Thạch Lam tường thuật cô Kiêm diễn thuyết bênh thơ mới:
Cùng một buổi diễn thuyết của cô Nguyễn Thị Kiêm mà Phong Hóa
có tới bốn bài tường thuật. Sau bài tường thuật của Ngộ Không tôi còn kể thêm
ba bài tường thuật của Thạch Lam, của Lê Ta và của Ngym. Tất cả chúng đều cho
ta thấy thính giả say mê tới vấn đề, đến chen chúc nhau thừa sống thiếu chết.
Đây mấy lời mở đầu bài tường thuật của Thạch Lam:
"Đến cuộc diễn thuyết của cô Nguyễn Thị Kiêm ở quán hội
K.T.T.Đ.
"Người đến nghe và đến xem chắc hẳn là đông lắm. Vì một
cái lẽ rất giản dị, diễn giả là một người con gái. Một cô con gái diễn thuyết tất
có nhiều cô con gái đến nghe, những cô tân thiếu nữ ở Hà thành, áo tha thướt và
nhiều màu tóc mượt và đen nhánh.
"Người ta đến đây cũng như một cuộc vui chơi. Trong một
sự hỗn độn, bao giờ cũng lắm cái bất ngờ, lắm cái may rủi.
"Buổi tối hôm ấy không một ai nghe rõ được câu gì. Người
ta chỉ thấy cô Kiêm chốc chốc lại đưa khăn tay lên lau mồ hôi trên trán, thấy
đôi môi mấp máy. Thành thử không phải như bà Lê Dư diễn thuyết cho bà ấy nghe ở
hội Trí Tri. Cô Kiêm dẫu có muốn nghe lời mình nói cũng không nghe thấy gì".
Lê Ta tường thuật cô Kiêm diễn thuyết bênh thơ mới
Và đây đến lượt Lê Ta tuờng thuật:
"Công chúng mỗi lúc một đông thêm. Tiếng ồn ào mỗi lúc
một lớn. Trên kia cô Kiêm vẫn nói. Dưới này họ lục đục chen nhau, cãi nhau về
chỗ ngồi. Một ông to béo luôn tay run người này ấn người kia để bênh vực cái đồng
hồ đeo tay của ông.
"Giữa lúc mồ hôi dang đua nhau làm ướt áo mọi người,
thì bỗng cái quạt điện bừng chạy.
"Một ông dẫm lên chân một cô ngồi cạnh để tỏ ý bất mãn,
rồi đứng lên diễn thuyết với hai người đằng sau xô lên.
"Dần dần, cả những người ngồi đầu đều đứng lên, rồi muốn
cho cao hơn, họ đứng cả lên ghế.
"Một vài ông cố sức mở một đường "huyết đạo" xông vào gần chỗ tôi, phàn nàn rằng mình vẫn mộ tiếng diễn thuyết mà
không được nghe lấy một tiếng nào. Các ông đứng lau mồ hôi một lúc trèo mám lên
một cái ghế nghiển cổ trông. Lúc thấy được mặt diễn giả các ông sung sướng chen
ra tỏ ý mãn nguyện lắm.
"Cái nóng bức trong hội quán cùng với sự náo động cứ tăng
mãi lên, đến lúc những cánh quạt vì lòng nguyện vọng nhiệt liệt của công chúng
lại bắt đầu quay, mà trật tự vẫn không giữ được... Những người ở dưới muốn nghe
rõ lần lượt rủ nhau lên gác muốn mát lại rủ nhau xuống. Cứ thế mãi không thôi".
Nguym tường thuật cô Kiêm diễn thuyết bênh thơ mới
Sau cùng là lời thường thuật của một người ký tên là Ngym, chẳng
biết là ai:
"Thính giả, cả hai giống, có đến bảy tám trăm đầu.
"Các bà các cô đến đông. Phần nhiều không được trắng
như mọi khi, ý chừng nóng quá mồ hôi ra trôi cả phấn.
"Nhưng vì đến sau, phải đứng cả. Có độ hơn 400 ghế thì
các ông râu mày ngồi mất đến ngoài ba trăm rưỡi ghế. Ông huyện Trị thân sinh ra
cô Kiêm, đứng lên xin các ông râu mày nhường chỗ cho các bà quần thoa "íu
đúi". Cái gì chứ cái ấy thì cố nhiên là thính giả phái khỏe không chịu
nghe viện lẽ rằng họ không lẳng (nếu tôi có thể dịch chữ "galant"
là lẳng được).
"Muốn cho thính giả lẳng lặng mà nghe, các tổ chức viên
dùng "suỵt". Sau có người "chừng cũng thạo về khoa học", nghĩ ra được một kế rất điệu là đi mượn cái chuông. Anh hàng kẹo hay
anh hàng dầu nào cho mượn cái chuông ấy, chắc cũng được biệt đãi.
Lê Ta phê bình tập thơ "Những bông hoa trái mùa".
Sau đấy Lê Ta, nhân đọc một tập cũ "Những Bông Hoa trái
mùa" của hai ông Tường Vân và Phi Vân làm ra để thách đố, đua vai với thơ
mới. Lê Ta đã phân tích tập thơ của hai ông và trích những câu văn vừa sáo, vừa
rỗng, vừa đạo văn, vừa ngây ngô để minh chứng thơ cũ mà các ông ca ngợi đã hết
sinh khí rồi. Thực bài trả lời của Lê Ta là cay độc, khiến cho làng thơ cũ phải
một phen bể mặt. Đây bài phê bình "Những Bông Hoa trái mùa" của Lê
Ta (P.H. số 148, 10-5-1935).
"Sau khi góp sức chế tạo ra được ngót ba mươi trang thơ
(Những bông hoa trái mùa) hai nhà văn Tường Vân và Phi Vân "một ngày tốt
đẹp kia", đem in thành sách. In sách để tỏ cho thiên hạ biết hai ông cũng
có triết lý về cuộc đời, mà hai ông coi như một buổi hát:
Còn lạ lùng chi cái thói đời.
Trăm năm cũng một lớp tuồng thôi
Trăm năm cũng một lớp tuồng thôi
(Cuộc Đời)
"Để trách trăng, trách gió, trách người bạn gái, khóc ý
trung nhân và để than cái nỗi đời xoay chuyển mãi, "dặm liễu" đã
mòn chân "ngựa ký" mà "đường mây" chưa thẳng cánh "chim đồng" cho nên "anh hùng" còn thẹn mặt trần ai, luống
lo tưởng đến "nợ kiếm cung" ( !) chưa biết đến bao giờ trả được.
"Tác giả thực là người có tâm huyết, có khí khái, có
tình cảm và có những giọng cụ đồ cổ bất đắc chí ngồi cạy ghét móng tay mà giận
đời không biết đến mình.
"Bởi thế, cái mới là cái đáng thù, cả sự chân thực cũng
vậy. Đứng trên núi cao trông cảnh giang sơn dưới ánh trăng vằng vặc, các ông ngẫm,
các ông cảm động bằng đôi mắt và trái tim của bà Huyện Thanh Quan:
Tuế nguyệt thành xưa trơ lớp đá,
Tang thương ngõ cũ nhạt làm meo.
Tang thương ngõ cũ nhạt làm meo.
(Trên núi Thiên nhẫn)
"Các ông tả cái sắc đẹp của giai nhân trên thuyền bằng
văn Cung oán:
Cá dưới nước ra chiều lảng bảng,
Hoa trên giòng ra dáng lênh đênh.
Hoa kia ngơ ngẩn với tình,
Cô kia ngơ ngẩn như hình ai nghe.
Hoa trên giòng ra dáng lênh đênh.
Hoa kia ngơ ngẩn với tình,
Cô kia ngơ ngẩn như hình ai nghe.
(Trên mặt hồ Tây)
"Các ông phục cái khí phách của bà Triệu Ẩu bằng lời của
một nhà làm thơ cũ, tôi quên mất tên, nhưng vẫn nhớ kỹ cái nghệ thuật giở hơi
và kiểu cách:
Dãi nắng dầm mưa đôi má phấn,
Xông tên đột pháo một đầu voi
Xông tên đột pháo một đầu voi
(Triệu Ẩu)
"Các ông khen âm điệu thơ cũ thánh thót âm thầm như tiếng
đàn năm cung. Không ai cãi hai ông, nhưng tiếc rằng khi nghĩ đến đàn, các ông lại
nghĩ đến tính tình của người khác, các ông lại xúc động bằng tâm hồn của người
khác vì trong lòng các ông không có một thi cảm riêng nào.
"Thi sĩ Nguyễn Du tả tiếng đàn như thế này:
Trong như tiếng hạc bay qua,
Đục như nước suối mới sa nửa vời;
Tiếng êm như gió thoảng ngoài,
Tiếng mau sậm sập như trời đổ mưa.
Đục như nước suối mới sa nửa vời;
Tiếng êm như gió thoảng ngoài,
Tiếng mau sậm sập như trời đổ mưa.
"Các ông liền lấy những ý trên lập lại. Các ông cũng viết:
Trong như tiếng hạc mới bay qua,
Đục tựa lưng vời nước suối pha,
Êm ái tiếng khoan như gió thoảng,
Tiếng mau sầm sập lại mưa sa.
Đục tựa lưng vời nước suối pha,
Êm ái tiếng khoan như gió thoảng,
Tiếng mau sầm sập lại mưa sa.
"Cái tài của các ông là cái tài xào nấu lại những món
ăn cũ. Các ông lấy lời văn, ý tưởng, tình cảm của người khác làm của mình.
Trong văn thơ các ông đầy rẫy những cành tuyết, mai, thông, liễu, ở những chỗ
sông Tân, vườn Thúy, chơi sông đêm trăng các ông bắt chước người ta nhớ câu thơ
Xích bích, ngắm nước hồ Tây các ông cũng chỉ nghĩ đến cảnh Bắc quân xô xát với
truyện con trâu vàng. Các ông đi sau cổ nhân để lượm nhặt những rơm rác ấy là
"Những bông hoa trái mùa".
"Các ông đem bó hoa không đáng gọi hoa kia dùng làm thứ
khí giới để công kích lối thơ chân thực dồi dào, phóng khoáng mà người ta thường
gọi là thơ mới.
"Các ông không phải là người biết tìm cái đẹp mới mẻ,
biết tả đúng tâm sự mình trước cảnh vật, cái cảm hứng của các ông không thể ra
ngoài khuôn sáo, chỉ quanh quẩn ở những điển tích mà đã mấy nghìn lần người ta
nhắc đến, nghe quen tai quá, chẳng khác gì những lời chúc tụng của bọn người
hát "súc sắc súc sẻ" đầu năm.
"Các ông trách lối thơ bây giờ không theo niêm luật cũ,
vì các ông không biết rằng thơ bao giờ cũng phải có luật. Không phải cái luật hẹp
hòi hạn câu chọn chữ là một lối rất tiện cho những người khúm núm thi thố cái
tiểu sảo của mình. Nhưng thơ phải có thứ luật cao siêu hơn, thiêng liêng hơn:
mình biểu lộ cảm tưởng, tâm trạng mình một cách êm ái, tha thiết hay hùng tráng
du dương theo cái bản lĩnh riêng mình, không bao giờ chịu theo tư tưởng, tình cảm
của người khác. Như thế thì trái với thứ biệt tài của hai ông lắm, nên hai ông
không bằng lòng.
"Các ông chỉ ưa và chỉ tìm được những lời văn hoa sẵn
có để tra vào cái khuôn khổ sẵn có. Khi tiễn đưa, tất nhiên phải dùng đến những
chữ: chuốc chén qua nhà với duổi dong dặm kỳ; khi vinh hoa tất nhiên phải chắp
nhặt những tiếng: sắc nước hương trời. Mà cuộc đời bao giờ cũng là một tấn tuồng
cũng như lúc mặt trời về chiều, bao giờ cũng là ác, là chênh chếch, giọt sương
dùng để chỉ nước mắt, là ngô vàng rụng để tả mùa thu. Các ông cũng không quên
những chữ cảnh biếc, biển quế, bụi hồng, mắt xanh, không quên những câu:
Lơ thơ dăm cụm lục chen hồng,
Thượng uyển là đây có phải không?
Hương ngự (!) ngạt ngào đôi khóm cúc,
Nhạc thiều (!) reo rắt mấy cành thông (trang 15)
Thượng uyển là đây có phải không?
Hương ngự (!) ngạt ngào đôi khóm cúc,
Nhạc thiều (!) reo rắt mấy cành thông (trang 15)
"Để tả những cảnh...trong vườn bách thú (!). Nghĩa là
những câu thơ có thể tả được bất cứ cảnh vườn nào, mà tả cảnh vườn nào cũng rỗng,
cũng sáo, cũng không có nghĩa lý chi hết.
"Ấy thế mà các ông đi công kích bọn làm thơ lối mới;
các ông lấy những giọng oanh liệt để mắng họ:
Lạy bác xin đừng nói đến thi,
Nghĩa thi chưa hiểu hãy im đi.
Nghĩa thi chưa hiểu hãy im đi.
"Và gọi họ là bọn mù:
Chẳng khác anh mù lại nói mơ,
Chẳng qua một bọn dốt làm thơ...
Chẳng qua một bọn dốt làm thơ...
"Vâng, họ dốt vô cùng, dốt vì không biết theo kinh điển,
vì không biết nhai lại những lời cổ nhân mà các ông quý trọng, vì không biết để
cho cái khuôn khổ buồn cười của thơ (bát cú) kìm kéo, thắt buộc tính tình, cảm
hứng của họ.
"Vâng, họ dốt và mù lắm, họ không thể sáng như hai ông
Tường Vân và Phi Vân được, mà như thế, theo ý tôi, thì thực là may cho quốc
văn.
"Vì quốc văn cần phải tiến. Quốc văn không phải thứ trò
chơi dí dỏm ở trong ấy có những luật lệ bày ra để một ít người thợ khéo chắp nhặt
cái tiểu sảo nọ để ghép vào cái tiểu sảo kia. Thơ văn của ta bây giờ mới biết
theo khuynh hướng mới cũng đã quá chậm rồi, không cần phải có những bọn văn sĩ
như hai ông Tường Vân và Phi Vân với cô Bích Ngọc ngăn cản lại.
"Nói đến cô Bích Ngọc, người đề tựa cho quyển "Những
bông hoa trái mùa" tôi lại tưởng tượng đến một bậc nữ lưu đoan trang, trầm
mạc. Tôi còn tưởng tượng lên thêm một bực nữa, tuy không được vừa ý cô nhưng
tôi cũng cứ mạn phép cô tôi nói: tôi tưởng tượng ra một bực nữ lang... bà già.
"Bởi vì những ý tưởng của cô cũng đã già như cái cây cổ
thụ.
"Cô cũng đồng lòng với hai nhà thi sĩ của cô ham mến
cái cổ, coi lối thơ luật cũ rích như những bông hoa thơm, cô lại viết một bài
thơ tám câu, có ý cho chúng tôi thấy thí dụ. Cái cụm hoa thơm là bài thơ quý
hóa ấy cũng có đủ những biền ngẫu: nhị vàng đi dôi với cành thắm, lòng bướm với
kiếp hoa, dậu cúc với cành hồng, nghĩa là những chữ sáo đi đôi với những chữ
sáo.
"Cô thực là người biết yêu trọng quốc hồn, quốc túy. Nhất
thiết cái gì là mới, là lạ, cô đều ghét cay, ghét đắng lấy lẽ rằng cái mới lạ ấy
không phải là của nhà. Câu phong dao:
Ta về ta tắm ao ta,
"Có lẽ là câu châm ngôn của cô. Cô thiết tha khuyên người
ta chê bỏ và tự mình chê bỏ "ao ngoài", để về tắm "ao nhà" dù ao nhà ấy đầy những bùn, những vẩn.
"Tôi buồn rằng người "thục nữ" có duyên đến thế lại
kém vệ sinh.
E - Phản ứng làng thơ cũ
Chẳng hiểu dựa vào đâu mà có người cho rằng trước sự tấn công
của làng thơ mới, làng thơ cũ đã chịu thua ngay từ đầu không có một ai lên tiếng.
Hình như đó cũng là ý tưởng mà Lê Tràng Kiều đã biểu lộ trong bài trả lời ông
Thái Phỉ, Hànội báo số 19, 13-5-1936.
Sự thực đã không hẳn như vậy. Trong khi tường thuật những vụ
diễn thuyết ủng hộ thơ mới ở Nam và ở Bắc, tôi đã đọc cho các bạn nghe những
bài tường thuật của báo Phong Hóa và báo Phụ Nữ Tân Văn. Cả hai tờ báo đều tố
cáo thái độ quyết sống quyết chết của phái bênh thơ cũ. Chẳng thế mà khi cô
Nguyễn Thị Kiêm diễn thuyết mấy lần ở Nam kỳ và ở Bắc kỳ, phe phản đối thơ mới
như các ông Nguyễn Văn Hanh chẳng những huy động bạn bè đi nghe để gây rối, để
đăng đàn phản đối cô Kiêm tại trận mà ta còn thấy có lần cô Kiêm bước vào phòng
diễn thuyết đã được người ta trao cho cô một túi đầy ắp những thơ hăm doạ. Cô
Kiêm quyết liệt đối với thơ mới thế nào thì ông Hanh hăng say đối với thơ cũ
như vậy. Thực là trong cuộc chiến tranh này chẳng những cá nhân chọi với cá
nhân mà còn các cơ quan ngôn luận chọi với các cơ quan ngôn luận nữa: trận tuyến
lan tràn từ Nam ra Bắc kéo dài suốt mấy năm trường. Nếu bênh thơ mới có Phong
Hóa, Phụ Nữ Tân Văn, Tiểu Thuyết Thứ Bảy, Hànôi báo, Loa, Ngày Nay... thì bênh
thơ cũ có An Nam tạp chí, Văn Học tạp chí, Công Luận, Tiếng Dân, Văn Học tuần
san, Tin Văn... Xét số đông thì bên thơ cũ buổi đầu chắc là ăn đứt bên thơ mới.
Tản Đà, tuy chẳng ưa gì thơ mới, nhưng xem ra nhà thi sĩ của
chúng ta tế nhị lắm: chính ông không để cơ quan ngôn luận của ông là An Nam tạp
chí tấn công thơ mới. Còn đối với thơ cũ, ông thản nhiên bênh vực nó một cách
gián tiếp bằng việc cho đăng thơ cũ, bình giảng thơ cũ. Đề cập thẳng đến thơ mới
với luận điệu mỉa mai có lẽ có trường hợp Vân Bằng trong bài "Tôi thất
vọng về ông Phan Khôi" (An Nam tạp chí số 39, 30-4-1932).
"Vừa đây, ông lại ra công "sáng chế" ra một lối thơ
"tân thời, tự do đặc biệt", không cần niêm luật, tự ý vắn dài, làm
cho nhiều người "hoài cổ" phải ngậm ngùi thương tiếc, "tám vế" luật Đường! Có lẽ vì sự phát minh lối thơ mới này mà phải mai một đi
chăng?".
Chất Hằng đả kích thơ mới của Phan Khôi
Ngoài An Nam tạp chí, tờ báo thứ nhất ở Bắc tỏ vẻ chống thơ mới
là tờ Văn Học tạp chí của Chất Hằng Dương Tự Quán.
Trong bài "Ấm Hiếu Không thể làm Tú Khôi" hay
là "Một cái tỉ hiệu luận giữa Phan Khôi và Nguyễn Khắc Hiếu", Chất
Hằng, trong lúc đả kích Phan Khôi ở nhiều phương diện, đã mỉa mai lối thơ mới
do Phan Khôi khai mào. Nói về Phan Khôi làm thơ, Chất Hằng viết: "Người
ít tình cảm thì sự cảm giác về cái bản ngã cũng kém cho nên Phan Khôi không hay
làm thơ mà chỉ ưa nghiên cứu về thơ. Đôi khi Phan Khôi cũng làm thơ, nhưng thơ
của ông cũng "hùng hổ" như ông... hay khắc khổ như văn xuôi của
ông, hoặc nhạt nhẽo vô duyên như hình dáng của ông.
"Có lẽ vì thế mà Phan Khôi muốn thay đổi cái hình thức
của thơ mà xướng xuất ra một thể thơ mới nó thật ra chẳng mới chút nào, và cũng
ít người cùng ông hưởng ứng" (V.H.T.C. số 18, 1-6-1933).
Sau khi chế diễu thơ mới một cách nhẹ nhàng ngày 1 tháng 6
năm 1933, Chất Hằng viết liên tiếp ba bài công kích thơ mới đăng Văn Học tạp
chí các số 22 (1-8-1933), số 23 (15-8-1933), số 24 (1-9-1933). Bài đăng số 22,
với tựa đề "thơ mới", đề cập đến cuộc cải cách thơ của
Phan Khôi từng được mệnh danh là cuộc cải cách của thơ mới. Chất Hằng cho rằng
cái mà Phan Khôi nhận là mới ấy, chẳng phải Phan Khôi là người đầu tiên xướng
xuất ra, người đầu tiên xướng xuất ra là Nguyễn Văn Vĩnh:
"Phá cùm và cắt xích cho những nhà thơ, công cuộc giải
phóng đó không phải là chẳng hợp lý và chẳng thích thời.
"Nhưng khi ấy cũng ít người hưởng ứng, trong số tôi thấy
có ông Thượng Minh mà các bạn độc giả của Văn Học tạp chí chắc còn nhớ là một
người vì quá hâm mộ ông Phan Khôi mà liệt ông Nguyễn Khắc Hiếu vào hạng nhà văn
điên cuồng, gàn dở.
"Mới đây một tờ báo có tính cách hài hước" lại
đem cái vấn đề thơ mới ấy đặt lên thảm xanh "và hết sức cổ động cho "lối thơ Phan Khôi" như lời ông Thượng Minh đã nói trong báo Đông
Tây.
"Nhưng trước khi bàn về việc đổi mới cho thơ, ta hãy
nên "trả cho César cái gì của César" đã. Tôi muốn nói rằng ông Phan
Khôi chẳng phải là người thứ nhất đã có cái sáng kiến làm thơ quốc văn theo lối
tây vậy.
"Người ấy có phải ai đâu mà chính là ông Nguyễn
Văn Vĩnh. Ta hãy đọc mấy câu trong bài ngụ ngôn "Con ve và con kiến" dịch của La Fontaine ra đây:
Ve sầu kêu ve ve, suốt mùa hè.
Đến kỳ gió bấc thổi
Nguồn cơn thật bối rối
Một miếng cũng chẳng còn
Ruồi bọ không một con
Vác miệng chịu khúm núm
Sang chị Kiến hàng xóm
Xin cùng chị cho vay
Giăm ba hạt qua ngày.
Đến kỳ gió bấc thổi
Nguồn cơn thật bối rối
Một miếng cũng chẳng còn
Ruồi bọ không một con
Vác miệng chịu khúm núm
Sang chị Kiến hàng xóm
Xin cùng chị cho vay
Giăm ba hạt qua ngày.
Đối với Chất Hằng, Nguyễn Văn Vĩnh hay Phan Khôi cũng thế
thôi, toàn là người lập dị, phản động: vẫn biết phải đổi mới cho thơ, nhưng chỉ
nên đổi mới tinh thần thôi chứ ai lại kỳ cục mà sửa đổi hình thức theo đây:
"Song tôi không đồng ý hẳn với người hay những người đã
và sẽ sáng tạo ra các lối thơ mới, tuy trên kia tôi nói rằng công cuộc giải
phóng cho thơ không phải là chẳng hợp lý và không thích thời.
"Tôi thích đổi mới cho thơ, nhưng tôi chú trọng về tinh
thần của thơ hơn là là đường hình thức. Về đường hình thức của thơ, tôi dám nói
rằng những nhà thơ cổ của Trung quốc đáng là thầy ta. Lối thơ Đường luật tuy bị
giam hãm vào trong cái thi pháp chặt chẽ nhưng ta thử hỏi có lối thơ nào là chẳng
phải bó buộc bởi những luật lệ nhất định. Ngay như thơ tây cũng còn phải theo
phép tắc rất phiền phức. Vì nếu không thế thì không phải là thơ nữa.
Và ngoài thể thơ Đường luật nghiêm nhặt ra, ta há lại không
còn thể nào rộng rãi nữa hay sao?
Còn như coi thể thơ Đường luật có chật hẹp quá, thì có thể cổ
phong cũng là rộng rãi lắm chứ, việc gì phải lập dị. Tinh thần hướng dẫn nhà
thơ hiện đại phải là "dùng lối cổ mà diễn những tư tưởng mới":
"Thì thể cổ phong đó thật đủ tư cách để ứng phó cho sự
nhu yếu của ta. Cổ phong là lối văn có vần mà không đối nhau. Nếu có đối nhau
là tuỳ ý của nhà làm văn, không phải là một luật nhất định. Cổ phong không có
niêm luật, không hạn câu, tự bốn câu cho đến bao nhiêu câu cũng được. Cả bài
dùng một vần tức là độc vận, như:
Hôm qua có bạn, rượu lại hết
Hôm nay có rượu, bạn không biết,
Cất đi, đợi bạn đến lúc nào,
Cùng uống, cùng vui trời đất tít
Khi say, quên cả ai là ta
Còn hơn lúc tỉnh nhớ mà mệt
Hôm nay có rượu, bạn không biết,
Cất đi, đợi bạn đến lúc nào,
Cùng uống, cùng vui trời đất tít
Khi say, quên cả ai là ta
Còn hơn lúc tỉnh nhớ mà mệt
Cả bài dùng nhiều vần là liên vận, như:
Đá xanh như nhuộm, nước như lọc
Cỏ cây hoa lá dệt như vóc
Trời hoang mây tạnh gió hiu hiu
Ai thấy cảnh này mà chẳng yêu
Mới biết Hóa công tay khéo vẽ
Tuy người điểm xuyết ra nước non
Bể cạn non bộ nhỏ con con
Sao bằng tiêu giao cùng Tạo hóa
Bốn mùa phong cảnh thật không giả.
Cỏ cây hoa lá dệt như vóc
Trời hoang mây tạnh gió hiu hiu
Ai thấy cảnh này mà chẳng yêu
Mới biết Hóa công tay khéo vẽ
Tuy người điểm xuyết ra nước non
Bể cạn non bộ nhỏ con con
Sao bằng tiêu giao cùng Tạo hóa
Bốn mùa phong cảnh thật không giả.
Đọc qua mấy bài thơ thể cổ phong tôi lục ra trên đây, chắc phần
nhiều các bạn độc giả sẽ nghĩ như tôi rằng những người khởi xướng và cổ động
cho lối thơ mới chỉ là "cho máy chạy rụt lùi" mà thôi, chứ có chi
là đặt ra mới đâu.
Vì vậy tôi cho cái hình thức của thơ chẳng phải đổi mới. Việc
các nhà thơ nên làm ngay bây giờ là cứ theo cái hình thức thơ cổ và diễn những
tư tưởng mới.
Sang đến bài "Làm thế nào để đổi mới cho thơ" (V.H.T.C. số 23, 15-8-1933), về vấn đề hình thức, ngoài việc đề nghị
hình thức cổ phong, còn đề nghị thêm hình thức lục bát và song thất lục bát nữa,
nhưng ông không ưng cho người ta đi xa hơn nữa. Thế rồi ông kịch liệt tấn công
sự nghèo nàn của thơ hiện tại về phương diện nội dung. Ông hô hào phải đổi mới
cho thơ về mặt đề tài, về nội dung. Ông bảo:
"Sao người ta không vịnh cái máy bay, cái tàu thủy, cái
ô tô, cái xe lửa, mà cứ quanh đi quẩn lại hết cái điếu, cái chổi lại
đến cái nón hay cái hỏa lò?
Giá ông thi sĩ nào vịnh cho tôi cái toa máy xe lửa cũng linh
động như mấy câu sau này:
Sur le taureau de fer qui fume, souffle et beugle
L'homme a monté trop tôt...
Mais il faut triompher du temps et de l'espace
Arriver ou mourir...
... Mais aucun n'est le maitre
L'homme a monté trop tôt...
Mais il faut triompher du temps et de l'espace
Arriver ou mourir...
... Mais aucun n'est le maitre
Du dragon mugissant qu'un savant a fait naitre, của thi sĩ Alfred de
Vigny tả những toa máy thứ nhất (Les premières locomotives) thì có phải ông ấy
đã mở được cho thơ quốcvăn một con đường mới không. Tôi lại ước ao có nhà thơ
nào đem con mắt biết quan sát mà ngắm những nhà máy và cảnh sinh hoạt anh em chị
em lao động rồi vẽ nên được những bức tranh tuyệt xảo giống như của thi sĩ
Verhaeren nước Bỉ, thì lúc này chúng ta còn có thể lạc quan, trong khi dự đoán
tiền đồ của thơ quốc âm."
Thương Sơn bênh thơ cũ
Chẳng những bảo thơ mới của Phan Khôi chẳng có gì mới mà còn
cho thơ mới của bọn các ông chẳng qua chỉ là một thứ từ khúc hết sức cổ lỗ, lời
thời trước đây đã có biết bao nhiêu người làm rồi. Bài này tựa đề là "Thơ mới tức là Từ Khúc" ký Thương Sơn một bài bổ khuyết bài "thơ mới" của Chất Hằng và được ông Chất bàn góp thêm ở phần cuối (V.H.T.C.
số 24, 1-9-1933). Theo cả hai ông Thương Sơn và Chất Hằng thì thơ mới thực ra
chỉ mới ở mỗi cái chỗ gieo vận. Vậy mà các lối vận của cái thơ được mệnh danh
là thơ mới, lại chỉ là vận của các lối từ khúc mà thôi. Ông Thương Sinh phân
tích các vần của hai bài: bài "con ve và con kiến" của Nguyễn
Văn Vĩnh, cũng như bài "Tình già" của Phan Khôi, rồi đem
so sánh với cách gieo vần của nhiều bài Từ Khúc để kết luận: thơ mới là một
hình thức đi giật lùi.
"Kể ra thì trong bài "con ve và con kiến" cái lạ ở nơi cách bắt vần, cách này cũng hai câu một vần với nhau,
đến hai câu khác lại vần khác, có giống như lối vần "liên tiếp"
(rimes suivies) của tây. Ấy, cũng vì cái giống ấy mà chúng ta tưởng lầm rằng,
cách bắt vần này mới lắm, song kỳ thực trong văn Tàu nó đã có từ lâu, nó đã cũ,
tôi nói cũ để khỏi nói xưa đó thôi.
"Thì cứ xem bản dịch Tỳ bà của Tản Đà thư điếm cũng đã
thấy cách bắt vần ấy rồi, nên bản Tỳ bà của Cao Đông Gia ở tận đời Nguyễn. Đây
xin trích mấy vần:
Thám hoa (đọc):
Bác chẳng thấy năm ngoái quan nghè Bùi?
Ngã ngựa đứt băng một bên đùi.
Lại chẳng thấy năm trước quan đốc Phùng
Ngã ngựa vẹt hẳn một bên mông?
Ở đời có ba sự rất sợ,
Chở đò, đánh đu cùng cưỡi ngựa...
Ngã ngựa đứt băng một bên đùi.
Lại chẳng thấy năm trước quan đốc Phùng
Ngã ngựa vẹt hẳn một bên mông?
Ở đời có ba sự rất sợ,
Chở đò, đánh đu cùng cưỡi ngựa...
lại điệu từ "Bồ tát Man" dịch đăng ở Nam Phong:
Bảng lảng non vàng cảnh minh diệt
Mây in mái tóc, thân pha tuyết
Ủ dột nét mày ngài
Điểm trang cùng với ai?
Cánh hoa lồng trong kính
Mắt hoa cùng lấp lánh
Mới mẻ...
Đôi chim ai thêu thùa?
Mây in mái tóc, thân pha tuyết
Ủ dột nét mày ngài
Điểm trang cùng với ai?
Cánh hoa lồng trong kính
Mắt hoa cùng lấp lánh
Mới mẻ...
Đôi chim ai thêu thùa?
Cùng điệu "Mộc Lan Hoa"
Đàn ai tiêu sái
Khiến khách giang hồ tình ái ngại;
Lơ lửng trăng sân,
Bóng mình mình ngỡ bóng giai nhân...
Khiến khách giang hồ tình ái ngại;
Lơ lửng trăng sân,
Bóng mình mình ngỡ bóng giai nhân...
chẳng phải là bắt vần như bài dịch của ông Vĩnh ru?
"Tôi còn nhớ như bài "Khóc Lâm Tứ Nương" đăng ở tạp chí này, nguyên Hán văn cũng bắt vần như thế.
"Vậy thì cách vần ở bài "Tình già" cũ
lăm lắm chứ có cũ vừa đâu! - ông Chất Hằng lại rõ thật là sơ ý. Ông không thấy
rằng bài ông Vĩnh cũng bài cổ thể thứ hai mà ông chép ở đoạn sau bài là giống
nhau lắm ru? Bài trên là một bài ngũ ngôn; cái lạ chắc không ở đó, mà ở cách
bắt vần, song cách bắt vần lại giống bài dưới mất, nghĩa là người ta đã làm rồi,
thì còn gì là sáng kiến nữa đâu! Họa chăng chỉ còn ở mấy chữ "suốt mùa
hè".
"Từ trên tới đây, đó là tỏ một phần cũ của bài thơ ông
Phan. Trước khi nói đến phần cũ khác của nó, ta hãy thử xem vì sao cách bắt vần
"liên tiếp" nó đã có từ lâu rồi mà người ta lại ít làm tới, cho đến
bây giờ người ta ngộ nhận rằng nó là "tân thời". Ấy cũng vì nó
không hay gì cho lắm, không êm ái bằng cách bắt vần như thơ Đường vậy, ấy nó
cũng sắp vào vòng "đào thải" rồi."
Rồi Thương Sơn đem so sánh bài "Tình già" của
Phan Khôi với bài "Mối tình ngầm" của Trần qu Thường H.T., để
quả quyết rằng thơ Phan Khôi còn cổ hơn là Từ Khúc nữa kia:
"Ông Chất Hằng chép bài "Tình già" sai với nguyên văn, nên chỉ chú đến cách bắt vần, mà không biết đến
cái tự do của nó. Như thế, những người đã "lại đem cái vấn đề thơ mới ấy
đặt lên thảm xanh" chắc sẽ không khỏi nói qua nói lại. Vậy xin thay ông
chép lại mấy câu thơ gốc của "lối mới" rồi chỉ một chỗ "cũ" khác của nó, mà chỗ này quan hệ hơn.
Hai mươi bốn năm xưa
Một đêm vừa gió lại vừa mưa
Dưới ngọn đèn mờ trong gian nhà nhỏ
Đôi cái đầu xanh kề nhau than thở
Ôi! đôi ta tình thương nhau thì vẫn nặng
Mà lấy nhau hẵn đà không đặng,
Để đến nỗi tình trước phụ sau
Chi cho bằng sớm liệu mà buông nhau...
Một đêm vừa gió lại vừa mưa
Dưới ngọn đèn mờ trong gian nhà nhỏ
Đôi cái đầu xanh kề nhau than thở
Ôi! đôi ta tình thương nhau thì vẫn nặng
Mà lấy nhau hẵn đà không đặng,
Để đến nỗi tình trước phụ sau
Chi cho bằng sớm liệu mà buông nhau...
Đọc bài ấy rồi, độc giả đọc bài này:
Lá liễu xanh
Hoa hồng đỏ
Trăng rạng tỏ
Thấp thoáng trong mành ai to nhỏ
Ai to nhỏ?
Vườn xuân cỏ cây tươi tốt
Khi xuân đầm ấm dương hòa
Dan díu cùng ai lời thề thốt
Hẹn dưới hoa.
Hoa hồng đỏ
Trăng rạng tỏ
Thấp thoáng trong mành ai to nhỏ
Ai to nhỏ?
Vườn xuân cỏ cây tươi tốt
Khi xuân đầm ấm dương hòa
Dan díu cùng ai lời thề thốt
Hẹn dưới hoa.
"Ở trên bài đây, ta nếu thử đề rằng "Thơ mới" mà gửi
cho mấy tờ báo vẫn chắc rằng lối "thơ Phan Khôi" là mới, họ sẽ đăng
ngay, vì nó có theo luật lệ gì đâu, người ta cũng tự do đặt nó ra, nó là thơ
"mới" vậy. Nhưng nó "mới" từ độ mười năm nay, trong Hữu
Thanh khi xưa; tôi đã trích ở trong bài nói về từ khúc của ông Nguyễn Ửng, nó
là Từ khúc vậy. Từ khúc lúc ấy rất thịnh trong thi ca. Ấy là một lối thơ tự do,
nhưng "tự do" ở trong "giới hạn" âm nhạc câu thơ, tự do
phải đường".
Động Đình đả thơ mới
Cũng trên Văn Học tạp chí số 49, 11-8-1934, Động Đình viết
bài "Bàn thêm về lối thơ mới", lời lẽ có vẻ còn cay nghiệt
hơn trước đây. Trước hết, Động Đình cho rằng luật thơ cũ chẳng có gì là khó
khăn gò bó cả:
"Ít lâu nay cái phong trào thơ mới sôi nổi dữ. Các báo
thường thấy hô hào cải cách về thơ. Nào bài xích lối thơ Hàn luật, đổ tội cho
thơ cũ của ta phải tội niêm luật quá nghiêm khắc, làm cho mất cả tinh thần tự
do của văn chương đi. Nhưng nói thế là lầm, ta hãy xét lại những lời xưa ý cũ của
các thi sĩ đời xưa xem có diễn được hết ý tứ, ngụ được đủ tính tình của người
làm thơ, tả được hết cái trạng thái của vũ trụ, của cảnh vật không".
"Đem so với thơ mới bây giờ thì thơ cũ hơn vô cùng, thơ
mới vô vị thế nào thì thơ cũ thi vị và ý vị như vậy:
"Cái thi tứ thi vị ngày xưa so sánh với thơ mới bây giờ
ra sao. Thật là thơ Hàn luật vẫn ý vị vô cùng, thanh tao biết mấy, bóng bảy dường
nào, đọc lên, nghe đến ai mà không hiểu. Tuy, cái niêm luật, thể vần, lối thơ
cũ của ta nó hơi khó, hơi nghiêm một chút, nhưng âm điệu vẫn thâm trầm, mà tinh
thần vẫn hàm súc đủ các ý tưởng, tình tứ".
Động Đình cho rằng những lẽ người ta viện ra để bảo thơ cũ luật
lệ chật hẹp là không đúng, có thứ chặt chẽ như thất ngôn bát cú, nhưng lắm thứ
chẳng có luật lệ gì gò bó như "ca, hát, từ, khúc, trường thiên, cổ phong:
"Vả lại thơ cũ có thật niêm luật khắc khổ nghiêm ngặt
thì sao từ trước đến giờ thi sĩ có ai chịu không theo nổi cái niêm luật thể thức
ấy đâu?
"Kể thơ Hàn luật còn lắm điệu, nhiều thể rộng lắm như
các bài ca, hát, từ, khúc, trường thiên, cổ phong, chữ và vần vẫn tự do chẳng
cũng là đặc điểm khoan hồng cho thi luật lắm đó sao? Bất tất phải thay đổi chi
thêm phiền, thêm rắc rối. Còn lối thơ mới bây giờ, xét ra cũng bất ngoại cái
khuôn sáo cũ. Thể cách tuy có hơi khác, nhưng cái tinh thần vẫn cũ rích.
Động Đình đồng ý phải đổi mới cho thơ, nhưng chỉ đổi mới về nội
dung mà giữ y nguyên về hình thức chứ, theo ông, thơ mới, ngược lại, chỉ có mới
về lời mà ý thì cũ rích và lạc hậu:
"Tưởng đã duy tân cho thơ thì cần ở chỗ tinh thần hơn
là hình thức thì mới nên. Chứ chỉ bỏ có niêm luật thể vận cho dễ viết mà thôi,
thì e rằng rừng thơ thêm gai góc, hồn thơ tổ vẫn đục.
"Duy có một điều mà tôi muốn bàn đây là chỉ nên cải
cách nguyên cái tinh thần cũ. Vì ít lâu nay thơ ca nhường như phần nhiều đều phải
chung cái bệnh không hồn. Phàm gọi là thơ, văn phải có tình, có tứ, có khí, có
hồn, ấy thế mà chỉ thấy giọng sầu oán bi ai cả là nghĩa lý gì.
"Sao lại có thứ văn chương phù phiếm ấy, nhu nhược thế.
Hay là vận thế đến lúc suy, mà văn chương cũng suy theo chăng.
"Văn tức là hồn nước, rất có ảnh hưởng đến nền tiến hoá".
Cuối cùng Động Đình chê thơ mới yếu đuối, phản động vì buồn
bã, ủy mị, hại dân hại nước, không bổ ích cho ai:
"Ta nên rèn dũa sao cho văn chương được hùng hồn, có vẻ
hoạt động, thực tế, thì ở thế kỷ 20 này mới thích dụng. Lại còn phải thông thường
thì mới bổ ích. Bởi thứ văn sầu cảm đã không bổ ích gì cho đường thực tế, mà lại
làm thêm ủy mị đi, mất cả cái nhuệ khí phấn đấu, cái mãnh lực tiến thư, dẫu có
hay mấy cũng là vô dụng".
Nếu ở ngoài Bắc có Văn Học tạp chí đố kỵ thơ mới thì trong
Nam có Văn Học tuần san chửi bới thơ mới. Hai nhà văn của Văn Học tuần san bênh
thơ cũ chửi thơ mới quyết liệt hơn cả là Tùng Lâm Lê Cương Phụng và Thiết Diện.
Để bênh vực thơ cũ là thứ thơ có âm điệu, có tiết tấu, nghĩa
là có chất thơ, tức là đáng gọi là thơ, Tùng Lâm Lê Cương Phụng viết bài "Nói chuyện văn vần: lịch sử và giá trị của nó" (V.H.T.S. số 5, 1-5-1935).Trước
hết Tùng Lâm phân biệt văn vần với văn xuôi:
"Tình cảm ở trong, phát lộ ra tiếng nói, tiếng nói có
tăng thứ, có ý vị, có âm hưởng, làm cho người ta dễ cảm xúc được, ấy là nguồn gốc
của văn vần.
"Tiếng chim hót mùa xuân, tiếng ve ngâm mùa hạ, tiếng dế
khóc mùa đông, tiếng cao, tiếng thấp, tiếng nhặt, tiếng khoan, ấy là manh mối của
văn vần.
"Văn vần có cái đặc điểm khác văn xuôi là câu đặt gọn
gàng mà bóng bảy, lời đưa uyển chuyển mà tiêu dao. Nay xin kể qua lịch sử và
giá trị của nó".
Thế rồi ông ngược dòng lịch sử mà phác vẽ nguồn gốc của thi
ca từ Tây phương qua Đông phương, từ đời thượng cổ cho đến nay, đâu đâu người
ta cũng thấy văn vần là thứ văn của thần linh :
"Lịch sử văn vần ở Thái tây phát sinh từ đời nào tôi
chưa được chắc; chỉ theo thần thoại Hy Lạp, tôi được biết rằng Apollon là một
đứng thi thần (Dieu de la poésie); còn theo lịch sử văn chương. Dù Đại Lợi thì
tôi thấy người ta tôn sùng Daute làm thi tổ, vì cuốn La divine comédie của
Daute.
"Ở Pháp hình như bài vận văn đầu tiên thì thuộc vào thế
kỷ thứ IX (chỗ này chúng tôi đương còn tra cứu). Ở Tàu thì trước kỷ nguyên
Thiên Chúa hai nghìn năm vào đời Nghiêu, Thuấn đã nứt mầm rồi, đại để như bài
ca Cao Dao, bài đờn Ngu Thuấn, bài hát Khang Cù... đều là câu có vận cả.
"Trải qua một khoảng thời gian khá dài hơn hai ngàn năm
nữa, từ đời Thành Chu tới đời Lục Triều, lúc bấy giờ văn vần mỗi ngày một tiến
lên, và biến thể rất nhiều, từ lối Quốc Phong, Nhã, Tụng mà tiến dần tới thi
Ngũ ngôn, Thất ngôn. Dẫu rằng các nhà học giả sinh vào thời kỳ ấy có trứ tác lối
văn lý thuyết như Tiêu dao thiên của Trang Chu, Đạo đức Kinh của Lão Tử, và các
sách của Tuân, Dương, Quản, Án... nhưng đó chỉ là một thể văn, không thể đánh đổ
nổi lối văn gọi là văn tánh tình như vận văn được".
Tùng Lâm ví thơ với hội họa: cái khó của đôi bên làm nên
chính cái giá trị của cả đôi bên. Hội họa tài tình vì những nét tỉ mỉ, thơ kỳ
diệu vì những luật lệ tinh vi. Bỏ tất cả các thứ đó đi, hoạ không còn là hoạ và
thi cũng hết là thi:
"Nhà làm văn vần, cũng như nhà hội hoạ, nét bút nhà hội
hoạ càng tỉ mỉ, tinh tế, bóng bảy đúng mẫu mực, thì mới thấy cái khéo của nét
bút thần tình. Trái lại nếu không có cái sở thích (gỏt) và không thường để ý
thưởng thức nó thì không bao giờ nên một nhà danh hoạ được. Nhà làm văn không
có cái đặc tánh sở thích thì bao giờ làm nổi văn vần?"
Sau đó ông bác bẻ những lý lẽ người ta viện ra để chê trách
các luật lệ gò bó, câu thúc của văn vần, tức của thơ cũ. Theo ông, thơ là cái
gì tinh hoa nhất trong nghề văn:
"Tôi đã có thường thấy nhiều người phản đối văn vần. Họ
cho rằng: lối văn ấy câu thúc trong quyền sáo, tẳn mẳn đẽo gọt, mất hết tự
nhiên, và nhiều khi vì vận mà ép câu vì lời mà hại ý, mà nhất là phí mất cả thì
giờ.
"Phải, chính lúc ban sơ tôi đây cũng nghĩ như thế .
Nhưng rồi sau tôi nghĩ lại: Văn vần đứng trong các thứ văn cũng như một mỹ thuật
đứng trong các nghệ thuật.
"Văn vần như cánh hoa cắm để chơi, bức tranh treo để ngắm,
cây đờn đờn để nghe. Nếu cắm cành hoa không sắc không hương, treo bức tranh vẽ
vụng về thô tháp, nghe tiếng đờn không nhịp không nhàng, thì cái giá trị đặc biệt
nó ở chỗ nào? Thà đừng có còn hơn.
"Một lẽ nữa: văn vần là một lối văn để thưởng thức mà
chơi. Muốn chơi đến nó, tự nhiên phải theo niêm luật, vận âm của nó, nghĩa là
phải nằm trong khuôn sáo của nó; cho được câu văn chải chuốt bóng bảy, tự
nhiên phải phí mất thì giờ. Cái đó để riêng phần cho các nhà tao ông, mặc khách
là những nhà tài tử phong lưu, lúc nhàn du ngâm vịnh, chớ mình, thày lay chơi đến
nó làm gì mà bảo rằng tốn công tỉ mỉ, phí uổng thì giờ?".
Cuối cùng Tùng Lâm kể ra tất cả thể thơ của ta, từ lối bắt
chước Tàu (hễ Tàu có gì thì ta có nấy) đến các lối riêng của ta như lục bát,
song thất lục bát, ca trù, ca Nam, xoang xẫm, trống quân... rồi ông kết luận rằng
thi ca Việt Nam phải là theo truyền thống ấy.
Theo ông, thơ mới chẳng qua chỉ là sự lập dị của một người
(chắc ám chỉ Phan Khôi) không thể lấy đó làm khuôn phép:
"Thì tôi dám nói quả quyết rằng, lối văn vần chẳng hạn ở Tàu, ở
Tây, hay ở Ta, cứ mỗi ngày mỗi tiến mãi lên vì no cóù cái giá trị đặc biệt, cho
nên nhà làm văn vẫn chú ý đến nó và muốn bồi bổ cái gốc nó mà khuyếch trương
mãi, trừ ra một ít người không muốn dụng công đặt để tìm theo cách dễ dàng, mau
lẹ, khuynh hướng về lối thơ mới. (Chúng tôi sẽ có bài nói riêng về thơ mới).
Còn riêng ra những hạng người thích ngâm vịnh, chuộng tài hoa thì thật không
bao giờ bỏ qua các lối văn vần để có qui tắc như từ lâu nay chúng ta thường thấy
đó" (Văn Học tuần san số 5, 1-5-1935).
Tùng Lâm Lê Cương Phụng đả kích thơ mới
Sang đến Văn Học tuần san số 6, 1-6-1935, Tùng Lâm tấn công
thơ mới ra mặt. Vì chưa có trích tuyển ở đâu nên tôi trích vào đây toàn bài để
cácbạn tiện bề so sánh. Trong bài này Tùng Lâm đề cập đến các điểm sau đây:
1) Chỉ có hạng dốt mới muốn thơ mà lại thơ dễ dãi không niêm
luật.
2) Thơ mới là thứ thơ bừa bãi,vô kỹ luật.
3) Minh chứng những chỗ dở của các bài thơ mới.
4) Trách Đông Hồ đã đi lầm đường bỏ thơ cũ là chỗ sở trường của ông để đi vào thơ mới với những bài thơ vô vị:
2) Thơ mới là thứ thơ bừa bãi,vô kỹ luật.
3) Minh chứng những chỗ dở của các bài thơ mới.
4) Trách Đông Hồ đã đi lầm đường bỏ thơ cũ là chỗ sở trường của ông để đi vào thơ mới với những bài thơ vô vị:
"Thi vẫn một món trong các thứ văn vần, nhưng đối với
các thứ ấy nó lại rắc rối mắc mỏ hơn nhiều. Người đã từng chơi với nó và nếu được
ý vị nó ít nhiều, thì lại càng thấy cái khó của nó; trừ ra những hạng "bướng" hoặc chưa có nhà "đại gia" "căng nọc" ra
chỉ vạch những chỗ khuyết điểm cho, thì bao giờ họ cũng vẫn cho là dễ.
"Mà thật thế, có khó chi, cứ đủ vần đủ chữ, đừng thất
niêm thất luật, ấy là thi đó chứ gì. Đó là nói về lối thi ngũ ngôn, thất ngôn,
chớ còn cái lối thi như hiện thời gọi là "thơ mới" đó, lại càng dễ
hơn thập bội nữa. Cứ việc kéo, tha hồ kéo, kéo lượt bượt, mấy vần cũng được, mấy
chữ cũng xong, không có khuôn sáo nào, luật nào bó buộc, dễ biết bao nhiêu,
không trách gì hạp với thời thượng cũng phải.
"Họ bảo rằng: Cái thời đại này là thời đại máy móc,
trăm ban vạn sự gì cũng cần sự mau chóng tiện lợi, đâu có phải như cái đời cũ kỹ
trước kia, bất kỳ việc gì cũng chần chờ, chậm chạp, làm phí mất thì giờ, nhà
văn cũng thế, ngồi rung đùi tối ngày, tằn mằn tỉ mỉ, đẽo gọt từng câu từng chữ,
đối với thời buổi này không dùng lối ấy được đâu". Nghe có lý lắm! Nhưng
có người cắc cớ hỏi vặn lại một câu: "Thi là một món chơi, để tiêu khiển
thì giờ, nó đối với nhân sanh thực tế không quan thiết gì, có cũng được, không
không sao, ai bảo đeo đuổi nó làm chi, rồi chê bai nó, ghét ghen nó, mắng nó là
lối văn chặt chịa, ở trong quyền sáo niêm luật, không được tự do? Nếu muốn dễ
dãi thì hẳn cứ viết văn xuôi đi, cho người ta dễ hiểu, việc gì phải ngụy tạo ra
cái lối văn "cổ chẳng ra cổ, kim chẳng ra kim"? Thì đây, tôi xin
đem ra một bài này để làm đại biểu cho trăm nghìn bài khác:
CẢNH TRỜI XUÂN
"Cảnh trời xuân,
"Em dạo ra sân,
"Đứng trông, em càng khoan khoái tinh thần.
"Kìa kìa, con chim nó hót cái giọng
"Thảnh thót như một vị mỹ nhơn, khảy khúc đờn.
"Khúc đờn này, tiếng nhặt tiếng khoan, tiếng cao tiếng
"Thấp, dường như khêu gợi mối xuân tình của em
"Từ bấy lâu nay dồn dập
"Rồi em nghĩ vơ nghĩ vẩn, tâm hồn em lẩn thẩn.
"Nghĩ cái tuổi xanh này, là cái tuổi thơ ngây
"Một mai xuân này đã qua, thân em già
"Lúc bấy giờ, em tưởng tượng lại,
"Em chi xiết ngậm ngùi, nỗi ngậm ngùi.
"Mây bay, nước chảy, hoa trôi".
(Xin dấu tên của tác giả)
"Em dạo ra sân,
"Đứng trông, em càng khoan khoái tinh thần.
"Kìa kìa, con chim nó hót cái giọng
"Thảnh thót như một vị mỹ nhơn, khảy khúc đờn.
"Khúc đờn này, tiếng nhặt tiếng khoan, tiếng cao tiếng
"Thấp, dường như khêu gợi mối xuân tình của em
"Từ bấy lâu nay dồn dập
"Rồi em nghĩ vơ nghĩ vẩn, tâm hồn em lẩn thẩn.
"Nghĩ cái tuổi xanh này, là cái tuổi thơ ngây
"Một mai xuân này đã qua, thân em già
"Lúc bấy giờ, em tưởng tượng lại,
"Em chi xiết ngậm ngùi, nỗi ngậm ngùi.
"Mây bay, nước chảy, hoa trôi".
(Xin dấu tên của tác giả)
"Đó, thơ mới đó! Tác giả chính là tín đồ của thơ mới,
thật tôi ráng đọc; tôi muốn nói thơ, thì thơ chẳng ra thơ, tôi muốn nói ca,
thì ca cũng chẳng ra ca. Tôi chỉ hiểu cái bài ấy là bài ấy đó thôi!
"Song, cái bài này đây, nghe ra còn có câu, có nghĩa,
chỉ hiềm nó không ở trong một khuôn sáo là "thể" gì cả.
"Tác giả bài này trước kia là tín đồ của thơ luật, có
nhiều bài thần tình lắm, chẳng biết bị cái phong trào thơ mới nó lôi cuốn thế
nào, nay lại xoay sang làm tín đồ thơ mới?
"Lại gần đây, có nhiều nhà phỏng theo điệu thơ Tây làm
ra nhiều bài, cũng tự cho là thơ mới.
Như bài này:
BÊN GỐC CÂY DỪA
"Ánh nắng trời thu dịu dàng êm mát,
"Bên gốc dừa, cô em ngồi lặng buông câu.
"Trên thảm cỏ xanh, bên sông bát ngát,
"Cô đăm đăm nhìn dưới nhịp cầu.
"Phong cảnh đẹp bóng cây in bóng nước,
"Lá rung rinh, tàn xanh lả lướt.
"Mặt cô em tròn trắng xinh tươi,
"Dưới vành khăn, phơ phất mái tóc mai.
"Mắt lóng lánh, làn môi tươi thắm;
"Khiến cho tôi nhìn cô em say đắm.
"Nhẹ nhàng tôi bước lại một bên.
"Ngồi gần cô, tôi lẳng lặng ngắm xem,
"Giờ lâu tôi mới tìm lời ướm thử
"Rằng" câu cá vẫn là một cái thú:
"Những người thanh tao ẩn dật xưa nay,
"Chỉ biết thanh nhàn với cỏ cây,
"Sớm vác cần câu bên khóm trúc...
"Buông cần cô em ngảnh nhìn tôi:
"Cặp mắt ngây thơ, cô trả lời:
"Em nào phải thanh nhàn phong phú,
"Mượn cảnh thiên nhiên làm vui thú.
"Nhà nghèo sớm tối em nhọc nhằn,
"Lúc dưới nắng hạ, lúc mưa xuân,
"Lúc gió đông thổi lạnh lùng rét mướt,
"Và sương thu rơi thấm ướt,
"Em vẫn phải làm với ngày tháng cho qua,
"Bên gốc cây, câu để nuôi nấng mẹ già,
"Trong túp lều tranh, sớm mong chiều đợi.
"Hai mắt đã lòa, hai chân đã mỏi,
"Chỉ trông vào em, kiếp sống chiều tàn...
"Cần lòng yêu, để che nỗi khóc than...
"Em nào phải thanh nhàn phong phú,
"Mượn cảnh thiên nhiên làm vui thú,
"Sớm câu, chiều câu, lại mai câu.
"Mong có cá nhiều và mong mẹ sống lâu,
"Bữa qua bữa với tấm lòng vui vẻ,
"Của một mẹ già trông mong ở con trẻ.
"Bên gốc dừa, cô em ngồi lặng buông câu.
"Trên thảm cỏ xanh, bên sông bát ngát,
"Cô đăm đăm nhìn dưới nhịp cầu.
"Phong cảnh đẹp bóng cây in bóng nước,
"Lá rung rinh, tàn xanh lả lướt.
"Mặt cô em tròn trắng xinh tươi,
"Dưới vành khăn, phơ phất mái tóc mai.
"Mắt lóng lánh, làn môi tươi thắm;
"Khiến cho tôi nhìn cô em say đắm.
"Nhẹ nhàng tôi bước lại một bên.
"Ngồi gần cô, tôi lẳng lặng ngắm xem,
"Giờ lâu tôi mới tìm lời ướm thử
"Rằng" câu cá vẫn là một cái thú:
"Những người thanh tao ẩn dật xưa nay,
"Chỉ biết thanh nhàn với cỏ cây,
"Sớm vác cần câu bên khóm trúc...
"Buông cần cô em ngảnh nhìn tôi:
"Cặp mắt ngây thơ, cô trả lời:
"Em nào phải thanh nhàn phong phú,
"Mượn cảnh thiên nhiên làm vui thú.
"Nhà nghèo sớm tối em nhọc nhằn,
"Lúc dưới nắng hạ, lúc mưa xuân,
"Lúc gió đông thổi lạnh lùng rét mướt,
"Và sương thu rơi thấm ướt,
"Em vẫn phải làm với ngày tháng cho qua,
"Bên gốc cây, câu để nuôi nấng mẹ già,
"Trong túp lều tranh, sớm mong chiều đợi.
"Hai mắt đã lòa, hai chân đã mỏi,
"Chỉ trông vào em, kiếp sống chiều tàn...
"Cần lòng yêu, để che nỗi khóc than...
"Em nào phải thanh nhàn phong phú,
"Mượn cảnh thiên nhiên làm vui thú,
"Sớm câu, chiều câu, lại mai câu.
"Mong có cá nhiều và mong mẹ sống lâu,
"Bữa qua bữa với tấm lòng vui vẻ,
"Của một mẹ già trông mong ở con trẻ.
"Thể thơ đó, bắt vần như thể thơ Tây, nhưng tác giả
phun châu nhả ngọc, muốn bao nhiêu tuỳ ý. Có bài gấp đôi, lại cũng có bài ngắn
bằng nửa.
"Mà rồi ta thử lẳng lặng ngâm coi, coi cái giọng
ngâm nó ra sao? Ngâm như ngâm thi thì ngâm thế nào được, hay là phải
ca như ca Văn Thiên Tường? Hoặc phải bắt giọng như giọng ca Tiều của cô Phùng
Há?
"Xét cho kỹ, chẳng qua tác giả chán nản cái công phu đặt
thi luật, nó chỉ có bốn câu tám câu năm vần, ba vần mà phải cho đủ ý, đủ lời,
không thất niêm, không phản luật, không lạc vần, thấy khó chơi, rồi thì băng
qua một con đường khác đặng cho dễ dãi, nhưng không ngờ lại đâm ra cái bãi đại
sa mạc minh mông!
"Muốn cho dễ dãi một ít, khỏi mất công phu đẽo gọt, thì
tôi xin hiến cho một kế là hẵng làm theo lối thơ Đường, mà thể Đường cổ phong.
Thì như bài này:
THƠ VUA SIAM MỚI GỬI CHO VUA CŨ
"Năm xưa chú bảo chú đau mắt;
"Bà con ai cũng cho là thật;
"Cả nước chờ chú về làm vua;
"Ai ngờ tin chú ngày một mất
"Bà con ai cũng cho là thật;
"Cả nước chờ chú về làm vua;
"Ai ngờ tin chú ngày một mất
"Bây giờ thơ chú gửi về nhà,
"Rằng chú ở lại nước người ta,
"Ngôi vua chú không muốn ngó đến,
"Thịnh suy mặc kệ nghiệp ông cha.
"Rằng chú ở lại nước người ta,
"Ngôi vua chú không muốn ngó đến,
"Thịnh suy mặc kệ nghiệp ông cha.
"Không lẽ nước có, vua không có,
"Đình thần mới chọn cháu lên đó,
"Cháu đã nghĩ tới rồi nghĩ lui,
"Cháu biết làm vua là chuyện khó
"Đình thần mới chọn cháu lên đó,
"Cháu đã nghĩ tới rồi nghĩ lui,
"Cháu biết làm vua là chuyện khó
"Vì rằng trong nước đảng phái nhiều,
"Quân chủ, dân chủ biết bao nhiêu,
"Rầy nhất là chính sách lập hiến,
"Quyền vua chỉ còn có một thiu.
"Quân chủ, dân chủ biết bao nhiêu,
"Rầy nhất là chính sách lập hiến,
"Quyền vua chỉ còn có một thiu.
Cũng vì mẹ cháu bàn giải mãi,
"Cháu không làm vua cháu cũng dại,
"Dầu chỉ có vị không có quyền,
"Nhưng mình ăn tiêu còn rộng rãi.
"Cháu không làm vua cháu cũng dại,
"Dầu chỉ có vị không có quyền,
"Nhưng mình ăn tiêu còn rộng rãi.
"Huống chi kinh tế buổi khó khăn,
"Tay làm không đủ cho miệng ăn,
"Ai chê ai cười chi cũng mặc,
"Làm vua còn sướng hơn làm dân.
"Tay làm không đủ cho miệng ăn,
"Ai chê ai cười chi cũng mặc,
"Làm vua còn sướng hơn làm dân.
ĐƯỜNG QUANG
(Trích ở báo Ánh Sáng)
(Trích ở báo Ánh Sáng)
"Đó cũng là lối thơ dễ dãi, mà nghe hay, lại có lý thú nữa. Nếu muốn văn
hoa thêm thì phỏng như bài này:
HOA THẬT HOA GIẢ
(Lời cô hàng hoa)
(Lời cô hàng hoa)
"Cô em hàng xóm sinh nhà nghèo,
"Trồng hoa tưới hoa sớm lại chiều,
"Gió đông vừa thổi hoa vừa nở,
"Cắt bó vội vàng đem bán chợ,
"Chợ chiều lác đác người hồ quang,
"Gánh hoa còn nặng cô bàng hoàng.
"Nào đâu quà em, nào cháo mẹ,
"Mẹ yếu em thơ lòng những thương!
"Đổ hoa xuống rãnh bưng mặt khóc,
"Khóc ra giọt lệ như giọt ngọc.
"Cúi đầu gạt lệ sợ người cười,
"Nhìn hoa dưới rãnh mắt khôn rời.
"Thương hoa thương cả công vun xới,
"Sương nắng công trình biết mấy mươi!
"Ô hay! người đời riêng tính lạ!
"Hoa thật chẳng thích, thích hoa giả,
"Hoa thật hỏi mua nào mấy người?
"Hoa giả đắt hàng như tôm tươi,
"Cô em ngẫm nghĩ bụng sực nhớ,
"Vì nghèo nên phải liệu chiều đời,
"Mua lụa mua phẩm, mua giây sắt,
"Nhuộm đủ các màu đem kéo cắt,
"Nào cành, nào cánh, nào đài trang,
"Khéo làm chẳng khác chi hoa thật.
"Làm xong hoa giả bán nhiều tiền,
"Lãi lời tấn tới ngày một lên.
"Mẹ khỏe, em học, chị buôn bán,
"Tay không bỗng chốc dư bạc nghìn!
"Có khi thong thả thăm vườn cũ,
"Mắt trông trăm hoa chiều ủ rũ,
"Tàn tàn, nở nở biết bao lần,
"Mưa mưa, gió gió ai là chủ?
"Tần ngần ngắm nghía cô thương tâm!
"Chứa chan dòng lệ khôn ngăn cầm!
"Thương hoa, thương cả nghề buôn bán,
"Lai láng tình riêng năm lại năm.
"Trồng hoa tưới hoa sớm lại chiều,
"Gió đông vừa thổi hoa vừa nở,
"Cắt bó vội vàng đem bán chợ,
"Chợ chiều lác đác người hồ quang,
"Gánh hoa còn nặng cô bàng hoàng.
"Nào đâu quà em, nào cháo mẹ,
"Mẹ yếu em thơ lòng những thương!
"Đổ hoa xuống rãnh bưng mặt khóc,
"Khóc ra giọt lệ như giọt ngọc.
"Cúi đầu gạt lệ sợ người cười,
"Nhìn hoa dưới rãnh mắt khôn rời.
"Thương hoa thương cả công vun xới,
"Sương nắng công trình biết mấy mươi!
"Ô hay! người đời riêng tính lạ!
"Hoa thật chẳng thích, thích hoa giả,
"Hoa thật hỏi mua nào mấy người?
"Hoa giả đắt hàng như tôm tươi,
"Cô em ngẫm nghĩ bụng sực nhớ,
"Vì nghèo nên phải liệu chiều đời,
"Mua lụa mua phẩm, mua giây sắt,
"Nhuộm đủ các màu đem kéo cắt,
"Nào cành, nào cánh, nào đài trang,
"Khéo làm chẳng khác chi hoa thật.
"Làm xong hoa giả bán nhiều tiền,
"Lãi lời tấn tới ngày một lên.
"Mẹ khỏe, em học, chị buôn bán,
"Tay không bỗng chốc dư bạc nghìn!
"Có khi thong thả thăm vườn cũ,
"Mắt trông trăm hoa chiều ủ rũ,
"Tàn tàn, nở nở biết bao lần,
"Mưa mưa, gió gió ai là chủ?
"Tần ngần ngắm nghía cô thương tâm!
"Chứa chan dòng lệ khôn ngăn cầm!
"Thương hoa, thương cả nghề buôn bán,
"Lai láng tình riêng năm lại năm.
NHƯỢNG TỐNG
"Gần đây lại nổi cái phong trào thi bình dân. Thấy có
nhiều tờ báo đăng những bài thi, trong đó tác giả dùng nhiều tiếng rất tục tĩu
khó nghe quá. Như là: ỉa phẹt phẹt, ăn ngủ đ..., bày mổng trôn... Bảo rằng đó
là thơ bình dân. Lại còn ngụy biện bảo là lối tả chân. Gớm thật!
"Đâu có hiểu rằng, thơ bình dân nghĩa là thơ có tính chất
bình dân, không cái "mốt" thưởng nguyệt xem hoa, đề non vịnh nước,
tiêu sầu khiển hứng như những trang tài tử phong lưu, không mơ mộng lên cung quế,
gặp Hằng Nga, uống rượu đào, nghe khúc sinh ca, như phái thi ông lãng mạn. Chỉ
cốt lời văn mộc mạc, tả ra cái phong vị của hạng bình dân mà thôi.
"Muốn tập làm thi bình dân thì hẵng bắt chước như bài
dưới này:
ĐI LÀM THUÊ
"Miền tôi ở lở dở,
"Đã cách với nguồn lại xa chợ.
"Muốn buôn, không có đồng vốn nào,
"Muốn cày ruộng, không có một sở;
"Học mới học cũ cũng dỡ dang,
"Không phải thầy, cũng không phải thợ.
"Trong tay không có nghề,
"Thêm nạn khủng hoảng gớm ghê!
"Ma đói dục thúc mãi
"Buộc mình bước chưn đi làm thuê
"Nghe nói miệt trong đường xe lửa,
"Các ông đứng thầu làm nhiều sở.
"Lật đật mang gói đi ngay vào,
"Cùng bạn cô ly làm dọi bữa.
"Đào đất đập đá,
"Công việc vất vả.
"Mong rằng mồ hôi đổi bát cơm.
"Đồng công đồng nợ có tiền trả,
"Nào hay vài tháng nay,
"Làm rồi tiêu rồi, không có đồng nào còn dính tay.
"Chỉ lưa cái mình mộc,
"Đi về lỡ cười lại lỡ khóc!
Người Làm Thuê
(Trích ở báo Tiếng Dân)
"Miền tôi ở lở dở,
"Đã cách với nguồn lại xa chợ.
"Muốn buôn, không có đồng vốn nào,
"Muốn cày ruộng, không có một sở;
"Học mới học cũ cũng dỡ dang,
"Không phải thầy, cũng không phải thợ.
"Trong tay không có nghề,
"Thêm nạn khủng hoảng gớm ghê!
"Ma đói dục thúc mãi
"Buộc mình bước chưn đi làm thuê
"Nghe nói miệt trong đường xe lửa,
"Các ông đứng thầu làm nhiều sở.
"Lật đật mang gói đi ngay vào,
"Cùng bạn cô ly làm dọi bữa.
"Đào đất đập đá,
"Công việc vất vả.
"Mong rằng mồ hôi đổi bát cơm.
"Đồng công đồng nợ có tiền trả,
"Nào hay vài tháng nay,
"Làm rồi tiêu rồi, không có đồng nào còn dính tay.
"Chỉ lưa cái mình mộc,
"Đi về lỡ cười lại lỡ khóc!
Người Làm Thuê
(Trích ở báo Tiếng Dân)
"Đó, xem có chữ nào quê kịch, sống sượng, tục tỉu không?
"Luôn dịp nói chuyện thơ, tôi xin nói đến thơ Đông Hồ:
"Đông Hồ tiên sinh, một nhà thi sĩ đã viết ra nhiều tập,
in ra nhiều cuốn, hình như tác giả có cái sở thích về thơ.
"Tôi để ý xem thì đoán được ngay nhà thi sĩ này có mấy
cái đặc tính:
"Mấy năm trước, nhà thi sĩ vẫn là tín đồ của phái thi
niêm luật, khoảng trung gian lại ít chuyên về lối ấy, thường dùng "Thơ tản
văn".
"Tôi không hiểu lối này là lối gì. Xin trích ra một hai
bài dưới đây:
BÓNG TRĂNG TÀN
"Bàng hoàng tỉnh giấc, mảnh trăng khuya chấp chới giải bên màn, ngửa mặt nhìn trăng, lầu sầu quấn quít. Cùng ai dưới bóng trăng này: Gió hắt, sương bay, đêm thu lạnh. Cảnh xưa tình cũ nào đâu: tay ngọc ai cầm, lòng son ai tựa, tóc mây ai buông tỏa bên vai.
"Vói bóng bắt trăng, bức màn rung động, nào phải đâu tay ngọc ai đưa, để âu yếm mối ân tình trên đầu năm ngón... gối nghiêng trằn trọc suốt canh dài!"
"Bàng hoàng tỉnh giấc, mảnh trăng khuya chấp chới giải bên màn, ngửa mặt nhìn trăng, lầu sầu quấn quít. Cùng ai dưới bóng trăng này: Gió hắt, sương bay, đêm thu lạnh. Cảnh xưa tình cũ nào đâu: tay ngọc ai cầm, lòng son ai tựa, tóc mây ai buông tỏa bên vai.
"Vói bóng bắt trăng, bức màn rung động, nào phải đâu tay ngọc ai đưa, để âu yếm mối ân tình trên đầu năm ngón... gối nghiêng trằn trọc suốt canh dài!"
CÀNH HOA HỒNG
"Bình pha lê lóng lánh, cắm cành hoa hồng, tay ai vừa cắt trước sân nhà, buổi tan sương sớm. Đôi má hây hây, kề tựa đóa hoa mơn mởn, vẻ đẹp như lấn, khiến cho bông hoa hồng thèn thẹn nụ cười. Một ngày qua trở lại, cánh hồng bay tơi tả khắp bàn...
"Một năm qua trở lại, đôi má hây hây đâu đã vắng, cánh hoa hồng năm trước đã héo khô rồi. Đôi má hây hây, nay có lẽ, đang kề tựa đóa hoa mơn mởn nào đâu, nhưng vẻ đẹp biết có như lấn, mà khiến cho bông hoa hồng thèn thẹn nụ cười nữa không?"
"Bình pha lê lóng lánh, cắm cành hoa hồng, tay ai vừa cắt trước sân nhà, buổi tan sương sớm. Đôi má hây hây, kề tựa đóa hoa mơn mởn, vẻ đẹp như lấn, khiến cho bông hoa hồng thèn thẹn nụ cười. Một ngày qua trở lại, cánh hồng bay tơi tả khắp bàn...
"Một năm qua trở lại, đôi má hây hây đâu đã vắng, cánh hoa hồng năm trước đã héo khô rồi. Đôi má hây hây, nay có lẽ, đang kề tựa đóa hoa mơn mởn nào đâu, nhưng vẻ đẹp biết có như lấn, mà khiến cho bông hoa hồng thèn thẹn nụ cười nữa không?"
"Còn nhiều nữa, vô khối! Tôi chỉ trích ra hai bài đó
cũng như các bài khác.
"Tản văn là tản văn, mà thơ là thơ, đâu có thơ với tản
văn chung với nhau làm một được? Nếu bảo thơ thì tất nhiên phải có vần nghe mới
được chớ, dầu cổ, dầu kim, dầu Đông, dầu Tây, chưa tầng thấy lối thơ nào mà thơ
không vần, xin hỏi Đông Hồ tiên sanh?
"Gần đây, nhà thi sĩ lại cũng chịu ảnh hưởng "thơ
mới" ít thấy làm tứ tuyệt, bát cú như trước nữa, hoặc giả bị cái trào lưu
thời thượng nó lôi cuốn rồi chăng? Nhưng xem thơ mới của tác giả thì có phần
kém hơn thơ luật nhiều. Tôi chưa nói chỗ hay chỗ dở, ý thì ít mà lời thì nhiều,
đại khái như bài thơ này:
TRƯỚC GIÓ
(Tặng Thanh Lan)
"Chập tối hôm qua, ta gặp một người trong mộng.
"Người có cái đẹp dịu dàng, xinh tươi lồng lộng.
"Là cái đẹp mặn mà, đằm thắm của người con gái đến thì,
"Cái đẹp dễ khiến cho người nhìn đắm đuối say mê.
"Nàng đứng chỗ ào ào cơn gió rét,
"Hơi gió lạnh như thấm vào trong xương thịt,
"Chiếc áo lụa phong phanh màu tuyết trắng bong, giải khăn san phơn phớt màu hồng bay lả lướt, phất phơ theo chiều gió lốc, như một áng mây tàn lờn vờn trên cành cây ngọc.
"Ta, bấy giờ, thấy người giá buốt, mà trông nàng thì như chẳng chút lạnh lùng. Âu yếm, ta sẻ hỏi: Em ơi! Lạnh nhỉ? Mỉm cười, đáp lại lời ta: Anh ơi! Tuổi trẻ! tuổi trẻ là tuổi êm đềm, đầm ấm, nồng nàn, thì chi có sợ nỗi lạnh lùng của sương gió, của thời gian.
"Mặc gió thổi, sương gieo, thời gian lãnh đạm, ánh than hồng của lòng ta vẫn ấm và vui với văn chương, trăng gió, cỏ hoa, với non sông, ánh sáng và nhất là với tình ái của đôi ta?
ĐÔNG HỒ
(Tặng Thanh Lan)
"Chập tối hôm qua, ta gặp một người trong mộng.
"Người có cái đẹp dịu dàng, xinh tươi lồng lộng.
"Là cái đẹp mặn mà, đằm thắm của người con gái đến thì,
"Cái đẹp dễ khiến cho người nhìn đắm đuối say mê.
"Nàng đứng chỗ ào ào cơn gió rét,
"Hơi gió lạnh như thấm vào trong xương thịt,
"Chiếc áo lụa phong phanh màu tuyết trắng bong, giải khăn san phơn phớt màu hồng bay lả lướt, phất phơ theo chiều gió lốc, như một áng mây tàn lờn vờn trên cành cây ngọc.
"Ta, bấy giờ, thấy người giá buốt, mà trông nàng thì như chẳng chút lạnh lùng. Âu yếm, ta sẻ hỏi: Em ơi! Lạnh nhỉ? Mỉm cười, đáp lại lời ta: Anh ơi! Tuổi trẻ! tuổi trẻ là tuổi êm đềm, đầm ấm, nồng nàn, thì chi có sợ nỗi lạnh lùng của sương gió, của thời gian.
"Mặc gió thổi, sương gieo, thời gian lãnh đạm, ánh than hồng của lòng ta vẫn ấm và vui với văn chương, trăng gió, cỏ hoa, với non sông, ánh sáng và nhất là với tình ái của đôi ta?
ĐÔNG HỒ
Tôi xin mạn phép tác giả, cũng trong bài ấy, bấy nhiêu chữ, tôi xin rút lại tám
câu như thế này:
Gặp người trong mộng tối hôm qua,
Trạt tuổi xuân xanh nét mặn mà.
Chiếc áo phong phanh màu tuyết nhuộm,
Giải khăn phơn phớt áng mây qua.
Lạnh lùng chẳng quản cơn sương gió,
Đầm ấm như say thú cỏ hoa.
Âu yếm, ta vừa lên tiếng hỏi,
Mỉm cười, liền tỏ tấm tình ra.
Trạt tuổi xuân xanh nét mặn mà.
Chiếc áo phong phanh màu tuyết nhuộm,
Giải khăn phơn phớt áng mây qua.
Lạnh lùng chẳng quản cơn sương gió,
Đầm ấm như say thú cỏ hoa.
Âu yếm, ta vừa lên tiếng hỏi,
Mỉm cười, liền tỏ tấm tình ra.
"Như vậy cũng đủ ý, đủ nghĩa, mà chẳng gọn hơn sao?
"Tôi đã đọc qua các tập thơ Đông Hồ, tôi có để ý đoán
xét được tác phẩm của nhà thi sĩ này hầu hết chín phần mười là thư tình, mà là
tình mơ mộng cả, thành ra hão và phù phiếm quá, ít có bài nào vịnh vật hoặc kỷ
sự như mấy nhà thi nhơn khác. Thử lật một tập "Thơ Đông Hồ" ra xem, thì nhan nhản những bài: Chơi hoa, Khóc hoa, Nhớ Mai,
Trông trăng nhớ người, Dưới hoa, Buồn nhớ người xưa, Buồn vơ buồn vẩn, Gặp
nhau, Trách nhau... chan chứa cả giọng bi sầu ảo não.
"Rồi xem đến cuốn "Cô gái xuân" cũng
thấy rặt những bài:
"Ngấn lệ, Quả tim, Cái hôn lần đầu, Giấc mộng tình, Đưa
nhau, Hôn em, Dưới cây, Hỏi nhỏ, Gió buồng xuân... cũng là lai láng cả tình là
tình!
"Thì ra cái tâm hồn nhà thi sĩ này thường vơ vẩn ở cõi
"Cánh hoa thủy nguyệt" cùng là tiêu dao nơi hận hải tình thiên" trừ ra không mấy khi thấy lối văn nào khác nữa. Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu
cũng bị mấy cái tật ấy mà Phạm Quỳnh tiên sanh tặng cho cái tiếng "văn
chơi" "Ngông" chỉ nghĩa là không thiết thực.
"Vậy xin thi sĩ Đông Hồ cũng nên bớt bớt cái lối văn
tình đi, xin luôn đừng chơi thơ mới nữa, hãy khôi phục lại lối thơ như các bài
mấy năm trước đã từng làm, mong sau này sẽ trở nên một thi gia thằng mặc"
Sau khi chửi bới thơ mới và khuyên Đông Hồ nên bỏ thơ mới trở
về với thơ cũ, Tùng Lâm Lê Cương Phụng còn lên tiếng cực tán thơ Đường mà ông
cho là hơn hết mọi thứ thơ vì năm lý do sau đây (xem bài Những cái đặc sắc
của Đường thi, V.H.T.S. số 9 tháng 9 năm 1935).
1) Là nấc tiến cuối cùng, tột đỉnh của thi ca Tàu.
2) Là vì nó là thể thơ được xã hội cực văn minh Trung Hoa
trau dồi tô điểm trong mấy trăm năm.
3) Là vì nó là một kho tàng văn chương vô cùng phong phú, đủ
màu, đủ sắc.
4) Là vì nó là thể thơ thuần nghệ thuật chứ không phải là thể
thơ đạo đức.
5) Là vì lắm khi nó còn bao hàm ý nghĩa bình dân, phô thông.
"Đều là thi, trước đời Đường thì Hán, Tấn, Nguỵ cũng có
thi, sau đời Đường thì Tống, Nguyên, Minh, Thanh cũng có thi. Thế sao lại Đường
thi vẫn có giá trị hơn? Các nhà thi sĩ phê bình nhau cũng lấy thi Đường làm
căn cứ, các nhà nho học, cũng lấy thi Đuờng làm thi pháp nhập môn. Cho đến mấy
câu sáo ngữ ở Tàu thường nói "Đường thi, Tống Tự, Hán văn chương"
"Đường nhân phong vị" v.v... Thì biết thi Đường có giá
trị hơn các thi khác. Nhưng, ta nên biết cái đặc sắc của nó ở chỗ nào?
"Có người nói: Lục triều vẫn có thi, nhưng thi ấy phần
nhiều phức tạp, Tống, Nguyên, Minh vẫn có thi, nhưng thi ấy không được phong
tao, không bằng Đường thi gồm đủ các thể tài. Nói thế, vẫn có lẽ, song chỉ lấy
một phương diện chớ sự thật thì còn nhiều chứng tá. Muốn biết cái đặc sắc của
Đường thi, nên xem lời phê phán của ông Hồ Vân Đực thì mới biết rõ là xác đáng
hơn.
"Ông Hồ là một thi sĩ có tiếng ở đời nhà Thanh, người
có công nghiên cứu về thi học, có viết ra cuốn nghiên về Đường thi, trong có
nhiều đoạn bài bác các nhà thi sĩ xưa nay nhiều chỗ ngộ giải; nay tôi chỉ xin
lược trích ra một chương nói về chỗ đặc sắc của Đường thi, hiến cho các thi
nhân được biết một ít Đường nhân phong vị.
"Đường thi sở dĩ hơn các thi khác, có bốn cái đặc sắc:
"Một là do thể thi của Tấn, Nguỵ mà biến thành mới, có
niêm luật, có cổ, cận thể, có trường đoản thiên. Tức như các bài đã tuyển trong
bộ Đường thi tam bách thư.
"Hai là đời Thạch Đường từ vua Cao Tôn về sau, hơn ba
trăm năm triều đình chỉ chăm một mặt dùng thi phú từ chương làm nấc thang cho
sĩ phu trong nước. Đại để như ông Lý Thái Bạch làm ra bài "Thanh
bình Điệu" thì được vua Huyền tôn yêu quí lạ thường, ông Bạch Cư Dị
làm bài Trường Hận Ca thì vua Hiến Tôn vời làm chức Hàn lâm học sĩ,
vua Mục Tôn thấy tập thi ca của Nguyên Thận thì vời làm chức xá nhân, cho đến
các cung phi, hoàng hậu như Võ Hậu, Vi Hậu, Mai Phi, Dương Phi đều là các bà
thích ngâm vịnh cả. Người bề trên đã ham chuộng, tự nhiên kẻ bề dưới phải lấy
đó làm con đường tiến thân, thành ra một phong khí tập quán.
"Ba là ảnh hưởng của thời cuộc; vì đời Đường từ khai
nguyên Thiên hửu sắp về sau, trong nước thường gặp nhiều cảnh éo le, những cảnh
ấy dễ làm đề tài cho thi nhơn đề vịnh, đại khái như việc An Lộc Sơn đời Minh
Hoàng, việc Sử Tư Minh đời Túc Tôn, việc Trần Hoàng Chí đời Hiến Tôn, việc Chu
Toan Trung đời Chiêu Tôn, thảy thảy những đại biến trong nước, nhà làm thi hay
dùng sử liệu vào thi ca, mở xem một bộ Đường thi bao nhiêu bài đáng ca tụng, đều
là những bài thời thế, như Điếu chiến trường, Yên ca, Tùng quân, Khuê oán,
Cung Trung từ... Có nhiều cảnh nên thơ, thơ mới nảy ra nhiều tình tứ, mới thấy
chỗ đặc sắc.
"Còn một lẽ nữa, đời nhà Đường lấy thi làm tác phẩm văn
chương, chứ không như Hán, Nguỵ và Tống chỉ lấy thi làm tác phẩm đạo đức, vì
người đời ấy cho rằng đã là thi mà ngụ cái giọng đạo đức thì lời văn không được
thôi xao, thành ra không lưu truyền được rộng, xem như thi của Châu Mậu Thúc,
Thiệu Nghiên Phu ở Tánh Lý thì đủ biết.
"Vả lại, Đường thi thì có cái đặc sắc là phần nhiều chứa
chất nhiều qua niệm văn học bình dân. Đại khái như thi của Nguyên Thận, Vương
Xương Linh, Bạch Cư Dị, Cao Thích, Vương Duy... Phần nhiều thi của các ông ấy lời
văn giản dị mà thâm, ý tứ dồi dào càng dễ cảm, thành ra một lối thi phổ thông
trong đám bình dân. Lục trong thi Đường có nhiều bài miêu tả cảnh thống khổ của
xã hội, như là trọng phú (thuế nặng), Phụ nhơn khổ (cái khổ của người đàn bà),
Mãi thán ông (ông bán than) Chiết tí ông (ông gãy tay)... Nay tôi xin trích mấy
câu trong bài Ông bán than dịch ra đây, để cho các bạn đọc biết rằng
lối thi bình dân đã xuất hiện từ đời Đường:
"Mãi thán ông, phạt tân thiêu thán nam san trung, mãn
diện trần khôi yên hỏa sắc, lưỡng mấn thương thương thạp chỉ hắc, mãi thán đắc
tiên hà sở dinh, thân thượng y phục khẩu trung thực, khả liên thân thượng y
chánh đan, tâm ưu thán tiện nguyện thiên hàn"...
"Ông bán than, đốn củi đốt than núi Nam san, mặt mày
khói khém lem lọ bôi, mái tóc xanh kịt, tay đen thùi, bán than kiếm tiền lo mưu
sanh, lo ăn trong miệng, mặc trong mình, thương hại mình ông áo mỏng lét, ông
lo than ế, cầu trời rét...". Lối thi đó đủ chứng là một lối thi bình dân".
Thế rồi, để kết luận bài "Những cái đặc sắc của Đường
thi", Tùng Lâm kết luận bằng việc hô hào các ông làm thơ mới hãy thôi lập
dị:
"Hỡi các nhà thơ mới của ta! Đừng tưởng rằng Đường thi là thi cổ
hãy chịu khó tìm kiếm trong thi Đường mà xem thử coi, không có lối nào mà thi
Đường không có, cái đặc sắc của nó là gồm đủ các phương diện, các thể tài, cảnh
có, tình có, tả chân có, quý phái có, cần gì phải bịa ra thơ mới làm chi, làm
cho nhiều bạn trẻ em học cách háo kỳ, tập làm theo, đã bất thành cú, mà rồi một
ngày kia không còn ai biết Đường thi là gì, chẳng là uổng cho văn nghệ ba trăm
năm của một đời toàn thạnh lắm sao?"
Thiết Diện tỏ ác cảm đối với thơ mới
Cùng một quan điểm như Tùng Lâm, Thiết Diện bày tỏ thái độ ác
cảm của ông đối với thơ mới ở bài: "Quan niệm của tôi đối với thơ mới" (V.H.T.S. số 8, tháng 8 năm 1935). Trong bài này Thiết Diện cực lực chê
trách thơ mới, coi nó chỉ là thứ đồ rác rưởi, trò múa máy quay cuồng của bọn
người ngu dốt, nào có khác gì bọn du đãng mặc áo rằn ri, bọn lẳng lơ đi giầy
cao gót. Theo ông đã gọi là thơ mới thì phải mới như thơ của Hồ Thích bên Tàu,
chứ đàng này thơ mới Việt Nam, chỉ mới có mỗi một cái là bỏ niêm luật, còn tất
cả đều cũ, đều xưa. Cái cũ và xưa ấy là cách dùng chữ, cách chọn đề tài, nhất
là cái tinh thần từ chương, bạc nhược, thua trận, thiếu hẳn tinh thần bình dân,
xa cái đại chúng vô sản lam lũ.
"Trong vũ trụ này, không có gì là không thay đổi! Trái
đất này vẫn xoay, thì tư tưởng người ta vẫn tiến! Chúng tôi có lý nào không biết
đến lẽ tuần tự tiến hoá mà lại đi nhận rằng thi phải ở trong khuôn mẫu chật hẹp
của luật Đường và chỉ có thi nào ở trong khuôn mẫu ấy mới gọi là thi.
"Nhưng muốn làm một nhà thi chân chánh trong phái mới,
thì ít ra cũng phải biết thi là gì đã, và cũng phải biết qua những luật Đường,
làm được một bài thi cổ, dầu không hay cũng phải đúng với thi pháp. Như thế,
nghĩa là tôi muốn nói nhà thi sĩ, phải có một cái khiếu về thi, phải có một cái
học chắc chắn, chớ chẳng phải cóp nhặt năm bảy câu vô ý thức làm thành một bài
vô nghĩa lý mà đã lên mặt thi hào đâu!
"Một ông bạn già của tôi thường hay nói: "Thời hư
quỷ lộng, bọn ranh con thường hay cho mình hủ lậu, nhưng cái mới của chúng chỉ
mới ở hình thức, mà mới một cách lố lăng theo cái kiểu áo rằn ri không khỏi đầu
gối, và đôi giầy cao gót cao gần một tấc tây:
"Tôi hiểu ông bạn ấy lắm. Theo ông bạn, thì dầu mới dầu
cũ, cũng đều có khuôn phép cả, nếu không thì 20 triệu người ý muốn của mỗi người!
"Chắc ai cũng biết bác sĩ Hồ Thích là người đề xướng ra
thơ mới ở Tàu, trong cuốn "Thường thi tập" tiên sanh có đặt tám luật
cho thơ mới, gọi là luật "Bát Bất":
1)- Không dùng điển tích,
2)- Không dùng chữ sáo,
3)- Không buộc đối vế
4)- Có thể dùng chữ tục,
5)- Phải biết văn pháp,
6)- Bỏ lối không đau mà rên,
7)- Không buộc theo người xưa,
8)- Phải nói có sự thật.
2)- Không dùng chữ sáo,
3)- Không buộc đối vế
4)- Có thể dùng chữ tục,
5)- Phải biết văn pháp,
6)- Bỏ lối không đau mà rên,
7)- Không buộc theo người xưa,
8)- Phải nói có sự thật.
"Thơ mới của ta đã có luật gì chưa, hay là mạnh ai nấy
đặt luật?
"Ông bạn già yêu quý của tôi lại một phen chíp miệng thở
dài:
"Than ôi! Mấy ông làm "thơ mới" ở nước ta
miệng còn hôi sửa thì đâu phải là Hồ Thích ở nước Tàu!"
"Thơ phải kể cái hồn của nó đã rồi sẽ kể đến cái hình
thức. Cái hồn chưa thoát khỏi sáo cũ, cũng còn nghe "Tiếng sáo Thiên Thai", "Tiếng trúc tuyệt vời", "Tiếng nhạn kêu sương"
v.v... thì đổi cái hình thức phỏng có ích gì? Đó cũng chẳng khác chi bắt một bà
già mặc áo rằn ri, đi giày cao gót. Độc giả thử tưởng tượng trong trí, coi có
được không?
"Tiếng nhạn ở đâu, kêu sương hồi nào? và sao gọi là Tiếng
sáo Thiên Thai?
"Thế là ở trong những bài thi cũ, người ta còn dung thứ; chớ đã tự xưng là "thơ mới" mà còn sáo hư như vậy, thì đâu phải
là những "chiến sĩ chắc chắn" để đỡ gạt những mũi tên của những người
đại biểu cho thơ cổ có cái tên như "Nguyễn Khắc Hiếu", "Trần
Tuấn Khải"...?
"Tôi vẫn biết rằng văn chương thi phú chỉ là cái phản ảnh
vật chất, trên chỗ vật chất đã có điều cải cách thì trên chỗ văn chương làm sao
cũng không khỏi có điều biến dịch. Nhưng một nhà thi chân chánh, ngoài việc biểu
lộ tư ý ra, còn phải làm một người hướng đạo cho quần chúng nữa.
"Nhà thi phải nhắm đến quyền lợi của quần chúng trước
nhứt, chứ chẳng phải chỉ biết có mình mà không biết có ai. Vậy thì thi ca không
phải chỉ dùng để biểu diễn cái tâm hồn của cá nhân mà đủ; cái quan niệm của
phái thi sĩ lối mới như thế nào?
"Nếu có dịp "giải phẫu" những tác phẩm của
họ ra, thì cũng chỉ thấy đầy cả sự yêu đương mơ mộng, vì họ chỉ biết phát biểu tâm hồn đau khổ của một giai cấp "thua trận", không
nữa thì họ cũng chỉ biết sùng bái một vài cử chỉ anh hùng, sự sùng bái ấy chỉ
là cái óc nô lệ của thời đại phong kiến còn sót lại mà thôi.
"Thiệt nhắm ra chẳng bổ ích gì cho hạng bình dân nghèo
khổ, vì đối với cái quan niệm trên ấy thì hạng người sau này vẫn không ham muốn
thứ ái tình mơ mộng viễn vong của một số người phong lưu đài các và cũng không
có tư tưởng giống với tư tưởng sùng bái anh hùng, yêu nhà yêu nước của số ít
người kia, đời bây giờ biết bao nhiêu đứng vô danh anh hùng đã phơi thây giữa
đám bình nguyên để mua cái tiếng anh hùng cho một mình Mussolini, Hitler, hay
Tưởng Giới Thạch.
"Đời bây giờ, không có tư bản thì không có nhà, và anh
lao động ở đâu sống đươc thì ở đó là quê hương, vậy thuyết yêu nước yêu nhà có
còn đứng vững không?
"Cái quan niệm của mấy ông "thi sĩ mới" đối
với cuộc thiệt tế sanh hoạt tôi chẳng thấy có chút gì là mới cả, mới chăng là mới
với các ông ở giai cấp tiểu tư sản chớ chẳng mới gì với giai cấp bình dân.
"Xét về phương diện vật chất, thì những bài thơ mới của
một vài ông bạn thiếu niên thi sĩ mà ông Nguyễn Triệu Luật ngoài Bắc đã gọi là
"một tụi văn sĩ non hứng lấy mà vung vẫy những áng văn xuôi không vần", xem ra chưa có những niêm luật gì nhất định. Thế nghĩa là thơ mới có kỷ
cương đáng ở riêng vào một học phái. Đọc phần nhiều những bài thơ mới bây giờ,
người ta đều có cái cảm tưởng rằng nhà thi sĩ bỏ cái khó tìm cái dễ để mạnh ai
nấy viết, mạnh ai nấy ngâm. Đó là chưa nói đến sự dùng chữ sai (như nàng Ly Tao
là nghĩa lý gì!).
"Xét về phương diện tinh thần, thì những bài thơ mới
ngày nay đó chỉ là cái tiếng nói của giai cấp tiểu tư sản, là một giai cấp bại
trận không có sức phấn đấu hẳn hòi như cấp bình dân. Chính giai cấp sau này mới
là nguyên động lực tiến hóa của xã hội.
"Mấy ông bạn trong làng "thi mới" nếu có
cho tôi hủ tôi xin chịu, nhưng tôi không sợ mất lòng mấy ông mà dám nói lớn với
anh em bình dân rằng:
"Cái phái thi mới ấy vừa xác, vừa hồn không có ích gì
cho anh em, chị em chúng ta cả! Hãy tẩy chay đi!"
"Không tẩy chay cái tinh thần bạc nhược của giai cấp
thua trận thì anh chị em ta sẽ gặp lắm điều trở ngại trên con đường tiến thủ của
chúng ta.
"Chừng nào thi mới của các ông có một khuôn khổ "mới" nhứt định, và thứ nhứt, chừng nào thi mới có một tinh thần bình dân
đặc biệt, không có cái lối ru ngủ, cái lối mơ mộng hão huyền và biết ca tụng sự
phấn đấu của chúng tôi thì chừng ấy chúng tôi sẽ hoan nghinh ngay.
"Rồi đây chúng tôi sẽ lần lượt đem những bài thi mới mà
một số người làm thi mới đã ca tụng để bình phẩm, chúng tôi sẽ chỉ cho tác giả
các bài thi kia thấy rằng tinh thần và thể chất mình là cũ.
"Xin ai kia đừng trách rằng chúng tôi cay nghiệt với
phái thi mới, mà biết cho chúng tôi chỉ muốn làm một người bạn "ngang bằng
sổ thẳng" mà thôi.
"Chúng tôi không chê thi cổ là sáo, bởi vì mấy ông đã chê nó là
sáo rồi".
Hoàng Tân Dân chê thơ mới phản động
Mang nặng óc đảng phái, có khuynh hướng thiên tả, Hoàng Tân Dân, không
công kích thơ mới vì thơ mới bỏ phép tắc cũ, mà chê thơ mới có thái độ phản động,
phản cách mạng ở chỗ chỉ phục vụ cho tư bản, không đau mà rên, cho nên lúc nào
cũng xướt mướt (V.H.T.S. số 9, tháng 9 năm 1935).
Đẩu Tiếp chê thơ mới
Sau cùng, Đẩu Tiếp, vào tháng 11 năm 1936 (V.H.T.S. số 26), lại
lên tiếng "Nói chuyện về thi". Trong bài này, Đẩu Tiếp kết án
Phan Khôi rất nặng nề. Theo ông, chính vì ganh ghét Tản Đà hơn mình về thi mà
Phan Khôi phải lập ra thơ mới để được thiên hạ biết đến tên tuổi mình. Và bọn
thanh niên ngu dốt không làm nổi trò trống gì đã ùa chạy theo Phan Khôi. Thành
thử bên thơ cũ gồm bao nhiêu thiên tài thì bên thơ mới gồm bấy nhiêu tụi nhãi
con, ngu dốt, bất tài. Giới thuyết như vậy rồi, Đẩu Tiếp đưa ra các điểm mà người
ta chê thơ cũ để lại bênh vực thơ cũ, từng điểm một, như việc dùng điển, dùng
sáo ngữ, lặp lại tư tưởng của tiền nhân.
"Từ ngày ngọn cờ ba sắc đã dựng nên giữa cõi trời Nam,
muốn hiểu biết ngôn ngữ của người Pháp để tiện ra hợp tác với họ, hòng giành lại
trong muôn một, một ít quyền lợi của ông cha để lại, quốc dân ta đều đua nhau
xu hướng về đường văn học. Chữ Hán, một thứ chữ trước kia người mình vì dùng
quen đã lâu đời, đã hầu thành ra một thứ tiếng mẹ đẻ, từ đó theo cớ chuyển vận
đã hầu lọt ra ngoài vòng đào thải. Nhân tài nước ta bây giờ tây học càng rộng,
thì Hán học càng hẹp; Hán học đã hẹp thì quốc văn phải kém, vì chữ hán mà có
người đã gọi là chữ Hán Việt, nghĩa là chung của Tàu và Ta, vắng nó thì chữ An
nam nói ra hầu không thành tiếng nữa.
"Tuy vậy mỗi khi đọc đến những tác phẩm bằng tiếng mẹ đẻ
của các cụ Nguyễn Tiên Điền, Nguyễn Công Trứ, tâm hồn ta tự thấy rung động rồi
đem lòng khao khát, thèm thuồng, nhưng cố làm cho được một bài thơ như người
xưa thì ngồi bóp trán mãi cũng chẳng thấy ra được chữ gì, hoặc được thì lổ đổ
vài chữ kết lại cũng chẳng thành câu! Thẹn thuồng và tức giận, bọn thanh niên
ta đổ ra ghen với cổ nhân hầm hầm, toan đạp đổ những xiềng xích trong lối thơ
Đường.
"Đương lúc ấy, thì Phan Khôi và Nguyễn Khắc Hiếu hai
ngài không biết tại sao lại có điều xích mích nhau, rồi nổi giận cãi nhau, mắng
nhau, rồi ghét bỏ nhau!
"Tự nghĩ Nguyễn Khắc Hiếu là kẻ thù của mình, mà trên
đàn thơ lúc nào mình cũng nhường hắn đứng trước, Phan Khôi bèn muốn rẽ ra một
con đường khác, bụng bảo dạ rằng dẫu hắn có đi trên con đường ấy, thì ta cũng
được đi trên con đường này, cũng như một bên làm tướng nước Nhựt, một bên làm
tướng nước Xiêm, nghe nói hai bên làm tướng cả thì người đời cho là hai bên nghịch
nhau, nào ai biết tài bên nào cao, trí bên nào thấp mà phân biệt trên dưới.
Nghĩ thế rồi Chương Dân tiên sinh vung văng vác bút chạy ra một con đường mới
"Đả đảo Đường luật, làm thơ theo lối mới". Bọn thanh niên nói trên
nghe được câu nói của Chương Dân tiên sanh liền hăm hở bắt hơi nối gót theo
tiên sanh. Phái thơ Đường diễu cợt họ càng cay thì họ lại châm chích phái thơ
Đường càng độc. Phái thơ Đường gồm những bậc lão thành hay thanh niên kiêm
thông cả tân học cựu học, hay riêng giỏi về một món học thì cho họ là "một
tụi văn sĩ non hứng lấy mà vùng vẫy một thứ văn không xuôi không vần". Hoặc
có người độc hơn thì lại thuật bài thơ cổ người ta vịnh con cóc để cười những kẻ
làm thơ không ra thơ.
"Con cóc trong hang, con cóc nhảy ra,
Con cóc nhảy ra, con cóc ngồi đó,
Con cóc ngồi đó, con cóc nhảy đi!
Con cóc nhảy ra, con cóc ngồi đó,
Con cóc ngồi đó, con cóc nhảy đi!
"Rồi kêu bọn "thơ mới" mà cười rằng tôi tưởng
thơ mới của các anh ra thế nào té ra cũng như thơ con cóc mà có người đã làm
hơn trăm năm trước. Lời công kích có thú vị và cay độc quá. Tôi xin giả làm một
nhà thơ mới đáp lại.
"Người làm bài thơ con cóc, là vì ngó thấy con cóc như
vậy mới làm thơ, người không biết cóc thì biết gì mà bình phẩm thơ cóc! Không,
những nhà thơ mới gồm có những kẻ mới học tòm tèm được 3 chữ Pháp, không hề hiểu
một giọt (ne comprendre goutte) về hán văn họ không thèm đáp lại một cách vu vơ
như vậy đâu. Trái lại câu trả lời của họ có nhiều khi nghe ra cũng có phần xác
thực lắm.
"Họ nói: các ông chỉ là những bọn nô lệ chịu trói buộc
trong những luật pháp nghiêm khắc của thơ Đường.
"Nhưng họ quên rằng chính nhờ ở chỗ pháp luật nghiêm khắc
đó mà thơ Đường rất dễ nhớ. Vì trong bài thơ đã hẹn trước rằng "chữ nào
trắc chữ nào bằng", nên khi ta đọc mà thấy sai thì tự nghĩ liền và đổi lại,
tuy vậy ta cũng đừng nệ theo Đường luật lắm, chịu thất luật một đôi chỗ mà câu
thơ thấy già hẳn lên ta cũng thấy vui lòng, nhưng chỉ khi nào bất đắc dĩ không
dùng chữ ấy mà dùng chữ khác thay vào không thú bằng thì ta mới chịu dùng chữ ấy
và cam tiếng thất luật vậy. Phái thơ mới lại chê: thơ Đường của các ông chỉ biết
khóc trăng khóc gió. Thơ Đường luật cũng có nhiều bài khẳng khái lắm chứ. Các
ngài hãy đọc thử lại những thơ văn cổ ngày nay quốc dân hãy còn truyền tụng mà
xem. Người xưa dầu có nhiều khi họ than khóc thì trong tiếng than tiếng khóc của
họ cũng nghe rất là giọng trượng phu. Tả một cảnh đang rơi châu đau ruột, như
trong Chinh phụ ngâm, họ chỉ biết dùng ngòi bút vẽ ra một bức tranh
khiến ta trông vào mà tự đau ruột rơi châu, chứ trong bài nào họ có hề dùng tới
một chữ rơi châu đau ruột? Các ngài không nhận rằng sầu là một cái bệnh chung
của con nhà văn nhà thơ mà nở công kích kẻ đa sầu đa cảm? Ấy thế mà các ngài
chỉ biết làm những lối thơ phóng đãng là gì? Các ngài thường "ôi"! Thấy hoa bay các ngài cũng "ôi"! Thấy lá rụng các ngài cũng
ôi"! Thậm chí có ngài viết " tôi đau đớn, ôi huyền diệu"! Các
ngài lại nói thơ Đường luật hay dùng những điển tích mơ hồ, như có người làm
bài thơ "Vịnh Trương Lương":
Mình dịu dàng như gái,
Bao trời một lá gan!
Bốn trăm năm nghiệp Hán,
Ba tấc uốn trong màn.
Bao trời một lá gan!
Bốn trăm năm nghiệp Hán,
Ba tấc uốn trong màn.
Vẫn biết ba tấc đây là ba tấc lưỡi, nhưng ba tấc lưỡi uốn
trong màn, thì có thể khiến cho mọi người hiểu được không? Cách dùng điển như
vậy coi cũng mơ hồ lắm, nhưng đó là tay vụng chớ tay khéo thì nhiều khi họ dùng
điển chẳng những đã rõ mà lại hay; có một cách dùng điển mà tự lấy làm thú lắm
khi họ dung hoà hai điểm lại một. Như nguyên trong sách Thúy Kinh của
Tàu có nói: Giống cá Gáy hễ đến tháng ba thì đua nhau nhảy lên thác Long Môn
(cách Trường Yên cao 900 dặm, con nào nhảy lên được thì hóa ra rồng, cho nên
người đời hễ ai thi đậu thì người ta ví như cá Gáy nhảy lên được Long Môn, còn
con cá Gáy nào mà không nhảy lên được thì phải vạch cả trán mà phải trở về chỗ
cũ).
"Nhân vậy rồi Lý Bạch có câu thơ nói người thi hỏng:
"Điểm ngạch bất thành long" vạch trán chẳng ra rồng! thú vị biết là bao nhiêu, còn trong đám thi sĩ ta thì có người làm câu: "Lò đời thổi gió un mây..." thì ai cũng biết rằng là đời là một điển,
gió mây là một điển, nhưng tác giả khéo biết dung hoà vào trong một câu "gió thổi un mây" ứng với lò đời cũng như câu thơ của Lý Bạch ra rồng ứng
với vạch trán, điển tuy cũ mà tứ vẫn mới đó vậy. Dùng điển mà dùng được như vậy
thì cũng đáng dùng lắm chứ, còn như không thêm được cái ý mới vào chỉ biết lập
lại những tư tưởng cũ của người thì xem ra cũng nhạt. Ví dụ bậc thi bá đời Đường
đã nói "xử thế nhược đại mộng" rồi ta lại lập lại: Trăm năm giấc mộng
cười thân thế; lời thơ tuy cứng nhưng phái thơ mới họ bảo dở đó kìa.
"Họ lại chê thơ Đường luật quen lập lại những tư tưởng
của tiền nhân.
"Vẫn có thế nhưng cũng chỉ có những kẻ bất tài mới có
thế thôi, chứ phàm người có tài năng họ cũng biết rằng trong mỗi bài thơ ít nhất
cũng phải có một câu tứ mới. Đừng nói đến thơ nôm, nói ngay đến một số câu thơ
chữ của người xưa cũng đủ thấy rồi. Khi trong bài "Đi chơi đêm với cụ
Nguyễn Hàm Ninh ở núi Tùy Vân", ngài Tùng Thiện Vương có câu:
Ngư xướng trời thanh ngoai,
Chung minh thọ sắc trung.
Chài reo ngoài tiếng sóng,
Chuông điển giữa màu cây!
Chung minh thọ sắc trung.
Chài reo ngoài tiếng sóng,
Chuông điển giữa màu cây!
"Trong bài mừng được ân ban một chiếc thẻ ngà khắc Tứ
Nguyễn Hàm Ninh nhập các, được ra vào tự do trong các, của cụ Nhâm Sơn có câu:
Cung nhật hồi xuyên ảnh,
Giai hoa phật bội thanh.
Giai hoa phật bội thanh.
Dịch:
Vầng nhật trên cung xây bóng vách,
Cành hoa quanh lối gõ bài ngà,
Cành hoa quanh lối gõ bài ngà,
"Mấy câu thơ đó ông Cao Bá Quát đã khuyên đặt cả mặt
giấy chẳng phải đều có tứ mới sao?
"Phái thơ mới lại chê: các cụ ấy chỉ ngồi mà đẽo gọt từng
chữ.
"Lạ chưa! thơ đã gọi là một môn mỹ thuật thì dầu cho đẽo
gọt chạm trỗ cũng là lẽ thường. Nhưng bao giờ câu thơ cũng được vẻ tự nhiên,
nhà thơ vẫn dư biết thế! Mở lời ra mà gặp liền được chữ đối xứng thì cụ Dương
Bá Trạc cũng đối chơi:
Ta giã núi bụi hồng đeo đẳng,
Núi xa ta mây trắng mịt mờ!
Núi xa ta mây trắng mịt mờ!
"bằng không, thì cụ Huỳnh Thúc Kháng cũng chỉ cười một
hơi mà thành ra bài thơ vậy.
Tớ đẻ tháng mười năm bính tí,
Năm nay bính tí sáu mươi năm!
Kể vòng hoa giáp quanh đà khắp,
Còn nợ non sông chết chửa cam v.v...
Năm nay bính tí sáu mươi năm!
Kể vòng hoa giáp quanh đà khắp,
Còn nợ non sông chết chửa cam v.v...
"Nhưng các bạn thơ mới lại nói rằng: Các ông có học chữ
tàu mà làm thơ nôm thì chúng tôi học chữ tây lại không có quyền bắt chước thơ
tây mà chế ra một điệu thơ riêng để chúng tôi ngâm vịnh?
"Đã bắt chước thì hễ ai có cái hay ta cũng có thể bắt
chước được cả. Song thử hỏi lối thơ ta phỏng theo lối thơ tây, thì có thể ngâm
nga được như lối thơ ta đã phỏng theo lối thơ Đường không? Nói thế tất sẽ có
người lấy làm lạ mà hỏi rằng vậy sao ta vẫn ngâm được thơ tây? Vì ngâm thơ tây
ta vẫn ngâm theo giọng tây, còn khi ngâm thứ thơ mới kia ta không thể ngâm theo
giọng tây được, mà ngâm theo giọng ta thì nào có âm hưởng gì đâu. Đến như thơ
Đường luật sở dĩ mình ngâm lên mà nó réo rắt như tiếng đờn nguyệt là vì hợp với
tiếng ta đó vậy.
"Tóm lại, dầu chi ta cũng nên hoan nghinh lối thơ Đường
luật, nếu có chê nó là khó thì cứ làm theo lối tứ tuyệt, lối song thất lục bát
hay lối thượng lục hạ bát, cùng đi nữa thì những từ khúc.
"Thơ Thế Lữ, những bài xuất sắc cũng vẫn làm theo những
điệu ấy, thế sao vẫn gọi là thơ mới?
"À phải! Ông Lê Tràng Kiều có nói: Vô luận thì làm theo điệu thơ
gì có tứ mới thì đều gọi là thơ mới. Song tôi lại xin trừ ra lối thơ mà ta vẫn
mô phỏng theo thơ tây một cách vô ý thức, vì ngoài một đôi người như Thế Lữ là
vẫn có một chút tài, còn thì lối thơ lố lăng ấy chỉ tạo ra được những nhà thơ
non như là Phúc Nhuận, ông Đỗ Phủ (ông Đỗ Phủ người Bắc chứ không phải cụ Đỗ Phủ
người Tàu đâu!). Nhưng điều đó ta cũng chẳng cần lo, vì ông Phan Khôi thì đã
ngỏ lời từ biệt lối thơ "không xuôi không vần" kia trên báo Trường
An độ nọ, còn những đồ đệ của ông mỗi ngày mỗi vắng dần. Nhiều kẻ hô hào đào thải
thơ Đường luật, ngày nay lại muốn trở về với nó. Đáng khen thay những kẻ biết rộng
thấy xa, lâu nay vẫn dốc một lòng thờ phụng thơ Đường" (Văn Học tuần san,
số 26, 1-11-1936).
Tản Đà lần đầu tiên lên tiếng về thơ mới
Trong cuộc tranh luận thơ mới thơ cũ này, Tản Đà xem ra có
căm tức lắm, nhưng Tản Đà khôn lắm, ít khi lâm trận đánh thẳng vào địch, dù địch
đó là Phan Khôi. Trong mấy lần đụng độ với Phan Khôi, như vụ Nho Giáo, vụ Cái
Cười Con Rồng Cháu Tiên..., Tản Đà đã hăng hái, quyết liệt, phũ phàng nữa là
khác. Vậy mà trong vụ thơ cũ thơ mới, Tản Đà xem ra đứng ở ngoài. Bài Tản Đà đả
kích thơ mới mạnh nhất có lẽ chỉ là một bài chửi mát, mà cũng chỉ là chửi mát
Phan Khôi trong bài "Hài đàm của Tản Đà: Thơ mới" đăng
ở Phụ Nữ Tân Văn số Xuân năm 1934. Tản Đà đem so sánh Phan Khôi với Lý Bạch
cũng như so sánh một họ Quách nào đó phải chăng là Quách Tấn với Bá Nha để rồi
kết luận: đàn của chàng Quách thỉ "ngớ ngẩn" còn thơ của chàng
Phan thì "vẩn vơ"
"Hài đàm của Tản Đà:
"Thơ mới
"Từ khi Lý Bạch chết, thiên hạ không chuộng thơ mà thơ
kém hay: Bởi thế mới có Phan tiên sinh ra đời.
"Từ khi Bá Nha chết, thiên hạ không chuộng đờn, mà đờn
kém hay: Bởi thế mới có Quách tiên sanh ra đời.
"Phan tiên sinh cải lương về nghề thơ, ở đời chưa gặp
ai tri kỷ:
"Quách tiên sinh cải lương về nghề đờn, ở đời chưa gặp
ai tri âm.
"Một hôm, kỳ ngộ duyên may, hai tiên sinh gặp gỡ.
"Trong một nhà ở phố Khâm Thiên, Phan đương nằm hút ở
trên gác, bỗng nghe ở dưới gác có tiếng đờn gẩy, nhân lâu rất thấy khác thường; tiếng đờn thực hay mà như không có cung bực do bụng hoài nghi, Phan tiên sinh
bước xuống bực thang, ngó thử coi thấy người nẩy đờn đó chừng cũng là một du tử
mà coi ra có vẻ cao nhân, nhân bước luôn xuống thang, làm quen nói chuyện chơi.
Người đó là ai? Tức là Quách tiên sinh vậy. Rồi đó, Quách tiên sinh nói chuyện
đờn, Phan tiên sinh nói chuyện thơ.
Rồi Quách đờn một chập, Phan thơ một hồi.
Rồi Quách lại đờn; Phan lại thơ.
Rồi Phan, Quách lại truyện thơ, truyện đờn.
"Cái thú gặp tri kỷ, khó bút mực nào vẽ cho hết. Chi chủ
đó nguyên là một tay tài tình, văn thơ âm nhạc, đều có hiểu qua, nhân bàn quanh
một cuộc cầm thi, cũng cảm tác một bài "Thơ Mới":
Đờn là đờn
Thơ là thơ
Thơ thời có chữ, đờn có tơ.
Nếu không phá cách vứt điệu luật,
Khó cho thiên hạ đến bao giờ!
Bá Nha xa.
Lý Bạch khuất.
Thơ có họ Phan, đờn có họ Quách,
Thơ có chữ
Đờn có tơ:
Đờn thời ngơ ngẩn, thơ vẩn vơ
Tài tử văn nhân nhường rứa rứa,
Bách huê ngao ngán bận đề thơ"
Thơ là thơ
Thơ thời có chữ, đờn có tơ.
Nếu không phá cách vứt điệu luật,
Khó cho thiên hạ đến bao giờ!
Bá Nha xa.
Lý Bạch khuất.
Thơ có họ Phan, đờn có họ Quách,
Thơ có chữ
Đờn có tơ:
Đờn thời ngơ ngẩn, thơ vẩn vơ
Tài tử văn nhân nhường rứa rứa,
Bách huê ngao ngán bận đề thơ"
Sau bài nói kháy, chửi mát Phan Khôi và thơ mới trên Xuân Phụ
Nữ Tân Văn, Tản Đà viết một thôi năm sáu bài về thơ mới đăng trên Tiểu Thuyết
Thứ Bảy vào cuối năm 1934:
1)- Phong trào thơ mới muốn cùng ai trong bạn làng thơ
(T.T.T.B. số 26 ngày 24-11-1934).
2)- Cùng các bạn làng thơ (T.T.T.B. số 28)
3)- Tính chất của thơ (T.T.T.B. số 30 và số 32)
4)- Một chữ trong nghề thơ (T.T.T.B. số 40)
2)- Cùng các bạn làng thơ (T.T.T.B. số 28)
3)- Tính chất của thơ (T.T.T.B. số 30 và số 32)
4)- Một chữ trong nghề thơ (T.T.T.B. số 40)
Bài "Phong trào thơ mới muốn cùng ai trong bạn
làng thơ" là để thương xác với Lưu Trọng Lư về bài diễn thuyết ông đọc
ở nhà Học hội Quy NHơn.
Với một tâm hồn cởi mở, và những lời lẽ rất ư là khiêm tốn, Tản
Đà đã bày tỏ thái độ của ông đối với thơ mới, thơ cũ. Tản Đà cho rằng giữa lúc
xảy ra vụ tranh chấp thơ cũ thơ mới thì Tản Đà không có mặt ở Hànội, cho nên
không theo dõi được sự diễn biến của cuộc chiến. Phải chăng đây là thời kỳ Tản
Đà đang buồn chán vì An nam tạp chí của ông bị chết lần thứ tám, tức là lần
chót. Biến cố đau thương đó đã khiến Tản Đà tủi dỗi đời nên tự đặt mình ra bên
ngoài xã hội:
"Mới đây một người bạn tôi gởi cho bài diễn thuyết của
ông Lưu Trọng Lư đọc ở nhà Học hội Quy Nhơn, tôi đọc tới bài đó, tâm hồn xúc động,
không thể lại lẳng lặng mà ngồi yên. Cứ như bài diễn văn của ông Lư, cảm tưởng
và kiến giải, phần nhiều thiệt tôi lấy làm phải, có nhiều chỗ lại thấy rất là
tinh.
"Song mà trong sự quan sát cũng còn có chỗ không tường
xác; cái kiến giải để hướng đạo cho quần chúng coi chưa đủ phát dương hiệu lệnh
trên thi đàn. Bài tôi viết đây, không chuyên cùng ông Lưu Trọng Lư biện luận,
cho nên không dẫn đến những chỗ mà tôi cho hơn kém ấy. Nay tôi chỉ cần muốn biện
bạch trước độc giả, công chúng vì thấy có mấy lời trong bài diễn văn của ông
Lư.
"Trong bài ông Lư nói, ngay một đoạn mở đầu rằng:
"gần đây, trong văn học nước nhà thấy có một cái phong trào mạnh danh là
"thơ mới". Cái phong trào ấy dư luận chia ra làm hai, phái hoan
nghênh và phái phản đối. Tôi không cần nói, các ngài cũng dư hiểu rằng phái
hoan nghênh là phái thanh niên tân học, phái phản đối là các cụ nho học. Hai
bên đương sừng sộ nhau đương giằng co nhau".
"Ông Lư đã nói, chắc là ông có thấy như thế, mà lâu nay
tôi xa đất Hà Thành, thực tình trạng trong văn giới như sao, ít có tiếp đến tai
mắt, riêng về phần tôi, thời như lời ông Lư nói đó, tôi quả không phục tình."
Sau đó, gián tiếp Tản Đà muốn bảo rằng cái mà người ta gọi là
thơ mới, Tản Đà vẫn làm, làm từ lâu, từ 20 năm nay mà chỉ khác là ông không gọi
nó là thơ mới. Ông trích mấy bài thơ ông đã làm trên dưới hai chục năm:
"Cứ văn vận của tôi đã làm ra trong khoảng 20 năm nay,
kể có không ít; mà nay nếu có người hỏi tôi rằng: bài nào hay hơn hết? Thời
phải lấy một bài trong cuốn tiểu thuyết Giấc mộng con thứ hai, làm
cho Dương Quí Phi, Tây Thi... ở Bồng Lai, bài ấy rằng:
Non xanh xanh
Nước xanh xanh
Nước non như vẽ bức tranh tình.
Non nước tan tành
Giọt lệ tràn năm canh.
Nước xanh xanh
Nước non như vẽ bức tranh tình.
Non nước tan tành
Giọt lệ tràn năm canh.
Đêm năm canh
Lụy năm canh
Nỗi niềm non nước,
Đó ai quên cho đành!
Lụy năm canh
Nỗi niềm non nước,
Đó ai quên cho đành!
Quên sao đành?
Nhớ sao đành?
Bồng lai non nước xanh xanh?
Nhớ sao đành?
Bồng lai non nước xanh xanh?
"Cuốn tiểu thuyết ấy viết ra, trong khi tôi giúp việc
Đông Pháp thời báo của ông Diệp Văn Kỳ ở Nam, là khoảng năm 1926 cách đây đã 8
năm.
"Lại như bài "Cảm thu liễu thư" của tôi, một đoạn tả cảnh ở đầu rằng:
"Từ vào thu đến nay
Gió thu hiu hắt
Sương thu lạnh
Trăng thu bạch
Khói thu xây thành
Lá thu rơi rụng đầu ghềnh
Sông thu đưa lá bao ngành biệt ly.
Nhạn về...
Gió thu hiu hắt
Sương thu lạnh
Trăng thu bạch
Khói thu xây thành
Lá thu rơi rụng đầu ghềnh
Sông thu đưa lá bao ngành biệt ly.
Nhạn về...
"Mấy câu đó, riêng tôi thật ngâm mãi không chán; mà
bài văn đó tới nay ở trong báo Saigon lại có người lại đem ra để phê bình, kể
cái thời gian tôi viết ra thời vào khoảng năm 1921, trong lúc tôi làm việc cho
báo Hữu Thanh, cách đây có 14 năm.
"Lại như những bài "Hoa rụng" in
ra ở Khối tình con, lời văn rằng:
"Hoa ơi, hoa hỡi, hoa hời!
Đang ở trên cành bỗng chốc rơi!
Nhị mềm cành úa,
Hương nhạt mầu phai
Sống chưa bao lâu đã hết đời
Thế mà hoa lại sướng hơn người...
Đang ở trên cành bỗng chốc rơi!
Nhị mềm cành úa,
Hương nhạt mầu phai
Sống chưa bao lâu đã hết đời
Thế mà hoa lại sướng hơn người...
"Bài này viết ra, kể cách nay có tới 20 năm.
"Những điệu văn thơ đó, thật tự tôi đặt ra, không theo
niêm luật ở đâu hết, duy tôi không gọi nó là thơ mới mà thôi."
Ngày 8-12-1934, Tản Đà viết bài "Cùng các bạn làng
thơ" (An nam tạp chí số 28), bàn về ý nghĩa của thơ mà ông phân biệt
làm nghĩa rộng, nghĩa hẹp.
Về nghĩa rộng của thơ, Tản Đà viết:
"Theo nghĩa rộng mà nói, thì thơ là lương năng của mọi
người, cho nên không có hạng người nào đều có thể nên thơ. Như thế, phạm vi của
thơ thật rất rộng, hàm người ta nói ra mà hơi có vần, đều là thơ, không thể
cách phi hết. Những thơ đó, theo ý kiến của người quan sát, chỉ có thể nhận cho
những câu nào, những bài nào là hay; mà không thể phán đoán bảo như những câu
nào, những bài nào là dở".
"Hiểu theo nghĩa rộng, thơ là thú tiêu khiển ai cũng có
thể làm được. Nhưng hiểu theo nghĩa hẹp, thơ là "một thứ kỹ thuật phải
người có học mới biết làm, mới làm được; ví như đánh đàn phải có cung bực,
đánh cờ phải sạch nước cản, nếu không thì không là thơ".
Đối với Tản Đà, thơ hiểu nghĩa hẹp là các lối thơ thất ngôn,
ngũ ngôn, cổ phong, tứ tuyệt. Như vậy mà trong cuộc tranh luận thơ cũ thơ mới,
chữ "thơ mới", theo Tản Đà là một danh từ lạm dụng, hiểu sai nghĩa.
Sau khi bàn về danh nghĩa của thơ, Tản Đà dành hai số báo để
bàn về "Tính chất của thơ" (TTTB số 30 và 32). Theo Tản Đà, thơ có
hai tính chất: tài và tình. Tài là tài nghệ, tức là thuộc về nghĩa mỹ thuật;
tình là tình hoài, tức là thuộc về nghĩa lương năng" (TTTB số 30). Tản Đà
đã dựa vào hai tính chất tài và tình để tìm ra cái đẹp trong các câu thơ cũ.
Không nói rõ ra, nhưng cứ theo lối trình bầy, người ta cũng nhận ra rằng thơ mới
thiếu hẳn tính chất "tài", cho nên thơ, mới là thứ thơ lệch lạc, là
thứ thơ không hoàn toàn.
Những tài liệu tôi trích trên đây chưa phải là tất cả các tài liệu liên
quan đến cuộc tranh luận gay go giữa thơ mới và thơ cũ và có lẽ cũng chưa phải
là những bài quyết liệt nhất. Chẳng hạn ba bài diễn thuyết nảy lửa của Nguyễn
Văn Hanh bênh vực thơ cũ, của Thái Phỉ công kích Lê Tràng Kiều, của Tường Vân
và Phi Vân tác giả tập "Những bông hoa trái mùa".
F - Sự trưởng thành của thi ca Việt Nam
Qua những tài liệu trên đây, ta thấy cuộc tranh luận có vẻ
gay gắt, quyết liệt vào khoảng từ 1932 đến 1937. Nhưng từ năm 1938 trở đi, tình
hình lắng hẳn xuống. Vấn đề thơ mới thơ cũ, không phải người ta không nói đến nữa,
nhưng người ta nói đến bằng luận điệu khác, ôn hoà chứ không có vẻ bắt bẻ, chửi
bới nhau nữa: người ta vẫn yêu những áng thơ cổ tuyệt tác, và người ta không
ngớt ca ngợi những bài thơ mới kỳ diệu của hàng trăm nhà nghệ sĩ trẻ.
Một điều cảm động nhất là trước đây, ai nấy đều đổ xô vào mà
chửi, mà chê Tản Đà, châm biếm hài hước nhà thơ lúc nào cũng như say sưa, thì từ
năm 1938, nhất là sang năm 1939, 1940 trở đi, Tản Đà được coi như vị thánh sống
của làng thơ. Người ta chia nhau viết về Tản Đà, ca ngợi thơ của ông.
Nguyên một mình Nguyễn Tiến Lãng đã viết một thôi một hồi về
Tản Đà:
1)- Nửa đời thi sĩ Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu (Tràng An số 315,
20-4-1938).
2)- Nửa đời thi sĩ Tản Đà (Tràng An số 317, 3-5-1938)
3)- Nửa đời thi sĩ Tản Đà (Tràng An số 319, 10-5-1938)
4)- Nửa đời thi sĩ Tản Đà (Tràng An số 320, 13-5-1938)
5)- Nhân ngày giỗ Tản Đà (Tràng An số 164, 5-6-1943)
6)- Đọc lại một kỹ thuật nói về Tản Đà (Tràng An số 167, 12-6-1943)
7)- Mùa xuân với Tản Đà (Tràng An số 253, 20-1-1944)
2)- Nửa đời thi sĩ Tản Đà (Tràng An số 317, 3-5-1938)
3)- Nửa đời thi sĩ Tản Đà (Tràng An số 319, 10-5-1938)
4)- Nửa đời thi sĩ Tản Đà (Tràng An số 320, 13-5-1938)
5)- Nhân ngày giỗ Tản Đà (Tràng An số 164, 5-6-1943)
6)- Đọc lại một kỹ thuật nói về Tản Đà (Tràng An số 167, 12-6-1943)
7)- Mùa xuân với Tản Đà (Tràng An số 253, 20-1-1944)
Ngay đến Tự Lực Văn Đoàn trước kia thù hằn Tản Đà, luôn luôn
bông đùa, bới móc Tản Đà vậy mà năm 1939, báo Ngày Nay đã dành không biết bao
nhiêu bài nói về Tản Đà :
1) Thi sĩ Tản Đà do Văn Bình viết (Ngày Nay số 147,
28-1-1939).
2) Công của thi sĩ Tản Đà do Xuân Diệu viết (Ngày Nay số 166, 17-6-1939).
3) Một tháng với Tản Đà do Lâm Tuyền Khách viết (Ngày Nay số 171, 22-7-1939).
4) Vài truyện vui về thi sĩ Tản Đà do Khái Hưng viết (Ngày Nay số 167, 24-6-1939).
5) Cái duyên của Tản Đà cũng do Khái Hưng (Ngày Nay số 166, 17-6-1939).
2) Công của thi sĩ Tản Đà do Xuân Diệu viết (Ngày Nay số 166, 17-6-1939).
3) Một tháng với Tản Đà do Lâm Tuyền Khách viết (Ngày Nay số 171, 22-7-1939).
4) Vài truyện vui về thi sĩ Tản Đà do Khái Hưng viết (Ngày Nay số 167, 24-6-1939).
5) Cái duyên của Tản Đà cũng do Khái Hưng (Ngày Nay số 166, 17-6-1939).
Báo Tao Đàn, số 9, 1-7-1939, ra số đặc biệt về Tản Đà:
1) Lưu Trọng Lư viết "Bây giờ đây khi cái nắp quan tài đã đậy
lại".
2) Trương Tửu viết "Sự thai nghén một thiên tài".
3) Nguyễn Tuân viết "Chén rượu vĩnh biệt"
4) Nguyễn Triệu Luật viết "Ảnh hưởng Tản Đà đối với nhà văn lớp sau".
5) Trức Khê viết "Tản Đà triết học".
6) Xuân Diệu viết "Một vài kỷ niệm về yêu thơ Tản Đà".
7) Nguyễn Xuân Huy viết "Tản Đà dịch văn".
8) Nguyễn Tuân viết "Tản Đà một kiếm khách".
9) Nguyễn Công Hoan viết "Ông Tản Đà đi bàn việc để tái bản An nam tạp chí".
10) Ngô Tất Tố viết "Tản Đà ở Nam Kỳ".
11) Nguyễn Nhất Lang "Tản Đà tửu điếm".
12) Nguyễn Công Hoan viết "Ông soát vé xe lửa với thi sĩ Tản Đà".
2) Trương Tửu viết "Sự thai nghén một thiên tài".
3) Nguyễn Tuân viết "Chén rượu vĩnh biệt"
4) Nguyễn Triệu Luật viết "Ảnh hưởng Tản Đà đối với nhà văn lớp sau".
5) Trức Khê viết "Tản Đà triết học".
6) Xuân Diệu viết "Một vài kỷ niệm về yêu thơ Tản Đà".
7) Nguyễn Xuân Huy viết "Tản Đà dịch văn".
8) Nguyễn Tuân viết "Tản Đà một kiếm khách".
9) Nguyễn Công Hoan viết "Ông Tản Đà đi bàn việc để tái bản An nam tạp chí".
10) Ngô Tất Tố viết "Tản Đà ở Nam Kỳ".
11) Nguyễn Nhất Lang "Tản Đà tửu điếm".
12) Nguyễn Công Hoan viết "Ông soát vé xe lửa với thi sĩ Tản Đà".
13) Lê Thanh viết "Mộng và mộng".
Từ cuối năm 1936, sang đầu 1937, nhất là từ 1939 trở đi, không còn có vấn
đề cũ mới nữa mà chỉ có vấn đề nghệ thuật, đẹp hay không đẹp: người ta đã giải
thoát được cái mặc cảm mới cũ.
Lưu Trọng Lư đặt giá trị đích thực của thơ không phân biệt mới
cũ
Một người say mê thơ mới trước tiên, làm thơ mới chỉ sau có
Phan Khôi, và lên tiếng đả kích thơ cũ kịch liệt ngay sau Phan Khôi, người đó
là Lưu Trọng Lư, thì, nay, chính người đó như lơ là với thơ mới quay trở về dĩ
vãng. Cuối năm 1942 sang đầu năm 1943, trên báo Tràng An, Trọng Lư viết nhiều
bài phân tích cái hay cái đẹp của thi ca cổ điển Việt Nam, và công kích sự đi
quá trớn trong việc Tây hoá. Đó là ý kiến Lưu Trọng Lư trong bài "Đàn
Nam giao, một nền văn chương Việt Nam" (Tràng An số 34, 9-7-1942):
"Tôi không nhớ vị giáo sư Pháp nào, ở lâu bên ta, đã
nói: "Những thanh niên Việt Nam đào tạo ở trường học mới, không có một
tinh thần sáng tạo chắc chắn". Lời bình phẩm có vẻ vội vàng, gắt gao
nhưng không phải là không có một phần sự thực. Vì sự thực: cái bệnh ỷ lại là
cái bệnh của ta và dã ăn sâu trong xương tuỷ người nước ta, cơ hồ không gột rửa
được nữa.
"Không phải bây giờ mà từ bao giờ, không phải ở văn
chương mà ở khắp các địa hạt, người Việt Nam đã tỏ ra mình là một giống người sống
lười biếng và cẩu thả.
"Nếu dân Pháp được người ta khen là một thứ dân "biết sống", thì dân Nam rất đáng cho người ta chê về phương diện ấy. Dân
Nam cẩu thả và biếng nhát trong sự ăn, sự mặc, sự ở, nhất là trong sự phô diễn
về tư tưởng. Ở đây, tôi chỉ muốn nói đến cái điều cuối cùng này mà thôi, vì tôi
không muốn ra ngoài phạm vi văn học.
"Cái tinh thần lười biếng và cẩu thả ấy đã làm cho văn
chương ta nghèo nàn gần như "không có". Tự ta, ta không hề cố gắng và tạo tác ra một cái gì hoàn toàn của ta; ta chỉ muốn hưởng
thụ những "của sẵn", và cam tâm làm kiếp con ve của thơ Ngụ Ngôn.
Ta đã vay mượn của người hàng xóm từ một điệu thơ nhỏ nhặt đến một đạo lý cao
xa.
"Hồi xưa kia chúng ta là những người Tàu, gần đây chúng
ta là những người Tây, và chưa có một lúc nào chúng ta là người Việt Nam cả.
"Nếu ông cố đạo kia không có cái ý hay hay, ngộ ngộ áp
dụng vào tiếng ta cái lối viết la tinh, thì ta đến nay có lẽ cũng chưa có chữ
quốc ngữ. Và nền văn học của ta không biết còn nghèo nàn đến thế nào nữa.
"Nhưng ta cũng không nên bi quan lắm, và thứ nhất là phải
hết sức công bình. Cách đây độ vài mươi năm, ở nước ta đã có một phong trào
sùng bái quốc văn, cầm đầu là Phạm Quỳnh tiên sinh.
"Người ta kiểm soát lại các giá trị hiếm có, và "phát minh" ra truyện Kiều. Người ta mới bắt đầu tin ở mình, tin ở tài lực
mình, tin ở cái thiên tài của dân tộc, tin ở những cái khả năng ghê gớm của quốc
âm. Một tương lai rất mênh mông và rất gần gụi. Người ta hăng hái, người ta nhiệt
thành, nguời ta chỉ xin "cúc cung tận tụy" cho quốc văn. Một sự nỗ
lực đáng đánh dấu lại trên cái lịch trình tiến hóa của dân tộc. Nhưng cái bệnh
của nhà Nho ngày xưa vẫn chưa tuyệt nọc: ta vẫn đi vay mượn của người xưa. Xưa
kia người ta vay mượn vì quá siêng năng. Và vì một nguyên lý khác: Làm cho tiếng
Việt Nam được giầu thêm. Nhưng chẳng khác nào người ta đã "ghép" một
giống cây tốt vào một thân cây đã khô héo. Người ta ham vay mượn mà nhãng quên
cái gia tài sẵn có của mình. Phải chăng tại những người lúc bấy giờ quá sùng
thượng truyện Kiều và coi nó là một cái khuôn vàng cho sự đúc nặn Quốc văn. Mà
truyện Kiều, dầu sao ta cũng phải nhận là một tác phẩm chứ thoát khỏi lề lối
Tàu: từ cốt truyện cho đến triết lý cuốn sách, nhất là lời thơ, đầy những điển
cổ Tàu.
"Truyện Kiều là cái thí nghiệm tốt đẹp thứ nhất của tiếng
Việt Nam mà còn bị phải "cố tật" ấy huống hồ là những người sùng
bái truyện Kiều, lấy truyện Kiều làm "kinh nhật tụng". Không những
người ta không nhìn nhận cái bệnh ấy của truyện Kiều mà người ta còn coi đó là
một sự vẻ vang cho truyện Kiều. Chẳng thế mà ta thấy những nhà chú giải truyện
Kiều bắt những câu thơ hay, hay một cách vô tình và tự nhiên, cũng
phải từa tựa với những câu văn xưa nào ở trong các Kinh truyện Tàu, nghĩa là họ
đã cố làm cho bực thiên tài Việt Nam không sản xuất được một cái gì thật là của
riêng mình, của dân tộc Việt Nam. Họ đã gán cho Nguyễn Du những sự vay mượn mà
tiên sinh không hề làm.
"Theo cái óc của nhà Nho thì một bậc thiên tài trước hết
phải là một "bồ chữ" động một cái gì cũng có thể "dẫn sách" được. Họ không biết rằng: cái giá trị của mình chỉ có thể có bởi mình.
Và những câu thơ hay đẹp nhất ở trong truyện Kiều lại là những câu thơ thuần
tuý Việt Nam. Những nhà nho chú giải truyện Kiều vô tình đã gây nên một lề thói
rất không tốt cho sự gây dựng quốc văn mà chính họ chủ trương: vô tình ngưòi
ta vẫn khuyến khích sự vay mượn những danh từ, những điển tích Tàu. Họ có biết
đâu rằng tinh thần sáng tạo của ta vì thế trở nên lười biếng và quốc văn không
tiến được như ý nguyện. Cái thời kỳ vay mượn của Tàu đến nay đã qua rồi, nhưng
điều di hại vẫn còn từ nhà nho Tàu người ta trở nên nhà nho Tây. Ta hãy để lại
một bên những người mê say viết Pháp văn ta chỉ nói đến những ngọn
bút vẫn một niềm phụng sự tiếng mẹ đẻ và chỉ nên tiếc rằng: Cũng như xưa, tiếng
mẹ đẻ không được phụng sự một cách toàn vẹn hơn? Họ là những người học Tây; họ
có cái khuynh hướng "Âu hóa" những danh từ, những điệu ngữ, cả cái
cách xuất diễn tư tưởng. Họ còn dám làm một việc không thể làm được, họ sửa đổi
cả những tiết tấu thiên nhiên, những âm luật huyền bí của tiếng Việt Nam. Nhiều
khi, việc ấy cũng có thể coi như là một sự cải cách cần thiết, một sự nhu cầu của
cuộc đời mới.
"Nhưng cái gì cũng có một giới hạn: cái giới hạn đã bị
vượt, điều hay lại trở nên dễ dàng một điều rất xấu. Xưa kia, chúng ta có những
chữ sáo rỗng không mượn ở Tàu, thì bây giờ chúng ta cũng lại có những chữ sáo
vô nghĩa dịch ở Tây. Thật là không nên nói, mà thật là có như vậy. Những ngữ điệu
bị "Pháp hóa" đó hay những danh từ bị Việt hoá đó chính không phải
là tai nạn, mà chỉ chứng tỏ một cái bệnh về tinh thần, nguy nan hơn: Chúng ta
đã cảm xúc, đã tư tưởng theo người Tây. Cái hình thức kia chỉ là kết quả đương
nhiên của biến đổi của một tâm hồn. Trong một bài nói đến thơ Xuân Diệu, tôi có
tự hỏi: "... đã từng ở giữa những xóm dừa, ăn rau sắng, ngửi mùi lúa ngự,
ta có thể nhất đán trở nên một người Tây, một người Tây thành thực và trọn vẹn
được không?". Ở đây, ta hãy thí dụ là có thể được nữa, nhưng đó không phải
là một cái lý để "âu hóa" nền văn chương Việt Nam. Nền văn chương ấy
nếu nó đã có thì nó phải có mãi, và phải độc lập mãi mãi, đứng riêng ra một địa
vị ngoài sự chi phối của chính trị hay kinh tế. Chúng ta có thể mất hết, trừ
văn chương. Và chúng ta chỉ mất "văn chương" khi ta muốn "ngoại
hóa" nó đi mà thôi, nghĩa là muốn lột hết những tính cách riêng của nó.
"Với sự "âu hóa", tôi sợ nền văn chương Việt
Nam sẽ mất những tính cách riêng, rồi sẽ không thành thực nữa vì bị "mất
gốc". Mà sự "mất gốc" ở địa hạt văn chương rất nguy hiểm. Văn
chương không cần phải có những sự phiêu lưu nguy hiểm mới to lớn. Điều trái lại
có lẽ đúng hơn. Một ngày rời khỏi khí hậu, cái cây ấy sẽ héo ngay. Nó phải hút
chất màu ở ngay chỗ nó mọc. Thật ra nhiều khi nó cũng có thể mang trồng qua chỗ
khác được; nó cũng vẫn sống như thường.
"Cây cam Xã Đoài dời qua làng cạnh nó vẫn sống, nhưng
không còn là cây cam xã Đoài nữa. Văn chương Việt Nam chỉ có thể có giá trị khi
nó là văn chương Việt Nam mà thôi.
"Chúng ta là lớp người cuối cùng được dự xem một thế giới
đương suy tàn: Cái cuộc đời Việt Nam đương trỏ nên một cuộc đời khác... Đó là
ta muốn gọi là một sự tiến bộ cũng được, nhưng khi trèo bước tới một cuộc đời
quốc tế đó, ta phải nhận rằng: cái gì sâu xa, chân thật trong tâm hồn, trong
cuộc đời Việt Nam đã rơi rụng hết, để nhường chỗ cho những cái khác ở ngoài
vào... Đó có thể là một sự rất may mắn cho cuộc sinh hoạt của cả dân tộc, nhưng
là một điều rất không may cho văn chương. Cái nhiệm vụ của nhà văn Việt Nam trong
lúc này thiệt là nặng nề mà cũng thật rõ ràng: được chứng kiến một giai đoạn độc
nhất trong lịch sử, nhà văn Việt Nam với sự tai nghe mắt thấy trong giờ phút
này phải tạo tác ra một nước Việt Nam trong văn chương.
"Một nước Việt Nam còn ngân mãi bởi những câu hát đúm của
các cô gái quê, còn sống mãi bởi cái phong vị say sưa của các cô gái quay tơ
(vì cái chế độ đại kỹ nghệ sắp làm chết cái nghề tầm tang đầy thi vị) và lưu giữ
mãi bởi cái này và cái kia đã làm nên những cái đặc sắc của một nền văn chương.
"Nhà văn Việt Nam trong lúc này có cái sứ mệnh phải tiếp
tục quá khứ, và truyền giao quá khứ ấy lại cho hậu lai, làm cho người Việt Nam
bất diệt trong tinh thần, trong tư tưởng.
"Xưa kia ta đã sống một cách rụt rè, lười biếng.
"Đã đến lúc ta phải siêng năng trong sự phô diễn tư tưởng
cố gắng trong sự sáng tạo. Với những tài liệu hoàn toàn Việt Nam, ta sáng tạo lại
những cảnh đời Việt Nam sắp sụp đổ.
"Tôi cầu nguyện cho sớm xuất hiện một cuốn thơ hay một
cuốn tiểu thuyết xây dựng với những tài liệu lấy ở đất nước và một thiên tài của
xứ sở, một cuốn thơ hay là một cuốn tiểu thuyết có thể nói với thiên hạ rằng: "Đâylà một tác phẩm của người Việt Nam, một giống người đã nghĩ và đã cảm".
"Cái tác phẩm mong mỏi ấy, ta phải can đảm mà nhận rằng
hiện nay ta chưa có, nhưng rồi ta phải có - nếu quả Trời chưa muốn nước Việt
Nam ta phải diệt hẳn ở trong tư tưởng của người đời".
Trên Tràng An số 69 (3-10-42) Lưu Trọng Lư viết bài "Sự hài hước trong dân chúng Việt Nam", lên tiếng cực tán nền văn chương
dân gian, một nền văn chương thuần tuý dân tộc, không chịu ảnh hưởng Tàu hay
Tây.
"Nước ta là trong những nước có một nền phong tục thuần
nhã và trang nghiêm vào hạng nhất. Ảnh hưởng Khổng giáo với một luân lý chặt chẽ
đã đi sâu vào tâm hồn mỗi chúng ta; những khuôn phép, lề lối đã làm cho ông
cha chúng ta trở nên những trang văn nho lễ độ và đài các.
"Văn chương vì vậy lúc nào cũng đượm một vẻ nghiêm nghị,
thận trọng, và nhà văn sĩ hay thi sĩ trước nhất là một nhà đạo đức. Người ta ít
tìm thấy những cử chỉ hài hước, bông lơn. Hồ Xuân Hương là một ngoại lệ.
"Nhưng đó phải chăng là tính cách đặc biệt Việt Nam.
Văn chương ấy là do một số thượng lưu, tinh ba trong nước, được thấm nhuần văn
học, những lời lẽ của Thánh Hiền. Họ là số ít. Ta phải đi xuống thấp hơn, đến
những hạng người mà sách vở là non sông, cây cỏ, những người chỉ được học trong
quyển sách thiên nhiên: đất đai, đồng ruộng, là nơi họ sống - Tôi muốn nói đến
bình dân - Chỉ có bình dân là hình ảnh rõ rệt của một dân tộc... Chỉ ở đó ta mới
nhận thấy tâm hồn chất phác, tự nhiên nẩy nở, không bị ràng buộc bởi những tục
lệ quá cầu kỳ.
"Đó ta thấy họ ca tụng ái tình, họ biết yêu, và không dấu
diếm cõi lòng.
"Cả một văn chương chân thật, cảm động, súc tích trong
những câu ca dao mộc mạc, mà bà mẹ hát ru con hay đứa mục đồng nghêu ngao trên
lưng trâu giữa những lề ruộng um cỏ, trong những câu hò bên sông, trong những
điệu hò khoan, mà ta đã nghe trong những cuộc giã gạo dưới trăng, giữa những
làng quê bình lặng, hay trong những truyện cổ tích mà ta đã được nghe bà hay mẹ
kể lại cho.
"Tôi để riêng những tính cách đạo tình - người ta đã
nói nhiều - tôi, chỉ nói riêng về tinh thần hài hước. Họ châm biếm nhau trong
những lời hát ứng khẩu giữa trai gái... Đây ta thấy người dân Việt Nam ranh
mãnh, lanh trí, nhận xét rõ ràng về thực tế, thấy rõ những tật xấu, tính hư của
người bên cạnh và rất sẵn lòng nêu ra cho kẻ khác thấy. Thực họ cũng hơi ác thật...Đây
là người học trò "dài lưng tốn vải" bị diễu:
"Nhất sĩ nhì nông, không gạo chạy rông, nhất nông nhì
sĩ".
"Đây người trọc phú hà tiện bị đem ra làm trò cười, đây
một ông già có hầu non, đẹp bị họ chế nhạo...
"Nhưng những tính cách ranh mãnh, mồm mép, đùa bỡn, hơi
cay nghiệt ấy không đâu rõ rệt bằng trong một bộ sách - ta có thể gọi đó là một
bộ sách, dầu không ai biết nó dầy mỏng bao nhiêu - một bộ sách mà ít người để ý
đến, tuy nó rất có giá trị để hiểu biết rõ ràng tâm lý của người Việt Nam dân
giả... Quyển sách đó, có lẽ là quyển sách hài hước bực nhất trong tất cả các văn
chương, là quyển "Tiếu lâm". Và đó có lẽ là bộ sách đặc biệt Việt
Nam nhất.
"Tương truyền rằng tác giả Tiếu lâm là một người học
trò thi mãi không đậu, phẫn chí, viết ra để công kích, chế diễu thiên hạ. Khi
làm xong, vì châm biếm tất cả trời đất nên lăn ra cười rồi chết... Tuy nhiên, đó
không phải là công việc của một người. Nó cũng như ca dao ngạn ngữ, là của
chung của nhiều người, lần hồi truyền tụng cho nhau.
"Người ta đã buộc nhiều về "Tiếu lâm".
Nhưng tại sao lại bắt người ta phải dấu diếm những cái mà lòng họ nghĩ ra... Người
ta thường nói đến tính cách quá sỗ sàng, hay cứ nói thẳng... tục tằn của bộ sách
ấy, - nhưng nó là cái biểu thị dĩ nhiên của những hạng người sống tự nhiên giữa
ruộng lúa, giữa khoảng đất rộng trời cao, không bị một bó buộc tinh thần nào cả.
"Nhưng nếu công việc của "Tiếu lâm" là làm
cho cười, những câu chuyện cỏn con, lý thú ấy đã rất thành công. Cái cười tuy
thô tháp, nhưng nó là cái cười nở trên những cặp môi bình dị, tự nhiên, nó
không như chiếc hoa tỉa vẽ, uốn nắn trong những chiếc chậu kiểng xưa, nó là cây
đại thụ bao quát cả một khoảng non sông.
"Ta đã nói bộ "Tiếu lâm" cho ta biết rõ tâm
lý của người dân Việt Nam. Trước hết đó là một người vui vẻ, thích diễu cợt,
bông đùa. Họ lại rất tỉ mỉ về khoa nhận xét... vạch rõ những bí ẩn của những đời
tư... của ái tình... Và họ cười... Họ cười không phải để cải tạo xã hội, để sửa
sang tính nết của người họ cười, theo như quan niệm của nhà triết học, họ cười
vì họ ưng cười... Nhưng cái cười ấy có vẻ chua cay lắm. Họ nhận xét quá rõ ràng
thành ra họ không còn tin tưởng gì nữa. Họ không tin đến cả ái tình, mà ta cho
là thiêng liêng, đáng quý.
"Từ chỗ thiếu tin tưởng, họ đến chỗ không biết kính nể
ai cả. Cả đến trời đất, quỷ thần họ cũng đem ra châm biếm...
"Sự dĩ nhiên đó không phải là tánh tốt, nhưng đó là sự
thật.
"Và cũng như bài ngụ ngôn của thời phong kiến Pháp
(Roman de Renart, Les Fabliaux) ta không nhắc đến thơ của La Fontaine, vì đó là
văn chương, lời lẽ quá đẹp, ý tứ quá sửa sang, khuôn phép là tinh thần của người
dân giả Pháp..."Tiếu lâm" là hồn của dân giả Việt Nam.
"Ta có quyền khinh họ, nhưng ta phải công nhận rằng họ
không dối lòng họ. Việc gì phải che đậy những cái không đáng che đậy.
Tuy nhiên tôi không khuyên đọc "Tiếu lâm", biết
đó là những sự thật nhưng có những sự thật ta không cần biết đến. Và ta chỉ nhắc
đến tên "Tiếu lâm" để biết rằng nước ta không phải thiếu tinh thần
hài hước" (Tràng An số 69, 3-10-1942).
Tràng An số 107 (5-1-43), Lưu Trọng Lư nói về Nguyễn Công Trứ
và coi ông có một cái gì chưa từng có ở trong văn chương Việt Nam, một nguồn cảm
hứng mau lẹ, quả quyết như một đạo cảm tử:
"Nguyễn Công Trứ không chỉ là một thi sĩ của Quốc gia,
mà còn là một bậc công thần xứng với nền Quân chủ, một nhà nho xứng với Thánh đạo,
hơn thế nữa, một võ tướng có thao lược, một nhà chính trị có tài kinh luân, một
người có tiết tháo. Cái sự nghiệp của tiên sinh ai cũng biết rõ, không cần phải
nhắc lại nữa. Ta chỉ nên ký nhận rằng trên tâm hồn của tiên sinh, trên thân thể
của tiên sinh, đã un đúc, đã tụ kết lại bao nhiêu cái hay, cái đẹp, cái hùng,
cái mạnh của cái tinh hoa chủng tộc.
"Thật là sự điều hoà của những cái tương phản nhau: sự
điều hoà của Mộng với Thực, cái ngông cuồng của một kẻ lãng tử, với cái nề nếp
của một nho sinh, và cuối cùng là một sự điều hoà của thơ văn với Khổng giáo.
Nguyễn Du muốn là người bạn hoàn toàn của thơ văn, đã phải lảng Nho mà theo Phật... Nguyễn
Công Trứ vẫn ở trong cái phong khí khắc khổ của Nho, mà vẫn khoáng dật thích thảng
như một đồ đệ của lão Trang. Tiên sinh vừa hành binh, trị nước, vừa ngâm hoa vịnh
nguyệt mà cái này không hại đến cái kia.
"Thành thực ta phải nhận rằng Nguyễn Công Trứ không có
cái nghệ thuật điêu luyện của Chu Mạnh Trinh, Nguyễn thị Điểm, không có cái tâm
hồn uyển chuyển của Nguyễn Du, hay cái giọng điệu dễ dàng của Hồ Xuân Hương,
nhưng ở trong thi văn của Nguyễn Công Trứ, một cái gì chưa từng có ở trong văn
chương Việt nam - một nguồn cảm hứng mau lẹ, quả quyết như một đạo cảm tử. Cái
thể ca trù nhờ pháp thần của Nguyễn Công Trứ đã trở nên một thể cách hoàn toàn
Việt Nam, rất thích hợp với sự diễn xuất hùng mạnh... Tôi nhớ như có một lần ông
Huỳnh Thúc Kháng ví cái điệu thơ ấy với thủy triều - thật không phải là một lời
nói vu vơ. Điệu ca trù còn hơn là một sức mạnh nữa. Nhưng khi những bài thơ ấy,
ngâm lên với điệu phách nhịp đàn, thì ta lại thấy nó có một vẻ hào phóng vừa trả
lời vừa kín đáo, vừa gắn bó, vừa sỗ sàng. Nó là một thứ sản vật hoàn toàn Việt
Nam, nó phải lâu dài với đất nước. Một ngày kia, năm bảy trăm năm sau, trong
cái đám hậu lai man mác, nếu có một người nào còn ngâm được một bài ca trù của
Nguyễn Công Trứ chẳng hạn, tôi tin rằng người ấy có một mối u sầu nặng bâng
khuâng nhớ tiếc một thời khoáng dật to nhớn, rộng rãi và kiêu sa. Cái thời buổi
của những nhà nho tuy vẫn nhọc nhằn cặm cụi với nhân sinh, nhưng cũng là những
kẻ "bốc giời" phung phí mà không tiếc tay, những kho tàng vũ trụ,
những kẻ biết sống mà cũng biết chơi, biết làm trọn nghĩa vụ mà cũng biết rõ
cái đùi non mà giốc hớp rượu cuối cùng...
Cho nên sau một cuộc đời sóng gió, hoạt động, Nguyễn Công Trứ
hàng ngày thường thắng một cái xe bò mà ngao du sơn thuỷ. Đó cũng chỉ là để tỏ
một lần nữa rằng: sau khi là một bậc công thần, một tay thao lược, một kẻ
"chiến sĩ", Nguyễn Công Trứ ung dung và thích thảng, đánh xe đi ra
ngoài cõi thế, vừa phẩy quạt vừa mỉm cười, để đùa với cuộc đời, đùa với số mệnh.
"Nguyễn Công Trứ vào đời nghiêm trang như đức Trọng Ni,
ra đời hiền vui như thầy Trang Tử. Không phải chỉ là một thi nhân đáng lưu truyền
hậu thế, mà là một quan niệm về nhân sinh đáng truyền bá ra giữa cuộc đời âu tây
chật vật.
"Một người như Nguyễn tiên sinh, khi là một
vị đại thần, rồi khi chỉ còn là một tên lính nhỏ, rồi từ một tên lính, lại nhảy
lên một địa vị tướng quân, đánh Nam dẹp Bắc, cho đến khi về già thắng một cái
xe bò, và cô hầu non, ngao du khắp chín mươi chín đỉnh Hồng sơn, mà người như
thế hẳn có thể dạy ta được một cái gì mới về sự sống của con người. Thật là
"Lãng mạn", thật là ngông nhưng mà người ấy đã là một kẻ giúp đời,
và có công lớn với Tổ quốc. Nguyễn Công Trứ đã tỏ ra cho chúng ta thấy rằng:
văn chương và hành động là hai điều biệt lập, và một tâm hồn lãng mạn cũng
không thể hại đến chí chiến đấu, nếu quả người ta muốn chiến đấu" (Tràng
An, số 107, 5-1-1943).
Hán Quỳ ca ngợi Thế Lữ, Huy Thông, Nhược Pháp
Trên Tràng An số 108 (24-3-1936), Hán Quỳ ca ngợi Thế Lữ, Huy
Thông, Nhược Pháp mà ông coi là giống Lamartine, giống V. Hugo, giống Musset:
"Những cuộc cãi nhau về "thơ cũ" và "thơ mới" đã qua. Nay chúng ta chỉ biết có thơ. "Thơ mới" chỉ
là một hình thức của Thơ để diễn tả những tính tình và cảm giác của tâm hồn người
ta ở thời đại mới.
"Thơ mới" đã đứng vững với tác phẩm giá trị của những
thi sĩ có tài: Thế Lữ, Huy Thông, Nhược Pháp.
"Cũng ba tên ấy gợi cho tôi ý viết bài này. Đây tôi
không phê bình. Tôi chỉ là một người yêu thơ, ham đọc thơ nói chuyện cùng các bạn
những điều hay hay mình đã thấy.
"Xem thơ của ba thi sĩ trên kia, trong trí tôi nẩy ra một
sự so sánh : Thi ca Việt Nam vào hồi này cũng tựa như thi ca nước Pháp vào khoảng
1830. Tôi không nói Thế Lữ, Huy Thông, Nhược Pháp giống đủ phương diện những
thi sĩ Pháp hồi đó. Nhưng phong trào thơ bên Pháp hồi 1830 và thơ ta bây giờ có
chỗ so sánh được.
"Với Lamartine, thi ca lãng mạn xuất hiện. Lamartine
đem lại cho văn chương Pháp một lối thơ mới về tình cảm và âm điệu, hợp với tâm
hồn người đương thời, nên được công chúng cực lực hoan nghênh. Cái buồn vẩn vơ,
nỗi ước ao một đời cực lạc, những tiếng than não nuột trong thơ Lamartine đã
làm "mê" cả một xã hội. Nhưng bên cạnh thi sĩ cái hồi đó người ta
đã để ý đến một thi sĩ trẻ tuổi khác. Victor Hugo trong hai tập Odes et
Ballades và Les Orientalesđã từ thơ ly tao đi đến thơ hùng tráng. Buồn
vẩn vơ và mơ ước cuộc đời lý tưởng cùng Lamartine người ta theo trí tưởng tượng
của Hugo sống lại thời xưa mãnh liệt cùng những cảnh lộng lẫy của "phương
đông". Đến năm 1830 Musset bước lên văn đàn, cười rộ. Tập Contes
d'Espagne et d'Italie của ông là một tiếng cười hóm hỉnh và tinh quái lẫn
giữa giọt nước mắt não nùng của Lamartine và những cảnh rực rỡ oai nghiêm của
Hugo.
"Ba thi sĩ đi ngang nhau làm thi ca Pháp rực rỡ một thời.
"Nhưng ta hãy để công việc phê bình ba thi sĩ ấy cho
nhà văn học sĩ nước Pháp...
"Mỗi lúc đọc thơ Thế lữ, tự nhiên tôi nghĩ đến
Lamartine. Cũng như nhà thi sĩ Pháp, Thế Lữ bắt đầu một kỷ nguyên mới về thi
ca. Ông Hoài Thanh đã bàn rõ điều này trong một bài phê bình thơ Thế Lữ. Tôi chỉ
nhắc qua rằng: Lamartine là thi sĩ xã hội Pháp mong đợi sau những cuộc binh lửa
khắp Âu Châu dưới triều Napoléon 1er, cũng như Thế Lữ đã "ru" người
ta "dạy cho cả một thời đại yêu" (Hoài Thanh), kiếm sự an ủi trong
tình yêu và mơ mộng, tìm một lý do để vui sống sau những vụ đổ máu năm 1930.
Thanh niên ta hồi đó đang bỡ ngỡ trước những tấn kịch thảm khốc dễ làm họ chán
đời vì chán nản. Thi sĩ Thế Lữ kịp thì ra an ủi họ. Những bài thơ đầu của Thế Lữ
đăng ở báo Phong Hóa được người ta hoan nghênh cũng như tập Méditations của
Lamartine được dân chúng Pháp ca tụng hơn một trăm năm về trước (1820).
"Nếu thơ Thế Lữ "ru" người ta thì thơ Huy
Thông mạnh mẽ và mới lạ hơn. Ông Lê Tràng Kiều đã ví Huy Thông nhà thơ ly tao và hùng tráng với V. Hugo. Sự so sánh ấy tôi tưởng đúng lắm từ
cái tuổi cho đến cái tài và nàng thơ "Siêng năng" của thi sĩ Phạm
Huy Thông.
"Như Alfred de Musset, Nguyễn Nhược Pháp đã dám cười
khi người ta đang mơ màng theo Thế Lữ hay hậm hực như mang hận chiến sĩ theo
Huy Thông Musset nói truyện Y Pha Nho, Ý Đại Lợi thì Nhược Pháp kéo chúng ta về
"ngày xưa", ngày xưa cũng là một xứ lạ đối với hiện tại của nước
ta. Trong cảnh lạ và khác ấy, thi sĩ Nhược Pháp ấy xen lẫn nụ cười của ông, nụ
cười "hóm hỉnh" và có duyên rồi ông giục chúng ta cười theo...
"Chỗ giống nhau giữa thi ca nước Pháp một trăm năm về
trước vần thơ ta hiện giờ không làm tôi ngạc nhiên. Văn chương lãng mạn Pháp ảnh
hưởng sâu xa đến văn chương hiện đại của ta. Vả lại thi ca ta cũng ở vào một
trường hợp giống như thi ca Pháp vào hồi 1820-1830.
"Thế Lữ, Huy Thông... cũng là những nhà thơ lãng mạn
thành thử đối với Pháp về thi ca ta sống thụt lùi một thế kỷ. Sự chậm trễ đó
không có gì đáng trách vì ta theo gót người - nếu có thể nói được như thế. Mà
trách sao được? Chúng ta không có quyền kết án thơ lãng mạn. Tuy thế, xã hội
ta ngày nay không phải là xã hội Pháp hồi năm 1830. Ta không thể cấm đoán thi
sĩ lãng mạn, mơ màng song ta có quyền mơ ước: ngoài những giờ mơ màng đắm say
trong giấc mộng các thi sĩ nên nhìn cảnh đời xung quanh mình mà ca lên cho ta
nghe những bài ca nói đến người nghèo, đứa con ghẻ xã hội, một thi sĩ có chân
tài thì dù trong giấc mộng đẹp đẽ hay trước một cảnh thực tế thảm khốc dơ dáy,
cũng tìm được những vần hay ý mới. Cuộc đời hàng ngày là một kho tài liệu cho
thi ca, cho thi ca lãng mạn nữa.
"Về tiểu thuyết ta đã có những quyển như Kép tư Bền của
Nguyễn Công Hoan, Giông Tố của Vũ Trọng Phụng. Ta cũng mong các thi
sĩ vẽ cho ta đọc những bài thơ nói đến sự thực gần ta như thế" (Tràng An,
số 108, 24-3-1936).
Xuân Phương ca ngợi tập Xác Thu của Hoàng Điệp
Bây giờ không còn phải là lúc một tờ báo chỉ bênh thơ mới hay
thơ cũ nữa. Trên mặt báo Tràng An, nhà thơ mới Lưu Trọng Lư, bỏ thơ mới, quay về
dĩ vãng, ca ngợi, phê bình thơ cũ. Cũng trên mặt báo Tràng An nhiều người vẫn
tiếp tục tán dương thơ mới của nhiều nhà thơ mới, có điều họ không khen thơ mới
như là thơ mới mà chỉ khen như là thơ hay, thơ có giá trị không đả động gì đến
mới hay cũ.
Xuân Phương, trên Tràng An số 314 (22-4-38) phê bình và ca tụng
ba tập thơ: Hận chiến trường, Điêu tàn, Xác thu là ba tập thơ ra đời
năm 1937:
Với tập Xác thu,ta không phải theo ông Hoàng Điệp ra bãi
chiến trường đầy cả xương, tanh cả máu, hay bay lên cung Hằng để nghe ngóng hơi
thơ của muôn tiên, để hớp lấy giòng trăng đương chảy. Ta chỉ nhẹ bước theo sát
ông, nhập vào ông để cùng ông nuốt lấy cái Đau thương, vồ lấy cái Chán nản
trong người ông. Ta hãy nghe tim ông hồi hộp, hồn ông rung chuyển khi mùa thu tới:
Tất cả mùa thu vàng xám lại
Chán chường cũng lại giết hồn tôi
(Xót xa)
Chán chường cũng lại giết hồn tôi
(Xót xa)
Và trong lúc ông thất thểu đi tìm lại cái linh hồn trong sạch
ngày xưa, ông chỉ thấy trơ vơ những xác chết trên vệ đường: Hẻo lánh bên đường
ít quán tranh.
Nầy đây sắp sửa lá xa cành
Vài ba cánh cửa không buồn mở,
Khói nhẹ lan chùm cỏ xám xanh
(Xác thu)
Vài ba cánh cửa không buồn mở,
Khói nhẹ lan chùm cỏ xám xanh
(Xác thu)
"In hình như ông Hoàng Điệp bị hoàn toàn thất bại trên
đường tình, nên ông chỉ lấy cái Đau khổ làm Nàng Thơ để ôm ấp, nâng niu trong
những đêm buồn nản ông đã quá tàn ác mà đặt tên người yêu ông là Nàng Đau đớn để
kêu gọi, van xin:
Hỡi nàng Đau đớn của ta ơi!
Khổ lắm, cho ta một nụ cười,
Hãy nắm tay ta thêm chút nữa
Để truyền cảm giác xuống đầu môi.
(Đau đớn)
Khổ lắm, cho ta một nụ cười,
Hãy nắm tay ta thêm chút nữa
Để truyền cảm giác xuống đầu môi.
(Đau đớn)
"Nhưng càng van xin chừng nào, người yêu ông vẫn không
buồn trở lại, nàng vẫn là một hình ảnh đau xót trong trí tưởng tượng của ông mà
thôi:
Anh chỉ yêu em... ngồi xích lại
Cho anh gạn hỏi một đôi điều,
Cho anh lọc hết giòng cay đắng...
Có phải em là: xác quạnh hiu.
(Đau đớn)
Cho anh gạn hỏi một đôi điều,
Cho anh lọc hết giòng cay đắng...
Có phải em là: xác quạnh hiu.
(Đau đớn)
"Từ cái buồn rướm máu ở đáy lòng ông cho tới cái buồn
bao la của vũ trụ, của những buổi chiều vàng úa, của một đêm trăng nhạt nhạt,
ông đều tả ra với những lời thơ thật dễ thương và mới lạ:
Trong tôi:
Mặt trăng mờ nhạt.
Ngôi chùa đổ nát
Con đường quạnh hiu.
Một buổi chiều,
Tôi đón lời tiêu,
Tôi đưa lá chết
Tôi nhìn đám tang,
... Xác thu vàng!
(Đám tang)
Mặt trăng mờ nhạt.
Ngôi chùa đổ nát
Con đường quạnh hiu.
Một buổi chiều,
Tôi đón lời tiêu,
Tôi đưa lá chết
Tôi nhìn đám tang,
... Xác thu vàng!
(Đám tang)
"Với ông Hoàng Điệp, ta được thấy những khung cảnh nho
nhỏ, xinh xinh và bao gồm được lắm ý nghĩa sâu xa.
Ai đi nhặt tiếng vàng rơi
Trong trăng trong gió, trong người, mùa Thu.
Trong trăng trong gió, trong người, mùa Thu.
"Ta cũng đủ hiểu tác giả muốn đi tìm những tấm ảnh tầm
thường, giản dị và diễn tả được cái tầm thường "Không màu sắc" ấy,
là tài riêng của ông Hoàng Điệp.
"Mùa Thu của ông mới và lạ lắm, đầy những lá vàng đẫm
máu, vang dậy cả tiếng lòng u uất, hình ảnh của một đời tình đau khổ (Nếu tôi
không lầm).
"Về nghệ thuật, tập Xác Thu hẳn có phần kém hơn hai
tập Hận chiến trường và Điêu tàn. Những lối thơ tám chữ của ông
Hoàng Điệp cần phải sửa đổi thêm nhiều.
"Nhưng nói về ý tứ sâu xa để giải phẩu tình yêu, nói đúng hơn, một
mối tình tuyệt vọng, tràn cả mùi "xót xa", cả vị "cay đắng", tập "Xác Thu" sẽ là một tập thơ có giá trị
riêng về chỗ đó.
Xuân Phương ca ngợi Hận Chiến Trường của Thanh Tịnh
"Ông Thanh Tịnh với tập Hận chiến trường đã tả
hết sự tàn ác của chiến tranh, đã níu hồn ta lại những nơi tràn cả thây người,
nặc cả mùi tanh của máu xương và sặc sụa cả hơi thuốc súng. Có lúc ông lại nhịp
đàn lòng theo điệu trầm bổng của một chiều mong đợi, của nỗi niềm thương tiếc
dưới bóng trăng chênh, hay là một linh hồn "Lạc lối giữa thành sầu mù mịt".
Xuân Phương ca ngợi Điêu Tàn của Chế Lan Viên
"Giữa lúc ấy, ông Chế Lan Viên lại ranh mãnh hơn, gan dạ
hơn. Ông sụy xuống mồ vô tận để đánh thức yêu ma. Ông bay lên nguyệt điện để
sai biểu tinh tú. Ông lang thang đi tìm người chiêm nữ lúc ẩn lúc hiện trong
đêm biếc, giữa dòng trăng. Ông điên hẳn lên, ông không phải là ông nữa, ông là
cái sọ dừa vỡ rạn, ông là đám dân chiêm sống lại, ông là muôn sao đang chới với,
ông là máu, là xương, là tủy, là trăng là mây, là gió v.v...
"Ông Hoàng Điệp lại thầm kín, rụt rè quá. Ông không dám
bước nặng, ông không dám la to, vì ông sợ phải lay đổ cả, cái im lặng đầy bí mật
của đêm thâu của khói hương bay, của làn sương mỏng. Ông đi nhặt những mảng
trăng rơi lả tả trên tà áo của thiếu nữ, ông ngừng hơi thở để nghe những xác
cây nẩy nở những lời thán oan của chiếc lá lìa ngành. Ông lại một mình lẳng lặng
xây đắp trong hồn ông một cảnh thu kết bằng lá Đau Thương và Cảnh Chán Nản.
"Các thi sĩ thường sung sướng hay đau khổ và thường sống
trong những cảnh tưởng tượng. Họ sống riêng trong những thế giới riêng của họ.
Nhưng thế giới ấy là bãi Chiến Trường của ông Thanh Tịnh, là cái tháp điêu tàn
của ông Chế Lan Viên, là những xác lá chết của ông Hoàng Điệp.
"Nói tóm lại, làng thơ năm 1937 đã hiến cho ta ba viên
ngọc quý:
"Hận chiến trường, Điêu tàn và Xác thu " (Xuân
Phương, Tràng An, 22-4-1938, số 314)
Lương An ca ngợi Lửa Thiêng của Huy Cận
Lương An, trên Tràng An số 12 (tháng 3 năm 1941) ca ngợi Lửa
Thiêng của Huy Cận và nhìn nhận có một nguồn thơ bất diệt:
"Đọc những bài thơ này, người ta ngỡ đâu như đọc bài
"Premières Solitudes" của Sully Prudhomme, tả bọn học trò còn nhỏ
phải đưa vào trường, đêm khuya nhớ nhà ôm nhau mà sụt sùi.
"Tuy nhiên cái đời học sinh trẻ thơ ấy có bao giờ lâu
dài được đâu, người ta chỉ có thể vô tư vào độ hai mươi trở xuống; từ tuổi ấy
trở lên người ta đã bắt đầu bước vào cuộc đời và nhấm vị chua cay của nhân tình
thế sự. Tâm trí, hoài bão, ý niệm người ta cũng đổi khác đi. Lúc này là lúc phải
lo âu, phải suy nghĩ để tìm lấy một xu hướng.
"Thi nhân của ta cũng thế. Tuy sự thay đổi trong đời
chàng chỉ là một sự thay đổi không khí cỏn con nhưng cái tuổi không cho phép
chàng ngây thơ như trước nữa. Bởi lẽ ấy người ta bắt đầu thấy Huy Cận buồn buồn.
Mối buồn của thi nhân bao giờ cũng là một mối buồn vô hạn. Huy Cận cũng trở nên
thi sĩ của tình cảm thống thiết, cũng tham lam đòi hỏi tình yêu, nhưng chàng thực
chưa nặng tình cùng yêu mến như "Bạn chàng Xuân Diệu".
"Chàng cũng yêu tất cả, nhớ tất cả. Tâm hồn chàng là một
khu vườn cũng theo mùa mà nở hoa hoặc hiu quạnh. Tâm hồn chàng bây giờ là đối
tượng của những hiện tượng của thời tiết. Một điều đáng chú ý là cái nhớ của
chàng rất đỗi mênh mông và ôm trùm cả vũ trụ.
"Nuôi một mối tình muôn dặm, yêu vẩn vơ một nàng cỡi ngựa
trong rạp xiếc, nằm trông lên thả mộng ra khắp phương trời, nếu không phải
chàng Huy Cận đang độ vô tư lự thì là ai nữa! Những hành động thơ ngây, những
mối tình trẻ trung ấy phải là của một chàng thi nhân sống ngoài nhân tình thế sự; chàng thi nhân ấy nếu không phải Huy Cận thì là ai nữa! Nhưng ngày thơ ấu ấy
bây giờ không còn nữa. Bây giờ là độ thanh xuân chạm trán với cuộc đời, bây giờ
là lo âu, là nghĩ ngợi. Bắt gặp cảnh biệt ly mà sầu, đi giữa đường thơm mà lo
tình mất, thấy dấu chân trên đường mà thẩn thờ, nghe mưa rơi lác đác mà buồn buồn,
chao ôi, sao lòng chàng thi nhân của ta thiết tha và dễ cảm xúc đến thế.
"Sở dĩ Huy Cận buồn thương như vậy là vì chàng lo sợ một
ngày rất gần hạnh phúc sẽ không cười duyên với chàng nữa, mà chàng thì ham sống
và tin vào cuộc đời quá. Chàng sầu vì tâm can chàng bắt chàng phải thế. Đó là một
trong những lý do đã đưa chàng lên lầu thơ bất tuyệt. Mối sầu của chàng có thể
cho là một mối sầu vạn cổ.
"Từ đây Huy Cận là một con người nặng tình sông núi, cảm
gió sầu trăng. Bây giờ chàng đã thấy những sự mâu thuẫn của đời nên thơ chàng
cũng rẽ vào lối "đoạn tràng". Chàng chạy theo rõi một mối tình mất
mà thương tiếc; Chàng ngậm ngùi khi nắng chiều xế vàng trên bãi; chàng nhớ
nhà vì một cảnh tràng giang ; chàng ngơ ngẩn khi bắt gặp một cảnh thu trên núi
rừng; chàng thẫn thờ sau một cái xe tang; chàng đau khổ khi nghĩ đến một ngày
sắp tới người sẽ mất hết linh hoạt để "bước vào mồ nhỏ tí" Chàng đã
bị những sự mắt thấy tai nghe hàng ngày cảm hoá và làm cho xúc cảm nhiều quá. Ý
nghĩ của chàng chỉ quanh quẩn trong cõi sầu thương; chàng là thế đó, trọn một
đời thương nhớ và hồn bị thiên hạ bỏ đìu hiu; chàng than thở với Thượng Đế, đã
làm ra thân thể con người để đau khổ và để làm nên tội lỗi.
"Huy Cận sinh ra với một tấm linh hồn đơn chiếc, đa sầu
đa cảm. Chàng than van không có bạn bè tri kỷ, chàng đi bơ vơ trên đường đời âm
thầm và đau đớn. Tình yêu không lưu luyến chàng, mọi việc gợi ra trước mắt
chàng sự ê chề, sự chán ghét. Tất cả những nguồn sống ở đời đối với chàng đơn
sơ quá nên không thể làm cho cái tinh thần sinh hoạt của chàng (vie
intellectuelle) đầy đủ được.
"Tả một phong cảnh tráng lệ biết bao. Mây đun núi bạc
chim nghiêng cánh nhỏ, nhẹ nhẹ ánh chiều sa, tưởng ngần ấy cũng đã đầy đủ như một
bức tranh của một họa sĩ tài hoa. Chính thi nhân cũng nhận rằng cái cảnh tràng
giang ấyđã làm cho mình ca tụng và mê mẩn. Ta hãy nghe thi nhân nói cảm giác của
mình:
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà
"Ngày xưa, Thôi Hiệu đứng trước cảnh lầu hoàng hạc mà
ngậm ngùi và thấy khói sóng trên sông mà nhớ nhà.
Nhật mộ hương quan hà xứ thị,
Yên ba giang thượng sử nhân sầu.
Yên ba giang thượng sử nhân sầu.
Nhưng ở đây, Huy Cận thấy trời nước mông mênh quá tráng lệ
quá mà nhớ nhà. Vì lẽ ấy mà cảnh không tang thương, lòng không hoài cổ, sông
không đùn sóng mà cũng ngậm ngùi mối tình lữ thứ.
"Tả một buổi chiều xuân, Huy Cận viết:
Hai hàng cây xanh
Đâm chồi hy vọng...
Nhạc vươn lên trời
Đời măng đang dậy
Đâm chồi hy vọng...
Nhạc vươn lên trời
Đời măng đang dậy
Thật là nói đủ tất cả hy vọng, trẻ trung, êm dịu của một mùa
xuân.
"Tả một cảnh thu ở núi rừng:
Non xanh ngây cả buồn chiều
Nhân gian nghe cũng tiêu điều dưới kia
Nhân gian nghe cũng tiêu điều dưới kia
"Xem chữ "ngây" nó nhẹ nhàng, thấm thía biết
bao. Không, mùa thu đến non xanh có buồn gì đâu; non xanh chỉ thấy trời buồn
mà buồn lây mà thẩn thờ lây đấy thôi.
"Đại để chỉ đơn cử ngần ấy tỉ dụ kể cho hết thì quá
dài. Những chữ vừa trích ra đây trong tập "Lữa thiêng" không
phải ít. Đọc nó lên là thu được một cảm giác, thấy được một cử động, nghe được
một dư thanh. Thực là những chữ "thần tình".
"Thơ Huy Cận nhờ thế mà trong như thủy tinh và đẹp như
ngọc thạch. Đọc Xuân Diệu thấy trong người sôi nổi ngọn trào lòng rào rạt; đọc
Huy Cận thấy trong người lâng lâng, tâm hồn khoan khoái. Trí phán đoán sáng suốt
mắt nhận xét tinh vi, cách dùng chữ thần tình. Đó là ba đặc điểm của Huy Cận.
"Văn Huy Cận là một thứ văn chải chuốt; tình Huy Cận
là một tấm tình đơn giản mà thấm thiết.
"Đừng thấy chàng buồn buồn mà cho chàng là người lạnh
nhạt hững hờ; đừng thấy văn chàng chạm trổ quá mà cho là mất vẻ tự nhiên. Huy
Cận viết văn rất điêu luyện; song không bao giờ để rơi những ý niệm của mình.
Bởi vậy khi đọc thơ Huy Cận ta thấy trong người nhẹ nhàng nhu khoái. Đã lâu lắm
từ ngày "Thơ thơ" ra đời đến nay mới lại có một tập thơ đã khiến
người phải đọc đến mà sinh vô hạn cảm tình với tác giả.
"Tập thơ "Lửa thiêng" là một tập thơ rất
đáng chú ý về tình cảm cũng như về văn pháp. Không cần so sánh cũng đủ nhận thấy
đó là một tập thơ hay và tác giả là một thi nhân có đặc tài. Trong công cuộc
xây đắp thi giới nước nhà, một tập thơ như thế là tất cả một sự gắng công, và
có lẽ là một công trình văn nghệ rất đáng chú ý nữa.
"Huy Cận hiện đang đi tới giữa chúng ta với một tài hoa
đương thời nảy nở. Tương lai của chàng chắc hẳn càng tốt đẹp và sáng lạn hơn nữa.
"Lửa thiêng" ra đời, được hoan nghênh nhiệt liệt, cái
đó không phải nghi ngờ gì nữa. Nhưng phần thưởng đích đáng nhất cho Huy Cận là
tác phẩm của chàng sẽ được sống lâu (Lương An, Tràng An, tháng 3 năm 1941, số
12).
Xuân Tâm ca ngợi Xuân Diệu
Trên Tràng An số 405, 21-5-1939, 406, 24-5-1939, Xuân Tâm phê
bình thơ thơ của Xuân Diệu với lời lẽ rất to tát và coi "Thơ thơ"
là "một quyển sách để đầu giường" của ông:
"Như tôi đã nói, nghệ thuật của Xuân Diệu rất lão luyện
bên nhà thi sĩ có tài tâm hồn muôn điệu, lại có nhà thợ thơ tinh xảo, có kinh
nghiệm nhiều và nhất là rất tận tuỵ với nghề mình.
"Tuy lối thơ lục bát của Xuân Diệu không được mềm dẽo
và du dương như của Thế Lữ, nhưng trái lại lối thơ hoàn toàn mới với những câu
tám chữ và vần liên tiếp, hay lối thơ gồm có từng đoạn bốn câu hoặc tứ tuyệt,
hoặc thơ mới với vần song hành, lại rất xuất sắc.
"Đọc những bài Cảm xúc, Vì sao, Trăng, Huyền Diệu,
Yêu xa cách, Phải nói, Đây mùa thu tới, Hẹn hò, Vô biên, Tương tư, Chiều, Với
bàn tay ấy, và gần hết những bài khác, người ta thấy lời thơ chảy song suốt
từ đầu đến cuối, không bỡ ngỡ không khó đọc, mà rất dễ dãi. Lắm đoạn vụt lên rất
tự nhiên rất nhẹ nhàng, khiến ta thấy nó từ đáy hồn vụt ra như những tia sáng.
"Những đoạn ấy nhiều lắm, không thể không chép ra đây
được, các bạn đọc qua cũng thấy, không phải tìm kiếm.
"Mà những đoạn thơ rất tự nhiên ấy có phải Xuân Diệu
phun ngay ra như thế đâu. Chính thi sĩ đã trao dồi rất công phu, sửa đi sửa lại
từng câu hay từng chữ nhỏ. Chính những bài thơ đã đăng ở báo Ngày Nay hay Tinh
Hoa rồi, mà nay in trên sách lại khác đủ tỏ rằng Xuân Diệu là một người thợ thơ
cần mẫn, biết thận trọng nghệ thuật, và khi nào cũng cố gắng đạt được mục đích
là sự hoàn mỹ.
"Ví dụ trong bài "Cảm xúc", câu
thứ sáu bây giờ:
Đây là bình Thu Hợp trí muôn hương
"Khi trước:
"Chữ thu nhận chỉ có một nghĩa là thu vào mà thôi nên
kém chữ thu hợp, có nghĩa thu vào mà còn chung đục còn trộn lẫn với nhau nữa.
"Trong bài "Đây mùa thu tới", câu
thứ 4, khi trước:
Với áo Chùng Thâm Mặt Dám Vàng;
Bây giờ:
Với áo Mơ Phai Dệt Lá Vàng,
"Mùa thu mà có mặt thì cũng hơi kỳ thật. Chứ áo của mùa
thu dệt bằng lá vàng thì hợp lý và hay hơn nhiều.
Cũng trong bài ấy, câu thứ 13 khi trước:
Én bỏ từng không, Oanh bay đi.
Bây giờ:
Mây vẫn từng không, Chim bay đi.
"Mùa thu là mùa của chim én ở xa về bay lượn ở đồng nội
mà lại bảo nó bỏ từng không thì sai quá. Huống gì mấy chữ "mây vẫn từng
không" đã đúng mà còn may mắn hơn nữa.
"Không cần phải đưa ra nhiều, ba cái ví dụ trên đây chứng
thật một cách rộng rãi rằng Xuân Diệu trau dồi nghệ thuật rất công phu.
"Bên nhà thi sĩ đặc sắc, bên nhà thợ thơ có lương tâm ấy,
lại thấy có đèo thêm một nhà họa sĩ. Xuân Diệu đã thấy "màu hoa mới thắm
như kêu" (Nụ cười xuân), đã thấy "sắc đỏ của màu xanh" (Đây
mùa thu tới). Phải có con mắt của họa sĩ mới thấy được những tế nhị của
màu sắc như vậy.
"Với những câu:
Lũ mây già, nghìn vạn khối lâm ly,
Đứng giữ lưới bủa vây trời nhỏ hẹp,
Vài chiếc quạ, Mình Thân cong Mỏ Thép,
Quạ vừa kêu, đến tự xứ đêm nào,
Những cây bàng là những bộ xuơng cao,
Nét ngớ ngẩn đã rèn bằng Sắt Cũ.
Tét cắn lá - lá nằm trên Đất Ủ,
Màu Lặng Yên không còn mộng xa ba;
Đất Đen kêu như sắt dưới chân giầy
Tiếng rắn rỏi có pha màu Mực Đậm.
(Sắt)
Đứng giữ lưới bủa vây trời nhỏ hẹp,
Vài chiếc quạ, Mình Thân cong Mỏ Thép,
Quạ vừa kêu, đến tự xứ đêm nào,
Những cây bàng là những bộ xuơng cao,
Nét ngớ ngẩn đã rèn bằng Sắt Cũ.
Tét cắn lá - lá nằm trên Đất Ủ,
Màu Lặng Yên không còn mộng xa ba;
Đất Đen kêu như sắt dưới chân giầy
Tiếng rắn rỏi có pha màu Mực Đậm.
(Sắt)
Xuân Diệu đã vẽ ra một cảnh màu đông nếu tôi không lầm, với
những mùa chết, hay nói cho đúng hơn là màu đất và mùa tét. Những chữ "sắt
cũ", "tét cắn lá", "màu lặng yên", "Tiếng rắn
rỏi pha màu mực đậm" làm ta thấy thật màu đỏ nâu vàng úa của bàng,
da bàng về mùa đông là mùa thay lá, và nhận thấy tác giả đã biết hoà hợp tiếng
màu để làm nên một cảm giác nặng nề mệt nhọc phảng phất trong bài thơ từ đầu đến
cuối.
"Nhà họa sĩ đã vẽ ra bằng thơ những bông hoa xinh đẹp,
đầy vẻ sống, linh hoạt một cách khác thường trong bài "Lạc quan", và hiến cho ta bức tranh tuyệt mỹ có cả tình cảm:
Một tối bầu trời dăm sắc mây,
Cây tìm nghiêng xuống nhánh hoa gầy,
Hoa nghiêng xuống, cỏ trong khi cỏ
Nghiêng xuống làn rêu một toi đầy.
Những lời huyền bí tảo lên trăng
Những ý bao la đủ xuống trần,
Những tiếng ân tình hoa bảo gió,
Gió đào thỏ thẻ bảo hoa xuân.
(Với bàn tay ấy)
Cây tìm nghiêng xuống nhánh hoa gầy,
Hoa nghiêng xuống, cỏ trong khi cỏ
Nghiêng xuống làn rêu một toi đầy.
Những lời huyền bí tảo lên trăng
Những ý bao la đủ xuống trần,
Những tiếng ân tình hoa bảo gió,
Gió đào thỏ thẻ bảo hoa xuân.
(Với bàn tay ấy)
"Đó là chưa nói đến mánh khóe nhà nghề mà nhà thơ đã
dùng để tả những ý tưởng của mình. Với hai câu:
... Và làm sai tơ nhịp trăng Đang,
Dịu Dàng Đàn những ánh tơ xanh.
(Trăng)
Dịu Dàng Đàn những ánh tơ xanh.
(Trăng)
"Thi sĩ đã được một điệu đàn bằng thơ.
"Với câu:
Những luồng Run Rẩy Rung Rinh lá.
(Đây mùa thu tới)
(Đây mùa thu tới)
Xuân Diệu đã tả nổi cho ta nghe những lá run rẩy thật, nhờ ở
cách sắp khôn khéo và tìm tòi bốn chữ đi với nhau.
"Về cách dứt mạch câu (césure) Xuân Diệu cũng tỏ ra
mình nhanh nhẹn lắm. Khi đọc mấy câu:
Thong thả chiều vàng thong thả lại...
Rồi đi... Đêm xám tới dần dần...
Cứ thế mà bay cho đến hết
Những ngày, những tháng, những mùa xuân.
(Giờ tàn)
Rồi đi... Đêm xám tới dần dần...
Cứ thế mà bay cho đến hết
Những ngày, những tháng, những mùa xuân.
(Giờ tàn)
"Ta tưởng như nghe cả chiều lại, đêm đi và ngày tháng
bay thật, nhất là câu cuối cùng, nhờ căÙt làm ba mạch nên đọc lên một âm điệu
đưa đẩy rất đầy đủ.
"Còn những hình ảnh (images) mới mẻ may mắn, mà tôi đã
nói rồi, và nhất là những chữ dùng rất ngộ nghĩnh, rất táo bạo mà không bao giờ
đến lỗ mãng, như Huy Thông, thì Xuân Diệu giầu lắm. Bất cứ bài nào cũng có, và
chính đó là những chấm đặc sắc nhất của thơ thi sĩ. Thành thử khi ta đọc đi đọc
lại càng thấy thấm thía thâm thuý mà không bao giờ chán.
"Sau hết tôi mách các bạn một cái đặc điểm mà chỉ có một
mình Xuân Diệu có, lối thơ ngây thơ và dễ yêu: Các bạn hãy nghe:
Ờ nhỉ; sao hoa lại phải rơi?
Mất...
Thực là dị quá - Mà tôi nữa:
Sao nhỉ làm chi chuyện lại phai?
Mất...
Thực là dị quá - Mà tôi nữa:
Sao nhỉ làm chi chuyện lại phai?
- Nếu không biết những câu thơ ấy của Xuân Diệu, người ta hẳn
phải cho là những lời ngây thơ của một thiếu nữ nào mới biết yêu và chưa hiểu đời
với những thống khổ là gì.
- Cùng một loại thơ ngây ngô ấy, bài "Đơn sơ" hẳn là một tác phẩm bất hủ. Nó cám dỗ hồn ta với những chữ thông
thường, rất tự nhiên, và nhất là với vẻ "có duyên" của nó.
"Một thi sĩ giầu tình yêu, hiểu thấu đáo âm nhạc, giầu
tình cảm, giầu sức tưởng tượng, và có một nghệ thuật tinh vi như Xuân Diệu, hẳn
là một thi sĩ hoàn toàn nhất mà ta có đến bây giờ.
"Và quyển Thơ Thơ tác phẩm hoàn toàn như tác giả của
nó là một quyển sách để đầu giường (livre de chevet) mà chẳng bao lâu sẽ trở
nên một người bạn thân ái của chúng ta.
"Phải chăng tôi đã xem Thơ Thơvới một tâm hồn
"rất bạn" của thi sĩ Xuân Diệu? (Xuân Tâm, Tràng An,
21-5-1939, số 405).
Trên Tràng An số 494 (15-3-1940) H.X.T. khen nữ thi sĩ Thu Hồng,
tác giả Sóng Thơ:
"Tôi xin thú thật rằng đối với những tập thơ mới xuất bản
của nhiều thi sĩ thanh niên ta ngày nay, ngoài một vài người tôi đã quen làm bạn,
như ông Thế Lữ, ông Lưu Trọng Lư, ông Xuân Diệu, ông Huy Thông, ông Thái Can,
ông Huy Cận v.v... tôi thấy tôi lo sợ mỗi khi tôi cầm một tập thơ mà xem. Lo sợ
mà lại thấy lạnh lùng nữa. Không phải là tôi thờ ơ với thi ca mới cũng không phải
là tôi yên trí rằng nhiều thi sĩ thanh niên ngày nay không có biệt tài trong sự
làm thơ.
"Có lẽ vì tôi dành để quá nhiều thì giờ để xem các thi
ca xưa. Có lẽ là vì tôi thấy thi ca trong văn chương chúng ta hiện đương trải
qua một thời kỳ phân vân, về đường thể cách cũng như về đường lý tưởng, làm cho
độc giả chẳng biết lấy đâu mà căn cứ để suy nghĩ, để so sánh, chẳng biết lấy
thái độ nào mà thấu hiểu và cảm động theo cái thâm tứ của mỗi thi sĩ trong mỗi
bài thơ.
"Đối với quyển Sóng Thơ mới ra đời, trước hết tôi
cũng lạnh lùng như vậy. Tôi cầm tập thơ nhỏ xinh kia, lật những trang giấy
nhanh chóng, rồi tự nói: Lại một tập thơ mới. Lại thi sĩ nữa ra đời. Mà là một
nữ thi sĩ, ở Đế Đô, một nguời trong Hoàng phái... Rồi tôi xem qua cũng nhanh
chóng như thế thấy câu hay, câu không hay; nhưng không để ý lắm. Chẳng khác
lúc đi qua một vườn hoa của người xa lạ nhìn vào để ngắm cảnh rồi thản nhiên
trong giây lát đã bước qua vườn hoa ấy, và đôi mắt đã đưa nhìn khúc đường xa lạ
khác.
"Vậy là tôi đã xa lìa tập Sóng Thơ, như tôi
đã xa lìa nhiều tập thơ mới khác. Có lẽ tôi không nghĩ đến nữa, nếu một sự tình
cờ không xui giục tôi quay lại vườn hoa cũ, quay lại với Sóng Thơ của nữ
thi sĩ Thu Hồng.
"Một buổi hội họp tại nhà một ông bạn, tôi đã được gặp
nữ thi sĩ Thu Hồng, một thiếu nữ trẻ tuổi, và nói chuyện rất tự nhiên và vui vẻ.
Lẽ tự nhiên là nói chuyện "thơ". Rồi trong câu chuyện, nữ sĩ Thu Hồng
đọc cho chúng tôi nghe một đoạn của một bài thơ nàng mới làm và chưa in trong tập Sóng
Thơ mới ra đời.
... Vì hiểu lầm nên mới mong đừng nên hiểu;
Mong chán nản chớ len vào niên thiếu,
Chờ len vào sớm quá tội em mà,
Em nghe như thời ấy vẫn còn xa.
Em chầm chậm để mong còn xa mãi,
Hãy là hoa, xin hãy khoan là trái,
Hoa nồng hương, mà trái có khi chua...
Mong chán nản chớ len vào niên thiếu,
Chờ len vào sớm quá tội em mà,
Em nghe như thời ấy vẫn còn xa.
Em chầm chậm để mong còn xa mãi,
Hãy là hoa, xin hãy khoan là trái,
Hoa nồng hương, mà trái có khi chua...
"Đoạn thơ được nghe đó, cùng nhiều câu thơ khác, của nữ
sĩ Thu Hồng đọc ra hôm ấy, tôi thấy có ý vị, và có một sự giản dị hoà với một
âm điệu dịu dàng. Vì cái cảm tưởng hôm ấy nên tôi mới đọc lại tập Sóng Thơ, bà
Đạm Phương nữ sĩ có viết một câu phê bình rất ngắn, nhưng rất đúng: Ngòi bút của
Thu Hồng tuy chưa sành nghề cho lắm, nhưng có vẻ tự nhiên tao nhã. Tôi xin thêm
rằng: có vẻ giản dị và êm đềm tỏ ra một tâm hồn giàu cảm tình, hay thổn thức với
cảnh đẹp của tạo hoá, yêu văn chương, không hề oán hận, không hề than van. Vì vậy
thơ cô không phải là tiếng kêu gào của những tấm lòng bị đau thương, không phải
lời oán trách của những người ê chề, chán nản. Chỉ như là những làn "sóng" dịp dàng uốn mình dưới một ngọn gió nồm thanh thanh mà mát mẻ; chỉ như
những tiếng động rì rào trong lá.
Gió qua, lá động rì rào,
Khuya trăng chi chít muôn sao dệt trời.
Khuya trăng chi chít muôn sao dệt trời.
"Không phải là cô không có lúc lo sợ hay buồn bã. Nhưng
sự lo sợ hay buồn bã của cô không bao giờ khốc liệt, có rồi rào cũng vẫn êm đềm
mà thôi.
Buồn ngày xưa em buồn thêm một chút...
Hoặc là:
Vì đâu thoi thóp với canh tàn?
Rời rạc kia mây cũng muốn tan!
Tan tác lòng em bao mộng đẹp,
Cái tình vô hạn, khéo đa mang!
Rời rạc kia mây cũng muốn tan!
Tan tác lòng em bao mộng đẹp,
Cái tình vô hạn, khéo đa mang!
"Sự tan tác không phải tấm lòng của cô; chỉ là bao mộng
đẹp mà thôi. Khối tình cô khéo đa mang, chỉ là "Cái tình vô hạn", một
mối tình mênh mông bát ngát, nó không chung đúc vào một người, một vật nào, có
thể làm đau đớn gắt gao được.
Vì vậy cho nên một tấm yêu,
Lui không nẻo bước, tới cam liều
Khi yêu nào nghĩ xa xôi nữa,
Mà khổ tình thêm cũng rất nhiều!
Lui không nẻo bước, tới cam liều
Khi yêu nào nghĩ xa xôi nữa,
Mà khổ tình thêm cũng rất nhiều!
"Đối với ái tình, xem bốn câu thơ nầy, chúng ta thấy nữ
sĩ Thu Hồng, vẫn dùng lời êm dịu mà phân giải, mà nghị luận. Chúng ta có thể
nói rằng "thi cảm" của cô không phải là của người mê say; nó còn ở
trong vòng khuôn của lý trí nhiều hơn của tình cảm.
"Sự giản dị, một sự giản dị mà chúng ta có thể gọi là tầm
thường, cái "nên thơ" trong mỗi ý nghĩ hằng ngày trong mỗi câu nói
đầu lưỡi, trong mỗi cử chỉ xung quanh ta, trong mỗi tư tưởng thông thường, ấy
là chốn nữ sĩ Thu Hồng đã khéo đi lượm những vần thơ, đi hái cho ta những cành
hoa thơm đẹp.
"Đó là các đặc điểm, tôi sơ lược theo ý kiến riêng của
tôi viết ra sau khi đọc xong tập Sóng Thơcủa nữ sĩ Tôn nữ Thu Hồng. Tập
thơ in đẹp, có tựa của Đạm Phương nữ sĩ, và tranh vẽ bìa của nữ họa sĩ Mộng
Hoa.
"Chúng tôi xin giới thiệu quyển Sóng Thơ với
độc giả (H.X.T., Tràng An, 15-3-1940, số 494).
Trên mặt báo Ngày Nay, từ năm 1938 trở đi, Xuân Diệu và Thế Lữ phê bình thơ rất
nhiều. Cũng như báo Tràng An, báo Ngày Nay hình như cũng đã xoá bỏ chữ cũ mới
trong khi nói đến thơ. Đặc biệt là Thế Lữ trong mục "Tin Thơ" đã
chỉ phê bình thơ như là thơ, bởi vậy, rất nhiều bài thơ cũ được ca ngợi và bài
thơ mới bị công kích, cũng như vô vàn bài thơ mới được khen lao và bài thơ cũ bị
chê bai.
Cuộc tranh luận thơ mới thơ cũ như vậy là đã đi hẳn vào lịch sử. Qua cuộc
tranh luận kéo dài có hằng mười năm, chẳng những làng thơ mới hăng say thảo luận
mà ngay đến làng thơ cũ cũng bỏ cái thói quen dè dặt, thẳng thắn bày tỏ và bênh
vực lập trường. Chẳng những thi ca mà cả nền văn học Việt Nam, nhờ vậy, đã tiến
rất mạnh mẽ.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét