nhau trong đó có
nghệ thuật khái niệm, sắp đặt, video, âm nhạc, nhiếp ảnh... Nếu những yếu tố này
tách riêng thì tác phẩm không được coi là P.A. (4)
Thử đọc Phòng trắng
Tôi trong phòng trắng
Tại sao to tiếng với tôi
Tại sao nhìn tôi hằn học
Tôi trong phòng trắng
Tại sao õng ẹo với tôi
Tại sao cầm tay tôi rồi giật giật
Tôi trong phòng trắng
Tại sao uống nước mắt tôi
Tại sao cài tóc tôi vào lược
Tôi trong phòng trắng
Tại sao bẹo má tôi
Tại sao rót đầy bia vào giày tôi
Tôi kêu gào
Không ai nghe thấy tôi
Không ai nhìn thấy môi tôi cử động
Tôi trong phòng trắng
Tại sao giận dữ với tôi
Tại sao ném rau xanh vãi khắp người tôi
Tôi trong phòng trắng
Tại sao đi ngang qua tôi mà không thèm nhìn
Tại sao làm cho tôi thương tổn
Tôi trong phòng trắng
Không ai nhìn thấy tôi
Không ai nhìn thấy
phòng trắng
Tôi cũng không nhìn thấy tôi
Tôi cũng trắng như phòng trắng
Tại sao tôi lại trắng và lại trong phòng trắng
Đó mới chính là câu hỏi phải được hỏi ngay từ đầu
Nhưng vì đầu tôi cũng trắng nên tôi không có câu trả lời.
Bài thơ như lời thoại của một màn kịch độc diễn. Không gian
là một phòng trắng, không gian tù hãm... Quay hướng nào cũng
là phòng trắng. Nhân vật tôi độc thoại với chính mình, cũng là đối
thoại với mọi người “Tại sao to tiếng với tôi/ Tại sao nhìn tôi hằn
học”... “Tại sao đi ngang qua tôi mà không thèm nhìn/ Tại sao làm
cho tôi thương tổn“. Mỗi thời thoại đều có thể diễn thành một hành
động kịch, có thể được nói lên bằng mọi cung bậc âm thanh và tâm trạng,
có khi nhẹ nhàng, có khi gay gắt, có khi tủi thân, có khi van nài, có khi thất
vọng: ”Không ai nhìn thấy tôi/ Tôi cũng không nhìn thấy tôi/ Tôi
cũng trắng như phòng trắng. Nỗi bi đát lên đỉnh điểm của cao trào kịch là
khi nhân vật tôi nhận ra rằng: “… đầu tôi cũng trắng nên tôi không có câu
trả lời.
Người đọc (người xem diễn) có thể đọc thông điệp trực tiếp
từ màn diễn, thông qua lời thoại và thái độ diễn. Thực tại của nhân
vật tôi là thực vong thân, một thực tại bi đát không sao cứu giải... Bắt đầu bằng sự bị đối xử tàn nhẫn, sự ruồng bỏ: bị to tiếng, bị hằn học,
bẹo má, giận dữ, ném rau, rồi làm thương tổn, không thèm nhìn... sau cùng tôi
đánh mất mình trong mắt mọi người và cả với chính tôi: Tôi cũng không
nhìn thấy tôi/ Tôi cũng trắng như phòng trắng. Nỗi bi đát không kìm nén
được là ở sự vong thân của chính ý thức về tồn tại. Tra hỏi về
tồn tại nhưng lại đánh mất cả ý thức về sự tra hỏi. Nhưng vì đầu tôi cũng
trắng nên tôi không có câu trả lời.
Cũng có thể có những cảm nhận theo góc nhìn của người
xem, khác với thông điệp của nhân vật tôi. Người đọc có thể nghĩ rằng
tôi là một nhân vật hoang tưởng, đang trong trạng thái tâm thần. Anh ta ở đó
trong căn phòng, hiện diện sờ sờ ra đó, đang diễn trò hỷ nộ... trước mặt mọi
người, ai cũng thấy anh ta, chẳng ai làm tổn thương gì anh ta. Tình
cảnh hoang tưởng của anh ta là đáng thương. Người xem có thể mủi lòng, nhìn anh, nghe anh ta hỏi Tại sao đi ngang qua tôi mà không thèm nhìn/ Tại sao làm
cho tôi thương tổn, rồi tự vấn rằng, mình có vô tâm không, có ác tâm với
anh ta không.
Tuy nhiên cảnh diễn ấy không có trong đời thực,
bài thơ chuyển hóa thành ý nghĩa tượng trưng hay một bức tranh ẩn dụ. Đó là
tình trạng vong thân của con người trong thế giới tù hãm vô cảm. Màu trắng
trong thơ Ly Hoàng Ly không phải là màu trắng, mà là sự trống không, sự đánh mất
tất cả, là vong thân. Vì là một cảnh diễn được miêu tả trực tiếp, tự nó có nhiều
ẩn nghĩa, cho phép người đọc tham gia vào để tự tìm lấy ý nghĩa nào
đó cho mình. Không có sự áp đặt những thông điệp của tác giả.
Những bài thơ như Người Đàn Bà và Căn Nhà Cổ, Thuật Ướp
Xác, Perfomance Ham bơ gơ, Ăn Xin Hạnh Phúc, Performance Trứng, Hành Xác và Thử
Nghiệm, Performance Foto, Khắc Hoạ... đều được viết và được đọc như xem Nghệ
thuật Trình diễn. Tác giả đặt người đọc (người xem) trước những thực tại
nghê thuật, từ đó tự mình nhận ra ý nghĩa thực tại đó. Chẳng hạn, bài
thơ Người Đàn Bà và Căn Nhà Cổ là một bức tranh ẩn dụ, một sáng
tạo nghệ thuật để thể hiện tư tưởng. Trong căn nhà cổ lạnh lẽo, hoen rỉ, ẩm mốc,
đầy dán, người đàn bà mặc áo trắng ngồi bắt chéo chân, hút cạn đêm, nhà cổ ngập
tiếng khóc, sau đó bà ta rã xác, hoài thai một đưá bé gái mặc áo trắng
đi ra ngoài trong đêm mưa, đêm vụt tắt và nắng như mưa rơi rơi, rửa sạch bụi bặm. Căn nhà cổ là hình ảnh của thế giới thực tại rêu mốc lạnh ngắt, u
uất, cáu đen, rỉ sét, chỉ có lũ gián tủa ra, chúng gặm nhấm những gì
lành lặn cỏn lại, nhưng cái đẹp (người đàn bà mặc áo trắng) vẫn tồn tại
trong tư thế ung dung và thách thức, cái đẹp hoài thai cái đẹp, làm hồi
sinh ngôi nhà cổ, đem đến ánh sáng, rửa sạch bụi bặm của sự hoang vắng và tàn
phai.
Bài Permormance Ham bơ gơ là cảnh diễn của một nhà ảo thuật
ăn bánh hambơgơ cùng với đinh, trong trạng thái buồn, vui,
chán, mệt, phiền bực, cáu, vứt, và hát lên rằng
- Ơi buồn ơi vui ơi mi là đinh hay là ham bơ gơ? - Ơi vui ơi
buồn ơi mi ở trong bụng ta hay ghim vào mắt ta?. Nhìn cảnh diễn ấy, sau mười
hai phút bất động/ Khán giả vỗ tay ra về. Khán giả cũng buồn. vui, chán,
mệt, phiền bực, cáu, vứt vui. Cảnh diễn ấy có ý nghĩa gì? phải chăng là
tình trạng buồn nôn (J.P.Sartre) trước thực tại.
Trong những bài được viết theo nghệ thuật trình diễn, nhà thơ
vẽ lại cảnh diễn trực tiếp, trần trụi như nó đang diễn ra trước mắt người xem. Và có khi với tư cách người xem, tác giả thêm vào vài nhận xét, còn lại, cảnh
diễn tự nó mang thông điệp tư tưởng và người đọc hoàn toàn tiếp nhận thông điệp
ấy theo cảm nhận của mình. Ly Hoàng Ly đã tạo ra một cách thể hiện mới khác rất
xa với thi pháp thơ Lãng mạn (1930-1945) và thơ Hiện thực XHCN (1945-1975), đồng
thời cũng khác hẳn với những nhà thơ cùng thời như Vi Thùy Linh, Phan Huyền Thư,
Nguyễn Hữu Hồng Minh, Lê Vĩnh Tài
Ly Hoàng Ly còn có những bài thơ viết theo nghệ thuật hội họa,
có thể là ấn tượng hay tượng trưng. Điều này, khi sáng tác, Ly Hoàng Ly không
bận tâm tới. Nhưng nếu người đọc không nắm được những đặc trưng của thi pháp
thì không thể lĩnh hội điều Ly Hoàng Ly muốn nói. Xin đơn cử bài
Khúc Đêm
Quay lưng lại là đêm
Quay lưng lại là đêm
Quay lưng lại là đêm
Quay lưng lại là đêm
Quay lưng lại là đêm
Chỉ thấy đêm khi tâm thấy đêm
Chỉ thấy đêm khi tâm thấy đêm
Chỉ thấy đêm khi tâm thấy đêm
Phía trước mặt là đêm
Phía trước mặt là đêm
Phía trước mặt là đêm
Phía trước mặt là đêm
Không muốn đêm cũng thấy đêm
Không muốn đêm cũng thấy đêm
Trên đầu là đêm
Dưới chân cũng là đêm
Có người nằm trong đêm
Có người ôm lấy đêm
Có người sống trong đêm
Có người chết trong đêm
Có người sinh trong đêm
Có người khóc trong đêm
Có người cười trong đêm
Có người cưới trong đêm
Có người điên trong đêm
Nhắm mắt
Trùm kín chăn
Nghe đêm cuộn quanh mình
Người đọc nhận ra ngay ĐÊM là một hình ảnh tượng trưng. Con người tồn tại trong Đêm, sống, chết, sinh nở, khóc cười, cưới hỏi, điện trong Đêm, Quá khứ là đêm, tương lai cũng là đêm, không thể chạy trốn khỏi đêm dù có nhắm mắt lại trùm kín chăn, tuy nhiên con người lại không nhận ra tình trạng Đêm của mình trừ khi, Chỉ thấy đêm khi tâm thấy đêm. Bài thơ thoát ra ý nghĩa tư tưởng. Nhưng Đêm là gì?
Quay lưng lại là đêm
Quay lưng lại là đêm
Quay lưng lại là đêm
Quay lưng lại là đêm
Chỉ thấy đêm khi tâm thấy đêm
Chỉ thấy đêm khi tâm thấy đêm
Chỉ thấy đêm khi tâm thấy đêm
Phía trước mặt là đêm
Phía trước mặt là đêm
Phía trước mặt là đêm
Phía trước mặt là đêm
Không muốn đêm cũng thấy đêm
Không muốn đêm cũng thấy đêm
Trên đầu là đêm
Dưới chân cũng là đêm
Có người nằm trong đêm
Có người ôm lấy đêm
Có người sống trong đêm
Có người chết trong đêm
Có người sinh trong đêm
Có người khóc trong đêm
Có người cười trong đêm
Có người cưới trong đêm
Có người điên trong đêm
Nhắm mắt
Trùm kín chăn
Nghe đêm cuộn quanh mình
Người đọc nhận ra ngay ĐÊM là một hình ảnh tượng trưng. Con người tồn tại trong Đêm, sống, chết, sinh nở, khóc cười, cưới hỏi, điện trong Đêm, Quá khứ là đêm, tương lai cũng là đêm, không thể chạy trốn khỏi đêm dù có nhắm mắt lại trùm kín chăn, tuy nhiên con người lại không nhận ra tình trạng Đêm của mình trừ khi, Chỉ thấy đêm khi tâm thấy đêm. Bài thơ thoát ra ý nghĩa tư tưởng. Nhưng Đêm là gì?
Ly Hoàng Ly có nhiều bài thơ dẫn người đọc khám phá Đêm. Đêm
của những kiếp người lam lũ đời này sang đời khác (Ngựa Đêm Bắc Hà). Đêm của những con thiêu thân trong trụy lạc trong những Discotheque.
Đêm của những người đàn bà nghèo gói mưa, gói nắng vào lá chuối, tảo
tần ngày, đêm mà vẫn trắng tay (Mỏng Mòng Mong), đêm tồn tại
“vì nỗi buồn của những cô gái thích ngủ ngày“ (Lụt Đêm)
đêm của những tương phản gái điếm và chị lao công (Ảo Giác), Đêm là
nỗi buồn trước thực tại ảo giác, “tất cả tất cả tất cả/ chỉ là ảo giác
rơi rơi” (Lô Lô), nhưng Đêm còn là nỗi cô độc dày đặc của nhà thơ.
LHL cô độc trong tình yêu, trong những khát vọng lửa cháy nguội
lạnh bất lực, một nỗi cô độc đen, đặc quánh thê thiết
Em không biết đến tình yêu nồng nàn
Rượu tình yêu có say những đêm không anh
Người phụ nữ tự trói mình
Bằng sự dửng dưng của anh
Em không biết đến mây quấn quýt trăng
Ồn ào đưa gió lên cây
Người phụ nữ tự làm lạnh mình
Bằng sự hời hợt của anh
Em không biết đến tiếng hót đắm say
Đôi chim sẻ rúc rích bên nhau
Người phụ nữ tự trầm cảm
Bằng giấc ngủ của anh.
Rượu tình yêu có say những đêm không anh
Người phụ nữ tự trói mình
Bằng sự dửng dưng của anh
Em không biết đến mây quấn quýt trăng
Ồn ào đưa gió lên cây
Người phụ nữ tự làm lạnh mình
Bằng sự hời hợt của anh
Em không biết đến tiếng hót đắm say
Đôi chim sẻ rúc rích bên nhau
Người phụ nữ tự trầm cảm
Bằng giấc ngủ của anh.
(Trầm
cảm)
… Thức được nữa không anh
Đem tình yêu
rọi nắng
Đêm là của chúng mình
Tình yêu thắp sáng đêm
Đêm là của chúng mình
Sao nỡ ngủ
hở anh
Em đành thức một mình
Những đêm đèn sáng trưng
Chiếc chăn bò trước ngực
Lạnh buốt
(Đêm là của chúng mình)
Đem tình yêu
rọi nắng
Đêm là của chúng mình
Tình yêu thắp sáng đêm
Đêm là của chúng mình
Sao nỡ ngủ
hở anh
Em đành thức một mình
Những đêm đèn sáng trưng
Chiếc chăn bò trước ngực
Lạnh buốt
(Đêm là của chúng mình)
Đêm giật mình thức giấc
Không thấy anh bên cạnh …
Không hiểu sao lòng bàn tay đầy nước
Đêm rót lên mình những giọt lạnh
Không thấy anh bên cạnh …
Không hiểu sao lòng bàn tay đầy nước
Đêm rót lên mình những giọt lạnh
(Nửa Đêm)
Chầm chậm, mở một chiếc nút áo
Soi vào gương chầm chậm, mở hai chiếc nút áo…
… Mở mãi, muốn mở mãi
Mở bầu trời đêm trong lồng ngực
Mở mãi, muốn mở mãi
Bầu ngực này căng đêm
Soi vào gương
Bất lực và khóc
Trong vô vàn những giọt nước mắt
Một giọt đêm ứa ra từ bầu ngực trắng.
(Mở nút đêm)
Trầm cảm và bất lực, tâm hồn người phụ nữ tê liệt. Mắt quầng thâm. Không thể nhìn thấy anh bằng xúc giác, không thể nhìn thấy anh bằng vị giác, không thể nhìn thấy anh bằng thính giác (Đêm và anh). Đêm Trong Vườn, em lạnh buốt óc, buốt hơi thở, buốt ánh mắt. Em đi nhặt xác hoa, cũng là ôm lấy xác của mình trong đỉnh đêm cô độc, vong thân, chỉ còn lại trái tim khô. Tuy vậy, người phụ nữ vẫn nhìn lên
Chầm chậm, mở một chiếc nút áo
Soi vào gương chầm chậm, mở hai chiếc nút áo…
… Mở mãi, muốn mở mãi
Mở bầu trời đêm trong lồng ngực
Mở mãi, muốn mở mãi
Bầu ngực này căng đêm
Soi vào gương
Bất lực và khóc
Trong vô vàn những giọt nước mắt
Một giọt đêm ứa ra từ bầu ngực trắng.
(Mở nút đêm)
Trầm cảm và bất lực, tâm hồn người phụ nữ tê liệt. Mắt quầng thâm. Không thể nhìn thấy anh bằng xúc giác, không thể nhìn thấy anh bằng vị giác, không thể nhìn thấy anh bằng thính giác (Đêm và anh). Đêm Trong Vườn, em lạnh buốt óc, buốt hơi thở, buốt ánh mắt. Em đi nhặt xác hoa, cũng là ôm lấy xác của mình trong đỉnh đêm cô độc, vong thân, chỉ còn lại trái tim khô. Tuy vậy, người phụ nữ vẫn nhìn lên
Cắt đêm ra từng mảnh nhỏ
Khâu đêm lại bằng tóc…
Khâu đêm lại bằng tóc…
Cắt ta ra từng mảnh nhỏ
Khâu ta bằng hết đêm này đến đêm khác
Cho đến khi trắng hếu đêm
Khâu ta bằng hết đêm này đến đêm khác
Cho đến khi trắng hếu đêm
(Cắt)
Em vượt qua nỗi buồn bằng chế ngự
Quả tim chứa những dòng chảy lặng lờ
Những dòng - đỏ - lặng - lờ
Không mùi vị
Và không ướt
Em vượt qua nỗi buồn bằng chế ngự
Nhìn đôi chim kia
chết
(Đôi Chim Sẻ)
Đêm về đi để sáng
Khuôn mặt người đàn bà ngước nhìn lên
Sáng bừng đêm
(Đêm về đi để sáng)
Quả tim chứa những dòng chảy lặng lờ
Những dòng - đỏ - lặng - lờ
Không mùi vị
Và không ướt
Em vượt qua nỗi buồn bằng chế ngự
Nhìn đôi chim kia
chết
(Đôi Chim Sẻ)
Đêm về đi để sáng
Khuôn mặt người đàn bà ngước nhìn lên
Sáng bừng đêm
(Đêm về đi để sáng)
Ly Hoàng Ly ngước nhìn lên là sáng bừng đêm, muốn “lau
sạch nước mắt phụ nữ“, muốn cuộc sống nở hoa
Tôi muốn
Căn nhà tôi ở tỏa hương ngào ngạt
Những cành lá trong vườn giũ chất diệp lục lên da mặt
Để tôi lúc nào cũng xanh men mét tôi muốn
Biến thành thiên thần xanh trên cao bồng bềnh
Nhìn ổ trứng cuộc đời nở trên những người thân của tôi
Trong căn nhà ngộp hương hoa
(Tôi muốn)
Ly Hoàng Ly còn đang trải nghiệm hiện sinh, chị đã đi rất sâu vào Đêm của nghiệm
sinh cô độc, tưởng như đã chạm đến cái chết, tồn tại là tồn tại chết. Trái
tim đã khô, máu chỉ còn là dòng đỏ lặng lờ không mùi vị và không ướt, hiện
hữu chỉ còn là xác người đàn bà trong bức tranh “thấy mình rời ra từng mảnh/ không đau đớn“ (Người Trong Tranh), và hơn thế, là sự vong thân trắng
hếu.
Trong tư thế trói gô
Người phụ nữ không tìm thấy xác mình
Chỉ thấy rêu xanh lét chân tường
Chỉ thấy đêm đầm đìa nước mắt…
Người phụ nữ không tìm thấy xác mình
Chỉ thấy rêu xanh lét chân tường
Chỉ thấy đêm đầm đìa nước mắt…
(Performance Foto)
Ly Hoàng Ly đã khắc họa được chân dung của mình vào thơ Việt Nam đương
đại với những đường nét, tư tưởng và nghệ thuật đặc sắc. Chị đã vượt qua những
nhà thơ nữ đi trước và mở ra một con đường mới của thơ ca.Thơ chị vẽ đậm nét
hai màu đen trắng. Màu Đen của những bất hạnh và cô độc, màu Trắng của vong
thân của nỗi chết. Những bài thơ viết theo Nghệ thuật trình diễn là những cảnh
diễn đầy tư tưởng và thẩm mỹ, nó gọi mời người đọc tham dự vào cảnh
diễn để cùng trải nghiệm hiện sinh. Năng lực sáng tạo của chị thật dồi đào và độc
đáo. Chắc chắn chị sẽ làm được điều này
Hãy bắt đêm
Nhốt trong lon đựng dế
Để đêm gáy lên
Gáy lên
Cho đến khi trời xanh
Nhốt trong lon đựng dế
Để đêm gáy lên
Gáy lên
Cho đến khi trời xanh
(gáy)
6. Nguyễn Vĩnh Nguyên: Nguyễn Vĩnh Nguyên có cùng một cách viết như Lê
Vĩnh Tài, Ly Hoàng Ly, Phan Huyền Thư. Anh cũng dùng nhiều ẩn dụ. Câu thơ gần
với văn xuôi. Thơ Nguyễn Vĩnh Nguyên (NVN) là tiếng nói trăn trở của người trẻ
trong đời sống công nghiệp hiện đại. Dường như người trẻ mất hết niềm tin vào
cuộc sống, bởi vì họ không thể tự khẳng định được mình trong những cơn lũ quét
của thời đại. Họ không giữ được gì cho mình trong cuộc sống tràn ngập vật chất, nơi những giá trị tinh thần, kể cả tình yêu cũng chỉ là bong bóng bay
Hãy xem NVN phác thảo chân dung người trẻ
rời từ trường ẩm ướt của đất
chúng ta chưa kịp bay lên đã phải rúm lại trước dự
cảm cơn mưa bão phía bên kia bán cầu
gió hồng hoang thổi chùng nỗi sợ!
… và nằm lại
như bầy thú nhìn nhau ngơ ngác
trên hoang mạc buồn!
những bài ca ký ức ru ngoan hiện thực trắng
những ý nghĩ hèn hạ khuyến dụ bước chân nhu
nhược, cầu an!
… và nằm lại
chờ cơn lũ đến, cuốn trôi
không vết dấu sự ngụ cư tạm thời!
mặt đất tiếp tục mở ra những ảo ảnh khác
nơi linh hồn bệnh hoạn của chúng ta còn vật vờ
chưa
miền trú ngụ
trong đêm xanh bần cùng, trong ngày hồng mê man…
những bài ca vẫn hào hùng cất lên
rồi chìm tan trong gió!
của trùng trùng thiên thu
… và trùng trùng thiên thu…
khi những bóng người hôm sau chưa kịp đến, gọi tên!
Người trẻ chưa kịp bay lên thì đã co rúm lại vì
sợ và nằm lại ngơ ngác, nhu nhược chờ cơn lũ đến, cuốn trôi. Linh hồn
người trẻ vật vờ không nơi trú ngụ bần cùng mê man. Thế giới là hoang
mạc buồn, tương lai là những ảo ảnh…
NVN vẽ ra hình ảnh người trẻ thật thảm hại. Tôi không hiểu do
những ám ảnh gì mà NVN lại hình dung ra người trẻ như vậy, trái hẳn với thực tế,
rất nhiều người trẻ thành đạt, đi đông đi tây, làm việc ở những công ty đa quốc
gia, có người còn đạt đến những vị trí quan trọng trong những tổ chức quốc tế.
Những ám ảnh ấy là gì? có thể là một sự tuyệt vọng trong
tình yêu, như Trương Chi tương tư Mỵ nương xưa
chân cầu Thị Nghè
Mỵ nương chết đuối
Trương Chi bỏ đò lên bờ đi ăn mày qua ngày chút cháo…
… nhưng giữa khuya, có khi chàng bật dây, gào lên:
- Mỵ nương ơi, bơi đi!
Và khóc…
(Thất Bát yêu)
Mỵ Nương không chết đuối, mà chạy theo những bong bóng bằng
những bước chân Eva, ngả vào vòng tay kẻ khác, bỏ mặc xác Trương Chi, thân
phận đàn ông rẻ rúng trong thế giới chỉ có tiền và thân xác đàn bà
Mặc xác tôi với bàn tay phung hủi, cơn sốt giữa
trưa, cơn mưa giữa chiều…
bong bóng bay…
em mãi đuổi theo bong bóng bay… bằng bước chân Eva hoang dã địa
đàng!
khi thế giới bùng nổ Adam!...
… em xỉu vào vòng tay hắn
rất đúng lễ nghi của giới thượng lưu!)
Và mây. Và mưa
đường phố dài mang khăn tang loài chim di trú
còn gì vui hơn thế không em?
( Mặc xác)
Thực tại đổ vỡ, chỉ còn trong mơ, nhưng cả trong mơ cũng đi lạc, cũng hư ảo, vô vọng
“… trước đó một ngày nàng ghì thơ tôi vào đôi bầu ngực căng
non, và hát ru
khi những câu thơ bất lực như cuộc đời người sinh ra nó
trước đó ba đêm, trong giấc mơ tôi thấy nàng khỏa
thân bất động bên lũ rắn phun nọc độc/ trên sân thượng toà cao ốc/ giữa lòng
thành phố/ rất xa mái đầu ổ chuột tôi…
… trước đó nhiều đêm nàng khóc vật vờ và âu yếm tôi qua
mobile
tôi chạy quanh thành phố và huýt sáo tìm cơn mê đi
lạc như đứa trẻ xưa chạy qua đồng hoang tìm cánh diều lỗi gió
không một điểm hẹn
không một môi hôn
không một bóng hình
cuộc tình chay tịnh ít nhất năm tuần lễ từ độ quen nhau và bảy
cơn mưa từ thuở nói lời yêu nhau
trong cơ chế ẩn danh, trong cơn mê tàng hình phố thị
những câu thơ rời xa đôi bầu ngực nàng để nhường cho từng cơn
bão lửa dã man khác chế ngự nhịp sinh học đương thì...”
(Ảo)
Ta nghe thấy tiếng kêu bi thương của một trái tim rạn vỡ
không sao khâu vá lại được. Bi thương, tuyệt vọng đến nỗi NVN muốn
xóa đi sự hiện hữu của chính mình
“… tôi xóa tên tôi
tôi xoá tên tôi
như đứa trẻ chơi trò nghịch cát
dưới mặt trời
dưới đám mây
dưới bóng cây
dưới mái nhà
trước dòng sông
tôi nhập liệu và kích hoạt phản ứng:
Delete!/ Delete!/ Delete!
để sau bài thơ này,
sau
câu thơ này,
sau
con chữ này là
những
khoảng trắng
những
khoảng trắng
những
khoảng trắng
vô cùng
Không Save!
(Xóa)
Nguyễn Vĩnh Nguyên cũng gặp bi kịch khi đối diện
với những con chữ. Anh được lệnh tung hê những câu thơ rởm
đời chết yểu, anh phải thoả hiệp trong những hội họp, báo cáo,
rằng nói chung tình hình tốt đẹp. Dù có coi văn chương là trò chơi vớ
vẩn, nhưng bi kịch là ở chỗ “mang sự nghiệp vào đời mà cứ tưởng trò chơi”,
cùng với “cuộc áo cơm ghì hồn anh sát đất, tha lực kiệt cùng sau chuyến
bay bồng bột vô phương“, anh lại phải tự phủ định mình vì bất lực
…”Cuộc hành trình của chúng ta đi về phía lãng quên. Trái
tim tôi chưa vỗ máu dấn thân. Tôi đấm ngực như một tội đồ ngoan đạo:
- Xin thề!
- Xin thề!
- Xin thề! Tôi yêu tôi hơn yêu một ai khác!
Những con chữ rạp xuống thân tôi.
Khép lại một cuộc chơi!”
(đối diện với những con chữ).
NVN đã khóa lời, biết câm lặng, không
muốn nghe giọng nói của mình. Người trẻ lâm vào bi kịch không sao thoát ra được,
bi kịch tinh thần thời đại vật chất thống trị con người. Họ sống trong
thế giới ảo, đồng hóa với vật chất, không còn điểm tựa tinh thần, chết
đuối chới với…
người gọi nhau huyễn giọng
người chờ nhau huyễn bóng…
những ánh mắt buông trôi trong chiều/ như lá
mùa hoang di rộng mấy nẻo vườn
cơn gió nào ngủ quên trên cành/ mơ giấc
tàn sương
chiều hoang…/ chiều hoang…
(Chiều Đi)
Phải chăng bi kịch của người trẻ cũng là bi kịch của thơ trẻ? Nếu
không thoát ra khỏi cái tôi đầy mặc cảm, nếu không hòa mình vào với
cuộc sống của tha nhân, dù “tha nhân là địa ngục“ (J.P.Sartre),
thì chắc chắn NVN sẽ khóa lời vĩnh viễn, sẽ câm lặng vĩnh viễn trong
bi thương, hoang lạnh. Thơ anh không thể bay lên được.
7. Nguyễn Vĩnh Tiến: Được mệnh danh là người “bay giữa thơ,
nhạc và kiến trúc. Anh cho biết: “Tôi thấy trong kiến trúc có nhạc tính, có nhịp
điệu, có thi ca của vật liệu, có cảm xúc của không gian và ngược lại trong âm
nhạc và thi ca có những kết cấu và biểu hiện của kiến trúc
Về nghệ thuật, anh nghiêng về tinh thần Hậu Hiện Đại. Anh thổ
lộ: Tôi đang rất thích nghệ thuật hậu hiện đại, nói đúng hơn là tinh
thần hậu hiện đại. Đó là những mảnh rời rạc không liên kết, không bị ràng buộc,
vô cùng tự do. Cuộc sống đầy những lát cắt khác nhau, thậm chí là nhát cắt dở đột
ngột bị nhát cắt khác cắt ngang, hoặc đổi hướng, hoặc bị tác động không ngừng,
và đó chính là hậu hiện đại, nó là thứ tổng hợp, đầy cảm xúc (5)
Một cội nguồn sáng tạo khác nữa làm nên Nguyễn Vĩnh Tiến là
gia đình và quê hương. Anh khẳng định: Ở thế hệ chúng tôi, chất dân gian
rất tự nhiên, nó thấm thía vào trong người qua những chương trình trên radio và
những đoàn văn công lưu diễn. Tôi sinh ra trên quê hương của hát xoan, hát ghẹo
Phú Thọ - một kho tàng âm nhạc rất phong phú. Chú tôi là nhạc sĩ và ngay từ nhỏ,
ông đã dạy tôi rất nhiều bài hát cổ (6). Tuổi thơ của tôi phải xa mẹ nhiều
vì mẹ tôi hết học ở Hà Nội lại đi công tác nước ngoài... Tôi đã sống một tuổi
thơ của mình với bố, các em của mình, với bà ngoại. Một ấn tượng làm nên bài
thơ cũng như chất liệu cho bài hát chính là bà luôn đưa các cháu của mình ra đến
tận đầu làng và bà đứng ở đó rất lâu tới khi khuất bóng. Khi tôi đã đi xa 1, 2
cây số và quay đầu lại vẫn nhìn thấy một chấm đen giữa cánh đồng mênh mông ấy. Ấn
tượng đó rất mạnh mẽ và theo tôi suốt cuộc đời.
So sánh với các nhà thơ trẻ khác, Nguyễn Vĩnh Tiến có được một
cuộc sống thành đạt, lại có được những cội nguồn sáng tạo phong phú, nhưng những
điều ấy có làm nên một diện mạo thơ ca đặc sắc cho riêng anh không? Anh nổi tiếng
ngẫu nhiên nhờ âm nhạc, chủ yếu nhờ công nghệ quảng cáo, bởi vì anh không phải
là “dân chuyên nghiệp” trong làng nhạc. Anh làm thơ chưa nhiều. Tôi nghĩ rằng,
anh chưa định hình được một khuôn mặt thơ với những nét riêng về nội dung tư tưởng
và nghệ thuật, dù rằng thơ anh ít nhiều đã có những dấu chỉ một khả năng có thể
đi xa trên con đường sáng tạo
Những bài thơ có nét riêng của anh làm người đọc xúc động là
những bài anh viết bằng ngôn ngữ biểu cảm, thể thơ truyền thống, diễn đạt tinh
tế và mới lạ tình yêu gia đình như Ông Tôi, Ba Hôm Nữa, Héo Mòn Một
Xâu (bài này viết thành ca khúc Bà Tôi).
Ông tôi vẫn chỉ lên trời
Bảo rằng nơi ấy có thời vàng son
Bao nhiêu những cái méo, tròn
Nếu đem cộng lại, chỉ còn số không
Bấy giờ tôi chẳng nghe ông
Toàn đem những thứ mênh mông về nhà
Tôi yêu dàn mướp của bà
Cái kim mẹ giữ, chậu hoa bố trồng
Yêu bài thơ mới viết xong
Dẫu bạn bè đọc, bảo: không hiểu gì
“Một cánh chuồn chuồn”
(bài thơ viết thời sinh viên)
Cười cười một chuỗi
Ta thử bụng ta
Có mùa thóc lép
Lợp trên mái nhà
Có mùa hoa cà
Tự nhiên tím tái
Bà ví lông gà
Vàng như vườn cải
Ông ví mặt trời
Như lời mối lái
Ta ví tình ta
Như trò nghịch dại
Ta lên kẻ chợ
Có buôn được đâu
Khi về lúc lắc
Héo mòn một xâu
Qua đò lộn túi
Anh lái gật đầu.
(Héo mòn một xâu)
Ta thử bụng ta
Có mùa thóc lép
Lợp trên mái nhà
Có mùa hoa cà
Tự nhiên tím tái
Bà ví lông gà
Vàng như vườn cải
Ông ví mặt trời
Như lời mối lái
Ta ví tình ta
Như trò nghịch dại
Ta lên kẻ chợ
Có buôn được đâu
Khi về lúc lắc
Héo mòn một xâu
Qua đò lộn túi
Anh lái gật đầu.
(Héo mòn một xâu)
Đó là những ký ức tuổi thơ được ghi nhận một cách tài hoa, nó
khơi được nhiều tình tự trong lòng người đọc, nó gần gũi như ca dao, đồng dao.
(Bài Héo Mòn Một Xâu còn có hơi thơ Trần Đăng Khoa trong bài Hạt
Gạo Làng Ta)
Những bài thơ anh viết bằng ngôn ngữ ẩn dụ chưa định hình một
các viết, một khuôn mặt tư tưởng và một cốt cách nghệ thuật. Nhiều ẩn dụ của
anh trở thành siêu thực, khiến cho người đọc khó lần ra những điền anh suy tưởng.
Những câu chuyện anh kể như trong một giấc mơ hoang tưởng, mà giấc mơ thì không
dễ gì giải mã, nó chập chờn mơ hồ, và đôi khi chỉ là do rối loạn tâm lý. Anh
lung túng Giữa hoang tưởng và hiện thực, Giữa nghệ thuật và tư tưởng
Tôi gặp cái chết của tôi
Đó là cái que dài vô tận
Giữa một khu rừng trồng toàn những cánh tay người
Khi mặt trăng nhe ra một nụ cười
Tôi che thân bằng một tàu lá chuối
Rón rén đi theo cái chết của mình
Bỗng trên thân que ló một chùm gai bưởi
Máu của tôi từng giọt sáng lung linh
Đi hết khu rừng
Tôi chui vào một căn nhà tranh
Sưởi ấm cùng một người con gái
Bếp lửa bập bùng, suối tóc bập bùng
Bức tường lờ mờ, đôi mắt dại.
Không ai nói một lời
Giữa ngàn cánh tay vẫy
Tôi để riêng cho đôi mắt mình một đôi tay con gái
Khi trời hừng lên - vẫn một cái que dài
Dựng đứng lên bên những que dài khác
Tôi ngước nhìn lên tia nắng chiếu qua mình
Và tiếp tục vươn đôi bàn tay bỏng rát
Không thể kéo được mặt trời vào lòng
Không thể bám vào cái que dài - đi mãi
Không thể quay đầu với khu rừng tay vẫy
Tôi ngả người ra trên bãi cỏ xanh.
Đó là cái que dài vô tận
Giữa một khu rừng trồng toàn những cánh tay người
Khi mặt trăng nhe ra một nụ cười
Tôi che thân bằng một tàu lá chuối
Rón rén đi theo cái chết của mình
Bỗng trên thân que ló một chùm gai bưởi
Máu của tôi từng giọt sáng lung linh
Đi hết khu rừng
Tôi chui vào một căn nhà tranh
Sưởi ấm cùng một người con gái
Bếp lửa bập bùng, suối tóc bập bùng
Bức tường lờ mờ, đôi mắt dại.
Không ai nói một lời
Giữa ngàn cánh tay vẫy
Tôi để riêng cho đôi mắt mình một đôi tay con gái
Khi trời hừng lên - vẫn một cái que dài
Dựng đứng lên bên những que dài khác
Tôi ngước nhìn lên tia nắng chiếu qua mình
Và tiếp tục vươn đôi bàn tay bỏng rát
Không thể kéo được mặt trời vào lòng
Không thể bám vào cái que dài - đi mãi
Không thể quay đầu với khu rừng tay vẫy
Tôi ngả người ra trên bãi cỏ xanh.
Anh kể rằng, trong một đêm, trăng nhe ra cười, anh gặp cái chết
của anh, “đó là cái que dài vô tận/ Tôi che thân bằng một tàu lá chuối/
Rón rén đi theo cái chết của mình. Đi hết khu rừng/ Tôi chui vào một căn nhà
tranh/ Sưởi ấm cùng một người con gái. Khi trời hừng lên/ Tôi ngước nhìn lên
tia nắng chiếu qua mình/ Tôi ngả người ra trên bãi cỏ xanh.”. Cái chết của anh
là một cái que dài vô tận có nghĩa là gì? như một giấc mơ hoang tưởng trong
đêm có nghĩa gì? Sau một đêm hoang tưởng, và bất lực với sự hoang tưởng ấy,
anh trở về thực tại, ngả người ra trên bãi cỏ xanh.
Tôi nhận thấy sự lung túng tư tưởng của anh là ở chỗ, anh
định nói điều gì đó về nỗi chết hiện sinh trần trụi, che thân bằng lá chuối,
trong một thế giới như một khu rừng trồng toàn bằng cánh tay người, và bất
lực không thể giữ được gì, không thể bám víu được gì, không thể trở lại nơi xuất
phát. Nhưng những suy tưởng ấy lại trên một bối cảnh rực rỡ, tươi vui.
Có trăng cười, có trời hừng lên, tia nắng chiếu qua mình,
có bãi cỏ xanh. Dường như anh an nhiên trong ánh sáng, sự sống, chứ không lạc
mất trong hiện sinh quy tử, không thấy cuộc hiện sinh là phi lý là đáng buồn
nôn
Cũng có khi anh run sợ trước hiện sinh, tất cả cứ trôi đi,
con người trở nên xa lạ, trở nên đất đá hiện hữu nỗi chết
Những bầu trời đang mọc trên tường
Mây trôi đi
Người thấy mình một bức tranh thật buồn thảm
Không mọc nổi mật ngọt
Ngoài tường con chim hót líu lo chợt bay đi
Khách khứa mọc trên tường
Không ai biết hát ca trù
Không ai biết uống cạn giếng nước
Đất đá mọc trên tường
Tiểu sành và khói mộ
Còn ngươi
Hãy cứ đứng đó mà run sợ
Mây trôi đi
Người thấy mình một bức tranh thật buồn thảm
Không mọc nổi mật ngọt
Ngoài tường con chim hót líu lo chợt bay đi
Khách khứa mọc trên tường
Không ai biết hát ca trù
Không ai biết uống cạn giếng nước
Đất đá mọc trên tường
Tiểu sành và khói mộ
Còn ngươi
Hãy cứ đứng đó mà run sợ
(Mọc trên tường)
Có lúc anh cũng cảm nhận được cuộc sống nhàm chán, cả cái chết
cũng nhàm chán, vô nghĩa (Bản Tin Cuối Ngày), “thấy phi lý
nhảy dựng lên” và tất cả đều phát điên lên trong những giấc mơ loè
loẹt, nhưng anh vẫn bình tĩnh châm thuốc hút, và cười Giữa đống chăm
buổi sáng (Phát Điên). Giữa những buồn, cô đơn và nhớ quên, anh vẫn
nhớ, “Sực nhớ/ Có một ngày xưa/ Có một ngày đung đưa/ Có một ngày rất
lưa thưa (Quên Bẩm Sinh). Bị lạc mất trong những mải mê cuộc đời, Tôi
lao như mũi tên mê theo quả bàng chín ẩn hiện trong lá tim, anh vẫn còn những kỷ
niệm quê hương và tuổi thơ giữ cho trái tim mình một sức sống tươi trẻ “… Sông
Thao lẽo đẽo chảy trong người Trung du thở những cánh cung căng cứng.” (Trung
Du). Anh anh bị hiện sinh rượt đuổi, bị trôi đi trong dòng thời
gian, nhưng anh đủ tỉnh táo để trở về hiện thực “ Tôi không muốn trôi đi một
cách miễn cưỡng nữa... Tôi vừa quyết định một cách nghiêm túc/ Rằng tự tôi sẽ dừng
lại...” (Giữa Muà Động Vật Âm Vang)
Có thể cuộc sống thành đạt của anh chưa đủ cho anh trải nghiệm
hiện sinh, vì thế trong thơ anh, mới chỉ là những chập chờn siêu thực về hiện
sinh (Bàn tay Múa, Trong Căn Phòng, Bãi Cỏ Xanh), chưa định hình tư
tưởng, có đôi khi lóe lên một chút ánh sáng (Những
Ý Nghĩ Trên Đại Lộ Tư Duy), nhưng tất cả vẫn còn mơ hồ. Bài Con Chồn
Hoang được Nguyễn Hữu Hồng Minh cho là một bài hay nhất, nổi tiếng nhất của
Nguyễn Vĩnh Tiến thì tư tưởng thơ vẫn chưa hiện hình lên được (nghĩa là vẫn
lúng túng Giữa nghệ thuật thể hiện và tư tưởng chưa định hình)
Tôi nghĩ, nếu Nguyễn Vĩnh Tiến chuyên tâm làm thơ
và biết phát huy cái tài hoa của mình, anh sẽ là một khuôn mặt thơ
có nhiều nét duyên.
8. Văn Cầm Hải: Văn Cầm Hải không dễ đọc. Cũng như các nhà thơ trẻ khác,
VCH sử dụng ẩn dụ. Có những ẩn dụ được liên tưởng quá xa khiến người đọc khó lần
ra manh mối điều anh muốn nói. Thơ VCH khó đọc bởi một kiểu thi pháp
có những đặc điểm Hậu Hiện đại. Phá vỡ cấu trúc, phá vỡ không gian
thời gian, các yếu tố hoang tưởng, ngẫu nhiên đan xen với những ý tưởng chủ đạo.
Hiện thực phân mảnh, vung vãi trên mặt giấy.Các câu thơ kết hợp lỏng lẻo, có thể
thay đổi vị trí mà không tạo ra sự khác biệt nào. Bài thơ không đóng khung
trong một nghĩa cụ thể mà người đọc tự tìm lấy nghĩa cho mình. Đó là một hệ thống
cấu trúc mở. Những bài như Hoe Chân Lời, Sinh Tồn, Vĩnh Biệt Mặt Trời... được
viết như vậy
“Thuở nào xanh xao
mặt trăng má hồng hiện qua sông mây
cơn đẻ đã đến
kim loại nhành hoa
ngôn ngữ thơm máu thịt
rung rinh lưỡi chàng cuội
rì rào thắp sáng dương gian
trầm tư sinh khí
sữa trắng làm chiếc nôi cho tiếng khóc
bơi chập chững
nhiệm màu
thánh thót
tiếng khóc vạn kỷ
đêm rụng cánh đơm hoa
cho tay người xin thêm
mồi lửa.”
mặt trăng má hồng hiện qua sông mây
cơn đẻ đã đến
kim loại nhành hoa
ngôn ngữ thơm máu thịt
rung rinh lưỡi chàng cuội
rì rào thắp sáng dương gian
trầm tư sinh khí
sữa trắng làm chiếc nôi cho tiếng khóc
bơi chập chững
nhiệm màu
thánh thót
tiếng khóc vạn kỷ
đêm rụng cánh đơm hoa
cho tay người xin thêm
mồi lửa.”
(Sinh Tồn)
Mỗi dòng thơ là những mảnh vỡ, trải ra không theo
một cấu trúc logic. Người đọc cố lắp ghép lại tìm một cấu trúc tư tưởng nào
đó, laị bị những yếu tố ngẫn nhiên làm vỡ nát thêm cái cấu trúc mới định hình.
Cái tư tưởng mới hoài thai, vỡ nát thành trứng nước. Cứ như vậy, người đọc đuổi
theo chính mình qua những câu thơ như có ma lực cuốn hút mạnh mẽ, bởi đó là những
hình ảnh chứa đựng tư tưởng và nhiều sức gợi.
Ngay câu đầu tiên đã có sứ ngân vang mạnh mẽ Thuở nào
xanh xao/ mặt trăng má hồng hiện qua sông mây. Nhưng câu thơ cơn đẻ
đã đến/ kim loại nhành hoa ném người đọc vào một thế giới khác. Từ kim
loại là một yếu tố ngẫu nhiên, ghép bên từ nhành hoa, phá vỡ cái
cấu trúc vừa thấp thoáng mơ hồ. Một loạt những từ mang yếu tố ngẫu nhiên
như kim loại, ngôn ngữ, bơi chập chững, mồi lửa... liên tục công phá
vào nỗ lực cấu trúc bài thơ để định hình một nội dung, một chủ đề và để lần ra
tư tưởng mà VCH muốn nói. Ý nghĩa bài thơ vì thế cứ mơ hồ, ngoài tầm
nắm bắt của người đọc.
Có lẽ không nên phí sức để đuổi theo những ảo tưởng như thế,
người đọc phải trở về lòng mình ,nhận lấy những gì bài thơ gợi ra cho chính
mình. Có thể đọc nội dung bài thơ như thế này: từ thuở xanh xao, mặt
trăng hiện qua sông mây, rung rinh lưỡi chàng cuội, (nói dối như cuội,
chưa điều gì là thật) tức là thời mà lịch sử, ý thức của con người còn
mơ hồ, thì sự sinh tồn đã xuất hiện, cơn đau đẻ đã đến, như một màu
nhiệm. Đêm lịch sử, đêm của u minh rụng cánh, cuộc sống đơm hoa. Nhành
hoa trong câu Kim loại nhành hoa như một chứng ngộ của Cadiep, cất
thành lời, ngôn ngữ thơm máu thịt. Lời là sự sống thơm
tho. Sự sống tràn khắp nhân gian, rì rào thắp sáng dương gian/ trầm tư
sinh khí. Thế nhưng sự sinh tồn khởi đầu là tiếng khóc, dù là tiếng khóc thánh
thót, sữa trắng làm chiếc nôi cho tiếng khóc/ tiếng khóc vạn kỷ.
Trong sự sinh tồn vạn kỷ, con người mới chỉ bơi chập chững chưa
vượt qua được con sông mây thuở nào xanh xao, cần mồi lửa (ngọn lửa của Prométhée - bi kich của Eschyle. 525-456 tr. CN) sưởi ấm đêm mới
vừa rụng cánh. Bài thơ hiện ra sự trầm tư của VCH về sinh tồn qua cái nhìn Phật
Giáo
Đó chỉ là một cách đọc, một cách hiểu, không chắc gì như nội
dung tác giả định nói. Dù vậy cấu trúc mở của bài thơ cho phép người đọc tham
gia vào tác phẩm và tự tìm lấy ý nghĩa cho mình.
Vâng, nếu VCH nói cái ý như tôi đã hiểu ở trên thì thơ anh đã
đạt tới tư tưởng đi tìm tới cái tận cùng khởi nguyên ý thức
về sinh tồn. Bài Giếng Đôi tiếp tục hành trình tư tưởng ấy. Anh suy tư
về Phật, về Chúa: “Vận trời vô thường nên có gì đâu thấy được cõi
vĩnh hằng nhưng không vì vậy mà không gắng sức hóa giải cho đời sống những sản
vật của ý thức đã làm nên muôn màu thế giới”...” văn minh tự do đi
trên những đường biên sinh tử khóc cười ma quỷ hồn nhiên tiên giới nạ dòng hợp
hôn một cõi ta bà không màng thanh trì tâm giới không cỏ êm gió lặng bói trời
qua mây ngắm người qua mắt chỉ mong chân bùn thơm rơm trâu cày phúc âm vỡ
nát chiêu thức thần tượng nhận cát là cha nhận hồ là mạ hoài mong hoá thân vào
chốn không lời chộn rộn màu sắc soi sáng chủng tử cùng nhau bước qua những hạn
độ miên man”...” giọt nước miền samarie/ long lanh quẻ tỉnh/ xanh
nguồn Ô châu/ rực rỡ u sầu/ trong chiều sâu của hạn hữu đời người một
mênh mông thế giới biến dịch trong hai mà một trong một mà hai/ trình diễn/
âm dương“.
Câu thơ không chấm phẩy, người đọc phải tự ngắt ý để tìm nội
dung. VCH luận về tư tưởng Phật, về lẽ vô thường của vạn pháp.., luận về tư tưởng
Chúa, trong tường thuật việc Đức Giêsu xin nuớc giếng của người phụ nữ xứ
Samarie, để mặc khải cho chị về nước sự sống (Phúc Âm Gioan, 4,7- 27).
VHC cho rằng “Thánh thần ba hoa“. Nhân gian quê mùa nguyên thủy tự
tình mới là nỗi hoài mong chân bùn thơm rơm, hóa thân vào chốn không
lời,... bước qua những hạn độ miên man’. Quả là đầu óc VCH còn rối rắm lắm
khi anh tiếp cận với tư tưởng tôn giáo, bởi vì tôn giáo cần đức tin, không cần
lý trí. Chân lý chỉ được mặc khải cho những người đơn sơ. Những người
trí tuệ bi mắc bẫy trong chính cái trí tuệ mạng nhện của mình
Rất may là VCH khong viết nhiều về những suy tư như vậy. Thơ
anh là tiếng bi thương sâu thẳm của một cuộc tình trắng tay khi người
yêu qua sông, cuộc tình không thể quên lãng, để lại những vết
thương sỏi đá khô đặc nghìn thu. Anh như “con Sphanh buồn bã/ khi bọn cướp
đục thủng lấy mất quả tim“ (Quên Lãng), như người đã chết
từ lúc nào không biết (Ảnh Tượng), trái tim bị đâm nát (Vô
Tư) chỉ còn lại cô đơn, tuyệt vọng (Tình Yêu Của Đất) như
Trương Chi (Tình yêu). Kỷ niệm dày vò (Nhà Năm Tháng).
Nhiều đêm hút thuốc, tàn lưả soi đời mình (Cô Đơn), “Với
trái tim trần trụi/ hát bình minh“ (Em). Anh kêu thương vô vọng khi
hình dung ra người yêu “trong buồng tim cọp dữ (Mùa Chết). Anh lo lắng
cho người yêu: “tôi lo ngay ngáy/ bên ấy/ có kẻ nào cầm cung tên hạ trăng. Anh
lâm vào bi kịch và những mặc cảm như ÊĐíp, Prômêtê, Hăm lét (mặc cảm
ÊĐip) Trong tận cùng nỗi bi thương, anh chỉ còn là cái bóng của
chính mình “tôi trở thành cái bóng của bóng tôi/ đêm mơ không uống lành cốc rượu/ bởi cốt cách nghìn năm vốn đã chia ly“ (Sinh Ngày 20.1).
Xin đọc một bài
Chột dạ nhìn máu thấm qua nhiều trang giấy
thời đại
và tiếng đàn níu kéo
những quả táo rơi vào vực tối
Trương Chi
cũng áo quần đủ loại
mặc trên thân thể thôi
tôi mùa đau cởi áo mắc lên cầu hoang
nhưng mốt đời lận đận
áo rách khâu một ngọn đèn trong mơ.
thời đại
và tiếng đàn níu kéo
những quả táo rơi vào vực tối
Trương Chi
cũng áo quần đủ loại
mặc trên thân thể thôi
tôi mùa đau cởi áo mắc lên cầu hoang
nhưng mốt đời lận đận
áo rách khâu một ngọn đèn trong mơ.
(TÌNH YÊU)
Trương chi như một ẩn dụ để VCH diễn tả lòng mình: Tôi như Trương Chi, áo
rách, đời lận đận, mắc lên cầu hoang thời đại. Mùa nào cũng
đau, máu thấm qua nhiều trang giấy (thơ). Tôi như quả táo rơi
vào vực tối, trong mơ, dưới ngọn đèn, khâu áo
rách đời mình
Có lẽ chưa nhà thơ nào diễn tả được nỗi sâu thẳm bi thương và
tuyệt vọng trong tình yêu như VCH. Anh dấu rất sâu nỗi đau của mình trong ngôn
ngữ ẩn dụ, anh vùi nó duới mớ ngôn ngữ hỗn độn ngẫu nhiên, để người đọc khó nhận
ra nó. Anh thổ lộ chuyện tình bằng trí tuệ, để nỗi đau không chỉ đâm nát trái
tim, mà còn đày đọa anh trong suy tư bi kịch, như tình trạng nung nấu dữ dội
khốc liệt của Prômêtê, ÊĐip, Hamlet.
ngồi bên bờ biển cả
gọi đò
nghìn trùng muôn đôi mắt màu mỡ
như bài thơ khó thuộc lòng
cánh vạc đời em mải miết
ước ao ăn những mảnh gan lửa
của chàng Prômêthê
gọi đò
nghìn trùng muôn đôi mắt màu mỡ
như bài thơ khó thuộc lòng
cánh vạc đời em mải miết
ước ao ăn những mảnh gan lửa
của chàng Prômêthê
(Tình yêu Của Đất)
Văn Cầm Hải cũng có những suy tư thế sự về chiến tranh
(Chiến Tranh), về thơ (Apollinair), anh thương kiếp nghèo (Thời
gian), anh thương gia đình ông bà, cha mẹ, chị “trĩu nặng tiếng
khóc“ (Ngôi Nhà xưa Khôn Cũ), đặc biệt là người chị (Người Đi
Chăn Sóng Biển, Đời Chị). Anh đau đáu nỗi đau miền Trung bão
lũ “xoáy vào long tổ quốc“ (Đỉnh em), suy tư về “đất
nước tôi“ (Kinh Nghiệm xanh), về thời đại đồ họa “vỗ mặt
lương tâm“ (Gánh Lúa)... Ở những bài thơ này, âm điệu thơ là
âm điệu tâm hồn, tự nó chứa đựng nội dung, vượt qua câu chữ. Nếu chỉ sa đà vào
câu chữ thì người đọc sẽ bế tắc, như mắc vào lưới không gỡ ra được. Anh có những
tứ thơ khá hay, những suy tư sâu sắc, mạch cảm xúc dào dạt, mãnh liệt, nhưng
thâm trầm.
Tình ca cắt cổ
dông bão nôn nao tìm anh đòi hoá thơ
lão Ngư ngồi câu trăng trên ngọn thủy triều
rong rêu nụ cười xanh biếc
rồi một ngày lũ lừa bỗng đọc sách
kẻ ly dị cầu hôn với thơ anh
dù thời đại lưỡng tính
anh không ăn bóng một thời thơ đã qua.
(APOLLINAIRE)
dông bão nôn nao tìm anh đòi hoá thơ
lão Ngư ngồi câu trăng trên ngọn thủy triều
rong rêu nụ cười xanh biếc
rồi một ngày lũ lừa bỗng đọc sách
kẻ ly dị cầu hôn với thơ anh
dù thời đại lưỡng tính
anh không ăn bóng một thời thơ đã qua.
(APOLLINAIRE)
Tôi tin rằng Văn Cầm Hải còn có thể đi rất xa trên con đường
thơ của anh, vì tôi hé thấy anh có khả năng đi rất sâu vào tâm thức,
trái tim anh tuôn chảy nguồn mạch cảm xúc mãnh liệt, tư duy ngôn ngữ khá độc
đáo, và bước đầu tiếp cận được với kỹ thuật thơ hậu Hiện Đại về cấu trúc tác
phẩm, nó cho phép anh thể hiện được cả những mơ hồ trong sáng tạo, cho
người tham gia vào quá trình sáng tạo của anh. Với riêng tôi, những
bài thơ tình của anh là một đóng góp đặc sắc vào thơ tình Việt Nam đương
đại, VCH như một chân dung rất lạ.
9. Nguyễn Thúy Hằng: Là một tác giả có cá tính mạnh, Chị nói: “Tôi xung khắc với bất kỳ thế giới/ môi trường xung quanh nào. Tôi
không thể hòa nhập hoặc thỏa thuận được với nó. Có lẽ vì tôi quen sống
cách sống của tôi, theo một kiểu phát triển tự do phù hợp nhất. Mặc
dù sinh ra và lớn lên tại Việt Nam, nhưng tôi luôn có cảm giác xa lạ với
chính môi trường tôi đang sống. Tôi luôn trong trạng thái “có vấn đề” và “dị ứng”
về giáo dục, xã hội... Trong bất kể môi trường nào tôi cũng muốn sống, tìm
kiếm và phát triển con người của chính tôi.“ (trả lời Vietnamnet 2/4/2006). Tôi nghĩ đó là một phát ngôn nghiêm túc, thẳng thắn. Nó chứa đựng tư
tưởng của Nietzsche. “Hãy là mình", câu nói của Nietzsche trở
thành châm ngôn sống cho nhiều thế hệ ở phương Tây thế kỷ 20. Tuy nhiên, Ở thế
kỷ XXI, mà Nguyễn Thúy Hằng sống với tinh thần ấy, tôi nghĩ chị
không mới.
Vậy ý thức sáng tạo của Nguyễn Thúy Hằng có gì mới? Chị cho
biết: “tôi từ chối một cách sống và một lối viết ngăn nắp, có trình tự và tử tế. Nó
đả phá những quy tắc và tiêu chuẩn mà cuộc sống đề ra: sự hợp lý, tính thực
tế, sự dễ hiểu, khuôn khổ, đạo đức, số đông, bình tĩnh, sạch sẽ. Sự mất phương
hướng, té, không cân bằng, mặc cảm, stress, xấu xí, thiếu thốn, đói, không hòa nhập, nói năng lảm nhảm… luôn có chỗ đứng và có lý do của nó.” “... Tôi
không có chủ đích về nội dung mà làm tác phẩm dựa trên cảm hứng. Khi hình dung
về một tác phẩm, tôi luôn cảm thấy thích hình dáng hơn là ý nghĩa của chúng. Nó
khác với những người khác ở chỗ khi sáng tác họ thường bắt đầu từ ý niệm, hay
chủ đích còn tôi thì bắt đầu từ sở thích một hình dáng, chất liệu nào đó. Người xem có toàn quyền mở rộng trí tưởng tượng phong phú khi đứng trước
tác phẩm nghệ thuật. Tôi rất sợ những "nghệ sĩ" cứ nhăm nhăm chỉ cho
người ta thấy bằng được ý nghĩa (hạn hẹp) mà trước đó họ đã cố nhồi nhét vào
tác phẩm.”(đd)
Ý thức sáng tạo ấy chính là tinh thần Hậu Hiện Đại, là sự lật
đổ những Đại Tự Sự, thay vào đó là những Tiểu Tự Sự. “Quan điểm
mỹ học Hậu Hiện Đại mang những đặc điểm như: xoá nhoà ranh giới giữa nghệ thuật
và đời sống thường ngày; phá bỏ những giai tầng văn hóa quý phái và văn hoá đại
chúng; phủ nhận tính chất nguyên thuỷ của một tác phẩm nghệ thuật và cho rằng
nghệ thuật cũng chỉ là một hiện tượng lập lại; nhấn mạnh đến phong cách trộn lẫn
giữa nhân vật và sự can thiệp của chính tác giả vào tác phẩm; tính chất kết
dính nhiều mảng kết cấu khác nhau trong cùng một tác phẩm, tựa như một bức
tranh khảm có nhiều chất liệu dị biệt, là điều khá phổ biến trong các tác phẩm
hậu hiện đại.” (Nguyễn Minh Quân - chủ nghĩa Hậu Hiện Đại - những khái niệm
căn bản - Nguyễn Minh Quân - Vietnamnet 2/11/2006) .
Nguyễn Thúy Hằng để cho người đọc có toàn quyền mở rộng
trí tưởng tượng phong phú khi đứng trước tác phẩm nghệ thuật mà không áp đặt
ý nghĩa chủ quan, đó cũng là quan điểm của Thuyết Người Đọc. Thuyết
Người Đọc cho rằng ý nghĩa của tác phẩm là do người đọc quyết định. “Theo
Hirsch, tác giả quyết định ý nghĩa trong khi người đọc tạo dựng liên nghĩa; ý
nghĩa chỉ có một và cố định trong khi liên nghĩa có thể thật nhiều và biến đổi
theo thời gian. (Nguyễn Hưng Quốc - Các lý thuyết phê bình Văn Học). Như
vậy, về nghệ thuật, Nguyễn Thúy Hằng cũng không mới, cũng không đi trước so với
những nhà thơ đồng trang lứa. Vấn đề là từ ý thức sáng tạo, NTH có viết thành
tác phẩm nghệ thuật độc đáo hay không.
Trước hết hãy đọc vài truyện ngắn của chị, chẳng hạn: Cõng
Người lạ, Cô Gái Có Cái Mồm Năm Mươi Lăm chiếc Răng Cắn Phập Mặt Trăng, Thời Kỳ
Đỏ/ Thuốc Ho - Những Đường Gân Thắt Bím, Gió, Ngủ - Đi Đâu Đó Giữa
Trưa. Những truyện ngắn này được viết bằng thi pháp của loại truyện Hiện
Thực Thần Kỳ (Magical Realism), kết hợp với cảm thức Hậu Hiện Đại, chuyển tải một
vài tư tưởng Hiện Sinh dưới dạng một dụ ngôn. Không phải vô tình mà Nguyễn Thúy Hằng viết tiếp truyện Người chết trôi đẹp nhất trần gian, một
truyện ngắn của Gabriel Garcia Márquez. Điều này khiến cho tác phẩm của
NTH không dễ đọc.
Bruce Holland Rogers nói về tác phẩm Hiện Thực Thần Kỳ
như sau: ”Những tác phẩm hư cấu hiện thực thần kỳ mô tả thế giới thực của
những người mà đời sống thực tại của họ khác với đời sống thực tại của chúng
ta. Đó không phải là một cuộc thí nghiệm ý tưởng. Đó không phải là phóng tưởng.
Chủ nghĩa hiện thực thần kỳ nỗ lực cho chúng ta thấy thế giới này qua đôi mắt
khác… các nhà văn hiện thực thần kỳ diễn tả những chuyện bình thường như những
điều kỳ diệu và diễn tả những điều kỳ diệu như những chuyện bình thường…. Chủ
nghĩa hiện thực thần kỳ là một dạng thức đặc thù của văn chương hư cấu nhắm đến
việc trình bày kinh nghiệm của một thế giới quan phi khách quan. Những kỹ thuật
của nó được dành riêng cho thế giới quan đó, và, trong khi người ta có thể thoạt
tưởng rằng chúng cũng giống như các kỹ thuật của loại truyện huyễn tưởng tinh xảo,
thì chủ nghĩa hiện thực thần kỳ lại đang cố gắng làm một điều gì khác hơn là chỉ
chơi đùa với những quy tắc của hiện thực. Nó đang chuyển tải những thực tế mà
những người khác thực sự trải nghiệm, hay đã từng một lần trải nghiệm.”
(7) Những đặc điểm ấy đều tìm thấy trong truyện của Nguyễn Thúy Hằng
Cõng Người Lạ là “câu chuyện kể về một người đàn
ông có tấm lưng rộng khủng khiếp”, suốt đời cõng vợ con trên lưng. Bốn đứa con
đến mười tuổi thì nhảy xuống đất tập đi, còn bà vợ thì không rời lưng chồng, cả
khi đã về già. “Bà mẹ giờ đây được quấn trong một cái khăn choàng lớn và
treo trên lưng bố. Kỳ lạ thay, cho đến giờ này, khi lưng cũng còng vì tuổi tác,
nhưng ông càng ngày càng muốn giữ chặt vợ trên người mình. Hai vợ chồng quấn lấy
nhau..”. Phải chăng Nguyễn Thúy Hằng muốn nói đến tình trạng cam chịu, ý thức lệ
thuộc của các dân tộc, của châu lục đen, và của mỗi người? Trong thực
tế, mỗi người chúng ta cũng phải cõng bao nhiêu thứ gọi là trách nhiệm,
và có không ít những kẻ cưỡi trên lưng người khác cả đời không chịu xuống!.
Gió là một truyện có nhiều yếu tố “thần kỳ“. Một túm
năm người, không biết từ đâu, đến đến một vùng đất lạ ,có gió khắp nơi tụ về. Họ
ăn cát, và đẻ ra hai nắm đất. Họ bắt gió cho vào bao và treo lên để gió bốc mùi
xác chết. Con gái quyết định rủ Bố đến thụ thai cho mình, nhưng khi ông định
kéo con gái lên giường thì Bố biến thành gió. Con gái bắt Bố cho vào bao treo
lên, “Khoảng một thời gian dài sau đó, trong một lần nằm mơ, tôi mới biết
mình đã rat tay giết bố, con đực già nhất làng, người có công duy trì nòi giống
và tạo ra lương thực cho chúng tôi. Ngủ dậy sau giấc mơ đó, tôi ra cây cọc treo
xác bố, tháo xuống và mở ra, bên trong cái xác đã xẹp lại, khô như tờ giấy, và
tôi hoàn toàn không nhận ra hình dáng ông“. Người đọc sẽ tự hỏi câu chuyện
hoang tưởng có tính chất ngụ ngôn này có ý nghĩa gì. Truyện được viết đúng
như ý thức sáng tạo của Nguyễn Thúy Hằng: “Bạn có thể xem nó
là trạng thái mông lung, không thực tế, phi lý, kỳ quặc, quái dị, điên, hoang
tưởng, chứng tự kỷ ám thị... Tôi vừa xóa đi một thế giới nào đấy, vừa tạo dựng
“những cái gì có thể từ nơi khác thông qua tôi mà đến một nơi khác” mà đồng thời
cũng mong tìm một đôi điều quen thuộc ở thế giới tôi thiết lập được“ (Trả
lời Vietnamnet, sđd). Nguyễn Thúy Hằng viết về một thế giới hỗn mang, phi
lý, với ý thức hẳn hoi. Chị nói: “Cõi sáng tạo - cấp độ hỗn
mang hoặc sự vô định hình mà bạn nghĩ rằng tôi đang muốn với tới cũng chỉ
là một phương thức/ hành động của tôi nhằm trả lại cho thế giới bên ngoài sự
phong phú.”
Truyện Ngủ - Đi Đâu Đó Giữa Trưa không có yếu tố thần
kỳ, nhưng vẫn có khuynh hướng tư tưởng. Peter, một người thợ sửa xe, cũng là một
nghệ nhân tuyệt vời. Bỗng dưng anh ta bỏ đi đâu không ai biết. Nhân vật Tôi thấy
Peter đi vắng thì vào nhà ăn cắp bộ sưu tập của Peter. Tôi giúp
Peter việc sửa xe, thanh toán các món chi tiêu, chờ Peter về. Nhưng
hắn đã ra đi không trở về. Tôi đâm nản và ra đi, không biết mình nên xuất phát
từ hướng nào và đi bao lâu, đi về một nơi chẳng còn ai thân thuộc, chẳng còn ai
quen biết để mà hỏi thăm chốn cũ. Ở mảnh đất xa lạ. Tôi quên mất mình là ai, từ
đâu tới. Tôi là một kẻ lãng du, “đi chỉ để mà đi, và quên sạch hết mọi thứ“.
Phải chăng đó là ý thức về sự phi lý và vô nghĩa của cuộc đời, một phạm
trù Hiện Sinh, con người không biết mình là ai, từ đâu tới. Sống là
đi, không biết đi đâu và quên sạch mọi thứ.
Tôi đã thử đọc vài truyện của Nguyễn Thúy Hằng với sự cho
phép của chị, rằng: “Người xem có toàn quyền mở rộng trí tưởng tượng phong phú
khi đứng trước tác phẩm nghệ thuật.”, chưa hẳn những điều tôi đọc đã đúng với ý
nghĩa câu truyện mà tác giả đặt vào, và bạn đọc có thể tìm thấy những
cách hiểu khác. Có vậy tác phẩm mới sinh sôi và người đọc mới thực sự tham gia
vào quá trình sáng tạo cùng với tác giả. Các đọc truyện như trên có giúp ích gì
cho việc đọc thơ Nguyễn Thúy Hằng không?
Nhiều bài thơ của Nguyễn Thúy Hằng cũng được viết với một thi
pháp như truyện, chẳng hạn: Tôi - Vị Thần Ngủ Quên, Chế Nhạo và Phỉ Báng,
Tai Nạn kép, Cinema, Tình Trạng x, Những Tâm Thần Không Đúng Hẹn, Cái chết trước…
đó là những câu chuyện có những yếu tố hoang tưởng, nhưng mang thông điệp nhân
sinh.
Thử đọc cái chết trước
Tôi giành giật nó từ gia đình/ bữa cơm cuối tuần/ bọn trẻ/ câu chuyện làm
ăn/ cơn nhức đầu người mẹ/ cưới hỏi lôi thôi của người anh
Tôi kéo nó khỏi những người bạn lâu lâu tặng quà, lái xe
đường dài để nói về cuộc sống khi trước
Tôi buộc nó chuyển chỗ ngồi từ quán café quen thuộc, rời
bỏ trang sách để ngắm nhìn tôi
Tôi làm tất cả mọi thứ để biến nó thành người
khác, không tự điều khiển chính bản thân, nó ngồi nhìn đoàn người chỉ vì
tôi đang quan sát họ
Nhưng cũng có lúc nó đòi trở về vị trí cũ, cái giường
cọt kẹt, nhìn mạng nhện quen thuộc trên trần nhà
Nó nối dây điện để gọi một vài người quen, mời đi uống beer,
tối đến nó làm vài điếu thuốc trước khi ngủ, trầm mình trong bể nước một tiếng
đồng hồ, sau đó pha một cốc trà để sẵn trên đầu giường và chợp mắt
Nhưng sáng hôm sau, mọi chuyện vẫn như cũ, tôi vẫn thuyết
phục được nó quên đi thói quen đó, chỉ quan tâm đến tôi đang nghĩ gì trong đầu,
tôi cảm giác được cái gì, tôi muốn cuộc sống xoay quanh ra sao, những chuyện sắp
tới tôi muốn làm
Thế mà, chính tôi cũng không hiểu vì sao vẫn thấy thiếu một
điều gì đó, có lẽ vì sự bất ổn đến từ tính tình gần đây
Tổ ấm của chúng tôi là sự chiếm ngự bởi tình yêu duy nhất
Bắt đầu từ đêm hôm qua la khóc, nghiến răng, ở lỳ trong bathroom nhìn nước chảy
Từ giường cũ
Con ma trở mình nhìn cái chết trước
Đó là câu chuyện Giữa Tôi với Nó trong bối cảnh gia đình, một
câu truyện được kể theo tuyến thời gian, qua cảm nghĩ, hành động của nhân vật
tôi. Nhưng Nó là ai, một tha nhân, người yêu, Tôi muốn chiếm hữu nó,
biến nó thành người khác. Nhưng có lúc nó đòi trở về vị trí cũ, nó
vẫn giữ thói quen gọi một vài người quen, mời đi uống beer, tối đến nó làm
vài điếu thuốc trước khi ngủ, trầm mình trong bể nước một tiếng đồng hồ, sau đó
pha một cốc trà để sẵn trên đầu giường và chợp mắt.. tôi vẫn thuyết phục được
nó quên đi thói quen đó. Thế mà, chính tôi cũng không hiểu vì sao vẫn
thấy thiếu một điều gì đó, có lẽ vì sự bất ổn đến từ tính tình gần đây. Tôi như
con ma đã nhìn thấy trước cái chết của hạnh phúc gia đình mình. Bài thơ gửi đi
thông điệp gì? Phải chăng con người bất lực trước thực tại. Con người đã chết trong tương
quan với kẻ khác, dù đó là người thân yêu?. Tôi liên tưởng đến Ngộ Nhận của
A.Camus. Trong đời thường, mỗi người đều có những trải nghiệm như vậy, khi yêu
nhau, người ta trói buộc nhau ghê gớm lắm, người ta muốn biến người yêu thành
người khác. Hạnh phúc chết trong tham vọng trói buộc tha
hoá ấy. Mỗi người trở thành con ma ngay trên giường của mình, ngay
trong ngôi nhà của mình, nhìn cái xác chết hạnh phúc của mình
Bài thơ văn xuôi Tôi - Vị Thần Ngủ Quên của
Nguyễn Thúy Hằng dường như có bóng dáng cách viết Hậu hiện Đại trong
truyện Ngọn Núi Thủy Tinh của Donald Barthelme? Yếu tố hiện thực đan cài yếu tố
hoang tưởng. Nguyễn Thuý Hằng kể: Thành phố gồm những tòa nhà cao lớn. Dân
chúng ngước cổ tôn sùng vẻ đẹp này. Giữa lúc ấy “một bức tượng cổ, vai
đeo giáp sắt, cưỡi một con ngựa, tay cầm một đoạn roi bước xuống bục, chỉ tay
vào đám đông, bảo “trả đất cho ta.” Mọi người ngơ ngác, hình như lâu lắm rồi mới
thấy một người rừng giữa đô thị như thế này.” Dân chúng cười, dựng bức tượng
lên tượng đài cũ. Họ nói “Đây mới là chỗ của ông, cứ đứng yên như thế.”.
Họ muốn đưa ông về một nơi xa nào đó, nhưng bức tượng trở nên nặng trịch không
sao dở xuống được, họ đành để ông ở đó và buộc thêm xích kéo chân ông lại.”
Thành phố, thập kỷ của những em bé, phụ nữ, dân quyền, kết hôn đồng tính, cây cối mọc lan nhanh, chặt bỏ cành dương vật xanh um nẻo đường. Rồi nhà cửa, xe cộ và từng nhà máy rác sạch sẽ bỗng lớn nhanh vùn vụt, ùn ùn xô đẩy những thứ thừa thãi vào một hố chôn sâu nhất. Bức tượng giờ đây là nơi trẻ con thường hay lui tới, đùa giỡn, bày đồ chơi. Còn bệ xi măng nơi ông đứng thành nơi hò hẹn của các bà góa, những cặp tình nhân thường mút kem sữa rồi thở phào trong hứa hẹn. Đôi lúc, họ giật phắt vì ông lại nhảy xuống, đòi lại đất đai.”Nhưng rồi ông đã ngủ thiếp đi giấc ngủ vượt ngàn thế kỷ, ngàn niên đại, lớp người kế thừa đương thời đặt cho ông cái tên vị thần ngủ quên. Nhưng, ông nào có biết. Và bọn nó, Vâng, chính chúng, những đứa trẻ của/ tập đoàn khát máu, chuyên săn lùng, chém giết kẻ ngủ quên.
Thành phố, thập kỷ của những em bé, phụ nữ, dân quyền, kết hôn đồng tính, cây cối mọc lan nhanh, chặt bỏ cành dương vật xanh um nẻo đường. Rồi nhà cửa, xe cộ và từng nhà máy rác sạch sẽ bỗng lớn nhanh vùn vụt, ùn ùn xô đẩy những thứ thừa thãi vào một hố chôn sâu nhất. Bức tượng giờ đây là nơi trẻ con thường hay lui tới, đùa giỡn, bày đồ chơi. Còn bệ xi măng nơi ông đứng thành nơi hò hẹn của các bà góa, những cặp tình nhân thường mút kem sữa rồi thở phào trong hứa hẹn. Đôi lúc, họ giật phắt vì ông lại nhảy xuống, đòi lại đất đai.”Nhưng rồi ông đã ngủ thiếp đi giấc ngủ vượt ngàn thế kỷ, ngàn niên đại, lớp người kế thừa đương thời đặt cho ông cái tên vị thần ngủ quên. Nhưng, ông nào có biết. Và bọn nó, Vâng, chính chúng, những đứa trẻ của/ tập đoàn khát máu, chuyên săn lùng, chém giết kẻ ngủ quên.
Câu chuyện chứa đựng cái lộn xộn của một thành phố với rất
nhiều vấn đề phức tạp. Nguyễn Thúy Hằng mượn một bức tượng nào đó trong thành
phố, hư cấu như một ngụ ngôn, để nói về thời đại của tập đoàn khát máu,
chuyên săn lùng, chém giết kẻ ngủ quên. Nhưng chưa hẳn thông điệp chỉ mang
những tín hiệu thời sự trực tiếp như thế, mà còn mang cái thao thức về thực tại
ngủ quên, giấc ngủ vượt ngàn thế kỷ, ngàn niên đại của dân tộc. Có một
sự trùng hợp thú vị về chủ đề Giữa Tôi- Vị Thần Ngủ Quên với Trạng
Nguyên Ngủ của Phan Bội Châu. Cả hai truyện đều có cái nhìn thế sự sâu sắc
và một giọng trào phúng nhẹ nhàng nhưng buồn thắm thiết. Như vậy, ngay trong những
câu chuyện hoang tưởng, Nguyễn Thúy Hằng cũng gửi những thông điệp thế sự có thể
làm nhức nhối trái tim đồng cảm với chị. Người đọc hời hợt lười biếng thì chẳng
hiểu chị nói gì
Thơ Nguyễn Thúy Hằng còn là tiếng nói của một cái tôi bất an,
vô định, cô đơn, xa lạ ngay trong thực tại. quan hệ với người là quan hệ xa lạ.”
Giữa tôi và ông/ bóng đêm, mùi lữ hành“ (1&2). Nguyễn
Thúy Hằng thức tỉnh Giữa mọi ngộ nhận (Người Chết Trôi Đẹp Nhất Trần Gian) tôi (thật nguy hiểm, nhưng thích thú, có bao giờ bạn nhàm
chán với nỗi bất an của mình đâu)
(Beckett’s, tôi và Khuyên)
tôi có gương mặt thật xấu xí, vì thế tôi muốn chúng méo mó
hơn nữa, trở thành một dị biệt, xương kéo dài hoặc thình lình thu ngắn lại,chóp mũi hay
chóp nhà thờ, tất cả đều xoay quanh quả địa cầu, lỗ tai, rún, vì chỉ có
gương mặt tôi mới có đủ sức tiếp cận sát bề mặt nóng bỏng đó, mông, má, giấy tờ.
tôi cứ thế quay không ngừng cả ngày lẫn đêm
tôi rất thích trạng thái đi xiêu vẹo của mình, những người mù
nắm tay nhau đi trong cơn giông bão, thèm băng qua đường trong buị mù xoắn xuýt.
(Những tâm thần không đúng hẹn)
Ví dụ như: tôi - chết mà vẫn nhăn răng cười trên
màn ảnh lớn như diễn viên xiếc
Ví dụ như: tôi, sau khi phục sinh, tay vẫn thò vào túi và chơi trò sấp ngửa rồi chỉ tay ra đất trống
Tôi được vùi ngoài kia, bia bọt, lồng kính nhỏ dày đặc các sao hình chiếc mông, nắng ấm, thối rữa, rong chơi bên kia tinh cầu, lũ chim câu bay vù: rên rỉ, khát nước, không đường về
Ví dụ như: tôi, sau khi phục sinh, tay vẫn thò vào túi và chơi trò sấp ngửa rồi chỉ tay ra đất trống
Tôi được vùi ngoài kia, bia bọt, lồng kính nhỏ dày đặc các sao hình chiếc mông, nắng ấm, thối rữa, rong chơi bên kia tinh cầu, lũ chim câu bay vù: rên rỉ, khát nước, không đường về
(Thời hôm nay, khoái cảm, điên rồ hợp lý)
Và kia, hình như tôi trong bấn loạn đã viết lên tường
lảm nhảm vô lý về một ai đó
Không thể xác định đó là tình trạng gì. Vì đôi khi nóng nực,
bức bối làm biến dị tất cả. Tôi không thấy tôi nữa mà là con vật thô bỉ. Đối
xử với đồ vật nghiệt ngã và luôn thích nhìn chúng với thất bại thảm thương. Tôi
nhớ trong một tuần đã đứng trước đồ vật để nói với chúng về sự thật, đã bày tỏ u
uất của tôi và khuyên chúng bằng mọi cách hãy tan biến đi, đừng để bọn người
sử dụng và làm cho mới lên những màu mè tạm bợ, hợp chất và ô nhiễm, đường
gân, chất vải, kim loại, gốm sứ…
Tôi không thể kể câu chuyện này với ai được. Tôi trở nên
thụ động và chờ người ta bỗng dưng hiểu được để tôi không phải giải
thích. Từ lâu tôi ăn nói vòng vo và ngồi suốt buổi nhưng không làm
sáng tỏ điều gì... (Chế nhạo và phỉ báng)
tôi vẫn chạy trốn
gói gém hành lý biến mất trong tư thế gập người (tay
chân còn bấu chặt ghế, ai đó giãy dụa liên hồi… tôi đang mơ tưởng..)
một cái bóng khổng lồ ập lên đám đông, tất cả chạy ra xa
trong sự hỗn loạn
“hãy đi đi vào ngã này” - tiếng loa vắt ngang hàng nghìn người
quỳ gối, họ khóc
tôi vẫn tìm đường chạy
tôi thích sự kiệt sức, tháo mòn hết nước. Khi ấy người ta sẽ
cưỡi được lên người tôi, lên mông, lên tai, lên chiếc lưỡi mằm cứng đơ
(GÀO THÉT NỮA ĐI)
Tôi không thể hình dung được rằng, đằng sau một Nguyễn Thúy Hằng
có cá tính mạnh mẽ, một năng lực hoạt động và sáng tạo dào dạt, luôn bất hoà
gay gắt với thực tại, lại là một nghệ sĩ, một nhà thơ u uất,
cô độc, bất an, hoảng loạn chạy trốn, ”Tôi không thấy tôi nữa mà là con vật
thô bỉ”
Về nghệ thuật, Nguyễn Thúy Hằng có đưa một số yếu tố kỹ thuật mới
vào thơ. Thơ của chị là thơ văn xuôi, thơ có tính truyện. Nhiều bài tính
truyện lấn át tính thơ. Về kỹ thuật thơ, chị cho biết: “đa số tôi áp dụng sự
đa dạng về bố cục trong hội họa, tập hợp ý tứ thành một khối thống nhất và sau
đó phá nó đi. Ví dụ như trong bài “Chơi game với Chủ Thể”, sự ngẫu hứng đến từ
chiếc bàn vừa để chơi game, vừa có thể ngồi cafe, và tôi thích cách người ta sắp
xếp những dòng chữ trong bảng hướng dẫn chơi game với bố cục rất đẹp. Tôi đã viết
bài “Chơi game với Chủ Thể” dựa trên bố cục như thế.“ (Vietnamnet, sđd). Hoặc chị vẽ tranh đi kèm với những bài thơ, dùng hình
thức nhật ký, thống kê các chi tiết, tập trung vào hình ảnh để tạo ấn tượng... Tôi nghĩ đó chỉ là những yếu tố kỹ thuật. Yếu tố quan trong trọng là tư tưởng
thẩm mỹ và thi pháp, ở chị có sự tương tác phức hợp, tạo nên một diện mạo
riêng. Và hơn hết, dưới những câu thơ hỗn độn, nổi loạn, hoang tưởng, bí hiểm…
là những thông điệp, chứa đựng những nỗi buồn thế sự, nỗi buồn nhân sinh, nỗi
buồn hiện sinh muốn được chia xẻ. Nhưng người đọc chưa kịp nói lời nào với chị
thì Nguyễn Thúy Hằng đã vẫy chào chúng ta, phải chăng chị hoài nghi cả chúng ta:
“này nhé, bạn đâu biết rằng mình đã chết từ buổi sáng hôm nọ
chúng ta gặp nhau (và rồi chúng ta mồi chài nhau bằng im lặng)
cứ cái đà liên tưởng, hình ảnh, tôi đã ăn bạn và nhấm nháp từng
mẩu nhỏ trong buổi sáng lượn lờ sài gòn, và quả thật cái đầu
bạn cứng lắm, toàn những ký tự sắt trong đó, xin lỗi vì ăn mà không
báo trước, và sau đó cũng không thèm cám ơn, tục tĩu quá đi mất)
thôi nhé, chấm dứt buổi tối nhỏ tôi sẽ ra đi với nỗi bất an mới một tình nhân mới“
10. Trần Ngọc Tuấn (8): Là người thơ tài hoa, người thơ của
tình người, tình đời đằm thắm, nhẹ nhàng, tinh tế, mênh mang. Anh
giao cảm xâu xa với người thơ xưa, người thơ nay. Anh đi
nhiều, nơi nào anh cũng có những câu thơ giăng mắc tình son, gặp ai anh cũng
chia xẻ cái tình nhân gian đau quặn
Một khúc sông quê
Mẹ mấy lần đưa tiễn
Đêm không trăng
Gió buốt
Sông gầy
Mẹ nhóm bếp
Khói bay
Nhòa ngõ
Tiếng ai qua
Cũng ngỡ bước con về
(Mẹ - Chân Chim Hóa Thạch)
Tôi ngồi tím giọt mưa ngâu
Người ngồi nâng chén bên cầu sông Ngân
Bể dâu ai cũng một lần
Khổ đau cũng chỉ đến ngần ấy thôi
Chúng sinh phách lạc hồn trôi
Thân hoa xác cỏ nhờ tôi tạ lời
(Rằm Tháng Bảy Nhớ Nguyễn Du - Chân Chim Hóa Thạch)
Tự mình quẩy gánh trần gian
Đa mang chấm đất, lang thang dính trời
Một đời không đủ rong chơi
Tự mình hóa cỏ luân hồi nỗi xanh
(Nỗi xanh - Con Mắt Dã Quỳ)
Bao người đến, bấy trái ngang
Tôi xin làm suối giải oan cho mình
(bên Suối Giải Oan - Giữa Cỏ)
Trần Ngọc Tuấn đã xuất bản các tập thơ: Giác quan biển
(1994); Giữa cỏ (1996); Chân chim hóa thạch (1998); Con mắt dã quỳ (2000); Gửi
dòng sông Đồng Nai (2004). Tập Suối reo (2006) là một bước thăng
hoa tư tưởng của anh.
Nếu bạn hỏi tôi rằng tập thơ Suối Reo có gì đặc sắc? tôi có thể nói ngay điều này, Suối Reo là một tập thơ
Thiền, nhiều bài đạt đến cái thần của những
bài thơ Thiền trong truyền thống thơ phương Đông. Đó là
một điều lạ, vì Trần Ngọc Tuấn là một nhà thơ trẻ. Những
nhà thơ trẻ hôm nay đang loay hoay thử nghiệm với những
cách tân phương Tây, thì Trần Ngọc Tuấn lại tìm về phương Đông, “thung
dung tiếp cuộc đăng trình“ Ở Suối Reo, Trần
Ngọc Tuấn hiển lộ một cốt cách thơ tài hoa hiếm thấy của thơ trẻ.
Nhưng, dấn thân vào con đường thơ tư tưởng, Trần
Ngọc Tuấn phải chọn lựa sự thử thách vượt qua hố thẳm. Cái thiếu lớn nhất
của văn chương Việt Nam đương đại nói chung và của thơ nói
riêng là thiếu tư tưởng. Nguyễn Huy Thiệp đã từng thốt lên tuyệt vọng:
“Khoảng trống ai lấp được trong tư tưởng nhà văn“ (Sông Hương -
Tháng 4/ 1990). Đã có những thử nghiệm nhưng thất bại.
Tất nhiên Trần Ngọc Tuấn không phải là nhà thơ tư tưởng,
nhưng thơ Trần Ngọc Tuấn trong Suối Reo là thơ tư tưởng. Giá trị thẩm
mỹ của nó là ở tư tưởng và ở cách thể hiện tư tưởng. Vì thế người đọc chỉ có thể
tiếp cận tư tưởng trong thơ Trần Ngọc Tuấn bằng lăng kính của mỹ học Thiền, bằng
cái tâm Bát Nhã và cách đọc thơ vô ngôn. Hơn nữa Trần Ngọc Tuấn có
kiểu tư duy thơ rất riêng khiến cho thơ anh không dễ đọc. Nhưng khám phá được
thế giới nghệ thuật ấy người đọc sẽ nghe thấy suối reo trong tâm hồn
mình
Suối Reo có một sự khác biệt với thơ Thiền truyền thống ở
chỗ tác giả của thơ Thiền truyền thống là các Thiền sư, còn Trần Ngọc
Tuấn là nhà thơ hiện đại. Vì thế Suối Reo là thơ của đời ánh lên sắc
Thiền, thơ của một con người còn đang “qua dốc sương mù “
“Gánh củi qua dốc sương mù
Mồ hôi giọt giọt gió ù ù bay
Nghìn tia nắng dệt trang ngày
Bước chân hoan hỷ, đêm này lửa reo“
Sống là gánh lấy bao nhiêu nỗi vất vả như người
gánh củi. Ngày đêm phải vượt qua con dốc sương
mù và đương đầu với gió ù ù thổi bay. Với cách nhìn đời như thế, bài
thơ thường sẽ chuyển về những tâm tình thở than. Thế nhưng Qua Dốc
Sương Mù lại rực rỡ ánh sáng của sự thăng hoa. Đó không phải
là thứ ánh sáng thiên nhiên của nghìn tia nắng, hay ánh sáng của đêm
lửa reo, mà là ánh Phật quang. Nỗi vất vả, thống khổ trở thành
con đường hạnh ngộ. Người gánh củi kia tự sáng trong "bước chân hoan hỷ". Bài thơ không còn là sự minh giải cho ý nghĩa hiện thực mà trở
thành khoảnh khắc “đốn ngộ“ khi con người đã vượt qua được
“dốc sương mù“, nhìn đời bằng Trí Huệ Bát Nhã (Prajna-
Chữ của nhà Phật)
Nhưng làm sao vượt được “dốc sương mù“? Trần Ngọc
Tuấn vẫn đang tự hỏi.
“Hỏi thăm người trốn chơi xa
Mà sao râu tóc phôi pha bụi trần
Hỏi thăm người biệt giai nhân
Mà sao nhan sắc tần ngần ngóng trông
Hỏi thăm người có hay không
Mà sao chuông vọng âm âm gió mùa“
(Hỏi Thăm)
Trần Ngọc Tuấn đã “trốn“, đã "biệt" cuộc
đời này, trốn biệt những sắc dục giai nhân, thế sao con
người ấy vẫn râu tóc phôi pha vì bụi trần, vẫn ngóng trông nhan
sắc giai nhân? vẫn mê đắm, không hay, không biết, không nhận ra tiếng
chuống thức tỉnh, dù tiếng chuông ấy "vọng âm âm“
trong gió mùa? Hình hài, thân xác, cuộc đời này nặng
nề biết bao, nó trói buộc con người mãi trong cõi vô minh. Hỏi cũng
là trả lời. Tiếng chuông thức tỉnh ấy là tiếng chuông vọng trong
tâm, mà dũng lực của nó có sức khai mở Tâm Bát Nhã
Với Tâm Bát Nhã con người sẽ nhận ra mình đang
đánh bắt đời mình
“Chẳng chấp gì bé lớn
Một mình nghe lặng thinh
Mây trên đầu luẩn quẩn
Ông ngồi câu bóng mình“
(Ngồi Câu)
Một ông ngồi câu trong thinh lặng, mây bay trên đầu. Câu chỉ
để câu, không cần được cá lớn hay cá bé. Nhưng ngồi mãi chẳng được con cá nào, bóng ông đổ trên cần câu.
Tất nhiên bài thơ không nói đến việc câu cá. Bỏ cái vỏ
ngôn ngữ ấy đi, tư tưởng Thiền bừng sáng lên. Con người luẩn quẩn trong mê trong chấp,
không nhận ra mình đanh đánh bắt (câu cá) chính mình. Mình vừa là
người buông lưỡi câu lại vừa là nạn nhân bị lưỡi câu móc vào. Thực tại hư ảo (câu không được gì) mà điều tìm kiến cũng hư ảo (câu cái bóng). Vậy mà con
người lại lẩn quẩn móc dính vào cái hư ảo ấy không sao gỡ ra được.
Bài thơ có thể làm người đọc “ngộ“ ra được điều gì đó về cuộc
đời này, về thực tại “thất vọng, vô thường, vô ngã“ (dukkha,
anicca và anatta).
Trong cái thực tại thất vọng, vô thường, vô ngã ấy, con người còn lại gì?
Đất nứt nẻ đồng khô mùa khát
Ta còn gì ngoài nắng lặng im
Tâm địa chấn rung rùng biển động
Ta còn gì ngoài sóng lặng xô
Mưa trút nước lũ tràn đê vỡ
Ta còn gì ngoài mây lặng trôi
Cây trụi lá trơ thân giông bão
Ta còn gì ngoài gió lặng yên
Mùa cuối đông vườn không ong bướm
Ta còn gì ngoài hoa lặng rơi
Chuyến hạnh phúc còn không vé vớt
Ta còn gì ngoài em lặng đau
Thanh tịnh một vì sao lẻ bóng
Ta còn gì ngoài ta lặng thinh
(Lặng)
Câu hỏi “ta còn gì“ là câu hỏi của “hố thẳm“: “ Bổn phận của mi là lên đường đi đến hố thẳm, một cách im lặng,
không hy vọng, một cách rộng lượng“ (N. Kazantzaki). Con người phải chịu
lấy tất cả những phũ phàng, mất còn ở đời, như chịu đựng cơn khát nắng hạn, chịu đựng những kinh hoàng rùng rùng địa chấn, chịu đựng sự tàn phá
của lũ tràn đê vỡ, giông bão càn quét trụi không,
chịu đựng giá rét mùa đông vắng bóng sự sống, chịu đựng
những nỗi đau bất hạnh và sự cô độc như vì sao lẻ bóng.
Tư tưởng của bài thơ không lộ ra trong cái quay quắt những
đau đáu mất - còn, mà hiển minh trong cái im lặng. “Ta còn
gì ngoài ta lặng thinh“. Sự im lặng bộc lộ tất cả dũng lực vượt qua có - không. Cái còn tồn tại trong chính cái
mất, vượt qua mất - còn là Chân Như
Bài thơ mang một khí vị Thiền đặc biệt ở thi pháp. Khí vị
này đem đến những mỹ cảm trí tuệ cho người đọc. Cái tĩnh trong cái
động, cái còn trong cái mất. Những tứ thơ được triển khai
trong kiểu tư duy nhị nguyên tương phản còn - mất , dẫn
người đọc vào sự rối bời vô minh của ngôn ngữ, cũng như
sự rối bời của thực tại có - không. Khi còn có Ta, và
khi cái Ta bị nhận chìm trong những khốc liệt địa chấn, giông
bão, khô khát, mong chờ hạnh phúc, mong chờ hoa bướm, thì
cái Ta ấy còn đau, còn cô độc, còn sợ hãi, còn vọng tưởng… Vì làm
gì có “cái ta“. Bản chất của “cái ta” là “vô
ngã“.
Chỉ khi đạt tới cái “vô ngã“ không
bóng, không hình“, con người mới nhẹ nhàng qua
sông (“Đáo bỉ ngạn“ - Chữ của nhà Phật)
Nhẹ nhàng cánh nhạn qua sông
Nhạn không lưu bóng, sông không bóng hình
Thung dung tiếp cuộc đăng trình
Mặc con sống vỗ một mình ra khơi
(Ra khơi)
Đạp lên sóng vỗ mà ra khơi, thung dung như cánh
nhạn ruổi rong đăng trình, Con Người ấy có sức mạnh của cả vũ trụ,
cao hơn cả vũ trụ. Tứ thơ mang khí vị câu thơ làm rung chuyển thái
hư của Không Lộ Thiền Sư
Trạch đắc long xà địa khả cư
Dã tình chung nhật lạc vô dư
Hữu thì trực thướng cô phong đĩnh
Trường khiếu nhất thanh hàn thái hư
(Ngôn Hoài)
Qua sông (đáo bỉ ngạn) rồi, lại sống như chưa
qua sông, con người hồn nhiên biết bao, cuộc đời tươi xanh biết bao, một đọt lá trên cành cũng trổ sinh bao la sự sống
Đâu ngờ một ngọn gió lay
Mà hoa rơi rụng mà mây tan tành
Đâu ngờ một đọt đầu cành
Rừng xưa lại thắm, mùa xanh lại về
(Đâu ngờ)
Và tất cả cùng tỏa sáng, cùng reo cười.
Trăng tự sáng giữa tầng không
Suối tự chảy giữa mênh mông đất trời
Kìa ai bất chợt tự cười
Trái tim tự hát lẽ đời tự nhiên
(Tự Nhiên)
Niềm hoan lạc vô biên
Suối reo, biển lặng, sông đầy
Vầng trăng tròn trặn, mây bay yên bình
Cánh én liệng, nụ hoa xinh
Tình người chân thật, hồn mình an nhiên
(Kho Báu)
Thơ Thiền của Trần Ngọc Tuấn dẫn ta vào cõi sáng của
tư tưởng và cõi an bình của tâm tư và niềm hỷ hoan của bước
chân người gánh củi thung dung vượt qua dốc sương
mù cuộc đời. Phải có một trình độ “giác ngộ“ nào đó của
tâm thức, phải trải qua bao nhiêu tra vấn, bao nhiêu giông bão, nắng
hạn, bao nhiêu mất còn, phải bao nhiêu kiếp hóa thân, Trần Ngọc Tuấn mới có
thể viết được những câu thơ của “trái tim tự hát lẽ đời tự nhiên“
như thế.
Nhiều bài tứ tuyệt có phẩm chất cổ điển nhưng thật mới lạ
(An Nhiên, Trắng, Trên Núi Tuyết, Ngồi Câu, Trà Sớm...).
Nó vừa dẫn ta về suối nguồn thơ cổ điển vừa làm ta ngạc nhiên về những phát hiện
tư tưởng ngay trong đời thường. Bài Ngồi Câu là một cặp sánh đôi rất
tuyệt với Giang Tuyết của Liễu Tông Nguyên (773-819). Hình ảnh bướm
hoa trong Vậy Thôi dẫn ta về vối Xuân Vãn của Trần
Nhân Tông. “giọt sương tan trên lá xanh“ trong Lên Đồi Tịnh Độ mới
lạ hơn “giọt sương phô trên ngọn cỏ“ trong Thị Đệ Tử của Vạn
Hạnh Thiền sư. Hình ảnh “cuối vườn hoa khai“ trong Vô Thường phải
chăng là một với tứ thơ “Đình tiền tạc dạ nhất chi
mai“ trong Cáo Tật Thị Chúng của Mãn Giác Thiền Sư (1052-1096). Bài Rỗng Rang âm vang lời Thiền: Chư Phật và chúng
sinh đều có chung một tánh giác. Chư Phật hằng sống với tim rỗng rang
thanh tịnh.
Tứ tuyệt Lục bát của Trần Ngọc Tuấn vừa có cái giản dị
chân tình của ca dao vừa có sự sang trọng trí tuệ của Tứ Tuyệt cổ điển. Đó là sự làm mới Lục bát truyền thống, cũng là cách Việt hóa Tứ tuyệt của thơ
Đường... Suối Reo bay trong cái cao rộng của thơ cổ điển, sang
trọng hồn nhiên bên cái đằm thắm lục bát thơ Thiền của Phạm Thiên Thư. Và Trần
Ngọc Tuấn có cái tài hoa riêng của anh. Tôi tin rằng nhiều bài thơ trong tập Suối
Reo có thể sống lâu dài với thời gian. Tuy vậy, khi anh viết thơ Thiền
chỉ bằng khái niệm nhà Phật thiếu cái chiêm nghiệm máu thịt của bản thể, thì hồn
thơ của anh không còn cái diễm tuyệt mênh mang quyến rũ như là phẩm chất thẩm mỹ
vốn có trong thơ anh. Ta hiểu làm thơ tư tưởng khó biết bao, và thật đáng trân
trọng những bài thơ đã hóa thân từ chính tâm thức Trần Ngọc Tuấn.
Phác thảo chân dung
Tôi vừa vẽ những nét phác thảo chân dung 10 nhà thơ trẻ đương
đại, bạn đọc có thể hình dung được một thế hệ thơ không? Tất nhiên với chỉ 10 khuôn mặt thơ thì chưa đủ cho một khái quát ở diện rộng,
vì người làm thơ trẻ có đến hàng ngàn. Dù vậy, 10 khuôn mặt thơ tôi vừa giới
thiệu ít nhiều đã hé lộ những điều mới mẻ mà thơ của thế hệ đi trước chưa hề
có. Thơ trẻ không dễ đọc, bởi đó là thơ thiên về thể hiện tư tưởng. Thơ trẻ
không còn là thơ Lãng Mạn, cũng không là thơ kể người, kể việc.Thơ trẻ tiếp cận
với thủ pháp và tinh thần Hậu Hiện Đại, pha trộn với Nghệ Thuật Sắp
Đặt, Nghệ Thuật Trình Diễn... Họ dùng nhiều ẩn dụ, nhiều liên tưởng, nhiều hoang
tưởng, ngẫu nhiên. Có những so sánh ẩn dụ đi quá xa, làm cho người đọc mệt
nhoài chạy theo thơ. Các nhà thơ trẻ đã có ý thức sáng tạo, có những quan điểm
mới và có cách thể hiện mới. Họ giàu có về ngôn ngữ, có bề rộng trải
nghiệm, sức sáng tạo thật đáng nể. Trong những nhà thơ trên, tôi thấy có những
khuôn mặt thật đặc sắc (Lê Vĩnh Tài, Ly Hoàng Ly, Nguyễn Thúy Hằng, Trần Ngọc
Tuấn). Trong sâu thẳm của hồn thơ, nhà thơ trẻ tha thiết với tình yêu, tình
người, tình đời, với cuộc sống nhân sinh. Họ khao khát cái đẹp và tin tưởng cái
đẹp sẽ bừng sáng trong đêm đen thẳm và đặc quánh. Tôi nghĩ họ sẽ làm nên một diện
mạo thi ca mới cho thơ Việt nam đương đại. Con đường của họ còn đang mở ra trước
mặt. Đọc thơ họ, nếu đọc từng bài riêng lẻ, thì thật khó tiếp cận, bởi đó chỉ
là những mảnh vỡ nhận thức - tư tưởng - thẩm mỹ của họ. Cần đặt thơ họ trong hệ
thống thi pháp và kiểu tư duy nghệ thuật, và nhìn bài thơ theo ý thức sáng tạo
của từng tác giả, người đọc mới mong đi vào thế giới tâm hồn của họ. Nếu hiểu
được họ thì thật thú vị, bởi họ chủ trương một lối viết không dễ hiểu, một cách
thể hiện dành cho đối tượng người đọc có chọn lọc.
Ghi chú:
Ghi chú:
(1) Nguyễn Hữu Hồng Minh, Bản chất
ngôn ngữ và tính hư cấu trong thơ hiện đại.
(2) Nguyễn Huy Thiệp, Trò
chuyện với hoa thủy tiên và những nhầm lẫn của nhà văn, Tạp chí Ngày Nay,
Hà Nội, số 6, 15.3.2004)
(3) Lý Đợi phỏng vấn Như
Huy: (2003) Nicolas De Olivera, Nicola Oxley và Michael
Petry, Nghệ thuật sắp đặt ở thời điểm thiên niên kỷ mới (Installation
Art in the New Millenium - Thamed and Hudson xuất bản),
(4) Theo định nghĩa về P.A của Quỹ
Phát triển và Trao đổi văn hóa Đan Mạch - Việt Nam
(5) Trả lời phỏng vấn của Vnexpress
(6) Đặng Thiều Quang thực hiện Văn
Nghệ Trẻ số Tết - Xuân Mậu Tý 2008
(7) Thực ra, chủ nghĩa hiện thực
thần kỳ là gì? - Rogers,
Bruce Holland, Bản dịch của Nguyễn Hoàng Văn, Hoàng Ngọc Tuấn
hiệu đính ).
(8) Một phần đã đăng trên
Văn Nghệ Trẻ: Một Mình Ra Khơi, ngày 28/1/2007.
10/2008
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét